54
PHỎNG VẤN BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP LÊ THÀNH LONG “HỌC VIỆN TƯ PHÁP - 20 NĂM CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CÙNG ĐẤT NƯỚC VÀ TẦM NHÌN TƯƠNG LAI” Đồng chí Lê Thành Long - Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phóng viên: Kính thưa Bộ trưởng! Trên cương vị tư lệnh ngành, Bộ trưởng đánh giá như thế nào về những đóng góp của Học viện Tư pháp cho ngành và cho đất nước trong 20 năm qua ? Bộ trưởng: Ngày 11 tháng 02 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 34/1998/QĐ-TTg về thành lập Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (nay là Học viện Tư pháp). Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng, là dấu son khởi đầu của Học viện trong sự nghiệp đào tạo các chức danh tư pháp ở Việt Nam. Khi mới thành lập và hoạt động, tổ chức bộ máy của Học viện còn sơ khai, cơ sở vật chất nghèo nàn; phạm vi đào tạo, bồi dưỡng cũng chỉ giới hạn đối với nguồn bổ nhiệm thẩm phán và một số chức danh thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư N hân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Học viện Tư pháp (11/2/1998 -11/2/2018), Tạp chí Nghề luật đã có cuộc phỏng vấn đồng chí Lê Thành Long, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp về chặng đường 20 năm hình thành, phát triển của Học viện và định hướng phát triển của Học viện Tư pháp trong thời gian tới. Dưới đây là toàn văn cuộc trả lời phỏng vấn: 3 Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

PHỎNG VẤN BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP LÊ THÀNH LONGhocvientuphap.edu.vn/tapchingheluat/Lists... · của Đảng”. Qua 20 năm hình thành và phát triển, Học viện

  • Upload
    others

  • View
    7

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

  • PHỎNG VẤN BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP LÊ THÀNH LONG“HỌC VIỆN TƯ PHÁP - 20 NĂM CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN

    CÙNG ĐẤT NƯỚC VÀ TẦM NHÌN TƯƠNG LAI”

    Đồng chí Lê Thành Long - Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp

    Phóng viên: Kính thưa Bộ trưởng! Trêncương vị tư lệnh ngành, Bộ trưởng đánh giánhư thế nào về những đóng góp của Học việnTư pháp cho ngành và cho đất nước trong 20năm qua ?

    Bộ trưởng: Ngày 11 tháng 02 năm 1998,Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết địnhsố 34/1998/QĐ-TTg về thành lập TrườngĐào tạo các chức danh tư pháp (nay là Học

    viện Tư pháp). Đây là một sự kiện có ý nghĩaquan trọng, là dấu son khởi đầu của Học việntrong sự nghiệp đào tạo các chức danh tưpháp ở Việt Nam. Khi mới thành lập và hoạtđộng, tổ chức bộ máy của Học viện còn sơkhai, cơ sở vật chất nghèo nàn; phạm vi đàotạo, bồi dưỡng cũng chỉ giới hạn đối vớinguồn bổ nhiệm thẩm phán và một số chứcdanh thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư

    N hân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Học viện Tư pháp (11/2/1998 -11/2/2018), Tạp chíNghề luật đã có cuộc phỏng vấn đồng chí Lê Thành Long, Ủy viên Ban chấp hành Trungương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp về chặng đường 20 năm hình thành,phát triển của Học viện và định hướng phát triển của Học viện Tư pháp trong thời gian tới. Dướiđây là toàn văn cuộc trả lời phỏng vấn:

    3

    Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

  • pháp. Với sự quan tâm, lãnh đạo và chỉ đạocủa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, lãnhđạo Bộ Tư pháp qua các thời kỳ, cùng vớitâm huyết, cố gắng, nỗ lực của tập thể côngchức, giảng viên và người lao động, Học việnTư pháp đã xứng đáng với niềm tin mà Đảng,Nhà nước, Chính phủ và Lãnh đạo Bộ Tưpháp giao phó bằng kết quả hoàn thành xuấtsắc nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng được giao,bước đầu khẳng định được vị thế là “cái nôi”về đào tạo chức danh tư pháp của Việt Nam.

    Từ những kết quả bước đầu đó, với sứmệnh, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giaolà chuẩn hóa trình độ kỹ năng nghiệp vụ,bản lĩnh nghề nghiệp, phẩm chất đạo đứccho đội ngũ cán bộ chức danh tư pháp, bổtrợ tư pháp; tập trung thống nhất đầu mốiđào tạo và tạo mặt bằng kiến thức chungcho các chức danh, ngày 25 tháng 02 năm2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hànhQuyết định số 23/2004/QĐ-TTg thành lậpHọc viện Tư pháp trên cơ sở Trường đàotạo các chức danh tư pháp.

    Nhìn lại chặng đường 20 năm đã qua, cóthể khẳng định Học viện Tư pháp đã thực sựvươn mình trở thành một trung tâm đào tạocác chức danh tư pháp hàng đầu tại Việt Nam,có vai trò đặc biệt quan trọng, đã và đangđóng góp to lớn vào sự phát triển của đấtnước. Có thể khái quát những thành tựu cơbản của Học viện như sau:

    Thứ nhất, Học viện Tư pháp có vai tròđặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng,mở ra mô hình đào tạo mới - đào tạo kỹ năngnghề trước khi bổ nhiệm tạo nguồn chức danhtư pháp, bổ trợ tư pháp; hình thành tiêu chuẩn,điều kiện luật định về chuyên môn nghiệp vụkhi bổ nhiệm.

    Thứ hai, Học viện có những đóng góp tolớn vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nguồnnhân lực chất lượng cho ngành tư pháp, ngànhtoà án nhân dân và ngành kiểm sát nhân dân,cho công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà

    nước pháp quyền XHCN của Việt Nam, tạonên lớp lớp cán bộ có chức danh tư pháp, bổ trợtư pháp luôn đem hết tâm huyết và trí tuệ phụcvụ sự nghiệp “trồng người”, “công việc gốccủa Đảng”. Qua 20 năm hình thành và pháttriển, Học viện tư pháp đã và đang đào tạo51.210 học viên và bồi dưỡng cho 33.071 lượtngười cho ngành tư pháp và theo nhu cầu xãhội. Trong số đó, nhiều cựu học viên của Họcviện Tư pháp đã và đang phát huy những phẩmchất và tri thức của người học luật, làm luật đểđóng góp cho sự phát triển của đất nước và nềntư pháp Nước nhà, nhiều đồng chí đã đượcĐảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giaogiữ những cương vị quan trọng.

    Bên cạnh nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng,Học viện cũng tham gia tích cực vào các hoạtđộng xây dựng, hoàn thiện, phổ biến, giáo dụcpháp luật, trợ giúp pháp lý cũng như nghiêncứu và giải quyết những vấn đề đặt ra trongđời sống pháp luật và cải cách tư pháp. Đặcbiệt, Học viện Tư pháp đã bước đầu thực hiệncó hiệu quả Dự án ODA đầu tiên của ngành tưpháp để hỗ trợ Học viện Tư pháp Lào, qua đó,đóng góp trực tiếp vào mối quan hệ hợp tác,tình hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào.

    Thứ ba, Học viện Tư pháp đã khôngngừng phát triển, trưởng thành, cả về quymô, số lượng, chất lượng trên nhiều phươngdiện đồng thời xây dựng được đội ngũ cánbộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học gồmnhiều cán bộ kế tiếp nhau, đầy tâm huyết,luôn gắn kết vì sự nghiệp phát triển của Họcviện. Hiện nay, Học viện đang triển khai 11chương trình đào tạo nghiệp vụ, đào tạonghề với hệ thống chương trình, giáo trình,tài liệu nghiên cứu, tham khảo khá đầy đủ,được biên soạn công phu, bài bản theo địnhhướng ứng dụng nghề nghiệp. Cơ cấu tổchức, đội ngũ cán bộ, giảng viên của Họcviện trưởng thành vượt bậc; công tác nghiêncứu khoa học cũng có những dấu ấn nổi bật.Học viện cũng đã có quan hệ hợp tác quốc tế

    4

    HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

  • 17 đối tác và 11 dự án với các tổ chức quốctế và nước ngoài. Cơ sở vật chất của Họcviện đã được đầu tư khang trang, hiện đại ởHà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

    Với những thành tích đã đạt được, Họcviện Tư pháp đã vinh dự được Đảng và Nhànước tặng thưởng Huân chương lao độnghạng Ba và được Nhà nước Cộng hòa dân chủnhân dân Lào trao tặng huân chương lao độnghạng Ba.

    Tôi ghi nhận, đánh giá cao và nhiệt liệtbiểu dương những thành tích đó của Học viện Tư pháp.

    Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn nhữngđánh giá, tình cảm và tâm huyết mà Bộ trưởngđã dành cho Học viện Tư pháp. Bên cạnhnhững dấu ấn đáng ghi nhận trong 20 nămphấn đấu không ngừng, thẳng thắn nhìn nhận,Học viện Tư pháp chắc chắn vẫn còn nhữngđiểm hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện.

    Xin Bộ trưởng đánh giá thêm về điều này?Bộ trưởng: Bên cạnh những thành tích

    đạt được, thẳng thắn nhìn nhận rằng, Học việnTư pháp vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tụchoàn thiện trong thời gian tới. Tôi xin chỉ ra02 vấn đề chủ yếu sau:

    Thứ nhất, việc triển khai một số nhiệm vụtrọng tâm được xác định trong Đề án “Xâydựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớnđào tạo các chức danh tư pháp”1 còn chậm sovới Kế hoạch đề ra; các chương trình đào tạo,bồi dưỡng chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp,bồi dưỡng cán bộ tư pháp chưa thực sự đadạng, còn mang tính chủ quan của cơ sở đàotạo. Công tác tổ chức hoạt động giảng dạy chưathực sự linh hoạt để phù hợp với nhu cầu, kỳvọng của của từng đối tượng người học; việcứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chấtlượng đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế.

    Thứ hai, trong những năm qua, Học việncòn chưa dành sự ưu tiên đúng mức tới việc

    xây dựng, duy trì và phát triển quan hệ hợptác với các đối tác trong và ngoài nước nênchưa tranh thủ, huy động hiệu quả các nguồnlực bên ngoài cũng như tiếp thu công nghệgiáo dục tiên tiến nhằm thúc đẩy tiến bộtrong hoạt động quản trị, đào tạo, bồi dưỡngcủa Học viện.

    Chính những vấn đề này đã phần nào ảnhhưởng, tác động đến nỗ lực của Học viện Tưpháp trong việc khẳng định vị thế của mìnhtrong công tác đào tạo, bồi dưỡng các chứcdanh tư pháp, bổ trợ tư pháp của đất nước.

    Phóng viên: Trong giai đoạn tới, trướcnhững yêu cầu, nhiệm vụ của Bộ, ngành Tưpháp, xin Bộ trưởng cho biết Học viện Tưpháp cần tập trung vào những nhiệm vụ cơbản nào trong tầm nhìn phát triển mới ?

    Bộ trưởng: Đại hội XII của Đảng xácđịnh mục tiêu “đổi mới căn bản và toàndiện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồnnhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượngcao” là một trong ba đột phát chiến lược vềphát triển kinh tế - xã hội của đất nước;đồng thời Đảng cũng xác định chủ trươngđẩy mạnh đổi mới hệ thống tổ chức và quảnlý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạtđộng của các đơn vị sự nghiệp công lập;cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ranhững đòi hỏi rất to lớn đối với việc đào tạonguồn nhân lực ở nước ta.

    Trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, Đảngvà Nhà nước ta xác định “tiếp tục hoàn thiệnhệ thống pháp luật và nâng cao hiệu lực, hiệuquả thi hành pháp luật; đẩy mạnh cải cáchhành chính, cải cách tư pháp”. Những chủtrương, định hướng trên đặt ra cho Bộ, ngànhtư pháp, các cơ sở đào tạo của Bộ và đặc biệtlà Học viện Tư pháp nhiều cơ hội, thách thức,đặc biệt là trong việc đào tạo các chức danh tưpháp có bản lĩnh chính trị vững vàng, cóphẩm chất đạo đức trong sáng, có năng lực

    1 Phê duyệt kèm theo Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày 08 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ.

    5

    Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

  • chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp thành thạođể phục vụ công cuộc xây dựng nhà nướcpháp quyền xã hội chủ nghĩa.

    Để đáp ứng kỳ vọng và sự quan tâm củaĐảng và Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệuquả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của Họcviện, trong thời gian tới, Học viện cần tậptrung vào các nhiệm vụ trọng tâm sau:

    Thứ nhất, Học viện Tư pháp cần phảithực hiện quyết liệt, hiệu quả đề án “Xâydựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớnđào tạo các chức danh Tư pháp“; cần xácđịnh rõ tầm nhìn, sứ mệnh, định hướng pháttriển của Học viện trong chặng đường tiếptheo, thống nhất nhận thức, hướng đến nềngiáo dục đào tạo, bồi dưỡng hiện đại, hộinhập, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao vềnhân lực của xã hội, của ngành tư pháp, củacông cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam; pháthuy hơn nữa vai trò là cầu nối giữa công tácquản lý Nhà nước về xây dựng pháp luật củaBộ Tư pháp với thực tiễn hành nghề luật.

    Thứ hai, Học viện Tư pháp phải tiếp tụctạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượngvà hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng; cần có tưduy đổi mới mạnh mẽ, đề xuất mô hình đàotạo mới tạo nguồn nhân lực tư pháp chấtlượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển đấtnước và xu thế phát triển đại học; phải chủđộng vươn lên với tinh thần quyết tâm, độtphá, đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm,nâng cao hiệu quả quản trị nội bộ theohướng “tinh gọn, hoạt động hiệu quả, dựatrên kết quả đầu ra”, đẩy mạnh tiến độ vàsớm triển khai thực hiện đề án tự chủ; đây làchìa khóa nâng cao chất lượng đào tạo, bồidưỡng đồng thời tạo động lực và thành quảmới cho đường đến tương lai của Học viện.

    Thứ ba, Học viện Tư pháp cần phải đổimới mô hình tăng trưởng đi theo chiều sâunâng cao chất lượng; đa dạng hoá hình thức,loại hình đào tạo, bồi dưỡng; tập trung nguồnlực đầu tư, chuẩn bị chu đáo từ tuyển sinh, lựa

    chọn đầu vào, có chiến lược phát triển đội ngũgiảng viên trình độ cao để đảm bảo đạt đượcsứ mạng và tầm nhìn đã xác định, thiết kếchương trình phù hợp, tiên tiến, hiện đại;chuẩn hóa quy trình, phương thức, nội dungđào tạo, tích hợp giữa chương trình đào tạotruyền thống và chương trình đào tạo hiệnđại để đa dạng hoá và rút ngắn thời gian đàotạo, nâng cao tính kết nối, liên thông giữacác bậc học, chương trình đào tạo, từ cửnhân luật đến đào tạo nghề luật để đem lạilợi ích cho người học, cho cơ quan, đơn vịsử dụng sản phẩm đào tạo và toàn xã hội, đặcbiệt cần thiết phải có sự thống nhất trong tưtưởng, chỉ đạo và hành động từ các cấp lãnhđạo và sự nhất trí cao của cán bộ giảng dạy,học viên thì mới thành công.

    Thứ tư, Học viện cần đẩy mạnh hợp tácquốc tế, tăng cường phối hợp, kết nối ra bênngoài nhằm làm giàu thêm công nghệ, kinhnghiệm đào tạo, phát triển chương trình đàotạo và môi trường giáo dục thực sự có tínhmở, sáng tạo và hội nhập.

    Với những gì Học viện đã đạt được trongchặng đường 20 năm qua, với sự quan tâm,chỉ đạo sâu sát của Bộ Tư pháp và với quyếttâm cao của tập thể Học viện, tôi tin tưởngrằng, Học viện Tư pháp sẽ có một tương laimới, thời cơ và vận hội mới.

    Nhân dịp kỷ niệm 20 xây dựng và pháttriển của Học viện, thay mặt Ban cán sự Đảng,Lãnh đạo Bộ Tư pháp, tôi thân ái gửi lời chúctốt đẹp nhất tới các thế hệ công chức, viênchức, người lao động của Học viên Tư pháp.Chúc các đồng chí tiếp tục đạt được nhiềuthành tích mới trong sự nghiệp trồng người.

    Phóng viên: Một lần nữa xin trân trọngcảm ơn Bộ trưởng đã trả lời phỏng vấn.Trước thềm năm mới 2018, đón xuân MậuTuất, xin kính chúc Bộ trưởng dồi dào sứckhỏe.Chúc Bộ, ngành Tư pháp năm mới, xuânmới đạt được nhiều thành tích! Xin trân trọngcảm ơn Bộ trưởng!

    6

    HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

  • HỌC VIỆN TƯ PHÁP - 20 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂNĐoàn Trung Kiên1

    1 Tiến sỹ, Giám đốc Học viện Tư pháp

    1. Quá trình hình thành và phát triểncủa Học viện Tư pháp

    Năm 1996, Bộ Tư pháp thành lập Trungtâm Đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán và cácchức danh tư pháp khác để đào tạo, chuẩn hoátrình độ cho các Thẩm phán theo Pháp lệnhThẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993.

    Ngày 11 tháng 02 năm 1998, Thủ tướngChính phủ đã ban hành Quyết định số34/1998/QĐ-TTg về việc thành lập TrườngĐào tạo các chức danh tư pháp, với nhiệmvụ đào tạo Thẩm phán và các chức danh tưpháp khác theo các hình thức tập trung và tạichức. Việc thành lập Trường Đào tạo cácchức danh tư pháp lần đầu tiên đã mở ra môhình đào tạo mới - đào tạo kỹ năng nghềnghiệp để tạo nguồn bổ nhiệm các chức

    danh tư pháp, giúp học viên được trang bịmột cách hệ thống các kỹ năng nghề nghiệpcần thiết, rút ngắn thời gian tự học tập, bướcđầu thực hiện các công việc được giao. Từthành công trong các khoá đào tạo Thẩmphán, Luật sư, Công chứng viên… mô hìnhđào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho các chứcdanh tư pháp dần được khẳng định. Tiêuchuẩn về chuyên môn nghiệp vụ của Thẩmphán, Kiểm sát viên, Chấp hành viên, Côngchứng viên, Luật sư… được nâng lên mộtbước và chính thức được quy định trong cácvăn bản quy phạm pháp luật, theo đó để bổnhiệm các chức danh tư pháp nêu trên ngoàitiêu chuẩn tốt nghiệp cử nhân luật còn phảicó chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ theo từngchức danh.

    Tóm tắt: Ngày 11 tháng 02 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số34/1998/QĐ-TTg về thành lập Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (nay là Học viện Tưpháp). Trong suốt chặng đường 20 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển. Học viện Tưpháp đã có nhiều thành tích xuất sắc, đóng góp vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nguồnnhân lực tư pháp của đất nước, đang ngày càng xứng tầm là trung tâm lớn về đào tạo chứcdanh tư pháp. Kỷ niệm 20 năm ngày truyền thống cũng là dấu mốc lịch sử quan trọng để cácthế hệ thầy và trò Học viện Tư pháp cùng nhau nhìn lại chặng đường đã đi qua và nhận thứcrõ hơn phương hướng, nhiệm vụ phát triển trong tình hình mới.

    Từ khóa: Học viện Tư pháp 20 năm, thành tựu, định hướng phát triểnNhận bài: 10/12/2017; Hoàn thành biên tập: 15/01/2018; Duyệt đăng: 26/01/2018Abstract: On February 11, 1998 the Prime Minister issued the Decision No. 34/1998/QĐ-

    TTg on establishment of the School for Training legal professionals (now is JudicialAcademy). Through 20 years of establishment, maturation and development, JudicialAcademy has made lots of outstanding achievements contributing to the work of training,retraining judicial human resource of the country gradually being big centre of traininglegal professionals. The occasion of 20th anniversary of establishment is important historicallandmark for Judicial Academy’s lecturers and trainees to look back at the past way andunderstand more about direction, duty of development in the new situation.

    Keywords: Judicial Academy of 20 years, achievement, direction of developmentDate of receipt: 10/12/2017; Date of revision: 15/01/2018; Date of approval: 26/01/2018

    7

    Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

  • Nhằm thống nhất công tác đào tạo nghềcho các chức danh tư pháp, thực hiện Nghịquyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày18/11/ 2003, Thủ tướng Chính phủ đã kýQuyết định số 1269/QĐ-TTg phê duyệt Đềán thành lập Học viện Tư pháp. Ngày25/02/2004, Thủ tướng Chính phủ đã banhành Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg vềviệc thành lập Học viện Tư pháp và giaoHọc viện Tư pháp nhiệm vụ đào tạo nghiệpvụ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư,Chấp hành viên, Công chứng viên và cácchức danh tư pháp khác; nghiên cứu khoahọc phục vụ công tác đào tạo; hợp tác vớicác tổ chức, cá nhân trong nước và nướcngoài trong việc đào tạo, bồi dưỡng vànghiên cứu khoa học. Từ thời điểm này, Họcviện Tư pháp đã có cơ sở pháp lý để đi vàoổn định hoạt động, không ngừng phấn đấuvươn lên, có những bước tiến cơ bản, củngcố được trụ sở của Học viện Tư pháp tại HàNội và thành lập Cơ sở tại thành phố Hồ ChíMinh, tạo tiền đề cho sự phát triển cao hơntrong giai đoạn mới.

    Để đáp ứng hơn nữa yêu cầu công cuộccải cách tư pháp, ngày 8/11/2013, Thủtướng Chính phủ ban hành Quyết định số2083/QĐ –TTg phê duyệt Đề án xây dựngHọc viện Tư pháp thành trung tâm lớn đàotạo các chức danh tư pháp nhằm phục vụđắc lực cho việc thực hiện chiến lược cảicách tư pháp, xây dựng Nhà nước phápquyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.Có thể thấy, qua các giai đoạn phát triển, từlịch sử và thực tế Học viện Tư pháp luôn làcái nôi, là trung tâm lớn đào tạo, bồi dưỡngđội ngũ cán bộ chức danh tư pháp, bổ trợ tưpháp của đất nước.

    2. Những thành tựu nổi bật qua 20năm xây dựng và phát triển

    Qua 20 năm hình thành và phát triển, Họcviện Tư pháp đã đạt được nhiều thành tựu:

    - Về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ:Qua 20 năm xây dựng và phát triển, cơ cấu tổchức bộ máy Học viện Tư pháp ngày càngđược hoàn thiện. Từ 6 đơn vị năm 1998 (gồm02 khoa, 04 phòng), 13 đơn vị năm 2004(gồm 04 khoa, 6 phòng 2 trung tâm và cơ sởtại thành phố Hồ Chí Minh) thì nay Học việnTư pháp đã phát triển thành 16 đơn vị (gồm04 khoa, 6 phòng, 5 trung tâm và cơ sở tạithành phố Hồ Chí Minh).

    Để có được bộ máy đủ số lượng, đảm bảochất lượng, nhiều năm qua, Học viện Tưpháp thực hiện nhiều giải pháp như tuyểndụng mới, tiếp nhận và điều chuyển, thichuyển ngạch trong đó đặc biệt chú trọng đếnđội ngũ những người có chức danh tư pháp,có kinh nghiệm. Vì thế, với đội ngũ 58 ngườivào năm 1998, đến nay Học viện Tư pháp có147 công chức, viên chức, người lao động.Cùng với việc phát triển đội ngũ về số lượng,Học viện Tư pháp còn chú trọng đến công tácđào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyênmôn, nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên vàcán bộ quản lý, cử đi học tập nâng cao trìnhđộ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệpvụ. Hiện nay Học viện Tư pháp đã và đangxây dựng được đội ngũ cán bộ viên chứcgồm 01 Phó Giáo sư Tiến sỹ, 15 Tiến sỹ, 54thạc sỹ (trong đó có 19 thạc sỹ đang làmnghiên cứu sinh), 63 cử nhân, 14 cao đẳng,trung cấp và trình độ khác; trong số 147 côngchức, viên chức có 57 người là giảng viên,giảng viên chính và giảng viên cao cấp.

    - Về công tác đào tạo, bồi dưỡng: Đây làmột thành tích nổi bật, là niềm tự hào làmnên uy tín, vị thế, thương hiệu về đào tạo, bồidưỡng của Học viện Tư pháp. Thành tích nàyđược thể hiện:

    + Học viện Tư pháp đặt nền móng và mởra mô hình đào tạo mới - đào tạo kỹ năngnghề nghiệp trước khi bổ nhiệm để tạo nguồnbổ nhiệm các chức danh tư pháp, từ đó, hình

    8

    HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

  • thành tiêu chuẩn, điều kiện luật định vềchuyên môn nghiệp vụ khi bổ nhiệm chứcdanh tư pháp.

    + Học viện Tư pháp đóng góp lớn trongviệc tạo nguồn, hỗ trợ và nâng cao trình độchuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ các chứcdanh tư pháp, bổ trợ tư pháp, công chức, viênchức khác cho các ngành toà án, kiểm sát, tưpháp, hải quan và nâng cao chất lượng nguồnnhân lực theo nhu cầu xã hội. Qua 20 nămhình thành và phát triển, tính đến thời điểmhiện nay, Học viện Tư pháp đã và đang đàotạo được 51.210 học viên, trong đó có 43.049học viên đã được công nhận tốt nghiệp, đã tổchức bồi dưỡng được 331 lớp cho 33.071lượt người. Nhờ đó, sự thiếu hụt về nguồnnhân lực tư pháp đã dần được khắc phục vàsớm hình thành đội ngũ cán bộ kế cận cóphẩm chất và năng lực.

    Với xuất phát điểm ban đầu chỉ có mộtđối tượng chức danh tư pháp được đào tạo làThẩm phán, đến nay, Học viện Tư pháp cónhiệm vụ đào tạo 09 chức danh tư pháp vàbổ trợ tư pháp. Từ 01 chương trình đào tạonghiệp vụ xét xử, sau 20 năm, Học viện Tưpháp đã và đang triển khai 11 chương trìnhđào tạo nghiệp vụ, đào tạo nghề. Đặc biệt, đểphục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,sau nhiều năm chuẩn bị, năm 2017, lần đầutiên Học viện Tư pháp triển khai chươngtrình đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốctế và chương trình đào tạo chung nguồnThẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư; triểnkhai được hơn 20 chương trình bồi dưỡng.

    Hàng ngàn cán bộ học viên được đào tạo,bồi dưỡng đã trưởng thành và đảm nhiệm cáccương vị công tác quan trọng trong các cơquan tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hànhán, các văn phòng luật sư, công chứng…

    Học viện đã chú trọng đổi mới công tácđào tạo, bồi dưỡng theo hướng điều chỉnhquy mô đào tạo, đa dạng hóa loại hình đào

    tạo, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trịvà điều kiện năng lực thực tiễn. Bên cạnhviệc tập trung đào tạo tại Hà Nội, Thành phốHồ Chí Minh, Học viện Tư pháp đã mở rộngphạm vi đào tạo tại các địa phương khác.Nhiều lớp bồi dưỡng theo nhu cầu xã hội củaHọc viện Tư pháp đã khẳng định đượcthương hiệu, có uy tín. Học viện Tư pháp đãvà đang trở thành địa chỉ tin cậy, có uy tínđối với đội ngũ cán bộ, công chức các cấp,các ngành và nhu cầu xã hội trong lĩnh vựcđào tạo, bồi dưỡng nghề luật.

    - Về công tác nghiên cứu khoa học: Làcơ sở giáo dục đào tạo, bồi dưỡng, Học việnTư pháp rất quan tâm đến hoạt động nghiêncứu khoa học, nhất là trong việc ứng dụnghoạt động nghề luật. Từ khi thành lập đếnnay, Học viện Tư pháp đã có nhiều côngtrình nghiên cứu khoa học đóng góp cho sựphát triển của hệ thống pháp luật, ngành tưpháp cũng như hoạt động giáo dục, đào tạochức danh tư pháp, với 01 đề tài khoa họccấp Nhà nước, 11 công trình nghiên cứukhoa học cấp Bộ và 86 công trình nghiêncứu khoa học cấp cơ sở. Học viện Tư phápcũng đã tổ chức được khoảng 100 Hội thảo,hội nghị, tọa đàm khoa học trong nước vàquốc tế. Nhiều hội thảo khoa học của Họcviện Tư pháp có chất lượng cao, đóng gópnhiều ý kiến khoa học quan trọng trong việcxây dựng hệ thống pháp luật như Hội thảovề Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội thảo đónggóp ý kiến sửa đổi và bổ sung Hiến phápnăm 1992; Hội thảo về chứng cứ, đánh giáchứng cứ trong tố tụng hình sự, Hội thảo vềđấu giá tài sản. Tạp chí Nghề luật ra đời từnăm 2005 với kỳ hạn xuất bản 02 tháng/01số. Từ tháng 04/2016 Tạp chí Nghề luật đãđược cấp giấy phép xuất bản 01 tháng/01 số,là tạp chí được Hội đồng chức danh giáo sưNhà nước công nhận là tạp chí được tínhđiểm khoa học tại Hội đồng chức danh giáo

    9

    Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

  • sư ngành khoa học an ninh năm 2010 và Hội đồng chức danh giáo sư ngành luật họcnăm 2012.

    Với những thành tích đó, Học viện Tưpháp là một trong ba đơn vị thuộc Bộ Tưpháp được Bộ Khoa học và Công nghệ cấpGiấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoahọc và công nghệ.

    - Về công tác hợp tác quốc tế: Đào tạonghề các chức danh tư pháp và định hướngứng dụng nghề luật là hoạt động đào tạo khámới mẻ. Việt Nam chưa có nhiều kinhnghiệm. Vì thế, Học viện Tư pháp đã tíchcực chủ động mở rộng hợp tác quốc tế,tranh thủ thực hiện nhiều hoạt động hợp tácnhằm đúc rút học tập kinh nghiệm của cácnước trong đào tạo, bồi dưỡng chức danh tưpháp, bổ trợ tư pháp, góp phần nâng caochất lượng đào tạo, bồi dưỡng và nghiêncứu khoa học; tổ chức thành công nhiềuhoạt động đối ngoại quan trọng, khẳng định

    vị thế của Học viện. Trong 20 năm qua, Họcviện Học viện Tư pháp đã và đang thực hiện11 dự án, có mối quan hệ hợp tác với 17 đốitác trong lĩnh vực pháp luật và đã ký 08 thỏathuận hợp tác với các đối tác quốc tế này2.Từ chỗ chỉ nhận hỗ trợ ODA nước ngoài,hiện nay, Học viện Tư pháp còn được giaolà cơ quan thực hiện Dự án ODA hỗ trợ Họcviện Tư pháp quốc gia Lào với nhiệm vụgiúp hỗ trợ xây dựng, hoàn thiện chươngtrình, giáo trình, tài liệu giảng dạy cho cácchức danh tư pháp, cán bộ pháp luật và tưpháp của Lào và nâng cao năng lực cho độingũ giảng viên của Học viện Tư pháp Lào,các chức danh tư pháp, cán bộ pháp luật vàtư pháp công tác trong các lĩnh vực nêu trênthông qua các khoá đào tạo dài hạn, trunghạn, ngắn hạn và các hội thảo toạ đàm tạiLào và Việt Nam.

    Thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế,kinh nghiệm giảng dạy, xây dựng giáo trình,

    2 * 11 Dự án đã thực hiện: Dự án TA/2853/VIE “Đào tạo lại cán bộ pháp luật của Chính phủ”; Dự án hỗ trợ cải cáchtư pháp và pháp luật Việt Nam (JOPSO, Đan Mạch); Dự án phát triển tư pháp và sự tham gia từ cơ sở do Chínhphủ Canada tài trợ (Dự án JUDGE); Dự án Phát triển Lập pháp quốc gia (NLD - Canada); Dự án Hỗ trợ thể chế doEC (Ủy Ban Châu Âu) tài trợ; Dự án “Nghiên cứu áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9000 vào hoạt động của Học việnTư pháp”; Dự án Hỗ trợ Thi hành pháp luật về hội nhập kinh tế (USAID - Hoa Kỳ);Dự án Quản trị nhà nước nhằmtăng trưởng toàn diện (GIG - Hoa kỳ); Dự án hỗ trợ Học viện Tư pháp thí điểm nâng cao năng lực đào tạo các chứcdanh tư pháp làm việc với trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em bị hại và trẻ em có liên quan đến pháp luật trong cáchoạt động về trợ giúp pháp lý (do SCS tài trợ); Dự án tăng cường Hệ thống Tư pháp thông qua việc nâng cao nănglực và rà soát pháp luật liên quan đến bạo lực đối với phụ nữ do UN Women tài trợ; Dự án Hỗ trợ Học viện Tư phápquốc gia Lào.* 17 Đối tác trong lĩnh vực pháp luật: Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB); Quỹ hỗ trợ các dự án nhỏ (SPF); Cơquan phát triển quốc tế Nhật Bản (JICA); Hội đồng Thừa phát lại quốc gia Pháp; Trường Thẩm phán quốc giaPháp; Hội đồng Công chứng tối cao Pháp; Cơ quan liên chính phủ cộng đồng Pháp ngữ; Nhà Pháp luật Việt-Pháp;Đại học Lyon III; Cơ quan liên hợp quốc về Trao quyền cho phụ nữ và Bình đẳng giới (UN Women); Quỹ Hợp tácquốc tế về pháp luật Đức (Quỹ IRZ) và Viện Friedrich Ebert Stiftung Đức (Viện FES); Học viện Tư pháp quốc giaLào; Học viện Tư pháp Đài Loan; Tổ chức hỗ trợ trẻ em Thụy Điển (SCS); Diễn đàn thương mại và phát triển củaLiên hợp quốc (UNCTAD); Học viện Hoàng gia về đào tạo nghề tư pháp thuộc Bộ Tư pháp Campuchia; Học việnTư pháp quốc gia Mát-xcơ-va mang tên Ku-ta-phin.*08 Thỏa thuận hợp tác mà Học viện Tư pháp đã tham gia ký kết: Thỏa thuận hợp tác với Học viện Tư pháp quốcgia Mát-xcơ-va; Thỏa thuận Hợp tác với Học viện đào tạo Thẩm phán và Công tố viên, Bộ Tư pháp Đài Loan; Thỏathuận hợp tác với Hội đồng công chứng tối cao Cộng hòa Pháp và Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam; Thỏa thuận hợptác với Hội đồng thừa phát lại quốc gia Pháp và Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam; Thỏa thuận hợp tác với Trườngthẩm phán quốc gia CH Pháp; Thỏa thuận hợp tác với đại học Nottingham Trent, Vương quốc Anh; Thỏa thuận hợptác với Học viện Tư pháp quốc gia CHDCND Lào; Thỏa thuận hợp tác với Học viện Hoàng gia về đào tạo nghề tưpháp thuộc Bộ Tư pháp Vương quốc Campuchia.

    10

    HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

  • tài liệu, học liệu giảng dạy, phương phápgiảng dạy của Học viện Tư pháp được nânglên đáng kể góp phần đảm bảo chất lượngđào tạo chức danh tư pháp, tạo nên phongcách riêng được một số cơ sở đào tạo luật họctập áp dụng trong hoạt động xây dựng giáotrình, tài liệu phục vụ đào tạo pháp luật củaViệt Nam hiện nay.

    - Về cơ sở vật chất: Được sự quan tâmcủa Đảng và sự đầu tư hiệu quả của Nhànước, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ hoạtđộng đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoahọc của Học viện Tư pháp được nâng cấp,xây dựng mới ngày càng khang trang, hiệnđại, góp phần quan trọng làm nên nhữngthành tích rất đáng tự hào của Học viện trongsuốt bề dày 20 năm xây dựng và phát triển,đặc biệt là trong những năm gần đây. Vớixuất phát điểm cơ sở vật chất tại số 10 PhanVăn Trường có diện tích nhỏ hẹp, từ năm2013, Học viện Tư pháp đã chuyển trụ sở vềsố 9 Trần Vĩ khang trang, to đẹp hơn. Năm2017, Học viện Tư pháp còn đưa vào sử dụngcơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh số 821 KhaVạn Cân (trước đây là 180 bis Kha Vạn Cân)với tòa nhà 01 tầng hầm và 15 tầng nổi đầyđủ tiện nghi cơ sở vật chất, ký túc xá sau 17năm Học viện phải đi thuê trụ sở tại Thànhphố Hồ Chí Minh.

    - Về công tác Đảng, đoàn thể: Trong 20năm qua, công tác Đảng, đoàn thể của Họcviện có nhiều nét khởi sắc. Học viện Tư phápluôn chú trọng công tác giáo dục chính trị tưtưởng gắn liền với công tác chuyên môn,phát triển phong trào văn hóa, thể dục, thểthao và công tác từ thiện hướng về cộng đồngxã hội. Cán bộ đảng viên, đoàn viên Học việnTư pháp luôn có ý thức chấp hành tốt các chủtrương, chính sách của Đảng, pháp luật củaNhà nước; có ý thức trách nhiệm khi thựchiện công việc và hăng hái tham gia hoạtđộng các phong trào.

    Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển,dù có những thời điểm khó khăn song Họcviện Tư pháp luôn khẳng định được là cơquan có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọngtrong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng chức danhtư pháp, bổ trợ tư pháp. Với bề dày thành tíchđã đạt được trên chặng đường 20 năm xâydựng và phát triển, Học viện Tư pháp đãđược Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huânchương lao động hạng Ba, Thủ tướng Chínhphủ tặng Bằng khen năm 2008 và năm 2013;được Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dânLào trao tặng huân chương lao động hạngBa; được Bộ Tư pháp ghi nhận nhiều nămliền là tập thể lao động xuất sắc, được biểudương và được tặng thưởng cờ thi đua ngànhtư pháp và nhiều Bằng khen của Bộ trưởngBộ Tư pháp. Nhiều tập thể, cá nhân của Họcviện cũng đã được công nhận là tập thể laođộng xuất sắc được Thủ tướng Chính phủ,Bộ trưởng Bộ Tư pháp tặng Bằng khen.

    3. Định hướng phát triển của Học việnTư pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030

    Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày8/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phêduyệt Đề án Xây dựng Học viện Tư phápthành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tưpháp xác định mục tiêu tổng quát là: “Xâydựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớnđào tạo nghề Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sátviên, Chấp hành viên, Công chứng viên vàcác chức danh tư pháp khác thuộc thẩmquyền quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhucầu về số lượng và chất lượng các chức danhtư pháp theo Chiến lược và Quy hoạch pháttriển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn2011 - 2020, phục vụ đắc lực cho việc thựchiện chiến lược cải cách tư pháp, xây dựngNhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vàhội nhập quốc tế; mục tiêu cụ thể giai đoạn từnăm 2016 đến năm 2020 là tạo sự đột phátrong việc nâng cao chất lượng đào tạo

    11

    Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

  • nguồn nhân lực phục vụ Chiến lược cải cáchtư pháp.

    Nghị quyết số 06 – NQ/TW ngày5/11/2016 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấphành Trung ương Đảng Khóa XII về thựchiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tếquốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hộitrong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp địnhthương mại tự do thế hệ mới đã xác định chủtrương chung trong 5 - 10 năm tới tăngcường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ,trình độ pháp luật quốc tế.

    Chương trình trọng tâm công tác cải cáchtư pháp giai đoạn 2016 – 2021 số 1087 –CTr/BCSĐCP ngày 22/9/2016 của Ban Cánsự Đảng Chính phủ đã xác định xây dựng vàđào tạo đội ngũ cán bộ là một trong các nhiệmvụ trọng tâm của cải cách tư pháp giai đoạn2016 – 2020, đòi hỏi đổi mới và nâng caochất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cánbộ tư pháp gắn với tiêu chuẩn, chức danh bảođảm trình độ chuyên môn, năng lực và phẩmchất chính trị, bố trí đủ số lượng cho các cơquan tư pháp và đổi mới căn bản, toàn diện,nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ pháp luậtvà các chức danh tư pháp theo tinh thần Nghịquyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ươnglần thứ 8 (Khóa XI); đổi mới nội dung,phương pháp đào tạo cử nhân luật, xây dựngcơ chế thu hút, tuyển chọn những người cótâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc tại các cơquan tư pháp và bổ trợ tư pháp, mở rộngnguồn bổ nhiệm và cơ chế thi tuyển để chọnngười bổ nhiệm vào các chức danh tư phápvà đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án “Xâydựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớnđào tạo các chức danh tư pháp”.

    Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp đã định hướngHọc viện Tư pháp phải tự chủ 100% trướcnăm 2021. Với những định hướng lớn củaĐảng, Nhà nước và Bộ Tư pháp nêu trên, Họcviện Tư pháp cần có tầm nhìn mới trong phát

    triển, cần đặt mục tiêu vươn ra quốc tế với sứmệnh của Học viện Tư pháp trong những nămtiếp theo là “Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhânlực tư pháp chất lượng cao, đáp ứng yêu cầucông cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhànước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hộinhập quốc tế”. Để trở thành trung tâm lớn đàotạo các chức danh tư pháp của Việt Nam,chúng tôi cho rằng mục tiêu phát triển chungHọc viện Tư pháp là phải giữ vị trí trung tâmtrong các cơ sở đào tạo chức danh tư pháp,gia nhập hệ thống giáo dục quốc dân và đếnnăm 2030 trở thành cơ sở đào tạo, bồi dưỡngvà nghiên cứu khoa học thuộc hệ thống giáodục quốc dân theo định hướng ứng dụng, cóchỉ số xếp hạng cao trong khung xếp hạng cơsở giáo dục quốc dân Việt Nam.

    Để làm được điều đó, Học viện Tư phápphải tạo nên sự khác biệt trong việc cung cấpsản phẩm đào tạo, cạnh tranh với các sảnphẩm của Học viện Toà án, Đại học Kiểm sátHà Nội, Trường Luật sư Việt Nam trongtương lai bằng cách phải có “sản phẩm hạnchế L (Limited)”, “sản phẩm đặc biệt, SE –Special Edition” và các sản phẩm “sản phẩmđồng loạt” có chất lượng cao so với các cơsở đào tạo chức danh tư pháp khác. Nếuchúng ta tiếp tục duy trì hoạt động để có “sảnphẩm đồng loạt” như hiện nay thì các sảnphẩm của chúng ta sẽ phải cạnh tranh gay gắtvới các sản phẩm của các cơ sở đào tạo chứcdanh tư pháp khác trong khi “phạm vi, nhucầu thị trường” rất hạn chế và họ có nhiều lợithế cạnh tranh hơn chúng ta về chức năng,nhiệm vụ, thẩm quyền quản lý, sử dụng sảnphẩm đào tạo, bồi dưỡng.

    Học viện Tư pháp cần phải xây dựng lạithương hiệu dựa trên 3 yếu tố cơ bản: (i) chấtlượng sản phẩm đào tạo và bồi dưỡng, (ii)chương trình đào tạo, bồi dưỡng phải thu hút“khách hàng” là người học và người sử dụngsản phẩm đào tạo, bồi dưỡng và (iii) hoạt

    12

    HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

  • động đào tạo, bồi dưỡng phải tiện dụng, hiệnđại, linh hoạt.

    Với chiến lược khắc phục những khiếmkhuyết nội tại để chiếm lĩnh các cơ hội, mụctiêu cơ bản của giai đoạn từ nay đến năm2020, Học viện Tư pháp phải thực hiện 3 độtphá chiến lược gồm (i) xây dựng nguồn nhânlực đủ số lượng, năng lực đáp ứng yêu cầutrong thời gian tới, (ii) đổi mới hệ thống quảntrị đào tạo, bồi dưỡng theo hướng phục vụ và(iii) tạo dựng môi trường văn hóa chất lượngkhi thực hiện bất cứ công việc gì. Ba đột pháchiến lược này phải được tiến hành songsong, đồng thời.

    4. Một số giải pháp trọng tâm cần thựchiện trong thời gian tới

    4.1. Về đào tạo, bồi dưỡng- Khẩn trương, tích cực, tập trung mọi

    nguồn lực để hoàn thành nhiệm vụ đề nghịThủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ bổ sungđào tạo cử nhân luật định hướng ứng dụngnghề luật cho Học viện Tư pháp.

    - Triển khai thí điểm các lớp có chất lượngcao trong từng chương trình đào tạo, để tạonên các sản phẩm hạn chế hoặc sản phẩm đặcbiệt, thông qua thi tuyển đầu vào, bố trí giảngviên giỏi và giàu kinh nghiệm tham gia giảngdạy, lớp học nhóm nhỏ và trang bị hệ thốnggiáo trình, tài liệu, hồ sơ tình huống, trangthiết bị phòng học, thực hành nghề luật đầyđủ, tiến tới đến năm 2020 trở đi sẽ triển khaiđồng loạt các lớp chất lượng cao này.

    - Tập trung mọi nguồn lực và quyết liệttrong chỉ đạo điều hành cải tổ toàn diện hệthống hồ sơ tình huống, dữ liệu tình huống,xây dựng các video – clips tình huống; xâydựng và hoàn thiện hệ thống học liệu điện tửnhất là các giáo trình, án lệ, kết quả nghiêncứu khoa học từ các bài viết trên tạp chí, đềtài ứng dụng trong hoạt động nghề luật vàtham gia kết nối cơ sở dữ liệu điện tử với cáccơ sở đào tạo luật khác.

    - Xây dựng hệ thống các phần mềm quảnlý, điều hành, thông tin hoạt động đào tạo,bồi dưỡng.

    - Thường xuyên tổ chức các buổi hộithảo, tọa đàm, bình luận trên các phương tiệnthông tin đại chúng về những vấn đề pháp lýlớn, những vụ việc lớn, nhiều quan điểmtranh cãi pháp lý; phối hợp với Viện nghiêncứu lập pháp, Ủy ban Tư pháp của Quốc hộiđể đóng góp thêm ý kiến, góc nhìn của Họcviện Tư pháp đối với việc giải quyết các vụán bị giám sát của Ủy ban này.

    - Xây dựng và ban hành Bộ tiêu chuẩn,tiêu chí và quy trình đánh giá chất lượngchương trình đào tạo, bồi dưỡng các chứcdanh tư pháp của Học viện Tư pháp để mộtmặt định kỳ rà soát, đánh giá và hoàn thiệncác chương trình đào tạo, mặt khác để côngbố, khẳng định cho xã hội biết sản phẩm đàotạo, bồi dưỡng của Học viện Tư pháp có chấtlượng như thế nào, đảm bảo 100% học viêntheo học các khóa đào tạo, bồi dưỡng đượckhảo sát, định kỳ 3 năm/lần tổ chức lấy ýkiến của người sử dụng sản phẩm sau đàotạo, bồi dưỡng.

    4.2. Xây dựng nguồn nhân lực chấtlượng đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới

    Việc tạo dựng nguồn nhân lực chất lượngcao phải đảm bảo yêu cầu thực hiện được cácđịnh hướng phát triển trong thời gian tới màkhông gây ra những hệ lụy về sự mất ổn địnhchính trị, phát triển bền vững, nhân văn, phùhợp với điều kiện, văn hóa của Học viện, làđơn vị sự nghiệp công lập, chịu sự chi phốimạnh của yếu tố hành chính. Đầu tư chonhân lực luôn là sự đầu tư khả dụng nếu Họcviện muốn phát triển lâu dài và vững chắc.Đã đến lúc lãnh đạo Học viện, lãnh đạo cácđơn vị phải thay đổi tư duy về vấn đề này, coiphát triển nguồn nhân lực của đơn vị lànhiệm vụ chiến lược và thường xuyên đểtăng cường nội lực cho tổ chức.

    13

    Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

  • Nhân tố quyết định chất lượng công táccủa toàn Học viện trong thời gian tới là nguồnnhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tìnhhình mới. Đội ngũ cán bộ của Học viện phảilà nguồn nhân lực cao về phẩm chất chính trị,tư tưởng, đạo đức, phong cách; đồng thời phảicó trình độ chuyên môn sâu sắc, có hiểu biết,kinh nghiệm thực tiễn, được làm việc trongmôi trường sư phạm mẫu mực và trong điềukiện cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại.

    Để tạo dựng được nguồn nhân lực chấtlượng cao, đáp ứng yêu cầu định hướng pháttriển của Học viện Tư pháp từ nay đến năm2020, tầm nhìn 2030, Học viện Tư pháp cầnphải thực hiện các giải pháp sau đây:

    - Xây dựng kế hoạch tổng thể để hoạchđịnh nguồn nhân lực của Học viện Tư pháptừ nay đến năm 2020, tầm nhìn 2030, trongđó xác định các chương trình cụ thể cho từngnăm. Ban hành Kế hoạch tuyển dụng, chuyểnngạch, viên chức và người lao động của Họcviện Tư pháp cho giai đoạn từ nay đến năm2020, trong đó xác định rõ chỉ tiêu, vị trí việclàm, nội dung, hình thức trong từng năm.

    - Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thứcvề đào tạo theo hình thức tín chỉ cho cácgiảng viên cơ hữu của Học viện Tư pháp, cáclớp bồi dưỡng, tập huấn về phương pháp đàotạo hiện đại cho các giảng viên thỉnh giảng,

    - Xây dựng kế hoạch đào tạo về trình độchuyên môn, ngoại ngữ, bồi dưỡng phát triểnđội ngũ giảng viên cơ hữu của Học viện Tưpháp hàng năm, đảm bảo đến năm 2020 cókhoảng 50% giảng viên cơ hữu có trình độTiến sỹ, 30% giảng viên cơ hữu có trình độngoại ngữ đạt mức B3 Khung ngoại ngữ ViệtNam; đến năm 2030 có 100% giảng viên cótrình độ Thạc sỹ trong đó có khoảng 75%giảng viên có trình độ Tiến sỹ và đạt trình độngoại ngữ ở bậc B3.

    - Xây dựng kế hoạch bài bản đưa cácgiảng viên cơ hữu của Học viện tham gia các

    hoạt động thực tế tại toà án, viện kiểm sát,văn phòng hoặc công ty luật, tổ chức hànhnghề công chứng.

    - Hàng năm rà soát, kiện toàn và pháttriển đội ngũ giảng viên thỉnh giảng đảm bảocác tiêu chí giàu kinh nghiệm, có uy tín vàtâm huyết với sự nghiệp giáo dục, đào tạo cácthế hệ tiếp theo.

    4.3. Về nghiên cứu khoa họcTiếp tục đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu

    khoa học. Những đề tài khoa học cấp Họcviện phải thực sự có chất lượng, tập trungkhai thác những khía cạnh, vấn đề thực sựbức thiết của đời sống pháp luật, tư pháp màlý luận cũng như thực tiễn đang đặt ra, phụcvụ thiết thực hoạt động đào tạo, bồi dưỡngvà có thể chuyển giao ứng dụng tại các cơquan nhà nước; tránh tình trạng nghiên cứukhoa học để lấy thành tích.

    4.4. Về hợp tác quốc tếTiếp tục duy trì và đẩy mạnh hoạt động

    hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo nhằmthu hút, tận dụng nguồn lực của các đối tácquốc tế phục vụ nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡngcủa Học viện, đặc biệt là công tác triển khaithực hiện chương trình đào tạo mới, chươngtrình đào tạo chất lượng cao; đặc biệt Họcviện sẽ cùng với các đơn vị thuộc Bộ Tưpháp phải quyết tâm triển khai và thực hiệnthành công Dự án ODA hỗ trợ cho Học Tưpháp quốc gia Lào.

    4.5. Về hoạt động tư vấn pháp luậtTiếp tục duy trì các hoạt động tư vấn pháp

    luật và thực hiện mạnh mẽ, thực chất Đề ánđổi mới tổ chức và hoạt động của Trung tâmTư vấn pháp luật theo hướng là đơn vị sựnghiệp hoạt động theo cơ chế tự chủ.

    20 năm qua, Học viện Tư pháp tự hào vìđã đóng góp công lao to lớn trong việc đàotạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chức danh tưpháp, bổ trợ tư pháp qua các thời kỳ,...

    (Xem tiếp trang 33)

    14

    HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

  • HỌC VIỆN TƯ PHÁP - 20 NĂM ĐÀO TẠO CÁC CHỨC DANH TƯ PHÁP,BỔ TRỢ TƯ PHÁP VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG

    TRONG THỜI GIAN TỚINguyễn Xuân Thu1

    Tóm tắt: Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học trực thuộc Bộ Tưpháp, với hai chức năng đóng vai trò nòng cốt là đào tạo và bồi dưỡng các chức danh tưpháp, bổ trợ tư pháp. Bài viết sau nhìn nhận, đánh giá lại những thành tựu cơ bản trong 20năm đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp, qua đó đề ra mộtsố giải pháp nằm nâng cao chất lượng đào tạo trong thời gian tới.

    Từ khóa: đào tạo, bồi dưỡng, chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, Học viện Tư pháp, 20 năm

    Nhận bài: 10/12/2017; Hoàn thành biên tập: 15/01/2018; Duyệt đăng: 26/01/2018Abstract: Judicial Academy is a training and scientific science unit under the management

    of Ministry of Justice. It has two key functions namely training and coutinning of legalprofessionals, legal support professionals. The below article reviews, assesses basicachievements for 20 years of training legal professionals, legal support professionals ofJudicial Academy to make recommendations of enhancing quality of training, retraining inthe coming time.

    Keywords: training, retraining, legal professionals, legal support professionals, JudicialAcademy, 20 years

    Date of receipt: 10/12/2017; Date of revision: 15/01/2018; Date of approval: 26/01/2018

    1. Những thành tựu cơ bản 20 năm đàotạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư phápcủa Học viện Tư pháp

    Học viện Tư pháp được thành lập theoQuyết định số 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/02/2004của Thủ tướng Chính phủ (tiền thân là TrườngĐào tạo các chức danh tư pháp được thành lậptheo Quyết định số 34/1998/QĐ-TTg ngày11/02/1998). Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạovà nghiên cứu khoa học trực thuộc Bộ Tưpháp, hoạt động theo Điều lệ trường đại học,có các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sau: i)Đào tạo nghiệp vụ thẩm phán, kiểm sát viên,luật sư, chấp hành viên, công chứng viên vàcác chức danh tư pháp khác; ii) Bồi dưỡngnâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chochấp hành viên, công chứng viên, luật sư và

    cán bộ có chức danh tư pháp khác thuộc thẩmquyền quản lý của Bộ Tư pháp; iii) Nghiên cứukhoa học phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡngcán bộ có chức danh tư pháp; iv) Hợp tác vớicác tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoàitrong việc đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứukhoa học; v) Tùy theo yêu cầu và đòi hỏi củathực tế, Học viện Tư pháp có thể được cơ quancó thẩm quyền giao thêm nhiệm vụ mới2.

    Đào tạo nghiệp vụ xét xử là khóa đào tạođầu tiên được triển khai tại Học viện Tư phápvào năm 1998. Tiếp sau đó, năm 2000 triểnkhai đào tạo nghề luật sư, năm 2001 đào tạonghề công chứng, năm 2002 đào tạo nghiệpvụ thi hành án dân sự, năm 2004 đào tạonghiệp vụ kiểm sát, năm 2010 đào tạo nghiệpvụ lý lịch tư pháp, năm 2011 đào tạo nghề

    1 Tiến sỹ, Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Học viện Tư pháp, Tổng biên tập Tạp chí Nghề luật2 Điều 2, Điều 3 Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg, ngày 25/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Họcviện Tư pháp.

    15

    Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

  • đấu giá và năm 2016 đào tạo nghề thừa phátlại. Sau 20 năm xây dựng và phát triển, mặcdù mỗi thời kỳ có những chính sách pháp luậtkhác nhau về đào tạo chức danh tư pháp, bổtrợ tư pháp nhưng Học viện Tư pháp vẫn làcơ sở đào tạo có chức năng, nhiệm vụ đào tạogần như tất cả các chức danh tư pháp, bổ trợtư pháp và được Thủ tướng Chính phủ chấpthuận xây dựng thành Trung tâm lớn đào tạocác chức danh tư pháp của Việt Nam. Điềunày chứng tỏ Học viện đã khẳng định đượcniềm tin đối với Đảng, Nhà nước và xã hội.

    Có thể khái quát thành tựu đào tạo cácchức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, đồng thờicũng là những đóng góp của Học viện Tưpháp cho ngành và cho đất nước trong 20 quanhư sau:

    Thứ nhất, với xuất phát điểm ban đầuchỉ đào tạo một chức danh tư pháp là Thẩmphán, đến nay, Học viện Tư pháp đã vàđang đào tạo 9 chức danh tư pháp và bổ trợtư pháp (Thẩm phán, Thư ký tòa án, Kiểmsát viên, Luật sư, Chấp hành viên, Thừaphát lại, Công chứng viên, Đấu giá viên,Cán bộ lý lịch tư pháp). Từ một chươngtrình đào tạo nghiệp vụ xét xử, sau 20 năm,Học viện Tư pháp đã và đang triển khai 11chương trình đào tạo nghiệp vụ, đào tạonghề (Chương trình đào tạo nghiệp vụ xétxử, Chương trình đào tạo nghiệp vụ thư kýtòa án, Chương trình đào tạo nghiệp vụkiểm sát, Chương trình đào tạo nghề luậtsư, Chương trình đào tạo luật sư phục vụhội nhập quốc tế, Chương trình đào tạochung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên,luật sư, Chương trình đào tạo nghiệp vụ thihành án, Chương trình đào tạo nghề thừaphát lại, Chương trình đào tạo nghề côngchứng, Chương trình đào tạo nghề đấu giá,Chương trình đào tạo nghiệp vụ lý lịch tư pháp).

    Trước đây, các chương trình đào tạo đềuđược xây dựng theo hình thức niên chế, gồm3 phần riêng biệt (kiến thức chung, kỹ năngchung và kỹ năng định hướng chuyên sâu)thì nay các chương trình đào tạo được xâydựng lại theo hình thức tín chỉ nhằm tạo tínhliên thông, thuận tiện cho người học và tổchức quá trình đào tạo, giảm chi phí chongười học và cho xã hội... Các bài học trongchương trình đều được thiết kế theo mô hìnhxoáy trôn ốc nhằm phát huy tốt nhất khảnăng của người học thông qua triết lý “họcthông qua thực hành” (Lerning by Doing).Nội dung chương trình đào tạo phân định rõthành 3 khối kiến thức phải biết, cần biết vànên biết. Khối kiến thức phải biết phải đượcgiảng dạy trong chương trình đào tạo. Khốikiến thức cần biết và nên biết dành cho ngườihọc tự nghiên cứu, tự học. Các chương trìnhđào tạo hiện nay đều công bố rõ ràng chuẩnđầu ra của chương trình mà người học đạtđược sau khi tốt nghiệp. Đây là bước pháttriển mới trong các chương trình đào tạo hiệnnay so với trước đây.

    Từ năm 1998 đến năm 2001, hoạt động đàotạo chỉ được triển khai tại thành phố Hà Nội, từnăm 2002 việc đào tạo đồng thời được triểnkhai tại thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay, hoạtđộng này đã mở rộng ra ở nhiều tỉnh thànhtrong cả nước như Cần Thơ, Hậu Giang, AnGiang, Tây Ninh, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế,Phú Yên, Gia Lai, Đắk Lắk, Quảng Bình,Nghệ An… nhờ đó người học dễ dàng tiếp cậnvới các chương trình đào tạo, đồng thời giảmthiểu đáng kể chi phí cho bản thân và gia đìnhngười học, chi phí cho xã hội.

    Thứ hai, Học viện Tư pháp đặt nềnmóng và mở ra mô hình đào tạo mới - đàotạo nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp tạonguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp, bổtrợ tư pháp; hình thành tiêu chuẩn, điều kiện

    16

    HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

  • luật định về chuyên môn nghiệp vụ khi bổnhiệm chức danh tư pháp.

    Tham gia các chương trình đào tạo củaHọc viện Tư pháp, người học được trang bịmột cách hệ thống các kiến thức, kỹ năngnghề nghiệp cần thiết, qua đó người học nhanhchóng nắm bắt được kiến thức, kỹ năng nghềmột cách chuyên nghiệp, không còn bỡ ngỡkhi bước chân vào nghề, rút ngắn thời gian tựhọc tập, làm quen với công việc, tự tin hơn khithực hiện các nhiệm vụ được giao.

    Sự thành công của các khóa đào tạo tạiHọc viện Tư pháp đã khẳng định được sự cầnthiết phải đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng trướckhi hành nghề đối với các chức danh tư phápvà bổ trợ tư pháp. Trong các văn bản quyphạm pháp luật liên quan (Luật Tổ chức tòaán nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhândân, Luật Luật sư, Luật Công chứng, LuậtThi hành án dân sự, Luật đấu giá…) Nhànước đã lần lượt quy định “Tốt nghiệpchương trình đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ” làmột trong các tiêu chuẩn, điều kiện cứng khixem xét, bổ nhiệm/công nhận hầu hết cácchức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp ở nước tahiện nay.

    Thứ ba, hoạt động đào tạo của Học việnTư pháp đã góp phần đặc biệt quan trọng tạonguồn nhân lực tư pháp, bổ trợ tư pháp chấtlượng cao cho các ngành liên quan và cho đất nước.

    Trước đây, đánh giá chung về đội ngũ cánbộ chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, cáccấp, các ngành đã từng có chung nhận địnhvề số lượng chức danh tư pháp, bổ trợ tưpháp còn thiếu, cơ cấu đội ngũ cán bộ trongcác ngành tư pháp vẫn còn trong tình trạngmất cân đối, chưa hợp lý giữa các vùng,miền; thiếu hụt số cán bộ có trình độ chuyênmôn cao, có khả năng xử lý các vụ án phứctạp, có kiến thức ngoại ngữ và kỹ năng giải

    quyết vụ việc có yếu tố nước ngoài; một bộphận không nhỏ các chức danh tư pháp, bổtrợ tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu đảmbảo tranh tụng tại phiên tòa; các kiến thức bổtrợ tư pháp, đặc biệt là kiến thức về giámđịnh tư pháp và kỹ thuật điều tra hình sự cònthiếu hụt, dẫn tới những hạn chế trong việckiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Bêncạnh đó, nhiều bất cập, hạn chế kiến thức xãhội, kiến thức hội nhập kinh tế - quốc tế,quản trị hành chính - tư pháp, kỹ năng ứngdụng công nghệ thông tin và khoa học kỹthuật trong hoạt động tư pháp chưa đượckhắc phục.

    Qua 20 năm, Học viện Tư pháp đã đàotạo 51.210 học viên, trong đó có 43.049 họcviên đã được công nhận tốt nghiệp. Cụ thểnhư sau:

    Với kết quả đào tạo như trên, sự thiếu hụtvề nguồn nhân lực tư pháp đã dần được khắcphục. Phần lớn học viên tốt nghiệp từ cácchương trình đào tạo chức danh tư pháp, bổtrợ tư pháp tại Học viện Tư pháp đã được bổnhiệm/công nhận chức danh tư pháp, bổ trợ

    17

    Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

  • tư pháp. Nhiều người hiện đảm trách nhữngchức vụ quan trọng trong hệ thống cơ quantoà án, kiểm sát, thi hành án các cấp, tổ chứchành nghề luật sư, công chứng và đấu giá,khẳng định được uy tín trong nghề. Bổ sungđược lượng lớn chức danh tư pháp, bổ trợ tưpháp đã góp phần giảm thiểu sự thiếu hụtnguồn nhân lực tư pháp nhất là trong bốicảnh nền kinh tế, xã hội Việt Nam ngày càngphát triển, số lượng vụ việc mà các ngành,các cấp phải giải quyết năm sau tăng nhiềuhơn năm trước, tính chất vụ việc ngày càngphức tạp thì kết quả đào tạo của Học viện Tưpháp trong 20 năm qua là thành tích đángtrân trọng, được ghi nhận, đồng thời, thôngqua đó thể hiện được chính sách xã hội hóahoạt động bổ trợ tư pháp của Đảng, Nhànước và Bộ Tư pháp là đúng đắn, phù hợpvới nhu cầu xã hội.

    Thứ tư, kết quả đào tạo chức danh tưpháp, bổ trợ tư pháp của Học viện Tư phápđã góp phần quan trọng trong công cuộc cảicách tư pháp, xây dựng Nhà nước phápquyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do nhândân, vì nhân dân.

    Mục tiêu cải cách tư pháp được xác địnhtrong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lượccải cách tư pháp đến năm 2020 là:“Xâydựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từngbước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sựTổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạtđộng xét xử được tiến hành có hiệu quả vàhiệu lực cao”.

    Trong thời gian gần đây, cơ bản hoạt độngtranh tụng được đảm bảo, chất lượng giảiquyết, xét xử các vụ án tiếp tục được nâng lên,công tác giải quyết, xét xử các vụ, việc dân sựvà vụ, việc hành chính cũng có nhiều chuyển

    biến, tiến bộ cả về tiến độ và chất lượng giảiquyết, thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm tranhtụng; tôn trọng quyền con người; bảo đảm đểcác bên thực hiện đúng và đầy đủ quyền hạn,trách nhiệm và nghĩa vụ tố tụng của họ theoquy định của pháp luật, đặc biệt là nghĩa vụchứng minh, xác định sự thật khách quan củavụ án, các vấn đề pháp lý tranh chấp cần giảiquyết trong vụ án. Phán quyết của Tòa án nhìnchung đã đảm bảo dựa trên cơ sở pháp luật vàcác tình tiết, chứng cứ, lập luận đã được kiểmtra, xem xét, kết luận toàn diện, đầy đủ tạiphiên tòa. Quá trình hỏi và tranh luận tại phiêntòa cơ bản bảo đảm thực sự khách quan, minhbạch và công bằng, không được thiên vị vàđịnh kiến.

    Kết quả đó có sự đóng góp không nhỏ từđội ngũ cán bộ chức danh tư pháp, bổ trợ tưpháp đã qua đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng nghềnghiệp tại Học viện Tư pháp. Những kiếnthức, kỹ năng nghề nghiệp mà người họcđược trang bị từ các chương trình đào tạo củaHọc viện Tư pháp đã phát huy tác dụng, gópphần thực hiện thắng lợi công cuộc cải cáchtư pháp của Đảng và Nhà nước ta.

    Thứ năm, Học viện Tư pháp đã tạo dựngđược giá trị thương hiệu đào tạo nghề luậtcủa mình thông qua những giá trị cốt lõi củahoạt động đào tạo, lợi thế so sánh của mìnhtrong hoạt động đào tạo chức danh tư pháp,bổ trợ tư pháp.

    Để tạo nên sự cạnh tranh bình đẳng tronghoạt động đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợtư pháp, đã có một số cơ sở đào tạo chứcdanh tư pháp được Đảng và Nhà nước chophép thành lập, hoạt động. Tuy nhiên, đếnthời điểm hiện tại, Học viện Tư pháp vẫn làcơ sở đào tạo có uy tín, chất lượng được thểhiện thông qua những giá trị cốt lõi về triết lýđào tạo, chương trình đào tạo, phương phápđào tạo, tư duy quản lý hoạt động đào tạo.

    18

    HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

  • Đây là những vấn đề cốt lõi của cơ sở giáodục không thể có trong thời gian ngắn mà cầncó sự tích lũy, phát triển đến độ nhất định vớisự tâm huyết, học tập kinh nghiệm, quyếttâm chính trị mới có thể có được.

    Trước đây, các chương trình đào tạo đềuđược xây dựng theo hình thức niên chế. Việctriển khai chương trình đào tạo theo hìnhthức tín chỉ, giúp người học chủ động, pháthuy tính sáng tạo, tích lũy được nhiều nhấtkiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm nghềnghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao củaxã hội.

    Đội ngũ giảng viên cơ hữu và thỉnh giảngđược phát triển không ngừng, đáp ứng yêucầu về số lượng và đảm bảo về chất lượng.

    Phương pháp dạy học được sử dụng đadạng, trọng tâm là các phương pháp tích cực,lấy người học làm trung tâm và phương pháptương tác giữa người dạy và người học, giữangười học với nhau, phát huy tối đa tính chủđộng, sáng tạo của học viên, như: giải quyếttình huống (Case study), diễn án (Simulation);thực hành đóng vai (Role-play), thực hànhnghề tại Trung tâm tư vấn pháp luật (Legal Clinic), làm việc nhóm, đồng giảng(Co-training)...

    Hệ thống học liệu (Giáo trình, Hồ sơ tìnhhuống, Chương trình môn học…) được xâydựng và thường xuyên cập nhật, bổ sung đápứng đầy đủ yêu cầu về học liệu của tất cả cácchương trình đào tạo3. Hệ thống học liệu của

    Học viện Tư pháp còn là nguồn tài liệu thamkhảo quý cho các cơ sở đào tạo khác, cho cácchức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp trong quátrình hành nghề.

    2. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo của Học viện Tư pháp trong thờigian tới

    Học viện Tư pháp đang bước những bướccuối cùng trên chặng đường đến “Trung tâmlớn đào tạo các chức danh tư pháp” theoQuyết định số 2083/QĐ-TTg ngày08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Vớinhận thức, “Trung tâm lớn” không chỉ là lớnvề quy mô đào tạo mà còn là lớn ở chứcnăng, nhiệm vụ; lớn ở chất lượng đào tạo; lớnở những hoạt động vì cộng đồng, xã hội chomột nền tư pháp, pháp quyền và hội nhậpquốc tế. Vì vậy, sứ mệnh và đích hướng tớicủa Học viện Tư pháp trong những năm tớisẽ phải trở thành địa chỉ, đối tác tin cậy củaxã hội, đồng thời có sức hút cao đối với đốitác hợp tác trong nước và quốc tế về cả ba trụcột căn bản là đào tạo, bồi dưỡng và nghiêncứu ứng dụng nghề luật.

    Để đạt được mục tiêu đó, Học viện Tưpháp cần đổi mới tư duy về hoạt động đàotạo. Đổi mới không có nghĩa là xóa đi cái cũ,xây cái mới. Đổi mới không có nghĩa là làmlại tất cả, từ đầu mà cần vừa củng cố, pháthuy các thành tựu và điển hình đổi mới, kiênquyết chấn chỉnh những lệch lạc, những việclàm trái quy luật, phát triển những nhân tố

    3 Tính đến ngày 31/12/2017, Học viện Tư pháp đã biên soạn, xuất bản được 17 Giáo trình và 01 Tập bài giảng phụcvụ đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư; 28 Giáo trình phục vụ đào tạo riêng nghiệp vụ vụ xétxử; 03 Giáo trình phục vụ đào tạo riêng nghiệp vụ kiểm sát; 20 Giáo trình phục vụ đào tạo riêng nghề luật sư; 11Giáo trình phục vụ đào tạo nghiệp vụ chấp hành viên và thừa phát lại; 07 Giáo trình phục vụ đào tạo nghề côngchứng; 02 Tập bài giảng phục vụ đào tạo nghiệp vụ lý lịch tư pháp; 01 Giáo trình và 01 Tập bài giảng phục vụ đàotạo nghề đấu giá; 02 Sổ tay đào tạo. Hiện tại, Học viện Tư pháp đang sử dụng 77 bộ hồ sơ tình huống đào tạo luậtsư; 57 bộ hồ sơ tình huống đào tạo nghề công chứng; 40 bộ hồ sơ tình huống đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểmsát viên, luật sư; 40 bộ hồ sơ tình huống đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế; 14 bộ hồ sơ tình huống đào tạonghiệp vụ kiểm sát; 35 bộ hồ sơ tình huống đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự; 40 bộ hồ sơ tình huống đào tạonghề thừa phát lại; 54 bộ hồ sơ tình huống đào tạo nghiệp vụ xét xử; 19 bộ hồ sơ tình huống đào tạo nghề đấu giá;45 bộ hồ sơ tình huống đào tạo nghiệp vụ lý lịch tư pháp.

    19

    Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

  • tích cực mới; đổi mới có trọng tâm, trọngđiểm, có lộ trình phù hợp với thực tế đào tạohiện nay của Học viện Tư pháp. Những hạnchế, thách thức của chương trình đào tạo hiệnnay phải được nhận thức sâu sắc, có giảipháp hữu hiệu và lộ trình để khắc phục, vượtqua để đưa sự nghiệp đào tạo lên tầm caomới, nhất là những hạn chế về quy mô lớp; ýthức chấp hành nề nếp, kỷ luật, kỷ cương giờgiấc trên lớp; chất lượng bài giảng, hồ sơ tìnhhuống; sự tương tác trong đào tạo…

    Tư duy mới là tư duy văn hóa chất lượngtrên mọi phương diện trong đó đối với hoạtđộng đào tạo cần phải chuyển hướng pháttriển chủ yếu theo số lượng sang chú trọngchất lượng và hiệu quả, đồng thời vẫn đápứng yêu cầu số lượng, phát triển mạnh mẽcác chương trình đào tạo, trọng tâm là cácchương trình chuyên sâu theo chuyên ngànhvà vị trí nghề nghiệp; đa dạng hoá các hìnhthức đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội; theohướng chuẩn hóa, hiện đại hóa hoạt động đàotạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lýđiều hành hoạt động đào tạo, thu gọn đầu mốiquản lý, sử dụng cán bộ linh hoạt, hợp lý,khoa học, phù hợp với yêu cầu phát triển củaHọc viện Tư pháp trong tình hình mới; đồngthời thiết lập cơ chế và hệ thống kiểm tra,giám sát đối với chất lượng đào tạo đảm bảotính trung thực, hợp lý, minh bạch.

    Để nâng cao chất lượng đào tạo trong thờigian tới, Học viện Tư pháp cần thực hiệnnhững nhóm giải pháp chính sau đây:

    Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và phát triểnchương trình đào tạo.

    Chương trình đào tạo là yếu tố quan trọnggóp phần nâng cao chất lượng đào tạo chứcdanh tư pháp, bổ trợ tư pháp. Thời gian vừaqua, Học viện Tư pháp đã đổi mới nhiềuchương trình đào tạo từ niên chế sang tín chỉ,công bố chuẩn đầu ra của từng chương trình.

    Tuy nhiên, điều quan trọng là chương trìnhđào cần phải phù hợp với đối tượng đào tạo.Hiện nay, học viên theo học các chương trìnhđào tạo tại Học viện Tư pháp rất đa dang,phong phú về tuổi đời, tuổi nghề, trình độchuyên môn, mục tiêu theo khoá đào tạo vàvùng miền khác nhau. Điều này ảnh hưởngrất lớn đến chất lượng đào tạo. Vì thế, Họcviện Tư pháp cần xây dựng các chương trìnhđào tạo khác nhau phù hợp cho các đối tượngnày. Trong năm 2018, Học viện Tư pháp triểnkhai, xây dựng và thí điểm tổ chức chươngtrình đào tạo luật sư chất lượng cao. Trên cơsở tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiệnthí điểm này có thể nhân rộng đến cácchương trình đào tạo các chức danh khác.

    Bên cạnh đó, Học viện Tư pháp cầnnhanh chóng triển khai hiệu quả nhiệm vụ đềnghị cơ quan có thẩm quyền cho phép hoạtđộng đào tạo cử nhân định hướng ứng dụngnghề luật. Khi được đào tạo cử nhân luật địnhhướng ứng dụng, mô hình đào tạo của Họcviện Tư pháp sẽ tiếp bước mô hìnhLawschool trong đào tạo nghề luật củanhững nước phát triển, giúp rút ngắn thờigian đào tạo, tạo tính liên thông, thống nhất,liền mạch từ bậc đại học đến đào tạo nghề,tiết kiệm chi phí đào tạo cho xã hội.

    Thứ hai, xây dựng đội ngũ giảng viên đủmạnh tham gia đào tạo.

    Đội ngũ giảng viên là nhân tố quyết địnhnhất đến chất lượng đào tạo. Chương trìnhchuẩn, học liệu tốt nhưng không có đội ngũgiảng viên chuẩn thì chất lượng đào tạo cũngkhông thể đạt được như mong muốn. Mỗigiảng viên cần phải biết được trình độ, năng lựcmình thế nào, đang đứng ở đâu, từ đó nỗ lựcphấn đấu nâng cao trình độ, cập nhật kiến thứcmới, lấy chương trình đào tạo chuẩn của quốctế làm thước đo cho chính mình để học hỏi, xâydựng và nâng cao chất lượng bài giảng.

    20

    HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

  • Xây dựng đội ngũ giảng viên phải chútrọng trên 3 phương diện: Quy hoạch pháttriển, sử dụng, nuôi dưỡng môi trường.

    Về số lượng, thời gian tới, Học viện cầncó kế hoạch tuyển dụng đủ số lượng giảngviên cơ hữu còn thiếu. Trong điều kiện tuyểndụng nguồn giảng viên chất lượng đã hànhnghề chức danh tư pháp có khó khăn nhưthời gian vừa qua thì phải khẩn trương tuyểndụng nguồn giảng viên mới chưa có chứcdanh tư pháp, đồng thời có kế hoạch đào tạo,bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệpcho đội ngũ giảng viên này. Ngoài đội ngũgiảng viên cơ hữu, Học viện Tư pháp cần chútrọng phát triển đội ngũ giảng viên thỉnhgiảng giàu kinh nghiệm, có uy tín đạo đứcnghề nghiệp. Muốn vậy, bên cạnh việc xâydựng cơ chế chính sách tăng thù lao giảngdạy như vừa qua đã làm thì điều cần thiết làphải thường xuyên quan tâm, chăm lo, đãingộ, xây dựng mối quan hệ tốt của nhàtrường với giảng viên để giảng viên thỉnhgiảng nhiệt huyết với sự nghiệp trồng ngườicủa Học viện Tư pháp.

    Về chất lượng, quy chế giảng viên hiệnnay của Học viện Tư pháp đã quy định chitiết những nhiệm vụ của giảng viên cơ hữu.Song quy định thôi chưa đủ, quan trọng hơnlà các giảng viên phải thực hiện có chấtlượng tất cả các nhiệm vụ đó. Cùng với quátrình tự học, tự tu dưỡng, rèn luyện, tích lũykinh nghiệm của từng giảng viên, Học việnTư pháp cần xây dựng kế hoạch để đảm bảomỗi giảng viên cơ hữu có điều kiện thực hiệnđầy đủ và có chất lượng nhiệm vụ của mình.Việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viênthỉnh giảng cũng phải được quan tâm thíchđáng. Cùng với việc lựa chọn kỹ càng vềtrình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghềnghiệp, Học viện Tư pháp cần thường xuyêntổ chức tập huấn về phương pháp sư phạm, tổ

    chức thao giảng để từ đó rút ra những bài họcsư phạm tốt, trang bị phương pháp giảng dạytốt nhất cho đội ngũ giảng viên thỉnh giảng.

    Thứ ba, phát triển và chuẩn hóa hệ thốngtài liệu dạy học.

    Tài liệu giảng dạy, học tập là yếu tố gắnliền với chương trình đào tạo. Trong nhữngnăm gần đây, hệ thống giáo trình, hồ sơ tìnhhuống đã được đầu tư xây dựng mới và cậpnhật thường xuyên. Tuy nhiên, so với yêucầu thì hệ thống giáo trình và hồ sơ tìnhhuống vẫn cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện.Trong đó, các giáo trình cần phải đạt đượctiêu chí quan trọng nhất là trang bị đầy đủkỹ năng, hướng dẫn rõ ràng cụ thể quy trìnhgiải quyết/xử lý công việc để đảm bảophương châm “cầm tay chỉ việc” trong đàotạo nghề. Hồ sơ tình huống cần được nghiêncứu, biên tập kỹ càng đảm bảo phù hợp vớimục tiêu bài học, đối tượng đào tạo và ý đồsư phạm.

    Thứ tư, đổi mới hệ thống quản trị đào tạovà xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượngđào tạo chức danh tư pháp.

    Đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo và phụcvụ đào tạo cần được chuẩn hóa về chuyênmôn, nghiệp vụ, có tác phong làm việcchuyên nghiệp với tâm thế của người cungcấp dịch vụ, không ngừng chăm sóc, làm hàilòng người học - khách hàng của mình.

    Hệ thống đảm bảo chất lượng đào tạo nộibộ cần được xây dựng một cách bài bản vàchính thức vận hành trong thời gian sớmnhất. Hệ thống này cần được tiếp cận theomô hình “Quản lý chất lượng tổng thể”, vừađảm bảo quản lý chất lượng đầu vào, vừađảm bảo quản lý chất lượng quá trình, quảnlý chất lượng đầu ra và quan trọng hơn cả làphát triển “văn hóa chất lượng” trong đội ngũcông chức, viên chức, người lao động và họcviên của Học viện Tư pháp./.

    21

    Số chuyên đề Học viện Tư pháp - 20 năm xây dựng và phát triển

  • ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ XUẤT BẢNTẠP CHÍ NGHỀ LUẬT CỦA HỌC VIỆN TƯ PHÁP GIAI ĐOẠN 2018-2030

    Nguyễn Thanh Phú1

    Tóm tắt: Học viện Tư pháp được thành lập theo Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg ngày25 tháng 02 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, bên cạnh hai nhiệm vụ then chốtcủa Học viện Tư pháp là đào tạo và bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học và xuất bản Tạp chíNghề luật cũng được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Bài viếtsau đánh giá về đặc điểm tình hình, thực trạng và định hướng, giải pháp phát triển công tácnghiên cứu khoa học và xuất bản Tạp chí Nghề luật tại Học viện Tư pháp sau 20 năm xâydựng và phát triển.

    Từ khóa: Nghiên cứu khoa học, Tạp chí Nghề luật, định hướngNhận bài: 10/12/2017; Hoàn thành biên tập: 15/01/2018; Duyệt đăng:26/01/2018Abstract: Judicial Academy is established under Decision No. 23/2004/QĐ-TTg dated

    February 25, 2004 of the Prime Minister. Accordingly, besides its two key duties of trainingand coutinning, making scientific research and publishing Legal Profession Review are alsodefined as one of the most important duties. The below article will assess situation, realityand direction, method of developing the task of making scientific research and publishingLegal Profession Review at Judicial Academy after 20 years of establishment anddevelopment.

    Keywords: Scientific Research, Legal Profession Review, directionDate of receipt: 10/12/2017; Date of revision: 15/01/2018 ; Date of approval:

    26/01/2018

    1. Đặc điểm tình hình và định hướngcông tác nghiên cứu khoa học của Họcviện Tư pháp trong 20 năm qua

    Ngày 18 tháng 11 năm 2003, Thủ tướngChính phủ đã ký Quyết định số1269/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề ánthành lập Học viện Tư pháp. Một trong cácmục tiêu của việc thành lập Học viện Tưpháp theo đề án là: “Đẩy mạnh công tácnghiên cứu khoa học theo hướng nâng caotính lý luận và tăng cường tính ứng dụng,góp phần hỗ trợ công tác xây dựng pháp luậtvà hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất,đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”2;“tăng

    cường hợp tác quốc tế và khả năng sử dụnghiệu quả các chương trình hợp tác quốc tếcho công tác đào tạo cán bộ có chức danh tưpháp và nghiên cứu khoa học phục vụ chocông tác đào tạo”3.

    Ngày 25 tháng 2 năm 2004, Thủ tướngChính phủ đã ký Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg về việc thành lập Học viện Tư pháp trêncơ sở Trường Đào tạo các chức danh tư pháp.Theo quyết định, Học viện Tư pháp là cơ sởđào tạo và nghiên cứu khoa học trực thuộcBộ Tư pháp, hoạt động theo Điều lệ trườngđại học. Nghiên cứu khoa học tiếp tục đượcxác định có nhiệm vụ phục vụ công tác đào

    1Tiến sỹ, Trưởng Phòng Quản lý khoa học và Trị sự Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp.2 Điểm f, mục 1, Điều 1.3 Điểm g, mục 1, Điều 1.

    22

    HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP

  • tạo, bồi dưỡng cán bộ có chức danh tư pháp4;Hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong nướcvà nước ngoài trong việc đào tạo, bồi dưỡngvà nghiên cứu khoa học5.

    Học viện Tư pháp được thành lập trongbối cảnh Đảng và Nhà nước đang tích cựctriển khai Chiến lược cải cách tư pháp trongtất cả các mặt của đời sống tư pháp. Từ cải tổcơ cấu tổ chức, thay đổi, bổ sung chức năng,nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp và bổ trợtư pháp đến đào tạo, bồi dưỡng các chứcdanh tư pháp và bổ trợ tư pháp. Trong bốicảnh đó, Học viện Tư pháp vinh dự đượcĐảng và Nhà nước giao cho nhiệm vụ thốngnhất đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp và bổtrợ tư pháp để cung cấp nguồn nhân lực cóchất lượng cao phục vụ cho Chiến lược cảicách tư pháp.

    Việc thành lập Học viện Tư pháp thể hiệnsự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối vớicông tác đào tạo cán bộ tư pháp tại Việt Namthời bấy giờ và chính nhờ sự quan tâm đó đãtạo nên bước phát triển mới về số lượng vàchất lượng nguồn các chức danh tư ph