100

P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

  • Upload
    others

  • View
    0

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài
Page 2: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài
Page 3: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

03 PHẬT PHÁP CĂN BẢN Ba học (tt) ■ Thích Đức Thắng

NGUYÊN CỨU

26 Các lời dạy căn bản của đức Phật về hành phạt tử hình ■ Thích nữ Giới Hương

34 Tràng hạt ■ Thanh Hòa

38 TU TẬP Những nguyên tắc khi hộ niệm ■ Minh Nguyên

42 TƯ TƯỞNG: Toàn cầu hóa trong đôi mắt Thiền quán ■ Thích Thái Hòa

49 THIỀN HỌC Tập Thiền quán giảm Stress ■ Pundariko

Trong số này

Trao Đổi Kiến Thức Cơ Bản Phật HọcPL.2550 - DL.2006

33

Tháng 11 - Bính tuất

TẬP SAN PHÁP LUÂN

Ảnh bìa: Thắp sáng niềm tin, của thầy Hải Trang, Huế

Page 4: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

54 TRUYỀN THÔNG: Khai thác các chương trình Video Phật giáo nước ngoài ■ Minh Thạnh

66 TRUYỆN NGẮN Rồi sao nữa... ■ Chiêu Hoàng

68 TÙY BÚT Đạo Phật của tôi ■ Tuệ Chương

76 KHÔNG GIAN THƠ Haiku & Basho ■ Mục Đồng

83 SỐNG ĐẠO: Mây trắng ngàn năm giữa trời bay ■ Nguyễn Duy Nhiên

89 TÂM THƯ Thư cho em ■ Lam Yên

95 TIN TỨC: Manus Boonjum-nong đoạt huy chương vàng Asias Games và xuống tóc xuất gia

THƠ18 Tuệ Nguyên48 Từ Xuân Lãnh82 Mặc Không Tử

NHẠC: Pháp âm Bồ-tátthơ Tuệ Kiênnhạc Nguyễn Hải HL.Phương

08 Tín Nguyện Hạnh trong kinh A-di-đà ■ Hải Nguyện

19 Thức ăn để tồn tại ■ Thích Tuệ Sỹ

59 Nhân Gian Tịnh Độ (Tín-Nguyện-Hạnh) ■ Tâm Minh

Page 5: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 3

Ba HọcTHÍCH ĐỨC THẮNG

PHẬT PHÁP CĂN BẢN

(tiếp theo)

GIỚI-ĐỊNH-TUỆ

3. Mười giới: Đây là giới dành cho nam và nữ xuất gia, ra khỏi nhà thế tục, từ biệt những người thân, cắt đứt mọi liên hệ tình cảm (ái) đối với người thân, tuổi không quá hai mươi, còn gọi là mười giới Sa-di, Sa-di-ni, hay còn gọi là Cần sách luật nghi (cho nam) và Cần sách nữ luật nghi (cho nữ). Về nội dung của mười giới này được liệt kê như sau: 1/ Không giết hại sinh mạng. 2/ Không trộm cắp. 3/ Không dâm dục. 4/ Không nói dối. 5/ Không uống rượu. 6/ Không thoa hương, trang sức

tràng hoa. 7/ Không ca múa xem nghe. 8/ Không ngồi nằm giường cao rộng lớn. 9/ Không ăn phi thời. 10/ Không chứa của báu vàng bạc.

Trong mười giới này, đặc biệt là năm giới sau dành riêng cho Sa-di và Sa-di-ni, còn năm giới đầu cũng giống như năm giới của nam nữ cư sĩ tại gia. Mười giới này cũng giống như Bát trai giới, năm giới đầu tất cả đều giống nhau, dành chung cho cả xuất gia và tại gia, nhưng đặc biệt ở giới thứ ba trong năm giới thì giới này khác nhau. Tại

Page 6: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

4 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ PHẬT PHÁP CĂN BẢN

gia thì chỉ giới hạn trong việc vợ chồng không cho vượt qua giới hạn nên gọi là không tà dâm, trong khi giới này dành cho Bát trai giới và nam nữ xuất gia thì hoàn toàn nghiêm cấm không cho phạm phải vào giới dâm dục cho nên được gọi là Không được dâm dục.

4. Lục pháp giới: Giới sáu pháp này chỉ đặc biệt dành riêng cho các vị Sa-di-ni trước khi thọ giới Cụ túc (giới Tỳ-kheo-ni), thời gian phải tuân giữ sáu pháp này là hai năm, nên còn gọi là học pháp nữ, học giới nữ, chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài bốn giới trọng căn bản là giới dâm, giới sát, giới đạo (trộm cắp) và giới đại vọng ngữ ra, còn cần phải vâng giữ sáu pháp. Theo Tứ phần luật 27, thì nội dung của sáu pháp được ghi như sau: 1/ Giới nhiễm tâm tương xúc (Không vì tâm ái dục mà xúc chạm vào thân người nam). 2/ Giới đạo nhơn tứ tiền (Không được trộm bốn tiền của người trở xuống, trộm bốn tiền trở xuống là giới khuyết rất nặng

đối với người mới thọ giới; nếu trộm năm tiền trở lên thì sẽ bị mặc tẫn (bị trục xuất). 3/ Giới đoạn súc sinh mạng (tức là không được giết hại mạng sống của các loài vật). 4/ Giới tiểu vọng ngữ (Không được nói dối về tất cả mọi việc đối với mọi người, không phải là đại vọng ngữ). 5/ Giới phi thời thực (Không được ăn không đúng giờ). 6/ Giới ẩm tửu (Không được uống rượu). Đây là sáu pháp theo luật Tứ phần. Nhưng theo Thập tụng luật thì sáu pháp được liệt kê như sau: dâm dục, thâu đoạt (trộm cướp), sát sinh, vọng ngữ, ma xúc nam tử khỏa thân (đụng chạm rờ mó thân trần của nữ, nam), tróc nam tử chi thủ dữ y nhi cộng ngữ (nắm tay và áo người nam cùng nói chuyện). Về mặt nội dung ý nghĩa thì không có sự sai khác, nhưng về mặt hình thức sắp xếp và thuật ngữ thì có sự sai khác. Riêng theo Ma-ha Tăng-kỳ luật thì ghi có mười tám việc (Thập bát sự) chứ không ghi là sáu pháp giới như các bộ khác như ở trên cũng như luật của Hữu bộ.

5. Cụ túc giới: Phạn ngữ

Page 7: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 5

PHẬT PHÁP CĂN BẢN ☸

gọi là upasaṃpanna hay upasaṃpadā, theo nguyên ngữ của nó là chỉ cho những người thân cận ở bên chân Thế Tôn, hoặc những ai tham gia vào giáo đoàn, trở thành đệ tử của Ngài trong khoảng thời gian năm năm đầu. Upasaṃpanna dịch sát nghĩa là tiến đến chỗ hoàn toàn, hay gần tròn đầy, nên cũng được giải thích là “Cận Niết-bàn”. Nhưng về sau, khi giáo đoàn đông, sinh ra nhiều “hữu sự” phức tạp, Ngài mới bắt đầu chế giới để cho các đệ tử của Ngài thọ trì, làm thanh tịnh hóa ba nghiệp tùy theo căn cơ hoàn cảnh mà có năm giới, mười giới chưa đầy đủ và hoàn chỉnh cho vấn đề giải thoát, chỉ dành cho tại gia và những ai tập sự xuất gia chưa chính thức vào Tăng đoàn. Để chính thức gia nhập Tăng đoàn lúc này những vị xuất gia theo Ngài cần phải thọ trì giới cấm đầy đủ hơn, viên mãn hơn nên Ngài đã theo tướng phạm hữu sự của các nam nữ xuất gia mà chế ra Cụ túc giới. Giới cụ túc này còn gọi là Cụ giới, Tiến cụ giới, Cận viên giới, Đại giới. Đây là giới dành riêng cho nam nữ xuất gia

sau khi đã tác pháp yết-ma lãnh thọ giới Tỳ-kheo (Tỳ-kheo luật nghi) và Tỳ-kheo-ni (Tỳ-kheo-ni luật nghi). Giới cụ túc được phân ra thành hai, tùy thuộc vào giới tính của nam và nữ nên giới điều theo đó mà có phần khác nhau trong số giới điều. Nhưng trên đại thể, Tánh giới và Giá giới vẫn giống nhau dành cho Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Về nội dung của giới điều thì Tỳ-kheo có 250 giới và Tỳ-kheo-ni có 348 giới. Sự chênh lệch số giới điều ở đây tùy thuộc vào giới tính đã thể hiện trong cuộc sống của vị Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni nên đức Phật căn cứ vào tướng phạm của họ mà chế giới. Do đó, chúng ta không thể căn cứ vào giới tướng nhiều và ít này mà kết luận rằng đức Phật đã thiên vị, hay không công bằng giữa nam và nữ.

Theo Tứ phần luật thì 250 giới tướng Tỳ-kheo và 348 giới tướng Tỳ-kheo-ni này được chia ra là Năm thiên Bảy tụ:

Năm thiên gồm: Một, Ba-la-di thiên. Hai, Tăng tàn thiên. Ba, Ba-dật-đề thiên. Bốn, Ba-la-đề-đề-xá-ni thiên. Năm, Đột-kiết-la thiên. Trong năm

Page 8: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

6 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ PHẬT PHÁP CĂN BẢN

thiên này thêm Thâu-lan-giá thì gọi là lục tụ. Thâu-lan-giá là tội làm chướng ngại rất lớn đối với con đường đưa đến thiện đạo; tức là giữa hai tội Ba-la-di và Tăng tàn, nhưng chúng chưa hội đủ điều kiện để phạm vào hai tội này, nên đức Đạo sư liệt kê vào Thâu-lan-giá. Và cũng trong năm thiên trên, trong thiên thứ năm là Đột-kiết-la phát sinh ra tội Ác thuyết nên gọi nó là Tụ thứ bảy. Vì tội Đột-kiết-la chỉ được giới hạn do thân tạo ra nên gọi là Ác tác, còn lời nói tạo ra tội thì chưa được đề cập đến nên tội do lời nói tạo ra thì được thêm vào và gọi nó là Ác thuyết. Như vậy, Thất tụ có được chỉ là một sự bổ túc thêm từ sự khiếm khuyết của năm thiên mà ra. Vậy, Năm thiên này chúng ta cũng có thể gọi là năm Tụ cũng được.

Như vậy, đức Phật chế giới nhằm vào hai mục đích là phòng phi chỉ ác (cấm kị những việc làm phi pháp và đình chỉ, không tạo ra các việc ác) và, nỗ lực hành thiện, như ý nghĩa nội dung bài kệ thông Giới kinh “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành…” mà bảy

đức Phật quá khứ đã từng dạy và nay đức Đạo sư cũng đem dạy lại cho các Tỳ-kheo vô sự của mình, sau khi Ngài thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bài kệ thông Giới kinh này được áp dụng trong vòng năm năm đầu khi Ngài chưa chế giới. Căn cứ theo đó, chúng ta có hai cách giải thích về giới: Một là ‘chỉ trì giới’. Ở đây theo nghĩa tiêu cực mà nói thì giới có nghĩa là phòng ác. Hai là ‘tác trì giới’. Ở đây theo nghĩa tích cực mà nói thì giới có nghĩa là hành thiện. Theo Quảng luật (chỉ cho tất cả các bộ Luật trong Luật tạng) mà nói thì năm thiên, bảy tụ thuộc chỉ trì giới, còn các phần Kiền độ thì thuộc phần tác trì giới.

Ngoài ra, luận Du-già Sư Địa 40 đề cập thì có ba tụ tịnh giới có thể đại biểu cho Đại thừa Bồ-tát giới, đó là: Một, Nhiếp luật nghi giới, tức là tuân thủ những gì Phật đã chế về việc phòng chỉ mọi lỗi lầm. Hai, Nhiếp thiện pháp giới, chỉ có sự tấn tu trong việc hành thiện cho mình. Ba, Nhiêu ích hữu tình giới hay còn gọi là nhiếp chúng sanh giới, đây là

Page 9: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 7

PHẬT PHÁP CĂN BẢN ☸

việc làm lợi người như giáo hóa chúng sanh khiến cho họ được nhiều lợi ích. Nhưng theo Đồng luận 42 thì Bồ-tát giữ sáu loại giới: Hồi hướng giới, Quảng bác giới, Vô tội hoan hỷ xứ giới, Hằng thường giới, Kiên cố giới, Thi-la trang ng-hiêm cụ tướng giới. Đó là Bồ-tát giới của Đại thừa giáo, còn gọi là Trì giới Ba-la-mật.

Ngoài những giới dành cho tại gia, xuất gia chưa chính thức vào Tăng đoàn của Sa-di, Sa-di-ni và Thức-xoa-ma-na ra thì giới của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni thuộc giới Thinh Văn của Tiểu thừa giáo và giới Bồ-tát thuộc Đại thừa giáo có sự đồng dị trên mặt ý nghĩa của chúng. Theo giới luật của Thinh văn thì ý nghĩa của nó không ngoài thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý cho chính bản thân mỗi cá nhân trong vấn đề tự lợi còn vấn đề lợi tha họ không để ý đến; trong khi giới Bồ-tát kể cả xuất gia và tại gia, cả hai đều được áp dụng một cách đồng loạt trong việc tự lợi và lợi tha. Đó là nét đặc trưng của Đại thừa giới. Thật ra, đây cũng chỉ là để phù hợp và thích ứng căn cơ, nguyện

lực của hành giả mà thôi. Như Đại trí độ luận 46 nói thì Giới Ba-la-mật là tổng nhiếp tất cả các pháp, mà Thập thiện là giới tổng tướng (tánh giới), còn tất cả vô lượng giới khác đều là giới biệt tướng (Giá giới). Theo kinh Phạm Võng, luật điển của Đại thừa thì năm mươi tám giới của Bồ-tát: Mười giới trọng đầu gọi là mười trọng cấm thuộc tánh giới, còn gọi là mười trọng cấm giới, mười vô tận giới, hay mười trọng Ba-la-đề-mộc-xoa, hay mười Ba-la-di, mười giới không thể hối và bốn mươi tám giới khinh sau cùng gọi là khinh giới, thuộc khinh tội của giá giới dành chung cho các vị nam nữ tại gia và xuất gia.

(còn tiếp)

Page 10: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

8 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ CHUYÊN ĐỀ

Đức Phật đã tuyên bố lí do Ngài có mặt ở đời là chỉ ra cho chúng sanh thấy rằng cuộc đời này là khổ đau và giới thiệu con đường thoát khổ để đạt được hạnh phúc thật sự. Nhưng thật khó cho mọi người tin rằng “tâm bình thế giới bình”, rằng cuộc đời này sẽ tươi đẹp nếu tâm mình an tịnh. Người ta không tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống thực tại nên phải đặt niềm tin ở một cuộc sống thần tiên nơi “non bồng nước nhược” xa xôi. Để đáp ứng ước nguyện ấy và cũng để dẫn dắt con người quay về với những giá trị hạnh phúc thực tại, đức Phật đã phương tiện giới thiệu cõi nước Cực Lạc, quốc độ của đức Phật A-di-đà, nơi không hề có khổ đau mà chỉ có an ổn và hạnh phúc thật sự. Những diễn giảng chi tiết về cõi nước Cực Lạc ấy được đức Phật trình bày trong Đại Vô lượng thọ kinh. Tuy nhiên, do vì văn kinh quá dài, rất

TRONG KINH A-DI-ĐÀ

Page 11: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 9

CHUYÊN ĐỀ ☸

khó để phổ cập trong nhân gian nên một vấn đề đã đặt ra là phải tóm lược nội dung kinh văn để dễ dàng trì tụng hằng ngày. Chính vì thực tế đó, chỉ sau Đại Vô lượng thọ kinh khoảng trên dưới một thế kỉ, bản kinh có tên Cực Lạc Trang Nghiêm (Sukhāvatīvyūhaḥ) hay A-di-đà kinh tiểu bản ra đời. Bản kinh ngắn gọn bằng Phạn bản này rất phổ biến ở Bắc Ấn Độ, nơi tín ngưỡng A-di-đà Phật thịnh hành. Sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật” từ đó đến nay, càng ngày càng lan rộng, càng chứng tỏ được rằng vào thời mạt pháp, khi các giáo pháp khác bị lãng quên thì sáu chữ ấy sẽ còn lại để làm chỗ nương tựa và cứu vớt con người.

Phương pháp tu hành trong Kinh A-di-đà, bộ kinh trọng yếu và phổ biến nhất của Tịnh Độ tông, lấy Tín, Nguyện, Hạnh (trì danh) làm ba điều kiện chủ yếu quyết định sự thành công. Như một khách lữ hành phải chuẩn bị hành trang cho chuyến đi dài ngày của mình, Tín-Nguyện- Hạnh là ba món lương thực cho cuộc hành hương về Tịnh độ, như đỉnh lư đồng thiêu hương

cúng Phật có ba chân, thiếu một đỉnh lư hương ngã đổ, người tu hành pháp môn Tịnh độ thiếu một trong ba điều này ắt không được tiếp dẫn vãng sanh. Nói đúng hơn người tu hành theo pháp môn này nhất định không thể thiếu một trong ba pháp nầy.

Trước tiên thuyết minh về tín, tín có sáu nghĩa: Tin tự, tin tha, tin nhơn, tin quả, tin sự, tin lý. Tin mình có Phật tánh, nhưng bị phiền não vô minh ngăn che mờ ám. Tin đức Phật A-di-đà có Phật tánh sáng suốt xây dựng cõi Cực lạc, có chư Thượng thiện nhơn câu hội tu học, giảng pháp, cảnh trí như ý, thắng diệu. Nhân Phát nguyện sinh cõi Cực lạc niệm Phật, giữ giới, làm các công đức lành…thì quả sẽ được tiếp dẫn vãng sanh, thành Phật….

Tín là điều kiện quan trọng và tất yếu phải có cho nên trong chúng ta hẳn đã từng bắt gặp rất nhiều những câu như là “Lòng tin là mẹ sanh các công đức lành!” hay “Phật pháp như đại hải, dĩ tín vi năng nhập”.

Người tu hành theo tông Tịnh Độ, trong tâm nhất định

Page 12: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

10 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ CHUYÊN ĐỀ

phải kiên định một lòng tin, tin rằng thật có thế giới Tây phương Cực Lạc, tin vào công đức y báo, chánh báo của đức Phật A-di-đà, tin vào sức bổn nguyện từ bi của đức A-di-đà, Ngài dùng pháp môn phương tiện để tiếp dẫn chúng sanh. Vì rằng, cõi Ta-bà là khổ, bản thân nghiệp lực phàm phu vốn có tự tính thanh tịnh, nên có thể dùng pháp môn niệm Phật thù thắng công đức rồi nhiếp tâm bất loạn, suốt đời chuyên niệm, đến lúc lâm chung sẽ được vãng sanh, quyết định không thối thất. Do vậy, trong kinh văn, sau khi thuyết minh về đức A-di-đà với đầy đủ y báo và chánh báo trang nghiêm, đức Phật dạy: “Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nghe kinh này và danh hiệu chư Phật thì những người đó sẽ được tất cả chư Phật hộ niệm, đều được bất thói chuyển nơi đạo vô thượng bồ-đề”. Kinh văn chỉ rõ ràng rằng: “Từ quốc độ này hướng về phương Tây qua mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc” và “hiện nay, ở cõi nước ấy, có đức Phật hiệu là A-di-đà đang thuyết pháp”. Điều này

do chính đức Phật Thích-ca nói cho Tôn giả Xá-lợi-phất, 1250 vị thánh đệ tử, và rất nhiều trời, người có mặt trong buổi thuyết pháp ấy.

Ngài cũng biết rằng pháp ấy khó tin nên đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần rằng: “Các ngươi nên tin nhận lời nói của ta và của chư Như Lai”, và như một lần khẳng định lại để chứng tín điều này, kinh văn tiếp: “Xá-lợi-phất! Tôn giả nên biết Thế Tôn đang ở trong cõi đời khó bảo và đầy năm thứ ô nhiễm mà làm được việc khó làm này: thành tựu tuệ giác vô thượng và vì hết thảy thế gian mà nói lên pháp khó tin này, điều đó thật là rất khó”.

Những tưởng rằng chúng ta không cần thuyết minh thêm về tín, hay nói khác hơn chúng ta không cần cố công giải thích vì sao pháp môn Tịnh độ lấy chữ tín đứng đầu, nói một cách nôm na, người tu hành theo pháp môn Tịnh độ như con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, mẹ con nhớ nhau thì đời đời không tách biệt, nói khác là có cảm có ứng, chư Phật ba đời thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con,

Page 13: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 11

CHUYÊN ĐỀ ☸

nếu chúng sanh nhớ Phật niệm Phật thì Phật và chúng sanh gần nhau không khác.

Nếu bảo tín là điều kiện tối sơ quan trọng nhất cho hành giả tu hành pháp môn này, thì nguyện cũng là một điều kiện không thể thiếu để sinh về thế giới Cực Lạc. Nguyện như là ngọn lửa để nấu chín một nồi cơm, như ước mơ của một cậu học trò về giảng đường đại học, trước khi là sinh viên anh ta đã từng mơ về nó, ngày và đêm, có ước mơ anh ta mới nỗ lực hạ quyết tâm thi đỗ. Nguyện: Là mong muốn, thề nguyền cầu sanh Tây phương Cực lạc, ngày đêm ước mơ, ngày đêm nhớ nghĩ mong muốn sanh về. Có thể tạm chia nguyện gồm hai nghĩa:

- Mong muốn thiết tha sanh về Cực Lạc từng phút từng giây, đối chiếu vui khổ hằng ngày, như cõi Ta-bà đây có chướng duyên, thân ngũ uẩn thức dậy miệng hôi, cảnh trí đường phố bụi bậm; còn cõi Cực Lạc kia không có chướng duyên, thân liên hoa miệng thơm, đất bằng vàng, thảo mộc bằng châu, môi trường trong sạch, không có

độc tố, v.v...- Phát Bồ-đề tâm cầu thành

Phật, xét thấy nơi cõi Ta-bà tu hành rất khó, ở cõi Cực lạc tu tiến dễ dàng, thuận tiện. Vâng lời đức Phật Thích-ca cầu sanh cõi Phật Tây phương, tu học cho kết quả; vâng lời đức Phật A-di-đà trở lại Ta-bà phụ tá đức Phật Thích-ca giáo hóa chúng sanh, xong rồi về Cực Lạc thế giới an dưỡng. Đã tin rằng Ta-bà là uế

trược, “ba cõi vốn không an” và rằng Tịnh độ vốn thù thắng an vui và sự trợ lực của đức Di Đà là vi diệu, v.v... thì chúng ta sẽ một lòng cầu thoát ly cái khổ tử sanh ba cõi, nguyện đón nhận lòng từ của đức Di Đà nhiếp dẫn mà nhất tâm cầu sanh về cõi vô sanh diệt của Ngài. Nguyện theo lời dạy mà tu hành, lấy công đức niệm Phật của mình cảm ứng với bản nguyện của Phật, đới nghiệp vãng sanh, vĩnh thoát sanh tử. Vậy nên kinh dạy: “Nếu người thiện nam, thiện nữ nào có lòng tin thì nên phát nguyện sinh về thế giới ấy”. Và, đức Phật cũng nhắc lại trong kinh rằng: “Xá-lợi-phất, nghe như vậy, chúng

Page 14: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

12 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ CHUYÊN ĐỀ

sanh nên phát nguyện sinh về Cực Lạc”, “ai nghe nói như vậy thì nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy”.

Và, kinh văn còn khẳng định thêm rằng: “Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện, mong sinh về thế giới của đức Phật A-di-đà, thì người ấy đối với tuệ giác vô thượng sẽ bất thối chuyển, đối với thế giới ấy thì hoặc đã sinh, đang sinh hay sẽ sinh về”. Nếu đã tin vào “Phật lực” có khả năng tiếp độ, tin vào “tự lực” có khả năng tịnh hóa thân tâm qua câu niệm Phật để “sinh về” Cực Lạc thì sẽ phát khởi tâm nguyện tu tập. Đó là điều hẳn nhiên như vậy!

Không dừng lại ở Tín và Nguyện, điều quan trọng là phải biến hai điều ấy thành hành động trải nghiệm thiết thực (Hạnh). Đó là thực hành niệm Phật, rũ bỏ mọi sự, chuyên tâm trì niệm siêng năng, liên tục không dứt cho đến khi dứt hẳn vọng tưởng, tâm tư lắng đọng, định tĩnh và thành tựu được tịnh nghiệp, tức sự thanh tịnh nơi ba nghiệp thân, khẩu và ý. Kinh nói: “Nếu có thiện nam, thiện

nữ nghe nói đến đức Phật A-di-đà, trì niệm danh hiệu Ngài từ một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hoặc là bảy ngày mà tâm được định chuyên nhất không loạn thì người ấy lúc lâm chung được thấy đức Phật A-di-đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mắt. Người ấy, lúc chết, tâm không điên đảo (chánh niệm) thì liền được vãng sinh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà”.

Pháp môn niệm Phật phù hợp trong mọi hoàn cảnh, không hạn chế không gian và thời gian. Trong kinh A-di-đà, đức Phật tóm thâu vạn hạnh của Bồ-tát mà chỉ dạy một pháp môn tối ưu là Trì Danh Hiệu Phật thì vấn đề áp dụng tu tập trong cuộc sống trở nên dung dị, đơn giản. Pháp Trì Danh nhiếp tâm trong mỗi niệm hiện tiền là cách ngắn nhất để vượt tắt tam giới. Có một ví dụ như sau, hành giả theo thứ tự tu hành giải thoát như một con sâu đục từng đốt tre dọc theo thân cây lên đến ngọn để ra ngoài. Công việc này rất khó khăn và tốn nhiều công sức giống như hành giả phải theo tu tập để hàng

Page 15: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 13

CHUYÊN ĐỀ ☸

phục phiền não tuần tự theo những cấp độ vi tế, tiệm đốn khác nhau, đó gọi là “thụ xuất tam giới”. Còn nếu con sâu đục ngang thân cây tre để ra ngoài thì rất mau cũng như hành giả dùng một niệm hiện tiền để vượt thoát ba cõi, thể nghiệm an lạc giải thoát trong từng phút giây hiện tại, đó gọi là “hoành siêu tam giới”. Vì vậy, cổ đức đã nhận định: “Niệm Phật là con đường tu hành nhanh tắt, pháp Trì Danh lại là con đường tắt trong các con đường tắt ấy”.

Hành giả không cần băn khoăn vì tuổi già, sức yếu không kham nổi như sự tu tập theo các pháp môn khác, cũng không bận lòng vì mình còn bận lo toan cho cuộc sống, lại càng không tủi thân vì mình không được trau dồi kiến thức để tiếp nhận giáo lý thâm sâu, và hầu như không có một trở ngại đáng kể nào cho người niệm Phật. Trong bất cứ nghề nghiệp nào ta đều có thể niệm Phật mà không hề trở ngại cho công việc. Bất cứ ở đâu ta đều có thể niệm Phật mà không bị ràng buộc bởi một nghi thức nào. Tai điếc, ta vẫn có thể ghi

nhớ bằng mắt. Mắt mờ, ta vẫn có thể nghe danh hiệu qua tai. Tại công sở, ta cũng niệm Phật được. Làm việc nhà, bế con, nuôi mẹ, v.v... ta cũng niệm Phật được. Khi vui, ta chào đón bằng câu niệm Phật. Lúc buồn, ta chia xẻ bằng câu niệm Phật. Gặp chuyện không như ý, ta nhớ đến đức tính từ bi qua câu niệm Phật để xoa dịu tâm sân, v.v... và trong mọi lúc, mọi nơi, chỉ cần ta còn hơi thở thì ta đều có thể niệm Phật. Và bất cứ ai có thể nhất tâm niệm Phật đều được bình đẳng vãng sanh đúng như bản nguyện của đức A-di-đà.

Giữa chốn nhân gian, con người ta phải tiêu tốn cả đời, hy sinh không biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để tìm kiếm cái gọi là “hạnh phúc”. Nhưng, những cảnh ngộ trái ý nghịch lòng giữa đời luôn đẩy con người đến những trạng thái bất an. Xét cho cùng, tâm lí bất an này phát sinh trên cơ sở của tham, sân, si. Do đó, con người luôn cảm thấy bất toàn khi nghĩ về nhân cách của mình. Giải quyết được vấn đề này, chúng sanh ở cõi Cực Lạc

Page 16: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

14 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ CHUYÊN ĐỀ

của đức Phật A-di-đà “không có sự khổ về thân cũng không có sự khổ về tâm mà chỉ thuần vô lượng những nhân tố của sự an lạc, hạnh phúc”. Nhưng, nhân tố của hạnh phúc ấy là do đâu? Nơi cõi Cực Lạc ấy, một ngày sáu lần, các giống chim quý luôn nói pháp mầu như về năm căn, năm lực, bảy chi phần bồ đề, v.v... làm cho tâm chúng sanh luôn nhớ tưởng về Phật, Pháp, Tăng. Như thế, chúng sanh cõi ấy luôn ý thức và thực hành rất nghiêm mật về 37 phẩm trợ đạo. Và dĩ nhiên, sẽ không có mầm mống của sự thối tâm vì “ngày đêm sáu thời” là diễn tả một sự liên tục không ngừng sống trong hương vị diệu pháp. Bên cạnh đó, cây cối và các vật dụng trang trí đều hòa trong làn gió nhẹ thành những tiết tấu làm vui đẹp lòng người và khiến cho họ hòa nhập với thể tánh của Tam bảo như kinh nói: “Khi nghe được những âm thanh đó liền an trú tâm (sự) nhớ tưởng Phật, nhớ tưởng Pháp, nhớ tưởng Tăng nơi thân”. An trú tâm trong hình ảnh đức Phật là an trú với thực tại. Giả sử đặt trường hợp

của chúng ta hiện nay, chỉ một cái nhìn trìu mến của mẹ, một lời khuyên chí tình của anh em, bằng hữu cũng đủ làm ta chùn bước mà quay về, nếu được ở trong một bầu không khí luôn văng vẳng những âm thanh hòa nhã, êm dịu như vậy khích lệ tu hành thì hẳn chúng ta sẽ phấn khích đến mức “lông tóc dựng ngược”, dẹp mọi sầu lo để nỗ lực hướng về chân, thiện, mỹ. Hơn nữa, khi tâm năng niệm của ta và cảnh sở niệm là đức Phật đều vắng bặt thì lúc ấy hai phạm trù ngã và pháp đã hòa vào nhau thành một thể. Lúc ấy, giá trị thực của cuộc sống mới thực sự hiển bày, liễu xanh, hoa hồng đều cất lên tiếng nói trong ta. Bên cạnh đó, cõi Cực Lạc không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tức không có bóng dáng của tham, sân, si vì “cõi Phật ấy, ngay cái tên ác đạo cũng không có, huống nữa là tồn tại ba đường ác”. Tuy có hình ảnh của muông thú nhưng chúng không do nghiệp báo sanh ra mà là do sự hóa hiện của đức Phật.

Như vậy, trong xã hội đầy đủ thành phần ấy, người ta

Page 17: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 15

CHUYÊN ĐỀ ☸

sống với nhau trong sự cảm thông sâu sắc. Sở dĩ, con người ta kì thị, ngược đãi lẫn nhau và gây khổ đau cho nhau là vì sự khác biệt về sắc tộc, bất đồng về ngôn ngữ, v.v... Còn ở đây, mọi thứ đều bình đẳng. Chim chóc, hoa lá, thiên nhiên và con người đều chung sống, hiểu nhau và khuyến khích nhau trong Phật pháp. Chúng sanh nào sanh về đó đều ở ngôi vị bất thối chuyển, quả vị của Bồ-tát đã đầy đủ công hạnh, tức là đã hoàn thiện nhân cách cá nhân. Họ với các bậc “thượng thiện nhân” sống chung một nơi. Và hình ảnh ấn tượng và cảm động nhất là đến giờ phút lâm chung của ta, đức Phật A-di-đà và toàn thảy chúng Bồ-tát, Thanh văn đều hiện ra trước mặt ta mà tiếp độ. Đó là nói về cõi Cực Lạc.

Nhìn về hiện thực bài kinh, ta thấy như một lời tâm sự, đức Thích-ca nói rằng: “Xá-lợi-phất! Ta thấy ích lợi như thế nên nói rằng: ai nghe nói như vậy thì nên phát nguyện sinh về cõi nước ấy”. Lo chúng ta sẽ rất thiệt thòi nếu không nghe và thực hành theo lời dạy chí

thiết ấy, nên đức Phật đã ân cần lặp lại nhiều lần rằng hãy tin lời của Ngài. Cứ mỗi lần nghe lại một lời khuyến tín ấy, ta lại nghĩ đến tâm trạng của người mẹ hiền luôn phải đi theo nhắc nhở những đứa con thơ dại rằng: “nơi đó không an toàn!”, rằng “Mẹ sẽ chỉ cho con những chỗ tốt đẹp hơn, nơi đó thật sự thoải mái và tốt cho con”, và rằng: “Con ơi! Nếu con làm theo lời mẹ thì mọi người cũng sẽ khen ngợi con giống như mẹ vậy”…

Cõi Cực Lạc là một bức tranh hoàn mỹ về một thế giới văn minh lý tưởng. Trước tiên, đối với hoàn cảnh xã hội đương đại, con người không thể chấp nhận được những tế toái trong hiện thực nên phải ước vọng về một xã hội lý tưởng, nơi ấy sẽ không có những đau khổ về vật chất (đau khổ về thân) và bức bách về tinh thần (khổ về tâm) như kinh nói: “Vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc”. Các khổ đau vì cảnh sanh, già, bệnh, chết của kiếp sống hiện tại cũng được giải quyết. Người ta hóa sanh từ hoa sen, thọ mạng vô lượng nên không có khái niệm

Page 18: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

16 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ CHUYÊN ĐỀ

già và chết. Bệnh tật thì hoàn toàn yên tâm vì nước trong các ao hồ đầy đủ tám đặc chất quý có thể hóa giải mọi vấn đề về sức khỏe, cảm thọ. Cuộc sống nơi ấy cũng sẽ không còn cái cảnh khổ sở bươn chải từng bát cơm, manh áo đến nỗi không dám ra tay làm một việc phước thiện, dù chỉ là một nghĩa cử đẹp gọi là “dón tay làm phúc”. Ở Tịnh độ, người ta được thỏa chí nguyện vì mỗi sáng, họ đều có thể đem hoa báu đi cúng dường khắp mười phương chư Phật, một ước nguyện mà đời sống hiện tại không có điều kiện để làm. Thay vì phải nghe những âm thanh không thuận tai, gây bao phiền não thì ở Tịnh độ, ngày đêm sáu thời đều nghe những âm thanh hòa nhã làm êm dịu lòng người, khiến mọi người hướng lòng về thiện pháp, v.v... Tất cả nội dung của thế giới lí tưởng là những giải đáp cho nỗi ưu tư khắc khoải của cuộc sống con người.

Cảnh Tịnh độ, như được trình bày trong kinh A-di-đà, chỉ hiện hữu chư vị Bồ-tát và Thanh văn làm ta liên tưởng đến nếp sinh hoạt thanh tịnh

của chư tăng trong chốn Già lam. Tại đây, luôn vang vọng các âm thanh vi diệu của Thánh đạo khiến tâm thức lắng đọng, thuần tịnh. Hẳn đây cũng là một ý tưởng để chư Tổ chọn Kinh A-di-đà cho thời công phu chính mỗi ngày của Thiền môn.

Như vậy, nếu xét kĩ hơn, cõi Cực Lạc chính là hình ảnh cõi trần được tịnh hóa. Cho nên, ở một góc độ nào đó, người ta có thể tìm thấy Tịnh độ ngay trong cuộc sống hiện tại, ngay giữa thế giới bất toàn này. Vấn đề ở đây là “thiện căn ở tại lòng ta” vì nếu “người buồn” thì “cảnh có vui đâu bao giờ”. Duy thức tông nói “tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, tất cả đều là biến hiện của tâm. Như một đường tròn lí tưởng của toán học, thực tế nó chỉ là một chuỗi của vô số điểm cách đều một tâm điểm, hoặc một đoạn phim sống động cũng chỉ là một chuỗi hình ảnh liên tiếp nhau. Cũng vậy, dòng tâm cũng chỉ là một chuỗi tâm thức sinh diệt trôi chảy không ngừng. Từ khi hành giả thực tập nhiếp đương niệm trong câu niệm Phật thì những tâm lí bất an dần tan

Page 19: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 17

CHUYÊN ĐỀ ☸

biến, cho đến khi “nhất tâm bất loạn” thì đâu còn chỗ cho tham, sân, si hay những nguyên nhân gây bất an tồn tại. Chính lúc đó, tâm hành giả biết rõ một tâm thái tĩnh lặng, bình an thật sự, hay chính đó là tâm thanh tịnh của Phật. Tâm đã thanh tịnh thì ngay tại đây và chính lúc này ta đang sống trong Tịnh độ. Niệm trước, niệm sau liên tục trôi chảy đều như vậy tức là hành giả đã sinh trong Tịnh độ, đang sống trong Tịnh độ và sẽ sinh về Tịnh độ.

Giữa cuộc sống tương quan này, hạnh phúc chỉ có thể có khi mà chúng ta cảm nhận được những gì chúng ta có trong tầm tay và biết đủ với những gì ta có thể có trong tầm với của mình. Làm được như vậy là đồng thời, bằng khả năng và trong khả năng có thể của mình, một cách tự nhiên, chúng ta đã đem lại hạnh phúc không những chỉ cho những người thân quanh mình mà cả cho những người mình có duyên tương ngộ. Chính cái “ý thức về” làm đối tượng được ý thức đó hiện hữu, thì cũng vậy, danh hiệu đức Phật vang vọng trong

đương niệm của ta thì lúc ấy ta đang có tâm Phật thanh tịnh trang nghiêm

Phương pháp tu hành của Tịnh Độ Tông rất giản dị, tiện ích và tương thích cho mọi hoàn cảnh nên gọi là “dị hành đạo”. Chỉ chú tâm trì niệm một câu danh hiệu Phật gồm sáu chữ, không phải quán tưởng sâu xa, không phải nghiên cứu giáo điển cao siêu nhưng vẫn chứa đựng triết lí thâm sâu, vậy thì có còn pháp môn nào dung dị, giản đơn hơn?! Người ta chỉ cần có lòng tin, phát nguyện sanh về Tịnh Độ, trì niệm danh hiệu Phật thì có thể nương nguyện lực của Phật A-di-đà, sanh về cõi Cực Lạc của Ngài, không còn bị thối chuyển nữa. Và như vậy, tín, nguyện, hạnh là ba yếu tố thiết thân kiện toàn cho người tu hành pháp môn Tịnh độ này.

■ Hải Nguyện

Page 20: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

18 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ THƠ

Ai chen danh lợi cứ đua chen,Mặc kệ cao sang mặc kệ hèn.Lên núi dựng lều tham công án,Xuống ghềnh múc nước hỏi tâm nguyên.Khi nhàn, ngồi viết vài thi phẩm,Lúc rộn, tham thiền vạn cảnh yên.Độc tọa đêm dài soi diện mục,Tùy cơ ứng xử lý thuần viên.

Tuệ Nguyên

độc cư

Page 21: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 19

GIẢNG LUẬN ☸

Một hôm, Thế Tôn ôm bát vào thành khất thực. Bấy giờ, có một Ni-kiền Tử, tu theo phép khổ hạnh, nhịn đói, gặp Thế Tôn ở cổng thành, hỏi: “Giáo lý của Ngài có gì đặc biệt?” Phật nói: “Hết thảy chúng sanh đều tồn tại do thức ăn”. Ni-kiền Tử nghe thế, bèn nói: “Điều đó thì trẻ nhỏ cũng biết, có gì là cao siêu?”

Ăn để mà sống, tất nhiên là sự thực tầm thường. Từ sinh vật hạ đẳng nhất, chỉ tồn tại với một quan năng duy nhất là ý chí tồn tại, trong từng khoảnh khắc cũng phải khổ nhọc tìm kiếm thức ăn để duy trì sự sống. Loài người, để tồn tại như mong muốn, cũng phải không ngớt tìm kiếm và tích lũy tài nguyên trong thiên nhiên làm thức ăn

để tồn tại

THÍCH TUỆ SỸ

THỨC ĂN

Ảnh: Xới cơm, của thầy Hải Trang

Page 22: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

20 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ GIẢNG LUẬN

cho tồn tại ngày nay và ngày mai. Từ tích lũy mà phải cạnh tranh. Do cạnh tranh mà xung đột lẫn nhau, gây khổ cho nhau, cho mọi sinh vật khác. Đó cũng là sự thực tầm thường.Ăn để mà sống. Sống là một

quá trình chuyển biến để trở thành một cái khác, hoặc thấp hơn hoặc cao hơn. Quá trình ấy luôn luôn cần năng lượng để vận chuyển. Các sinh vật thấp hơn chỉ nhu cầu một loại năng lượng vật chất. Loài người, sinh vật cao cấp, cần nhiều hình thái năng lượng khác nhau. Nếu có sinh vật cao hơn loài người, như các sinh vật tồn tại trên các Thiên đường của các tôn giáo, tất nhiên có nhu cầu các loại thức ăn hay năng lượng khác với những gì đang được loài người tích lũy và dung nạp. Do suy đoán và tưởng tượng, một số đông cho rằng các chúng sinh trên các cõi Thiên cần những thức ăn như vậy, cho nên ngay từ bây giờ, ta phải tích lũy những thứ như vậy. Những thứ tích lũy ấy sẽ làm hài lòng đấng Tối Cao ngự trị trên Thiên giới, do vậy những ai sở hữu những cái đó sẽ được nhận vào Thiên

quốc. Nếu đấng Tối Cao ngự trị trên đó, do bởi thịnh nộ mà muốn hủy diệt những thứ hay những loài mà Ngài cho là làm trái ý mình, thì những ai muốn sinh lên đó phải giết, phải thiêu, phải hủy diệt sinh vật khác, như là hành vi tích lũy tài sản để sau này có thể trao đổi với thức ăn tồn tại trên Thiên quốc.

Vậy, những loại thức ăn để tồn tại đó là những thứ gì?

Nói đến thức ăn hay thực phẩm, thì nó bao gồm hai phần: vật chất và tinh thần. Sự tu tập được xem như là món ăn tinh thần. Đa số chúng ta thường hiểu món ăn tinh thần như sự giải trí, nên cho rằng nó có cũng được, không có cũng được. Nhưng nhớ rằng, tất cả chúng sanh tồn tại là nhờ vào thức ăn, nghĩa là không có thức ăn thì chúng sanh không phát triển được. Song nếu chỉ được ăn thức ăn vật chất thôi thì sự phát triển của chúng sanh chỉ trong phạm vi nào đó, như trẻ con nếu chỉ được ăn những thức ăn như cơm, cháo mà không có những thức ăn khác, như không có xúc

Page 23: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 21

GIẢNG LUẬN ☸

chạm, không được thương yêu, không được giáo dục, v.v… thì đứa trẻ đó sẽ bị còi cọt, v.v… ngay cả như nuôi mèo, chó, người ta cũng không chỉ cho nó thức ăn mà còn phải vuốt ve nó nữa. Vì vậy, để phát triển toàn diện, chúng sanh ngoài thực phẩm vật chất, tất nhiên còn cần phải có những thực phẩm khác. Những thực phẩm khác đó là gì sẽ được giải thích sau. Bây giờ, trước tiên chúng ta sẽ tìm hiểu về tính chất của thực phẩm (ahāra).

Ahāra trong Pāli cũng thường dùng với nghĩa là duyên, giống như điều kiện. Duyên là điều kiện; ahāra hay thực phẩm, thức ăn, cũng vậy, nó là điều kiện để duy trì sự sống và phát triển sự sống. Nói một cách phổ thông, nó là dưỡng chất để duy trì và phát triển sự sống. Như vậy, thực phẩm phải mang tính chất trưởng dưỡng, vì trưởng dưỡng là duy trì và nuôi lớn; là trưởng dưỡng phát ích (các căn), trưởng dưỡng tăng ích (các căn) hay là tích lũy và làm tăng thêm lên. Trong từ “trưởng dưỡng”, chúng ta nên thêm vào từ “tăng ích” nữa cho

rõ nghĩa tức là “trưởng dưỡng và tăng ích”. Còn các căn ở đây là năm căn gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.

Trưởng dưỡng có hai ý nghĩa trên hai phương diện:

- Thứ nhất, trưởng dưỡng là duy trì sự sống và phát triển sự sống (trưởng dưỡng và tăng ích), giống như mình ăn nhiều chất bổ thì càng ngày càng khỏe hơn và mập lên; đây là phương diện tích cực.

- Thứ hai, trưởng dưỡng là không tổn hại, tức không tạo ra những tác hại chất gây nguy hiểm cho các căn; đây là phương diện tiêu cực. Thí dụ, hằng ngày, chúng ta vẫn ăn đều đặn, không thêm không bớt gì cả, khối lượng hay trọng lượng của cơ thể cũng không tăng, nghĩa là thực phẩm mà chúng ta ăn vào không có tính tăng ích nhưng cũng không gây tổn hại, không gây ra nguy hiểm cho sự sống. Nếu như trọng lượng giảm dần theo sự ăn hằng ngày, lúc bấy giờ thức ăn ấy là món độc hại, không những không tăng ích mà còn tổn hại, thì những thực phẩm đó không có trưởng dưỡng tức không duy

Page 24: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

22 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ GIẢNG LUẬN

trì cũng không nuôi lớn. Trong tính chất của thực phẩm, chúng ta chỉ nói đến ý nghĩa tích cực của trưởng dưỡng mà thôi.

Ta hãy nói đến sự sống bắt đầu từ côn trùng, bò, bay, máy cựa, cho đến thiên thần cõi Phi tưởng Phi phi tưởng, tất cả đều cần phải có dưỡng chất mới tồn tại và phát triển. Nói cách khác, chúng ta gọi là nạp năng lượng để tồn tại. Không một sinh vật nào tồn tại mà không nạp năng lượng (dưỡng chất), cũng như không một hệ thống máy móc nào không nạp năng lượng mà có thể vận hành được.

Vấn đề thực phẩm này, trong chuỗi lý luận, nó phải đi sau phần chứng minh sự tồn tại của danh sắc. Bởi vì, trước hết có thân rồi mới cần đến sự ăn để nuôi thân. Chỉ duy có thân, phần tồn tại vật chất, chưa đủ để cấu tạo thành sự sống. Nói chung, vật chất và tinh thần, hay thân và tâm, là những khái niệm cơ bản để hiểu sự sống là gì. Trong Kinh gọi đó là danh và sắc. Vậy, danh sắc hình thành và tồn tại như thế nào? Đời sống hiện tại là sự tiếp

nối của đời sống quá khứ. Yếu

tố hình thành đời sống hiện tại ngay trong sát-na thứ nhất được gọi là kết sanh tương tục, Nó nối liền hai đời sống quá khứ và hiện tại. Kết sanh tương tục là tổ hợp gồm ba chi phần: cha, mẹ và nghiệp cảm đời trước. Thiếu một trong ba chi phần trên thì sát-na tương tục không thể kết thành.

Từ tử tâm, trạng thái hay sát-na cuối cùng của một đời sống, đến khi tái sanh trở lại, quá trình này diễn ra như thế nào để trở thành kết sanh tương tục? Điều cần thừa nhận ở đây là tất cả hành vi chúng sanh làm trong đời này, được thúc đẩy bởi động lực là ý chí, được tích lũy trong nội thân hay nội tâm, vẫn tồn tại cho đến khi hội đủ điều kiện cần thiết được xử lý để trở thành một cái khác. Những hành vi hay động tác của thân và miệng trong quá trình tạo nghiệp là quá trình vận động và chuyển biến của khối năng lượng, mà thuật ngữ duy thức học gọi là công năng chủng tử, được điều động bởi động lực ý chí (tư tâm sở). Khi sự tạo tác nghiệp đến giai đoạn quyết định, thí dụ trong trường

Page 25: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 23

GIẢNG LUẬN ☸

hợp tạo nghiệp sát khi đối tượng bị giết đã chết, khối công năng chủng tử ấy được định hình và được tích lũy trong nội tâm. Đó là sự tồn tại của nghiệp sau khi đã được thực hiện. Nếu chưa hội đủ điều kiện, khối nghiệp tích lũy đó không được xử lý thì nó chưa thể phát sanh tác dụng; tức là nghiệp chưa trở thành dị thục.

Dị thục là gì? Nghĩa đen, đó là sự nấu chín. Thí dụ, thóc được xử lý để nấu chín thành cơm. Quá trình xử lý ấy bao gồm việc gặt hái, xay, giã, vo, nấu, với các yếu tố nước, lửa v.v... Sau khi đã xử lý thành cơm, sự tồn tại của thóc được tích lũy trong kho bấy giờ được thấy là biến mất, nhưng không mất hẳn, mà là biến thái để trở thành cái khác. Từ cái khác này mà về sau qua nhiều lần xử lý và biến thái nữa, để rồi trở thành yếu tố cấu thành sự xuất hiện của hạt lúa mới. Đó là quá trình lưu chuyển hay luân hồi trong trạng thái vật chất. Nhưng nghiệp được tạo tác không thuần túy vật chất, mà được điều động bởi ý chí; cho nên nghiệp được tích lũy

như hạt giống tồn tại gồm cả sắc và tâm, mà thuật ngữ gọi là sắc tâm chủng tử. Cả hai là hai thực thể cá biệt, nhưng tồn tại bất khả phân, là hai lực tương tác không thể phân ly nhau, hợp thành một chỉnh thể thống nhất, làm căn bản cho sự sống hiện tại và tương lai. Nói tóm lại, danh hay yếu tố tinh thần, nguyên lý tâm, tồn tại y trên sắc; và do lực tương tác, sắc tồn tại được duy trì bởi tâm.

Khi sắc bị tan rã, nghĩa là khi chết, khối nghiệp được tích lũy mất đi phần sở y vật chất. Nhưng vì nó chưa được xử lý để trở thành cái khác nên nó vẫn tồn tại như một khối chưa tan rã theo sắc. Ngay lúc vừa mất chân đứng đó, mà ở một nơi nào đó đang phát sanh sự kết hợp của sắc, nếu sự kết hợp này tương thích với khối nghiệp tích lũy, bấy giờ nghiệp được hấp dẫn về phía đó, và gá ngay lên đó mà tồn tại. Sự kết hợp này, trong giới thai sinh, như loài người, là tinh huyết của cha mẹ. Như vậy, tinh cha, huyết mẹ, và nghiệp cảm quá khứ, đó là ba yếu tố cấu tạo thành sự sống đầu tiên của sinh

Page 26: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

24 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ GIẢNG LUẬN

vật. Yếu tố đó là một tổ hợp danh sắc. Danh sắc, ngay sát-na đầu tiên, là kết quả của yếu tố quá khứ, kết hợp với các yếu tố hiện tại. Quá trình kết hợp như vậy, ta gọi là quá trình xử lý, và được hiểu theo thuật ngữ Phật giáo là dị thục, tức là quá trình nấu chín.

Như vậy, khi ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) này rã và tiếp tục qua đời sống khác thì cái phần nghiệp tức phần thọ, tưởng, hành, thức (bốn cái uẩn này tồn tại dưới cái dạng nghiệp) quá khứ sau khi rã ra rồi phát sinh cái mới thì cái mới này lại bắt đầu tìm chỗ khác để gá vào, khi gá vào cái mới thì ngay lúc đó (sát-na thứ nhất kết sanh tương tục) nó trở thành dị thục, nghĩa là gạo bây giờ đã trở thành cơm. Dị thục này có hai khả năng: chấp trì và chấp thọ. Và ngay sát-na thứ nhất dị thục định hướng liền, tức là khi gá vào chỗ mới là nghiệp cảm định hướng luôn.

Có bao nhiêu định hướng? Thứ nhất là định hướng thú sinh, nghĩa là tùy theo chuỗi gen (gen cha, gen mẹ) của loài nào thì dị thục trở thành loài

đó; gen đen thì dị thục thành đen; gen người, gen cọp, gen sư tử, gen trâu, gen bò, v.v… thì dị thục định hướng thành người, thành cọp, sư tử hay trâu, bò, v.v… Dị thục giống như mũi tên được bắn ra theo một định hướng nào đó. Sau khi định hướng thú sinh rồi, dị thục định luôn cả tuổi thọ tức thời gian tồn tại của dị thục. Dị thục này là chân dị thục, chân dị thục lúc này chưa phát triển, chưa có tay chân, các thứ. Trong sát-na thứ nhất của kết sanh tương tục, là giai đoạn đã trở thành chân dị thục rồi, từ cái dị thục này mới bắt đầu phát triển… Qua sát-na thứ hai, chân dị thục này phát triển thành danh sắc. Danh sắc lúc này chỉ là một khối vật chất, với hai chức năng: chấp trì và chấp thọ. Do lực mà dị thục phóng ra mà nó được chấp trì. Nói khác, dị thục duy trì sự tồn tại cái khối đó để phát triển thành các căn, tức là cái kết sanh đó duy trì làm cho chuỗi AND nó không bị hủy, khi duy trì như vậy nó biến thái liền, và hai cái chuỗi đó bây giờ trở thành sự sống tức là có chấp thọ.

Page 27: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 25

GIẢNG LUẬN ☸

Nhưng làm thế nào để phát triển danh sắc này? Khi thành một sinh vật qua đời sống mới thì tất cả yếu tố dị thục đã có rồi, nhưng đức Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều do thức ăn mà tồn tại”. Vậy thì từ sát na thứ nhất trở đi đều phải có thức ăn, tức từ sinh hữu cho đến tử hữu phải có thức ăn, rồi sau đó vẫn phải có thức ăn nhưng ở đây lấy một giai đoạn tồn tại này thôi còn giai đoạn khác chưa nói đến. Tóm lại, từ sát-na thứ nhất kết thành sự sống cho đến sát-na cuối cùng tử hữu tức là chết, chúng sanh phải luôn luôn nạp năng lượng, nạp thức ăn, không lúc nào là không nạp năng lượng. Cho nên sát-na thứ nhất, kết sanh thức nó nạp năng lượng gì để phát triển thành sát-na thứ hai là danh sắc, rồi danh sắc nạp năng lượng gì nữa tức là những dưỡng chất để từ đó phát triển thành mắt, tai, mũi, lưỡi, tay, chân, v.v… chứ không thể tự nó phát triển; mà phải có nạp từ bên ngoài. Điều này chúng ta thấy rõ, như con nít (trong bào thai) phát triển thì phải ăn những dưỡng chất. Nó hấp thụ những dưỡng chất

của bà mẹ ăn vào. Tất nhiên là dưỡng chất có mặt tăng ích và mặt tổn hại; nếu không tổn hại là trưởng dưỡng, nếu tổn hại thì nguy hiểm. Người mẹ nếu nạp thứ tổn hại thì cái thai sẽ bị hủy. Cho nên thực phẩm được định nghĩa một cách tổng quát là tất cả thức ăn, và thức ăn thì đều có tăng ích và tổn hại.

Tăng ích và tổn hại đối với sinh mệnh của một sinh vật là hướng tiến hóa hay thoái hóa của nó trên các cấp bậc tồn tại. Trong thế giới quan Phật giáo, cấp bậc tồn tại được phân chia theo trình độ cảm thọ lạc. Cảm thọ lạc là trạng thái điều hòa khi diễn ra sự tiếp xúc giữa nội thân tâm và ngoại cảnh. Ăn là quá trình dung nạp thực phẩm, cũng là quá trình tiếp xúc giữa nội giới và ngoại giới của một sinh vật. Sự tiếp xúc diễn ra với trạng thái điều hòa, bấy giờ cảm thọ phát sinh.

(Còn tiếp)

Page 28: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

26 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ NGHIÊN CỨU

Đạo Phật, đạo của từ bi và trí tuệ, luôn luôn tôn trọng và đề cao cuộc sống của tất cả chúng hữu tình. Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì muốn mang hòa bình và hạnh phúc đến cho chư thiên và loài người.

Thực vậy, từ xưa đến nay, đạo Phật đã không bao giờ đem khổ đau cho bất cứ ai. Đạo Phật chỉ đưa ra con đường chuyển hoá đau khổ cho những ai có tâm tìm hiểu và mong muốn để đạt đến con đường đó.

Hôm nay, nhân dịp Hội Ái hữu thành phố Milwau-kee tổ chức cuộc nói chuyện với chủ đề Quan điểm của Phật giáo về án tử hình, chúng tôi sẽ làm sáng tỏ đề tài này với những ý tưởng như sau.

Thích Nữ Giới Hương

Các lời dạy căn bản của đức Phật về

HÀNH PHẠT TỬ HÌNH

Ai là người nghiên tầm Phật giáo ắt hẳn không thể không quan tâm đến cuộc hội thảo mở rộng do Hội Ái Hữu Phật giáo Thành phố Milwaukee tổ chức tại chùa Phước Hậu, Hoa Kỳ dưới sự chủ trì của các diễn giả: Sư cô Giới Hương, Chùa Phước Hậu; Giáo sư John McAdams, Khoa Chính trị học, Trường đại học Marquette; Sư cô Tonen O’Connor, Trung tâm Thiền học; Ông Peter Newald, Trung tâm Thiền học Great Lake.Cuộc hội thảo mở rộng này sẽ nêu lên các quan điểm của Phật giáo dựa vào những lời dạy căn bản của đức Phật - “Phật giáo dĩ từ bi vi bổn”. Thế đạo nhân tâm được các bậc Hiền triết chăm nom từ vô lượng kiếp. Đức Phật lấy tình thương tha nhân làm mục tiêu nhưng tình thương ấy không bị hạn cuộc mà là tình thương bằng lý trí. Vì vậy Ngài thương cả những người không thương mình, kẻ độc ác, người si mê… Lòng đại bi của Ngài tràn ngập thế gian như nước xanh khỏa lấp đại dương mênh mông. Trải qua nhiều năm nghiên cứu và tu học, sư cô Giới Hương đã nêu lên những quan điểm của mình trước vấn đề có nên loại bỏ án tử hình tại tiểu bang Wisconsin hay không qua bài tham luận “các lời dạy căn bản của đức Phật về hành phạt tử hình”. BBT trân trọng giới thiệu đến quý độc giả.

Page 29: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 27

NGHIÊN CỨU ☸

I. Năm giớiCác giới luật quan trọng và căn bản hướng dẫn phát triển tâm

linh rất quen thuộc với giới Phật tử là thọ trì ngũ giới (Pañca Śīla)1.

1. Con phát nguyện vâng giữ giới không sát hại sanh vật. 2. Con phát nguyện vâng giữ giới không lấy của không cho.3. Con phát nguyện vâng giữ giới không tà dâm.4. Con phát nguyện vâng giữ giới không nói dối.5. Con phát nguyện vâng giữ giới không uống rượu say.Trong ý nghĩa tiêu cực, năm giới này là những điều răn cấm,

nghĩa là không được phạm vào bất kỳ tội lỗi hoặc tội ác nào. Bản chất của sự răn cấm này được thể hiện ở hai phương diện:

(a) để ngăn chặn và phòng ngừa tội lỗi hoặc tội ác, chẳng hạn như cấm uống rượu say vì nó có thể dẫn tới tạo tội lỗi hoặc tội ác;

(b) để chấm dứt và không tái phạm những tội ác đã làm, như giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối, v.v… chính bản chất chúng là bất thiện.

Trong ý nghĩa tích cực, giới đầu tiên giúp chúng ta tăng trưởng lòng từ bi. Giới thứ hai có thể giúp nuôi dưỡng đức tính thành thật, tâm bao dung, không chấp thủ và chánh mạng. Giới thứ ba giúp vun bồi khả năng tự kềm chế, bảo hộ các căn và những cảm xúc, chế ngự lòng ham muốn trần tục. Giới thứ tư làm cho phát triển niềm tin yêu, tâm chân thật, và đạo đức chính trực. Và giới cuối cùng giúp chúng ta quay về chánh niệm, tỉnh thức, và tuệ giác.

Bởi vậy, thực hành thuần thục những giới luật Phật giáo sẽ giúp chúng ta sống một cuộc sống đạo đức, thăng tiến đời sống tâm linh trong từng cá nhân, đồng thời giúp thúc đẩy việc chung sống hòa bình trên tinh thần hợp tác, tin cậy lẫn nhau trong cộng đồng và đẩy mạnh tiến trình xã hội ngày càng phát triển.

II. Giới đầu tiênGiới đầu tiên ủng hộ xu hướng phản đối việc phá hủy sự sống.

Điều này dựa vào nguyên lý của thiện tâm và tôn trọng quyền

Page 30: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

28 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ NGHIÊN CỨU

sống của tất cả mọi loài.Trong kinh Phạm Võng2, đức

Phật chỉ dạy cặn kẽ Giới bồ-tát đầu tiên là: “Đệ tử Phật không được tự mình giết, hoặc bảo người giết, phương tiện giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy hỷ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết, nhân giết, duyên giết, cách thức giết, nghiệp giết”.

Có năm điều kiện3 kết thành hành động giết hại là:

(1) Có hiện hữu một chúng sanh, con người hoặc loài vật;

(2) Nhận biết rằng chúng sanh đó đang còn sống;

(3) Dự định hoặc quyết định để giết;

(4) Dùng phương tiện thích đáng để thực hiện hành động giết hại;

(5) Và có hậu quả đưa đến sự chết.

Thiếu bất kỳ một trong các điều kiện này, hành động giết sẽ không cấu thành, mặc dù sự chết có xảy ra. Điều đó chỉ được xem như sự cố tai nạn và không gây ra hiệu ứng tội lỗi nào cho người làm hành động này.

Có sáu cách giết4: (1) giết bằng chính bàn tay của mình, (2) ra lệnh cho kẻ khác giết, (3) giết bằng cách bắn, ném

đá, đánh gậy, v.v… (4) giết bởi việc đào những hầm hố, v.v... để đánh bẫy chúng sanh, (5) giết bởi dùng thần lực, hoặc các phương cách bí ẩn, và (6) giết bằng mật chú, hoặc khoa học huyền bí nào đó.

Dù sử dụng công cụ nào để giết hoặc phá hủy mạng sống của chúng sanh thì kẻ đó đã phạm vào tội sát sanh rồi.

Bởi vậy, một Phật tử chân chánh không thể làm hoặc ủng hộ án tử hình bởi vì án tử hình đồng nghĩa với việc tước đoạt hay chấm dứt đời sống con người với năm điều kiện và bất kỳ một trong sáu cách giết nói trên.

III. Tâm từ biỞ giới đầu tiên trong kinh

Phạm Võng5, đức Phật dạy rằng: “Là Phật tử lẽ ra phải luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, lập thệ cứu giúp tất cả chúng sanh. Mà trái lại, tự phóng tâm nỡ lòng sát sanh, Phật tử này phạm Bồ-tát Ba-la-di tội”.

Do tuân thủ giới này chúng ta biết cách vun bồi tâm từ và tâm bi. Nên thương yêu những người khác như chính mình vậy. Cảm nhận được đau khổ của người khác như của chính

Page 31: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 29

NGHIÊN CỨU ☸

mình thì chúng ta sẽ sẵn sàng làm cách nào đó để có thể giúp họ vơi bớt khổ đau.

Như vậy, chúng ta trau giồi tâm từ bi và tăng trưởng tinh thần vị tha chính vì phúc lợi của người khác, ý thức tôn trọng và bảo vệ cho tất cả chúng sanh.

Trong kinh Từ bi, đức Phật cũng dạy:

Mong rằng không có ai,Lường gạt, lừa dối ai,Không có ai khinh mạn,Tại bất cứ chỗ nào.Không vì giận hờn nhau,Không vì tưởng chống đối.Lại có người mong muốn,Làm đau khổ cho nhau.

Như tấm lòng người mẹ,Ðối với con của mình,Trọn đời lo che chở,Con độc nhất, mình sanh.Cũng vậy, đối tất cảCác hữu tình chúng sanh,Hãy tu tập tâm ý,Không hạn lượng rộng lớn.6IV. Phật tánh Một nguyên do khác mà

giới Phật giáo không ủng hộ án tử hình là vì đức Phật có dạy rằng bản chất của mỗi chúng sanh (người hoặc vật) là thanh tịnh; tinh tế hơn nữa là tâm

thanh tịnh, mà cứu cánh bản tâm đó chính là sự giác ngộ hay tính giác ngộ cũng gọi là Phật tính (Buddhata), hoặc Tri kiến Phật.

Như đức Phật xác nhận trong kinh Pháp Hoa7: “…Và Ta thấy hàng Phật tử, có đầy đủ giới đức, uy nghi không thiếu sót, bản chất trong sạch như bửu châu để trở về tuệ giác”. Vì vậy, nếu nay con người trở nên bạo lực có thể vì nhiều lý do, nhưng nhất định một trong những lý do chủ yếu là do ác tư duy khởi lên, như hậu quả từ môi trường và hoàn cảnh của họ. Tuy nhiên, tất cả đều có tiềm năng để cải thiện cũng như có khả năng quay về với bản tính chân thật hằng có của chính mình.

V. Không sát sanhNhư đề cập, tất cả chúng

sanh đều có Phật tính. Vì vậy, chúng ta không những không nên giết người mà còn không nên làm hại cả loài vật nữa. Vả lại, trong vài trường hợp tùy theo nghiệp lực, con người có thể tái sinh làm người và loài vật cũng có thể được sinh lại làm người.

Có một nguyên tắc chỉ đạo

Page 32: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

30 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ NGHIÊN CỨU

rất căn bản trong đạo Phật để tu tập đạo hạnh đó là bất hại (ahimsa) - tức ngăn cấm việc gây tổn thương hoặc chết chóc đối với mọi chúng sanh.

Vì chúng ta ước muốn sống, chúng ta không nên giết người hoặc ngay cả chúng sanh khác. Hơn nữa, nghiệp sát sanh phải được hiểu như cội rễ của tất cả khổ đau và nguyên nhân căn bản của bệnh tật và chiến tranh, và những thế lực giết hại này rõ ràng đồng nhất với ma quân.

Lý tưởng tối thượng và phổ quát nhất của đạo Phật là phụng sự không ngừng nghỉ cho đến khi nào chấm dứt hoàn toàn khổ đau của tất cả chúng sanh, chứ không chỉ riêng cho loài người.

Như trong kinh Phạm Võng8, đức Phật nói: “Mỗi khi một Bồ-tát9 thấy có người chuẩn bị giết một con vật, vị ấy thường dùng phương tiện thiện xảo để cứu chuộc và bảo vệ nó, giải phóng nó vượt thoát khỏi tình trạng khó khăn và đau khổ đó...”

VI. Ăn chayTâm từ bi bao la đối với tất

cả cũng có nghĩa rằng chúng ta không những không giết hại con người và loài vật mà còn

cần phải tuân thủ quy tắc tự gìn giữ chính mình chẳng hạn như thực hành ăn chay. Đây là những lời dạy tích cực và xác thực từ đức Phật liên quan đến sự phát triển hoàn hảo nhân cách của con người.

Tất cả các chúng sanhLoài người hoặc thú vật,Rất tham sống sợ chết.Đều sợ hãi con dao đồ tể,Chặt thái chúng thành từng

miếng.Thay vì tàn bạo và hèn hạ,Tại sao không dừng giết hại và thương yêu cuộc sống?10

Đức Phật khuyến khích việc ăn chay hoàn toàn là một yêu cầu tự nhiên và hợp lý tương xứng với giới không sát sanh. Giới Bồ-tát cũng rõ ràng cấm hẳn việc ăn mặn.

Tôn giả Đại Ca-diếp hỏi đức Phật: “Tại sao Như Lai không cho phép ăn thịt?” Đức Phật đáp: “Chính vì việc ăn thịt sẽ cắt đứt hạt giống đại từ bi”11.

Lòng từ bi của chúng ta không chỉ giới hạn đối với loài vật hoặc những vật yêu thích, mà còn mở rộng đến toàn thể chúng sanh, ngay cả trong số đó có kẻ sai phạm. Chúng ta lấy lòng từ bi làm nền tảng cho

Page 33: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 31

NGHIÊN CỨU ☸

tất cả mọi quan hệ tương tác với người khác, mà không cần lưu tâm đến quan điểm và hoạt động của họ là gì.

VII. Báo thùVì những lý do và mục đích

nào đó mà hệ thống pháp luật của xã hội đặt ra án tử hình. Án này chính là dùng để trừng phạt các phạm nhân, ngăn chặn họ không lặp lại hành động xấu ác đã làm và để răn đe những người khác.

Tuy nhiên, rõ ràng nó cũng là một hình thức báo thù trong một ý nghĩa tinh tế hơn.

Chúng ta cần phải giảm bớt sự sợ hãi, lòng thù ghét, và ý muốn báo thù bằng cách tra tấn và sát hại.

Khái niệm báo thù hoàn toàn xa lạ với giới Phật giáo. Án tử hình là một hình thức trừng phạt khắc khe nhất với mục đích nhằm kết thúc vĩnh viễn một mạng sống. Khi phạm nhân bị xử tử hình thì người đó không còn có cơ hội nào nữa để thay đổi, phục hồi hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra.

Liệu việc thực hiện án tử hình đối với một kẻ giết người đã bị tuyên án sẽ khiến nạn nhân sống lại được không?

Tất nhiên là không. Như vậy, án tử hình đâu có lợi ích gì.Đức Phật dạy rằng:Với hận diệt hận thù,Ðời này không có được.Không hận diệt hận thù,Là định luật ngàn thu.12

VIII. Tâm lý họcTheo đạo Phật, những điều

kiện cho đời sống kế tiếp (tái sanh) phụ thuộc vào những tư tưởng sau cùng, tức trạng thái tâm thức cuối cùng của con người trước khi chết. Tâm thức hay tâm lý của tội phạm chắc chắn không thể có được trạng thái an bình. Buộc người đó nhận lãnh thi hành án tử sẽ càng làm cho trạng thái tâm trí của người đó thậm chí còn trầm trọng hơn, chứa đầy lòng giận dữ và sợ hãi. Kết quả là, người đó nếu được tái sinh làm người, họ có thể còn bạo lực hơn lúc bây giờ. Khi lớn lên, kẻ đó tiếp tục phạm tội có thể còn tồi tệ hơn những tội ác đã làm ở đời trước.

Trong Tiểu kinh Nghiệp phân biệt (Kinh Trung Bộ, số 135)13, đức Phật nói điều này:Ở đây, này các Tỳ-kheo,

có người đàn bà hay đàn ông, phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói

Page 34: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

32 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ NGHIÊN CỨU

động đến một chút thời liền bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào cõi dữ... Nếu sanh trở lại làm người thì phải chịu hình hài xấu xí. Con đường ấy đưa đến xấu sắc, tức là phẫn nộ, sân hận, bất mãn.

Bởi vậy, chúng ta cần nên tránh dẫn đến trạng thái tâm lý bất an cho phạm nhân vì người đó sẽ phải buộc giáp mặt cái chết một cách không sẵn lòng và miễn cưỡng.

IX. Luật Nghiệp BáoNghiệp hay hành động là

năng lực được phát sinh bởi tư duy, lời nói và những hành vi của con người. Nó có thể là thiện, bất thiện hoặc quán tưởng, và có thể có hiệu ứng sâu đậm lên sự tái sanh của mọi loài hữu tình chúng sanh.

Nghiệp bất thiện dẫn đến sự tái sinh vào một trong ba ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh); nghiệp thiện dẫn đến tái sinh trong loài người, loài thần hoặc chư thiên cõi dục; còn nghiệp quán tưởng thiền định sẽ tái sinh vào cảnh giới sắc và

vô sắc14.Trong kệ Telakatahagatha

nói rõ: “Ai phá hủy đời sống của bất kỳ chúng sanh nào, trong lần tái sinh kế tiếp người đó có thể bị đột tử trong lúc đang sung mãn nhất, dù vị đó đang có cuộc sống tiện nghi, giàu sang và đẹp đẽ...”15 Đức Phật đã dạy16: Ở đây, này các Tỳ-kheo, có

người đàn bà hay đàn ông, sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu được đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy phải đoản mạng. Con đường ấy đưa đến đoản mạng, này các Tỳ-kheo, tức là sát sanh, tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loài hữu tình.

Nhưng ở đây, này các Tỳ-kheo, có người đàn bà hay đàn ông, từ bỏ sát sanh, tránh xa

Page 35: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 33

NGHIÊN CỨU ☸

sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời. Nếu sau khi thân hoại mạng chung, người ấy không sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời, nếu người ấy đi đến loài người, chỗ nào người ấy sanh ra, người ấy được trường thọ. Con đường ấy đưa đến trường thọ, này các

Tỳ-kheo, tức là từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình.

Như vậy với lý lẽ đã trình bày ở đây, rõ ràng là việc giết hại kể cả tội bạo hành sẽ tạo ra ác nghiệp cho kẻ đó, và giảm bớt khả năng có được một cái chết an bình cho họ.

(còn nữa)

1. http://quangduc.com/English/canon/vinaya/05.bikkhu-rules-guide.html#5precepts; http://www.unfettered-mind.org/articles/precept1.php; 2. The Brahma Net Sutra, trans. by the Buddhist Text Translation Society in USA, xem http://www.purifymind.com/BrahmaNetSutra.htm3. Dhammasaṇganī Aṭṭhakathā (Atthasālinī), ed. E. Müller, 1897, PTS, p. 129; Saddhammo pāyana, ed. Richard Morris, V, PTS, 1887, p. 58; Kaṇkhāvitaranī, ed. D. A. L. Maskell (néc stede), 1957, PTS, p. 50. 4. Dhammasaṇganī Aṭṭhakathā (Atthasālinī), ed. E. Müller, 1897, PTS, p. 129; Kaṇkhāvitaranī, ed. D. A. L. Maskell (néc stede), 1957, PTS, p. 30.5. The Brahma Net Sutra, trans. by the Buddhist Text Translation Society in USA, xem http://www.purifymind.com/BrahmaNetSutra.htm

6. Khuddhaka Nikaya (belong to the Sutta Nipata), tr. By Thanissaro Bhikkhu, I.8, Karanaiya Metta Sutta. 7. The Lotus sutra, tr. By Burton Watson, Colombia Univeristy Press, New York, 1993, pp 10-11.8. Brahma Net Sutra, I, 162.9. Bồ-tát nguyện giữ giới “Không sát hại người và súc vật”. 10. Cherishing Life, I, 83.11. Cherishing Life, II, 5.12. Dhammapada, tran. by Thanissaro Bhikkhu, Verse 5 of Chapter 1, MA 01005, USA, 1997.13. http://www.vipassana.com/canon/ma-jjhima/mn135.php14. Mullin, Glenn H., Death and Dying: The Tibtant Tradition, Boston: Arkana Penguin, 1986, p. 17.15. Telakaṭāhagāthā, v, 78.16. http://www.vipassana.com/canon/ma-jjhima/mn135.php

Page 36: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

34 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ NGHIÊN CỨU

Tràng hạt (Skr: japa mālā, Eng: the beads, hoặc rosary) là một vật dụng phổ biến trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Nó được dùng như một thứ trang sức hoặc như một pháp khí tùy theo đối tượng sử dụng. Trong tôn giáo, tràng hạt được dùng để liên kết và thiết lập trật tự cho các lời cầu nguyện, các bài kinh, các kệ tán, các danh hiệu hoặc những thần chú trong khi hành trì.

Với Phật giáo, tràng hạt là một pháp khí quen thuộc, việc sử dụng tràng hạt dường như đã trở thành nét đặc thù của Tịnh Độ tông. Theo lịch sử truyền thừa của tông phái này, người chế ra tràng hạt để niệm danh hiệu Phật chính là ngài Đạo Xước (562-645), người được tôn là tổ thứ 2 của Tịnh độ tông Trung Quốc. Còn với Phật giáo Nam tông, từ lâu tràng hạt cũng đã dần dần trở thành một vật tùy thân ngoài 8 vật đã được Phật chế định: 3 y, kim chỉ, bình bát, dây lưng, dao cạo và túi lọc nước.

TRÀNG HẠT

THANH HÒA

Page 37: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 35

NGHIÊN CỨU ☸

Theo ngữ nguyên, chữ bead (hạt, lời cầu nguyện) có nguồn gốc từ chữ budh trong tiếng Phạn, có nghĩa là nhận thức về tự ngã, Phật giáo gọi là “giác”. Chữ rosary là do người La-mã khi đến Ấn Độ đã nghe từ japa mālā thành japā mālā và dịch là rosarium (vòng hoa hồng), từ này trở thành rosary trong tiếng Anh. Như vậy, dù là từ nào đi nữa, khái niệm tràng hạt đều rất có thể đã bắt nguồn từ xứ Ấn Độ, mảnh đất của tâm linh.

Nói về xuất xứ của tràng hạt trong kinh điển, chúng ta tìm thấy nguồn gốc chính thức ở trong Phật thuyết mộc hoạn tử kinh (T.17.786.726a-b). Theo kinh này, vua Ba-lưu-ly của nước Nạn sai sứ đến gặp đức Thế Tôn và trình bày những bất ổn đang xảy ra trong đất nước ông, đồng thời thỉnh cầu đức Thế Tôn dạy cho phương pháp tu tập để đất nước được an ổn. Đức Thế Tôn đã dạy nhà vua lấy hạt cây vô hoạn kết thành chuỗi gồm 108 hạt để niệm danh hiệu Phật, Pháp, Tăng. Nhà vua theo đó dạy lại cho dân chúng cùng làm tràng hạt để niệm danh hiệu Tam bảo, từ đó nhân dân an lạc, đất nước yên bình.

Chúng ta cũng biết, đức Thế

Tôn thị hiện trên một mảnh đất tâm linh trù phú. Khắp đất nước Ấn Độ, con người sống trong niềm thao thức giải thoát. Phật giáo đã sinh trưởng trong môi trường đó, cho nên có không ít những quan niệm hay quy tắc có nguồn gốc xa hoặc gần từ những giáo phái đương thời, cũng như Phật giáo đã ảnh hưởng không nhỏ đến các giáo phái ấy. Thật vậy, pháp môn lần tràng hạt niệm Phật (sổ châu) rất gần gũi với phương pháp lần tràng hạt trong lúc cầu nguyện của Bà-la-môn giáo, một lối cầu nguyện rất thịnh hành của những vị Bà-la-môn. Người Ấn giáo theo phái thờ thần Śiva (Ấn giáo Thấp-bà) dùng một loại hạt gọi là rudrākṣa để xâu thành tràng hạt. Trong tiếng Phạn, rudrākṣa có nghĩa đơn giản là “con mắt của Rudra” hay là “con mắt đỏ”, phái sinh từ động từ rud (khóc). Rudra cũng là một tên gọi khác của thần Śiva. Truyền thuyết kể rằng, có lần vị thần này ngắm nhìn thế gian, thấy chúng sinh sống trong nỗi khổ cực không sao nói hết nên đã đau lòng, nhỏ xuống những giọt nước mắt, những giọt nước mắt này mọc thành cây rồi cho ra những hạt đỏ thẫm. Người ta đã lấy những

Page 38: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

36 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ NGHIÊN CỨU

hạt ấy làm thành tràng hạt để cầu nguyện trong sự tưởng nhớ đến tấm lòng từ bi của thần Śiva. Hạt đó chính là hạt kim cang mà ngày nay chúng ta vẫn dùng để làm tràng hạt, bản dịch luận Thành duy thức của ngài Huyền Trang gọi hạt này là ác-xoa.

Trong quan niệm của người Ấn Độ, vô hoạn tử và rudrākṣa đều là những loại hạt thiêng, có khả năng trừ ma chướng. Điều này có lẽ một phần do dược tính của chúng, như vô hoạn tử (Sap-indus mukorossi Gaerth, Skr: ariṣṭa: 阿梨瑟迦紫) còn có tên là bồ-đề tử (tên này gợi nhớ đến chuỗi hạt bồ-đề), là một vị thuốc chủ trị nhiệt, đàm, sát trùng… (theo Mộc thảo cương mục).

Về số lượng hạt, nhìn chung có rất nhiều loại, tùy theo quan niệm của mỗi tôn giáo. Trong Phật giáo, số hạt thường biểu trưng cho những trạng thái tâm lý (tâm pháp) hoặc những ham muốn xấu cần vượt qua để đạt đến trạng thái giải thoát (Niết-bàn).

Theo kinh Mộc hoạn tử nêu ở trên, tràng hạt của Phật giáo gồm có 108 hạt, con số này cũng giống với con số của các giáo phái khác ở Ấn Độ. Tuy nhiên, về sau, để tiện lợi, đôi lúc

tràng hạt được chia theo cấp số thành các dạng gồm 54, 27 hạt hoặc 36, 18 hạt. Con số 108 này tượng trưng cho 108 phiền não gồm 88 kiến hoặc, 10 tư hoặc và 10 triền.

Ngoài ra, con số 108 còn được giải thích theo nhiều cách khác nữa.

Người ta nhận thấy rằng số hạt thường là tương đương với số lượng của đối tượng được niệm, trong niệm danh hiệu Phật thì có 108 danh hiệu, trong Ấn giáo thì có 108 bộ Áo nghĩa thư. Chính vì lý do này nên một số vị tu Mật tông Tây Tạng có tràng hạt đến 111 cho 100 bài chú, còn 11 hạt cho những trường hợp sai sót (?).

108 = 6 x 3 x 2 x 3, đó là 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp) x 3 thời (quá khứ, hiện tại và vị lại) x 2 trạng thái của tâm (nhiễm và tịnh) x 3 trạng thái của thọ (ưa, không ưa và trung lập).

108 còn là con số 11 x 22 x 33 = 1 x 4 x 27. Đây có lẽ là những quan niệm liên quan đến vấn đề số học của người Ấn Độ xưa.

Trong hình ngôi sao năm cánh, góc bù được tạo nên bởi 2 cạnh cắt nhau là 108o.

Người ta nói rằng ở Ấn Độ

Page 39: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 37

NGHIÊN CỨU ☸

có 108 điệu múa. Trong thân thể chúng ta có

108 luân xa.Các nhà chiêm tinh cho rằng

đường kính mặt trời lớn bằng 108 lần đường kính trái đất.

Trong con số 108, số 1 biểu trưng cho sự hợp nhất, tức là nhất; số 8 là vô cùng, tức là dị; số 0 là trung gian, là trung đạo với nghĩa không, tánh không.

Tựu trung, con số 108 được giải thích dưới nhiều góc độ khác nhau, và rõ ràng nó mang ý nghĩa tượng trưng rất quan trọng trong quan niệm của người Ấn Độ. Ở chừng mực nào đó, có thể nói rằng con số 108 này cũng kỳ diệu như chỉ số PHI (φ) 1.618 trong truyền thống Hi Lạp.

Như đã nói, lần tràng hạt là để tăng thêm sự tập trung vào đối tượng được niệm, người theo Phật giáo Bắc tông thường niệm danh hiệu Phật trong khi lần tràng hạt, còn người theo Phật giáo Nam tông thường niệm 10 đức hiệu của Phật qua câu tán thán Phật trong Nikaya: “Itipi so Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho Vijjācaraṇasampanno Su-gato Lokavidū Anuttaro Purisadammasārathi Satthā

devamanussānaṃ Buddho Bhagavā’ti”. (Thật vậy, bậc đáng kính trọng ấy là: A la hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn).

Trong tràng hạt có một hạt gọi là hạt Sumeru hay Meru, chúng ta thường gọi là hạt Tu-di hoặc hạt Di-đà, đó là hạt thứ 109, là chỗ giáp nối của vòng tròn. Theo nghi thức, khi lần tràng, không được vượt qua hạt này, lần đến hạt này thì lần ngược trở lại, như trong kinh Kim cương đỉnh du già niệm châu có câu: “Hạt giữa tiêu biểu Phật Di-đà, chớ lần qua, phạm tội việt pháp”.

Nói tóm lại, tràng hạt khởi nguồn từ Ấn Độ và đã trở thành một “vật thiêng” trong hầu hết các tôn giáo. Với Phật giáo, nó đã trở thành vật tùy thân, giúp cho hành giả dễ dàng chú tâm vào đối tượng trì niệm, là một sợi dây xâu suốt các ý tưởng thành một trật tự, từ đó hành giả có thể đi sâu hơn vào các trạng thái của định để làm phát khởi tuệ giác.■

Page 40: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

38 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TU TẬP

Lời người dịch: Hộ niệm là một công việc mà những người Phật tử chúng ta thường tiến hành khi có người hấp hối. Đây là một nghĩa cử rất cao đẹp và có ích lợi rất lớn. Đại sư Tai Kwong trong bài thuyết giảng tại Bệnh viện Phật giáo Hồng Kông đã có trình bày về những nguyên tắc của việc hộ niệm. Nếu mọi người biết được những nguyên tắc này thì sẽ làm cho tác dụng và lợi ích của việc hộ niệm tăng thêm nhiều. Chính vì vậy mà chúng tôi trích dịch ra đây để giới thiệu cùng quý vị.

NHỮNG NGUYÊN TẮC KHI

Người bệnh thường bị hành hạ bởi sự đau đớn trước khi chết. Sự đau đớn ấy không thể diễn tả nổi. Vì thế, người bệnh cần có “sự thanh thản” trước và sau khi chết. Người ấy sẽ ra đi hết sức bình yên trong sự thanh thản. Có một số nguyên tắc cần được tuân thủ khi hộ niệm:

1 - Không di chuyển thân thể của người chết.2 - Không được khóc than.3 - Không nên gây ồn ào không cần thiết.4 - Niệm Phật một cách trang nghiêm.

HỘ NIỆM

Page 41: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 39

TU TẬP ☸

Trước hết là không được di chuyển thân thể của người chết. Từ khi trút hơi thở cuối cùng, người chết cần có sự thanh thản, bất kỳ sự di chuyển nào cũng làm cho thể xác người chết càng đau thêm. Trong lúc đau đớn, người chết sẽ sinh lòng căm hờn. Chính lòng căm hờn này dẫn người chết đến chỗ đọa lạc. Việc tắm rửa và thay áo quần cho người chết nên tiến hành trước lúc người ấy chết hoặc là sau khi chết khoảng 8 tiếng đồng hồ. Điều này rất là quan trọng.

Thứ hai, không được khóc than. Mọi người cho rằng, khóc cho người chết là một nghĩa cử thông thường của con người. Một khi có người chết, chúng ta khóc bên thân xác của người ấy. Điều này chỉ đem đến sự buồn phiền cho người chết mà thôi. Thay vì khóc than, chúng ta hãy ngăn những dòng nước mắt lại và niệm Phật một cách thành kính để cầu cho người ấy được sanh về cõi Cực Lạc. Như thế thì cả người sống và người chết đều sẽ cảm thấy tốt hơn. Nếu ai đó không ngăn được sự khóc than thì nên đi nơi khác

và khóc cho thỏa lòng rồi quay lại, như thế thì sẽ làm dịu bớt sự dồn nén ở trong lòng.

Thứ ba là không nên gây ồn ào không cần thiết. Khi có người chết, thân quyến và bạn bè sẽ đến viếng. Trong lúc ấy sẽ có không ít vấn đề được những người đến thăm bàn tán ngay sau khi anh ta chết. Khi có quá nhiều ý kiến và có quá nhiều lời huyên thuyên không ngớt thì chỉ làm mất đi sự yên tĩnh và làm phân tâm những người hộ niệm mà thôi. Tốt hơn là nên thảo luận và sắp xếp công việc ở một phòng khác hoặc là ở bên ngoài. Hãy giữ cho căn phòng mà người chết đang nằm được yên tĩnh. Mọi người hãy niệm Phật trong sự điềm tĩnh và hãy để cho người chết chỉ nghe tiếng niệm Phật mà thôi. Được như thế thì người chết sẽ có thể nhất tâm và dòng tư tưởng thanh cao của anh ta không bị gián đoạn. Đây mới là cách trợ giúp phù hợp nhất.

Thứ tư là niệm Phật một cách trang nghiêm. Tất cả những người Phật tử hay không phải Phật tử, sau khi hiểu được lợi ích của sự hộ niệm, họ thường

Page 42: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

40 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TU TẬP

mời những hộ niệm viên (ở Đài Loan và Hồng Kông có thành lập những hội mà hội viên thường đến giúp đỡ và hộ niệm cho người hấp hối, như ở nước ta có các đạo tràng vậy - lời người dịch) đến để chuẩn bị cho việc hộ niệm. Cần phải quan sát sự chuyển biến của người hấp hối, khi thấy người thân của mình gần dứt hơi, vẫn còn thở, sắp tắt thở, đang trút hơi thở cuối cùng, lúc ấy hãy mời mọi người hộ niệm cho người ấy. Mọi người nên cùng nhau niệm Phật trong sự trang nghiêm để cầu cho người hấp hối được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A-di-đà.

Có ba cách niệm Phật (trong khi hộ niệm cho người hấp hối):

(i) Dùng máy với băng niệm Phật. Chỉ cần nhấn nút kích hoạt cho máy phát âm mà thôi.

(ii) Vừa dùng máy phát âm vừa có người hộ niệm niệm Phật.

(iii) Chỉ có người hộ niệm niệm Phật mà thôi, không có máy phát âm.

Có một vài điểm cần lưu tâm trong khi gia đình có người

hấp hối:(i) Số lượng người hộ niệm

không nên quá nhiều. (ii) Khi đã có đủ số người

hộ niệm, họ có thể luân phiên nhau hộ niệm để họ không bị đuối sức.

(iii) Tránh sử dụng những thiết bị máy móc mà nó có thể tạo ra những âm thanh chói tai trong lúc hộ niệm. Nếu phải dùng đến thì chúng ta nên mở nhỏ và để xa người đang nằm.

(iv) Không cần thiết phải thắp hương, nhưng nếu có một bó hoa thì rất tốt.

(v) Không được làm phiền đến những người bệnh gần đấy. Hãy nhớ lấy điều này! (Đây là trường hợp đến hộ niệm trong nhà thương).

(vi) Chỉ di chuyển thân thể người chết sau 8 giờ kể từ lúc tắt thở. Điều này sẽ hơi bất tiện nếu đấy là khu vực có quá nhiều bệnh nhân. Chúng ta có thể chuyển nguyên cả cái giường mà người chết đang nằm đến phòng khâm liệm và tiếp tục hộ niệm cho đến tám tiếng đồng hồ. Sau đó chúng ta có thể chuẩn bị cho việc khâm liệm.

Page 43: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 41

TU TẬP ☸

(vii) Nếu người chết đang trong tư thế ngồi, cứ để vậy và không cần phải phủ khăn áo gì cả. Tuy nhiên, chúng ta không được để cho thân thể người ấy bị nghiêng. Và sau 8 tiếng thì chúng ta sẽ chuyển đổi.

(vii) Không cần phải mặc áo quần tốt cho người chết, chỉ cần phủ lên thân thể của họ một tấm vải sạch là được rồi. Cuối cùng thì thể xác ấy cũng được mai táng hoặc là hỏa thiêu, cho nên việc mặc quần áo tốt cho họ cũng không có lợi ích gì. Nếu như đem những áo quần tốt đó cho người thân của mình dùng lúc đang còn sống thì tốt hơn, nó sẽ làm tăng thêm phần giá trị cho người ấy.

(ix) Sau 8 đến 12 tiếng, chúng ta vẫn tiếp tục sắp xếp cho tang lễ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể tiếp tục hộ niệm.

Với sự phát triển của kỹ thuật công nghệ, việc hộ niệm bằng máy với băng niệm Phật có vẻ tiện lợi hơn. Tuy nhiên, nếu được người hộ niệm thì việc hộ niệm sẽ tốt hơn nhiều. Nên có ít nhất là một hoặc hai người để hộ niệm cùng với máy niệm Phật và cũng là để canh

chừng việc trở băng khi băng hết. Trong lúc trở băng, không nên để phát ra tiếng động lớn.

Tại vùng Sandakan ở Malaysia có một người đàn ông bị ám ảnh bởi ma quái. Những người bạn tốt của anh ta đã mở máy niệm Phật để xua những ma quái đó đi. Lúc đầu, nhiều người hộ niệm cùng với máy niệm Phật, con ma thấy hào quang sắc vàng và sắc tướng của chư Phật nên nó đã bỏ chạy. Người đàn ông ấy nhờ vậy mà được tỉnh táo. Sau đó những người hộ niệm lần lượt ra về. Mặc dù máy vẫn đang niệm Phật, nhưng con ma đã trở lại và lại quấy rầy anh ta. Qua đây cho chúng ta thấy rằng, nếu được hộ niệm bởi con người thì sẽ ích lợi nhiều hơn là chỉ dùng máy.■

(Trích dịch từ “To be born in Lotus – ‘help chanting’ at Deathbed” của

ngài Tai Kwong)

Minh Nguyên dịch

Page 44: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

42 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TƯ TƯỞNG

òng tham là một trong những nguyên nhân sinh khởi khổ đau cho ta, nên ta muốn từ bỏ khổ đau là ta phải biết từ bỏ lòng tham ở nơi chính ta.

TOÀN CẦU HÓA trong đôi mắt thiền quán

THÍCH THÁI HÒA

Quan điểm này là chính xác, nhưng làm sao để ta có thể từ bỏ được nó?

Nếu lòng tham của ta có hình tướng cụ thể, và ta không thích nó, thì ta cắt bỏ nó rất là dễ, nhưng lòng tham của ta không có hình tướng, nó lại nằm sâu trong lòng ta và mỗi khi ta nhìn thấy tiền bạc, hình sắc, danh vọng, quyền lợi và các thực phẩm quyến rũ, thì nó mới xuất hiện để điều khiển ta đi về hướng ấy và chạy theo những cái ấy để bám víu, từ đó thất vọng và khổ đau sinh khởi trong đời sống của ta.

Page 45: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 43

TƯ TƯỞNG ☸

Như vậy, ta biết khổ mà không trừ được nguyên nhân gây khổ thì khổ đau và thất vọng của ta càng tăng lên gấp bội; ta biết bệnh mà không trừ được nguyên nhân gây bệnh, thì thân thể ta có nguy cơ hủy diệt, và sự lo sợ của ta đối với bệnh và nguyên nhân gây bệnh lại tăng lên nhanh chóng, khổ đau trong đời sống của ta cũng từ đó mà hiện hữu và lớn mạnh.

Cũng vậy, một vị tướng cầm quân đi đánh giặc, không biết giặc ẩn núp ở nơi nào, thì đó là một sự rủi ro cho cuộc đời làm tướng. Và rủi ro cũng như bất hạnh hơn nữa, khi ông ta biết đó là giặc, không diệt được nó, mà phải đầu hàng với nó, thì sự khổ đau của ông ta khó lòng tả nổi.

Cũng như thế đó, ta muốn từ bỏ khổ đau, từ bỏ nguyên nhân khổ đau, nhưng không biết nó nằm ở đâu trong đời sống của ta, và ta không thể từ bỏ được chúng, thì khổ đau trong đời sống của ta càng tăng lên với cấp lũy thừa. Và như vậy, an lạc và hạnh phúc đối với ta chỉ là những ước mơ mà không bao giờ trở thành hiện thực.

Nên, với thiền quán có tuệ giác từ bi, ta không từ chối và xua đuổi lòng tham trong ta, mà ta hãy nhìn nó một cách sâu sắc, đằm thắm và định tĩnh, mỗi khi các quan năng của ta tiếp xúc với các đối tượng mà ta cho là khả ý, khả ái và khả lạc, là lòng tham của ta liền xuất hiện và có mặt ở đó, cho ta tiếp xúc, nhận diện và quán chiếu.

Trong khi tiếp xúc với nó, ta đừng đồng cảm với nó và đừng biến nó thành ta, hay ta đừng để nó biến ta thành nó. Nó biến thành ta hay ta biến thành nó đều là giặc, cướp mất hạnh phúc của ta và gây thiệt hại cho nhiều người khác.

Ta cũng không biến nó trở thành những đối tượng thù ghét của ta. Nếu ta biến nó trở thành đối tượng thù ghét của ta, thì trong ta không những có mặt của tham mà còn có mặt của sân, của giận dữ và thù hận, nên khổ đau của ta càng lúc càng tăng lên mà không giảm xuống.

Vì vậy, ta không biến tham lam trở thành đối tượng thù ghét của ta, mà ta chỉ nhận diện đơn thuần đối với nó và ôm nó

Page 46: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

44 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TƯ TƯỞNG

vào trong đôi mắt thiền quán của ta, ta cám ơn và hết lòng chăm sóc nó bằng chất liệu của tuệ giác từ bi.

Khi ta tiếp xúc và ôm ấp lòng tham của ta bằng tuệ giác từ bi, thì lòng tham không còn là lòng tham nữa. Ta nuôi dưỡng lòng tham trong ta bằng chất liệu của tuệ giác từ bi, thì lòng tham của ta sẽ lớn lên trong tuệ giác ấy, thì nó không còn là nó nữa, nó là tuệ giác từ bi.

Nếu, ta nhìn sâu vào lòng tham của ta, ta biết chính xác, nó là nguyên nhân gây khổ, và ta cũng biết chính xác rằng, nó cũng có thể thay đổi, để trở thành tuệ giác từ bi, đem lại rất nhiều an lạc cho ta và cho tất cả mọi người.

Ngày xưa đất nước còn chiến tranh, người đứng bên này chiến tuyến xem người bên kia chiến tuyến là kẻ thù và người bên kia chiến tuyến xem người bên này chiến tuyến là kẻ thù, và người ta sẵn sàng sử dụng bạo lực để đối xử với nhau mỗi khi trực diện, và người ta đã giết nhau chết như rạ.

Hồi ấy, thầy Nhất Hạnh có làm bài thơ: “Kẻ thù ta không

phải là người. Kẻ thù ta là lòng tham, là vu khống, là bạo tàn. Chúng ta chống những cái cuồng tín, bạo tàn, tham lam, vu khống nhưng mà ta không chống con người”.

Dựa vào ý thơ này, Phạm Duy đã phổ thành bản nhạc Kẻ thù ta không phải là người. Bản nhạc này được phổ biến vào thời ấy và có nhiều người rất thích, nhất là những năm 1966. Thuở ấy, tôi cũng hay hát và rất thích lời và nhạc trong bản nhạc này, nhưng ngày nay thì không còn thích chút nào nữa.

Bởi vì ngày nay tu tập, trong tôi không thấy ai là kẻ thù cả, ngay cả lòng tham, lòng hận thù trong tôi và trong tất cả mọi người.

Trong thực tế, ta không thể nào tách rời con người ra khỏi tâm thức của họ và ta không thể nào tách rời tâm thức ra khỏi con người của họ. Nên, ta không thể nói, tôi ghét tâm thức của anh, nhưng tôi không ghét anh, hay tôi thương anh, nhưng tôi không thể thương tâm thức của anh. Và cũng không thể nói, tôi chống anh, nhưng tôi không chống cái tâm thức của anh;

Page 47: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 45

TƯ TƯỞNG ☸

hoặc tôi thương anh, nhưng tôi không thương cái tâm thức của anh.

Những cách nói ấy, không phù hợp với sự thực nghiệm giáo lý “tương tức” của Phật dạy.

Nên, phải biết nhận diện và quán chiếu thân thể ta, cảm thọ của ta, các tâm hành của ta và các nhận thức của ta bằng tuệ giác từ bi, thì ta mới thực sự có an lạc và có đời sống hòa bình của thân tâm. Và ta cũng đem tuệ giác từ bi ấy để tiếp xúc, nhận diện quán chiếu đối với

thân thể, cảm thọ, tâm hành, nhận thức của mọi người và mọi loài, để ta có thể đồng cảm và sống chung hòa bình với tất cả.

Thế giới ngày nay, người ta đang nỗ lực để toàn cầu hóa đời sống con người về những lãnh vực kinh tế, chính trị, thông tin, khoa học, v.v... nhưng chắc chắn không thể tạo ra hạnh phúc và hòa bình cho con người. Trái lại, nó sẽ phát sinh những lo lắng, sợ hãi và khổ đau mới cho con người. Bởi lẽ, nguyên nhân sinh khởi khổ đau

Page 48: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

46 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TƯ TƯỞNG

chưa được con người nhìn nhận và đánh giá đúng mức để giải quyết tận căn để.

Con người ngày nay đang nỗ lực toàn cầu hóa về kinh tế, thông tin khoa học và chính trị, nhưng vắng mặt của tuệ giác từ bi trong toàn cầu hóa ấy thì đời sống con người sẽ xảy ra những thảm trạng bi đát và khổ đau hơn mà con người không thể nào lường trước được.

Toàn cầu hóa kinh tế, chính trị và thông tin khoa học mà thiếu tuệ giác từ bi, ta sẽ làm mồi cho lòng tham trong ta bộc phát ngày thêm lớn rộng và mãnh liệt.

Như vậy, đến khi nào con người mới có an lạc và thế giới loài người có đời sống hòa bình đúng nghĩa?

Ta muốn toàn cầu hóa về kinh tế, chính trị và thông tin khoa học thì trước hết phải biết vai trò và giá trị của tâm trong việc toàn cầu hóa ấy.

Tác động của tâm không phải chỉ là toàn cầu hóa mà đã hóa toàn cầu.

Nếu tác động của tâm đi kèm theo với các thuộc tính tham lam, hận thù, si mê, cố

chấp vào những ngã tính và ngã kiến, thì toàn cầu hóa là hóa ra tăm tối toàn cầu, quả đất bị khoanh vùng từng khu vực, để ăn chia quyền lợi và sát phạt nhau cũng như kiểm soát nhau bằng những dụng cụ khoa học kỹ thuật tân kỳ bởi những quốc gia hùng mạnh.

Như vậy, càng toàn cầu hóa, con người lại càng mất tự do và bi đát hơn.

Và nếu tác động của tâm đi kèm theo các thuộc tính tự giác, tự trọng, tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, có sự hiểu biết lớn, có sự thương yêu sâu, có sự bao dung, xả kỷ, vô ngã và vị tha, thì toàn cầu hóa là làm cho toàn cầu hóa ra sự chia sẻ, quân bình, cảm thông, tạo ra một thế giới trong sạch, hòa bình và an lạc.

Bởi vậy, toàn cầu hóa mà ta không biết cách hóa toàn cầu của tâm, mà chỉ nhắm tới toàn cầu hóa về kinh tế, chính trị, khoa học thông tin,... là ta chưa thấy được căn để của vấn đề về con người và thế giới của nó.

Căn để của con người và thế giới của nó là nơi tâm của họ. Tâm của con người cá nhân

Page 49: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 47

TƯ TƯỞNG ☸

quyết định sự thấp kém hay văn minh của chính nó. Và tâm thức cộng đồng, tâm thức xã hội quyết định sự văn minh hay thấp kém của cộng đồng hay xã hội ấy.

Cách đây hơn bốn mươi năm, khi bước chân vào chùa hành điệu, thầy tôi đã trao cho tôi bài kệ của kinh Hoa Nghiêm và buộc học thuộc lòng để thực tập. Bài kệ như sau:

“Nhược nhơn dục liễu tritam thế nhất thiết Phậtưng quán pháp giới tánhnhất thiết duy tâm tạo”.*Nghĩa là:Nếu người nào muốn biếttất cả Phật ba đờinên nhìn tính vũ trụtâm tạo thành tất cả.Như vậy, tâm không những

tạo nên con người mà còn tạo nên vũ trụ cho con người. Và tâm không những tạo nên chư Phật ba đời mà còn tạo nên thế giới của các Ngài nữa.

Tâm mê tạo thành thế giới của chúng sanh, tâm giác tạo thành thế giới của chư Phật.

Thông điệp ấy, đức Phật đã nói cho chúng ta qua mấy ngàn năm, và đã mấy ngàn năm lịch

sử nhân loại truyền thừa. Vậy thì hạnh phúc và khổ đau, văn minh và chậm tiến của con người nằm ở nơi nào? Thế mà ngày nay con người vẫn cứ khắc khoải kiếm tìm và điều đáng buồn cười nhất là họ đã và đang dắt tay nhau đi tìm bình đẳng đối tác nơi các công trường sản xuất, đi tìm hạnh phúc nơi các thị trường tiêu thụ, đi tìm tự do nơi các khế ước và đi tìm hòa bình nơi các vũ khí hạt nhân!

Vậy, ta muốn toàn cầu hóa có hiệu quả, trước hết là phải hóa tuệ giác từ bi toàn cầu nơi tâm của những người chủ xướng và cổ súy ấy. Nếu không thì toàn cầu hóa không phải là đời sống con người mà chỉ là những ý tưởng và ảo giác. Vả lại, những sợ hãi cô đơn, già, bệnh và chết của con người không những còn nguyên vẹn mà lại còn tăng lên gấp bội.■

(*) Hoa Nghiêm kinh 10, Hán, Phật-đà-bạt-đà-la, tr 466A, Đại Chính 9

Page 50: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

48 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ THƠ

Ngày xưa theo mẹ lên chùaHái bông hoa sứ đầu mùa dâng sưVò đầu sư bảo con hưHoa chùa đừng hái, cảnh tu cũng cần Vâng, thì con hái hoa tâmDâng lên cúng Phật trọn cành tốt tươiPhật nhìn con miệng mỉm cườiLòng con cũng ngát một trời hương hoa. Vò đầu sư lại cười khàCon ngoan đến thế thì ta vui rồiCầm tay sư dắt dạo chơiVà bên gốc sứ nhìn trời ngắm hoa.

HÁI HOA

TỪ XUÂN LÃNH

Page 51: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 49

THIỀN HỌC ☸

Tập Thiền Quán Giảm

PUNDARIKO

Stress theo nghĩa chuyên môn là sức ép trên một vùng. Stress phát sanh từ những rối loạn do lo âu với những vấn đề của đời sống. Triệu chứng ban đầu là nhức đầu, dần dần đưa đến lo sợ, hoảng loạn và tệ hại nhất là kết thúc bằng tự sát. Cảm giác căng thẳng tác động trên thể chất và tâm trí chính là stress. Đây là chứng bệnh của thời đại khoa học. Một nhà doanh nghiệp làm việc quá căng thẳng do lao vào cuộc cạnh tranh, một học sinh hoặc sinh viên học quá sức vì cố đạt được kết quả kỳ thi sẽ dẫn đến stress. Bất cứ lãnh vực nào, nếu nếp sống vùi đầu vào công việc quá sức chịu đựng, lo nghĩ quá nhiều và kéo dài thời gian như thế là nguyên nhân của stress.

STRESSNgày nay phần nhiều người ta sống với nhiều lo âu bởi chiến tranh, thất nghiệp, nghèo đói. Bên cạnh lớp người nghèo khổ là những kẻ sung túc cũng có những lo âu về những bất ổn trong gia đình, công việc. Chúng ta đã thấy có người rất giàu sang cũng tự sát. Làm thế nào để sống trong thế giới khoa học mà không bị stress trong khi nhịp độ đời sống càng lúc càng tăng nhanh hơn? Phương pháp dùng kỹ thuật ý chí của Dale Carnegie chỉ hữu hiệu lúc bình thời. Khi tình huống quá căng thẳng thì ý chí cũng bất lực. Đợi lúc vào viện tâm thần thì quá muộn. Trị liệu theo phân tâm học của Freud nhằm khai phóng những ức chế tâm lý cũng tạm thời như kỹ thuật đào luyện ý chí. Sự theo đuổi các dục lạc và tạo ra những âu lo, thất vọng

Page 52: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

50 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ THIỀN HỌC

cùng những khốn khổ bất tận trong đời sống được Phật giáo gọi là nội triền và ngoại triền. Trong Tương ưng bộ kinh I, đức Phật đưa ra phương hướng giải quyết stress bằng kệ ngôn:

Người trú giới có tríTu tập tâm và tuệNhiệt tâm và thận trọngTỷ-kheo ấy thoát triền.

Từ bài kệ trên Phật giáo khẳng định chỉ có giới, định, tuệ mới ra khỏi các triền phược và phương tiện để đạt đến chính là chỉ (samatha) và quán (vipassanā). Một điều đáng lưu ý là nguyên nhân chính gây ra stress đã được ghi chép trong kinh tạng Pāli trên 2000 năm rồi. Nguyên nhân đó Pāli gọi là

nīvaraṇa, nghĩa là những trạng thái tâm lý cản trở sự phát triển định và tuệ. Thuật ngữ chuyên môn gọi là các triền cái, gồm có dục tham (kāmachanda), sân (byāpāda), hôn trầm thụy miên (thīna-middha), trạo hối (uddhacca-kukkucca) và nghi (vicikicchā). Trong Tăng chi bộ kinh, đức Phật trả lời câu hỏi của một người Bà-la-môn là nguyên nhân gì trước đây trí nhớ rất tốt, bây giờ không thể nhớ suôn sẻ dù một đoạn văn ngắn. Câu trả lời là do năm triền cái làm kiệt quệ khả năng của trí nhớ (1). Nếu dựa vào những biến chứng của stress, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được lời của đức Phật. Năm triền cái tạo ra những rối loạn tâm lý và từ nơi suy nhược tinh thần dẫn đến suy nhược thể chất là hiển nhiên.

Thói quen tầm cầu dục lạc và mắc kẹt trong đó làm phát sanh những triền cái và bởi vì tâm trí không có lối thoát nên tác động lên thể chất với tên gọi là stress. Phương pháp thiền chỉ (samatha) trong Phật giáo dạy cách chế ngự những triền cái này khi người ta đạt đến tâm

Page 53: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 51

THIỀN HỌC ☸

định (samādhi). Khi định càng cao thì năm triền cái càng vắng bóng và thay thế bằng trạng thái tâm an tịnh. Ở mức độ sơ thiền, hành giả có năm chi thiền: tầm (vitakka), tứ (vicāra), hỷ (pīti), lạc (sukha) và nhất tâm (ekaggatā). Chi thiền tầm chế ngự triền cái hôn trầm thụy miên. Trạng thái tầm là năng động nên đối trị hôn trầm thụy miên, vì là trạng thái uể oải, thụ động. Chi thiền tứ chế ngự nghi. Tứ là tìm hiểu, quyết định được đối tượng, trái với nghi là trạng thái hoang mang vô định. Chi thiền hỷ chế ngự sân. Hỷ là vui thích với thiền, đối nghịch với sân là trạng thái chưa nắm được định tướng, không có sự vui thích vì bị thiêu đốt bởi sự không hài lòng. Chi thiền lạc chế ngự trạo hối. Lạc là trạng thái kinh nghiệm tâm an tịnh không thể đi với trạo hối là trạng thái bất an, lo âu. Chi thiền nhất tâm chế ngự dục tham. Trạng thái nhất tâm chuyên nhất trên định tướng, nên đối trị với dục tham là trạng thái không chuyên nhất, chỉ rối loạn trong những đối tượng dục lạc. Ở mức độ cận hành định, dù có

năm chi thiền nhưng rất yếu vì quá gần với năm triền cái. Mức độ sơ thiền thực sự chế ngự được các triền cái, nhưng so với nhị thiền thì vẫn còn yếu. Sơ thiền gần với năm triền cái, nhị thiền bỏ tầm và tứ, vượt xa năm triền cái, kinh điển gọi là nội tĩnh nhất tâm. Tam thiền ly hỷ trú xả. Tứ thiền xả niệm thanh tịnh. Xả trong tam thiền do ly hỷ nhưng còn lạc thọ nên chưa gọi là xả niệm thanh tịnh. Các trạng thái tâm lý bị stress cho đến khi chế ngự được stress diễn ra như sau: Tâm trí trong thế giới dục lạc lệ thuộc vào năm triền cái. Do đó không tránh khỏi stress khi tiếp xúc với những đối tượng khả ái và không khả ái. Tâm trí có thiền chế ngự được năm triền cái và các đối tượng dục lạc không còn nữa, hành giả trú trong các định tướng, không còn những tư tưởng đối kháng do duyên dục lạc, vì thân an lạc do tâm thiền đem lại, cho nên stress không thể phát sanh. Nếu biết cách phát triển thiền đúng đắn thì mọi người trong xã hội hiện đại sẽ có một phương tiện rất hữu hiệu để thư giãn sau những

Page 54: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

52 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ THIỀN HỌC

giờ làm việc mệt nhọc, nhất là những lúc công việc quá rối ren. Khi tâm được điều phục thì thân không xảy ra stress, đây là cách chữa trị stress từ căn bản. Tuy nhiên, lợi ích của thiền không dừng lại ở việc ngăn ngừa stress, bởi vì việc chế ngự năm triền cái dẫn đến tâm định còn cho nhiều lợi ích, hệ quả về phương diện khám phá những năng lực của thế giới nội tâm như vấn đề biết tư tưởng người khác, thấy được rất xa và nhìn xuyên qua chướng ngại như tường đá, v.v... Đối với người Phật tử thì lợi ích thiết yếu của thiền chỉ là làm cận duyên cho trí tuệ.

Thiền chỉ khi tiến lên cao, có tâm định vững chắc, nhưng các triền cái mặc dù đã được chế ngự chỉ do năng lực của thiền, một lúc nào đó hành giả buông bỏ thiền thì tâm trí sẽ rơi trở lại trạng thái tâm xao động và năm triền cái lại xâm chiếm tâm trí, hoặc lúc bình thường không thiền, tiếp xúc với ngoại cảnh, các triền cái cũng thừa cơ xâm chiếm tâm. Lý do thiền chỉ không bứng gốc được các triền cái vì so với các triền cái,

các phiền não tiềm tàng, thuật ngữ gọi là tùy miên (anusaya) còn vi tế hơn, ngày nào chưa trừ được các tùy miên thì năm triền cái vẫn hiện hữu. Điều này vượt qua khả năng của thiền chỉ và phải nhờ đến thiền quán (vipassanā). Vấn đề cốt lõi cần đặt ra là qua thiền chỉ người ta chưa thực sự buông bỏ tiến trình ngã chấp. Nhưng qua quán, các thực tại được nhận thấy như thực từng giây phút, từng mức độ. Ngã kiến do đó sẽ lần lần tan biến trước ánh sáng của tuệ quán. Phương pháp quán được đức Phật giảng rất nhiều trong Kinh tạng, nổi bật nhất là kinh Niệm xứ (satipaṭṭhānasutta) số 10 trong Trung bộ kinh và kinh Đại niệm xứ (mahāsatipaṭṭhānasutta) số 22 trong Trường bộ kinh. Thực hành tứ niệm xứ để đưa đến an tịnh, giải thoát là công việc chính yếu, nhưng một số hành giả Tây phương cũng tìm thấy nơi tứ niệm xứ một phương tiện chữa stress tuyệt diệu để trợ giúp cho sức khỏe. Một số y, bác sĩ Hoa Kỳ học được loại thiền quán này và dùng kinh nghiệm thiền quán để áp dụng

Page 55: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 53

THIỀN HỌC ☸

trong việc chữa trị cho bệnh nhân. Trường Đại học trung ương y khoa Massachusetts đã khởi xướng công việc này và đặt tên là MBSR (Mind-fulness Based Stress Reduc-tion - chương trình giảm stress dựa vào niệm). Hiện nay có đến 250 đại học và bệnh viện y khoa thế giới theo chương trình này. Việc dùng thiền quán của chương trình MBSR không phải chỉ để giảm stress, chương trình này còn ứng dụng vào việc trị những bệnh như huyết áp, tim mạch, giúp cho bệnh nhân giảm đau và nhiều lợi ích khác nữa. Những khám phá của y khoa về khả năng của niệm cũng không phải là mới mẻ vì khi niệm (sati) được phát triển trong bốn niệm xứ thì ở mức độ thường ngăn được năm triền cái trong sinh hoạt hằng ngày; ở mức độ cao hơn không còn tham đắm chấp thủ đối với năm thủ uẩn và bước vào trạng thái tâm siêu thế. Đến giai đoạn này năm triền cái sẽ được bứng gốc theo quá trình thực chứng chân lý:

Triền cái nghi bị bứng gốc ở Dự lưu đạo.

Triền cái dục tham, sân và hối bị bứng gốc ở Bất lai đạo.

Triền cái hôn trầm - thụy miên và trạo cử bị bứng gốc ở A-la-hán đạo.Đối diện với những vấn đề

hiện đại, nếu chúng ta chỉ hoàn toàn dựa vào phương tiện vật chất thì không thể khắc phục được stress đến nơi đến chốn. Người ta không thể ngăn được nạn cháy nếu không cẩn thận với những chất liệu gây cháy. Cũng vậy, sự thụ hưởng vật chất không có hiểu biết là chất liệu cho năm triền cái và stress là kết quả không tránh khỏi. Do đó dù là Phật tử hoặc không phải Phật tử nên tìm hiểu về năm triền cái. Việc tìm hiểu này không phải trên bình diện tri thức mà phải thực sự bước vào việc thực hành chỉ quán để hiểu biết về thực tại hơn là suốt cuộc sống chỉ quanh quẩn trong những khái niệm do các giác quan cung cấp.-----------* (1) Xem Tương ưng bộ kinh 5, (55 v) Saṅgāvara, phẩm Tổng nhiếp giác chi thứ sáu.

Page 56: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

54 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TRUYỀN THÔNG

Vì sao cần khai thác các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài?

Hiện nay, việc khai thác các chương trình truyền hình nước ngoài chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động truyền hình trong nước. Website của một trong số những đài truyền hình lớn nhất Việt Nam cho biết, các chương trình nước ngoài chiếm tỷ lệ gần 50% các chương trình phát sóng. Sở dĩ có tỷ lệ như vậy là vì:

- Rất nhiều chương trình truyền hình nước ngoài là những chương trình giá trị, rất

Khai Thác Các Chương Trình Video Phật Giáo Nước NgoàiKHAI THÁC CÔNG NGHỆ TRUYỀN HÌNH PHỤC VỤ HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP

có lợi khi phổ biến đến khán giả trong nước, đặc biệt là các chương trình văn hóa, nghệ thuật, khoa học giáo dục.

- Việc khai thác các chương trình truyền hình nước ngoài tiết kiệm hơn rất nhiều so với việc tự thực hiện chương trình truyền hình, và công việc chính chỉ gói gọn ở việc phiên dịch, lồng tiếng hay thuyết minh.

- Nguồn chương trình nước ngoài rất phong phú, sẵn có từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó một tỷ lệ lớn có thể khai thác tự do. Thí dụ như từ các kênh truyền hình công ích nước ngoài phát qua vệ tinh.Đối với Phật giáo, những

Page 57: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 55

TRUYỀN THÔNG ☸

điều được ghi nhận ở trên có thể là một gợi ý tốt cho việc khai thác công nghệ truyền hình phục vụ hoạt động hoằng pháp. Để có được nhiều chương trình truyền hình, khai thác các chương trình truyền hình nước ngoài là một hướng tất yếu, đương nhiên. TP.HCM là nơi đi đầu trong hoạt động phổ biến các chương trình truyền hình Phật giáo, với những bước đi tích cực theo hướng này bằng việc dịch, thuyết minh một số phim có chủ đề Phật giáo của Singapore, Đài Loan rồi phổ biến dưới dạng đĩa VCD. Một số đầu băng đĩa video thuyết pháp thực hiện tại Đài Loan, Singapore cũng đã được phiên dịch lưu hành trong Phật tử Việt Nam.

Trong bối cảnh các chương trình video Phật giáo thực hiện trong nước còn giới hạn, đặc biệt là các chương trình nghệ thuật đòi hỏi kinh phí cao như phim truyện, sân khấu, v.v… thì việc đẩy mạnh khai thác các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài là điều hết sức cần thiết và đem lại nhiều lợi ích thiết thực. Cũng như việc

khai thác các chương trình truyền hình nước ngoài của các đài truyền hình trong nước, việc khai thác các chương trình Phật giáo nước ngoài sẽ giúp phổ biến đến khán giả những chương trình chọn lọc có giá trị, giúp khán giả trong nước có điều kiện thưởng thức được những chương trình nghệ thuật Phật giáo giá trị từ nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, làm phong phú số lượng chương trình truyền hình Phật giáo, trong khi chỉ phải đầu tư một khoản chi phí thấp để phiên dịch, thuyết minh hay lồng tiếng.

Có thể hiểu việc khai thác các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài sẽ có lợi ích như việc phổ biến các ấn phẩm Phật học dịch thuật. Nếu những cuốn sách Phật học dịch thuật đã không thể thiếu trong tủ sách của các chùa cũng như gia đình Phật tử, thì trên màn ảnh TV của các gia đình theo đạo Phật cũng không thể thiếu các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài, bên cạnh các chương trình trong nước hiện vẫn còn khá ít ỏi.

Page 58: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

56 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TRUYỀN THÔNG

Có thể khai thác các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài từ các nguồn nào?

- Băng đĩa hình là nguồn chương trình quan trọng. Gần như hầu hết các chương trình băng đĩa hình Phật giáo, trong đó phần lớn các chương trình thuyết pháp, phim truyện, phim hoạt họa, đều là các chương trình được các nhà sản xuất (mà phần lớn là từ các chùa, các tổ chức Phật giáo, hội đoàn Phật học…) khuyến khích phổ biến, lưu hành (tức là không có yêu cầu sở hữu bản quyền). Do đó việc tổ chức sưu tầm, phiên dịch, lồng tiếng hoặc thuyết minh, xuất bản tại Việt Nam những chương trình từ băng đĩa hình là điều hết sức dễ dàng và sẽ giúp bổ sung ngay nhiều chương trình truyền hình Phật giáo cho khán giả Phật tử Việt Nam.

- Các chương trình phát qua các kênh truyền hình Phật giáo của Đài Loan, Thái Lan, các chương trình truyền hình Phật giáo phát trên các kênh truyền

hình của các quốc gia Phật giáo, cũng như các chương trình truyền hình mang màu sắc Phật giáo phát trên các kênh truyền hình từ khắp thế giới, là kho chương trình truyền hình Phật giáo vô tận. Với hệ thống anten vệ tinh, hoặc qua truyền hình cáp, khán giả trong nước vẫn có thể xem được một số nhất định những chương trình như vậy. Tuy nhiên, khán giả sẽ vấp phải một rào cản lớn là vấn đề ngôn ngữ. Nếu những chương trình như vậy được ghi hình, phiên dịch (lồng tiếng hay thuyết minh) và xuất bản dưới dạng băng đĩa để phổ biến rộng rãi đến Tăng, Ni, Phật tử, thì chắc chắn khán giả Phật tử sẽ chào đón nồng nhiệt. Những chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài sẽ giúp Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam nghe thuyết pháp từ các cao tăng khắp các nước trên thế giới, thăm viếng qua màn ảnh nhỏ các cảnh chùa từ Ấn Độ, Miến Điện sang Nhật Bản, Hàn Quốc và cả các nước Châu Âu, Bắc Mỹ, được xem các bộ phim xây dựng trên nền tảng Phật giáo do các nước thực hiện, nghe

Page 59: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 57

TRUYỀN THÔNG ☸

đọc tụng kinh điển bằng nhiều phong cách từ các quốc gia, các vùng lãnh thổ khác nhau... Chi phí khai thác là tối thiểu, chỉ cần một bộ anten vệ tinh và một đầu thu video, chúng ta sẽ có bản ghi hình chương trình trên băng hoặc trên đĩa cứng. Việc dịch thuật tất nhiên là không mấy khó khăn đối với Tăng Ni sinh được đào tạo từ các trường Phật học. Những chương trình truyền hình như vậy đều là những chương trình lành mạnh, đạo đức, cho nên việc xin phép xuất bản để phổ biến theo luật định cũng sẽ là điều dễ dàng.

- Các đài truyền hình Phật giáo đều có kho lưu trữ chương trình truyền hình sản xuất qua nhiều năm. Trong đó, chắc chắn có nhiều chương trình truyền hình giá trị. Vấn đề làm sao sưu tập, khai thác các chương trình giá trị để phổ biến đến khán giả Phật tử trong nước là điều mà những vị hoạt động trong lãnh vực hoằng pháp cần chú ý. Chắc chắn trong đó không hiếm những phim truyền bá giáo dục, tư tưởng Phật giáo, mà nếu đến được với khán giả Việt Nam, hiển nhiên sẽ đem lại lợi ích

cho cộng đồng nhiều hàng trăm lần so với những phim giải trí tầm thường, vô bổ; thậm chí có thể kích động bạo lực, bản năng đang xâm chiếm màn ảnh nhỏ của các gia đình.

- Các chương trình video hiện nay cũng có thể truyền tải dễ dàng qua internet. Đây là một kênh truyền thông mới và tiện dụng. Việc khai thác các chương trình video truyền tải từ internet sẽ mở một con đường mới cho việc phát triển chương trình truyền hình phục vụ khán giả. Nếu việc xem trực tuyến trên internet đòi hỏi thiết bị tin học khá phức tạp, đắt tiền, trình độ tin học và ngoại ngữ của người sử dụng, thì việc xem các chương trình như vậy đã được phiên dịch phổ biến bằng dĩa hay băng chỉ đòi hỏi ở người xem những thiết bị tối thiểu và hết sức phổ biến (TV, đầu đọc dĩa VCD hiện nay hầu như nhà nào cũng có và ai cũng sử dụng được).

Tựu trung lại, khai thác chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài chỉ còn là vấn đề phiên dịch. Những vấn đề khác như truyền dẫn, tiếp nhận,

Page 60: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

58 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TRUYỀN THÔNG

in sao chương trình truyền hình, v.v… khoa học công nghệ hiện đại giải quyết được hầu như tất cả. Chỉ còn trở ngại cuối cùng là ngôn ngữ và nỗ lực của những người tâm huyết với sự nghiệp hoằng pháp. Xin một lần nữa trích dẫn lời tổng kết Hội thảo quốc tế “Phật giáo trong thời đại mới: cơ hội và thách thức”: “Thành tựu công nghệ hiện đại không chỉ thu hẹp khoảng cách giữa các lãnh thổ, tạo mối tương giao giữa các nền văn hóa văn minh trên thế giới, tạo nhiều cơ hội học hỏi hiểu biết trao đổi những tinh hoa đặc thù giữa các liên quốc gia, tôn giáo với nhau, mà còn giúp cho Phật giáo phát huy rõ tiềm năng ảnh hưởng của mình cả bề rộng lẫn bề sâu”. Tổ chức đẩy mạnh khai thác các chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài rõ ràng là một cơ hội giao lưu văn hóa Phật giáo toàn thế giới, phát huy tiềm năng ảnh hưởng của Phật giáo.

Có thể khai thác được những chương trình gì?

Những chương trình truyền hình Phật giáo nước ngoài có thể khai thác là:

- Phim truyện Phật giáo nhiều tập và phim lẻ.

- Du khảo Phật tích, danh lam trên khắp thế giới.

- Thuyết pháp.- Vấn đáp Phật học. - Tin Phật sự thế giới. - Hướng dẫn nấu các món ăn

chay.- Đọc tụng kinh điển kèm

hình ảnh.- Spot video chống sát sinh,

chống phá hoại môi trường, chống tội ác tính dục… trên cơ sở quan điểm 5 giới nhân thừa Phật giáo.

- Lễ hội Phật giáo khắp thế giới.

- Chương trình nghệ thuật Phật giáo…Đây là những thể loại

chương trình thường xuyên có trên sóng các đài truyền hình Phật giáo.

■ Minh Thạnh

Page 61: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 59

PHẬT PHÁP VỚI TUỔI TRẺ ☸

Kính thưa quý vị và các Bạn, Như chúng ta đã biết, nói đến tuổi trẻ là nói đến niềm tin và hy vọng. Tuổi trẻ của thời đại nào, quốc gia nào thì đó cũng là niềm tin và hy vọng của thời đại đó, quốc gia đó. Thế nhưng “người trẻ” thì không hoàn toàn giống nhau, do quan điểm và cái nhìn về cuộc đời của họ. Chúng tôi muốn nói đến những chàng trai anh hùng của một thời đại oai hùng nào đó là niềm tự hào của một dân tộc, một đất nước nào đó ở một giai đoạn lịch sử nào đó, về một lãnh vực nào đó, trong lịch sử nhân loại. Ví dụ như một Trần Quốc Toản, một Jeanne D’Arc, một Thành Cát Tư Hãn, v.v… hay những dũng sĩ của Mông Cổ, những thần đồng về Văn học, Toán học lừng danh thế giới, v.v... Bây giờ họ cũng chỉ là một “vết nhạn lưng trời” không để lại một ấn tượng gì đối với những người không biết đến sách vở… Còn chàng thanh niên Tất-đạt-đa của chúng ta? - Đó là một mẫu người lý tưởng không chỉ trong thời đại của Chàng, nơi xứ sở của Chàng… mà còn vượt không gian và thời gian; ra ngoài ranh giới quốc gia, nói cho chính xác là “vượt ra ngoài cả tam giới”. Con người này đã bỏ

NHÂN GIAN TỊNH ĐỘT í n - N g u y ệ n - H ạ n h

Page 62: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

60 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ PHẬT PHÁP VỚI TUỔI TRẺ

lại “hạnh phúc thế gian thường tình” của mình với cung vàng điện ngọc, quyền quý cao sang, vợ đẹp con ngoan… để dấn thân vào một cuộc đời vô định, để đi tìm hạnh phúc cho muôn loài chúng sanh. Ngài đã thấy được và sống được với chân lý “hạnh phúc của chính mình là hạnh phúc của muôn loài”. Cái chân lý mà mấy ngàn năm sau có người nhận ra được đã thốt lên rằng: “Một con bướm vỗ cánh ở phương Đông thì ở phương trời Tây cũng có ảnh hưởng”, nghĩa là con người và vạn vật đều liên hệ mật thiết với nhau… Thế hệ trẻ trên thế giới noi theo gương Ngài không phải là ít, đó là chư Tăng Ni của các nước Phật giáo, đó là những người không xuất gia nhưng tin Phật và mong một ngày nào đó cũng tự chiến thắng được mình như đức Phật, để cõi Ta-bà này trở thành Tịnh độ, không còn đau khổ, phiền não nữa; thành phần này bao gồm anh chị em huynh trưởng và đoàn sinh GĐPT. Chúng tôi xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại giữa những huynh trưởng GĐPT về

vấn đề này như họ đã từng chia sẻ với đàn em của họ:

Trang nghiêm Tịnh độNơi cõi Ta-bàĐất Tâm thanh tịnhHiển lộ ngàn hoa. Hay:Đây là Tịnh độTịnh độ là đây…Tâm không ràng buộc Tiêu dao tháng ngày.A: Chào các bạn! Hôm nay

chúng mình nói về đề tài gì nhỉ?

B: Chúng mình muốn nói về Tịnh độ vì trước nay chúng ta thường nói về Thiền mà ít nói về Tịnh độ, trong khi đoàn sinh lại hỏi nhiều về cõi nước của đức Phật A-di-đà, về cõi Cực Lạc, về đường đi từ đây đến Tây Phương dài bao nhiêu… đó bạn à!

C: Đúng vậy, các em thắc mắc tại sao chúng ta nói “Trang nghiêm Tịnh độ nơi cõi Ta-bà”, nhưng có người nói tu Tịnh độ là ích kỷ, chỉ biết lo cho mình về cõi Phật A-di-đà còn ai trầm luân thì kệ họ!!!

A: Rồi bạn nói sao? Không lẽ bạn cũng nghĩ như vậy?

Page 63: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 61

PHẬT PHÁP VỚI TUỔI TRẺ ☸

C: Đâu có, mình nói Tịnh độ và Thiền là những pháp môn tu còn có lo cho chúng sanh hay không là do hạnh nguyện của người tu, có phải vậy không?

B: Phải đó, người thực hành Bồ-tát đạo thì luôn đi trên con đường “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh” dù họ tu Thiền, tu Mật hay tu Tịnh cũng vậy; khi còn chúng sanh chưa thành Phật thì Bồ-tát đâu có an vui một mình ở cõi Cực Lạc được!!☺ ☺!!

A: Đành rằng là vậy nhưng các bạn phải giới hạn câu chuyện của chúng mình trong phạm vi nào chứ, nếu nói về Bồ-tát đạo thì đến khuya cũng không rồi đó nha!

C: Phải, phải! Đề tài của chúng ta hôm nay đúng ra là tìm hiểu quá trình Tín-Nguyện-Hạnh, để từ đó tìm ra một hướng đi cho tuổi trẻ Phật giáo nói chung, cho anh chị em GĐPT chúng ta nói riêng.

B: Bởi vậy, tuy nói là “tuổi trẻ” nhưng không phải chỉ hạn hẹp trong lứa tuổi đôi mươi thôi đâu nha, mà phải nới rộng ra đến những anh chị huynh trưởng cao niên của mình, có

khi trên 60, 70 tuổi nữa đó.A: Đúng vậy, “trẻ” ở đây

không phải vì tuổi đời còn nhỏ, mà chúng ta dùng chữ “trẻ” để chỉ hoài bão rộng lớn, vĩ đại; tâm hồn cởi mở, trong sáng, vô tư; niềm tin vững chắc và hành động có khoa học, có trí tuệ, với một quyết tâm không gì lay chuyển nổi nên không biết mệt mỏi trên con đường tìm cầu giải thoát, hoàn thành tự giác và giác tha.

C: Chính thế, đối với một cuộc hành trình trong luân hồi sinh tử, đối với thời gian vô tận và không gian vô biên, thì 100 năm còn được coi như “một thoáng chiêm bao” nói gì đến 60 hay 70 tuổi!

B: Trở lại với quy trình Tín-Nguyện-Hạnh nha! Tín là tin, niềm tin, lòng tin, đức tin… muốn dùng từ gì cũng được; chỉ cần chúng ta nhớ rằng Tín là điều kiện tiên quyết để đến với Đạo.

A: Chúng ta còn phải nói rõ là tin ai? Tin cái gì? Tại sao có đức tin và làm sao để phát triển lòng tin, v.v...

C: Tin là điểm khởi đầu của bước đường vào Đạo; vì thế

Page 64: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

62 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ PHẬT PHÁP VỚI TUỔI TRẺ

trước hết phải khởi lòng tin thanh tịnh, tin vào Tam bảo, vào Phật tánh.

B: Trong Phật Thuyết đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm bình đẳng giác kinh, đức Phật dạy rằng, lòng tin không chỉ do mình có mà đó còn là do tha lực, do mình trồng căn lành, có duyên với Phật pháp, v.v.. nên ngày nay mới phát khởi lòng tin dễ dàng.

A: Đúng vậy, nhưng có lòng Tin mà phải biết phát triển lòng Tin đó bằng ba hạnh nền tảng; đó là thân hạnh, tâm hạnh và tánh hạnh.

C: Cái này thật là mới đối với mình đó nha, các bạn có thể nói rõ hơn tu như thế nào về ba hạnh nền tảng này không?

B: Đây là ba hạnh nền tảng trong giai vị Thập tín được dạy trong kinh Hoa nghiêm: Về thân hạnh thì tu cúng dường, thân cận các vị thiện tri thức, v.v… Về tâm hạnh thì huấn luyện tâm nhu hòa, nhẫn nhục, kham nhẫn… Về tánh hạnh thì thực hành từ bi, tha thứ, bao dung, tận tâm tận lực phục vụ tha nhân.

C: Các bạn biết nhiều ghê!

Xin lỗi làm mất thì giờ nha, Bạn dùng chữ giai vị? Vậy có mấy giai vị trong quá trình tiến hóa tâm linh theo Hoa nghiêm?

A: Từ địa vị phàm phu đến khi tâm Bồ-đề khai mở hoàn toàn, hành giả phải trải qua 5 giai vị trung gian; đó là thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa.

C: Mình xin lỗi, nhưng quả thật mình muốn biết sơ ý nghĩa của 5 giai vị này trước khi đi vào hành trình Tín - Nguyện - Hạnh.

A: Thập tín là giai đoạn đầu tiên khi hành giả quyết tâm lập chí đi trên con đưòng Bồ-tát đạo, hướng về giác ngộ, cứu độ chúng sanh. Thập trụ là giai đoạn rèn luyện công phu thiền định chuyển hóa phiền não (phát triển trực tâm). Thập hạnh là giai đoạn phát triển lòng từ bi, kết duyên với chúng sanh, giáo hóa chúng sanh. Thập hồi hướng là giai đoạn phát triển cả 3 tâm (trực tâm, thâm tâm và đại bi tâm). Thập địa là địa vị cao nhất, lúc đó, tâm Bồ-đề phát triển đến vô hạn và vọng tâm không còn, hoàn toàn ở trong cảnh giới Phật.

Page 65: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 63

PHẬT PHÁP VỚI TUỔI TRẺ ☸

B: Chúng ta trở lại với Tín-Nguyện-Hạnh nha: Tín-Nguyện-Hạnh là ba đức của người tu theo Tịnh độ, nghĩa là muốn đạt cứu cánh vãng sanh Cực Lạc, hành giả phải có đủ ba đức đó.

C: Mình biết rồi, Tín ở đây là sự tin tưởng nơi sức tiếp dẫn của đức Phật A-di-đà, tin vào những Kinh dạy về pháp môn Tịnh độ. Hạnh là niệm Phật, là làm tất cả các thiện pháp, tinh cần hành trì như vậy trong đời sống hằng ngày không xao lãng. Và Nguyện là lòng mong cầu mãnh liệt được vãng sanh, từ khi khởi nguyện cho đến khi trút hơi thở cuối cùng lúc nào cũng mong mỏi việc ấy.

A: Thế nhưng chúng mình đã dạy các em (trong bài đức Phật A-di-đà và cõi Cực Lạc Tây phương) có khác một chút phải không?

B: Phải đó, vì chúng ta phải “thời đại hóa” những bài học Phật pháp mà với trí óc con người các em có thể hiểu và nắm bắt được.

C: Ví dụ như chúng ta dạy cho các em những đặc tính chính của Tịnh độ (Pure

Land) mà giáo lý đã dạy; đó là, thứ nhất, Tịnh độ hay Cực Lạc được hình thành do lòng Từ Bi, công phu tu tập và 48 lời nguyện của đức Phật A-di-đà trong đó có một nguyện là đón tiếp và hướng dẫn những ai chuyên tâm niệm danh hiệu Ngài và cầu vãng sanh về Cực Lạc hay Tịnh độ.

A: Thứ hai, phương pháp niệm Phật là một phương pháp dễ tu, hành giả có thể đạt cả hai mục đích: tái sinh về Tây phương và cũng là một bước vững chắc đi về Giác ngộ (re-birth in the Western Pure Land as a stepping-stone toward Buddhahood), vì ở đó hành giả có một môi trường tu học rất lý tưởng với sự hiện diện của đức Phật A-di-đà, họ có thể đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn (there, in more favorables surroundings, in the presence of Amitabha, they will eventually attain com-plete enlightenment).

B: Thứ ba, phương pháp này rất “dân chủ” (democratic) vì không phân biệt nam hay nữ, cao hay thấp, xấu hay tốt, v.v… tu theo kiểu gì cũng được, nếu có lòng Tin và niệm đến danh

Page 66: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

64 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ PHẬT PHÁP VỚI TUỔI TRẺ

hiệu Ngài (đức Phật A-di-đà) một cách thành tâm thành ý thì nhất định sẽ được Ngài đón về Cực Lạc quốc.

C: Nhưng quá trình Tín - Nguyện - Hạnh đâu phải riêng cho Tịnh độ, có phải không?

A: Đúng vậy! Dù là tu theo pháp môn gì cũng theo hành trình đó. Lòng tin thể hiện bằng qui y Tam bảo nghĩa là phát tâm Bồ-đề. Khi phát lời nguyện “đệ tử và chúng sanh, đều trọn thành Phật đạo” chính là khi hạt giống Bồ-đề được gieo xuống, tâm ta rộng mở để khi làm bất cứ việc thiện lớn hay nhỏ cũng vì lợi ích chúng sanh, không nghĩ cho riêng mình.

B: Với tâm lượng rộng lớn như vậy, thì dù hành giả là một chú Sa-di 8 tuổi hay một cụ già 80 tuổi cũng đều đã là một vị Bồ-tát và con đường đang đi là Bồ-tát đạo.

C: Bồ-tát có phải là nhân cách lý tưởng của tuổi trẻ Phật giáo hay không?

A: Phải, còn Bồ-tát nguyện là nguyện rộng lớn nhất, nguyện độ chúng sanh nghĩa là mưu cầu hạnh phúc cho tất cả chúng sanh chứ không phải

cho riêng mình, Bồ-tát hạnh là hành động cao cả nhất vì mục tiêu và sứ mệnh của hành động này vượt lên trên tự ngã nhỏ bé, là nguồn năng lực khơi dậy và thúc đẩy chúng sanh lên đường đi về hòn đảo an toàn của hạnh phúc chân thật.

B: Bồ-tát đạo là con đường của những người biết tu tập để mở rộng tâm thức để trực nhận được rằng những cái mà trước đây ta tưởng là “ta” hay “của ta” (ví dụ như lối sống, tri thức, tình cảm, khả năng, kinh nghiệm, tập khí, v.v…) Điều này không phải dễ làm, vì phải biết “bung” từ cái “tôi” ra thành cái “chúng ta”, từ cá nhân ra “tập thể”, từ mình ra “mọi người”, v.v...

C: Vậy con đường chúng ta đi có phải là Bồ-tát đạo không?

A: Cũng phải mà cũng có thể không phải.

C: Tại sao? B: Tại vì tùy theo cách suy

nghĩ, cách nhìn, cách làm, v.v… của bạn mà công việc của bạn, con đường bạn đi có phải là Bồ-tát đạo hay không?

A: Đúng thế! Làm việc

Page 67: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 65

PHẬT PHÁP VỚI TUỔI TRẺ ☸

GĐPT không có lương, tốn thì giờ, tiền bạc, làm gì cũng lo cho các em trước rồi mới đến bản thân. Mùa đông cũng như mùa hè, không có kỳ nghỉ, thậm chí ngày lễ còn tham gia hội họp, trại mạc, v.v... không có thì giờ cho gia đình nhỏ của mình… nếu mình cho đó là khổ, mình than van hay kể công khó nhọc của mình, v.v... thì mình không còn là Bồ-tát nữa và con đường mình đi cũng không phải là Bồ-tát đạo.

C: Còn nếu mình âm thầm làm phận sự của mình, lo cho đàn em, cho Đơn vị, cho Đoàn của mình không thấy mệt mỏi, chán nản; trái lại còn thấy vui, coi chông gai là bạn hữu, coi khó khăn là thuốc bổ, v.v... thì mình là Bồ-tát rồi phải không các bạn?

B: Hay quá! Vậy là bạn đã thông rồi đó!

A: Tóm lại chúng ta đã nói qua về hành trình Bồ-tát đạo đơn giản nhất với Tín - Nguyện - Hạnh; nếu chúng ta quyết tâm, vững chí muốn đi trên con đường đó thì có thể chuyển hóa phiền não thành an lạc, trần gian thành Tịnh độ…

C: Tôi cũng hiểu rồi! Nếu Đơn vị chúng ta không có đố kỵ gây gổ mà chỉ có đoàn kết thương yêu thì ngay đây cũng thật đẹp, đâu có thua gì cõi Cực Lạc với tiếng chim nói Pháp, với cảnh đẹp sáng chói như có lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não phải không? Vì khi lòng ta thanh thản, vui vẻ thì cảnh nào mà không đẹp? Như đức Phật nói “Khi tâm ta thanh tịnh, ta thấy thế giới thanh tịnh” vậy đó!

B: Đúng!! Vậy là chúng ta đã giải quyết được những thắc mắc còn tồn tại trong lòng về Tịnh độ, về Cực Lạc, về Bồ-tát đạo… rồi.

A: Nhưng Bồ-tát kiểu chúng ta (huynh trưởng GĐPT) là “Bồ-tát con” hay tiểu Bồ-tát chứ không phải Bồ-tát thật đâu nha! Đừng có tưởng bở!☺ ☺!!

C: Đúng vậy! Hiểu rồi! Cảm ơn! Chúng ta tạm ngưng ở đây nha! Xin hẹn gặp lại các bạn kỳ sau! Tạm biệt!

A và B: Tạm Biệt, tạm biệt!

■ Tâm Minh

Page 68: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

66 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TRUYỆN NGẮN

Thày của Chị là một vị Đại Đạo Sư với đầy đủ phẩm hạnh và lòng từ bi bao la mà Chị luôn kính trọng và yêu quý. Thỉnh thoảng Chị trộm nghĩ Thày có vài tướng quý của Phật mà ít ai biết tới như con mắt của Thày, con mắt của một vị Phật...

Thày thường có nhiều lối dạy học trò tùy theo căn cơ của họ. Sau giờ thuyết pháp chung cho đại chúng vào cuối tuần, Thày thường dạy Chị bằng một câu hỏi rất đơn giản: “Rồi sao nữa?”

Ban đầu Chị không hiểu ý Thày. Nhưng sau này, khi gặp những cảnh ngang trái khổ đau trong đời, và người Thày yêu quý đã đi hoằng pháp xa, Chị ngồi nhớ lại những mẩu chuyện cũ, mới hiểu ra được phần nào ý Thày muốn dạy.

Nói cho cùng, Chị là một đệ tử

sao nữa...lẹt đẹt, kém cỏi nhất trong đám đệ tử. Ngoài tài thỉnh chuông và có được một giọng tụng rất hay, Chị chẳng làm thêm được một điều gì khác nên thân. Chị rất dễ xúc động. Niềm vui, nỗi buồn đối với Chị đều bị nhân lên gấp đôi so với người bình thường. Nhất là nỗi buồn... Đôi khi gặp những tình cảnh khó khăn hoặc tai họa giáng xuống, Chị dường như không thể chịu đựng nổi. Những lúc như thế, Chị thường chạy lên Thày, ngồi thụp dưới chân Thày kể lể. Thày ngồi nghe cho đến khi Chị kể hết câu chuyện. Xong, Thày hỏi:

“Rồi sao nữa?”Dĩ nhiên, Chị trả lời Thày

bằng tất cả sự lo lắng và tuyệt vọng của mình.

Thày lại hỏi: “Rồi sao nữa?”Thày hỏi, cho đến khi Chị

không còn một câu trả lời nào khác, dù bằng sự suy luận hay tưởng tưởng sự việc trong tương lai có thể xảy ra... Những lúc như thế, Chị thường im lặng, cố lục tìm trong trí để lấy ra một

Page 69: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 67

TRUYỆN NGẮN ☸

nguyên nhân, một sự cố, một hoàn cảnh hay một sự khổ đau tàn phá trong tâm thức để làm câu trả lời. Thày vẫn yên lặng chờ đợi. Một lúc, như để cho Chị thấm được phần nào, Thày hỏi lại:

“Con ơi! Rồi sao nữa?”Lúc đó, Chị không thể tưởng

tượng thêm câu chuyện sẽ ra sao. Những sự lo lắng, những khổ đau Chị đang cảm nhận, sẽ cảm nhận... Nếu đi đến tận cùng thì việc gì sẽ xảy ra? Hả??? “Rồi sao nữa?!!”

Tiếng Thày hỏi lại, giọng trầm trầm đầy từ bi:

“Rồi sao nữa hả con?”Chị thật bối rối. Chị thực

không có một câu trả lời nào nữa cả. Tất cả đã đi ra ngoài sự tưởng tượng và những tâm thức lăng xăng trong Chị. Cuối cùng, Chị ngập ngừng:

“Rồi thì... rồi thì.... ôi Thày ơi! Rồi thì... chẳng sao hết... chẳng còn gì...”.Đó là ý Thày muốn dạy. Mọi sự, mọi vật được trổ quả

theo chu kỳ nghiệp lực của nó. Khi đã có đầy đủ nhân duyên thì ta không thể biến một quả khổ đau thành một trái hạnh phúc. Ta không thể thay đổi được hoàn cảnh, nhưng hoàn cảnh ấy - nếu

đã trổ quả - thì nó cũng cần có thời gian để tàn. Có đến thì sẽ có đi... Nó không thể mãi mãi là đau khổ. Bản chất của nó là vô thường, và bị chi phối hoàn toàn bởi luật Nhân-Quả. Chính vì vậy, cách khôn khéo nhất là ta chỉ có thể có những cách hành xử và lối nhìn cho phù hợp với hoàn cảnh đang xảy ra để giữ gìn tâm thức đừng bị vọng động mà thôi.

Khi tâm thức không còn vọng động thì bóng dáng của khổ đau cũng không thể ngự trị trong tâm.

Nhưng đó là nói trên lý thuyết. Thực hành quả là rất khó. Vì chưa chứng được lý như huyễn, luật vô thường của vạn pháp nên đối với Chị thấy tai họa vẫn có thật và khổ đau thì vẫn muôn đời hiện hữu... Dẫu sao, những lúc buồn hay gặp những điều bất như ý, Chị thường hay tự hỏi: “Rồi sao nữa?”

*Hình như ba chữ ấy có một

huyền lực thế nào ấy. Khổ đau, ít nhiều cũng đã nguôi ngoai.

Hay là bạn thử đôi lần xem sao?

■ Chiêu Hoàng

Page 70: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

68 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TÙY BÚT

Tôi đi chùa từ khi còn rất nhỏ, 5 hay 6 tuổi. Mỗi năm, cứ dịp Tết âm lịch, ngày mồng một, cậu tôi (Thân phụ tôi, gọi là cậu vì là con khó nuôi) dẫn ba anh em tôi đi chùa: Tôi, người anh kế, hơn tôi hai tuổi và ông anh cả, hơn tôi sáu tuổi. Chùa cậu tôi dẫn đi là chùa Phật Lồi ở truông Ái Tử (địa điểm trong chiến tranh vừa qua là căn cứ quân đội Mỹ). Từ thị xã Quảng Trị, cậu tôi dẫn ba anh em chúng tôi qua đò ngang trên sông Thạch Hãn, đi ngang qua làng ngoại tôi là làng Nhan Biều ở bên kia sông. Hết địa phận làng ngoại, chúng tôi qua cầu Ái Tử, chỗ phát sinh câu ca dao: “Mẹ thương con ra ngồi cầu Ái Tử…”, bên kia cầu là một bãi cát rất rộng, thường gọi là truông Ái Tử. Truông nầy kéo dài gần tới Đông Hà mới hết. Xưa, chúa Nguyễn Hoàng, khi vào Nam cũng đóng đô lần đầu tiên ở đây, tên cũ gọi là Dinh Cát hay Dinh Cây Khế. Sử cũng chép, năm 1558, khi ông cùng binh lính và bà con từ Đàng ngoài vào tới truông Ái Tử, đường xa, ai cũng khát nước nên dân chúng đem 7 chum nước ra dâng. Cậu ông Nguyễn Hoàng là Nguyễn Ư Kỷ đi theo làm quân sư thấy thế bèn nói rằng: “Nay mới đến trấn mà dân đem nước dâng, đó là điềm trời cho đó. Nước tức là nước vậy”. Cảm vì tấm lòng tốt của dân nên Nguyễn Hoàng quyết định đóng quân tại đây.

Đạo Phật Của Tôi

Page 71: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 69

TÙY BÚT ☸

Ái Tử nguyên là đất châu Rí của Chiêm Thành. Năm 1306, vua Chiêm là Chế Mân dâng đất hai châu Ô và Rí (Còn gọi là Lý) để làm sính lễ cưới Công chúa Huyền Trân. Người Chiêm Thành bỏ đất đi vào phía Nam, giao đất lại cho người Việt. Người Chiêm, trước khi theo đạo Hồi, đã từng theo đạo Phật, cũng lập chùa thờ Phật. Trước khi bỏ đất đi về phương Nam, họ đem tượng Phật chôn xuống cát. Tượng Phật nặng, họ không thể mang theo mà họ cũng không muốn Phật của họ rơi vào tay “ngoại bang”.

Từ Quảng Trị ra tới Nghệ An, Thanh Hóa là vùng có gió Lào. Mùa hè, gió Lào từ Trường Sơn thổi ra biển mạnh lắm, nhiều nơi còn làm cho những đỉnh đồi cát chuyển dịch. Vì gió mạnh, cát bị thổi bay đi, tượng Phật chôn ở dưới cát trồi lên. Người Việt theo đạo Phật thấy vậy bèn lấy lên, dựng chùa thờ Phật. Một cách nôm na, Sắc tứ Tịnh Quang là tên chữ - chùa được sắc phong của vua - chùa mang tên Phật Lồi là vậy.

Bao giờ cậu tôi cũng dắt ba anh em chúng tôi đi chùa Phật Lồi, và cũng chỉ đi chùa Phật

Lồi mà thôi. Hồi ấy, ngày Tết, đi chùa

chúng tôi phải mặc áo quần Tết. Áo quần Tết của anh em chúng tôi là áo đen dài, quần ta màu trắng, nón cối trắng, loại làm bằng cây điên điển, dày, nhẹ chứ không mỏng mà nặng như “nón cối” ngày nay. Thường chúng tôi được cậu mua cho nón cối mới. Khi khó khăn thì nón cũ được dùng lại, sau khi đánh phấn trắng Ever-Blanc bằng bàn chải đánh răng cũ.

Tôi ít khi vào chùa. Tới sân, thấy tượng hai ông Thiện, ông Ác ngoài hiên chùa là tôi sợ lắm rồi. Ông Ác mặt xanh, tay cầm thanh long đao, chém bay đầu người ta như chơi nên tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn. Ông Thiện hiền hơn nhưng chỉ nhìn cái mặt đỏ gay của ông cũng đủ sợ. Trong khi cậu tôi đang làm lễ trong chùa hay uống trà, nói chuyện với sư cụ, (thường gọi một cách thân mật là “ông”, các sư trẻ hơn thì gọi là thầy - còn trẻ như anh em chúng tôi thì gọi là chú tiểu hay chú điệu) thì anh em tôi ra phía hông chùa, phía đó có những đồi cát trắng. Chúng tôi leo lên đỉnh đồi rồi nằm xuống sườn đồi lăn tròn

Page 72: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

70 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TÙY BÚT

cho tới khi xuống tới chân đồi không lăn được nữa mới thôi. Dĩ nhiên, chân tay, mặt mũi, tóc tai vướng đầy cát trắng. Khi cậu tôi gọi chúng tôi vào chùa để chào sư cụ ra về, chúng tôi vừa chạy vào chùa vừa phủi cát trắng còn bám đầy người. Đứng trước sư cụ, tôi vừa thở vừa phủi cát còn bám trên mắt, trên má, tai, vừa cúi đầu vòng tay chào. Bao giờ sư cụ cũng mỉm cười, vuốt má và nói những lời rất ân cần nhẹ nhàng, trong khi cậu tôi thì rầy la vì chuyện nghịch trên đồi cát. Bao giờ sư cụ cũng cho tôi một cái bánh, cái kẹo gì đó để ăn.Đạo Phật của tôi, ngay từ

khi thơ ấu chính là hình ảnh sư cụ, hoặc các ông “thầy chùa hiền từ” chẳng rầy la chúng tôi bao giờ, mặc dù chúng tôi vẫn thường vào chùa hái bông hay nghịch phá. Năm 1948, khi gia đình tôi sau ba năm chạy tản cư trở lại thành phố thì tôi được đi học lại. Lớp học của tôi bấy giờ là lớp Ba, nằm ở nửa trong căn nhà trai của chùa Tỉnh Hội. Nửa ngoài là lớp Nhất. Trường cũ đã bị Tây chiếm làm doanh trại. Khác với trước năm 1945, nhà tôi bây giờ gần chùa hơn,

nên mỗi sáng, mỗi tối, chúng tôi nghe tiếng chuông chùa rõ hơn. Tôi có 8 anh chị em, ngoại trừ ba người lớn tuổi, còn lại năm đứa, mẹ tôi cho đi học lại. Bấy giờ cậu tôi đã qua đời, mẹ tôi vừa lo làm nuôi con vừa chăm sóc việc học hành của chúng tôi. Nhà không có đồng hồ, không có điện. Mỗi tối, khi chuông bên chùa dóng dả công phu kêu boong boong là mẹ tôi gọi: “Học bài bây!” Thế là bốn anh em chúng tôi - ngoại trừ Hùng Món - đang học lớp năm, lớp thấp nhất hồi ấy - ngồi vào cái bàn giữa nhà, thắp ngọn đèn bát lên - một loại đèn dầu hỏa - dầu hôi - và ê-a học bài. Khi thuộc thì đứa lớn dò bài cho đứa nhỏ, sau khi trả lời với mẹ “con thuộc bài rồi” mới được đi ngủ. Mẹ tôi ngồi trên cái rương xe bên cạnh, theo dõi việc học bài của chúng tôi - Mỗi sáng, dù đang giữa mùa đông lạnh giá, khi chuông bên chùa công phu buổi sáng - mẹ tôi gọi “Dậy học bài” là chúng tôi thức dậy, ôn bài một lần nữa. Dù lạnh, dù bị muỗi cắn, dù buồn ngủ, thời khóa biểu ấy suốt trong niên học bao giờ cũng thực hành một cách nghiêm chỉnh, đều đặn.

Page 73: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 71

TÙY BÚT ☸

Dĩ nhiên, chúng tôi học giỏi, ít nhất là bao giờ cũng thuộc bài. Tiếng chuông chùa mỗi sáng mỗi tối dóng lên như thế đã ăn sâu vào tâm tư tôi tự bao giờ. Đó cũng là một cách tôi đến với đạo Phật của tôi vậy!

Ngày nghỉ, chúng tôi qua chùa chơi, xem thầy Bật trồng bông hay chuyện trò cùng chú Sung, lúc ấy khoảng gần 20 tuổi - sau nầy thầy là thượng tọa Thích Chánh Trực trước khi viên tịch - Thầy Bật hay chú Sung bao gờ cũng là người hiền hòa, vui vẻ, nhất là chú Sung rất gần gũi với chúng tôi. Hoàng Hữu Chỉ, học trước tôi một lớp mà cũng là hàng xóm, người đỗ đầu kỳ thi tiểu học năm 1950 ở Quảng Trị, có tài làm thơ từ nhỏ, sau nầy lấy hiệu là thi sĩ Cuồng Vũ, cũng thường sang chùa chơi như chúng tôi. Một hôm, Hoàng Hữu Chỉ đọc cho chúng tôi nghe mấy câu thơ do anh sáng tác để chọc chú Sung chơi:

Con chi trong bụi mới bay raChích vào đầu trọc đau quá

ta!Đó là con ong chứ con chi?!

Không biết chuyện có thật hay Hoàng Hữu Chỉ bày ra để đùa.

Đó là trong đời thực, còn trong văn chương thì biết bao nhiêu hình ảnh những thầy tu, những sư cụ hiền hòa uyên bác văn chương thi phú, bao nhiêu hình ảnh đẹp về một giới tu hành có từ ngàn năm ở đất nước ta - Dĩ nhiên đôi khi cũng có những ông thầy bậy bạ nhưng chúng tôi bỏ qua rất dễ dàng - mà chúng ta có thể đọc trong “Hồn Bướm Mơ Tiên” của Khái Hưng hay trong “Vang Bóng Một Thời” của Nguyễn Tuân v.v… hay trong những tác phẩm trong “Tủ Sách Bạn Trẻ” của nhà xuất bản Tân Việt đã củng cố, xây dựng trong tâm hồn tôi về một đạo Phật hiền hòa, về một đạo Phật biết đau với cái đau của một dân tộc mất quyền tự chủ. Hơn thế nữa, tục ngữ, mà tôi thường nghe mẹ tôi thường dùng để dạy con, ca dao mà tôi thường nghe qua những câu hò ru em, những câu chuyện cổ tích tôi cũng được nghe nhiều người kể hay tôi được học ở trường, đọc trong sách vở, đã vẽ ra trong tôi một ông Phật hiền từ, thường xuất hiện cứu giúp người lâm nạn, v.v… Phật của tôi, qua những điều tôi mô tả ở trên là những cái gì rất Việt

Page 74: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

72 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TÙY BÚT

Nam, hoàn toàn xa lạ với ông Phật Ấn Độ khi tôi thấy lần đầu tiên ở trên chánh điện chùa Tỉnh hội.

Vào chùa lần đầu tiên, thấy ông Phật Thích-ca, mặc cái áo hở vai, tóc quăn, tôi không nghĩ rằng đó là Phật của tôi, nhất là khi so sánh với những hình ảnh sư cụ, sư ông, đã in đậm vào tâm hồn tôi từ khi tôi còn thơ ấu. Như thế, trong tôi có hai thứ đạo Phật khác nhau, một đạo Phật với những triết lý cao siêu của những người trịnh trọng đi chùa, nói cái gì cũng dẫn chứng bằng lời Phật dạy, coi cuộc đời nầy bằng sắc không, bằng thiên kinh vạn quyển sách Phật. Đạo Phật của tôi một thứ đạo Phật bình dân, đơn giản, bình dị, mà tôi hấp thụ được qua ca dao, tục ngữ, chuyện cổ tích, bằng lời mẹ dạy, ông bà, bà con xóm làng khuyên bảo, qua cuộc sống bình thường hằng ngày của sư cụ, của “ông”, v.v…Đạo Phật cấm tôi làm điều

ác. Điều cấm ấy, ngay khi còn thơ ấu, tôi không được dạy dỗ ở chùa, ở kinh sách đạo Phật mà ngay chính bà nội tôi. Trẻ con, tôi cũng như bao đứa trẻ khác, ưa nuôi chim. Trước nhà tôi

có một cây ngô đồng (thường gọi là vông đồng). Cậu tôi sai anh Trà chặt ngang đọt, vì vông đồng gỗ xốp, dễ gãy khi có gió bão. Từ chỗ chặt ngang đọt ấy, nhiều nhánh mọc lên. Một trong các nhánh, có một tổ chim. Tôi không rõ chim gì, hình dáng con chim mẹ còn nhỏ thua con chim sẻ. Tôi muốn bắt trọn tổ chim, cả con lẫn mẹ. Chờ khi có tiếng chim non kêu, chim mẹ hằng ngày đi kiếm mồi, buổi chiều, tôi bèn lấy một cái thang tre, dựng sẵn bên gốc cây. Chờ trời tối, chim mẹ về ấp con ngủ, tôi leo lên thang để hốt trọn. Không ngờ cái thang bị trật chỗ tựa, hơi nghiêng. Cái trật đó gây nên một tiếng động, chim mẹ bỏ tổ bay vào bụi tre la ngà bên cạnh. Mấy ngày sau chim mẹ không về, có lẽ bị chuột bắt mất rồi, các chim non kêu la thảm thiết, tôi bèn leo lên thang, đem hết chim non về. Có tất cả ba con. Ngày ngày, tôi ra bãi cỏ đá bóng phía sau trường tiểu học bắt châu chấu về cho chim ăn. Trước khi cho ăn, tôi bẻ đầu, bẻ càng những con châu chấu. Thấy vậy, bà nội tôi rầy. Con chim bay trên trời, bắt bỏ vào lồng là làm điều ác. Bắt

Page 75: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 73

TÙY BÚT ☸

châu chấu bẻ đầu, bẻ càng, lại càng ác hơn.

Từ đó, lớn lên, tôi nghĩ làm những điều gì trái với tự nhiên là điều ác. Làm cho người khác đau đớn là ác, làm cho người khác khốn khổ là ác. Đánh đập đâm chém người khác là ác. Ganh ghét, đố kỵ, hận thù người khác là điều ác. Thậm chí không biết thương loài vật cũng là điều ác. Câu chuyện ông già với con bò kéo xe lên một cái dốc cao, thấy bò khó khăn mệt nhọc, ông già xuống xe phụ đẩy với bò trong sách Quốc Văn giáo Khoa Thư dạy cho chúng ta biết thương loài vật là biết tránh điều ác. Gia Huấn Ca là bài các anh chị tôi học hồi đó, nghe riết tôi cũng nhớ đôi câu dạy chúng ta không làm điều ác, mà phải làm điều thiện:

Thấy người hoạn nạn thì thương,

Thấy người tàn tật lại càng trông nom

Thấy người già yếu ốm mònThuốc thang cứu giúp, cháo

cơm đỡ đần.Trời nào phụ kẻ có nhânNgười mà có đức muôn phần

vinh hoa.

Tôi nhớ những năm đầu chạy tản cư 1946-1947, người nhà quê tốt bụng lắm. Câu họ thường nói là “Chật bụng chớ chật chi nhà”. Họ chia nhà cho người tản cư ở, hoặc dọn xuống ở nhà dưới nhường nhà trên cho người tản cư ở. Chỉ mấy năm sau, điều đó không còn vì hận thù giai cấp, hận thù giàu nghèo, hận thù sang hèn,… Và tình người biến thành thù ghét.

Gia đình, cha mẹ ông bà, xóm làng dạy trẻ em phải biết thương người nghèo khổ, giúp đỡ họ. Ông ngoại các con tôi là một người sinh vào những năm đầu thế kỷ 20, biết chữ Nho nhiều hơn chữ Quốc ngữ, không bị ảnh hưởng “nếp sống văn minh”, “tư tưởng tiến bộ”, nên mỗi chiều hè, khi cả nhà ngồi ăn cơm ở căn nhà mát trước nhà, lỡ khi có người ăn mày đến xin ăn, ông lặng lẽ bỏ chén cơm xuống. Chờ khi các chị của vợ tôi đem cho người ăn mày cái gì đó, người ăn mày rời đi thì ông lại cầm chén cơm lên. Có phải ông không nuốt được cơm khi trước mắt ông có người nghèo khổ. Cái hình ảnh đó của ông ngoại các con tôi, ngày nay không còn nữa,

Page 76: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

74 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TÙY BÚT

không tìm lại được nữa! Giúp người hoạn nạn là điều

lương tâm bắt buộc. Tôi từng nghe mẹ tôi đọc câu ca dao:

Dù xây chín bậc phù đồKhông bằng làm phúc cứu

cho một người. Không phải người ta chống

lại việc xây chùa. Xây chùa là việc làm công đức. Vua chúa quan quyền xây chùa, người giàu có xây chùa, người thoát khỏi hiểm nguy xây chùa để tạ ơn. Họ muốn tỏ bày công đức, nhưng theo Phật, có một việc cao quý hơn cả việc xây chùa. Đó là bố thí. Bố thí là giúp người, cứu người, nhất là những người đang cơn hoạn nạn, thiên tai, hỏa hoạn, hay người nghèo khổ, khốn cùng…

Không làm điều ác là tránh sát sinh. Bắt châu chấu bẻ đầu bẻ càng như tôi làm khi còn thơ ấu là sát sinh nên tôi bị bà nội rầy. Các chị tôi đi chợ mua thịt gà thịt heo bán sẵn ở chợ. Các chị không thể cầm dao cắt tiết con gà. Khi cần lắm, họ nhờ đàn ông. Ngay chính đàn ông có người cũng không muốn sát sinh. Sau nầy lớn lên tôi mới biết ăn chay là để diệt dục, nhưng khi thơ ấu, những

ngày rằm mồng một nhà tôi ăn chay là để tránh sát sinh, không những cho mình, mà còn cho người khác. Mình không mua thì người khác không giết thịt. Từ thơ ấu, tôi hiểu lờ mờ như thế.Đạo Phật cũng dạy tôi phải

có hiếu với cha mẹ. Mỗi khi anh chị tôi có điều gì lầm lỗi với mẹ, với bà con… trong khi anh tôi là người đi chùa rất chăm, mẹ tôi thường nhắc nhở con cái:

Tu đâu chẳng bằng tu nhà,Thờ cha kính mẹ bằng ba tu

chùa.Người ta không báng bổ chê

bai việc vào chùa tu. Vào chùa tu là hành động người ta thường làm. Nhưng có một việc quan trọng hơn việc vào chùa, đó là thờ kính cha mẹ. Đó là hiếu. Đạo Phật cũng dạy người ta phải trọn chữ hiếu. Điển hình là sự tích Mục Kiền Liên mà nhiều người Việt Nam đã biết.

Người đi tu cũng có cha mẹ. Điều tu trước tiên của người tu hành là phải có hiếu với cha mẹ. Đời sống dân thường chứng minh điều đó và lịch sử Việt Nam cũng chứng minh vua quan cũng phải làm điều đó.

Page 77: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 75

TÙY BÚT ☸

Đạo Phật dạy ta tu, tu là bỏ tính xấu, tập tính tốt, không khoe khoang và hãy tự sống bằng sức mình, không bóc lột người khác, không ngồi mát ăn bát vàng. Mẹ tôi thường tỏ vẻ khó chịu khi thấy những bà cho vay ăn lãi đi chùa. Các chùa không giàu. Các chùa không có ruộng để cho tá canh, không có nhà đất để cho thuê mướn. Chùa không làm công việc cho vay. Các sư, các chú tiểu, các bà vải phải làm ruộng để có gạo ăn, phải tự trồng đậu nành để có tương chao, không ai giàu vì giàu không phải là chân tu, giàu là điều không hay, chưa nói có khi giàu là vì có lòng tham lam. Tham lam, độc ác là hai cái tính xấu mà người ta phải tu tâm để từ bỏ.

Tôi học đạo Phật từ những người bình dân, như mẹ tôi, dì cậu chú các o (cô) mợ tôi, từ xóm làng tôi, từ trong ca dao, tục ngữ, từ trong truyện cổ tích của người Việt. Vì vậy, đạo Phật tôi theo không có gì cao siêu khó hiểu.

Tôi yêu cái đạo Phật bình dân ấy hơn hết. Vì sao?

Bởi vì trước hết là cái hiền, hài hòa, bình dị của cuộc sống

hằng ngày quanh tôi. Cái hiền từ ấy đã thấm sâu vào lòng tôi khi tôi còn thơ ấu, lớn lên cùng tâm hồn và tuổi tác của tôi, luôn luôn ở bên tôi, trong lòng tôi, trong tâm hồn tôi khi tôi đi học, đi dạy và cả trong đời lính, khi tôi phải xông pha ở chiến trường.

Tôi mừng cho đạo Phật và dân tộc của tôi vì đạo ấy đã không đưa dân tộc tôi vào những cuộc chém giết như các cuộc chiến tranh Thập Tự Chinh bên Địa Trung Hải, không dạy cho dân tộc Việt sự cuồng tín để anh em giết nhau như ở Trung Đông bấy lâu nay.

Ông Trời là tạo hóa sinh ra muôn loài muôn vật, bảo tồn gìn giữ công lý để có trời người ta mới ở với nhau được, bởi vì “Không trời ai ở với ai”. Trong khi đó, đạo Phật là đạo cứu giúp con người. Ông Bụt là người “cứu nạn cứu khổ”. Ông sẽ hiện ra với chúng ta như khi cô Tấm ngồi khóc ở trong truyện Tấm Cám hay trong truyện Cây Tre Trăm Đốt vậy.

■ Tuệ Chương

Tuệ Chương

Page 78: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

76 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ KHÔNG GIAN THƠ

Từ “Haiku” được phiên âm từ tiếng Hán là

“bài cú” hay “bài hài”, nghĩa là nguyên một bài thơ chỉ có một câu, mang tính chất hài hước, vui nhộn. Ban đầu nó có tên gọi là haikai, cách gọi vắn tắt của haikai no renga (liên ca bài hài). Nó kế thừa hình thức phát cú liên ca, là lối xưng hô được phổ biến rộng rãi sau cuộc vận động cách tân thể thơ hài hước của Chánh Cương Tử Quy

vào giữa thời Minh Trị Thiên Hoàng. Đặc điểm của loại thơ này có rất ít từ ngữ, và chỉ cô đọng trong 17 âm tiết (tiếng Nhật) theo thể vận 5-7-5.

Từ tên gọi ban đầu haikai, nó từng bước thoát khỏi sự dung tục, vượt qua sự giải trí đơn thuần để rồi định mệnh của nó rơi vào tay Matsuo Basho. Ông ta đã sáng tạo một cách thơ mới, dung hợp sự trào lộng đời thường của haikai hiện đại với yếu tố cao nhã tâm linh của

Haiku &

BashoMục Đồng

Page 79: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 77

KHÔNG GIAN THƠ ☸

renga cổ điển trong một khổ thơ ngắn gọi là hokku (phát cú), nguyên là khổ thơ mở đầu cho bài liên ca. Khi hokku trở thành thể thơ độc lập, không phụ thuộc vào liên ca nữa, nó mới có tên là haiku.

Haiku là một sản phẩm đặc biệt của Nhật Bản. Tác giả của loại thơ này chủ yếu là các vị Thiền sư, hoặc các Thi sĩ có xu hướng yêu chuộng hay tu tập theo pháp môn Zen (Thiền). Về mặt hình thức, thơ Haiku rất đơn giản như vậy là vì theo thời gian, nó được thai nghén, chắt lọc rất tự nhiên từ những tâm hồn hết sức tĩnh lặng của các Thiền sư. Như mặt nước hồ thu, bóng nhạn lướt qua không còn dấu vết, tâm thức yên tĩnh ấy diễn tả nên một thực tại sinh động, không hề vướng mắc; đó là thời điểm để một bài thơ Haiku ra đời. Haiku là một đóa hoa đẹp đẽ, thắm đượm màu sắc văn hóa Đông phương, là một cách sống linh động và chịu ảnh hưởng của phái Zen trong Phật giáo Nhật Bản.

Thơ Haiku đi với cuộc đời bình thường mà không hề tầm thường, để đạt đến cảnh giới

không phân biệt trong một vũ trụ thuần khiết:

Quán bên đườngCác du nữ ngủTrăng và đinh hương.Các du nữ, hoa đinh hương

và mặt trăng cùng nằm với nhau trong một vùng trời vô định trước mắt nhà thơ. Với Basho, “tất cả đều có cuộc sống, có Phật tính, có sự bình đẳng trong ánh sáng và trong cát bụi”.

Xét về hình thức, bài Haiku thường có 17 âm tiết (có khi cũng không nhất thiết), nhưng cái ngắn đó không khiến chúng ta phải nặn óc suy tư để tìm bên trong cái hình thức ngắn ấy một ý tưởng không ngắn. Bởi Haiku là sự cô đọng của một sự tình vắn tắt đã được tìm ra trong hình thức vừa vặn của mình. Sự cô đọng của Haiku là đặc điểm nổi bật, một sự cô đọng đi vào chiều sâu, vào chân không chứ không phải là ý muốn dùng sự ít lời để diễn tả nhiều ý nghĩa khác nhau.

Và do đó, cho dù Haiku nói đến những sự vật nhỏ nhoi nhất, ta vẫn thấy nó mênh mông, hùng vĩ và huyền diệu

Page 80: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

78 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ KHÔNG GIAN THƠ

lạ thường. Haiku thường được Basho nhắc tới qua những cảm giác hằng ngày:

Như sabi (linh hồn tịch liêu):

“Ôi tiếng ve kêuThấu xuyên vào đáTrong cõi quạnh hiu”.Như wabi (những cái đơn sơ

nghèo nàn):“Mái lều êmMột con chim gõ kiếnGõ ngoài trụ hiên”.Và như karumi (niềm khinh

thanh dịu nhẹ):“Mưa mù sươngPhù dung một đóaLàm mùa lên hương”.Nói đến Haiku, dĩ nhiên

chúng ta phải nói đến và cần tìm hiểu đôi nét về Basho.

Matsuo Basho (Tùng Vĩ Ba Tiêu, 1644-1694), nhà Haiku sống vào đầu thời đại Giang Hộ, tên thật là Tông Phòng, hiệu là Haseo, biệt hiệu Đào Thanh, Bạc Thuyền Đường, Điếu Nguyệt Am, Phong La, v.v… người vùng Thượng Dã, Y Hạ. Ông xuất thân từ giai cấp samurai, là người có ý chí muốn học về haiku, nên từng theo hầu hạ Lương Trung và

Bắc Thôn Quý Ngâm ở Kyôto. Về sau, Basho từ bỏ lâu đài lãnh chúa, xuống vùng Giang Hộ đi làm du sĩ lang thang, rồi dời về Ba Tiêu Am (Basho-an, am tranh của Basho) ở vùng Thâm Xuyên, Giang Hộ. Cái duyên để có tên người và tên am cũng khá thú vị:

Một đêm mưa, trong căn chòi tranh nhỏ bé, chủ nhân của nó đang đối diện với chính mình. Từng giọt mưa rơi trên tàu lá chuối, tiếng kêu lộp độp nhưng thánh thót vang xa, dung hòa cả những tâm hồn đồng điệu dù đang ở bất cứ phương trời nào. Trước cảm xúc ấy, ông thích được như cây chuối tắm trong thi vũ, liền đặt bút hiệu cho mình là “Basho”, và am tranh nhỏ cũng theo đó mang tên là “Basho-an”. Chúng ta biết, nhà thơ Lý Bạch thời Đường cũng trong một khung cảnh như thế, đã thốt lên câu thơ rằng:

“Cách song tri dạ vũBa tiêu tiên hữu thanh”.(Qua song cửa sổ biết có

mưa đêm, vì cây chuối lên tiếng trước).

Không lập gia đình, đương làm quan với Mạc Phủ Đức

Page 81: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 79

KHÔNG GIAN THƠ ☸

Xuyên thì ông từ chức, sống nghèo nàn với bộ nâu sồng rách vá, nhàn du khắp từ Bắc chí Nam đảo Bản Châu để tìm thi tứ, thi cảm cho sự nghiệp sáng tác. Tư cách thanh cao đến độ thiếu thốn thì chịu, chứ nhất định không tìm nương nhờ vào bất cứ một ông lãnh chúa nào, mặc dù ông rất được giai cấp này trọng vọng vì thi tài. Ông lưu chơi nơi am tranh với một vài nhà tu cũng nghèo nàn thì chịu, ở lại với nhà nông dân hẻo lánh một vài bữa thì rất lấy làm vui, nhưng đến đâu cũng cố tình lẩn tránh cửa quyền quý. Đương thời ông được coi là vị địa tiên vì thi tài thì quán thế mà chỉ sống ẩn dật, không muốn phiền lụy một ai. Sáng lập ra phong cách Haiku độc đáo của mình, ông để lại rất nhiều danh cú và qua đời tại một lữ quán ở vùng Nanba.

Basho là bực Thánh thi về thể thơ Haiku. Các bình luận gia vẫn sánh ông với Lý Bạch, Đỗ Phủ của Trung Quốc.

Năm 1680, từ khi trú chân tại am Ba Tiêu, ông bắt đầu tu hành Thiền đạo dưới sự hướng dẫn của một Thiền sư. Một năm

sau, ông rời bỏ am tranh và sống như đám mây trôi nổi, để tìm đến cái rốt ráo của thơ ca, mà theo Yuasa gọi là “cái bản ngã vĩnh cửu”. Trong thời gian này, bài thơ “Xuân Nhật” của ông đã gây nên một chấn động trong nền văn học:

Phiên âm Latin:Furuike ya kawazu tobiko-

mu mizu no wotoNhật Chiêu dịch: Ao cũCon ếch nhảy vàoVang tiếng nước xao.Chỉ một tiếng vang của

nước mà con ếch của Basho đã khuấy động nên một dư âm đã ngân qua bao nhiêu thời đại và xứ sở.

Cuộc đời của Basho cũng như thơ của ông luôn hướng về một lý tưởng là tìm thấy sự nhẹ nhàng thanh thoát ngay giữa cuộc đời ô trọc, một khinh thanh êm đềm bay lượn giữa tro than và cát bụi trần gian.

Trước và sau Basho còn nhiều những thiên tài như thế nữa, nhưng chỉ nêu một mình ông cũng đủ để thấy cái linh hồn cốt tủy của Haiku thế nào rồi. Chỉ cần xem người ta xưng

Page 82: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

80 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ KHÔNG GIAN THƠ

tụng và sùng mộ Basho, chúng ta có thể kết luận ông, một nhà thơ huyền bí, là một hình bóng vĩ đại của văn hóa Nhật Bản và ông đã hóa thân vào Haiku, vào trong linh hồn của Nhật Bản. R. H. Blyth tán thán ông như sau: “Nước Nhật sinh ra cùng với Basho năm 1644. Ông chính là người đã sáng tạo ra linh hồn của Nhật Bản”.

Trong cõi siêu tuyệt của Haiku, một nhà thơ với một Thiền sư được đánh đồng với nhau, không còn phân biệt. Basho cũng vậy, nhiều bài thơ của ông cũng chính là công án, thoại đầu. Cuộc hội ngộ của bậc thiên tài này với các Thiền sư thi sĩ chẳng khác nào những thiền thoại hay buổi truyền tâm ấn giữa các Tổ sư. Bởi tâm thức luôn an trú trong một cõi dù đó là cõi thơ hay cõi tịnh lự, lời phát ra như gió như mây, thanh trong, thiện xảo, không hề vướng bận ti hào nào sự trau chuốt ngôn từ. Ý tưởng này có thể được tìm thấy qua những giai thoại sau:

Một đêm trăng, trên đường du hóa, Basho gặp một nhóm các nghệ sĩ đang thưởng trăng

và họa thơ (dĩ nhiên là thơ Hai-ku, vì lúc ấy ở Nhật Bổn loại thơ này đang thịnh hành). Ông được mời làm thơ trước, đề tài chắc chắn phải là trăng rồi. Basho liền thốt lên:

Vầng trăng non dại...Cả nhóm cười ồ lên, (vì có lẽ

trong ý họ nghĩ: Trăng thế này mà non dại?), như mỉm cười, Basho cứ vậy mà tiếp nhịp:

Theo tôi từ độ ấyAi có ngờ hôm nay.Ồ! Tiếng ngạc nhiên của các

thi sĩ cùng nhẹ nhàng thốt lên sau khi lắng nghe một tuyệt tác. Có người hình như ngộ ra liền hỏi:

Có phải là Basho tiên sinh không? Vâng, đúng là chỉ có Basho.

Ông đã nhiều lần đến tham thiền với Hòa thượng Phật Đảnh ở chùa Căn Bổn, thuộc vùng Lộc Đảo. Nhân một ngày trời tạnh mưa xuân, Hòa thượng tự mình đến thăm am Ba Tiêu. Basho mừng quýnh chạy ra nghênh đón. Khi vừa mới giáp mặt nhau, Hòa thượng muốn biết xem Basho có chuyện gì bèn hỏi ngay:

- Gần đây có gì không?

Page 83: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 81

KHÔNG GIAN THƠ ☸

- Mưa qua rêu xanh mướt. Basho đáp liền.

Nếu như con mắt tâm mà khai mở thì chân như thật tướng hiển hiện ngay. Chính cảm giác mới mẻ như “mưa qua rêu xanh mướt” không gì hơn là con mắt giác ngộ. Tuy nhiên, Hòa thượng không dễ gì mà tha cho ngay, bèn tấn công tiếp rằng:

- Như thế nào là Phật pháp trước khi rêu xanh chưa mọc?

Có phải chăng đây cũng là diệu nghĩa của “ngọc Côn Lôn đen thui chạy trong đêm” chăng?

Song, quả không hổ danh là Basho, người không bị rơi vào “động ma tối om như vậy”. Ông trả lời ngay:

- Ếch nhảy, tiếng nước vang.

Thật quả là khoảnh khắc khai nhãn tài tình!

Một loại hình nghệ thuật để nuôi dưỡng tâm hồn, một nghi mẫu thơ ca, những hình dung và thể hiện trong Haiku thì hầu như không có gì nhưng lại biến nhiệm tam thiên. Một tuyệt tác thiên tài, một tâm hồn khoáng đạt, những dòng thi ca bất tận của Basho đã thắp sáng

và thăng hoa Haiku lên tột đỉnh không biên cương của nó. Đem cái biết hữu hạn hữu lượng để bàn cái vô lượng vô biên, thỏa đáng chăng! Chỉ hề! Chỉ hề!

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Thích Nguyên Tâm: Mỗi Ngày Một Câu Chuyện Thiền, nxb Tôn Giáo, 2005. - Thích Nguyên Tâm (biên dịch): Phật Giáo Nhật Bổn, tập 1&2, Hội Chấn Hưng Học Thuật Nhật Bổn, bản thảo.- Châm Vũ Nguyễn Văn Tần dịch: Nhật Bản Tư Tưởng Sử, tập 1&2. Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hoá xuất bản, 1972-1973.- Nhật Chiêu: Văn Học Nhật Bản Từ Khởi Thủy Đến 1868, nxb Giáo Dục, 2003.- Thiên Ân Đoàn Văn An: Trao Đổi Văn Hoá Việt Nam-Nhật Bản, Đông Phương xuất bản, 1963. - Vương Ngọc: Từ Điển Nhật-Việt Việt-Nhật, nxb Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2004.

Page 84: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

82 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ THƠ

Sương đọng trên mi mắtLong lanh dưới nắng hồngBình minh lên tắm gộiNhững nỗi buồn hư không.

Tình ta là lá cỏTình ta là mây bayTình ta là giọt nắngVườn tâm hoa bướm say.

Có phải con sóng vỗĐưa thuyền ra xa khơiCó phải trăng cổ độVằng vặc treo giữa trời!

Bờ cát nằm im tiếngĐồng vọng chuông Hàn SanBến Phong Kiều tao ngộTri âm ánh trăng vàng.

Tao ngộ

MẶC KHÔNG TỬ

Page 85: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 83

SỐNG ĐẠO ☸

Có những ngày sau một cơn mưa, trên bậc thềm ngoài hiên có những chiếc lá Thu phong đẫm ướt, nằm dán trên mặt đá xám như những chiếc lá hóa thạch đầy màu sắc. Tôi thường ra sân khi trời còn sớm, lắng nghe sự thinh lặng của mờ sương buổi sáng.

Cạnh nhà, rừng cây mùa Thu từ từ chuyển sang rừng cây mùa Đông lúc nào không hay. Mùa thu đi ngang qua, thật im lặng, theo nhịp quay của đất trời không cần ngày tháng. Mùa đông đến, rất bất chợt, bắt đầu bằng một ngày tuyết. Và một buổi sáng thức dậy nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy vũ trụ trắng tinh.Ở Trung Tâm, có những buổi

sáng khi ngoài trời vẫn còn tối,

chúng tôi ngồi với nhau thật yên trong thiền đường trên hai hàng tọa cụ. Nhất là vào những sáng sớm mùa đông, dưới ngọn nến sáng trên bàn thờ Phật, những dáng ngồi thật ngay in rõ bóng trên vách. Bạn có bao giờ đi ra ngoài và lắng nghe sự thinh lặng trong một ngày tuyết đang rơi chưa? Một sự im lặng rất kỳ diệu.

Trong những khóa tu, chúng tôi cũng thường tập giữ cho mình một không gian thinh lặng như một ngọn nến không chao động. Và dường như trong sự thinh lặng ấy có mặt một hiện hữu rất nhiệm mầu.

Tôi thấy một sự thinh lặng trong một khu vườn thiền, zen garden, ngay gọn không tì vết.

Mây Trắng

Nguyễn Duy Nhiên

Ngàn Năm Giữa Trời Bay

Page 86: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

84 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ SỐNG ĐẠO

Tôi thấy sự thinh lặng nơi một kệ sách với những quyển sách thẳng hàng; một ánh trăng qua cửa sổ nằm bên trang kinh trên bàn viết là một sự thinh lặng. Mỗi khi cầm chuỗi niệm Phật, tôi cảm thấy trong tay có một sự thinh lặng sâu xa. Nhưng tôi nghĩ thinh lặng không có nghĩa là bất động. Trong những ngày tháng tu học tôi khám phá ra rằng, chúng ta có thể tạo nên sự thinh lặng bằng những lời kinh tụng, bằng tiếng chuông, bằng những dãy tọa cụ sắp ngay hàng, bằng những ngọn nến lung linh trong buổi sáng sớm, bằng mỗi bước chân và hơi thở của Tăng thân. Chúng tạo nên một khoảng không gian ôm ấp và gìn giữ sự thinh lặng.

Tôi nghĩ thinh lặng không phải là một sự lặng câm, nó không phải là một sự vắng mặt của âm thanh! Có người cảm thấy lặng yên khi đi dạo trên bãi biển nghe sóng vỗ, hay ngồi bên bờ suối với tiếng nước chảy, hoặc khi đứng nhìn lá thu đổi màu trên núi, hay ngắm những bông tuyết bay bay ngoài cửa sổ. Bạn có cảm nhận được sự thinh lặng trên một chuyến xe về quê vẳng nghe câu ca dao vào một buổi chiều trên đồng ruộng

vắng! Không còn gì mang lại cho ta một cảm giác tĩnh lặng sâu xa cho bằng lời kinh tụng vang vọng núi rừng vào những sáng mờ sương…

Lá rơi có dội ở trong sương mù

Trong những ngày tháng sống một mình ở hồ Walden, ông Thoreau kể rằng ông có thể nghe được tiếng những cây bắp đang dần lớn lên trong đêm, nghe được âm thanh của bốn mùa tiếp nối nhau đi ngang qua… Trong những khoá tu, trong thinh lặng, chúng tôi cũng có thể lắng nghe được tiếng sỏi dưới mỗi bước chân thiền hành, âm thanh của những hạnh phúc lẫn muộn phiền, hay tiếng của những bông tuyết bồng bềnh rơi trên áo.

Và tôi cũng thấy sự thinh lặng có mặt trong những câu thơ hay bài thiền ca. Tôi nghe sự thinh lặng trải trên phím đàn, lắng yên giữa những nốt nhạc. Sự thinh lặng cũng hiển lộ từ những bức tranh thêu, trong những tờ thư pháp treo trên vách.

Em về mấy thế kỷ sauNhìn trăng có thấy nguyên

màu ấy chăngTa đi còn gởi đôi giòng

Page 87: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 85

SỐNG ĐẠO ☸

Lá rơi có dội ở trong sương mù!

Bạn có thấy sự thinh lặng trong bốn câu thơ ấy không? Trong khoá tu vừa rồi, vào một buổi sáng sớm chúng tôi cùng đi thiền hành với nhau lên đỉnh núi, chỗ có hai chiếc băng ngồi. Các bác ngồi trên những chiếc băng gỗ, một vài anh chị ngồi trên những tảng đá, nhìn qua dãy núi mùa thu phía bên kia trong nắng sớm. Chúng tôi cùng ngồi với nhau thật yên trong không gian lạnh mướt dưới nắng ấm. Chúng tôi lắng nghe tiếng lá bay trên không trung, âm thanh của trời thu sắc màu, lắng nghe tiếng của mây, của từng sợi nắng...

“Lá rơi có dội ở trong sương mù?” Tôi thấy câu ấy cũng giống như một công án trong nhà thiền, “Nếu như một cây ngã trong rừng vắng, và không có ai nghe, cây ngã ấy có tạo nên một âm thanh nào không?” Chắc có lẽ ta không cần một câu trả lời, vì trong những công án chính câu hỏi mới là quan trọng! Hãy ôm ấp câu hỏi ấy trong ta, ươm nó bằng một sự thinh lặng. “Lá rơi có dội ở trong sương mù?” Tôi thử lắng nghe, và thấy có tiếng chim hót, có tiếng gió bay, có tiếng lá đổi

màu, có tiếng mây trôi, có tiếng của những sợi nắng chiều còn vướng trên không gian... Trong thinh lặng, có một tiếng khánh ngân lên, vũ trụ này dường như thấy bao la hơn.

Hạnh phúc và cây hồng sai trái

Trong giây phút này, với sự thinh lặng, chúng ta có thể tiếp xúc được một hiện hữu nhiệm mầu. Nhưng tôi nghĩ sự nhiệm mầu ấy không nhất thiết chỉ giới hạn trong một hạnh phúc! Mấy tuần trước tôi có đọc một bài viết có tựa “What’s So Great About Now?” Giây phút hiện tại này có gì là nhiệm mầu? Tôi nghĩ tác giả, bà Cynthia Thatch-er, nói rất đúng. Hiện tại nhiệm mầu! Nhưng không phải nhiệm mầu chỉ vì trong giây phút này ta có thể tiếp xúc được với cái đẹp của một bình minh sớm, hay mặt trời đỏ hoàng hôn. Cũng không phải chỉ vì ta có thể nhìn những chiếc lá thu bay, lắng nghe tiếng nhạc chopin, hoặc ngồi dưới ánh trăng... Thật ra thì những cái ấy rất đẹp, nhưng không phải vì thế mà hiện tại này trở nên nhiệm mầu.

Có lần tôi đến thăm một người bạn, chúng tôi ra vườn

Page 88: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

86 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ SỐNG ĐẠO

ngồi nói chuyện với nhau bên cạnh một cây hồng sai trái chín. Tôi hỏi chị, những trái này có ngọt không? Chị bảo rằng, chị không bao giờ hái chúng ăn, và cũng không muốn cho ai hái. Chị trồng chỉ để có một niềm vui nhìn cây sai trái, để mỗi khi ra ngồi đây, nó giúp chị tiếp xúc được với một hạnh phúc trong giây phút hiện tại! Nhìn chị ngồi trong niềm vui với sự có mặt của cây hồng của mình, tôi không hiểu hạnh phúc ấy có chân thật như ta nghĩ, hay chỉ là một sự tạo dựng mà thôi!

Tôi thì nghĩ như bà Cynthia. Giây phút hiện tại này đẹp là vì trong ta có một đối tượng đẹp, chứ không phải chỉ vì chung quanh ta có những cái hay và đẹp. Nó nhiệm mầu khi ta ướt mưa và nhiệm mầu khi trời nắng ấm, nhiệm mầu trong những lúc ta bước chân thảnh thơi, và nhiệm mầu khi trong ta đang có mặt một cơn đau. Hiện tại vẫn nhiệm mầu dù cây hồng vườn sau nhà có sai trái hay không! Tôi nghĩ, có lẽ ta chỉ cần tìm lại cho mình một sự thinh lặng sâu sắc mà thôi.

Sự tu tập nhờ vậy mà cũng được nhẹ nhàng hơn bạn nhỉ! Vì biết rằng dẫu trong cuộc đời có những khi ta không có một cây hồng sai trái, hay những ngày nắng đẹp, hay cho dù ta không có một sự dễ chịu hay một hạnh phúc... hiện tại này vẫn là nhiệm mầu, khi trong ta có được một sự thinh lặng và thảnh thơi.

Mây trắng ngàn năm giữa trời bay.Tình cờ tôi có dịp làm quen với một tác giả ở bên nhà, anh có

viết một số sách về Phật học. Anh có gửi cho tôi xem một bản thảo về quyển sách mới nhất mà anh dự định sẽ xuất bản vào cuối năm nay. Trong đó, anh có trích dẫn một câu thơ trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu mà anh rất thích từ thời còn ở trung học, “Bạch vân thiên tải không du du”, anh dịch là Mây trắng ngàn năm giữa trời bay. Tôi đọc những chia sẻ của anh và có đề nghị anh nên lấy đó làm tựa quyển sách mới của mình. Đó là một hình ảnh rất đẹp, ngàn năm mây trắng vẫn bay, nhưng không gian và bầu trời ấy vẫn chưa từng xao động bao giờ!

Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Page 89: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 87

SỐNG ĐẠO ☸

Thôi Hiệu đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng trên sông và tự hỏi:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. (Tản Đà dịch)

Tôi thấy trong hình ảnh ấy có một sự thinh lặng rất sâu xa, như mây trắng thong dong trôi giữa bầu trời bao la vô cùng tận. Và chỉ trong sự thinh lặng ấy ta mới có thể nghe được cái sầu phải không bạn! Có lẽ đức Bồ-tát Quán Thế Âm cũng nhờ lắng thật yên mà ngài có thể nghe được hết nỗi khổ của mọi loài. Tôi nghĩ thinh lặng không phải là sự vắng mặt của âm thanh mà là ở nơi sự lắng nghe của mình. Trong những lo âu và phiền muộn, bạn hãy dừng lại và lắng nghe đi, giữa những lao đao ấy bao giờ cũng có những khoảng trống rất yên lắng. Tôi chợt nhớ đến một bài thơ của Pablo Neruda,

Giữ Im LặngBây giờ tôi sẽ đếm đến mười haiVà chúng ta sẽ cùng giữ cho thật yênĐể một lần trên mặt đất nàyđừng nói với nhau bằng bất cứ một thứ ngôn ngữ nàohãy dừng lại trong một giây látta không cần phải lao xao nhiều như thếNó sẽ là một giây phút rất nhiệm mầukhông vội vã cũng không còn máy mócchúng ta sẽ thật sự có mặt với nhautrong kỳ lạ và trong chút ngỡ ngàngNgười đánh cá trên vùng biển lạnhsẽ dừng lại thôi giết hại loài cá voivà người nông dân trên vùng ruộng muốisẽ nhìn lại đôi bàn tay mình nứt nẻNhững ai đang chuẩn bị cho các cuộc chiến tranh xanh,chiến tranh với khí và chiến tranh với lửacuộc chiến thắng mà không còn ai sống sót nữasẽ thay áo mới toanhcùng với nhau đidưới bóng cây xanh và không làm gì hết

Page 90: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

88 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ SỐNG ĐẠO

Bạn có hiểu lầm tôi không,điều tôi muốn đâu phải là một sự bất độngVì sự sống bao giờ cũng có mặtCái chết, tôi nào đâu có ham thích gì mà mongNếu chúng ta đừng quá chủ quanCứ muốn cho một cuộc sống phải rỡ ràngphải chi ta đừng làm gì hết, dầu chỉ một lần thôicó lẽ một sự thinh lặng lớn mênh mangsẽ phá tan đi mọi sầu khổ ngỡ ngàngvì không hiểu được mìnhvì nỗi sợ về cái chết.Trái đất này đang dạy cho takhi mọi vật dường như đã điêu tànrồi ngày mai chúng sẽ sống lại huy hoàngVà bây giờ tôi sẽ đếm đến mười haibạn hãy giữ cho thật yên, và tôi sẽ ra đi.

Thinh lặng không phải là một sự lặng câm. Giữ cho thật yên không có nghĩa là không làm gì hết, mà tôi nghĩ có nghĩa là ta thôi cho rằng lúc nào mình cũng cần phải làm một cái gì đó.

Trưa nay tôi ra ngoài đi dạo quanh bờ hồ có mặt nước in hình trời mây những khi im gió. Rừng cây cuối thu phía bên kia đã vàng đỏ và rụng gần hết lá. Cuối tuần này trời sẽ mưa và rất lạnh, nhưng hôm nay trời thật xanh và nắng thật trong. Có một đàn vịt trời từ xa bay về đây, chúng kêu vang trời và sà đáp xuống gây nên một vùng náo nhiệt trên mặt hồ. Và rồi mặt nước trở lại yên lắng phản chiếu trời mây như chưa từng xao động bao giờ. Đàn vịt trời lặng yên trôi.

Tôi tập theo dõi hơi thở và bước chân mình đi trên con đường nhỏ phủ đầy lá, trong nắng và gió. Không có một nơi nào để đến và tôi cũng sẽ không về đến một nơi nào. Ở đây có bước chân và hơi thở, có gió và lá, có trời trong và mây trắng, có tiếng chim hót và nắng ấm. Chúng ta có cần phải về, phải tới một nơi nào không bạn nhỉ! Trong mỗi bước chân đi, tôi sẽ tập giữ cho mình vẫn đang dừng lại cho rất yên.■

Page 91: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 89

TÂM THƯ ☸

Em ạ! Tôi không biết em bao nhiêu tuổi, nhưng tôi mạn phép gọi em bằng em cho thân thiện. Em gởi thư tâm sự với tôi rằng, từ trước đến giờ, em chưa từng có giây phút nào sống hạnh phúc. Em chỉ sống trong tội lỗi và hối hận. Và rồi, sau khi tiếp cận với Phật giáo, mọi bế tắc của em có chuyển hướng, em cảm thấy tự tin hơn vào cuộc sống. Em đã thực tập và gởi thư cho tôi. Em muốn tôi chia sẻ thêm để giúp em nhận thức tốt hơn về những bế tắc mà em đang, sẽ gặp về sau.

Em bảo, “càng tìm hiểu về đạo Phật, thì con càng thấy hơi khó hiểu và có một vài mâu thuẫn. Nếu đạo Phật cho

rằng, đời là khổ và nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển, thế thì, cuộc sống có gì là vui sướng? Lịch sử Phật giáo lại ghi rằng, vì thấy nỗi khổ ở đời nên Thái tử Đạt-đa đã từ bỏ cuộc sống hưởng thụ dục lạc thế gian, cung vàng điện ngọc để tìm đạo giải thoát. Sau khi chứng ngộ, Ngài đã đem điều ấy truyền lại cho nhân loại. Thế nhưng, con lại cảm thấy khó hiểu khi trong kinh ghi câu “nhân thân nan đắc” (thân người khó được) hay câu “khủng thất nhân thân” (sợ mất thân người) hoặc câu “nhân thân dĩ thất vạn kiếp nan phục” (thân người đã mất thì muôn kiếp khó lấy lại), v.v…

Thư cho em

Page 92: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

90 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TÂM THƯ

Đã là khổ, thì đâu cần phải tiếc rẻ cái thân này làm gì? Vả lại, một khi đã ra khỏi sanh tử luân hồi thì đâu còn phải thọ thân người làm chi? Những thắc mắc của em cũng giống như thắc mắc của bao bạn trẻ khác thường gặp khi tiếp cận học hỏi Phật pháp.

Chúng ta thường nghe rằng: cuộc đời là một bể khổ. Sống là khổ. Làm người thì khổ. Cái khổ vừa nêu, ngay cả bậc vương quyền, của cải vật chất dồi dào, tiêu xài thoải mái, cho đến kẻ bần cùng, không có chỗ nương thân… đều không tránh khỏi. Ôn Như Hầu, một nhà thơ thế kỷ trước đã từng than:

“Thảo nào khi mới chôn nhau,

Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”.

Thật vậy, cái khổ ở thế gian thì muôn hình vạn trạng. Nhiều người cho rằng đời sống vật chất của mình nếu đầy đủ, hưởng thụ thoải mái thì không có chi là đau khổ, chỉ có những người thiếu ăn thiếu mặc mới đau khổ mà thôi. Lập luận này đứng ở phương diện thế gian tạm cho là ổn, nhưng thực tế thì

không phải như vậy. Bởi, chỉ đơn cử cái khổ về thể xác, tuổi già sức yếu, bịnh tật ốm đau… thì chúng ta đã không thể nào làm chủ được. Như em biết, con người ngoài sự đau khổ thuộc về phương diện thể chất như trầy da, tróc thịt, đứt tay, nhức răng, đau đầu, v.v… ra, còn có nỗi đau thuộc về lãnh vực tinh thần, với những bực dọc, lo toan, bối rối, v.v…

Khi đề cập đến vấn đề khổ đau thì ai cũng thừa nhận, ừ đời là khổ, sống là khổ, nhưng con người vì quen sống trong cảnh khổ, hoặc vì quen sống trong sự nuông chiều hưởng thụ nên chưa nhận ra cái khổ. Thậm chí họ lấy đó làm điều vui. Xưa nay, “Tứ đổ tường” (cờ bạc, rượu chè, trai gái, hút xách) được các cậu ấm, cô chiêu cho rằng cần phải rành bốn món này mới chứng tỏ là tay anh chị, là kẻ sành điệu. Vui sướng chỗ nào mà bao bạn trẻ chỉ mới đến lứa tuổi thanh thiếu niên đã đua đòi, chuốc họa cho cả một tương lai đầy tươi sáng. Bởi khi uống rượu thì cay miệng lại còn làm hại cơ thể, rối loạn tinh thần, làm

Page 93: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 91

TÂM THƯ ☸

mất hòa khí. Khi hút thuốc phiện thì thân hình tiều tụy, bạc nhược, trí óc mê mờ, xương cốt mục dần. Khi đánh cờ bạc thì của tiền phát tán, nợ nần vấn thân, rồi sanh tâm trộm cướp, phải vào tù ra tội… Khi trai gái lang chạ thì bị người đời khinh bỉ, thậm chí còn đâm chém, hận thù nhau vì tình ái…

Sở dĩ người đời không thấy được cái hại, không chán chường những cái đó là vì họ lấy chúng làm thú tiêu khiển, làm món giải sầu, làm thỏa mãn sự bức bách của khát ái nhục dục. Họ tưởng rằng chúng sẽ tạo cho con người sự êm ái, hạnh phúc hơn. Nhưng em ạ, lạc thú thì mang tính chất rong ruổi, tìm cầu, không thỏa mãn và hụt hẫng. Lấy một thú vui cảm giác để làm thỏa mãn sự bức bách của cảm giác thì làm sao chấm dứt được. Em chưa thấy rõ cảm giác của những kẻ lấy bốn món vừa kể trên để tìm thú vui, chẳng khác nào như kẻ bịnh cùi nhìn thấy than hồng như giúp họ qua cơn đau ngứa, con thiêu thân thấy ngọn lửa lao đầu vào… mà đâu biết càng than hồng, càng gãi ngứa thì

càng trầy da tróc thịt, đau đớn biết bao, con thiêu thân càng lao đầu vào ngọn đèn thì càng bị ngọn lửa thiêu thân thành tro bụi.

Do chỗ người đời không phân biệt được đâu là khổ, đâu là sướng, đâu là buồn, đâu là vui, nên đức Phật mới chỉ rõ đời sống dục lạc chính là nguồn gốc của mọi tai họa, là nguyên nhân đem lại đau khổ, để thức tỉnh con người đừng lấy cái vui tạm bợ, cái khổ triền miên, cái nhân đau khổ ấy xây dựng cho quãng đời còn lại của mình.

Bởi vì, những sự kiện, những vấn đề mà em và tôi đang tiếp cận ở cuộc đời luôn luôn có hai mặt. Cái khổ về thể xác hay cái khổ thuộc tinh thần tuy đáng nhàm chán, lìa bỏ, nhưng nếu biết nhận diện ra, tu tập chuyển hóa thì khổ cũng có thể là món thuốc hay để trừ bịnh si mê, đem lại hạnh phúc. Không con đói, nợ đòi thì làm gì thấy cái hại của đổ bác? Không đầu óc lu mờ, xương cốt mục nát thì đâu thấy cái hại của hút chích, men nồng? Suy rộng ra thì tất cả những sai lầm con người vấp phải đều là những bài học

Page 94: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

92 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TÂM THƯ

hay nếu chúng ta biết nhận ra chúng là điều cảnh báo cho ta cần tránh. Có đau đớn thực sự mới khiến chúng ta phản tỉnh, nhớ lâu. Chẳng khác nào lúc nhỏ viết sai chính tả, bị Thầy giáo khẻ lên bàn tay để rồi lần sau không còn tái phạm. Người xưa cũng đã từng nói: “Có vấp phải, mắt mới nhìn sáng suốt. Có đau thương, lòng mới cứng rắn hơn.” Phải không em?

Nói rõ hơn, đó là những kinh nghiệm thực tế giúp chúng ta thức tỉnh và quay đầu hướng thiện. Một khi đã bỏ ác về lành, bỏ quấy về phải thì cuộc sống có ý nghĩa hơn, cao thượng hơn, có ích lợi cho việc bồi dưỡng tính tình trở nên hữu dụng.

Một lần nữa, tôi khuyên em không nên bi quan tuyệt vọng, hãy tự tin từ chính khả năng hướng thiện của mình. Ngay cái xác thân này, em sẽ tìm thấy hạnh phúc chân thật như mong ước. Tại sao vây? Bởi vì trước khi chưa tỉnh ngộ, chúng ta sử dụng thân này như một khí cụ để tô bồi tư dục, hay những việc làm không chính đáng. Nay hiểu rõ, cũng chính ngay thân này giúp cho chúng ta làm

điều thiện để trở thành người hiền lương, bậc Thánh. Vậy thì thân người đâu phải là vật bỏ đi mà nó chính là một phương tiện hữu ích giúp chúng ta tái thiết một con người hoàn thiện, phải không em? Cũng như đôi tay của chúng ta, nếu biết dùng nó trong việc làm lợi lạc thì chúng là đôi tay của vị Bồ-tát, xoa dịu nỗi đau của người đời. Lời nói của chúng ta là những giọt cam lồ mầu nhiệm rót vào tâm can người đang nóng bức vì lo âu khiến được tươi mát dễ chịu. Ngẫm lại cuộc đời của đức Phật, Ngài đã sử dụng thân như thế nào? Đức Phật ăn chỉ để sống, mặc chỉ nhằm che thân, không nhà cửa, rày đây mai đó, thường ở trong rừng hay dưới những cội cây, tình ái đoạn tuyệt, sung sướng xác thịt tuyệt nhiên không nghĩ đến, không nuông chiều xác thân, nhưng lại sử dụng nó để hoàn thành mục đích chuyển mê khai ngộ của mình và cũng nhờ nó mà Ngài đã lưu lại cho hậu thế một tạng kinh điển có số lượng đồ sộ, quý giá.

Trong thư em có hỏi tại sao Phật lại nói: Thân người một

Page 95: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 93

TÂM THƯ ☸

khi mất đi thì muôn kiếp khó tìm lại. Ở điểm này, em phải biết rằng, ngay cả đức Lão Tử cũng có lần than: “Ta có họa lớn vì ta có thân”. Nhưng có lúc ông lại bảo: “Để thân sau, mà ở thân trước. Để thân ra ngoài mà thân còn”. Còn nghĩ đến thân trước thân sau, thân còn, thân mất thì thật ra thân đâu phải là vật đáng bỏ. Có thân thì phải bận rộn, đau khổ vì thân, nhưng chính trong cái thân bận rộn, đau khổ ấy mà người luyện thân, rèn trí đạt được những địa vị cao siêu như Hiền Thánh, Bồ-tát hay Phật quả.

Trong sáu nẻo Thiên, nhơn, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tuy rằng cuộc sống ở cõi Trời có sung túc, dễ chịu u” vui sướng hơn nhưng ở cõi ấy không bằng ở cõi người. Vì sao? Vì cõi ấy chỉ hưởng thọ phước báo, đến khi hết phước báo thì sẽ tiếp tục luân hồi, chịu mọi lầm than cay đắng. Cũng như con nhà giàu ở thế gian, trọn đời ngồi không an hưởng tài sản của cha mẹ, ông bà, đến khi tiêu xài hết tiền của mà không tạo thêm sản nghiệp mới, lúc

ấy trở nên nghèo đói, khổ cực, tứ cố vô thân. Còn sanh ở cõi người, tuy rằng đời sống hơi cơ cực nhưng có nhiều cơ hội để làm việc lành gieo trồng phước nhân giải thoát cho đời sống tiếp theo. Đặc biệt, trong sáu cõi thì chỉ có cõi làm thân người mới mong tác Phật. Ngay nơi tấm thân này, con người có thể chiến thắng những cám dỗ tầm thường, điều phục thân tâm tu nhân giải thoát, vượt ra khỏi lò lửa của sắc dục dấn chìm con người trong bể khổ mênh mông. Làm người hiện tại phước mỏng tội sâu, không lo vun trồng cội phước lại ỷ mạnh hiếp yếu, dựa sang lấn hèn, chất chứa muôn vàn tội ác ví như kẻ leo núi trượt chân, một khi xuống hố khó mong lên được. Đức Phật ví có được thân người cũng giống như con Rùa mù sống ở biển cả, chui đầu vào một bộng cây trôi dạt không phải là chuyện dễ chút nào. Cũng vậy, làm được thân người trầm luân trong ba cõi sáu đường là một điều rất khó. Vì vậy, mà kinh Phật có câu: “Thân người khó được, muôn kiếp khó gặp” và dạy tất cả mọi người phải biết

Page 96: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

94 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TÂM THƯ

quý trọng giá trị thân người của mình trong hiện tại, đừng xem thường và hủy hoại nó.

Mặt khác, em phải biết rằng, nhờ nghiệp duyên làm thiện trong nhiều đời nhiều kiếp nên đời nay em mới được có một thân người trọn vẹn. Vì vậy, em phải gắng dụng thân này một cách khôn ngoan, lợi ích, để không luống uổng kiếp người! Mặc dù em mới tiếp cận với Phật giáo, nhưng tôi nghĩ rằng, em đã gieo trồng hạt giống với Tam bảo đã lâu rồi. Hiện tại, em đã có duyên đọc được sách Phật, thì nên biết cái dụng của sự sống vẫn còn hữu ích, em hãy tiếp tục vun trồng cây thiện, sống lạc quan và đặt niềm tin vào Phật, Pháp, Tăng. Những gì đau thương trước đây em nên đối diện với nó, không xa lánh nó. Em hãy quán chiếu để thấy được bản chất thật của nó chỉ là ảo ảnh, là huyễn mộng, là vô thường, không có chi là chân thật đem lại hạnh phúc, rồi em hãy mỉm cười và biết ơn. Nếu em quán sát và thực tập được như vậy thì tôi tin rằng một ngày kia em sẽ nhận chân ra được giá

trị nhiệm mầu của cuộc sống, thông điệp của đức Phật chỉ dạy cho chúng sanh không xa rời cuộc sống của mình.

Và một lần nữa, tôi hi vọng rằng: để lau khô dòng lệ nóng, để tát cạn bể khổ của cuộc đời, để biến cõi nhân gian ô trược thành một thiên đường hạnh phúc, chúng ta phải nương nhờ chất liệu “Ngũ uẩn” để xây dựng nên thành trì trí tuệ. Đây là con đường an vui đưa nhân loại về với thánh thiện, là nấc thang vững chãi tiến đến giác ngộ, là cội nguồn của mọi pháp lành, xây dựng thế giới an lạc giữa trần gian đau khổ này.

Cuối thư, tôi chúc em sớm nhận chân ra được đâu là thật, đâu là giả, đâu là cội nguồn của hạnh phúc và đâu là cội nguồn của đau khổ, để rồi tôi và em cùng sống trong tình pháp lữ, cùng tu học và hành trì để tái thiết một cõi đời đầy an lạc và hạnh phúc. Chúc em được gội mình trong dòng pháp lạc vô biên.

■ Lam Yên

Page 97: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

TẬP SAN PHÁP LUÂN 95

TIN TỨC ☸

Võ sĩ quyền Anh hạng nhẹ Thái Lan, Manus Boonjumnong, người vừa giành được huy chương vàng Olympic mùa Hè 2004 đã tuyên bố anh sẽ tu sửa mình và xuống tóc để trở thành một tu sĩ Phật giáo sau khi đoạt được huy chương vàng ở Á vận hội thứ 15 tại Doha.

Manus, 26 tuổi, nói rằng, anh ta sẽ khoác chiếc áo cà sa ngay khi anh trở về Bangkok. Và lần này anh ta sẽ không gây ra những lỗi lầm như đã làm cách đây hai năm sau khi giành chiến thắng, nhận huy chương vàng tại Thế vận hội Olympic.

Cái tên Manus - võ sĩ quyền anh nhà nghề người Thái đẹp trai này rất quen thuộc đối với tất cả người dân Thái Lan sau khi anh giành được giải quán quân Quyền anh hạng nhẹ tại Á vận hội vào năm 2004. Nhưng anh ta chẳng mấy chốc rời xa quyền anh vì vướng vào con đường cờ bạc rượu chè, phung phí hàng triệu đồng Baht trong số tiền thưởng mà anh nhận được từ giải đấu.

Sự đạt được đỉnh cao danh vọng đã khiến anh ta xuống dốc, gây nhiều thị phi, tai tiếng và buộc người vợ phải làm đơn li dị. “Đó là tất cả những gì phạm phải trong quá khứ đã khiến tôi phải hối hận cho đến bây giờ”, Manus nói.

Sau khi hạ gục võ sĩ quyền anh Hàn Quốc, Shin Myung-hoon, ở hạng cân 64 kg, giành phần thắng trong trận chung kết với số điểm 22-11, anh đã nói: “Các bạn sẽ thấy sự thay đổi hoàn toàn mới ở nơi tôi. Tôi sẽ cố gắng làm một người cha gương mẫu cho ba đứa con của mình”.

Manus Boonjumnong đoạt huy chương vàng Asias Games và xuống tóc xuất gia

Page 98: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài

96 TẬP SAN PHÁP LUÂN

☸ TIN TỨC

Những người đàn ông sống ở đất nước Thái Lan thường trải qua thời gian khoảng hai tuần để thực tập lối sống trong các tu viện Phật giáo. Manus cho biết anh ta rất kính ngưỡng phong tục này, bởi vì khi sống ở trong chùa, con người sẽ có một cuộc sống trầm tĩnh, hướng thiện và hoàn thiện nhân cách của mình hơn. “Tôi sẽ trải qua thời gian khoảng 14 ngày trong tu viện và sau đó tôi sẽ bắt đầu tập luyện trở lại. Sẽ không có thời gian để phạm phải những sai lầm lần này nữa”, anh ta nói.

Võ sĩ quyền anh người Thái này được biết đến lần đầu tiên sau khi anh đạt được chiếc huy chương Đồng ở giải Vô địch quyền anh Thế giới vào năm 2003. Lúc ở Athens, anh có một chiến thắng lật ngược bằng cách hạ gục tay quyền anh người Cu Ba, Yudel Johnson, là người Thái thứ ba duy nhất đạt được chiếc huy chương vàng ở Thế Vận Hội Olympic.

Anh ta cho biết thêm: “Khi tôi rời khỏi tu viện, quyền anh sẽ là điều ưu tiên đầu tiên của tôi và tôi lập tức sẽ trở lại trung tâm tập luyện”. Sự kiện quốc tế chủ yếu của anh là sẽ tham gia vào Sea Games lần tới, nơi mà

Thái Lan sẽ đăng cai tổ chức Sea Games vào tháng 12 năm tới. Với mục tiêu giữ vững danh hiệu vô địch Olympic ở Bắc Kinh vào năm 2008, Manus nói: “Tôi sẽ nỗ lực hết sức mình để giữ được mục đích đó”.

Sự thành đạt của anh hôm nay là nhờ vào sự khích lệ rất lớn của huấn luyện viên Juan Fontanills và sự tin tưởng của nhiều người dân Thái, “tôi muốn gởi lời cám ơn huấn luyện viên Juan Fontanills, người đã huấn luyện tôi vất vả trong suốt hai tháng ở Cuba. Ở đó. Tôi không thể đi bất cứ nơi đâu, không uống rượu, không cờ bạc, chỉ biết tập luyện liên tục và thực tập buông xả”.

Manus Boonjumnong trở về trong sự chiến thắng không chỉ cho riêng anh mà cho cả đất nước Thái Lan, một đất nước thấm nhuần tinh thần Phật giáo và những người yêu mến anh, đặt hi vọng vào anh. Dù sao, trong khoảng thời gian 2 năm anh giữ được chiếc huy chương vàng cho đến Olympic kế tiếp, anh còn phải nỗ lực tập luyện để chuẩn bị cho mùa Sea Games năm tới.

■ Hải Tâm

Page 99: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài
Page 100: P SAN PHÁP LUÂN - quangduc.com · chánh học nữ, được dịch nghĩa từ Śikṣamāṇā tiếng Phạn, dịch âm là Thức-xoa-ma-na. Một vị Thức-xoa-ma-na, ngoài