22
Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam Hòa Thuận – Bình đẳng – Hạnh phúc Bài nghiên cứu khi tiếp cận môn Luật Hôn Nhân Gia Đình Việt Nam – chương trình đào tạo tín chỉ I. Quan điểm của Chủ nghĩa Mac – Lê Nin về vị trí và chức năng của gia đình trong xã hội. Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biết, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu trên cơ sở hôn nhân và huyết thống. Đúng như CMac đã từng nói: “ … Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản than mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nãy nở – đó là quan hệ giữa chồng, và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” Cho nên yếu tố huyết thống và tình cảm là nét bản chất của gia đình. Nhưng xét rộng ra và đầy đủ hơn, gia đình không chỉ là một đơn vị tình cảm – tâm lý, mà còn là một tổ chức kinh tế – tiêu dùng ( sở hữu, sản xuất, thu nhập và chi tiêu…), một môi trường giáo dục – văn hóa ( văn hóa gia đình và cộng đồng), một cơ cấu – thiết chế xã hội ( có cơ chế và cách thức vận động riêng)… 1. Vị Trí Gia Đình: - Gia đình là “tế bào xã hội”. Điều này trước hết chỉ ra rằng, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong mối quan hệ mật thiết ấy, trình độ phát triển về mọi mặt của xã hội quyết định đến hình thức, tính chất, kết cấu và quy mô gia đình. CMac nhiều lần lưu ý rằng: tôn Www.ThoLaw.Wordpress.Com 1

Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam Hòa Thuận ... · Web view- Nhìn chung nam giới lạc quan hơn nữ giới về bản thân, gia đình và tương lai

  • Upload
    vutuong

  • View
    216

  • Download
    2

Embed Size (px)

Citation preview

Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam Hòa Thuận – Bình đẳng

– Hạnh phúc

Bài nghiên cứu khi tiếp cận môn Luật Hôn Nhân Gia Đình Việt Nam – chương trình đào

tạo tín chỉ

I. Quan điểm của Chủ nghĩa Mac – Lê

Nin về vị trí và chức năng của gia đình

trong xã hội.

Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội

đặc biết, được hình thành, duy trì và củng cố

chủ yếu trên cơ sở hôn nhân và huyết thống.

Đúng như CMac đã từng nói: “ … Hàng

ngày tái tạo ra đời sống của bản than mình,

con người bắt đầu tạo ra những người khác,

sinh sôi, nãy nở – đó là quan hệ giữa chồng,

và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”

Cho nên yếu tố huyết thống và tình cảm là

nét bản chất của gia đình. Nhưng xét rộng ra

và đầy đủ hơn, gia đình không chỉ là một

đơn vị tình cảm – tâm lý, mà còn là một tổ

chức kinh tế – tiêu dùng ( sở hữu, sản xuất,

thu nhập và chi tiêu…), một môi trường giáo

dục – văn hóa ( văn hóa gia đình và cộng

đồng), một cơ cấu – thiết chế xã hội ( có cơ

chế và cách thức vận động riêng)…

1. Vị Trí Gia Đình:

- Gia đình là “tế bào xã hội”. Điều này trước

hết chỉ ra rằng, gia đình và xã hội có mối

quan hệ mật thiết với nhau. Trong mối quan

hệ mật thiết ấy, trình độ phát triển về mọi

mặt của xã hội quyết định đến hình thức,

tính chất, kết cấu và quy mô gia đình. CMac

nhiều lần lưu ý rằng: tôn giáo, gia đình, Nhà

nước, pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ

thuật… chi là những hình thức đặc thù của

sản xuất.

Thực tế lịch sử cho thấy, gia đình lần lượt

biến đổi tương ứng với những giai đoạn phát

triển xã hội khác nhau. Theo Ăngghen, trong

xã hội công xã nguyên thủy, trình độ lực

lượng sản xuất rất thấp, cá nhân không tách

rời tập thể, cuộc sống cộng đồng về nhiều

mặt… đã tạo nên hình thức gia đình tập thể

– quần hôn. Mỗi bước tiến của xã hội cộng

đồng nguyên thủy và kết quả do đào thải tự

nhiên lại đưa đến những dạng mới, mang sắc

thái tiến bộ hơn cho hình thái gia đình này.

Giai đoạn đầu của xã hội cộng đồng nguyên

thủy có gia đình cùng dòng máu ( huyết

thống ), các tập đoàn hôn nhân đều phân

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 1

theo thế hệ. Đến giai đoạn giữa của xã hội

cộng đồng nguyên thuỷ xuất hiện gia đình

punaluna ( bạn thân), trong đó quan hệ tỉnh

giao giữa anh ẹm trai với chị em gái đã bị

hủy bỏ. và giai đoạn cuối cùng của xã hội

này đã hình thành gia đình cặp đôi ( đối

ngẫu), trong đó kết hôn từng cặp đã tồn tại

( tuy còn lõng lẻo); trong số vợ rất đông của

mình, người đàn ông có một người vợ chính,

và trong số nhiều người chồng khác, anh ta

lại là người chồng chính của người đàn bà

ấy. Những kiểu trên cúa gia đình tập thể –

quần hôn đều có đặc trưng là: tính giao tập

thể, kinh tế cộng đồng nguyên thủy, chế độ

mẫu hệ, không có áp lực và bất bình đẳng

giữa các thành viên.

Bước sang chế độ nô lệ, trong xã hội nãy

sinh hình thức gia đình cá thể – một vợ một

chồng. Đó là kết quả trực tiếp của việc hình

thành chế độ sở hữu tư nhân và sự phân hóa

giai cấp. Gia đình cá thể là “ hình thức gia

đình đầu tiên không dựa trên những điều

kiện tự nhiên, mà dựa trên những điều kiện

kinh tế – tức là trên thắng lợi của sở hữu tư

nhân đố với sở hữu công cộng nguyên thủy

và tự phát ( tất nhiên, kết quả vẫn do tác

động của quy luật đào thải tự nhiên, ngoài ra

còn có thêm một nguyên nhân nữa là nguyên

nhân tình cảm, thể hiện ở người đàn ông

nhất định).

Như vậy gia đình là sản phẩm của lịch sử.

Nhưng với tư cách là tế bào của xã hội, gia

đình tác động tích cực đến tiến trình phát

triển của xã hội. Ph. Ăngghen nhận định: “

Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định

trong lịch sử, quy đến cùng là sản xuất và

tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng

bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một

mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt; thực

phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần

thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác

là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự

truyền nòi giống.”

Trong hệ thống cơ cấu xã hội có nhiều bộ

phận khác nhau ( dân tộc, giai cấp, giới…);

nhiều thiết chế lớn nhỏ ( Nhà nước, ngành,

đoàn thể…) với tính là tế bào của xã hội, gia

đình là tổ chức cơ sở, là cơ cấu và thiết chế

nhỏ nhất. Cơ cấu thiết chế nhỏ nhất này lại

đa dạng phong phú; trong quá trình vận

động, vừa tuân thủ theo những quy luật của

cơ chế chung vừa theo tính quy định và tổ

chức riêng của mình.

2. Chức năng của gia đình:

Trong thực tế, vị trí vai trò to lớn của gia

đình với tính các là tế bào xã hội được thể

hiện ở các chức năng cơ bản như chức năng

tái sản xuất ra con người, chức năng kinh tế,

chức năng tiêu dùng, chức năng giáo dục và

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 2

chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý của

các thành viên trong gia đình.

Như vậy, gia đình là thiết chế đa chức năng.

Trên đây là những chức năng cơ bản nhất.

Thông qua việc thực hiện những chức năng

này mà gia đình vẫn tồn tại và phát triển,

đồng thời tác động đến tiến bộ chung của xã

hội. Các chức năng được thực hiện trong sự

thúc đẩy, hổ trợ lẫn nhau. Việc phân chia

những nội dung của chúng chỉ là tương đối.

Nhiều khi, các chức năng được thể hiện tổng

hợp trong một công việc hoặc nhiều hoạt

động của gia đình. Ở từng nơi và các giai

đoạn lịch sử khác nhau nội dung và vị trí của

mỗi chức năng có sự biến đổi phù hợp

II. Thực trạng gia đình hiện nay ở Việt

Nam

Hôn nhân là sự kết hợp giữa người đàn ông

và đàn bà nhằm xác lập quan hệ vợ chồng,

xây dựng gia đình, từ khi trong xã hội có

Nhà nước, quan hệ hôn nhân không chỉ phản

ánh ý chí của các cá nhân tham gia vào quan

hệ đó mà còn là ý chí của Nhà nước. Trong

những giai đoạn khác nhau, phụ thuộc vào

cơ sở kinh tế xã hội, Nhà nước đặt ra những

nguyên tắc của Hôn nhân gia đình để định

hướng cho những quan hệ xã hội đó phát

triển theo mục tiêu đã định. Việc xây dựng

gia đình hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc đã

trở thành một đòi hỏi tất yếu của xã hội

Tuy nhiên trong những năm qua số liệu

thống kê cho thấy gia đình Việt Nam hiện

nay còn tồn tại nhiều những vấn đề xã hội

cần quan tâm hơn nữa.

Dưới đây là các số liệu thống kê mà em đã

tìm hiểu từ rất nhiều các cồng thông tin khác

nhau khi tiếp nhận đề tài này.

Dân số Việt Nam năm 2005 là 83.121.700

người, thấp hơn so với dự báo là ( 83,139

triệu người ).

Tỷ lệ tăng dân số là 1,33% , so với 2004

( 1,40%) giảm 0,07%

(Nguồn: Tổng Cục Thống Kê – TCTK –

25/01/2006, Dân số và phát triển, 01/2006,

tr. 18)

Tổng tỷ xuất sinh: (TER)

Năm 2005 là 2,11 – 2004 là 2,23 – 2003 là

2,12

Tại thành thị TER 2005 là 1, 73 và tại nông

thôn là 2,28.

Tỷ lệ chết trẻ sơ sinh ( IMR) tính theo

phần ngàn như sau:

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 3

2002:26 – 2003:21 – 2004 :18 – 2005 :17,8

Số nhân khẩu trong gia đình:

1993: 4,97 – 1998: 4,70 – 2001 -2001: 4,40

– 2002 -2004: 4,36

Bình quân tại nông thôn, số người trong một

gia đình là 4,41 (2004) tại thành thị là 2,36

( ít hơn 1,05 người), nhân khẩu trong các gia

đình nghèo nhất là 4,8; giàu nhất là 2,3

( Nguồn TCTK 01/2006)

Thu nhập bình quân

Năm 2004, bình quân cả nước 484,4 nghìn

đồng/người/ tháng. Tăng 36% so với năm

2001 -2002

(Nguồn DS&PT, 02/2006 tr. 11 -19)

Tỷ lệ trẻ em chết trước 5 tuổi tính theo

phần ngàn:

1999:48,6 – 2001: 32,9 – 2002: 26,0 – 2003:

21,0 – 2004: 18,0 – 2005: 17,8

Tỷ lệ trẻ em chết trước 1 tuổi tính theo

phần ngàn:

2000: cả nước : 31,2 – thành thị: 20,1 –

nông thôn: 34,6

2001: cả nước:  31,0 – thành thị 20,4 – nông

thôn 32,5

2002: cả nước: 26,0 – thành thị 17,0 – nông

thôn: 28,8

2003: cả nước: 21,0 – thành thị: 13,0 – nông

thôn: 21,0

( nguồn: www.vpcfc.gov.vn)

Trẻ em lang thang: Năm 1998 là 19,048 –

năm 2000 là 22,423

Trẻ em nghiện ma túy: Năm 1998 là 2, 755

– năm 2000 là 2.008

Bình quân mỗi năm có 11.768 em dưới 16

tuổi vi phạm pháp luật, nếu tính theo tổng số

toàn dân , tỷ lệ đó là 16.000 em trong

100.000 dân.

Bạo lực gia đình:

Nghiên cứu tại Việt Nam 1999 cho thấy từ

1995 đến 2000 có 106 vụ án bạo lực gia

đình dẫn đến chết người, trong đó người phụ

nữ là nạn nhân chiếm đến 80% .

Năm 2001 có 1.100 vụ giết người trên toàn

quốc thì có 16 % số vụ do người thân giết

nhau.

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 4

Các vụ ly hôn do Tòa án xét xử có tỷ lệ do

bạo lực gia đình khá cao:

1978 có 17.834 vụ ly hôn, thì có 15.570

(87,5%) vì bạo lực gia đình

1991 có 22.634 vụ ly hôn 70,1% số vụ vì

bạo lực gia đình

1992 có 29.225 vụ ly hôn thì 65,2% số vụ vì

bạo lực gia đình

200 có 30.000 vụ ly hôn thì có 70,0% vì bạo

lực gia đình.

(Nguồn: Phòng ngừa tội phạm thanh thiếu

niên, Bộ Công An 10/2004 tr. 232 và 378)

HIV/ AIDS:

Theo ước tính của Bộ Y Tế, mỗi ngày lại có

thêm 100 người bị nhiểm HIV tại Việt Nam,

tình trạng nhiễm HIV đã xảy ra ở tất cả 64

tỉnh thành phố.

Số người sống chung với HIV/AIDS ở Việt

Nam đã tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn

2000 – 2005.

Thế giới hiện có 40 triệu người bị nhiẻm

HIV và hơn 30 triệu người bị tử vong vì

AIDS

(Nguồn: Thông cáo báo chí của UNDP Hà

Nội ngày 28/11/2005. DS%PT, 12/2005)

Ước tính và dự báo:

2005: HIV: 197.500 – AIDS: 48.864 – tử

vong: 44.102

2006: HIV: 207.375 – AIDS: 59.400 – tử

vong: 54.132

2007: HIV: 256.184 – AIDS: 70.974 – tử

vong: 65.171

2008: HIV: 284.227 – AIDS: 83.516 – tử

vong: 77.228

2009: HIV: 315.568 – AIDS: 97.175 – Tử

vong: 90.436

2010: HIV: 350.970 – AIDS: 112.227 – Tử

vong: 104.703

( nguồn: Dịch tễ học và chiến lược quốc gia

phòng chống HIV/AIDS, BYT – WHO –

LHQ 2001)

Nguyên nhân và tình trạng trên

Theo điều tra quốc gia về vị thành niên từ và

thành niên ở Việt Nam cho kết quả và nhận

định sau:

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 5

- Môi trường kinh tế và xã hội ngày càng

chuyển biến đem đến nhiều thử thách khiến

thanh niên phải tìm cách thích ứng.

- Thanh niên được sự hổ trợ lớn lao từ gia

đình mặc dù có một số nhỏ có xung đột với

gia đình. Gia đình nông thôn đông người

nhưng lại ít có quyền lực.

- 1/3 nam thanh niên thành phố sống độc

thân.

Phần đông không chấp nhận quan hệ tình

dục (QHTD) trước hôn nhân, tuy nhiên tỷ lệ

nữ đã có gia đình có QHTD trước hôn nhân

cao hơn so với nữ chưa lập gia đình.

- Các phương tiện tránh thai được các cặp

vợ chồng sử dụng nhiều. Những người độc

thân có QHTD thì không sử dụng thường

xuyên.

- 2/3 nữ còn hiểu biết hạn chế về thời điểm

dễ có thai nhất.

- Nam thanh niên có nhiều hành vi gây nguy

cơ ( QHTD ngẫu hứng, đua xe, tụ tập gây

rối, …) hơn nữ.

- Một số thanh niên lo lắng về tương lai: 1/5

đã từng có cảm giác thất vọng, chán trường

về tương lai.

- Nhìn chung nam giới lạc quan hơn nữ giới

về bản thân, gia đình và tương lai.

- Ước vọng hàng đầu của thanh thiếu niên về

tương lai là: thu nhập, việc làm và thành đạt

về kinh tế. Gia đình và hạnh phúc đứng hàng

thứ hai.

(nguồn: Savy – survey assessment off

VietNam Youth 2003. DS&PT 09/2005,

giữa  WHO, UNICEF và TCTK trên 7584

thanh niên 14 -25 tuổi ở 42 tỉnh thành ở Việt

Nam)

Nguyên nhân trẻ em phạm pháp:

- Đang độ tuổi sung sức, năng động, phát

triển mạnh về tâm sinh lý trí tuệ nhưng chưa

chín chắn nên dễ vi phạm, những quy tắc

đạo đức, hành chính và hình sự.

- Dễ bị lôi kéo, kích động và lợi dụng.

- Sự phát triển mạnh mẽ những phương diện

thông tin, trong đó có rất nhiều những thông

tin độc hại. Hơn nữa, bị áp lực bởi sự tò mò

trong khi người lớn lại quá bận rộn, không

có thời gian để gần gủi, hướng dẫn phát hiện

ngăn ngừa.

- Thiếu hiểu biết về pháp luật.

- Chương trình giáo dục pháp luật ở nhà

trường có tính chất sơ lược, học sinh dễ có

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 6

quan niệm là môn học phụ nên học cho có,

học đại khái.

(nguồn: Văn phòng tư vấn trẻ em, Ủy ban

dân số, gia đình và trẻ em TP.HCM)

Những sai lầm thường thấy trong các gia

đình:

- Cha mẹ không thông cảm, thường hay

mắng mỏ các em trong độ tuổi vị thành niên.

Phần lớn cho rằng trẻ không vâng lời.

- Cha mẹ quá bận rộn lo kiếm tiền ít có thời

gian chăm sóc tới gia đình, con cái.

- Nuôi nấng cực khổ, tốn kém mà dường

như chúng không nghe lời, càng lớn, càng

hư, hay cãi cải lại…

- Những kỳ thi cũng là thời gian áp lực đối

với thanh thiếu niên, nếu không được điểm

cao thì thường được cha mẹ đem ra so sánh

với bạn bè, lo mắng gây nên tâm lý căng

thẳng của thế hệ này

- Do tính chất đặc thù của xã hội hiện đại vợ

chồng thường ít có thời gian gần gủi quan

tâm tới nhau hơn. Tỷ lệ các cuộc ly hôn

không ngừng tăng trong những năm qua

cũng đã ảnh hưởng tới chất lượng gia đình

Việt Nam hiện đại.

- Những mâu thuẫn của vợ chồng đã ảnh

hưởng không tốt tới suy nghĩ và hành động

của con trẻ làm chúng có những khái niệm

sai lệch về gia đình.

- Bạo hành trong gia đình cũng làm cho mối

quan hệ giữa các thành viên trong gia đình

rạn vỡ nó là nguyên nhân tan vỡ của nhiều

gia đình hiện nay.

(nguồn: Văn phòng tư vấn trẻ em, Ủy ban

dân số, gia đình và trẻ em TP.HCM)

III. Những định hướng để xây dựng gia

đình hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc.

1. Gia đình mới hiện đại ra đời trên sự kế

thừa những truyền thống và tiếp thu

những tiến bộ của gia đình mới hiện đại

Gia đình truyền thống được hun đúc từ lâu

đời trong lịch sử dân tộc. Bước vào thời kỳ

mới gia đình ấy bộc lộ cả những mặt tích

cực và tiêu cực.  do vậy Nhà nước cũng như

các cơ quan văn hóa các ban ngành lên quan

phải xác định, duy trì những nét đẹp có ích:

đồng thời, tìm ra những hạn chế và tiến tới

khắc phục những hủ tục của gia đình cũ. Tất

nhiên, kết thừa không phải là “ phục cổ” .

Nhưng những gì tiếp thu của gia đình quá

khứ đều nhằm bổ sung và làm phong phú

thêm gia đình mới hiện nay.

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 7

Gia đình còn liên quan và chịu ảnh hưởng

của tình hình quốc tế, nhất là ngày nay, khi

có những phương tiện thông tin hiện đại và

việc mở rộng giao lưu quốc tế. Nhiều hiện

tượng tiêu cực khắp các châu lục đang diễn

ra, những lo lắng cho mọi người và tác hại

đến sự phát triển gia đình lành mạnh của gia

đình ở nhiều quốc gia, như tính thực dụng

trong tình yêu, quan hệ tình dục phóng

đãng… nhưng, xã hội mới cũng mang lại

nhiều nội dung tiến bộ đến cho gia đình như:

dân chủ hóa các quan hệ trong gia đình, sự

tôn trọng nhân cách của các thành viên khác,

hiện đại hóa nhu cầu vật chất và tinh thần

của gia đình, cộng đồng hổ trợ gia đình phát

triển, hình thức gia đình hạt nhân tăng lên,

thu hẹp quy mô gia đình …

Để xây dựng gia đình mới phải ngăn chặn

những hiện tượng tiêu cực, mạnh dạn lựa

chọn và xử lý đúng đắn những yếu tố mới

nãy sinh, và quan trọng hơn, là biết tiếp thu

những nội dung tiến bộ của thời đại. Xử lý

và tiếp thu những vấn đề của thời đại không

phải là cách tân đơn giản mà phải phù hợp

với truyền thống của dân tộc, của gia đình

và sự phát triển chung của xã hội.

2. Thực hiện hôn nhân tiến bộ là một

trong những phương hướng quan trọng

để hình thành gia đình mới hòa thuận –

bình đẳng – hạnh phúc.

Hôn nhân tiến bộ coi tình yêu là cơ sở tinh

thần chủ yếu, là yếu tố quyết định nhất của

hôn nhân. Tình yêu là phạm lớn của vấn đề

hôn nhân và gia đình. Những yếu tố cơ bản

về một tình yêu chân chính đã được Ph.

Ăngghen nêu ra trong tác phẩm “ Nguồn

gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của

Nhà nước”. Theo Ăngghen, tình yêu là trạng

thái say mê rất hiện thực nhưng không rơi

vào tầm thường, dung tục. Nó khác hẳn với

tình dục đơn thuần. Tình yêu thực sự phải

phù hợp với đạo đức, có trách nhiệm và

nồng nhiệt với cả hai phía của lứa đôi. Tình

yêu lành mạnh phải tíến tới hôn nhân, với

Ph.Ăngghen cho rằng việc yêu và lấy nhau –

hình thành gia đình là một nghĩa vụ chân

chính. Còn khi nói về bản chất của tình yêu,

Người nhấn mạnh hơn cả đến sự chung

thủy… Bởi vậy, những quy định phong kiến

quá khắt khe, cũng như kiểu tự do tư sản

trong quan hệ nam nữ đã hạn chế và ngăn

cản tình yêu chân chính.

Hôn nhân tiến bộ còn bao hàm nguyên tắc tự

nguyện. Hôn nhân tự nguyện đảm bảo tối đa

cho tình yêu tiến tới hôn nhân một cách hiện

thực. Để cho nam nữ tự do tìm hiểu, đến với

nhau có ý nghĩa là họ tự định đoạt lấy tương

lai hạnh phúc Sau khi thành lập gia đình, họ

có trách nhiệm với nhau trong lúc thuận lợi

cũng như khó khăn. Hôn nhân tự nguyện là

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 8

điều kiện của hạnh phúc và sự vững bền của

gia đình. Nhân loại ngày càng nhận thức

được về hôn nhân tự nguyện như một nội

dung quan trọng của nhân quyền và tiến bộ

xã hội. Xây dựng gia đình mới cần khắc

phục và loại trừ tệ nạn cưỡng ép và quan

điểm ; “ bố mẹ đặt đâu con ngồi đó” trong

hôn nhân. Tất nhiên, trong xã hội mới, hạnh

phúc lứa đôi rất cần sự hướng dẫn, khuyên

nhủ của người thân, bạn bè họ có thể tìm

hiểu và quyết định vấn đề phù hợp nhất.

Hôn nhân tiến bộ là hình thức gia đình một

vợ một chồng. Bản chất của tình yêu đòi hỏi

hôn nhân tất yếu phải là hôn nhân cá thể.

Đây là điều kiện quan trọng để tiếp tục duy

trì tình yêu sau hôn nhân.

Điều 64 HP 1992 có quy định “ gia đình là

tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ hôn

nhân và gia đình, hôn nhân theo nguyên tắc

tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng bình

đẳng” trên cơ sở đó Luật Hôn nhân gia đình

2000 đã khẳng định nguyên tắc cơ bản đầu

tiên của chế độ HNGD là “ hôn nhân tự

nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng bình

đẳng” ( Khoản 1 Điều 2). Nguyên tắc này

được thể hiện cụ thể trong những quy định

về kết hôn, thực hiện quan hệ vợ chồng, ly

hôn nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ,

một vợ, một chồng.

Quyền về hôn  nhân và gia đình biểu hiện

quyền con người trong một lĩnh vực cụ thể

của đời sống xã hội. Nhà nước thừa nhận và

bảo vệ quyền tự do cá nhân được xác lập

chấm dứt trong quan hệ hôn nhân. Điều 4

khoản 2 Luật Hôn nhân gia đình 2000 quy

định “ cấm tảo hôn, cưởng ép kết hôn, càn

trở hôn  nhân tự nguyện tiến bộ: cấm kết

hôn giả tạo lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm

cưởng ép ly hôn, ly thân giả tạo, cấm yêu

sách trong cưới hỏi”. Việc kết hôn của nam

và nữ do chính họ tự quyết định trên cơ sở

tình yêu chân chính. Khi quyết định đăng ký

kết hôn Luật HNGD quy định “ việc kết hôn

do nam nữ tự nguyện, không bên nào được

ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được

cưởng ép hoặc cản trở” ( Khoản 2 Điều 9).

Được coi là nam nữ tự nguyện trong việc kết

hôn khi sự bày tỏ ý muốn kết hôn hoàn toàn

phù hợp với ý chí của họ, nghĩa là xuất phát

từ nội tâm, từ nguyện vọng muốn trở thành

vợ, thành chồng với người mình yêu.

Sự tự nguyện kết hôn của nam nữ là yếu tố

quan trọng để hoàn thành quan hệ vợ chồng

về mặt pháp lý, là cơ sở để duy trì hạnh

phúc. Đồng thời tự nguyện kết hôn một chế

độ hôn nhân và gia đình dân chủ.

Quyền tự do trong hôn nhân còn được thể

hiện ở quyền tự do ly hôn. Nếu như không

thể ép buộc họ tiếp trục duy trì cuộc sống vợ

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 9

chồng, khi cuộc sống đã hoàn toàn là dối trá,

hôn nhân của họ đã đổ vỡ gây cho họ những

mất mát và đau khổ của vợ và chồng trong

mọi trường hợp. Luật chỉ quy định hạn chế

quyền yêu cầu ly hôn hôn của người chồng

vì bảo vệ chính đáng quyền lợi của phụ nữ

và con nhỏ: “ trong trường hợp vợ có thai

hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì

chồng không có quyền yêu cầu ly hôn ( Điều

85). Trong trường hợp hạn chế này không áp

dụng đối với người vợ, nghĩa là dù trong

tình trạng mang thai hay nuôi con dưới 12

tháng tuổi người vợ vẫn có quyền yêu cầu ly

hôn nếu có lý do chính đáng.

Hôn nhân một vợ một chồng là phù hợp với

sự phát triển kinh tế – xã hội chủ nghĩa và là

một trong những cơ sở quan trọng đảm bảo

sự bền vững của hôn nhân. Chính vì vậy,

hôn nhân một vợ một chồng được Luật Hôn

nhân gia đình khẳng định là nguyên tắc cơ

bản của chế độ Hôn nhân và gia đình ( Điều

2). Bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình một vợ

một chồng Luật Hôn nhân gia đình 2000 quy

định “ cấm người đang có vợ, chồng mà kết

hôn hoặc chung sống như vợ chồng với

người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có

chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ

chồng với người đang có chồng, có vợ”

( Điều 4 – Luật Hôn nhân gia đình 2000)

Quan hệ vợ chồng bình đẳng: Vợ và chồng

là các bên chủ thể trong một quan hệ pháp

luật được Nhà nước bảo hộ, có các nghĩa vụ

và quyền về nhân thân, tài sản ngang nhau

trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Trong

chế độ xã hội chủ nghĩa nam và nữ kết hôn

với nhau trên cơ sử tình yêu nhằm chung

sống suốt đời, cùng xây dựng gia đình ấm

no, hạnh phúc, bền vững (Nam, nữ chính

thức trở thành vợ chồng kể từ khi việc kết

hôn của họ được cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền công nhận bằng thủ tục đăng kí kết

hôn theo quy định của pháp luật ). Điều mà

vợ chồng quan tâm nhất là lợi ích chung của

gia đình, cho nên vợ chồng cùng “chung sức

chung lòng” vun đắp cho hạnh phúc gia

đình. Vì thế vợ chồng đều có trách nhiệm

như nhau trong việc xây dựng gia đình. Pháp

luật không căn cứ vào giới tính để quy định

nghĩa vụ và quyền riêng cho mỗi bên vợ,

chồng mà chỉ quy định nghĩa vụ và quyền

chung của họ. Những quy định về nghĩa vụ

và quyền chung của vợ chồng là khung pháp

lý cho những xử sự của vợ, chồng trong tất

cả các trường hợp thực hiện quan hệ gia

đình và chính là sự thể hiện sự bình đẳng có

bảo đảm giữa vợ và chồng về nghĩa vụ và

quyền.

Sự bình đẳng giữa vợ và chồng về phải được

thể hiện đầy đủ trên các mặt của đời sống

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 10

gia đình cũng như ngoài xã hội. Trong nhiều

chế định, Luật Hôn nhân và gia đình năm

2000 đã quy định, vợ chồng bình đẳng với

những nghĩa vụ về quyền nhân thân và về tài

sản. Điều 19 quy định “ vợ chồng bình đẳng

với nhau, có nhiệm vụ và quyền ngang nhau

về mọi mặt trong gia đình”

Về nhân thân, Luật quy định vợ, chồng có

nhiệm vụ và quyền đối với nhau khi thực

hiện các hành vi trong gia đình cũng như

ngoài xã hội. Vợ chồng chung thủy, thương

yêu, quý trọng, chăm sóc giúp đỡ nhau

( Điều 18), vợ chồng tôn trọng quyền tự do

tín ngưỡng, tôn giáo của nhau ( Điều 22), vợ

chồng tôn trọng và giữ gì danh dự, nhân

phẩm uy tín của nhau ( Điều 21), vợ chồng

cùng bàn bạc giúp đỡ, tạo điều kiện cho

nhau chọn nghề nghiệp, học tập, nâng cao

trình độ văn hóa chuyên môn, nghiệp vụ,

tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn

hóa xã hội theo nguyện vọng, khả năng của

mỗi người ( Điều 23 ).

Sự bình đẳng giữa vợ và chồng về nhân thân

quyết định sự bình đẳng giữa vợ và chồng

về tài sản. duy trì đời sống và sự phát triển

kinh tế và gia đình là nhiệm vụ chung của

vợ,  chồng vợ và chồng bình đẳng với nhau

trong việc thực hiện những hành vi đó cũng

như được hưởng các quyền về tài sản thể

hiện:

Vợ chồng có nghĩa vụ như nhau trong việc

tạo lập bảo vệ khối tài sản chung. Tất cả

những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra

những thu nhập hợp pháp mà mỗi bên có

được trong thời kỳ hôn nhân đèu là tài sản

chung của vợ chồng ( trừ những trường hợp

mà pháp luật quy định là tài sản riêng của vợ

chồng – Điều 27 )

Vợ và chồng có nhiệm vụ và quyền ngang

nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định

đoạt tài sản mà không căn cứ vào công sức

đóng góp của mỗi bên, vợ chồng cùng bàn

bạc, thỏa thuận hình thức chiếm hữu, sử

dụng, định đoạt tài sản chung vì nhu cầu

chung đối với gia đình ( Điều 28)

Vợ chồng bình đẳng với nhau trong phân

chia tài sản chung, Luật Hôn nhân gia đình

phân 3 trường hợp có thể xảy ra việc phân

chia tài sản chung của vợ, chồng: chia tài

sản trong khi hôn nhân đang tồn tại, chia tài

sản chung khi một bên vợ hoặc chồng chết

( hoặc bị Tòa án tuyên bố đã chết ) và chia

tài sản chung khi vợ chồng ly hôn. Vợ và

chồng đều có quyền ngang nhau trong việc

yêu cầu chia tài sản chung và đều được xem

xét giải quyết.

Vợ chồng có quyền có tài sản riêng và có

nhiệm vụ như nhau đối với những nhu cầu

thiết yếu của gia đình ( Điều 32, Điều 33 )

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 11

Vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau,

có quyền được thừa kế tài sản của nhau khi

môth bên chết hoặc bị tòa án tuyên bố đã

chết. Luật hôn nhân và gia đình quy định vợ

hoặc chồng sau khi đã ly hôn có điều kiện

cấp dưỡng phải cấp dưỡng cho người kia

đang trong tình trạng cần cấp dưỡng. Nhiệm

vụ cấp dưỡng và quyền được cấp dưỡng đặt

ra bình đẳng giữa hai người đã từng là vợ

chồng.

Như vậy vợ và chồng bình đẳng với nhau về

mọi mặt trong gia đình cũng như ngoài xã

hội là một nguyên tắc nhất quán trong quan

hệ Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Luật

Hôn nhân và gia đình đã tạo ra cơ sở pháp lý

cho quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong

mọi lĩnh vực của đời sống gia đình và xã

hội, giải phóng người phụ nữ ra khỏi những

tàn dư của sự kìm hảm của tư tưởng gia đình

phong kiến, đồng thời bảo vệ quyền lợi của

vợ, chồng ( đặc biệt là vợ ) được sống và

phát triển trong một gia đình dân chủ, hạnh

phúc tham gia công tác chính trị, xã hội.

Luật hôn nhân gia đình 2000 cũng quy định

về hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc

các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn

giáo và người không theo tôn giáo, giữa

công dân Việt Nam và công dân nước ngoài

đã thể chế hóa các nguyên tắc đã được

khẳng định trong Điều 70 Hiến Pháp và

Điều 43 Bộ Luật Dân sự về tôn trọng và bảo

vệ quyền tự do tín ngưỡng của công dân,

quy định này cũng nhằm đảm bảo quyền tự

do kết hôn của nam, nữ. Thể hiện chính sách

bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc trong

quan hệ hôn nhân, chính sách tôn giáo, đồng

thời phù hợp với chủ trương “ chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mở rộng

quan hệ sản xuất nhiều mặt song phương và

đa phương của Nhà nước trong thời kỳ mới”

Để duy trì cuộc sống vợ chồng gia đình hạnh

phúc thì việc chính sách dân số kế hoạch

hóa gia đình sẽ góp phần nâng cao chất

lượng cuộc sống, là cơ sở cơ bản cho Nhà

nước trong sự nghiệp phát triển đất nước. Kế

hoạch hóa gia đình một trong những vấn đề

cấp bách nằm trong chính sách lớn của Nhà

nước nhằm giảm tỷ lệ tăng dân số, nâng cao

chất lượng cuộc sống, bảo đảm trẻ em sinh

ra được nuôi dạy tốt góp phần thực hiện mục

tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,

tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.

Luật hôn nhân gia đình cũng xác định

nguyên tắc để bảo đảm cho gia đình hiện đại

tiến bộ hạnh phúc là việc bảo vệ quyền lợi

của người phụ nữ và trẻ em là vấn đề không

chỉ đơn thuần mang ý nghĩa đạo lý, là truyền

thống tốt đẹp của dân tộc mà là vấn đề có

tính nguyên tắc toàn cầu. Nguyên tắc này

được thế giới công nhận vào bảo vệ, thể hiện

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 12

trong công ước quốc tế về quyền trẻ em,

công ước Cedaw về xóa bỏ tất cả các hình

thức phân biệt đối xử với người phụ nữ và

được nội luật hóa trong nhều đạo luật quan

trọng của Việt Nam.

Nhà nước không thừa nhận sự phân biệt đối

xử giữa các con, con trai và con gái, con đẻ

và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài

giá thú nhằm đảm bảo quyền bình đẳng giữa

các con không phân biệt đối xử giữa các con

trong gia đình.

Nguyên tắc đã được cụ thể hóa trong một số

quyết đinh. Nguyên tắc này đã được cụ thể

hóa trong một số quyết định của Luật như 

quyết định về sự bình đẳng giữa các quyền

và nghĩa vụ trong gia đình, quy định về nhân

thân cha, mẹ hoặc được Tòa án cho nhận,

mẹ của con  ngoài giá thú, sự bình đẳng về

quyền và nghĩa vụ con tron giá thú và con

ngoài giá thú, giữa con đẻ và con nuôi …

quyền của các con khi bố mẹ ly hôn, quyền

bình đẳng trong quan hệ thừa kế…

3.  Một số quan điểm quán triệt của Đảng

và Nhà nước trong việc gia đình xây dựng

gia đình hòa thuận, bình đẳng hạnh phúc.

Thứ nhất: Tiếp tục vận dụng sáng tạo

những định hướng chủ yếu xây dựng gia

đình mới trong chủ nghĩa xã hội và thực

hiện xây dựng gia đình mới ở nước ta.

Những quy định ấy phải xuất phát từ hoàn

cảnh lịch sử Việt Nam đang đà đổi mới toàn

diện và từ từng dạng hình gia đình cụ thể

khác nhau.

Thực chất xây dựng gia đình mới nhằm góp

phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hướng tới hình

thành con người mới Việt Nam với những

đặc tính như Nghị quyêts Hội nghị lần thứ

năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII

đã nêu. Bởi thế, gia đình mới ở Việt Nam

chính là gia đình văn hóa. Gia đình văn hóa

Việt Nam trên cơ sở giữ gìn và phát huy

phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, xóa

bỏ những cái lạc hậu, những tàn tích của chế

độ hôn nhân gia đình phong kiến, chống lại

những ảnh hưởng xấu của chế độ hôn nhân

và gia đình tư sản, đồng thời biết tiếp thu

những tiến bộ của văn hóa nhân loại Đại hội

đại biểu Quốc hội lần X của đảng đã nêu rõ

” Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến

bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thật sự là

tế bào của xã hội, là tổ ấm của mọi người.

phát huy trách nhiệm của gia đình trong

việc lưu truyền những giá trị văn hóa dân

tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực

hiện tốt Luật Hôn nhân gia đình”

Trước mắt, ” no ấm, bình đẳng, tiến bộ và

hạnh phúc” chính là chuẩn mực cần vươn

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 13

tới của gia đình mới ở nước ta. Sự no ấm

phải là kết quả của lao động  cần cù, sáng

tạo và chính đáng của gia đình. Sự bình

đẳng vừa thể hiện dân chủ vừa thể hiện tính

nề nếp và hòa thuận giữa các thành viên

trong gia đình. Gia đình tiến bộ trên cơ sở

tiến bộ của mọi thành viên và không thể tách

rời sự tiến bộ chung của xã hội. No ấm, bình

đẳng, tiến bộ tạo nên hạnh phúc cho gia

đình. Gia đình là hạnh phúc không phải là

cái trìu tượng mà là tổng hòa những nét đẹp

thường ngày của cuộc sống gia đình.

Thứ hai: Xây dựng gia đình văn hóa đem

lại lợi ích của cá nhân và xã hội. Con người

mới của xã hội phải có ý chí vun đắp cho

hạnh phúc gia đình. Từ chuẩn mực trên của

gia đình, ta nhận thấy, sự nghiệp xây dựng

gia đình hòa thuận – bình đẳng – hạnh phúc

là sự cố gắng chung của mỗi người. Mỗi gia

đình, của mọi lực lượng và tổ chức xã hội

trong nước, và còn có sự giúp đỡ của quốc

tế.

Kế hoạch xây dựng và cũng cố gia đình phải

gắn với kế hoạch xây dựng và phát triển xã

hội ở từng địa phương cũng như trên phạm

vi quốc gia. Nhiều loại chính sách xã hội tác

động thì gia đình mới có thể hình thành.

Chính ở đây đã nói lên trọng trách của Nhà

nước trong việc xây dựng gia đình. Từ thực

tiễn của vấn đề gia đình Việt Nam, một mặt

tiếp tục tuyên truyền và chỉ đạo thực hiện tốt

các chính sách của nnn, mặt khác cần rà soát

lại để đề nghị bổ sung, sửa đổi một số chính

sách có liên quan đến gia đình, góp phần

củng cố và phát triển gia đình hiện nay ở

nước ta.

Thứ ba: Quan tâm một cách thiết thực và

toàn diện hơn nữa đến phụ nữ vừa là mục

tiêu vừa là điều kiện quan trọng để xây dựng

và củng cố gia đình hòa thuận – bình đẳng –

hạnh phúc ở nước ta. Những quan điểm lớn

về giải phóng phụ nữ đã được ghi nhận

trong nhiều văn bản pháp luật. Cần tích cực

hơn nữa để đạt được trong tực tế là những

mục tiêu mà kế hoạch này đưa ra. Qua đó

phụ nữ Việt Nam có điều kiện làm tốt công

việc gia đình và làm tròn nhiệm vụ xã hội.

_________________

Bài post trên đây được sử dụng với mục

đích chia sẻ thông tin, nghiên cứu trao

đổi… Bài post không vì mục đích thương

mại hay bất kỳ các hình thức sinh lời nào

khác.!

Www.ThoLaw.Wordpress.Com 14