28
Đo lường và quản lý rủi ro tỷ giá: các vấn đề và phương pháp tiếp cận cho doanh nghiệp Michael Papaioannou 1

quản lý rủi ro

Embed Size (px)

DESCRIPTION

các phương phaps quản lý rủi ro

Citation preview

Page 1: quản lý rủi ro

Đo lường và quản lý rủi ro tỷ giá: các vấn đề và phương pháp tiếp cận cho doanh nghiệp

Michael Papaioannou

1

Page 2: quản lý rủi ro

I. Lời giới thiệu:

Quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái là một phần không thể thiếu trong mỗi quyết định của công ty về rủi ro ngoại tệ (Allayannis, Ihrig, và Weston, 2001). Chiến lược bảo hiểm rủi ro tiền tệ sẽ làm loại trừ hoặc giảm thiểu rủi ro này, và chiến lược này đòi hỏi sự hiểu biết cả những cách mà các rủi ro tỷ giá có thể ảnh hưởng đến hoạt động của các tác nhân kinh tế và kỹ thuật để đối phó với những hậu quả rủi ro liên quan (Barton, Shenkir, và Walker, 2002). Việc lựa chọn chiến lược bảo hiểm rủi ro thích hợp thường là một nhiệm vụ khó khăn do những vấn đề phức tạp liên quan đến việc đo lường chính xác rủi ro hiện tại và việc đưa ra quyết định mức độ rủi ro nào là phù hợp nên bị khống chế. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tiền tệ bắt đầu phát sinh sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ và việc kết thúc chuyển đổi đồng đô la Mỹ sang vàng trong năm 1973 (Papaioannou, 2001).

Vấn đề quản lý rủi ro tiền tệ cho các doanh nghiệp phi tài chính là độc lập do chính việc kinh doanh của họ và thường được xử lý bởi ngân sách của công ty họ. Hầu hết các công ty đa quốc gia cũng có những ủy ban rủi ro để giám sát chiến lược của ngân sách trong việc quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái (và rủi ro tỷ lệ lãi suất)-(Lam,2003). Điều này cho thấy tầm quan trọng mà các doanh nghiệp đặt ra cho các vấn đề quản lý rủi ro và kỹ thuật. Ngược lại, các nhà đầu tư quốc tế thường xuyên, nhưng không phải luôn luôn, quản lý rủi ro tỷ giá của họ một cách độc lập từ các tài sản riêng và / hoặc nợ. Vì rủi ro tiền tệ của họ có liên quan đến rủi ro chuyển đổi trên tài sản và công nợ có nguồn gốc ngoại tệ, họ có xu hướng xem xét tiền tệ như một loại tài sản riêng biệt đòi hỏi một sự ủy nhiệm bảo đảm (Allen, 2003).

Bài viết này xem xét các phương pháp đo tiêu chuẩn của rủi ro tỷ giá, kiểm tra thực hành tốt nhất về tỷ giá quản lý rủi ro, phân tích ưu và nhược điểm của việc tiếp cận những bảo hiểm khác nhau cho các doanh nghiệp. Nó tập trung vào các loại rủi ro chủ yếu ảnh hưởng đến việc tiếp xúc ngoại tệ của công ty, và quan tâm hơn đến các kỹ thuật trong bảo hiểm giao dịch và bảng cân đối rủi ro tiền tệ. Có ý kiến cho rằng việc quản lý thận trọng của các công ty đa quốc gia yêu cầu bảo hiểm rủi ro tiền tệ cho giao dịch đối ngoại, việc dịch thuật và hoạt động kinh tế của họ để tránh những tác động tiền tệ tiêu cực tiềm ẩn trong lợi nhuận và giá trị thị trường của họ. Bài này cũng cung cấp một số dữ liệu về bảo hiểm rủi ro thực tiễn của các doanh nghiệp Mỹ.

Cấu trúc bài viết như sau: Trong phần I, chúng tôi trình bày một định nghĩa rộng và các loại rủi ro tỷ giá chính . Trong Phần II, chúng tôi phác thảo các phép

2

Page 3: quản lý rủi ro

đo chính tiếp cận với rủi ro tỷ giá hối đoái (VaR). Trong Phần III, chúng tôi xem xét các yếu tố chính của quản lý rủi ro tỷ giá, bao gồm cả các chiến lược phòng ngừa, tiêu chuẩn và thành quả phòng ngừa rủi ro, những phương pháp tốt nhất cho phòng ngừa rủi ro. Trong Phần IV, chúng tôi cung cấp một tổng quan về các công cụ bảo hiểm rủi ro chính trong OTC và các thị trường giao dịch. Trong Phần V, chúng tôi cung cấp dữ liệu về việc sử dụng các công cụ phái sinh khác nhau và chiến lược phòng ngừa rủi ro của các công ty Hoa Kỳ. Trong Phần VI, chúng tôi kết luận bằng cách đưa ra một số nhận xét chung về sự cần thiết cho hoạt động phòng ngừa rủi ro dựa trên kinh nghiệm khủng hoảng tiền tệ gần đây.

II. Định nghĩa và phân loại các loại rủi ro tỷ giá hối đoái:Một định nghĩa chung về rủi ro tỷ giá hối đoái liên quan đến tác động của

việc thay đổi tỷ giá bất ngờ đến giá trị của công ty (Madura, 1989). Đặc biệt, nó có thể được định nghĩa là thiệt hại trực tiếp (như kết quả của một rủi ro tỷ giá không được phòng ngừa) hoặc thiệt hại gián tiếp đến dòng tiền của công ty, tài sản và nợ phải trả, lợi nhuận ròng và giá trị trên thị trường chứng khoán của công ty khi tỷ giá hối đoái thay đổi. Để quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái có trong các hoạt động của những công ty đa quốc gia, một công ty cần phải xác định các loại rủi ro hiện tại điển hình, chiến lược bảo hiểm rủi ro và công cụ có sẵn để đối phó với những rủi ro tiền tệ.

Các công ty đa quốc gia chính là thành viên tham gia thị trường tiền tệ do các hoạt động mang tính quốc tế của họ. Để đo lường tác động của việc thay đổi tỷ giá hối đoái của một công ty cái mà ảnh hưởng đến giao dịch đồng tiền ngoại tệ, tức là đo giá trị tại mức rủi ro (VaR) do biến động tỷ giá, chúng ta cần phải xác định các loại rủi ro mà công ty đang tiếp xúc và mức độ rủi ro gặp phải (Hakala và Wystup, 2002). Ba loại chính của rủi ro ngoại hối mà chúng ta xem xét trong bài viết này là (Shapiro, 1996; Madura, 1989):

1. Rủi ro chuyển đổi, về cơ bản là rủi ro dòng tiền và giao dịch do các tác động của biến động của tỷ giá hối đoái khi tiếp xúc với tài khoản giao dịch liên quan đến các khoản phải thu (xuất khẩu hợp đồng), các khoản phải trả (hợp đồng nhập khẩu) hoặc hồi hương cổ tức. Một sự thay đổi tỷ giá hối đoái của một đồng tiền cụ thể của bất kỳ trường hợp nào như hợp đồng sẽ dẫn đến một rủi ro tỷ giá cho giao dịch trực tiếp của các công ty;

2. Rủi ro chuyển đổi, về cơ bản là bảng cân đối rủi ro tỷ giá và liên quan đến các ảnh hưởng của việc biến động tỷ giá đến giá trị của những công ty chi nhánh ở nước ngoài, cũng như là việc hợp nhất báo cáo của những công ty con này

3

Page 4: quản lý rủi ro

với công ty mẹ. Rủi ro chuyển đổi của một công ty con nước ngoài thường được đo bằng rủi ro của các tài sản ròng (tài sản trừ nợ) từ nguy cơ thay đổi tỷ giá. Trong báo cáo tài chính hợp nhất, việc chuyển đổi có thể được thực hiện hoặc theo tỷ giá hối đoái cuối kỳ hoặc theo tỷ giá hối đoái bình quân trong kỳ, tùy thuộc vào các quy định kế toán mà công ty mẹ áp dụng. Như vậy, trong khi các báo cáo thu nhập thông thường được chuyển đổi theo tỷ giá hối đoái bình quân trong kỳ thì các bảng cân đối của các công ty con lại thường được chuyển đổi theo tỷ giá hiện hành tại thời điểm thực hiện hợp nhất.

3. Rủi ro kinh tế phản ánh cơ bản về các rủi ro hiện giá của dòng tiền tương lai của công ty do biến động của tỷ giá hối đoái. Về bản chất, rủi ro kinh tế liên quan đến ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá hối đoái trên doanh thu (doanh thu nội địa và xuất khẩu) và chi phí hoạt động (chi phí đầu vào trong nước và nhập khẩu). Rủi ro kinh tế thường được áp dụng cho giá trị hiện tại của dòng tiền hoạt động trong tương lai của công ty mẹ và các công ty chi nhánh nước ngoài. Việc xác định các loại rủi ro tiền tệ khác nhau, cùng với việc đo lường chúng, là điều cần thiết để phát triển một chiến lược quản lý rủi ro tiền tệ.

III. Phương pháp đo lường rủi ro tỷ giá hối đoái:Sau khi xác định các loại rủi ro tỷ giá hối đoái mà công ty gặp phải, thì một

khía cạnh quan trọng khác trong việc đưa ra những quyết định quản lý rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp là việc đo lường các rủi ro này.

Đo lường rủi ro tiền tệ có thể sẽ rất khó khăn, ít nhất là liên quan đến rủi ro chuyển đổi và rủi ro kinh tế (Van Deventer, Imai, và Mesler, 2004; Holton, 2003). Hiện nay, một phương pháp được sử dụng rộng rãi là mô hình VaR (Value-at-risk). Nói đơn giản, VaR được định nghĩa là khoản lỗ lớn nhất có thể gặp phải trong một khoảng thời gian nhất định với độ tin cậy z%.

Phương pháp VaR có thể được sử dụng để đo lường nhiều loại rủi ro khác nhau, nhằm giúp các doanh nghiệp trong việc quản lý rủi ro của họ.Tuy nhiên, các VaR không xác định được chính xác rủi ro gì sẽ xảy ra tại độ tin cậy (100 - z)%, chẳng hạn như, trường hợp xấu nhất. Vì khi mô hình VaR không xác định được tổn thất lớn nhất hoàn toàn chính xác, nên các công ty thường đặt ra những giới hạn hoạt động, chẳng hạn như số lượng danh nghĩa hoặc lệnh dừng lỗ, cùng với giới hạn VaR, để đạt được hiệu quả cao nhất có thể (Papaioannou và Gatzonas, 2002).

Tính toán VaR Việc đo lường VaR của rủi ro tỷ giá hối đoái thường được sử dụng bởi các

doanh nghiệp để ước tính mức độ rủi ro của kết quả trạng thái ngoại hối từ những

4

Page 5: quản lý rủi ro

hoạt động của công ty, bao gồm cả tình trạng ngoại hối của kho bạc của họ, trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện chuẩn (Holton, 2003). Việc tính toán VaR phụ thuộc vào 3 thông số:

• Thời gian nắm giữ, tức là, khoảng thời gian mà trạng thái ngoại hối được dự kiến sẽ diễn ra. Thời gian nắm giữ thường là 1 ngày.

• Mức độ tin cậy là mức độ mà tại đó các ước tính sẽ được thực hiện. Thông thường mức độ tin cậy là 99 % và 95 %.

• Đơn vị tiền tệ được tính VaR.Giả sử thời gian nắm giữ là x ngày và mức độ tin cậy là y%, thì việc đo

lường VaR chính là đo khoản lỗ lớn nhất (tức là, sự sụt giảm giá thị trường của trạng thái ngoại hối) trong x ngày, nếu trong khoảng thời gian x ngày không có một ngày nào thuộc những ngày có độ tin cậy (100-y)% , ngày tồi tệ nhất trong điều kiện chuẩn. Vì vậy, nếu trạng thái ngoại hối có VaR 1 ngày của 10 triệu đô tại độ tin cậy 99%, thì các công ty nên hy vọng rằng hầu như toàn bộ giá trị của giao dịch này sẽ giảm không nhiều hơn $10 triệu trong suốt 1 ngày, miễn là có điều kiện tiêu chuẩn diễn ra trong ngày đó. Nói cách khác, công ty nên hy vọng rằng giá trị của trạng thái tỷ giá hối đoái của họ sẽ giảm không nhiều hơn 10 triệu đô trong 99 ngày của 100 ngày giao dịch bình thường, hoặc sẽ giảm nhiều hơn 10 triệu đô trong 1 ngày của 100 ngày giao dịch bình thường.

Để tính VaR, có rất nhiều công thức. Trong đó, được sử dụng rộng rãi là: (1) mô phỏng lịch sử, công thức này giả định rằng thu nhập tiền tệ từ biến động ngoại hối của một công ty sẽ có sự phân phối tương tự như nó đã phân phối trong quá khứ; (2) mô hình phương sai- hiệp phương sai, trong đó giả định rằng thu nhập tiền tệ từ tất cả biến động ngoại hối của một công ty luôn luôn (đồng thời) được phân phối chuẩn và sự thay đổi giá trị của trạng thái ngoại hối là phụ thuộc tuyến tính vào tổng thu nhập tiền tệ; và (3) mô hình Monte Carlo, trong đó giả định rằng thu nhập tiền tệ trong tương lai sẽ được phân phối ngẫu nhiên.

Các mô phỏng lịch sử là phương pháp tính toán đơn giản nhất. Phương pháp này liên quan đến việc nắm bắt trạng thái ngoại hối hiện tại của công ty dựa trên một tập hợp các thay đổi tỷ giá lịch sử để đưa ra sự phân phối các khoản lỗ trong giá trị của trạng thái ngoại hối. Giả sử có 1000 đồng, và sau đó tính toán phần trăm (VaR). Như vậy, giả định mức độ tin cậy 99% và thời gian nắm giữ là 1 ngày, các VaR có thể được tính bằng cách phân loại theo thứ tự tăng dần thiệt hại 1000 đồng mỗi ngày và dẫn đến sự mất mát lớn nhất thứ 11 vượt khỏi 1.000 đồng ( bởi vì mức độ tin cậy trên ngụ ý là 1% của các khoản lỗ - 10 khoản lỗ- vượt quá VaR). Lợi ích chính

5

Page 6: quản lý rủi ro

của phương pháp này là nó không tuân theo phân phối chuẩn của thu nhập tiền tệ, vì thế nó phù hợp để ghi nhận rằng những thu nhập này là không chuẩn nhưng tốt hơn ngưỡng cho phép. Tuy nhiên thiếu sót của nó là việc tính toán này đòi hỏi phải có một cơ sở dữ liệu lớn và tính toán nhiều.

Mô hình phương sai - hiệp phương sai giả định rằng (1) sự thay đổi giá trị do tất cả những trạng thái ngoại hối của một công ty là một tổ hợp tuyến tính của tất cả các thay đổi trong giá trị của các trạng thái ngoại hối riêng lẻ, do đó cũng cho thấy tổng thu nhập tiền tệ là phụ thuộc tuyến tính vào tất cả thu nhập tiền tệ riêng lẻ, và (2) thu nhập tiền tệ thường được phân phối chuẩn. Như vậy, với độ tin cậy 99%, các VaR có thể được tính như sau:

VaR = -Vp (Mp + 2,33 Sp)Trong đó:Vp là giá trị ban đầu (theo đơn vị tiền tệ) của trạng thái ngoại hối.Mp là thu nhập tiền tệ từ tổng biến động ngoại hối của công ty, đó là bình quân

gia quyền của các biến động ngoại hối riêng lẻ.Sp là độ lệch chuẩn của thu nhập tiền tệ từ tổng biến động ngoại hối của công

ty, đó là độ lệch chuẩn của sự chuyển đổi trọng số của ma trận phương sai- hiệp phương sai của từng biến động ngoại hối riêng lẻ (lưu ý rằng sau này bao gồm các mối tương quan của các biến động ngoại hối riêng lẻ)

Trong khi mô hình phương sai-hiệp phương sai cho phép cho một tính toán nhanh chóng, nhược điểm của nó bao gồm các giả định hạn chế về việc phân phối chuẩn thu nhập tiền tệ và tổ hợp tuyến tính tất cả các trạng thái ngoại hối. Nhận thấy rằng các giả định này có thể được nới lỏng (Longin, 2001). Khi một phân bố không bình thường được sử dụng thay vào thì chi phí tính toán sẽ cao hơn do có sự sai số thêm vào khoảng tin cậy mất mát vượt quá việc tính toán VaR.

Mô hình Monte Carlo thường bao gồm phân tích nhân tố chính của công thức phương sai- hiệp phương sai, tiếp theo là mô phỏng ngẫu nhiên của các nhân tố. Trong đó, những lợi thế chính của nó bao gồm khả năng xử lý bất kỳ phân phối cơ bản nào và đánh giá chính xác hơn VaR khi các yếu tố tiền tệ phi tuyến tính có mặt trong biến động ngoại hối (Ví dụ, tùy chọn), nhược điểm nghiêm trọng của nó là quá trình tính toán phức tạp.

IV. Quản lý rủi ro tỷ giá hối đoáiSau khi xác định các loại rủi ro tỷ giá và đo lường các rủi ro liên quan,việc cần

làm của một công ty là phải quyết định xem có nên phòng ngừa hay không những rủi ro này. Trong tài chính quốc tế, việc chọn các chiến lược phù hợp để quản lý các loại rủi ro tỷ giá vẫn chưa được cụ thể hóa (Jacque, 1996). Tuy nhiên trong thực tế tùy

6

Page 7: quản lý rủi ro

thuộc các yếu tố như sự phổ biến của một loại rủi ro nhất định hay quy mô của các công ty mà công ty sử dụng các chiến lược quản lý rủi ro tiền tệ khác nhau.

A. Chiến lược phòng ngừaRủi ro chuyển đổi thường có được phòng ngừa có kế hoạch (có chọn lọc) hoặc

có chiến lược để bảo toàn dòng tiền và dòng thu nhập, tùy thuộc vào quan điểm của công ty về sự lưu chuyển của các đồng tiền có liên quan. Hầu hết các công ty đều sử dụng chiến thuật bảo hiểm rủi ro để có thể tự phòng ngừa những rủi ro về giao dịch tiền tệ có liên quan tới nợ phải thu và nợ phải phải trả ngắn hạn, trong khi bảo hiểm rủi ro chiến lược được sử dụng cho các giao dịch có thời gian dài. Tuy nhiên, một số công ty quyết định sử dụng bảo hiểm rủi ro cố định, trong đó bao gồm việc duy trì các cấu trúc bảo hiểm rủi ro tương tự và thường xuyên thực hiện trong thời gian bảo hiểm rủi ro thường, không phân biệt tiền tệ kỳ vọng đó là nó không yêu cầu một công ty có một cái nhìn về tiền tệ.

Đối với việc chuyển đổi, hay bảng cân đối, các rủi ro được phòng ngừa rất thường xuyên và không theo một hệ thống nào, thường là để tránh các tác động của các cú sốc tiền tệ đột ngột có thể xảy ra trên tài sản ròng. Rủi ro này có liên quan chủ yếu đến sự tiếp cận các giao dịch nước ngoài dài hạn, chẳng hạn như định giá của các công ty con, nợ cấu trúc và đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, tính chất lâu dài của các khoản mục và thực tế là giao dịch tiền tệ ảnh hưởng đến bảng cân đối hơn là bảng báo cáo thu nhập của công ty, việc thực hiện phòng ngừa rủi ro chuyển đổi ít được ưu tiên hơn đối với cấp quản lý. Đối với các rủi ro chuyển đổi tiền tệ từ tài sản của một công ty con, nó là tiêu chuẩn để thực hiện bảo hiểm rủi ro cho bảng cân đối, tức là, các tài sản ròng (tài sản gộp trừ nợ) của các công ty con, điều đó có thể bị ảnh hưởng bởi sự bất lợi của sự chuyển dịch tỷ giá hối đoái.

Trong khuôn khổ của việc bảo hiểm rủi ro tỷ giá hối đoái trong một bảng cân đối kế toán, các vấn đề bảo hiểm rủi ro nợ của một công ty cũng có tầm quan trọng tối thượng (Marrison, 2002;Jorion và Khoury, 1996). Tiền tệ và kỳ hạn thanh toán nợ của một công ty quyết định tính nhạy cảm của vốn chủ sở hữu và lợi nhuận ròng để thay đổi tỷ giá hối đoái. Để giảm thiểu sự tác động của tỷ giá hối đoái vào sự biến động của thu nhập, các công ty có thể sử dụng một mô hình tối ưu để đưa ra một tập hợp tối ưu của chiến lược bảo hiểm rủi ro để quản lý rủi ro tiền tệ. Bảo hiểm rủi ro đồng tiền còn lại sau khi tối ưu hóa các thành phần nợ là một nhiệm vụ khó khăn. Ngoài việc tối ưu hóa, một công ty có thể sử dụng bảo hiểm rủi ro chiến thuật để giảm rủi ro thặng dư tiền tệ . Hơn nữa, nếu tỷ giá hối đoái không di chuyển theo hướng mong đợi, phòng ngừa rủi ro chuyển đổi có thể gây ra hoặc là dòng tiền không ổn định hoặc thu nhập

7

Page 8: quản lý rủi ro

không ổn định. Vì vậy, bảo hiểm rủi ro chuyển đổi thường đòi hỏi cân nhắc cẩn thận các chi phí bảo hiểm rủi ro dựa vào các chi phí tiềm năng không bảo hiểm rủi ro.

Rủi ro kinh tế thường được bảo hiểm như một nguy cơ còn sót lại. Rủi ro kinh tế rất khó để xác định số lượng, vì nó phản ánh những tác động tiềm năng của sự dịch chuyển tỷ giá hối đoái vào giá trị hiện tại của dòng tiền trong tương lai. Điều này có thể yêu cầu đo lường tác động tiềm năng của độ chênh lệch tỷ giá hối đoái từ lãi suất cơ bản được sử dụng để dự báo doanh thu và chi phí của một công ty trong một thời gian nhất định. Trong trường hợp, các tác động trên mỗi dòng có thể được đưa ra trên các dòng sản phẩm và trên thị trường,với các rủi ro kinh tế ròng trở nên nhỏ cho các doanh nghiệp đầu tư vào nhiều thị trường nước ngoài bởi vì tác động bù đắp. Ngoài ra, nếu thay đổi tỷ giá hối đoái theo chênh lệch lạm phát (Thông qua PPP) và công ty có công ty con đó phải đối mặt với chi phí lạm phát dựa trên tỷ lệ lạm phát chung, các công ty có thể nhận thấy sự xói mòn trong khả năng cạnh tranh và sự giảm giá trị ban đầu của nó như một kết quả của việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái mà không là phù hợp với PPP (Froot và Thaler, 1990).Trong hoàn cảnh này, cách bảo hiểm tốt nhất cho kinh tế của mình là tạo ra lợi thế (ví dụ, hoạt động tài chính).

Ngân khố của công đang được phát triển có hiệu quả các chiến lược phòng ngừa rủi ro như việc tích hợp nhiều chiến lược để phòng ngừa rủi ro tiền tệ hơn là mua một đồng bằng vani tự bảo hiểm để đảm bảo cho một số rủi ro ngoại hối (Kritzman, 1993). Trong thực tế, hiệu quả của việc tích hợp này đo lường được chi phí bảo hiểm dựa vào mức độ rủi ro tự bảo hiểm. Như vậy, việc tích hợp xác định được chiến lược phòng ngừa rủi ro hiệu quả nhất cũng như rằng đó là giá rẻ nhất cho hầu hết các bảo hiểm rủi ro. Với một cái nhìn được xác định, mô hình bảo hiểm tối ưu hóa thường so sánh hoàn toàn với chiến lược không phòng ngừa với 100 phần trăm tự bảo hiểm sử dụng chiến lược chuyển tiếp và chiến lược lựa chọn để tìm ra cái tối ưu nhất. Mặc dù phương pháp quản lý rủi ro cung cấp cấu trúc bảo hiểm với chi phí thấp nhất cho một rủi ro nhất định nhưng nó chủ yếu phụ thuộc vào tầm nhìn của người quản lý công ty vào tỷ giá hối đoái. Lưu ý rằng tối ưu hóa như vậy có thể được sử dụng để giao dịch, sự chuyển dịch hoặc rủi ro tiền tệ kinh tế, với điều kiện là công ty có tầm nhìn cụ thể về tiền tệ (tức là, một tỷ giá hối đoái có thể dự báo trong một khoảng thời gian quy định).

8

Page 9: quản lý rủi ro

B. Tiêu chuẩn và thành quả phòng ngừa rủi ro

Kết quả phòng ngừa có thể được đánh giá như một mức độ phòng ngừa hiệu quả (Jacque,1996). Rủi ro trong việc phòng ngừa thường được thể hiện như một số VaR sẽ được phù hợp với các kết quả đo lường. Mô hình tối ưu hóa, như các phương pháp cho chiến lược bảo hiểm tối ưu , trong khi hầu hết trong số họ không cung cấp một quá trình bảo hiểm rủi ro cho nhiều bảo hiểm rủi ro tiền tệ. Như vậy, cả hiệu suất và VaR được đo như tỷ lệ phòng ngừa hiệu quả, tính toán cho mỗi công cụ bảo hiểm rủi ro được sử dụng và các rủi ro về mức độ tin cậy. Một chiến lược bảo hiểm rủi ro tối ưu duy nhất là được chọn bằng cách xác định rủi ro mà một công ty là sẵn sàng chấp nhận. Chiến lược này có tỷ lệ hiệu quả thấp có thể chấp nhận nhưng không chắc chắn. Bằng cách này, khi tầm nhìn của công ty đòi hỏi kiến thức về biến động, tùy chọn tạo một tốc độ hàng rào hiệu quả tốt hơn hoặc tương đương với giá thấp so vớ không bảo hiểm. Hơn nữa, khi đồng nội tệ có năng suất cao và biến động thấp, hợp đồng quyền chọn này sẽ hầu như luôn luôn tạo ra một bảo hiểm rủi ro hiệu quả tốt hơn so với bảo hiểm rủi ro kỳ hạn.

Là một phần của chính sách quản lý rủi ro tiền tệ, các công ty sử dụng một loạt các tiêu chuẩn bảo hiểm rủi ro để quản lý các chiến lược bảo hiểm rủi ro một cách hiệu quả. Điểm chuẩn như vậy có thể là mức bảo hiểm rủi ro(Tức là, một phần trăm nhất định), kỳ báo cáo, đặc biệt là cho các doanh nghiệp sử dụng để bảo hiểm rủi ro kỳ hạn để hạn chế sự biến động của vốn chủ sở hữu thực của họ, (ví dụ, hàng quý hoặc 12 tháng chuẩn), và ngân sách tỷ giá hối đoái, tùy thuộc vào các quy định kế toán hiện hành. Hơn nữa, tiêu chuẩn cho phép hiệu suất bảo hiểm cá nhân được so sánh với các công ty.

C. Phòng ngừa rủi ro và tỷ giá Ngân sáchỞ Madua những năm 1989, tỷ giá ngân sách hối đoái đã cung cấp cho các công

ty một mức tỷ giá tham chiếu . Việc thiết lập tỷ giá ngân sách hối đoái thường liên quan đến tính nhạy cảm và ưu thế của công ty. Sau khi quyết định tỷ lệ ngân sách, các quỹ của công ty sẽ phải siết chặt tỷ lệ đầu cơ thích hợp và đảm bảo rằng độ chênh lệch giữa các tỷ lệ là tối thiểu. Quá trình này sẽ xác định tính thường xuyên và các công cụ được sử dụng trong phòng ngừa rủi ro. Nó sẽ được tiếp tục chỉ ra rằng việc biến động lâu dài sẽ liên quan đến đơn vị tiền tệ cần được phản ánh trong tỷ giá ngân sách, hoặc vị trí chiến lược và bảo hiểm rủi ro nên được cân nhắc xem xét.

9

Page 10: quản lý rủi ro

Các doanh nghiệp thường có những quyết định khác nhau trong việc thiết lập tỷ giá ngân sách (Lam, 2003). Nhiều nhà quản lý của các công ty đa quốc gia thích sử dụng tỷ giá PPP như là tỷ giá ngân sách, thường với sự hiểu biết rằng chiến thuật phòng ngừa có thể cần thiết trong ngắn hạn nơi dự báo hiệu quả của mô hình PPP sẽ thất bại. Tuy nhiên,các công ty đa quốc gia khác lại muốn thiết lập tỷ lệ ngân sách phù hợp với lịch trình bán hàng và chiến lược bảo hiểm rủi ro của họ. Ví dụ, nếu một công ty có lịch bán hàng hằng quý thì công ty có thể quyết định tự bảo hiểm dòng tiền ngoại tệ của mình trong những quý của năm tới theo một cách mà họ không làm khác được bởi hơn một tỷ lệ phần trăm nhất định từ các dòng tiền trong cùng quý năm ngoái. Theo đó, điều này sẽ đòi hỏi bốn hàng rào mỗi năm, mỗi một năm kỳ hạn, với bảo hiểm rủi ro được thực hiện vào cuối của thời kỳ này, bằng cách sử dụng tỷ giá hối đoái cuối cùng của giai đoạn như tỷ lệ ngân sách của mình.

Ngoài ra, một công ty có thể quyết định để thiết lập tỷ giá ngân sách hối đoái của mình ngang với tỷ giá hối đoái bình quân hàng ngày của năm tài chính trước đó (Barton, Shenkir, và Walker, 2002). Trong trường hợp, các công ty sẽ cần phải sử dụng một bảo hiểm thông qua, có lẽ, một công cụ bao gồm sự lựa chọn và tổng hợp. Hoạt động bảo hiểm rủi ro này thường sẽ được thực hiện vào ngày cuối cùng của năm tài chính trước đó, bắt đầu với ngày đầu tiên của năm tài chính mới. Hơn nữa, một công ty cũng có thể sử dụng bảo hiểm rủi ro tiền tệ cố định, ví dụ như bảo hiểm rủi ro giá trị trung bình của dòng tiền ngọai tệ trong một khoảng thời gian quy định, so với kỳ trước, thông qua cấu trúc tùy chọn có sẵn trên thị trường. Đây là loại chiến lược bảo hiểm rủi ro khá đơn giản và dễ dàng hơn để theo dõi.

Thiết lập tỷ giá ngân sách hối đoái cũng rất là quan trọng đối với chiến lược giá của một công ty và cũng để xác định việc thực hiện bảo hiểm rủi ro và điểm chuẩn kỳ hạn của một bảo hiểm. Tuy nhiên, tỷ giá ngân sách hối đoái được sử dụng để dự báo dòng tiền cần để được gần với tỷ giá giao ngay để tránh những thay đổi lớn nhất có thể xảy ra trong chiến lược giá của công ty hoặc để xem xét lại chiến lược bảo hiểm rủi ro của nó. Trong kết nối này, cần lưu ý rằng dự báo tỷ giá trong tương lai là một khía cạnh quan trọng của một chiến lược giá của doanh nghiệp (Papaioannou, 1989). Kể từ khi nó được ghi nhận rằng tỷ giá kỳ vọng là yếu tố dự báo kém của tỷ giá giao ngay trong tương lai, mô hình tỷ giá cấu trúc hoặc mô hình tỷ giá chuỗi thời gian cần phải được sử dụng cho một nỗ lực (Bansal và Dahlquist, 2000; Fama, 1984). Điều này trở nên rõ ràng nếu chúng ta so sánh các dòng tiền ròng của công ty ước tính bằng cách sử dụng tỷ giá dự báo và tỷ giá giao ngay trong tương lai. Hơn thế nữa, đối với

10

Page 11: quản lý rủi ro

một khoản đầu tư vào công ty con nước ngoài tỷ giá ngân sách thường là tỷ giá hạch toán, tức là, tỷ giá hối đoái vào cuối của năm tài chính trước đó.

D. Thực tiễn tốt nhất cho quản lý rủi ro Tỷ giá ngoại tệĐối với các quyết định quản lý rủi ro tiền tệ các công ty tiếp xúc với tỷ giá

đáng kể thường cần phải thiết lập một khuôn khổ hoạt động để có thể thực hành tốt nhất (Allen, 2003; Jacque,1996). Những thực hành hoặc các nguyên tắc có thể bao gồm:

1. Xác định các loại rủi ro tỷ giá hối đoái là việc mà một công ty phải tiếp xúc và đo lường được các rủi ro liên quan.thieu Ngoài ra, phòng ngừa các rủi ro tiền tệ có thể sử dụng mô hình khác nhau (ví dụ như VaR) -là một yếu tố quan trọng trong việc xác định vị trí bảo hiểm.

2. Phát triển một chiến lược quản lý rủi ro tỷ giá. Sau khi xác định loại rủi ro tiền tệ và đo lường rủi ro của công ty, một chiến lược tiền tệ cần được thành lập để có thể đối phó với những rủi ro này. Đặc biệt, chiến lược này nên xác định mục tiêu bảo hiểm rủi ro tiền tệ của công ty và tại sao các công ty nên phòng ngừa hoàn toàn hoặc một phần các rủi ro tiền tệ của nó. Hơn nữa, một cách tiếp cận bảo hiểm rủi ro chi tiết tiền tệ nên được thành lập. Điều bắt buộc là một công ty nên chi tiết về chiến lược quản lý rủi ro tiền tệ tổng thể trên mức độ hoạt động, bao gồm cả quá trình thực hiện bảo hiểm rủi ro tiền tệ, công cụ được sử dụng, và các quy trình giám sát.

3. Tạo ra một bộ phận tập trung nguồn lực của công ty để đối phó với các khía cạnh thực tế của việc thực hiện bảo hiểm rủi ro tỷ giá hối đoái. Bộ phận này sẽ chịu trách nhiệm dự báo tỷ giá hối đoái, các cơ chế pháp lý, các thủ tục kế toán liên quan đến rủi ro tiền tệ, chi phí của bảo hiểm rủi ro tiền tệ, và thiết lập các tiêu chuẩn cho việc đo lường kết quả của bảo hiểm rủi ro. (Các hoạt động này có thể được thực hiện bởi một đội ngũ chuyên môn, hay 1 nhà quản lý hoặc một công ty đa quốc gia lớn hay bởi một đại lý trưởng.)

4. Phát triển một phận quản lý giám sát rủi ro tỷ giá của một công ty và đảm bảo thực hiện mô hình thích hợp. Điều này bao gồm giới hạn thiết lập vị trí cho mỗi công cụ bảo hiểm rủi ro, vị trí giám sát thông qua định giá mark-to-market của tất cả các vị trí tiền tệ theo ngày cơ sở (hoặc trong ngày), và thiết lập các tiêu chuẩn bảo hiểm rủi ro tiền tệ cho kỳ giám sát bảo hiểm rủi ro hoạt động (thường là hàng tháng).

11

Page 12: quản lý rủi ro

5. Thành lập một ủy ban giám sát rủi ro. Ủy ban này sẽ đặc biệt phê duyệt giới hạn về phương án đề ra, kiểm tra sự phù hợp của các công cụ bảo hiểm rủi ro và kết hợp các giá trị VaR, và xem xét các chính sách quản lý rủi ro một cách thường xuyên.

Quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái đã trở nên nổi bật trong thập niên vừa qua, do sự xuất hiện của hàng loạt các cuộc khủng hoảng tiền tệ. Từ các tiên đoán của những nhà quản lý hoạt động thì việc quản lý rủi ro tiền tệ ngày càng được xem như là một cách tiếp cận khôn ngoan để giảm đi các hạn chế của công ty từ biến động tỷ giá (VanDeventer, Imai, và Mesler, 2004). Nhìn nhận này cũng đã được gia tăng bởi sự chú ý của quốc tế trên cả rủi ro kế toán và bảng cân đối dạo gần đây.

V. Công cụ phòng ngừa cho việc quản lý rủi ro tỷ giá hối đoáiTrong khuôn khổ của một chiến lược quản lý rủi ro tiền tệ, các công cụ bảo

hiểm rủi ro cho phép quản lý rủi ro tiền tệ nên được chỉ định. Các công cụ bảo hiểm rủi ro sẵn có rất đa dạng, cả về chủng loại và sự tinh vi, và có sự gia tăng đáng kể trong nhu cầu bảo hiểm rủi ro cụ thể của công ty hiện đại (Hakala và Wystup, 2002; Jacque, 1996;Shapiro, 1996). Những công cụ bao gồm cả OTC và các sản phẩm giao dịch ngoại hối. Trong số các công cụ bảo hiểm rủi ro tiền tệ OTC ,phổ biến nhất là hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi. Hợp đồng kỳ hạn được định nghĩa là mua một hợp đồng tiền tệ giao trong tương lai với giá trị tại ngay ngày làm hợp đồng. Có hai loại hợp đồng kỳ hạn thường được sử dụng: hợp đồng kỳ hạn giao nhận (liên quan đến việc thanh toán bù trừ) và hợp đồng kỳ hạn không giao nhận( thanh toán bằng chênh lệch lãi suất của đồng tiền). Với hợp đồng kỳ hạn, các công ty được tự bảo hiểm đầy đủ. Tuy nhiên, với chi phí cao của hợp đồng kỳ hạn và rủi ro thay đổi tỷ giá lại mang những bất lợi nghiêm trọng.

Có hai loại hợp đồng hoán đổi thường được sử dụng phổ biến là hoán đổi lãi suất tỷ giá chéo và hoán đổi tiền tệ chéo cơ sở. Việc hoán đổi lãi suất tỷ giá chéo được định nghĩa là mua một hợp đồng hoán đổi tiền tệ, đồng thời thanh toán lãi suất cố định và nhận thanh toán lãi suất thả nổi trong cùng một thời điểm. Lợi ích của nó là cho phép các công ty để quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái và lãi suất như họ muốn, nhưng nó cũng để lại cho công ty mà mua dụng cụ này dễ bị tổn thương đến cả tiền tệ và rủi ro lãi suất. Hoán đổi tiền tệ chéo cơ sở được xác định như mua hợp đồng hoán đổi tiền tệ và phải trả lãi suất thả nổi bằng đồng tiền này và nhận thanh toán lãi suất bằng đồng tiền khác trong cùng một thời điểm. Giả định công cụ này có cùng nguy cơ tiền tệ như hoán đổi tiền tệ tiêu chuẩn, có lợi thế là nó cho phép một công ty nắm bắt chênh lệch

12

Page 13: quản lý rủi ro

lãi suất hiện hành. Tuy nhiên, bất lợi lớn là nguy cơ chính cho các công ty là rủi ro lãi suất hơn rủi ro tiền tệ.

Đối với các công cụ bảo hiểm rủi ro tiền tệ giao dịch trao đổi, các loại chính là quyền chọn và hợp đồng tương lai.Do tính chất linh hoạt và sự phát triển của cấu trúc hợp đồng quyền chọn đã phát triển nhanh chóng. Các loại phổ biến nhất của cấu trúc lựa chọn là quyền chọn mua vanilla thuần nhất được định nghĩa là mua một hợp đồng quyền chọn đã được định giá trước tại thị trường tỷ giá hối đoái nhưng không có nghĩa vụ phải thực hiện (Allen, 2003). Lợi thế của nó bao gồm sự đơn giản của nó, chi phí thấp hơn hợp đồng kỳ hạn và lỗ là phí bảo hiểm. Tuy nhiên so với các loại quyền chọn phức tạp khác như call spreads thì chi phí của nó là cao hơn.

Hợp đồng tương lai là hợp đồng giao dịch trao đổi xác định một khối lượng tiêu chuẩn tiền tệ được trao đổi vào một ngày giao dịch cụ thể. Hợp đồng tương lai cũng giống như hợp đồng kỳ hạn, chúng đều cho phép các công ty định giá phải trả cho 1 đồng ngoại tệ nhất định tại một thời điểm trong tương lai. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa hai công cụ phòng ngừa này là tỷ giá kỳ hạn bao gồm các điều khoản giao dịch tiền tệ có hiệu lực và ngày thanh toán đặc trưng( thanh toán theo quý). Tuy nhiên, giá trị của hợp đồng tương lai thường sẽ tương tự như tỷ giá của hợp đồng kỳ hạn cho một loại tiền tệ và ngày thực hiện nhất định.

So sánh hợp đồng kỳ hạn và thị trường tiền tệ tương lai về quy mô của các hợp đồng và ngày giao hàng được thiết kế theo nhu cầu cá nhân trong các thị trường kỳ hạn (tức là, xác định giữa một công ty và ngân hàng), trái với hợp đồng tương lai đó là được tiêu chuẩn hóa và được đảm bảo bởi một số tổ chức giao lưu. Mặc dù không có chức năng thanh toán bù trừ riêng biệt cho thị trường mong đợi, tất cả các hoạt động thanh toán bù trừ cho các thị trường tương lai được xử lý bởi một cuộc trao đổi thanh toán bù trừ, với nhãn hiệu để thị trường quyết toán hàng ngày. Về thanh khoản, trong khi hầu hết cáchợp đồng kỳ hạn được giải quyết bằng cách phân phối thực tế và chỉ có một số được bù đắp-bằng một chi phí. Ngược lại, hầu hết các hợp đồng tương lai được quyết toán bù trừ và chỉ có rất ít được giải quyết bằng cách giao hàng. Hơn nữa, giá của một hợp đồng tương lai thay đổi theo thời gian để phản ánh thị trường dự đoán tỷ giá giao ngay trong tương lai. Nếu một công ty đang nắm giữ một hợp đồng tương lai tiền tệ quyết định trước ngày thanh toán mà nó không còn muốn duy trì một vị trí như vậy, nó có thể kết thúc vị thế của mình bằng cách bán một hợp đồng tương lai giống hệt nhau. Điều này, tuy nhiên, có thể không được thực hiện với hợp đồng kỳ hạn.

13

Page 14: quản lý rủi ro

Tóm lại, vì phòng ngừa rủi ro tiền tệ là một chi phí thường xuyên, nên công ty có thể xem bản chất của việc phòng ngừa như là một (1) sự bù trừ, cái mà hài hòa giữa dòng tiền thu vào và dòng tiền chi ra của các công ty đa quốc gia liên quan đến số lượng và thời điểm,(2) mạng lưới cái mà bao gồm sự thiết lập hợp nhất của các khoản thu, các khoản phải trả và nợ giữa các chi nhánh của một công ty, và (3) việc tính toán hóa đơn bằng ngoại tệ, cái làm giảm rủi ro giao dịch liên quan chủ yếu đến việc xuất khẩu và nhập khẩu.

VI. Chiến lược thực tiễn của các công ty MỹTheo BIS (xem bảng 1-4) hoán đổi quốc tế và hiệp hội phái sinh, thị trường

phái sinh OTC đã trải qua một sự tăng trưởng theo cấp số nhân. Ngay cả vớisự suy giảm gần đây do yêu cầu công bố đặc biệt của FAS 133, các dẫn xuấttiếp tục là công cụ bảo hiểm rủi ro chính đối với hầu hết các công ty. Tuy

nhiên, sự tăng trưởng của các công cụ phái sinh sẵn có, cùng với sự ra đời của mark-to-market hedge chiếm (FAS 133 và IAS 39), dự báo khó khăn theo sau tác động của các phái sinh trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp.

Một số cuộc khảo sát đã chỉ ra đặc điểm và thực tiễn của các công ty Mỹ phi tài chính sử dụng phái sinh (Bodnar và Gebhardt, 1998; Hiệp hội Quản lý Kho bạc, năm 1996;Bodnar, Hayt, Marston, và Smithson năm 1995; Papaioannou, 1989). Vì vậy, quy mô bán hàng lớn của các công ty Mỹ phi tài chính có nhiều khả năng là sử dụng phái sinh rủi ro quản lý (Bảng 5). Sử dụng các phái sinh ngoại tệ là phổ biến nhất, chiếm gần ba phần tư của các doanh nghiệp. Mục tiêu chính của bảo hiểm rủi ro tỷ giá hối đoái là tối thiểu hóa những biến đổi trong dòng tiền và lợi nhuận kế toán, phát sinh từ hoạt động nghiệp vụ và đặc điểm của công ty. Mối bận tâm đối với kế toán thu nhập có thể liên quan đến vai trò của họ trong nhận thức và dự đoán thu nhập tương lai và trong quản lý việc bồi thường. Hơn nữa, thật thú vị để lưu ý rằng các công ty Mỹ không đặt nặng việc giảm thiểu sự biến động trong giá trị thị trường của các công ty (giá trị chiết khấu hiện tại của dòng lưu chuyển tiền tệ trong tương lai) khi họ sử dụng các phái sinh trong quản lý rủi ro (Bảng 6).

Sự lựa chọn của các công cụ phái sinh để quản lý ngoại hối của các công ty Mỹ là tập trung vào các công cụ đơn giản, với hợp đồng kỳ hạn OTC được xem như là một công cụ được sử dụng nhiều nhất (trên 50 phần trăm của tất cả các công cụ phái sinh ngoại hối), hợp đồng quyền chọn OTC là công cụ bảo hiểm rủi ro ưa thích đứng thứ hai (khoảng 20 phần trăm tất cả các công cụ phái sinh ngoại hối) và hoán đổi OTC là đưungs thứ ba (khoảng 10 phần trăm) (Table7). Loại kỳ hạn (loại trừ biến động) được sử dụng để tự bảo hiểm ngoại hối phát sinh từ các cam kết trong hợp đồng các công ty Mỹ '(tài khoản phải thu / phải trả), theo khuyến cáo của tài chính quốc tế

14

Page 15: quản lý rủi ro

(Shapiro, 1996). Mặt khác,loại quyền chọn được sử dụng để tự bảo hiểm dòng tiền chưa chắc chắn bằng ngoại tệ trong tương lai (thường liên quan đến các dự đoán giao dịch vượt quá một năm và bao gồm tiếp xúc kinh tế). Các xu hướng của các công ty Mỹ sử dụng OTC kỳ hạn chứ không phải là OTC lựa chọn hay hoán đổi nên được gán cho tính thanh khoản tương đối cao và chiều sâu của thị trường kỳ hạn.

Việc sử dụng các công cụ OTC (kỳ hạn / hoán đổi và tùy chọn) đã làm nỗi bật công cụ bảo hiểm rủi ro chuyển đổi, với dòng tiền tương lai đang được ưa thích chiếm gần 10 phần trăm các công ty Mỹ và hợp đồng quyền chọn đang được ưa thích bởi một tỷ lệ rất nhỏ của các công ty. Các tỷ lệ cụ OTC nên được gán cho nhu cầu bảo hiểm rủi ro rất cụ thể của các công ty mà chủ yếu có thể được cung cấp trên thị trường OTC linh hoạt hơn.

Phần lớn các công ty Mỹ thường xuyên định giá lại các dẫn xuất hàng tháng, với một phần tư tổng số doanh nghiệp định giá các dẫn xuất của họ ít nhất mỗi tuần và rất ít phần trăm công ty làm như vậy hàng năm (Bảng 8). Cuối cùng,phương pháp phổ biến nhất để đánh giá mức độ rủi ro của khoản ngoại hối của họ là kiểm tra gắt gao các dẫn xuất và các kỹ thuật VaR.

VII. Tổng kếtĐo lường và quản lý rủi ro tiền tệ là chức năng quan trọng trong việc giảm

thiểu thiệt hại của một công ty do biến động tỷ giá gây ra. Những thiệt hại chủ yếu phát sinh từ sự tham gia của một công ty trong các hoạt động quốc tế và đầu tư, trong đó thay đổi tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận, thông qua tác dụng của chúng trên các nguồn đầu vào, thị trường đầu ra và các khoản nợ, và giá trị của tài sản. Quản lý thận trọng của các rủi ro tiền tệ ngày càng được uỷ quyền bởi nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là sau khi khủng hoảng tiền tệ của thập kỷ vừa qua và quốc tế đặc biệt chú ý vào kế toán và rủi ro bảng cân đối.

Trong việc quản lý rủi ro tiền tệ, các công ty đa quốc gia sử dụng các chiến

lược bảo hiểm rủi ro khác nhau tùy thuộc trên các loại hình cụ thể của rủi ro tiền tệ. Những chiến lược này đã trở nên ngày càng phức tạp khi họ cố gắng để giải quyết đồng thời giao dịch, sự chuyển đổi và rủi ro kinh tế. Như các rủi ro có thể gây hại đến khả năng sinh lời và xác định giá trị thị trường của một công ty, doanh nghiệp, thậm chí của các công ty có quy mô nhỏ hơn, ngày càng trở nên chủ động trong việc kiểm soát những rủi ro này. Qua đó, một nhu cầu lớn đối với bảo hiểm rủi ro đã nổi lên và sự đa dạng của các công cụ đã được tạo ra bởi sự khéo léo của các ngành kỹ thuật tài chính.

15

Page 16: quản lý rủi ro

Bài viết này trình bày một số vấn đề chính trong việc đo lường và quản lýphải đối mặt với rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp, đặc biệt chú ý đến rủi ro tỷ

giá hối đoái laoij truyền thống (giao dịch, sự chuyển đổi và kinh tế), các phương pháp hiện đang chiếm ưu thế trong đánh giá rủi ro tỷ giá hối đoái (VaR), và những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái (so với chiến thuật chiến lược, và thụ động so với chủ động). Nó cũng vạch ra một tập hợp các điều lệ được chấp nhận trong quản lý rủi ro tiền tệ, và đánh giá việc sử dụng một số công cụ bảo hiểm rủi ro được sử dụng rộng rãi trong các OTC và thị trường chuyển nhượng. Nó cũng báo cáo về việc sử dụng các công cụ phái sinh khác nhau và bảo hiểm rủi ro thực hành của công ty đa quốc Mỹ.

Dựa trên số liệu báo cáo của các công ty Mỹ,thật thú vị để lưu ý công ty có quy mô lớn có nhiều khả năng sử dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái; các mục tiêu chính của hoạt động bảo hiểm rủi ro tỷ giá của các công ty Mỹ 'là để giảm thiểu biến đổi trong dòng chảy tiền mặt của họ và các tài khoản thu (chủ yếu liên quan đến các khoản phải trả, các khoản phải thu); và sự lựa chọn của các dẫn xuất của các công cụ ngoại hối tập trung vào OTC kỳ hạn (trên 50 phần trăm của tất cả các dẫn xuất ngoại hối được sử dụng), OTC quyền chọn (khoảng 20 phần trăm) và OTC hoán đổi (khoảng 10 phần trăm). Từ công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối giao dịch trao đổi có sẵn, hợp đồng tương lai được các công ty Mỹ ưa thích chiếm gần 10 phần trăm của các công ty Mỹ và hợp đồng quyền chọn chiếm khoảng 2 phần trăm.

Nói chung, cần lưu ý rằng các dữ liệu về các doanh nghiệp Mỹ chỉ trình bày lại báo cáo của giai đoạn mà họ tham khảo và là biểu hiện của mức độ tinh vi của công ty Mỹ và mức độ phát triển của thị trường phái sinh ở địa phương. Không có nghĩa là có thể những sự kiện cách điệu được tổng quát cho giai đoạn khác và các nước, đặc biệt là những công ty có cấu trúc thị trường vốn phát tiển. Để tạo sự hiểu biết tốt hơn về thực hành các công ty toàn cầu trong lĩnh vực này, các nghiên cứu thực nghiệm hơn sẽ cần phải được thực hành để khám phá đo lường rủi ro và bảo hiểm rủi ro tỷ giá .________________________________________

https://www.imf.org/external/pubs/ft/wp/2006/wp06255.pdf

16

Page 17: quản lý rủi ro

17