27
HC VIỆN CHÍNH TRỊ QUC GIA HCHÍ MINH NGUYỄN ĐẮC DŨNG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HCHÍ MINH TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HCHÍ MINH HỌC Mã số: 62 31 02 04 HÀ NỘI - 2018

TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/2/6/LA_TT (T.Viet)_ Nguyen Dac Dung.pdfnhững vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách

  • Upload
    others

  • View
    9

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐẮC DŨNG

TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

Mã số: 62 31 02 04

HÀ NỘI - 2018

Luận án đƣợc hoàn thành tại

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Phạm Ngọc Anh

2. PGS.TS. Nguyễn Thị Quế

Phản biện 1: ………………………………………. .

…………………………………………

Phản biện 2: ………………………………………..

………………………………………..

Phản biện 3: ………………………………………..

………………………………………..

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Học viện

họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Vào hồi....... giờ....... ngày....... tháng....... năm 20....

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thƣ viện Quốc gia

và Thƣ viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã sản

sinh ra nhiều tên tuổi vĩ đại, những anh hùng giải phóng dân tộc, những nhà tư tưởng

lớn, những danh nhân văn hóa của dân tộc; trong đó Hồ Chí Minh, người vừa để lại

sự nghiệp vĩ đại cho dân tộc Việt Nam, vừa được nhân loại biết đến rộng rãi, được ca

ngợi và khâm phục.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về

những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc cho

đến cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó, có tư tưởng pháp quyền, Người

đã đặt nền móng và định hướng xây dựng pháp quyền Việt Nam.

Với một tư duy hiện đại và tiến bộ, Hồ Chí Minh xác định quản lý nhà nước

bằng hệ thống pháp luật là quan trọng nhất, trong đó, đề cao vai trò của Hiến pháp.

Pháp luật được đặt ở vị trí tối thượng, toàn xã hội phải tuân thủ pháp luật, Nhà nước

xây dựng và thực thi pháp luật nhưng chính Nhà nước phải tuân thủ pháp luật. Hệ

thống pháp luật phải thể hiện ý chí của nhân dân, bản chất của hệ thống pháp luật thể

hiện tôn trọng, bảo vệ quyền con người và hướng tới các giá trị nhân văn. Pháp luật

phải có hiệu lực mạnh mẽ, thể hiện sự nghiêm minh và tất cả mọi chủ thể đều bình

đẳng trước pháp luật. Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật phải đi vào cuộc sống, trở

thành nề nếp, thói quen, lối ứng xử tự nhiên của con người, tạo nên ý thức pháp luật

cao trong toàn xã hội. Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, có sự kết hợp giữa

pháp luật và đạo đức, pháp luật phải hướng tới lẽ phải, hợp đạo lý làm người. Đó là

một pháp quyền văn minh và tiến bộ. Một pháp quyền nhân nghĩa, hướng tới con

người và vì con người, đặt con người ở vị trí trung tâm.

Từ năm 1986 đến nay, trên lĩnh vực xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ)

Việt Nam, bên cạnh thành tựu, còn có hạn chế. Trước yêu cầu phát triển toàn diện đất

nước, trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam, vấn đề

pháp quyền lại được đặt ra. Sau hơn 30 năm đổi mới và hơn 20 năm xây dựng NNPQ

XHCN, cả về lý luận và thực tiễn, Việt Nam thu được những thành tựu nhất định,

đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu, lý giải. Việc trở lại nghiên cứu và

tìm hiểu một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh góp

phần đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước; thực hiện mục tiêu

xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Với những lý do trên, tác giả chọn: “Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh”

làm đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án phân tích, lý giải một cách toàn diện tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh; nêu những giá trị tham chiếu của tư tưởng đó đối với việc xây dựng, hoàn

thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.

2

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

- Phân tích nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

- Khẳng định giá trị tham chiếu của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đối với

việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về pháp quyền.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh về pháp

quyền được thể hiện trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập), trong các văn bản pháp

luật do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, công bố và thực tiễn chỉ đạo của Người trong thực

hiện tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam.

- Về thời gian: Luận án khảo cứu toàn bộ tư tưởng và thực tiễn của Hồ Chí

Minh về xây dựng pháp quyền ở Việt Nam, nhất là từ 1945 đến 1969.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước

và pháp luật.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả sử dụng các

phương pháp sau: lôgic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, văn bản học,

khảo cứu thực tế.

5. Những đóng góp mới của Luận án

- Phân tích nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

- Đưa ra các giá trị tham chiếu của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đối với

việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa khoa học

- Phân tích làm rõ nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

- Chỉ rõ sự vận dụng sáng tạo tư tưởng pháp quyền vào điều kiện Việt Nam của

Hồ Chí Minh.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Luận án rút ra những giá trị tham chiếu để Đảng, Nhà nước vận dụng đối với

xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

- Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng

dạy, học tập trong nhóm ngành khoa học chính trị, khoa học xã hội và nhân văn.

7. Kết cấu của luận án

Luận án ngoài mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác

giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4

chương, với 12 tiết.

3

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Những công trình nghiên cứu tƣ tƣởng pháp quyền

Tư tưởng pháp quyền được các nhà tư tưởng, các nhà nghiên cứu trong và

ngoài nước đề cập đến ở nhiều góc độ khác nhau, như: triết học, lịch sử, luật học,

chính trị học, xã hội học... Ở Việt Nam, có những công trình đề cập: tính tất yếu xây

dựng NNPQ, các đặc trưng của NNPQ ở Việt Nam, NNPQ trong quan hệ với dân

chủ, với xã hội dân sự, có một số công trình tổng kết thực tiễn xây dựng NNPQ Việt

Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, đề xuất giải pháp. Các nghiên cứu tập trung

vào phương diện thực tiễn, phương diện lý luận chưa được quan tâm đúng mức, lý

luận vừa là kết quả của tổng kết thực tiễn, đồng thời có vai trò chỉ đạo thực tiễn.

Các kết quả đạt được trong các công trình trên, một mặt được tác giả luận án

kế thừa, mặt khác những vấn đề chưa được đề cập, còn hạn chế là những gợi ý cho

tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu tƣ tƣởng pháp quyền Hồ Chí Minh

Các công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đa dạng, phong

phú từ thời kỳ đổi mới đất nước (năm 1986) và được đề cập trên nhiều phương diện:

nguồn gốc, quá trình hình thành, nội dung, giá trị...Bên cạnh những giá trị đạt được,

còn hạn chế ở tính hệ thống, tính sâu sắc.

Những giá trị trong các công trình nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh là những gợi ý và là nguồn tài liệu quan trọng để tác giả thực hiện luận án “Tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh”.

1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.2.1. Những vấn đề đã đƣợc nghiên cứu

Qua nghiên cứu, đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan đến

tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam, tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, tác giả luận án

nhận thấy các công trình đã đề cập những vấn đề sau:

Thứ nhất, các nhà nghiên cứu đều thống nhất tư tưởng pháp quyền là một giá

trị nhân văn mang tính phổ quát toàn nhân loại, mặc dù được định hình và phát triển

cả về phương diện lý luận và thực tiễn trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng pháp

quyền trở thành một giá trị hướng tới, trở thành một chuẩn mực, thước đo đối với xã

hội hiện đại.

Thứ hai, các nghiên cứu đã tập trung lý giải về tính tất yếu của việc xây dựng

NNPQ ở Việt Nam. Đặc biệt trong, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước, trong bối cảnh Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập quốc tế ngày

càng sâu, yêu cầu thực tiễn đó đặt ra Việt Nam phải có những tương đồng về thể chế

pháp luật, cũng như ứng xử phù hợp với thông lệ quốc tế, các giá trị tiến bộ mà nhân

loại đã đạt được. Đặt ra yêu cầu tất yếu xây dựng NNPQ ở Việt Nam.

4

Thứ ba, các nghiên cứu đã thống nhất và khẳng định Hồ Chí Minh là một trong

những người đặt nền móng cho pháp quyền Việt Nam hiện đại; đặc biệt là người đi

đầu trong việc hiện thực hóa tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam. Thống nhất và khẳng

định có tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh; hệ thống tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh và thực tiễn chế độ pháp quyền Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh còn giá trị tới

ngày nay, có tác dụng định hướng cho pháp quyền Việt Nam hiện tại và tương lai.

Thứ tư, các công trình nghiên cứu đã đề cập tới từng mặt hoặc một số phương

diện, khía cạnh trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh: khái niệm; nguồn gốc; quá

trình hình thành và phát triển; nội dung; giá trị. Việc nghiên cứu tư tưởng pháp quyền

Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống chỉnh thể thống nhất chưa được quan tâm

đúng mức. Tính hệ thống hóa chưa cao, chưa đầy đủ và chưa toàn diện. Đây là một

vấn đề mà các nhà nghiên cứu cần tiếp tục, trong đó có tác giả của luận án này.

Thứ năm, các công trình tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh chủ yếu tập trung

và nhấn mạnh pháp quyền trong công quyền, chưa tập trung và nhấn mạnh pháp

quyền trong xã hội công dân, xã hội dân sự, tức là pháp quyền trong toàn xã hội, nói

theo tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là “thần linh pháp quyền” còn thiếu. Pháp

quyền chủ yếu tập trung và nhấn mạnh dưới góc độ là công cụ, phương tiện trong

quản lý nhà nước; chưa tập trung và nhấn mạnh pháp quyền thấm sâu vào đời sống

xã hội, thấm sâu vào quốc dân đồng bào; pháp quyền trở thành nề nếp, thói quen, lối

ứng xử tự nhiên của con người. Một tầng sâu, một trình độ cao và một chất mới của

pháp quyền Hồ Chí Minh. Đây là một vấn đề mà các nhà nghiên cứu cần tiếp tục,

trong đó có tác giả của luận án này.

1.2.2. Những vấn đề đặt ra đƣợc luận án tiếp tục nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu và giá trị trong các công trình nghiên cứu

tư tưởng pháp quyền ở Việt Nam và tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh của các tác

giả đi trước, tác giả của luận án tiếp tục nghiên cứu tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh ở những vấn đề sau:

Thứ nhất, xác định các khái niệm pháp luật, pháp chế, pháp quyền, Nhà nước

pháp quyền, khái niệm tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh và nội dung tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh;

Thứ hai, phân tích cơ sở hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, bao

gồm: cơ sở thực tiễn, những tiền đề lý luận và nhân tố chủ quan;

Thứ ba, nghiên cứu nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh với tư cách là

một hệ thống chỉnh thể thống nhất, phân tích nội dung cơ bản trong tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh, chỉ ra những nét độc đáo, sáng tạo trong tư tưởng pháp quyền

Hồ Chí Minh, bao gồm, tư tưởng về: vai trò của pháp luật; phương thức thực hiện

pháp quyền; điều kiện thực hiện pháp quyền.

5

Thứ tư, rút một số giá trị tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh tham chiếu đối với

việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay, bao gồm: kiểm soát

quyền lực nhà nước; pháp luật thể hiện ý nguyện của nhân dân; chủ quyền nhân dân

đối với các vấn đề quan trọng của quốc gia; các quyền hiến định của công dân; xây

dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt.

Tiểu kết chƣơng 1

Khái niệm pháp quyền có nội dung rộng, được các nhà nghiên cứu đề cập đến

trên nhiều khía cạnh, ở Việt Nam pháp quyền được đề cập ở những vấn đề lý luận

chung, từ những vấn đề thực tiễn của Việt Nam và trên thế giới, nêu ra những giá trị,

những vấn đề đặt ra, đề xuất giải pháp đối với việc xây dựng NNPQ XHCN. Tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh được các nhà nghiên cứu đề cập trên những khía

cạnh: khái niệm, nguồn gốc hình thành, phát triển, nội dung, giá trị, tính hệ thống,

tính đầy đủ chưa cao. Vấn đề pháp quyền nói chung và tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh nói riêng cần được tiếp tục nghiên cứu và làm rõ tại Việt Nam.

Chƣơng 2

KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỂN

HỒ CHÍ MINH

2.1. KHÁI NIỆM

2.1.1. Khái niệm pháp luật

Luận án đưa ra khái niệm về pháp luật: Pháp luật là hệ thống quy tắc hành vi

xử sự xã hội mang tính phổ biến, do Nhà nước quy định và đảm bảo thực thi, điều

chỉnh quan hệ xã hội nhằm đảm bảo trật tự, ổn định và tiến bộ xã hội.

2.1.2. Khái niệm pháp chế

Luận án đưa ra khái niệm về pháp chế: Pháp chế là chế độ pháp luật được thực

thi một cách nghiêm minh đối với mọi chủ thể trong xã hội.

2.1.3. Khái niệm pháp quyền

Luận án đưa ra và sử dụng khái niệm pháp quyền: Pháp quyền là nguyên tắc tổ

chức và hoạt động xã hội đề cao pháp luật, đảm bảo công bằng, quyền con người và

tiến bộ xã hội.

Trước hết, pháp quyền được hiểu đó là quyền của pháp luật. Pháp luật do Nhà

nước ban hành để bảo vệ quyền và lợi ích trước hết của giai cấp nắm Nhà nước, giai

cấp thống trị về chính trị, về kinh tế. Do đó, quyền đầu tiên của pháp luật là bảo vệ

giai cấp thống trị, đi liền với đó là quyền giàng buộc các giai cấp còn lại trong

khuôn khổ, trong vòng trật tự, trừng trị nặng những hành vi xâm hại, đe dọa địa vị

của giai cấp thống trị. Quyền này của pháp luật thấy rõ trong pháp luật chiếm hữu

nô lệ và pháp luật phong kiến, nhưng đó chưa phải là pháp quyền. Kiểu pháp luật tư

bản chủ nghĩa, quyền thống trị giai cấp của pháp luật vẫn còn, bên cạnh đó xuất

6

hiện tư tưởng quyền của pháp luật với chính Nhà nước, với các nhân viên nhà nước;

đặc biệt khi chủ nghĩa lập hiến ra đời, yêu cầu Nhà nước đặt dưới pháp luật, khi đó

pháp quyền ra đời.

Thứ hai, pháp quyền được hiểu là pháp luật về quyền. Pháp luật ghi nhận và

đảm bảo các quyền tự nhiên của con người, dưới góc độ quốc gia - dân tộc, có

quyền dân tộc; dưới góc độ cá nhân, có quyền con người. Pháp luật về quyền của

quốc gia - dân tộc, đó là pháp quyền quốc tế, pháp quyền dân tộc; pháp luật về

quyền con người, quyền công dân đó là pháp quyền dân chủ. Pháp luật phải được

xây dựng theo những trình tự nhất định và thể hiện dưới hình thức nhất định do luật

quy định. Pháp luật khi áp dụng phải tuân thủ theo trình tự thủ tục nhất định theo do

luật quy định.

Thứ ba, mục tiêu của pháp quyền là đảm bảo trật tự, ổn định và hướng tới tiến

bộ, phát triển xã hội.

2.1.4. Khái niệm Nhà nƣớc pháp quyền

Luận án đưa ra khái niệm về NNPQ: NNPQ là phương thức tổ chức và hoạt

động của nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội.

2.1.5. Khái niệm tƣ tƣởng pháp quyền Hồ Chí Minh

Luận án đưa ra và sử dụng khái niệm tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh: Tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về nguyên tắc tổ chức,

hoạt động của toàn xã hội đề cao pháp luật nhằm đảm bảo công bằng, quyền con

người và tiến bộ xã hội.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung: Các quan điểm,

luận điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của pháp luật; về phương thức thực hiện pháp

quyền; về điều kiện thực hiện pháp quyền nhằm mục tiêu tạo ra trật tự, kỷ cương và

tiến bộ xã hội.

2.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH

2.2.1. Cơ sở thực tiễn

Sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp áp đặt một nền cai trị hà khắc, hạn

chế về pháp quyền, thậm chí không pháp quyền, vi phạm pháp quyền. Thực tiễn dân

tộc đặt ra nhiệm vụ xóa bỏ bộ máy cai trị và hệ thống luật pháp của thực dân Pháp,

xóa bỏ sự cai trị không pháp quyền, trái pháp quyền. Xây dựng Nhà nước và hệ thống

pháp luật mới ở Việt Nam, một pháp quyền mới ở Việt Nam.Tư tưởng pháp quyền

Hồ Chí Minh ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của thực tiễn dân tộc.

2.2.2. Tiền đề tƣ tƣởng lý luận

2.2.2.1. Các giá trị truyền thống pháp lý Việt Nam

Những manh nha của pháp quyền Việt Nam đã xuất hiện từ đầu công nguyên,

vận động, phát triển qua nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê và nhà Nguyễn, sang

giữa thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX xuất hiện những nhà tư tưởng mong muốn cải cách

đất nước, trong đó tiêu biểu là Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh tiếp thu tư tưởng

7

pháp quyền của nhân loại, Tìm cách truyền bá và vận dụng vào Việt Nam. Qua đó,

hình thành, phát triển các giá trị truyền thống pháp lý của dân tộc.

Trong truyền thống pháp lý dân tộc, chúng ta có thể rút ra một số giá trị sau

đây: Sự cần thiết của pháp luật trong việc quản lý và điều hành xã hội, đảm bảo xã

hội có trật tự, ổn định. Tính hiệu lực của các quy định, pháp luật, tuy nhiên mức độ,

phạm vi hiệu lực có thể khác nhau. Tính nhân văn, các bộ luật do Nhà nước phong

kiến ban hành trong lịch sử Việt Nam mang tính giai cấp rõ nét, bên cạnh đó cũng có

những yếu tố tiến bộ, giàu tính nhân văn, ghi nhận và bảo vệ quyền con người. Tính

dân chủ, tính bình đẳng trong các hương ước là một giá trị quý báu trong truyền

thống pháp lý Việt Nam.

Những giá trị truyền thống pháp lý dân tộc trở thành nền tảng đầu tiên để Hồ

Chí Minh xây dựng tư tưởng pháp quyền.

2.2.2.2. Các giá trị tư tưởng pháp quyền nhân loại

- Các giá trị tư tưởng pháp quyền của phương Đông

Trong lịch sử tư tưởng phương Đông, có những yếu tố về mặt hình thức và nội

dung của tư tưởng pháp quyền. Điển hình là những quan điểm của Pháp gia ở Trung

Hoa: là đề cao, coi trọng của pháp luật; đề cập tính ổn định của pháp luật, tư tưởng

biến pháp, tính công khai, tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật.

Nho gia đề cập mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức; thấy được vai trò của

nhân dân, nhưng không đạt tới quan niệm dân chúng là chủ thể của quyền lực nhà

nước, quyền lực chính trị, chưa đạt tới vấn đề chủ quyền nhân dân; đề cập phẩm chất

của người cầm quyền.

Tam dân chủ nghĩa của Tôn Trung Sơn gồm: chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân

quyền và chủ nghĩa dân sinh. Tôn Trung Sơn cho rằng tam dân chủ nghĩa có quan hệ

mật thiết với nhau, mà cốt lõi của nó là quốc gia của nhân dân cùng có, chính trị nhân

dân cùng quản lý, ích lợi nhân dân cùng hưởng. Mục đích của tam dân chủ nghĩa là

có hòa bình, có quyền và có lợi.

Trong quá trình xây dựng tư tưởng pháp quyền, Hồ Chí Minh đã tiếp thu được

những giá trị trong tinh hoa văn hóa phương Đông về pháp quyền.

- Các giá trị tư tưởng pháp quyền của phương Tây

Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, một số nhà triết học đã đưa ra nhiều ý

tưởng về pháp quyền, tiêu biểu như: Platon, Aristot. Các nhà tư tưởng thời kỳ

Khai sáng và cận đại, như: John Locke, Jean Jacques Rousseau, Charles Luis

Montesquieu, Imanuel Kant và Georg Wilhelm Friedrich Hegel... đã nêu ra nhiều tư

tưởng quan trọng về pháp quyền: đề cập các quyền tự nhiên như tự do, bình đẳng và

sở hữu, là quyền bất khả xâm phạm; phân chia quyền lực để kiềm chế lẫn nhau; Khế

ước xã hội là thỏa thuận chung của toàn dân, là ý chí chung; sự tham gia của các

nguyên tắc đạo đức, luật lương tâm làm cho pháp quyền trở thành nội lực trong mỗi

con người và xã hội.

8

Hồ Chí Minh đã tiếp thu những giá trị tư tưởng pháp quyền của các nhà tư

tưởng phương Tây, mà trực tiếp là các nhà tư tưởng thời kỳ Khai sáng châu Âu để

hình thành tư tưởng pháp quyền.

- Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật

Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bản chất giai cấp của Nhà

nước, của pháp luật, của pháp quyền tư sản, đồng thời cũng chỉ ra tính xã hội của

chúng. Các ông đã chỉ ra những hạn chế của Nhà nước, pháp luật và pháp quyền tư

sản, phân tích quy luật vận động của lịch sử, các ông tiên đoán sẽ ra đời Nhà nước,

pháp luật, pháp quyền tiến bộ hơn. Các ông nêu quan điểm về pháp chế XHCN.

Trong quá trình xây dựng và thực thi tư tưởng pháp quyền, Hồ Chí Minh đứng

trên quan điểm chủ chủ nghĩa Mác - Lênin để tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo

các giá trị truyền thống pháp lý dân tộc và pháp quyền nhân loại vào điều kiện cụ thể

của Việt Nam.

2.2.3. Nhân tố chủ quan

- Phẩm chất ham học, khổ công học tập, vượt mọi khó khăn, gian khổ để

học tập chiếm lĩnh tri thức pháp quyền dân tộc và nhân loại.

- Năng lực hoạt động thực tiễn nhiệt huyết, khả năng quan sát thực tiễn để từ

thực tiễn khái quát thành lý luận, rồi chuyển thành hành động thực tiễn.

-Tư duy sắc sảo, khả năng quan sát tinh tường, sáng suốt, tư duy phê phán,

nhạy bén với cái mới, tư duy mở, sẵn sàng tiếp thu cái mới, cái tiến bộ, thể hiện trí

thông minh của Hồ Chí Minh.

- Tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, nhất là từ khi tiếp thu chủ nghĩa Mác -

Lênin, Hồ Chí Minh đã được trang bị một thế giới quan và phương pháp luận khoa

học giúp Người đánh giá, chắt lọc, tiếp thu, vận dụng sáng tạo các giá trị truyền thống

pháp lý dân tộc, giá trị tinh hoa pháp quyền nhân loại vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể

của Việt Nam. Phẩm chất này ở Hồ Chí Minh là kết quả của các phẩm chất trên, tạo

nên ở Hồ Chí Minh một trí tuệ siêu việt.

- Bao trùm lên tất cả là tình yêu nước, thương dân của Hồ Chí Minh, sẵn sàng

hy sinh cao nhất cho lợi ích dân tộc, cho quyền lợi nhân dân. Phẩm chất này trở thành

động lực mạnh mẽ bên trong, sức mạnh nội tại để Người sẵn sàng đương đầu, vượt

qua mọi khó khăn, thử thách đem độc lập cho dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho

nhân dân. Xây dựng xã hội mới, trong đó tư tưởng pháp quyền thể hiện tư tưởng

nhân văn, tôn trọng và đề cao con người.

Tiểu kết chƣơng 2

Thực tiễn dân tộc dưới sự cai trị của thực dân Pháp và xây dựng xã hội mới,

đặt ra yêu cầu phải xây dựng một mô hình nhà nước mới ở Việt Nam, để Nhà nước

quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả thực sự đem lại quyền lợi cho đông đảo các tầng

9

lớp nhân dân lao động, Hồ Chí Minh đã ý thức được sự cần thiết phải có những công

cụ, phương tiện để quản lý, điều hành xã hội. Một trong những công cụ quan trọng,

hiệu quả là bằng và thông qua hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật phản ánh, bảo

vệ quyền lợi của nhân dân lao động cần phải thể hiện tinh thần pháp quyền. Đó là cơ

sở thực tiễn của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Trong quá trình xây dựng tư tưởng pháp quyền của mình, Hồ Chí Minh đã tiếp

thu được những giá trị của truyền thống pháp lý của dân tộc Việt Nam, tiếp thu được

những giá trị tinh hoa văn hóa pháp quyền phương Đông, phương Tây, trong đó có tư

tưởng Nhà nước và pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là những tiền đề tư

tưởng, lý luận của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Tất cả những yếu tố trên là những cơ sở khách quan, tác động lên, phản ánh

qua lăng kính chủ quan của Hồ Chí Minh, sự thống nhất, hòa quyện của các yếu tố

trên hình thành tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

Chƣơng 3

NỘI DUNG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN HỒ CHÍ MINH

3.1. VỀ VAI TRÕ CỦA PHÁP LUẬT

3.1.1. Pháp luật là công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, quan trọng và

hiệu quả

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là thượng tôn pháp luật. Khi cách mạng

chưa thành công, chưa có chính quyền, chưa có điều kiện để thực hiện pháp

quyền, Hồ Chí Minh đã sớm thấy được vai trò quan trọng của pháp luật trong quản

lý xã hội. Khi nước nhà độc lập, giành được chính quyền, có đủ điều kiện, Hồ Chí

Minh quan tâm tới việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, sử dụng hệ thống

pháp luật điều hành Nhà nước, thực hiện pháp quyền.

Cao hơn, có giá trị hơn khi quan điểm này nhanh chóng được Người hiện thực

hóa. Người quan tâm đến xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật từ Hiến pháp, các

đạo luật và sắc lệnh.

Theo Hồ Chí Minh, quản lý xã hội bằng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp

khác nhau, trong đó quản lý bằng hệ thống pháp luật là hiệu quả nhất.

3.1.2. Pháp luật là cơ sở thực hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân

Pháp luật là cơ sở để củng cố chính quyền nhân dân, cơ sở cho tổ chức và hoạt

động của bộ máy nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH). Bản chất Nhà

nước Việt Nam DCCH là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; việc thành lập,

củng cố Nhà nước là bước đầu của việc xác lập quyền làm chủ của nhân dân. Pháp

luật xác lập căn cứ thực hiện quyền làm chủ Nhà nước của nhân dân.

10

Quyền làm chủ nhà nước của nhân dân thể hiện cụ thể và rõ nhất trong việc

nhân dân bầu cử lập ra các cơ quan nhà nước, trong việc quyết định các vấn đề quan

trọng của đất nước.

Pháp luật là cơ sở để nhân dân giám sát hoạt động và bãi miễn đại biểu do

mình bầu ra khi không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.Trong Hiến pháp

năm 1946, tại Điều 20 xác lập nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu

ra, đó là các Nghị viên, Nhân viên Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính.

Pháp luật là cơ sở để nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của

đất nước.

3.1.3. Pháp luật là cơ sở ngăn chặn sự lạm quyền của Nhà nƣớc, của nhân

viên nhà nƣớc

Nhà nước Việt Nam DCCH khi vừa ra đời đã thực hiện nhiều chính sách đem

lại lợi ích thiết thực cho dân chúng, được dân chúng ghi nhận và tin tưởng. Đồng thời

cũng bộc lộ những khuyết tật, làm giảm bản chất tốt đẹp và những ưu vượt của Nhà

nước mới. Theo Hồ Chí Minh phải lập tức sửa đổi và khắc phục những biểu hiện

nguy hiểm đó. Hồ Chí Minh cho rằng có nhiều biện pháp khác nhau để hạn chế, ngăn

chặn, loại bỏ sự lạm quyền của Nhà nước, của nhân viên nhà nước, trong đó sử dụng

pháp luật là một trong biện pháp quan trọng.

Bên cạnh việc dùng pháp luật trừng trị những hành vi vi phạm pháp luật của

nhân viên nhà nước, Hồ Chí Minh yêu cầu, kêu gọi nhân viên nhà nước tuân thủ pháp

luật, phải gương mẫu chấp hành pháp luật. Dùng pháp luật không phải là biện pháp

duy nhất; nhưng sẽ là biện pháp hữu hiệu khi các biện pháp khác chưa phát huy hiệu

quả; một cơ sở quan trọng đề ngăn chặn tình trạng lạm quyền của Nhà nước, của

nhân viên nhà nước.

3.1.4. Pháp luật đảm bảo quyền con ngƣời

Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, có sự thống nhất biện chứng giữa

quyền dân tộc và quyền con người. Trong điều kiện dân tộc mất độc lập, độc lập dân

tộc là trước hết, trên hết, làm điều kiện tiền đề cho thực hiện quyền con người. Khi

dân tộc có độc lập, thực hiện quyền con người không xâm phạm quyền dân tộc.

Sau Cách mạng tháng Tám tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh về quyền con

người nhanh chóng trở thành hiện thực. Hồ Chí Minh và các cơ quan Nhà nước quan

tâm xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật ghi nhận, đảm bảo các quyền con người,

trở thành cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, thực thi quyền con người ở Việt Nam.

Quyền con người là nội dung trung tâm, cốt lõi của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh; điều đó góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu suốt đời Hồ Chí Minh

phấn đấu làm cho nhân dân Việt Nam sống một đời sung sướng, hạnh phúc.

11

Tính nhân văn, nhân nghĩa, tôn trọng công lý, đạo làm người trở thành một đặc

trưng trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh.

3.1.5. Công pháp quốc tế là cơ sở thực hiện quyền dân tộc

Hồ Chí Minh khẳng định các quyền tự nhiên vốn có của dân tộc là quyền bình

đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Hồ Chí Minh lên án, tố cáo sự

xâm lược, thống trị chủ chủ nghĩa đế quốc xâm phạm quyền dân tộc, quyền con

người ở các thuộc địa, trong đó có Việt Nam.

Đối với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định có quyền được hưởng độc

lập tự do và sự thực đã trở thành một nước tự do độc lập; tuyên bố xóa bỏ mọi hiệp

ước và quan hệ bất bình đẳng với Pháp; cũng như quyết tâm bảo vệ các quyền của

dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định cuộc đấu tranh để đòi và thực hiện các

quyền dân tộc của nhân dân Việt Nam phù hợp với các căn cứ pháp lý quốc tế, đó

vừa là mong muốn của nhân dân Việt Nam, cũng là đóng góp của nhân dân Việt Nam

vào sự hợp tác và hòa bình trên thế giới.

Hồ Chí Minh một mặt khẳng định chính sách ngoại giao của nhân dân Việt

Nam tuân thủ các nguyên tắc quốc tế: bình đẳng, mở cửa, hợp tác, tôn trọng độc lập

của các dân tộc trên thế giới; mặt khác kêu gọi, yêu cầu quốc tế thừa nhận quyền của

dân tộc Việt Nam.

Hồ Chí Minh mong muốn và luôn thể hiện bằng hành động thiện chí sử dụng

biện pháp hòa bình thương lượng, đàm phán để giải quyết các xung đột vũ trang.

Trong quan hệ quốc tế, trong việc thực hiện các quyền dân tộc, Hồ Chí Minh thể hiện

rõ tư tưởng căn cứ trên công pháp quốc tế.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của pháp luật thể hiện tập trung: Pháp

luật là công cụ quản lý xã hội không thể thiếu, quan trọng, hiệu quả; pháp luật xác lập

và là cơ sở đảm bảo thực hiện quyền là chủ, làm chủ của nhân dân; pháp luật là cơ sở

ngăn chặn sự lạm quyền của Nhà nước, của nhân viên nhà nước; pháp luật đảm bảo

quyền con người và công pháp quốc tế là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc.

3.2. VỀ PHƢƠNG THỨC THỰC HIỆN PHÁP QUYỀN

3.2.1. Thông qua hoạt động của Nhà nƣớc dân chủ

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã khảo sát mô hình Nhà

nước tư sản, nhận thấy những hạn chế và không tán thành mô hình nhà nước tư sản.

Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, cách mạng tháng Mười Nga, đến với đất nước của

V.I.Lênin, Hồ Chí Minh bước đầu tìm thấy mô hình Nhà nước cho Việt Nam.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh thừa nhận chủ quyền nhân dân và chủ

quyền nhân dân được hiến định, quan điểm Hồ Chí Minh tương đồng với tư tưởng

pháp quyền phương Tây, nhưng ở Hồ Chí Minh, có sự kết hợp cả về nội dung và

hình thức, cả chủ nghĩa lập hiến hiện đại.

12

Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước và các

đại biểu do họ bầu. Để đảm bảo quyền lực thực sự là của nhân dân, nhân dân giám

sát, kiểm tra đối với các cơ quan nhà nước trong toàn bộ quá trình sử dụng quyền lực

mà nhân dân ủy thác. Không một ai, không một tổ chức nào trong bộ máy nhà nước

có thể đứng ngoài hoặc đứng trên sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Người dùng

khái niệm "ủy thác" để nói đến việc nhân dân trao một phần quyền lực của mình cho

Nhà nước. Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân

dân khi không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

3.2.2. Thực thi pháp luật công tâm, nghiêm minh

Việc thực thi pháp luật nghiêm minh, bình đẳng đảm bảo cho pháp luật có hiệu lực và

được tôn trọng. Trong xã hội mới, trong một nền dân chủ mới, Hồ Chí Minh luôn yêu

cầu toàn xã hội tuân thủ và tôn trọng pháp luật. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải

gương mẫu trong tuân thủ kỷ luật và pháp luật, nêu gương cho quần chúng noi theo.

Hồ Chí Minh nêu quan điểm khi thực thi pháp luật phải đảm bảo tính công

bằng, bình đẳng. Mọi vi phạm đều phải xử lý bằng pháp luật, khi xử lý vi phạm như

nhau xử lý như nhau, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không có bất kỳ

sự phân biệt nào. Khi vi phạm pháp luật sẽ xử lý nghiêm cho dù người vi phạm là ai,

giữ cương vị gì. Đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, Hồ Chí Minh

cho rằng vi phạm pháp luật cần phải được xử lý kịp thời.

Tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh khác với tính nghiêm khắc, hà khắc, tính dã man của các kiểu pháp luật đã từng

tồn tại trong lịch sử. Tính nghiêm minh, hiệu lực của pháp luật gắn với tính nhân văn,

nhân đạo; gắn với tính hiệu quả.

Trong xử lý vi phạm pháp luật, bên cạnh chế tài trừng trị, Hồ Chí Minh còn

nêu các hình thức xử lý mạng tính giáo dục, cải tạo. Pháp quyền trong đấu tranh với

kẻ địch thì phải nghiêm minh, nhưng pháp quyền trong đấu tranh nội bộ nhân dân,

bên cạnh tính nghiêm minh, Hồ Chí Minh hết sức lưu ý tới tính nhân văn, tính giáo

dục, có lý có tình, phù hợp với đạo lý làm người.

3.2.3. Kết hợp đạo đức và pháp luật

Hệ thống pháp luật của một quốc gia dù đồng bộ, đầy đủ đến đâu cũng không

thể nào điều chỉnh hết các quan hệ xã hội, các tính chất quan hệ xã hội. Do đó, cần có

sự tham gia của các lĩnh vực khác trong đó có đạo đức, tạo nên sự tương hỗ lẫn nhau

giữa đạo đức và pháp luật trong điều chỉnh xã hội.

Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở

tìm cách làm thế nào để Nhà nước ta trở thành một Nhà nước kiểu mới, trong sạch,

vững mạnh, hiệu quả, khắc phục được những căn bệnh cố hữu của Nhà nước. Người

đặc biệt quan tâm đến: Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy

13

mạnh giáo dục đạo đức, để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải

kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không

được coi nhẹ mặt nào.

Hồ Chí Minh cho rằng phương thức thực hiện pháp quyền thông qua hoạt động

của bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thông qua sự kết hợp

giữa pháp luật và đạo đức, thực thi pháp luật nghiêm minh đi đôi với đẩy mạnh giáo

dục đạo đức cách mạng.

3.3. VỀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN PHÁP QUYỀN

3.3.1. Xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nƣớc kiểu mới

Hệ thống các cơ quan trong bộ máy nhà nước là nhân tố đầu tiên đảm bảo tính

hiệu lực của pháp luật, đảm bảo pháp quyền.

Vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước là một nội dung được Hồ Chí Minh quan

tâm trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, tổ chức bộ máy nhà nước làm sao để

cho quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc.

Đặc biệt, khi nước nhà giành được độc lập, vấn đề này trở thành một trọng tâm trong

tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới.

Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội quyết định những

vấn đề quan trọng nhất của đất nước: lập hiến, lập pháp, tổ chức bộ máy nhà nước,

quan hệ ngoại giao. Trong đó, đặc biệt Quốc hội có chức năng lập pháp và là cơ quan

nhà nước duy nhất thực hiện quyền này.

Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thành lập Chính phủ không nhằm phân chia quyền lực

nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập. Quyền lực nhà nước là thống nhất và

thuộc về nhân dân, việc lập ra Chính phủ là phân công quyền lực nhà nước cho các

cơ quan khác nhau đảm nhận quyền lực do nhân dân ủy thác, Chính phủ và các cơ

quan khác phối hợp với nhau thực hiện các chức năng nhà nước, lãnh đạo nhân dân

bảo vệ nền lập dân tộc và xây dựng xã hội mới.

Tòa án là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, để hoàn thiện tổ chức

bộ máy nhà nước, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống

tòa án cả về mặt tổ chức và nguyên tắc hoạt động. Tòa án là cơ quan giữ một vị trí

độc lập trong bộ máy nhà nước, thực hiện quyền xét xử. Được tổ chức và hoạt động

trên cơ sở những tư tưởng tiến bộ của Hồ Chí Minh, hệ thống tòa án Việt Nam đã

góp phần vào việc củng cố chính quyền nhân dân, xây dựng xã hội mới.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực nhà nước thống nhất và thuộc về nhân

dân, quyền lực đó nhân dân ủy thác cho Nhà nước, trong bộ máy nhà nước có sự

phân công cho các cơ quan nhà nước thực thi, quyền lập pháp trao Quốc hội, quyền

hành pháp trao cho Chính phủ và quyền tư pháp trao cho Tòa án. Trong khi thực thi

14

các quyền đó có sự phối hợp giữa các cơ quan, các bộ phận của quyền lực nhà nước.

Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà nước hoàn chỉnh, ban hành pháp luật và tổ chức thi

pháp luật trong thực tiễn đời sống xã hội, đảm bảo tính hiệu lực, tính nghiêm minh

của pháp luật, đó là, quá trình hiện thực hóa tư tưởng pháp quyền trong thực tiễn đời

sống xã hội.

3.3.2. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, tuyên truyền, giáo dục là một khâu, một

bước tiếp theo sau việc xây dựng, ban hành pháp luật, trong thực hiện pháp quyền.

Hồ Chí Minh khẳng định tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải được xem

trọng, là một việc quan trọng, trọng yếu. Việc tuyên truyền, giáo dục đòi hỏi phải

kiên trì, bền bỉ, đồng thời phải rộng khắp, đem lại tác dụng để nhân dân biết về luật,

hiểu về luật, trên cơ sở đó tuân thủ pháp luật, tôn trọng pháp luật.

Người yêu cầu tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải thấm sâu vào đời sống

nhân dân, phải tạo ra ý thức tuân thủ pháp luật thành nề nếp, lối ứng xử tự nhiên của

con người, pháp luật chuyển hóa thành đạo đức xã hội.

Hồ Chí Minh cho rằng tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở nhiều giai đoạn khác

nhau của quá trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật. Bằng nhiều phương

thức khác nhau, bằng nội dung pháp luật; bằng thực tiễn thực thi pháp luật nghiêm

minh, công bằng, bình đẳng; bằng hoạt động kiểm tra, giám sát. Đặc biệt, Hồ Chí

Minh nhấn mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật bằng tấm gương tôn trọng và tuân

thủ pháp luật của đảng viên, của nhân viên nhà nước, nhất là cán bộ, nhân viên tư

pháp, những người trực tiếp thực thi pháp luật.

Hồ Chí Minh quan niệm chủ thể thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục

pháp luật, gồm: Cơ quan Đảng, chính quyền, trực tiếp cán bộ, nhân viên nhà nước

phục trách việc này; các tổ chức đoàn thể quần chúng, nhất là Đoàn thanh niên và

Hội phụ nữ. Trong quan niệm về các chủ thể tuyên truyền, giáo dục pháp luật, Hồ

Chí Minh có một luận điểm thể hiện tư tưởng pháp quyền rõ, đó là tính chủ động, tích

cực, nhất là ở các chủ thể có quyền và lợi ích trực tiếp từ các quy định của pháp luật.

Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, tuyên truyền, giáo dục pháp luật

được xác định là khâu tiếp theo sau khâu ban hành pháp luật, khâu trọng yếu để đưa

pháp luật vào cuộc sống và hiện thực hóa pháp quyền.

3.3.3. Pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân

Hồ Chí Minh luôn trăn trở với việc làm sao để chính sách, pháp luật của Chính

phủ phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân, muốn vậy phải làm sao cho tình hình

của nhân dân có thể đến và đến đầy đủ, chính xác với Chính phủ.

Quán triệt tư tưởng đề cao, coi trọng nhân dân, trong xây dựng pháp luật, Hồ

Chí Minh chủ trương thực hành dân chủ rộng rãi với sự tham gia đông đảo nhất có

thể của các tầng lớp.

15

Sự tham gia của người dân vào xây dựng và thực thi pháp luật có hai hình thức

trực tiếp và gián tiếp. Gián tiếp là nhân dân ủy thác quyền của mình và thông qua đại

biểu, thông qua các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội thực

hiện quyền xây dựng và thực thi pháp luật. Trực tiếp là nhân dân trực tiếp thực hiện ý

chí của mình, trực tiếp tham gia xây dựng và thực thi pháp luật. Hồ Chí Minh quan

tâm đến cả hai hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp.

Sự tham gia của người dân vào xây dựng pháp luật sẽ đảm bảo hệ thống pháp

luật sát với thực tiễn, bắt nguồn từ cuộc sống, phản ánh nhu cầu của cuộc sống. Đây

là cơ sở để đưa pháp luật vào cuộc sống, tăng tính hiệu lực của pháp luật, thể hiện tư

tưởng pháp quyền.

3.3.4. Nâng cao trình độ dân trí, ý thức chính trị của nhân dân

Với sự cai trị độc tài và chính sách đàn áp dã man của thực dân, đế quốc, tuyệt

đại đa số nhân dân ta không được tham gia vào các hoạt động chính trị, bị đặt ra

ngoài các hoạt động chính trị, do đó hiểu biết và năng lực tham gia các hoạt động

chính trị của nhân dân ta hạn chế. Để khắc phcj tình trạng đó, Hồ Chí Minh quan tâm

đến việc nâng cao tính tích cực của dân chúng, nâng cao trình độ dân trí và ý thức

chính trị của nhân dân. Hồ Chí Minh coi giáo dục là biện pháp quan trọng hàng đầu

để nâng cao trình độ dân trí, ý thức chính trị của nhân dân.

Trong quá trình thực hiện pháp quyền dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận ra sức

mạnh to lớn của dân chúng, tính tích cực của dân chúng đóng vai trò quyết định với

pháp quyền dân tộc. Tuyên truyền, giáo dục để thức tỉnh dân chúng, phát huy tính

tích cực của dân chúng, tạo nên sức mạnh đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Thực tiễn

cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc đã khẳng định tư tưởng của

Hồ Chí Minh.

Cách mạng thành công, giai đoạn phá bỏ sự cai trị của thực dân, phát - xít đã

thực hiện; giai đoạn bắt tay vào kiến thiết, xây dựng xã hội mới, pháp quyền mới bắt

đầu, trong giai đoạn mới vai trò của yếu tố trình độ dân trí, của ý thức chính trị, của

tích tích cực trong dân chúng càng phải phát huy cao độ. Giai đoạn đầu khi mới bắt

tay vào kiến thiết lại đất nước, cần có nhân tài, Hồ Chí Minh kêu gọi nhân tài ra giúp

nước, tìm người tài đức. Trên phương diện pháp lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các Sắc

lệnh lưu giữ quan chức của chế độ cũ làm việc cho chế độ mới. Trên thực tế, Hồ Chí

Minh đã tập hợp được phần đông giới tinh hoa của dân tộc, phát huy vai trò của họ,

họ đã tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trong đó có việc xây

dựng pháp quyền Việt Nam. Đó là giải pháp tình thế, ngắn hạn. Nhận thức được tầm

quan trọng của giáo dục - đào tạo đối với sự nghiệp kiến thiết và phát triển dân tộc,

ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Hồ Chí Minh quan tâm đến vấn đề giáo

dục, mở mang nền học vấn nước nhà. Điều này trở thành chiến lược trong tư tưởng

pháp quyền Hồ Chí Minh.

16

Nâng cao trình độ dân trí, ý thức chính trị của nhân dân có quan hệ chặt chẽ với

tính hiệu lực của pháp luật, ý thức pháp luật của nhân dân.

Từ sự phân tích, lý giải nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh ở trên, tác giả

luận án rút ra những nét đặc sắc trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh như sau:

-Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là sự thâu thái, vượt gộp và vận dụng các giá

trị trong tư tưởng pháp quyền dân tộc, phương Đông, phương Tây, đặc biệt chủ nghĩa

Mác – Lênin.

-Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, bên cạnh đề cao pháp luật, vai trò pháp luật,

sử dụng pháp luật, tính hiệu quả, hiệu lực pháp luật; rất coi trọng, đề cao đạo đức, kết

hợp đạo đức và pháp luật, tạo nên pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh. Pháp quyền Hồ

Chí Minh là công lý, đạo lý làm người.

-Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh lấy quyền con người, quyền công dân làm

nền tảng, trong đó gắn quyền con người, quyền công dân với quyền dân tộc, tạo nên sự

gắn bó, hài hòa, thống nhất giữa quyền con người, quyền công dân và quyền dân tộc. Tư

tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh mang một giá trị nhân văn sâu sắc.

-Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền thực tiễn, Người nêu các

nguyên tắc, các nguyên lý, đồng thời tạo nên các thiết chế để hiện thực hóa các nguyên

lý pháp quyền trong đời sống hiện thực.

Tiểu kết chƣơng 3

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh có thể được tiếp cận với nhiều nội dung

khác nhau, trong chương 3 của luận án, tập trung vào 3 nội dung sau:

Thứ nhất, Hồ Chí Minh đề cao vai trò của pháp luật trong toàn bộ đời sống xã

hội. Pháp luật là công cụ quản lý xã hội cần thiết, quan trọng, hiệu quả. Pháp luật là

cơ sở để thực hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân. Pháp luật là cơ sở pháp lý

ngăn chặn sự lạm quyền của Nhà nước, của nhân viên nhà nước. Pháp luật đảm bảo

quyền con người. Công pháp quốc tế là cơ sở thực hiện quyền dân tộc.

Thứ hai, Hồ Chí Minh có đề cập đến các phương thức thực thi pháp quyền,

thông qua hoạt động của Nhà nước dân chủ; thông qua hoạt động thực thi pháp luật

công tâm, nghiêm minh; thông qua văn hóa, đạo đức, kết hợp giữa Nhà nước và xã

hội, giữa pháp luật và đạo đức.

Thứ ba, Hồ Chí Minh nêu những điều kiện thực hiện pháp quyền, điều kiện

đầu tiên phải xây dựng hoàn thiện Nhà nước kiểu mới về bản chất, về cơ cấu tổ chức,

về cơ chế vận hành của bộ máy, cũng như các nhánh trong việc thực hiện các quyền

lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Pháp

luật thể hiện ý chí của nhân dân. Nâng cao trình độ dân trí và ý thức chính trị của

người dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là điều kiện quan trọng, tạo nền tảng văn hóa

đảm bảo pháp quyền.

17

Nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh tương đồng với tư tưởng pháp

quyền hiện đại, pháp quyền trong cả dân quyền và công quyền. Tư tưởng pháp quyền

Hồ Chí Minh thể hiện tính nhân văn cao cả. Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh

có nội dung mới chỉ mang tính khai phá, ngày nay, chúng ta cần phải bổ sung, phát

triển và cụ thể hóa trong thực tiễn đời sống xã hội.

Chƣơng 4

NHỮNG GIÁ TRỊ THAM CHIẾU TRONG TƢ TƢỞNG PHÁP QUYỀN

HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ NƢỚC

PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY

Từ những kết quả nghiên cứu nội dung tư tưởng pháp quyền và thực tiễn chỉ

đạo xây dựng pháp quyền Việt Nam của Hồ Chí Minh, tác giả luận án nêu ra một số

giá trị tham chiếu của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đối với việc xây dựng, hoàn

thiện NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay, như sau:

4.1. KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC

Vấn đề hàng đầu trong tư tưởng pháp quyền là kiểm soát quyền lực nhà nước,

đây là vấn đề đặt ra từ khi Nhà nước xuất hiện, tạo một cơ chế để kiểm soát hiệu quả

quyền lực nhà nước là vấn đề luôn được quan tâm trong lịch sử nhân loại. Ở Việt

Nam, từ khi Nhà nước Việt Nam DCCH ra đời cho đến hiện nay, tại mỗi giai đoạn,

vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được đặt ra ở những mức độ khác nhau.

Ở thời đại Hồ Chí Minh vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước có đặt ra, nhưng

chưa phải là vấn đề cần kíp, cấp bách, toàn bộ dân tộc dồn hết cho mục tiêu thiêng

liêng nhất là giành và giữ độc lập dân tộc. Cùng với đó là vai trò và phẩm chất cá

nhân Hồ Chí Minh, người đứng đầu Nhà nước luôn khẳng định cả về lý luận và thực

tiễn Nhà nước Việt Nam DCCH là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất tiến bộ, tính ưu việt của

Nhà nước mới đã được khẳng định, nhưng đồng thời cũng bộc lộ hạn chế cần khắc

phục, trong đó có việc thiếu một cơ chế giám sát quyền lực Nhà nước một cách cụ

thể, rõ ràng, hiệu quả, hạn chế này đến hiện nay vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Giám sát của lập pháp, đó là giám sát của Quốc hội, chưa có những quy định

cụ thể và thiếu hiệu quả. Giám sát của tư pháp, trong nền pháp quyền của nhiều quốc

gia trên thế giới, hoạt động giám sát này có vai trò quan trọng, tạo ra sự kiềm chế, đối

trọng, tạo sự cân bằng trong quyền lực nhà nước. Đặc điểm này không được nhấn

mạnh ở Việt Nam, trong thực tế, giám sát của tư pháp không phát huy vai trò. Đây là

một vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu và đề xuất giải pháp hữu hiệu trong xây

dựng, phát triển NNPQ XHCN.

Chúng ta hoàn toàn thiếu một cơ chế bảo hiến; vai trò giải thích Hiến pháp

của Quốc hội không được phát huy; công dân không viện dẫn Hiến pháp để bảo vệ

18

quyền và lợi ích của mình; Tòa án không viện dẫn Hiến pháp trong hoạt động xét

xử. Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay, nhanh chóng xây dựng, ban hành cơ

chế bảo hiến.

Thực tế ở Việt Nam có lĩnh vực, có những quan hệ xã hội thiếu quy định pháp

luật điều chỉnh; tính đồng bộ của hệ thống pháp luật chưa cao, thậm chí chồng chéo,

mâu thuẫn. Vấn đề quan trọng hơn, mang tính hiện thực hơn, vừa đáp ứng được

những đòi hỏi của hiện tại, vừa có giá trị quyết định, lâu dài là triệt để thực hiện

nguyên tắc ban hành pháp luật để phục vụ nhân dân. Trên nền tảng pháp quyền là

pháp luật phục vụ nhân dân, khi thực tiễn đặt ra yêu cầu, khi nhu cầu nhân dân cần,

Nhà nước sẽ ban hành pháp luật đề đáp ứng; gắn với thực tiễn, gắn với nhân dân tạo

cơ sở cho pháp luật đi vào cuộc sống, đảm bảo tính khả thi.

Triệt để tuân thủ nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng, ban hành pháp luật,

khắc phục tình trạng hiện nay, ban hành pháp luật tạo thuận lợi cho cơ quan Nhà

nước trong hoạt động, gây khó khăn, thiệt hại cho công dân, cho xã hội; khắc phục

tình trạng, những điều bất lợi, gây khó khăn, làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của

nhân dân thì các nhân viên nhà nước, các cơ quan nhà nước viện lý do luật quy định

như vậy; ngược lại những việc có lợi cho nhân dân thì các nhân viên nhà nước, các

cơ quan nhà nước viện lý do pháp luật không có quy định. Thực trạng này nhìn về

hình thức rất đúng quy định, tuân thủ pháp luật nghiêm, thượng tôn pháp luật; xét về

bản chất và nguồn gốc sâu xa, thể hiện một Nhà nước thiếu tinh thần pháp quyền,

không đạt “thần linh pháp quyền”. Thực trạng này, làm nổi bật tầm quan trọng của

vấn đề pháp luật ấy như thế nào và pháp luật ấy phục vụ ai; hình thức của pháp luật

quan trọng, nhưng nội dung pháp luật, tinh thần pháp luật, pháp quyền đóng vai trò

quyết định.

Giải quyết vấn đề trên, chúng ta trở lại với giá trị tư tưởng và thực tiễn pháp

quyền Hồ Chí Minh. Chúng ta quay lại và triệt để thực hiện tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh: Việc gì có lợi cho dân, chúng ta phải hết sức làm; việc gì có hại cho dân

dù nhỏ mấy, chúng ta phải hết sức tránh. Chúng ta quay lại và thấy được “thần linh

pháp quyền” trong thực tiễn hoạt động xây dựng, ban hành pháp luật của Hồ Chí

Minh. Chúng ta thấy dường như có một mâu thuẫn giữa điểm thứ hai trong Yêu sách

của nhân dân An Nam và thực tế ban hành rất nhiều sắc lệnh trong quản lý nhà nước

của Hồ Chí Minh. Giải thích mâu thuẫn đó có nhiều cách khác nhau, có nhiều lý do

khác nhau tùy quan điểm. Để thấy hết giá trị tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, cần

phải có tư duy biện chứng. Hình thức, hiện tượng, cái vỏ vật chất có thể giống nhau,

nhưng nội dung, bản chất bên trong quyết định, tạo nên sự khác nhau về chất. Đây là

triết lý sâu sắc trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh: pháp luật phục vụ nhân dân.

Công đoạn tiếp theo sau ban hành pháp luật là đưa pháp luật vào cuộc sống,

làm sao để người dân dễ dàng tiếp cận với pháp luật, hiểu về luật, chủ động sử dụng

19

pháp luật để bảo vệ mình. Đưa pháp luật vào cuộc sống bao gồm nhiều khâu, liên

quan đến nhiều vấn đề, đây là việc khó khăn, phức tạp và quan trọng không kém ban

hành pháp luật. Công bố luật vừa là một khâu trong quá trình ban hành pháp luật;

cũng là bước đầu của đưa pháp luật vào cuộc sống. Hiện nay, chúng ta chủ yếu đăng

trên Công báo, một tờ báo không mang tính phổ biến trong đời sống xã hội Việt

Nam, cần mở rộng sang các báo khác phát hành mang tính rộng rãi hơn; không chỉ

trên báo in, mà mở rộng ra các phương tiện thông tin đại chúng khác, báo nói, báo

hình và báo điện tử. Khâu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chúng ta đang

trong tư duy để phục vụ quản lý nhà nước hơn là phục vụ nhân dân; tuyên truyền tập

trung, ưu tiên vào các văn bản pháp luật phục vụ chức năng quản lý nhà nước hơn là

các văn bản pháp luật về quyền công dân; tuyên truyền nhằm mục đích để công dân

tuân thủ pháp luật hơn là để công dân sử dụng pháp luật. Hoạt động đưa pháp luật

vào cuộc sống đặt ra yêu cầu thay tư duy pháp quyền cho tư duy pháp chế.

Một hệ thống pháp luật hoàn thiện đến mức độ cao, được xác định là tiến bộ,

văn minh, khi được thực thi vẫn chịu ảnh hưởng của nhân tố chủ quan người áp

dụng; xu hướng lạm quyền gắn liền với Nhà nước, với quyền lực nhà nước; giám

sát quyền lực nhà nước bên cạnh biện pháp pháp lý, cần quan tâm đến đạo đức công

quyền. Trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh kết hợp quản lý nhà nước bằng

pháp luật với quản lý nhà nước bằng đạo đức cách mạng. Hiện nay, trong xây dựng

NNPQ XHCN, cần áp dụng tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật

và đạo đức công quyền. Pháp luật làm cho người ta không dám lạm quyền, thì đạo

đức công quyền làm cho người ta không muốn lạm quyền, coi lạm quyền là trái với

đạo đức; đạo đức công quyền còn có tác dụng đề cao trách nhiệm cá nhân của nhân

viên nhà nước.

4.2. PHÁP LUẬT PHẢI THỂ HIỆN Ý NGUYỆN CỦA NHÂN DÂN

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ XHCN,

vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Đối với Việt Nam hiện nay,

để pháp luật thể hiện ý nguyện của nhân dân, cần mở rộng, bổ sung chủ thế sáng kiến

luật là cá nhân công dân, tổ chức xã hội dân sự. Điều này đảm bảo tính linh hoạt, tính

thường xuyên của hoạt động xây dựng pháp luật; đảm bảo tính thực tiễn của pháp

luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, đưa cuộc sống vào pháp luật.

Làm sao để hoạt động lập pháp của Quốc hội phản ánh chính xác ý nguyện của

nhân dân trong chính thể đại diện, chúng ta có thể trở lại với giá trị tư tưởng và thực

tiễn pháp quyền Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, các vị đại biểu phải gần dân, lắng

nghe dân và tiếp thu được ý nguyện của nhân dân, làm sao để nắm được dân tình,

hiểu được dân nguyện, thấu được dân tâm.

Thời đại Hồ Chí Minh chưa có điều kiện đề cập và thực hiện phản biện xã hội

20

đối với chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhưng Hồ Chí Minh đã có những gợi mở

về vấn đề này trong thực tiễn. Cách làm của Hồ Chí Minh là những gợi mở có giá trị

vận dụng trong hoạt động lập pháp hiện nay.

Do bối cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, ở thời đại Hồ Chí Minh, vai trò lập

quy của Chính phủ nhiều, lớn, và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đất nước;

nhưng tính hiệu quả của hoạt động lập quy của Chính phủ mang đậm dấu ấn cá nhân

Hồ Chí Minh. Hoạt động lập quy của Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu

là một trường hợp đặc biệt, đảm bảo phản ánh đúng ý nguyện của toàn dân tộc, chúng

ta nhận thấy ở đó nhân tố chủ quan, yếu tố cá nhân người lãnh đạo đóng vai trò quyết

định. Hiện nay, đã có nhiều thay đổi, điều kiện lịch sử thay đổi so với thời đại Hồ Chí

Minh, vai trò lập quy của Chính phủ cần phải hạn chế.

4.3. CHỦ QUYỀN NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG CỦA

QUỐC GIA

Chủ quyền nhân dân trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh có nhiều nội

dung, có giá trị bền vững, cần tiếp thu và vận dụng trong xây dựng NNPQ XHCN.

Chủ quyền nhân dân trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh thể hiện tập trung

trong việc quyết định những vấn đề quan hệ đến vận mệnh quốc gia.

Chủ quyền nhân dân quan trọng hàng đầu là lập ra Nhà nước, trước tiên, quyết

định nhất là tham gia ứng cử và bầu cử Quốc hội, cơ quan quyền lực Nhà nước cao

nhất, cơ quan đại diện cao nhất trực tiếp do nhân dân bầu ra; cơ quan đại diện cho

nhân dân làm và sửa Hiến pháp, làm và sửa luật, quyết định các vấn đề quan trọng

của đất nước.

Vấn đề vị trí, vai trò của Hiến pháp và các chủ thể sáng kiến lập hiến là

những vấn đề quan trọng, thể hiện chủ quyền nhân dân. Tư tưởng pháp quyền Hồ

Chí Minh về vấn đề này và thực tiễn thực hiện có nhiều giá trị tham chiếu với Việt

Nam hiện nay. Chủ quyền nhân dân trong xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, về mặt tư

tưởng, đã có, nhưng về mặt thực tiễn chưa có, do đó, chủ quyền nhân dân trong hoạt

động lập hiến chưa hoàn chỉnh. Đây là nhiệm vụ mà pháp quyền Việt Nam cần phải

khắc phục và phát triển; một mặt pháp quyền Việt Nam trở lại với các giá trị tư tưởng

pháp quyền Hồ Chí Minh, trở lại với quy định bắt buộc trưng cầu dân ý với Hiến

pháp sửa đổi theo Hiến pháp năm 1946; mặt khác, phải phát triển hơn thời đại Hồ Chí

Minh, thực hiện trên thực tế trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp sửa đổi; một đảm bảo

cao nhất về giá trị pháp lý của Hiến pháp. Chủ quyền nhân dân trong hoạt động lập

hiến được thực hiện đầy đủ.

4.4. CÁC QUYỀN HIẾN ĐỊNH CỦA CÔNG DÂN

Trong tư tưởng pháp quyền, Hồ Chí Minh sớm đề cập đến quyền con người,

một mặt, Hồ Chí Minh đấu tranh cho việc thừa nhận quyền con người; mặt khác,

21

Người đấu tranh cho việc thực hiện quyền con người. Khi đất nước có độc lập, có

Nhà nước độc lập, có điều kiện thực tế, Hồ Chí Minh thông qua hệ thống pháp luật

ghi nhận quyền con người thành các quyền công dân.

Quyền con người thể hiện qua quyền công dân, nhân dân là chủ thể quyền

công dân, Nhà nước đóng vai trò thừa nhận quyền con người qua quyền công dân,

Nhà nước không phải là chủ thể của quyền công dân. Quan điểm này của Hồ Chí

Minh có giá trị về lý luận và thực tiễn trong xây dựng pháp quyền Việt Nam.

Hoạt động lập hiến, lập pháp hiện nay cần phải quán triệt tư tưởng pháp quyền,

thứ nhất, cũng như quyền con người, quyền công dân là vốn có, Nhà nước có nghĩa

vụ thừa nhận, chứ không phải Nhà nước ban phát, cho mới có; thứ hai, quyền công

dân là giới hạn của công quyền, vùng cấm của công quyền.

Các quyền con người, quyền công dân đã được Đảng Cộng sản Việt Nam

khẳng định, được Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quy định; vấn đề với

Việt Nam hiện nay là cụ thể hóa thành các đạo luật và thực thi trong thực tiễn đời

sống xã hội.

4.5. XÂY DỰNG MỘT CHÍNH QUYỀN MẠNH MẼ VÀ SÁNG SUỐT

Theo Hồ Chí Minh, tổ chức quyền lực trong Nhà nước Việt Nam DCCH

không hoàn toàn theo học thuyết tam quyền phân lập, các quyền lập pháp, hành pháp

và tư pháp độc lập với nhau, kiềm chế và đối trọng lẫn nhau; quyền lực Nhà nước là

thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân

công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chưa

có quy định cụ thể, rõ ràng; nhất là về cơ chế phối hợp.

Chính phủ, theo tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, phải có thẩm quyền

mạnh và hiệu quả; Chính phủ đảm bảo đủ thẩm quyền và phản ứng nhanh, giải

quyết hiệu quả với những vấn đề nảy sinh của thực tiễn đời sống xã hội; song song

với quản lý, điều hành, Chính phủ phải tạo không gian tự do cho hoạt động của

công dân, phát huy tính năng động, sáng tạo của công dân, không can thiệp quá sâu

vào đời sống xã hội.

Hệ thống tư pháp của nước ta ra đời và phát triển từ sau Cách mạng tháng

Tám năm 1945 đã góp phần thực thi pháp luật nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả; góp

phần quan trọng trong xây dựng pháp quyền Việt Nam. Toà án được coi là trọng

tâm của toàn bộ hệ thống tư pháp. Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư

pháp, cho nên tổ chức hệ thống tòa án; nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Tòa án

đóng vai trò quan trọng trong thực hiện một trong ba nhánh quyền của quyền lực

nhà nước - quyền tư pháp.

22

Tiểu kết chƣơng 4

Tư tưởng pháp quyền Hổ Chí Minh có giá trị lý luận và thực tiễn đối với quá

trình xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam; các vấn đề được Hồ Chí Minh nêu ra và

giải quyết là sự gợi mở cho việc tìm tòi, sáng tạo, phát hiện và giải quyết các khía

cạnh của thực tiễn hiện nay đang đặt ra.

Thứ nhất, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước, Hồ Chí Minh sử dụng

nhiều cách, nhiều công cụ khác nhau, bằng hoạt động lập; bằng hoạt động tư pháp;

bằng đạo đức công vụ; cần phải kết hợp sử dụng đa dạng, nhiều cách, nhiều công

cụ khác nhau.

Thứ hai, pháp luật thể hiện ý nguyện của nhân dân, trước hết là của công nhân,

nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động, lực lượng chiếm tuyệt đại đa số; và có

cả của bộ phận thiểu số; phải có những cách thức để nhân dân tham gia trực tiếp vào

xây dựng pháp luật.

Thứ ba, địa vị làm chủ của nhân dân đối với các vấn đề quan hệ đến vận mệnh

quốc gia phải được đảm bảo; nhân dân trực tiếp và gián tiếp lập nên Nhà nước; nhân

dân là chủ thể tối cao đối với hoạt động lập hiến là một giá trị cần được tiếp thu về

mặt lý luận và phát triển về mặt thực tiễn trong điều kiện hiện nay.

Thứ tư, các quyền con người hiến định thành các quyền công dân, đó là những

quyền tự nhiên, vốn có của con người, quyền thiêng liêng mà Nhà nước có nghĩa vụ

ghi nhận và bảo vệ, hiện thực hóa.

Thứ năm, tổ chức bộ máy nhà nước và cơ chế thống nhất, có sự phân công,

phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một

đặc trưng của NNPQ XHCN cần được làm rõ và cụ thể hóa, tạo thành một cơ chế tốt

trong vận hành bộ máy nhà nước.

23

KẾT LUẬN

Bằng những phẩm chất cá nhân, đặc biệt là tình thương yêu, đề cao con người

kết hợp với trí thông minh, Hồ Chí Minh đã nhận ra thực trạng dân tộc mất độc lập,

dưới sự cai trị không có pháp quyền, trái pháp quyền của thực dân Pháp, nhân dân

Việt Nam cùng khổ. Hồ Chí Minh cho rằng trước hết phải giải phóng dân tộc, thực

hiện quyền dân tộc; xây dựng xã hội mới, thực hiện quyền con người, quyền công

dân. Trong quá trình tìm đường cứu nước, xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh đã tiếp

thu những giá trị của truyền thống pháp lý dân tộc; tiếp thu tư tưởng pháp quyền nhân

loại, nhất là những giá trị trong tư tưởng pháp quyền phương Tây, trong đó có lý luận

pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là những cơ sở để hình thành tư tưởng pháp

quyền Hồ Chí Minh và từng bước được Người hiện thực hóa trong đời sống xã hội

Việt Nam, đem lại quyền và lợi ích cho nhân dân Việt Nam. Trong những cơ sở ấy,

nổi bật và tỏa sáng yếu tố cá nhân con người Hồ Chí Minh đóng vai trò quyết định,

trong việc nhận ra yêu cầu của thực tiễn dân tộc; trong việc đánh giá, tiếp thu giá trị

truyền thống dân tộc, văn hóa nhân loại hình thành quan điểm, luận điểm về pháp

quyền của mình; bằng hành động cụ thể đem lại tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho

nhân dân.

Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ

khác nhau, nhưng nội dung cơ bản bao gồm: tư tưởng về vai trò của pháp luật đối với

toàn bộ đời sống xã hội, bao hàm cả Nhà nước, chủ thể trực tiếp ban hành pháp luật,

áp dụng pháp luật; nội dung pháp luật ghi nhận và đảm bảo các quyền con người,

trước tiên trên lĩnh vực chính trị, các quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh

phúc; tư tưởng về các phương thức và điều kiện thực hiện pháp quyền... Tất cả để tìm

ra quy tắc ứng xử chính đáng, bền vững, biết đối đãi với người khác đúng tư cách con

người. Đó là cốt lõi của pháp quyền, làm cho pháp quyền trở thành “thần linh” theo

đúng nghĩa là cái cao cả và thiêng liêng; là giá trị mà con người luôn vươn tới.

Theo tác giả của luận án, tư tưởng pháp quyền và quá trình Hồ Chí Minh lãnh

đạo toàn dân tộc thực hiện tư tưởng pháp quyền trong đời sống xã hội mang tính khai

phá, có tác dụng định hướng, cần nghiên cứu, bổ sung, phát triển; cụ thể hóa để đưa

vào cuộc sống; hiện thực hóa cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Trên cơ sở nghiên cứu nội dung tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh, tác giả của

luận án nêu ra một số giá trị tham chiếu trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đối

với việc xây dựng, hoàn thiện NNPQ XHCN ở Việt Nam. Các giá trị đó đồng thời

cũng là những định hướng, gợi mở để tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu về tư tưởng

pháp quyền Hồ Chí Minh và vấn đề pháp quyền, cụ thể: vấn đề kiểm soát quyền lực

nhà nước, cơ chế kiểm soát, các loại hình kiểm soát và vai trò của mỗi loại hình; cách

thức để nhân dân tham gia vào xây dựng pháp luật, để pháp luật thể hiện ý nguyện

24

của nhân dân; xác định các vấn đề quan hệ đến vận mệnh quốc gia và cách thức để

nhân dân thực hiện quyền làm chủ đó; vấn đề quyền con người, quyền công dân trong

tư tưởng và thực hiện pháp quyền, nhất là trong việc hiến định các quyền đó; vấn đề

tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là yếu tố quan trọng đảm bảo thực thi

pháp quyền.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo những

giá trị khoa học trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh vào hoạch định chủ trương,

đường lối lãnh đạo xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. Sự kế thừa, vận dụng và phát

triển sáng tạo, đó qua nhiều giai đoạn với những mức độ khác nhau, điều này phụ

thuộc vào nhận thức của Đảng về giá trị khoa học của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí

Minh, nhận thức được những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đất nước và bối cảnh

quốc tế. Xu hướng chung của quá trình nhận thức và vận dụng là ngày càng đúng,

đầy đủ giá trị khoa học tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh. Kết hợp phản ánh sát thực

tiễn, xác định đúng yêu cầu của thực tiễn; tiếp thu có phê phán và áp dụng các giá trị

của tư tưởng pháp quyền trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ

trương, đường lối lãnh đạo đáp ứng được yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam.

Trên thực tiễn, giá trị khoa học của tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh đã trở

thành nền tảng lý luận cho xây dựng Nhà nước Việt Nam trước thời kỳ đổi mới; định

hướng cho xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam hiện nay; xác định các đặc trưng cơ

bản của NNPQ XHCN Việt Nam; tìm kiếm các giải pháp chủ yếu để xây dựng

NNPQ XHCN Việt Nam hiện đại.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Đắc Dũng (2014), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về các yêu cầu

đối với người cán bộ”, Tạp chí Nguồn lực khoa học xã hội, (12),

tr.33-40.

2. Nguyễn Đắc Dũng (2014), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về đào tạo và sử

dụng cán bộ”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5), tr.70-74.

3. Nguyễn Đắc Dũng (2016), “Quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp

quyền kiểu mới - Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ”, Tạp chí

Lao động và công đoàn, (599), tr.6-7.

4. Nguyễn Đắc Dũng (2016), “Hồ Chí Minh với việc hiện thực hóa Nhà nước

kiểu mới ở Việt Nam”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, (138), tr.19-21, 57.

5. Nguyễn Đắc Dũng (2017), “Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh trong

Tuyên ngôn độc lập - ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại”, Tạp chí

Sinh hoạt lý luận, 4(145), tr.20-22, 19.