Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỮU NHƯỜNG
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
Ở BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỮU NHƯỜNG
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
Ở BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Mã số : 62 34 04 10
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hữu Thắng
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu nêu trong luận án là trung thực có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy
định. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Hữu Nhường
MỤC LỤC
Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý tài chính 7 1.2. Khái quát các công trình nghiên cứu có liên quan đến tôn giáo ở
Việt Nam 19
1.3. Đánh giá chung các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
25
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CÓ HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP
35
2.1. Khái quát về tài chính trong cơ quan nhà nước có hoạt động sự nghiệp 35 2.2. Quản lý tài chính trong cơ quan nhà nước có hoạt động sự nghiệp 47 Chương 3: THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở
BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ 68
3.1. Khái quát về quá trình phát triển, tổ chức bộ máy và đặc điểm của Ban Tôn giáo Chính phủ
68
3.2. Thực trạng quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ 75 3.3. Đánh giá chung về quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ 100 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH Ở BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ 123
4.1. Bối cảnh hiện nay và phương hướng hoàn thiện quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
123
4.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ 135 KẾT LUẬN 152 CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155 PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CQNN : Cơ quan nhà nước
NSNN : Ngân sách nhà nước
QLNN : Quản lý nhà nước
TW : Trung ương
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Tình hình thu tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ giai
đoạn 2008-2013
76
Bảng 3.2: Tình hình chi tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ giai
đoạn 2008-2013
79
Bảng 3.3: Cơ sở tính chi quản lý nhà nước giai đoạn 2008-2013 81
Bảng 3.4: Nội dung lập dự toán ngân sách của Ban Tôn giáo Chính
phủ giai đoạn 2008 - 2014
83
Bảng 3.5: Phân bổ dự toán chi thường xuyên của Ban Tôn giáo Chính
phủ giai đoạn 2008 - 2014
86
Bảng 3.6. Phân bổ dự toán cho mục tiêu chi đầu tư phát triển của Ban
Tôn giáo Chính phủ giai đoạn 2008 - 2014
87
Bảng 3.7: Nội dung chấp hành dự toán ngân sách của Ban Tôn giáo
Chính phủ giai đoạn 2008 - 2014
88
Bảng 3.8: Quyết toán chi ngân sách của Ban Tôn giáo Chính phủ giai
đoạn 2008 - 2011
90
Bảng 3.9: Tổng hợp nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ở Ban Tôn
giáo Chính phủ giai đoạn 2008-2013
93
Bảng 3.10: Tổng hợp nguồn chi từ hoạt động sự nghiệp 95
Bảng 3.11: Cán bộ phụ trách tài chính của các đơn vị sự nghiệp ở
Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2013
99
DANH MỤC CÁC HÌNH Trang
Hình 3.1: Sơ đồ các đơn vị trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ 70
Hình 3.2: Đánh giá nguồn tài chính cho hoạt động của các đơn vị
trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ
78
Hình 3.3: Tình hình thu - chi tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ
giai đoạn 2008-2013
80
Hình 3.4: Tổng hợp dự toán chi NSNN của Ban Tôn giáo Chính phủ
giai đoạn 2008 - 2014
82
Hình 3.5: Sơ đồ bộ máy quản lý tài chính của Phòng Tài chính - Kế
toán Ban Tôn giáo Chính phủ
98
Hình 3.6: Đánh giá hiệu quả công tác lập dự toán thu - chi NSNN
của Ban Tôn giáo Chính phủ
110
Hình 3.7: Nhận xét về định mức chi hỗ trợ các tôn giáo 117
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý tài chính nhà nước là quá trình tác động của nhà nước đến các
nguồn tài chính nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước một
cách hiệu quả nhất. Việc quản lý sử dụng nguồn tài chính tại các cơ quan
hành chính, sự nghiệp Nhà nước liên quan trực tiếp đến hiệu quả của tài chính
nhà nước, do đó đòi hỏi phải có sự quản lý, giám sát, kiểm tra, nhằm tạo động
lực khuyến khích các cơ quan hành chính, sự nghiệp tích cực, chủ động tự
xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức và phân công lao động hợp lý,
nâng cao chất lượng công việc, sử dụng kinh phí với hiệu quả cao, hạn chế
những đòi hỏi về tăng biên chế và chi phí hành chính. Thông qua đó, làm cho
bộ máy hành chính nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, đáp ứng nhu
cầu và đòi hỏi ngày càng cao của các tổ chức và công dân.
Ở Việt Nam, từ khi thực hiện Luật NSNN năm 2002 và Nghị định
60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp
luật khác, các hoạt động quản lý tài chính ở CQNN được đổi mới căn bản; cơ
chế phân cấp quản lý NSNN từng bước được thực hiện theo nguyên tắc bảo
đảm tính thống nhất của Nhà nước XHCN, tập trung cho ngân sách trung ương
sức mạnh tài chính phù hợp, vừa bảo đảm tính độc lập, tự chủ và quyền hạn
của chính quyền địa phương. Nhờ đó, nguồn lực tài chính của Nhà nước được
sử dụng có hiệu quả, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ của các cơ quan QLNN.
Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam là một cơ quan thuộc Bộ Nội vụ,
thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn QLNN về lĩnh vực tôn giáo trong
phạm vi cả nước; QLNN đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực tôn giáo
theo quy định của pháp luật tại Nghị định 91/2003/NĐ-CP, ngày 13/8/2003.
Hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ vừa thực hiện chức năng QLNN về
tôn giáo, vừa tham mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính
2
sách về tôn giáo, hướng dẫn cho chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo hoạt
động theo đúng pháp luật. Đồng thời, cung cấp các dịch vụ công về tôn giáo
như xuất bản các ấn phẩm, tài liệu tôn giáo; đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ
tôn giáo cho các cán bộ làm công tác tôn giáo, phổ biến hướng dẫn chức sắc,
chức việc, tín đồ tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật; các hoạt động thông
tin truyền thông... Để đáp ứng hoạt động của đơn vị, hàng năm, Ban Tôn giáo
Chính phủ được dự toán nguồn tài chính trên dưới 100 tỷ đồng, đòi hỏi quản
lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ phải luôn được chú trọng. Thực hiện
Luật NSNN 2002, các hoạt động tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ đã từng
bước được đổi mới căn bản. Các nguồn lực tài chính của Nhà nước được sử
dụng có hiệu quả, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ QLNN về tôn giáo cho các
tổ chức, chức sắc, tín đồ của các tôn giáo đang hoạt động trên phạm vi cả
nước. Tuy nhiên, các hoạt động tôn giáo rất phức tạp, đa dạng, trong khi
nguồn lực tài chính có hạn nên công tác tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
chưa thực sự đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Tình hình tôn giáo phức
tạp, sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm gây mất ổn định trật tự
an toàn xã hội khiến cho nguồn ngân sách dành cho công tác tôn giáo dù có
tăng lên hàng năm, song vẫn không đáp ứng được nhu cầu thực tế của công
tác tôn giáo, đặc biệt đối với các điểm nóng về tôn giáo. Đặc trưng nguồn
kinh phí duy trì hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ có rất nhiều các
khoản chi đặc thù như hỗ trợ đối với các chức sắc, chức việc các tôn giáo hay
chi hỗ trợ cho các hoạt động tôn giáo đòi hỏi một nguồn kinh phí tương đối
lớn, trong thời gian dài nên việc cân đối thu - chi từ ngân sách đối với các
hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ là rất khó khăn. Điều này ảnh hưởng
rất lớn đến tình hình quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ nói riêng
và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của Ban nói chung.
Vì vậy, nghiên cứu về quản lý tài chính ở một CQNN như Ban Tôn
giáo Chính phủ đòi hỏi phải có cái nhìn toàn diện về vấn đề tài chính và quản
3
lý tài chính ở CQNN nói chung và ở Ban Tôn giáo Chính phủ nói riêng, đồng
thời phải xem xét tới lĩnh vực hoạt động có tính đặc thù của cơ quan đó mà cụ
thể ở đây là lĩnh vực tôn giáo. Từ thực tế đó, việc nghiên cứu làm rõ đặc thù
của hoạt động quản lý tài chính nhà nước tại Ban Tôn giáo Chính phủ, phân
tích thực trạng và đề xuất những giải pháp phù hợp nhằm góp phần nâng cao
chất lượng quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ là một nhiệm vụ quan
trọng, bức thiết. Đó là lý do của việc lựa chọn vấn đề: "Quản lý tài chính ở
Ban Tôn giáo Chính phủ" làm đề tài nghiên cứu tiến sỹ kinh tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận,
đánh giá thực trạng quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ để tìm giải
pháp hoàn thiện quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ trong điều kiện
hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Hệ thống hoá và bổ sung cơ sở lý luận về quản lý tài chính trong các
CQNN có tính đặc thù như Ban Tôn giáo Chính phủ.
- Phân tích thực trạng quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ và
đánh giá những ưu điểm và nhược điểm, chỉ ra nguyên nhân và các vấn đề
cần tập trung giải quyết để nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại Ban Tôn
giáo Chính phủ.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính
tại Ban Tôn giáo Chính phủ đến năm 2020, tầm nhìn 2030 phù hợp với tình
hình và nhiệm vụ mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là quản lý tài chính ở một cơ quan đặc thù
là Ban Tôn giáo Chính phủ, vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà
nước, vừa có hoạt động sự nghiệp trong lĩnh vực tôn giáo rất nhạy cảm và
phức tạp.
4
Phạm vi nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài tập trung làm rõ thực trạng
quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ trong giai đoạn 2008-2014. Các
hoạt động tài chính cần quản lý ở đây bao gồm tài chính của toàn Ban và tài
chính của bộ phận trực thuộc với các nội dung quản lý tài chính từ NSNN và
từ hoạt động sự nghiệp. Nguồn tài chính được nghiên cứu trong luận án là
nguồn tiền từ NSNN và các khoản thu - chi sự nghiệp của công tác Tôn giáo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận
nghiên cứu kết hợp phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích,
đánh giá vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong
luận án là kết hợp: diễn giải, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, thống kê,... để
nghiên cứu. Những phương pháp cụ thể này được áp dụng phù hợp theo mục
đích, yêu cầu, nhiệm vụ của từng chương, tiết. Cụ thể:
Chương 1, chủ yếu sử dụng phương pháp hệ thống hoá, phân tích, đánh
giá tổng hợp kết quả nghiên cứu của các công trình trong và ngoài nước liên
quan đến đề tài luận án, rút ra các kết luận khoa học về kết quả đạt được, vấn
đề đang nghiên cứu và vấn đề chưa được nghiên cứu.
Chương 2, sử dụng phương pháp diễn giải - quy nạp, hệ thống hoá để tìm
hiểu về các nội dung của quản lý tài chính nhà nước; vị trí, vai trò, đặc điểm, các
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý tài chính nhà nước; làm rõ tính đặc thù
của công tác tôn giáo và hoạt động QLNN của Ban Tôn giáo Chính phủ tác động
trực tiếp đến nội dung tài chính và quản lý tài chính của Ban.
Chương 3, tiếp cận phương pháp duy vật lịch sử, logic quá trình quản
lý tài chính nhà nước trong các cơ quan QLNN. Tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành quản lý kinh tế là phương pháp xã hội học, phương
pháp toán học, phương pháp kinh tế, để phân tích đối tượng nghiên cứu là
hoạt động quản lý tài chính nhà nước để từ đó làm sáng tỏ kết quả đạt được,
5
những mâu thuẫn, vấn đề nảy sinh trong hoạt động quản lý tài chính nhà nước
tại Ban Tôn giáo Chính phủ. Các phương pháp: phân tích tổng hợp, đối chiếu,
so sánh, điều tra xã hội học cũng được sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ của
chương này. Đồng thời, sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị để minh hoạ kết quả
nghiên cứu.
Chương 4, sử dụng phương pháp hệ thống hoá và quy nạp, đồng thời
phân tích tổng hợp để chỉ ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện hoạt động
quản lý tài chính nhà nước tại Ban Tôn giáo Chính phủ phù hợp với những vấn
đề đặt ra ở chương 3 để giải pháp có tính khả thi và đúng hướng đáp ứng yêu
cầu đổi mới hoạt động quản lý tài chính nhà nước theo Luật Ngân sách 2002 và
Dự thảo Luật NSNN 2015.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Góp phần làm rõ nội dung quản lý tài chính ở đơn vị đặc thù là Ban
Tôn giáo Chính phủ, vừa thực hiện chức năng QLNN về tôn giáo, vừa tham
mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính sách về tôn giáo,
đồng thời, cung cấp các dịch vụ công về tôn giáo. Nêu bật những đặc điểm và
các nhân tố tác động đến hoạt động quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính
phủ, đặc biệt là các nhân tố về con người, cơ chế, chính sách đối với hoạt
động quản lý tài chính. Và sự cần thiết hoàn thiện hoạt động quản lý tài chính
tại Ban Tôn giáo Chính phủ theo các yêu cầu của Luật NSNN 2002 và Luật
NSNN 2015.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính
phủ ở cả hai mặt quản lý tài chính từ NSNN và quản lý tài chính các hoạt động
sự nghiệp có thu. Chỉ ra những mặt mạnh, điểm hạn chế trong công tác quản lý
tài chính một cách khách quan, khoa học làm tiền đề xây dựng giải pháp một
cách hợp lý, hiệu quả đối với công tác quản lý tài chính của Ban.
- Đề xuất những quan điểm về quản lý tài chính đối với công tác tôn
giáo trong ngắn hạn và dài hạn để nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại
6
Ban Tôn giáo Chính phủ nhằm đáp ứng những yêu cầu mới về quản lý tài
chính trong CQNN.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và
Phụ lục, nội dung chính của luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận về quản lý tài chính trong cơ quan nhà nước
có hoạt động sự nghiệp
Chương 3: Thực trạng tài chính và quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo
Chính phủ
Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính ở
Ban Tôn giáo Chính phủ
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quản lý tài chính công Với quy mô mỗi ngày một lớn hơn trong các quan hệ kinh tế - tài chính,
tài chính công luôn chiếm vị trí đáng kể ở nước ta cũng như hầu hết các nước
trên thế giới. Thông qua các chính sách, cơ chế cụ thể, vai trò của tài chính
công luôn chiếm vị trí quan trọng và được thể hiện chủ yếu qua 3 điểm chính
là: duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước và các cấp chính
quyền địa phương các cấp, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã
hội; là công cụ để nhà nước tác động vĩ mô (và vi mô) vào đời sống kinh tế -
xã hội, bảo đảm công bằng và phù hợp với các quy luật khách quan; là công
cụ để nhà nước thực hiện việc điều tiết, kiềm chế và bổ trợ cho thị trường,
khắc phục các khuyết tật của thị trường, duy trì sự bình đẳng trong xã hội, bảo
vệ môi trường, tạo cơ sở cho tăng trưởng và phát triển bền vững. Để thực hiện
vai trò của mình, vấn đề lớn nhất của tài chính công là cách thức quản lý của
nhà nước nhằm đạt mục tiêu nhất định. Các công trình nghiên cứu đã đánh giá
cải cách quản lý tài chính công tại Việt Nam, cũng như những bài học kinh
nghiệm về quản lý tài chính công phục vụ cho các mục tiêu kinh tế - xã hội
của một số quốc gia có nền tài chính phát triển.
Tác giả Nguyễn Công Nghiệp trong Đánh giá cải cách hành chính nhà nước trong lĩnh vực quản lý tài chính công từ năm 1992 đến năm 2000 [76]
đã phân tích cụ thể về hệ thống tài chính công trong nền kinh tế thị trường và
những đặc trưng chủ yếu của tài chính công ở Việt Nam; cải cách NSNN và
mối quan hệ với cải cách hành chính; thực trạng cải cách ngân sách ở Việt
Nam; kiểm toán ngân sách - công cụ để tăng cường kỷ luật và nâng cao hiệu
quả sử dụng ngân sách.
8
Kết quả của quá trình cải cách tài chính công giai đoạn 1992-2000 đã
xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá
nhân trong trong lĩnh vực ngân sách, tài chính công; tổ chức lại hệ thống ngân
sách bao gồm 4 cấp tương ứng với 4 cấp chính quyền; đơn giản hoá, giảm thủ
tục và tránh lãng phí trong quản lý thu, chi NSNN; xây dựng và đưa vào hoạt
động hệ thống cơ quan kiểm toán với vai trò của cơ quan kiểm tra, kiểm soát
tài chính công. Tác giả, bên cạnh đó, cũng chỉ ra những vấn đề lớn còn tồn tại
trong quá trình cải cách tài chính công. Thời gian qua chưa xác định rõ cải
cách tài chính công là một nội dung của cải cách hành chính Nhà nước phải
được tiến hành đồng bộ với cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy và xây
dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ,công chức. Thẩm quyền quyết định về ngân
sách của Hội đồng nhân dân các cấp về cơ bản vẫn là hình thức. Tính chủ
động của cơ quan hành chính từ các Bộ, ngành đến Uỷ ban nhân dân các cấp
trong sử dụng các nguồn lực tài chính công chưa được nâng cao, vẫn phụ
thuộc nhiều vào quyền quyết định của các cơ quan kế hoạch và tài chính ở
Trung ương và địa phương. Chưa ban hành đủ và đồng bộ các chế độ, chính
sách, định mức chi tiêu, do đó vẫn còn nhiều trở ngại cho các cơ quan hành
chính trong tổ chức thực hiện ngân sách phục vụ cho các nhiệm vụ được giao
của mình. Chưa tạo lập được sự đồng bộ giữa 3 yếu tố là tổ chức bộ máy, tiền
lương và ngân sách. Chậm nghiên cứu để ban hành các cơ chế, chính sách tài
chính hỗ trợ cho quá trình thực hiện cải cách hành chính, ví dụ như chính sách
khoán biên chế và kinh phí hành chính, cơ chế tài chính cho hoạt động của tổ
chức sự nghiệp có thu. Trách nhiệm của cơ quan kiểm toán không được phân
biệt rõ ràng với các cơ quan kiểm tra khác, dẫn tới sự chồng chéo chức năng
hoạt động, gây phiền hà cho các đơn vị bị kiểm tra.
Nguyễn Ngọc Hiến trong Quản lí tài chính công ở Việt Nam [53] đã
tập trung nghiên cứu các lý luận cơ bản về tài chính công và vai trò, chức
năng tài chính công, đồng thời phân tích thực trạng quản lý tài chính công ở
9
nước ta bao gồm hoạt động đánh thuế, chi tiêu NSNN trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
Phân tích thực trạng quản lý tài chính công ở Việt Nam những năm đầu thế
kỉ XXI và đề xuất các giải pháp để tăng cường quản lý tài chính công trong
giai đoạn tiếp theo.
Trần Trí Trinh trong luận án tiến sĩ: Các giải pháp cải cách quản lý tài chính công nhằm thúc đẩy cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam [85] đã
hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề cơ bản về cải cách quản lý tài chính
công trong mối quan hệ gắn bó với cải cách hành chính nhà nước, đặc biệt là các nội dung, nguyên tắc, yêu cầu của quản lý tài chính công, cũng như vai
trò, mối quan hệ và tác động của cải cách quản lý tài chính công đối với cải
cách hành chính nhà nước. Từ phân tích quản lý tài chính công là quá trình tác động, điều chỉnh
của nhà nước đến tài chính công nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước một cách có hiệu quả nhất - tác giả luận án đã đưa ra 3 nguyên tắc quản lý tài chính công: kỷ luật tài chính, đảm bảo hiệu
quả phân bổ nguồn lực và đảm bảo hiệu quả hoạt động với các yêu cầu về tính
trách nhiệm, tính tiên liệu, tính linh hoạt và sự tham gia của xã hội để phân tích các hoạt động của cải cách quản lý tài chính công đến cải cách hành
chính nhà nước.
Tác giả luận án nêu lên được một cách tổng quát và phân tích, đánh giá khá xác đáng, trung thực, khách quan tình hình thực hiện cải cách quản lý tài
chính công những năm gần đây ở nước ta. Qua đánh giá thực trạng, tác giả luận án đã chỉ rõ được các thành tựu, các mặt hạn chế, vướng mắc và nguyên
nhân của chúng. Một số vấn đề quan trọng đặt ra từ thực trạng cải cách quản
lý tài chính công cần giải quyết trong thời gian tới đã được luận án đề cập tới như các nội dung có liên quan đến chính sách tiền lương, cơ chế tự chủ tài
chính, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp, thực hiện xã hội hoá
dịch vụ công và phân cấp quản lý tài chính.
10
Bài viết của Anand Rajaram, Tuan Minh Le, Nataliya Biletska và Jim
Brumby Một khuôn khổ chuẩn cho đánh giá quản trị đầu tư công [97] đã
cung cấp một cách tiếp cận thực dụng và khách quan quá trình chẩn đoán để
đánh giá hệ thống quản lý đầu tư công cho các chính phủ. Từ những yếu kém
trong quản lý đầu tư công có thể phủ nhận lập luận cốt lõi là mở rộng không
gian tài khoá bổ sung cho đầu tư công có thể nâng cao triển vọng kinh tế
trong tương lai, vì vậy, các quy trình phối hợp lựa chọn và quản lý đầu tư
công là rất quan trọng. Bài viết đã chỉ ra 8 đặc trưng cơ bản của một hệ thống
đầu tư công tốt: (1) hướng dẫn đầu tư, phát triển dự án và sàng lọc sơ bộ; (2)
thẩm định dự án chính thức; (3) đánh giá độc lập thẩm định; (4) lựa chọn và
ngân sách của dự án; (5) thực hiện dự án; (6) điều chỉnh dự án; (7) hoạt động
cơ sở; và (8) đánh giá dự án. Các tác giả nhấn mạnh vai trò của các quá trình
lập và điều hành ngân sách (liên kết ở giai đoạn thích hợp để mở rộng nguồn
lực ngân sách) có khả năng mang lại hiệu quả lớn nhất cho các quyết định đầu
tư công, là giải pháp cơ bản nhằm cải cách những thiếu sót trong chi tiêu đầu
tư công, hướng tới hoàn thiện quản lý chi đầu tư từ NSNN.
Wolfgang Streeck và Daniel Mertens trong Thắt chặt tài chính và đầu
tư công: Có cần thiết phải đối lập? [108] đã đề cập đến cơ cấu chi đầu tư
công trong điều kiện ngân sách hạn chế, thông qua khảo sát thực tế đầu tư
công của ba nước: Mỹ, Đức và Thuỵ Điển từ năm 1981 đến năm 2007. Chi
đầu tư công của các quốc gia này xu hướng tăng cao trong cả giai đoạn 1981-
2007 và chủ yếu tăng đầu tư về giáo dục, nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ cho
gia đình, chính sách thị trường lao động. Các tác giả đánh giá năng lực của
Chính phủ trong điều kiện thắt lưng buộc bụng tài chính để chuyển các nguồn
lực tài chính vốn đã hạn hẹp sang tài trợ cho cho các chương trình định hướng
tương lai nhằm thực hiện mục tiêu xã hội công bằng và hiệu quả hơn. Những
dữ liệu tại Đức, Thuỵ Điển và Mỹ trong những năm 1981-2007 là cơ sở để để
khám phá những động lực cho chính sách chi tiêu với sự kỳ vọng rằng những
11
nỗ lực củng cố mục tiêu công bằng và hiệu quả hơn sẽ được thực hiện trong
thập kỷ tới.
Bộ Chiến lược và Tài chính Hàn Quốc trong Mô đun kinh nghiệm phát
triển 2012 của Hàn Quốc: Kinh nghiệm về quản lý hệ thống thông tin tài
chính của Hàn Quốc - cấu trúc, vận hành và kết quả [103] cho rằng: tiết
kiệm, hiệu quả, chống lãng phí là nguyên tắc căn bản trong quản lý, sử dụng
kinh phí NSNN (NSNN) của nhiều nước trên thế giới. Tại Hàn Quốc, từ năm
1961, Luật Quản lý tài chính đã có những quy định để điều chỉnh vấn đề này.
Đến nay, Luật Quản lý tài chính của Hàn Quốc đã được sửa đổi, bổ sung 25
lần nhằm cụ thể hoá hơn các quy định, đảm bảo tỉnh công khai, minh bạch,
đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan
chức năng để nâng cao hiệu quả thực thi Luật.
Các văn bản hướng dẫn triển khai của Chính phủ, của Bộ Tài chính
Hàn Quốc đã đưa ra các quy định cụ thể nhằm kiểm soát ngay từ khâu phân
bổ ngân sách đảm bảo tập trung, không dàn trải. Theo đó, việc bố trí ngân
sách cho hoạt động của các CQNN phải gắn với chức năng, nhiệm vụ của
từng cơ quan, đơn vị. Công tác lập dự toán kinh phí hàng năm được xác định
là khâu quan trọng. Các cơ quan, đơn vị phải căn cứ vào hệ thống định mức
chi tiêu quy định tại Luật Quản lý ngân sách và Các khoản trợ cấp, đồng thời
được Bộ Tài chính phối hợp với các bộ, ngành xây dựng dự toán cho cơ quan,
đơn vị mình. Bộ Tài chính có trách nhiệm thẩm tra, thủ trưởng các cơ quan,
đơn vị sử dụng kinh phí NSNN có trách nhiệm giải trình để làm rõ từng nội
dung, đồng thời chịu trách nhiệm cá nhân trong khâu tổ chức thực hiện dự
toán bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả.
Đối với việc bố trí kinh phí NSNN cho các chương trình, dự án, cơ
quan, đơn vị chủ trì thực hiện phải thuyết minh làm rõ mục tiêu, lợi ích về
kinh tế - xã hội và những tác động ảnh hưởng đến các vấn đề khác có liên
quan để có căn cứ bố trí kinh phí thực hiện. Việc giám sát thực hiện được chú
12
trọng đến công tác giải ngân để đảm bảo theo đúng kế hoạch, hàng năm có
đánh giá kết quả của chương trình, dự án so với mục tiêu đã đề ra. Trường
hợp giải ngân chậm hoặc kết quả không đạt được mục tiêu sẽ bị cắt giảm kinh
phí, thậm chí dừng thực hiện chương trình, dự án kém hiệu quả. Theo kinh
nghiệm của Hàn Quốc thì nếu kiểm soát tốt việc thực hiện các chương trình,
dự án như trên sẽ hạn chế được tình trạng lãng phí NSNN. Ngoài ra, trong tổ
chức thực hiện, việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,
đơn vị đồng thời có chế tài xử lý triệt để các hành vi vi phạm trong thực hiện
quy trình lập, phân bổ, quản lý, sử dụng NSNN là giải pháp quan trọng cho
việc tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí.
Ngoài ra, còn khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án như: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính công trong các
cơ quan hành chính nhà nước [1]; Quản lý tài chính công: lý luận và thực tiễn
[57]; Quản lý tài chính công: những vấn đề lý luận và thực tiễn [59]. Nhiều
cuốn sách nghiên cứu về cải cách quản lý tài chính công trong cải cách hành
chính nhà nước như: Cải cách bộ máy hành chính cấp trung ương trong công
cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta [51]; Cải cách hành chính nhà nước; thực
trạng, nguyên nhân; giải pháp [77]; Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành
chính ở Việt Nam [53];… Một số nghiên cứu cải cách quản lý tài chính công
có thể tìm thấy trong các tài liệu tham khảo nước ngoài như: Báo cáo phát
triển Việt Nam 2004: Quản lý và điều hành [60]; Việt Nam quản lý chi tiêu
công để tăng trưởng và giảm nghèo [49].
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về quản lý ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là xương sống của tài chính nhà nước và là nguồn
lực quan trọng cho đầu tư phát triển, đảm bảo quốc phòng an ninh và duy trì
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả quản trị
điều hành ngân sách trung ương và địa phương luôn là vấn đề được các nhà
nghiên cứu quan tâm. Các công trình nghiên cứu về NSNN được nêu đều
13
khẳng định vai trò quan trọng của công tác điều hành ngân sách với việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của trung ương và địa phương, song những
bất cập của quản lý, điều hành NSNN vẫn tồn tại, đặc biệt là những bất cập về
cơ chế, chính sách.
Tô Thiện Hiền trong Nâng cao hiệu quả quản lý NSNN tỉnh An Giang
giai đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn đến 2020 [55] cho rằng quản lý NSNN gắn
liền với việc thực hiện các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước
trong từng thời kỳ. Việc khai thác, huy động nguồn thu vào NSNN và sử dụng
vốn NSNN, chi tiêu NSNN một cách tiết kiệm, có hiệu quả là bộ phận không
thể tách rời của vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Luận án góp
phần lý giải trên phương diện khoa học những lý luận cơ bản về hiệu quả quản
lý NSNN và các hình thức quản lý ngân sách tỉnh An Giang. Đồng thời, trên cơ
sở phân tích thực trạng về hiệu quả quản lý ngân sách của tỉnh và kinh nghiệm
của một số nước trên thế giới và một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tác giả
luận án nêu ra mục tiêu và quan điểm về vấn đề quản lý thu - chi ngân sách ở
An Giang, và cơ sở cơ bản để đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý NSNN tỉnh An Giang trong thời gian tới, góp phần đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương một cách vững chắc.
Trịnh Thị Thuý Hồng trong Quản lý chi ngân sách nhà nước trong đầu
tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Bình Định [61] đã làm rõ vai trò của
quản lý chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản và đưa ra các chỉ tiêu đánh
giá quản lý chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản: kết quả chi, hiệu quả chi
NSNN; khảo sát chu trình quản lý chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản từ
khâu lập kế hoạch, lập dự toán, chấp hành dự toán, quyết toán cho đến khâu
kiểm tra, thanh tra, đánh giá chương trình. Các phân tích về thực trạng quản lý
chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Bình Định cho thấy
được điểm mạnh nhất, yếu nhất trong từng khâu của chu trình quản lý chi
NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh, các nguyên nhân dẫn
14
đến hạn chế trong quản chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản. Từ đó, tác
giả đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý chi NSNN trong đầu tư
xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Nguyễn Quang Hưng với công trình Đổi mới kiểm soát chi ngân sách thường xuyên của chính quyền địa phương các cấp qua Kho bạc Nhà nước [67] đã hệ thống hoá và phân tích rõ những vấn đề lý luận cơ bản về chi ngân
sách thường xuyên, kiểm soát chi ngân sách thường xuyên qua Kho bạc nhà
nước. Tổng kết kinh nghiệm kiểm soát chi ngân sách thường xuyên của Cộng hoà Pháp, Canada, Singapore, Malaysia, Cộng hoà liên bang Đức và kinh
nghiệm về các phương pháp tổ chức thực hiện các sáng kiến cải cách ngân
sách ở các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), từ đó rút ra 5 bài học kinh nghiệm có thể nghiên cứu áp dụng cho Việt Nam. Tác
giả phân tích thực trạng chi và kiểm soát chi ngân sách thường xuyên qua
Kho bạc Nhà nước của chính quyền địa phương các cấp tại Việt Nam, rút ra các kết luận về kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng nêu trên.
Đồng thời, đề xuất các quan điểm, định hướng và sáu nhóm giải pháp với các
điều kiện thực hiện giải pháp nhằm đổi mới kiểm soát chi ngân sách thường xuyên của chính quyền địa phương các cấp qua Kho bạc nhà nước tại Việt
Nam. Hệ thống các nhóm giải pháp đề xuất bao gồm: đổi mới tổ chức kiểm
soát chi ngân sách thường xuyên trong hệ thống Kho bạc nhà nước; đổi mới quy trình thực hiện kiểm soát chi ngân sách thường xuyên của chính quyền
địa phương các cấp qua Kho bạc nhà nước; hoàn thiện hệ thống công cụ sử
dụng trong kiểm soát chi ngân sách thường xuyên của chính quyền địa phương các cấp qua Kho bạc nhà nước; đổi mới công tác tổ chức thực hiện
các cơ chế, chính sách kiểm soát chi ngân sách thường xuyên qua Kho bạc nhà nước; nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ, công chức kiểm soát chi
ngân sách thường xuyên; người thực hiện ngân sách thường xuyên; kiểm soát
chi ngân sách thường xuyên theo phương thức quản lý ngân sách chương trình, ngân sách dự án, trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn.
15
Tài liệu của Ngân hàng Phát triển châu Á: Tài chính công và cải cách
quản lý tài chính ở Trung Quốc: Quản lý đặc thù với Kho bạc và thị trường
trái phiếu [74] đã nêu rõ, tại Trung Quốc, tất cả các dự án đầu tư công đều
phải nằm trong quy hoạch đã được duyệt mới được chuẩn bị đầu tư. Trung
Quốc có Luật riêng về Quy hoạch. Uỷ ban Phát triển và Cải cách nhà nước
Trung Quốc là cơ quan đầu mối tổ chức thẩm định, tổng hợp, lập báo cáo
thẩm định về các quy hoạch phát triển, trình Quốc Vụ viện (Chính phủ) phê
duyệt; kiểm tra, tổng hợp kết quả thực hiện các quy hoạch đã được duyệt. Các
Bộ, ngành, địa phương căn cứ vào các quy hoạch phát triển đã được duyệt để
đề xuất, xây dựng kế hoạch đầu tư và danh mục các dự án đầu tư (bằng vốn
của NSNN và vốn đầu tư của xã hội). Tất cả các dự án đầu tư công đều phải
lập Báo cáo đề xuất dự án (kể cả các dự án đã có trong quy hoạch đã được
phê duyệt). Việc điều chỉnh dự án (mục tiêu, quy mô, tổng mức đầu tư) nằm
trong quy hoạch đã được phê duyệt phải được sự chấp thuận của cơ quan phê
duyệt quy hoạch đó.
Quản lý đầu tư công ở Trung Quốc được phân quyền theo 04 cấp ngân
sách: cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp thành phố và cấp huyện, trấn. Cấp có
thẩm quyền của từng cấp ngân sách có toàn quyền quyết định đầu tư các dự
án sử dụng vốn từ ngân sách của cấp mình. Đối với các dự án đầu tư sử dụng
vốn hỗ trợ từ ngân sách cấp trên phải lấy ý kiến thẩm định của các cơ quan
liên quan của ngân sách cấp trên trước khi phê duyệt chủ trương đầu tư dự án.
Việc thẩm định các dự án đầu tư ở tất cả các bước (chủ trương đầu tư, báo cáo
khả thi, thiết kế kỹ thuật và tổng khái toán, thiết kế thi công và tổng dự toán,
đấu thầu…) đều thông qua Hội đồng thẩm định của từng cấp và lấy ý kiến
thẩm định của các cơ quan QLNN có liên quan cùng cấp và cấp trên nếu có sử
dụng vốn hỗ trợ của ngân sách cấp trên.
Như vậy, trong quá trình phát triển, các nước đều không ngừng nghiên
cứu hoàn thiện cơ sở luật pháp, chính sách về sử dụng vốn nhà nước đáp ứng
16
yêu cầu quản lý sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này phù hợp với hoàn cảnh
trong từng giai đoạn phát triển. Kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, đối với các
nước đang phát triển như Việt Nam, cần thiết phải có một văn bản pháp lý đủ
mạnh để quản lý quá trình đầu tư công một cách toàn diện và hiệu quả, vì việc
sử dụng vốn nhà nước, nhất là nguồn vốn ngân sách chi đầu tư phát triển của
Việt Nam chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng cân đối NSNN hiện nay.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về quản lý tài chính trong các
đơn vị sự nghiệp
Nguyễn Mạnh Hùng trong luận án Cơ chế quản lý tài sản công trong
khu vực hành chính sự nghiệp ở Việt Nam [63] đã góp phần làm rõ những vấn
đề lý luận cơ bản về cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự
nghiệp, luận giải khái niệm tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp
với tư cách là đối tượng nghiên cứu cơ bản xuyên suốt toàn bộ đề tài. Trên cơ
sở đó, tác giả đánh giá thực trạng cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực
hành chính sự nghiệp ở nước ta từ năm 1995 tới năm 2008, đặc biệt là sau khi
có Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, đưa ra các chỉ tiêu đánh giá hiệu
lực, hiệu quả cơ chế quản lý tài sản công. Đồng thời so sánh với một số nước
trên thế giới như Trung Quốc, Pháp, Canada, Australia và nêu lên bốn nội
dung để vận dụng vào việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công trong khu
vực hành chính sự nghiệp ở Việt Nam. Từ đó, tác giả đề xuất những giải pháp
nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự
nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2009 - 2020, như: nâng cao hiệu lực và hiệu quả
cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp; thực hiện thí
điểm lập ngân sách theo kết quả đầu ra (trong đó có kinh phí đầu tư, mua sắm
tài sản) và tính toán hiệu quả khi quyết định đầu tư, mua sắm, giao tài sản
công cho các đơn vị sự nghiệp; tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh
chống tệ nạn tham nhũng, tham ô, lãng phí trong quản lý tài sản công trong
khu vực hành chính sự nghiệp.
17
Bùi Tuấn Minh với Phân tích hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn kinh
phí trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo trực thuộc Bộ Tài chính [73] trên cơ
sở nhận thức về vai trò của giáo dục đào tạo đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội, vận dụng những lý luận về nguồn kinh phí và phân tích hiệu quả sử dụng
nguồn kinh phí trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo, đã đưa ra những nguyên
tắc và yêu cầu cơ bản của việc quản lý sử dụng nguồn kinh phí, đồng thời
cũng chỉ ra các phương pháp và hệ thống các chỉ tiêu phân tích để đánh giá
hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo. Từ việc
phân tích các định chế pháp lý về quản lý nguồn kinh phí trong các đơn vị sự
nghiệp đào tạo, luận án đã đi vào phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng nguồn
kinh phí trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo trực thuộc Bộ Tài chính. Tác giả
làm rõ những vấn đề còn tồn tại của các đơn vị sự nghiệp đào tạo trực thuộc
như: quyền tự chủ về nguồn kinh phí chưa được phát huy triệt để; phân cấp
quản lý chi chưa hiệu quả; phương án tự chủ về quỹ tiền lương, tiền công
chưa được thực hiện đầy đủ. Trên cơ sở mục tiêu chiến lược tài chính, tiền tệ
và định hướng phát triển công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành tài chính
đến năm 2020, tác giả đã đề xuất một hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng nguồn kinh phí trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo trực thuộc Bộ.
Bên cạnh đó, tác giả luận án còn đề cập tới các giải pháp điều kiện nhằm hỗ
trợ cho việc thực hiện các giải pháp chính của đề tài nghiên cứu.
Lê Thị Thanh Hương với luận án Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán
trong các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế ở Việt Nam [68] đã phân tích đặc điểm
tổ chức đơn vị sự nghiệp có thu công lập (có so sánh với đơn vị sự nghiệp có
thu ngoài công lập, so sánh hoạt động dịch vụ trong đơn vị sự nghiệp có thu
công lập và trong doanh nghiệp) chi phối đến cơ chế quản lý tài chính và tổ
chức công tác kế toán trong loại hình đơn vị này. Tác giả đã khái quát về lý
luận, thực tiễn và hoàn thiện tổ chức kế toán trên góc độ kế toán tài chính, kế
toán quản trị đối với loại hình đơn vị sự nghiệp có thu công lập nói chung và
18
các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế nói riêng trên các nội dung: tổ chức bộ máy
kế toán trong các bệnh viện có thể thực hiện theo hình thức kết hợp hay tách
biệt giữa hoạt động sự nghiệp và hoạt động sản xuất, kinh doanh; xác định hệ
thống kế toán, cơ sở kế toán theo từng loại hình bệnh viện; hoàn thiện tổ chức
hệ thống chứng từ, tài khoản (đặc biệt xây dựng hệ thống tài khoản chi tiết đối
với hoạt động thụ hưởng trên nguyên tắc xây dựng mục lục ngân sách nhà
nước), hệ thống sổ kế toán, báo cáo kế toán; thực hiện phân loại chi phí, phân
tích chi phí hỗn hợp, xác định giá các dịch vụ trọn gói trên cơ sở phân tích
mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận; phân bổ các chi phí liên quan
hai loại hình hoạt động thụ hưởng và dịch vụ. Từ đó có thể khảo sát, đánh giá
và đưa ra những ý kiến đề xuất hoàn thiện phù hợp với đặc điểm hoạt động
trong các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế.
Vũ Thị Thanh Thuỷ trong luận án Quản lý tài chính các trường đại học
công lập ở Việt Nam [80] đã đề xuất khái niệm mới về tự chủ tài chính các
trường đại học công lập, khác biệt với quan điểm của nhiều chuyên gia kinh tế
và nhà quản lý thực tiễn ở Việt Nam, trong đó, nhấn mạnh tự chủ tài chính đối
với các trường đại học công lập nhằm mục tiêu cuối cùng là đảm bảo thu đủ
bù đắp chi phí tương ứng với chất lượng đào tạo, hướng tới bền vững tài
chính. Từ kết quả phân tích bộ số liệu của 50 trường đại học công lập từ năm
2006 đến 2010 (bằng phần mềm thống kê SPSS), tác giả luận án đã đánh giá
thực trạng quản lý tài chính các trường đại học công lập ở Việt Nam còn
nhiều yếu kém, biểu hiện ở việc hiệu quả chi rất thấp, quyền tự chủ tài chính
cho các trường còn nhiều bất cập. Kết quả phỏng vấn sâu 06 cán bộ quản lý
tài chính của 06 trường đại học công lập cho phép nhận diện các nguyên nhân
dẫn tới hạn chế trong quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập.
Phân tích thực trạng quản lý tài chính trong các trường đại học công lập, tác
giả đã đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính các trường đại học
công lập ở Việt Nam. Trong đó, giải pháp tăng cường quyền tự chủ tài chính
19
các trường đại học công lập có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tăng tính thuyết
phục của giải pháp, đã thiết lập điều kiện để các trường đại học công lập tự
chủ tài chính.
Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý
luận, quan điểm quản lý tài chính công ở cấp vĩ mô, quản lý tài chính cấp vi
mô trong các cơ quan nhà nước sử dụng NSNN và các đơn vị sự nghiệp. Một
số nhà nghiên cứu đã chỉ ra yêu cầu đẩy mạnh cải cách quản lý tài chính trong
các cơ quan hành chính, sự nghiệp nhằm thúc đẩy cải cách hành chính nhà
nước. Tuy nhiên, đối với những cơ quan quản lý hành chính mang tính chất
đặc thù như Ban Tôn giáo Chính phủ thì vẫn chưa có những cơ sở lý luận
thuyết phục về công tác quản lý tài chính, cũng như chưa đưa ra những giải
pháp quản lý tài chính đồng bộ, mạnh mẽ và hiệu quả trong các đơn vị này.
Mặt khác, nghiên cứu về hoạt động quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính
phủ là một vấn đề mới, chưa từng được nghiên cứu trước đó. Trên cơ sở kế
thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, từ thực tế của
công tác quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ, nghiên cứu sinh mong
muốn góp phần làm rõ nội dung tài chính và quản lý tài chính ở một CQNN
đặc thù như Ban Tôn giáo Chính phủ. Đồng thời, đề xuất những giải pháp
nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại Ban đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong giai đoạn mới. 1.2. KHÁI QUÁT CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam Nguyễn Thanh Xuân trong Một số tôn giáo ở Việt Nam [93] cho rằng tôn
giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển hàng ngàn năm nay. Ở nước
ta, tôn giáo là vấn đề lớn liên quan đến chính sách luôn được Đảng, Nhà nước
quan tâm, tạo điều kiện. Cũng như ở nhiều quốc gia khác, tôn giáo ở Việt Nam
rất đa dạng, có sự xuất hiện của hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới, như Phật
20
giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Baha’I, Bà-la-môn…, những tôn giáo nội
sinh đặc trưng như Cao Đài, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Phật giáo Hoà Hảo, Bửu
Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa… và nhiều tôn giáo nội sinh khác. Bản
thân mỗi tôn giáo chứa đựng nội dung phong phú về lịch sử, tư tưởng, triết học,
đạo đức, văn hoá … riêng biệt. Việc tìm hiểu sâu để có cái nhìn tổng quát về
các tôn giáo không chỉ ở trong nước và trên thế giới, về khía cạnh QLNN là cơ
sở cho việc hoạch định các chính sách tôn giáo đúng đắn; về phía các tổ chức
tôn giáo là để củng cố, phát triển tôn giáo mình trong tính nhân văn, tình đoàn
kết, sự thân hữu. Đó là điều cần thiết trong bối cảnh xã hội hiện nay, đặc biệt
trong việc phát huy các giá trị nhân bản, ưu việt của các tôn giáo vì mục đích
chung phục vụ cuộc sống hoà bình và sự phát triển của xã hội.
Nguyễn Hoài Sanh trong Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo: những vấn đề
lý luận và thực tiễn cấp bách ở Việt Nam hiện nay [79] khẳng định Việt Nam
là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Những năm gần đây, cùng với xu hướng
đổi mới toàn diện đất nước và sự hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam diễn ra hết sức sôi động và không kém phần
phức tạp, ảnh hưởng mạnh mẽ, toàn diện đến đời sống tinh thần của bộ phận
lớn người dân; tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay với nhiều biểu hiện, nhiều xu hướng
rất đáng được quan tâm, như: tình trạng cải đạo, bỏ đạo, tình trạng từ bỏ một
số hình thức tín ngưỡng truyền thống của đồng bào miền núi để theo tôn giáo
mới, hoặc xu hướng thế tục hóa tôn giáo cũng diễn ra khá mạnh mẽ. Thực tế
đó đang đặt ra những vấn đề cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Tác giả
nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách trong đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay dưới góc độ triết học; trên cơ sở đó,
đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp nhằm giải quyết tốt vấn đề tín
ngưỡng, tôn giáo, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.
Philip Taylor trong cuốn Tính hiện đại và vẻ đẹp của tôn giáo trong
tiến trình cách mạng Việt Nam [106] đã cung cấp thông tin về hoạt động của
21
đời sống tôn giáo ở Việt Nam sau cuộc Cách mạng năm 1975. Đời sống tâm
linh của người Việt Nam được miêu tả là đa dạng và phong phú. Phật giáo là
một trong những đạo góp phần làm dung hoà những nguyện vọng của người
dân với đời sống thực tại. Tôn giáo có ý nghĩa rất lớn đối với người dân Việt
Nam ngay cả trong thời kì đất nước mở cửa hội nhập và đang trên con đường
tiến tới hiện đại hoá. Tuy nhiên, tôn giáo ở Việt Nam thường bị lợi dụng bởi
các thế lực thù địch với chính phủ Việt Nam ở trong và ngoài nước. Chủ yếu
chúng kích động người dân phản đối chế độ của Nhà nước song tình hình vẫn
nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ và các cơ quan QLNN Việt Nam.
1.2.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến công tác tôn giáo Nguyễn Ngọc Quỳnh trong Chính sách tôn giáo thời Tự Đức (1848-
1883) [78] cho rằng Nhà nước phong kiến Việt Nam thời Tự Đức là nhà nước
quân chủ chuyên chế, tất cả quyền hành tập trung trong tay nhà vua. Trên
thực tế, năng lực và tính cách của các ông vua là những nhân tố quyết định
các chính sách đương thời. Tuy nhiên, bên cạnh vai trò của nhà vua còn có bộ
máy quan lại với chức năng cố vấn và thực thi các chính sách. Tuỳ từng thời
kỳ và tuỳ từng công việc mà bộ máy này có những ảnh hưởng nhất định đến
nhà vua và nhiều khi trở thành áp lực đối với việc ban hành các chính sách,
nhưng rất khó xác định mức độ ảnh hưởng của bộ máy này với các chính sách
đương thời vì những văn bản của nhà nước đều do chính tay nhà vua "ngự
phê". Mặt khác, những chính sách của nhà nước trong quá trình thực hiện
cũng có những sai lệch nhất định tuỳ theo từng điều kiện, hoàn cảnh và phạm
vi cụ thể. Do vậy, khái niệm chính sách tôn giáo thời Tự Đức được sử dụng
trong cuốn sách sẽ bao hàm cả những nội dung trên, khai thác tối đa những
nguồn tài liệu đa chiều để rút ra những nhận xét, đánh giá. Phân tích những
nguyên nhân cơ bản, những hạt nhân hợp lý, cũng như những nghịch lý trong
chính sách tôn giáo thời Tự Đức (1848-1883), từ đó rút ra những mặt tích cực
cũng như hạn chế trong thái độ ứng xử của triều vua này đối với các tôn giáo,
những bài học kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử để góp phần giải quyết các vấn
22
đề chính trị, xã hội ở nước ta hiện nay nói chung và cho việc hoàn thiện chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta nói riêng . Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo [75] của
Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ được chia làm 2 phần: Hồ Chí Minh về
tôn giáo và Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc điểm văn hoá
Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, các tín ngưỡng, tôn giáo có
lịch sử hình thành, phát triển và có đặc điểm riêng, với xu hướng hoà đồng,
tồn tại đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đấu tranh dựng nước và giữ
nước, dân tộc Việt Nam đã tạo nên hệ giá trị truyền thống vô cùng quý báu,
trong đó yêu nước là giá trị hàng đầu. Lịch sử dân tộc đã minh chứng về sự
đồng điệu giữa đức tin tôn giáo và lòng yêu nước, Trần Nhân Tông vừa là
ông vua yêu nước có công lãnh đạo quân dân ta hai lần đánh thắng quân
Nguyên, vừa là nhà thiền học tiêu biểu của thiền phái Trúc Lâm. Sự đồng
điệu ấy đã góp phần to lớn tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong suốt
cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước. Vì vậy, lòng yêu nước và đức tin tôn
giáo không có gì mâu thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ với nhau, một người
dù theo tôn giáo nào thì trước hết người đó phải là công dân, có nghĩa vụ với
dân tộc, đất nước.
Dựa trên những đặc điểm văn hoá dân tộc - tôn giáo Việt Nam, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chính sách tôn giáo là nhằm xây dựng, củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, độc lập dân
tộc và CNXH. Người đã đề ra những quan điểm, giải pháp đúng đắn để thực
hiện thành công vấn đề đoàn kết các tôn giáo mà trọng tâm là đoàn kết Lương
- Giáo. Chính sách tôn giáo theo tư tưởng của Người, thể hiện tính nhất quán,
lâu dài, thực sự tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo; thái độ mềm dẻo, khéo léo
trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo. Eugene Tan trong Thiên Chúa trong đời sống hiện đại: Cách thức quản
lý tôn giáo ở Singapore [100] khẳng định kể từ khi độc lập khỏi Malaysia vào
23
năm 1965, chính phủ Singapore đã đạt được một thành công lớn trong việc
tạo ra sự hài hoà sắc tộc và tôn giáo. Tuy nhiên, Singapore có nguy cơ bị ru
ngủ vì tự mãn về tình trạng quan hệ giữa các sắc tộc. Chính vì vậy, cuốn sách
nghiên cứu những nguy cơ còn tiềm tàng trong các tôn giáo ở Singapore. Từ
đó đề xuất với chính phủ các biện pháp phòng tránh những nguy cơ, rủi ro có
thể xảy ra do sự xung đột giữa các sắc tộc, tôn giáo ở đất nước này. Các biện
pháp được khuyến nghị là tăng thêm các quyền quản lý của các CQNN và
chính quyền địa phương đối với tất cả các tôn giáo, hạn chế sự phân biệt sắc
tộc. Chính phủ sử dụng các biện pháp truyền thông cố gắng gắn kết các tôn
giáo với nhau thông qua việc tuyên truyền những giá trị tốt đẹp mà mỗi tôn
giáo, sắc tộc đang duy trì.
Myengkyo Seo trong Cách thức quản lý tôn giáo ở Indonesia [104] đã
xem xét cách thức quản lý các tôn giáo ở Indonesia. Indonesia vốn được coi là
một đất nước Hồi giáo vì có số lượng người theo đạo Hồi lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên, trên thực tế thì ở Indonesia vẫn có sự tồn tại của một số đạo khác
như Kitô giáo và có một điểm đặc biệt là những người theo đạo Kitô thường
có vị trí xã hội cao ở đất nước này. Ngoài ra, Thiên Chúa giáo cũng rất phát
triển ở Indonesia. Cuốn sách cho thấy giữa các tôn giáo ở Indonesia có sự kế
thừa, kế tục và giao thoa với nhau. Điều này giúp cho hoạt động quản lý ở các
địa phương trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, không phải là không có những
xung đột giữa các tôn giáo, đặc biệt là tình trạng bạo lực tôn giáo ở quốc gia
này. Chính phủ nước này đã đưa ra các đạo luật để hạn chế bạo lực và cho
phép hôn nhân giữa các đạo khác nhau. Luật Hôn nhân 1974 đã có tác động
rất lớn trong việc dung hoà các tôn giáo, hạn chế sự bất đồng ý kiến giữa các
tôn giáo với nhau. Đây là một đạo luật rất hay vì nó điều chỉnh các qui định
trong phạm vi lớn để phù hợp với qui tắc của đa số các tôn giáo ở Indonesia.
Tác giả cuốn sách nhấn mạnh vai trò của luật pháp trong việc điều hoà các
mối quan hệ xã hội, nó là công cụ hữu hiệu giúp chính phủ và các chính
quyền địa phương giải quyết các bất đồng.
24
Tác giả Đỗ Quang Hưng trong Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp
quyền [66] đã trình bày những nội dung cơ bản về chính sách tôn giáo trong
điều kiện nhà nước pháp quyền với những vấn đề cơ bản của nhà nước pháp
quyền và tôn giáo; những nguyên lý cơ bản giải quyết mối quan hệ nhà nước
pháp quyền và tôn giáo; nội dung chính sách tôn giáo. Tác giả cũng trình bày
hệ thống các mô hình nhà nước thế tục tại Pháp, tại Mỹ; những ảnh hưởng của
hai mô hình thế tục Pháp, Mỹ; mối quan hệ giữa "nguyên lý thế tục" và quyền
tự do tôn giáo; những kinh nghiệm xây dựng nhà nước thế tục trên thế giới
(Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á, các nước Islam giáo Bắc
Phi - Trung Đông). Bản chất chính sách tôn giáo trên thế giới hiện nay chủ yếu
là giải quyết mối quan hệ Nhà nước - Tôn giáo, trong đó nguyên lý thế tục vẫn
là con đường phổ biến của nhân loại trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo.
Đối với Việt Nam, tác giả phân tích quá trình đổi mới và sự chuyển biến
của chính sách tôn giáo ở Việt Nam từ thời phong kiến, thời Pháp thuộc đến
chính sách tôn giáo của chính quyền Sài Gòn (1954 - 1975) và chính sách tôn
giáo thời kỳ đổi mới. Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến thái độ của các tôn giáo
trong việc tiếp nhận sự đổi mới chính sách tôn giáo. Thông qua đó đề cập tới
động thái mới của đời sống tôn giáo và những dự báo đối với tình hình tôn giáo;
quá trình hoàn thiện luật pháp tôn giáo; chính sách tôn giáo và nhà nước pháp
quyền; những vấn đề đặt ra với nhà nước pháp quyền và tôn giáo Việt Nam.
Ngoài ra, còn có những công trình nghiên cứu về chính sách tôn giáo và
công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta đăng trên tạp chí chuyên ngành
Tôn giáo như: "Những bước tiến trong việc thể chế hoá chủ trương, chính
sách về tôn giáo của nước ta thời gian gần đây" [70]; "Để có cái nhìn mới về
tôn giáo và công tác tôn giáo" [92]; "Quá trình hoàn thiện chủ trương chính
sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong 60 năm (1945 - 2005)" [71];
"Vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong văn kiện của Đại hội X của
Đảng" [72]; Tiếp tục đổi mới chính sách tôn giáo: những vấn đề lý luận và
25
thực tiễn [39]. Các công trình, bài báo, tạp chí nghiên cứu như trên đã đi sâu
vào tìm hiểu về tình hình tôn giáo Việt Nam; chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà Nước qua các thời kỳ lịch sử với giá trị tổng kết thực tiễn lớn góp phần
giúp nghiên cứu sinh phân tích đặc thù của công tác tôn giáo tác động đến tài
chính và quản lý tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ. 1.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Một số kết quả nghiên cứu đạt được có liên quan đến đề tài luận án
Thứ nhất, làm rõ được các khái niệm về tài chính nhà nước, quản lý tài
chính nhà nước Tài chính Nhà nước là một bộ phận hữu cơ của nền tài chính quốc gia.
Nó ra đời, tồn tại và phát triển gần với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà
nước và sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ. Nhà nước xuất hiện
đòi hỏi phải có nguồn lực vật chất nhất định để nuôi sống bộ máy Nhà nước
và thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội do cộng đồng giao phó. Trong nền
kinh tế hàng hoá tiền tệ, các nguồn lực vật chất đó, không những đã được tiền
tệ hoá mà còn ngày càng trở nên dồi dào. Từ khi thực hiện Luật NSNN năm
2002 và Nghị định 60/2003/NĐ-CP, ngày 6/6/2003 của Chính phủ qui định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật NSNN và các văn bản quy phạm pháp luật
khác, các hoạt động tài chính ở CQNN được đổi mới căn bản. Nhờ đó, nguồn
lực tài chính của Nhà nước được sử dụng có hiệu quả, góp phần thực hiện tốt
nhiệm vụ của các cơ quan QLNN. Tài chính công có những đặc trưng cụ thể:
- Về sở hữu: Các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong Tài chính nhà
nước thuộc sở hữu công cộng, sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện,
thường gọi là sở hữu nhà nước.
- Về mục đích: Các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong Tài chính nhà
nước được sử dụng vì lợi ích chung của toàn xã hội, của toàn quốc, của cả
cộng đồng, vì các mục tiêu kinh tế vĩ mô, không vì mục tiêu lợi nhuận.
26
- Về chủ thể: Các hoạt động thu, chi bằng tiền trong Tài chính nhà nước
do các chủ thể nhà nước tiến hành. Các chủ thể nhà nước ở đây là Nhà nước
hoặc các cơ quan, tổ chức của Nhà nước được Nhà nước giao nhiệm vụ thực
hiện các hoạt động thu, chi đó (gọi chung là Nhà nước).
- Về mặt pháp luật: Các quan hệ Tài chính nhà nước chịu sự điều chỉnh
bởi các "luật công", dựa trên các quy phạm pháp luật mệnh lệnh - quyền uy.
Khác với Tài chính nhà nước, các quan hệ tài chính tư được điều chỉnh bởi
các "luật tư", dựa trên các quy phạm pháp luật hướng dẫn, thoả thuận. Các
quan hệ Tài chính nhà nước là các quan hệ kinh tế nảy sinh gắn liền với việc
tạo lập và sử dụng các quỹ công mà một bên của quan hệ là các chủ thể công.
Quản lý tài chính nhà nước là hoạt động của các chủ thể quản lý tài
chính nhà nước thông qua việc sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý
và các công cụ quản lý để tác động và điều khiển hoạt động của tài chính nhà
nước nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
Thứ hai, làm rõ được các vấn đề còn tồn tại trong quản lý NSNN
Ngân sách nhà nước là xương sống của tài chính nhà nước và là nguồn
lực quan trọng cho đầu tư phát triển, đảm bảo quốc phòng an ninh và duy trì
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Luật NSNN 2002 đã giúp cho
quy trình thủ tục hành chính trong quản lý NSNN đã được cải tiến và giảm
thiểu hướng đến yêu cầu hợp lý tối đa gắn với cải cách hành chính, giảm thiểu
đáng kể cơ chế "xin cho" hoặc chạy chi ngân sách vào cuối năm tài chính.
Công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra, kiểm toán NSNN được chú trọng và
tăng cường, nhất là vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đối với NSNN, góp
phần giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật tài chính, chất lượng, hiệu quả quản lý
thu, chi NSNN ngày càng tốt hơn. Cơ chế công khai, minh bạch trong quản
lý, chi tiêu NSNN được thực hiện ngày càng đi vào nề nếp. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế còn tồn tại trong quản lý, điều
hành NSNN như:
27
Một là, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách còn trùng lắp, chồng
chéo và mang tính hình thức, thể hiện rất rõ khi Quốc hội quyết định dự toán
NSNN là đã bao gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Trong khi đó, theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân hiện
hành (Điều 12) thì Hội đồng nhân dân quyết định dự toán ngân sách địa
phương. HĐND chỉ bỏ phiếu thông qua các nguồn thu và nhiệm vụ đã được
cấp trên quyết định và không tự quyết định thu - chi ngân sách cấp mình mà
phải tuân thủ theo sự phân bổ, giao dự toán của cấp trên, theo quy định của
Chính phủ về mặt thời gian. Nếu có sự biến động lớn về nguồn ngân sách và
nhiệm vụ được giao thì HĐND phải điều chỉnh lại theo yêu cầu của Thủ
tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch UBND cấp trên…
Hai là, quy trình lập, phân bổ và giao dự toán ngân sách còn nhiều bất
cập. Các ngành, địa phương khi lập dự toán thu NSNN thường thấp, không sát
với thực tế, nên kết quả thu ngân sách hàng năm vượt so với dự toán khá lớn,
trong khi dự toán chi lập cao hơn thực tế, thiếu cơ sở, chưa đúng định mức,
sai tính chất nguồn kinh phí. Phân bổ và giao dự toán ngân sách chậm hoặc
chưa phù hợp nhu cầu và khả năng thực hiện, nên các địa phương, đơn vị phải
điều chỉnh, bổ sung nhiều lần hoặc phải huỷ dự toán; phân bổ và giao dự toán
khi chưa xác định rõ nội dung, nhiệm vụ chi, không đúng nội dung nguồn
kinh phí, không đúng phương án phân bổ của Bộ Tài chính. Cơ sở tính toán
các khoản thu, chi ngân sách chưa có căn cứ khoa học vững chắc. Hệ thống
định mức tiêu chuẩn chi tiêu lạc hậu, thiếu và chưa đồng bộ.
Ba là, quy trình ngân sách địa phương phức tạp, dàn trải qua nhiều
khâu với nhiều thủ tục hành chính nên không chỉ mất thời gian của các cơ
quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách mà còn ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động
chấp hành của các cơ quan nhà nước. Hoạt động của chính quyền cùng cấp là
như nhau, nhưng nguồn trang trải là khác nhau, gây ra mất công bằng: nơi chi
tiêu cao, nơi không có chi cho cùng một mục tiêu, một công việc. Chi ngân
sách cho dịch vụ công và phúc lợi công cho dân cư chênh lệch nhau lớn.
28
Bốn là, Luật NSNN 2002 đã thực hiện phân cấp ngân sách song duy trì
mô hình ngân sách lồng ghép gây khá nhiều khó khăn cho quá trình quản lý,
điều hành ngân sách của địa phương, cơ quan, đơn vị; tính công khai, minh
bạch trong quản lý NSNN còn có những hạn chế đã trở thành một trong
những nguyên nhân làm tăng nguy cơ tham nhũng, lãng phí; sự thiếu kiên
quyết trong xử lý những vi phạm pháp luật về quản lý NSNN làm giảm tính
hiệu quả, hiệu lực của Luật NSNN 2002.
Năm là, việc đo lường hiệu quả của quản lý NSNN là rất khó khăn do
các hoạt động quản lý hành chính nhà nước có phạm vi rộng, liên quan đến tất
cả các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Nếu hiệu quả kinh tế được đo
lường rõ ràng thì hiệu quả xã hội chưa có thước đo chuẩn mực. Giữa đầu vào
và đầu ra trong các hoạt động hành chính không có mối quan hệ rõ ràng đã
gây khó khăn cho việc đánh giá chi tiêu trong lĩnh vực này. Vì vậy, cải cách
hoạt động quản lý, điều hành ngân sách được coi là một nội dung quan trọng
trong tiến trình cải cách hành chính công ở nước ta hiện nay. Các tác giả đã
đưa ra rất nhiều cách thức, biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý điều
hành NSNN nhưng tựu chung lại vẫn thống nhất ở quan điểm quản lý tài
chính của địa phương, cơ quan, đơn vị theo kết quả đầu ra.
Thứ ba, làm rõ những hạn chế trong quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp.
Đối với các đơn vị sự nghiệp Nhà nước là các đơn vị thực hiện cung
cấp các dịch vụ xã hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động
bình thường của các ngành kinh tế quốc dân. Hoạt động của các đơn vị này
không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu mang tính chất phục vụ. Các
nghiên cứu được đề cập trong phần đầu của luận án cho thấy, trong hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp công lập, thì quản lý hiệu quả nguồn tài chính trở
thành một nhiệm vụ trọng tâm và rất cần thiết, ảnh hưởng mạnh đến sự phát
triển cả về quy mô lẫn chất lượng cung cấp dịch vụ của đơn vị. Đồng thời, tác
động đến thu nhập của cán bộ, nhân viên trong đơn vị. Việc quản lý nguồn tài
29
chính góp phần quản lý chặt chẽ các nguồn thu từ NSNN, từ viện trợ hay từ
sản xuất kinh doanh của đơn vị, trên cơ sở đó đánh giá được hiệu quả hoạt
động của đơn vị. Bên cạnh đó, công tác này cũng góp phần tạo khuôn khổ chi
tiêu phù hợp với tình hình tài chính, làm cơ sở cho việc hạch toán kế toán tại
đơn vị; đảm bảo được nguồn tài chính cho hoạt động của đơn vị, từ đó đưa ra
những kế hoạch, định hướng phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn của sự
phát triển. Ngoài ra, việc quản lý cũng giúp cho các khoản chi được thực hiện
theo đúng kế hoạch, đạt hiệu quả hoạt động cao đồng thời tiết kiệm chi phí,
tạo điều kiện để tăng thu nhập cho cán bộ nhân viên, phát huy tính chủ động,
sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trong đơn vị sự nghiệp, do hoạt động mang tính chất phục vụ là chủ
yếu nên số thu thường không lớn và không ổn định hoặc không có thu. Vì
vậy, thu nhập của các đơn vị này chủ yếu do NSNN cấp toàn bộ hoặc một
phần. Quá trình thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 (Nghị
định 43) đã tạo quyền tự chủ, chủ động cho đơn vị sự nghiệp quản lý chi tiêu
tài chính hiệu quả; huy động được sự đóng góp của cộng đồng xã hội cho phát
triển hoạt động sự nghiệp; thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp công chủ động năng
động và sáng tạo hơn trong các hoạt động quản lý và cung cấp dịch vụ công;
mở rộng hoạt động, tăng nguồn thu sự nghiệp tạo nguồn tăng thu nhập cho
cán bộ, viên chức. Tuy nhiên, hệ thống cơ chế chính sách về quản lý và
phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được đổi mới
đồng bộ; chưa có tiêu chí kết hợp việc đánh giá kết quả sử dụng kinh phí với
kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng hoạt động sự nghiệp công hoặc có
nhưng chưa cụ thể. Bên cạnh đó, một số chính sách như hệ thống định mức
kinh tế kỹ thuật của từng ngành, lĩnh vực sự nghiệp, chính sách viện phí, học
phí,... còn chậm được ban hành, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện khiến cho việc
quản lý tài chính trong đơn vị sự nghiệp công lập gặp nhiều vướng mắc. Một
số đơn vị sự nghiệp có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, vào cơ quan
30
cấp trên, chưa thực sự chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ.
Thứ tư, làm rõ tính đặc thù của tôn giáo và công tác tôn giáo ở Việt Nam
Xét về mặt lịch sử các tôn giáo tại Việt Nam đều gắn liền với các thể
chế chính trị hơn là hệ tư tưởng chi phối nhận thức của số đông dân chúng.
Riêng với Việt Nam, các tôn giáo ít có sự tác động mạnh mẽ đến ý thức hệ
của số đông quần chúng và không tạo nên một sự định hướng trong tư duy
như trường hợp Ki-tô giáo ở phương Tây, Phật giáo ở Thái Lan, Myanmar,
Camphuchia…Có thể nói, ở Việt Nam, tôn giáo là phương tiện thể hiện nội
dung văn hoá chứ không phải là hạt nhân văn hoá. Lịch sử đã chứng minh
một số tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến đời sống, nếp nghĩ và văn hoá của cả
cộng đồng, góp phần nâng cao ý thức dân tộc. Nhưng cũng có tôn giáo trong
quá trình du nhập, hình thành và tồn tại đã bị các thế lực chính trị lợi dụng vì
mục đích ngoài tôn giáo. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách tung ra
những luận điệu cho rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo, vu cáo Nhà
nước vi phạm dân chủ, nhân quyền, nhằm gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn
kết dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước với đồng bào các tôn giáo, kích động
quần chúng tín đồ chống đối chính quyền, gây mất ổn định chính trị-xã hội,
tạo cớ can thiệp vào nội bộ đất nước. Điều này cho thấy tính chất phức tạp,
nhạy cảm của vấn đề tôn giáo ở nước ta, đòi hỏi phải có những chính sách đặc
thù và linh hoạt trong xử lý các sự kiện tôn giáo, điểm nóng tôn giáo trên
phạm vi cả nước, trong đó không thể không kể đến chính sách tài chính đối
với tôn giáo.
Ý thức được tính đặc thù của tôn giáo và công tác tôn giáo, QLNN về
hoạt động tôn giáo đã được hình thành từ các triều đại phong kiến của Việt
Nam, là một trong những công cụ để QLNN một cách trực tiếp. Từ khi nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách đoàn kết các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc
để tiến hành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
31
hội ở Việt Nam. Đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến tôn giáo và hoạt
động tôn giáo. Pháp luật về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trở thành một bộ
phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam. Công tác QLNN trên lĩnh vực tôn giáo ngày càng được củng cố,
hoàn thiện, góp phần quan trọng bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân, đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc và
đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo xâm
phạm an ninh quốc gia. Chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và
Nhà nước đã cơ bản đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo nhân dân, củng
cố niềm tin, tạo động lực, sự phấn khởi cho đồng bào các tôn giáo đồng hành
cùng dân tộc, cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thể hiện tính nhất
quán, lâu dài, thực sự tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo; thái độ mềm dẻo, khéo
léo trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo nhằm xây dựng, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Điều này tác động rất lớn đến cơ chế quản lý tài chính của Ban
Tôn giáo Chính phủ khi thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Trong bối cảnh hiện nay, hoạt động tôn giáo ngày càng phức tạp cả về
các loại hình tôn giáo (nhiều tôn giáo), loại hình hoạt động và quy mô địa bàn
hoạt động, số lượng các tín đồ. Các tôn giáo đều tăng cường củng cố tổ chức,
đào tạo chức sắc, tập trung xây dựng giáo hội cơ sở; đẩy mạnh hoạt động
truyền đạo, phát triển tín đồ, phát triển hội đoàn; đòi lại đất đai, cơ sở thờ tự,
mua thêm đất đai dưới nhiều hình thức; tăng cường sửa chữa, xây mới nơi thờ
tự; in ấn kinh sách; tổ chức các lễ hội linh đình, đông người để phô trương
thanh thế. Một bộ phận chức sắc tôn giáo và giáo dân có tư tưởng cực đoan, bị
kẻ xấu lợi dụng đi ngược lại với lợi ích dân tộc và cách mạng. Ở nhiều địa
phương, hiện tượng mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh bùng phát. Nhiều "tạp
giáo" xuất hiện gây lãng phí tiền của, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự
xã hội và đời sống của một bộ phận nhân dân, kẻ xấu dễ bề lợi dụng trục lợi.
32
Hơn nữa, các hoạt động tôn giáo thường xuyên bị các thế lực phản
động lợi dụng vì các mục tiêu chính trị. Cụ thể là: xuyên tạc lịch sử, lợi dụng
những khó khăn, hạn chế của ta để chia rẽ, khoét sâu hằn thù dân tộc. Nuôi
dưỡng và liên kết các tổ chức phản động của người Việt lưu vong với bọn cơ hội
chính trị trong nước. Tại Mỹ, những tổ chức như "Chính phủ Đê-ga" lưu vong
do Ksor Kơk cầm đầu, "Chính phủ Khmer tự do" do Thạch Sê Tha cầm đầu ra
sức kích động khuynh hướng ly khai dân tộc, đòi thành lập các khu tự trị như
"Vương quốc Mông" ở Tây Bắc, "Nhà nước Đề-ga độc lập" ở Tây Nguyên,
"Nhà nước Khmer Crôm độc lập" ở Nam Bộ, "Nhà nước Chăm độc lập" ở Nam
Trung Bộ. Ở trong nước, các phần tử phản động đã xuyên tạc đường lối, chính
sách dân tộc, tôn giáo của Đảng thông qua các phương tiện đại chúng (mạng
Internet, đài phát thanh, băng đĩa, sách báo, tài liệu phản động bằng cả tiếng dân
tộc); sử dụng thư điện tử (Email) để chuyển tài liệu phản động cho các sư sãi;
xúi giục các phần tử cực đoan trong tôn giáo gây rối, chống đối chính quyền;
kích động tuyệt thực, tự thiêu, tăng cường khiếu kiện, đòi lại đất đai, cơ sở thờ
tự; phát triển đạo trái phép ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; tạo ra những điểm
nóng, xung đột về tôn giáo để mượn cớ can thiệp từ bên ngoài.
1.3.2. Những vấn đề dự kiến nghiên cứu trong luận án
Từ những kết quả nghiên cứu về tôn giáo có thể nhận thấy, tính đặc thù,
phức tạp của tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải
nâng cao chất lượng công tác tôn giáo, trong đó có công tác đảm bảo tài chính
cho các nhiệm vụ tôn giáo, đặc biệt là xử lý các điểm nóng, xung đột tôn giáo
và chế độ tài chính đối với đội ngũ cán bộ tôn giáo, các chức sắc, chức việc
của các tổ chức tôn giáo. Cùng với chủ trương cải cách hành chính, đổi mới
quản lý tài chính công, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thì việc đổi mới
quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ cũng gặp phải rất nhiều khó
khăn, phức tạp. Do hoạt động đặc thù của lĩnh vực tôn giáo nên nguồn tài
chính cần hết sức linh hoạt nhằm giải quyết các điểm nóng tôn giáo trong khi
33
cơ chế quản lý tài chính đối với Ban Tôn giáo Chính phủ vẫn còn mang tính
hành chính, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn ngân sách được phân bổ hàng năm,
các khoản thu ngoài ngân sách của Ban khiêm tốn, không đáp ứng được nhu
cầu kinh phí. Là một đơn vị dự toán cấp II nên nguồn tài chính được phân bổ
hàng năm phụ thuộc vào nguồn tài chính của Bộ Nội vụ cấp, việc trích lập dự
phòng tài chính đối với các hoạt động tôn giáo đặc thù không có nhiều, ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Ban, đặc biệt là trong việc giải
quyết chế độ tài chính đối với các điểm nóng, xung đột tôn giáo.
Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác QLNN về tôn giáo
chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ đặt ra, trong khi các tổ chức tôn
giáo ngày càng mở rộng quy mô và tăng cường hoạt động. Chế độ hỗ trợ đặc
thù ngành chưa có, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo cấp cơ sở phần lớn
không đúng chuyên môn, không chuyên trách, thường xuyên thay đổi, thiếu
tính ổn định nên khó thu hút được cán bộ có năng lực, trình độ, kinh nghiệm
công tác và gắn bó lâu dài với công việc.
Nghiên cứu công tác quản lý tài chính ở Ban tôn giáo Chính phủ bao
gồm các nội dung quản lý thu - chi tài chính từ NSNN và quản lý thu - chi tài
chính từ hoạt động sự nghiệp nhằm hệ thống hoá mô hình quản lý tài chính của
CQNN đặc thù như Ban Tôn giáo Chính phủ với những nội dung cụ thể sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý tài chính
trong cơ quan hành chính nhà nước có hoạt động thu sự nghiệp. Những nhân tố
ảnh hưởng đến công tác quản lý tài chính tại cơ quan hành chính nhà nước có hoạt
động thu sự nghiệp phù hợp với cơ chế tự chủ về biên chế, tài chính, nguồn kinh
phí và tổ chức hoạt động trong các đơn vị hành chính và sự nghiệp.
- Vận dụng các nội dung quản lý tài chính nói chung để xác định các nội
dung quản lý tài chính phù hợp với đặc điểm hoạt động và tổ chức bộ máy
quản lý các đơn vị hành chính, sự nghiệp nhằm đảm bảo tuân thủ Luật Ngân
sách 2002 và các quy định pháp luật về tài chính khác bao gồm: công tác lập
34
dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách, thực hiện và quyết toán ngân sách, quản
lý nguồn thu, chi từ hoạt động sự nghiệp cũng như nâng cao hiệu quả quản lý
tài chính.
- Phân tích hoạt động quản lý tài chính trên hai lĩnh vực: quản lý nguồn tài chính từ NSNN và quản lý nguồn tài chính từ hoạt động sự nghiệp có thu của Ban Tôn giáo Chính phủ. Do nhu cầu về nguồn kinh phí nhằm duy trì hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ tương đối lớn, trong đó có rất nhiều các khoản chi đặc thù như hỗ trợ đối với các chức sắc, chức việc các tôn giáo hay chi hỗ trợ điều tra, khảo sát với các tôn giáo nên nguồn tài chính từ NSNN cấp thường khó đảm bảo cho các hoạt động đặc thù. Đối với hoạt động sự nghiệp, do nhu cầu về các dịch vụ công về tôn giáo ngày càng gia tăng nên nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp có xu hướng tăng lên song vì đây là những dịch vụ công nên khoản thu theo quy định của Nhà nước không cao, chưa thực sự đáp ứng kinh phí hoạt động cho các dịch vụ này. Vì vậy việc cân đối thu chi đối với các hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ là rất khó khăn.
- Đánh giá hoạt động quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ giai đoạn 2008-2014 trên các mặt: quản lý thu, chi tài chính từ NSNN và quản lý thu, chi tài chính từ hoạt động sự nghiệp; chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ. Từ đó chỉ ra những điểm mạnh cần phát huy, những điểm hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế này từ hai góc độ khác nhau: Chính sách, pháp luật của nhà nước và thực tế triển khai thực hiện theo từng nội dung quản lý tài chính tại Ban.
- Trên cơ sở phân tích cụ thể hoạt động quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ, nghiên cứu sinh đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính ở Ban tôn giáo Chính phủ trong điều kiện mới. Đồng thời, khẳng định tính tất yếu khách quan của việc cần tiếp tục đổi mới cơ chế tự chủ tài chính trong khu vực công, đặc biệt là tại các đơn vị trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ cho phù hợp với quy định của Chính phủ và tình hình thực tiễn công tác quản lý tài chính tại Ban.
35
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TRONG CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CÓ HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÀI CHÍNH TRONG CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CÓ
HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tài chính trong cơ quan nhà nước có
hoạt động sự nghiệp
2.1.1.1. Khái niệm tài chính nhà nước, tài chính trong cơ quan nhà
nước có hoạt động sự nghiệp
Tài chính được hiểu như là hệ thống các quan hệ kinh tế gắn liền với
quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ để thoả mãn các nhu cầu của
các chủ thể. Nó phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân
phối giá trị của cải xã hội trong những không gian, thời gian cụ thể. Về hình
thức: tài chính là sự vận động của các dòng tiền tệ gắn liền với quyền sở hữu
hoặc chiếm dụng của mỗi chủ thể trong những khoảng thời gian nhất định. Sự
vận động của các dòng tiền thuộc mỗi chủ thể được nhìn nhận rõ nét nhất
thông qua hai mặt hoạt động thu, chi quỹ tiền tệ của chính mỗi chủ thể đó. Về
nội dung: tài chính là các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối
giá trị của cải xã hội giữa các chủ thể trong những không gian, thời gian nhất
định. Chủ thể phân phối có thể là Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức tài
chính trung gian (ngân hàng, Bảo hiểm, tổ chức tín dụng khác…), các tổ chức
xã hội, các hộ gia đình và cá nhân dân cư.
Đối với Nhà nước, sự tồn tại và phát triển đòi hỏi phải có các nguồn tài
chính đảm bảo để duy trì sự hoạt động bình thường của các cơ quan đơn vị
trong tổ chức công. Các đơn vị này có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công, không
đòi hỏi người được phục vụ trả thù lao. Do đó, NSNN phải cấp phát kinh phí
để duy trì hoạt động của các đơn vị này. Hiện nay, trong hoạt động quản lý
36
nhà nước, một số đơn vị được phép thu một số khoản thu như phí, lệ phí và
các khoản thu khác nhằm bổ sung nguồn kinh phí nhưng chủ yếu vẫn do Nhà
nước cấp kinh phí. Các nguồn tài chính này được gọi là tài chính Nhà nước.
Theo định nghĩa của Chritopher Pass, Bryan Lowes và Leslie Davies:
"Tài chính Nhà nước là một ngành của kinh tế học có liên quan tới lợi tức và
chi tiêu của chính quyền và hậu quả của nó đối với nền kinh tế nói chung".
[99, tr.592].
Khi các nhà kinh tế cổ điển viết về tài chính Nhà nước, họ tập trung vào
khía cạnh lợi tức và đánh thuế. Theo Harvey S. Rosen, tài chính Nhà nước là
một lĩnh vực của kinh tế học phân tích việc đánh thuế và các chính sách chi tiêu
của chính phủ nên tài chính công đồng nghĩa với kinh tế học công cộng và kinh
tế học khu vực công [101, tr.7]. Ông cho rằng vấn đề then chốt của các hoạt
động này gắn với việc sử dụng các nguồn lực thực tế, có nghĩa là nó tập trung
vào các chức năng kinh tế vi mô của chính phủ, cách thức mà chính phủ tác
động đến việc phân bổ các nguồn lực và phân phối thu nhập, do đó tài chính Nhà
nước còn được gọi là kinh tế học về khu vực công hay kinh tế học công cộng.
Theo Robert H. Haveman và Jonh Bascom, tài chính Nhà nước là một lĩnh vực
của kinh tế học liên quan đến việc chính phủ tăng lượng tiền lên như thế nào, chi
tiêu số tiền này như thế nào và tác động của những hoạt động này đến nền kinh
tế và đến xã hội. Tài chính Nhà nước nghiên cứu việc các cấp chính quyền quốc
gia, bang, địa phương - cung cấp cho xã hội những dịch vụ và việc họ tìm kiếm
các nguồn lực tài chính để trả cho những dịch vụ này [107].
Ở Việt Nam, khái niệm tài chính Nhà nước cũng được đề cập nhiều
trong thời gian gần đây. Theo Nguyễn Mạnh Hùng - Trường đại học Kinh tế
quốc dân thành phố Hồ Chí Minh, tài chính Nhà nước gắn liền với các hoạt
động kinh tế của nhà nước. Tác giả cho rằng, trong nền kinh tế thị trường,
khu vực tư nhân không thể đáp ứng nhu cầu xã hội cho rất nhiều hàng hoá và
dịch vụ trên nhiều lĩnh vực như: bảo vệ quốc gia, ngoại giao, luật pháp, cảnh
37
sát, phòng cháy chữa cháy, giáo dục và các phương tiện hạ tầng cơ sở như
đường sá, công viên, cấp thoát nước. Do đó, nhà nước phải sử dụng các
nguồn thu qua thuế và các nguồn thu khác (như phát hành qua trái phiếu...) để
cung cấp tài chính đối với các loại hàng hoá và dịch vụ cơ bản cho các nhu
cầu cơ bản của đời sống kinh tế - xã hội [63, tr.26].
Các tác giả cuốn giáo trình Quản lý tài chính nhà nước của Trường Đại
học Tài chính kế toán Hà Nội, tuy không đưa ra khái niệm tài chính Nhà
nước nhưng đã đề cập đến cơ cấu tài chính nhà nước bao gồm:
- Tài chính chung của Nhà nước, trong đó có NSNN, tín dụng nhà
nước, dự trữ nhà nước và ngân hàng nhà nước trung ương.
- Tài chính của các cơ quan hành chính nhà nước gồm cả ba hệ
thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp các cấp từ
trung ương đến địa phương.
- Tài chính của các đơn vị sự nghiệp nhà nước.
- Tài chính của các doanh nghiệp nhà nước [86, tr.16].
Như vậy, tài chính Nhà nước là tổng thể các hoạt động thu chi bằng
tiền do Nhà nước tiến hành trong quá trình tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ
của Nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội
của Nhà nước. Tài chính Nhà nước phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế
giữa Nhà nước với các chủ thể khác nhau trong xã hội nảy sinh trong quá
trình Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính.
Nghiên cứu các quan hệ kinh tế và tài chính phát sinh trong hệ thống
kinh tế giữa các chủ thể công quyền (cơ quan quản lý hành chính và đơn vị sự
nghiệp hành chính) và các chủ thể khác (doanh nghiệp, hộ gia đình, công dân,
các tổ chức phi lợi nhuận), ta có phạm trù tài chính trong CQNN. Tài chính
trong CQNN là một nội dung quan trọng của tài chính Nhà nước, góp phần
đảm bảo duy trì hoạt động của các cơ quan QLNN trong thực thi các nhiệm
vụ được Nhà nước giao. Tài chính trong CQNN là một bộ phận của tài chính
38
Nhà nước, cùng với tài chính chung của Nhà nước và tài chính của các doanh
nghiệp Nhà nước.
Tài chính trong các CQNN là các hoạt động thu và chi bằng tiền của
các CQNN, phản ánh các mối quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong
quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các CQNN nhằm phục vụ
việc thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao. Tài chính trong các CQNN duy trì
sự hoạt động của các cơ quan QLNN và các đơn vị cung ứng dịch vụ công
cộng (các đơn vị sự nghiệp).
Khái niệm trên cho thấy tài chính trong CQNN thuộc sở hữu nhà nước,
do đó, nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định việc hình thành và sử dụng
quỹ tiền tệ của mình. Ở nước ta, Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất - là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ các khoản chi
của NSNN tương ứng với các nhiệm vụ đã được đề ra. Quốc hội quyết định
dự toán NSNN là đã bao gồm cả ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương. Trong khi đó, theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân hiện hành (Điều 12) thì Hội đồng nhân dân quyết định dự toán ngân sách
địa phương. Đây cũng là điểm đặc thù trong cơ chế quản lý điều hành NSNN
của nước ta. Nguồn thu của tài chính trong CQNN bao gồm thuế, lệ phí và tín
dụng nhà nước. Việc chi tiêu quỹ tiền tệ này gắn liền với việc duy trì và phát
huy hiệu lực của bộ máy nhà nước cũng như việc thực hiện các chức năng
kinh tế - xã hội mà Nhà nước đảm nhận.
2.1.1.2. Đặc điểm tài chính trong cơ quan nhà nước có hoạt động sự nghiệp
Tài chính trong CQNN thực sự trở thành công cụ của Nhà nước để
phục vụ và thực hiện các chức năng của Nhà nước. Hoạt động của tài chính
nhà nước rất đa dạng, liên quan đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội và tác động
đến mọi chủ thể trong xã hội với những đặc điểm cơ bản sau:
* Đặc điểm chủ thể của tài chính trong CQNN
Chủ thể tài chính trong CQNN là Nhà nước. Gắn với chủ thể Nhà nước,
39
tài chính trong CQNN được tạo lập và sử dụng gắn liền với quyền lực chính
trị của Nhà nước và việc thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà
nước. Các nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội của một quốc gia trong từng
thời kỳ phát triển được quyết định bởi cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà
nước - Quốc hội, do đó, Quốc hội cũng là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu,
nội dung, mức độ các thu, chi NSNN tương ứng với các nhiệm vụ đã được
hoạch định nhằm đảm bảo thực hiện có kết quả nhất các nhiệm vụ đó. Đặc
điểm này là đảm bảo quyền lãnh đạo tập trung thống nhất của Nhà nước, loại
trừ chia rẽ, phân tán quyền lực trong việc điều hành NSNN. Đồng thời, nó
cũng cho phép xác định quan điểm định hướng trong việc sử dụng tài chính
làm công cụ điều chỉnh và xử lý các quan hệ kinh tế - xã hội. Đó là, trong hệ
thống các quan hệ kinh tế, nếu có quan hệ lợi ích nảy sinh khi Nhà nước tham
gia phân phối các nguồn tài chính thì lợi ích quốc gia, lợi ích toàn thể bao giờ
cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác.
Quy mô tài chính trong CQNN và các hình thức thu, chi của các cơ
quan, đơn vị này đều bị quyết định bởi quy mô, tốc độ, chất lượng phát triển
của mỗi ngành, lĩnh vực, mỗi vùng, mỗi địa phương. Hay nói cách khác, sự
phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở cho sự hình thành nguồn thu của các
CQNN, trong đó chủ yếu là NSNN, đồng thời về cơ bản sẽ đặt ra những đòi
hỏi về nhu cầu chi của CQNN. Tính hiệu quả hoạt động tài chính trong
CQNN được xem xét trên tầm vĩ mô, tức là nó phải được xem xét dựa trên cơ
sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra mà các
CQNN phải đảm nhận.
* Đặc điểm về nguồn thu của tài chính trong CQNN
Xét về nội dung vật chất, tài chính trong CQNN bao gồm các quỹ nhà
nước. Đó là một lượng nhất định các nguồn tài chính của toàn xã hội đã được
tập trung vào các quỹ nhà nước hình thành thu nhập của tài chính trong
CQNN, trong đó NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất. Việc hình thành thu
40
nhập của tài chính trong CQNN có thể được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, cả
trong nước và ngoài nước; từ nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, cả sản
xuất, lưu thông và phân phối, nhưng nét đặc trưng là luôn gắn chặt với kết quả
của hoạt động kinh tế trong nước. Thu nhập của tài chính trong CQNN có thể
được lấy về bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, có bắt buộc và
tự nguyện, có hoàn trả và không hoàn trả, ngang giá và không ngang giá...
song luôn gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước, thể hiện tính cưỡng
chế bằng hệ thống luật lệ do Nhà nước quy định và mang tính không hoàn trả
là chủ yếu.
Các nguồn thu tài chính trong CQNN chủ yếu bao gồm 3 nguồn:
Nguồn thu từ NSNN, nguồn thu từ các hoạt động cung ứng dịch vụ công
(hoạt động sự nghiệp)và nguồn khác theo quy định.
* Đặc điểm về chi tài chính trong CQNN
Chi tiêu tài chính trong CQNN là việc phân phối và sử dụng các quỹ
công. Các quỹ công bao gồm quỹ NSNN và các quỹ tài chính Nhà nước ngoài
NSNN. Chi tiêu tài chính trong CQNN không phải là những chi tiêu gắn liền
trực tiếp với các hoạt động sản xuất kinh doanh ở các đơn vị cơ sở, mà là
những chi tiêu gắn liền với việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, tức là
gắn liền với việc đáp ứng các nhu cầu chung, nhu cầu có tính chất toàn xã hội
- tầm vĩ mô.
Chi tài chính trong CQNN gồm có các khoản chi hoạt động thường
xuyên và các khoản chi hoạt động không thường xuyên. Các khoản chi hoạt
động thường xuyên là những khoản chi nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được cấp có thẩm quyền giao. Các khoản chi không thường xuyên gồm những
khoản chi để thực hiện các nhiệm vụ phát sinh theo từng giai đoạn hoạt động
của CQNN như chi nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, đào tạo
bồi dưỡng cán bộ viên chức, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia, các
khoản chi thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng,...
41
Mặc dù hiệu quả của các khoản chi tiêu tài chính trong CQNN trên
những khía cạnh cụ thể vẫn có thể đánh giá bằng các chỉ tiêu định lượng như
vay nợ, một số vấn đề xã hội... nhưng xét về tổng thể, hiệu quả đó thường
được xem xét trên tầm vĩ mô. Điều đó có nghĩa là, hiệu quả của việc sử dụng
các quỹ công phải được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành
các mục tiêu công đã đặt ra mà các khoản chi tiêu công phải đảm nhận. Thông
thường việc đánh giá hiệu quả chi tiêu công dựa vào hai tiêu thức cơ bản: kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra. Kết quả ở đây được hiểu bao gồm: kết quả kinh
tế và kết quả xã hội, kết quả trực tiếp và kết quả gián tiếp.
Nhận thức đúng đắn đặc điểm kể trên có ý nghĩa quan trọng trong việc
định hướng và có biện pháp sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước tập trung
vào việc xử lý các vấn đề của kinh tế vĩ mô như: đầu tư để tác động đến việc
hình thành cơ cấu kinh tế mới; cấp phát kinh phí cho việc thực hiện mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; thực hiện chính sách
dân số và kế hoạch hoá gia đình; hỗ trợ giải quyết việc làm và xoá đói, giảm
nghèo; góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường, giá cả; đảm bảo kinh
phí cho việc thực hiện mục tiêu xoá bỏ các tệ nạn xã hội và đảm bảo trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ môi trường thiên nhiên… với yêu cầu là chi phí bỏ ra là
thấp nhất mà kết quả đem lại là cao nhất.
2.1.2. Nội dung tài chính trong cơ quan nhà nước có hoạt động sự nghiệp Hệ thống các tổ chức trong bộ máy quản lý hành chính ở nước ta được
chia thành hai loại: cơ quan hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp.
Các cơ quan hành chính bao gồm: Các Bộ; cơ quan ngang Bộ; cơ quan thuộc
Chính Phủ; Văn phòng Quốc hội; Văn phòng Chủ tịch nước; Toà án nhân dân
các cấp; Viện Kiểm sát nhân dân các cấp; Văn phòng hội đồng nhân dân, Văn
phòng uỷ ban nhân dân các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các tỉnh thành
phố trực thuộc TW; Văn phòng hội đồng nhân dân, Văn phòng uỷ ban nhân
dân, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các quận huyện, thành phố thị xã
thuộc tỉnh thành phố thuộc TW.
42
Các đơn vị sự nghiệp bao gồm các đơn vị sự nghiệp có vai trò quan
trọng trong việc cung cấp các dịch vụ công cho xã hội như: giáo dục đào tạo,
y tế, văn hoá, thể thao, khoa học công nghệ, sự nghiệp kinh tế... Căn cứ vào
nguồn thu sự nghiệp, đơn vị sự nghiệp được phân loại để thực hiện quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính gồm 3 loại: đơn vị có nguồn thu sự
nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên; đơn vị có nguồn
thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên, phần còn
lại được ngân sách nhà nước cấp và đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn
vị sự nghiệp không có nguồn thu, kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức
năng, nhiệm vụ do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động.
Bên cạnh đó, có những CQNN do đặc thù chức năng, nhiệm vụ được
Nhà nước giao, có các hoạt động sự nghiệp như: các đơn vị giáo dục đào tạo
công lập, cơ sở y tế công lập, trung tâm văn hoá, thể thao công cộng,... Do
vậy, nội dung tài chính trong CQNN có hoạt động sự nghiệp gồm có thu tài
chính và các khoản chi đảm bảo hoạt động của các đơn vị này.
2.1.2.1. Hoạt động thu tài chính trong cơ quan nhà nước có hoạt
động sự nghiệp
* Nguồn thu tài chính từ NSNN
Tài chính từ NSNN trong mỗi CQNN là nguồn kinh phí được cấp từ
ngân sách (ngân sách trung ương hoặc ngân sách địa phương) cho các CQNN
nhằm đảm bảo cho tổ chức đó hoạt động để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
được cơ quan quản lý cấp trên giao. Các khoản thu do NSNN cấp hàng năm
được sử dụng toàn bộ để đảm bảo các nhiệm vụ chi thường xuyên và chi không
thường xuyên của đơn vị. Các khoản thu từ ngân sách dựa trên cơ sở biên chế,
kể cả biên chế dự bị (nếu có) và định mức phân bổ NSNN hàng năm tính trên
biên chế và các khoản chi hoạt động nghiệp vụ đặc thù theo chế độ quy định
Tài chính từ NSNN của các CQNN còn có các khoản kinh phí từ ngân
sách cấp cho việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; chương
43
trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức; các chương trình mục tiêu quốc
gia; các nhiệm vụ do CQNN có thẩm quyền đặt hàng; các nhiệm vụ đột xuất
được cấp có thẩm quyền giao; chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do
Nhà nước quy định; cho việc đầu tư xây dựng cơ bản; việc mua sắm tài sản,
các trang thiết bị; việc sửa chữa lớn các tải sản cố định phục vụ cho hoạt động
sự nghiệp và những khoản vốn đối ứng thực hiện dự án có nguồn vốn nước
ngoài được cấp có thẩm quyền giao.
* Nguồn thu tài chính từ các hoạt động sự nghiệp
Tài chính từ các hoạt động sự nghiệp có thu của CQNN là những khoản
thu phí, lệ phí thuộc NSNN, những khoản thu từ hoạt động sản xuất kinh
doanh và cung cấp dịch vụ được để lại đơn vị. Trong các khoản thu trên của
đơn vị, khoản thu từ phí và lệ phí chiếm tỷ lệ lớn.
Khoản thu phí là khoản thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp
các dịch vụ công cộng thuần tuý theo quy định của pháp luật và là khoản
tiền mà các tổ chức, cá nhân phải trả khi sử dụng các dịch vụ công cộng
đó. Khoản thu lệ phí là khoản thu gắn liền với việc cung cấp trực tiếp các
dịch vụ hành chính pháp lý của Nhà nước cho các thể nhân, pháp nhân
nhằm phục vụ cho công việc QLNN theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của các CQNN còn bao gồm
các khoản thu từ những hoạt động sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ phù hợp với
lĩnh vực chuyên môn và chức năng của mỗi tổ chức. Những mức thu từ những
hoạt động này do thủ trưởng mỗi tổ chức được quyền quyết định dựa trên
những quy định pháp luật có liên quan và nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí.
Cụ thể, các nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp bao gồm:
- Phần được để lại từ số phí, lệ phí thuộc NSNN cho đơn vị sử dụng
theo quy định của Nhà nước.
- Thu từ dịch vụ cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
- Thu sự nghiệp khác theo quy định của pháp luật (nếu có).
44
- Nguồn thu khác của đơn vị sự nghiệp: Nguồn vốn khấu hao cơ bản
tài sản cố định và tiền thu thanh lý tài sản được để lại theo quy định; Nguồn
viện trợ, dự án tài trợ trong và ngoài nước; Nguồn vốn vay của các cá nhân, tổ
chức tín dụng trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật; Nguồn vốn
tham gia liên doanh, liên kết của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước
theo quy định của pháp luật; Lãi được chia từ hoạt động liên doanh, liên kết;
Nguồn thu khác (nếu có).
* Nguồn thu tài chính khác của CQNN theo quy định của pháp luật: là
những khoản thu từ các dự án viện trợ, quà biếu tặng và những khoản thu
khác theo quy định của pháp luật.
Quản lý quá trình thu tại đơn vị cần đảm bảo tập trung đầy đủ kịp thời
các nguồn lực tài chính của CQNN để đáp ứng kịp thời nhu cầu hoạt động
trong đơn vị. Điều này đòi hỏi CQNN phải xây dựng được các khoản thu hợp
lý đúng đắn theo quy định của các cơ quan chức năng, việc xây dựng kế
hoạch thu của mỗi tổ chức cần phải theo sát với tình hình thực tế của đơn vị,
quy trình thu phải hợp lý và khoa học, tổ chức bộ máy thu hợp lý gọn nhẹ và
hiệu quả. CQNN cần phải tiến hành kiểm tra thường xuyên và có định kỳ đảm
bảo quá trình thu đúng, thu đủ.
2.1.2.2. Chi tài chính trong các cơ quan nhà nước có hoạt động sự nghiệp
Trong CQNN các khoản chi được chia thành hai loại: Các khoản chi từ
NSNN và các khoản chi từ hoạt động sự nghiệp.
* Các khoản chi từ NSNN:
Một là, các khoản chi thường xuyên là các khoản chi nhằm đảm bảo
cho các hoạt động thường xuyên của CQNN gắn liền với chức năng quản lý
kinh tế - xã hội của nhà nước. Các khoản chi thường xuyên mang tính ổn định
khá rõ nét do tính ổn định trong chức năng, nhiệm vụ cụ thể mà mỗi CQNN
phải thực hiện. Các khoản chi hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm
vụ của CQNN được cấp có thẩm quyền giao, gồm: các khoản chi cho con
45
người như: tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp lương, các khoản trích
nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo quy định hiện
hành; các khoản chi hành chính: vật tư văn phòng, dịch vụ công cộng...). Các
khoản chi này đảm bảo kinh phí hoạt động cho các CQNN. Qui mô khoản chi
phụ thuộc vào bộ máy CQNN, tức là đội ngũ công chức, viên chức nhà nước
trong các cơ quan này. Bộ máy CQNN càng cồng kềnh thì khoản chi này càng
chiếm tỷ trọng cao và ngược lại.
Hai là, các khoản chi hoạt động nghiệp vụ (khoản chi đặc thù của đơn
vị hay còn gọi là chi đặc thù của từng đơn vị) như chi thuốc, máu, dịch truyền
của ngành Y tế, chi biên soạn giáo trình tài liệu học tập của ngành Giáo dục -
Đào tạo, chi cho vận động viên, huấn luyện viên của ngành Thể dục thể thao...
nhằm nâng cao trình độ văn hoá, chăm lo bảo vệ sức khoẻ cho quần chúng
nhân dân; xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho quần chúng nhân dân cũng như
thực hiện các nhiệm vụ thông tin tuyên truyền các đường lối, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, thông qua các khoản chi này, Nhà
nước có thể thực hiện quá trình phân phối lại thu nhập nhằm mục tiêu công
bằng xã hội.
Ba là, những khoản chi nhằm phục vụ cho yêu cầu phát triển của nền
kinh tế. Bao gồm chi cho hoạt động khảo sát, thiết kế, thăm dò; hoạt động
tuyên truyền phổ biến khoa học kỹ thuật, hoạt động nông lâm nghiệp, thuỷ
lợi, công cộng,... Những hoạt động này mang tính chất phục vụ chứ không
nhằm mục đích kinh doanh lấy lãi, do đó các khoản chi này được đảm bảo bởi
kinh phí NSNN.
Bốn là, các khoản chi mua sắm tài sản, công cụ thiết bị văn phòng, duy
tu, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định, cơ sở vật chất; trợ giá theo chính
sách của Nhà nước; phần chi thường xuyên thuộc các chương trình mục tiêu
quốc gia, dự án Nhà nước và các khoản chi khác theo chế độ quy định.
46
* Các khoản chi từ hoạt động sự nghiệp:
Một là, các khoản chi hoạt động thường xuyên phục vụ cho công tác
thu phí, lệ phí và hoạt động cung cấp dịch vụ của CQNN bao gồm:
- Chi hoạt động thường xuyên theo chức năng nhiệm vụ của các đơn vị
sự nghiệp.
- Chi cho hoạt động cung cấp hàng hoá, dịch vụ (kể cả chi nộp thuế,
trích khấu hao tài sản cố định theo quy định).
- Chi hoạt động thường xuyên phục vụ công tác thu phí và lệ phí.
- Chi cho người lao động: tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp
lương, đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, tiền thưởng…
- Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học đối với đơn vị sự nghiệp
khoa học.
- Chi mua sắm, sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng thường xuyên cơ sở vật
chất, nhà cửa, máy móc thiết bị…
- Chi thường xuyên khác.
Hai là, các khoản chi không thường xuyên gồm:
- Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học (đơn vị sự nghiệp khác).
- Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia.
- Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ viên chức.
- Chi thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước đặt hàng (điều tra, quy
hoạch, khảo sát…) theo giá hoặc khung giá do Nhà nước quy định.
- Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngoài theo quy định.
- Chi thực hiện tinh giảm biên chế theo chế độ do Nhà nước quy định.
- Chi đầu tư phát triển bao gồm: chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm
trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định thực hiện các dự án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
- Chi trả nợ vay (gốc và lãi vay) các cá nhân, tổ chức tín dụng.
- Chi thực hiện các dự án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài.
47
- Chi cho hoạt động liên doanh, liên kết.
- Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao.
- Các khoản chi khác.
Các CQNN phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các khoản chi đáp ứng nhu
cầu thực hiện các chức năng và nhiệm vụ trong hoạt động của tổ chức, quản
lý có hiệu quả các khoản chi thường xuyên và không thường xuyên trong các
tổ chức.
Vì vậy, mỗi CQNN cần thiết xây dựng một chính sách chi hợp lý và
hiệu quả, xác định tính ưu tiên với mỗi khoản chi trong mỗi điều kiện hoàn
cảnh cụ thể, xây dựng quy trình cấp phát, kiểm soát và thành toán các khoản
chi một cách chặt chẽ khoa học, thực hiện việc kiểm tra quá trình chi và các
khoản chi đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả. 2.2. QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CÓ HOẠT
ĐỘNG SỰ NGHIỆP
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý tài chính trong cơ quan nhà
nước có hoạt động sự nghiệp 2.2.1.1. Khái niệm quản lý tài chính trong cơ quan nhà nước có hoạt
động sự nghiệp Quản lý tài chính được quan niệm là quá trình tổ chức, điều hành các
nguồn lực tài chính nhằm phát huy hiệu quả của tài chính đáp ứng nhu cầu
chủ thể quản lý và đạt tới các mục tiêu đã định. Trong hoạt động quản lý tài
chính, các vấn đề về: chủ thể quản lý, các nguồn tài chính được quản lý, công
cụ và phương pháp quản lý, mục tiêu quản lý là những yếu tố trung tâm đòi
hỏi phải được xác định đúng đắn. Quản lý tài chính trong CQNN có hoạt
động sự nghiệp là một nội dung của quản lý tài chính và là một mặt của quản
lý xã hội nói chung, do đó cần nhận thức đầy đủ về quản lý tài chính trong
CQNN có hoạt động sự nghiệp.
Quản lý tài chính trong CQNN là hoạt động của các chủ thể quản lý tài
chính thông qua việc sử dụng có chủ định các phương pháp quản lý và các
48
công cụ quản lý để tác động và điều khiển hoạt động của tài chính trong
CQNN nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
Chủ thể quản lý tài chính trong CQNN chính là bộ máy quản lý tài
chính, cụ thể là những cán bộ, công chức, viên chức có trách nhiệm trực tiếp
hoặc gián tiếp liên quan đến hoạt động quản lý tài chính, bao gồm thủ trưởng
CQNN, đội ngũ cán bộ tài chính trong CQNN. Trách nhiệm quản lý tài chính
trong CQNN trước hết thuộc về trách nhiệm của thủ trưởng trong CQNN. Vì
quản lý tài chính là một nội dung quản lý chuyên ngành nên đội ngũ cán bộ làm
công tác tài chính kế toán của CQNN cũng thuộc nhóm chủ thể trực tiếp quản
lý hoạt động tài chính trong CQNN. Bên cạnh đó trưởng các bộ phận phòng,
ban trực thuộc CQNN cũng như mỗi cá nhân trong đơn vị cũng có những đóng
góp quan trọng tạo nên việc quản lý có hiệu quả tài chính trong CQNN.
Đối tượng quản lý của quản lý tài chính trong CQNN có hoạt động sự
nghiệp là hoạt động tài chính của những đơn vị này. Đó là các mối quan hệ
kinh tế trong phân phối gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ
tiền tệ trong mỗi CQNN. Cụ thể là việc quản lý các nguồn tài chính cũng như
những khoản thu tài chính từ NSNN, thu từ các hoạt động sự nghiệp, các
khoản chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi dự phòng,... của CQNN.
2.2.1.2. Đặc điểm của quản lý tài chính trong cơ quan nhà nước về tôn giáo
Quản lý tài chính trong CQNN là sự tác động của các chủ thể quản lý
tài chính nhà nước vào quá trình hoạt động của CQNN. Đối với CQNN về tôn
giáo, do tính chất đặc thù và nhạy cảm của hoạt động tôn giáo nên quản lý tài
chính trong các cơ quan, đơn vị này cũng có những điểm riêng biệt. Cụ thể là:
* Tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ bảo đảm nguồn lực cho hoạt
động của Ban phục vụ công tác tôn giáo mang tính nhạy cảm, rộng khắp cả nước.
Theo Quyết định số 134/2009/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm 2009
của Thủ tướng Chính phủ, Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ
quản lý, là cơ quan tương đương Tổng cục, có tư cách pháp nhân, con dấu
49
hình Quốc huy, tài khoản riêng theo quy định của pháp luật. Như vậy, từ một
cơ quan thuộc Chính phủ, hoạt động tương đối độc lập, Ban Tôn giáo Chính
phủ trở thành cơ quan trực thuộc Bộ, tương đương Tổng cục khiến cho những
hoạt động về tài chính nói riêng và những hoạt động về QLNN nói chung của
Ban Tôn giáo Chính phủ có những điểm khác biệt.
Trước hết, kinh phí hoạt động của Ban Tôn giáo là một nội dung trong
nguồn kinh phí của Bộ Nội vụ, được cấp chung với các hoạt động khác của
Bộ Nội vụ, trong khi hoạt động tôn giáo là một hoạt động đặc thù, phức tạp,
đòi hỏi phải có một nguồn kinh phí rất lớn. Về tài chính, Văn phòng Ban Tôn
giáo Chính phủ lập dự toán ngân sách hoạt động cho cả năm rồi báo cáo với
Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính về dự toán thu chi ngân sách trong năm. Song do
nguồn kinh phí cấp từ NSNN thuộc nguồn ngân sách cấp cho Bộ Nội vụ nên
dự toán thu chi ngân sách thường chênh lệch lớn với ngân sách được phân bổ
từ Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính. Vì nguồn ngân sách là có hạn, thường không
đáp ứng đủ nhu cầu hoạt động của các đơn vị trực thuộc Ban Tôn giáo Chính
phủ nên các chương trình, dự án của Ban với các tổ chức tôn giáo, với nghiên
cứu các tôn giáo còn hạn hẹp, thiếu chiều sâu. Mức lương dành cho các cán
bộ tôn giáo còn thấp so với nhu cầu, trong khi công tác tôn giáo mang tính
đặc thù, thường phải làm việc vào những ngày lễ, ngày nghỉ là những khoảng
thời gian mà các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng hoạt động.
Đặc thù của hoạt động tôn giáo là có những nguồn kinh phí viện trợ từ
các tổ chức chính phủ và phi chính phủ nhưng những nguồn viện trợ này
thường đặt ra những vấn đề mang tính chất nhạy cảm chính trị. Xử lý thỏa
đáng những nguồn viện trợ tôn giáo là một yêu cầu quan trọng đối với Ban
Tôn giáo Chính phủ.
* Tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ gắn với nhiệm vụ QLNN về tôn
giáo và cung cấp dịch vụ công về tôn giáo Sự tồn tại và phát triển của Ban Tôn giáo Chính phủ đòi hỏi phải có các
nguồn tài chính đảm bảo để duy trì sự hoạt động bình thường của các đơn vị
50
hành chính và sự nghiệp trực thuộc Ban. Các đơn vị hành chính có nhiệm vụ
phục vụ công tác QLNN về tôn giáo và thực hiện lợi ích công không đòi hỏi
người được phục vụ phải thù lao. Do đó, NSNN phải cấp phát kinh phí để duy
trì hoạt động của các đơn vị hành chính của Ban Tôn giáo Chính phủ.
Hoạt động hành chính nhà nước về tôn giáo mang tính chất hàng hoá
công cộng thuần tuý, không thể xã hội hoá, mọi người được hưởng lợi từ
những dịch vụ quản lý hành chính nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng. Giá cả
của dịch vụ này được tính vào nguồn thuế thu được từ người dân. Do vậy
NSNN phải đảm bảo đủ kinh phí để duy trì sự tồn tại và hoạt động của đơn vị
hành chính Ban Tôn giáo Chính phủ. Xét về nội dung, kinh phí NSNN cấp
cho các đơn vị hành chính thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ gồm có: kinh phí
hoạt động và các khoản chi đầu tư phát triển (chủ yếu là vốn xây dựng cơ
bản). Kinh phí hoạt động của các đơn vị hành chính do NSNN cấp thuộc về
chi thường xuyên nên nó có đặc điểm: mang tính ổn định cao; thể hiện tính
chất tiêu dùng; nội dung, cơ cấu chi, mức độ chi gắn liền với cơ cấu tổ chức
Ban Tôn giáo Chính phủ và chính sách của Chính phủ trong việc cung cấp các
hàng hoá công cộng về tôn giáo.
Bên cạnh đó, các đơn vị này cũng được cấp phép thu một số khoản thu
về phí và lệ phí nhưng số thu đó là không đáng kể. Do đó, nguồn tài chính
đảm bảo cho các đơn vị hành chính của Ban Tôn giáo Chính phủ hoạt động
gần như do NSNN cấp toàn bộ. Nguồn tài chính ở đây được sử dụng để duy
trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nước và thực hiện các nghiệp vụ hành chính,
cung cấp các dịch vụ công về tôn giáo thuộc chức năng của cơ quan.
Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ là các đơn vị
thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội công cộng (in, xuất bản các loại kinh,
sách và các xuất bản phẩm tôn giáo; sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu văn
hoá phẩm tôn giáo, đồ dùng trong việc đạo; thông tin và tuyên truyền chính
sách pháp luật về tôn giáo,...) và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động bình
thường của các tổ chức tôn giáo (đào tạo, bồi dưỡng với các chức sắc, chức
51
việc và tín đồ thuộc các tôn giáo; tổ chức lễ hội,...). Hoạt động của các đơn vị
này không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu mang tính chất phục vụ. Do
hoạt động mang tính chất phục vụ là chủ yếu nên ở các đơn vị sự nghiệp số
thu thường không lớn và không ổn định hoặc không có thu nên thu nhập của
các đơn vị này chủ yếu do NSNN cấp toàn bộ hoặc một phần. Với các dịch vụ
kể trên, chi tiêu của các đơn vị này chính là nhằm phục vụ thực hiện các chức
năng của Nhà nước trong công tác tôn giáo.
2.2.2. Các nội dung cơ bản của quản lý tài chính trong cơ quan nhà
nước có hoạt động sự nghiệp
Nội dung tài chính trong CQNN bao gồm có các nguồn tài chính từ
NSNN, tài chính từ hoạt động sự nghiệp có thu và các nguồn tài chính khác nên
quản lý tài chính trong CQNN cũng được thể hiện thông qua hoạt động quản lý
tài chính từ NSNN và quản lý tài chính từ các hoạt động sự nghiệp có thu.
2.2.2.1. Quản lý tài chính từ ngân sách nhà nước
* Lập dự toán ngân sách hàng năm
Dự toán ngân sách CQNN gồm dự toán thu ngân sách và dự toán chi
ngân sách. Mục tiêu cơ bản của việc lập dự toán ngân sách là nhằm tính toán
đúng đắn ngân sách trong kỳ kế hoạch, có căn cứ khoa học và căn cứ thực
tiễn các chỉ tiêu thu, chi của ngân sách trong kỳ kế hoạch. Lập NSNN thực
chất là dự toán các khoản thu - chi của ngân sách trong một năm ngân sách.
Trong thực tế để phát huy vai trò tích cực của kế hoạch ngân sách,
trong thực tiễn, khi lập ngân sách phải đáp ứng các yêu cầu nhất định:
+ Bảo đảm việc xây dựng dự toán thu - chi NSNN dựa trên hệ thống
chế độ, chính sách và tiêu chuẩn định mức đúng đắn phù hợp với thực tiễn
kinh tế - xã hội.
+ Xây dựng dự toán thu chi ngân sách tiến hành đúng với trình tự và
thời gian quy định.
+ Bảo đảm mối quan hệ đúng đắn giữa kế hoạch hiện vật và kế hoạch
52
giá trị thông qua việc thiết lập dự toán thu chi của NSNN trong bối cảnh cung
cầu giá cả có sự biến động.
* Chấp hành dự toán NSNN hàng năm:
Mục tiêu của chấp hành ngân sách là biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong
kế hoạch ngân sách từ khả năng, dự kiến thành hiện thực. Kiểm tra việc thực
hiện các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức về kinh tế - tài chính của
Nhà nước. Thông qua chấp hành ngân sách mà tiến hành đánh giá sự phù hợp
của chính sách với thực tiễn. Chấp hành dự toán NSNN gồm có chấp hành dự
toán thu và chấp hành dự toán chi NSNN.
- Tổ chức chấp hành dự toán thu: Không ngừng bồi dưỡng phát triển
nguồn thu, tìm mọi biện pháp động viên khai thác, đảm bảo tỷ lệ động viên
chung mà Quốc hội đã phê chuẩn, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước đã
được hoạch định trong dự toán chi. Để tổ chức chấp hành dự toán thu phải
thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ sau:
+ Xác lập, hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ động viên thích hợp
vừa đảm bảo khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo mức
động viên của nhà nước.
+ Nâng cao công tác tuyên truyền chính sách, chế độ thu làm mọi người
thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN.
+ Kiện toàn tổ chức bộ máy thu theo nguyên tắc thống nhất, nâng cao
hiệu lực của bộ máy, đảm bảo gọn nhẹ, hiệu quả cao.
- Tổ chức chấp hành dự toán chi nhằm đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn
kinh phí của ngân sách cho hoạt động của bộ máy Nhà nước và thực hiện các
chương trình kinh tế - xã hội đã được hoạch định trong năm kế hoạch.
Để đạt được mục đích trên cần phải thực hiện các yêu cầu sau:
+ Thực hiện cấp kinh phí trên cơ sở thống nhất các định mức, tiêu
chuẩn, bổ sung những định mức mới, xoá bỏ những định mức lạc hậu.
+ Bảo đảm việc cấp kinh phí theo theo kế hoạch được duyệt
53
+ Triệt để thực hiện nguyên tắc thanh toán trực tiếp, nghĩa là mọi khoản
kinh phí chi trả từ ngân sách phải do Kho bạc trực tiếp thanh toán.
* Quyết toán NSNN
Quyết toán NSNN là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý NSNN.
Thông qua quyết toán NSNN cho thấy bức tranh toàn cảnh về hoạt động kinh
tế - xã hội của Nhà nước trong thời gian qua. Quyết toán NSNN thực hiện các
việc sau:
- Soát xét, kiểm tra tình hình thực hiện dự toán NSNN thông qua số liệu
kế toán, báo cáo kế toán tài chính của các đơn vị dự toán.
- Phê duyệt quyết toán và tổng quyết toán NSNN theo báo cáo đã được
cơ quan kiểm toán Nhà nước kiểm toán.
Để đáp ứng yêu cầu trên, cần tập trung cải tiến, hoàn thiện các công
việc sau:
+ Soát xét lại toàn bộ chế độ hiện hành về kế toán và quyết toán Ngân
sách, đảm bảo cho quyết toán nhanh gọn, chính xác trung thực.
+ Đổi mới quá trình lập, báo cáo phê chuẩn quyết toán và tổng quyết
toán NSNN theo hướng tăng cường trách nhiệm của các đơn vị, địa phương,
nâng cao vai trò của cơ quan tài chính, chính phủ và quyền lực của Quốc hội.
+ Nâng cao vai trò của Quốc hội trong việc xem xét, phê chuẩn quyết
toán và tổng quyết toán NSNN.
* Kiểm tra, kiểm soát ngân sách tại các CQNN
Cơ quan thanh tra tài chính cấp trên có nhiệm vụ thanh tra việc chấp
hành thu, chi và quản lý ngân sách. Khi thực hiện nhiệm vụ, Thanh tra tài
chính cấp trên có quyền: yêu cầu tổ chức, cá nhân được thanh tra xuất trình
các hồ sơ, các tài liệu kèm theo; yêu cầu các cơ quan có liên quan tham gia
phối hợp thực hiện thanh tra; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, Thanh tra
tài chính xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý
các vi phạm theo quy định của pháp luật; khi tiếp nhận các kiến nghị của cơ
54
quan Thanh tra tài chính, cơ quan có thẩm quyền phải xử lý và thông báo kết
quả xử lý cho cơ quan Thanh tra tài chính.
Thanh tra tài chính phải chịu trách nhiệm về kết luận thanh tra của
mình. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thanh tra tài chính trong việc
thanh tra quản lý, sử dụng ngân sách được quy định trong văn bản riêng của
Chính phủ.
2.2.2.2. Quản lý tài chính từ các hoạt động sự nghiệp
Quản lý tài chính từ các hoạt động sự nghiệp bao gồm quản lý nguồn
thu từ các hoạt động cung cấp dịch vụ công và quản lý quá trình sử dụng tài
chính phục vụ hoạt động sự nghiệp của các CQNN.
* Quản lý nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp. Yêu cầu đối với quản
lý nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp:
- Quản lý toàn diện từ hình thức, quy mô đến các yếu tố quyết định số
thu. Bởi vì, tất cả các hình thức, quy mô và các yếu tố ảnh hưởng đến số thu
đều quyết định số thu tài chính làm cơ sở cho mọi hoạt động của đơn vị sự
nghiệp. Nếu không quản lý toàn diện sẽ dẫn đến thất thoát khoản thu, làm ảnh
hưởng không chỉ đến hiệu quả quản lý tài chính, mà còn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hoạt động của đơn vị sự nghiệp.
- Coi trọng công bằng xã hội, những người có điều kiện, hoàn cảnh và
mức thu nhập như nhau phải đóng góp như nhau. Đây là sự thể hiện yêu cầu
công bằng chung cho mọi hoạt động của Nhà nước.
- Thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các chính sách, chế độ thu do cơ
quan có thẩm quyền ban hành. Đơn vị sự nghiệp không được tự ý đặt ra các
khoản thu cũng như mức thu.
- Quản lý các nguồn thu theo kế hoạch, đảm bảo thu sát, thu đủ, tổ chức
tốt quá trình quản lý thu, đồng thời đề ra các biện pháp tổ chức thu thích hợp.
- Đối với các đơn vị được sử dụng nhiều nguồn thu phải có biện pháp quản
lý thu thống nhất nhằm thực hiện thu đúng mục đích, thu đủ và thu đúng kỳ hạn.
55
* Quản lý chi từ hoạt động sự nghiệp
Hoạt động cung ứng dịch vụ công diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và
phức tạp nên các nhu cầu chi cho hoạt động sự nghiệp luôn gia tăng với tốc
độ nhanh trong khi khả năng huy động nguồn thu có hạn nên cần phải thực
hiện tiết kiệm, hiệu quả trong quản lý tài chính các hoạt động sự nghiệp. Để
đạt được tiêu chuẩn tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý các khoản chi cho
hoạt động sự nghiệp cần phải quản lý chặt chẽ từ khâu xây dựng kế hoạch, dự
toán, xây dựng định mức, thường xuyên phân tích, đánh giá tổng kết rút kinh
nghiệm việc thực hiện chi tiêu, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tăng cường
quản lý chi đối với các đơn vị sự nghiệp. Quản lý chi tài chính hoạt động sự
nghiệp đòi hỏi phải đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để các đơn vị sự nghiệp
hoàn thành các nhiệm vụ được giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ
của Nhà nước.
2.2.3. Yêu cầu đối với quản lý tài chính trong cơ quan nhà nước có
hoạt động sự nghiệp
2.2.3.1. Bảo đảm đúng nguyên tắc quản lý tài chính trong cơ quan
nhà nước có hoạt động sự nghiệp
Tổ chức quản lý tài chính một cách đúng đắn có ý nghĩa hàng đầu đối
với việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính. Hiệu quả
quản lý tài chính trong CQNN phần lớn phụ thuộc vào việc tổ chức hợp lý
công tác của các chủ thể quản lý bao gồm các cơ quan tài chính từ Trung
ương xuống địa phương, cơ quan thuế nhà nước và bộ máy quản lý tài chính
trong các ngành kinh tế quốc dân.
Hoạt động của bộ máy quản lý Tài chính trong CQNN luôn luôn chịu
sự chi phối của tổ chức bộ máy chính quyền, nội dung, cơ chế hoạt động của
các khâu của Tài chính nhà nước và hướng tới thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao. Do đó, quản lý tài chính trong CQNN phải đảm bảo các nguyên
tắc chủ yếu sau đây:
56
* Nguyên tắc thống nhất, tập trung dân chủ
Trong hoạt động quản lý tài chính nhà nước và quản lý tài chính trong
CQNN, nguyên tắc thống nhất tập trung dân chủ là một nguyên tắc có tầm
quan trọng đặc biệt. Một mặt, nó bảo đảm sự thống nhất ý chí và lợi ích qua
huy động và phân bổ tài chính nhà nước để có được những hàng hoá, dịch vụ
công cộng có tính chất quốc gia. Đảm bảo tính thống nhất của nền tài
chính quốc gia là điều kiện quan trọng để đưa mọi hoạt động quản lý tài
chính của các CQNN, hoạt động thu, chi NSNN các cấp vào nền nếp, theo
đúng quỹ đạo quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước, tạo nên mối liên hệ
gắn bó hữu cơ giữa các khâu của hệ thống tài chính nhà nước, làm cho hoạt
động quản lý tài chính của các CQNN phù hợp, phục vụ và thúc đẩy các hoạt
động kinh tế - xã hội.
Mặt khác, nó đảm bảo phát huy tính chủ động và sáng tạo của các
CQNN, các tổ chức, cá nhân trong đảm bảo giải quyết các vấn đề cụ thể,
trong những hoàn cảnh và cơ sở cụ thể.
Tập trung ở đây không phải là quyền lực thực sự tập trung hết ở trung
ương mà trên cơ sở phát huy dân chủ thực sự trong tổ chức hoạt động ngân
sách của các cấp dự toán, các ngành, các đơn vị nhưng vẫn đảm bảo tính
thống nhất trong chính sách tài chính, ngân sách quốc gia. Nguyên tắc này
được quán triệt thông qua sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các CQNN
trong phân cấp quản lý ở cả ba khâu của chu trình ngân sách.
* Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương
và vùng lãnh thổ
Với tư cách là một bộ phận trong hệ thống quản lý nói chung, quản lý
tài chính của các CQNN không thể tách khỏi nguyên tắc kết hợp quản lý
theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. Tổ chức quản lý
theo chuyên ngành không chỉ đảm bảo quản lý thống nhất, chặt chẽ mọi
nguồn tài chính nhà nước về chính sách chế độ chi tiêu, định mức thu, chi tài
57
chính, mà còn tạo điều kiện phát triển hình thức và phương pháp cấp phát,
quản lý tài chính phù hợp với đặc điểm của ngành kinh tế kỹ thuật. Mặt
khác tổ chức quản lý theo ngành cần được kết hợp với phân cấp quản lý
cho địa phương và vùng lãnh thổ, thể hiện ở sự phân biệt quyền hạn, trách
nhiệm QLNN của cấp tỉnh, thành phố. Đó cũng là sự thể hiện và cụ thể hoá
nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế phù hợp với cơ cấu
ngành và cơ cấu lãnh thổ trong từng giai đoạn, và cũng là điều kiện bảo
đảm cho chính quyền địa phương phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo
của mình trong việc thực hiện chức năng quản lý toàn diện trên phạm vi đơn
vị hành chính lãnh thổ.
Quán triệt nguyên tắc trên đây, bộ máy quản lý tài chính của các
CQNN cần phải được tổ chức vừa theo hệ thống chuyên ngành thống nhất
từ Trung ương xuống các địa phương trong cả nước, đồng thời chịu sự chỉ
đạo song trùng của các cấp chính quyền địa phương. Cần xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ quản lý theo ngành của Bộ Tài chính và các cơ quan trung
ương đối với toàn bộ hoạt động tài chính nhà nước, đồng thời cần quy định
rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp chính quyền và cơ quan tài chính địa
phương đối với hoạt động quản lý tài chính của các CQNN diễn ra trên địa
bàn lãnh thổ ở địa phương. Những yêu cầu này cần được quy định rõ
trong Luật NSNN, Luật Ngân hàng nhà nước và các văn bản pháp luật khác
của Nhà nước về chức năng nhiệm vụ của các CQNN trung ương và địa
phương trong quản lý tài chính của các CQNN.
* Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả
Tiết kiệm và hiệu quả là những vấn đề mang tính quy luật của mỗi chế
độ kinh tế - xã hội, nó vừa là mục tiêu, vừa là tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả
hoạt động của mọi hệ thống quản lý. Yêu cầu của nguyên tắc này vận
dụng vào việc quản lý tài chính của các CQNN thể hiện ở chỗ, một nguồn
tài chính được coi là có hiệu quả nếu nó được xây dựng để giúp cho việc
hoàn thành các mục tiêu quản lý với mức tối thiểu về chi phí.
58
Quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả đòi hỏi bộ máy quản lý
tài chính của các CQNN phải phù hợp với tổ chức bộ máy hành chính và
phân cấp quản lý kinh tế tài chính giữa các cấp chính quyền nhà nước, ở
đây đòi hỏi phải có sự tương hợp giữa quyền hạn và trách nhiệm. Đồng thời
bộ máy quản lý phải được tổ chức phù hợp với đặc điểm, nội dung và cơ chế
hoạt động của các khâu quản lý tài chính trong điều kiện kinh tế thị trường.
Chuyển sang kinh tế thị trường, phạm vi, nội dung, cơ chế hoạt động của hệ
thống các khâu quản lý tài chính đã có nhiều thay đổi, ở đây đòi hỏi phải
thiết kế một bộ máy tổ chức gồm các bộ phận, các cá nhân phù hợp với yêu
cầu mới của hoạt động quản lý tài chính của các CQNN. Hơn nữa một vị trí
công tác hay một bộ phận trong cơ cấu tổ chức phải được xác định rõ ràng
mục tiêu cần phải đạt, nội dung hoạt động và trách nhiệm, quyền hạn được
giao, tiêu chuẩn cho từng chức danh cán bộ, cũng như những mối liên hệ với
các bộ phận công tác khác.
Để đạt được hiệu quả về mặt tổ chức còn cần phải thấy rõ giới hạn về
tầm quản lý, ở chỗ, ở mỗi cương vị quản lý đều có một số giới hạn nhất
định những người mà một cá nhân có thể quản lý có kết quả. Yêu cầu này
đòi hỏi phải thu gọn các đầu mối quản lý, tinh giản bộ máy, bớt khâu trung
gian, tạo cho bộ máy tổ chức quản lý có hiệu quả.
2.2.3.2. Đảm bảo đúng tiêu chuẩn, định mức về quản lý tài chính
trong các cơ quan nhà nước Tiêu chuẩn, định mức sử dụng là một trong những căn cứ rất quan
trọng để các đơn vị sử dụng ngân sách quản lý điều hành kinh phí trong phạm
vi của đơn vị mình. Đồng thời, nó cũng là một trong những căn cứ quan trọng
để cơ quan chủ quản cấp trên, cơ quan tài chính, cơ quan thanh tra, cơ quan
kiểm toán nhà nước thực hiện các phần việc liên quan đến xét duyệt, thẩm
định, hay kiểm tra chấp thuận tính hợp lệ, hợp lý của số kinh phí mà các đơn
vị dự toán đã sử dụng. Bởi vậy, các định mức sử dụng này phải được thể chế
hoá một cách rõ ràng, cụ thể và xác nhận thời gian có hiệu lực chung.
59
Trong điều kiện hiện nay, cùng với tiến trình thực hiện từng bước cải
cách tài chính nhà nước, các định mức sử dụng thuộc chi thường xuyên của
CQNN đã có những thay đổi đáng kể, làm phân hoá các định mức sử dụng
thành 2 loại: các định mức bắt buộc chung và các định mức không bắt buộc
chung. Các định mức bắt buộc chung được áp dụng đối với các cơ quan
QLNN chưa được giao khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; các
đơn vị sự nghiệp không có thu; và các khoản kinh phí không khoán của tất cả
các đơn vị đã được giao khoán. Các định mức bắt buộc chung nhất thiết phải
quản lý và sử dụng theo đúng các qui định của Luật NSNN và các văn bản
hướng dẫn thi hành luật này hiện đang có hiệu lực thi hành. Các định mức
không bắt buộc chung được áp dụng đối với các khoản kinh phí đã được giao
khoán cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đã được khoán biên chế
và kinh phí quản lý hành chính và kinh phí thuộc hoạt động thường xuyên mà
đơn vị sự nghiệp có thu đã được giao quyền tự chủ tài chính. Song, các định
mức sử dụng không bắt buộc chung này nhất thiết phải được qui định trong
qui chế chi tiêu nội bộ của từng CQNN và phải được tập thể công chức, viên
chức đơn vị nhất trí thông qua.
Việc quản lý tài chính trong CQNN theo tiêu chuẩn, định mức tài chính
là do nguồn ngân sách có hạn trong khi nhu cầu chi tiêu của các cơ quan nhà
nước để thực hiện nhiệm vụ rất lớn, nếu không đảm bảo tiêu chuẩn, định mức
tài chính sẽ dẫn đến bội chi ngân sách, gia tăng nợ công và gây mất ổn định
tài chính nền kinh tế. Mặt khác, quy định về định mức tài chính cũng góp
phần giúp cho các cơ quan nhà nước cân đối thu chi phù hợp với nhiệm vụ
được giao, tăng hiệu quả quản lý nhà nước và nâng cao chất lượng dịch vụ
công trong điều kiện hạn hẹp nguồn tài chính. Các cơ quan nhà nước căn cứ
vào yêu cầu, nội dung và hiệu quả công việc, trong phạm vi nguồn tài chính
được sử dụng, quyết định các mức chi quản lý, chi nghiệp vụ phù hợp với yêu
cầu thực tế và khả năng tài chính của đơn vị theo quy định của Chính phủ về
chế độ tài chính đối với các cơ quan nhà nước.
60
2.2.3.3. Đáp ứng nhu cầu về tài chính cho các hoạt động nghiệp vụ
của cơ quan nhà nước
Hoạt động nghiệp vụ chuyên môn trong các đơn vị hành chính, sự
nghiệp được đảm bảo bằng nguồn kinh phí thường xuyên của NSNN ở mỗi
ngành rất khác nhau. Nếu như ở cơ quan công chứng nhà nước, hoạt động
nghiệp vụ chuyên môn là xác nhận tính hợp lệ, hợp lý của các loại giấy tờ
cho mỗi tổ chức, cá nhân có nhu cầu; thì ở các đơn vị sự nghiệp giáo dục và
đào tạo là hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học; ở các đơn
vị sự nghiệp y tế lại là hoạt động phòng bệnh, khám bệnh và chữa bệnh;...
Nguồn tài chính đáp ứng các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của CQNN
phải là những khoản chi mà xét về nội dung kinh tế của nó phải thực sự phục
vụ cho hoạt động này. Ví dụ: Các chi phí về nguyên liệu, vật liệu; chi phí về
năng lượng, nhiên liệu; chi phí cho nghiên cứu, hội thảo khoa học; chi phí về
thuê mướn chuyên gia, giáo viên để tư vấn hay đào tạo cho đội ngũ nghiên
cứu; chi phí để tiến hành khảo sát, tham quan học tập những điển hình tiên
tiến về nghiên cứu và ứng dụng qui trình công nghệ của một số hoạt động
nào đó,...
Chính vì vậy, trong quá trình quản lý tài chính đáp ứng nhu cầu hoạt
động chuyên môn nghiệp vụ tại mỗi đơn vị hành chính, sự nghiệp rất cần
phải có sự phân định theo nội dung kinh tế của nghiệp vụ phát sinh một cách
rõ ràng, chuẩn xác. Qua đó, công tác thống kê, phân tích đánh giá tình hình
quản lý và sử dụng kinh phí ở mỗi đơn vị mới có thể lột tả được mức độ
quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả đã đạt được ở mức độ nào. Một
đơn vị được đánh giá là quản lý và sử dụng kinh phí chi thường xuyên có
hiệu quả khi tỷ trọng chi nghiệp vụ chuyên môn trong tổng số chi của đơn vị
đó luôn phải được ưu tiên sau khi đã trang trải các nhu cầu chi cho con
người theo qui định.
61
2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính của cơ quan
nhà nước có hoạt động sự nghiệp
2.2.4.1. Mô hình tổ chức quản lý của cơ quan nhà nước có hoạt động
sự nghiệp
Mỗi loại CQNN có mô hình tổ chức, chức năng và nhiệm vụ khác nhau,
nên qui mô tài chính và tổ chức quản lý tài chính cũng có những khác biệt. Đối
với cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công, không đòi
hỏi người được phục vụ phải thù lao nên NSNN phải cấp phát kinh phí để duy
trì hoạt động của các cơ quan này. Hiện nay, trong hoạt động hành chính nhà
nước, có được phép thu một số khoản nhỏ như phí, lệ phí và được coi là nguồn
bổ sung kinh phí, nhưng số thu còn rất ít, và chủ yếu vẫn do Nhà nước cấp kinh
phí. Vì thế, quản lý tài chính trong cơ quan hành chính nhà nước thực chất là
quản lý NSNN với các hoạt động quản lý thu - chi từ NSNN, cân đối ngân sách
đáp ứng hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị.
Đối với các đơn vị sự nghiệp trong nền kinh tế thị trường, các sản
phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra đều có thể trở thành hàng hóa
cung ứng cho mọi thành phần trong xã hội. Việc cung ứng các hàng hóa
này cho thị trường chủ yếu không vì mục đích lợi nhuận như hoạt động sản
xuất kinh doanh. Nhà nước tổ chức, duy trì và tài trợ cho các hoạt động sự
nghiệp để cung cấp những sản phẩm, dịch vụ cho thị trường trước hết nhằm
thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc phân phối lại thu nhập và thực
hiện các chính sách phúc lợi công cộng khi can thiệp vào thị trường. Nhờ
đó sẽ hỗ trợ cho các ngành, các lãnh vực kinh tế hoạt động bình thường,
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đảm bảo nguồn nhân lực, thúc đẩy
hoạt động kinh tế phát triển và ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, đảm bảo và
không ngừng nâng cao đời sống, sức khỏe, văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Vì hoạt động mang tính chất phục vụ là chủ yếu, ở các đơn vị sự nghiệp số
thu thường không lớn và không ổn định hoặc không có thu nên thu nhập của
62
các đơn vị này chủ yếu do NSNN cấp toàn bộ hoặc một phần. Với các đơn vị
sự nghiệp đặc thù có số thu lớn thì mức cấp kinh phí cho mỗi đơn vị là bao
nhiêu tuỳ thuộc vào nhiệm vụ mà mỗi đơn vị phải đảm nhận và cơ chế quản
lý tài chính mà mỗi đơn vị thuộc hoạt động sự nghiệp đã đăng ký áp dụng với
cơ quan quản lý tài chính nhà nước và hiện đang có hiệu lực thi hành.
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước ở mỗi thời kỳ là
khác nhau, chính vì vậy, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
nhà nước cũng có những thay đổi. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
cùng với yêu cầu ngày càng cao của người dân về dịch vụ hành chính, sự
nghiệp công bắt buộc nhà nước phải xem xét, rà soát lại và tiến hành cải cách
hành chính theo hướng "phục vụ" thay cho "áp đặt" dẫn đến sự thay đổi về
quy mô và tính chất hoạt động của các cơ quan nhà nước. Có những lĩnh vực
hành chính, sự nghiệp nhà nước sẽ tăng cường đầu tư, nhưng cũng có những
lĩnh vực nhà nước sẽ đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động những nguồn lực
từ trong dân. Điều đó làm thay đổi cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của
CQNN. Khi quy mô hoạt động của mỗi đơn vị mở rộng hay thu hẹp; chức
năng, nhiệm vụ thay đổi theo chiều hướng tăng lên hay giảm đi; số lượng lao
động nhiều hay ít... sẽ có tác động trực tiếp đến nguồn thu, nhiệm vụ chi, và
theo đó tác động đến quản lý tài chính ở cơ quan nhà nước.
2.2.4.2. Thể chế và cơ chế tài chính của Nhà nước đối với các cơ
quan nhà nước
Thể chế bao gồm toàn bộ các CQNN với hệ thống quy định do Nhà
nước xác lập trong hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước và được Nhà
nước sử dụng để điều chỉnh và tạo ra các hành vi và mối quan hệ giữa Nhà
nước với công dân, các tổ chức nhằm thiết lập kỷ cương xã hội. Thể chế tài
chính của Nhà nước là một hệ thống gồm Luật NSNN và các văn bản pháp
quy dưới luật tạo khuôn khổ pháp lý cho các CQNN sử dụng các nguồn tài
chính nhằm thực hiện chức năng QLNN trong lĩnh vực được giao. Mặt khác,
63
nó quy định các mối quan hệ trong hoạt động kinh tế cũng như các mối quan
hệ giữa các cơ quan và nội bộ bên trong các CQNN.
Thể chế tài chính của Nhà nước đối với các CQNN bao gồm Luật
NSNN và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan khác. Trong đó, Luật
NSNN là văn kiện có tính chất cơ bản và quan trọng của Nhà nước nhằm thiết
lập khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc hình thành
và sử dụng nguồn tài chính từ NSNN.
Có thể khẳng định, thể chế tài chính là yếu tố ảnh hưởng tiên quyết và
mạnh mẽ đối với quản lý tài chính ở các CQNN. Nếu hệ thống pháp luật về
tài chính được xây dựng, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với điều kiện cũng như
trình độ phát triển chung về kinh tế, xã hội của đất nước, của địa phương và
của các cơ quan nhà nước nói riêng thì điều đó sẽ tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho quá trình quản lý tài chính ở các CQNN. Ngược lại, nó sẽ cản
trở quá trình này, đồng thời làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực khác.
Cơ chế quản lý tài chính là hệ thống tổng thể các phương pháp, các
hình thức và công cụ được vận hành để quản lý các hoạt động tài chính ở một
chủ thể nhất định nhằm đạt được nhưng mục tiêu đã định. Cơ chế quản lý tài
chính là sản phẩm chủ quan của con người trên cơ sở nhận thức vận động
khách quan của phạm trù tài chính trong từng giai đoạn lịch sử. Cơ chế quản
lý tài chính của Nhà nước đối với CQNN là toàn bộ các chính sách, chế độ chi
tài chính do Nhà nước ban hành mà các CQNN phải tuân thủ. Trong cơ chế
quản lý tài chính của Nhà nước, các nội dung về định mức chi tiêu, danh mục
được phép chi tiêu, quy trình xét duyệt và cấp ngân sách, phân cấp quản lý chi
tài chính công... là công cụ để Nhà nước kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng các
nguồn lực tài chính công trong các cơ quan nhà nước. Chính vì thế, cơ chế quản
lý tài chính của Nhà nước là cơ sở, nền tảng của quản lý tài chính trong các
CQNN. Tính chất tiến bộ hay lạc hậu của cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước
ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý tài chính ở các CQNN.
64
Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước tạo ra môi trường pháp lý cho
việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt
động của đơn vị. Cơ chế này xây dựng nên khung pháp lý về mô hình quản lý
tài chính ở các CQNN, từ việc xây dựng các tiêu chuẩn, định mức, các quy
định về lập dự toán, điều chỉnh dự toán, cấp phát kinh phí, kiểm tra, kiểm
soát, đến quyết toán kinh phí, nhằm phát huy tối đa hiệu quả quản lý vĩ mô
của Nhà nước và có tính đến quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị. Do
đó, nếu cơ chế tài chính phù hợp sẽ tạo điều kiện tăng cường và tập trung
nguồn lực tài chính, đảm bảo sự linh hoạt, năng động và hữu hiệu của các
nguồn lực tài chính, giúp cho CQNN thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn
được giao. Ngược lại, nếu các định mức lạc hậu, quy trình cấp phát và kiểm
tra chồng chéo, phức tạp sẽ dẫn đến gia tăng chi phí quản lý tài chính, gây ra
tình trạng che giấu, hoặc không đáp ứng nhu cầu tài chính cho hoạt động
chuyên môn trong CQNN, là nguyên nhân cơ bản làm hao tổn NSNN, thất
thoát, lãng phí các nguồn lực tài chính khác, mà không đạt được mục tiêu
chính trị, xã hội đã định.
2.2.4.3. Năng lực quản lý tài chính trong cơ quan nhà nước
Năng lực quản lý tài chính trong CQNN bao gồm cơ cấu tổ chức bộ
máy quản lý tài chính và nguồn nhân lực hoạt động trong bộ máy quản lý tài
chính. Cơ cấu tổ chức hợp lý, linh hoạt và đội ngũ nhân lực có trình độ
chuyên môn cao sẽ giúp cho công tác quản lý tài chính thống nhất, hiệu quả
và đảm bảo tuân thủ các quy định của nhà nước về quản lý tài chính đáp ứng
nhu cầu thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị.
* Tổ chức bộ máy quản lý tài chính
Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý tài chính của
một CQNN. Việc tổ chức, sắp xếp bộ máy quản lý một cách khoa học, phù
hợp với nhiệm vụ đặc thù của đơn vị, đảm bảo thông tin thông suốt, thuận lợi
trong việc kiểm tra, giám sát và phát huy được khả năng của mỗi người trong
65
bộ máy sẽ là điều kiện để quản lý tài chính của đơn vị đi đúng hướng và đạt
hiệu quả cao nhất. Điều này phụ thuộc vào năng lực của người đứng đầu tổ
chức, đơn vị và cơ quan chuyên môn về tài chính. Ngược lại, nếu bộ máy
cồng kềnh, chức năng chồng chéo, sự phối hợp không đạt hiệu quả sẽ là
nguyên nhân làm trì trệ và cản trở hoạt động tài chính của toàn đơn vị.
* Trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý tài chính
Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong
CQNN là nhân tố chủ chốt tác động đến chất lượng quản lý trong mỗi đơn vị.
Đối với bộ phận quản lý tài chính, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cũng
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng tài chính của đơn vị, qua đó ảnh
hưởng đến hoạt động của từng CQNN. Đơn vị nào có đội ngũ cán bộ, công
chức am hiểu sâu về tài chính, có năng lực quản lý, điều hành, thành thạo
nghiệp vụ, chuyên môn thì quản lý tài chính ở đơn vị đó đạt hiệu quả cao.
Nguồn kinh phí vừa được sử dụng đúng người, đúng việc vừa đạt mức chi phí
tối thiểu và tạo ra một nguồn thu từ việc sử dụng tiết kiệm NSNN nhằm phục
vụ nhu cầu chi tiêu cho đơn vị. Ngược lại, đơn vị nào có đội ngũ cán bộ, công
chức yếu kém thì quản lý tài chính ở đơn vị đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn,
nguy cơ thất thoát, sử dụng kinh phí sai chế độ chính sách rất cao, từ đó dẫn
đến mất ổn định và rối loạn trong đơn vị, có trường hợp vi phạm pháp luật về
quản lý NSNN, làm giảm hiệu quả hoạt động và uy tín của cơ quan, đơn vị.
2.2.4.4. Phân cấp quản lý ngân sách đối với quản lý tài chính trong
cơ quan nhà nước
Luật NSNN 2002 quy định nguyên tắc phân cấp trong hệ thống các
CQNN: cơ quan QLNN cấp trên ủy quyền cho cơ quan QLNN cấp dưới thực
hiện nhiệm vụ chi của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên
cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. Quy định phân cấp NSNN trong hệ
thống các CQNN đã làm tăng tính chủ động, tích cực của CQNN; góp phần
tăng cường kỷ luật tài chính, từng bước tăng tính minh bạch và trách nhiệm
66
giải trình. Việc quy định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách giữa các
đơn vị dự toán trong hệ thống CQNN từng bước lập lại trật tự, kỷ cương trong
lĩnh vực tài chính, xóa bỏ tình trạng đơn vị cấp dưới quy định một số khoản
thu từ hoạt động sự nghiệp trái với quy định pháp luật. Việc trao quyền nhiều
hơn cho CQNN cấp dưới trong quyết định các vấn đề về thu chi tài chính từ
NSNN cũng đòi hỏi đơn vị phải tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong thực hiện ngân sách.
Để tạo điều kiện cho các CQNN chủ động hơn trong quản lý nguồn tài
chính từ NSNN, tăng cường trách nhiệm của CQNN cấp dưới đối với nguồn
kinh phí được giao, Luật NSNN 2015 đã bổ sung quy định về phân cấp
NSNN giữa các CQNN: "Trường hợp cơ quan QLNN thuộc ngân sách cấp
trên uỷ quyền cho cơ quan QLNN thuộc ngân sách cấp dưới thực hiện nhiệm
vụ chi của mình thì phải phân bổ và giao dự toán cho cơ quan cấp dưới được
uỷ quyền để thực hiện nhiệm vụ đó. Cơ quan nhận kinh phí uỷ quyền phải
quyết toán với cơ quan uỷ quyền khoản kinh phí này". Bên cạnh đó, các đơn
vị dự toán là đơn vị sự nghiệp công lập được chủ động sử dụng nguồn thu phí
và các nguồn thu hợp pháp khác để phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động theo quy định của Chính phủ. Đối với đơn vị sự nghiệp công
lập và đơn vị hành chính thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử
dụng biên chế và kinh phí phải ban hành quy chế chi tiêu nội bộ phù hợp với
dự toán được giao tự chủ theo quy định của pháp luật.
Những thay đổi của Luật NSNN 2015 là nhân tố tích cực góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý tài chính trong các CQNN, xây dựng và chấp hành
dự toán một cách khoa học, chất lượng hơn, phát huy vị trí, vai trò và trách
nhiệm của từng CQNN.
2.2.4.5. Các nhân tố về môi trường của hoạt động tài chính
Môi trường ảnh hưởng đến hoạt động tài chính bao gồm: môi trường
kinh tế, môi trường chính trị - xã hội, môi trường pháp lý.
67
Về môi trường kinh tế cung cấp các nguồn lực đặc biệt là nguồn lực tài
chính cho các hoạt động của cơ quan hành chính thông qua nguồn thu thuế,
phí, lệ phí vào NSNN. Môi trường kinh tế càng lành mạnh, các hoạt động
kinh tế sôi động, kinh tế ổn định, tăng trưởng và phát triển bền vững là cơ sở
đảm bảo vững chắc của nền tài chính, mà trong đó NSNN là khâu trung tâm,
giữ vai trò trọng yếu trong phân phối các nguồn lực tài chính quốc gia. Nguồn
thu vào NSNN càng gia tăng, tác động trực tiếp đến nguồn kinh phí được
phân bổ cho mỗi cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp.
Môi trường chính trị - xã hội ảnh hưởng tới việc thực hiện những chiến
lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, qua đó tác động đến
nhiệm vụ mà mỗi CQNN được giao. Sự ổn định về chính trị - xã hội là cơ sở
để động viên mọi nguồn lực và nguồn tài nguyên quốc gia cho sự phát triển.
Mặt khác, chính trị - xã hội cũng hình thành nên môi trường và điều kiện để
thu hút các nguồn vốn đầu tư trong nước và quốc tế; thúc đẩy quá trình tăng
trưởng kinh tế cũng như tăng cường các nguồn lực tài chính. Sự ổn định chính
trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay đang là nhân tố tích cực, là động lực để tiến
hành cải cách hành chính trong các CQNN, do đó ảnh hưởng rất lớn đến công
tác quản lý tài chính ở các đơn vị này. Môi trường pháp lý mạnh, hành lang
pháp lý thông thoáng sẽ vừa thúc đẩy, vừa ngăn chặn đẩy lùi những tiêu cực
có thể xảy ra trong quá trình quản lý tài chính ở CQNN.
Phát triển nền kinh tế tri thức và xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi quản lý
tài chính cần chuyển sang quản lý tri thức và quản lý dựa trên tri thức, khơi
dậy các năng lực sáng tạo, tạo ra tri thức mới và sử dụng có hiệu quả tri thức,
biến tri thức thành giá trị. Quản lý tài chính trong CQNN không chỉ tuân thủ
theo quy định của Luật Ngân sách, mà cần phải thay đổi đáp ứng yêu cầu
quản lý tài chính hiện đại, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo, rút gọn
các khâu trung gian trong quá trình quản lý, hạn chế lãng phí, chống tham
nhũng trong quản lý tài chính.
68
Chương 3
THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
Ở BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
3.1. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ
ĐẶC ĐIỂM CỦA BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
3.1.1. Quá trình xây dựng và phát triển của Ban Tôn giáo Chính phủ
Ban Tôn giáo Chính phủ hiện nay mà tiền thân là Ban Tôn giáo được
thành lập theo Nghị định 566/NĐ-CP ngày 02/8/1955 của Chính phủ. Theo
Nghị định này, Ban Tôn giáo là một đơn vị trong Ban Nội chính Chính phủ và
trực thuộc Thủ tướng phủ. Do yêu cầu của công tác QLNN về tôn giáo, Ban
Tôn giáo đã từng bước được kiện toàn theo thông tư số 60/TTg, ngày
11/6/1964 của Phủ Thủ tướng, Ban Tôn giáo được đổi thành Ban Tôn giáo
Phủ Thủ tướng. Đến ngày 27/3/1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị
định số 85/NĐ-HĐBT về việc thành lập Ban Tôn giáo của Chính phủ.
Ngày 04/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 37/NĐ-CP quy định
"Về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Ban Tôn giáo của Chính phủ".
Để tiếp tục củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác QLNN
về tôn giáo, ngày 01/12/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 235/1998/QĐ-TTg, trên cơ sở tiếp thu tinh thần Luật tổ chức Chính phủ,
ngày 13/8/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2003/NĐ-CP quy
định "Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của Ban
Tôn giáo Chính phủ có chức năng QLNN về hoạt động tôn giáo trong phạm
vi cả nước, là đầu mối phối hợp với các ngành về công tác tôn giáo và liên hệ
với các tổ chức tôn giáo".
Ngày 08/8/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/NĐ-CP
chuyển giao Ban Tôn giáo Chính phủ vào Bộ Nội vụ. Ngày 03/11/2009, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 134/2009/QĐ-TTg quy định chức
69
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ
trực thuộc Bộ Nội vụ. Đến ngày 12/02/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 06/2015/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ.
Trải qua 60 năm hoạt động dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Chính phủ và Bộ Nội vụ, Ban Tôn giáo Thủ tướng phủ trước kia
và Ban Tôn giáo Chính phủ ngày nay đã không ngừng phấn đấu, xây dựng và
trưởng thành, vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ chính trị: tham mưu
cho Đảng và Nhà nước về chủ trương, chính sách đối với tôn giáo; thực hiện
việc QLNN đối với các hoạt động tôn giáo; góp phần đấu tranh chống các
hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực xấu vào mục đích chính trị. Đặc
biệt là động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo tham gia và có những đóng góp
rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Vào năm 2002 và 2007, Nhà nước đã trao tặng Ban Tôn giáo Chính
phủ Huân chương Độc lập hạng Nhất và Huân chương Hồ Chí Minh, phần
thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ làm công tác tôn
giáo thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ.
3.1.2. Về tổ chức bộ máy của Ban Tôn giáo Chính phủ
3.1.2.1. Về cơ cấu tổ chức
Theo Quyết định số 06/2015/QĐ-TTg ngày 12/02/2015 của Thủ tướng
Chính phủ, Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức
năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn
giáo trong phạm vi cả nước và thực hiện các dịch vụ công thuộc lĩnh vực tôn
giáo theo quy định của pháp luật. Ban Tôn giáo có 15 đơn vị trực thuộc, trong
đó có 10 đơn vị hành chính thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác
tôn giáo gồm: Vụ Công giáo, Vụ Phật giáo, Vụ Tin lành, Vụ Cao đài, Vụ Các
tôn giáo khác, Vụ Quan hệ quốc tế, Vụ Pháp chế - Thanh tra, Vụ Tổ chức cán
70
bộ, Văn phòng Ban, Vụ công tác tôn giáo phía Nam. Có 05 đơn vị sự nghiệp
phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Ban Tôn giáo gồm: Viện Nghiên
cứu chính sách tôn giáo, Tạp chí Công tác Tôn giáo, Trung tâm Thông tin,
Trường nghiệp vụ công tác Tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo [83].
Lãnh đạo Ban Tôn giáo Chính phủ
Các đơn vị hành chính Các đơn vị sự nghiệp
Vụ
Công
giá
o
Vụ
Phật
giá
o
Vụ
Tin
lành
Vụ
Cao đà
i
Vụ
Các
tôn
giáo
khá
c
Vụ
Qua
n hệ
quố
c tế
Vụ
Pháp
chế
- Th
anh
tra
Vụ
Tổ c
hức
cán
bộ
Văn
phò
ng B
an
Vụ
công
tác
tôn
giáo
phí
a Nam
Việ
n N
ghiê
n cứ
u ch
ính
sách
tôn
giáo
Tạ
p ch
í Côn
g tá
c Tô
n gi
áo
Trun
g tâ
m T
hông
tin
Trườ
ng n
ghiệ
p vụ
côn
g tá
c Tô
n
giáo
N
hà x
uất bản
Tôn
giá
o
Hình 3.1: Sơ đồ các đơn vị trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ
Tính đến hết 30/6/2014, Ban Tôn giáo Chính phủ có 127 cán bộ, công
chức, viên chức. Số cán bộ, công chức, viên chức có trình độ tốt nghiệp đại
học và trên đại học chiếm khoảng 70%, trong các đơn vị chuyên môn thì tỷ lệ
này chiếm đến 100%. Cơ cấu Lãnh đạo Ban hiện nay gồm: 03 đồng chí
(Trưởng ban và 02 Phó Trưởng ban), trong đó một Thứ trưởng Bộ Nội vụ
kiêm Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng
và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ. Bộ
trưởng Bộ Nội vụ bổ nhiệm, miễn nhiệm các Phó Trưởng ban theo đề nghị
của Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ. Các Phó Trưởng ban chịu trách
nhiệm trước Trưởng ban và trước pháp luật về các lĩnh vực công tác được
phân công.
71
Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của
Ban; quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức các cơ
quan, đơn vị trực thuộc Ban; bổ nhiệm, miễn nhiệm công chức, viên chức giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc Ban theo quy định của pháp luật và phân cấp
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
3.1.2.2. Chức năng và nhiệm vụ của Ban Tôn giáo Chính phủ
Theo Quyết định số 06/2015/QĐ-TTg, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ. Theo
đó, Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng
tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ QLNN về lĩnh vực tôn giáo trong phạm
vi cả nước và thực hiện các dịch vụ công thuộc lĩnh vực tôn giáo theo quy
định của pháp luật. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Tôn giáo Chính
phủ được quy định như sau:
Một là, Ban Tôn giáo Chính phủ trình Bộ trưởng Bộ Nội vụ để trình
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định: (1) Dự án luật, pháp
lệnh, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo
nghị định của Chính phủ; dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tôn
giáo; (2) Chiến lược, quy hoạch, các chương trình mục tiêu quốc gia, chương
trình hành động, đề án, dự án quan trọng về tôn giáo. Trình Bộ trưởng Bộ Nội
vụ xem xét, quyết định: Dự thảo Thông tư và các văn bản khác về công tác
tôn giáo; Kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm về công tác tôn giáo. Đồng
thời, Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án
sau khi được ban hành hoặc phê duyệt.
Hai là, ban hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ về công tác tôn giáo
theo quy định của pháp luật; thông tin, tuyên truyền và hướng dẫn, kiểm tra
việc thực hiện các chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước;
72
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật; bảo
đảm sự bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật; chống mọi hành vi xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực
hiện trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Ba là, giải quyết theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền giải
quyết các vấn đề cụ thể về tôn giáo theo quy định của pháp luật. Trong trường
hợp cần thiết, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ báo cáo và xin ý kiến chỉ
đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời báo cáo Bộ trưởng Bộ Nội
vụ. Thẩm định hồ sơ trình cấp có thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo theo
quy định của pháp luật. Khen thưởng theo thẩm quyền và đề xuất với cấp có
thẩm quyền khen thưởng và áp dụng chính sách đãi ngộ đối với các tổ chức
tôn giáo, cá nhân tham gia hoạt động tôn giáo.
Bốn là, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương của các tổ
chức chính trị - xã hội và tổ chức có liên quan khác: Thông tin, tuyên truyền,
vận động quần chúng nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; Tham gia quản lý các khu
di tích văn hoá lịch sử, danh lam thắng cảnh liên quan đến tôn giáo. Thống
nhất quản lý về xuất bản các loại sách kinh; các ấn phẩm, giáo trình giảng
dạy, văn hoá phẩm thuần tuý tôn giáo của các tổ chức tôn giáo được Nhà
nước cho phép hoạt động theo phân cấp của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Năm là, thực hiện hợp tác quốc tế về lĩnh vực tôn giáo; hướng dẫn,
giúp đỡ các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ, nhà tu hành thực hiện quan hệ
đối ngoại theo quy định của pháp luật; làm đầu mối liên hệ với các tổ chức
tôn giáo.
Sáu là, nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tôn giáo; tổng kết thực tiễn,
cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo.
73
Bảy là, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế hoạt động của các tổ
chức dịch vụ công trong lĩnh vực tôn giáo theo quy định của pháp luật.
Tám là, đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ công tác tôn giáo
cho cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo thuộc các cơ quan Trung ương
và địa phương.
Chín là, quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; thực hiện chế độ tiền
lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ
luật đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Ban theo
quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ trưởng Bộ Nội vụ [83].
3.1.3. Tính đặc thù của Ban Tôn giáo Chính phủ tác động đến quản
lý tài chính tại Ban
Tính đặc thù của Ban Tôn giáo Chính phủ thể hiện trong những nội
dung sau:
Một là, về mặt quản lý hành chính nhà nước, đối tượng quản lý của Ban
Tôn giáo là các chức sắc, chức việc. Song các chức sắc, chức việc của các tổ
chức tôn giáo không hưởng lương từ NSNN, mà được nhận phần hỗ trợ từ
phía giáo hội hoặc các nhà hảo tâm, từ thiện. Đồng thời, việc nâng lương, bổ
nhiệm, phong chức, đề bạt, luân chuyển, điều động chức sắc, chức việc thuộc
thẩm quyền của Giáo hội. Vì vậy, chức sắc, chức việc của các tổ chức tôn
giáo hoàn toàn không phụ thuộc vào Ban Tôn giáo Chính phủ.
Hai là, Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện nhiệm vụ thông tin, tuyên
truyền và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước đối với các Tôn giáo; thẩm định hồ sơ trình cấp
có thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật. Nên
cơ cấu, tổ chức, bộ máy do Giáo hội của từng Tôn giáo qui định cụ thể do vậy
việc chia tách, sáp nhập, thành lập, giải tán các tổ chức tôn giáo chỉ chịu sự
điều chỉnh của Giáo hội.
74
Ba là, do tính chất phức tạp, nhạy cảm của tôn giáo, đặc biệt, sự lợi
dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm gây mất ổn định trật tự an toàn
xã hội đòi hỏi Ban Tôn giáo Chính phủ phải thường xuyên giải quyết các
điểm nóng tôn giáo, thường xảy ra ở một số vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc ít người có trình độ dân trí chưa cao, đời sống kinh tế khó khăn,
kết cấu hạ tầng hạn chế, thiếu thốn.
Do tính đặc thù của công tác tôn giáo nên tác động rất lớn tới hoạt động
tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ. Cụ thể:
Công tác lập dự toán chi ngân sách hàng năm rất khó xác định được
kinh phí để giải quyết điểm nóng trong năm là bao nhiêu, các thông tin về an
ninh, tình báo tôn giáo là bí mật quốc gia nên rất khó tiếp cận, do vậy việc lập
dự toán thường không chính xác. Ban Tôn giáo đã thực hiện trích lập dự
phòng ngân sách để đáp ứng kịp thời nhu cầu kinh phí giải quyết các điểm
nóng song hiệu quả không rõ nét vì nguồn kinh phí dự phòng theo quy định
Điều 9 Luật NSNN 2002 chỉ chiếm 2% đến 5% tổng dự toán chi ngân sách
hàng năm của Ban Tôn giáo Chính phủ. Đối với một số điểm nóng có tính
chất phức tạp như hoạt động của cái gọi là "Vương quốc Mông" ở Tây Bắc,
"Nhà nước Đêga Môngtana" ở Tây Nguyên, "Nhà nước Khmer Campuchia
Krôm (KKK)" ở Nam Bộ; các vụ khiếu kiện đất đai của một số tổ chức Công
giáo,... thì khoản kinh phí dự phòng của Ban Tôn giáo chỉ đáp ứng một phần rất
nhỏ cho công tác thâm nhập địa bàn, tìm hiểu tình hình tôn giáo.
Công tác chấp hành ngân sách của Ban Tôn giáo cũng gặp rất nhiều
khó khăn trong việc thu, chi cho các đối tượng tôn giáo. Các cá nhân, tổ chức
tôn giáo khi sử dụng các dịch vụ công như cấp phép và in ấn phẩm tôn giáo,
mua đồ dùng trong việc đạo, thông tin tuyên truyền cho các tôn giáo trong
những ngày lễ lớn,... thường không trực tiếp chi trả tiền. Nguồn kinh phí này
thường phải nhờ các nhà hảo tâm hoặc các tổ chức thiện nguyện nên nguồn
75
thu từ các dịch vụ công này thường lâu, khó khăn và không ổn định, ít bị ràng
buộc bởi các hợp đồng hoặc những qui định của pháp luật. Việc quyết toán
ngân sách cũng gặp nhiều hạn chế, đặc biệt là quyết toán các chứng từ thu, chi
từ hoạt động sự nghiệp. Vì các cá nhân, tổ chức tôn giáo không có hoá đơn,
không ký hợp đồng, thậm chí khi các chức sắc, chức việc của tổ chức tôn giáo
nhận hỗ trợ hoặc giúp đỡ từ NSNN cũng không ký xác nhận, nên nhiều khoản
thu, chi rất khó quyết toán.
Bên cạnh đó, quy định hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước
cho tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc tôn giáo hoạt động tại Việt Nam
cũng chỉ mang tính chất chung chung, áp dụng cho tất cả các chức sắc, chức
việc của các tôn giáo, không áp dụng định mức chi cho những đối tượng cụ
thể nên việc chi tiêu tuỳ tiện, khó kiểm soát.
Do đặc thù trong hoạt động tài chính của Ban nên quản lý tài chính ở
Ban Tôn giáo Chính phủ được chia thành hai mảng khác nhau: quản lý tài
chính từ nguồn NSNN và quản lý tài chính từ hoạt động sự nghiệp có thu.
3.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
3.2.1. Thực trạng tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ
Với đặc thù của công tác tôn giáo, để thực hiện những nhiệm vụ Đảng
và Nhà nước giao, Ban Tôn giáo Chính phủ cần có nguồn tài chính vững
mạnh, ổn định và quản lý một cách khoa học, hiệu quả. Quản lý tài chính tại
Ban Tôn giáo Chính phủ đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đáp ứng nhu cầu
hoạt động quản lý hành chính và cung ứng dịch vụ công về tôn giáo.
* Hoạt động thu tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
Hoạt động thu tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ gồm có thu từ
NSNN và thu từ hoạt động sự nghiệp. Nguồn thu của Ban Tôn giáo Chính
phủ có xu hướng tăng lên qua các năm, một mặt do nhu cầu nhiệm vụ của
công tác tôn giáo ngày càng phức tạp và mở rộng phạm vi hoạt động. Tình
hình thu tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ thời gian qua như sau:
76
Bảng 3.1: Tình hình thu tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ
giai đoạn 2008-2013
Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Thu từ NSNN 98.557 28.943 38.188 35.530 49.171 113.741
Thu từ hoạt động SN 1.192 1.414 1.860 2.809 5.397 5.732
Thu viện trợ - - - 1.255 - -
Thu khác - - 172 - - -
Tổng thu 99.749 30.357 40.220 39.594 54.568 119.473 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [15],[16],[17], [18], [19], [20].
Năm 2008, nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản của Ban Tôn giáo Chính
phủ là xây dựng trụ sở làm việc của Ban và hỗ trợ các cơ sở tôn giáo trong
việc xây dựng trụ sở nên khoản thu từ NSNN năm 2008 của Ban tăng cao hơn
nhiều so với các năm 2009 đến 2012, đạt 98.557 triệu đồng.
Từ năm 2009 đến năm 2013, tổng hợp các nguồn thu tài chính của Ban
Tôn giáo Chính phủ có xu hướng tăng lên, từ 30.357 triệu đồng năm 2009 đã
tăng gấp 3 lần lên 119.473 triệu đồng năm 2013 (trong đó, nguồn thu từ NSNN
tăng từ 28.943 triệu đồng năm 2009 lên 113.741 triệu đồng, tăng 2,93 lần;
nguồn ngoài NSNN tăng từ 1.414 triệu đồng lên 5.732 triệu đồng). Năm
2010, tài chính của Ban được bổ sung một nguồn kinh phí là 172 triệu đồng từ
việc thanh lý tài sản (02 xe con) [9], [10], [11], [12], [13], [14].
Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của Ban tăng trong giai đoạn 2008-
2013 do nhu cầu đối với các dịch vụ công về tôn giáo có xu hướng tăng lên.
Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo đã gắn kết chặt
chẽ hơn nữa quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với các tổ chức tôn giáo. Đồng
thời, sự quan tâm của người dân, của các tín đồ tôn giáo đối với các chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam đòi hỏi Ban Tôn giáo Chính
phủ tăng cường cung ứng các dịch vụ như xuất bản các loại sách kinh; các ấn
77
phẩm, giáo trình giảng dạy, văn hoá phẩm thuần tuý tôn giáo của các tổ chức
tôn giáo, đồ dùng trong việc lễ của các tôn giáo,...
Trong giai đoạn 2010-2011, thực hiện theo chương trình của "Thoả
thuận chi tiết điều 6, bản ghi nhớ (MOU)" giữa Viện liên kết toàn cầu Hoa Kỳ
(IGE) với Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban đã nhận một khoản viện trợ là 62.098
USD tương đương 1.255 triệu đồng để mở 06 cuộc hội nghị tập huấn nghiệp
vụ QLNN đối với đạo Tin lành. Nhìn chung, hoạt động thu tài chính của Ban
Tôn giáo Chính phủ chủ yếu từ nguồn NSNN (chiếm trung bình trên 94%
nguồn thu của Ban), mặt khác, Ban Tôn giáo là đơn vị dự toán cấp II trực
thuộc Bộ Nội vụ nên chưa thực sự chủ động trong việc chi tiêu các khoản đột
xuất phát sinh không được giao trong dự toán đầu năm như hỗ trợ giải quyết
các điểm nóng, các hoạt động lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự an ninh quốc
phòng; giải quyết kịp thời, chu đáo các chính sách cho cán bộ làm công tác
tôn giáo, chức sắc, chức việc ở những điểm nóng tôn giáo; nâng cao đời sống
vật chất của cán bộ công chức...[13], [14].
Theo đánh giá của đội ngũ cán bộ làm công tác tài chính tại Ban Tôn
giáo Chính phủ, nguồn tài chính cho hoạt động của các đơn vị trực thuộc Ban
Tôn giáo Chính phủ hiện chưa phù hợp. Các đơn vị trực thuộc Ban được cấp
nguồn kinh phí từ ngân sách dựa trên các tiêu chí biên chế lao động, dự trù
mua sắm tài sản cố định của đơn vị và những nhiệm vụ chi đặc thù do Ban
Tôn giáo Chính phủ giao hàng năm. Do đó, có những đơn vị số lượng biên
chế thấp nhưng thường phát sinh các nhiệm vụ đột xuất về tôn giáo như Vụ
Công giáo, Vụ Quan hệ quốc tế (trước là Vụ Hợp tác quốc tế), Tạp chí Tôn
giáo có nguồn thu từ NSNN chưa đáp ứng yêu cầu công việc của từng đơn vị.
Vì vậy, các đơn vị này thường xuyên phải điều chỉnh dự toán ngân sách, thậm
chí có đơn vị đến gần cuối kỳ ngân sách (tháng 12 năm Dương lịch) vẫn báo
cáo điều chỉnh dự toán và bổ sung nguồn kinh phí.
78
Đơn vị tính: %
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả, tháng 11-2013
Hình 3.2: Đánh giá nguồn tài chính cho hoạt động của các đơn vị trực
thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ
* Hoạt động chi tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ Căn cứ vào hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ, nhiệm vụ chi ở
Ban gồm những nội dung sau: Chi cho hoạt động hành chính, cho cho hoạt động sự nghiệp; chi thường xuyên, chi đầu tư... Thực hiện nghiêm Luật NSNN 2002 và các văn bản pháp quy dưới luật về vấn đề quản lý và điều hành tài chính trong các CQNN, Ban Tôn giáo Chính phủ đã chỉ đạo cụ thể kế hoạch chi và danh mục chi theo thứ tự ưu tiên có sự giám sát của tập thể lãnh đạo Ban cũng như các cấp có thẩm quyền đảm bảo nguồn tài chính phục vụ cho các nhiệm vụ tôn giáo được giao.
Số liệu của Bảng 3.3 về tình hình chi tài chính của Ban cho thấy mức chi tài chính của Ban có sự biến động mạnh. Năm 2008, Ban Tôn giáo xây dựng trụ sở làm việc mới và chi hỗ trợ xây dựng cho các trung tâm đào tạo tôn giáo nên khoản chi cho đầu tư phát triển là 52.467 triệu đồng, cao hơn so với khoản chi thường xuyên của Ban. Năm 2013, mức chi tài chính của Ban tăng cao nhất so với các năm trước đó, trong đó chi thường xuyên của Ban là 91.991 triệu đồng, tăng 112% so với năm 2012. Mức chi tăng cao là do cơ quan Ban Tôn giáo được chuyển về địa điểm mới, nhu cầu về nhân viên văn phòng, đội ngũ bảo vệ, lao công, tạp vụ, và các chi phí duy tu, bảo dưỡng cơ
79
sở vật chất ban đầu tăng lên đột biến khiến cho chi phí quản lý hành chính năm 2013 cao hơn năm 2012.
Bảng 3.2: Tình hình chi tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ
giai đoạn 2008-2013
Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Chi thường xuyên 46.090 28.943 38.188 37.487 43.308 91.991
Chi đầu tư phát triển 52.467 200 - 18.350 - 15.000
Chi chương trình mục
tiêu quốc gia - - - 356 6.500 6.750
Chi sự nghiệp có thu 1.014 1.203 1.632 2.625 2.423 2.675
Tổng chi 99.571 30.346 39.820 58.818 52.231 116.416
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [15],[16],[17], [18], [19], [20].
Giai đoạn 2008-2012, hoạt động chi tài chính của Ban có xu hướng
tăng không đáng kể, chủ yếu ở mục chi thường xuyên và chi cho hoạt động sự
nghiệp có thu. Phần chi cho đầu tư phát triển đã được tính toán rất kỹ lưỡng
cho các hạng mục cần thiết, đảm bảo hiệu quả. Điều này thể hiện đúng tinh
thần của Chính phủ giảm đầu tư công, vừa sát thực với yêu cầu thực tiễn của
Ban, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động QLNN và cung ứng dịch vụ
công về tôn giáo.
Cụ thể các kết quả chi tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ như sau:
Tổng chi tài chính năm 2009 là 30.346 triệu đồng, năm 2010 là 39.820
triệu đồng, tăng 31,2% so với năm 2009; năm 2011, chi tài chính của Ban là
58.818 triệu đồng, tăng 47,7% so với năm 2010; năm 2013 tăng chi tài chính
là 116.416 triệu đồng, cao hơn 123% so với năm 2012.
Tổng hợp số liệu thu - chi tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ có thể
thấy, dù phụ thuộc phần lớn vào nguồn NSNN, song Ban Tôn giáo đã có
những biện pháp để tăng thu tài chính dựa vào các hoạt động sự nghiệp của
Ban và giảm tối đa các hoạt động chi tài chính, góp phần ổn định cân đối thu -
80
chi các năm, tạo cơ sở tài chính vững mạnh cho hoạt động của Ban [9], [10]
[11], [12], [13], [14].
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [15],[16],[17], [18], [19], [20].
Hình 3.3: Tình hình thu - chi tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ
giai đoạn 2008-2013
3.2.2. Thực trạng quản lý tài chính từ nguồn ngân sách nhà nước
và từ hoạt động sự nghiệp của Ban Tôn giáo Chính phủ
3.2.2.1. Quản lý nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước
* Lập dự toán ngân sách nhà nước
Căn cứ vào Nghị định số 60/2003/NĐCP ngày 6/6/2003 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn Luật NSNN; Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC
ngày 30/3/2006 của Bộ Tài chính về việc ban hành Chế độ kế toán hành chính
sự nghiệp; dự toán thu chi ngân sách của các đơn vị trực thuộc Ban Tôn giáo
Chính phủ; Ban Tôn giáo Chính phủ đã chỉ đạo phòng Tài chính - Kế toán
thuộc Văn phòng Ban lập dự toán ngân sách. Dự toán được đảm bảo xây dựng
trên cơ sở các nguồn thu được hưởng theo phân cấp, nguồn bổ sung cân đối của
Bộ Tài chính đã giao cho ngân sách của Ban Tôn giáo trong thời kỳ ổn định
ngân sách và nguồn bổ sung cho các chương trình mục tiêu, chế độ chính sách
mới. Đối với các khoản chi thường xuyên, việc lập dự toán được dựa trên cơ sở
các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức do chính phủ và Bộ Nội vụ quy
định. Đối với các khoản chi đầu tư phát triển trên cơ sở bố trí kế hoạch cho các
81
dự án có đủ điều kiện, bố trí vốn phù hợp khả năng ngân sách đồng thời ưu tiên
bố trí vốn để trả nợ và đầu tư cho các dự án đang thực hiện.
Bảng 3.3: Cơ sở tính chi quản lý nhà nước giai đoạn 2008-2013
Thực hiện TT Nội dung ĐVT
2008 2009 2010 2011 2012 2013
1 Biên chế được duyệt Người
2 Số cán bộ, công chức có mặt thực tế nt 90 90 100 110 155 170
- Biên chế nt 90 90 100 110 110 125
- Hợp đồng nt - - - 10 10 20
+ Dài hạn nt - - - - 25 25
+ Ngắn hạn nt
3 Tổng quỹ lương trđ 2.971 2.961 3.997 4.213 7.783 10.147
- Lương cán bộ trong chỉ tiêu biên chế nt 2.925 2.925 3.897 4.056 7.438 9.826
+ Từ NSNN theo quy định nt 2.925 2.925 3.897 4.056 7.438 9.826
+ Từ một phần nguồn thu được để
lại theo chế độ nt
+ Từ các nguồn khác theo chế độ
quy định nt
- Lương cán bộ hợp đồng ngoài chỉ
tiêu biên chế nt
- Tiền công nt 46 36 100 157 345 321
4 Mua sắm TSCĐ, sửa chữa lớn
TSCĐ trđ 4.857 134 200 478 750 2.800
5 Nhiệm vụ chi đặc thù trđ 10.550 10.721 12.450 15.197 27.750 19.244
6 Đoàn ra nước ngoài trđ 999 743 1.100 1.405 900 1.500
7 Đóng góp với các tổ chức quốc tế trđ
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8].
Dự toán chi NSNN tại Ban Tôn giáo Chính phủ giai đoạn 2008-2014
thể hiện cụ thể với các số liệu sau:
82
Đơn vị tính: triệu đồng
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8].
Hình 3.4: Tổng hợp dự toán chi NSNN của Ban Tôn giáo Chính phủ
giai đoạn 2008 - 2014
Số liệu của Hình 3 cho thấy, dự toán NSNN hàng năm của Ban Tôn
giáo Chính phủ điều chỉnh do tình hình hoạt động thực tế của Ban Tôn giáo.
Ban Tôn giáo Chính phủ là đơn vị dự toán thuộc Bộ Nội vụ nên Bộ trực tiếp
thực hiện phân bổ dự toán cho các đơn vị dự toán cấp III thuộc Ban, trong đó
có Văn phòng Ban nên dự toán được giao có sự bổ sung, điều chỉnh làm nhiều
lần trong năm, gây ra khó khăn cho các đơn vị trong quản lý và điều hành các
nguồn tài chính của đơn vị. Trong dự toán NSNN thì phần chi cho con người
và chi nghiệp vụ chuyên môn chiếm tỷ trọng tương đối lớn từ 70-80% trong
tổng dự toán. Các khoản chi cho sự nghiệp khoa học - công nghệ và chi đầu
tư phát triển là những khoản chi không thường xuyên, nhưng nội dung chi
thường lớn. Chi đầu tư phát triển thường tập trung vào việc nâng cấp, đầu tư
xây mới các công trình trụ sở làm việc của ban, mua sắm trang thiết bị, máy
móc phục vụ hoạt động của Ban và các đơn vị trực thuộc. Những thay đổi từ
các khoản chi này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác lập dự toán
NSNN của Ban Tôn giáo Chính phủ.
83
Bảng 3.4: Nội dung lập dự toán ngân sách của Ban Tôn giáo Chính phủ
giai đoạn 2008 - 2014
Đơn vị: Triệu đồng
Năm Nội dung chi
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng chi 98.557 28.943 38.188 73.924 49.171 113.741 122.812
1. Chi đầu tư phát triển
52.467 200 - 18.350 - 15.000 16.500
- Chi đầu tư XDCB 48.000 200 - 18.350 - 15.000 16.500
2. Chi thường xuyên
46.091 28.743 38.188 52.374 42.671 91.991 98.862
- Chi trợ giá theo chính sách của Nhà nước
40 40 40 100 40 100 100
- Chi sự nghiệp kinh tế
3.250 1.190 1.500 2.000 4.136 5.417 5.958
- Chi QLNN 37.008 25.678 35.148 46.612 34.491 73.304 84.634
+ Kinh phí quản lý hành chính giao để thực hiện chế độ tự chủ
4.992 8.640 9.118 12.312 17.131 22.200 24.200
+ Kinh phí giao nhưng không thực hiện chế độ tự chủ
32.016 17.038 26.030 34.300 17.360 57.104 60.434
- Chi sự nghiệp giáo dục đào tạo
5.793 1.835 1.500 3.662 3.890 7.170 7.670
- Chi sự nghiệp khoa học - công nghệ
- - - - 750 - 500
3. Chi chương trình mục tiêu quốc gia
- - 3.200 6.500 6.750 7.450
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8].
84
Tổng hợp dự toán chi NSNN của Ban Tôn giáo Chính phủ cho thấy xu
hướng tăng chi NSNN của Ban hàng năm. Năm 2010, dự toán chi ngân sách
của Ban là 38.188 triệu đồng, tăng 32% so với năm 2009 (dự toán chi ngân
sách là 28.943 triệu đồng). Năm 2011, dự toán chi phí quản lý hành chính của
Ban tăng 19.146 triệu đồng do hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ hoạt động
của các đơn vị hành chính Ban Tôn giáo.
Dự án xây dựng trụ sở làm việc của Ban Tôn giáo Chính phủ thuộc Dự
án nhóm B được khởi công từ tháng 10/2005 và kết thúc vào năm 2009, trong
đó nguồn kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản được giải ngân theo từng hạng
mục công trình khi bàn giao song đến năm 2010, nguồn kinh phí đưa vào dự
toán để thanh toán khối lượng thực hiện năm 2009 không được bố trí nên đến
năm 2011, Ban đã phải đưa vào dự toán kinh phí chi đầu tư xây dựng cơ bản
là 17.500 triệu đồng để thanh toán cho các đơn vị thi công. Mặt khác, cũng
trong năm 2010, Ban Tôn giáo Chính phủ chuyển trụ sở làm việc mới có diện
tích rộng hơn nhưng ở xa khu dân cư và trên địa bàn đang xây dựng nên cần
bổ sung thêm đội ngũ bảo vệ, lao công, tạp vụ và một bộ phận nhân viên văn
phòng giúp quản lý bảo hành duy trì hoạt động của cơ quan. Hơn nữa, nhu
cầu mua sắm thêm trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác chuyên
môn và bảo đảm duy trì bộ máy hoạt động hành chính của Ban ngày càng
tăng lên khiến cho dự toán kinh phí hoạt động sự nghiệp kinh tế, kinh phí chi
hoạt động quản lý hành chính hàng năm có xu hướng tăng lên. Vì vậy, dự
toán chi NSNN năm 2011 của Ban tăng cao, gần gấp 2 lần so với dự toán chi
của năm 2011.
Năm 2013, chi phí quản lý hành chính dự toán tăng thêm 33.803 triệu
đồng nên dự toán chi NSNN của Ban tăng 131% so với năm 2012. Dự toán
chi NSNN hàng năm vẫn chủ yếu tăng do các yêu cầu về chi phí quản lý hành
chính tăng lên. Các khoản chi khác như chi trợ giá theo chính sách của Nhà
nước, chi sự nghiệp kinh tế, chi sự nghiệp giáo dục đào tạo, chi sự nghiệp
khoa học - công nghệ và chi chương trình mục tiêu quốc gia có tăng nhưng
85
tác động không đáng kể đến tăng dự toán chi NSNN hàng năm của Ban.
* Chấp hành dự toán ngân sách nhà nước Mục tiêu của chấp hành ngân sách tại Ban Tôn giáo Chính phủ là biến
các chỉ tiêu thu, chi ghi trong kế hoạch ngân sách từ khả năng, dự kiến thành
hiện thực; Kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định
mức về kinh tế - tài chính của Nhà nước. Thông qua chấp hành ngân sách,
Ban Tôn giáo tiến hành đánh giá sự phù hợp của công tác lập dự toán NSNN
với thực tiễn.
Mọi khoản thu, chi ngân sách tại Ban Tôn giáo Chính phủ đều được thực
hiện trong dự toán được giao, phân bổ chi tiết cho các đơn vị sử dụng ngân
sách và trực tiếp được kiểm soát qua KBNN. Do hoạt động đặc thù của Ban
Tôn giáo Chính phủ trong lĩnh vực tôn giáo nên ngoài những khoản thu từ hoạt
động sự nghiệp không bổ sung ngân sách thì Ban Tôn giáo không có khoản thu
vào NSNN. Do đó, chấp hành dự toán NSNN tại Ban chỉ gồm tổ chức thực
hiện dự toán NSNN. Công tác tổ chức thực hiện dự toán NSNN tại Ban Tôn
giáo Chính phủ đã được thực hiện trên các nội dung dưới đây:
Thứ nhất, quản lý phân bổ và giao dự toán
Ban Tôn giáo Chính phủ đã căn cứ vào dự toán ngân sách được Bộ Tài
chính thống nhất phê chuẩn, Văn phòng Ban tổ chức thực hiện, tiến hành
phân bổ và giao dự toán chi tiết cho các cơ quan, đơn vị sự nghiệp thuộc Ban
Tôn giáo Chính phủ.
Về phân bổ và giao dự toán chi ngân sách, sau khi Ban Tôn giáo Chính phủ
giao dự toán ngân sách, các đơn vị dự toán cấp III tiến hành phân bổ và giao dự
toán chi ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc theo các nguyên
tắc được quy định tại Điểm a khoản 1 điều 44 của Nghị định số 60/2003/NĐ-CP,
ngày 06/6/2003 của Chính phủ. Dự toán chi thường xuyên được giao cho đơn vị
sử dụng ngân sách được phân bổ theo từng loại của Mục lục NSNN, theo các
nhóm mục: Chi sự nghiệp khoa học-công nghệ; Chi sự nghiệp kinh tế; Chi quản lý
hành chính; Chi sự nghiệp giáo dục và đào tạo; Các khoản chi khác.
86
Bảng 3.5: Phân bổ dự toán chi thường xuyên của Ban Tôn giáo Chính phủ
giai đoạn 2008 - 2014 Đơn vị: Triệu đồng
Năm TT Các khoản chi
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng chi 46.090 28.742 38.188 52.374 46.302 91.991 98.862
1 Chi quốc phòng an ninh - - - - - - -
2 Chi sự nghiệp kinh tế 3.250 1.500 1.500 2.000 3.500 5.417 5.958
3 Chi sự nghiệp KH-CN - - - - 750 - 500
4 Chi sự nghiệp giáo dục -
đào tạo và dạy nghề 5.793 1.835 1.500 3.661 4.890 7.170 7.670
5 Chi quản lý hành chính 32.153 25.677 35.148 46.612 37.122 79.304 84.634
Phần giao thực hiện tự chủ 4.992 8.639 9.118 12.312 16.122 22.200 24.200
Trong đó chi tiền lương: 4.000 2.925 3.897 3.897 6.355 7.712 8.521
Phần giao không thực hiện
tự chủ 27.159 17.038 26.030 34.300 21.000 57.104 60.434
6 Chi trợ giá 40 40 40 100 40 100 100
7 Chi khác (mua sắm TSCĐ) 4.857 - - - - - -
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8].
Đối với chi đầu tư phát triển, các khoản chi này được thực hiện trên
nguyên tắc quản lý cấp phát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản như cấp
phát vốn trên cơ sở thực hiện nghiêm chỉnh trình tự đầu tư và xây dựng,
đảm bảo đầy đủ các tài liệu thiết kế, dự toán. Việc cấp phát thanh toán vốn
đầu tư và xây dựng cơ bản phải đảm bảo đúng mục đích, đúng kế hoạch.
Cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ được thực hiện theo đúng mức
độ thực tế hoàn thành kế hoạch, trong phạm vi giá dự toán được duyệt và
được thực hiện bằng hai phương pháp cấp phát không hoàn trả và có hoàn trả.
Cấp phát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện giám đốc
bằng đồng tiền với việc sử dụng vốn đúng mục đích có hiệu quả vốn đầu tư.
87
Bảng 3.6: Phân bổ dự toán cho mục tiêu chi đầu tư phát triển của
Ban Tôn giáo Chính phủ giai đoạn 2008 - 2014
Đơn vị: Triệu đồng
Năm TT
Chi đầu tư phát
triển 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng chi 52.467 200 - 18.350 - 15.000 16.500
1 Chi đầu tư XDCB 48.000 200 - 18.350 - 15.000 16.500
2 Chi đề án 112 4.467 - - - - - -
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8].
Thứ hai, tổ chức điều hành và kiểm soát chi
Trong quá trình thực hiện dự toán, phòng Tài chính - Kế toán thuộc
Văn phòng Ban Tôn giáo Chính phủ theo dõi, quản lý nguồn chi để tham mưu
cho Ban Tôn giáo Chính phủ điều hành chi ngân sách được đảm bảo đúng
luật. Đồng thời KBNN trung ương có nhiệm vụ kiểm soát mọi khoản chi
NSNN của Ban Tôn giáo Chính phủ.
Các đơn vị sử dụng ngân sách đã căn cứ dự toán năm được giao thực
hiện rút dự toán chi theo chế độ, định mức, tiêu chuẩn về chi tiêu ngân sách
đã được các CQNN có thẩm quyền ban hành và tiến độ, khối lượng thực
hiện nhiệm vụ, đảm bảo đúng nguyên tắc. Thực hiện đúng cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về kinh phí, biên chế. Tiết kiệm 10% chi hoạt động ngoài
lương và các khoản theo lương để thực hiện chính sách cải cách tiền lương
theo quy định. Luôn đề cao thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Đối với chi đầu tư phát triển: Các chủ đầu tư căn cứ dự toán năm được
giao và được phòng Tài chính - Kế toán thông qua thẩm định về hồ sơ, cân
đối nguồn vốn và khối lượng thanh toán, phòng Tài chính - Kế toán nhập dự
toán theo từng công trình, chủ đầu tư thực hiện thanh toán theo đúng quy
định về quản lý chi đầu tư phát triển.
88
Bảng 3.7: Nội dung chấp hành dự toán ngân sách của Ban Tôn giáo Chính phủ giai đoạn 2008 - 2014
Đơn vị: Triệu đồng Năm
STT Nội dung chi 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
Tổng chi 98.557 28.943 38.188 37.842 49.808 113.741 122.812
I CHI ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
52.467 200 - 18.350 - 15.000 16.500
Chi đầu tư XDCB
48.000 200 - 18.350 - 15.000 16.500
II CHI THƯỜNG XUYÊN
46.090 28.943 38.188 37.487 43.308 91.991 98.862
1 Chi trợ giá theo chính sách của Nhà nước
40 40 40 40 40 100 100
2 Chi sự nghiệp kinh tế
3.250 1.190 1.500 1.558 4.136 5.416 5.958
3 Chi QLNN 37.008 25.678 35.148 34.662 34.491 79.304 84.634
A. Kinh phí quản lý hành chính giao để thực hiện chế độ tự chủ
4.992 8.640 9.118 14.680 17.131 22.200 24.200
B. Kinh phí giao nhưng không thực hiện chế độ tự chủ
32.016 17.038 26.030 19.982 17.360 57.104 60.434
4 Chi sự nghiệp giáo dục đào tạo
5.793 1.835 1.500 2.157 3.890 7.170 7.670
5 Chi sự nghiệp KH-CN
- - - 1.000 750 - 500
III Chi chương trình mục tiêu quốc gia
- - - 356 6.500 6.750 7.450
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8].
89
* Quản lý quyết toán các khoản chi từ NSNN
Quản lý quyết toán các khoản chi của NSNN là công việc cuối cùng
trong mỗi chu trình quản lý các khoản chi NSNN. Nó chính là quá trình kiểm
tra, rà soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau một kỳ chấp hành dự
toán để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán, rút ra những kinh
nghiệm và bài học cần thiết cho kỳ chấp hành dự toán tiếp sau. Hoạt động
quyết toán các khoản chi từ NSNN được tiến hành thuận lợi sẽ tạo cơ sở vững
chắc cho việc phân tích, đánh giá quá trình chấp hành dự toán một cách chính
xác, trung thực và khách quan.
Hết năm ngân sách, các đơn vị dự toán, chủ đầu tư thuộc ngân sách
cấp III Ban Tôn giáo Chính phủ căn cứ số liệu thực hiện sau khi có xác
nhận của Kho bạc Nhà nước trung ương lập báo cáo quyết toán trình Phòng
Tài chính - Kế toán thẩm định. Sau khi thẩm định, Phòng Tài chính - Kế toán
lập báo cáo quyết toán ngân sách cấp II của Ban.
Để quản lý quyết toán ngân sách tại các đơn vị sự nghiệp thuộc Ban
Tôn giáo Chính phủ, Văn phòng Ban yêu cầu các đơn vị phải lập báo cáo
quyết toán hàng năm gửi Phòng Tài chính - Kế toán thực hiện thẩm định để
Văn phòng Ban Tôn giáo duyệt quyết toán ngân sách.
Phòng Tài chính - Kế toán căn cứ báo cáo quyết toán ngân sách của các
cơ quan, đơn vị sự nghiệp, chủ đầu tư và báo cáo quyết toán thu chi, báo cáo
quyết toán tình hình thực hiện nhiệm vụ thu chi NSNN của các cơ quan, đơn
vị thuộc Ban Tôn giáo, trên cơ sở đó tổng hợp lập báo cáo quyết toán ngân
sách của Ban để Văn phòng Ban báo cáo Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính thẩm
định, tổng hợp vào ngân sách đơn vị dự toán cấp II theo quy định, đồng thời
Văn phòng Ban trình lãnh đạo Ban Tôn giáo phê chuẩn quyết toán NSNN.
90
Bảng 3.8: Quyết toán chi ngân sách của Ban Tôn giáo Chính phủ giai đoạn 2008 - 2011
Đơn vị: Triệu đồng Năm
2008 2009 2010 2011 TT
Nội dung quyết toán Số liệu
báo cáo Số liệu
được duyệt Số liệu báo cáo
Số liệu được duyệt
Số liệu báo cáo
Số liệu được duyệt
Số liệu báo cáo
Số liệu được duyệt
Tổng chi 98.557 98.557 28.943 28.943 38.188 38.188 37.842 37.842
I CHI ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
52.467 52.467 200 200 - - 18.350 18.350
Chi đầu tư XDCB
48.000 48.000 200 200 - - 18.350 18.350
II CHI THƯỜNG XUYÊN
46.090 46.090 28.743 28.743 38.188 38.188 37.487 37.487
1
Chi trợ giá theo chính sách của Nhà nước
40 40 40 40 40 40 40 40
2 Chi sự nghiệp kinh tế
3.250 3.250 1.190 1.190 1.500 1.500 1.558 1.558
3 Chi QLNN 37.008 37.008 25.678 25.678 35.148 35.148 34.662 34.662
A. Kinh phí quản lý hành chính giao để thực hiện chế độ tự chủ
4.992 4.992 8.640 8.640 9.118 9.118 14.680 14.680
B. Kinh phí giao nhng không thực hiện chế độ tự chủ
32.016 32.016 17.038 17.038 26.030 26.030 19.982 19.982
4 Chi sự nghiệp giáo dục đào tạo
5.793 5.793 1.835 1.835 1.500 1.500 2.157 2.157
5 Chi SN khoa học - công nghệ
- - - - - - 1.000 1.000
III Chi chương trình mục tiêu quốc gia
- - - - - - 356 356
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [9], [10], [11], [12], [13], [14].
91
Quá trình quyết toán ngân sách giai đoạn 2008-2011 đã phát hiện
những khoản chi vượt chế độ quy định, như: chi hội nghị, tiếp khách, chi phí
phòng nghỉ khi đi công tác, việc tính khấu hao tài sản cố định và đăng ký tiền
lương của hoạt động sản xuất - kinh doanh chưa đúng theo các quy định đối
với hoạt động sự nghiệp... Thông qua đó, các sai phạm này đã được chấn
chỉnh kịp thời.
Công tác quyết toán chi NSNN tại Ban vẫn còn tồn tại một số yếu tố
tác động tiêu cực đến quá trình quản lý ngân sách và tình hình sử dụng kinh
phí: các nghiệp vụ kinh tế phát sinh hàng ngày, thường xuyên, liên tục; chứng
từ phát sinh ở nhiều địa điểm, phản ánh nhiều hoạt động khác nhau ở các bộ
phận và do nhiều nhân viên thực hiện với tinh thần trách nhiệm và trình độ
chuyên môn khác nhau nên việc hạch toán nhầm lẫn, sai sót các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh là khó tránh khỏi. Do đó, hiệu quả đem lại từ việc tự kiểm
tra tài chính, kế toán tại Ban Tôn giáo Chính phủ chưa được như mong muốn.
3.2.2.2. Quản lý nguồn tài chính từ hoạt động sự nghiệp Ban Tôn giáo Chính phủ có 5 đơn vị sự nghiệp là Trường Nghiệp vụ
công tác tôn giáo; Trung tâm Thông tin; Viện nghiên cứu chính sách Tôn
giáo; Tạp chí Công tác Tôn giáo; Nhà xuất bản Tôn giáo. Các đơn vị sự
nghiệp trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ được áp dụng cơ chế tự chủ về tài
chính theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006 của Chính phủ
trong những thời điểm khác nhau. Đối với Tạp chí Công tác Tôn giáo, từ năm
2009 đến nay, đơn vị được giao quyền tự chủ về tài chính. Các đơn vị còn lại
là Trường Nghiệp vụ công tác tôn giáo, Viện nghiên cứu chính sách Tôn giáo,
Nhà xuất bản Tôn giáo và Trung tâm Thông tin của Ban Tôn giáo trước năm
2012 hoạt động do NSNN đảm bảo từ kinh phí của Ban, do Văn phòng Ban
quản lý. Từ năm 2012, tất cả các đơn vị sự nghiệp của Ban này được áp dụng
thống nhất cơ chế tự chủ về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp.
Hàng năm, các đơn vị đã báo cáo thu, chi đối với các hoạt động sự
nghiệp về phòng Tài chính - Kế toán của Văn phòng Ban. Trên cơ sở các số
92
liệu của các đơn vị sự nghiệp, phòng Tài chính - Kế toán đã tổng hợp tình thu
chi từ hoạt động sự nghiệp và hoạt động sản xuất, kinh doanh tại các đơn vị
sự nghiệp thuộc Ban Tôn giáo.
* Quản lý các khoản thu từ hoạt động sự nghiệp
Hàng năm, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của các đơn vị sự nghiệp
trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ; căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ
của năm trước và dự kiến cho năm kế hoạch; căn cứ vào các định mức, chế độ
chi tiêu tài chính, khung giá các dịch vụ công về tôn giáo do nhà nước quy
định, các đơn vị sự nghiệp lập dự toán thu từ hoạt động sự nghiệp theo đúng
chế độ quy định.
Các nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của Ban Tôn giáo Chính phủ
xuất phát từ việc cung cấp các dịch vụ xã hội công cộng (in, xuất bản các loại
kinh, sách và các xuất bản phẩm tôn giáo; sản xuất, kinh doanh, xuất nhập
khẩu văn hoá phẩm tôn giáo, đồ dùng trong việc đạo; thông tin và tuyên
truyền chính sách pháp luật về tôn giáo,...) và các dịch vụ nhằm duy trì sự
hoạt động bình thường của các tổ chức tôn giáo (đào tạo, bồi dưỡng với các
chức sắc, chức việc và tín đồ thuộc các tôn giáo; tổ chức lễ hội,...). Riêng đối
với Trung tâm thông tin và Viện Nghiên cứu chính sách tôn giáo là đơn vị sự
nghiệp công lập không có thu nên các khoản thu từ hoạt động sự nghiệp của
Ban Tôn giáo Chính phủ là tổng hợp các nguồn thu sự nghiệp tại ba đơn vị
Trường Nghiệp vụ công tác tôn giáo, Tạp chí Công tác Tôn giáo, Nhà xuất
bản Tôn giáo.
Thu từ hoạt động in, xuất bản các loại kinh, sách và các xuất bản
phẩm tôn giáo là nguồn thu chủ đạo, quyết định một phần nguồn thu tài
chính của Ban. Ngoài các lĩnh vực in, xuất bản, các đơn vị sự nghiệp của
Ban Tôn giáo Chính phủ còn kinh doanh các lĩnh vực liên quan đến xuất
nhập khẩu các văn hoá phẩm tôn giáo, đồ dùng trong việc đạo cung cấp cho
các tín đồ, các tổ chức tôn giáo. Trong những năm qua, Ban đã linh hoạt
trong việc xây dựng đơn giá in ấn, xuất bản một cách hợp lý, chi tiết, linh
93
hoạt cho từng đối tượng. Ngoài nguồn thu chủ đạo là hoạt động in ấn, xuất
bản, nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của Ban Tôn giáo Chính phủ còn từ
lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng với các chức sắc, chức việc và tín đồ thuộc các
tôn giáo; tổ chức lễ hội song kinh phí không cao.
Tất cả các nguồn thu này sau khi thực hiện nghĩa vụ với nhà nước
(nộp thuế giá trị gia tăng) đều được bổ sung vào chi thường xuyên của đơn
vị, phần còn lại trích lập vào các quỹ khen thưởng phúc lợi, quỹ tiền lương
tăng thêm, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp.
Bảng 3.9: Tổng hợp nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ở Ban Tôn giáo Chính phủ giai đoạn 2008-2013
Đơn vị tính: Triệu đồng
Nội dung 2008 2009 2010 2011 2012 2013
- Thu hoạt động sản xuất và
cung ứng dịch vụ 1.135 1.344 1.765 2.619 5.167 5.435
- Thu khác 57 70 95 190 230 297
Tổng cộng 1.192 1.414 1.860 2.809 5.397 5.732 Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [15],[16],[17], [18], [19], [20].
Thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004, quyền tự do ngôn
luận của những người có đạo được pháp luật ghi nhận và bảo đảm trong thực
tiễn đã khiến cho hoạt động xuất bản ấn phẩm tôn giáo phát triển và tạo ra
nguồn thu sự nghiệp quan trọng của Ban Tôn giáo Chính phủ. Tạp chí Công
tác tôn giáo với nội dung phong phú, sinh động, nhiều bài viết nghiên cứu
công phu, đặt ra nhiều vấn đề cụ thể, thiết thực đối với công tác tôn giáo hiện
nay cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Tạp chí được xuất bản 1 kỳ 1
tháng, với số lượng phát hành trung bình trên 10.000 bản/lần, đã và đang phục
vụ các đối tượng độc giả là cán bộ làm công tác tôn giáo, cán bộ trong hệ
thống chính trị các cấp các ngành, các tổ chức tôn giáo, các chức sắc, tín đồ
các tôn giáo và bạn đọc có quan tâm. Ngoài ra, các đơn vị sự nghiệp của Ban
Tôn giáo phối hợp trong việc tham gia xuất bản các ấn phẩm chuyên đề và Sổ
94
tay công tác tôn giáo, phục vụ tích cực cho công tác của Ban, của Ngành và
của độc giả.
Nhà xuất bản Tôn giáo, theo đề nghị của các tổ chức, cá nhân tôn giáo,
trong giai đoạn 2008-2013 đã xuất bản được 895 ấn phẩm tôn giáo với
4.600.000 bản in, trong đó riêng Kinh thánh hơn 800,000 bản. Kinh thánh
được in bằng các tiếng Ba-na, Ê-đê, Gia-rai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
sinh hoạt tôn giáo của tín đồ ở vùng dân tộc thiểu số. Chỉ riêng năm 2013 đã
cấp phép khoảng 1.100 xuất bản phẩm với số lượng bản in từ 2.300.000 đến
2.500.000 bản, mang lại nguồn thu cho hoạt động sự nghiệp hơn 5 tỷ đồng.
Năm 2014, nhà xuất bản Tôn giáo ước tính đã ấn hành 720 đầu sách của các
tổ chức tôn giáo với 1.200.000 bản in và 180 xuất bản phẩm tôn giáo với số
lượng 97.800 bản. Số lượng sách do các tổ chức tôn giáo xuất bản hàng năm
tăng mạnh, năm sau cao hơn năm trước về số lượng và thể loại, đáp ứng nhu
cầu kinh sách của các tổ chức tôn giáo, đảm bảo nội dung tôn giáo trên cơ sở
tôn trọng đức tin giáo lý, giáo luật, giáo lễ của từng tôn giáo, góp phần phát
huy các giá trị tích cực trong văn hoá và đạo đức của các tôn giáo và tạo ra
nguồn thu không nhỏ cho các hoạt động sự nghiệp của Ban Tôn giáo Chính
phủ [15], [16], [17], [18], [19], [20].
* Quản lý chi từ hoạt động sự nghiệp của Ban Tôn giáo Chính phủ
Dự toán chi từ hoạt động sự nghiệp của Ban Tôn giáo Chính phủ bao
gồm dự toán các khoản chi cho hoạt động cung ứng dịch vụ công về tôn giáo
theo quy định của Nhà nước. Việc xây dựng dự toán chi phải tuân thủ theo
đúng chính sách chế độ định mức đã quy định, các khoản chi phải gắn với
hoạt động của đơn vị và đòi hỏi tính chính xác và hiệu quả sử dụng. Với đặc
thù là một CQNN có nguồn thu từ cung cấp dịch vụ công về tôn giáo, Ban
Tôn giáo Chính phủ có nguồn thu từ xuất bản ấn phẩm tôn giáo, cung cấp các
đồ dùng trong việc đạo, thông tin tuyên truyền về hoạt động tôn giáo, dịch vụ
quảng cáo, thu cho thuê mặt bằng, thu tài trợ. Bằng các nguồn thu này, Ban đã
chi phí trực tiếp cho các hoạt động của mình, thực hiện nghĩa vụ với NSNN,
95
đồng thời bổ sung quỹ tiền lương tăng thêm của đơn vị, trích quỹ khen thưởng
phúc lợi và quỹ phát triển.
Bảng 3.10: Tổng hợp nguồn chi từ hoạt động sự nghiệp
Đơn vị tính: Triệu đồng
TT Nội dung 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Chênh lệch thu lớn hơn chi chưa phân
phối năm trước chuyển sang 0 12 21 115 134 18
Tổng chi trong năm 1.014 1.203 1.632 2.625 2.423 2.675
- Giá vốn hàng bán 9 22 23 14 47 51
- Chi phí bán hàng, chi phí quản lý 1.005 1.181 1.609 2.611 2.376 2.624
Chênh lệch thu lớn hơn chi trong năm 178 223 249 299 3.108 3.075
Nộp NSNN 10 25 42 46 300 305
- Hoạt động sản xuất và cung ứng
dịch vụ 10 25 42 46 300 305
Trích lập các quỹ 156 177 92 119 615 634
Quỹ khen thưởng 190 190
Quỹ phúc lợi 118 404 419
Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp 1 21 25
Nộp cấp trên - - - - 1 5
Bổ sung nguồn kinh phí - - - - 2.191 2.131
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Ban Tôn giáo Chính phủ [15],[16],[17], [18], [19], [20].
Từ các số liệu về hoạt động sự nghiệp và hoạt động sản xuất, kinh
doanh tại các đơn vị sự nghiệp thuộc Ban Tôn giáo, có thể thấy, tình hình chi
tại các đơn vị Trường Nghiệp vụ công tác tôn giáo; Tạp chí Công tác Tôn
giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo năm sau cao hơn năm trước. Nguyên nhân của
tình hình này xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành
tôn giáo, nhu cầu xuất bản ấn phẩm tôn giáo, các hoạt động thông tin, tuyên
truyền tôn giáo. Bên cạnh đó, Trường Nghiệp vụ công tác tôn giáo đã chủ
động xây dựng và mở hội nghị tập huấn nghiệp vụ QLNN đối với đạo Tin
lành theo chương trình " Thoả thuận chi tiết điều 6, bản ghi nhớ (MUO)" giữa
96
Viện liên kết toàn cầu Hoa Kỳ (IGE) với Ban Tôn giáo Chính phủ, thực hiện
nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tôn giáo và góp phần tăng cường sự liên kết về
tôn giáo giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hoa Kỳ.
Năm 2011 và 2012, do nguồn thu sự nghiệp của Ban lớn hơn rất nhiều
so với các năm trước nên sau khi nộp NSNN và cấp trên, trích nộp vào các
quỹ và chuyển một phần sang năm sau, Ban Tôn giáo Chính phủ đã chuyển
phần lớn khoản chênh lệch thu chi trong năm vào bổ sung nguồn kinh phí cho
hoạt động sự nghiệp của năm sau để giảm bớt gánh nặng cho NSNN. Năm
2011, Ban Tôn giáo đã bổ sung nguồn kinh phí cho hoạt động sự nghiệp sang
năm 2012 là 2.191 triệu đồng; năm 2012 bổ sung nguồn kinh phí là 2.131
triệu đồng cho hoạt động sự nghiệp của năm 2013. Đây là những nỗ lực đáng
ghi nhận đối với hoạt động quản lý tài chính của Ban trong điều kiện nguồn
kinh phí cấp cho các hoạt động sự nghiệp có thu ở mức thấp, các dịch vụ công
về tôn giáo được Nhà nước quy định theo khung giá nên nguồn thu không đủ
bù đắp cho chi phí hoạt động.
3.2.2.3. Kiểm tra, kiểm soát quản lý tài chính * Về kiểm toán các khoản thu, chi tài chính
Công tác kiểm toán ngân sách thuộc nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước.
Đối với Ban Tôn giáo Chính phủ định kỳ hai năm một lần cơ quan Kiểm toán
nhà nước hiện việc kiểm toán, xác định tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo
quyết toán NSNN cơ quan, đơn vị có liên quan theo quy định của pháp luật.
Qua công tác kiểm toán đã kịp thời nhắc nhở, uốn nắn giúp cho tốt hơn trong
công tác điều hành, quản lý trong lĩnh vực tài chính.
Sau khi có kết luận kiểm toán, nếu phải điều chỉnh quyết toán NSNN
thì cơ quan tài chính lập báo cáo điều chỉnh quyết toán NSNN, báo cáo cấp có
thẩm quyền phê chuẩn.
* Về kiểm tra các khoản thu, chi tài chính Công tác kiểm tra về tài chính được thực hiện thường xuyên từ khâu
lập, phân bổ và chấp hành dự toán. Qua đó, kịp thời chấn chỉnh những sai
97
phạm trong quá trình điều hành các khoản thu, chi tài chính, bảo đảm việc sử
dụng các nguồn tài chính đúng mục đích, đối tượng; đồng thời xem xét những
vấn đề còn tồn tại trong việc lập, phân bổ và chấp hành dự toán để kịp thời
điều chỉnh, bổ sung nhằm thực hiện tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng tài
chính. Ban Tôn giáo Chính phủ đã chỉ đạo và thường xuyên tổ chức kiểm tra
định kỳ việc quản lý, sử dụng tài chính của Ban, đảm bảo thu, chi tài chính
đúng chế độ, đúng tiêu chuẩn, định mức, theo dự toán được giao.
Thanh tra tài chính có nhiệm vụ thanh tra việc chấp hành pháp luật về
thu, chi và quản lý ngân sách, quản lý các khoản thu, chi từ hoạt động sự
nghiệp hàng năm theo kế hoạch đã đề ra, đồng thời phải chịu trách nhiệm về
kết luận thanh tra của mình. Trong các năm qua thanh tra tài chính đã có các
cuộc thanh tra, kiểm tra trong việc chấp hành dự toán thu, chi tài chính. Qua
kiểm tra đã xuất toán, thu hồi nộp vào NSNN các khoản sai phạm. Công tác
kiểm tra đã làm rõ những sai phạm về nguyên tắc, chế độ, chính sách, pháp
luật của nhà nước, chấn chỉnh, uốn nắn những sai sót, khuyết điểm tồn tại của
các đơn vị và cá nhân trong quản lý tài chính của cơ quan, đơn vị.
Ngoài ra các Vụ, các đơn vị sự nghiệp kết hợp cùng với Văn phòng
Ban thường xuyên thành lập đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra, điều tra xử
lý những vấn đề vướng mắc trong lĩnh vực tài chính, ngân sách của các cơ
quan, đơn vị trực thuộc Ban.
3.2.3. Tổ chức bộ máy quản lý tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ Khi nói đến cơ cấu tổ chức một bộ máy quản lý tài chính người ta thường
đề cập đến quy mô nhân sự của nó và trong sự thiết lập ấy chính là cơ cấu tổ
chức bộ máy và cán bộ quản lý tài chính, cùng với các mối quan hệ giữa cấp
trên, cấp dưới, giữa các bộ phận trong quá trình thực hiện chức năng này. Phòng
Tài chính - Kế toán trực thuộc Văn phòng Ban Tôn giáo chịu sự lãnh đạo và
trách nhiệm trước Chánh Văn phòng, Phó Văn phòng phụ trách Tài chính - Kế
toán về công tác quản lý tài sản, tài chính công. Đội ngũ cán bộ, công chức làm
việc tại phòng Tài chính - Kế toán bao gồm 06 chức danh, cụ thể:
98
- Trưởng phòng: Phụ trách chung; chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức hạch
toán kế toán; kiểm tra, kiểm soát nguồn kinh phí và sử dụng kinh phí, tài sản.
- Phó phòng (1 người): Lập dự toán tháng, quý, năm; kế toán nguồn
kinh phí, vốn, quỹ; theo dõi công tác kế toán đơn vị cấp dưới; lập báo cáo tài
chính và phân tích quyết toán tài chính.
- Kế toán viên có 3 người, trong đó 1 người phụ trách kế toán kinh phí
đầu tư xây dựng cơ bản (1 phần của kế toán nguồn kinh phí, vốn, quỹ) và kế
toán vật tư, tài sản; một người phụ trách kế toán vốn bằng tiền, kế toán thanh
toán, kế toán các khoản thu, kế toán các khoản chi; một người theo dõi các
đơn vị sự nghiệp.
- Thủ quỹ (1 người) kiêm nhiệm, văn thư, lập hồ sơ, quản lý lưu trữ tài
liệu kế toán (thuộc Phòng Tài chính - Kế toán).
Nguồn:Ban Tôn giáo Chính phủ [38]. Hình 3.5: Sơ đồ bộ máy quản lý tài chính của
Phòng Tài chính - Kế toán Ban Tôn giáo Chính phủ Các cán bộ, công chức thuộc phòng Tài chính - Kế toán của Ban Tôn
giáo Chính phủ đều có trình độ đào tạo đại học, đúng chuyên ngành công tác
và trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên. Đây là điểm thuận lợi cơ bản,
góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng quản lý NSNN tại Ban Tôn
giáo Chính phủ. Chấp hành Luật NSNN 2002 và các Nghị định của Chính
phủ, hướng dẫn của Bộ Nội vụ về quản lý NSNN, Ban Tôn giáo Chính phủ đã
TRƯỞNG PHÒNG
PHÓ TRƯỞNG PHÒNG
Kế toán kinh phí ĐT XDCB và vật
tư, tài sản
Kế toán vốn, thanh toán và kế toán thu,
chi
Thủ quỹ, thư, lập hồ sơ, quản lý lưu trữ tài
liệu kế toán
Theo dõi các đơn vịsự nghiệp
99
thực hiện chủ động trong quản lý, điều hành NSNN; trong việc lập dự toán
NSNN, phòng Tài chính - Kế toán đã lập dự phòng ngân sách và dự trữ tài
chính nhằm giải quyết các vấn đề đột xuất phát sinh về tôn giáo. Việc trao
quyền chủ động cho các cơ quan, đơn vị sự nghiệp thuộc Ban trong việc quyết
định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi đã nâng cao vai trò, trách nhiệm của
các cơ quan, đơn vị sự nghiệp trong việc quản lý, khai thác nguồn thu cũng
như sử dụng ngân sách một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
Tại các đơn vị sự nghiệp của Ban Tôn giáo Chính phủ, phụ trách bộ
phận tài chính - kế toán có 13 người đều trong độ tuổi từ 25-40 tuổi, có trình
độ trung cấp kế toán trở lên, trong đó có 04 người có trình độ trung cấp, 9
người có trình độ đại học. Cụ thể như sau:
Bảng 3.11: Cán bộ phụ trách tài chính của các đơn vị sự nghiệp
ở Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2013 STT TÊN ĐƠN VỊ SỐ LƯỢNG GIỚI TÍNH ĐỘ TUỔI TRÌNH ĐỘ
1 Phòng Tài chính - kế toán của Ban
6 02 nam
04 nữ 40-50 ĐH
2 Nhà Xuất bản Tôn giáo 3 1 nam
2 nữ 30-40
2 ĐH 1TC
3 Trường Nghiệp vụ công tác Tôn giáo
3 1 nam
2 nữ 25-35
2 ĐH 1 TC
4 Tạp chí Công tác Tôn giáo 2 2 nữ 25-35 1 ĐH 1 TC
5 Trung tâm thông tin 3 1 nam
2 nữ 25-30
2 ĐH 1 TC
6 Viện Nghiên cứu chính sách Tôn giáo
2 2 nữ 25-30 ĐH
Cộng 19
Nguồn:Ban Tôn giáo Chính phủ [38].
Số liệu từ bảng 3.11 cho thấy, đội ngũ cán bộ làm công tác tài chính ở
các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban Tôn giáo chưa đồng đều về mặt trình độ
(4 người có trình độ trung cấp và 9 người có trình độ đại học). Tuổi đời trung
100
bình của các cán bộ tài chính tại đơn vị sự nghiệp tương đối trẻ, trong độ tuổi
25-40 tuổi, kinh nghiệm công tác từ 3-10 năm. Cơ cấu giới tính khá mất cân
đối với 3 nam và 10 nữ. Đặc điểm về độ tuổi, giới tính của đội ngũ cán bộ tài
chính, kế toán tại các đơn vị sự nghiệp của Ban tác động lớn đến hiệu quả
quản lý tài chính của đơn vị. Độ tuổi trẻ là điều kiện thuận lợi tiếp cận với
cách thức quản lý tài chính hiện đại song mặt khác, lại gặp khó khăn về kinh
nghiệm quản lý, điều hành ngân sách. Bản thân từng kế toán viên cũng chưa
thực sự nỗ lực tự đào tạo, cập nhật kiến thức mới; còn lúng túng trong công
tác chuyên môn, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về chuyên môn, chưa am hiểu
sâu về công tác quản lý tài chính. 3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở BAN TÔN GIÁO
CHÍNH PHỦ
3.3.1. Những kết quả đạt được trong công tác quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
3.3.1.1. Kết quả đạt được trong công tác quản lý tài chính Chấp hành Luật NSNN 2002 và các Nghị định của Chính phủ, hướng
dẫn của Bộ Nội vụ về quản lý NSNN, Ban Tôn giáo Chính phủ đã thực hiện
chủ động trong quản lý, điều hành NSNN; trong việc lập dự toán NSNN,
phòng Tài chính - Kế toán đã lập dự phòng ngân sách và dự trữ tài chính
nhằm giải quyết các vấn đề đột xuất phát sinh về tôn giáo. Việc trao quyền
chủ động cho các cơ quan, đơn vị sự nghiệp thuộc Ban trong việc quyết định
phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi đã nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ
quan, đơn vị sự nghiệp trong việc quản lý, khai thác nguồn thu cũng như sử
dụng ngân sách một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Dự toán ngân sách hàng
năm được cơ quan sử dụng đúng mục đích quản lý, đúng nhiệm vụ chuyên
môn và nhiệm vụ chính trị được giao. Việc triển khai phân bổ dự toán được
thực hiện kịp thời, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chi thường xuyên. Đối với
nguồn kinh phí tự chủ của Ban, Ban đã chủ động thực hiện các biện pháp cắt
giảm chi tiêu như: giảm các cuộc hội nghị, các chuyến công tác được rút ngắn
101
về thời gian và số người đi, bám sát các nhiệm vụ trọng tâm của từng chuyến
công tác. Đặc biệt đối với các chuyến công tác nước ngoài, quá trình thẩm
định, xét duyệt về nội dung công tác, thời gian và số lượng người đi, kinh phí
chuyến đi được tiến hành chặt chẽ, đúng thủ tục. Ban Tôn giáo Chính phủ chủ
động xây dựng nguồn kinh phí để thực hiện hỗ trợ cho các tổ chức tôn giáo và
chức sắc tôn giáo hoạt động tại Việt Nam như: hỗ trợ kinh phí mua sắm, sửa
chữa cơ sở thờ tự và các hoạt động khác của các tổ chức giáo hội để nhằm vận
động, thuyết phục, hướng dẫn họ thực hiện đúng chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo, hạn chế thấp nhất các điểm nóng, các
hoạt động lợi dụng tôn giáo để gây rối trật tự an ninh quốc phòng.
Công khai quyết toán NSNN đã từng bước đi vào nền nếp và phát huy
tác dụng. Công tác kiểm tra nội bộ, cấp trên đối với cấp dưới, cùng với việc
phát huy vai trò giám sát của các tổ chức đoàn thể, nhân dân,… góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý NSNN, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống
tham nhũng.
Quy trình, phương thức, thủ tục hành chính trong lập, chấp hành,
quyết toán NSNN đã được cải tiến, giảm thiểu các thủ tục hành chính và các
công việc sự vụ không cần thiết, tiết kiệm thời gian và chi phí quản lý
NSNN, song vẫn đảm bảo các yêu cầu của công tác quản lý, điều hành
NSNN. Công tác quản lý, kiểm soát NSNN; thanh tra, kiểm toán được tăng
cường và chú trọng, nên đã từng bước nâng cao được kỷ cương, kỷ luật tài
chính trong quản lý NSNN.
Đối với các hoạt động sự nghiệp của Ban Tôn giáo, để đảm bảo hoàn
thành nhiệm vụ tài chính, thanh quyết toán nguồn thu - chi sự nghiệp theo quy
định và theo số thực tế được giao, các đơn vị sự nghiệp đã xây dựng quy chế
chi tiêu nội bộ phù hợp theo các mức chi theo quy định của pháp luật, và đảm
bảo tiết kiệm nhất. Do đó, việc kiểm soát chi tiêu tài chính được quan tâm
đúng mực, nhưng vẫn đảm bảo cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động trong từng đơn vị nâng cao đời sống. Phần thu nhập tăng thêm của cán
102
bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các đơn vị sự nghiệp, đơn
vị hành chính trực thuộc Ban phần lớn do các biện pháp tiết kiệm chi tiêu, cụ
thể như: chi tiêu thanh toán cá nhân, bao gồm chi tiền lương, các khoản trích
theo lương, các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp kiêm nhiệm, phụ cấp làm
thêm giờ; chi cho hàng hoá, dịch vụ, bao gồm: thanh toán dịch vụ công cộng
như tiền điện nước, vệ sinh môi trường, thanh toán vật tư văn phòng, thanh
toán thông tin tuyên truyền liên lạc, công tác phí, chi phí thuê mướn, chi phí
nghiệp vụ chuyên môn cho từng ngành, sửa chữa; các khoản chi khác. Thực
hiện tốt công tác kiểm soát thu chi tài chính, lập và quản lý sổ sách, chứng từ
kế toán, hoàn thành nghĩa vụ về thuế, thu lại và đóng thuế thu nhập cá nhân
của của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong Ban Tôn giáo với
nhà nước.
3.3.1.2. Kết quả đạt được trong từng khâu của quá trình quản lý tài chính từ ngân sách nhà nước tại Ban Tôn giáo Chính phủ
* Về phân bổ và giao dự toán NSNN
Ngay từ khi nhận được Quyết định giao dự toán chi NSNN và các nguồn
kinh phí bổ sung trong năm, Ban Tôn giáo Chính phủ đã tiến hành phân bổ và
giao dự toán chi tiết đến từng đơn vị sử dụng ngân sách theo đúng tổng mức
phân bổ dự toán tại các Quyết định và theo đúng các nội dung nguồn tài chính
được giao. Văn phòng Ban cũng đã gửi bảng tổng hợp phân bổ dự toán của Ban
Tôn giáo Chính phủ và công khai việc phân bổ, điều chỉnh dự toán chi NSNN
qua các đợt giao dự toán của Bộ Nội vụ trong năm để các đơn vị dự toán cấp III
nắm rõ. Kịp thời hướng dẫn các đơn vị trong việc lập dự toán chi NSNN, triển
khai thực hiện chế độ mới theo đúng quy định của Nhà nước. Dự toán hàng
năm được giao từ Quý III năm trước đã giúp cho các đơn vị chủ động trong
công tác xây dựng dự toán, đảm bảo có đủ kinh phí cho các đơn vị hoạt động
ngay từ những ngày đầu năm, đặc biệt là các nhu cầu chi an sinh xã hội
(lương, phụ cấp lương,…) và các nhu cầu chi cần thiết cấp bách khác khi
chưa được cấp có thẩm quyền phân bổ và giao dự toán NSNN.
103
Thực hiện chuyển từ việc cấp phát ngân sách theo hạn mức kinh phí
sang cấp phát theo dự toán, chuyển từ việc giao dự toán chi tiết theo từng mục
sang giao dự toán theo nhóm mục,… Qua đó, đã cải cách mạnh mẽ thủ tục
hành chính trong khâu chấp hành NSNN, tiết kiệm thời gian và công sức cho
các đơn vị chủ quản; đồng thời, các đơn vị chi tiêu cũng sớm được phân bổ và
giao dự toán để chủ động chi tiêu ngay từ những ngày đầu năm ngân sách.
Các đơn vị dự toán cấp III về cơ bản đã chấp hành đúng các quy định
về công tác quản lý, sử dụng tài chính hiện hành. Các khoản chi đều bám sát
Quy chế chi tiêu nội bộ và thực hiện nghiêm túc chế độ tự chủ về tài chính và
kinh phí quản lý hành chính nên đã góp phần rất lớn trong việc tiết kiệm chi
tiêu để có nguồn kinh phí tiết kiệm trích lập quỹ phúc lợi và chi thu nhập tăng
thêm. Qua đó, đã nâng cao đời sống vật chất và kịp thời động viên, khuyến
khích cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các đơn vị
trực thuộc Ban Tôn giáo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
* Về kiểm soát và điều hành NSNN:
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài chính trong Ban, ngay từ đầu mỗi
năm ngân sách, Ban Tôn giáo Chính phủ đã có văn bản hướng dẫn các đơn vị
hành chính, sự nghiệp tăng cường công tác quản lý, sử dụng kinh phí và tài
sản được giao một cách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả; thực hiện chi trong
phạm vi dự toán được giao và đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi quy
định; chủ động thực hiện rà soát cắt, giảm tối đa các khoản chi tổ chức lễ hội,
khánh tiết, hội nghị, hội thảo, chi phí công tác thực tế cơ sở và công tác nước
ngoài; rà soát các dự án đầu tư, đảm bảo phân bổ tập trung, chống dàn trải,
chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng; sắp xếp chi thường xuyên, ưu tiên các
nhiệm vụ quan trọng, bảo đảm nguồn lực thực hiện các chính sách an sinh xã
hội. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các chế độ, chính sách ở các đơn
vị trực thuộc, kịp thời khắc phục tình trạng chồng chéo, lãng phí, kém hiệu
quả trong việc bố trí kinh phí và triển khai thực hiện các chương trình, dự án,
nhiệm vụ sử dụng NSNN.
104
Đối với tổ chức quản lý chi thường xuyên: phòng Tài chính - Kế toán
đã thực hiện quản lý một cách chặt chẽ, hạn chế những khoản phát sinh và
đảm bảo tiết kiệm chi thường xuyên 10% theo quy định của Chính phủ và Bộ
Tài chính, tạo nguồn ngân sách dự phòng cho các hoạt động phát sinh trong
năm. Chủ động cắt giảm hoặc lùi thời gian thực hiện đối với các khoản chi
mua sắm để thay thế trang thiết bị, xe ô tô, ngừng thực hiện và hủy bỏ kinh
phí mua sắm, sửa chữa đã bố trí trong dự toán của các đơn vị nhưng chưa phê
duyệt dự toán, chưa tổ chức đấu thầu trước quý III hàng năm.
Đối với chi ứng trước dự toán NSNN: phòng Tài chính - Kế toán đã
chủ động về nguồn trong việc thực hiện các nhiệm vụ chi phát sinh cần thiết
cấp bách, đặc biệt là một số chương trình, dự án, nhiệm vụ chi thuộc lĩnh vực đặc thù của công tác tôn giáo như giải quyết điểm nóng tôn giáo; thông tin,
tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật, đặc biệt là chính sách mới về tôn
giáo cho chức sắc, chức việc các tôn giáo, cán bộ QLNN các địa phương;...
Đối với tổ chức quản lý chi ĐTXDCB, phòng Tài chính - Kế toán, Văn
phòng Ban đã thực hiện tương đối tốt trình tự thủ tục xây dựng cơ bản theo
Luật Xây dựng. Các khâu từ lập dự án đầu tư xây dựng, thẩm định dự án
đầu tư, giao thầu, đấu thầu, tổ chức nghiệm thu và thanh quyết toán công
trình được thực hiện tương đối theo quy định. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
được cấp trực tiếp cho mỗi chủ đầu tư theo từng công trình để thanh quyết
toán; Toàn bộ quá trình cấp phát vốn được thực hiện dưới sự kiểm soát dự
toán của phòng Tài chính - Kế toán và kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước
nhằm đảm bảo sử dụng đúng mục đích và đúng nguồn vốn đầu tư.
* Kiểm tra, kiểm toán quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ Nhằm đảm bảo sự thống nhất, công tác thanh tra, kiểm tra quá trình
quản lý ngân sách được phân cấp và chấp hành theo quy định của Bộ Tài
chính, Văn phòng Ban cùng với Vụ Pháp chế - Thanh tra của Ban và các cơ
quan chức năng thường xuyên phối hợp, giám sát từ khâu lập dự toán ngân
sách phân bổ và chấp hành dự toán của các đơn vị hành chính và sự nghiệp
105
của Ban. Quá trình kiểm tra đã phát hiện những sai phạm, những vấn đề đặt ra
xuất phát từ thực tế các khâu, các lĩnh vực nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế của
phân bổ cũng như quản lý nguồn chi tài chính: một mặt, chấn chỉnh kịp thời
trong quá trình điều hành quản lý tài chính, đảm bảo sử dụng tài chính đúng
đối tượng, mục đích và lợi ích trước mắt cũng như lâu dài. Mặt khác, đối với
công tác kiểm tra thường xuyên và định kỳ các khâu của quy trình quản lý
ngân sách đảm bảo dự toán được giao.
Giai đoạn 2008 - 2013, thanh tra tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ
đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra trong việc chấp hành quản lý thu -
chi ngân sách và thu - chi từ hoạt động sự nghiệp. Đặc biệt một số cuộc thanh
tra đột xuất đã kịp thời phát hiện những bất cập trong công tác quản lý thu,
chi ngân sách về: nguyên tắc, chế độ, chính sách,... Thông qua đó, kiến nghị
kịp thời giải pháp uốn nắn, sửa chữa, khắc phục. Chính vì vậy, đã không để
xảy ra những vi phạm lớn trong công tác quản lý ngân sách.
Bên cạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra nội bộ của Ban (giữa Văn
phòng Ban với các đơn vị sự nghiệp) còn có các hoạt động thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Kiểm toán nhà nước để đảm bảo
hiệu quả kinh tế của phân bổ cũng như quản lý nguồn chi ngân sách.
* Quyết toán ngân sách nhà nước Quyết toán ngân sách được thực hiện theo một quy trình thống nhất có
sự chỉ đạo và phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu, các đơn vị chức năng trong
quy trình bộ máy. Thông thường theo năm ngân sách, chủ đầu tư cũng như
các đơn vị dự toán cấp II và III của Ban Tôn giáo Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ
căn cứ vào kết quả và số liệu thực hiện có chứng thực của Kho bạc nhà nước
trung ương lập báo cáo tổng hợp quyết toán để trình phòng Tài chính - Kế
toán Ban kiểm tra, thẩm định. Kết quả kiểm tra, thẩm định sẽ là cơ sở làm căn
cứ lập báo cáo quyết toán ngân sách III của Ban Tôn giáo. Đối với quyết toán
ngân sách của các đơn vị sự nghiệp: Thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp chỉ đạo
kế toán đơn vị sự nghiệp lập báo cáo quyết toán ngân sách của đơn vị theo
106
thời gian quy định gửi phòng Tài chính - Kế toán thực hiện thẩm định để trình
lên Văn phòng Ban phê duyệt.
Thời gian tổ chức xét duyệt quyết toán thu chi tài chính của đơn vị dự
toán cấp III Ban Tôn giáo Chính phủ được thực hiện vào Quý I của năm sau.
Qua đó, Lãnh đạo Ban và thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Ban có thể nắm
tình hình cụ thể về công tác kế toán, quyết toán của đơn vị để có biện pháp
chấn chỉnh trong năm ngân sách tiếp theo, nhằm đảm bảo cho hoạt động tài
chính của các đơn vị ngày càng đi vào nền nếp, đúng quy định của pháp
luật và hướng dẫn của Bộ Nội vụ.
Phòng Tài chính - Kế toán của Văn phòng Ban căn cứ báo cáo tổng hợp
kết quả báo cáo quyết toán ngân sách của các chủ đầu tư, cơ quan đơn vị hành
chính, sự nghiệp để lập báo cáo quyết toán thu - chi tài chính và báo cáo quyết
toán tình hình thực hiện đầu tư phát triển ngân sách trình Bộ Nội vụ góp ý, bổ
sung, chỉnh sửa hoàn thiện và phê chuẩn báo cáo Bộ Tài chính thẩm định,
tổng hợp vào ngân sách theo quy định. Như vậy, với cơ chế phối hợp nhịp
nhàng, phân công rõ trách nhiệm và có sự giám sát chặt chẽ, công tác quyết
toán ngân sách của Ban Tôn giáo Chính phủ được thực hiện thông suốt. Các
báo cáo có góp ý ngay từ khi lập báo cáo, thông qua các cấp có thẩm quyền
đảm bảo tính khách quan, thực tiễn góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ tôn
giáo được giao.
* Công khai tài chính Việc thực hiện công khai tài chính - ngân sách của Ban Tôn giáo Chính
phủ những năm gần đây cơ bản là tốt. Dự toán, quyết toán NSNN hàng năm
sau khi được Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính phê chuẩn đều được lập báo cáo công
khai và thực hiện công khai theo đúng quy định của pháp luật. Việc công khai
dự toán, quyết toán NSNN hàng năm được thực hiện bằng nhiều hình thức
như gửi báo cáo cho lãnh đạo các đơn vị hành chính, sự nghiệp sử dụng ngân
sách của Ban đồng thời gửi cho các kế toán trực tiếp phụ trách công tác tài
chính - kế toán; ngoài ra báo cáo công khai dự toán, quyết toán NSNN cho
107
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Ban trong Hội nghị cán bộ,
công chức, viên chức hàng năm. Vì vậy đã tạo được một môi trường tài chính
dân chủ, công khai, minh bạch, tạo sự đồng thuận cao của các cơ quan, đơn vị
sử dụng NSNN trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ.
3.3.1.3. Những kết quả đạt được trong công tác quản lý tài chính từ
hoạt động sự nghiệp
Về cơ bản, Ban Tôn giáo Chính phủ đã thực hiện đúng chế độ tài chính
sự nghiệp mà nhà nước quy định, cố gắng tận dụng mọi nguồn lực tài chính
hiện có tại các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban để phục vụ công tác phát triển
hoạt động sự nghiệp, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công về tôn giáo,
đáp ứng nhu cầu của các tổ chức, chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo và
người dân có nguyện vọng sinh hoạt tôn giáo. Công tác quản lý tài chính hoạt
động sự nghiệp của Ban đã đạt được một số kết quả sau:
* Về mở rộng hoạt động khai thác nguồn thu sự nghiệp:
Ban Tôn giáo Chính phủ đã chủ động đa dạng hoá các hoạt động sự
nghiệp, từ đó mở rộng các nguồn thu sự nghiệp. Song song với doanh thu
xuất bản ấn phẩm tôn giáo ngày một tăng thì nguồn thu từ công tác đào tạo,
bồi dưỡng chức sắc, chức việc tôn giáo, dịch vụ cung cấp các đồ dùng trong
việc đạo cũng ngày càng phát triển và tăng lên không ngừng. Các ấn phẩm tôn
giáo có nội dung khá phong phú, sinh động, nhiều bài viết nghiên cứu công
phu, đặt ra nhiều vấn đề cụ thể, thiết thực đối với công tác tôn giáo hiện nay
cả về phương diện lý luận và thực tiễn đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng
như cán bộ làm công tác tôn giáo, cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp các
ngành, các tổ chức tôn giáo, các chức sắc, tín đồ các tôn giáo và bạn đọc có
quan tâm. Cung cấp, triển khai, ứng dụng công nghệ thông tin trong QLNN
tôn giáo, thông tin, tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; tổ chức xây dựng, quản lý,
vận hành hạ tầng kỹ thuật, các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu và Trang
108
thông tin điện tử của Ban Tôn giáo Chính phủ bằng tiếng Việt và tiếng Anh
giúp nâng cao hiệu quả QLNN về công tác tôn giáo, tăng cường hợp tác tôn
giáo giữa Việt Nam với các quốc gia, dân tộc và các tổ chức tôn giáo lớn trên
thế giới.
Ngoài nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp nói trên, Ban Tôn giáo
Chính phủ còn huy động được nguồn tài trợ từ các chương trình hợp tác quốc
tế với Viện liên kết toàn cầu Hoa Kỳ (IGE), Liên minh Châu Âu, Toà thánh
Vatican, các tổ chức tôn giáo trong và ngoài nước,... dành cho các hoạt động
nghiên cứu tôn giáo, đào tạo cán bộ tôn giáo, hỗ trợ hoạt động của các tôn
giáo, tín đồ tôn giáo tại Việt Nam.
* Về thu nhập tăng thêm của cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp của Ban.
Với nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của Ban ngày càng được nâng
cao đã góp phần không nhỏ cải thiện đời sống của cán bộ, công chức, viên
chức của Ban, thu nhập bình quân cán bộ, công chức, viên chức tăng lên đáng
kể. Việc cố gắng nâng cao chất lượng xuất bản, dịch vụ cung cấp đồ dùng
trong việc đạo, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và các hoạt động dịch
vụ công về tôn giáo cùng với quản lý hiệu quả các khoản chi sự nghiệp đồng
nghĩa với việc tăng thu nhập cho người lao động, là động lực kinh tế tích cực
để người lao động phấn đấu tăng năng suất lao động, sản xuất các dịch vụ tôn
giáo chất lượng hơn, hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, Ban Tôn giáo Chính phủ đã chủ động xây dựng một số
quy trình, quy chế quản lý tài chính nội bộ như quy chế chi tiêu nội bộ, quy
chế chi trả tiền thù lao nhuận bút, quy chế định giá sản phẩm tôn giáo... đã
đem lại nhiều tác dụng thiết thực cho công tác quản lý tài chính ở Ban. Các
nguồn thu đã được phòng Tài chính - Kế toán tính toán, xác định phù hợp với
tình hình thực tế và đã được quản lý, theo dõi đầy đủ, chi tiết theo từng nguồn
kinh phí, không có sự thất thoát khoản thu. Các khoản chi sự nghiệp được
109
quản lý chi tiết, cụ thể theo từng mục chi, nguồn chi, đã có sự kiểm soát về
định lượng chi cũng như giá cả của các khoản chi, một số quy trình kiểm soát
nội bộ đã được thiết lập, hoá đơn chứng từ được tập hợp và lưu trữ tương đối
đầy đủ, đảm bảo tính pháp lý. Công tác kiểm tra trước, trong và sau quá trình
thực hiện kế hoạch tài chính đã được bản thân đơn vị tổ chức thực hiện với
các mức độ khác nhau, nhờ đó đã góp phần lành mạnh hoá, minh bạch hoá tài
chính của đơn vị.
3.3.2. Những hạn chế trong quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
3.3.2.1. Hạn chế trong thực hiện các khâu của quản lý ngân sách
nhà nước
* Về lập dự toán NSNN:
Công tác lập dự toán thu - chi từ NSNN tại các đơn vị hành chính, sự
nghiệp thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ được đánh giá chưa thực sự phù hợp
với tình hình thực tế và nhiệm vụ được giao hàng năm. Các cán bộ kế toán, tài
chính của Ban gặp nhiều khó khăn trong dự trù thu - chi NSNN hàng năm
đảm bảo yêu cầu đúng, đủ và hiệu quả. Công tác dự báo chi còn yếu, thiếu
phương pháp khoa học, thiên về đánh giá, dự báo mang tính cảm tính. Dự
toán chi NSNN vẫn mang tính chất bao cấp, nặng về phân chia, chưa có
những khoản mục chi mạnh, đủ tầm để tạo hiệu quả cao trong công tác tôn
giáo; thiếu những lựa chọn ưu tiên chi mang tính chiến lược. Mặt khác, do
tính chất của công tác tôn giáo khó dự báo, các chương trình, dự án khảo sát
tôn giáo ngày càng nhiều, đan xen qua các năm, các chương trình hợp tác
quốc tế ngày càng mở rộng cả về phạm vi và mức độ nên việc tính toán định
mức phân bổ chi NSNN cho các nhiệm vụ của đơn vị dễ bị chồng lấn, có
những khoản chi được phân bổ nhiều lần, song có những khoản chi không
được phân bổ trong dự toán. Vì vậy, hiệu quả công tác lập dự toán thu - chi
NSNN của Ban Tôn giáo Chính phủ không cao, làm gia tăng số lần điều chỉnh
dự toán trong năm của đơn vị.
110
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả, tháng 11/2013
Hình 3.6: Đánh giá hiệu quả công tác lập dự toán thu - chi NSNN của
Ban Tôn giáo Chính phủ
Đối với cơ quan tài chính thẩm tra phân bổ dự toán của Ban Tôn giáo
Chính phủ: việc quy định Phòng Tài chính - Kế toán của Ban thẩm tra trước
khi giao dự toán cho các đơn vị trực thuộc (kiểm tra trước) theo đúng chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi đã nâng cao trách nhiệm của Phòng Tài chính - Kế
toán trong phân bổ và giao dự toán chi cho các đơn vị trực thuộc theo dự toán
ngân sách được giao. Song, quá trình tổ chức thực hiện giao dự toán chưa đáp
ứng được yêu cầu dẫn đến các đơn vị sử dụng ngân sách thường chậm nhận
được quyết định giao dự toán trước Quý IV hàng năm.
Mặt khác, căn cứ để xác định mức phân bổ ngân sách trong một số lĩnh
vực chưa khoa học, như chi cho các nhiệm vụ đặc thù của công tác tôn giáo.
Định mức phân bổ ngân sách cho các nhiệm vụ đặc thù của công tác tôn giáo
ở cơ sở thường dựa trên đặc điểm tình hình địa phương như tổng số NSNN
cấp hàng năm, thu ngân sách của địa phương hàng năm, mà chưa quan tâm
đầy đủ đến tính chất, mức độ, phạm vi hoạt động của các tôn giáo tại địa
phương. Điều đó dẫn đến có những địa phương nhận được mức hỗ trợ đặc thù
cao, có địa phương nhận mức hỗ trợ đặc thù không đáp ứng nhu cầu hoạt
động của địa phương; có tổ chức tôn giáo huy động được nguồn tài chính lớn
111
từ dân cư song vẫn nhận được mức hỗ trợ đặc thù cao hơn các tổ chức tôn
giáo khác trên cùng địa bàn.
Hiện nay, theo quy định của Luật NSNN 2002, mới chỉ có hệ thống
định mức phân bổ ngân sách về chi thường xuyên, còn thiếu các định mức
phân bổ ngân sách đối với chi đầu tư phát triển nên tình trạng đầu tư dàn trải,
thiếu hiệu quả, nhất là trong đầu tư xây dựng cơ bản tại Ban Tôn giáo Chính
phủ vẫn còn tồn tại. Nhu cầu và mức chi thực tế tại Ban Tôn giáo Chính phủ
lớn hơn nhiều so với định mức phân bổ ngân sách nên gánh nặng chi của các
lĩnh vực vẫn còn khá lớn, phạm vi hệ thống định mức phân bổ chưa bao quát
hết các lĩnh vực chi thường xuyên của NSNN. Đồng thời, các định mức phân
bổ ngân sách còn thiếu sự linh hoạt và lạc hậu với sự biến động của giá cả thị
trường. Để đảm bảo chi tài chính một cách hiệu quả, Ban Tôn giáo Chính phủ
phải tính toán và sử dụng một phần nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp bù đắp
cho sự chênh lệch giữa định mức phân bổ và chi tiêu thực tế.
Công tác tôn giáo phát sinh ngày càng gia tăng theo từng năm, năm sau
cao hơn năm trước cả về số vụ việc và tính chất phức tạp, thường xuyên của
hoạt động tôn giáo. Điều đó đòi hỏi công tác chỉ đạo phải được tăng cường,
trong đó công tác kiểm tra, giám sát, thực tế xuống địa phương phải được
thực hiện thường xuyên, liên tục. Hơn nữa, Ban Tôn giáo Chính phủ thường
xuyên cử các đoàn thăm hỏi các ngày lễ trọng tôn giáo, chức sắc các tôn giáo,
hỗ trợ hoạt động các tôn giáo mới được công nhận và thực hiện chính sách trợ
cấp cho đối tượng chức sắc tôn giáo gặp khó khăn. Số lượng chức sắc, chức
việc tôn giáo và các tổ chức tôn giáo mới được công nhận tăng lên hàng năm
đòi hỏi phải tăng cường quản lý và kèm theo một nguồn kinh phí lớn cần
được đáp ứng. Tuy nhiên, nguồn kinh phí thực hiện các nhiệm vụ trên được
phân bổ trong dự toán NSNN hạn chế, không đáp ứng đủ cho nhiệm vụ của
công tác tôn giáo. Điều này khiến cho hoạt động chi NSNN chưa thực sự chủ
động, linh hoạt và một số khoản chi kém hiệu quả.
112
* Về điều chỉnh dự toán ngân sách:
Công tác lập dự toán chi ngân sách hàng năm rất khó xác định được
kinh phí để giải quyết điểm nóng trong năm là bao nhiêu, các thông tin về an
ninh, tình báo tôn giáo là bí mật quốc gia nên rất khó tiếp cận, do vậy Ban
Tôn giáo Chính phủ thường xuyên phải điều chỉnh dự toán ngân sách. Có
những đơn vị, đến giữa Quý IV vẫn báo cáo điều chỉnh dự toán do các sự kiện
tôn giáo phát sinh đột xuất, không thể chuyển vào dự toán của năm tiếp theo.
Để hạn chế tình trạng điều chỉnh dự toán ngân sách hàng năm, Ban Tôn
giáo đã thực hiện trích lập dự phòng ngân sách để đáp ứng kịp thời nhu cầu
kinh phí giải quyết các điểm nóng song hiệu quả chưa rõ nét vì nguồn kinh
phí dự phòng theo quy định Điều 9 Luật NSNN 2002 chỉ chiếm 2% đến 5%
tổng dự toán chi ngân sách hàng năm của Ban Tôn giáo Chính phủ, tương
đương từ 1-2 tỷ đồng. Đối với một số điểm nóng có tính chất phức tạp như
hoạt động của cái gọi là "Vương quốc Mông" ở Tây Bắc, "Nhà nước Đêga
Môngtana" ở Tây Nguyên, "Nhà nước Khmer Campuchia Krôm (KKK)" ở Nam
Bộ; các vụ khiếu kiện đất đai của một số tổ chức Công giáo,... thì khoản kinh phí
dự phòng của Ban Tôn giáo chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ cho công tác điều tra,
thâm nhập địa bàn, tìm hiểu tình hình tôn giáo. Vì vậy, gây khó khăn, bị động
đối với các đơn vị dự toán, chủ đầu tư trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
được giao; giảm hiệu quả trong việc quản lý nguồn lực và gây khó khăn trong
việc bố trí nguồn để thanh toán, chi trả đầy đủ, kịp thời cho các đơn vị.
Dự toán ngân sách hàng năm của Ban Tôn giáo Chính phủ có xu hướng
điều chỉnh qua từng năm, chủ yếu là điều chỉnh tăng trong lĩnh vực chi sự
nghiệp. Kinh phí bố trí cho các đơn vị sự nghiệp của Ban phục vụ hoạt động
của 05 đơn vị sự nghiệp Ban Tôn giáo Chính phủ và các dự án khảo sát tôn
giáo, chương trình hợp tác quốc tế về tôn giáo. Nguồn kinh phí này thay đổi
theo tình hình thực hiện các dự án và theo nhu cầu cung cấp dịch vụ công về
tôn giáo dẫn đến việc điều chỉnh dự toán NSNN hàng năm của Ban.
113
* Về kiểm soát chi và điều hành ngân sách
Dù đã thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm soát chi NSNN hàng năm theo
hướng dẫn của Bộ Nội vụ, song Ban Tôn giáo Chính phủ vẫn chưa tiến hành
kiểm soát cam kết chi NSNN đối với các cơ quan, đơn vị sự nghiệp trực
thuộc. Vì vậy, một mặt làm công tác quản lý chi NSNN chưa hiệu quả và
chưa nâng cao được trách nhiệm, kỷ luật tài chính đối với cơ quan tài chính
của Ban, KBNN và các đơn vị sử dụng NSNN.
Các quy định hướng dẫn về chi ứng trước dự toán NSNN chưa cụ thể,
rõ ràng như: tiêu chí để xác định những loại dự án, nhiệm vụ nào là cấp bách,
cần phải đẩy nhanh tiến độ; chưa quy định cụ thể năm thu hồi vốn ứng trước
(nên vốn ứng trước có thể được thu hồi trong năm sau hoặc trong nhiều năm
sau); việc quy định tổng mức chi ứng trước trong dự toán năm sau là chưa có
cơ sở khoa học và thực tiễn, còn khá cao so với thực tế khả năng cân đối
NSNN hiện tại,...
Ban Tôn giáo Chính phủ đã thực hiện chế độ công khai dự toán, quyết
toán, kết quả kiểm toán ngân sách các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách, các
tổ chức được NSNN hỗ trợ kinh phí, song chưa quy định việc đánh giá giải
trình và thuyết minh số liệu công khai, nên dẫn đến việc công khai còn thiếu
minh bạch. Bên cạnh đó, hiện cũng chỉ mới quy định công khai về dự toán và
quyết toán NSNN, chưa công khai về tình hình thực hiện dự toán ngân sách
của các cấp và các đơn vị dự toán ngân sách, nên việc công khai NSNN chưa
đầy đủ.
Chi ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản thường bị chia nhỏ, chi
dàn trải. Nguyên nhân một phần do sản phẩm xây dựng cơ bản dở dang hàng
năm lớn, một phần vốn thu vào ngân sách chậm, thủ tục đầu tư xây dựng cơ
bản phức tạp, dự án và nguồn vốn đầu tư cho dự án không đi song song với
nhau. Điều đó đã dẫn đến kéo dài thời gian thực hiện dự án cũng đồng nghĩa
với lãng phí, thất thoát, vi phạm điều lệ quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
114
Bên cạnh đó, công tác lập báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình, hạng mục
công trình hoàn thành của các chủ đầu tư thường chậm so với quy định, chất
lượng báo cáo còn nhiều sai sót, thiếu mẫu biểu theo quy định.
Tình trạng lãng phí trong chi thường xuyên còn lớn và tương đối phổ
biến. Các đơn vị sử dụng NSNN chưa thực hiện các chế độ chính sách chi
tiêu một cách nghiêm túc, nhất là đối với các khoản chi thanh toán cá nhân,
chi thanh toán dịch vụ công cộng, chi thuê mướn, chi vật tư, văn phòng, thông
tin tuyên truyền, liên lạc, chi công tác phí trong nước, hội nghị, chi các đoàn
đi công tác nước ngoài và đón khách nước ngoài vào Việt Nam… Các khoản
chi thường xuyên của nhiều đơn vị chưa thực hiện đúng chế độ chứng từ
hoá đơn theo quy định.
3.3.2.2. Hạn chế trong quản lý tài chính từ hoạt động sự nghiệp
Phòng Tài chính - Kế toán của Ban mới chỉ quản lý thống nhất và tập
trung khai thác nguồn thu từ hoạt động của các đơn vị sự nghiệp. Chưa có
biện pháp quản lý chặt chẽ và thống nhất tất cả các nguồn thu của các đơn vị
trực thuộc, đặc biệt là các nguồn thu từ chương trình có tài trợ, chương trình
mục tiêu dự án. Nhiều nguồn thu như cung cấp đồ dùng trong việc đạo, đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ tôn giáo tại các địa phương không phải là điểm nóng
tôn giáo, dịch vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong QLNN về tôn giáo…
chưa được quan tâm.
Chất lượng công tác lập kế hoạch chi của các đơn vị có hoạt động chi
sự nghiệp thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ chưa cao, còn thiếu tính dự báo nên
trong quá trình thực hiện phát sinh thêm rất nhiều so với kế hoạch giao. Cuối
năm hầu hết các đơn vị đều đề nghị bổ sung và điều chỉnh kế hoạch. Thậm
chí, có năm, có đơn vị đến tháng 12 mới điều chỉnh kế hoạch năm làm cho
việc thực hiện kế hoạch năm của đơn vị không còn ý nghĩa. Đơn vị cũng khó
có thể tính chính xác số chênh lệch thu chi từ hoạt động sự nghiệp trong năm
và phần chênh lệch thu - chi được để lại sang năm kế tiếp.
115
Hệ thống định mức hao phí lao động và đơn giá cho các hoạt động đào
tạo, bồi dưỡng, xuất bản ấn phẩm tôn giáo vẫn chưa hợp lý. Các khoản chi
cho con người, chi nhuận bút, chi thù lao biên tập, thông tin tuyên truyền liên
lạc, vật tư văn phòng phẩm, công tác phí, và các chi phí sửa chữa phục vụ
công tác chuyên môn, thuê mướn như thuê máy chủ,... còn thấp so với mức
giá trên thị trường.
Quản lý một số yếu tố chi còn lỏng lẻo, tính toán chi phí khấu hao chưa
đầy đủ, chưa đúng quy định; diễn biến thu, chi trên sổ kế toán chưa phù hợp
với thực tế, độ tin cậy của chứng từ chưa cao và còn phát sinh nhiều khoản
chi không cần thiết như chi hội nghị, chi mua sắm tài sản phục vụ cho công
tác chuyên môn, thiết bị tin học và các tài sản khác phục vụ cho công tác văn
phòng. Công tác hạch toán kế toán chưa đáp ứng đủ yêu cầu của nhà quản lý,
chưa thực hiện tốt chức năng thông tin, giám sát của mình.
3.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý tài chính ở
Ban Tôn giáo Chính phủ
3.3.3.1. Những nguyên nhân khách quan
Hệ thống NSNN theo Luật NSNN 2002 hiện mang tính lồng ghép,
NSNN bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, nên quy trình
ngân sách khá phức tạp; thời gian xây dựng dự toán ngân sách tương đối dài,
nhưng thời gian cho mỗi cấp ngân sách lại ngắn, phụ thuộc lẫn nhau, nên hiệu
quả hạn chế, trách nhiệm của từng cấp chưa thực sự rõ ràng, nhất là chưa thực
sự đảm bảo quyền tự chủ của cấp dưới. Quy định về phạm vi thu, chi ngân sách
của các đơn vị thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ chưa rõ ràng, đặc biệt là việc để
lại chi từ nguồn thu phí, lệ phí cho các cơ quan hành chính chưa đáp ứng được
nguyên tắc đầy đủ của NSNN; việc quản lý các khoản phí, lệ phí của dịch vụ
công về tôn giáo chưa thống nhất giữa các mục và giữa các đơn vị.
Bên cạnh đó, các cơ chế quản lý NSNN cũng chưa quy định rõ yêu cầu
hàng năm, các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách và các cấp ngân sách khi
116
quyết toán ngân sách phải gửi kèm thuyết minh kết quả thực hiện ngân sách
và kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, cấp mình; chưa có quy
định về việc các cơ quan, đơn vị khi phân công quản lý các chương trình, dự
án lớn, trọng điểm của Ban Tôn giáo tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện
ngân sách gắn với việc thực hiện nhiệm vụ của chương trình, dự án. Điều đó
dẫn đến có những hoạt động chi NSNN không theo đúng mục tiêu, nhiệm vụ
được giao trong năm hoặc chi NSNN vượt quá phần ngân sách dự toán cho
nhiệm vụ được giao.
Hệ thống các văn bản pháp luật tài chính của Nhà nước đối với các sự
nghiệp có thu luôn được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam và thông lệ quốc tế nên việc nắm bắt, hiểu và vận dụng cho
đúng chế độ tương đối khó khăn. Luận án nghiên cứu về quản lý tài chính tại
Ban Tôn giáo Chính phủ trong thời gian thực hiện các quy định tại Nghị định
số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ và Quyết định số
19/2006/QĐ-BTC ngày 30/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Ngày
14/2/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP có hiệu lực thi
hành từ ngày 06/4/2015, thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, với mục đích
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập. Điều này khiến cho việc phân tích, đánh giá quản
lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ, đặc biệt là đánh giá các hoạt động tài
chính từ nguồn thu - chi sự nghiệp không còn mang lại hiệu quả như mong
đợi. Luận án chưa có điều kiện để so sánh, đánh giá tính hiệu quả của hoạt
động tài chính tại các đơn vị sự nghiệp khi thực hiện Nghị định số
16/2015/NĐ-CP và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP.
Hệ thống định mức, tiêu chuẩn chi tiêu còn thiếu và lạc hậu, không phù
hợp thực tế, nhất là trong lĩnh vực chi thường xuyên và cho con người. Các
định mức chi tiêu hiện chưa tính đủ chi phí tiền lương, chi phí trực tiếp, chi
phí quản lý và chi phí khấu hao tài sản cố định trong các đơn vị hành chính,
117
sự nghiệp của Ban Tôn giáo. Theo quan điểm của một số cán bộ làm công tác
tôn giáo, chức sắc, chức việc các tôn giáo, định mức chi hỗ trợ các tôn giáo
chưa phù hợp với tình hình thực tế.
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả, tháng 11/2013
Hình 3.7: Nhận xét về định mức chi hỗ trợ các tôn giáo
Từ mô hình 3.5, có thể thấy, 41% người được hỏi cho rằng định mức
này chưa phù hợp. Đa số các ý kiến chưa phù hợp là những chức sắc, chức
việc của các tôn giáo. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do các định
mức chi hỗ trợ được cố định, trong khi mức giá cả sinh hoạt đã cao hơn thời
điểm 2005 nhiều lần khiến cho các định mức trở nên lạc hậu. Mặt khác, quy
định chi hỗ trợ đối với các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc còn mang
tính chất chung áp dụng cho tất cả các chức sắc, chức việc của các tôn giáo,
không áp dụng định mức chi cho những đối tượng cụ thể nên việc chi tiêu tùy
tiện, khó kiểm soát. Điều kiện kinh tế đặc thù của mỗi tổ chức tôn giáo, trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng miền trong cả nước có sự chênh
lệch tương đối, trong khi mức chi hỗ trợ NSNN thì đồng đều nên không mang
lại hiệu quả như mong muốn. Hơn nữa, Nhà nước đã khoán chi cho các đơn vị
sự nghiệp, nhưng lại quản lý rất chặt các mục chi, gây rất nhiều khó khăn cho
các đơn vị trong việc tự chủ về mặt tài chính, làm cho đơn vị sự nghiệp không
linh hoạt trong việc sử dụng kinh phí nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Chính vì
118
vậy, các đơn vị thiếu căn cứ để lập kế hoạch chi trong khi các cơ quan quản lý
không có căn cứ duyệt dự toán.
Hoạt động tôn giáo ngày càng phức tạp và có những diễn biến trái
chiều, nảy sinh những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Việc khiếu kiện, khiếu nại
liên quan đến đất đai, cơ sở thờ tự có nguồn gốc tôn giáo tiếp tục gia tăng
hàng năm về số lượng với diễn biến hết sức phức tạp ở nhiều địa phương như
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Thái Nguyên, Nghệ An, Hà Tĩnh. Một số hệ
phái đạo Tin lành chưa được công nhận về tổ chức thường xuyên tiến hành
các hoạt động truyền đạo trái phép và có dấu hiệu lợi dụng tôn giáo để chống
phá Nhà nước. Một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí ở ngoài nước tiếp tục
lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo phối hợp với một số lực
lượng phản động trong nước tiếp tục kích động, lôi kéo đồng bào tham gia các
hoạt động diễn biến hòa bình, gây mất trật tự an ninh quốc phòng. Tính đặc
thù, nhạy cảm, phức tạp của công tác tôn giáo đã tác động rất lớn đến quản lý
tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ. Nguồn kinh phí cấp từ NSNN hàng
năm không đủ đối với các hoạt động thường xuyên của Ban.
Ban Tôn giáo Chính phủ được Chính phủ cho phép sử dụng kinh phí
đặc thù như Quân đội và Công an, do vậy khi sáp nhập vào Bộ Nội vụ, việc
báo cáo chi phí cho các hoạt động đặc thù tôn giáo gặp rất nhiều khó khăn,
phải tách bóc các khoản chi phí trong toàn bộ các chi phí chung là rất phức
tạp. Trong những trường hợp phát sinh các điểm nóng tôn giáo, Ban Tôn giáo
Chính phủ thường phải tự ứng trước kinh phí để chủ động xử lý vụ việc rồi
sau đó mới thực hiện các thủ tục tài chính để cấp kinh phí bổ sung. Trong khi,
nguồn tiền cấp bổ sung cho hoạt động tôn giáo đặc thù do Thủ tướng trực tiếp
chỉ đạo Bộ Tài chính cấp cho Ban Tôn giáo Chính phủ, nhưng vì là đơn vị
trực thuộc Bộ Nội vụ nên Ban Tôn giáo phải thực hiện báo cáo quyết toán tài
chính nguồn kinh phí này đối với Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính. Do đó, Ban Tôn
giáo Chính phủ đang thực hiện song song hai hình thức phân bổ ngân sách. Là
119
đơn vị dự toán cấp II, được phân bổ nguồn kinh phí theo dự toán ngân sách
của Bộ Nội vụ, nhưng trong trường hợp đặc biệt có sự chỉ đạo trực tiếp của
Thủ tưởng Chính phủ như giải quyết các điểm nóng tôn giáo, quan hệ hợp tác
quốc tế về tôn giáo cấp Chính phủ, thực hiện các chương trình dự án tôn giáo
trọng điểm quốc gia thì nguồn kinh phí được trực tiếp phân bổ từ Bộ Tài
chính, tách biệt với nguồn kinh phí phân bổ từ Bộ Nội vụ, tức là Ban Tôn giáo
Chính phủ được coi như đơn vị dự toán cấp I. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến
các hoạt động quản lý tài chính khác, làm mất cân đối thu - chi trong ngắn
hạn, giảm hiệu quả quản lý tài chính.
3.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
* Về cơ chế quản lý tài chính
Mặc dù được tự chủ tài chính đối với các đơn vị trực thuộc song thời
gian được áp dụng cơ chế tự chủ về về tài chính theo Nghị định số
43/2006/NĐ-CP, ngày 25/4/2006 của Chính phủ không đồng đều:
Đối với Tạp chí Công tác Tôn giáo, từ năm 2009 đến nay, đơn vị được
giao quyền tự chủ về tài chính. Các đơn vị còn lại là Trường Nghiệp vụ công
tác tôn giáo, Viện nghiên cứu chính sách Tôn giáo, Nhà xuất bản Tôn giáo và
Trung tâm Thông tin của Ban Tôn giáo trước năm 2012 hoạt động do NSNN
đảm bảo từ kinh phí của Ban, do Văn phòng Ban quản lý. Từ năm 2012, tất cả
các đơn vị sự nghiệp của Ban này được áp dụng thống nhất cơ chế tự chủ về
tài chính đối với đơn vị sự nghiệp. Điều này đã dẫn đến sự chồng chéo, thiếu
thống nhất về các chế độ chi tài chính, gây khó khăn trong việc kiểm soát các
khoản chi của Ban Tôn giáo và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Bên cạnh đó,
cơ chế tự chủ tài chính là một cơ chế hoàn toàn mới mẻ và khác hẳn với cơ
chế quản lý bao cấp tồn tại lâu, nên quản lý tài chính và cơ cấu tổ chức còn
cồng kềnh, chồng chéo, thụ động; chưa thoát khỏi sự ràng buộc của NSNN.
Ngày 14/02/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP
quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập với nguyên tắc các đơn
120
vị tự đảm bảo kinh phí hoạt động càng nhiều thì mức độ tự chủ càng cao, góp
phần khuyến khích các đơn vị chủ động tăng thu, giảm dần việc thụ động phụ
thuộc vào NSNN. Điều này được kỳ vọng sẽ tạo ra sự thống nhất trong quản
lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ song
để tổ chức thực hiện, làm quen, thích nghi với cơ chế quản lý tài chính mới thì
Ban Tôn giáo Chính phủ và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc cần phải có một
khoảng thời gian nhất định.
* Về kiểm soát hệ thống quy chế chi tiêu
Hệ thống quy chế chi tiêu nội bộ hiện hành của Ban Tôn giáo và các
đơn vị sự nghiệp trực thuộc tuy đã được xây dựng khá chi tiết, rõ ràng nhưng
vẫn chưa đầy đủ. Một số khoản chi thường xuyên phát sinh, nhưng chưa được
quy định cụ thể trong quy chế chi tiêu nội bộ, mà thực hiện theo quyết định
của thủ trưởng đơn vị, dẫn tới hạn chế về tính công khai, dân chủ trong quá
trình quản lý tài chính.
Chưa xây dựng được kế hoạch chi tiêu trung hạn và dài hạn nên thiếu
căn cứ trong khi triển khai thực hiện nhiệm vụ, việc phân bổ nguồn lực không
tập trung được cho việc thực hiện các chiến lược, bị cắt khúc.
Việc rà soát các văn bản quy định về lĩnh vực tài chính tại các đơn vị và
do đơn vị ban hành chưa được tiến hành kịp thời, cho nên đơn vị vẫn tiếp tục
thực hiện chi tiêu theo những quy định đã lạc hậu hoặc được ban hành không
đúng thẩm quyền, gây ảnh hưởng không tốt đến việc chấp hành NSNN. Ngoài
ra, việc xây dựng, hướng dẫn áp dụng các văn bản về chế độ, quy định mới
của nhà nước trong lĩnh vực tài chính, kế toán tại Ban còn chưa kịp thời, gây
khó khăn trong quá trình thực hiện.
Việc kiểm tra kiểm soát hoạt động tài chính ở Ban chưa được tiến hành
thường xuyên, kịp thời; công tác tự kiểm tra tài chính - kế toán của Ban cũng
chưa được quan tâm đúng mức.
* Về công khai tài chính, thanh tra, kiểm tra tài chính
121
Một số lĩnh vực quản lý chưa có quy định cụ thể về công khai tài chính,
việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đối với các phòng ban và
đơn vị trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ chưa được quan tâm đúng mức, có
nơi còn mang tính hình thức làm hạn chế hiệu quả giám sát của cán bộ, công
chức, của các đoàn thể chính trị - xã hội đối với việc quản lý tài chính tại các
đơn vị hành chính, sự nghiệp của Ban. Tình trạng quản lý tài chính tại các đơn
vị sự nghiệp mới hoạt động theo cơ chế tự chủ tài chính chưa được quan tâm
chỉ đạo quyết liệt nên vẫn còn những khoản thu chi sai mục đích, qua nhiều
năm vẫn chưa giải quyết dứt điểm.
Chưa thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ và theo chuyên
đề tại các đơn vị trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ. Sự phối hợp thanh tra,
kiểm tra công tác quản lý tài chính chưa được tiến hành thường xuyên, chưa
kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quản lý tài chính một
cách đúng mức để nâng cao ý thức chấp hành quy định quản lý tài chính của
các đơn vị trực thuộc.
* Về nguồn nhân lực làm công tác tài chính
Bộ máy tài chính - kế toán tại Ban hiện được tổ chức chưa thực sự phù
hợp, Phòng Tài chính - Kế toán vẫn nằm trong bộ phận quản lý hành chính -
Văn phòng Ban (một phòng trực thuộc), vừa là đơn vị cấp II lại vừa là đơn vị
cấp III, vừa là đơn vị giao dự toán, kiểm tra, giám sát nhưng cũng là đơn vị
trực tiếp thu, chi, do vậy rất khó kiểm soát các hoạt động tài chính của Ban
một cách khách quan, độc lập. Phòng Tài chính - Kế toán được bố trí 06 công
chức, trong đó có 02 công chức có kinh nghiệm dưới 05 năm. Với khối lượng
công việc như hiện tại, Phòng Tài chính - Kế toán cần được bổ sung thêm
biên chế để hoàn thành tốt, kịp thời các nhiệm vụ. Chất lượng công chức
không đồng đều, một số công chức chưa có đủ kinh nghiệm cần thiết để giải
quyết công việc độc lập, công tác tham mưu còn hạn chế, chưa chủ động
nghiên cứu, đề xuất ý kiến để giải quyết công việc.
122
Mô hình tổ chức kế toán tại các đơn vị sự nghiệp hiện chưa có sự thống
nhất. Theo qui định, mỗi đơn vị tối thiểu phải có 03 chức danh là kế toán
trưởng, kế toán thanh toán, thủ quĩ, nhưng có nhiều đơn vị, chức danh kế toán
vẫn là kiêm nhiệm hoặc không có kế toán trưởng trong thời gian dài. Mặt
khác, nhân sự làm công tác kế toán tại các đơn vị sự nghiệp thường xuyên có
sự thay đổi do điều động, luân chuyển vị trí công tác nên cán bộ làm công tác
tài chính gặp khó khăn trong tiếp cận, làm quen với quá trình quản lý tài chính
tại đơn vị mới.
Tình trạng thiếu năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ công chức
quản lý NSNN còn tồn tại, là kết quả của cơ chế bao cấp còn rơi rớt lại đối
với ngành tài chính (một số lĩnh vực ấn định thu-chi, cơ chế xin cho...).
Những sai phạm trong lĩnh vực tài chính ngân sách xuất phát từ chủ quan
trong quản lý, điều hành ngân sách gây ra, thậm chí có cán bộ tài chính biết
một số khoản chi NSNN chưa đúng pháp luật, không có hiệu quả nhưng vì lợi
ích cục bộ của cơ quan, đơn vị, lợi ích cá nhân vẫn quyết định dự trù, phân bổ
và triển khai thực hiện kinh phí từ NSNN dẫn đến chi ngân sách thiếu tập
trung, dàn trải, quá thời gian quy định.
123
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
4.1. BỐI CẢNH HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ TÀI CHÍNH Ở BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
4.1.1. Bối cảnh hiện nay tác động đến quản lý tài chính ở Ban Tôn
giáo Chính phủ
4.1.1.1. Tình hình tôn giáo tác động đến công tác tôn giáo và quản lý
tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
Sự tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến tôn giáo ngày
càng mạnh mẽ khiến cho đời sống tôn giáo trên thế giới biến động với nhiều
biểu hiện khác nhau. Cụ thể là:
* Các phong trào "tôn giáo hóa chính trị" và "chính trị hóa tôn giáo"
Tại Việt Nam, hoạt động của một số hiện tượng tôn giáo mới đang diễn
ra dưới nhiều hình thức khác nhau ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước, tác
động trực tiếp đến quá trình thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của
Đảng và Nhà nước nói chung và hoạt động quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo
Chính phủ nói riêng. Cụ thể là hiện tượng đạo Hà Mòn ở Tây Nguyên. Theo
kết quả Dự án khảo sát thực trạng đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Công
giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2012, hiện tượng đạo Hà Mòn ở Tây
Nguyên vốn là một nhánh tách ra từ Công giáo, nhưng lại biến tướng thành
một thứ tôn giáo mang màu sắc dị đoan, mê tín thể hiện: người sáng lập, điều
hành và đối tượng theo chủ yếu là tín đồ đạo Công giáo; nội dung tuyên
truyền được lấy từ Kinh thánh, giáo lý, giáo luật và những tín điều Công giáo
(phần nói về Đức mẹ Maria) nhưng biên soạn lại với những điều mê tín, lừa
mị. Trong quá trình hoạt động, "Hà Mòn" đã bị bọn Fulro lợi dụng vào mục
đích phản động; tuyên truyền gây chia rẽ đoàn kết giữa các dân tộc trong khu
124
vực, giữa tín đồ Công giáo và người theo "hiện tượng Hà Mòn"; tập hợp lực
lượng gây mất ổn định về an ninh ở một số địa bàn. Mục đích của bọn Fulro
là phát triển, nhân rộng "Hà Mòn" để nhà nước phải công nhận là "tôn giáo
riêng" và tiếp tục lợi dụng tôn giáo này. Những hiện tượng tôn giáo lạ đòi hỏi
Ban Tôn giáo Chính phủ phải thường xuyên bám sát địa bàn các địa phương,
thực hiện các chuyến khảo sát, thực tế nắm bắt tình hình tôn giáo để có chính
sách, biện pháp phù hợp và nguồn lực tài chính đủ mạnh để thực hiện các
hoạt động điều tra, khảo sát [33].
* Các thế lực thù địch với vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam
Ngày 14/11/2006, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chính thức thông báo đưa
Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo
(CPC). Từ năm 2006 đến nay, Ban Tôn giáo Chính phủ đã tổ chức nhiều đoàn
cán bộ chính quyền và chức sắc các tôn giáo lớn ở Việt Nam đi thăm và làm
việc tại Hoa Kỳ, tiếp xúc trực tiếp với nhiều quan chức cao cấp, các tổ chức
tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. Đồng thời,
Ban Tôn giáo Chính phủ cũng tiếp đón nhiều đoàn ngoại giao Hoa Kỳ và
Châu Âu khảo sát thực tế về hoạt động tôn giáo tại Việt Nam. Những hoạt
động này đã góp phần khẳng định chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và
Nhà nước Việt Nam luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo phát triển
trong khối đại đoàn kết dân tộc và phù hợp với luật pháp; khẳng định luật
pháp Việt Nam không cho phép bất cứ cá nhân, tổ chức nào lợi dụng tự do
tôn giáo để tiến hành các hoạt động chính trị chống lại Nhà nước và lợi ích
cùa nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, các thế lực thù địch vẫn ráo riết tiến hành các
hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá Nhà nước Việt Nam. Một trong những
nguyên nhân chính là sự cấu kết giữa các thế lực thù địch trong nước và ngoài
nước, là sự cộng tác tích cực của một số phần tử cực đoan trong nước và sự
hậu thuẫn cùa một số cá nhân và tổ chức quốc tế liên quan đến lĩnh vực tôn
125
giáo và nhân quyền của Hoa Kỳ và Châu Âu. Với khu vực Tây Nguyên, do bị
kẻ xấu lợi dụng, một số đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Gia Lai, Đắc
Lắc, Đắc Nông gây lộn xộn, biểu tình chống đối chính quyền, chống lại người
thi hành công vụ, phá hoại tài sản Nhà nước và công dân. Với người Khmer ở
Nam Bộ, các tổ chức Khmer Krôm ở Campuchia hoạt động rất tích cực nhằm
đòi lại "đất đai", giải phóng người Khmer ở Nam Bộ, vu cáo Nhà nước Việt
Nam vi phạm nhân quyền, vi phạm tự do tôn giáo, yêu cầu Liên Hợp Quốc
công nhận Nhà nước Khmer Krôm.
Các phần tử trong các tôn giáo trong nước và ngoài nước đã có sự liên
kết chặt chẽ trong các hoạt động chống đối chính quyền, vu cáo Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền.
Đó là những hoạt động cực đoan cùa một số thành phần trong cái gọi là "Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất", của nhóm "Tăng Đoàn Huế"; sự chống
đối của Nguyễn Văn Lý; nhóm Phan Văn Lợi, Nguyễn Hữu Giải; nhiều vụ
việc khiếu kiện đòi lại đất đai, cơ sở thờ tự trước đây đã hiến tặng cho chính
quyền,... Sự phát triển đạo Tin Lành một cách bất thường ở các khu vực Tây
Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ; sự chống đối tích cực của các nhóm Tin
Lành tư gia ở TP. Hồ Chí Minh và Miền Đông Nam Bộ; ... sự gia tăng hoạt
động của nhóm Phật giáo Hoà Hảo Lê Quang Liêm, Trần Hữu Duyên,
Nguyễn Vãn Điền,…
Trong dịp tổ chức Đại lễ Phật Đản (Vesak 2014) tại Việt Nam, các
nhóm thuộc "Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất" đã lợi dụng dịp này để
phát tán "Thông bạch", kêu gọi tăng ni phật tử cầu nguyện cho Việt
Nam "thoát họa ngoại xâm, nhân dân thoát cảnh nô lệ", đòi "tự do tôn giáo, tự
do dân chủ, nhân quyền" và đấu tranh khôi phục "Giáo hội" [34].
Để ngăn chặn sự chống phá của các thế lực thù địch đối với Nhà nước
Việt Nam thông qua hoạt động tôn giáo trong giai đoạn tới, đòi hỏi Ban Tôn
giáo Chính phủ phải tăng cường hơn nữa công tác QLNN về tôn giáo, nâng
126
cao năng lực của đội ngũ cán bộ tôn giáo, thực hiện tốt chế độ, chính sách đối
với cán bộ tôn giáo, chức sắc, chức việc tôn giáo, quản lý nguồn tài chính một
cách chủ động, linh hoạt, đảm bảo đủ kinh phí phục vụ các nhiệm vụ tôn giáo
thường niên và đột xuất.
4.1.1.2. Quan điểm, chính sách với tôn giáo và công tác tôn giáo của
Đảng và Nhà nước ta
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhà nước Việt Nam
thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử
vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do
tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm chủ
quyền, an ninh quốc gia.
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp
chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền,
nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách làm
công tác tôn giáo là lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm công
tác tôn giáo cần được củng cố, kiện toàn, nhất là ở những địa bàn trọng điểm
có đông đồng bào tôn giáo. Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận động
quần chúng.
127
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công
nhận, hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được mở trường đào
tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng
cơ sở thờ tự tôn giáo,.. của mình theo đúng quy định của pháp luật. Việc
truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt
động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm
các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái
phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
4.1.1.3. Nhiệm vụ trọng tâm của Ban Tôn giáo Chính phủ trong giai đoạn tới
- Thực hiện các nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao về công tác tôn
giáo: thực hiện Nghị quyết số 25 của BCH Trung ương Đảng khóa IX về công
tác tôn giáo; Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số
công tác đối với đạo Tin lành; triển khai thực hiện các nội dung của Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo.
- Hướng dẫn các tổ chức tôn giáo hoạt động tôn giáo theo quy định của
pháp luật, đăng ký chương trình, nội dung hoạt động tôn giáo hàng năm và
đột xuất, chuẩn bị và tổ chức đại hội nhiệm kỳ, đặc biệt là đối với các tổ chức
tôn giáo mới được công nhận tư cách pháp nhân; tạo điều kiện, giúp đỡ, đảm
bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội trong các ngày lễ trọng của các tôn giáo.
Chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và địa phương thống nhất
xử lý, giải quyết dứt điểm những vụ việc liên quan đến tôn giáo như: bàn giao
và quản lý đất đai dành cho tôn giáo; các điểm nóng tôn giáo; các vụ khiến
kiện liên quan đến tôn giáo và tín đồ các tôn giáo,...
- Hoàn thiện, củng cố bộ máy của Ban Tôn giáo Chính phủ theo Quyết
định số 06/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức Ban Tôn giáo Chính phủ; hoàn thiện tổ chức bộ
128
máy và nâng cao chất lượng hoạt động các đơn vị sự nghiệp như: Nhà xuất
bản Tôn giáo;Tạp chí công tác Tôn giáo; Trung tâm thông tin; Viện Nghiên
cứu chính sách Tôn giáo; Trường nghiệp vụ công tác tôn giáo. Nâng cao chất
lượng trang thông tin điện tử của Ban Tôn giáo đảm bảo nội dung phong phú,
nhanh, chính xác, đúng quy định. Giải quyết việc xuất bản in ấn kinh sách, ấn
phẩm tôn giáo đúng pháp luật.
- Tăng cường đối ngoại tôn giáo, tập trung phối hợp với các bộ, ngành
ở Trung ương và địa phương qua các kênh ngoại giao nhà nước và đối ngoại
nhân dân góp phần tích cực phối hợp đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo, bảo
vệ và đấu tranh nhân quyền, chống lại các hoạt động của các thế lực thù địch
và các phần tử chống đối trên cơ sở khẳng định chính sách tôn trọng và đảm
bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Giải quyết các vụ việc tôn giáo phức tạp, nhạy
cảm do các nhóm, đối tượng chống đối lợi dụng kích động nhân dân; nắm tình
hình, hướng dẫn giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ các tôn
giáo tránh việc các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước lợi dụng vào những
mục đích xấu. Hỗ trợ và tạo điều kiện giúp đỡ các tổ chức, cá nhân tôn giáo
tham gia các hoạt động đối ngoại tôn giáo thông quan việc tham dự hội nghị,
hội thảo, diễn đàn tôn giáo quốc tế; giải quyết thủ tục xuất cảnh cho chức sắc,
nhà tu hành tham gia các khóa đào tạo tôn giáo và các hoạt động quốc tế có
liên quan đến tôn giáo.
- Duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chức
sắc, nhà tu hành trong các tôn giáo theo hướng rút ngắn thời gian đào tạo, mở
rộng loại hình đào tạo, tăng số lượng chiêu sinh. Phối hợp với các trường đào
tạo tôn giáo, chính quyền địa phương để phổ biến chính sách, pháp luật về tôn
giáo của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ làm công tác tôn giáo, chức sắc,
chức việc và tín đồ các tôn giáo.
- Chỉ đạo hướng dẫn việc xây dựng, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp cơ sở
đào tạo, thờ tự tôn giáo. Vận động, khuyến khích các tổ chức tôn giáo tích cực
129
tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện nhân đạo, góp phần vào thực hiện mục
tiêu "tốt đời, đẹp đạo", xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội.
4.1.2. Phương hướng hoàn thiện quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ
4.1.2.1. Hoàn thiện quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ
theo cơ chế tài chính mới * Luật NSNN 2015 [89]:
Luật NSNN 2015 đã được xây dựng và Quốc Hội thông qua. Luật có
những điểm mới tác động rất lớn đến quản lý tài chính của các CQNN, trong
đó có Ban Tôn giáo Chính phủ. Cụ thể là:
Về nguyên tắc quản lý NSNN: NSNN được quản lý thống nhất, tập
trung dân chủ, hiệu quả, tiết kiệm, công khai, minh bạch, công bằng, bình
đẳng; có phân công, phân cấp quản lý; gắn quyền hạn với trách nhiệm của cơ
quan quản lý nhà nước các cấp. Toàn bộ các khoản thu, chi ngân sách phải
được dự toán, tổng hợp đầy đủ vào NSNN. Các khoản thu ngân sách thực
hiện theo quy định của các luật thuế và chế độ thu theo quy định của pháp
luật. Các khoản chi ngân sách chỉ được thực hiện khi có dự toán được cấp có
thẩm quyền giao và phải bảo đảm đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định..
Về công khai, minh bạch của NSNN và vai trò của giám sát NSNN.
Luật NSNN 2015 có riêng Điều 15 để quy định về nội dung, hình thức, thời
hạn công khai quá trình lập dự toán, dự thảo ngân sách, dự toán, chấp hành,
quyết toán, kết quả kiểm toán NSNN. Điều 15 thể hiện khá đầy đủ các yêu
cầu về nội dung công khai, phạm vi công khai, hình thức công khai và trách
nhiệm phải thực hiện công khai.
Về lập dự toán NSNN hàng năm: Dự toán NSNN phải tổng hợp theo
từng khoản thu, chi và theo cơ cấu chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi
dự trữ quốc gia, chi trả nợ và viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự
phòng ngân sách. Đối với các cơ quan trực thuộc Bộ như Ban Tôn giáo Chính
130
phủ, kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 3 năm gồm các nội dung: mục
tiêu, nhiệm vụ, chế độ, chính sách chủ yếu của ngành, cơ quan, đơn vị; dự báo
các nguồn lực tài chính, trong đó dự báo về số thu được giao quản lý, yêu cầu
về chi ngân sách để thực hiện; thể hiện nguyên tắc và cách thức xác định, sắp
xếp thứ tự ưu tiên thực hiện các nhiệm vụ, hoạt động, chế độ, chính sách và
dự kiến phân bổ kinh phí trong tổng mức trần chi tiêu được cơ quan có thẩm
quyền xác định trước; các giải pháp chủ yếu để cân đối giữa nhu cầu chi ngân
sách và trần chi tiêu trong thời hạn 3 năm.
* Nghị định 16/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định
cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định, đơn vị sự nghiệp công lập
được quyết định các biện pháp thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch của đơn vị,
kế hoạch của cơ quan cấp trên giao, đảm bảo chất lượng, tiến độ; tham dự đấu
thầu các hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn của đơn vị sự
nghiệp công được cấp có thẩm quyền giao; liên doanh, liên kết với các tổ
chức, cá nhân để cung ứng sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội
theo quy định của pháp luật...
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đã quy định cụ thể về giá, phí và lộ
trình tính giá dịch vụ công về tôn giáo. Theo đó, đối với loại dịch vụ công về
tôn giáo không sử dụng kinh phí NSNN thì đơn vị sự nghiệp được tự xác
định giá dịch vụ theo nguyên tắc thị trường. Đối với loại dịch vụ công về tôn
giáo sử dụng kinh phí NSNN thì Nhà nước ban hành danh mục dịch vụ sự
nghiệp công và Nhà nước định giá; đồng thời quy định lộ trình tính giá dịch
vụ sự nghiệp công để phù hợp với khả năng của NSNN và thu nhập của
người dân [48].
4.1.2.2. Phương hướng hoàn thiện quản lý tài chính tại Ban Tôn
giáo Chính phủ Cơ chế quản lý tài chính đối với Ban và các đơn vị trực thuộc phải được
hoàn thiện và đổi mới theo phương châm nhất quán với các chủ trương, chính
131
sách của Đảng và Nhà nước trong công tác quản lý tài chính nói chung, đồng
thời đảm bảo nguồn lực thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm do Đảng và Nhà
nước giao về công tác tôn giáo, đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động tôn giáo
như xây dựng, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp cơ sở đào tạo, thờ tự tôn giáo,...
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN về tôn giáo, hạn chế các tác động
tiêu cực, những điểm nóng tôn giáo. Để hoàn thành tốt chủ trương, chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, phương hứng hoàn thiện quản lý tài chính
tại Ban Tôn giáo Chính phủ đòi hỏi phải làm tốt những nội dung sau:
* Hoàn thiện quản lý tài chính từ nguồn NSNN tại Ban Tôn giáo Chính phủ
Mục tiêu của quản lý tài chính từ nguồn NSNN tại Ban Tôn giáo Chính
phủ trong thời gian tới là không ngừng củng cố nâng cao hiệu quả quản lý,
đảm bảo tốt chức năng, nhiệm vụ của Ban và các cơ quan, đơn vị trực thuộc,
hoàn thiện các mục tiêu xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ công tác tôn giáo,
góp phần nâng cao chất lượng công tác tôn giáo tại Ban Tôn giáo Chính phủ
và các tỉnh, thành phố.
Thứ nhất, hoàn thiện quản lý NSNN tại Ban Tôn giáo Chính phủ phải
quán triệt đường lối, chính sách về tôn giáo và pháp luật về quản lý tài chính
nói chung và nhiệm vụ của Ban Tôn giáo nói riêng.
Thứ hai, tập trung cơ cấu lại NSNN theo hướng phân định rõ nguồn thu
và nhiệm vụ chi của NSNN tại các cơ quan, đơn vị sự nghiệp. Đồng thời, đa
dạng hóa nguồn thu, mở rộng nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn thu tại các đơn vị
sự nghiệp để đảm bảo tính ổn định lâu dài của thu ngân sách.
Thứ ba, đổi mới và nâng cao hiệu quả điều hành ngân sách tại Ban Tôn giáo
Chính phủ, triệt để tiết kiệm trong chi thường xuyên, ưu tiên chi đầu tư phát triển.
Thứ tư, hoàn thiện quản lý NSNN phải đi đôi với hoàn thiện bộ máy,
tăng cường chức năng, quyền hạn của bộ máy quản lý NSNN. Nâng cao trình
độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý tài chính. Hoàn thiện
chế độ thông tin báo cáo, công tác tài chính kế toán và trách nhiệm giải trình
về kết quả của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
132
Thứ năm, thực hiện chuyển đổi cơ chế phân bổ chi thường xuyên từ
NSNN sang cơ chế nhà nước đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ trên cơ sở hệ thống
định mức kinh tế kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn của từng loại hình dịch vụ
đối với các đơn vị sự nghiệp.
Thứ sáu, hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính khuyến khích việc huy
động các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển sự nghiệp công trong
lĩnh vực tôn giáo, nhất là sự nghiệp giáo dục đào tạo, bồi dưỡng đối với chức
sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo, nghiên cứu khoa học tôn giáo.
Thứ bảy, cần nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quản lý
lao động, biên chế và tài chính, thúc đẩy việc sắp xếp tổ chức bộ máy hợp lý,
tinh giản biên chế, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Thứ tám, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác quản lý hành chính nhà nước và cung ứng dịch vụ công liên
quan đến tôn giáo tại Ban Tôn giáo Chính phủ và các đơn vị trực thuộc.
Thứ chín, nâng cao năng lực và hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám sát
tài chính, đảm bảo sử dụng tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát các nguồn lực
tài chính, tài sản quốc gia.
Thứ mười, cần tạo nguồn kinh phí chủ động cho các hoạt động tôn giáo
tại Ban Tôn giáo Chính phủ.
Hiện nay, Ban Tôn giáo là một đơn vị trực thuộc Bộ Nội vụ nên tài
chính hàng năm do Bộ Nội vụ phân bổ, nhu cầu tài chính cho công tác tôn
giáo thường lớn hơn rất nhiều so với nguồn kinh phí được phân bổ. Trong
trường hợp phát sinh các điểm nóng, xung đột tôn giáo, Ban Tôn giáo Chính
phủ phải ứng trước kinh phí hoạt động và tiến hành các thủ tục điều chỉnh dự
toán trong năm, hoặc bổ sung dự toán cho năm tiếp theo. Đặc biệt, có những
trường hợp, nguồn kinh phí xử lý điểm nóng tôn giáo do Chính phủ trực tiếp
giao Bộ Tài chính phân bổ về Ban, tạo ra sự không thống nhất trong quản lý
133
tài chính của Ban. Vì vậy, với hoạt động đặc thù của mình, Ban Tôn giáo
Chính phủ cần phải được chủ động về tài chính cho công tác tôn giáo đặc thù.
Nguồn tài chính này có thể là nguồn kinh phí NSNN cấp dự phòng hàng năm
cho nhiệm vụ đặc thù, được bổ sung thường xuyên và linh hoạt. Bộ Tài chính
giao trực tiếp cho Ban Tôn giáo Chính phủ quản lý nguồn tài chính và có
trách nhiệm báo cáo, giải trình với cấp có thẩm quyền nhằm tạo sự chủ động,
linh hoạt về tài chính cho các nhiệm vụ tôn giáo đặc thù.
* Hoàn thiện quản lý nguồn tài chính từ hoạt động sự nghiệp của Ban
Tôn giáo Chính phủ
Đổi mới hoạt động cung ứng dịch vụ công về tôn giáo là thúc đẩy các
hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng phát triển mạnh mẽ dưới sự quản lý của Nhà
nước, phục vụ nhân dân tốt hơn cả về số lượng và chất lượng dịch vụ; nâng
cao hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công về tôn giáo, thúc đẩy sự
cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; xóa bỏ tình trạng bao cấp
tràn lan; huy động được các nguồn lực của xã hội để từ đó tái cơ cấu và sử
dụng hiệu quả nguồn ngân sách. Cụ thể:
Một là, Ban Tôn giáo Chính phủ và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc cần
nghiên cứu, bổ sung và đề xuất các quy định cụ thể về tổ chức bộ máy, quản
lý biên chế và cơ chế quản lý hoạt động của các đơn vị sự nghiệp. Trong đó,
về biên chế, nghiên cứu theo hướng có quy định tổng mức biên chế hoặc ràng
buộc điều kiện để đơn vị sự nghiệp có trách nhiệm trong quản lý số lượng biên
chế. Về cơ chế tài chính, cần có quy định về tổng hợp các nguồn thu của đơn vị
sự nghiệp, trong đó nguồn NSNN đặt hàng cũng được coi là một nguồn thu, để
phân loại và quy định mức độ tự chủ của đơn vị sự nghiệp công.
Hai là, cần xây dựng những quy định mức trần tối đa về lương căn cứ
kết quả hoạt động và dịch vụ cung cấp của đơn vị sự nghiệp, đơn vị được
quyết định mức chi trả tiền lương theo mức độ tự chủ, nhưng không quá trần
134
tối đa nhằm giúp các đơn vị sự nghiệp tự chủ trong việc trả lương cho cán bộ,
viên chức, người lao động và tránh việc sử dụng lao động quá khả năng chi
trả của đơn vị.
Ba là, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức một cách chính
đáng từ các hoạt động dịch vụ công về tôn giáo của đơn vị và tiết kiệm chi từ
nguồn kinh phí hoạt động thường xuyên do NSNN cấp. Chủ động tăng nguồn
thu, mở rộng và tăng cường chất lượng các hoạt động dịch vụ công về tôn giáo
(tăng cường hợp tác và liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học với các tổ chức
tôn giáo trong nước và nước ngoài; phối hợp quản lý các khu di tích văn hoá
lịch sử, danh lam thắng cảnh liên quan đến tôn giáo; xuất bản các loại sách
kinh, các ấn phẩm, giáo trình giảng dạy, văn hoá phẩm thuần tuý tôn giáo của
các tổ chức tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động,...) để cải thiện và
tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức, người lao động của Ban Tôn giáo Chính
phủ một cách hợp lý.
Bốn là, đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên đối với các hoạt
động sự nghiệp công về tôn giáo ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng miền núi, biên giới và hải đảo;
Thực hiện hỗ trợ trực tiếp cho các chức sắc, nhà tu hành và đồng bào các tôn
giáo thuộc nhóm đối tượng chính sách xã hội, các đối tượng nghèo để được
tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ sự nghiệp công về tôn giáo với chất lượng
cao hơn.
Năm là, hoàn thiện thể chế về cơ chế đặt hàng, mua hàng, giao nhiệm
vụ cung ứng dịch vụ công với các đơn vị sự nghiệp công về tôn giáo thuộc
Ban Tôn giáo Chính phủ. Xây dựng, hoàn thiện và ban hành hệ thống định
mức và tiêu chí, tiêu chuẩn của từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công. Cùng
với đó, đổi mới cơ chế tính giá đặt hàng sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp công;
Từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lý trong giá dịch vụ sự nghiệp,
phù hợp với thị trường và khả năng của NSNN.
135
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở BAN TÔN GIÁO
CHÍNH PHỦ
4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
4.2.1.1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của bộ phận tài chính
Một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng trong quản lý, điều hành
ngân sách đúng pháp luật và có hiệu quả là nhân tố con người hoạt động trong
lĩnh vực tài chính ngân sách. Giải pháp trước mắt là cần cơ cấu tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ của bộ phận tài chính, rà soát đánh giá lại toàn bộ nhân lực
quản lý tài chính cả về năng lực, trình độ và đạo đức nghề nghiệp. Qua đó tiến
hành sắp xếp lại tổ chức, kiện toàn bộ máy quản lý tài chính theo hướng tinh
gọn, chuyên trách và hoạt động có hiệu quả, đáp ứng được những đòi hỏi của
cơ chế mới.
Công tác tuyển dụng nhân lực quản lý tài chính cần phải thực hiện
nghiêm túc, trong đó chất lượng chuyên môn và phẩm chất đạo đức phải được
đặt lên hàng đầu. Quá trình tuyển dụng nên thông qua tổ chức thi tuyển nhân
viên công khai, có tiêu chí đánh giá đầy đủ các mặt, minh bạch, khách quan,...
để có thể tuyển chọn được nguồn nhân lực có chất lượng tốt nhất cho công tác
tài chính, kế toán. Đối với nguồn nhân lực làm công tác kế toán tại Ban và các
đơn vị sự nghiệp trực thuộc phải đáp ứng tiêu chuẩn nghiệp vụ đã được quy
định, từng bước chấn chỉnh việc tiếp nhận, thuyên chuyển, bổ nhiệm chức
danh kế toán nhằm tạo ổn định cho bộ máy kế toán, đảm bảo chất lượng
chuyên môn, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý tài chính kế toán tại các đơn vị
kế toán theo đúng quy định của Luật Kế toán.
4.2.1.2. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý tài chính
Một trong những nhân tố quan trọng trong quản lý, điều hành tài chính
đúng pháp luật và có hiệu quả là nhân tố con người hoạt động trong lĩnh vực
tài chính. Quản lý tài chính là vấn đề phức tạp, hơn nữa quy định về quản lý,
điều hành tài chính trong CQNN luôn thay đổi cho phù hợp với tình hình thực
136
tiễn và yêu cầu đổi mới, do vậy công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công
chức làm việc trong lĩnh vực này là một nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ quản lý tài chính, nhất là thực hiện các chủ trương,
chính sách mới, các nghiệp vụ mới phát sinh. Công tác đào tạo nâng cao năng
lực, trình độ của cán bộ công chức trong lĩnh vực tài chính cần phải gắn với
đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng. Cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cấp, các ngành, các đơn vị trong quá trình triển khai thực hiện Luật
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật phòng chống tham nhũng để góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng tài chính trong các đơn vị Ban
Tôn giáo Chính phủ. Nâng cao chất lượng bộ máy cán bộ quản lý tài chính
phải được coi là trách nhiệm của Đảng bộ Ban Tôn giáo Chính phủ và các
đơn vị trực thuộc. Cụ thể là:
Thứ nhất, Đảng bộ Ban Tôn giáo Chính phủ và các đơn vị trực thuộc
cần phải xây dựng kế hoạch bồi dưỡng tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo
đức, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ quản lý tài chính của Văn
phòng Ban và các đơn vị sự nghiệp qua các lớp lý luận chính trị trung, cao
cấp, QLNN, thạc sĩ chuyên ngành kế toán, bồi dưỡng nghiệp vụ kế toán…
Thứ hai, xây dựng chiến lược quy hoạch cán bộ quản lý tài chính bằng
cách đào tạo và đào tạo lại gắn với tiêu chuẩn hóa từng chức danh và yêu cầu
công tác. Bên cạnh đào tạo chuyên môn nghiệp vụ còn phải chú ý đào tạo
kiến thức về QLNN, về kinh tế thị trường, ngọai ngữ, tin học… Gắn việc đào
tạo bồi dưỡng với quá trình sử dụng phù hợp với sở trường của cán bộ tài
chính. Quan tâm chế độ tiền lương và thu nhập của đội ngũ cán bộ này làm
cho họ yên tâm công tác. Hàng năm phải đánh giá trách nhiệm nhiệm vụ của
cán bộ quản lý tài chính và xử lý nghiêm các trường hợp cố ý làm sai trong
quản lý thu chi tài chính.
Thứ ba, Ban Tôn giáo Chính phủ cần tăng cường phối hợp và xin ý
kiến chỉ đạo của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính về hướng dẫn chuyên môn nghiệp
137
vụ, mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý tài chính của
Ban và các đơn vị trực thuộc. Đồng thời, Ban Tôn giáo Chính phủ cần quan
tâm tốt hơn nữa về chế độ khen thưởng đối với các cá nhân, tổ chức làm
tốt công tác quản lý tài chính; thực hiện tốt việc tổ chức thi, xét tuyển công
chức, viên chức như việc ưu tiên bằng cấp thạc sĩ, đại học chính quy
trường quốc lập, tuyển dụng làm việc phải đúng ngành, có năng lực để tạo
nguồn phát triển hiệu quả cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt sau này.
4.2.2. Xây dựng và hoàn thiện quy chế tài chính mới phù hợp với
điều kiện hiện nay
Quy chế tài chính là một yếu tố quan trong việc tạo ra động lực tích cực
khai thác nguồn thu, quản lý chi tiêu tài sản của đơn vị. Thực hiện cơ chế tự
chủ tài chính thống nhất nhằm tăng tính chủ động trong việc khai thác các
nguồn thu từ NSNN và hoạt động sự nghiệp về tôn giáo đòi hỏi phải xây dựng
một quy chế cho phù hợp với cơ chế tài chính này, đặc biệt là quy định về
quản lý nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, chi
chế độ cho con người, cấp phát và thanh quyết toán kinh phí...
4.2.2.1. Nâng cao chất lượng xây dựng và lập dự toán ngân sách
nhà nước
Về xây dựng dự toán NSNN cần thể hiện rõ mục tiêu thúc đẩy tăng
trưởng nhanh, bền vững, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về tôn giáo,
thông qua thực hiện chính sách động viên hợp lý nhằm khuyến khích, khơi
thông các nguồn lực cho công tác tôn giáo, tăng mức và tỷ trọng NSNN đầu
tư cho con người, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, đảm bảo thực hiện
tốt nhiệm vụ tôn giáo. Ngoài các quy định hướng dẫn chung về công tác lập
dự toán NSNN, việc xây dựng và lập dự toán chi ngân sách của Ban cần căn
cứ dự toán phân bổ ngân sách. Xây dựng và lập dự toán chi ngân sách về chi
đầu tư xây dựng cơ bản phải ưu tiên bố trí vốn để thanh toán khối lượng công
trình xây dựng trụ sở mới và sửa chữa trụ sở cũ. Xây dựng dự toán chi thường
138
xuyên cần phải chú trọng đối với lĩnh vực chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chi
sự nghiệp kinh tế, nghiệp vụ chuyên môn và các nguồn kinh phí tự chủ không
được giao thấp hơn mức dự toán do Bộ Nội vụ giao; Những khoản chi thường
xuyên không có định mức phân bổ, dự toán năm kế hoạch được xây dựng trên
cơ sở đánh giá tình hình thực hiện ngân sách năm báo cáo, dự kiến nhiệm vụ
năm kế hoạch, số kiểm tra ngân sách năm kế hoạch được thông báo và chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi tiêu theo quy định hiện hành.
4.2.2.2. Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp
Đối với các đơn vị sự nghiệp thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ để nâng
cao hiệu quả quản lý tài chính cần nâng cao tính chủ động và quyền hạn trách
nhiệm của các đơn vị, đồng thời tạo điều kiện tập trung nguồn lực để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản
lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ là:
Một là, các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công về tôn giáo được
đảm bảo phần lớn bằng NSNN nên không đặt yêu cầu về lợi nhuận, song để
nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo hiệu quả QLNN về tôn giáo thì cần
phải tăng cường nguồn thu đáp ứng nhu cầu của hoạt động sự nghiệp. Đối với
Nhà xuất bản Tôn giáo cần mở rộng liên kết với các đơn vị xuất bản ấn phẩm
tôn giáo. Trường Nghiệp vụ tôn giáo tăng cường đào tạo, bồi dưỡng tôn giáo
với cán bộ, các tổ chức tôn giáo, thông tin, tuyên truyền về chủ trương, chính
sách, pháp luật đối với hoạt động tôn giáo, Viện Nghiên cứu chính sách tôn
giáo chủ động xây dựng các chương trình hợp tác quốc tế đối với các tổ chức
tôn giáo quốc tế, các chính phủ để có được thêm nguồn thu từ các dự án tài
trợ. Tạp chí Công tác tôn giáo nâng cao chất lượng các ấn phẩm tôn giáo để
đáp ứng nhu cầu của cán bộ, chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo và người đọc
quan tâm đến vấn đề tôn giáo, để các ấn phẩm tôn giáo trở thành cẩm nang
không thể thiếu của mỗi người. Các đơn vị sự nghiệp của Ban cần thảo luận,
bàn bạc công khai, dân chủ, trong đơn vị về việc xây dựng kế hoạch và các
139
phương án thực hiện nhằm mở rộng hoạt động, phát triển nguồn thu sự
nghiệp; tâm tư, nguyện vọng của người lao động; đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho khách hàng tham gia vào nâng cao chất lượng dịch vụ;…
Hai là, đổi mới cơ chế tự chủ trong công tác quản lý, sử dụng nguồn tài
chính và tài sản: Cần tăng cường quản lý việc sử dụng nguồn tài chính để
nâng cao năng lực tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp và hoạt động sự
nghiệp của Ban. Ngoài ra, cần tập trung quản lý chi tiêu nhằm đảm bảo tiết
kiệm, hiệu quả, đảm bảo thực hiện chủ trương đẩy mạnh tiết kiệm chống lãng
phí của Nhà nước. Các đơn vị sự nghiệp và Văn phòng Ban Tôn giáo cần tiếp
tục rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện Quy chế chi tiêu nội bộ cho phù hợp với tình
hình thay đổi cơ chế chính sách và thực tế... Tăng mức trích lập chênh lệch
thu chi từ hoạt động sự nghiệp vào quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, tạo sự chủ
động trong chi tiêu tiền lương, tiền thưởng, thu nhập tăng thêm.
Ba là, hoàn thiện công tác xét duyệt phân bổ kinh phí: Hàng năm,
Phòng Tài chính - Kế toán của Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện nhiệm vụ
xét duyệt phân bổ kinh phí cho các đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị sự nghiệp
cần dựa trên nhiệm vụ hàng năm của đơn vị để lựa chọn và đề xuất danh mục
những nhiệm vụ cần thiết, nhiệm vụ có tính chiến lược lâu dài, nhiệm vụ
trước mắt. Trên cơ sở đó, Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện phân bổ kinh phí
vừa đáp ứng nhu cầu của từng đơn vị vừa đảm bảo quản lý hiệu quả nguồn
kinh phí hoạt động và hạn chế sự chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ của
các đơn vị.
Bốn là, hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán kế toán: Ban Tôn giáo
Chính phủ và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc cần rà soát để hoàn thiện quy
chế chi tiêu nội bộ, bổ sung, cập nhật những văn bản tài chính mới, sửa đổi
những quy định chưa phù hợp, thay thế những văn bản đã bị bãi bỏ. Bổ sung,
chỉnh sửa các văn bản quy định tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành và chất
lượng công việc của cán bộ viên chức và người lao động. Hàng năm sau khi
140
kiểm tra, xét duyệt quyết toán tài chính năm cho đơn vị cần phải ra thông báo
kết quả kiểm tra, xét duyệt theo đúng tinh thần Thông tư số 01/2007/TT-BTC
ngày 02/01/2007 của Bộ Tài chính.
4.2.3. Tăng cường quản lý thu chi tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
4.2.3.1. Hoàn thiện việc chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước
Trong quá trình thực hiện chi ngân sách phải chủ động bám sát các chi
tiêu đã được Ban Tôn giáo Chính phủ quyết định. Các hoạt động đột xuất
ngoài dự toán phải được cân nhắc, tính toán cẩn thận trước khi quyết định, với
phương châm tìm được nguồn bổ sung mới quyết định chi. Ưu tiên chi thường
xuyên cho các khoản chi phục vụ hoạt động của bộ máy quản lý và các đối
tượng chính sách xã hội như các khoản chi lương, phụ cấp lương, các khoản
bảo đảm xã hội. Biện pháp cần thiết để chấn chỉnh là:
Một là, tăng cường kiểm soát chi ngân sách qua kho bạc Nhà nước.
Toàn bộ các khoản chi từ NSNN phải được kiểm soát qua kho bạc Nhà
nước Trung ương. Kho bạc Nhà nước cần cương quyết từ chối thanh toán
đối với các khoản chi chưa đủ điều kiện chi theo Luật NSNN, theo văn bản
hướng dẫn của Bộ Tài chính nhằm góp phần thực hiện tốt hơn nữa quá
trình quản lý chi ngân sách. Trong lĩnh vực chi sự nghiệp kinh tế cần thực
hiện bằng hình thức lệnh chi tiền, chi từ tài khoản tiền gửi của đơn vị thụ
hưởng từ ngân sách, để làm cho ngân sách của Ban sử dụng có hiệu quả,
không lãng phí, tiết kiệm, chi đúng theo quy định của Nhà nước về tiêu
chuẩn, chế độ, định mức chi tiêu, giảm tối thiểu quyết toán ngân sách sai,
tránh tình trạng xuất toán thu hồi khoản chi năm trước, để quyết toán ngân
sách Ban ngày càng tốt hơn nữa.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự điều hành của lãnh đạo
Ban đối với quản lý chi ngân sách nhà nước: việc tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng và vai trò điều hành của lãnh đạo Ban trong quản lý chi tiêu ngân sách
là vấn đề hết sức quan trọng. Các cấp uỷ Đảng, lãnh đạo Ban và đơn vị có
141
trách nhiệm quản lý ngân sách và chi tiêu, đảm bảo đúng định mức của Nhà
nước và giáo dục đảng viên quần chúng thực hiện các khoản chi ngân sách theo
đúng chế độ. Đảng bộ phải thường xuyên đôn đốc kiểm tra, chỉ đạo thực hiện
các khoản chi ngân sách theo đúng chính sách pháp luật của Nhà nước nhằm góp
phần nâng cao đời sống của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Cần
phải đưa nội dung quản lý chi ngân sách vào chương trình công tác thường kỳ
hàng tháng, quý để kiểm tra đánh giá cụ thể.
4.2.3.2. Tăng cường thanh tra, kiểm tra tài chính ngân sách
Thanh tra, kiểm tra, giám sát là một trong những nội dung bảo đảm cho
việc chấp hành ngân sách nghiêm minh, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành
vi vi phạm, góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia. Mặc dù có nhiều
cơ quan chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính,
nhưng vi phạm pháp luật vẫn luôn xảy ra. Vì vậy, cần chấn chỉnh công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát cả về phương diện tổ chức và hoạt động, phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cơ quan, khắc phục tình
trạng chồng chéo, giẫm đạp lên nhau trong việc kiểm tra, giám sát việc tuân
thủ và chấp hành ngân sách của đơn vị. Mặt khác, cần bảo đảm đủ điều kiện
và xác lập cơ chế hoạt động phù hợp, có chính sách ưu đãi đối với cơ quan
này, đồng thời tăng cường trách nhiệm, xử lý nghiêm minh những trường hợp
vi phạm của các tổ chức, cá nhân khi thực thi chức năng thanh tra, kiểm tra,
giám sát các hoạt động về tài chính ngân sách. Để tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra quản lý ngân sách của Ban Tôn giáo Chính phủ cần tập trung các
giải pháp sau:
Thứ nhất, xác định các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm cần tập trung thanh
tra, đặt biệt là các lĩnh vực dễ xảy ra lãng phí, thất thoát vốn như: công tác xây
dựng cơ bản, mua sắm trang bị tài sản, tình hình sử dụng ngân sách của các đơn
vị dự toán, công tác quản lý thu chi ngân sách của các đơn vị sự nghiệp.
Thứ hai, nâng cao trình độ năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ
142
cán bộ làm công tác thanh tra, thường xuyên đào tạo, cập nhật các kiến thức
mới không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, tài chính, quản lý nhà nước mà còn nhiều
kiến thức tổng hợp khác.
Thứ ba, phải đổi mới phương thức thanh tra, kiểm tra theo dự toán chi
ngân sách và thực tế đã chi. Qua thanh tra cần kết hợp với việc đánh giá hiệu quả sau thực hiện chi ngân sách.
Thứ tư, tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan có chức năng
thanh tra ở địa phương để tránh chồng chéo, trùng lắp trong quá trình thanh tra, gây khó khắn, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đơn vị được
thanh tra.
Thứ năm, xử lý nghiêm minh các sai phạm được phát hiện để nâng cao hiệu lực của công tác thanh tra. Tùy theo tính chất, mức độ của sai phạm mà
kiến nghị xử lý cho phù hợp nhằm làm cho công tác quản lý tài chính đi vào
nề nếp, răn đe sai phạm.
4.2.3.3. Thực hiện công khai tài chính Thực hiện công khai tài chính nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, đồng thời tạo điều kiện cho việc kiểm tra giám sát của nhân dân, trong việc sử dụng ngân sách. Đồng thời góp phần thực hiện tốt chính sách tiết
kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng trong CQNN, làm lành mạnh hóa
nền tài chính, tạo ra sự tin tưởng trong cộng đồng, từ đó thực hiện tốt đoàn kết nội bộ. Văn phòng Ban Tôn giáo Chính phủ và các đơn vị dự toán thực
hiện đúng, kịp thời chế độ công khai tài chính, ngân sách cụ thể như sau: Văn phòng Ban Tôn giáo Chính phủ và các đơn vị sự nghiệp thực hiện
chế độ công khai NSNN theo quy định tại Thông tư số 03/2005/TT-BTC
ngày 06/1/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy chế công khai tài chính đối với các cấp NSNN và chế độ báo cáo tình hình thực hiện
công khai tài chính, Thông tư số 54/2006/TT-BTC ngày 19/6/2006 của Bộ
Tài chính hướng dẫn quy chế công khai tài chính đối với các khoản hỗ trợ trực tiếp của NSNN đối với cá nhân, dân cư.
143
Các đơn vị dự toán và các đơn vị được NSNN hỗ trợ thực hiện công
khai theo quy định tại Thông tư số 21/2005/TT-BTC ngày 22/3/2005 của Bộ
Tài chính hướng dẫn thực hiện quy chế công khai tài chính đối với các đơn vị
dự toán ngân sách và các tổ chức được NSNN hỗ trợ.
4.2.3.4. Hoàn thiện quản lý thu, chi từ hoạt động sự nghiệp tại Ban
Tôn giáo Chính phủ
Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ là Nhà xuất
bản Tôn giáo, Tạp chí công tác Tôn giáo, Trung tâm thông tin, Viện Nghiên
cứu chính sách Tôn giáo, Trường Nghiệp vụ công tác tôn giáo đều được giao
quyền tự chủ về tài chính. Để tạo điều kiện tăng thu nhập cho cán bộ công
chức,viên chức, người lao động tại các đơn vị sự nghiệp nói trên, đòi hỏi các
đơn vị phải thực hiện nghiêm cơ chế tự chủ theo Nghị định số 16/2015/NĐ-
CP, mở rộng các hoạt động dịch vụ ở một số hoạt động sự nghiệp có thu như
xuất bản ấn phẩm tôn giáo, thông tin, tuyên truyền về công tác tôn giáo, cung
cấp các đồ dùng, lễ phẩm cho việc đạo,... Các đơn vị sử dụng ngân sách chủ
động hơn trong quá trình quản lý, sử dụng và điều hành ngân sách từ khâu lập
dự toán đến chấp hành dự toán thu, chi ngân sách, thực hiện rút dự toán ngân
sách theo định mức chi tiêu đã được Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Ban Tôn
giáo Chính phủ ban hành, hướng dẫn. Tiến độ, khối lượng thực hiện nhiệm
vụ đảm bảo đúng nguyên tắc trong việc lập, thẩm định, phê duyệt dự toán,
quyết toán kinh phí ngân sách.
Một là, quản lý tốt và khai thác nguồn thu từ hoạt động xuất bản ấn
phẩm tôn giáo và cung cấp các đồ dùng cho việc đạo: Đối với các ấn phẩm
tôn giáo liên kết với các đối tác cần tăng cường tìm kiếm khách hàng, các đơn
vị liên kết xuất bản, kiểm duyệt kỹ nội dung tài liệu, có chế độ ưu đãi đối với
các đơn vị liên kết xuất bản số lượng lớn, thường xuyên.
Hai là, quản lý và khai thác tốt nguồn thu từ hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ quản lý về tôn giáo, các chức sắc, chức việc và tín đồ tôn giáo.
144
Tăng cường hợp tác với các tổ chức tôn giáo, các Chính phủ và các chương
trình tôn giáo quốc tế để tăng nguồn viện trợ cho các chương trình đào tạo,
bồi dưỡng.
Ba là, xây dựng định mức chi theo đặc thù của các đơn vị trong Ban
Tôn giáo Chính phủ: chi nhuận bút, chi đào tạo, bồi dưỡng, chi công tác phí,...
đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế tránh tình trạng đối với các đơn vị ở
khối quản lý định mức này hợp lý nhưng đối với các đơn vị sự nghiệp có thu
định mức này quá thấp so với thực tế phát sinh.
Bốn là, hoàn thiện chế độ kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu, chi. Xây
dựng quy chế, nguyên tắc, phương pháp tự kiểm tra dựa trên cơ sở Quyết định
số 67/2004/QĐ-BTC của Bộ Tài chính, đồng thời tuyên truyền và phổ biến
rộng rãi tới mọi cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng về sự cần
thiết của công tác này. Thực hiện nghiêm túc việc tự kiểm tra trên cơ sở các
quy định của nhà nước và kế hoạch kiểm tra định kỳ, thường xuyên đã được
xây dựng. Thông qua công tác tự kiểm tra để tạo nên nề nếp, tính kỷ luật
trong công tác tài chính - kế toán của các đơn vị sự nghiệp, từ đó nâng cao ý
thức của mọi người trong việc sử dụng kinh phí, tài sản của nhà nước, giảm
thiểu những sai sót.
Năm là, thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch về tất cả các chỉ tiêu
tài chính hình thành một hệ thống thông tin tốt, kịp thời nhằm tăng cường sự
kiểm tra, giám sát của tất cả mọi người đối với công tác quản lý tài chính, là
điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu trong mỗi đơn vị.
4.2.4. Cải tiến công tác kế toán, kiểm toán, thanh tra
Hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra tài chính nội bộ Ban Tôn giáo
Chính phủ nhằm nắm bắt, phản ánh và đánh giá đúng đắn về việc chấp hành
pháp luật và tuân thủ các quy định quản lý tài chính trong bộ máy QLNN,
qua đó kịp thời chấn chỉnh hoặc áp dụng các biện pháp phù hợp, giúp đơn vị
khắc phục những tồn tại, hạn chế trong chi tiêu công, nâng cao hiệu quả tài
145
chính. Đồng thời hoạt động kiểm tra, giám sát tài chính nội bộ cũng giúp Bộ
Nội vụ, Ban Tôn giáo Chính phủ phát hiện những yếu kém trong hoạt động
quản lý hành chính và sự nghiệp công về tôn giáo; xác định nguyên nhân,
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và xử lý theo
thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xem xét, xử lý. Kịp thời
phát hiện những sơ hở, bất cập trong chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý
đối với Ban Tôn giáo Chính phủ và các đơn vị trực thuộc để kiến nghị với
Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và các CQNN có thẩm quyền về những biện pháp
khắc phục, hoàn thiện.
Công tác kiểm tra, giám sát tài chính nội bộ của Ban Tôn giáo Chính
phủ phải phải tuân theo các quy định của pháp luật và bảo đảm tính khách
quan, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch; tăng cường phối hợp có hiệu
quả giữa các đơn vị, cá nhân được giao nhiệm vụ giám sát, kiểm tra, thanh tra
và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong công tác giám sát,
kiểm tra, thanh tra; không làm cản trở hoạt động của các tổ chức, đơn vị là đối
tượng giám sát, kiểm tra, thanh tra và các chủ thể có liên quan khác; Không
trùng lặp về phạm vi, nội dung, đối tượng, thời gian kiểm tra, thanh tra giữa
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Các hoạt động kiểm tra, giám sát tài chính nội bộ phải được thực hiện
có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những khâu, lĩnh vực có nhiều rủi ro,
dễ nảy sinh sai phạm. Các nội dung kiểm tra, giám sát lồng ghép một cách
khoa học trong mỗi cuộc thanh tra, góp phần tiết kiệm chi phí và nhân lực.
Các kết luận, kiến nghị thanh tra, kiểm tra Tài chính đảm bảo đầy đủ chứng
lý, đúng pháp luật, phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao. Thông qua
những kết luận, kiến nghị, Ban Tôn giáo Chính phủ cần có những đề xuất
sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về tài chính, góp phần nâng cao hiệu
quả, hiệu lực QLNN đối với công tác tôn giáo, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật
tài chính.
146
4.2.5. Hiện đại hóa quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
4.2.5.1. Ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác quản lý tài chính
Vì khối lượng công việc quản lý tài chính hàng năm rất lớn nên việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý tài chính của Ban Tôn
giáo Chính phủ có ý nghĩa quan trọng. Ngoài việc đảm bảo tính kịp thời,
thống nhất ứng dụng công nghệ thông tin còn giúp cho người quản lý có quy
trình và nắm bắt các số liệu về tài chính, tài sản của các đơn vị trong ngành
một cách nhanh chóng và đầy đủ nhất. Để nâng cao chất lượng công tác quản
lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ, những giải pháp về ứng dụng công
nghệ thông tin cần thực hiện trong giai đoạn tới như sau:
- Thiết lập đồng bộ, thống nhất hạ tầng truyền thông theo yêu cầu của
ngành Tài chính từ Văn phòng Ban đến các đơn vị sự nghiệp trực thuộc, đáp
ứng các yêu cầu triển khai các ứng dụng tập trung của ngành. Phối kết hợp
với cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin của Ban Tôn giáo Chính phủ
để làm đầu mối cùng triển khai dự án trên.
- Phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực ứng dụng CNTT
trong lĩnh vực tài chính được coi là yếu tố mang tính quyết định. Ban Tôn
giáo Chính phủ cần thực hiện chương trình phổ cập ứng dụng công nghệ
thông tin thường xuyên tới 100% đội ngũ cán bộ nghiệp vụ tài chính phục vụ
trao đổi công việc chuyên môn, tập huấn các chương trình tác nghiệp trong
khâu triển khai phần mềm quản lý tài chính. Kết hợp với Cục Tin học và
Thống kê tài chính, Bộ Tài chính mở các khóa đào tạo chuyên sâu về CNTT
theo chuẩn quốc tế, đào tạo lại, cập nhật kiến thức công nghệ mới cho lãnh
đạo Ban, thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp trực thuộc và cán bộ làm công tác
quản lý tài chính.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng truyền thông thống nhất, kết nối 100% các
đơn vị hành chính, sự nghiệp của Ban nhằm phục vụ các hoạt động quản lý tài
chính quan trọng hàng ngày về thu chi ngân sách và hoạt động sự nghiệp, trao
147
đổi dữ liệu nghiệp vụ đảm bảo tính an toàn bảo mật theo tiêu chuẩn chung của
Bộ Tài chính.
- Áp dụng phần mềm hệ thống Quản lý thuế Thu nhập cá nhân nhằm hỗ
trợ tối đa các chức năng cơ bản trong quản lý thuế thu nhập cá nhân, nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ quan thuế.
4.2.5.2. Áp dụng quy trình quản lý tài chính theo hình thức khoán
chi hành chính
Thực hiện quy trình quản lý tài chính theo hình thức khoán chi hành
chính nhằm tạo thế chủ động và tự chịu trách nhiệm trong việc bố trí cán bộ
công chức, sử dụng kinh phí, xóa bỏ cơ chế "xin, cho", trao quyền cho đơn vị
có trách nhiệm quản lý sử dụng, tinh giản được bộ máy kiểm tra, xét duyệt
biên chế, xét duyệt kinh phí, theo dõi chi NSNN, tạo điều kiện từng bước tăng
thu nhập cho cán bộ công chức trong cơ quan hành chính (nhưng không làm
tăng tổng quỹ tiền lương). Những giải pháp cần thực hiện đối với quản lý tài
chính theo khoán chi hành chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ là:
- Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính theo cơ
chế xác lập các tiêu chí, định mức hợp lý, sát thực tế để cải tiến việc xây dựng
và phân bổ ngân sách. Thực hiện quy trình quản lý tài chính theo hình thức
khoán chi hành chính kết hợp với cải cách hành chính tạo tiền đề để thực hiện
việc giao quyền chủ động sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế cho đơn vị,
qua đó từng bước thực hiện việc tiêu chuẩn hóa cán bộ công chức, bố trí theo
chuyên môn được đào tạo và theo nhiệm vụ đã được rà soát, xác định lại,
nhằm khắc phục sự chồng chéo trong nội bộ.
- Quy định rõ ràng, cụ thể việc giao quyền tự chủ trong các cơ quan,
đơn vị; tiến tới xoá bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế
bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ
quan hành chính.
148
- Thực hiện giao kinh phí tự chủ đối với những khoản chi nghiệp vụ
đặc thù khi đã xác định rõ khối lượng công việc theo tiêu chuẩn, chế độ, định
mức; cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được áp dụng hệ số tăng thêm quỹ tiền
lương tối đa bằng 1 lần so với mức tiền lương, cấp bậc chức vụ… Cho phép
cơ quan thực hiện tự chủ được quyết định phương án chi trả tăng thêm thu
nhập cho từng công chức hoặc cho từng bộ phận, phòng, ban trên nguyên tắc
gắn với hiệu quả, kết quả công việc của từng người, thay vì chi trả thu nhập
tăng thêm theo kiểu cào bằng, bình quân như hiện nay. Bảo đảm thu nhập cho
cán bộ, công chức khi thực hiện thí điểm khoán được nâng cao hơn so với
mức tiền lương hiện hưởng do Nhà nước quy định.
- Công tác quán triệt tư tưởng, tạo tâm lý an tâm, đồng tình trong cán
bộ công chức khi thực hiện khoán cần được quan tâm hàng đầu. Việc giải
quyết chính sách đối với cán bộ dôi dư phải vận dụng nhiều biện pháp phù
hợp, linh hoạt sáng tạo.
- Tổ chức lao động khoa học, cải tiến phương thức làm việc theo hướng
nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân, đồng thời tăng cường ý thức cộng đồng,
tạo không khí thi đua lành mạnh trong đơn vị, từ đó loại bỏ được thái độ thờ ơ
vô trách nhiệm của cán bộ công chức.
4.2.5.3. Ứng dụng mô hình quản lý tài chính theo kết quả đầu ra
Những hạn chế trong quản lý tài chính ở các CQNN nói chung và ở
Ban Tôn giáo Chính phủ nói riêng có một phần nguyên nhân là thiếu sự gắn kết
giữa mục tiêu của đơn vị thụ hưởng ngân sách với các ưu tiên phát triển kinh tế
- xã hội chung của đất nước. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính của
Ban Tôn giáo Chính phủ, một giải pháp quan trọng là ứng dụng mô hình quản
lý tài chính theo kết quả đầu ra nhằm giải quyết những yếu kém trong khâu lập
dự toán ngân sách như lập ngân sách mang tính lịch sử - tăng giảm thiếu căn cứ
khoa học; tách biệt ngân sách đầu tư với ngân sách thường xuyên; thiếu minh
bạch trong phân bổ ngân sách; lập ngân sách theo đầu vào; thiếu sự điều phối
149
mang tính chiến lược ở tầm trung - dài hạn… Để quản lý tài chính theo kết quả
đầu ra đạt hiệu quả cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Đánh giá những đặc điểm quan trọng của tôn giáo và công tác tôn
giáo trong điều kiện tình hình hiện nay. Đây là giai đoạn khởi đầu trong công
tác lập ngân sách theo kết quả đầu ra. Ban Tôn giáo Chính phủ cần phải xác
định và phân tích những khuynh hướng tôn giáo mới, chính sách về tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta, mối liên hệ và các sự kiện tôn giáo trong và ngoài
nước mà Ban đang hoạt động để cung cấp những thông tin cơ bản từ đó lựa
chọn và ưu tiên hóa các mục tiêu trong tiến trình soạn, lập ngân sách.
- Xác định các kết quả đầu ra cần đạt được phù hợp với nhiệm vụ và
năng lực của mình. Ban Tôn giáo Chính phủ và các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc không nên lựa chọn quá nhiều mục tiêu và kết quả vượt quá so với khả
năng nguồn lực, cần tập trung vào nhiệm vụ cấp thiết, trước mắt và những
nhiệm vụ có tính chiến lược, lâu dài. Dựa trên những kết quả đã xác định, đơn
vị lập kế hoạch phân bổ nguồn lực nhằm hướng vào thực hiện các đầu ra
trong khoảng thời gian từ 3-5 năm.
- Lựa chọn các đầu ra tốt nhất để hướng vào việc đạt được các kết quả
đã lựa chọn trong thời gian 3-5 năm. Đơn vị cần ưu tiên trên cơ sở dựa vào sự
đánh giá tính hiệu quả và chi phí của mỗi đầu ra. Đầu ra và mối liên kết của
nó sẽ tạo nên sự gắn kết giữa lập kế hoạch và quá trình soạn lập ngân sách
thông qua các quyết định bên trong để làm thế nào với nguồn lực giới hạn thì
có thể thực hiện kế hoạch hiệu quả nhất.
- Xác định và đánh giá những tác động của đầu ra trong thời gian thực
hiện kế hoạch. Đánh giá năng lực của Ban và các đơn vị sự nghiệp trong việc
cung cấp các sản phẩm đầu ra về xây dựng và thực hiện cơ chế chính sách tôn
giáo, các dịch vụ công về tôn giáo nhằm đạt được kết quả lựa chọn. Ban Tôn
giáo Chính phủ cũng cần xác định rõ về các kết quả mong đợi, các đầu ra có
thể cung cấp và năng lực của đơn vị mình.
150
- Để lập ngân sách theo kết quả đầu ra thì vấn đề quan trọng là hệ thống
báo cáo của đơn vị về tình hình sử dụng ngân sách như thế nào. Hệ thống báo
cáo gồm: báo cáo kết quả, báo cáo đầu ra, báo cáo chi phí đầu ra. Báo cáo kết
quả giải thích đầy đủ mối quan hệ giữa đầu ra và kết quả; xác định các kết quả
phát sinh từ đầu ra; kết quả được miêu tả thống nhất với mục tiêu của Nhà
nước hay không; có phát sinh những kết quả không mong đợi từ các đầu ra
của đơn vị hay không. Đây cũng là cơ sở cho việc lập dự toán ngân sách và
phân bổ nguồn lực.
- Phải có những quy định cụ về tiêu chuẩn hiệu quả trong các đơn vị sử
dụng ngân sách. Xây dựng đầy đủ và khoa học các tiêu chí đánh giá hoạt
động nhất là các tiêu chuẩn, định mức số lượng và chất lượng kết quả trong
từng lĩnh vực tạo cơ sở chuẩn mực cho việc thực hiện chế độ kiểm tra, giám
sát của các CQNN có thẩm quyền là điều rất quan trọng và không thể thiếu.
Những khoản chi tiêu thường xuyên của Ban Tôn giáo Chính phủ là những
khoản chi tiêu gắn liền với việc thực hiện các chức năng QLNN về tôn giáo,
tức là gắn liền với việc đáp ứng các nhu cầu chung, nhu cầu có tính chất toàn
xã hội. Vì thế, hiệu quả của các khoản chi tiêu thường xuyên của Ban cũng
phải được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành các nhiệm vụ
được giao. Đây thực sự là một vấn đề rất khó khăn khi triển khai áp dụng
phương thức quản lý mới vì đặc điểm của việc quản lý và kiểm soát chi
NSNN nói chung khó đo lường bằng các chỉ tiêu định lượng.
- Gắn kết chặt chẽ quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của người lãnh
đạo trong quản lý tài chính theo kết quả đầu ra Khi đo lường, đánh giá công
việc thực hiện phải gắn kết việc đo lường với trách nhiệm và quyền hạn của
người ra quyết định. Quyền hạn và trách nhiệm phải gắn bó với nhau để vừa
có thể tạo ra và tối đa hóa động lực phát triển, vừa điều tiết việc sử dụng
quyền hạn đó theo đúng mục tiêu. Người quản lý phải có trách nhiệm đối với
các kết quả thực hiện của mình khi họ được trao quyền quyết định và tính linh
151
hoạt để chuyển nguồn lực từ hoạt động kém hiệu quả sang hoạt động có hiệu
quả hơn để vừa tạo động lực cần thiết, vừa có thể kiểm soát được hoạt động
của đơn vị nhằm đạt các mục tiêu đặt ra.
- Kết hợp kiểm tra quá trình thực hiện đầu ra với đánh giá kết quả để
đảm bảo quyết định đưa ra là hợp lý. Đánh giá và kiểm tra là những yếu tố
quan trọng của quản lý tài chính theo kết quả đầu ra, chúng có sự hỗ trợ qua
lại lẫn nhau. Kiểm tra qua các dữ liệu thường chỉ cung cấp cho người quản lý
biết các vấn đề thực hiện kết quả đầu ra, nhưng không có phân tích thêm, do
vậy không đưa ra những giải pháp để giải quyết vấn đề. Còn đánh giá, phân
tích mối quan hệ giữa nguyên nhân, kết quả và đầu ra để đưa ra những khuyến
nghị hành động, là sự bổ sung hữu ích nhằm đơn giản hóa cách thức giám sát
công việc thực hiện qua dữ liệu.
152
KẾT LUẬN
Ngân sách nhà nước nói chung và tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ nói riêng là một trong những công cụ của chính sách tài chính nhà nước và các cơ quan QLNN để quản lý lĩnh vực tôn giáo, một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm trong đời sống xã hội của nước ta nhằm đáp ứng những mục tiêu ổn định chính trị - xã hội theo định hướng XHCN. Vì vậy, tăng cường quản lý hoạt động tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, đáp ứng tốt nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước khi thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính và cung cấp dịch vụ công về tôn giáo.
Hiện nay, cơ chế quản lý tài chính đối với các CQNN trong lĩnh vực đặc thù như ban Tôn giáo Chính phủ vẫn còn những điểm chưa phù hợp, nhất là trong bối cảnh các hoạt động tôn giáo ngày càng trở nên phức tạp cả về các loại hình tôn giáo, loại hình hoạt động, quy mô địa bàn hoạt động và số lượng các tín đồ cũng như việc hay bị các thế lực phản động lợi dụng kích động. Do vậy, việc đảm bảo tài chính cho các hoạt động của Ban Tôn giáo Chỉnh phủ gặp nhiều thách thức. Mặt khác, công tác tài chính tại Ban Tôn giáo có đặc thù vừa quản lý tài chính đối với các đơn vị hành chính vừa quản lý tài chính đối với hoạt động sự nghiệp nên quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ được chia thành hai mảng khác nhau: quản lý NSNN và quản lý tài chính hoạt động sự nghiệp. Phân tích hoạt động quản lý tài chính ở hai mảng riêng biệt tại Ban Tôn giáo Chính phủ cho thấy sự phức tạp trong công tác tài chính đòi hỏi chuyên môn, nghiệp vụ cao của những cán bộ tài chính. Hoạt động tôn giáo phức tạp và đặc thù nên đòi hỏi nguồn tài chính của Ban phải vững mạnh, được hình thành từ nhiều nguồn ngoài NSNN mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với Ban Tôn giáo Chính phủ.
Thông qua các số liệu đã trình bày và phân tích cho thấy nhu cầu về nguồn kinh phí nhằm duy trì hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ tương đối lớn, trong đó có rất nhiều các khoản chi đặc thù như hỗ trợ đối với các chức sắc, chức việc các tôn giáo hay chi hỗ trợ điều tra, khảo sát với các tôn
153
giáo đòi hỏi một nguồn kinh phí không nhỏ, trong thời gian dài. Vì vậy việc cân đối thu chi từ ngân sách đối với các hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ là rất khó khăn. Đối với hoạt động sự nghiệp, do nhu cầu về các dịch vụ công về tôn giáo ngày càng gia tăng nên nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp có xu hướng tăng lên song vì đây là những dịch vụ công nên nguồn thu theo quy định của Nhà nước không cao, chưa thực sự đáp ứng nhu cầu về kinh phí hoạt động tại các đơn vị này.
Mục tiêu của quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ trong thời gian tới là không ngừng củng cố nâng cao hiệu quả quản lý, đảm bảo tốt chức năng, nhiệm vụ của Ban và các cơ quan, đơn vị trực thuộc, hoàn thiện các mục tiêu xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ công tác tôn giáo, góp phần nâng cao chất lượng công tác tôn giáo tại Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao.
Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ trong giai đoạn tới, nghiên cứu sinh đã xây dựng những phương hướng nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ với những nội dung cụ thể:
- Nâng cao năng lực quản lý tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ - Phương hướng hoàn thiện quản lý tài chính từ nguồn NSNN tại Ban
Tôn giáo Chính phủ - Phương hướng hoàn thiện quản lý nguồn tài chính từ hoạt động sự
nghiệp của Ban Tôn giáo Chính phủ - Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát tài chính nội bộ - Hiện đại hoá quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ Trong khuôn khổ giới hạn của luận án, khả năng trình độ của nghiên
cứu sinh, việc nghiên cứu hoạt động quản lý tài chính tại một đơn vị đặc thù như Ban Tôn giáo Chính phủ không tránh khỏi những khiếm khuyết về nội dung, phương pháp tiếp cận. Nghiên cứu sinh hy vọng tiếp tục nhận được những góp ý về mặt chuyên môn của các nhà khoa học, nhà chuyên môn và những người quan tâm đến công tác quản lý tài chính nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ trong giai đoạn hiện nay.
154
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Hữu Nhường (2010), "Giới thiệu về chính sách tôn giáo ở Singapore và Malaysia", Tạp chí Công tác Tôn giáo, (10), tr.51-54.
2. Nguyễn Hữu Nhường (2012), "Xây dựng văn hoá doanh nghiệp ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và Quản lý, (2), tr.53-55.
3. Nguyễn Hữu Nhường (2012), "Xây dựng giá trị văn hoá để phát triển doanh nghiệp", Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (11), tr.32-34.
4. Nguyễn Hữu Nhường (2014), "Về quyền tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập", Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (8), tr.6-8.
5. Nguyễn Hữu Nhường (2014), "Đẩy lùi yếu kém trong đầu tư công", Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (11), tr.11-13.
155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Lê Văn Ái (2004), Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính
công trong các cơ quan hành chính nhà nước, Đề tài nhánh số 67
thuộc đề tài cấp nhà nước - Mã số DTDLNN/2003/09.
2. Ban Tôn giáo Chính phủ (2008), Báo cáo tổng hợp dự toán chi NSNN năm
2008, Hà Nội.
3. Ban Tôn giáo Chính phủ (2009), Báo cáo tổng hợp dự toán chi NSNN năm
2009, Hà Nội.
4. Ban Tôn giáo Chính phủ (2010), Báo cáo tổng hợp dự toán chi NSNN năm
2010, Hà Nội.
5. Ban Tôn giáo Chính phủ (2011), Báo cáo tổng hợp dự toán chi NSNN năm
2011, Hà Nội.
6. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Báo cáo tổng hợp dự toán chi NSNN năm
2012, Hà Nội.
7. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Báo cáo tổng hợp dự toán chi NSNN năm
2013, Hà Nội.
8. Ban Tôn giáo Chính phủ (2014), Báo cáo tổng hợp dự toán chi NSNN năm
2014, Hà Nội.
9. Ban Tôn giáo Chính phủ (2009), Báo cáo tổng hợp quyết toán NSNN năm
2008, Hà Nội.
10. Ban Tôn giáo Chính phủ (2010), Báo cáo tổng hợp quyết toán NSNN năm
2009, Hà Nội.
11. Ban Tôn giáo Chính phủ (2011), Báo cáo tổng hợp quyết toán NSNN năm
2010, Hà Nội.
12. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Báo cáo tổng hợp quyết toán NSNN năm
2011, Hà Nội.
156
13. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Báo cáo tổng hợp quyết toán NSNN năm
2012, Hà Nội.
14. Ban Tôn giáo Chính phủ (2014), Báo cáo tổng hợp quyết toán NSNN
năm 2013, Hà Nội.
15. Ban Tôn giáo Chính phủ (2009), Báo cáo tình hình thu chi hoạt động sự
nghiệp năm 2008, Hà Nội.
16. Ban Tôn giáo Chính phủ (2010), Báo cáo tình hình thu chi hoạt động sự
nghiệp năm 2009, Hà Nội.
17. Ban Tôn giáo Chính phủ (2011), Báo cáo tình hình thu chi hoạt động sự
nghiệp năm 2010, Hà Nội
18. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Báo cáo tình hình thu chi hoạt động sự
nghiệp năm 2011, Hà Nội.
19. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Báo cáo tình hình thu chi hoạt động sự
nghiệp năm 2012, Hà Nội.
20. Ban Tôn giáo Chính phủ (2014), Báo cáo tình hình thu chi hoạt động sự
nghiệp năm 2013, Hà Nội.
21. Ban Tôn giáo Chính phủ (2009), Báo cáo quyết toán hoạt động sự nghiệp
năm 2008, Hà Nội.
22. Ban Tôn giáo Chính phủ (2010), Báo cáo quyết toán hoạt động sự nghiệp
năm 2009, Hà Nội.
23. Ban Tôn giáo Chính phủ (2011), Báo cáo quyết toán hoạt động sự nghiệp
năm 2010, Hà Nội.
24. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Báo cáo quyết toán hoạt động sự nghiệp
năm 2011, Hà Nội.
25. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Báo cáo quyết toán hoạt động sự nghiệp
năm 2012, Hà Nội.
26. Ban Tôn giáo Chính phủ (2014), Báo cáo quyết toán hoạt động sự nghiệp
năm 2013, Hà Nội.
157
27. Ban Tôn giáo Chính phủ (2009), Báo cáo tổng hợp tình hình kinh phí và
quyết toán kinh phí đã sử dụng của các đơn vị sự nghiệp năm
2008, Hà Nội.
28. Ban Tôn giáo Chính phủ (2010), Báo cáo tổng hợp tình hình kinh phí và
quyết toán kinh phí đã sử dụng của các đơn vị sự nghiệp năm
2009, Hà Nội.
29. Ban Tôn giáo Chính phủ (2011), Báo cáo tổng hợp tình hình kinh phí và
quyết toán kinh phí đã sử dụng của các đơn vị sự nghiệp năm
2010, Hà Nội.
30. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Báo cáo tổng hợp tình hình kinh phí và
quyết toán kinh phí đã sử dụng của các đơn vị sự nghiệp năm
2011, Hà Nội.
31. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Báo cáo tổng hợp tình hình kinh phí và
quyết toán kinh phí đã sử dụng của các đơn vị sự nghiệp năm
2012, Hà Nội.
32. Ban Tôn giáo Chính phủ (2014), Báo cáo tổng hợp tình hình kinh phí và
quyết toán kinh phí đã sử dụng của các đơn vị sự nghiệp năm
2013, Hà Nội.
33. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Báo cáo Khảo sát thực trạng đồng bào
dân tộc thiểu số theo đạo Công giáo, Hà Nội.
34. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Báo cáo Khảo sát thực trạng Phật giáo
vùng biên giới hải đảo các tỉnh duyên hải Miền Trung và Nam Bộ,
Hà Nội.
35. Ban Tôn giáo Chính phủ (2011), Phương hướng, nhiệm vụ công tác tôn
giáo giai đoạn 2011-2016 và tầm nhìn đến năm 2020, Hà Nội.
36. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Hội nghị trực tuyến Tổng kết công tác
QLNN về tôn giáo năm 2012 và triển khai nhiệm vụ công tác năm
2013, Hà Nội.
158
37. Ban Tôn giáo Chính phủ (2014), Văn bản Pháp luật Việt Nam về tín
ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo.
38. Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Phòng Tài chính - Kế toán, Hà Nội.
39. Ban Tôn giáo Chính phủ và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(2011), Tiếp tục đổi mới chính sách tôn giáo: những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Kỷ yếu Hội thảo của Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp
với Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
40. Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2011), Chủ tịch
Hồ Chí Minh với Phật giáo, Nxb Tổng hợp tp. Hồ Chí Minh.
41. Bộ Tài chính (2003), Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23 tháng 6 năm
2003 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6
tháng 6 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi
hành luật NSNN, Hà Nội.
42. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 18/2006/TT-BTC ngày 13 tháng 3 năm
2006 hướng dẫn chế độ kiểm soát chi đối với CQNN thực hiện chế
độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí
quản lý hành chính, Hà Nội.
43. Bộ Tài chính (2006), Thông tư 71 hướng đẫn thực hiện Nghị định
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối
với ĐVSN công lập, Hà Nội.
44. Bộ Tài chính (2007), Chế độ tự chủ về tài chính, biên chế đối với CQNN,
đơn vị sự nghiệp công lập, Nxb Tài chính, Hà Nội.
45. Chính phủ (2003), Nghị định 60/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước, Hà Nội.
46. Chính phủ (2005), Quyết định 16/2005/QĐ-TTg về hỗ trợ kinh phí hoạt
động cho các tổ chức tôn giáo và chức sắc tôn giáo hoạt động tại
Việt Nam, Hà Nội.
159
47. Chính phủ (2006), Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính đối với ĐVSN công lập, Hà Nội.
48. Chính phủ (2015), Nghị định 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công lập, Hà Nội.
49. Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng thế giới (2005), Việt Nam quản lý chi
tiêu công để tăng trưởng và giảm nghèo, Hà Nội.
50. Nguyễn Mạnh Cường (2008), Văn hoá tín ngưỡng của một số dân tộc trên đất
nước Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin và Viện Văn hoá, Hà Nội.
51. Lê Sĩ Dược (2000), Cải cách bộ máy hành chính cấp trung ương trong công
cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Tất Đạt (2011), Mối quan hệ giữa nhà nước và Giáo hội Phật
giáo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên) (2001), Các giải pháp thúc đẩy cải cách
hành chính ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Phạm Ngọc Hiến (2003), Quản lý tài chính công ở Việt Nam, Đề tài khoa
học mã số 2000-98-083, Học viện Hành chính chủ trì, Hà Nội.
55. Tô Thiện Hiền (2012), Nâng cao hiệu quả quản lý NSNN tỉnh An Giang
giai đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn đến 2020, Luận án tiến sĩ kinh
tế, chuyên ngành Kinh tế tài chính - Ngân hàng, ĐH Ngân hàng
thành phố Hồ Chí Minh.
56. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), Quản lý tài chính công: Lý luận và
thực tiễn, Hội thảo khoa học, Hà Nội.
57. Học viện Tài chính (2002), Giáo trình Quản lý Tài chính nhà nước, Nxb
Tài chính, Hà Nội.
58. Học viện Tài chính (2002), Giáo trình Tài chính học, Nxb Tài chính, Hà Nội.
59. Học viện Tài chính (2003), Quản lý tài chính công: những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Kỷ yếu Hội thảo khoa học.
160
60. Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam (2005), Báo cáo phát triển
Việt Nam 2004: Quản lý và điều hành, Hà Nội.
61. Trịnh Thị Thúy Hồng (2012), Quản lý chi ngân sách nhà nước trong đầu
tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Bình Định, Luận án Tiến sĩ
kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân.
62. Đỗ Minh Hợp (2009), Tôn giáo học nhập môn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
63. Nguyễn Ngọc Hùng (1998), Lý thuyết tài chính - tiền tệ, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
64. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), Cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực
hành chính sự nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, chuyên
ngành Quản lý kinh tế, ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
65. Đỗ Quang Hưng (2008), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý
luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
66. Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
67. Nguyễn Quang Hưng (2015), Đổi mới kiểm soát chi ngân sách thường
xuyên của chính quyền địa phương các cấp qua Kho bạc Nhà
nước, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.
68. Lê Thị Thanh Hương (2012), Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong
các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh
tế, Đại học Thương mại.
69. Phạm Văn Khoan và Nguyễn Trọng Thản (Đồng chủ biên) (2010), Giáo
trình Quản lý Tài chính các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công, , Học viện Tài chính, Nxb Tài chính, Hà Nội.
70. Bùi Đức Luận (2003), "Những bước tiến trong việc thể chế hoá chủ
trương, chính sách về tôn giáo của nước ta thời gian gần đây", Tạp
chí Nghiên cứu tôn giáo, (10).
161
71. Nguyễn Đức Lữ (2005), "Quá trình hoàn thiện chủ trương chính sách về
tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong 60 năm (1945 - 2005)",
Tạp chí Công tác tôn giáo, (3).
72. Nguyễn Đức Lữ (2006), "Vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong văn
kiện của Đại hội X của Đảng" Tạp chí Công tác tôn giáo, (9).
73. Bùi Tuấn Minh (2012), Phân tích hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn kinh
phí trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo trực thuộc Bộ Tài chính,
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành kế toán, Học viện Tài chính, Hà Nội.
74. Ngân hàng Phát triển Châu Á (2013), Tài chính công và cải cách quản lý
tài chính ở Trung Quốc: Quản lý đặc thù với Kho bạc và thị
trường trái phiếu (Public Finance And Financial Management Reforms In China: Treasury Management And Bond Market
Specialists), Hà Nội.
75. Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (Đồng chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ
Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
76. Nguyễn Công Nghiệp (2000), Đánh giá cải cách hành chính nhà nước trong lĩnh vực quản lý tài chính công, Ban chỉ đạo cải cách hành
chính của chính phủ, Hà Nội.
77. Thang Văn Phúc (2001), Cải cách hành chính nhà nước; thực trạng, nguyên nhân; giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Nguyễn Ngọc Quỳnh (2010), Chính sách tôn giáo thời Tự Đức (1848-1883), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Nguyễn Hoài Sanh (2013), Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo: Những vấn đề
lý luận và thực tiễn cấp bách ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã
hội Việt Nam, Hà Nội.
80. Vũ Thị Thanh Thủy (2012), Quản lý tài chính các trường đại học công lập ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà Nội.
162
81. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định 134/2009/QĐ-TTg Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ, Hà Nội.
82. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định 10/2014/QĐ-TTg Quy định hỗ
trợ kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước cho các tổ chức tôn giáo, chức sắc, chức việc tôn giáo hoạt động tại Việt Nam, Hà Nội.
83. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định 06/2015/QĐ-TTg Quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ, Hà Nội.
84. Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2010), Hoàn thiện chuyển đổi cơ chế quản lý tài
chính tại Đài truyền hình Việt Nam trong thời gian qua, Luận văn
Thạc sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
85. Trần Trí Trinh (2008), Các giải pháp cải cách quản lý tài chính công nhằm thúc đẩy cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
86. Trường Đại học tài chính kế toán Hà Nội (2000), Quản lý tài chính nhà nước, Nxb Tài chính, Hà Nội.
87. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Luật Ngân sách nhà nước, Hà Nội
88. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Hà Nội.
89. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2015), Dự thảo Luật Ngân sách nhà nước,
Hà Nội
90. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2015), Dự thảo Luật tín ngưỡng và tôn
giáo, Hà Nội.
91. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
92. Đặng Nghiêm Vạn (2003), "Để có cái nhìn mới về tôn giáo và công tác
tôn giáo", Tạp chí Cộng sản, (19).
93. Nguyễn Thanh Xuân (2013), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
163
94. Website của Chính phủ, http://www.caicachhanhchinh.gov.vn/, [Truy cập
ngày 10/6/2015].
95. Website của Bộ Tài chính, http://www.mof.gov.vn/, [Truy cập ngày
02/4/2015]
96. Website của Ban Tôn giáo Chính phủ, http://www.btgcp.gov.vn, [Truy cập
ngày 06/3/2015].
Tài liệu tiếng Anh:
97. Anand Rajaram, Tuan Minh Le, Nataliya Biletska, Jim Brumby (2010), A
Diagnostic Framework for Assessing Public Investment
Management, World Bank.
98. Chris Edwards (2009), "Cẩm nang người làm chính sách" - Viện nghiên
cứu CATO (Handbook for policymakers ) tại trang
http://object.cato.org /sites/cato.org/files/serials/files/cato-handbook
-policymakers/2009/9 /hb111-4.pdf, [Truy cập ngày 07/8/2015].
99. Chritopher Pass, Bryan Lowes, Leslie Davies (1994), Từ điển kinh tế Anh
- Việt, Nxb Mũi Cà Mau, Cà Mau.
100. Eugene Tan (2008), Keeping God in Place": How Religion is Managed
in Singapore, Publisher: Singapore Management University.
101. Harvey S. Rosen (2000), Tài chính công, Irwin McGraw-Hill, xuất bản
lần thứ 5.
102. Laurel Kendall and Nguyen Van Huy (2007), Vietnam: Journeys of
Body, Mind, and Spirit, Publisher: American Museum of Natural
History and Vietnam Museum of Ethnology.
103. Ministry of Strategy and Finance (2013), 2012 Modularization of
Korea’s Development Experience: Korean Experience of
Financial Management Information System: Construction,
Operation, and Results", Publisher: Yonsei University.
164
104. Myengkyo Seo (2013), State Management of Religion in Indonesia
(Routledge Religion in Contemporary Asia Series, Publisher:
Routledge, USA.
105. Philip Taylor (2004), Goddess on the Rise: Pilgrimage and Popular
Religion in Vietnam, Publisher: the Department of Anthropology,
Research School of Pacific and Asian Studies, The Australian
National University
106. Philip Taylor (2007), Modernity and Re-enchantment: Religion in Post-
revolutionary Vietnam, Publisher: Institute of Southeast Asian Studies.
107. Roben H. Haveman, Jonh Bascom (2000), "Tài chính công", Online
Encyclopedia 2000, tại trang http://encarta.msn.com, [Truy cập
ngày 05/07/2015].
108. Wolfgang Streeck and Daniel Mertens (2011), Fiscal austerity and
public investment: Is the possible the enemy of the necessary?,
Max Planck Institute for the Study of Societies.
PHỤ LỤC Phụ lục 1: Bảng cân đối tài khoản Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2009
Đơn vị: Triệu đồng
SỐ PHÁT SINH SỐ DƯ ĐẦU KỲ Kỳ này Lũy kế từ đầu năm SỐ DƯ CUỐI KỲ Số hiệu TK
TÊN TÀI KHOẢN Nợ Có Nợ Có Nợ Có Nợ Có
A B 1 2 3 4 5 6 7 8
A - CÁC TÀI KHOẢN TRONG BẢNG
111 Tiền mặt 56 10,284 10,314 10,340 10,314 26
211 Tài sản cố định hữu hình 9,024 6,689 5,659 15,713 5,659 10,054
213 TSCĐ vô hình 275 275 275 214 Hao mòn TSCĐ 5,017 727 2,065 727 7,081 6,354 312 Tạm ứng 5,622 8,211 8,269 8,772 8,269 503
332 Các khoản phải nộp theo lương 23 652 674 674 674 19
333 Các khoản phải nộp nhà nước 2 2 2 2
334 Phải trả công chức, viên chức 2,656 2,656 2,656 2,656
336 Tạm ứng kinh phí 582 8,567 8,495 8,567 9,076 509 342 Thanh toán nội bộ 160 160 160 160
461 Nguồn kinh phí hoạt động 46,365 46,309 20,919 46,309 67,284 20,975
462 Nguồn kinh phí dự án 1,550 1,550 1,190 1,550 2,740 1,190
466 Nguồn kinh phí đã 4,007 3,621 3,588 3,621 7,595 3,974
hình thành TSCĐ 511 Các khoản thu 2 2 2 2 2 661 Chi phí hoạt động 46,309 25,240 50,594 71,550 50,594 20,955 662 Chi dự án 1,550 1,190 1,550 2,740 1,550 1,190 Cộng 57,523 57,523 116,136 116,136 173,659 173,659 33,003 33,003
B - CÁC TÀI KHOẢN NGOÀI BẢNG
008 Dự toán chi hoạt động 6,620 25,819 20,919 32,439 20,919 11,520
009 Dự toán chi chương trình dự án 82 1,500 1,190 1,582 1,190 392
Cộng 6,701 27,319 22,109 34,020 22,109 11,911 Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ [38]
.
Phụ lục 2: Bảng cân đối tài khoản Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2010 Đơn vị: Triệu đồng
SỐ PHÁT SINH SỐ DƯ ĐẦU KỲ
Kỳ này Lũy kế từ đầu năm SỐ DƯ CUỐI KỲ Số
hiệu TK
TÊN TÀI KHOẢN
Nợ Có Nợ Có Nợ Có Nợ Có
A B 1 2 3 4 5 6 7 8
A - CÁC TÀI KHOẢN TRONG BẢNG
111 Tiền mặt 26 13,934 13,902 13,961 13,902 59
112 Tiền gửi ngân hàng 600 600 600 600 0
211 Tài sản cố định hữu hình 10,054 294 10,347 10,347
213 TSCĐ vô hình 275 275 275
214 Hao mòn TSCĐ 6,354 991 7,345 7,345
312 Tạm ứng 503 11,584 11,220 12,908 12,041 867
332 Các khoản phải nộp theo lương 881 880 1010 1009 1
333 Các khoản phải nộp nhà nước 5 5 5 5
334 Phải trả công chức, viên chức 3,132 3,132 3,907 3,907
336 Tạm ứng kinh phí 509 8,346 8,753 8,346 9,262 917
342 Thanh toán nội bộ 171 171 216 216
461 Nguồn kinh phí hoạt động 20,975 253,143 23,307 253,143 44,282 -208,861
462 Nguồn kinh phí dự án 1,190 16,671 1,319 16,671 2,509 -14,162
466 Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ 3,974 991 292 991 4,268 3,277
511 Các khoản thu 4 4 4 4
521 Thu chưa qua ngân sách 600 600 600
661 Chi phí hoạt động 20,955 23,508 25,332 44,463 2,533 -2,088
662 Chi dự án 1,190 1,903 16,671 3,093 1,667 -13,577
Cộng 33,003 33,003 335,168 335,168 369,941 369,941 -210,883 -210,883
B - CÁC TÀI KHOẢN NGOÀI BẢNG
008 Dự toán chi hoạt động 10,852 27,394 23,307 38,246 23,307 14,939
009 Dự toán chi chương trình dự án 391 1,500 1,319 1,891 1,319 573
Cộng 11,243 28,894 24,626 40,138 24,626 15,512
Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ [38]
Phụ lục 3: Bảng cân đối tài khoản Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2011 Đơn vị: Triệu đồng
SỐ PHÁT SINH SỐ DƯ ĐẦU KỲ
Kỳ này Lũy kế từ đầu năm SỐ DƯ CUỐI KỲ Số
hiệu TK
TÊN TÀI KHOẢN
Nợ Có Nợ Có Nợ Có Nợ Có
A B 1 2 3 4 5 6 7 8
A - CÁC TÀI KHOẢN TRONG BẢNG
111 Tiền mặt 59 16,690 16,744 16,749 16,744 5
112 Tiền gửi ngân hàng 1 655 655 656 655 1
211 Tài sản cố định hữu hình 10,347 107 229 10,455 229 10,226
213 TSCĐ vô hình 275 275 275
214 Hao mòn TSCĐ 7,345 212 812 212 8,157 7,945
312 Tạm ứng 867 12,718 12,901 13,585 12,901 684
332 Các khoản phải nộp theo lương 1 1,023 1,024 1,152 1,152
333 Các khoản phải nộp nhà nước 19 19 24 24
334 Phải trả công chức, viên chức 3,820 3,820 4,685 4,685
336 Tạm ứng kinh phí 917 10,803 11,120 10,803 12,037 1,234
342 Thanh toán nội bộ 178 178 258 258
461 Nguồn kinh phí hoạt động 142,367 23,330 32,737 23,330 56,069 32,739
462 Nguồn kinh phí dự án 1,319 1,319 2,813 1,319 4,132 2,813
466 Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ 3,277 829 107 829 3,384 2,556
511 Các khoản thu
521 Thu chưa qua ngân sách 600 1,256 655 1,256 1,256
5212 Tiền, hàng viện trợ 600 1,256 655 1,256 1,256
661 Chi phí hoạt động 23,337 33,369 23,421 56,707 23,421 33,286
662 Chi dự án 1,903 2,257 1,349 4,160 1,349 2,811
Cộng 36,790 36,790 108,586 108,586 146,453 146,453 47,287 47,287
B - CÁC TÀI KHOẢN NGOÀI BẢNG
008 Dự toán chi hoạt động 14,067 63,757 56,067 77,824 56,067 21,757
009 Dự toán chi chương trình dự án 573 2,707 2,876 3,279 2,876 403
Cộng 14,640 66,464 58,943 81,103 58,943 22,160
Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ [38].
Phụ lục 4: Bảng cân đối tài khoản Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2012
Đơn vị: Triệu đồng SỐ PHÁT SINH
SỐ DƯ ĐẦU KỲ Kỳ này Lũy kế từ đầu năm
SỐ DƯ CUỐI KỲ Số hiệu TK
TÊN TÀI KHOẢN
Nợ Có Nợ Có Nợ Có Nợ Có
A B 1 2 3 4 5 6 7 8
A - CÁC TÀI KHOẢN TRONG BẢNG
111 Tiền mặt 4 24,699 24,664 24,703 24,664 40
112 Tiền gửi ngân hàng 539 539 539 539
153 Công cụ, dụng cụ 94 94 94 94
211 Tài sản cố định hữu hình 10,226 1,996 2,029 12,222 2,029 10,192
213 TSCĐ vô hình 275 1,382 160 1,657 160 1,496
214 Hao mòn TSCĐ 7,945 2,147 1,271 2,147 9,216 7,068
312 Tạm ứng 684 17,044 17,626 17,728 17,626 102
332 Các khoản phải nộp theo lương 1,182 1,175 1,182 1,175 7
333 Các khoản phải nộp nhà nước 450 450 450 450
334 Phải trả công chức, viên chức 3,896 3,896 3,896 3,896
336 Tạm ứng kinh phí 1,234 16,489 15,377 16,489 16,611 122
342 Thanh toán nội bộ 200 200 200 200
461 Nguồn kinh phí hoạt động 32,739 32,736 47,509 32,736 80,247 47,511
462 Nguồn kinh phí dự án 2,813 2,811 1,391 2,811 4,205 1,393
466 Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ 2,556 1,313 3,378 1313 5,933 4,621
521 Thu chưa qua ngân sách 539 539 539
661 Chi phí hoạt động 33,286 47,113 32,895 80,399 32,895 47,504
662 Chi dự án 2,811 1,912 2,811 4,724 2,811 1,912
Cộng 47,287 47,287 156,004 156,004 203,291 203,291 61,255 61,255
B - CÁC TÀI KHOẢN NGOÀI BẢNG
005 Dụng cụ lâu bền đang sử dụng 9 9 9
008 Dự toán chi hoạt động 5,137 47,420 47,509 52,557 47,509 5,048
009 Dự toán chi chương trình dự án 4,037 1,500 1,391 1,903 1,391 511
Cộng 55,410 49,014 48,900 54,554 48,900 5,654
Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ [38].
Phụ lục 5: Nghiên cứu quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ
Chương trình phỏng vấn cá nhân
PHIẾU THU THẬP Ý KIẾN CÁ NHÂN
(Dành cho cán bộ làm công tác tôn giáo, chức sắc, chức việc tôn giáo)
"Thưa ông/bà
Nhằm mục đích nghiên cứu về tài chính và quản lý tài chính đối với Ban Tôn giáo Chính phủ, chúng tôi tiến hành ghi nhận ý kiến đánh giá, phản hồi của Ông/Bà về vấn đề tài chính đối với công tác tôn giáo. Những thông tin trao đổi ở đây chỉ nhằm mục đích nghiên cứu. Mọi ý kiến của Ông/Bà sẽ được giữ kín và không để lộ tên trong các báo cáo của cuộc nghiên cứu này. Sự tham gia của Ông/Bà là hoàn toàn tự nguyện. Chúng tôi hy vọng rằng Ông/Bà sẽ thấy cuộc trao đổi này bổ ích và lý thú. Không có câu trả lời nào là sai cả và vì thế xin Ông/Bà cho biết những suy nghĩ của mình một cách chân thực"
Mã số phiếu ........................................................................................................................................
Thời gian .............................................................................................................................................
Địa bàn:
1.Tỉnh/Thành phố .........................................................................................................................
2.Huyện/Quận ..............................................................................................................................
PHẦN I. THÔNG TIN CHUNG
Họ và tên người trả lời ...................................................................................................................
a.Giới tính:....................1.Nam……. 2.Nữ….....(khoanh tròn phương án lựa chọn)
b.Năm sinh…………………………………
c.Dân tộc………………………………….
e. Trình độ học vấn: Nếu chưa từng đi học ghi "0"
Lớp 1-12 (ghi số cho lớp học cuối cùng):
13. Trung cấp
14. Đại học hoặc hơn
99. Không biết
f. Chức vụ trong hệ thống chính quyền hoặc các tổ chức tôn giáo:
1. Cấp tỉnh/thành phố:……………………………………………..
2. Cấp Huyện/Quận:………………………………………………
g.Ông/bà hiện đang tham gia tôn giáo nào sau đây (khoanh tròn các phương án lựa chọn):
1. Phật giáo
2. Công giáo
3. Tin lành
4. Cao Đài
5. Hòa Hảo
6. Các tôn giáo khác
PHẦN II: QUAN ĐIỂM CỦA CÁ NHÂN VỀ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI TÔN GIÁO
Câu 1: Ông/Bà đánh giá các khoản chi hỗ trợ các tôn giáo có phù hợp với thực tế không? (khoanh tròn các phương án lựa chọn:
1. Rất phù hợp 2. Phù hợp 3. Chưa phù hợp 4. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 2:. Theo ông/bà, nội dung chi hỗ trợ đột xuất giải quyết các vụ việc tôn giáo, điểm nóng tôn giáo có đáp ứng nhu cầu thực tế hay không?
1. Rất phù hợp 2. Phù hợp 3. Chưa phù hợp 4. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 3: Theo ông/bà, có nên tách riêng khoản chi hỗ trợ đột xuất giải quyết các vụ việc tôn giáo, điểm nóng tôn giáo ra khỏi dự toán chi hàng năm không? (chỉ chọn 1 phương án)
1. Có 2. Không 3. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 4: Ông/ bà đánh giá về tính hiệu quả của khoản chi hỗ trợ đối với các tổ chức tôn giáo (khoanh tròn các phương án lựa chọn):
1. Hiệu quả cao
2. Khá hiệu quả
3. Chưa hiệu quả
4. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…..........................................................
Câu 5: Ông/bà đánh giá về nhu cầu tài chính đối với công tác tôn giáo trong thời gian tới?
1. Rất lớn 2. Không thay đổi 3. Ít hơn 4. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 6: Cơ chế tài chính từ Ban Tôn giáo Chính phủ đối với tổ chức tôn giáo nơi Ông/Bà tham gia/quản lý như thế nào? (khoanh tròn vào phương án lựa chọn)
1. Cứng nhắc, nhiều thủ tục hành chính
2. Linh hoạt, giảm bớt các thủ tục hành chính
3. Thuận tiện, phù hợp
4. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…..........................................................
Câu 7: Ông/Bà đánh giá thế nào về nguồn tài chính quyên góp cho tôn giáo từ các cá nhân, tổ chức xã hội ? (Chỉ chọn 1 phương án)
1. Rất tốt
2. Tương đối tốt
3. Bình thường
4. Không tốt
5. Kém
Câu 8: Ông (Bà) có ý kiến gì đổi mới cơ chế tài chính hỗ trợ đối với các tôn giáo, tổ chức tôn giáo hiện nay?
..............................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................
Trân trọng cảm ơn Ông/Bà đã dành thời gian cho chương trình khảo sát!
Nghiên cứu quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ
Chương trình phỏng vấn cá nhân
PHIẾU THU THẬP Ý KIẾN CÁ NHÂN
(Dành cho cán bộ làm công tác tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ)
"Thưa ông/bà
Nhằm mục đích nghiên cứu về tài chính và quản lý tài chính đối với Ban Tôn giáo Chính phủ, chúng tôi tiến hành ghi nhận ý kiến đánh giá, phản hồi của Ông/Bà về vấn đề tài chính đối với công tác tôn giáo. Những thông tin trao đổi ở đây chỉ nhằm mục đích nghiên cứu. Mọi ý kiến của Ông/Bà sẽ được giữ kín và không để lộ tên trong các báo cáo của cuộc nghiên cứu này. Sự tham gia của Ông/Bà là hoàn toàn tự nguyện. Chúng tôi hy vọng rằng Ông/Bà sẽ thấy cuộc trao đổi này bổ ích và lý thú. Không có câu trả lời nào là sai cả và vì thế xin Ông/Bà cho biết những suy nghĩ của mình một cách chân thực"
Mã số phiếu ........................................................................................................................................
Thời gian .............................................................................................................................................
Địa bàn:
1.Tỉnh/Thành phố .........................................................................................................................
2.Huyện/Quận ..............................................................................................................................
PHẦN I. THÔNG TIN CHUNG
Họ và tên người trả lời ...................................................................................................................
a.Giới tính:....................1.Nam……. 2.Nữ….....(khoanh tròn phương án lựa chọn)
b.Năm sinh…………………………………
c.Dân tộc………………………………….
e. Trình độ học vấn:
1. Trung cấp 2. Cao đẳng 3. Đại học 4. Sau đại học
f. Chức vụ trong đơn vị:..................................................................................................
g.Ông/bà hiện đang tham gia tôn giáo nào sau đây (khoanh tròn các phương án lựa chọn):
1. Phật giáo
2. Công giáo
3. Tin lành
4. Cao Đài
5. Hòa Hảo
6. Các tôn giáo khác
7. Không
PHẦN II: QUAN ĐIỂM CỦA CÁ NHÂN VỀ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI TÔN GIÁO
Câu 1: Ông/Bà đánh giá nguồn tài chính cho hoạt động của các đơn vị trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ có phù hợp với thực tế không? (khoanh tròn các phương án lựa chọn:
1. Rất phù hợp 2. Phù hợp 3. Chưa phù hợp 4. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 2: Theo Ông/Bà, việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ như thế nào? (khoanh tròn vào phương án lựa chọn)
1. Vẫn chưa giảm bớt các thủ tục hành chính
2. Thuận tiện, phù hợp với điều kiện của đơn vị
3. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 3: Ông/Bà đánh giá thế nào về cơ chế khoán kinh phí quản lý hành chính đối với các đơn vị hành chính trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ?
1. Rất tốt
2. Tương đối tốt
3. Bình thường
4. Không tốt
5. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…...........................................................
Câu 4: Theo ông/bà, nguồn tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ khi thực hiện Quyết định số 134/2009/QĐ-TTg có bất cập không? (chỉ chọn 1 phương án)
1. Có 2. Không 3. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 5:. Theo ông/bà, cơ chế tài chính đối với Ban Tôn giáo Chính phủ có phù hợp với đặc thù của hoạt động tôn giáo hiện nay không?
1. Rất phù hợp 2. Phù hợp 3. Chưa phù hợp 4. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 6: Ông/ bà đánh giá về tính hiệu quả của công tác lập dự toán thu - chi tài chính tại các đơn vị trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ? (khoanh tròn các phương án lựa chọn)
1. Hiệu quả cao
2. Khá hiệu quả
3. Chưa hiệu quả
4. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 7: Ông/bà đánh giá về nhu cầu tài chính đối với công tác tôn giáo trong thời gian tới?
1. Rất lớn 2. Không thay đổi 3. Ít hơn 4. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 8: Theo Ông/Bà, để đảm bảo nhu cầu tài chính cho công tác tôn giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, có nên tách Ban Tôn giáo Chính phủ trở thành đơn vị dự toán cấp I trực thuộc Chính phủ không?
1. Có 2. Không 3. Ý kiến khác (ghi rõ)……………………….…............................................................
Câu 9: Ông/Bà có ý kiến gì đổi mới cơ chế tài chính cho Ban Tôn giáo Chính phủ hiện nay?
..............................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................
..............................................................................................................................................................
Trân trọng cảm ơn Ông/Bà đã dành thời gian cho chương trình khảo sát!