Upload
vuhuong
View
218
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
THANH THÍNH HỌC TRONG GIÁO DỤC TRẺ KHIẾM THÍNHTHANH THÍNH HỌC
TRONG GIÁO DỤC TRẺ KHIẾM THÍNH
Tác giả: Trịnh Thị Kim Ngọc
LỜI NÓI ĐẦU
Giáo dục học Đặc biệt là một ngành khoa học mới ở Việt Nam. Hiện
nay, tài liệu tham khảo về Giáo dục Đặc biệt nói chung và chuyên ngành
khiếm thính nói riêng bằng tiếng Việt cho giảng viên và sinh viên tại các
trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm có Khoa Giáo dục Đặc biệt còn thiếu.
Để có được tài liệu phục vụ cho việc học tập của sinh viên Khoa Giáo dục
Đặc biệt hệ chính qui và không chính qui trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu
giáo TW3, chúng tôi biên soạn tài liệu "Thanh thính học trong giáo dục trẻ
khiếm thính" với các nội dung cơ bản và một số hình ảnh minh hoạ nhằm
cung cấp kiến thức và kỹ năng cần thiết nhất cho sinh viên học chuyên ngành
giáo dục trẻ khiếm thính.
Sau khi học các môn học: Giải phẫu sinh lý, sinh lý học thần kinh và
giác quan, tâm lý học thần kinh... trong phần kiến thức chung và kiến thức cơ
sở của chương trình đào tạo giáo viên Giáo dục Đặc biệt, "Thanh thính học
trong giáo dục trẻ khiếm thính" là môn học đầu tiên trong chuyên ngành giáo
dục trẻ khiếm thính, gồm có 30 tiết và dược chia thành 5 bài (Xem chương
trình môn học).
Sau mỗi bài, chúng tôi đã biên soạn các câu hỏi để sinh viên thảo luận
trong quá trình học, các câu hỏi ôn tập sau khi kết thúc bài học và tài liệu
tham khảo cần phải đọc ngay để bổ sung và hoàn thiện kiến thức một cách
đầy đủ. Riêng bài 4, có các câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra kiến thức về máy
trợ thính và cấy điện cực ốc tai. Phần phụ lục, là những bài đọc thêm rất cần
thiết để có kiến thức trọn vẹn về nội dung liên quan đến từng bài. Ngoài việc
được học lý thuyết, sinh viên còn có cơ hội kiến tập ở các trường chuyên biệt
dạy trẻ khiếm thính để quan sát môi trường chăm sóc và giáo dục trẻ.
Tài liệu này được soạn dựa trên các tài liệu bài giảng của GV Trần Thị
Thiệp (Khoa GDĐB trường ĐHSP Hà Nội), BS Nguyễn Thị Thanh Thủy
(Trưởng Khoa Thính học - TT Tai-mũi-họng TP.HCM) và một số trang web.
Trong quá trình biên soạn, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót
chúng tôi mong được sự góp ý của các đồng nghiệp và các em sinh viên để
tài liệu này được hoàn thiện và phục vụ tốt hơn cho chuyên ngành giáo dục
trẻ khiếm thính.
Tác giả
MỤC TIÊU VÀ CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC
I. Mục tiêu
1. Mục tiêu chung:
Hình thành cho người học các kiến thức và kỹ năng cơ bản liên quan
đến âm thanh và thính học trong việc giáo dục trẻ khiếm thính mầm non. Qua
đó, giúp người học có thái độ đúng đắn và đam mê công việc chăm sóc và
giáo dục cho trẻ khiếm thính.
2. Mục tiêu cụ thể:
2.1. Phẩm chất. Kiên trì, nhẫn nại đối với trẻ khiếm thính, say mê tìm
hiểu thêm các nội dung liên quan đến thanh thính học trong giáo dục trẻ
khiếm thính.
2.2. Năng lực:
2.2.1. Kiến thức: Sau khi học xong môn này sinh viên có khả năng:
- Khái quát được các khái niệm cơ bản về sinh lý tai của trẻ em, các
đặc tính cơ bản của âm thanh, tật khiếm thính, các loại khiếm thính, mức độ
giảm thính lực...
- Trình bày được cấu tạo, chức năng, cách bảo quản máy trợ thính.
- Xác định được các yêu cầu cần có của một môi trường nghe thích
hợp cho trẻ khiếm thính.
2.2.2. Kỹ năng:
- Đọc và vẽ được thính lực đồ
- Sử dụng các chức năng thông thường của máy trợ thính
- Bước đầu thiết kế môi trường nghe thích hợp cho trẻ khiếm thính
II. NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH
Nội dung cụ thể và phân phối thời gian:
TT Nội dungTS
(tiết)
Phân bổ
LT TH
1
Bài l: Giải phẫu và sinh lý bộ máy thính giác
1.1. Giải phẫu tai
1.2. Sinh lý tai
1.3. Sự thu nhận độ to nhỏ của âm thanh
1.4. Sự phát triển tai ở trẻ nhỏ
3 2 1
2
Bài 2: Các khái niệm cơ bản về âm thanh
2.1. Tần số
2.2. Cường độ
2.3. Trường độ
3 2 1
3
Bài 3: Tật khiếm thính
3.1. Khái niệm và phân loại tật khiếm thính
3.2. Nguyên nhân gây khiếm thính
3.3. ảnh hưởng của tật khiếm thính
6 3 3
4
Bài 4: Dụng cụ trợ thính
4.1. Máy trợ thính
4.2. Cấy điện cực ốc tai
9 4 5
5
Bài 5: Môi trường nghe thích hợp cho trê khiếm
thính
5.1. Tín hiệu - tiếng động nền
5.2. Môi trường nghe thích hợp
9 3 6
Tổng cộng 30 14 16
Bài 1: GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ BỘ MÁY THÍNH GIÁC
Cảm thụ âm thanh là một quá trình phức tạp xảy ra trong cơ quan phân
tích thính giác.
Cơ quan phân tích thính giác gồm 3 phần:
- Phần ngoại biên: Tai
- Đường dẫn truyền: Dây thần kinh thính giác (dây sọ não số 8)
- Phần trung ương: Trung khu thính giác tại thuỳ thái dương của vỏ
não.
Về bản chất vật lý, âm thanh là các sóng âm với các tần số và biên độ
dao động khác nhau. Tần số là chu kỳ dao động của sóng âm trong một giây,
được thể hiện thành ấm trầm (tần số thấp), âm bổng (tần số cao). Biên độ
dao động của sóng âm được thể hiện bằng cường độ âm thanh mạnh (âm to)
hoặc yếu (âm nhỏ). Ngoài hai chỉ số chính của âm là độ trầm bổng và độ to
nhỏ, âm thanh còn có các âm sắc, người ta có thể phân biệt được giọng nói
của người này với giọng nói của người khác, âm thanh của tiếng đàn này với
âm thanh của tiếng đàn khác khi độ cao và cường độ của chúng như nhau.
Tai là bộ phận phân tích bên ngoài của cơ quan phân tích thính giác.
Tai gồm: tai ngoài, tai giữa và tai trong. Tai ngoài và tai giữa làm nhiệm vụ
hứng sóng âm và phần này biến đổi kích thước sóng âm, dẫn sóng âm vào tai
trong. Tai trong thu nhận được các kích thích âm thanh, biến chúng thành các
xung động thần kinh truyền lên vỏ não. Tại trung khu thính giác ở vùng thái
dương của vỏ não sẽ có sự phân tích và tổng hợp, cho ta cảm giác âm thanh.
Chúng ta sẽ lần lượt xét về giải phẫu và sinh lý tai qua quá trình cảm
thụ âm thanh.
1.1. Giải phẫu tai:
Tai gồm có tai ngoài, tai giữa và tai trong. Tai ngoài gồm có vành tai và
ống tai. Vành tai là phần sụn bọc da nhô ra ngoài tai. Ở nhiều động vật, vành
tai cử động được và có vai trò rất quan trọng trong việc hướng các sóng âm
vào ống tai. Vành tai ở người không cử động được, con người muốn nghe
phải khum lòng bàn tay và nghiêng đầu về phía có tiếng động ống tai ngoài là
một ống hơi cong dài khoảng 25 em. Ống tai dài hẹp, đảm bảo cho nhiệt độ
của màng nhĩ không thay đổi. Trên mặt thành ống tai có nhiều lông nhỏ và
trong thành ống có tuyến đặc biệt tiết ra một chất nhầy quánh (ráy tai). Các
lông này và chất quánh tiết ra có nhiệm vụ bảo vệ không cho bụi bặm và côn
trùng lọt vào sâu trong tai.
Ở chỗ giáp giữa tai ngoài và tai giữa có màng nhĩ. Đó là một màng
mỏng có chiều dày 0,1 m và rộng 70 mm2. Màng nhĩ có 3 lớp: lớp ngoài là
da, lớp giữa là xơ và lớp trong cùng là niêm mạc. Cả màng nhĩ trông giống
như một cái phễu hình bầu dục không cân đối, có đỉnh phễu hướng vào phía
trong. Tuy mỏng nhưng màng nhĩ rất chắc, có tính đàn hồi và có thể rung
dưới tác động của những sóng âm đập vào đó. Do có cấu trúc màng không
cân đối nên màng nhĩ không có chu kỳ dao động riêng. Nhờ đó dưới tác động
của các sóng âm nó có thể dao động lặp lại các bước sóng của các sóng âm.
Tai giữa gồm khoang tai giữa, chuỗi xương tai và ống ơstas. Khoang
tai giữa nằm trong phần tháp của xương thái dương. Thành ngoài của khoang
là màng nhĩ, thành trong có hai lỗ thông với tai trong là cửa sổ bầu dục và
cửa sổ tròn, trong đó có căng các màng liên kết mỏng (màng cửa sổ bầu dục
và màng cửa sổ tròn). Trong khoang tai giữa có 3 xương nhỏ nằm kế tiếp
nhau và có tên gọi theo hình dáng của chúng là xương búa, xương đe và
xương bàn đạp. Cán xương búa tựa vào trung tâm của màng nhĩ. Đầu xương
búa cử động được dính vào xương đe. Đầu kia của xương đe nối liền với
xương bàn đạp. Đầu rộng của xương bàn đạp áp vào cửa sổ bầu dục. Các
xương này khớp với nhau tạo thành một hệ thống đòn bẩy. Dưới tác động
của sóng âm sẽ làm màng nhĩ rung và rung động đó được truyền qua hệ
thống xương tai giữa để truyền đến màng cửa sổ bầu dục. Diện tích cửa sổ
bầu dục nhỏ hơn cửa sổ của màng nhĩ 22 lần (3,2 mm2 so với 70 mm2). Nhờ
cấu tạo và hệ thống sắp xếp chuỗi xương như vậy mà dao động của sóng âm
được truyền qua chuỗi xương đến màng cửa sổ bầu dục vẫn giữ nguyên tần
số, nhưng giảm biên độ lên 22 lần. Chính vì vậy, ta có thể thấy những âm rất
nhỏ.
Khoang tai giữa được thông với hầu họng qua ống ơstas. Ống ơstas là
một ống hẹp, đầu ống có van. Nhờ có ống ơstas thì mọi thay đổi của áp lực
khí quyển sẽ làm màng nhĩ phình ra hay lõm vào và gây ra cảm giác đau đớn
trong tai. Van của ống ơstas thường đóng kín để ngăn cản cảm giác thính
giác khó chịu do tiếng nói của chúng ta phát sinh. Van này được mở khi nuốt
nên khi cần trung hoà áp lực hai bên màng nhĩ (khi có tiếng động mạnh, khi
lên máy bay...) ta thường há miệng và nuốt nước bọt. Nhưng ống ơstas cũng
chính là con đường để cho vi khuẩn từ khoang mũi, miệng, hầu đi vào gây
viêm tai giữa đôi khi làm chuỗi xương tai giữa dính vào nhau và không truyền
dao động sóng âm được, sẽ gây khiếm thính.
Ngoài ra, ở tai giữa còn có 2 cơ là cơ búa và cơ bàn đạp. Hai cơ này có
nhiệm vụ giữ cho màng nhĩ và cửa sổ bầu dục khỏi bị rung với biên độ quá
lớn. Tuy vậy, dưới tác động của những âm quá mạnh và quá gần tai, màng
nhĩ vẫn có thể bị rách, sẽ gây khiếm thính.
Tai trong là một cấu trúc phức tạp nằm ở trong xương tháp của xương
thái dương. Tai trong có phần tiền đình và 3 vành bán khuyên là cơ quan
thăng bằng (thu nhận những thay đổi vị trí của đầu và những chuyển động
của cơ thể trong không gian: cúi, ngửa, nghiêng, quay đầu, chuyển động lên,
xuống, quay...) còn ốc tai là cơ quan âm thanh.
Ốc tai của người gồm ốc tai xương và ốc tai màng. Ốc tai xương là một
ống xương dài 20 - 30 mm, có đường kính khác nhau và vặn xoắn theo
đường vỏ ốc thành 2,5 - 2,75 vòng. Trong ốc tai xương có ốc tai màng nằm
gần suốt dọc chiều dài của ốc tai xương. Ốc tai màng được tạo nên bởi 3
màng Râynơ và màng cơ sở liên kết với nhau tại đỉnh của ốc tai, tạo thành lỗ
Hêlicotrema. Hai màng này chia ốc tai thành 3 ống: ống tiền đình, ống nhĩ và
ống ốc tai màng. ống trên là ống tiền đình, ống dưới là ống nhĩ. Ống giữa
được gọi là ống ốc tai màng (còn được gọi là ống màng, kênh màng ốc tai).
Ống ốc tai màng được phân cách hoàn toàn với hai ống trên, dưới bằng
màng Râysne và màng cơ sở và chứa nội dịch. Thành phần các chất diện giải
của nội dịch và ngoại dịch không giống nhau, cụ thể nội dịch chứa các con K+
nhiều hơn ngoại dịch 100 lần, ion Na+ trong nội dịch ít hơn ngoại dịch 10 lần.
Chính sự phân bố con không đồng đều cũng góp phần vào việc hình thành
xung điện thần kinh dưới tác động của sóng âm.
Màng cơ sở là một màng liên kết, trên đó có các sợi dây chăng ngang
từ mảnh viền trụ ốc sang thành bên kia của ốc tai xương. Độ dài của các sợi
đây này thay đổi đần từ đáy ốc lên đỉnh ốc: ngắn ở đáy (0,44 mm và dài dần
về phía đỉnh ốc (0,5 mm)- do mảnh viền trụ ốc rộng ở đáy và hẹp dần ở phía
đỉnh ốc. Trên màng cơ sở có cơ quan Corti gồm những tế bào thụ cảm có
lông nằm xen kẽ với các tế bào đệm. Các tế bào lông chia làm hai loại có cấu
trúc không hoàn toàn giống nhau, xếp thành 4 -5 dãy dọc theo suốt màng cơ
sở. Các tế bác lông lớp trong nằm thành một dãy trong cùng. Đó là những tế
bào có hình trụ dài, một đầu gắn với màng cơ sở, một đầu tắm trong nội địch,
trên có khoảng 30 - 40 sợi lông tơ nhỏ và ngắn. Các tế bào lông ngoài nằm
thành 3 - 4 dãy, chúng có cấu trúc như tế bào lông lớp trong, nhưng đầu tự do
của chúng có nhiều lông tơ nhỏ và dài hơn (65 - 120 cái) Dãy trong gồm 3500
tế bào lông, 3 - 4 dãy ngoài gồm tất cả 12.000 đến 20.000 tế bào. Phía trên
các tế bào lông có một màng khác gọi là màng mái (còn gọi là màng phủ,
màng che, màng đậy) màng mái chạy dài suốt ống ốc tai màng, một bờ gắn
liền với mảnh viền trụ ốc, một bờ lơ lửng tự do trong nội dịch, phía trên các tế
bào lông. Khi màng cơ sở rung, lông tơ của các tế bào thụ cảm sẽ chạm vào
màng mái và bị biến dạng.
Bao quanh phía dưới các tế bào thụ cảm của cơ quan Corti có các đầu
tận cùng của các sợi thần kinh thính giác, thân của các tế bào thần kinh dinh
dưỡng lưỡng cực này nằm trong hạch Corti. Các sợi của các tế bào thần kinh
lưỡng cực hợp lại thành dây thần kinh thính giác, là một phần của dây thần
kinh sọ não số 8. Dây thần kinh thính giác làm nhiệm vụ truyền các rung động
thính giác về não bộ.
1.2. Sinh lý tai:
Sóng âm tác động đến tai được vành tai ngoài hướng vào đến màng
nhĩ, làm màng nhĩ rung. Sự dao động của màng nhĩ được truyền qua hệ
thống xương tai giữa (vẫn giữ nguyên tần số sóng âm, nhưng làm giảm biên
độ và tăng cường độ dao động) và đập vào cửa sổ bầu dục, làm cửa sổ bầu
dục rung, nghĩa là làm cho cửa sổ bầu dục này lồi ra và lõm vào phía tai
trong, ngoại dịch trong óng tiền đình bị nén sẽ dồn qua lỗ Helicotrema xuống
ống nhĩ và đẩy màng cưa sổ tròn lồi ra về phía tai giữa. Ngược lại, khi cửa sổ
bầu dục lồi ra về phía tai giữa thì ngoại dịch ở ống nhĩ lại rút trở về ống tiền
đình và kéo màng cửa sổ tròn lõm vào phía tai trong. Nhờ cơ chế trên mà
dưới tác động của sóng âm cột ngoại dịch ở tai trong cũng rung. Nếu giả sử
không có màng đàn hồi của cửa sổ tròn mà đấy chỉ là vách xương thì do tính
chất của nước là không chịu nén, cột ngoại dịch sẽ không chuyển động được.
Vì màng Râynơ mỏng và mềm nên rung động của ngoại dịch trong ống
tiền đình cũng có thể lan truyền theo chiều ngang qua màng Rây nơ, làm rung
nội dịch trong ống ốc tai màng. Như vậy, sự rung động của sóng âm truyền
đến tai trong sẽ được truyền tiếp theo chiều dọc và chiều ngang của ốc tai.
Sự rung động của ngoại dịch và nội dịch tác động nên làm cho màng cơ sở
rung theo. Khi màng cơ sở rung sẽ làm màng mái chạm vào đầu các lông tơ
của các tế bào cơ quan Corti và làm xuất hiện hưng phấn của các tế bào này.
Hưng phấn được lan truyền tiếp đến các tế bào lưỡng cực của hạch Corti và
theo các sợi của dây thần kinh số 8 truyền về não bộ.
1.3. Sự thu nhận độ to nhỏ của âm thanh
Như phần trên đã nói các tế bào lông của cơ quan Corti ở dãy trong và
các dãy ngoài có cấu trúc không hoàn toàn giống nhau. Người ta cho rằng
ngưỡng kích thích của các tế bào lông dãy trong cao hơn, còn các dãy ngoài
thấp hơn. Các tế bào lông dãy trong chỉ hưng phấn dưới tác động của những
sóng âm có cường độ tương đối mạnh (âm to). âm có cường độ yếu chỉ làm
hưng phấn tế bào các dãy ngoài. Dựa vào tỉ lệ các tế bào lông dãy trong và
các dãy ngoài bị hưng phấn mà bộ não cho ta cảm giác to nhỏ của âm thanh.
Cảm giác về độ to nhỏ của âm thanh còn phụ thuộc vào trạng thái lúc
nghe. Trong khung cảnh tĩnh mịch của ban đêm mọi tiếng động nghe như rõ
hơn. Giữa khung cảnh ban ngày, nhất là những nơi có nhiều tiếng động như
giữa phố, giữa chợ, trong nhà máy... âm thanh nghe nhỏ hơn. Đơn vị đo độ to
nhỏ của âm thanh là decibels. Giới hạn lớn nhất của độ nghe to nhỏ, gây cảm
giác đau nhói ở tai người là 120 - 140 doB
1.4. Sự phát triển tai ở trẻ nhỏ:
Khi còn trong bụng mẹ, thai nhi 6 - 7 tháng tuổi đã có phản ứng với âm
thanh bằng tăng cường vận động toàn thân. Khoang tai giữa thai nhi chứa
đầy chất dịch. Sau khi sinh, chất dịch đi ra ống ơstas và khoang được thay
bằng không khí. Khi trẻ sinh ra ống tai ngoài của trẻ sơ sinh chứa đầy một
khối chất nhầy như bã đậu gọi là nút tai và trong ngày đầu khi chất dịch tai
giữa chưa được thay bằng không khí, trẻ không nghe thấy được. Những ngày
sau đó, trẻ nghe được cả siêu âm 32.000 Hz. Trẻ sơ sinh có phản ứng kích
thích âm thanh bằng cách chớp mắt, mở mắt, ngừng khóc, thay đổi nét mặt,
thay đổi nhịp thở. Kích thích âm mạnh gây "phản ứng hoảng sợ" và cử động
toàn thân.
Vành tai trẻ rất lớn, bằng một phần hai của tai người lớn, vành tai tiếp
tục lớn trong hai, ba năm đầu rồi chậm lớn hẳn lại. Ống tai ngoài lớn nhanh về
chiều dài và rộng trong năm đầu, sau chậm lại và khi trẻ 6 tuổi thì ống tai
ngoài bằng ống tai người lớn. Màng nhĩ, tai giữa và tai trong sau khi sinh hầu
như không lớn thêm nữa. Riêng ống ơstas của trẻ sơ sinh tương đối rộng và
ngắn (19 mm), dài dần đến năm 15 - 18 tuổi thì bằng người lớn (35 - 40 mm).
Chính đây là con đường mà vi khuẩn từ khoang mũi, khoang miệng, cổ họng
có thể xâm nhập vào tai giữa, gây viêm tai giữa, có thể dẫn đến tai bị tổn
thương, nguy hiểm hơn có thể dẫn đến viêm màng não. Trẻ bị viêm tai giữa
dễ bị viêm mũi, cảm cúm, sởi, ho gà. Khi trời lạnh ẩm, nhiều gió phải giữ tai
trẻ ấm vì lạnh sẽ làm giảm sức đề kháng của mô. Tránh những tiếng động
quá mạnh kẻo dài vì dễ đưa đến nghễnh ngãng, có khi khiếm thính hoàn toàn.
Thường xuyên dùng que tăm, cuốn bông thấm nước hoặc nước ôxy già lau
ống tai cho trẻ, sau đó lau khô.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Tai người gồm có mấy phần? Kể tên những bộ phận của từng phần?
2. Miêu tả chúng ta nghe được âm thanh như thế nào?
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Miêu tả các chức năng của tai ngoài, tai giữa và tai trong.
2. Tai trẻ nhỏ phát triển như thế nào?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lê Thị Minh Hà (2005), Tâm lý học thần kinh, (tài liệu bài giảng
dành cho khoá Cử nhân CĐSP Giáo dục Đặc biệt của trường CĐSP
MGTW3).
2. BS. Lê Quốc Nam (2003), Sinh lý học thần kinh và các giác quan, tài
liệu bài giảng dành cho khoá đào tạo Cử nhân CĐSP Giáo dục Đặc biệt của
trường CĐSP Mẫu giáo TW3, trang 40-46.
3. Quà tặng của tổ chức Pearl S. BUCK International NIES-MOET CBM
International USAID (2000), Nghe ngay - nghe hay, Viện Tai-mũi - Họng TW.
4. Ngô ánh Tuyết (1999), Giải phẫu sinh lý trẻ em, Trường CĐSPMG 5.
Website: www.deafservice.com.vn
Bài 2: ÂM THANH
Âm thanh được tạo nên khi một vật gì đó rung động và không khí xung
quanh nó cũng rung động. Ví dụ: khi ta chơi đàn thì dây đàn rung động. Dây
đàn rung động làm ho không khí xung quanh nó cũng rung động theo. Những
dao động lan truyền trong không khí dưới dạng các sóng âm, chúng ta không
nhìn thấy sóng âm nhưng ta có thể nghe thấy chúng.
Một ví dụ khác về sự rung động của âm thanh. Nếu ta đặt tay vào cổ
khi nói "ba" ta có thể cảm nhận được dây thanh rung động và ta cũng có thể
nghe thấy âm thanh đã được di chuyển từ dây thanh, qua khoang họng,
khoang miệng và ra không khí quanh đầu về đến tai. Về mặt vật lý, âm thanh
biểu hiện bằng 3 đặc tính: Tần số (cảm nhận độ trầm - bổng của âm thanh);
cường độ (cảm nhận độ lớn - nhỏ của âm thanh); trường độ (cảm nhận độ dài
- ngắn của âm thanh).
2.1. Tần số.
Khi một vật rung động chậm sẽ tạo âm thanh có tần số trầm. Khi ta đập
vào mặt trống, tấm da rung động chậm và tạo nên âm trầm.
Khi một vật rung động nhanh sẽ tạo nên một âm thanh có tần số cao.
Khi ta đánh vào một cái chuông nhỏ, kim loại rung động nhanh và tạo nên âm
bổng.
Ta đo lường tần số của âm thanh bằng việc đếm số dao động trong một
giây. Đơn vị đo tần số là Hertz.
Ví dụ, tấm da của cái trống lớn, có thể rung động 100 lần trong một
giây. Ta nói tần số của âm thanh này là 100 Hertz (100 Hz). Tấm kim loại của
cái chuông nhỏ có thể rung động 2.000 lần trong một giây. Ta nói tần số của
âm thanh này là 2.000 Hertz (2000 Hz).
Tai người có khả năng nghe được âm thanh có tần số trầm tới 20 Hz và
âm thanh có tần số cao tới 20.000 Hz.
Thông thường, ta biểu diễn tần số trên một thang quãng tám. Thang
quãng tám là một thanh lôgarít sử dụng như trong qui ước của âm nhạc.
Ở thang quãng tám mở rộng này, chúng ta có thể so sánh khoảng nghe
được khác nhau động vật.
Khi xét những đặc điểm của âm thanh liên quan đến khiếm thính, chúng
ta thường chỉ xem xét dải tần chứa đựng lời nói của con người.
Âm thanh trầm nhất của lời nói có tần số khoảng 250 Hz và âm thanh
cao nhất của lời nói có tần số khoảng 4.000 Hz. Có những âm thanh thấp hơn
hoặc cao hơn trong khoảng dải tần nói trên nhưng để nghe và hiểu được lời
nói chúng ta không cần thiết phải nghe những âm thanh có có tần số thấp
hơn hoặc cao hơn đó. Hệ thống điện thoại chỉ cho phép dải tần trong khoảng
từ 500 Hz tới 3.500 Hz mà thôi nhưng chúng ta không có khó khăn gì trong
việc hiểu lời nói nghe qua điện thoại. Chúng ta không thể biểu diễn chính xác
tần số của âm thanh lời nói vì mỗi một âm thanh lời nói đều chứa đứng một
dải tần số. Tuy nhiên, ta có thể biểu diễn trên sơ đồ bằng một khoảng dải tần
của âm thanh lời nói.
2.2. Cường độ:
Khi ta đập vào mặt trống, mặt trống rung động với biên độ lớn. Chúng
ta nghe được âm thanh rất lớn. Nếu chúng ta chỉ gõ nhẹ vào mặt trống, mặt
trống rung động với biên độ nhỏ. Chúng ta nghe được âm thanh nhỏ. Đơn vị
đo cường độ âm thanh là decibels. Tai bình thường có thể nghe thấy âm
thanh nhỏ nhất là 0 dB. Âm thanh lớn cường độ 140 dB có thể làm đau tai.
Chúng ta có thể kết hợp thang biểu diễn tần số và thang biểu diễn
cường độ với nhau để tạo thành một biểu đồ, trong đó biểu diễn hai đặc tính
của âm thanh.
Trong biểu đồ này, phần màu vàng biểu diễn phổ lời nói
Nếu hai người nói chuyện với nhau một cách bình thường và nếu ta đo
tần số của lời nói về đo cường độ lời nói của họ thì ta sẽ thấy đa số âm thanh
ở trong khu vực màu vàng.
Âm thanh to nhất của lời nói có cường độ khoảng 60 -70 dB và âm
thanh nhỏ nhất của lời nói có cường độ khoảng 20 - 30 dB). Chúng ra không
thể xác định chính xác điểm biểu diễn cường độ của lời nói bởi vì cường độ
giọng của những người khác nhau trong các tình huống là khác nhau.
Biểu đồ trên sử dụng để ghi kết quả đo thính lực gọi là thính lực đồ.
Chúng ta biết rằng tai người có thể nghe được những âm thanh trong
dải tần từ 20 Hertz đến 20.000 Hertz Bạn có thể tự hỏi tại sao trục biểu diễn
tần số của thính lực đồ lại giới hạn từ 125 Hertz tới 8.000 Hertz. Khi kiểm tra
thính lực, điều quan trọng nhất là kiểm tra xem người đó có nghe được âm
thanh lời nói hay không. Tất cả âm thanh lời nói của con người có tần số nằm
trong khoảng dải tần trên của thính lực đồ. Nên nhớ rằng chỉ cần nghe được
trong khoảng dải tần từ 250 Hertz đến 4.000 Hert là đã có khả năng nghe
được toàn bộ lời nói.
2.3. Trường độ:
Âm thanh có thể khác nhau về trường độ. Một âm thanh có thể cường
độ bằng phút, bằng giờ hay bằng năm. Âm thanh của thác nước đổ có thể là
một âm thanh liên tục có trường độ đến hàng ngàn năm. Mặt khác, có những
âm thanh có trường độ rất ngắn (tiếng súng nổ).Từng âm riêng biệt của lời
nói thông thường có trường độ rất ngắn, chỉ bằng khoảng vài nghìn giây.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Âm thanh được tạo nên như thế nào? Anh/chị biết gì về âm thanh?
2. Đơn vị đo tần số là gì? Đơn vị đo cường độ là gì?
3. Tại sao trục biểu diễn tần số của thính lực đồ lại giới hạn từ 125 Hz
đến 8.000 Hz?
4. Tai bình thường có thể nghe thấy âm thanh nhỏ nhất là bao nhiêu
do?
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khả năng nghe được âm thanh của tai người như thế nào?
2. Âm thanh trầm nhất của tôi nói có tần số khoảng bao nhiêu Hertz?
3. Âm thanh cao nhất của tôi nói có tần số khoảng bao nhiêu Hz?
4. Âm thanh to nhất của tôi nói có cường độ khoảng bao nhiêu do?
5. Âm thanh nhỏ nhất của tôi nói có cường độ khoảng bao nhiêu dB?
6. Trường độ âm thanh được đo như thế nào?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quà tặng của tổ chức Pearl S. Buck International NIES - MoET CBM
International USAID (2000), Nghe ngay - nghe hay, Viện Tai-mũi-họng TW.
2. Website: www.deafservice.com.vn
3. Terry Jennings (1984), Sounds, the young Scientist Investigates,
Oxford.
Bài 3: TẬT KHIẾM THÍNH3.1. Khái niệm và phân loại tật khiếm thính:
3.1.1. Khái niệm:
Trong ngôn ngữ phổ thông, khiếm thính thường được hiểu là mất thính
giác hoàn toàn, không nghe được chút nào hoặc giảm sút nhiều về thính giác,
nghe không rõ. Đó cũng là định nghĩa trong các từ điển phổ thông. Trong
ngành y, khiếm thính có nghĩa là suy giảm hoặc mất toàn bộ hay một phần
sức nghe. Trong giáo dục đặc biệt, ta cũng sẽ sử dụng thuật ngữ này. Thay
cho thuật ngữ khiếm thính, ta còn gặp những thuật ngữ như khuyết tật thính
giác hay trẻ có khó khăn về nghe...
Trung bình trong 1000 trẻ sinh ra thì có 2 trẻ bị khiếm thính bẩm sinh từ
mức nặng đến mức sâu, trong số 1000 trẻ đó có thêm 2 trẻ bị khiếm thính
mắc phải (khiếm thính sau khi sinh). Đây là tỉ lệ trung bình, ở mỗi xã hội tỷ lệ
trẻ bị khiếm thính có thể cao hay thấp hơn. Đối với một số trẻ bị giảm sức
nghe, âm thanh mà trẻ nghe được chỉ bị nhỏ hơn so với bình thường. Đối với
một số trẻ bị giảm sức nghe khác, âm thanh mà trẻ nghe được có thể vừa bị
nhỏ hơn vừa bị méo mó. Chỉ có một số rất ít trẻ bị khiếm thính ở mức độ sâu
mà không còn nghe được chút nào cả (con số này nhỏ hơn 5% tổng số trẻ
khiếm thính).
3.1.2. Phân loại:
- Dựa vào mức độ suy giảm thính lực người ta chia ra các mức độ
khiếm thính khác nhau:
- Khiếm thính mức I (khiếm thính nhẹ): 21 - 40 dB
- Khiếm thính mức II (khiếm thính vừa): 41 - 70 dB
- Khiếm thính mức III (khiếm thính nặng): 71 - 90 dB
- Khiếm thính mức IV (khiếm thính sâu): > 90 dB
Mức độ khiếm thính khác nhau ảnh hưởng đến khả năng hiểu lời nói và
âm thanh khác nhau. Nếu trẻ không đeo máy trợ thính:
- Trẻ khiếm thính nhẹ sẽ khó nghe được những âm thanh và lời nói có
cường độ nhỏ.
- Trẻ khiếm thính vừa sẽ không nghe được phần lớn những âm thanh
lời nói khi nói bình thường.
- Trẻ khiếm thính nặng sẽ không nghe được âm thanh lời nói khi nói
bình thường.
- Trẻ khiếm thính sâu sẽ không nghe được âm thanh và lời nói (trừ khi
âm thanh đó có cường độ rất lớn).
- Cách tính mức độ khiếm thính:
Công thức Flecher - Carhart: cộng mức suy giảm thính giác đường khí
ở 3 tần số 500, 1000, 2000Hz rồi chia 3.
- Dựa vào vị trí tổn thương (tai ngoài tai giữa hay tai trong) người ta
chia ra làm 4 loại khiếm thính:
* Khiếm thính dẫn truyền
Khi bị khiếm thính dẫn truyền âm thanh khó có thể vào tai trong, độ lớn
của âm thanh bị giảm và dễ bị nhiễu khi vào đến tai trong.
Những triệu chứng của khiếm thính dẫn truyền
- Lo âu, buồn rầu
- Tai bị đỏ
- Ống tai không bình thường
- Định hướng âm thanh không rõ ràng
- Không chú ý đến âm thanh xung quanh
- Có thể liên quan đến sự mọc lãng, bệnh cảm lạnh.
Những nguyên nhân chính gây ra khiếm thính dẫn truyền
- Ống tai bị tắc bởi ráy tai hay vật lạ
- Vòi nhĩ không hoạt động để cho không khí vào tai giữa
- Do chất dịch hoặc do nhiễm trùng tai giữa
- Do tổn thương màng nhĩ (bị trầy, thủng lổ,…)
- Do sự tổn thương của chuỗi xương con hoặc phát triển thêm xương lạ
xung quanh chuỗi xương con.
- Do sự tổn thương tai ngoài hoặc tai giữa.
Có thể làm gì khi bị khiếm thính dẫn truyền
- Lấy ráy tai hoặc những vật lạ trong tai bằng dụng y khoa
- Những vấn đề khác ở tai giữa có thể điều trị được nhờ phẫu thuật
- Đeo máy trợ thính cho trẻ. Sự khuếch đại âm thanh của máy trợ thính
sẽ bù trừ sự mất độ lớn của âm thanh trước đó.
Chú ý: Đôi khi tai bị tổn thương do chúng ta lấy ráy tai không cẩn thận
* Khiếm thính tiếp nhận: (Khiếm thính thần kinh thính giác)
Khiếm thính tiếp nhận xảy ra khi tai trong có vấn đề.
Khi bị khiếm thính tiếp nhận, âm thanh vẫn đi từ ngoài vào tai giữa một
cách. Bình thường nhưng vì sự tổn thương của dây thần kinh thính giác ở tai
trong đã ngăn cản nguồn âm đến não để truyền những tín hiệu ảo.
Những nguyên nhân chính gây ra khiếm thính tiếp nhận
- Di truyền
- Mẹ bị nhiễm bệnh Rubella trong khi mang thai
- Thiếu ôxy khi sinh
- Bệnh viêm màng não
- Do sử dụng thuốc
- Ngoài ra, còn nhiều trường hợp khiếm thính chưa rõ nguyên nhân
Có thể làm gì khi bị khiếm thính tiếp nhận
- Khiếm thính tiếp nhận không thể chữa trị bằng thuốc hay phẫu thuật.
- Hầu hết trẻ bị khiếm thính tiếp nhận đều có thể phát triển kỹ năng giao
tiếp bằng ngôn ngữ nói tốt khi trẻ được chẩn đoán sớm, đeo máy trợ thính
thích hợp và tham gia vào chương trình can thiệp sớm có chất lượng.
* Khiếm thính hỗn hợp: gồm cả hai loại tổn thương trên.
* Khiếm thính sau ốc tai - trung ương:
Một số ít trẻ có thể không có vấn đề gì ở tai ngoài, tai giữa hay tai trong
nhưng trẻ có thể gặp khó khăn trong việc hiểu những gì mà trẻ nghe thấy. Đối
với những trẻ này thì đường dẫn truyền thần kinh từ ốc tai tới não hay chính
bản thân não có vấn đề. Kiểm tra sức nghe có thể cho kết quả ngưỡng nghe
là bình thường nhưng chúng có khó khăn trong vấn đề hiểu ngôn ngữ lời nói.
Các đường biểu diễn:
- Sức nghe bình thường: đường khí và đường xương đều sát ở đường
0. Sai lệch đường khí 5 - 10 dB, sai lệch đường xương khoảng 20 dù vẫn
được coi là bình thường.
- Dẫn truyền đơn thuần: đường xương ở mức bình thường, trong vòng
20dB, đường khí giảm sút nhưng không quá 60 dB.
- Tiếp nhận đơn thuần: có nhiều kiểu đường biểu diễn, hay gặp hơn cả
là loại giảm sút ở tần số cao. Đường xương và đường khí trùng nhau hoặc
cách nhau khoảng-5 dB.
- Hỗn hợp: là loại thường gặp nhất và có mọi kiểu phối hợp. Đường khí
cho thấy có giảm sút sức nghe ở mọi tần số nhưng các tần số cao bị giảm
nhiều hơn. Đường xương có khi còn tốt ở tần số trầm nhưng kém hoặc rất
kém ở tần số cao. Ở các tần số dưới 2000 Hz, đường khí và đường xương
cách xa nhau. Từ 2000 Hz trở đi, đường khí và đường xương chập nhau.
CÁC LOẠI KHIẾM THÍNH KHÁC NHAU TRÊN THÍNH LỰC ĐỒ ĐƠN ÂM
Sức nghe bình thường
0-0 là đường khí, [- - -] là đường xương.
Sai lệch đường khí khoảng 5-10 dB (Một sự suy giảm 5 dB không thể
được đánh giá là bệnh lý vì nó liên quan đến sự chú ý của người được đo, kỹ
thuật của người đo, máy đo, độ cách âm của buồng đo, vị trí của chụp tai), sai
lệch đường xương khoảng 20 dB vẫn coi là bình thường.
Dẫn truyền đơn thuần
]- - -] nghe đường xương ở mức bình thựờng. x_x nghe đường khí sút
kém. Biểu hiện sự tổn thương của hệ thống màng nhĩ - xương con hay sự bít
tắt của ống tai ngoài.
Tiếp nhận đơn thuần
Đường xương ]- - -] và đường khí x_x gần trùng nhau hoặc cách nhau
khoảng 5 - 10 dB. Đối với khiếm thính tiếp nhận đơn thuần có nhiều đường
biểu diễn, hay gặp hơn cả là loại giảm sút nhiều ở tần số cao. Biểu hiện sự
thương tổn của ốc tai hay các đường thần kinh thính giác.
Hỗn hợp
Ở các tần số dưới 2000 Hz, đường khí và đường xương cách xa nha
từ 2000 Hz trở đi đường khí và đường xương gần hoặc trùng nhau.
3.2. Những nguyên nhân gây khiếm thính:
Tật khiếm thính do một hay nhiều bộ phận nào đó của hệ thống thính
giác có vấn đề. Sau đây chúng ta tìm hiểu những nguyên nhân thông thường
gây khiếm thính ở trẻ em.
Khi tìm hiểu những nguyên nhân của tật khiếm thính, chúng ta sẽ xem
xét đến các loại khiếm thính (tiếp nhận, dẫn truyền, hỗn hợp...), hệ thống
thính giác bị tổn thương ở đâu (tai ngoài, tai giữa hay tai trong) và tìm hiểu
nguyên nhân gây khiếm thính xảy ra lúc nào (trước hay trong khi sinh - bẩm
sinh, sau khi sinh - mắc phải).
3.2.1. Những nguyên nhân từ tai ngoài
- Dị tật ở tai ngoài: Một số trẻ sinh ra ống tai có thể bị bịt lại hoàn toàn
hay bị hẹp nhỏ lại. Thêm vào đó, vành tai ngoài có thể bình thường hoặc nhỏ
lại, hay một số trường hợp lại không có vành tai. Bởi vì không có ống tai hay
ống tai bị hẹp nên âm thanh truyền tới tai trong nghe nhỏ hơn so với bình
thường. Ống tai ngoài có thể được phẫu thuật chỉnh hình. Trong trường hợp
không thực hiện được mà sức nghe bị giảm đáng kể thì có thể đeo máy trợ
thính đường xương để bù đắp lại phần khiếm thính dẫn truyền.
- Mắc phải:
+ Vật lạ: ống tai ngoài có thể bị một vật lạ bịt kín. Trẻ nhỏ có thể cho
một vật vào tai. Đôi khi côn cũng bò vào tai. Nếu ống tai bị bít lại thì sẽ ảnh
hưởng tới việc dẫn truyền âm thanh đi qua ống tai để vào tới màng nhĩ. Ống
tai bị bịt kín là nguyên nhân gây khiếm thính dẫn truyền.
+ Ráy tai: Đôi khi ráy tai tích tụ lại và làm bít ống tai gây ảnh hưởng
tương tự trường hợp vật lạ vào ống tai. Những vật lạ hay ráy tai bít ống tai có
thể được lấy ra nhưng phải do người có chuyên môn thực hiện với những
dụng cụ y tế đã được khử trùng. Nếu sử dụng các dụng cụ không được khử
trùng thì dễ dẫn đến viêm tai. Ống tai và màng nhĩ rất dễ bị tổn thương.
Người không có chuyên môn không nên tự lấy ráy tai hay vật lạ ra.
+ Viêm tai ngoài: Đây là trường hợp viêm da ống tai ngoài. Thường do
nhiễm trùng dạng nấm hay nhiễm vi khuẩn. Ống tai bị ẩm ướt là điều kiện
thuận lợi để vi khuẩn hay nấm phát triển. Viêm tai ngoài thường xảy ra ở
những tai đeo máy trợ thính. Viêm tai ngoài nặng có thể dẫn đến việc bị giảm
sức nghe. Bác sĩ có thể chữa trị được viêm tai ngoài. Người đeo MTT có khi
nên tạm ngưng đeo MTT đến khi chấm dứt việc viêm tai ngoài.
3.2.2. Những nguyên nhân từ tai giữa:
- Bẩm sinh:
+ Hở hàm ếch: Trẻ bị hở hàm ếch thì tai giữa thường có vấn đề do
chức năng vòi nhĩ bị ảnh hưởng.
+ Các hội chứng:
* Hội chứng Đao (Down): thường bị viêm tai giữa.
* Hội chứng Treacher Collin: Trẻ mắc hội chứng này thường bị thiếu
hay biến dạng một hay nhiều xương con ở tai giữa (có ba xương con có chức
năng dẫn truyền âm thanh từ màng nhĩ vào ốc tai).
* Pierre Robin Sequence: Đây là hiện tượng trẻ bị viêm nhiễm tai giữa
nhiều lần dẫn tới việc bị khiếm thính dẫn truyền.
Để khắc phục các vấn đề trên người ta có thể tái tạo lại chuỗi xương
con hay là phục hồi những phần khác của tai giữa.
- Mắc phải:
+ Viêm tai giữa cấp tính: có sự sưng tấy ở tai giữa nhưng trong hòm
nhĩ không có chất dịch. Sự viêm nhiễm có thể xuất hiện hoặc không. Viêm tai
giữa là hiện tượng phổ biến ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trong một hoặc hai năm đầu
tiên. Viêm tai thường là do vòi nhĩ bị sự sưng tấy. Chức năng chính của vòi
nhĩ là dẫn không khí vào tai giữa. Khi trẻ bị cảm lạnh hoặc viêm phế quản thì
màng thành của vòi nhĩ bị sưng tấy. Sức nghe sẽ bị ảnh hưởng. Mục tiêu của
việc điều trị là làm giảm đi sự sưng tấy để vòi nhĩ hoạt động bình thường.
Thường dùng thuốc Decongestants để điều trị.
+ Viêm tai giữa tiết dịch: Đây là hiện tượng tai giữa bị sưng tấy và hòm
nhĩ co chất dịch. Nếu trong một thời gian dài chất dịch ở tai giữa vẫn còn thì
nhà chuyên môn Tai - Mũi - Họng sẽ chích màng nhĩ để hút dịch ra ngoài. Một
ống nhỏ được đặt vào màng nhĩ, điều này làm cho không khí có thể vào
khoang tai giữa được và chất dịch dược rút xuống vòi nhĩ. Nếu có nhiễm
trùng tai giữa thì phải dùng kháng sinh để điều trị. Nếu áp suất tai giữa tăng
đến mức có thể làm thủng màng nhĩ, nhà chuyên môn Tai - Mũi - Họng có thể
chích một lỗ nhỏ nhĩ để chất dịch được hút ra ngoài, hòm nhĩ khô trở lại.
+ Viêm ta giữa kèm theo thủng màng nhĩ. Nếu cứ để viêm tai giữa mà
không chữa trị, áp suất tai giữa sẽ tăng và có thể làm thủng màng nhĩ, sau đó
máu và mủ ở tai giữa sẽ chảy ra ngoài. Điều quan trọng là cần phải chữa trị
ngay. Thông thường điều trị bằng những sinh. Nếu viêm tai giữa không được
chữa trị, viêm nhiễm kéo dài có thể làm những bộ phận của tai giữa bị tổn
thường hay bị phá hủy. Nếu viêm nhiễm lây lan tới ốc tai thì có thể làm tổn
thương phần bên trong ốc tai và có thể dẫn tới khiếm thính tiếp nhận vĩnh
viễn. Nếu viêm nhiễm lây lan sâu hơn nữa thì có thể còn ảnh hưởng tới dây
thần kinh thính giác và có khi còn ảnh hưởng tới não.
+ U lành tính có cholestoron: là hiện tượng da không bình thường mọc
ở tai giữa mà có thể do hậu quả của viêm tai giữa lặp đi lặp lại lại nhiều lần.
Thông thường, u lành tính có cholestoron chỉ làm ảnh hưởng một bên tai. Dấu
hiệu đầu tiên của u lành tính có cholestoron có thể là có mùi hôi tai, các triệu
chứng khác là khiếm thính dẫn truyền, hoa mắt, chóng mặt và các cơ mặt ở
tình trạng yếu. U lành tính có cholestoron được chữa trị trước tiên là làm sạch
những vùng bị nhiễm và dùng kháng sinh. Có khi cần phải mổ để cắt bỏ u
lành tính có cholestoron (do Bác sĩ tai mũi họng phẫu thuật). Nếu để viêm
nhiễm kéo dài hay để xảy ra tổn thương ở tai giữa có thể là nguyên nhân của
áp xe não và viêm màng não.
+ Xơ cứng tai vị thành niên: Xơ cứng tai là hiện tượng phát triển bất
thường các mô xương xung quanh cửa sổ bầu dục làm ngăn cản sự di động
của xương bàn đạp vì thế ngăn cản sự dẫn truyền những dao động âm thanh
đi vào chất dịch ở tai trong. Hiện tượng này xảy ra phổ biến là ở người lớn,
bắt đầu phát triển ở tuổi trên dưới 30. Cũng có khi xảy ra ở trẻ em. Xương
bàn đạp bị bất động dẫn tới khiếm thính dẫn truyền. Đại đa số các trường hợp
xương bàn đạp bị bất động đều có thể thay bằng một xương bàn đạp nhân
tạo. Nếu phẫu thuật thành công, sức nghe sẽ được phục hồi trở lại.
+ Chấn thương do âm thanh: Một âm thanh ngắn với cường độ lớn như
tiếng pháo nổ hay tiếng súng có thể làm thủng màng nhĩ.
3.2.3. Những nguyên nhân từ tai trong:
Việc giảm sức nghe do tổn thương của tai trong gọi là khiếm thính tiếp
nhận. Thông thường là do các tế bào lông của ốc tai bị tổn thương hay thần
kinh ốc tai hoạt động không bình thường.
- Bẩm sinh:
Những nguyên nhân do di truyền - trong thời kỳ bà mẹ mang thai: Do di
truyền về gien
Dị vật tai trong:
Thể loại Siebenman: Có tổn thương ở vỏ xương ốc tai kèm tổn thương
thứ phát của tế bào thính giác, hạch xoắn và sợi của dây thần kinh thính giác.
Thể loại Scheibe: thiếu hoặc phát triển không đầy đủ các yếu tố giác
quan của tai trong như teo trụ ốc kèm tổn thương của ống ốc, của cơ quan
Corti trong khi vỗ xương của ốc tai vẫn nguyên vẹn.
Thể loại Mondini: có dị dạng vỏ xương của ốc tai (tổn thương ở vòng
xoắn cuối cùng), ngoài ra người ta còn quan sát thấy ống tiền đình của ống ốc
tai bị giãn và sự biến đổi của hai vịn ốc tai, sự teo của cơ quan Corti, của dậy
thần kinh ốc tai và các hạch xoắn.
Thể loại Michel: ta trong không phát triển, thể loại này đặc biệt hiếm
gặp.
Các hội chứng: khiếm thính tiếp nhận có thể là một dị tật của hội chứng
Usher và Waardenburg.
Những nét đặc trưng nhất của hội chứng Usher: giảm thị lực tiến triển
và khiếm thính dẫn truyền tiến triển, chậm phát triển trí tuệ, mất thăng bằng,
rối loạn tâm thần và có khi còn xuất hiện chứng động kinh.
Những nét đặc trưng nhất của hội chứng Waardenberg: có chỏm tóc
trắng, đồng tử của hai mắt khác màu (một mắt màu nâu và một mắt màu
xanh) và khiếm thính tiếp nhận (do sự phát triển không bình thường của ốc
tai).
Những nguyên nhân không phải do di truyền trong thời kỳ bà mẹ mang
thai: Những nhân tố có thể tổn thương tai trong trước khi đứa trẻ sinh ra:
- Mẹ bị nhiễm khuẩn: giang mai bẩm sinh, vi rút hủy tế bào tố, Rubella,
toxoplasmosis.
Nhiễm độc thuốc: có một số loại thuốc nếu bà mẹ sử dụng trong thời kì
mang thai có thể ảnh hưởng tới ốc tai của thai nhi, ví dụ: thuốc lợi tiểu
diuretics ethacrynic acid và furosemide, aminoglycosides, nhóm kháng sinh
neomycin, gentamycin, salicytates và quinine.
Những nguyên nhân không phải do di truyền trong khi sinh:
- Thiếu cân: đa số các trường sinh thiếu cân (< 1500 gam) là liên quan
đến việc sinh non (< 37 tuần thai nghén). Những trẻ sơ sinh thiếu cân thường
nuôi trong lồng ấp. Hô hấp có vấn đề có thể dẫn đến tình trạng thiếu ôxy
(thiếu ôxy huyết) và có thể làm cho tai trong bị tổn thương. Những trẻ sinh
non thường có lượng blirubin cao.
- Bị ngạt (thiếu ôxy): Những trường hợp sinh khó có thể làm cho trẻ bị
thiếu ôxy. Thiếu ôxy có thể làm tổn thương cấu trúc tai trong.
- Tính không tương thích Rh (đối kháng nhóm máu): các tế bào huyết
dương Rh của bào thai bị phá hủy do kháng thể của người mẹ. Điều này dẫn
đến lượng blirubin của trẻ sơ sinh cao. Lượng blirubin cao có thể có ảnh
hưởng không tết đến tai trong.
- Mắc phải:
+ Quai bị là bệnh do vi rút, lây lan phổ biến ở trẻ nhỏ, triệu chứng: sốt
cao, đau đầu, đau tai và sưng tấy các tuyến nước bọt và tuyến giáp. Thường
khiếm thính tiếp nhận một tai, rất ít khi khiếm thính hai bên tai.
+ Bệnh sởi là bệnh do vi rút, lây lan phổ biến ở trẻ nhỏ, triệu chứng: có
những chấm đỏ ở trên mặt và trên người. Bệnh này có thể dẫn đến khiếm
thính tiếp nhận.
+ Viêm mão: là bệnh do màng xung não bị nhiễm trùng. Viêm màng não
có thể do một số nguyên nhân như: vi khuẩn, vi rút, nấm. bệnh này có thể dẫn
tới khiếm thính tiếp nhận.
+ Nhiễm độc: Những chất gây độc đối với bào thai cũng gây độc đối với
trẻ nhỏ.
+ Chấn thương âm thanh: Tai trong có thể bị chấn thương vĩnh viễn do
âm thanh ngắn với cường độ lớn. Nghe những âm thanh liên tục ở cường độ
lớn sẽ làm tổn thương các tế bào lông ở ốc tai.
Khi tai trong bị tổn thương thì y học không thể chữa trị được. Tuy nhiên,
có thể phòng tránh được một số yếu tố là nguyên nhân có thể dẫn đến tổn
thương tai trong như.
- Tiêm phòng ngừa bệnh Rubella ở tuổi thiếu niên.
- Tránh sử dụng những thuốc gây độc cho tai.
- Tránh những chấn thương do âm thanh.
3.3. Ảnh hưởng của tật khiếm thính:
Tật khiếm thính gây ảnh hưởng chính tới khả năng giao tiếp bằng ngôn
ngữ nói của trẻ.
Thông thường, khiếm thính càng nặng thì càng ảnh hưởng tới sự phát
triển ngôn ngữ của trẻ. Mức độ khiếm thính được ghi lại trên thính lực đồ.
Nghe bình thường: Một người nghe bình thường thì rất dễ tiếp nhận
những âm thanh lời nói.
Khiếm thính nhẹ (Khiếm thính mức độ I): Nếu không đeo máy trợ thính,
một trẻ khiếm thính mức độ I sẽ không nghe thấy dược một số âm thanh lời
nói, đặc biệt là các phụ âm nhỏ. Nếu nói rất nhỏ, trẻ sẽ không nghe thấy một
số âm thanh.
Khiếm thính trung bình (Khiếm thính mức độ II): Nếu không máy trợ
thính trẻ khiếm thính mức độ II sẽ không nghe thấy một âm thanh lời nói.
Khiếm thính nặng (khiếm thính mức độ III): Nếu không đeo máy trợ
thính, trẻ khiếm thính mức độ III sẽ không nghe được phần lớn âm thanh của
ngôn ngữ nói trong giao tiếp thông thường.
Khiếm thính sâu (Khiếm thính mức độ IV): Nếu không đeo máy trợ
thính, một trẻ khiếm thính mức độ IV sẽ không nghe thấy chút âm thanh lời
nói nào trong giao tiếp thông thường, thậm chí ngay cả khi nói to trẻ cũng
không nghe thấy.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Nêu khái niệm khiếm thính?
2. Kể tên những nguyên nhân gây khiếm thính mà anh/ chị biết?
3. Tật khiếm thính có ảnh hướng như thế nào đối với trẻ khiếm thính?
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nêu khái niệm khiếm thính?
2. Dựa vào mức độ suy giảm thính, người ta chia mức độ khiếm thính
như thế nào?
3. Dựa vào vị trí tổn thương của tai, người ta chia loại khiếm thính như
thế nào?
4. Cách tính mức độ khiếm thính như thế nào?
5. Tóm tắt những nguyên nhân gây khiếm thính (tai ngoài, tai giữa và
tai trong)?
6. Tật khiếm thính có ảnh hưởng như thế do đối với trẻ khiếm thính?
7. Hãy vẽ một thính lực đồ của một tai phải/trái khiếm thính dẫn truyền
đơn thuần và cho biết mức độ khiếm thính trung bình của thính lực đồ đó.
8. Hãy vẽ một thính lực đồ của một tai phải/trái khiếm thính tiếp nhận
đơn thuần và cho biết mức độ khiếm thính trung bình các thính lực đồ đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quà tặng của tổ chức Pearl S. BUCK International NIES-MoET CBM
International USAID (2000), Nghe ngay-nghe hay, Viện Tai-mũi- Họng TW.
2. Tài liệu trắc nghiệm (2000), Sách giúp đỡ trẻ khiếm thính, Hà nội.
3. Sandy Niemann - Devorah Greenstein - Darlena David (2006), Giúp
đỡ trẻ điếc, sách dành cho cha mẹ và cộng đồng, NXB Lao động - Xã hội.
4. Website: www.deafservice.com.vn
Bài 4: DỤNG CỤ TRỢ THÍNH
4.1. Máy trợ thính:4.1.1. Khái niệm và chức năng của máy trợ thính:
Máy trợ thính (MTT) là một loại máy tăng âm nhỏ dùng cho người
khiếm thính. Máy có tính năng thu khuếch đại và thích nghi các tín hiệu âm
thanh sao cho người khiếm thính có thể trong giới hạn các khả năng về cảm
thụ và dung nạp của mình, tiếp nhận được các thông báo máy cung cấp. Máy
có 3 chức năng:
- Thiết lập hoặc khôi phục sự giao tiếp giữa người khiếm thính với môi
trường âm thanh họ đang sống.
- Giúp cho người khiếm thính tự xác định được vị trí của mình trong mối
tương quan thế giới âm thanh xung quanh họ.
- Giúp cho người khiếm thính cảm thụ được các biểu hiện âm thanh
của bản thân và nhờ đó mà có thể được hoặc khôi phục lại khả năng giám sát
các hoạt động phát âm.
- Máy trợ thính còn giúp trẻ phát triển phần thính lực còn lại và là một
trong những điều kiện tết để phát triển ngôn ngữ cũng như giúp trẻ khiếm
thính giao tiếp với xã hội dễ dàng hơn.
4.1.2. Cấu tạo chung của máy trợ thính:
- 1 Micro: thu nhận âm thanh và biến đổi từ tín hiệu âm học thành
những tín hiệu điện tử.
- 1 bộ phận khuếch đại: thường được cấu tạo bằng các bóng bán dẫn 3
cực bố cục làm nhiều tầng kế tiếp nhau, để khuếch đại các điện áp xoay chiều
thu nhận được từ hai đầu của bộ phận biến năng vào hay micro.
- 1 loa tai: mà ở đó điện áp xoay chiều đã được khuếch đại, lại được
biến đổi thành các dao động sóng âm, cũng được khuếch đại lên theo một tỉ
lệ. Đó là bộ phận biến năng ra.
- 1 pin hay ắc qui: cung cấp năng lượng diện cho máy hoạt động.
- Các bộ phận chuyển mạch và điều chỉnh: cho phép thay đổi các đặc
trưng thu, khuếch đại và khôi phục các tín hiệu âm thanh.
- Núm tai: một bộ phận rất phụ nhưng không kém phần quan trọng cho
kết quả của máy trợ thính. Có nhiều kiểu núm tai:
+ Các núm tai bằng cao su hay chất dẻo mềm (còn gọi là lêtin): thường
là loại làm sẵn gồm 3 cỡ: nhỏ, vừa và to (thường chỉ dùng để thử máy sau đó
thay thế bằng một núm tai bằng silicon).
+ Loại núm tai bằng silicon: là loại núm tai lý tưởng nhất, có nhiều loại
đáp ứng cho những kĩ thuật đeo máy khác nhau nhưng loại thông dụng nhất
là loại có lông đen bằng kim loại để cố định loa tai.
4.1.3. Các loại máy trợ thính:
- Máy trợ thính hộp (hay máy trợ thính đeo ở túi): MTT kiểu hộp có
đặc trưng là micro, bộ phận khuếch đại và run (hay ắc quy) đều bố cục trong
một hộp, còn loa tai thì độc lập ở ngoài và được nối với hộp máy bằng một
dây mềm. Có thể đó là một dây đơn nối với một loa tai hay một dây hình chữ
"Y" nối với cả hai loa tai và truyền tới cho cả hai tai những tín hiệu âm thanh
giống nhau trong điều kiện mức khiếm thính của hai bên tai chênh lệch nhau
không đáng kể. Tuy nhiên, cần nhớ là dù đeo kiểu dây nào thì các MTT này
cũng chỉ có một micro duy nhất nên không thể cho phép phân biệt rõ các tín
hiệu âm thanh trong không gian như kiểu đeo Stereo (với hai máy đeo riêng
rẽ ở hai bên
- Máy trợ thính sau tai: loại MTT này có thể dùng cho tất cả các mức
độ khiếm thính. Ưu điểm của máy này là khả năng tập trung âm thanh và bảo
tồn âm thanh của máy nghe ở mỗi tai. Gọn hơn máy trợ thính trước ngực và
có ưu điểm dấu kín được sau vành tai nên được nhiều người ưa chuộng. Rất
nhiều máy trợ thính sau tai được làm ở kích thước nhỏ nhỏ để vừa khít với
những tai nhỏ nhất. Gần y trợ thính này cao hơn nhiều so với máy trợ thính
hộp và pin của nó khó tìm.
- Máy trợ thính trong tai: Tất cả các bộ phận được chứa trong một
khối làm vừa khít với tai người đeo. Loại trợ giúp này đi được đặt hoàn toàn
trong tai và không cần dây, ống dẫn hay núm tai. Máy này chỉ thích hợp cho
khiếm thính nhẹ và trung bình bởi vì mức nguy hiểm của sự phản hồi về âm
học.
- Máy trợ thính trong ống tai: Tương tự như MTT trong tai, mọi bộ
phận được bao bọc trong một khối mà nó khít vào phần kênh của tai. Loại này
dễ dàng đặt vào trong tai và có thể bị che khuất nhờ vành tai ngoài. Thích
hợp cho khiếm thính nhẹ và vừa bởi vì mức nguy hiểm cao của sự phản hồi
về âm học. Sử dụng pin tròn cực nhỏ l,4V (kích cỡ 5 hay lo).
- Kính trợ thính: là một loại kính có gắn một hay hai loại MTT ở gọng
(nếu gắn cả hai bên gọng tức là đeo kiểu Stereo). Loa MTT này thì hợp với
người già cần được hỗ trợ cả thính giác và thị giác. Ba kiểu máy: sau tai,
trong tai và trong ống tai có ưu điểm chung là kín đáo và nhẹ. Hơn nữa, vị trí
đeo máy rất hợp với sinh lí về mặt tiếp nhận sóng âm các hướng: Hướng vào
cửa micro được đặt gần lỗ tai sẽ thu nhận âm thanh trong những điều kiện
gần như bình thường; mặt khác lại có thể đeo cả hai bên tai, thực hiện kiểu
nghe stereo giúp cho người khiếm thính tiếp nhận ở mỗi tai khác nhau về
cường độ và lệch pha về thời gian đến của tín hiệu âm thanh, giúp cho người
nghe định hướng được nguồn âm nhờ đeo máy cả hai tai mà. Người khiếm
thính có thể nghễnh một bên tai như người bình thường để tập trung nghe ưu
thế một bên nhiều hơn trong môi trường tiếng ồn để bắt nhận âm thanh hay
lời nói từ một hướng đến nhất định. Đối với yêu cầu này, kiểu máy đeo sau tai
với micro hướng ra phía trước đặc biệt có tác dụng.
Chỉ định kiểu máy đeo nói chung không thể tùy tiện hoặc do khả năng
của túi tiền mà phải căn cứ vào tính năng kĩ thuật của máy đối với mức khiếm
thính, loại khiếm thính và nhất là vào chỉ định đeo một bên tai hay cả hai bên,
yêu cầu dẫn truyền bằng đường xương hay dưỡng khí... Hiện nay, ở nhiều
nước trên thế giới, đa số người đeo MTT ưa chuộng kiểu máy đeo sau tai, tuy
nhiên kiểu máy hộp vẫn tiếp tục được sản xuất vì chi kiểu máy này mới có
loại máy có công suất cực mạnh để dùng cho những người khiếm thính thật
nặng. Riêng trong hoàn cảnh nước ta, MTT kiểu hộp đáp ứng thêm cả cho
nhu cầu sửa chữa dễ dàng và đặc biệt có loại sử dụng được gìn tiểu làm bộ
nguồn (dễ kiếm hơn nhiều so với pin khuy hoặc ắc quy), mặc khác giá thành
lại rẽ hơn nhiều so với giá của các loại máy đeo sau tai.
4.1.4. Ưu và hạn chế của các loại máy trợ thính:
Máy trợ thính hộp (Bỏ túi/trước ngực)
Đối tượng sử dụng: thường là điếc nặng, điếc sâu.
Ưu điểm:
- cầm thoải mái.
- bộ phận điều khiến rộng dễ nhìn
- có thể đạt được năng lượng tối đa
Nhược điểm:
- micrô xa tai nên âm thanh khó tập trung
- máy đeo ở ngoài nên tiếng động y phục có thể ảnh hưởng ến
chất lượng âm thanh
- cồng kềnh, dây dễ bị đứt
Máy trợ thính sau tai
Đối tượng sử dụng: tất cả các mức độ điếc
Ưu điểm:
- tập trung âm thanh và bảo tồn âm thanh
- nhỏ gọn
Nhược điểm:
- đắt đỏ
- pin khó tìm
Máy trợ thính trong tai
Đối tượng sử dụng: điếc nhẹ và trung bình
Ưu điểm:
- gọn nhẹ(không cần dây)
- có tính thẩm mỹ
Nhược điểm:
- chỉ có một mẫu
- bộ phận điều khiển quá nhỏ
- Nguy cơ phản hồi âm học cụ
Máy trợ thính trong ống tai
Đối tượng sử dụng: điếc nhẹ và điếc vừa
Ưu điểm:
- gọn nhẹ
- thẩm mỹ
Nhược điểm:
- nguy cơ phản hồi âm học cao
- khó sửa chữa
4.1.5. Cách sử dụng và bảo quản máy trợ thính:
4.1.5.1. Mô tả MTT:
MÁY TRỢ THÍNH HỘP
(Bỏ túi, đeo trước ngực)
MÁY TRỢ THÍNH KHUẾCH ĐẠI ÂM THANH VÀ LỜI NÓI
1. Nút volume điều chỉnh âm lượng
2. Microphone
3. Nút tắt – mở: O-H-N hay O-T-M hay O-T-M (tuỳ theo kiểu máy)
4. Kẹp gài
5. Dây
6. Loa tai
7. Núm tai
8. Nơi tiếp nhận âm thanh từ dụng khác (chỉ một số kiểu máy)
* Máy trợ thính của con ban:
Loại máy:..............................
Hãng:..................................
Kiểu:..................................
Số serial:................................
Số volume chỉ định:..............
4.1.5.2. Pin của MTT
Pin cung cấp năng lượng cho máy nhưng khi pin đã hết, bạn vui lòng
lấy ra vì chúng rất dễ bị hỏng, rỉ nước có thể gây tổn hại cho MTT. Loại pin
thường dùng hết rồi bỏ, không nạp lại được. Nếu trẻ lỡ nuốt pin thì nên đưa
đến bác sĩ ngay lập tức.
4.1.5.3. Lắp pin vào máy trợ thính:
Để máy hay pin không rơi xuống nền nhà, khi lắp hay thay phi bạn nên
đặt tất cả lên bàn. Bạn hãy mở ngăn nắp chứa pin ra bằng cách để tay vào
chỗ lõm ở bên hông máy, đẩy nắp lên phía trên rồi mở ra. Đặt pin vào, loại pin
R6, theo đúng chiều (+) và (-), với dấu cộng ở gần đầu máy. Bạn hãy chú ý
đặt pin sao cho sợi dây kéo pin lên phải nằm ở dưới. Sợi dây này sẽ giúp bạn
kẻo pin lên dễ dàng khi cần lấy pin ra. Sau đó bạn hãy đóng nắp lại. Nếu nắp
chưa đậy kín, bạn cần kiểm tra lại xem vị trí đặt pin đã đúng hay chưa. Ngoài
ra, bạn có thể hỏi ý kiến các nhà chuyên môn. Khi không dùng MTT trong một
thời gian khá lâu bạn nên lấy pin ra.
4.1.5.4. Cách gắn núm tai:
Trước khi gắn núm tai vào trong tai, bạn nên tắt máy bằng cách đưa
nút tắt mở về vị trí "O". Dùng ngón cái và ngón trỏ cầm loa tai lên rồi gắn phần
núm nhựa vào trong vành tai, xoay thật nhẹ, khẽ kẻo vành tai ra và ấn núm tai
cho sát. Sau cùng hãy vắn dây máy ra sau vành tai.
4.1.5.5. Cách lấy núm tai ra khỏi tai:
Bạn không được lấy ra bằng cách kéo dây máy!
Trước hết bạn nhớ tắt máy, khẽ kéo nhẹ vành tai ra sau, một tay cầm
núm tai xoay nhẹ cho đến khi núm tai rời khỏi tai.
4.1.5.6. Cách lấy thân máy với tai nghe
Dây máy có 2 đầu; mỗi đầu có hai giác cảm. Một đầu nằm ngang và
một đầu nằm thẳng. Đầu nằm ngang được nối với thân máy, còn đầu thẳng
nối với tai nghe.
4.1.5.7. Cho máy hoạt động
Kẹp máy trợ thính vào túi đeo máy sao cho Microphone không bị che
lấp. Để nút tắt máy ở vị trí "O". Vặn nút điều chinh âm lượng số 1. Gắn núm
tai, tùy theo cấu tạo của từng kiểu máy mà bạn đặt núm tắt mở ở:
“H” hay “N”
"T" hay "M"
"MT" hay "M"
Vị trí "N" hay "M" dùng cho môi trường âm thanh bình thường. Còn vị trí
"H" được sử dụng khi bạn tập trung nghe những âm vực cao hoặc được bác
sĩ đề nghị sử dụng trong môi trường quá ồn.
Bạn sử dụng vị trí "T" trong hai trường hợp:
Nghe điện thoại và nghe qua hệ thống dây cảm ứng (hội trường, nhà
hát, nhà thờ...)
Vị trí "MT" giúp bạn nghe được cả âm thanh hai nguồn: qua điện
thoại/hệ thống dây cảm ứng qua Microphone. Và bây giờ bạn hãy từ từ vặn
nút điều chinh âm lượng lên đến đúng số đã được chỉ định.
Chỉ điều chỉnh nút điều khiển âm lượng khi thật cần thiết mà thôi. Khi
không sử dụng máy nữa, bạn hãy tắt máy bằng cách đưa nút tắt mở về vị trí
"O" để pin được dùng lâu hơn.
4.1.5.8. Sử dụng máy khi nghe điện thoại
Bạn có thể để nút tắt mở ở vị trí "T" hay "MT" khi cần nghe điện thoại,
thì ở "MT" bạn còn có thể nghe được âm thanh ở quanh bạn.
Khi sử dụng điện thoại, ống nghe phải hướng về máy trợ thính. Bạn
vừa dò tìm mức độ âm thanh vừa rà soát để nút điều chỉnh âm lượng ở vị trí
tốt nhất.
Sau khi dùng điện thoại xong bạn đừng quên đưa nút tắt mở về lại vị trí
“M”.
4.1.5.9. Nghe qua hệ thống dây cảm ứng
Nếu bạn muốn nghe qua hệ thống dây cảm ứng (hội trường, nhà hát,
nhà thờ...), bạn phải để nút tắt mở ở vị trí "T" hoặc "MT".
Hệ thống kết nối: Có một số kiểu máy trợ thính có một hệ thống kết nối
đặt biệt giúp bạn nối liền máy của mình với tivi, Radio, Cassete, Microphone...
Nếu máy của bạn có hệ thống đặt biệt này bạn nên hỏi thêm thông tin ở các
nhà chuyên môn về MTT.
4.1.5.10. Cách bảo quản:
Với một miếng vải khô bạn có thể lau sạch núm tai mỗi ngày. (nếu cần)
cũng như chải sạch phần ngoài của máy. Sau một vài tuần sử dụng, bạn cũng
nên lau chùi phía bên trong núm tai và cách làm như sau: Tách rời núm tai ra
khỏi loa tai. Nhưng điều quan trọng là: không được kéo dây máy để tách rời
núm tai ra. Đặc biệt, bạn có thể dùng xà phòng và nước để chùi rửa núm tai.
Nhưng hãy bảo đảm rằng núm tai hoàn toàn khô ráo trước khi được lắp lại.
Nếu bạn cần thêm thông tin, tốt nhất bạn nên hỏi các nhà chuyên môn.
4.1.5.11. Một vài lưu ý nhỏ
Nếu máy không phát ra âm thanh (tiếng rì, hú) hoặc âm thanh rất yếu
bạn cần đổi pin mới. Trong trường hợp khác bạn nên hỏi ý kiến nhà chuyên
môn.
Cầm máy một cách cẩn thận. Tránh để rơi máy.
Tránh để cho máy quá lâu dưới ánh nắng mặt trời hay ở những nơi gần
nguồn nhiệt như bếp lửa.
Máy cũng cần để xa những nơi chứa chất liệu hóa học như: thuốc sát
trùng, thuốc diệt muỗi, diệt chuột.
Luôn nhớ tắt máy khi không sử dụng và đặt máy ở nơi khô ráo
Lấy pin ra khỏi máy để tránh tình trạng rỉ sét.
4.1.6. Kiểm tra máy trợ thính
@ Giai đoạn 1: Cách kiểm tra dễ nhất là đặt núm tai gần micro khi máy
đã mở, nếu có tiếng rít thì có nghĩa là máy đang hoạt động.
- Giáo viên kiểm tra máy trợ thính theo các công việc sau:
+ Kiểm tra máy có gìn hay không? Pin có nằm đúng vị trí không?
+ Kiểm tra xem pin còn hay hết?
+ Kiểm tra mức tăng giảm âm lượng (volume) và nút tắt mở
+ Kiểm tra xem máy đã đặt đúng số volume đã được chỉ định đúng
không?
- Bạn sẽ tiến hành giai đoạn này trong một vài ngày đầu khi kiểm tra
MTT của một học sinh mới đối với bạn, hay khi trẻ mới sử dụng MTT.
@ Giai đoạn 2: Trẻ nên bước sang giai đoạn này càng sớm càng tốt
sau khi giáo viên đã kiểm tra MTT. Cách thức:
+ Có thể lặp lại giai đoạn 1
+ Giáo viên nói: "Hãy vỗ tay khi nghe tiếng cô nói "ba"
@ Giáo viên đứng ở phía sau trẻ khoảng cách 1 mét
@ Giáo viên sử dụng giọng nói bình thường
@ Cần ghi nhận phản ứng của trẻ
- Nếu trẻ không có phản ứng, hãy kiểm tra MTT trở lại để phát hiện
những lỗi khác và sửa chữa kịp thời.
- Đối với một số trẻ cần được tiến hành như thế nhiều lần để tạo một
sự tự tin ở trẻ. Khi trẻ đã phản ứng một cách tự tin, ta hãy bước sang giai
đoạn tiếp theo.
@ Giai đoạn 3: Khi trẻ phản ứng một cách tự tin với âm "ba", bạn có
thể bước sang giai đoạn 3. Có thể phải trải qua nhiều ngày để trẻ trở nên tự
tin.
+ Bạn có thể bắt đầu bằng giai đoạn 1 và 2
+ Giáo viên nói: "Hãy vỗ tay khi nghe tiếng cô nói: /i/ /m/ /u/ /a/ /s/ /x/"
@ Giáo viên đứng ở phía sau trẻ, khoảng cách 1 mét
@ Giáo viên nói các âm ngắt quãng nhau không đều
@ Phản ứng của trẻ được ghi nhận theo mẫu sau:
Tên trẻ:.................................... Ngày:..............................
Âm Phản ứng Nhận xét
Có Không
/m/
/u/
/i/
/a/
/s/
/x/
Nếu trẻ không có phản ứng, hãy kiểm tra MTT để phát hiện những lỗi
khác và sửa chữa kịp thời.
Chúng ta luôn liên hệ trở lại với bảng ghi chép này vào những lần kiểm
tra MTT sau đó.
@ Giai đoạn 4:
+ Bạn có thể bắt đầu bằng giai đoạn 1 và 2.
+ Giáo viên nói: "Hãy vỗ tay khi nghe tiếng cô nói: /m/ /i/ /u/ /a/ /s/ /x/"
Ghi nhận phản ứng của trẻ và so sánh những phán ứng đã được ghi
chép lại trước đó (trong giai đoạn 3)
Nếu trẻ không thể phản ứng đầy đủ với tất cả các âm mà trẻ đã được
làm trước đó thì ta hãy nghĩ là MTT có vấn đề. Hãy phát hiện những lỗi và
sửa chữa kịp thời.
Nếu trẻ phản ứng tốt hơn so với trước đó thì điều này có nghĩa là trẻ đã
có tiến bộ trong việc luyện nghe.
@ Giai đoạn 5:
+ Trẻ tự kiểm tra máy trợ thính của mình bằng cách nói nhỏ: /m/ /i/
/u/ /a/ /s/ /x/.
+ Trẻ yêu cầu một người nghe được bình thường kiểm tra máy trợ
thính cho trẻ theo cách trên
+ Trẻ tự phát hiện những lỗi đơn giản và tự sửa chữa MTT như:
@ Lắp pin mới @ Vặn volume đúng vị trí
@ Thay dây trong @ Lau sạch núm tai
Ngay cá khi trẻ có thể thực hiện được mức độ ở giai đoạn 5 thì giáo
viên cũng nên kiểm tra máy trợ thính đều đặn, sử dụng giai đoạn 4 và giáo
viên cũng nên kiểm tra bằng cách nghe qua máy một cách thường xuyên.
4.1.7. Một số lỗi thông thường của máy trợ thính và cách khắc phục:
Hiện tượng Nguyên nhân có thể Cách khắc phục
Không nghe thấy âm
thanh MTT dường như
không hoạt động
Ngăn chứa pin có thể
không được đậy chặt
hoặc pin đặt sai vị trí
Trước tiên hãy đặt pin
vào ngăn chứa pin. Sau
đó đóng ngăn chứa pin
hay ngược chiều. Dấu +
của phí phải đặt đúng
chỗ có dấu + ở ngăn
chứa pin.
chặt vào cho đến khi có
tiếng tách". Nếu bạn
không nhìn thấy dấu +
hãy đeo kính hay nhờ
người khác giúp.
Nếu bạn có đồng hồ đo
gìn, hãy kiểm tra xem
kim đồng hồ chỉ ở vùng
màu xanh hoặc ở vị trí
chấp nhận được. Nếu
không, hãy thử một viên
pin mới. Nếu MTT hoạt
động lại bỏ pin cũ đi.
Chỗ tiếp xúc của phi bị
bẩn hoặc bề mặt pin bị rỉ
sét.
Bỏ pin ra và lau sạch
bằng vải mềm
Ráy tai bít kín MTT (đối
với MTT trong tai) hoặc
núm tai.
Tách rời núm tai khỏi
MTT, rửa sạch, lau khô
rồi mới lắp lại. Lưu ý đối
với máy trong tai (không
có núm tai tách rời) hãy
cẩn thận lấy ráy tai ra
bằng dụng cụ kèm theo
máy, không cho vào quá
sâu mà ảnh hưởng tới
bộ phận ở bên trong
máy. Nếu không tự lấy
ráy tai ra được thì nhờ
người có chuyên môn.
Đối với MTT sau tai
hoặc MTT kính, ống
nhựa nối MTT với núm
tai có thể bị nước bít kín
hay bị xoắn
Nếu MTT không rít lên
khi MTT trên tay và ở vị
trí mở, tách rời núm tai
ra xem có âm thanh
không. Điều này sẽ kiểm
tra được lỗi do ống nối
hay do núm tai. Kiểm tra
và rửa sạch. Lưu ý khi
lắp lại, ống và núm tai
phải thật khô và lắp để
núm tai đúng hướng,
nếu không khi đeo máy
sẽ bị xoắn ống nối
Đối với MTT hộp, dây
nối thân máy với loa tai
bị đứt hoặc kém tiếp xúc
ở hai đầu dây.
Sau khi chắc chắn hai
đầu dây được gắn chặt,
lắc dây lên xuống xem
có nghe thấy âm thanh
không. Điều này sẽ cho
ta thấy dây có bị đứt ở
bên trong và cần thay
thế không. Nếu bạn có
dây dự trữ hãy thử dây
mới xem máy có hoạt
động không.
Thính lực của bạn có
thể bị giảm.
Nhờ người có chuyên
môn kiểm tra lại thính
lực.
Đối với máy hộp, loa và
núm tai không gắn chặt
với nhau.
Lót một lớp ngông mỏng
để khớp lại cho chặt.
Nếu không được thì
phải thay núm tai hoặc
loa tai.
MTT đã bật (ON) nhưng
không đạt vào tai.
Điều này hoàn toàn bình
thường, chứng tỏ MTT
đang hoạt động.
MTT có hiện tượng
hoàn ngược (khi đeo có
tiếng rít)
MTT hay núm tai không
đặt khớp vào tai.
Trước tiên hãy vặn nhỏ
nút âm lượng. Lấy ngón
tay ấn quanh MTT hoặc
núm tai cho vào khớp.
Có thể bạn phải hơi vặn
nút tai hoặc kẻo vành tai
về phía sau để đẩy núm
tai vào sâu hơn. Khi đã
khắc phục xong, nhớ
vặn núm điều chỉnh âm
lượng về vị trí sử dụng
bình thường.
Ống tai có quá nhiều ráy
tai.
Ráy tai có thể khiến bạn
phải vặn nút điều chỉnh
âm lượng ở vị trí cao
hơn. Điều này có thể
dẫn đến hiện tượng
hoàn ngược.
Tiếng kêu có thể chỉ
xuất hiện khi để tay gần
MTT khi nằm đầu chạm
vào gối. Lúc đội mũ gần
MTT cũng có thể xuất
hiện hiện tượng này.
Nếu bạn chắc chắn MTT
đã được đeo đúng
nhưng vẫn có hiện
tượng này xảy ra thì nên
đưa đến người có
chuyên môn về MTT.
Nếu MTT hay núm tai có
đường "vent" (đây là
một đường ống khoan
nhỏ chạy dọc trong núm
tai) và có một nút ở đầu
văn để giảm kích cỡ
đường vân, nút này có
thể bị rơi ra
Phải mang máy tới nhà
chuyên môn để gắn lại
nút ván vào
Tai có thể phát triển lên
hoặc núm tai có thể bị
teo đi, như vậy MTT hay
núm tai không được khít
chặt vào ống tai.
Phải đi làm núm tai mới
trừ khi người thợ có thể
đắp thêm nhựa bên
ngoài để núm tai to lên.
Đối với MTT sau tai hay
MTT kính ống nhựa nối
giữa MTT và núm tai có
thể bị thủng. Ống này
dùng lâu có thể sẽ bị
giòn và có vết nứt.
Thay thế ống nối ngay.
Đây là vấn đề rất đơn
giản, không nên mất
nhiều thời gian quá. Ống
nối cần được thay thế
thường xuyên.
Nếu không tìm thấy
những lỗi trên thì rất có
khả năng MTT bị hỏng
do các bộ phận bên
trong.
Nếu MTT có tiếng rít
ngay cả khi bịt đầu âm
thanh đi ra, hiện tượng
hoài ngược xảy ra ngay
từ bên trong máy như
vậy cần phải gửi đi cho
người có chuyên môn
chữa.
Bộ phận lọc âm cài thêm
vào ống có thể bịt kín.
Bộ phận này không thể
rửa bằng nước, nếu chỉ
thổi bằng khí mở không
khắc phục được thì phải
mang MTT đi sửa.
Âm thanh nghe qua máy
lúc có lúc không.
Có thể nút điều chỉnh
âm lượng hay ngăn máy
lúc có chứa có bụi bẩn.
Có bình xịt đặc biệt sử
dụng cho các mạch điện
tử. Nhà chuyên môn về
MTt sẽ khắc phục được
tình trạng này.
Đối với MTT hộp, lõi
trong dây máy có thể bị
đứt hay những chỗ tiếp
nối bị lỏng.
Nếu bạn có dây dự trữ,
thử máy với dây mới
xem máy có hoạt động
được không. Nếu không
thì mang máy tới người
có chuyên môn chữa
MTT.
Các bộ phận ở trong bị
lỏng.
Phải mang máy tới
người có chuyên môn
Âm thanh phát ra rất lạ Pin của MTT gần hết
năng lượng.
Thay pin xem có khắc
phục được không.
Âm thanh bị nhiễu Nút tắt mở để ở vị trí “T” Kiểm tra lại vị trí của nút
tắt mở
MTT có thể đang hoạt
động ở một mức độ rất
gần với mức khuếch đại
bão hòa của MTT đó.
Người có chuyên môn
về MTT sẽ khắc phục
tình trạng này. Có thể
điều chỉnh lại công suất
của MTT hoặc phải đổi
máy khác
Bụi bẩn bám vào nút
điều chỉnh âm lượng có
Xem hướng dẫn ở trên
thể gây ra những âm
thanh lạo xạo khó thay
đổi âm lượng.
MTT có thể có công suất
quá lớn ở những dải tần
cao. Khả năng nghe đối
với những âm thanh cao
kém, những gì nghe
thấy được sẽ bị nhiễu
"Đáp tuyến tần số" của
MTT có thể cần được
điều chỉnh. Hãy tới gặp
những người có chuyên
môn.
MTT có thể bị hỏng ở
những bộ phận bên
trong
Hãy gặp những người
có chuyên môn về MTT
để xem cần phải chữa
hay thay thế những bộ
phận nào.
Giọng của bạn không
thật hoặc có tiếng vọng
khi nói
Núm tai quá chặt không
cho phép áp suất âm
thanh thoát ra ngoài.
Vấn đề này có thể khắc
phục bằng cách khoan
"vent" núm tai hay MTT.
Để quyết định có đường
vent hay không cần phải
hỏi người có chuyên
môn.
Đeo MTT hay núm tai
vào làm đau tai
Ống tai hay tai ngoài bị
đau do MTT hay núm tai
quá chặt hoặc có cạnh
sắc xước vào da.
Nếu đau không giảm mà
lại có chiều hướng xấu
đi, hãy tháo MTT ra và
đến gặp người có
chuyên môn về MTT.
Đau tai Đau tai có thể do "âm
học" hay nói cách khác
là do sự ảnh hưởng của
Người có chuyên môn
về MTT phải đo mức độ
âm thanh phát ra từ
âm thanh vào thính giác MTT, tốt nhất là thử trên
tai người sẽ đeo MTT
đó. MTT, loa tai núm tai
hay ống dẫn có thể phải
được điều chỉnh để
nghe cho thích hợp.
Trong trường hợp này
nếu không khắc phục
được phải thay máy
mới.
Thời gian sử dụng pin
ngắn
Có thể bạn quên tắt máy
khi đi ngủ hay lúc không
đeo máy
Trong một vài trường
hợp, không chắc chắn
MTT đã tắt chưa thì tốt
hơn hết khi đi ngủ hay
lúc không đeo MTT mở
ngăn chứa pin ra.
Có thể bạn mua phải
đợt pin kém chất lượng.
Pin tồn quá lâu, có thể bị
giảm thời gian sử dụng.
Nếu giữ gìn kín thì sẽ
giữ được pin lâu hơn.
Thử viên pin mua ở đợt
khác và theo dõi ngày
bắt đầu sử dụng.
Không nghe được điện
thoại qua MTT
Nếu MTT có một nút "T",
những máy điện được
điện thoại của bạn có
thể thoại qua không
thích hợp.
Một số máy điện thoại
không có đủ từ trường
để dẫn truyền vào cuộn
cảm ứng "T" của MTT.
Hãy hỏi người có
chuyên môn về MTT về
bộ phận đặc biệt để
nghe điện thoại được.
Bạn có thể không đặt
điện thoại vào đúng vị trí
tốt nhất của MTT.
Hãy cố gắng di chuyển
máy điện thoại quanh tai
xem có thể nghe rõ
được hơn không. Mặc
khác, khi chuyển sang vị
trí "T", bạn có thể tăng
nút điều chỉnh âm lượng
TRẮC NGHIỆM VỀ MÁY TRỢ THÍNH (MTT)
(Chọn câu trả lời đúng/sai)
1. MTT là một loại máy khuếch đại âm thanh để giúp trẻ có khó khăn về
nghe tiếp nhận âm thanh một cách tốt hơn.
2. MTT còn giúp trẻ phát triển phần thính lực còn lại và là một trong
những điều kiện tốt để phát triển ngôn ngữ cũng như giúp trẻ có khó khăn về
nghe giao tiếp với xã hội dễ dàng hơn.
3. MTT chữa trị tật khiếm thính.
4. Trẻ khiếm thính cho cần mang máy một thời gian rất ngắn.
5. MTT là của trẻ nên phụ huynh để mặc cho trẻ tự quyết định việc đeo
máy hay không trẻ tận dụng khả năng nghe còn lại nhưng hiện nay việc cấp
phát hay mua bán loại máy có chất lượng là rất khó khăn nên trẻ khiếm thính
chỉ cần:
- Mang máy ở trường lúc học hay ở nhà.
- PH không nên cho trẻ mang máy khi đi ra ngoài đường.
- GV không cho trẻ mang máy khi trẻ chơi đùa trong trường.
- PH không cho trẻ mang máy khi trẻ chơi đùa với bạn bè hàng xóm.
- PH không cho trẻ mang máy vì họ lo sợ là máy của trẻ sẽ bị mất.
7. Dù trẻ mang máy nhiều sẽ dễ bị hỏng, tôi vẫn khuyến khích trẻ mang
máy.
8. Trẻ khiếm thính lớn tuổi biết tự giữ máy, biết tự đi sửa khi máy bị hư
nên là cha mẹ hay người trực tiếp nuôi dạy và chăm sóc cháu không cần phải
lưu tâm đến vấn đề mang máy trợ thính của trẻ.
9. Dù cơ hội mất máy nghe sẽ gia tăng nhưng tôi vẫn động viên trẻ
khiếm thính mang máy ở mọi lúc mọi nơi.
10. Tôi chấp nhận chuyện lo lắng khi cho trẻ khiếm thính mang máy
hơn là cất máy vào tủ vì tôi hiểu và tin rằng một ngày trẻ được mang máy là
một ngày trẻ có cơ may phát triển sức nghe và nói. Một ngày trẻ không có
máy là một ngày trẻ đã bị mất đi quyền lợi được nghe và nói như các bạn
đồng trang lứa với trẻ.
Hãy nhắc nhở trẻ đeo máy
Hãy ân cần biểu lộ sự vui sướng
khi nhìn thấy trẻ biết dùng sức nghe
Với tấm lòng của một nhà giáo,
hãy cùng trẻ tháo gỡ bất kỳ khó khăn nào
4.2. Cấy điện cực ốc tai: 4.2.1. Sự ra đời: Thực hiện lần đầu: Cách đây 30 năm.
Phát triển: Từ đơn đến đa điện cực. Vào những năm đầu của thập niên
70, GS, Graeme Clark và cộng sự, ĐH tổng hợp Melboune - úc đã nghiên cứu
và phát triển hệ thống điện cực này.
Bệnh nhân: hàng chục ngàn người lớn và trẻ em từ khiếm thính nặng
đến khiếm thính sâu của hơn 45 nước trên thế giới đã được cấy ốc tai các
loại.
Lợi ích: Giúp hoà nhập với cộng đồng và giúp nhiều người trong việc
học tập cũng như phát triển nghề nghiệp.
4.2.2. Khái niệm:
Chúng ta có thể nghe được âm thanh bởi vì một phần của tai gọi là "ốc
tai" đã chuyển những tín hiệu âm thanh lên não. Nếu ốc tai của người nào bị
tổn thương thì người đó sẽ nghe không tốt.
Cấy điện cực ốc tai là một cách mới để giúp trẻ nghe được âm thanh,
mặc dù việc cấy điện cực ốc tai rất tốn kém nhưng đã được nhiều nước trên
thế giới thực hiện.
Ốc tai điện tử là dụng cụ dùng để thay thế hệ thống truyền âm của tế
bào lông tai trong đã bị hư bằng năng lượng âm cơ học. Tín hiệu âm cơ học
được chuyển thành tín hiệu điện và truyền tới thần kinh ốc tai
Thành phần chủ yếu gồm 1 micro nhận những thông tin âm học và một
bộ phận xử lí bên ngoài cơ thể; một bộ phận phân tích có nhiệm vụ chuyển
sóng âm học thành tín hiệu điện; một dãy điện cực đặt gần thần kinh thính
giác.
4.2.3. Phân loại: ốc tai điện tử: có 2 loại
- Ốc tai điện tử đơn kênh: có hạn chế ở việc cung cấp các âm trầm
dưới 500Hz.
- Ốc tai điện tử đa kênh: dựa vào lý thuyết Tonal Topic kích thích nhiều
chỗ khác nhau ở ốc tai từ đó kích thích thần kinh trung ương.
4.2.4. Cấu tạo:
Cấu tạo của hệ thống cấy điện ốc tai:
Hệ thống này gồm 2 phần: Phần trong và phần ngoài
Phần trong: Cochlear Implant (A):
Đây là phần được đặt vào trong xương phía sau tai.
Cấu tạo của nó gồm một nam châm, một bộ phận vừa nhận vừa kia
thích và các điện cực xếp theo hàng kéo dài từ bộ phận tiếp nhận đã ốc tai.
Phần ngoài: Gồm 3 bộ phận
Speech processor (B):
Bộ phận này giống một cái radio nhỏ bỏ túi. Nó chọn lọc và mã họ
những âm thanh dùng để hiểu lời. Nó có thể được đeo ở bất kỳ chỗ nó mà
thấy thuận tiện.
Directional microphone (C):
Nằm ngay sau tai, dùng để thu nhận âm thanh từ môi trường xung
quanh.
Transmitter coil and cable (D):
Một sợi mỏng nối từ microphone đến speech processor.
Transmitter còn là một vòng được bao bọc bằng nhựa có đường kín 33
mui đặt ngay phía ngoài của nam châm nằm dưới da.
Hoạt động của hệ thống cấy điện ốc tai:
1. Âm thanh đi vào microphone ở sau tai.
2. Từ microphone âm thanh được truyền đến bộ phận phân tích lời.
3. Bộ phận phân tích lời chọn lọc và mã hoá những âm thanh để hiểu.
4. Những mã hóa điện này được truyền trở lại cho bộ phận dẫn truyền.
5. Bộ phận dẫn truyền truyền các mã hoá qua da đến bộ phận tiếp nhật.
6. Bộ phận tiếp nhận chuyển những mã hoá này thành những tín hiệu
điện đặc biệt và chuyển chúng đến các dãy điện cực.
24 Điện cực Hệ thống cấy điện cực ốc tai
1. Micro thu nhận âm thanh.
2. Âm thanh từ Micro được chuyển đến bộ phận phân tích lời.
3. Bộ phận phân tích lời phân tích và mã hóa những tín hiệu thu
được.
4. Những tín hiệu đã mã hóa được gửi đến bộ phận dẫn truyền.
5. Bộ phận dẫn truyền chuyển mã qua lớp da vào bộ phận cấy
bên trong.
6. Bộ phận cấy bên trong giải mã thành các tín hiệu điện tử.
7. Các tín hiệu được chuyển tới các điện cực để kích thích các
dây thần kinh còn lại.
8. Não phân tích và tiếp nhận các tín hiệu điện tử đó, cho ta biết
âm thanh.
Các điện cực được xếp thành hàng trong một ống mềm silicon. Mỗi một
điện cực có một sợi dây nối với receiver. Những tín hiệu điện đã mã hoá
được truyền đến những điện cực đặc biệt mà mỗi điện cực này có những
chương trình đặc biệt để cung cấp âm thanh theo độ lớn và âm sắc khác
nhau. Những điện cực này kích thích các sợi thần kinh nghe để truyền thông
tin đến não.
4.2.5. Sự hoạt động của điện cực ốc tai:
Ốc tai điện tử giúp cho những người khiếm thính cả người lớn và trẻ
em đeo máy nghe không có hiệu quả.
Ốc tai điện tử chuyển âm thanh thành những tín hiệu điện, những tín
hiệu này kích thích các sợi dây thần kinh của tai trong giúp người khiếm thính
có thể nghe lại lời nói và âm thanh.
Để hiểu chức năng của ốc tai điện tử, trước hết chúng ta nói về đường
truyền âm thanh ở người nghe bình thường. Sóng âm thanh đi qua ống tai
nghe giữa và đến ốc tai. Trong ốc tai sóng âm được chuyển thành các xung
điện. Các xung điện này đi qua các thần kinh đến não. Đó là quá trình truyền
âm thanh. Âm thanh được truyền với tốc độ nhanh.
Ốc tai giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình nghe. Ốc tai gồm 3
kênh nhỏ: có chứa dịch. Sóng âm đi vào dịch kích thích phần đỉnh của hàng
ngàn tế bào lông. Các tế bào lông chuyển năng lượng cơ học thành các xung
điện. Các xung điện này kích thích các sợi thần kinh. Các sợi thần kinh này
tạo thành thần kinh thính giác truyền thông tin đến não.
Các âm trầm kích thích phần đỉnh và các âm cao kích thích phần đáy
ốc tai.
Khi các tế bào lông một phần mất đi hoặc bị hư hại sẽ gây ra nghe kém.
Loại này có thể cho đeo máy nghe thích hợp.
Khi mất hoặc khi hư hại toàn bộ tế bào lông sẽ gây khiếm thính. Thông
thường các sợi thần kinh còn nguyên không hư hại nhưng nó không thể nhận
được các xung điện. Những trường hợp này có thể cấy điện ốc tai.
Điện cực oặt càng sâu càng tốt. Vật cấy được đặt dưới da sau tai. Bộ
phận dẫn truyền ngoài đặt khít trên bộ phận cấy bên trong. Âm thanh sẽ được
truyền qua da.
Microphone thu nhận âm và gởi đến máy vi tính nhỏ còn được gọi là bộ
phận phân tích lời. Bộ phận này có thể hình hộp hoặc dạng đeo sau tai. Đây
là một phần rất quan trọng của cấy ốc tai điện tử. Nó phân tích lời truyền âm
thanh qua da đến các dãy điện cực. Như vậy lời nói và âm thanh được truyền
qua một cách nhân tạo.
Cần có một quá trình tích cực để học nghe và nói. Tập cho bệnh nhân
có thể giao tiếp bình thường.
4.2.6. Chỉ định cấy điện ốc tai.
Các chỉ định chung:
Khiếm thính sâu đến khiếm thính hoàn toàn dạng khiếm thính ốc tai.
Không có khả năng nghe hay nhận biết lời nói khi mang máy nghe.
Tin tưởng nếu nghe được sẽ giúp cho cuộc sống sinh động, ít bị phụ
thuộc và vui vẻ hơn.
Không có chống chỉ định phẫu thuật.
Khiếm thính thần kinh nặng và sâu nhưng thần kinh thính giác hoặc một
số sợi của thần kinh thính giác còn hoạt động.
4.2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả của máy cấy điện ốc tai:
1. Khiếm thính trước khi học nói hay sau khi học nói.
2. Thời gian khiếm thính.
3. Hoạt động của các sợi thần kinh thính giác.
4.2.8. Những hạn chế của cấy điện ốc tai:
1. Cấy điện cực ốc tai không thể giúp tất cả những người khiếm thính
nặng và sâu mà phải chọn lọc.
2. Cấy điện cực ốc tai có thể giúp người này nhiều hơn người kia
3. Âm thanh nghe được qua cấy điện cực ốc tai khác với nghe bình
thường. Người khiếm thính phải học dịch những gì họ nghe thấy vì thế đôi khi
cần có thời gian và kinh nghiệm.
4.2.9. Những điều lưu ý đối với bệnh nhân cấy điện ốc tai:
4.2.9.1. Những điều cần lưu ý chung:
Hệ thống ốc tai điện tử gồm có hai bộ phận, một bộ phận cấy vào ốc tai
nên sau mổ bệnh nhân không nhìn thấy, và một bộ phận để nhận và xử lý âm
thanh đặt ở ngoài tai. Hai bộ phận này đều chứa đựng những thành phần
điện tử tinh vi và có khả năng hoạt động lâu dài. Vì thế:
1. Không bao giờ được tự mở vỏ hộp của bộ phận ngoài. Nếu tự động
mở sẽ không còn được bảo hành. Để thay gìn hoặc lau chùi hốc chứa pin, chỉ
mở hốc chứa pin.
2. Trước khi bật bộ phận ngoài cần kiểm tra kỹ coi có thiếu hay bị vỡ gì
không. Nếu có vấn đề thì đừng bật máy.
4.2.9.2. Những điều cần lưu ý trong sinh hoạt:
Nhìn chung cần phải để ý tránh tất cả các nguồn có ảnh hưởng đến,
đặc biệt đối với trẻ em.
- Trong sinh hoạt hàng ngày: Cần lưu ý giữ gìn cả bộ phận trong và
ngoài của máy. Tránh những cử động không cần thiết và gãi mạnh bên đầu
có cấy ốc tai; tránh những áp lực cơ học mạnh vào phía đầu này. Trong
trường hợp ngứa da đầu bên cấy ốc tai không được gãi quá mạnh. Nếu cắt
tóc phải lưu ý không làm tổn thương da vì chỗ đặt máy thường hơi có gồ lên
một ít. Cha mẹ lưu ý không để con mình đánh nhau với trẻ khác vì nó có thể
bị thương ảnh hưởng đến máy. Cha mẹ cũng nên lưu ý không để trẻ ngã từ
trên ghế, trên bàn xuống, cũng không cho trẻ leo trèo dễ té xuống đất. Cố
gắng tránh những tai nạn có thể xảy ra cho bé. Cần phải giữ gìn không được
để bộ phận ngoài bị ẩm, ướt. Không đến gần máy móc cơ khí.
- Thể thao: Hạn chế các môn thể thao có ảnh hưởng đến máy như
tennis, chạy, đấm bốc, thể dục... Không tham gia các môn thể thao, đua
ngựa, đua mồm, đua thuyền, đá bóng, những môn thể thao dưới nước.
- Kỹ thuật trong cuộc sống.
+ Hệ thống chống trộm ở các cửa hàng: Một số ít trường hợp ốc tai
điện tử có thể làm chuông của hệ thống báo trộm ở các cửa hàng kêu, vì thế
người mang ốc tai điện tử nên luôn mang thẻ chứng nhận có cấy điện ốc tai.
Các hệ thống chống trộm sử dụng các từ trường đã điều chỉnh vì thế người
mang ốc tai điện tử có thể đi qua hệ thống này mà không bị giữ lại. Các vật
dụng chống trộm thương mại có thể có từ trường mạnh, người mang ốc tai
điện tử có thể nghe một âm nhỏ nếu đến gần những dụng cụ này, chỉ cần tắt
máy thì âm này sẽ mất đi.
+ Sân bay/ Máy bay: Bộ phận xử lý lời nên tắt đi khi đi qua hệ thống
kiểm soát của sân bay, vì chúng có thể tạo nên từ trường rất mạnh. Mặc
khác, các cảm giác nghe có thể xảy ra và chương trình xử lý lời có thể bị hư.
Tuy nhiên làm hỏng ốc tai điện tử thì không dễ dàng. Nếu chương trình xử lý
bị hư, đó chỉ là một lỗi nhỏ có thể được chỉnh lại tại trung tâm ốc tai. Nếu bộ
phận xử lý lời được lập nhiều chương trình họ có thể sử dụng một trong
những chương trình khác cùng thời gian. Bộ phận xử lý lời vừa là máy vi tính
vừa là thiết bị điện tử vì thế nó cũng nên được tắt đi trước lúc máy bay cất
cánh và hạ cánh như nhóm, dụng cụ điện tử khác.
+ Ảnh hưởng qua lại: Có thể có ảnh hưởng qua lại giữa hệ thống ốc tai
cấy và các đồ điện tử khác. Trong một số ít trường hợp, ốc tai cấy có thể ảnh
hưởng đến sự thu nhận của đài và ti vi. Đi xa khỏi những máy điện tử có thể
giảm sự ảnh hưởng. Tuy nhiên làm hỏng hệ thống ốc tai cấy thì không dễ.
+ Điện thoại di động: Người cấy ốc tai điện tử COMBI 40/40 + có thể sử
dụng điện thoại di động. Tuy nhiên, điện thoại di động đang nối kết có thể
nghe một vài tiếng ồn. Điều này xảy ra khi khoảng cách người dùng điện thoại
di động và người mang ốc tai điện tử trong khoảng 3 mét. Tiếng ồn này không
hại đến hệ thống ốc tai cấy. Khoảng cách giữa hệ thống ốc tai cấy và ăng ten
truyền xa sẽ làm giảm tiếng ồn. Nếu người mang ốc tai điện tử muốn có điện
thoại di động cần phải thử trước sự ảnh hướng của nó.
+ Máy nghe, ti vi, đài, hệ thống FM. Hệ thống xử lý lời không bao giờ
được nối trực tiếp với bất kỳ máy nào chạy bằng điện.
+ Máy phát sóng ngắn / vô tuyến không chuyên: Sóng điện từ trường
của các loại máy này giống như của ốc tai điện tử. Tuy nhiên, đến nay chưa
có trường hợp ảnh hưởng nào được báo cáo. Các tín hiệu lời truyền giữa dây
và ốc tai được mã hoá vì thế nó chống được những ảnh hưởng này. Dù sao
người ta cũng khuyên không nên đến gần ăng ten của những dụng cụ này.
+ Các vật tích điện: Vào những ngày ẩm nhiều vật tĩnh điện có thể ảnh
hưởng đến các bộ phận của hệ thống ốc tai điện tử. Thực tế, các chương
trình cất giữ thường bị hư hỏng. Nếu có một chương trình nào bị hư thì nó
ngay lập tức và tự động tắt để tránh bị kích thích quá lớn. Những chương
trình khác có thể bị hoặc không bị ảnh hưởng. Cài đặt lại chương trình máy lại
hoạt động bình thường.
Các đồ vật sau đây thường tích điện:
- Đồ chơi máy bằng nhựa: Tháo bộ phận xử lý lời ra rồi mới chơi, nếu
chỉ tắt nó không thì chưa đủ.
- Các bài giảng khoa học ở trường: Tháo máy khi thực hiện các thí
nghiệm với tĩnh điện.
- Quần áo: Đối với bộ phận xử lý lời hộp may đồ điện nên may những
loại vải không tích điện như vải dệt từ các loại sợi tự nhiên. Khi mặc đồ xong
mới gắn máy, còn khi thay đồ thì phải tháo máy ra trước.
- Ra khỏi ôtô: Khi ra khỏi ôtô cần giữ cửa ôtô cho đến khi chân chạm
đất để tránh bị sốc tĩnh.
- Chạm vào bộ phận xử lý lời: Có khả năng bạn cũng tự tích điện và
truyền nó vào bộ phận xử lý lời. Để tránh điều này xảy ra cần phải tiến hành
như sau:
Nếu bạn muốn tháo bộ phận ngoài:
(a) Bước 1: Chạm vào cơ thể người.
(b) Bước 2: Chạm vào máy.
Nếu bạn muốn lấy bộ phận xử lý từ bàn:
(c) Bước 1: Chạm vào máy.
(d) Bước 2: Chạm vào cơ thể người.
Nếu bạn nghĩ mình đang tích điện, bạn có thể giảm nó bằng cách chạm
vào một máy phát sóng, thám nước, hoặc bất kỳ một vật bằng kim loại.
Bệnh nhân cần phải có thảm chống tích điện dưới chân khi làm việc
Bệnh nhân không trực tiếp chạm vào màn hình của ti vi hoặc máy vi
tính.
Bệnh nhân cần phải thường xuyên lau màn hình máy vi tính hoặc ti vi
bằng dung dịch chống tích điện.
Nguy cơ của những vấn đề từ màn hình máy vi tính rất nhỏ nhưng có
thể giảm nó bằng cách sử dụng một màn hình chống tích điện.
+ Môi trường độc hại: Bộ phận xử lý lời được thiết kế để sử dụng trong
môi trường có nhiệt độ và độ ẩm bình thường. Nó không được sử dụng trong
điện trường mạnh...
4.2.9.3. Tiêu chí lựa chọn cơ bản:
Trẻ em:
Khiếm thính tiếp nhận hai bên tai mức nặng tới sâu.
Không có giới hạn tối thiểu về độ tuổi.
Máy trợ thính ít có tác dụng hoặc không giúp được gì.
- Dưới 5 tuổi không phát hiện được những kỹ năng nghe cơ bản.
- Trên 5 tuổi chỉ nhận ra 50% hoặc ít hơn lượng từ.
- Ngưỡng nghe khi đeo máy trợ thính nằm ngoài tần phổ lời nói KHZ.
- Không bị ảnh hường từ các bệnh lý khác.
Động cơ thúc đẩy cao và kỳ vọng thích hợp (khi thích hợp với gia đình
và đứa trẻ).
Những tiến bộ trong lĩnh vực cấy điện cực ốc tai đã cải thiện việc tiếp
nhận âm thanh các tiêu chí cho mỗi cá nhân cho những người khiếm thính
nặng, khiếm thính sâu và dẫn đến những thay đổi trong việc xem xét.
Máy trợ thính có thể giúp đỡ cho nhiều người bị khiếm thính tiếp nhận
mức nặng tới sâu nhờ khả năng khuyếch đại âm thanh. Tuy nhiên, với cả
những máy trợ thính hiện đại nhất cũng không đạt được những hiệu quả cao
đối với người khiếm thính tiếp nhận cả hai tai mức nặng và sâu. Với những
trường hợp này, có thể nghĩ đến việc cấp diệc cực ốc tai.
Cơ chế hoạt động của điện cực ốc tai khác so với MTT. Điện cực thay
thế cho các tế bào lông ở tai trong, đã bị tổn thương và kích thích trực tiếp
các dây thần kinh thính giác, cho phép con người có thể tự nhận được âm
thanh.
Những sự tiến bộ trong kết quả đạt được cho những người đọc cấy
điện cực ốc tai đã mở rộng những tiêu chí lựa chọn và nhờ đó và cấy điện
cực ốc tai giờ đây đã đáp ứng cho cả người khiếm thính nặng và sâu.
Kiểm tra hiến thức về cấy điện cực ốc tai
(Chọn câu trả lời phù hợp nhất)
1. Độ khiếm thính nào có thể thuận lợi cho việc cấy điện cực ốc tai?
a. Khiếm thính nhẹ đến khiếm thính vừa.
b. Khiếm thính nặng đến khiếm thính sâu.
c. Bất kỳ độ khiếm thính nào.
(Khiếm thính nhẹ đến khiếm vừa phù hợp cho việc đeo máy trợ thính)
2. Những nguyên nhân gây khiếm thính nào có thể giúp ích cho việc cấy diện
cực ốc tai?
a. Bất kỳ nguyên nhân nào.
b. Bất kỳ nguyên nhân nào anh hưởng chủ yếu đến tai trong (Khiếm
thính mà chủ yếu do tai giữa hoặc có những vấn đề về thần kinh thì không
thích hợp để cấy điện cực ốc tai.)
3. Cấy điện cực ốc tai nhằm mục đích gì?
a. Trở lại nghe bình thường.
b. Cho nghe bằng điện tử.
c. Cho cảm giác nghe.
(Cấy điện cực ốc tai sẽ không giúp trẻ trở lại sức nghe bình thường được.)
4. Khi cấy điện cực ốc tai, điện cực sẽ đi vào đâu?
a. Vào tai ngoài.
b. Vào ốc ta.
c. Vào tai giữa.
(Mảng điện cực được đặt vào tai trong hay ốc tai, từ vị trí mà nó có thể đi qua
luồng điện để đến dây thần kinh thính giác.)
6. Lời cam kết của gia đình đối với việc phục hồi mất bao lâu?
a. 3-12 tháng.
b. 3-12 năm.
c Suốt cả cuộc đời.
(Cấy điện cực ốc tai chịu trách nhiệm cả đời trẻ. Trẻ sẽ tham gia những cuộc
hẹn khi chúng trưởng thành.)
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Hãy nêu các loại máy trợ thính mà anh/ chị từng gặp?
2. Anh/ chị đã từng gặp trường hợp cấy điện cực ốc tai? Nếu có, hãy
mô tả một số thông tin?
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái niệm máy trợ thính?
2. Cấu tạo máy trợ thính trước ngực và sau tai?
3. Các loại máy trợ thính?
4. Ưu và nhược điểm của các loại máy trợ thính?
5. Các cách sử dụng và bảo quản máy trợ thính?
6. Các giai đoạn kiểm tra máy trợ thính?
7. Một số lỗi thông thường của máy trợ thính và cách khắc phục?
8. Ốc tai điện tử là gì?
9. Cấu tạo của hệ thống cấy điện cực ốc tai?
10. Các lưu ý khi cấy điện cực ốc tai?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cochlear Implants for Children, A guide for parents (Cấy điện cực ốc
tai cho trẻ, tài liệu hướng dẫn phụ huynh).
2. Sandy Niemann - Devorah Greenstein - Darlena David (2006), Giúp
đỡ trẻ điếc sách dành cho cha mẹ và cộng đồng, NXB Lao động - Xã hội.
3. Tài liệu trắc nghiệm (2000), Sách giúp đỡ trẻ khiếm thính, Hà nội.
4. Website: www.deafservice.com.vn
5. Website: www.cochlear.com
6. Website: www.medel.com
7. Website: www.hearingaids.com
8. Website: www.widex.com.vn
9. Speech and 1anguage Assessment and Treatment for Cochlear
Implantee HCMC, Oct 16 - 17, 2000.
Bài 5: MÔI TRUỜNG NGHE THÍCH HỢP CHO TRẺ KHIẾM THÍNH
Môi trường nghe có vai trò rất quan trọng trong việc giúp trẻ khiếm
thính sử dụng sức nghe khi đeo máy trợ thính để phát triển khả năng giao tiếp
và học hỏi một cách tự nhiên.
Để tạo môi trường nghe thích hợp cho trẻ cần lưu ý các yếu tố sau:
5.1. Tín hiệu - tiếng động nền:
- Tín hiệu là âm thanh cần chú ý nghe.
- Tiếng động nền là những âm thanh ngoài tín hiệu.
Ví dụ: Khi xem ti vi thì âm thanh phát ra từ ti vi (thuyết ninh) là tín hiệu,
còn tiếng nói chuyện của những người trong phòng hay những tiếng động
khác gọi là tiếng động nền. Nhưng khi ta nói chuyện thì tiếng nói mà ta muốn
nghe là tín hiệu, còn tiếng thuyết minh và các tiếng động khác là tiếng động
nền.
- Độ chênh lệch giữa tín hiệu và tiếng động nền là số hiệu của cường
độ âm thanhtín hiệu trừ đi cường độ của tiếng động (trong môi trường nghe)
Tín hiệu Tiếng động nền Độ chênh lệch
75 dB 70 dB 5 dB
70 dB 70 dB 0 dB
70 dB 75 dB -5 dB
- Đối với các phòng học dành cho trẻ khiếm thính: Tiếng động nền <
45dB là tốt nhất.
- Độ chênh lệch giữa tín hiệu và tiếng động nền tốt nhất vào khoảng
115 - 20dB
5.2. Cấu trúc phòng học trong trường có trẻ khiếm thính:
- Âm học: Trẻ khiếm thính đang sử dụng phần thính còn lại với sự hỗ
trợ của máy trợ thính cần có môi trường học yên tĩnh.
- Thiết kế xây dựng phải chắc chắn làm hạn chế tới mức tối đa tiếng ồn
của các phòng học kế liền nhau, giao thông và khu lân cận, thời gian vang
vọng trong phòng.
- Thời gian vang vọng có thể chấp nhận được là 0.5 giây.
- Cấu trúc tường bên ngoài: Tường được xây bằng gạch, nếu có thể 1
một số cửa ra vào, cửa sổ, lỗ thông gió...
- Hướng cửa ra vào, cửa sổ, lỗ thông gió cần vuông góc với nguồn gây
tiếng ồn.
- Cấu trúc tường bên trong: Các tường ngăn cách các phòng phải
tường đôi bằng gạch. Không được mở các cửa, lỗ thông các phòng nhau.
- Ánh sáng: ánh sáng tự nhiên tết cho các phòng học.
- Độ thoáng gió: đầy đủ quạt trần hay các loại quạt khác (quạt cây; quạt
gắn tường...) để tăng cường độ thông gió, điều này cần được thực hiện ở tất
cả các phòng học. Nguồn thông gió chính phải thông qua cửa tường bên
ngoài vuông góc với nguồn gây tiếng ồn chính từ bên ngoài vào.
- Độ an toàn:
Tất cả các cấu trúc phải chắc chắn rằng trẻ được bảo vệ khỏi tất cả
nguy hiểm. Tất cả các ổ điện ở khu vực ẩm ướt. Những phần kính từ dưới 1
mét phải được bảo vệ bằng hàng rào chấn song.
5.3. Môi trường yên tĩnh:
Môi trường xung quanh càng yên tĩnh càng nghe được rõ ràng, nhất là
khi nghe tiếng nói. Trẻ nghe rất khó trong môi trường ồn ào do tiếng động to,
tiếng người trò chuyện, tiếng trẻ con hò hét, tiếng nhạc, tiếng xe... Môi trường
nghe cũng không thích hợp khi trong phòng có nhiều tiếng vang. Để giảm bớt
tiếng ồn gì trẻ nghe dễ dàng hơn ta cố gắng chọn cho trẻ chỗ ngồi càng xa
nơi phát ra âm thanh càng tốt, điều chỉnh âm thanh phát ra từ ti vi, rađiô... khi
có thể. Để giảm bớt tiếng vang, ta có thể sử dụng vật liệu hút âm thanh trong
phòng như sàn nhà trải thảm/chiếu, tường treo rèm vải dày, trần nhà làm
bằng chất liệu hút âm tốt...
- Khoảng cách: Trẻ sẽ nghe ta nói rõ hơn khi khoảng cách giữa ta và
trẻ càng gần càng tốt. Trẻ khiếm thính, ngay cả khi có máy trợ thính có thể
nghe được tốt nhất khi ở gần nguồn âm. Vì vậy, khi sắp xếp lớp học, chúng ta
nên chú ý chỗ ngồi của trẻ khiếm thính sao cho gần giáo viên (xa nhất là 2
mét).
- Giọng nói: to, rõ, tự nhiên, không cường điệu hình miệng, tốc độ nói
vừa phải phù hợp với khả năng ngôn ngữ của trẻ.
Ngoài ra, ta cần lưu ý rằng MTT chỉ là điều hiện cơ bản nhưng không
phải là điều hiện duy nhất để trẻ nghe và nói đuốc dù đó là trẻ khiếm thính
nhẹ hay khiếm thính sâu. Chính việc khuyến khích trẻ thích nghe, thích nói
mới thật sự là nhân tố quan trọng để trẻ phát triển khả năng nghe, hiểu và nói
trong môi trường giao tiếp tự nhiên.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Tín hiệu là gì?
2. Tín động nền là gì?
3. Để tạo điều kiện nghe thích hợp cho trẻ khiếm thính, chúng ta cần
chú ý đến những vấn đề gì về mặt thính học? Phân tích những vấn đề
cần chú ý đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quà tặng của tổ chức Pearl S. BUCK International NIES - MOET
CBM International USAID (2000), Nghe ngay - nghe hay, Viện Tai - Mũi -
Họng TW.
2. Sandy Niemann - Devorah Greenstein - Darlena David (2006), Giúp
đỡ trẻ điếc, sách dành cho cha mẹ và cộng đồng, NXB Lao động - Xã hội.
3. Tài liệu trắc nghiệm (2000), Sách giúp đỡ trẻ khiếm thính, Hà nội.
NỘI DUNG KIẾN TẬP BỘ MÔN TẠI MỘT TRƯỜNG CHUYÊN BIỆT DẠY TRẺ KHIẾM THÍNH
(Sinh viên viết bài thu hoạch sau khi đi kiến tập)
1. Quan sát phòng thính học, cách đo thính lực cho trẻ khiếm thính (đo
đường xương, đường khí, nhĩ lượng và phản xạ cơ xương bàn đạp)?
2. Quan sát môi trường giáo dục cho trẻ khiếm thính (cách bố trí lớp
học, số lượng học sinh, trang trí lớp học...)?
3. Tham khảo hồ sơ thính học và ghi nhận các thính lực đồ của trẻ
khiếm thính?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
1. TS. Lê Thị Minh Hà (2005), Tâm lý học thần kinh (tài liệu bài giảng
dành cho khoá đào tạo Cử nhân CĐSP Giáo dục Đặc biệt của trường CĐSP
Mẫu giáo TW3).
2. BS. Lê Quốc Nam (2003), Sinh lý học thần kinh và các giác quan, tài
liệu bài giảng dành cho khoá đào tạo Cử nhân CĐSP Giáo dục Đặc biệt của
trường CĐSP Mẫu giáo TW3, trang 40-46.
3. Quà tặng của tổ chức Pearl S. BUCK International NIES - MOET
CBM International USAID (2000), Nghe ngay-nghe hay, Viện Tai - Mũi - Họng
TW.
4. Trần Thị Thiệp (2003), Thanh thính học trong giáo dục trẻ khiếm
thính, tài liệu dành cho lớp Cử nhân CĐSP Giáo dục Đặc biệt - Trường
CĐSPMGTW3.
5. Nguyễn Thị Bích Thủy (2002), Bài giảng thính học, Tài liệu dành cho
lớp Cử nhân Giáo dục Đặc biệt - Trường Đại học Sư phạm Hà nội.
6. Ngô ánh Tuyết (1999), Giải phẩu sinh lý trẻ em, Trường CĐSPMG
TW3.
7. Sandy Niemann - Devorah Greenstein - Darlena David (2006), Giúp
đỡ trẻ điếc sách dành cho cha mẹ và cộng đồng, NXB Lao động-xã hội.
8. Cochlear Implants for Children, A guide for parents (Cấy điện cực ốc
tai cho trẻ, tài liệu hướng dẫn phụ huynh).
9. Tài liệu trắc nghiệm (2000), Sách giúp đỡ trẻ khiếm thính, Hà nội.
Tài liệu tiếng Anh:
10. Website: www.deafservice.com.vn
11 Website: www.cochlear.com
12. Website: www.medel.com
13. Website: www.hearingaids.com
14. Website: www.widex.com.vn
15. Speech and 1anguage Assessment and Treatment for Cochlear
Iplantees, HCMC, Oct 16 - 17, 2000.
16. Terry Jennings (1984), Sounds, the young Scientist Investigates,
Oxford.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1 – Bài 1BẢNG THEO DÕI THÍNH GIÁC TRẺ EM
Tuổi Nghe hiểu
Mới sinh Chú ý nghe tiếng nói
Giật mình hoặc khóc khi nghe tiếng ồn
Tỉnh giấc lúc có tiếng động
3 tháng Quay đầu về phía người nói
Cười với người nói chuyện
Ngừng chơi hoặc tỏ ra chú ý đến tiếng động, lời nói
Nhận biết giọng của mẹ
6 tháng Đáp ứng khi gọi tên
Chú ý hoặc tìm nguồn phát âm
Quay đầu về phía nguồn âm
9th -1Tuổi Đáp ứng với các câu đơn giản
Quay đầu hoặc nhìn lên khi gọi
Tìm và nhìn quanh khi có tiếng ồn lạ
Hóng chuyện
1.5 - 2 tuổi Làm theo 2 yêu cầu (lấy quả bóng và đặt lên bàn)
2.5 - 4tuổi Hiểu dễ dàng khi nói chuyện
Nghe được khi ta che miệng
Phân biệt các từ đối lập nghĩa
Chỉ đúng hình tranh khi trẻ gọi
Chú ý đến các tiếng động (gõ cửa, mèo kêu, chó sủa.
5 tuổi Nghe và hiểu hầu hết các câu chuyện trong gia đình
Nghe và trả lời ngay câu hỏi mà không can lặp lại
Nghe giọng nói bình thường
Mọi người thân thuộc đều nghĩ là trẻ bình thường
Phụ lục 2 - Bài 2ÂM THANH
Mỗi ngày, bạn nghe nhiều âm thanh khác nhau. âm thanh được tạo nên
khi có một vật gì đó rung động. Bạn có thể nghe gió thổi qua sự rung chuyển
của cây cối. Bạn có thể nghe mưa tạc vào cửa sổ của nhà bạn. Bạn có thể
nghe tiếng tích tắc của đồng hồ. Bạn nghe được tiếng tích tắc của đồng hồ do
những bộ phận bên trong đồng hồ chuyển động tới lui. Bạn có thể nghe tiếng
chim hót hoặc tiếng khóc của em bé. Những âm thanh đó được tạo nên do
miệng và thanh quản của em bé và chú chim rung động.
Bạn thường nghe tiếng mô, xe tải hay máy bay. Bạn nghe được những
âm thanh đó do động cơ và những bộ phận khác của những loại xe trên
chuyển động.
Khi bạn không nghe âm thanh nào thì đó là lúc yên tĩnh nhất. Hiếm khi
nào có được sự yên tĩnh. Ở nông thôn, thường nghe rõ nhiều loại âm thanh.
Còn ở thành phố thì rất ồn ào.
ÂM THANH GIÚP TA BIẾT THÔNG TIN
Âm thanh giúp chúng ta biết được tất cả các loại thông tin. Khi nghe ai
đó nói chuyện, chúng ta biết họ đang nghĩ gì. Khi nghe người nào đó huýt sáo
hay hát, chúng ta biết họ đang vui vẻ. Khi nghe em bé khóc, chúng ta đoán là
bé đang đói, sợ hãi hay khó chịu. Nếu nghe người nào đang rên rỉ, chúng ta
biết họ đang trong cơn đau quằn quại. Khi nghe chuông điện thoại, chúng ta
biết có ai đó đang muốn nói chuyện với mình. Khi nghe chuông cửa reo,
chúng ta biết có ai ở bên ngoài cửa, Khi nghe đồng hồ báo thức reo, chúng ta
biết đó là lúc phải thức dậy. Khi nghe tiếng còi xe cứu hỏa, xe cảnh sát hoặc
xe cấp cứu thì chúng ta phải biết tránh đường.
Nhiều âm thanh làm cho thế giới của chúng ta đẹp hơn. Hầu hết mọi
người thích nghe tiếng chim hót và nghe nhạc. Âm nhạc làm cho cuộc sống
của chúng ta vui vẻ và rạng rỡ hẳn lên.
NHỮNG ÂM THANH TRẦM, NHỮNG ÂM THANH CAO
Có một vài âm thanh nghe rất lớn. Nhưng cũng có một vài âm thanh rất
khó nghe. Một vài âm thanh nghe rất nhỏ. Một vài âm thanh nghe rất to. Như
chúng ta biết, âm thanh được tạo nên khi một vật gì đó rung động. Âm thanh
có tần số cao khi một vật rung động rất nhanh. Âm thanh có tần số trầm khi
một vật rung động rất chậm.
Chúng ta không thể nghe tất cả âm thanh. Nếu như một âm thanh quá
to hoặc quá nhỏ, chúng ta sẽ không nghe được gì cả. Nhưng một số động vật
có thể nghe được những âm thanh mà con người không thể nghe. Nếu như
một chú chuột con bị lạc, nó sẽ kêu rất lớn để con người không nghe được.
Nhưng chuột mẹ có thể nghe những âm thanh này và đi tìm chuột con.
SÓNG ÂM
Ném một hòn đá xuống ao nước. Những gợn sóng lăn tăn chuyển
thành sóng âm qua bề mặt của nước. Khi một vật rung động làm cho không
khí quanh nó cũng rung động theo. Nếu bạn rung chuông, chuông rung động
làm cho không khí xung quanh nó cũng rung động theo. Chúng ta không thể
nhìn thấy âm thanh do không khí rung động dưới dạng sóng. Chúng ta gọi đó
là sóng âm. Sóng âm di chuyển càng xa càng yếu. Điều đó giải thích tại sao
chúng ta không thể nghe âm thanh ở khoảng cách xa mà chi nghe âm thanh
ở khoảng cách gần.
Một trong những âm thanh lớn nhất mà chúng ta nghe được là tiếng
sấm. Sấm là âm thanh do một tia lửa khổng lồ tạo nên. Sấm di chuyển nhanh
tạo ra sóng âm. Ánh sáng đi nhanh hơn âm thanh. Đó là lí do tại sao trong khi
trời bão, chúng ta thường nghe sấm sau khi chúng ta nhìn thấy tia chớp tạo
ra. Khoảng thời gian giữa việc nhìn thấy ánh sáng và nghe tiếng sấm càng lâu
thì cơn bão càng xa.
ÂM THANH DI CHUYỂN QUA CHẤT RẮN VÀ CHẤT LỎNG
Âm thanh đi nhanh qua chất khí. Nhưng âm thanh đi qua chất rắn và
chất lỏng nhanh hơn. Bạn có thể biết được âm thanh di chuyển tốt qua chất
rắn như thế nào khi bạn đặt tai sát mặt bàn. Rồi lấy móng tay cào lên mặt gỗ.
Bạn có thể nghe tiếng sột soạt khá dễ dàng. Nhưng nếu bạn đặt tai xa mặt
bàn, bạn không thể nghe được tiếng cào.
Cách đây khá lâu người da đỏ (Anh điêng) đã biết rằng âm thanh di
chuyển qua chất rắn (mặt đất) tốt hơn qua không khí. Họ nằm xuống và một
tai đặt sát mặt đất để lắng nghe tiếng kẻ thù. Họ có thể nghe móng guốc của
ngựa va nhau qua mặt đất trước khi họ nghe chúng qua không khí.
Những người thợ lặn nghe được những âm thanh dưới nước rất tốt.
Một người thợ lặn có thể nghe được động cơ của một chiếc thuyền trước
người ở trên cạn.
Những rung động của âm thanh phải đi qua một vật. Âm thanh không
thể đi qua một không gian trống rỗng. Trên mặt trăng không có không khí.
Bạn có thể nói chuyện với ai đó ở rất gần bạn trên mặt trăng nhưng người đó
sẽ không thể nghe tiếng bạn. Ngay khi có một con tàu vũ trụ bay qua, bạn
cũng không nghe được. Trên không gian, nếu chúng ta muốn gửi những
thông điệp cho ai đó, chúng ta phải chuyển những rung động âm thanh thành
tín hiệu rađiô hay tín hiệu điện.
ÂM THANH ĐƯỢC TẠO NÊN NHƯ THẾ NÀO
Âm thanh được tạo nên khi có một vật gì đó rung động. Rung động có
nghĩa là vật đó di chuyển tới lui. Bạn thử đặt một vài hạt cúc nhỏ trên bàn.
Nắm chặt tay của bạn lại rồi đập mạnh lên mặt bàn. Các hạt cúc sẽ nhảy lên
và nhảy xuống. Các hạt cúc nhảy như vậy là do cái bàn rung động lúc bạn
nắm chặt tay đập mạnh lên mặt bàn.
TIẾNG KÊU CỦA ĐỘNG VẬT
Mỗi loài động vật tạo ra những âm thanh theo nhiều cách rất khác
nhau. Hầu hết động vật đều có tiếng kêu. Hầu hết các loài chim và động vật
có vú sử dụng tiếng kêu của nó khá nhiều. Ngay cả cá cũng có thể tạo ra
những tiếng kêu ồm ộp. Thỉnh thoảng, những thủy thủ thức dậy vào ban đêm
khi nằm trên thuyền gỗ của họ do nghe được tiếng kêu ồm ộp của các loài cá.
Những con cóc và ếch chỉ dùng tiếng kêu của nó nhiều khi nó sinh sản.
Còn thỏ thì không thường dùng tiếng kêu của mình. Nhưng loài thỏ sẽ tạo ra
một tín hiệu nguy hiểm bằng cách dẫm chân sau của nó thật mạnh lên đất.
Một con chim gõ kiến lấy miệng của nó mổ nhẹ vào một cây cứng rồi
đặt một nhánh cây khô vào đó để những chim gõ kiến khác biết là nó đã làm
tổ ở đó rồi. Một số côn trùng tạo ra âm thanh bằng cách cọ một chân của nó
vào cánh. Nhiều con châu chấu tạo ra âm thanh theo cách đó. Một con ong
kêu vo ve khi nó bay. Nó tạo ra tiếng kêu do cánh của nó đang đập rất nhanh.
TAI CỦA ĐỘNG VẬT
Nhiều động vật có tai ngoài. Một số động vật có tai ngoài rất lớn. Chó,
mèo, hươu và lừa có tai ngoài lớn. Những động vật tìm thức ăn qua lắng
nghe âm thanh thường có tai ngoài lớn. Do vậy, những động vật này phải
lắng nghe để tránh kẻ thù.
Một số động vật có thể quay tai của nó về phía nguồn âm thanh đang
phát ra. Thỏ có khả năng đó. Khi nguy hiểm đến gần, tai lớn dựng lên cánh
báo.
Một vài động vật có tai ngoài rất nhỏ. Còn rắn, thằn lằn và chim không
có tai ngoài. Tai của chim bị khuất bởi những lớp lông nằm phía sau mắt của
nó. Cả cóc và ếch cũng không có tai ngoài. Màng nhĩ của cóc hay ếch nằm ở
phía đầu đằng sau hai mắt của nó.
TIẾNG VỌNG
Nếu bạn ném một viên đá xuống ao nước, sóng âm lan rộng ra. Nếu
sóng âm chạm phái một vật rắn thì chúng sẽ dội trở lại. Khi âm thanh dội trở
lại, bạn có thể nghe tiếng vọng. Nếu bạn đứng trước một vách đá hoặc toà
cao ốc và hét to lên, thỉnh thoảng bạn nghe tiếng vọng từ giọng của bạn.
Tiếng vọng kéo dài bao lâu tuỳ thuộc vào độ gần mà bạn đứng ở vách đá hay
toà cao ốc. Thông thường bạn nghe thấy tiếng vọng ở dưới gầm cầu hay
dưới đường ngầm.
Nếu bạn ở trong một căn phòng rộng và trống như ở nhà thờ hay hội
trường của một trường học rồi hét to, bạn sẽ nghe được nhiều tiếng vọng.
Những tiếng vọng từ giọng của bạn dội trở lại xung quanh các bức tường và
trần nhà. Có nhiều tiếng vọng làm bạn khó hiểu về những gì mà người kia
đang nói. Có một số cách để làm giảm bớt tiếng vọng là lót các vật liệu hấp
thụ hay hút sóng âm bên trong các bức tường. Có thể dùng rèm, những viên
đá nhỏ, nó hoặc bảng có lỗ và móc để hút ăm. Những vật liệu này thường có
trong đài, ti vi và phòng thu hình để giảm bớt tiếng vọng.
LƯU GIỮ VÀ TRUYỀN ÂM THANH
Đĩa nhạc là nơi lưu giữ những rung động của âm thanh. Những rung
động âm thanh này có thể được dùng đi dùng lại. Nếu bạn nhìn vào đĩa nhạc
bằng thấu kính, bạn có thể nhìn thấy nhiều đường gợn sóng trên đó. Đường
gợn sóng trên đĩa hát là những đường được tạo ra do những rung động của
âm thanh. Những rung động này có thể được nghe trở lại như những âm
thanh nếu mở đĩa nhạc lên.
Máy ghi âm lưu những dao động âm thanh vào một cuộn băng đặc biệt.
Khi bật băng nhạc lên, những dao động chuyển thành âm thanh.
CHÚNG TA NGHE NHƯ THẾ NÀO
Không có tai, chúng ta sẽ không thể nào nghe hết những âm thanh
xung quanh mình. Phần tai mà bạn nhìn thấy không phải là bộ phận quan
trọng nhất để nghe âm thanh. Những phần quan trọng nhất của tai người nằm
trong đầu của bạn.
Phần tai mà bạn nhìn thấy được gọi là tai ngoài. Tai ngoài có nhiệm vụ
hứng sóng âm rồi chuyển sóng âm vào ống tai. Ống tai truyền sóng âm tới
màng nhĩ (màng nhĩ là một lớp màng rất mỏng), sóng âm làm cho màng nhĩ
rung động. Màng nhĩ có nhiệm vụ chuyển những rung động vào 3 xương con
(xương búa, xương đe và xương bàn đạp). Những xương con này mang
những rung động vào một cái ống như vỏ cái ốc sên (ốc tai). Bên trong ống
này là những sợi dây thần kinh nhỏ. Những dây thần kinh này mang những
tín hiệu âm thanh truyền đến não của bạn. Não sẽ thông báo cho bạn biết
chúng ta đã nghe được cái gì.
ÂM THANH CỦA CON NGƯỜI
Con người tạo ra nhiều âm thanh. Chúng ta tạo ra những âm thanh
theo nhiều cách khác nhau. Chúng ta tạo ra âm thanh bằng đôi tay và đôi
chân. Nhưng con người tạo ra âm thanh tiếng nói là chủ yếu.
Giọng nói của bạn phát ra từ thanh quản. Dùng một tay đặt nhẹ lên cổ
của bạn và ậm ừ. Bạn có thể cảm nhặn được sự rung động của dây thanh ở
cổ bạn. Bên trong cổ họng của bạn là thanh quản. Đó là cái cục mà một số
người thường gọi là "quả táo của Adam". Bên trong thanh quản là những nếp
gấp của các cơ mà chúng ta gọi đó là cơ quan phát âm. Khi chúng ta muốn
nói hay hát, chúng ta làm cho cơ quan phát âm rung động. Chúng ta làm
được điều đó do không khí từ phổi đi qua cơ quan phát âm. Khi dây thanh
rung động, sẽ tạo ra âm thanh. Chúng ta có thể thay đổi cách làm cho cơ
quan phát âm rung động. Khi chúng ta muốn tạo ra một giọng cao thì cơ quan
phát âm rung động nhanh. Còn khi cơ quan phát âm rung động chậm thì
giọng thấp. Chúng ta thay đổi vị trí của miệng và lưỡi để làm những âm thanh
giọng nói của mình thành tiếng nói.
NHẠC CỤ
Nếu bạn đặt một dây cao su quanh các ngón tay, bạn có thể làm cho nó
rung động. Dây cao su rung động do không khí xung quanh nó rung động. Nó
tạo ra một âm thanh nghe giống như nhạc. Nhưng nếu bạn đặt dây cao su
quanh cái hộp, bạn sẽ nghe được tiếng nhạc lớn hơn nhiều. Khi bạn kẻo sợi
dây cao su thì cái hộp và không khí bên trong nó rung động. Đồng thời, nó
cũng làm cho không khí xung quanh hộp rung động. Vì vậy, bạn nghe âm
thanh lớn hơn nhiều.
Đàn ghi ta thật ra là một cái hộp (thùng đàn) có các dây gắn lên nó. Khi
bạn gảy, các dây đàn rung làm cho thùng đàn rung theo. Thùng đàn rung sẽ
làm cho không khí xung quanh rung và tạo ra âm thanh lớn.
Đàn vi-ô-lông (vĩ cầm) gần giống như đàn ghi ta. Nhưng thay vì dùng
các ngón tay để gảy thì người ta dùng cây vĩ để kẻo trượt trên các dây đàn
tạo nên sự rung động.
Tất cả các nhạc cụ đều tạo ra sự rung động.
MỘT SỐ NHẠC CỤ KHÁC
Có một cách làm giọng của mình vang xa là khum hai tay che miệng lại.
Khi bạn hét, đôi tay bạn làm ngăn cản sóng âm loan ra các hướng, do đó
giọng của bạn vang đi xa. Nhiều nhạc cụ hơi có hình dạng mở giống như cái
loa để ngăn cản âm đi ra. Nhạc cụ hơi tạo ra âm thanh khi không khí đi vào
chúng. Không khí bên trong nhạc cụ rung động và tạo ra âm thanh của tiếng
nhạc đó. Còn kèn tuba, người chơi phải làm cho môi rung lên. Khi đó không
khí bên trong kèn rung lên.
Khi đập mạnh vào mặt trống, mặt trống rung động. Mặt trong căng trên
một cái thùng rỗng, cái thùng trống rung lên theo. Và do đó không khí xung
quanh cái trống cũng rung động. Chúng ta nghe được âm thanh rất lớn.
Còn đàn piano, khi ấn các phím đàn, đầu cần nhỏ của đàn chuyển
động. Những đầu cần này chạm vào những sợi dây bên trong đàn. Do đó các
dây đàn rung. Các dây rung làm cho cả hệ thống đàn rung lên.
SỬ DỤNG TIẾNG VỌNG
Dơi bay quanh khi trời nhá nhem tối. Thỉnh thoảng, bạn có thể nhìn
thấy chúng trong bụi vào những buổi tối mùa hè. Loài dơi có thị lực rất kém.
Nhưng ít khi dơi va vào bất kì vật gì. Khi dơi bay, nó tạo ra âm thanh có tần
số cao. Những âm thanh đó cao đến nỗi mà con người không nghe được.
Những âm thanh đó dội vào các vật và dội ngược trở lại vào tai lớn của dơi.
Do đó, khi nghe tiếng vọng, dơi biết chính xác vật đó đang ở đâu. Thậm chí,
dơi có thể bắt được những côn trùng rất nhỏ qua tiếng vọng dội vào khi chúng
kêu.
Cá heo sống dưới biển chỗ mà nước thường rất đục và đen tối. Chúng
cũng có cách riêng của mình và tìm thức ăn bằng cách tạo ra âm thanh. Khi
cá heo bơi, nó tạo ra âm thanh có tần số rất cao. Những âm thanh này dội
vào vách đá hoặc cá dưới nước.
Nhờ có tiếng vọng, những con tàu biết được những thứ dưới nước. Âm
thanh phát ra từ đáy của con tàu. Âm thanh dội trở lại ở dưới biển sâu âm
thanh đến tàu càng xa thì nước càng sâu. Âm thanh sẽ dội trở lại một đàn cá
lớn. Và vì thế, những thuyền đánh cá biết nên thả lưới xuống chỗ nào để bắt
được cá.
Điện thoại sử dụng điện để mang âm thanh đi. Những âm thanh đó
chuyển thành những tín hiệu điện. Những tín hiệu này truyền đi khắp thế giới.
Trong phòng phát thanh, những âm thanh chuyển thành những tín hiệu
ti vi hoặc đài. Những tín hiệu này được gửi qua không khí. Ăng ten gắn ở ti vi
hay đài nhận những tín hiệu đó. Trong đài, những tín hiệu rađiô được chuyển
thành những âm thanh. Trong ti vi những tín hiệu biến thành âm thanh và
hình ảnh.
Ô NHIỄM TIẾNG ỒN
Tiếng ồn là âm thanh mà mọi người không mong muốn hoặc không ưa
thích. Tiếng ồn từ xe hơi, máy bay, máy móc và ti vi, đài.. Tiếng ồn là một loại
ô nhiễm. Tiếng ồn làm ta mất ngủ và đau ốm. Tiếng ồn quá lớn sẽ làm tổn
thương màng nhĩ. Màng nhĩ mỏng như tờ giấy và rất dễ bị thủng. Những
người làm việc ở những nơi có tiếng ồn phải mang đôi bao tai để bảo vệ đôi
tai.
Ở những thành phố và thị trấn lớn, máy bay phản lực không được phép
đậu hoặc cất cánh vào suốt đêm. Xe hơi, xe máy và xe tải đều được gắn thiết
bị hãm thanh giúp động cơ của xe ít nổ to.
Kiến trúc sư có thể nghĩ ra cách để làm giảm tiếng ồn. Lắp hai lớp
kiếng vào cửa sổ để giám tiếng ồn. Các lớp học và cơ quan làm việc trải thảm
lên sàn sẽ yên tĩnh hơn những sàn phẳng, cứng. Để làm giảm tiếng ồn giữa
các phòng và cơ quan, chỗ lõm giữa các bức tường thường lắp nhựa xốp
hoặc các vật liệu mềm khác. Các vật liệu mềm giúp tránh được những dao
động gây âm thanh. Nếu chúng ta muốn sống hạnh phúc và có sức khoẻ thì
nên sống ở nơi yên tĩnh và thanh bình.
Phụ lục 3 - Bài 3ĐO THÍNH LỰC
Trong phần này, chúng tôi sẽ đề cập tới những test sàng lọc và test
chẩn đoán.
Mục tiêu của test sàng lọc là phát hiện ra những trẻ có thể có vấn đề về
sức nghe.
Mục tiêu của test chẩn đoán là sau khi phát hiện ra một trẻ có thể có
vấn đề về sức nghe, tiếp tục tìm ra những thông tin chi tiết hơn để hiệu chỉnh
máy trợ thính được chính xác.
Đo sàng lọc
Sàng lọc trẻ sơ sinh
Những test khách quan (electrophysiological tests)
Ở nhiều nước, test sàng lọc được thực hiện một cách thường nhật để
phát hiện ra những trẻ có thể có vấn đề về sức nghe. Chúng ta đã biết rằng
càng hỗ trợ trẻ được sớm bao nhiêu thì kết quả càng tốt bấy nhiêu.
Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển cho phép thực hiện việc khám
sàng lọc ở trẻ sơ sinh ngay sau khi sinh vài giờ. Có thể sử dụng hai bộ thiết bị
khác nhau để khám sàng lọc:
AABR (Đo điện thính giác thân não tự động): thiết bị đo hoạt động của
não phản xạ đối với âm thanh.
OAE (âm ốc tai): thiết bị đo sự phản xạ của ốc tai đối với âm thanh
bằng cách đo âm vang vọng của ốc tai khi có kích thích âm thanh. Cả hai thiết
bị trên đều không cần sự cộng tác của trẻ. Thực tế AABR cho kết quả chính
xác hơn nếu kiểm tra lúc trẻ ngủ. Kết quả khám sàng lọc bằng hai thiết bị
dưới dạng: đạt/không đạt [pass/fail].
Ở một vài nước trên thế giới, người ta đang sử dụng hai loại thiết bị này để
khám sàng lọc đại trà.
Ở việt Nam, chương trình khám sàng lọc trẻ sơ sinh đang được triển
khai thí điểm tại Bệnh viện Xanh Pôn, Hà Nội với sự kết hợp của Tổ Giáo dục
trẻ khiếm thính, thuộc Trung tâm Đào tạo và Phát triển Giáo dục Đặc biệt,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Ghi danh sách trẻ có nguy cơ cao
Khiếm thính có thể do một số nhân tố trước khi sinh mang lại. Ví dụ: mẹ
bị Rubella trong thời kỳ mang thai có nguy cơ làm cho ốc tai trẻ bị tổn thương
ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Một ví dụ khác là tiền sử gia đình có
người bị khiếm thính tiếp nhận bẩm sinh.
Trước khi sinh, bà mẹ có thể trả lời các câu hỏi trong phiếu hỏi. Những
thông tin thu thập được được phân tích xem có thể có những nhân tố nguy cơ
nào. Tại thời điểm sinh và ngay sau khi sinh, có thể quan sát để có được
những thông tin xem trẻ có những yếu tố nguy cơ bị khiếm thính hay không.
Ví dụ: trường hợp sinh khó, trẻ bị thiếu ôxy trong thời gian dài có thể làm tổn
thương thính giác của trẻ. Trường hợp sinh non với cân nặng dưới 1500 gam,
cũng là một nhân tố có nguy cơ dẫn đến trẻ bị khiếm thính.
Mục tiêu của việc ghi danh sách trẻ có nguy cơ cao là phát hiện ra
những trẻ có thể có khả năng bị khiếm thính để tiếp tục có những kiểm tra tiếp
theo.
Nghiệm pháp Ewing
Khoảng bảy tháng tuổi, trẻ có khả năng quay đầu về phía nguồn âm. Vì
vậy, ở tuổi này hoàn toàn có thể triển khai khám sàng lọc tật khiếm thính một
cách chính xác bằng cách sử dụng một test rất đơn giản như sau:
Trẻ được ngồi vào lòng mẹ và hướng mặt vào một người quan sát
người hướng sự chú ý của trẻ về phía trước. Người thứ hai, người kiểm tra
phát ra âm thanh ở phía sau mỗi bên trẻ, ngoài tầm nhìn của trẻ. Âm thanh
người kiểm tra phát ra có thể là những âm thanh rất đơn giản như sử dụng
giọng có tần số trầm như "mâm mâm" và tần số cao như "sssssss". Hoặc có
thể sử dụng những dụng cụ như một cái xúc xắc đặc biệt có tần số cao, một
cái chuông có tần số trung và giọng "mâm mâm" có tần số trầm.
Người kiểm tra phát ra âm thanh có cường độ tương đối nhẹ (khoảng
30 dB). Nhiệm vụ của người quan sát là ghi lại sự phán ứng của trẻ. Nếu trẻ
không có những phản ứng thích hợp như quay đầu về phía có âm thanh
(kiểm tra cả 2 bên tai) thì được chuyển để được kiểm tra tiếp theo.
Khám sàng lọc tuổi mầm non:
Trẻ tuổi mẫu giáo có thể khám sàng lọc bằng máy đo sức nghe. Máy đo
sức nghe là một thiết bị có thể phát ra những âm thanh qua cái chụp tai.
Người kiểm tra có thể thay đổi tần số và cường độ âm thanh. Khi khám sàng
lọc sử dụng máy đo sức nghe, trẻ được yêu cầu phản ứng khi nghe thấy âm
thanh: Trẻ có thể phản ứng bằng cách cho một viên bi vào hộp hay đơn giản
hơn là giơ tay lên khi nghe thấy âm thanh. Làm theo cách này gọi là đo kết
hợp trò chơi. Cường độ âm thanh thông thường ở mức 25-30 dB và kiểm tra
ở các tần số 500Hz, 1000Hz, 2000Hz và 4000Hz.
Kết quả cuối cùng chỉ ghi lại đơn giản là đạt/ không đạt. Nếu trẻ không
đạt, cần phải hiểm tra lại.
Đo chẩn đoán:
Thực hiện test chẩn đoán nhằm hai mục đích. Một là tìm ra mức độ
giảm thính lực, hai là xác định được vị trí tổn thương của hệ thống thính giác.
Nói cách khác, đo chẩn đoán xác định xem tổn thương ở tai ngoài và tai giữa
(liên quan đến khiếm thính dẫn truyền) hay ở tay trong (liên quan đến khiếm
thính tiếp nhận) hoặc tổn thương cả ở phần dẫn truyền và ở trong ốc tai liên
quan đến khiếm thính hỗn hợp - hay một phần khiếm thính dẫn truyền và một
phần khiếm thính tiếp nhận.
Đo mức độ khiếm thính - Phản xạ điện thính giác thân não - ABR.
Sử dụng một thiết bị tương tự như khám sàng lọc ABR. Đây là một test
khách quan và rất có ích để kiểm tra những trẻ còn rất nhỏ chưa có khả năng
cộng tác để xác định ngưỡng nghe trong trường tự do, đường xương hay
đường khí. Trong một số trường hợp, ABR cũng có thể được dùng đối với
những trẻ lớn hơn, ví dụ: trẻ chậm phát triển trí tuệ - những trẻ mà không
cộng tác trong những nghiệm phát đo thông thường.
Đo mức độ khiếm thính - khi không đeo máy trợ thính - đường khí:
Chúng ta biết khoảng nghe được của người bình thường. Chúng ta biết
những âm thanh nhỏ nhất mà người nghe được bình thường ở mỗi tần số
(250 Hz, 500 Hz, 1000 Hz, 2000 Hz và 4000 Hz). Những tần số này được lựa
chọn vì chúng nằm trong dãi tần lời nói. Khi môi trường nghe yên tĩnh, người
bình thường có thể nghe được những âm thanh tương đối nhỏ, dưới 20 dB.
Đo mức độ khiếm thính được thực hiện trong một phòng cách âm.
Những âm kiểm tra được phát ra qua cái chụp tai [headphone]. Trước khi đeo
headphone và trước khi đo, nhà thính học tìm hiểu thông tin từ phụ huynh
xem trẻ nghe được những âm thanh gì. Nhà thính học cũng cố gắng "trò
chuyện" với trẻ để tìm hiểu về chức năng nghe của trẻ. Sau đó, nhà thính học
sẽ hướng dẫn bằng lời với trẻ hoặc làm minh hoạ với mẹ cho trẻ quan sát.
Đối với trẻ lớn hơn, có thể yêu cầu trẻ phản ứng bằng cách giơ tay lên mỗi khi
nghe thấy âm thanh.
Trước khi đo, nhà thính học đã có được những thông tin sơ bộ về tình
trạng nghe của trẻ. Đeo chụp tai vào cho trẻ. Nhà thính học sẽ điều chỉnh máy
để kiểm tra từng tai một. Âm thanh kiểm tra được phát ra ở tần số và cường
độ mà theo nhà thính học trẻ sẽ nghe được.
Khi trẻ có phản ứng đáng tin cậy, cường độ âm thanh được giảm dần
để xác định mức độ cường độ âm thanh nhỏ nhất mà trẻ có thể nghe được.
Cường độ âm thanh nhỏ nhất là trẻ nghe được gọi là ngưỡng nghe. Mức độ
này được đánh dấu vào tần số tương ứng của thính lực đồ. Trong thính lực
đồ, trục biểu diễn cường độ có đơn vị là do HL (mức độ nghe). Nhà thính học
lặp lại tiến trình đo trên ở mỗi tần số. Ngưỡng nghe ở từng tần số được ghi lại
vào thính lực đồ. Tương tự như vậy, đo bên tai đối diện. Thông thường,
ngưỡng nghe bên tai phải được đánh dấu bằng những dấu khuyên tròn "o"
màu đỏ, ngưỡng nghe bên tai trái được đánh dấu bằng dấu "x" màu xanh.
Đây là một thính lực đồ của một trẻ khiếm thính mức độ vừa cả hai bên
tai.
Đo mức độ khiếm thính - không có máy trợ thính - trường tự do
Trẻ còn nhỏ có thể từ chối không đeo cái chụp tai hoặc đầu còn quá
nhỏ để đeo vừa cái chụp tai. Những trẻ lớn hơn, ví dụ trẻ với tật khác, vì một
số lý do nào đó mà không thể đeo được cái chụp tai. Đối với những trẻ này,
khi đo có thể tạo ra những âm thanh phát qua những cái loa. Cách đo cũng
tương tự như đo đường khí. Ngưỡng nghe được ghi vào thính lực đồ đo ở
trường tự do có đơn vị cường độ âm thanh là do SPL (mức độ áp suất âm
thanh).
Đo ở trường tự do còn được thường dùng để đo đối với những trẻ khi
đeo máy trợ thính. Khi đeo máy trợ thính, trẻ không thể nào đeo cái chụp tai
được nữa. Kết quả đó cũng được ghi vào thính lực đồ đo ở trường tự do khi
không đeo máy nhưng với dấu hiệu khác nhau.
Đối với trẻ còn nhỏ, sau khi trẻ được 6 - 7 tháng tuổi, trẻ có thể được
đo sức nghe ở trường tự do. Trước 24 - 30 tháng tuổi, trẻ chưa cộng tác để
đo sức nghe có kết hợp trò chơi được, bởi vậy nhà thính học sẽ gây điều kiện
để trẻ có thể phản ứng với âm thanh một cách chính xác.
Cách làm như sau:
Như nghiệm pháp Ewing, trẻ được ngồi trong lòng mẹ và một người lôi
cuốn sự chú ý của trẻ về phía trước. Âm thanh được phát ra từ cái loa. Nhà
thính học phát ra âm thanh đủ lớn để trẻ có thể nghe thấy được. Trên định
của cá loa, có những đồ chơi mà nhà thính học có thể điều khiển cho chiếu
sáng được. Ngay sau khi phát ra âm thanh, đồ chơi được chiếu sáng và sự
chú ý của trẻ được hướng về phía đồ chơi. Nhà thính học làm như vậy một
vài lần để hình thành phán xạ có điều kiện ở trẻ, khi trẻ có phản xạ định
hướng (quay đầu) đáng tin cậy, cường độ âm thanh được giảm dần cho tới
khi tìm được ngưỡng nghe của trẻ. Thực hiện tương tự đối với từng tần số. Vì
trẻ còn nhỏ, thời gian chú ý còn giới hạn, có thể mỗi lần đo chỉ xác định được
ngưỡng nghe ở một hoặc hai tần số nên có khi phải đo vài lần mới có được
một thính lực đồ hoàn chỉnh.
Đo xác định vị trí tổn thương cơ quan thính giác
Đường khí và đường xương:
Sau khi đo đường khí, nhà thính học có thể đo sức nghe của trẻ bằng
đường xương. Nhà thính học đặt một khối rung ở phía sau tai trẻ. Âm thanh
được phát ra truyền qua khối rung đó. Những rung động được truyền qua da
vào thẳng ốc tai. Cách đó giống như đo đường khí. Kết quả đo được ghi cùng
với thính lực đồ đo đường khí. Ngưỡng nghe đường xương được xác định ở
từng tần số. Nhà thính học so sánh kết quả đo đường khí và kết quả đo
đường xương.
Đo đường khí tức là kiểm tra toàn bộ hệ thống nghe. Những dao động
sóng âm được phát ra từ cái chụp tai truyền vào không khí trong ống tai,
màng nhĩ rung động, làm rung động chuỗi xương con trong tai giữa, các tế
bào lông trong ốc tai cũng rung động và các tín hiệu được truyền theo dây
thần kinh thính giác lên não.
Đo đường xương thì không tính đến phần tai ngoài và tai giữa bởi vì
âm thanh được truyền trực tiếp vào ốc tai và làm rung động các tế bào lông
trong ốc tai rồi các tín hiệu được truyền theo đây thần kinh thính giác lên não.
Bằng việc so sánh kết quả đo đường khí và kết quả đo đường xương,
nhà thính học có thể kết luận đó là khiếm thính dẫn truyền, khiếm thính tiếp
nhận hay khiếm thính hỗn hợp. Có ba khả năng có thể xảy ra:
- Kết quả đo đường khí cho thấy có bị giảm sức nghe nhưng kết quả đo
đường xương cho thấy không bị giảm sức nghe. Điều này có nghĩa là ốc tai
hoạt động bình thường, chỉ có tai ngoài hoặc tai giữa có vấn đề. Đây là khiếm
thính dẫn truyền.
- Kết quả đo đường khí và đường xương cho thấy có cùng mức độ
giảm sức nghe. Điều này có nghĩa là ốc tai có vấn đề, còn tai ngoài và tai
giữa thì bình thường. Đây là khiếm thính tiếp nhận.
- Kết quả đo đường khí cho thấy có bị giảm sức nghe. Kết quả để
đường xương cũng cho thấy bị giảm sức nghe. Mức độ giảm sức nghe
đường khí cao hơn đường xương. Điều này có nghĩa là ốc tai có vấn đề và cả
tai ngoài và tai giữa cũng có vấn đề. Đây là khiếm thính hỗn hợp - một phần
khiếm thính dẫn truyền và một phần khiếm thính tiếp nhận.
Đo nhĩ lượng
Đây là phép đo khách quan không cần theo dõi sự phán ứng của trẻ.
Đo nhĩ lượng đánh giá chức năng của tai giữa (màng nhĩ và ba xương con).
Trước tiên, nhà thính học sẽ kiểm tra tai trẻ bằng đèn soi tai. Với dụng cụ này,
nhà thính học có thể nhìn thấy ống tai và màng nhĩ. Bằng cách soi tai, nhà
thính học có thể biết được các phần nhìn thấy có bình thường hay không bình
thường.
Đo nhĩ lượng, nhà thính học cho dầu rỏ vào trong tai và chỉ sau vài giây
kết quả đo sẽ được hiện lên màn hình cho biết chức năng tai giữa như thế
nào. Nếu hệ thống tai giữa bình thường thì sẽ cho kết quả dạng "A". Nếu tai
giữa có chất dịch làm cản trở sự rung động của màng nhĩ sẽ cho kết quả
dạng "B". Trong một vài trường hợp, áp suất không khí ở tai giữa âm làm cho
màng nhĩ bị kẻo vào phía trong, làm cho kết quả nhĩ lượng đồ dạng "C". Kết
quả đo nhĩ lượng cũng cho ta biết những thông tin xem màng nhĩ có lỗ thủng
hay không.
Đo phản xạ cơ xương bàn đạp
Sử dụng máy đo nhĩ lượng để đo phản xạ cơ xương bàn đạp. Ở tai
bình thường, một âm thanh > 65 dB sẽ làm cho cơ xương bàn đạp có phản
xạ co lại, điều này làm cho màng nhĩ bị kéo căng ra. Đo nhĩ lượng để xem có
phán xạ này hay không. Nếu tai giữa có vấn đề thì sẽ không thấy phản xạ
này. Phép đo này chủ yếu dùng để kiểm tra lại những thông tin thu được từ
việc soi tai, đo sức nghe và đo nhĩ lượng.
Đo điện thính giác thân não ABR
Kết quả đo điện thính giác thân não ABR có thể cho biết việc giảm sức
nghe có phải là do hệ thống dây thần kinh thính hay không.
Câu hỏi và trả lời về khám sàng, chẩn đoán và thính lực đồ
Sử dụng kỹ thuật:
Câu hỏi: Tại sao lại sử dụng những máy móc có thiết bị kỹ thuật cao và
rất đắt tiền trong khi hệ thống ghi danh sách những trẻ có nguy cơ bị khiếm
thính lại rất đơn gián và rẻ tiền?
Trả lời: Có một nhược điểm của phương pháp sàng lọc bằng cách ghi
danh sách những trẻ có nguy cơ bị khiếm thính là chỉ có khoảng 50 % trẻ bị
khiếm thính có thể biết được nguyên nhân, còn 50 % là không biết được
nguyên nhân gây khiếm thính. Như vậy, nếu sàng lọc theo cách này thì tối đa
cũng chỉ phát hiện được khoảng 50 % số trẻ bị khiếm thính mà thôi (nhưng tất
nhiên 50 % còn hơn là 0 %). Việc quản lý hành chính của việc ghi danh sách
những trẻ có nguy cơ bị khiếm thính có lẽ cũng tốn kém bằng việc khám sàng
lọc theo phương pháp khác.
Nghiệm pháp Ewing:
Câu hỏi: Tại sao không chỉ sử dụng nghiệm pháp Ewing để khám sàng
lọc? Chắc chắn chi phí cho cách này sẽ thấp.
Trả lời: Nghiệm pháp Ewing sẽ rất có lợi nếu người kiểm tra được
huấn luyện kỹ càng và có nhiều kinh nghiệm. Nhược điểm lớn nhất nếu sử
dụng nghiệm pháp này là: chúng ta biết rằng nếu can thiệp sớm trước 6 tháng
tuổi thì sẽ có được kết quả tốt nhất trong khi đó chỉ có thể áp dụng nghiệm
pháp này đối với trẻ đã hơn 6 tháng tuổi.
Điện thính giác thân não ABR
Câu hỏi: ABR là một thiết bị đo khách quan. Trẻ còn nhỏ thường khó
cộng tác để đo sức nghe bằng các phương pháp khác. Tại sao không chỉ sử
dụng ABR để đo?
Trả lời: Bằng các phương pháp đo thông thường cũng có thể cho kết
quả đo rất chính xác. Các phương pháp đo thông thường không cần phải có
những thiết bị đắt tiền. Để đo được ABR trẻ phải trong trạng thái ngủ. Khi còn
rất nhỏ, trẻ ngủ rất tự nhiên (ví dụ sau khi bú). Đối với trẻ lớn hơn, để có thể
có thời gian ngủ để đo thì sẽ gặp khó khăn. Một số phụ huynh rất phản đối với
việc dùng thuốc an thần cho trẻ ngủ.
Những thông tin từ phụ huynh và giáo viên
Câu hỏi: Thế còn những thông tin từ gia đình về sức nghe của trẻ?
Trả lời: Những quan sát của gia đình là nguồn không thể thiếu được về
những thông tin phán ánh sức nghe của trẻ. Đối với những trẻ lớn hơn thì
những thông tin của giáo viên cũng rất quan trọng.
Nhiệm vụ của nhà thính học là tìm ra một bức tranh đầy đủ về sức nghe
của trẻ. Điều này có thể thu thập được qua những kết quả đo ở trung tâm
thính học, việc quan sát trực tiếp của nhà thính học, những thông tin từ cha
mẹ và giáo viên về cách trẻ phản ứng với âm thanh trong cuộc sống thường
nhật.
Một nhà thính học tốt luôn tìm kiếm những thông tin qua việc quan sát
trẻ từ phía gia đình.
Phụ lục 3 - Bài 3 phần 3.2HỘI CHỨNG WAARDENBURG
Hội chứng Waardenburg lần đầu tiên được nhà di truyền học cùng tên
người Hà Lan mô tả một cách đầy đủ vào năm 1951. Nguyên nhân mắc hội
chứng này là do di truyền (trên trội quy định).
Những biểu hiện mang hội chứng Waardenburg
Một số biểu hiện Tần suất xuất hiện trong số người
mang hội chứng
Chỏm tóc bạc (thường có ở trán). 20%
Khoé mắt trong bất bình thường (khóe mắt trong và
điểm lệ chuyển sang bên, ra phía ngoài).
100%
Mống mắt thường kém phát triển (như), khác màu
nhau, nếu soi đáy mắt có một vùng bị trắng.
45%
Gốc mũi bè ra, khoảng giữa hai khoé mũi tăng. 75%
Phần trong lông mày quá phát triển. 50%
Tóc bạc sớm nhưng màu khác với màu tóc bạc bình
thường
50%
Bạch tạng: trên cơ thể có thể có những vùng da trắng
với những hình dạng khác nhau.
<10%
Khiếm thính tiếp nhận ngay khi sinh, có thể khiếm
thính vừa hay nặng ở một hoặc hai bên tai, loại khiếm
40 - 50 %
thính không tiến triển.
Không phải bất cứ người nào có hội chứng Waardenburg đều thể hiện
ra ngoài tất cả các đặc tính trên.
Sự ảnh hưởng đáng chú ý nhất là sự giảm thính lực còn hầu hết những
biểu hiện bên ngoài khác của hội chứng Waardenburg không ảnh hưởng đến
đời sống của đứa trẻ.
Tần suất mắc phải hội chứng Waardenburg là 1/35.000 trong tổng số
dân.
Có 0.9 đến 3% trong số trẻ bị khiếm thính là do nguyên nhân này.
Phụ lục 3 – Bài 3 phần 3.2HỘI CHỨNG USHER
Hội chứng Usher là gì?
Hội chứng Usher là bệnh di truyền gây nên sự mất thính lực và tiến
trình mất dần thị lực do viêm võng mạc sắc tố. Độ mất thính lực được xếp loại
từ mức độ nhẹ nhất đến mức độ nặng nhất và có thể chẩn đoán được khi trẻ
còn rất nhỏ. Những khó khăn về thị lực được nhận biết một cách rõ ràng ở
lứa tuổi vị thành niên. Tuy nhiên, có những đứa trẻ bị khiếm thính nặng
thường phát triển bệnh viêm võng mạc sắc tố ở mười năm đầu. Trẻ vừa bị
bệnh viêm võng mạc sắc tố vừa bị thính lực thì có ảnh hưỏng rất lớn đến khả
năng giao tiếp và khá năng vận động.
Hội chửng Usher truyền bệnh như thế nào?
Hội chứng Usher được xem là bị ảnh hưởng rối loạn của gen lặn. Điều
đó có nghĩa là nếu một người có 2 đến hội chứng Usher, một gen của cha và
một đen của mẹ thì người đó bị mắc bệnh. Khi cả cha lẫn mẹ đều mang mầm
bệnh thì mỗi đứa con của họ sẽ có ít nhất 25% khả năng mắc bệnh này.
Hội chứng Usher được chẩn đoán như thế nào?
Trẻ bị khiếm thính bẩm sinh và kèm theo bệnh viêm võng mạc sắc tố.
Phần lớn trẻ bị bệnh hội chứng Usher đều bị khiếm thính sâu. Sự quan sát về
những biểu hiện này cho ta thấy rằng:
- Triệu chứng đầu tiên của viêm võng mạc sắc tố là bệnh quáng gà sức
nhìn kém vào buổi tối hoặc nơi thiếu ánh sáng. Bệnh này kèm theo tầm nhìn
bị giới hạn. Trẻ chỉ nhìn được rõ ràng ở vùng trọng tâm và sẽ gặp khó khăn
khi vùng thị giác mở rộng tầm nhìn của trẻ. Trẻ gặp khó khăn trong việc thích
nghi với nguồn sáng thay đổi đột ngột (Ví dụ: khi trẻ từ trong nhà bước ra
ngoài và ngược lại, nghĩa là từ nơi có nguồn ánh sáng mát dịu chuyển sang
vùng ánh sáng chói chang).
- Trẻ khiếm thính có thêm khó khăn do tầm nhìn bị hạn hẹp sẽ có
những biểu hiện sau:
+ Dễ va chạm vào người khác.
+ Trượt ngã và vướng chân vào những đồ vật để dưới tầm nhìn.
+ Khi làm rơi một đồ vật thì khó xác định được vị trí để tìm lại.
- Trẻ bị giới hạn về tầm nhìn, giảm thị lực thường bị hạn chế về khả
năng đọc hình miệng và tiếp nhận ngôn ngữ dấu. Trẻ cũng gặp khó khăn về
vấn đề giao tiếp (trẻ không nhận ra người quen khi gặp trên đường).
- Trẻ khó thích ứng trong điều kiện thiếu ánh sáng hoặc ánh sáng quá
chói, tiếng ồn cũng như khoảng cách không thích hợp.
Những ảnh hưởng của hội chứng Usher
- Những trẻ bị khiếm thính bẩm sinh được chẩn đoán sớm là bệnh viêm
võng mạc sắc tố. Thường ở giai đoạn này những triệu chứng của viêm võng
mạc sắc tố chưa thể hiện rõ ràng. Những biểu hiện khó khăn về thị giác sẽ
tăng dần theo quá trình phát triển của trẻ ở tuổi đến trường đến tuổi trưởng
thành.
- Ở tuổi nhỏ trẻ thể hiện khả năng thăng bằng kém, nên trẻ biết đi chậm
(từ 15 đến 3 tháng tuổi).
- Trẻ không thấy được đồ vật trên sàn nhà.
- Trẻ ở tuổi đến trường thường vụng về và ít thành công trong những
trò chơi cần có kỹ năng nhanh nhẹn, chính xác. Do đó, trẻ thường thiếu tự tin
và mặc cảm.
- Những hoạt động ở trường cần phái có sự hướng dẫn và lựa chọn
cho phù hợp với khả năng của trẻ.
- Trẻ khó nhận được mặt chữ trên bảng đen khi có sự phản chiếu ánh
sáng hoặc màu phấn và màu của bảng không có sự tương phản nhau rõ rệt.
Ví dụ: giáo viên sử dụng màu phấn xanh nhạt mà tấm bảng sơn màu sáng thì
trẻ không nhận ra mặt chữ.
- Trẻ sử dụng ngôn ngữ dấu để hỗ trợ thêm cho khả năng nghe và
hiểu, trong trường hợp này trẻ sẽ gặp khó khăn khi theo dõi bài giảng của
thầy. Khi thầy giáo đi đi lại lại giảng bài trong lớp hoặc chỗ ngồi của trẻ được
xếp nơi có ánh sáng không thích hợp.
- Bệnh quáng gà còn ánh hưởng đến đời sống xã hội của trẻ ở tuổi
trưởng thành. Trẻ không thể tham gia vào những buổi tối hội họp vui chơi giải
trí với bạn bè cùng trang lứa vì môi trường ánh sáng không thích hợp với trẻ.
- Cùng với sự giảm bớt tầm nhìn, khả năng phân biệt màu sắc cũng bị
ánh hưởng. Đặc biệt với việc so sánh màu sắc (Ví dụ: một cái tách trắng để
trên bàn màu trắng).
- Mặc dù sự bắt đầu mạnh mẽ của triệu chứng của bệnh viêm võng
mạc sắc tố có khác nhau giữa trẻ này và trẻ khác nhưng thường là bệnh
quáng gà và sự giới hạn tầm nhìn có thể biểu hiện ở tuổi đến trường.
- Có sự thay đổi về tỉ lệ thoái hoá của thị lực và kết quả cuối cùng của
nó. Nghĩa là tùy theo mức độ thoái hoá của thị lực có người có thể duy trì sức
nhìn đến cuối cuộc đời. Một số người khác hầu như mất thị lực hoàn toàn và
bị mù ở tuổi trung niên hoặc tuổi già. Hiện nay, không có thuốc điều trị bệnh
viêm võng mạc sắc tố hoặc bất cứ loại thuốc nào để ngăn chặn ảnh hưởng
của bệnh này.
- Để giúp trẻ có thể tận dụng sức nghe còn lại và phát triển ngôn ngữ
bình thường. Điều quan trọng nhất là phải được chẩn đoán sớm và đeo máy
trợ thính thích hợp cùng với sự hỗ trợ đúng lúc của môi trường sư phạm ở
tuổi đến trường:
+ Lớp học phải có đầy đủ ánh sáng, ánh sáng thích hợp không dùng
đèn sáng chói.
+ Không để ánh sáng mặt trời chiếu vào lớp.
+ Chú ý việc sắp xếp bàn ghế và đồ dùng trong lớp vào nơi quy định.
+ Tránh để đồ đạc dưới sàn nhà.
+ Xếp chỗ ngồi của trẻ đúng vị trí thích hợp.
+ Rèn luyện khả năng vận động cho trẻ: đi đúng hướng, không dẫm lên
đồ đạc....
+ Giáo viên cần trao đổi với phụ huynh những thông tin về hội chứng
Usher và những khó khăn của trẻ mắc bệnh này, để từng bước giúp trẻ khắc
phục những khó khăn đó.
Phụ lục 3 – Bài 3 phần 3.2RUBELLA BẨM SINH
(Congenital Rubella)
Bệnh Rubella là gì?
Bệnh Rubella (RB) còn gọi là bệnh Phong chẩn (bệnh sởi Đức). Bệnh
này thông thường là bệnh nhẹ gây cho bệnh nhân nổi mẩn ngứa và sốt. Bệnh
này có tính loan truyền do vi trùng RL gây nên.
Bệnh loan truyền như thế nào?
Siêu vi trùng RL lan truyền từ người này sang người khác qua những
giọt bụi nước nhỏ tung ra khi người bệnh ho hoặc hắc hơi. Bệnh cũng có thể
lan truyền qua sự tiếp xúc với những vật đã có sẵn siêu vi trùng gây bệnh.
Nếu một người mẹ mắc phải bệnh này trong những tháng đầu tiên của thời kỳ
thai nghén, siêu vi trùng sẽ lan truyền và ảnh hưởng đến thai nhi. Ở đây
người chỉ hơi bị khó chịu như là sốt và mẩn ngứa hơi đỏ; trong thực tế đôi khi
không thấy triệu chứng (vì chỉ nghĩ là bị cảm nhẹ bình thường) nhưng lại ảnh
hưởng trầm trọng đến thai nhi.
Mức độ nguy hiểm (nặng nhẹ) của sự nhiễm trùng RL ảnh hưởng đến
thai nhi, phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn (thời gian) mà người mẹ mắc bệnh.
Được biết rằng sự nguy hiểm ảnh hưởng trầm trọng nhất cho thai nhi nếu
như bệnh xảy ra vào lúc 3 - 4 tháng đầu của thời kỳ thai nghén và sự nguy
hiểm sẽ giảm sút nếu người mẹ bị mắc bệnh ở giai đoạn này. Nhiều sự ước
lượng cho thấy rằng nếu nhiễm bệnh xảy ra ở tháng đầu của thời kỳ thai
nghén, sự phát triển của thai nhi ảnh hưởng từ 30% - 100%. Nếu mắc bệnh ở
tháng thứ hai, ảnh hưởng từ 20% - 50%, nếu mắc bệnh ở tháng thứ ba ảnh
hưởng từ 13% - 40%. Tại sao ảnh hưởng đến thai nhi trong những thời kỳ
thai nghén? Vì trong suốt hai tháng của thời kỳ này tất cả những bộ phận
quan trọng (như mắt, tai, gan, phổi, não...) được phát triển đầy đủ. Khi người
mẹ mắc bệnh này, siêu vi trùng xâm nhập vào những tế bào của thai nhi đang
được phân chia phát triển làm cho sự phát triển của cơ quan này ngừng lại,
hoặc phát triển không toàn diện.
Triệu chứng:
Cũng theo các tài liệu của phương Tây, những triệu chứng quan trọng
nhất của bệnh Rubella là hài nhi có khuynh hướng:
+ Sinh thiếu cân, nhỏ con.
+ Thiếu máu, viêm phổi hay ban xuất huyết.
+ Đục nhãn mắt hoặc tật mắt nhỏ, bệnh đau mắt mộng, bệnh tăng nhãn
áp, chứng giảm sức nhìn, bệnh võng mạc do huyết áp cao.
+ Thiểu năng trí tuệ (tâm thần), tật đầu nhỏ, viêm màng não, viêm não,
liệt tứ chi.
+ Những dị tật của tim: tồn tại ống động mạch trong (những mạch máu
bị phá hủy) thông liên nhĩ hay thông liên thất.
+ Gan: chứng vàng da, chứng to gan nách.
+ Ngoài ra còn những vấn đề khó khăn khi ngủ, khi ăn hoặc có những
hành vi tự kỷ, những vấn đề về tình cảm (không có cảm xúc như người bình
thường).
+ Răng không bình thường.
+ Một trong những triệu chứng không kém phần quan trọng của bệnh
Rubella là tật khiếm thính, thường là khiếm thính tiếp nhận (mức độ khiếm
thính nặng và khiếm thính sâu) vì thực tế cho thấy rằng siêu vi trùng RL đã
phá hủy ốc tai trong thời gian nó phát triển.
Ảnh hưởng của bệnh Rubella tới đứa trẻ:
Lúc mới sinh, trẻ bị mắc bệnh Rubella có khuynh hướng nhỏ hơn và
phát triển cũng chậm hơn so với trẻ bình thường.
Những hậu quả thông thường của bệnh Rubella là:
+ Bại não
+ Khiếm thị/ Bệnh đau mắt mộng hoặc tăng nhãn áp (50%)
+ Những bệnh về tim (50%)
+ Chậm phát triển trí tuệ (50%)
+ Tật khiếm thính (50%)
Những khó khăn đặc biệt của trẻ khiếm thính mắc bệnh Rubella là việc
giáo dục cho trẻ sau này bị ảnh hưởng do có nhiều khuyết tật khác nhau. Trẻ
em mắc bệnh này cũng có những tế bào có kích thước bình thường nhưng số
lượng ít hơn. Đối với trẻ khiếm thính và trẻ có vấn đề về mắt khi bị mắc bệnh
này cũng có thể bị rối loạn về niệu sinh dục (urogenutal disorders), viêm tim
(cardio = vasculas defects) và rối loạn tuyến nội tiết (endoerinr disorders).
Sự điều trị:
Có lẽ đáng sợ nhất là sự lây nhiễm siêu vi trùng RL. Cho dù bệnh này
là một bệnh nhẹ gây cho bệnh nhân nổi mẩn ngứa và sốt, nhưng thực ra có
nhiều nguy hiểm trầm trọng gây cho bào thai.
Như chúng ta đã biết, tất cả mọi người đều có thể nhiễm bệnh Rubella
trừ khi họ đã từng bị bệnh này và đã phát triển được tính miễn nhiễm. Sự
nhiễm bệnh có thể được ngăn chặn bằng hình thức tiêm chủng. Nếu được
tiêm chủng thì khả năng mắc bệnh tật nguyền sẽ ít xảy ra hơn khi người mẹ
mang thai.
Khi nào nên tiêm chủng ngừa?
- Chủng ngừa cho tất cả trẻ em nam, nữ ở lứa tuổi 12 - 15 tháng tuổi.
Lần hai vào khoảng 10 tuổi.
- Nếu muốn hạn chế bệnh Rubella bẩm sinh này, cần tiêm chủng cho
tất cả phụ nữ đang mang thai.
- Các trẻ bị bệnh về mắt có thể giải phẫu.
- Các trẻ khiếm thính cần có một chương trình giáo dục thích hợp.
Sự liên quan đến lời nói và ngôn ngữ:
- Bệnh Rubella là một trong những nguyên nhân gây khiếm thính ngay
từ khi còn ở trong bụng mẹ. Khi trẻ bị khiếm thính do bệnh này thì thường là
bị khiếm thính tiếp nhận ở mức độ III và IV.
- Khiếm thính có thể mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho trẻ về
ngôn ngữ nói.
- Khiếm thính càng nặng và xảy ra càng sớm thì hậu quả càng trầm
trọng.
- Để phát triển được lời nói và ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính trẻ cần
được chẩn đoán bệnh sớm, được sử dụng máy một cách thích hợp và được
tham gia vào chương trình can thiệp sớm.
Phụ lục 3 - Bài 3 phần 3.2TÌNH TRẠNG KHÓ KHĂN TRONG KHI SINH
Chúng ta ai cũng biết rằng, giai đoạn trẻ được sinh ra được xem là giai
đoạn ẩn chứa rất nhiều nguy hiểm cho bản thân đứa trẻ. Có những việc xảy
ra trong quá trình sinh nở là nguyên nhân dẫn đến nhiều khuyết tật và nguyên
nhân của khiếm thính tiếp nhận cũng bắt nguồn từ thời kỳ này.
Sinh non:
Trẻ sinh non được xác định nhờ vào trọng lượng của trẻ ngay sau khi
sinh mà không cần thiết phải được xác định nhờ vào thời kỳ mang thai. Trọng
lượng của trẻ lúc sinh ra dưới 2,3 kg được xem là đẻ non. Đẻ non thường dẫn
đến những khuyết tật khác trong đó có khiếm thính tiếp nhận. Một số ý kiến
chưa hoàn toàn đồng ý rằng đẻ non là nguyên nhân gây ra khiếm thính nhưng
chắc chắn là trong trường hợp bị khiếm thính tiếp nhận do sinh non. Hiện nay,
hiếm khi gia tăng nhờ vào một số phương tiện chăm sóc, điều trị sau khi sinh
đã được cải tiến, tạo điều kiện cho việc sinh dễ hơn và cũng nhờ vào kiến
thức của chúng ta trong việc nhận biết những ảnh hưởng do dùng thuốc gây
nên. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lưu ý tình trạng sau: đặt trẻ sinh non
trong lồng ấp, để ít nhất những ngày đầu tiên sau khi chào đời môi trường
xung quanh trẻ có thể được kiểm soát cẩn thận. Sự chăm sóc phải chú ý
không để ôxy được cung cấp quá nhiều bởi vì chất này sẽ ảnh hưởng đến
võng mạc. Cần lưu ý đến tiếng ồn phát ra từ các loại động cơ máy lọc dùng
trong phòng đặt lồng ấp này, khi có áp suất rất lớn (trên 95dB SPL), như thế
nguyên nhân gây mất sức nghe là do ảnh hưởng của tiếng ồn nhiều hơn là do
đẻ non. Việc kiểm soát tự lưu thông ôxy là một phần quan trọng nhất trong
quá trình chăm sóc trẻ sơ sinh. Nếu áp suất trong máu trẻ quá thấp thì sẽ tổn
hại đến não. Nếu quá cao thì mắt sẽ tổn thương và những tổn hại nghiêm
trọng khác có thể phát sinh. Trẻ sinh dự tháng hay thiếu tháng đều dễ tổn
thương vì những bệnh kể trên.
Thiếu ôxy:
Nguyên nhân thiếu ôxy có thể là do bệnh của người mẹ. Mẹ phải lao
động cực nhọc liên tục trước khi sinh cũng là nguyên nhân khiến trẻ bị thiếu
ôxy. Người ta cho rằng đôi khi đây cũng là nguyên nhân gây nên tật khiếm
thính mặc dù sự ảnh hưởng của việc thiếu ôxy đối với bộ phận thính giác đã
không được nhận diện.
Lúc mới sinh việc thiếu ôxy có thể là do sa (ép) cuống rốn, như thế việc
cung cấp máu lên đầu bị cắt đứt; hoặc do cuống rốn bị cắt rời khỏi cơ thể
người mẹ trước khi sinh ra, hay do nhiều yếu tố khác. Nguyên nhân thông
thường làm tổn thương ốc tai và hệ thống thần kinh trung ương là việc thiếu
ôxy. Nhất là đối với những tế bào quan trọng, điều này làm thay đổi sự
chuyển hoá của các tế bào dẫn đến chúng bị tổn thương hoặc bị phá vỡ. Một
số công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng trẻ bị thiếu ôxy sẽ ít nguy hiểm hơn
những trẻ nằm trong trường hợp tim bị ngừng đập tạm thời lúc sinh ra. Điều
này khiến chúng ta lưu ý rằng: tác hại của việc thiếu ôxy sẽ ít ôi nhờ vào
những cải tiến nhanh chóng trong việc quan tâm, chăm sóc những trẻ "trong
tình trạng nguy hiểm" khi vừa chào đời.
Bệnh vàng da:
Bệnh vàng da của trẻ mới sinh có thể diễn ra do ảnh hưởng của gan
chưa hình thành hoàn toàn đi đôi với việc hàng loạt hồng huyết cầu bị phá vỡ
từ 7.000.000/mm3 xuống 5.000.000/mm3. Vào những tuần đầu tiên sau khi trẻ
sinh ra. Vấn đề này có vẻ có nhiều ý nghĩa hơn trong trường hợp sinh non,
chất bilirubin là hậu quả của việc hàng loạt hồng huyết cầu bị phá vỡ sẽ gây
ra tổn thương mê nhĩ, chất bilirubin gia tăng cũng là nguyên nhân của tật
khiếm thính do dây thần kinh thính giác ở não bị tổn thương. Tình trạng này
được gọi là kernicterus, có liên quan đến lượng bilirubin khá cao trong máu.
Hầu hết trẻ bị mắc bệnh này là chết ngay ở tuần đầu tiên, 80% trẻ còn sống
thì bị khiếm thính hoàn toàn hay khiếm thính một phần. Thêm vào đó là
những khuyết tật khác nhau: chậm phát triển, mất ngôn ngữ, động kinh, bại
não và rối loạn hành vi. Cách chữa trị bệnh vàng đa là truyền thêm máu cho
trẻ.
Sự đối kháng nhóm máu:
Vàng da, chất bilirubin và khả năng não bị tổn thương là triệu chứng
lâm sàng của bệnh này. Nếu trong máu của một người có chức một chất gọi
là nhân tố Rhesus thì lượng máu đó được xem là lượng máu có chứa chất
Rheus dương thì trong suốt thời gian trẻ nằm trong dạ con của người mẹ,
máu sẽ lưu thông từ con sang mẹ và ngược lại. Tuy nhiên, cơ thể của người
mẹ lại xem tố chất này như là một chất độc nên đã phản ứng lại bằng cách
sản sinh ra một chất kháng thể để chống lại đứa con. Chất kháng thể này lưu
lại với số lượng ít ở lần mang thai đầu tiên được xem vô hại đối với trẻ.
Nhưng vào những lần mang thai tiếp theo, sẽ có những sự độc kháng như
trên thì chất kháng thể sẽ gia tăng phá hủy hồng huyết cấu của trẻ. Sắc tố
màu vàng của hồng huyết cầu, cất Bilurubin, chất độc (Toxic) sẽ tự do lưu
thông trong máu, da và các tế bào của hệ thần kinh thính giác sẽ bị chất này
nhuộm vàng.
Đây là một hiện tượng được kể là một lý do có ý nghĩa lý giải nguyên
nhân của loại khiếm thính tiếp nhận. Tuy nhiên, trong những năm gần đây
người ta đá đạt được những thuận lợi về việc chữa trị tình trạng này. Ngày
nay cơ chế hoạt động của loại bệnh này đã được biết rõ và được chữa trị một
cách hiệu nghiệm. Tất cả các bà mẹ đều được kiểm tra phân loại tố chất
Rhesus lần mang thai đầu tiên. Đối với bà mẹ trong tình trạng nguy hiểm sẽ
được truyền thuyết thanh miễn địch, có tính đề kháng đặc biệt, ngay sau khi
sinh đứa con đầu tiên, nhằm ngăn ngừa việc cơ thể của người sẽ tự tạo ra
một chất kháng thể gây tổn hại cho những lần mang thai tiếp theo. Vì vậy,
trường hợp bị khiếm thính tiếp nhận do tình trạng không phù hợp tố chất
Rhesus gây ra hiện nay được xem là cực kỳ hiếm. Thậm chí có thể thay máu
cho trẻ ngay lúc chào đời.
Những khó khăn khác:
- Sinh khó phải nhờ vào sự trợ giúp của thuốc men cũng làm rối loạn
nguồn cung cấp ôxy. Kết quả là các bộ phận nhạy cảm nhất là não, tai sẽ bị
tổn thương trước tiên.
- Chấn thương: do tử cung co quá mức, phải dùng forcep để lấy thai nhi
ra có thể dẫn đến tổn thương cho não và ốc tai, nguyên nhân gây khiếm thính
là do chảy máu tai trong, chảy máu màng não hoặc não.
- Thời gian đẻ quá lâu hoặc quá mau cũng làm suy thai, chèn ép cuống
nhau thai, trẻ bị ngạt thở. Chính nhân tố gây ngạt này đã gây nên tổn thương
của máy thính giác.
- Một số thuốc kháng sinh: khi mang thai người mẹ dùng một số thuốc
như streptomycine, karamycine, gentamycine hay những loại thuốc khác có
thể phá hủy các tế bào lông nằm trong ốc tai và các tế bào của hệ thần kinh
thính giác.
Tóm lại:
Những vấn đề nảy sinh trong quá trong quá trình sinh nở đều có liên
quan với nhau. Y học đã tìm được một số biện pháp ngăn ngừa làm giảm bớt
tình trạng gây mất thính lực cho trẻ trong khi sinh nhưng vẫn không hoàn
toàn. Những vấn đề: sinh non, thiếu ôxy, vàng da, đối kháng nhóm máu, sinh
khó, chấn thương đều dẫn đến khuyết tật chung: khiếm thính tiếp nhận. Nếu
những trẻ này được chẩn đoán sớm, mang máy trợ thính thích hợp, phụ
huynh được hướng dẫn kịp thời để có sự giúp đỡ thích hợp, tích cực cho trẻ
thì ảnh hưởng của việc mất thính lực giảm đi nhiều. Khả năng ngôn ngữ của
trẻ sẽ phát triển, ít bị hạn chế hơn.
Phụ lục 4 - Bài 4 - Phần 4.1- Hướng dẫn sử dụng máy trợ thính sau tai (OTICON). Từ năm 1904,
hãng Oticon đã gánh vác một nhiệm vụ duy nhất nhằm tăng giá trị cuộc sống
con người thông qua việc cải thiện thính lực. Để đáp ứng mục tiêu này, chúng
tôi được ủy nhiệm bằng phương pháp quan trọng trong việc nghiên cứu và
phát triển tốt hơn bao gồm việc tiếp xúc với những bệnh nhân và đồng thời
hứa với họ rằng sẽ làm thỏa mãn những nhu cầu đích thực nhất của họ trong
cuộc sống và trong công việc.
Nếu bạn làm theo lời chỉ dẫn của cuốn sách nhỏ này trong quá trình sử
dụng và đeo máy trợ thính Oticon, lợi ích của máy sẽ đạt được tối đa trong
công việc cải thiện thính lực.
Ngăn để pin
Khi hết pin bạn phải thay ngay lập tức.
Bạn mỡ ngăn để pin bằng cách kéo nấc ra sau và lấy pin cũ ra.
Nạp pin mới vào: pin cỡ 76 hoặc 675
Đưa mặt có kí hiệu (+) của pin vào.
Khi bạn thay pin, bạn cần phải đợi vài phút trước khi phí hoạt động thì
mới có hiệu quả đầy đủ.
Hãy nhớ rằng khi không sử dụng máy thì hãy tháo pin ra. Phải lau bất
kì vết bẩn nào trên pin hoạt khi pin ẩm.
Kiểm tra pin
Vặn âm thanh ở mức độ tối đa nhất và khum tay xung quanh máy trợ
thính. Nếu bạn nghe thấy tiếng rẻ lên như tiếng còi có nghĩa là pin đã hoạt
động. Bạn cũng nên dùng bộ phận kiểm tra phi thường xuyên. Một vài MTT
có nơi chỉ dẫn pin. Bạn bật công tắt màu đen phía trên các công tắt chức
năng sang phải và giữ trong tiến giây. Nếu như thấy có đèn sáng ở phía trên
công tắt có nghĩa là pin tốt.
MÁY TRỢ THÍNH ĐEO SAU TAI
MÁY TRỢ THÍNH KHUẾCH ĐẠI ÂM THANH VÀ LỜI NÓI
Cấu tạo gồm:
Micro
Loa
Pin
Nút điều chỉnh âm lượng
Bộ phận khuếch đại
Nút tắt mở (M = micro, T = tel, O = tắt)
Ống móc vào vành tai
Ống nối
Núm tai
Máy trợ thính của con bạn:
Loại máy:..............................
Hãng:.....................................
Kiểu:......................................
Số serial:................................
Số volume chỉ định:...............
Loại bỏ pin đã dùng hết:
Bạn phải đem lại những pin đã dùng cho người cung cấp pin cho bạn.
Không bao giờ được vứt pin vào lửa, nó sẽ nổ và gây thương tích. Cũng
không được vứt pin tại những chỗ đất hoang xung quanh nhà bạn vì đó cũng
là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường.
Các công tắc chức năng:
Máy trợ thính của bạn có thể đầy đủ hoặc một vài chức năng sau:
M: Bật máy và khi đó Microphone được nối. Máy hoạt động bình
thường.
T: bật máy và cuộn cảm ứng được nối, nơi hệ thống truyền cảm ứng
được thiết lập khi bạn nói chuyện qua điện thoại. Khi đó âm thanh bên ngoài
sẽ ở mức tối thiểu nhất.
MT: Nối Microphone (M) với cuộn cảm ứng (T)
O: tắt máy
MT-M: Công tắc lựa chọn: có thể thay đổi chức năng của công tắc bằng
cách.
Kéo sang phải sẽ theo thứ tự M - T - O
Kéo sang trái theo thứ tự khác MT - T - O hoặc M - MT - O.
Điều chỉnh âm thanh:
Có một bánh răng cưa nhỏ để điều chỉnh âm thanh ở mức bạn nghe
thoải mái nhất. "Tại mức 4" máy trợ thính phát ra âm thanh cao nhất.
Bộ phận hiệu chỉnh máy:
Đừng bao giờ cố thử tự điều chỉnh lấy. Bạn cần phải nhờ chuyên gia
làm rất cẩn thận cho phù hợp với sức nghe của từng cá nhân.
Ổ cắm đầu vào âm thanh trực tiếp
Máy trợ thính của bạn có đầu âm thanh trực tiếp. Bạn có thể sử dụng
bộ phận này khi bạn muốn nghe. Những tín hiệu từ nguồn âm thanh ngoài và
nhận trực tiếp bằng máy. Đó là những âm thanh của đài cassette, ti vi, các
dụng cụ phụ trợ nghe và các MTT khác.
Nếu như ổ nối âm thanh đầu vào này có số 201 hoặc 202 bạn sẽ nghe
dược những âm thanh bên ngoài khi bạn bật công tắc "M". Nếu như ngăn âm
thanh đầu vào có số 301 hoặc 302, bạn sẽ nghe tín hiệu bên ngoài khi bật
công tắc ở vị trí "T" hoặc "MT".
Hướng dẫn đeo MTT
Đầu tiên bạn phải tắt máy
Giữ ống nhựa
Đặt đỉnh của núm tai vào tai bạn, xoay nhẹ, khi chắc chắn đầu của núm
tai (A) được ấn vào phía sau và dưới vành tai của bạn.
Kéo thùy tai và ấn nhẹ nhàng núm tai vào trong ống tai.
Khi núm tai vào đúng vị trí trong tai, đặt MTT vòng sau phía sắc tai, treo
nhẹ nhàng phía sau vành tai.
Bật máy lên và tự điều chỉnh âm thanh ở mức thích hợp với bạn nhất.
Chăm sóc máy trợ thính
Hàng ngày: Khi bạn không đeo máy, cố gắng dặt máy trên bề mặt mềm
mại, tránh hư hại khi máy rơi xuống đất. Trước khi nghỉ ngơi, lau sạch máy và
núm tai bằng vải mềm khô. Đừng để ráy tai bám vào năm tai vì điều này sẽ
làm giảm hiệu quả của máy. Mở ngăn phị ra để không khí được lưu thông.
Làm sạch núm tai:
Phải rửa núm tai và ống nhựa thường xuyên.
Tháo núm tai ra khỏi máy.
Rửa núm tai bằng nước ấm và xà phòng mềm, không nên dùng thuốc
tẩy mạnh. Xả với nước. Lau khô núm tai bằng vải mềm.
Nếu có những giọt nước rơi vào núm tai hoặc ống nhựa cần phải thổi
nó ra. Một dụng cụ thổi đặc biệt dành cho việc này được các chuyên gia thính
học sử dụng hoặc bán tại các nhà thuốc. Không dùng máy sấy tóc để sấy khi
máy bị thấm nước. Luôn đảm bảo núm tai và ống tai phải khô trước khi nối
MTT.
Không bao giờ được rửa máy trợ thính
Thay ống tai: cần phải thay ống nhựa giữa núm tai và MTT khi nó bị
vàng hoặc bị cứng. Việc này có các chuyên gia về máy sẽ giúp bạn.
Microphone tiếp nhận âm thanh: nếu như vỏ che ngoài đầy bụi, tác dụng của
MTT giảm đột ngột, bạn cần nhờ chuyên gia làm sạch. Không bao giờ cố thử
lau microphone bằng nước và thuốc tẩy.
Tránh hơi nóng, ẩm và hóa chất:
Không bao giờ đặt MTT gần chỗ nóng hoặc để dưới ánh nắng mặt trời
và cũng không được để nơi ẩm ướt (nhà tắm vòi hoa sen, trời mưa...)
Nếu như MTT bị ẩm ướt, bạn cần được những nhà chuyên môn hướng
dẫn. Đầu tiên bạn tháo pin, đặt vào chỗ khô để làm sạch, lau chùi pin một
cách cẩn thận nếu như pin vẫn còn ẩm. Một số hóa chất như mĩ phẩm, keo xịt
tóc, nước hoa, nước cạo râu, thuốc diệt trùng có thể là máy của bạn bị hư
hại, bạn cần thường xuyên được hướng dẫn trước khi dùng những sản phẩm
này. Không bao giờ được dùng kem chống nắng bôi lên phần da đeo MTT.
Ngăn để pin cố định:
Hướng dẫn: mở ngăn để pin ra, dùng bút bi hoặc vật tương tự để vào
chỗ hốc nhỏ và nạy lên hình mũi tên chỉ dẫn.
Điều quan trọng là đừng bao giờ kẻo quá mạnh ngăn để pin khi nó thật
sự đã mở. Đặt pin vào một cách chính xác. Nếu kẻo căng quá, sẽ làm méo
mó ngăn để pin và làm giảm đặc tính chống xê dịch của nó.
Sử dụng MTT:
Khi bạn đeo kính, ngay lập tức bạn thấy rõ hơn. MTT cũng vậy, nhưng
hiệu quả của việc đeo máy thường xuyên sẽ trở nên tốt hơn vì sau vài tháng
bạn sẽ học được cách để nâng cao sức nghe của bạn và sẽ đạt được lợi ích
lớn nhất.
Thời gian hiệu chỉnh ở người này và người khác sẽ khác nhau, phụ
thuộc vào các yếu tố trước đó bạn đã đeo MTT hay chưa và mức độ khiếm
thính của bạn là bao nhiêu.
Sau đây là 5 bước để nghe tốt hơn
Trong ngôi nhà yên tĩnh của bạn: Cố gắng làm quen với những âm
thanh mới. Hãy nghe những âm thanh cơ bản và cố gắng nhận biết từng âm
thanh một. Sẽ có một vài âm thanh khác với âm thanh mà bạn cần phải học
cách nhận biết chúng lần nữa. Nếu như MTT làm bạn mệt, bạn hãy vặn nhỏ
volume xuống hoặc tắt máy để nghỉ ngơi. Dần dần, bạn sẽ quen trong khoảng
thời gian lâu hơn và bạn sẽ cảm thấy thoải mái khi đeo máy cả ngày.
Nói chuyện với một người khác: Có nhiều niềm vui khác nhau. Bạn
hãy ngồi xuống cùng với một vài người nào đó trong một căn phòng yên tĩnh,
ngồi đối diện với họ và khi đó bạn sẽ có thể nhìn được rõ ràng cảm xúc trên
gương mặt từng người, nói chuyện thoải mái với những người này. Nếu như
MTT của bạn được chỉnh đúng, bạn sẽ nghe thấy và hiểu được người khác
tốt hơn trước.
Nghe đài hoặc ti vi: Đề nghị người bình thường chỉnh âm thanh ở đài
hoặc ti vi đến mức họ nghe cảm thấy thoải mái. Nếu như âm thanh ở đài hoặc
ti vi quá to, bạn hãy tự điều chỉnh âm thanh ở máy bạn. Đầu tiên bạn hãy
nghe tin tức từ phát thanh viên vì họ nói rất rõ ràng, rành mạch. Sau đó, hãy
cố gắng nghe các chương trình khác. Nếu như bạn cảm thấy khó nghe đài
hoặc ti vi, hãy đề nghị chuyên gia về MTT khuyên dùng thêm những bộ phận
trợ giúp khác.
Nói chuyện với một nhóm người: Trong một nhóm người, ví dụ tại
nhà hàng nơi mà có nhiều âm thanh náo động. Trong những tình huống như
vậy, tiêu điểm của bạn là tập trung vào những người mà bạn muốn nghe. Nếu
không nghe được từ nào, hãy đề nghị họ nhắc lại, nếu không chúng ta sẽ
không bao giờ nghe được trong khi đàm thoại.
Cuộn cảm ứng từ được dùng trong nhà thờ hoặc rạp chiếu phim:
Để nghe được ở nhà thờ, rạp chiếu phim, nhà hát hoặc nơi công cộng,
bạn sẽ phải lắp thêm một dụng cụ trợ giúp vào máy. Ví dụ: mạch cảm ứng.
Khi hệ thống này được lắp đặt, bậc nút chức năng ở vị trí "T" và bạn sẽ
nghe thấy.
Nếu như máy của bạn ở vị trí "T" khi bậc ở mức âm thanh lớn nhất
nghe vẫn yếu, thì bạn phải nhờ chuyên gia tư vấn cho bạn về các bộ phận
phụ trợ khác.
Hãy sử dụng MTT hàng ngày:
Có thể bạn sẽ đối phó được khi bạn không đeo MTT trong một vài
trường hợp. Nhưng cách tốt nhất để làm tăng khả năng nghe là thực tập cho
đến khi bạn đeo máy cả ngày mà vẫn thấy thoải mái nhất.
Hầu hết các trường hợp đeo máy trợ thính không thường xuyên sẽ
không đem lại lợi ích lớn nhất từ máy. Bạn sẽ nhanh chóng nắm bắt được
những âm thanh xung quanh bạn khi bạn nhận thức được việc đeo máy. Máy
trợ thính của bạn không đơn thuần chỉ để nghe hoặc ngăn chặn sự gia tăng
mức độ giám thính lực từ tổ chức cơ quan hữu cơ trong tai của bạn. Vậy máy
sẽ giúp gì? Máy trợ thính sẽ giúp bạn có khả năng nghe tốt hơn khả năng vốn
có của bạn. Việc sử dụng máy trợ thính chỉ là một bộ phận của việc phục hồi
chức năng nghe. Bạn cần phải qua những khóa dạy và hướng dẫn đọc bằng
môi nữa.
Cấm
Máy trợ thính và pin có thể rất nguy hiểm nếu bạn nuốt phải chúng
hoặc sử dụng không đúng, nó có thể là nguyên nhân gây thương tích, làm
giảm thính lực lâu dài hoặc thậm chí gây tử vong. Bạn cần phải theo những
theo những điều ngăn cấm chung dưới đây và đọc đầy đủ nội dung hướng
dẫn trước khi sử dụng máy trợ thính.
Máy trợ thính chỉ được hiệu chỉnh trực tiếp bởi các chuyên gia thính
học đã được đào tạo. Nếu dùng sai sẽ là kết quả của việc giảm thính lực bất
ngờ hoặc lâu dài.
Máy trợ thính, những bộ phận của máy và phí không phải là đồ chơi,
không được cho ai động tới vì họ có thể sẽ nuốt phải hoặc gây thương tích.
Không bao giờ được thay pin điều chỉnh nút điều khiển của máy trợ
thính trước mặt trẻ sơ sinh, trẻ nhở hoặc những người bị mắc bệnh tâm thần.
Khi vứt pin phải thận trọng vứt xa khỏi nơi mà trẻ sơ sinh, trẻ em hoặc
những người bị mắc bệnh tâm thần có thể nhặt được.
Hãy kiểm tra thuốc trước khi uống vì có thể nhầm pin là thuốc.
Không bao giờ được cho máy trợ thính và pin lên miệng bằng bất kỳ
nguyên nhân nào vì chúng trơn nên dễ nuốt phải.
Không được cho người khác đeo máy của bạn vì có thể sử dụng sai và
làm hỏng tai nghe người khác.
Máy trợ thính có thể ngừng hoạt động, ví dụ như hết pin. Do đó, bạn
phải đặc biệt thường xuyên chú ý nhất là khi bạn trên đường.
Máy trợ thính của hãng Oticon kèm theo ngăn để pin cố định theo yêu
cầu. Cần phải hướng dẫn kỹ lưỡng cho trẻ sơ sinh, trẻ em và những người
mắc bệnh tâm thần.
Nếu nuốt phải pin máy phải đưa cấp cứu ngay lập tức.
Bảo hành quốc tế
Máy Oticon được bảo hành trong giới hạn sai sót về nguyên nhân vật
liệu hoặc công nghệ chế tạo trong khoảng thời gian 12 tháng kể từ ngày mua.
Chỉ bảo hành cho MTT chứ không bảo hành cho các bộ phận phụ trợ như pin,
ống nghe, núm tai, Microphone, dây nghe. Bảo hành không có hiệu lực nếu
máy hỏng dùng sai quy cách hoặc không giữ gìn máy cẩn thận. Không bảo
hành những MTT mà do cá nhân không có thẩm quyền sửa chữa.
Nếu bạn cần sửa chữa
Hãy mang máy trợ thính đến chuyên gia của bạn để sưa và hiệu chỉnh
ngay lập tức.
Phụ lục 4 - Bài 4 - Phần 4.2CÂU CHUYỆN CỦA HOLLY
Cuộc sống cho đứa con gái năm tuổi của tôi với điện ốc tai đa kênh
Câu chuyện do Viktorija McDonell kể lại
Vào ngày 13.10.1986, con gái tôi, Holly đã được đưa vào bệnh viện vì
căn bệnh viêm màng não. Ngay khi cô bé ốm rất nặng trong bệnh viện, chúng
tôi vẫn nhận ra một điều hiển nhiên là có một cái gì đó không ổn đối với thính
giác của cô bé. Cô bé không hề có chút phản ứng gì đối với tên gọi của mình
cũng như đối với bất cứ tiếng nói nào. Vào ngày 01 tháng 11, Holly được ra
viện. Sau khi ghi điện ốc tai vào tháng 12, cô bé được phát hiện là bị điếc
hoàn toàn (điếc sâu).
Chúng tôi đã có một khoảng thời gian vô cùng khó khăn để hiểu được
tật điếc của Holly sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống sau này của cô bé ra sao. Khi
đó cô bé đã được 4 tuổi 4 tháng tuổi, có lời nói và ngôn ngữ phát triển tốt.
Chúng tôi phân vân muốn biết làm thế nào để sự phát triển đó vẫn được tiếp
tục. Chúng tôi biết rằng giọng nói của cô bé sẽ ảnh hưởng nhưng không biết
nó sẽ bị ảnh hưởng nhiều hay ít, sớm muộn như thế nào. Cô bé sẽ có thể
hiểu được chúng tôi qua đọc hình miệng hay cô bé sẽ phải cần đến giao tiếp
tổng hợp (ký hiệu, cử chỉ điệu bộ, chữ cái ngón tay, đọc hình miệng...) và
Cued speech? Cô bé có những người bạn điếc và cần được đến trường học
đặc biệt không?
Giáo sư Gibson, người đã ghi điện ốc tai cho con gái tôi đã nói cho
chúng tôi biết sự phát triển mới về điện ốc tai đa kênh và nó có thể giúp cho
người điếc như thế nào. Qua chương trình của giáo sư tại trường Đại học
Sydney, 25 người lớn đã được cấy điện cực ốc tai với những kết quả thu
được rất khả quan và đầy triển vọng. Tuy nhiên, những thông tin về cấy điện
cực ốc tai cho trẻ nhỏ còn rất ít.
Tại trường đại học Melbourne, giáo sư Graham Clarke đã cấy thành
công cho hai đứa trẻ: 1 cậu bé chín tuổi rưỡi - bị khiếm thính khi được ba tuổi
rưỡi và 1 cậu bé năm tuổi - bị điếc khi ba tuổi. Cả hai cậu bé đều bị mất sức
nghe sau căn bệnh viêm màng não nhưng do thời gian bị khiếm thính khá dài
ảnh hưởng nên cả hai em này phải chịu mất giọng nghiêm trọng. Hai em này
đang có những tiến triển tốt kể từ khi được cấy điện cực ốc tai. Tuy nhiên,
hoàn cảnh của những trường hợp này khác về căn bản so với những trường
hợp của chúng tôi nên nó không đủ sức thuyết phục để chúng tôi có thể quyết
định ngay.
Không phải cho đến khi giọng của Holly bắt đầu xấu đi mà chỉ sau 3 - 4
tháng, chúng tôi đã bắt đầu nhận ra thực tế một cách rõ ràng hơn ý nghĩa
thực sự của căn bệnh điếc là gì. Holly đang ngày càng trở nên phụ thuộc
nhiều hơn vào tôi trong việc giao tiếp với người khác bởi vì cô bé có thể đọc
hình miệng của tôi một cách dễ dàng hơn. Cô bé trở nên sống thu mình lại,
tránh những trò chơi sôi động với nhóm bạn cùng lứa. Cô bé nhận thức một
cách rõ ràng việc sẽ không thể hoàn thành được các nhiệm vụ của trò chơi
đặt ra, vì vậy cô không thích chơi một chút nào. Các hoạt động ưa thích khác
của cô chỉ dừng lại ở việc học đọc to cho bản thân và cho tôi nghe (cô bé
thường bịa những câu chuyện khi giở những trang sách).
Tháng ngày đó qua đi, chúng tôi bắt đầu nhận ra rằng cấy điện cực ốc
tai là sự lựa chọn tích cực và đúng đắn cho cô bé. Chúng tôi đã đọc tất cả
những thông tin về cấy điện cực ốc tai có được và vào tháng 04 năm 1987,
chúng tôi gặp giáo sư Gibson. Giáo sư đã cho chúng tôi xem những cuốn
băng video về những người lớn được cấy điện cực ốc tai và chúng tôi đã lắng
nghe một cuốn băng mô phỏng âm thanh mà con người có thể nghe thấy
bằng một thiết bị chuyên dùng. Không còn một chút nghi ngờ nào trong ý nghĩ
của chúng tôi nữa, chúng tôi phải quyết định cho tiến hành ngay việc cấy điện
cực ốc tai và trao cho Holly một cơ hội được nghe thấy một vài âm thanh, cho
dù đó là nghe một cách cơ học. Chúng tôi hy vọng việc cấy điện ốc tai sẽ đủ
để giúp cho cô bé phát triển được một cách bình thường.
Kể từ lúc có quyết định của chúng tôi, mọi thứ đều biến chuyển một
cách nhanh chóng. Khi giọng nói của Holly xấu đi quá nhiều, đến nổi mà
chúng trở nên hầu như không dễ hiểu đối với chúng tôi thì chúng tôi biết
không có thời gian nào được đánh mất một cách lãng phí. Chúng tôi sẽ gặp
tiến sĩ Gaye Nicholls, một giáo viên dạy cho trẻ khiếm thính, người sẽ hướng
dẫn chương trình phục hồi cho bé Holly. Bà tiến hành thực hiện những công
việc trước phẫu thuật và đánh giá những kỹ năng cảm nhận giọng nói của
Holly. Holly nhanh chóng có mối quan hệ thân thiện với tiến sĩ Gaye, đây là
yếu tố sống còn bởi vì nó làm cho cô bé hào hứng đối với việc cấy điện cực
và chương trình phục hồi tiếp theo, đây sẽ là một quá trình lâu dài và không
mấy thú vị.
Ngày phẫu thuật cho cô bé, ngày 04 tháng 06 năm 1987, chắc chắn là
một trong những ngày dài nhất trong cuộc đời của chúng tôi vì Holly là đứa trẻ
đầu tiên của dự án cấy điện cực ốc tai cho trẻ em ở trường đại học Sydney và
cũng là đứa trẻ nhỏ tuổi nhất được phẫu thuật như vậy. Cuộc phẫu thuật cho
cô bé diễn ra hơn 5 tiếng đồng hồ nhưng nó đã diễn ra rất tốt và cô bé hồi
phục rất nhanh.
Phải mất hai ngày dài và đầy mệt mỏi để cấy 15 điện cực đầu tiên,
ngày 02 và 03 tháng 06. Khi Holly trở về nhà với những điện cực đã được
hoạt động, trước tiên không có phản ứng gì lớn, mặc dù cũng trong đêm đó,
cô bé đã nghe thấy tiếng mưa và một vài tiếng động của xe cô thoảng qua.
Chúng tôi lại tiếp tục thực hiện những bài mà chúng tôi đã làm trước khi phẫu
thuật và không khí trong gia đình chúng tôi không hề có sự đổ vỡ, thất vọng
dù là nhỏ nhất. Lúc đầu là hai lần một tuần và sau đó một tuần một lần, chúng
tôi tới gặp tiến sỹ Gaye để bà kiểm tra lại cho chúng tôi những bài tập đã làm
và nêu lên những nhiệm vụ mới để chúng tôi thực hiện ở nhà.
Trong tháng đầu tiên, Holly tỏ ra miễn cưỡng khi phải nói nhiều về
những âm thanh mà cô bé nghe thấy. Những âm thanh đó chắc hẳn là được
nghe thấy rất nhỏ và nó làm cho cô bé phải mất một lúc để nhận ra là cô đang
nghe thấy gì. Lúc đầu, bà Gaye đã điều chỉnh và đặt âm lượng của các điện
cực ở mức nhỏ để Holly làm quen được với âm thanh mới từ từ. Qua một vài
lần kiểm tra, bà đã tăng âm lượng từ từ và cũng hoạt hoá nhiều điện cực hơn.
Tuần này qua tuần khác, khi mà tất cả những công việc liên quan đến
việc đặt những điện cực dường như vô nghĩa với cô bé thì thật là khó để giải
thích cho Holly là tại sao cô phải tiếp tục làm việc với Gaye. Âm lượng mà
hiện cô bé đang nghe được vẫn không đủ để cô nhận thấy tầm quan trọng
của việc cấy các điện cực. Tuy nhiên, khi mà tất cả các điện cực hoàn toàn
được cân bằng và âm lượng được khuyếch đại lớn hơn thì Holly bắt đầu tiến
bộ rất nhanh.
Khi ở nhà, chúng tôi đã nhận thấy nhiều thay đổi nhỏ. Cô bé nói về bộ
phận xử lý lời nói (mà cô bé gọi là "pin ") và sự thích thú của cô đối với nó.
Chúng tôi biết cô bé đã nghe thấy những âm thanh (tín hiệu) một cách rõ ràng
vì có một hôm cô bé đã bình luận rằng "mọi người trong ti vi đang nói chuyện
khôi hài". Cô bé muốn biết liệu có phải là họ đang nói một ngôn ngữ khác hay
không. Ngày hôm sau, cô bé lại nói rằng "giọng nói của tôi thì thật là buồn
cười". Tôi đã giải thích rằng đó là do cái "pin ", nó đã làm cho âm thanh giọng
nói của mọi người nghe khác lạ đi. Chúng tôi rất vui mừng trước những lời
bình luận mới mà cô bé nói về những gì mà cô bé nghe được.
Kể từ đây trở đi, chúng tôi nhận thấy rằng trò chuyện bằng đọc hình
miệng là một sự tiến bộ đáng kể. Trong khi đó, trước khi cấy điện cực, bất cứ
cuộc hội thoại nào với Holly cũng đều rất khó khăn, tuy hội thoại không phải là
thực chất cơ bản để coi là cô bé đã trở lại bình thường. Cuối cùng, cô bé đã
đạt được nhiều tiến bộ hơn trong hội thoại. Dường như, Holly đang cố gắng
bù đắp lại lượng thông tin mà tám tháng qua cô đã bị hạn chế thông qua giao
tiếp.
Những thay đổi khác cũng làm chúng tôi rất hài lòng. Giọng của cô bé
không bị hỏng nữa và giọng nói đều đều, giọng nói đặc trưng của người điếc
cũng biến mất. Từ lúc này, giọng nói của Holly bắt đầu được cải thiện và sáu
tuần sau khi điện ốc tai được hoàn thiện (công việc kéo dài mất hai tháng)
giọng nói của cô bé trở lại bình thường. Bây giờ, cô bé đã dễ dàng hiểu được
tất cả mọi người. Hai trong số những hoạt động đã ngừng lại cùng với tật điếc
thì giờ đây cũng được cô bé quan tâm trở lại. Holly lại tiếp tục chơi trò tự kể
chuyện cho bản thân nghe và đã bắt đầu tham gia những trò chơi với bạn bè
cùng lứa tuổi của mình.
Một khi tất cả những điện cực hoạt động một cách hiệu quả thì sự nghe
hiểu của Holly phát triển nhanh hơn nhiều so với phỏng đoán trước của bất
cứ người nào. Khi xem lại quyển nhật ký của tôi, tôi thấy một vài dòng chữ
được gạch chân, chúng đánh dấu những bước quan trọng trong sự thích nghi
(tiếp nhận) những tín hiệu mới của cô bé. Năm ngày sau khi cấy điện cực
cuối cùng, bằng sức nghe, Holly đã phân biệt được 8 bài hát ru. Chưa đầy hai
tuần sau đó, chúng tôi hát ru lại những bài hát đó, cô bé nhớ rất rõ. Trong một
vài tháng, chúng tôi đã "theo dõi" nơi nào Holly sẽ nhắc lại từng câu nói của
tôi. Đây là cách kiểm tra đúp của hai chúng tôi để đảm bảo rằng cô bé đang
nghe đúng và hiểu ý nghĩa của lời nói. Bây giờ, sự nhắc lại không còn cần
thiết nữa trừ những từ lạ. Kết quả là thông qua việc học đọc những từ mới và
qua sự trải nghiệm, sự mở rộng vốn từ vựng đã giúp cô bé trở lại với quá
trình phát triển bình thường. Giờ đây, Holly không còn thấy khó khăn khi đọc
những từ lạ và nghe sự giải thích những ý nghĩa của chúng.
Cuộc sống của chúng tôi giờ đây đã thực sự ổn thoả kể từ khi Holly
thích ứng được với điện cực ốc tai. 16 tháng qua nhất định là bước ngoặt lớn
đối với chúng tôi, bắt đầu là căn bệnh viêm màng não của Holly, sau đó là cô
bé trở nên khó hiểu và thu mình lại. Giờ đây, với điện cực ốc tai, chúng tôi
hoàn toàn hầu như yêu tâm và cuộc sống của tất cả chúng tôi trong gia đình
đã gần như trở lại bình thường.
Holly thậm chí có thể nghe vài từ qua điện thoại, cô bé đang bắt đầu
thu thập những cuộc hội thoại thường ngày và nhắc lại vài điều đã nghe thấy
ở trường. Khi ở nhà, thỉnh thoáng Holly vẫn yêu cầu tôi nhắc lại những gì mà
một người nào đó đã nói, để khẳng định với bản thân rằng cô đã nghe đúng.
Thường thường, tôi yêu cầu cô bé nói cho tôi biết điều gì mà cô nghĩ là đã
được nói và hầu hết cô bé đều nói đúng.
Holly có mối quan hệ tốt với mọi người cả trẻ con cũng như người lớn.
Ngược lại, trước khi được cấy điện cực, cô bé cảm thấy cách biệt và xa lạ với
người xung quanh. Có thể 8 tháng bị mất khả năng nghe đã dạy cho cô bé giá
trị đích thực của sự giao tiếp. Chỉ có bản thân Holly mới có thể miêu tả một
cách đúng nhất cảm giác của mình khi nói với chúng tôi rằng cô có thể nghe
bằng cái "pin", nhưng khi nó ngưng hoạt động thì cô hoàn toàn chẳng nghe
thấy gì. Trên thực tế thì cô bé phải tắt máy mỗi tối đi ngủ, điều này cũng luôn
nhắc nhở chúng tôi rằng cuộc sống của cô bé phụ thuộc vào điện cực ốc tai
đến mức nào và thiếu nó thì xung quanh cô chi là một thế giới tĩnh mịch ra
sao.
Tháng 2 năm nay, Holly bắt đầu đi học tại trường tiểu học địa phương
và ở trường cô bé rất vui. Cô không hề có bất cứ khó khăn gì mà chúng tôi đã
dự đoán trước và cũng hiển nhiên là khả năng nghe hiểu của cô cũng dã
được cải thiện một cách rõ rệt trong thời gian cô ở trường học.
Giáo viên của Holly đã nhận xét rằng Holly không có vấn đề gì thực sự
nghiêm trọng trong việc nghe và hiểu trong lớp học có 30 học sinh. Khi không
nghe kịp điều gì thì cô bé rất tự tin yêu cầu giáo viên nhắc lại. Phản ứng tích
cực của Holly trước những sự việc ở trường đã vượt xa so với hy vọng mong
đợi của chúng tôi về sự thành công của việc học hoà nhập.
Tóm lại, sự phản ứng của Holly về diệc cực ốc tai đã quay trở lại bình
thường. Tất nhiên, đây là một kiểu "bình thường" khác biệt, đặc biệt là đối với
chúng tôi, những người làm cha mẹ. Tuy nhiên, giờ đây chúng tôi có thể nhận
thấy những âm thanh mà Holly nghe thấy đủ để giúp cho cô bé nói được một
cách bình thường, nô đùa và giao tiếp với tất cả mọi người một cách dễ dàng.
Cô bé cũng có thể học được ở lớp bình thường của địa phương. Những kết
quả đạt được này đã vượt xa so với sự mong đợi của chúng tôi về cấy điện
cực ốc tai. Cô bé đang là một đứa bé như bao đứa bé khác.
Câu chuyện này đã được viết và ra mắt bạn đọc vào 1 năm sau khi
Holly được cấy điện cực ốc tai.
1988
Phụ lục 5MẪU THU THẬP THÔNG TIN VỀ THÍNH HỌC
Họ và tên trẻ:…………………………………………….Giới tính......................
Ngày tháng năm sinh: ……………………………….......Nơi sinh....................
Ngày bắt đầu chương trình: ..........................................................................
Nhân viên có trách nhiệm: .............................................................................
Địa chỉ thường trú: ........................................................................................
Điện thoại:......................................................................................................
Họ và tên bố:………………………………Tuổi: …………..Nghề nghiệp.........
Họ và tên mẹ:……………………………..Tuổi……………Nghề nghiệp..........
Anhlchị em:.....................................................................................................
Ai là người chăm sóc trẻ thường xuyên?
Ai phát hiện ra trẻ bị khiếm thính?
Trẻ được phát hiện lúc mấy tuổi?
Tên nhà thính học đã chẩn đoán cho trẻ?
Loại khiếm thính (dẫn truyền, tiếp nhận hay hỗn hợp)
Mức độ khiếm thính (nhẹ, vừa, nặng, sâu)
Chẩn đoán ở đâu?
Nguyên nhân gây khiếm thính?
Tiền sử tật khiếm thính trong gia đình?
Ngày đeo máy trợ thính?
Số chỉ định đeo máy?
Thời gian trẻ mang máy?
LẦN ĐẦU TIÊN ĐEO MÁY TRỢ THÍNH
Mục đích của bạn là cho trẻ đeo máy trợ thính cả ngày, với số máy do
nhà thính học chỉ định, và chắc chắn rằng máy trợ thính hoạt động liên tục.
Có thể lúc đầu trẻ chưa thích đeo, máy trợ thính vì trẻ không biết lợi ích
của máy. Sau một thời gian quen với máy, trẻ sẽ nghe được âm thanh và
nghe hiểu được mọi người đang nói gì.
Một số chiến thuật giúp cho việc khuyến khích trẻ đeo máy
Mỗi trẻ sẽ có những phản ứng khác nhau với máy trợ thính, vì vậy bạn
sẽ dùng những chiến thuật khác nhau cho từng trường hợp. Hãy quan sát trẻ
và quyết định cách nào là tốt nhất.
Có thể đeo máy cho trẻ khi:.
Khi trẻ đang vui vẻ chơi với cha mẹ.
Khi trẻ đang chơi đồ chơi.
Khi trẻ đang chú ý một điều gì đấy.
Nếu khó khăn thì:
Cho con bạn nhìn các trẻ khác đeo máy.
Có thể đeo máy cho búp bê hoặc gấu bông trước khi đeo máy cho trẻ.
Nếu trẻ lấy máy ra thì:.
Làm cho trẻ sao nhãng bằng cách dắt trẻ đi dạo.
Cho trẻ chơi những hoạt động cần sử dụng bằng tay.
Không nên đeo máy cho trẻ lần đầu khi:.
Trẻ mệt hoặc đói.
Trẻ buồn hoặc ốm.
Trẻ đang sợ hãi.
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG HỘP HÚT ẨM
Trong hộp nhựa có gối hình tròn chứa các hạt hút ẩm qua nắp nhựa
trắng trên mặt gối.
Trước khi trẻ ngủ, phụ huynh tháo máy trơ thính.
Lau sạch máy trợ thính bằng một miếng vải mềm.
Lau bên ngoài núm tai bằng một miếng vải mềm.
Luôn đảm bảo là không có ráy tai hay nước bên trong ống dẫn của núm
tai. Nếu có ráy tai nên dùng tăm khơi ra. Nếu có nước nên thổi hơi vào cho
khô ống dẫn.
Sau đó:
Mở nắp ngăn để pin, lấy pin ra khỏi ngăn.
Đặt máy trợ thính lên bề mặt mềm của gối hút ẩm, ngăn đẻ pin vẫn mở.
Đóng chặt nắp hộp nhựa lại .
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG ỐNG NGHE KIỂM TRA ÂM THANH CỦA MÁY TRỢ THÍNH
Trẻ đeo máy trợ thính hoạt động tốt ở mọi lúc là điều rất quan trọng.
Nếu bạn sử dụng ống nghe, bạn sẽ tự kiểm tra được máy trợ thính cửa
trẻ.
Bạn có thể kiểm tra máy trợ thính bằng cách lắng nghe âm thanh của
máy qua ống nghe.
Nếu bạn nhận thấy máy trợ thính không hoạt động tốt, bạn có thể đem
máy đi sửa hoặc bạn tự sửa.
Thời gian sử dụng ống nghe:
Mỗi sáng khi bạn lấy máy trợ thính trong hộp hút ẩm ra, bạn nên lắng
nghe âm thanh của máy trợ thính để kiểm tra là máy hoạt động tốt.
Cách lắp đặt máy trợ thính vào ống nghe:
Đối với máy trước ngực: gỡ núm tai ở loa tai ra, sau đó lắp đặt loa tai
vào ống nghe như hình sau:
Máy trợ thính trước ngực -> Dây máy -> Loa tai -> Ống nghe
Đối với máy sau tai: cỡ núm tai ở máy trợ thính ra, sau đó lắp đặt máy
trợ thính vào ống nghe như hình sau:
Máy trợ thính sau tai -> Ống nối -> Ống nhựa -> Ống nghe
TÚI ĐEO MÁY TRỢ THÍNH
1. Tác dụng:
- Bảo quản cho máy khỏi bị rơi.
- Hạn chế máy bị đứt dây.
- Trẻ thoải mà trong khi chơi.
2. Cách làm:
3. Cách đeo:
4. Chú ý:
Máy ở trước ngực của trẻ.
Độ dài của dây túi tuỳ theo độ tuổi của trẻ.
Lỗ thông trên miệng túi cần may bằng vải tuyệt hoặc vải màn để đảm
bảo âm thanh tới được micro và tránh các vật lạ rơi vào.
Cần có 2 cái để thay đổi.
MỤC LỤCLời nói đầu
Mục tiêu và chương trình môn học
Bài 1 - Giải phẫu và sinh lý bộ máy thính giác
1.1. Giải phẫu tai
1 2. Sinh lý tai
1.3. Sự thu nhận độ to nhỏ của âm thanh
1.4. Sự phát triển tai ở trẻ nhỏ
Bài 2 - Âm thanh
2.1. Tần số
2.2. Cường độ
2.3. Trường độ
Bài 3 - Tật khiếm thính
3.1. Khái niệm và phân loại tật khiếm thính
3.2. Nguyên nhân gây khiếm thính
3.3. Ảnh hưởng của tật khiếm thính
Bài 4 - Dụng cụ trợ thính
4.1. Máy trợ thính
4.2. Cấy điện cực ốc tai
Bài 5 - Môi trường nghe thích hợp cho trẻ khiếm thính
5.1. Tín hiệu và tiếng động nền
5.2. Cấu trúc phòng học trong trường có trẻ khiếm thính
5.3. Môi trường yên tĩnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
--//--
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM MẪU GIÁO TW3
THANH THÍNH HỌC TRONG GIÁO DỤC TRẺ KHIẾM THÍNH
Tác giả: TRỊNH THỊ KIM NGỌC
TP. HỒ CHÍ MINH 2006
LƯU HÀNH NỘI BỘ