175
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH BÙI ANH TUN thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ®o¹n hiÖn nay LUN ÁN TIN SĨ KHOA HC CHÍNH TRChuyên ngành: Xây dng Đảng Cng sn Vit Nam Mã s: 62 31 23 01 Người hướng dn khoa hc: 1. PGS, TS. NGÔ HUY TIP 2. TS. NGÔ KIM NGÂN HÀ NI - 2015

thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI ANH TUẤN

thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ®o¹n hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam

Mã số: 62 31 23 01

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS. NGÔ HUY TIẾP

2. TS. NGÔ KIM NGÂN

HÀ NỘI - 2015

Page 2: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả

Bùi Anh Tuấn

Page 3: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6

Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 31

1.1. Khái quát về công tác kiểm tra của Đảng 31 1.2. Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 39

Chương 2: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 73

2.1. Thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng hiện nay 73

2.2. Nguyên nhân thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng hiện nay 89

2.3. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra qua thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 103

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 112

3.1. Dự báo một số tình hình có liên quan và phương hướng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng trong thời gian tới 112

3.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 118

KẾT LUẬN 119 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153 PHỤ LỤC 172

Page 4: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt

quan tâm công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đảng ta luôn khẳng

định: lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo; kiểm tra là

chức năng lãnh đạo của Đảng, là một nội dung của phương thức lãnh đạo, là

bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.

Trong quá trình tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, thẩm tra, xác

minh là một khâu hoạt động rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, nếu chưa

thẩm tra, xác minh hoặc thẩm tra, xác minh chưa rõ ràng, chu đáo thì chưa thể

kết thúc kiểm tra và như thế cũng có nghĩa là chưa thể kết luận, xử lý đối với

nội dung và đối tượng kiểm tra. Chất lượng và kết quả của hoạt động thẩm

tra, xác minh có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc kết luận và quyết định

xử lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra. Phương

châm “công minh, chính xác, kịp thời” của việc thi hành kỷ luật trong Đảng

được thực hiện tốt hay không, đạt được đến mức độ nào đều phụ thuộc vào

mức độ, hiệu quả của hoạt động thẩm tra, xác minh.

Nhiều năm qua, nhất là từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới

toàn diện và sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, công tác kiểm tra nói chung và hoạt

động thẩm tra, xác minh nói riêng của các tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra

các cấp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực trong công

tác xây dựng Đảng. Khi tiến hành thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra

của Đảng, cán bộ kiểm tra các cấp đã bám sát và tuân thủ thực hiện đúng các

nguyên tắc thẩm tra, xác minh, bám sát nội dung kiểm tra; thực hiện dân chủ,

khách quan, công khai; thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng và

phương pháp công tác kiểm tra của Đảng. Do làm tốt thẩm tra, xác minh nên

nhiều cuộc kiểm tra kết luận chính xác, đối tượng được kiểm tra “tâm phục”,

Page 5: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

2

“khẩu phục”, nhiều vụ việc được xử lý công minh, chính xác, kịp thời, có tác

dụng góp phần nâng cao trách nhiệm, chất lượng công tác xây dựng Đảng ở

nơi được kiểm tra.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, những kết quả đạt được, hoạt

động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra cũng đã và đang bộc lộ

những khó khăn, hạn chế cần nhanh chóng được khắc phục. Một số cấp ủy, tổ

chức đảng, ủy ban kiểm tra và cán bộ trực tiếp tiến hành kiểm tra chưa thật sự

quan tâm, coi trọng vị trí, vai trò của hoạt động thẩm tra, xác minh. Một số vụ

việc tiến hành thẩm tra, xác minh không kỹ, không đầy đủ, chưa sâu, chưa tìm

được bằng chứng xác thực, làm ảnh hưởng đến tính chính xác, khách quan khi

kết luận nội dung kiểm tra. Chất lượng chứng cứ sau một số cuộc thẩm tra,

xác minh không đầy đủ và xác đáng để làm cơ sở kết luận nội dung và đối

tượng kiểm tra. Hoạt động thẩm tra, xác minh - theo nguyên tắc và phương

pháp công tác đảng - phải lấy việc tự phê bình và phê bình làm biện pháp

chính; tuy nhiên, trong thực tế, hiệu quả của việc thực hiện biện pháp chính

yếu này không phải là như nhau và lúc nào cũng có vai trò tích cực, nhất là

trong bối cảnh những tổ chức đảng mất đoàn kết nội bộ, ý thức đảng chưa

cao. Đặc biệt, nhiều vụ việc, hành vi của đối tượng kiểm tra không chỉ dừng

trong nội bộ Đảng, mà còn liên quan đến pháp luật, đến nhiều lĩnh vực khác,

kể cả những mối quan hệ xã hội của đối tượng kiểm tra… Điều đó đòi hỏi

hoạt động thẩm tra, xác minh muốn có hiệu quả cần phải có sự cộng tác, phối

hợp của nhiều hoạt động, nhiều tổ chức và mang tính nghiệp vụ cao. Biện

pháp tự phê bình và phê bình trong nội bộ tổ chức đảng để tiến hành thẩm tra,

xác minh cũng cần được hoàn thiện, phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn

hiện nay trên cơ sở đặc điểm thực trạng của tổ chức cơ sở đảng có đối tượng

kiểm tra.

Những hạn chế trong hoạt động thẩm tra, xác minh dẫn đến quyết định

xử lý không chuẩn xác như oan sai, bỏ lọt các hành vi và đối tượng vi phạm,

Page 6: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

3

tiêu cực hoặc không bảo vệ được chân lý và các nhân tố tích cực… Những

hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: tính phức tạp của các vụ

việc, sự yếu kém về tính tự giác của đối tượng kiểm tra, thực trạng nội bộ tổ

chức đảng thiếu tính chiến đấu,... song nguyên nhân cơ bản là về quan điểm

và phương pháp, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kiểm tra cũng như quy trình

tiến hành thẩm tra, xác minh chưa có sự đổi mới, nâng cao chất lượng cho

phù hợp với tình hình mới.

Để tiếp tục phát huy kết quả cũng như góp phần khắc phục những mặt

hạn chế, yếu kém trong công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra,

xác minh nói riêng thời gian qua nhằm đáp ứng những yêu cầu của công cuộc

đổi mới và công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, việc nghiên cứu đề tài

“Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay”

là rất cấp thiết.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất

một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công

tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của hoạt động

thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.

- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, khái quát một số kinh

nghiệm tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai

đoạn hiện nay.

- Phân tích những nhân tố tác động, đề xuất phương hướng và một số

giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác

kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.

Page 7: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm

tra của Đảng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về lĩnh vực nghiên cứu, luận án đi sâu nghiên cứu thẩm tra, xác minh

trong công tác kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trên tất cả các đối tượng, nhiệm vụ kiểm tra.

Phạm vi nghiên cứu của luận án về thời gian từ năm 2001 đến nay; phương hướng giải pháp của luận án có giá trị định hướng đến năm 2020.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra, về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; nghiên cứu một số Luật, văn bản dưới Luật liên quan đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, như: Luật Tố cáo; Luật Khiếu nại; Luật Phòng, chống tham nhũng; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính… Luận án còn kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.

4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng việc tổng kết thực tiễn, điều tra, khảo sát, phương pháp chuyên gia, hệ thống, kết hợp chặt chẽ lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh.

5. Đóng góp khoa học của luận án - Luận giải, làm rõ hơn, sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về công tác

kiểm tra của Đảng, trong đó tập trung vào hoạt động thẩm tra, xác minh trong

công tác kiểm tra của Đảng.

Page 8: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

5

- Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong

công tác kiểm tra của Đảng, khái quát một số kinh nghiệm tiến hành thẩm tra,

xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.

- Đề xuất một số nội dung, biện pháp có tính khả thi nhằm thực hiện tốt hoạt

động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo có giá trị đối với

ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra

của Đảng; trong bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác

kiểm tra của Đảng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng

làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn xây dựng

Đảng và chính quyền Nhà nước trong các học viện, nhà trường trong cả nước.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận các danh muc công trình của tác giả liên

quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội chính của luận

án gồm 3 chương, 7 tiết.

Page 9: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Ở NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC NGHIÊN CỨU VỀ KINH NGHIỆM CỦA NƯỚC NGOÀI 1.1.1. Các công trình nghiên cứu có tác giả là người nước ngoài

Lý Quang Diệu trong "Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965-

2000" [59], trong bài viết chủ đề “Xây dựng một Chính phủ trong sạch”, tác

giả - Thủ tướng đầu tiên (từ năm 1959-1990) và là người có vai trò to lớn

trong việc thay đổi và phát triển đất nước Singapore trở thành một trong

những “con rồng Châu Á” - đã khẳng định và nêu bật quyết tâm của Đảng

Hành động Nhân dân (tên viết tắt tiếng Anh là PAP) khi lên nắm chính

quyền vào năm 1959, là đã xác định và bắt tay xây dựng một chính quyền

trong sạch. Một trong những “công cụ được mài nhọn” để có thể ngăn

chặn, phát hiện và cản trở những thủ đoạn tham nhũng là cơ quan trọng yếu

thực hiện nhiệm vụ này: Ban Điều tra hành vi tham nhũng (tên viết tắt

tiếng Anh là CPIB), có quyền hạn được điều tra bất kỳ viên chức hay vị Bộ

trưởng nào. Nhân viên của Ban cũng được ủng hộ để thực thi luật, không e

dè hay thiên vị.

Đến năm 1960, chính quyền của Đảng PAP thực hiện việc nới rộng

quyền lực của các điều tra viên, kể cả quyền bắt giữ, khám xét, thanh tra tài

khoản, sổ ghi tiền gửi ngân hàng của những kẻ bị tình nghi cũng như của vợ,

con và thuộc hạ của họ. Một sự thay đổi nữa là cho phép những người xét xử

xem những chứng cứ cho thấy người bị tố cáo đang sống ở mức sống vượt

quá khả năng kinh tế của họ hoặc có những tài sản mà thu nhập của họ không

thể giải thích, là bằng chứng xác thực chứng minh rằng người bị tố cáo đã

nhận hối lộ.

Page 10: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

7

Tác giả Lý Quang Diệu rút ra nhận định ở cuối bài viết: “Hệ thống

được lập ra điều tra và báo cáo trung thực sẽ chứng minh hệ thống ấy công

minh và hiệu quả, không ai ở ngoài lưới pháp luật cả” [59, tr.175].

Hồng Vĩ trong "Các biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc"

[197] đã nghiên cứu và trình bày rất sâu sắc về nạn tham nhũng, về cuộc đấu

tranh chống tham nhũng ở Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Trung Quốc và vai trò lĩnh ấn tiên phong của Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung

ương trong cuộc đấu tranh khắc nghiệt này.

Sau khi phân tích những khó khăn trong việc chống tham nhũng, tác

giả cho rằng, các cơ quan chức năng phải không ngừng tăng cường công tác

điều tra xử lý các vụ án lớn, nghiêm trọng để trừng phạt nghiêm khắc và gây

sức ép mạnh mẽ, quyết không cho phép những phần tử tham nhũng ẩn náu

trong Đảng. Theo tác giả, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Uỷ ban Kiểm tra Kỷ

luật Trung ương ưu tiên, đặt trọng tâm là phải điều tra tỷ mỉ và xử lý nghiêm

các vụ án cán bộ lãnh đạo lợi dụng chức quyền mưu lợi cá nhân, coi thường

chức trách, cương vị công tác, gây thất thoát nghiêm trọng tài sản nhà nước;

điều tra thận trọng và xử lý các vụ án cán bộ cấp cơ sở nông thôn vi phạm kỷ

cương, luật pháp... Để làm được việc này, bên cạnh việc thực hiện một số

biện pháp, phải tăng cường sự phối hợp giữa các ngành kiểm tra kỷ luật, tòa

án, kiểm sát, giám sát, thẩm duyệt trong quá trình điều tra, xử lý các vụ án.

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Cộng sản

Trung Quốc (tháng 11-2012), Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng

Cộng sản Trung Quốc đã trình bày Báo cáo về tình hình công tác 5 năm

(2007-2012) và kiến nghị công tác thời gian tới [188], báo cáo đã được Đại

hội thẩm tra và thông qua. Trong Báo cáo có một số nội dung về công tác điều

tra trong Đảng như:

Kiên quyết điều tra xử lý những vụ án vi phạm pháp luật, bảo vệ tính

nghiêm túc của kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đặt việc điều tra xử lý

Page 11: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

8

các vụ án lên vị trí quan trọng, điều tra xử lý trọng điểm những vụ án lạm

dụng chức quyền, tham ô hối lộ, tha hóa biến chất, không làm tròn chức trách

của cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo, những vụ án mà những người liên

quan tuy cấp bậc không cao nhưng số tiền lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng, và

những vụ án tham nhũng nảy sinh bên cạnh quần chúng… Tăng cường công

tác thẩm tra, xét xử khiếu nại, điều tra lại và quản lý giám sát vụ án, bảo vệ

quyền lợi hợp pháp của cán bộ, đảng viên. Cơ chế tổ chức phối hợp điều tra

vụ án ngày càng kiện toàn hơn. Các chức năng trị tận gốc, trong đó có điều tra

xử lý vụ án ngày càng được phát huy.

Báo cáo cũng nhận định: Hành vi tham nhũng ngày càng phức tạp, kín

đáo, độ khó của việc phát hiện và điều tra ngày càng tăng …

Báo cáo đã nêu lên bảy kinh nghiệm cơ bản trong công tác xây dựng

tác phong Đảng liêm chính và chống tham nhũng, trong đó có kinh nghiệm

(thứ năm): Kiên quyết điều tra xử lý những vụ án vi phạm kỷ luật, pháp luật,

đặc biệt là phải làm tốt việc điều tra xử lý các vụ án lớn, quan trọng…

Qua Báo cáo, Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương đã đề xuất 8 kiến

nghị với với Đại hội XVIII, trong đó: Kiến nghị thứ nhất: Ủy ban kiểm tra kỷ

luật các cấp phải nghiêm khắc điều tra xử lý hành vi vi phạm kỷ luật chính trị,

kiên quyết bảo vệ sự tập trung thống nhất của Đảng; kiến nghị thứ tư tập trung

nhấn mạnh: Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý những vụ án vi phạm kỷ luật,

pháp luật, bảo đảm xu thế trừng trị tham nhũng mạnh mẽ; kiến nghị thứ năm

nêu: Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện, nghiêm túc điều tra

hành vi vi phạm và nâng cao năng lực thực hiện chế độ liêm khiết; kiến nghị

thứ sáu: Phát huy hơn nữa vai trò giám sát của chế độ tuần thị, tăng cường

năng lực phát hiện vấn đề. Kiên trì làm tốt việc thẩm tra trách nhiệm kinh tế

của cán bộ lãnh đạo chủ chốt và nhân viên lãnh đạo công ty nhà nước, tăng

cường thẩm tra đối với vốn chuyên đề trọng điểm và công trình đầu tư lớn; kiến

nghị thứ tám nhấn mạnh về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra cả về

Page 12: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

9

bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, trong đó: Cán bộ kiểm

tra, giám sát cần phải nắm vững mấu chốt là xây dựng, tăng cường năng lực

điều tra, phương pháp và trình độ thực hiện chức trách một cách khoa học…

Tác giả Phuthắc Phítthanuson trong “Công tác kiểm tra của Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay” [137], tại chương 2, khi

đánh giá ưu điểm trong công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân Cách mạng

Lào, tác giả viết: …Khi kiểm tra và xử lý kỷ luật đã làm tốt công tác thẩm tra,

xác minh… Tuy nhiên, ở phần đánh giá nhược điểm, tác giả cũng thẳng thắn

thừa nhận: …Uỷ ban kiểm tra chưa đủ mạnh, chưa có phương pháp, phương

thức tiếp cận. Cho nên, trong thời gian qua, chỉ khi có vi phạm nghiêm trọng

đến mức phạm pháp thì mới tiến hành kiểm tra, thẩm tra, xác minh và phải tổ

chức thành đoàn kiểm tra theo chỉ thị, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng mới tiến hành kiểm tra được, nhất là cán bộ là ủy viên ban chấp hành

tỉnh ủy, huyện ủy…

Trong chương 3, ở giải pháp thứ hai (Kiện toàn bộ máy ủy ban kiểm tra

và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra), tác giả nêu: Người cán bộ

kiểm tra là người có khả năng triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ lập kế hoạch,

thẩm tra, xác minh, viết báo cáo, văn bản, theo dõi thực hiện quyết định và lập

hồ sơ lưu trữ;… Ở giải pháp thứ tư, tác giả đề xuất: phải phát huy trách nhiệm

xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân, tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở,

tạo điều kiện để quần chúng tham gia ý kiến, phản ảnh về đối tượng kiểm tra;

tuy nhiên, những ý kiến đó phải được chọn lọc, kiểm tra, xác minh.

Tác giả Chănsyseng Sômphu trong “Chất lượng công tác kiểm tra của

ủy ban kiểm tra Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng

hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay” [143], tác giả luận án

đã đề xuất giải pháp “Nắm vững và thực hiện tốt phương pháp, nguyên tắc,

hình thức kiểm tra, thực hiện dân chủ hóa, công khai hóa công tác kiểm tra”,

trong đó phải làm tốt công tác thẩm tra, xác minh. Yêu cầu đặt ra khi đánh

Page 13: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

10

giá, kết luận những ưu điểm và khuyết điểm của cán bộ, đảng viên hoặc tổ

chức đảng được kiểm tra phải đúng với bản chất của sự việc, sự kiện, do đó

trong quá trình kiểm tra nhất thiết phải có khâu thẩm tra, xác minh. Tác giả

cũng đặt ra yêu cầu là cần xác định đúng về đối tượng thẩm tra, xác minh và

phân biệt giữa đối tượng kiểm tra với đối tượng thẩm tra, xác minh; chọn

đúng nội dung, đồng thời phải có phương pháp thẩm tra, xác minh hết sức

khoa học, tinh vi mới đảm bảo hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác kiểm tra

Đảng và Nhà nước giai đoạn mới hiện nay.

1.1.2. Các công trình có tác giả là người Việt Nam nghiên cứu về

kinh nghiệm của nước ngoài

Sách "Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế

giới" của Ban Nội chính Trung ương [33], đã nêu và phân tích kinh nghiệm

của một số nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, trong đó có

những kinh nghiệm về biện pháp kiểm tra, điều tra của Đảng cầm quyền, như:

Lào thực hiện nhất thể các chức danh lãnh đạo Đảng và Nhà nước;

kiểm tra Đảng và thanh tra Chính phủ sáp nhập thành Ban Kiểm tra Đảng

Nhân dân Cách mạng Lào. Do đó, việc phối, kết hợp giữa kiểm tra đảng và

thanh tra nhà nước phát huy và khai thác được khả năng cán bộ, hỗ trợ, bổ

sung cho nhau về kết quả thẩm tra, xác minh trong quá trình thực hiện các

cuộc kiểm tra và thanh tra để kịp thời và đồng bộ trong xử lý.

Các đảng cầm quyền ở Australia luôn đề cao cơ chế bảo đảm sự liêm

chính trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan công quyền; áp dụng kỹ

thuật điều tra đặc biệt, các phiên điều trần theo quy định của luật pháp. Bên

cạnh đó, coi trọng công luận và dư luận quần chúng trong việc giám sát hành

vi của công chức, khuyến khích và phát huy vai trò báo chí có tính độc lập

tương đối trong điều tra, phòng, chống tham nhũng và công chức có sai phạm.

Đảng Hành động Nhân dân Singapore (là Đảng duy nhất nắm quyền ở

Singapore suốt từ thời lập quốc đến nay) xác định xem xét cả các đơn thư tố

Page 14: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

11

giác không ghi tên người gửi, thậm chí xem xét cả các cuộc điện thoại gọi tới.

Khi xem xét, phải quyết định có tiến hành điều tra hay không, nếu có thì phải

điều tra ngay (không được để quá 4 ngày). Vì họ cho rằng, thư nặc danh là

một nguồn thông tin, còn kết luận công chức có sai phạm, có tham nhũng hay

không thuộc nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền.

Bên cạnh đó, nhiều nước cho phép cơ quan chức năng được sử dụng

một số biện pháp đặc biệt như nghe điện thoại bí mật, xây dựng cơ sở bí

mật... để phát hiện công chức sai phạm, tham nhũng.

Trong "Báo cáo khảo sát, nghiên cứu về công tác kiểm tra, kỷ luật của

Đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại Trung Quốc" của

các đoàn công tác của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Ban Đối ngoại Trung

ương, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng -

Ban Nội chính Trung ương, Thanh tra Chính phủ (giai đoạn 2008-2014) [182]

đã tổng hợp rất sâu sắc nhiều nội dung như:

Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc có các quyền hạn:

Quyền giám sát, quyền kiểm tra, quyền điều tra, quyền kiến nghị và quyền xử

lý kỷ luật. Nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra, kỷ luật trong công tác kiểm tra vụ việc

có nội dung: điều tra rõ sự việc; thu thập chứng cứ xác đáng, đầy đủ; người vi

phạm bị kỷ luật và trừng trị thích đáng; người không vi phạm không bị truy cứu.

Yêu cầu đặt ra là sự thật rõ ràng; chứng cứ xác đáng, chuẩn xác (rất quan trọng);

xử lý đúng mức; thủ tục hoàn chỉnh và trình tự phải hợp pháp.

Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc rất chú trọng

những kỹ năng cơ bản của công tác kiểm tra, cụ thể là 4 kỹ năng: Kỹ năng kết

hợp giữa tiến hành thẩm tra, xác minh trực tiếp, công khai với gián tiếp, bí

mật; Kỹ năng kết hợp công tác tư tưởng để phát huy tính tự giác của đối

tượng kiểm tra với thẩm tra, xác minh, tìm bằng chứng; Kỹ năng nắm tình

hình tại chỗ (qua việc thành lập các tổ thị sát) và Kỹ năng xem xét nguồn gốc

phát sinh sai phạm ("trị tận gốc, trị lý tổng hợp, coi trọng phòng ngừa").

Page 15: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

12

Trình tự và phương pháp khi xử lý một vụ án của uỷ ban kiểm tra kỷ

luật Đảng Cộng sản Trung Quốc được tiến hành theo các bước như sau:

Thứ nhất, thụ lý vụ án

Sau khi xem xét sơ bộ tài liệu và tiến hành xử lý, nếu tài liệu cán bộ bị

xử lý thuộc thẩm quyền của ủy ban kiểm tra kỷ luật thì xác định có thể điều

tra xử lý trực tiếp, làm rõ vấn đề có lập án không; những tài liệu ủy ban kiểm

tra kỷ luật đang làm rõ bước đầu, lập án phải chuyển các đội điều tra chuyên

môn. Tài liệu phát hiện chưa rõ dấu hiệu vi phạm chuyển ủy ban kiểm tra kỷ

luật cấp dưới làm rõ hơn; tài liệu không cụ thể, không có khả năng điều tra thì

lưu trữ lại.

Thứ hai, xác minh, làm rõ bước đầu

Về trình tự trong xác minh: Ủy ban kiểm tra kỷ luật, cơ quan thanh

tra quyết định lập tổ làm rõ bước đầu, làm rõ bước đầu tài liệu tố cáo, đơn

khiếu nại trước khi lập án (vấn đề trong đơn thư có thật hay không, có cần

xử lý kỷ luật đối với đối tượng được phản ánh trong đơn thư không; cung

cấp được chứng cứ cho việc lập án hay không). Giai đoạn này phải điều tra

lấy chứng cứ cho chặt chẽ, phải giữ gìn bí mật với bên ngoài và trong nội

bộ. Nếu đủ chứng cứ thì lập án, nếu chưa đủ thì chưa lập án. Trong tài liệu

phản ánh cán bộ có nhiều vấn đề, tiến hành làm rõ vấn đề chính, nếu thu

thập một chứng cứ khi trao đổi trực tiếp với đối tượng, họ không khai thì

tìm giải pháp khác; những vấn đề chính tìm ra càng nhiều chứng cứ càng

tốt. Quá trình làm rõ bước đầu, chú ý nhân vật đặc biệt, việc đặc biệt, thời

điểm đặc biệt. Kiên trì nguyên tắc thực sự cầu thị, khẳng định rõ có hoặc

không. Vì đối tượng điều tra là cán bộ đảm nhiệm chức vụ nhất định, để

tránh hiệu ứng tiêu cực không cần thiết, chú trọng xử lý khéo léo. Có giải

pháp điều tra hợp lý, điều tra cấp trên tiến hành từ cấp dưới, bên trong từ

bên ngoài, điều tra đối tượng A từ đối tượng B, qua đó nắm bắt được nhiều

chứng cứ.

Page 16: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

13

Về xử lý kết quả xác minh: Khi kết thúc làm rõ bước đầu, đánh giá kết quả làm rõ, đưa ra kiến nghị xử lý. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm, phải truy cứu thì lập án để điều tra sâu hơn.

Thứ ba, lập án để điều tra Chỉ ủy ban kiểm tra, kỷ luật theo thẩm quyền quy định của Điều lệ

Đảng phát hiện tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm phải truy cứu thì quyết định lập án để điều tra.

Thứ tư, điều tra sau khi lập án Thông qua điều tra làm rõ vấn đề trái kỷ luật đối với những vấn đề đã

được lập án. Hiệu quả của vụ án phụ thuộc vào giai đoạn điều tra. Thời hạn điều tra là 3 tháng, nếu vụ án phức tạp có thể kéo dài thêm 1 tháng, gia hạn thêm không quá 3 tháng (không vượt thời hạn điều tra trong 6 tháng).

Trình tự điều tra theo 3 bước sau: Một là, bước chuẩn bị: Thành lập tổ điều tra vụ án: trong khi lập tổ điều tra vụ án phải bổ sung

thêm cán bộ tham gia để điều tra các mặt vi phạm của cán bộ. Trong tổ điều tra án chuyên môn có 3 tiểu tổ: tiểu tổ trao đổi trực tiếp với đối tượng chính; tiểu tổ điều tra những vấn đề phản ánh và tiểu tổ tổng hợp. Tiến hành nghiên cứu về những tình tiết, thiết kế, xây dựng, xem xét phương án điều tra, trong đó chú ý quyết định bước đi, công tác trọng điểm. Khi phương án điều tra được phê duyệt thì chuyển sang bước thực thi.

Hai là, bước thực thi: Công bố quyết định lập án: Sau khi có quyết định lập án phải công bố

quyết định này trước đối tượng bị kiểm tra. Tổ điều tra phải tỏ rõ thái độ lập án, nêu yêu cầu đối với đối tượng kiểm tra về: tích cực phối hợp làm rõ vấn đề của mình; đối xử đúng đắn, không có hành vi câu kết với người khác, không có thái độ phản ứng, thiếu hợp tác hoặc tiêu hủy chứng cứ; không trả thù người tố cáo (tổ điều tra phải coi trọng việc bảo vệ người tố cáo trong quá trình điều tra, không để lộ cho người bị điều tra biết).

Page 17: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

14

Thu thập, điều tra chứng cứ một cách toàn diện: thu thập nhân chứng,

vật chứng, tài liệu tố cáo; xem xét, phân tích hiện trường thông qua kỹ thuật

hiện đại. Yêu cầu đối với việc điều tra phải toàn diện, khách quan, phải thực

sự cầu thị, không được chủ quan; không chỉ thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ

hành vi trái kỷ luật, pháp luật của đối tượng bị điều tra, mà phải thu thập, tổng

hợp cả tài liệu chứng minh hành vi không trái kỷ luật, pháp luật của đối tượng

bị điều tra. Việc điều tra lấy chứng cứ, lực lượng chủ chốt là cán bộ trong tổ

điều tra chuyên môn, đồng thời chú trọng huy động nhân dân tham gia vào

việc điều tra. Khi xảy ra vụ việc sẽ để lại chứng cứ, sẽ có người biết việc, nên

yêu cầu công tác điều tra phải đi sâu hơn, kỹ lưỡng hơn. Vì vậy, trong quá

trình điều tra thu thập chứng cứ, cần yêu cầu cơ quan hữu quan giúp đỡ, phối

hợp (cơ quan thuế vụ điều tra nộp thuế của đối tượng; trung tâm chống rửa

tiền điều tra tiền vốn của đối tượng…). Thông qua sự cố gắng chung, phối

hợp cơ quan hữu quan làm rõ sự thật, chứng cứ của vụ án.

Ba là, bước cuối cùng (bước kết thúc):

Phân tích vụ án, tìm ra sự thật hành vi sai trái, cho người bị điều tra

xem xét lại nội dung hành vi vi phạm; đưa ra ý kiến thẩm định và đề xuất việc

xem xét, xử lý. Hoàn chỉnh báo cáo xử lý, đồng thời hoàn chỉnh giai đoạn

điều tra, chuyển cơ quan hữu quan. Giai đoạn điều tra xử lý vụ án có nhiều cơ

quan hữu quan, như: cơ quan tiếp dân tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của quần

chúng; cơ quan phụ trách vụ án; đơn vị làm rõ sơ bộ, lập án điều tra. Khi kết

thúc điều tra lập án, chuyển hồ sơ, tài liệu điều tra sang văn phòng xét xử vụ

án; văn phòng xét xử vụ án căn cứ tình tiết vi phạm, đưa ra kiến nghị xử lý.

Các biện pháp điều tra được sử dụng, bao gồm:

Một là, các biện pháp điều tra chung: Song quy (yêu cầu đảng viên

trong vụ án trình bày rõ vấn đề trong thời gian quy định, địa điểm quy định;

đồng thời, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp chứng cứ

đúng sự thật, tài liệu liên quan đến vụ án, không được từ chối, quấy nhiễu vụ

Page 18: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

15

án); ghi âm, chụp ảnh, quay phim về những nhân viên, vụ việc liên quan đến

vụ án khi cần thiết (hình thức này làm chặt chẽ chứng cứ thu thập được và

giám sát chặt chẽ cán bộ xử lý vụ án); thẩm tra tài liệu và sao tài liệu liên

quan (khi cần thiết có thể tiến hành niêm phong tài liệu); điều tra tài khoản

đơn vị và nhân viên liên quan (có thể mời tòa án phong tỏa tài khoản của cán

bộ bị điều tra tại ngân hàng); mời cơ quan hữu quan thực hiện việc giám định

kỹ thuật những vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ.

Hai là, biện pháp điều tra đột phá vụ án quan trọng, vụ án lớn:

Công tác chính trong xử lý vụ án phải tập trung đối thoại với đối tượng

bị điều tra, tranh thủ đột phá vào trung tâm. Thực tiễn phải dựa vào "4 dùng":

dùng sức đe dọa của kỷ luật đảng; dùng thuyết minh chính sách; dùng quan

điểm tính nhân văn; dùng chính trị của mình. Phải nắm bắt trạng thái tâm lý,

hiểu mong muốn, nỗi sợ, suy nghĩ của đối tượng điều tra. Trường hợp đối

tượng bị điều tra cố tình không khai báo, tổ điều tra phải tự tiến hành việc thu

thập chứng cứ và đề phòng họ có nhiều hình thức biện bạch về vi phạm của

mình. Đối tượng - kể cả là cán bộ lãnh đạo - càng cố giấu hành vi vi phạm của

mình, mặc dù họ chưa khai báo, qua chứng cứ chặt chẽ thu được vẫn làm rõ

được sự thật. Yêu cầu quá trình xử lý vụ án phải trọng chứng cứ, không chỉ

dựa vào lời khai, đây là hai mặt của vụ án. Xử lý quá trình trung tâm rút ngắn

thời gian xử lý vụ án và giảm chi phí là rất quan trọng.

Đột phá không lời khai cung phải đầu tư nhiều sức người, tiền của, tốn

kém thời gian. Nếu để thời gian kéo dài gây hiệu ứng tiêu cực cho quá trình

xử lý vụ án. Vì vậy, khi cần thiết phải dựa vào trinh sát điều tra thu thập

chứng cứ để đột phá nhanh vào trung tâm.

Khi kết thúc điều tra, cho đối tượng bị điều tra xem tài liệu thu thập

được và cho các đối tượng này gặp nhau để họ thực sự tâm phục, khẩu phục.

Nếu các đối tượng điều tra có ý kiến bất đồng đúng đắn thì chấp nhận, không

đúng đắn thì giải thích lại, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, xác định tính chất

Page 19: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

16

trái kỷ luật của họ, đưa ra kiến nghị kết quả xử lý thích hợp. Sau đó, hoàn

thành báo cáo, chuyển cơ quan có chức năng xử lý.

Như vậy, có thể thấy trong trình tự và phương pháp kiểm tra xử lý vụ

án (vụ việc), ủy ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm

và tôn trọng các bước thẩm tra, xác minh từ khâu ban đầu đến khi kết thúc vụ

việc. Trong thông tin ban đầu là cơ sở để lập hồ sơ điều tra vụ án, vì vậy đây

được coi là khâu quan trọng có tính quyết định tới các bước tiếp theo. Trong

khi điều tra vụ án phải tuân theo nguyên tắc và trình tự điều tra vụ án (trình

tự, thủ tục thẩm tra, xác minh) để làm rõ vụ việc.

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC 1.2.1. Các đề tài khoa học

Tác giả Nguyễn Anh Liên trong “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và

nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng”

[115], đây là đề tài khoa học đầu tiên về thẩm tra, xác minh trong công tác

kiểm tra của Đảng. Đề tài được thực hiện với mục tiêu tập trung đề xuất, kiến

nghị những giải pháp đổi mới về phương pháp, nghiệp vụ và quy trình tiến

hành thẩm tra xác minh, nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ nhiệm vụ kiểm tra

Đảng. Các tác giả của đề tài đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và

thực tiễn của hoạt động thẩm tra, xác minh và cũng là đóng góp mới về khoa

học và thực tiễn, như: đã luận giải có sức thuyết phục tư tưởng Hồ Chí Minh

về tự phê bình và phê bình là cơ sở phương pháp luận của hoạt động thẩm tra,

xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; do vậy, hoạt động thẩm tra, xác

minh trong công tác kiểm tra của Đảng phải lấy tự phê bình và phê bình trong

tổ chức đảng làm biện pháp chính yếu; đã đi sâu nghiên cứu những khái niệm

như "thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng"; những vấn đề về

quan niệm như: "trọng chứng", "trọng cung", "án tại hồ sơ"… trong công tác

kiểm tra của Đảng; làm nổi bật được hoạt động thẩm tra, xác minh trong công

tác kiểm tra của Đảng nhất thiết và chủ yếu phải dựa vào hệ thống tổ chức

Page 20: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

17

đảng; người được kiểm tra cũng đồng thời là người kiểm tra; đã đề xuất được

ba giải pháp hợp lý, có tính khả thi nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả, chất

lượng thẩm tra, xác minh...

Tuy nhiên, vì một số lý do, đề tài có thể cần phân tích sâu hơn mối

quan hệ giữa hoạt động thẩm tra, xác minh và các hoạt động khác, trong đó

chú trọng hoạt động phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên,

của phương pháp cơ bản trong công tác kiểm tra của Đảng, có những kiến

nghị cụ thể hơn việc áp dụng kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn của

ủy ban kiểm tra các cấp, góp phần theo dõi, giúp đỡ ủy ban kiểm tra các cấp

vận dụng quy trình trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài…

Mặc dù vậy, tuy có dung lượng không lớn (khoảng 60 trang đánh máy)

nhưng đây là lần đầu tiên, một đề tài đã nêu lên những vấn đề rất mới mẻ,

khái quát một cách có hệ thống, luận chứng khá sâu sắc, cụ thể về thẩm tra,

xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Những nội dung, kiến thức,

những luận cứ khoa học, những vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài là nguồn

tham khảo hết sức quý báu, hữu ích và sát thực cho luận án.

Tác giả Phạm Thị Ngạn trong “Hệ thống kỹ năng nghiệp vụ trong công

tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng” [121], đã phân tích cụ thể hệ thống kỹ

năng nghiệp vụ kiểm tra, bao gồm: các kỹ năng chung của công tác kiểm tra,

kỷ luật đảng và các kỹ năng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định tại

Điều 32 Điều lệ Đảng. Trong các kỹ năng chung có: Kỹ năng giao tiếp; kỹ

năng vận động, thuyết phục và cảm hóa con người; kỹ năng phối hợp nhóm;

kỹ năng thu thập và xử lý thông tin; kỹ năng thẩm tra, xác minh.

Tác giả Tô Quang Thu trong “Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ

năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra trong giai đoạn mới” [157], đã đề xuất

các nhóm giải pháp nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra, trong đó

có kỹ năng thẩm tra, xác minh, qua việc đào tạo, bồi dưỡng và tự đào tạo, bồi

dưỡng (về nghiệp vụ) và việc rèn luyện trong thực tiễn (trong quá trình giải

Page 21: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

18

quyết vụ việc của các đoàn kiểm tra; rèn luyện phương pháp tư duy, phương

pháp làm việc khoa học; tổng kết kinh nghiệm,…).

1.2.2. Sách

Tác giả Nguyễn Thị Doan trong “Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật

nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới”

[60], trong chương 3, phần "Quan điểm và định hướng đổi mới công tác kiểm

tra, kỷ luật đảng", các tác giả cuốn sách khẳng định: Khi kiểm tra phải làm tốt

thẩm tra, xác minh, chưa thẩm tra, xác minh để có chứng cứ cụ thể, rõ ràng

bảo đảm tính pháp lý, hợp lý thì chưa kết luận. Về yêu cầu đổi mới công tác

kiểm tra, kỷ luật trong Đảng, cụ thể là đổi mới phương thức hoạt động kiểm

tra trong Đảng, các tác giả đã nhấn mạnh tính đặc trưng của phương pháp

kiểm tra, nhất là phương pháp nghiệp vụ tiến hành thẩm tra, xác minh - một

khâu trọng yếu có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động kiểm tra và bảo

đảm phương châm "công minh, chính xác, kịp thời" trong việc thi hành kỷ

luật. Theo các tác giả, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra

của Đảng rất quan trọng bởi trong giai đoạn cách mạng mới, dưới tác động

của các mặt tiêu cực, tính tự giác và tự phê bình của một số cán bộ, đảng viên

giảm sút, trong khi cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, thậm chí không có, không

đồng bộ nên thiếu chuẩn mực để xem xét, kết luận.

Ở chương 4, vấn đề lý luận thứ năm được các tác giả rút ra qua hoạt

động thực tiễn là: Nắm vững và thực hiện tốt phương pháp cơ bản có tính

nguyên tắc của công tác kiểm tra, trong đó có việc làm tốt công tác thẩm tra,

xác minh. Các tác giả cho rằng: Trong các phương pháp cơ bản, thẩm tra, xác

minh là phương pháp đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay…

Chưa thẩm tra, xác minh thì chưa thể kết luận. Trường hợp tự phê bình và phê

bình càng yếu, tự giác càng kém thì đòi hỏi thẩm tra, xác minh càng phải công

phu, tỷ mỉ, thận trọng, chính xác. Mặt khác, thẩm tra, xác minh cũng là một

biện pháp nhằm hỗ trợ nâng cao tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên…

Page 22: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

19

Tác giả Bùi Văn Thể trong “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao

chất lượng tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, kỷ luật đảng”

[147], trong chương 1, các tác giả cuốn sách nhận định: Để thực hiện tốt việc

phê bình, chủ thể kiểm tra phải nắm vững: mục đích, yêu cầu cuộc kiểm tra;

nội dung cần kiểm tra, thẩm tra, xác minh; chủ trương, đường lối, chính sách,

nghị quyết, chỉ thị… có liên quan đến các vấn đề cần thẩm tra, xác minh để

làm cơ sở cho việc thẩm tra, xác minh.

Ở chương 2, khi đề cập về vai trò của thẩm tra, xác minh đối với việc

thực hiện tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, các

tác giả cho rằng: Nhiều chứng cứ thu thập được qua thẩm tra, xác minh đã có

sức thuyết phục trong đấu tranh phê bình với những đảng viên vi phạm kỷ

luật đảng, pháp luật của Nhà nước.

Ở chương 3, trong giải pháp thứ năm, các tác giả nhấn mạnh: Trường

hợp đối tượng kiểm tra tính chiến đấu kém, không thành khẩn, thiếu tự giác tự

phê bình, cố tình không nhận thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm, trong khi

chứng lý của chủ thể kiểm tra đưa ra chưa chắc chắn, chưa đủ sức thuyết

phục, thì phải kết hợp chặt chẽ với công tác thẩm tra, xác minh để thu thập, tài

liệu, chứng lý có cơ sở vững chắc để kết luận vụ việc, đồng thời, phải chú ý

phát huy trách nhiệm phê bình, góp ý của tổ chức đảng và đảng viên có liên

quan đến đối tượng kiểm tra để làm rõ trách nhiệm, thiếu sót, vi phạm của đối

tượng kiểm tra...

Tác giả Lê Hồng Liêm trong “Một số giải pháp cơ bản tháo gỡ khó

khăn, trở ngại khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng

viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các cấp” [112], ở chương

II, khi đề cập đến khó khăn, trở ngại trong thực hiện phương pháp, quy trình

kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, các tác giả cuốn sách đã đánh giá: …Việc

phối hợp trao đổi thông tin, đánh giá nhận định dấu hiệu vi phạm có trường

hợp "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", có trường hợp không cung cấp thông

Page 23: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

20

tin cho là "bảo mật", gây trở ngại cho công tác thẩm tra, xác minh do chạy

theo thành tích, bảo vệ lẫn nhau, ngại va chạm, có trường hợp thiếu trách

nhiệm đến mức né tránh, vòng vo, không hợp tác theo yêu cầu của uỷ ban

kiểm tra… Khi đề cập đến nguyên nhân những khó khăn, trở ngại của uỷ ban

kiểm tra các cấp khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và

đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, ban chủ nhiệm đề tài đã cho rằng: Việc

kiểm tra phải đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng, không được sử

dụng các phương pháp thẩm tra, xác minh của các cơ quan tư pháp, thanh tra

nhà nước,... Một trong những bài học kinh nghiệm qua tháo gỡ khó khăn, trở

ngại của uỷ ban kiểm tra các cấp khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức

đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm - theo các tác giả - là: Uỷ

ban kiểm tra các cấp vừa phải chủ động làm tốt công tác tư tưởng đối với đối

tượng kiểm tra, vừa nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình, đồng thời coi

trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, xác minh.

Ở chương III, khi phân tích các giải pháp, các tác giả đã đề cập đến việc:

Đổi mới và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra (kể cả kỹ năng

nghiệp vụ) cho tổ chức đảng, cán bộ kiểm tra các cấp, trong đó có kỹ năng thu

thập thông tin, nhận biết, phân tích dấu hiệu vi phạm; kỹ năng thẩm tra, xác

minh, thu thập chứng cứ; kỹ năng thiết lập các báo cáo thẩm tra, xác minh;…

Tác giả Lê Hồng Liêm với “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với

phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay - Thực trạng và giải

pháp” [113], trong chương 2, phần về bài học kinh nghiệm, các tác giả đã

khẳng định: Việc tổ chức thu thập thông tin phải nhiều phía, kiểm tra xử lý

chọn lọc thông tin để phục vụ kiểm tra, giám sát chống tham nhũng có hiệu

quả, việc lưu trữ thông tin rất cần quy củ, khoa học để khai thác khi cần thiết.

Thực tế cho thấy, cần chú trọng chọn lọc các thông tin về quan hệ nhiều mặt

của cán bộ, đảng viên và thân nhân,... khi có dấu hiệu bất minh cần có biện

pháp thẩm tra, xác minh thích hợp, chặt chẽ, kịp thời.

Page 24: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

21

Tác giả Lê Văn Giảng trong “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao

chất lượng thực hiện dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ

luật trong Đảng” [94], đã đánh giá việc thực hiện dân chủ qua các phương

pháp, quy trình kiểm tra, kỷ luật đảng, các tác giả cuốn sách đã nhận định:

Một nội dung cơ bản trong phương pháp kiểm tra của Đảng là thực hiện dân

chủ trong công tác thẩm tra, xác minh... Qua công tác kiểm tra, nhiều đoàn

kiểm tra đã thực hiện tốt dân chủ trong thẩm tra, xác minh. Việc chủ động thu

thập bằng chứng, chứng cứ được thực hiện bằng nhiều cách như nghiên cứu

hồ sơ, tài liệu có liên quan; tiếp xúc đối với tổ chức đảng và cá nhân để yêu

cầu, động viên họ cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nội dung kiểm

tra để có cơ sở loại bỏ những thông tin sai sự thật, những chứng cứ giả hoặc

không đủ cơ sở để kết luận, gây oan ức cho đối tượng kiểm tra… Trường hợp

giữa cấp uỷ, tổ chức đảng và đoàn kiểm tra có vấn đề chưa thống nhất thì

đoàn kiểm tra yêu cầu cung cấp thêm bằng chứng để cùng trao đổi, thảo luận

hoặc tiếp tục thẩm tra, xác minh làm rõ.

Tác giả Cao Văn Thống trong “Những vấn đề cơ bản về công tác kiểm

tra, giám sát và kỷ luật của Đảng” [154], tác giả đã dành riêng một chương

(chương 8) để bàn về thẩm tra, xác minh - nghiệp vụ quan trọng, cơ bản của

công tác kiểm tra. Trong Chương này, tác giả đã nêu lên một số khái niệm

(thẩm tra; xác minh; thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng…);

phân tích đặc điểm, vị trí, ý nghĩa, tác dụng của thẩm tra, xác minh trong công

tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng; nội dung, đối tượng và phương pháp thẩm tra,

xác minh. Ở cuối chương, tác giả cũng nêu lên những vấn đề cần lưu ý và

nắm vững khi tiến hành thẩm tra, xác minh.

Các tác giả đã khẳng định: Công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra là

công tác đảng, có đặc thù riêng là tiến hành kiểm tra, kết luận, xử lý hoặc giúp

cấp ủy xử lý kỷ luật những trường hợp có vi phạm đến mức phải xử lý. Đặc

thù này không những khác với các ban của cấp ủy mà còn khác với các cơ

Page 25: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

22

quan bảo vệ pháp luật của Nhà nước (điều tra, truy tố, xét xử đều do từng cơ

quan độc lập tiến hành). Vì vậy, bên cạnh việc coi trọng và làm tốt các

phương pháp cơ bản của công tác đảng, cần đặc biệt coi trọng và làm tốt công

tác thẩm tra, xác minh để phục vụ cho việc kiểm tra, kết luận, xử lý được

công minh, chính xác, kịp thời.

Nguyễn Công Học trong “Một số giải pháp đảm bảo việc chấp hành kỷ

luật và việc thi hành kỷ luật đảng trong tình hình hiện nay” [98], tại chương

1, các tác giả cuốn sách đã nêu một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh

và Đảng Cộng sản Việt Nam khi xem xét, thi hành kỷ luật Đảng là: phải điều

tra, nghiên cứu kỹ càng, thận trọng, đi sâu tìm hiểu bản chất và căn cứ vào

những bằng chứng xác thực.

Ở chương 3, trong Nhóm giải pháp bảo đảm việc thi hành kỷ luật trong

Đảng, tại giải pháp thứ 3, các tác giả đề xuất: Trong điều kiện tự phê bình và

phê bình của đối tượng kiểm tra ngày càng giảm sút, phải đề cao và làm tốt

khâu thẩm tra, xác minh;... Chú trọng công tác thẩm tra, xác minh để làm rõ

đúng, sai, xác định cụ thể chứng lý, với thái độ công tâm, khách quan, thận

trọng và chặt chẽ, bảo đảm việc thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ

luật đảng được dân chủ, chính xác, công bằng, nghiêm minh.

Các tác giả Cao Văn Thống - Đỗ Xuân Tuất trong “Nâng cao chất

lượng kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm”

[156], đã phân tích cả về lý luận lẫn thực tiễn, đánh giá thực trạng hay đề ra

các giải pháp để nâng cao chất lượng việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ

chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, các tác giả đều

nhấn mạnh một vấn đề quan trọng là: Chỉ được khẳng định tổ chức đảng hoặc

đảng viên có vi phạm khi được tổ chức đảng có thẩm quyền qua kiểm tra,

xem xét, kết luận. Do vậy, phải hết sức coi trọng công tác thẩm tra, xác minh,

chưa thẩm tra, xác minh thì chưa được kết luận.

Page 26: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

23

1.2.3. Luận án, luận văn

Tác giả Trương Thị Thông trong “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

kiểm tra chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay” [148], ở chương 1,

tác giả cho rằng một trong những yêu cầu của tình hình mới là sự phát triển

của xã hội đòi hỏi đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách phải thực sự có năng

lực, có phẩm chất, có bản lĩnh vững vàng để phân biệt rõ cái đúng - cái sai,

cái tiến bộ - cái lạc hậu…

Ở chương 2, khi đánh giá nguyên nhân khách quan của những khó

khăn, trở ngại về đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách, tác giả có đề cập đến

việc hệ thống luật pháp, nhiều chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước chưa

theo kịp sự phát triển của công cuộc đổi mới, chưa đồng bộ, thống nhất, thậm

chí mâu thuẫn nhau; chuẩn mực để phân biệt đúng - sai chưa rõ ràng và thiếu

nhất quán. Cũng trong chương này, tác giả đã chỉ ra bảy bài học kinh nghiệm

qua thực tiễn hoạt động của uỷ ban kiểm tra các cấp và của đội ngũ cán bộ

kiểm tra chuyên trách trong những năm qua, trong đó có kinh nghiệm thứ tư:

Phải nắm vững và chấp hành đúng phương pháp, quy trình công tác kiểm tra.

Tác giả phân tích: Trong quá trình kiểm tra, không được lẫn lộn và thay

phương pháp kiểm tra của Đảng với phương pháp kiểm tra của các cơ quan

Nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật. Vận dụng phương pháp kiểm tra

phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với nội dung, đối tượng kiểm tra và tình hình

cụ thể của đơn vị đó, nhưng dù linh hoạt đến đâu công tác kiểm tra cũng phải

dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của đảng viên để làm tốt công

tác thẩm tra, xác minh. Tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên càng yếu, đòi

hỏi công tác thẩm tra, xác minh phải tỷ mỉ và chính xác mới bảo đảm cho những

đánh giá, kết luận, xử lý có căn cứ xác đáng, khách quan và khoa học.

Luận án thực sự đã đóng góp vào công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết

thực tiễn công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm

tra chuyên trách nói riêng, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Page 27: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

24

Lê Tiến Hào trong “Công tác kiểm tra của Thành uỷ Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” [95], đã phân tích những quan điểm cơ bản về lý luận và thực tiễn về công tác kiểm tra của Đảng và công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội; quan niệm và một số tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội... Luận án đánh giá thực trạng công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XII, XIII (1996 - 2002), trong đó có việc thực hiện các phương pháp công tác kiểm tra của Đảng; tổng kết một số kinh nghiệm về công tác kiểm tra... Trong các giải pháp tác giả đưa ra, đáng chú ý có giải pháp thứ ba, nâng cao chất lượng các cuộc kiểm tra của Thành ủy, chú trọng về các phương pháp kiểm tra, trong đó trọng tâm là phương pháp thẩm tra, xác minh.

Luận án thực sự đã có những đóng góp mới về mặt khoa học, góp phần vào công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra của Đảng nói chung, công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội nói riêng, nhằm thúc đẩy công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong thời gian sau đạt được những kết quả tốt hơn.

Tác giả Nguyễn Thế Tư trong “Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở các tỉnh duyên hải miền Trung hiện nay” [162], đã phân tích những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; thực trạng công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra huyện ủy ở các tỉnh duyên hải miền Trung, chỉ ra những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Từ những cơ sở trên, cùng với việc chỉ rõ mục tiêu, phương hướng và quan điểm chỉ đạo, tác giả luận án đã đề ra sáu giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra huyện ủy ở các tỉnh Duyên hải miền Trung thời gian tới, trong đó có giải pháp thứ tư: chủ động phát hiện sớm dấu hiệu vi phạm, kiên quyết đấu tranh làm rõ đúng, sai, kết luận chính xác, kịp thời, đã đề cập sâu đến phương pháp thẩm tra, xác minh.

Page 28: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

25

Tác giả Nguyễn Hoàng Minh trong “Công tác kiểm tra, giám sát của

Đảng bộ tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí

Minh” [120], đã khẳng định, trong quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh, cán bộ

ủy ban kiểm tra phải biết tranh thủ ý kiến của cả đảng viên và quần chúng ngoài

Đảng, biết phát huy vai trò xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân để phân

tích, tổng hợp, góp phần kết luận các vấn đề kiểm tra thật sự khách quan, chính

xác về các hiện tượng vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước.

1.2.4. Các bài báo khoa học

Tác giả Lê Khắc Khoa trong “Về ngôn ngữ nói trong thẩm tra, xác

minh” [100], tác giả viết: Lời nói trở thành một cơ sở không thể thiếu và hết

sức quan trọng để dùng làm căn cứ xác thực chứng tỏ sự việc với tính chân

thật khách quan, từ đó làm căn cứ kết luận đúng sai. Đặc biệt, tác giả còn nêu

lên hai ví dụ thực tiễn sinh động: trường hợp thứ nhất, dấu hiệu vi phạm của

đối tượng kiểm tra chỉ là những chỉ đạo bằng miệng, “khẩu dụ”, không có

bằng chứng, dấu vết bằng chữ viết, nhưng dựa vào cơ sở lập luận, lý lẽ sắc

bén, qua đấu tranh, cán bộ kiểm đã khiến đối tượng kiểm tra thừa nhận vi phạm

của mình; trường hợp thứ hai, đối tượng kiểm tra không thừa nhận lời nói của

mình, nhưng nhờ việc ghi âm công khai hội nghị kiểm điểm đã trở thành chứng

cứ quan trọng để bác bỏ nội dung khiếu nại của đối tượng kiểm tra.

Để “lời nói… gió không bay”, theo tác giả: phải áp dụng các phương

pháp lưu trữ lời nói bằng cách ghi biên bản, ghi âm, ghi hình.

Tác giả Phạm Đình Phi trong “Kinh nghiệm thẩm tra, xác minh trong

giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng” [136], đã khẳng định: Để thực hiện tốt

công tác thẩm tra, xác minh trong giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng, cần thực

hiện tốt các phương pháp thu thập chứng cứ; nghiên cứu, phân tích, xử lý tài

liệu, thông tin; trưng cầu giám định của các cơ quan chuyên môn nghiệp vụ

đối với những vấn đề cần thiết. Trên cơ sở đó, tổ chức đảng có thẩm quyền

xem xét, đánh giá, kết luận những nội dung vi phạm, quy trình, nguyên tắc,

Page 29: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

26

thủ tục và phương hướng, phương châm thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp

dưới trong quá trình xem xét, xử lý kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật

đảng. Khi thu thập tài liệu, bằng chứng, cán bộ kiểm tra phải trực tiếp gặp đối

tượng, trực tiếp đọc những thông tin, tài liệu, nhìn thấy các vật chứng, nếu cần

thì đến tận nơi xảy ra sự việc để thẩm tra, xác minh; không được chỉ nghe qua

người khác, dư luận. Muốn đánh giá đúng sự thật, phải thu thập được bằng

chứng xác thực qua các tài liệu, thông tin nhiều phía, nhiều kênh, nhiều chiều

có liên quan đến sự việc cần làm rõ.

Tác giả còn nêu thêm một kinh nghiệm rằng: Việc thu thập đầy đủ tài

liệu, thông tin, bằng chứng là rất quan trọng, nhưng việc nghiên cứu, phân

tích, xử lý tài liệu, thông tin, bằng chứng ấy một cách khoa học, khách quan,

chính xác lại càng quan trọng, vì đó là cơ sở để kết luận và xử lý đúng.

Tác giả Đỗ Hùng Cường trong “Một số vấn đề về thẩm tra, xác minh

trong công tác kiểm tra” [56], đã nhận định: Kết quả và chất lượng của thẩm

tra, xác minh có ý nghĩa quyết định việc kết luận và xử lý đối với đối tượng

kiểm tra; đồng thời chỉ ra: Một thực tế cho thấy thực trạng tình hình vi phạm,

tiêu cực nhất là tệ tham nhũng đã, đang và sẽ vẫn tiếp tục xảy ra nghiêm trọng,

có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất đó

là khâu thẩm tra, xác minh còn một số bất cập; nổi lên là không tìm ra được

chứng cứ vững chắc để kết luận vụ việc và quyết định xử lý kỷ luật.

Tác giả kết luận: Phương pháp tư duy khoa học làm cho quá trình thẩm

tra, xác minh được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, phương pháp, biện pháp

rõ ràng, khoa học và được thực hiện một cách khách quan, linh hoạt, sáng tạo

để có thể đưa ra các kết luận chính xác.

Tác giả Phạm Thành Đồng trong “Chứng cứ trong kiểm tra dấu hiệu vi

phạm khi phải tiến hành trưng cầu giám định” [93], tác giả cho rằng: chứng

cứ là những gì có thật được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật để từ đó

các cơ quan tiến hành tố tụng làm căn cứ xác định hành vi vi phạm và tội

Page 30: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

27

phạm. Chứng cứ được xác định bằng vật chứng, lời khai của bị can, bị cáo,

của những người liên quan, người biết sự việc, kết luận giám định, các biên

bản và những tài liệu thu thập trong quá trình thẩm tra, xác minh. Mỗi chứng

cứ phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, khách quan, toàn diện và

đầy đủ các tình tiết.

Tác giả cũng kiến nghị với Uỷ ban Kiểm tra Trung ương một số vấn đề về

việc đề nghị trưng cầu giám định chứng cứ trong quá trình thẩm tra, xác minh.

Tác giả Phạm Thị Ngạn trong“Các yếu tố cấu thành trình độ nghiệp vụ

thẩm tra, xác minh của cán bộ kiểm tra” [122], theo tác giả: Hiện nay, các vi

phạm của tổ chức đảng và đảng viên đang có xu hướng gia tăng về số lượng

và đa dạng, phức tạp hơn về nội dung, tính chất với nhiều hình thức tinh vi và

cách thức khôn khéo. Để phân định rõ đúng sai, kết luận chính xác và xử lý

nghiêm minh các trường hợp vi phạm, đòi hỏi đội ngũ cán bộ kiểm tra phải có

nghiệp vụ vững vàng, trong đó khả năng thẩm tra, xác minh, tìm chứng cứ để

kết luận kiểm tra có ý nghĩa quyết định. Trình độ nghiệp vụ thẩm tra, xác

minh của mỗi cán bộ kiểm tra được cấu thành bởi 5 yếu tố chủ yếu: Kiến thức

và vốn sống thực tiễn; mức độ nắm vững và khả năng vận dụng lý luận về

thẩm tra, xác minh; khả năng vận dụng phương pháp thẩm tra, xác minh; vốn

kinh nghiệm cá nhân về thẩm tra, xác minh; phong cách làm việc của cá nhân.

Các yếu tố đó có mối liên kết chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Mỗi yếu tố vừa

là một bộ phận trong tổng thể, vừa có vai trò hỗ trợ cho sự phát triển và phát

huy tác dụng của các yếu tố khác; nếu có một yếu tố bị thiếu hoặc yếu thì các

yếu tố còn lại sẽ khó phát huy tác dụng.

Vũ Đình Lợi trong “Thẩm tra, xác minh - một khâu quan trọng trong

giải quyết tố cáo” [116], tác giả khẳng định: Chỉ khi làm tốt công tác thẩm

tra, xác minh, trên cơ sở bằng chứng xác thực thì việc kết luận giải quyết tố

cáo mới chính xác. Trong bài báo, tác giả nêu lên kinh nghiệm thực tiễn qua

một vụ việc giải quyết tố cáo cụ thể (về việc giả mạo bằng cấp). Qua dẫn

Page 31: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

28

chứng đó, tác giả càng khẳng định thẩm tra, xác minh làm một khâu rất quan

trọng trong toàn bộ quá trình thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra của Đảng nói

chung, đặc biệt trong việc giải quyết đơn thư tố cáo nói riêng.

Tác giả rút ra: Để việc thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đạt

kết quả, cán bộ giải quyết tố cáo phải có quyết tâm cao, thể hiện rõ bản lĩnh,

chính kiến, nhạy bén trước mọi tình huống xảy ra; có kỹ năng nghiệp vụ

thuần thục. Đặc biệt, phải có đầu óc phán đoán đề ra phương án, kế hoạch

thẩm tra, xác minh tối ưu, phù hợp với nội dung tố cáo cần giải quyết, nhất là

đối với những đơn thư có nội dung tố cáo phức tạp, kéo dài, thời gian xảy ra

đã lâu, gây nhiều bức xúc trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân,

liên quan đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền các cấp.

Tác giả Nguyễn Trung Dong trong “Kinh nghiệm về thẩm tra, xác

minh trong giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị,

Ban Bí thư quản lý” [61], tác giả thẳng thắn nhận định: Thẩm tra, xác minh

trong giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản

lý trên địa bàn Vụ Địa phương III, Cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Trung ương gặp

rất nhiều khó khăn, vì: đối tượng bị tố cáo, nội dung tố cáo rất đa dạng; một

số vụ tố cáo với tính chất phức tạp, nhiều nội dung, sự việc, có liên quan đến

nhiều người, nhiều cấp, nhất là cán bộ quản lý nhà nước, quản lý tài chính,

phụ trách công trình, dự án, đất đai,… Một số cán bộ bị tố cáo có thái độ phản

ứng, đối phó, bất hợp tác, không nhận khuyết điểm, vi phạm hoặc tuy có nhận

nhưng chưa tương xứng với tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân của vi

phạm, thậm chí có trường hợp còn “tố cáo ngược” cán bộ giải quyết tố cáo.

Tác giả cũng rút ra một số kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh trong

giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý,

đồng thời nhấn mạnh: Khâu thẩm tra, xác minh để tìm ra chứng cứ là một

khâu có tính quyết định trực tiếp đến nhiệm vụ giải quyết tố cáo. Hiệu quả

của việc giải quyết tố cáo phụ thuộc rất lớn vào việc tìm ra hay không tìm ra

Page 32: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

29

chứng cứ. Mọi kết luận đúng, sai, có vi phạm hay không vi phạm của đối

tượng bị tố cáo đều bắt buộc phải dựa trên những chứng cứ xác thực, liên

quan. Qua đó, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ

Chính trị, Ban Bí thư quản lý trong thời gian tới.

Tóm lại, các công trình nghiên cứu nêu trên đều là những sản phẩm

khoa học trí tuệ, nghiêm túc, chất lượng, hết sức có giá trị dù ở những mức độ

khác nhau. Các công trình hoặc nghiên cứu bình diện chung, mang tính tổng

thể, hoặc đi sâu vào một lĩnh vực cụ thể trong công tác kiểm tra của Đảng.

Mỗi công trình đều có đề cập đến hoạt động thẩm tra, xác minh - một phương

pháp, một nghiệp vụ rất quan trọng trong công tác kiểm tra của Đảng. Tuy

nhiên, các công trình đều chỉ nghiên cứu về thẩm tra, xác minh ở những khía

cạnh, góc độ nhất định, một “bộ phận” cần phân tích, đánh giá trong tổng thể

chung về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng. Ngoại trừ Đề tài khoa học cấp

Bộ KHBĐ-0015 “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm

tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng”, đến nay chưa có công trình

nào nghiên cứu chuyên sâu, chuyên biệt về thẩm tra, xác minh. Mặc dù, nội

dung Đề tài KHBĐ-0015 rất có giá trị, cung cấp nhiều luận cứ, luận chứng,

luận điểm để tác giả luận án lĩnh hội, tiếp thu, song do thời gian nghiên cứu

(từ năm 2000-2001) so với tình hình thực tế hiện tại đã có nhiều thay đổi, ảnh

hưởng, tác động đến công tác kiểm tra nói chung, đến hoạt động thẩm tra, xác

minh nói riêng nên một số điểm cần nhìn nhận, đánh giá, phân tích, luận giải

thêm. Mặt khác, do yếu tố đặc thù và một số điều kiện, dung lượng nghiên

cứu của đề tài KHBĐ-0015 nêu trên cũng cần được bổ sung, hoàn chỉnh thêm.

Ở một bình diện khác, vấn đề về thẩm tra, xác minh trong công tác

kiểm tra của Đảng Cộng sản cầm quyền nói riêng, của các đảng chính trị cầm

quyền nói chung một phần do hoàn cảnh, điều kiện, yếu tố chính trị, một phần

do điều kiện sưu tầm, tìm tòi, thu thập (cả ở trong nước và ngoài nước) còn

Page 33: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

30

hạn chế, nên cho thấy các công trình nghiên cứu về vấn đề này không nhiều.

Các tài liệu đề cập đến chủ yếu qua hình thức các giáo trình, bài giảng, tài liệu

huấn luyện nghiệp vụ về kiểm tra, điều tra vụ việc, được các đoàn nghiên cứu

của các cơ quan hữu quan của Đảng, Nhà nước ta tổng hợp lại; hoặc được

giới thiệu một cách sơ lược, khái quát trong một số tài liệu của các cơ quan

chức năng của các nước bạn khi tham dự các cuộc hội đàm, hội thảo. Một vấn

đề nữa cũng cần đặt ra là, do đặc điểm, hoàn cảnh, yếu tố, thể chế chính trị

(ngay cả trong những nước có Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền) khác

nhau, nên kinh nghiệm, bài học của mỗi nước cũng có những điểm đặc thù,

không thể tiếp nhận, tiếp thu một cách tuyệt đối, máy móc, cơ học mà đòi hỏi có

sự gạn lọc, đánh giá, suy xét hợp lý để cùng trao đổi, thực hiện cho phù hợp.

Tình hình nghiên cứu trên đặt ra cho tác giả luận án yêu cầu phải

nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện hơn, hệ thống cả về phương diện lý

luận cũng như hoạt động nghiệp vụ thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm

tra của Đảng Cộng sản Việt Nam; việc tiến hành hoạt động thẩm tra, xác minh

cả trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng cũng

như trong thực hiện nhiệm vụ cấp ủy giao của ủy ban kiểm tra các cấp. Tình

hình mới với những đặc điểm, hoàn cảnh mới tác động đến công tác kiểm tra,

đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng cũng là

vấn đề, yêu cầu nhiệm vụ xuyên suốt mà luận án sẽ phải giải quyết.

Page 34: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

31

Chương 2

THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA

CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG

2.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng

2.1.1.1. Khái niệm về công tác kiểm tra của Đảng * Khái niệm kiểm tra

Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là "xem xét tình hình thực tế để

đánh giá, nhận xét" [196, tr.523]. Từ điển Luật học nêu: kiểm tra là "xem xét

tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung

hay một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét" [135, tr.265].

Còn theo Sách tra cứu các mục từ về tổ chức thì kiểm tra là: "Xem xét

tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung

hay một công tác cụ thể được giao của một cơ quan, đơn vị hoặc một người

để đánh giá, nhận xét chất lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị hoặc người

đó" [126, tr.468]. Như vậy, kiểm tra cũng là công tác thuộc nhiệm vụ của cơ

quan nhà nước, của tổ chức đảng, đoàn thể cấp trên đối với cấp dưới, của thủ

trưởng hoặc người lãnh đạo đối với nhân viên dưới quyền.

* Khái niệm kiểm tra của Đảng

Theo Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát

và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI

(ban hành kèm theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban

Chấp hành Trung ương):

Kiểm tra của Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của

Đảng, là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu

điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới

Page 35: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

32

và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ

Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của

Nhà nước [20, tr.02].

* Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng Theo Từ điển Tiếng Việt, “công tác” được hiểu là “công việc của nhà

nước hoặc của đoàn thể” [196, tr.48]. Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị, một bộ phận trong hệ thống chính trị Việt Nam, đồng thời có vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn xã hội. Công tác kiểm tra của Đảng có thể được hiểu là: việc chủ thể kiểm tra thông qua thực hiện các phương pháp, hình thức, biện pháp để xem xét tình hình thực tế, nhận xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có) của đối tượng kiểm tra trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đưa ra những yêu cầu, kiến nghị với đối tượng kiểm tra, các tổ chức, cá nhân có liên quan theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra.

Từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thức về công tác kiểm tra của Đảng ở một số điểm cụ thể như sau:

Một là, công tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng. Điều lệ Đảng quy định tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.

Chủ thể kiểm tra là tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý. Đối tượng kiểm tra là tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền. Các tổ chức đảng vừa là chủ thể kiểm tra (có trách nhiệm tiến hành công tác kiểm tra), vừa là đối tượng kiểm tra (chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên). Do các tổ chức đảng có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, nên phạm vi trách nhiệm, nội dung, đối tượng, cách tiến hành kiểm tra của các tổ chức đảng được quy định cũng khác nhau.

Page 36: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

33

Hai là, công tác kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng, là công

tác xây dựng Đảng, sinh hoạt nội bộ Đảng, do các tổ chức đảng tiến hành căn

cứ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền được Điều lệ Đảng

quy định. Do đó, tiến hành công tác kiểm tra phải theo đúng nguyên tắc tổ

chức và sinh hoạt đảng, đúng tính chất công tác đảng, đúng tư tưởng chỉ đạo,

phương pháp cơ bản tiến hành công tác kiểm tra, đúng phạm vi trách nhiệm

của từng tổ chức đảng và đều phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và công tác

xây dựng Đảng, nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và công tác ấy.

Ba là, qua việc thực hiện hệ thống các cách thức, biện pháp mà chủ thể

và đối tượng kiểm tra phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công

tác kiểm tra, phải xem xét đúng tình hình thực tế khách quan; phát hiện ưu

điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết điểm, lệch lạc để uốn nắn, khắc phục, sửa

chữa; làm rõ đúng sai, nhận xét, đánh giá chính xác có vi phạm hay không vi

phạm để kết luận rõ ràng, một mặt để tiếp tục kiện toàn, củng cố, phát huy tổ

chức và cá nhân, mặt khác để chấn chỉnh, xử lý kịp thời, nghiêm minh vi

phạm; cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Bên

cạnh đó, qua công tác kiểm tra, phát hiện những sơ hở, thiếu sót, bất cập trong

các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ

chức thực hiện để kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình

hình thực tế, góp phần không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt

động lãnh đạo, quản lý.

2.1.1.2. Vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng Một là, kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng.

Thực tiễn đã khẳng định, lãnh đạo không chỉ là đề ra chủ trương,

đường lối, tổ chức thực hiện, bố trí cán bộ, động viên tư tưởng, mà còn phải

kiểm tra, giám sát. Không những kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối,

Cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách, mà kiểm tra ngay từ chính

Cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách đó và kiểm tra cả các tổ chức tiến

Page 37: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

34

hành kiểm tra nhằm bảo đảm đường lối, chính sách được xác định đúng, được

quán triệt và thực hiện thắng lợi trong thực tiễn. Đó là vấn đề có tính nguyên

tắc; vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương pháp,

quy trình lãnh đạo của Đảng.

V.I.Lênin đã khẳng định: khi đường lối, chính sách đã được xác định,

phương hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên

hàng đầu và sự lãnh đạo phải "chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc

lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện" [105,

tr.450]. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành

công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa

chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng

mấy cũng vô ích" [118, tr.520].

Đảng ta luôn xác định kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo

của Đảng. Trong suốt quá trình hoạt động, Đảng không những luôn coi trọng,

mà xác định kiểm tra là chức năng, nội dung lãnh đạo của Đảng. Công tác

kiểm tra là khâu rất quan trọng vì nó là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ

quan lãnh đạo và chỉ đạo. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền càng

phải tăng cường công tác kiểm tra của Đảng.

Hai là, kiểm tra là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây

dựng Đảng.

Xây dựng Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức luôn là

đòi hỏi cấp thiết và có tính khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:

“Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên, cán bộ làm trọn nhiệm

vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó,

mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức” [118, tr.133].

Qua thực tiễn, Đảng ta đã kết luận: công tác kiểm tra là “một bộ phận quan

trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng” [81, tr.122], là "một khâu quan

trọng của tổ chức thực hiện” [81, tr.123].

Page 38: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

35

Ba là, công tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng; là nhiệm vụ trực

tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên.

Công tác kiểm tra là công tác đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, được

tiến hành đối với tổ chức đảng và đảng viên. Trong quá trình lãnh đạo cách

mạng, Đảng ta luôn xác định: "Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm

vụ của toàn Đảng. Các tổ chức đảng, trước hết là các cấp uỷ đảng, Bộ Chính

trị và các ban thường vụ cấp uỷ, cần tự mình tiến hành kiểm tra và sử dụng

các ban để tổ chức thường xuyên nhiệm vụ kiểm tra" [82, tr.150-151]. Để bảo

đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm

tra các cấp phải chú trọng và thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra các tổ

chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị

quyết, chỉ thị của Đảng.

2.1.2. Nội dung, phương pháp công tác kiểm tra của Đảng

2.1.2.1. Nội dung công tác kiểm tra

Nội dung công tác kiểm tra của Đảng bao gồm kiểm tra việc thực hiện

Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên

tắc tổ chức và hoạt động của Đảng... - những vấn đề có tính nguyên tắc đã

được Đảng xác định, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân thủ, chấp hành

và trở thành nội dung kỷ luật của Đảng. Tuy nhiên, Cương lĩnh chính trị, Điều

lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng cũng như nguyên tắc tổ chức

và hoạt động của Đảng bao gồm nhiều vấn đề lớn, rất rộng. Mặt khác, do

chức năng, nhiệm vụ và phạm vi kiểm tra của mỗi tổ chức đảng khác nhau

nên khi tiến hành kiểm tra các tổ chức đảng phải căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn

kiểm tra của cấp mình và tình hình, đặc điểm, yêu cầu của việc thực hiện

nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị trong

từng thời gian và trọng tâm, trọng điểm lãnh đạo của mình để xác định nội

dung kiểm tra phù hợp.

Page 39: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

36

Tóm lại, nội dung kiểm tra là kiểm tra việc thực hiện những nhiệm vụ

chính trị, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng có quan hệ đến chức trách, nhiệm

vụ, quyền hạn của tổ chức đảng và đảng viên. Mỗi tổ chức đảng phải căn cứ

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình để xác

định nội dung kiểm tra cụ thể, phù hợp. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,

việc chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể chính trị - xã hội

cũng là một nội dung kỷ luật của Đảng, đương nhiên trở thành một nội dung

kiểm tra đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên.

2.1.2.2. Phương pháp công tác kiểm tra Phương pháp công tác kiểm tra của Đảng là hệ thống các cách thức tiến

hành trong hoạt động kiểm tra của Đảng mà mọi tổ chức đảng và đảng viên

(chủ thể, đối tượng) phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác

kiểm tra. Khi tiến hành công tác kiểm tra, phải sử dụng đồng bộ, linh hoạt

năm phương pháp cơ bản có mối quan hệ mật thiết, không tách rời của công

tác kiểm tra đảng.

Thứ nhất: Dựa vào tổ chức đảng

Đây vừa là phương pháp cơ bản, vừa là vấn đề có tính nguyên tắc trong

công tác xây dựng Đảng nói chung. Tổ chức đảng là cơ quan lãnh đạo, quản

lý, giám sát, giáo dục, rèn luyện đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới; nơi nắm

vững tình hình, đặc điểm của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; nơi tổ chức

thực hiện và lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng

Đảng, các kết luận kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên; là nơi chịu

trách nhiệm trước tổ chức đảng cấp trên về hoạt động của tổ chức đảng và

đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình. Do đó, dựa vào tổ chức đảng quản

lý đối tượng kiểm tra vừa có tính nguyên tắc vừa đảm bảo tính hiệu quả, thực

tiễn của công tác kiểm tra. Có dựa vào tổ chức đảng và đảng viên, chủ thể

kiểm tra mới hiểu rõ đặc điểm tình hình, điều kiện, hoàn cảnh, khó khăn,

Page 40: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

37

thuận lợi, ưu điểm, khuyết điểm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của đối tượng kiểm tra để có cơ sở nhận xét, đánh giá, xem xét, kết luận

một cách chính xác.

Thứ hai: Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,

đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;

đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và

của dân tộc. Đội ngũ đảng viên bao gồm những phần tử tiên tiến, giác ngộ lý

tưởng, giác ngộ giai cấp, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng; là những

chiến sĩ cách mạng phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng. Đó là cơ sở tư

tưởng và tổ chức để tổ chức đảng và đảng viên tự giác chấp hành Điều lệ

Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

và nhiệm vụ được giao; tự giác tự kiểm tra và chịu sự kiểm tra, giám sát của

tổ chức đảng có thẩm quyền.

Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên cũng là một

vấn đề có tính nguyên tắc. Vì vậy, tiến hành công tác kiểm tra, thi hành kỷ

luật đảng, chủ thể kiểm tra cần coi trọng và làm tốt công tác tư tưởng đối với

đối tượng kiểm tra, dựa vào tính tự giác của đối tượng kiểm tra để giúp cho

việc xem xét, kết luận được khách quan, chuẩn xác. Đồng thời, không ngừng

xây dựng, phát huy và nâng cao tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình,

tính chiến đấu của đối tượng kiểm tra là mục đích của công tác xây dựng

Đảng. Đối với những trường hợp quanh co, giấu diếm sai lầm, khuyết điểm,

cần kiên trì động viên, thuyết phục, kết hợp với đấu tranh phê bình và công

tác thẩm tra, xác minh để làm rõ đúng sai, giúp việc kết luận và xử lý được

chuẩn xác.

Thứ ba: Phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân

Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đảng không có mục đích tự thân, mục đích của Đảng là phụng sự Tổ quốc,

Page 41: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

38

phụng sự nhân dân. Một trong những phương châm xây dựng Đảng là tổ

chức, động viên quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp phần kiểm tra,

giám sát hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.

Mọi hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên luôn được nhân

dân quan tâm, nhận biết và giám sát, kiểm tra. Thực tiễn đã chứng minh có

nhiều vụ việc tiêu cực xảy ra trong nội bộ Đảng là do nhân dân phát hiện và

phản ảnh với tổ chức đảng có thẩm quyền. Vì vậy, tiến hành công tác kiểm

tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng phải coi trọng việc phát huy tinh thần trách

nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân. Những ý kiến nhân dân đóng góp đúng

phải trân trọng tiếp thu, khuyến khích, cổ vũ; nếu có ý kiến chưa đúng phải

giải thích để nhân dân hiểu rõ, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất giữa tổ chức

đảng, đảng viên với quần chúng.

Thứ tư: Làm tốt công tác thẩm tra, xác minh

Một trong những yêu cầu cơ bản của công tác kiểm tra là phải làm

rõ đúng, sai; đánh giá, kết luận đúng ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu

có) của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra để có quyết định chính

xác. Ngoài việc phải dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của

tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra, phát huy trách nhiệm xây dựng

Đảng của nhân dân, phải hết sức coi trọng và làm tốt công tác thẩm tra,

xác minh.

Thực hiện tốt công tác thẩm tra, xác minh chính là thực hiện tốt mối

quan hệ giữa tự giác và bắt buộc trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật

đảng. Trong điều kiện tính tự giác, tự phê bình và phê bình trong Đảng nói

chung, trong không ít tổ chức đảng và đảng viên nói riêng bị giảm sút, tính

chiến đấu không cao, có nơi bị tê liệt, để làm rõ đúng sai, phải, trái, tìm ra

chứng lý của vụ việc, làm rõ vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, đòi hỏi

phải làm tốt công tác thẩm tra, xác minh.

Page 42: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

39

Thứ năm: Khi tiến hành công tác kiểm tra, cần có sự phối hợp giữa ủy

ban kiểm tra với các tổ chức đảng, thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân và

các đoàn thể chính trị - xã hội có liên quan

Một trong những phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, thi hành

kỷ luật đảng là phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Nhà nước,

thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, xã

hội nghề nghiệp và phối hợp với các ban, ngành có liên quan của Đảng và

Nhà nước.

Đảng ta là đảng cầm quyền, có đặc điểm đảng viên vừa là thành viên

của Đảng, vừa là công dân, là thành viên của tổ chức nhà nước và các đoàn

thể chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo. Vì vậy, nếu không có cơ chế phối hợp

chặt chẽ, phù hợp, nhất là trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng đối

với cán bộ, đảng viên của Đảng dễ dẫn đến tình trạng thiếu tập trung, thống

nhất, chồng chéo, sơ hở, kiểm tra, giải quyết vụ việc không kịp thời, chính

xác. Sự phối hợp trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng với công tác

thanh tra nhà nước, thanh tra của đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức

đảng trong khối nội chính đã trở thành tất yếu. Để công tác kiểm tra, thi hành

kỷ luật đảng bảo đảm có chất lượng và hiệu quả, phải có sự phối hợp chặt chẽ

giữa công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật của Đảng với thanh tra của Nhà nước,

thanh tra nhân dân, thanh tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, phối hợp giữa

uỷ ban kiểm tra với các ban của cấp uỷ, với tổ chức đảng trong các cơ quan

bảo vệ pháp luật.

2.2. THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 2.2.1. Khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng

2.2.1.1. Khái niệm thẩm tra trong công tác kiểm tra của Đảng Thẩm tra là "điều tra, xem xét lại có đúng, có chính xác không một vấn

đề, một sự việc nào đó" [196, tr.922], hay diễn đạt một cách khác, là “điều tra,

tìm hiểu để xem xét lại điều đã kết luận hoặc khai báo trước có đúng, có chính

Page 43: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

40

xác không” [198, tr.541]. Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt

Nam: “Thẩm tra là điều tra, xem xét lại kỹ lưỡng trên cơ sở tài liệu đã có, để

xác định rõ và có kết luận chính xác về một người, một việc, một hiện tượng

theo yêu cầu nhất định” [193, tr.1079]. Trong đó, điều tra là tìm hỏi, xem xét

để biết rõ sự thật. Như vậy, thẩm tra là hoạt động tìm kiếm, dò hỏi, thu thập

thông tin, chứng cứ liên quan đến vụ việc cần thẩm tra để sự việc đó được

chứng minh là đúng hay không.

Thẩm tra là một hoạt động rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, trong đó có các

lĩnh vực thuộc công tác công an, hoạt động kinh tế (thẩm tra dự án đầu tư,

thẩm tra dự toán), công tác đảng (thẩm tra lý lịch đảng viên), công tác làm

luật (thẩm tra dự án luật: là một bước (khâu) trong quá trình làm luật)…

Trong công tác kiểm tra của Đảng, thẩm tra là hoạt động của tổ chức

đảng tiến hành nắm tình hình, tìm kiếm, thu thập thông tin, tài liệu để xem

xét, nghiên cứu về những thông tin, sự kiện, sự việc có liên quan đến nội

dung, đối tượng kiểm tra. Thực chất của hoạt động thẩm tra là tiếp xúc với

các đối tượng cần thiết để tìm kiếm, thu thập thông tin, tư liệu, tiếp cận hồ

sơ, nắm bắt thông tin, tìm kiếm những cơ sở ban đầu về những chứng cứ,

nhân chứng, vật chứng… để phục vụ cho việc xác minh, thẩm định, kết

luận sau này.

2.2.1.2. Khái niệm xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng Xác minh là "làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cứ cụ thể" [196,

tr.1140], hay “làm rõ thực chất sự việc với những chứng cớ cụ thể” [198, tr.1848].

Cũng như thẩm tra, xác minh là một hoạt động có trong nhiều lĩnh vực,

như: công tác đảng (xác minh lý lịch đảng viên), công tác công an (hoạt động

xác minh đối tượng kiểm tra nghiệp vụ: “là quá trình điều tra nghiên cứu, làm

rõ trong quá trình kiểm tra nghiệp vụ nhằm kết luận những vấn đề về đối

tượng nghi có hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia” [193, tr.1318]; hay hoạt

động xác minh hiềm nghi: “là quá trình điều tra nghiên cứu cụ thể và kết luận,

Page 44: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

41

làm rõ thực chất vấn đề nghi vấn về đối tượng để kết luận chính xác đối tượng

có phạm tội hay không” [193, tr.1319])…

Còn trong công tác kiểm tra của Đảng, xác minh là tiến hành các hoạt

động mang tính xem xét, tra cứu, phân tích, so sánh, thẩm định, đối chiếu các

chứng cứ thu thập được trong quá trình thẩm tra với thực tế, với các quy định

của Đảng, Nhà nước để tìm ra các chứng cứ liên quan đến nội dung, đối

tượng kiểm tra.

Xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là những hoạt động diễn ra

tiếp theo hoạt động thẩm tra. Nhưng, không phải lúc nào cũng cứng nhắc

thẩm tra trước, xác minh sau, mà trong thực tế hoạt động thẩm tra cùng đan

xen với hoạt động xác minh. Hai hoạt động này có quan hệ mật thiết với nhau,

hoạt động này bổ sung cho hoạt động kia và ngược lại, nhằm làm rõ hơn

những thông tin, sự việc, sự kiện thông qua nhân chứng, vật chứng đã thu

thập được ở khâu thẩm tra để đối chiếu, so sánh, sàng lọc nhằm tìm ra chứng

cứ xác thực, đúng đắn; phân biệt rõ đúng sai và kết luận một cách khách quan,

chính xác về con người và sự việc kiểm tra.

2.2.1.3. Khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng Thẩm tra, xác minh là hai khái niệm không đồng nhất nhưng thường đi

kèm và quan hệ mật thiết với nhau. Thực tiễn công tác kiểm tra của Đảng cho

thấy, khái niệm thẩm tra, xác minh được dùng với tư cách là một khái niệm

ghép để chỉ một hoạt động có tính tổng hợp, hệ thống trong công tác kiểm tra

của Đảng.

Theo Đề tài khoa học (mã số KHBĐ-0015, do Nguyễn Anh Liên làm

Chủ nhiệm), thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là:

quá trình thực hiện các hoạt động tìm kiếm, phát hiện, thu thập,

xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá và sử dụng các chứng cứ;

phân tích sự liên hệ và sự phù hợp giữa các chứng cứ với nhau và

với vụ việc theo phương pháp công tác đảng, để tìm ra sự thật, chỉ

Page 45: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

42

rõ bản chất của sự việc và hành vi của các đối tượng được kiểm tra

để kết luận rõ đúng sai [115, tr.31]

Khái niệm trên đây có điểm chưa đầy đủ, chưa rõ như: chưa xác định

được chủ thể tiến hành hoạt động thẩm tra, xác minh. Bên cạnh đó, việc nêu

cụ thể hoạt động mang tính liệt kê, chỉ việc là chưa bao quát được vấn đề, dễ

thiếu, sót nội dung cần định nghĩa.

Theo Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ ban hành năm 2012 của Uỷ ban

Kiểm tra Trung ương:

Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là việc chủ

thể kiểm tra tiến hành các hoạt động phát hiện, tìm kiếm, thu thập,

xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá và sử dụng những chứng cứ,

phân tích thông tin, tài liệu đã thu thập được liên quan đến vụ việc

kiểm tra; phân tích mối liên hệ và sự phù hợp giữa các chứng cứ với

nhau và với vụ việc kiểm tra theo các nguyên tắc, phương pháp

công tác Đảng để tìm ra sự thật, chỉ đúng bản chất thông tin, chứng

cứ đó nhằm chứng minh đối tượng được kiểm tra có hay không có

khuyết điểm hoặc vi phạm, giúp cho việc kết luận, xử lý bảo đảm

công minh, chính xác, kịp thời [175, tr.79].

Khái niệm này khá dài, mang tính giải thích, chỉ ra cách làm cụ thể,

hoặc có chỗ chưa rõ như: cho rằng chủ thể kiểm tra tiến hành các hoạt động

phát hiện, tìm kiếm… là chưa đúng thực tế, bởi chủ thể kiểm tra (là ban

thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra…) chưa bao giờ tiến hành các công việc

việc cụ thể đó, mà do các cán bộ thừa hành thực hiện, trên cơ sở giao nhiệm

vụ và chỉ đạo, điều hành của ban thường vụ, thường trực cấp uỷ, hoặc uỷ ban,

thường trực uỷ ban kiểm tra.

Từ khái niệm chung về thẩm tra, xác minh, kế thừa quan điểm của các

tác giả và thực tiễn vừa qua, tác giả luận án đưa ra khái niệm như sau: Thẩm

tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động nghiệp vụ khi

Page 46: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

43

tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều

hành của chủ thể kiểm tra, được thực hiện thông qua một số cán bộ, nhằm tìm

ra các bằng chứng, chứng cứ cụ thể, xác thực, qua đó thẩm định, phân tích để

làm rõ sự thật, làm căn cứ để chủ thể kiểm tra nhận xét, đánh giá, kết luận và

xử lý công minh, chính xác đối tượng kiểm tra.

Khái niệm trên đây làm rõ được bản chất của thẩm tra, xác minh như vị

trí, tính chất, chủ thể chỉ đạo, chủ thể thực hiện, mục tiêu của hoạt động thẩm

tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Hoạt động thẩm tra, xác minh

là hoạt động nghiệp vụ, mang tính đặc thù của công tác kiểm tra, là cách tiến

hành bước đi cụ thể để tìm kiếm chứng cứ, làm rõ đúng, sai của đối tượng

kiểm tra, đòi hỏi phải có kỹ năng, trình độ, kinh nghiệm. Việc tiến hành thẩm

tra, xác minh trực tiếp do đội ngũ cán bô kiểm tra tiến hành, theo kế hoạch và

sự chỉ đạo, điều hành của đại diện chủ thể kiểm tra. Bản chất, mục tiêu của

thẩm tra, xác minh là để chủ thể kiểm tra xem xét, kết luận, xử lý kết quả

kiểm tra một cách công minh, chính xác.

Như vậy, có thể nói, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm

tra của Đảng thực chất là sự tìm kiếm, thu thập, tra cứu, đánh giá các chứng

cứ bằng phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh một cách khoa học sâu

sắc, có hệ thống và có định hướng vào quá trình giải quyết nội dung, đối

tượng kiểm tra nhằm làm rõ bản chất của vụ việc, giúp cho đối tượng kiểm tra

nhận thức rõ những khuyết điểm, vi phạm và tham mưu giúp cấp ủy, ủy ban

kiểm tra các cấp kết luận, xử lý vụ việc một cách công minh, chính xác; đối

tượng kiểm tra “tâm phục khẩu phục”, góp phần xây dựng Đảng ngày càng

trong sạch, vững mạnh.

Có thể xem xét, phân tích khái niệm thẩm tra, xác minh từ một số khía

cạnh chủ yếu sau:

Một là, thẩm tra, xác minh như là một công cụ quan trọng, một nguyên

tắc cơ bản trong khâu tìm kiếm, phát hiện, thu thập thông tin, chứng cứ liên

Page 47: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

44

quan đến nội dung, đối tượng cần thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra

của Đảng. Đây cũng là phương pháp hiệu quả để tìm ra sự thật, bản chất sự

việc giúp các cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét kết luận, xử lý một

cách nghiêm minh, chính xác đối với các nội dung và đối tượng vi phạm.

Hai là, hoạt động thẩm tra, xác minh là khâu rất quan trọng trong công

tác kiểm tra của Đảng, nhưng phải luôn thực hiện công khai, dân chủ, tự phê

bình và phê bình để xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá, phân tích và sử

dụng các chứng cứ nhằm làm rõ bản chất của sự việc và hành vi, nội dung và

đối tượng kiểm tra để kết luận rõ đúng sai đảm bảo đúng nguyên tắc, phương

pháp công tác đảng.

Ba là, mục đích, yêu cầu cơ bản của thẩm tra, xác minh là tìm ra bản

chất, làm rõ sự thật bằng chứng cứ xác thực trên cơ sở khoa học, khách

quan. Từ chứng cứ qua thẩm tra, xác minh đã được thẩm định giúp cho các

tổ chức đảng có thẩm quyền kết luận và ra quyết định đối với các nội dung,

đối tượng kiểm tra. Độ chính xác và hiệu quả của các kết luận, quyết định xử

lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra chủ yếu tùy

thuộc vào kết quả và độ chính xác của các chứng cứ thu thập được qua thẩm

tra, xác minh.

Ngoài ra, khi bàn đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác

kiểm tra của Đảng, có một khái niệm cũng rất cần được đề cập đến, bởi nó có

ý nghĩa rất quan trọng và là yếu tố tất yếu phải tìm kiếm, phải thu thập được

mới đem lại kết quả trong hoạt động thẩm tra, xác minh, đó là chứng cứ.

Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học xuất bản định nghĩa chứng

cứ là “cái được dẫn ra để làm căn cứ xác định điều gì đó là có thật” [196,

tr.192]; Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa chứng cứ

là “cái được dẫn ra để dựa vào đó mà xác định điều gì đó đúng hay sai, thật

hay giả” [198, tr.415]. Qua đó có thể hiểu, chứng cứ chính là những cái có

thật, được dùng làm cơ sở để xem xét, kết luận về một hành vi hay một sự

Page 48: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

45

việc. Chứng cứ là cái đã xảy ra, là thực tế khách quan, tồn tại ngoài ý muốn

của con người. Mọi sự suy diễn, phỏng đoán hay tưởng tượng… đều không

thể thay cho chứng cứ.

Trong hoạt động tố tụng hình sự, chứng cứ là những tài liệu thực tế mà

các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án làm căn cứ theo trình tự luật định để xác

định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và

những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án. Chứng

cứ được xác định bằng: vật chứng; lời khai của nguời làm chứng, người bị

hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết

luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu khác.

Chứng cứ là phương tiện để xác minh sự thật về vụ án. Luật có một số yêu

cầu đối với chứng cứ nhằm bảo đảm tính xác thực, cũng như kiểm tra và đánh

giá đúng đắn chứng cứ: chứng cứ phải chứa đựng những tài liệu thực tế có

liên quan đến vụ án cụ thể; phải được rút ra từ những nguồn do luật quy định.

Trong công tác kiểm tra của Đảng, khi tiến hành kiểm tra tổ chức đảng

hoặc đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại

hay kết thúc một cuộc kiểm tra chấp hành thì phải kết luận được việc làm

đúng, sai của đối tượng kiểm tra để quyết định xử lý hoặc đề nghị cấp có thẩm

quyền xử lý kỷ luật một cách thỏa đáng. Vì vậy, trong hoạt động thẩm tra, xác

minh không chỉ tìm chứng cứ để kết luận hành vi của đối tượng kiểm tra có vi

phạm hay không, mà còn phải tìm cả những chứng cứ để kết luận việc làm

đúng, tốt của đối tượng kiểm tra. Đó chính là những điểm cơ bản của chứng

cứ trong hoạt động kiểm tra của Đảng.

Vậy, chứng cứ trong hoạt động thẩm tra xác minh trong công tác kiểm

tra của Đảng là những sự vật, hiện tượng có thật, liên quan đến nội dung, đối

tượng kiểm tra; giải quyết tố cáo, khiếu nại kỷ luật đảng, được các tổ chức

đảng, ủy ban kiểm tra các cấp thu thập trong quá trình thẩm tra, xác minh,

dùng làm căn cứ để kết luận việc làm đúng, sai của đối tượng kiểm tra.

Page 49: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

46

2.2.2. Vị trí, vai trò, đặc điểm của thẩm tra, xác minh trong công

tác kiểm tra của Đảng

2.2.2.1. Vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra

của Đảng Trong công tác kiểm tra, giám sát, kiểm kê, kiểm soát, V.I.Lênin rất coi

trọng công tác thẩm tra, xác minh; coi trọng phương pháp đối chiếu, so sánh,

cụ thể, tỉ mỉ với công việc, xem xét, cụ thể trên hồ sơ, tài liệu, sổ sách, chứng

từ, làm rõ đúng, sai, phải trái, làm rõ chứng lý để kết luận được chuẩn xác.

Người phê phán thái độ kiểm tra, giám sát quan liêu, thiếu dân chủ, không sâu

sát, trực tiếp tại chỗ, không xem xét cụ thể hồ sơ, tài liệu, sổ sách, không coi

trọng thực hiện công tác thẩm tra, xác minh, mà chỉ nghe báo cáo trên giấy.

Lênin chỉ rõ: "các ủy ban nhà máy đang muốn có một sự kiểm soát thật sự của

công nhân, chứ không phải là một sự kiểm soát trên giấy tờ" [105, tr.303]. Và

Người yêu cầu: phải "thực sự cầu thị, bằng cách hỏi han tỉ mỉ, kiểm tra các

con số, chứ không chỉ tin vào lời nói..." [109, tr.389]. V.I.Lênin nêu rõ cách

thức thực hiện công tác thẩm tra, xác minh là phải:

đưa ra các tài liệu cụ thể, thực tế, có số liệu, về những lực lượng

nào (trước hết là các đảng viên, sau đến những người ngoài Đảng

nhưng phải tuyệt đối trung thực) mà chúng ta có để tiến hành một

cuộc kiểm tra thực tế. Số lượng chuyên gia ở các ngành, số lượng

đồng chí có kinh nghiệm trong công tác hành chính, trong công tác

quản lý [107, tr.417].

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, phương pháp thi

hành kỷ luật đảng, Người cho rằng: để thi hành kỷ luật bảo đảm công minh,

chính xác, kịp thời, đúng phương châm, nguyên tắc, thủ tục thì phải coi trọng

công tác kiểm tra và người đi kiểm tra phải chú trọng khâu thẩm tra, xác minh

để xem xét sự việc, làm rõ đúng, sai, nội dung, tính chất, mức độ, tác hại và

nguyên nhân của vi phạm, giúp cho việc kết luận và xử lý vi phạm được chuẩn

Page 50: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

47

xác. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "…cần phải phân tách rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét

kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng" [118, tr.284].

Trong công tác kiểm tra, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đề cao vị trí,

vai trò của thẩm tra, xác minh. Về phương châm, phương pháp xem xét, thi

hành kỷ luật, Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương được thảo luận và thông

qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10-

1930 ghi rõ: “Trước khi quyết định kỷ luật, tổ chức của Đảng phải điều tra,

nghiên cứu tại chỗ cho rõ ràng sự thực, tập hợp đầy đủ chứng cớ mọi mặt,

trên cơ sở đó mà phân tích một cách cụ thể, toàn diện và khách quan, xác

định đúng mức độ, tính chất, nguyên nhân” [128, tr.376]. Tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ III, Đảng ta đã chỉ rõ khuynh hướng lệch lạc trong

thi hành kỷ luật:

Một số đồng chí trong các cấp ủy khi thi hành kỷ luật đảng viên,

không chú ý làm công tác tư tưởng một cách sâu sắc và tỉ mỉ, thiếu

nhẫn nại, kiên trì thuyết phục, thiếu phân tích tính chất sai lầm, làm

rõ nguồn gốc sai lầm và vạch rõ phương pháp sửa chữa, sau đó lại

không theo dõi, giúp đỡ, tạo điều kiện cho đảng viên phạm lỗi tiến

bộ [92, tr.165].

Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III

đã quy định: “Việc thi hành kỷ luật là để đảm bảo cho kỷ luật của Đảng

được nghiêm minh… phải điều tra nghiên cứu kỹ càng và căn cứ vào những

bằng chứng xác thực” [92, tr.812]. Đến Đại hội lần thứ IV, Điều lệ Đảng

quy định: “Việc thi hành kỷ luật của Đảng phải đảm bảo chặt chẽ, kịp thời…

phải hết sức thận trọng; phải điều tra, nghiên cứu kỹ càng, đi sâu tìm hiểu

bản chất, tránh chỉ nhìn hiện tượng và phải căn cứ vào những bằng chứng

xác thực” [79, tr.298].

Có thể nhìn nhận thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng

ở một số vị trí, vai trò sau:

Page 51: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

48

Một là, thẩm tra, xác minh là khâu quan trọng, không thể thiếu được

trong toàn bộ quy trình thực hiện công tác kiểm tra của Đảng

Yêu cầu của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng là xem xét

khách quan, kết luận chính xác, xử lý nghiêm minh. Để đạt mục đích đó, phải

tiến hành thẩm tra, xác minh để thu thập chứng cứ, chuẩn bị chứng lý sắc bén

cho các kết luận kiểm tra. Muốn tìm được chứng cứ, xây dựng được chứng lý

chỉ có thể thực hiện được sau khi đã tiến hành thẩm tra, xác minh.

Trong thực tiễn hiện nay, các vi phạm đang có xu hướng ngày càng gia

tăng với biểu hiện rất đa dạng, nội dung và tính chất phức tạp, thủ đoạn tinh

vi, quy mô rộng cộng với tính tự giác, trung thực, tinh thần tự phê bình và phê

bình của một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút làm cho công tác kiểm tra

gặp nhiều khó khăn. Tình hình đó đòi hỏi phải hết sức chú trọng công tác

thẩm tra, xác minh, coi đó là khâu then chốt trong công tác kiểm tra của

Đảng; nếu chưa thẩm tra, xác minh hoặc thẩm tra, xác minh chưa rõ ràng, chu

đáo thì chưa chưa được kết luận, xử lý đối với nội dung và đối tượng kiểm tra.

Thẩm tra, xác minh tốt, có chất lượng góp phần có tính quyết định đến kết

quả kiểm tra, ngược lại sẽ ảnh hưởng đến công tác kiểm tra, làm cho công tác

kiểm tra hạn chế, khuyết điểm, thậm chí yếu kém.

Hai là, chất lượng và kết quả của hoạt động thẩm tra, xác minh trực

tiếp quyết định độ chính xác của các kết luận và độ xác đáng của các quyết

định xử lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra

Mục đích, yêu cầu của công tác kiểm tra là phải xem xét, đánh giá, kết

luận chính xác ưu điểm, khuyết điểm, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân

vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra để quyết định xử lý

theo thẩm quyền. Chất lượng, hiệu quả, hiệu lực công tác kiểm tra tuỳ thuộc

rất lớn vào việc đánh giá, kết luận đó. Muốn vậy, việc thẩm tra, xác minh phải

có chất lượng, hiệu quả, phải tìm ra được các bằng chứng khách quan, xác

đáng để chứng minh cho các kết luận kiểm tra. Kết quả thẩm tra, xác minh là

Page 52: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

49

căn cứ, cơ sở để tổ chức đảng có thẩm quyền có đầy đủ thông tin đánh giá,

nhận xét, quyết định đến vấn đề, nội dung kiểm tra; điều đó cũng ảnh hưởng

đến sinh mệnh chính trị của đối tượng kiểm tra.

Ba là, thẩm tra, xác minh góp phần giúp công tác kiểm tra giữ gìn tính

nghiêm minh của kỷ luật đảng, bảo đảm sự công bằng trong tổ chức, xây

dựng nội bộ đoàn kết, trong sạch, vững mạnh

Hoạt động thẩm tra, xác minh phải đi đến cùng để nhằm làm rõ đúng,

sai, vi phạm hay không vi phạm của đối tượng được kiểm tra; thanh minh

cho những đảng viên, tổ chức đảng bị oan, sai, xử lý nghiêm minh, chính

xác những cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng có vi phạm. Thẩm tra, xác

minh tốt còn góp phần ngăn ngừa, giáo dục cán bộ, đảng viên trong tổ chức

đảng được kiểm tra có vi phạm, tiêu cực và cả những tổ chức đảng và đảng

viên chưa được kiểm tra. Mặt khác, qua thẩm tra, xác minh, chỉ ra cái đúng,

mặt ưu điểm, việc nghiêm túc chấp hành các quy định của tổ chức đảng,

đảng viên để công khai, phát huy. Hoạt động công tác kiểm tra nói chung,

hoạt động thẩm tra xác minh nói riêng đều nhằm góp phần xây dựng Đảng

trong sạch, vững mạnh.

Để thực hiện phương châm "công minh, chính xác, kịp thời" trong việc

thi hành kỷ luật của Đảng, phải quan tâm đến khâu thẩm tra, xác minh. Thực

tiễn đã chứng minh, nhiều vụ việc sau kiểm tra kết luận, xử lý không chính

xác, xử lý oan, sai gây hậu quả nghiêm trọng đến sinh mệnh chính trị của cán

bộ, đảng viên, ngược lại nhiều trường hợp xử lý không nghiêm có nguyên

nhân từ khâu thẩm tra, xác minh. Thực tiễn cũng chỉ rõ tình hình tiêu cực, vi

phạm nhất là tệ tham nhũng đã, đang và vẫn tiếp tục xảy ra ngày càng nghiêm

trọng do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân cơ bản là khâu

thẩm tra, xác minh còn nhiều hạn chế, bất cập, không tìm ra được chứng cứ,

nên không có cơ sở vững chắc để xem xét, quyết định xử lý.

Page 53: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

50

Bốn là, thẩm tra, xác minh góp phần thúc đẩy tính tự giác, trung thực

tiên phong của đảng viên

Thẩm tra, xác minh tốt không những thể hiện trách nhiệm, chất lượng,

hiệu quả của hoạt động kiểm tra mà còn góp phần thúc đẩy tính tự giác của

đảng viên. Hoạt động thẩm tra, xác minh có chất lượng sẽ chỉ ra đúng những

mặt tốt cũng như những mặt thiếu sót, hạn chế từ những chứng cứ cụ thể,

những kết quả tìm thấy, những luận giải có lý, có tình. Qua đó, cán bộ, đảng

viên, tổ chức đảng nhìn lại mình, soi chiếu mình rõ hơn, có trách nhiệm hơn

với tổ chức và với những việc do bản thân mình làm để nghiêm túc nhìn nhận,

đánh giá, tự phê bình một cách chân thành, thẳng thắn, nghiêm túc, cầu thị về

cả những ưu điểm và khuyết điểm. Bên cạnh đó, thẩm tra, xác minh còn

khuyến khích quần chúng nâng cao trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng, góp

ý cho tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên nhằm giữ uy tín của Đảng và nâng

cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.

2.2.2.2. Đặc điểm của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng Một là, thẩm tra, xác minh là hoạt động trong nội bộ Đảng, liên quan

đến sự lãnh đạo, thực hiện và kỷ luật đảng, chủ yếu giữa các tổ chức đảng và

từng đảng viên. Tuy nhiên, do Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn bộ

xã hội, nên nhiều vấn đề trong nội bộ Đảng cũng liên quan đến quần chúng

nhân dân, đến các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

So với các hoạt động nghiệp vụ khác của các cơ quan điều tra, thanh

tra, nội chính, tư pháp, giữa hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm

tra với hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ

của Đảng có khá nhiều nét tương đồng vì đây đều là các hoạt động nội bộ

Đảng, với mục đích củng cố tổ chức, nội bộ trong sạch, vững mạnh. Còn khi

so sánh với các hoạt động nghiệp vụ khác, hoạt động thẩm tra, xác minh trong

công tác kiểm tra của Đảng cũng như hoạt động điều tra hình sự và thanh tra

của Nhà nước có những điểm tương đồng ở chỗ, đều có mục đích chung là

Page 54: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

51

thông qua hoạt động tìm tòi, thu thập, tra cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh,

thẩm định,… để làm rõ sự thật của sự việc, hiện tượng để kết luận rõ đúng,

sai; phát huy những nhân tố tích cực, phát hiện, phòng ngừa, xử lý vi phạm,

góp phần cho hoạt động lãnh đạo, quản lý đạt hiệu quả, có trật tự, nền nếp,

theo khuôn khổ, từ đó, tạo điều kiện để từng bước hoàn thiện cơ chế lãnh

đạo, quản lý, tăng cường kỷ cương, kỷ luật để xây dựng tổ chức trong sạch,

vững mạnh.

Chủ thể chính chỉ đạo và trực tiếp thực hiện thẩm tra, xác minh trong

công tác kiểm tra là cấp ủy, ủy ban kiểm tra, cán bộ kiểm tra; còn trong công

tác bảo vệ chính trị nội bộ là ban tổ chức, cán bộ tổ chức của cấp ủy; còn chủ

thể thanh tra là các cơ quan quản lý Nhà nước; chủ thể trong hoạt động điều

tra gồm có: cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực

lượng Cảnh sát biển.

Hai là, nội dung thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng

là xem xét, đánh giá những vi phạm trong việc thực hiện Cương lĩnh chính trị,

Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng,

pháp luật của Nhà nước của các tổ chức đảng và đảng viên để kết luận và kiến

nghị xử lý kỷ luật. Trong khi đó, nội dung thanh tra là xem xét, đánh giá, xử

lý việc thực hiện chính sách, pháp luật. Nội dung của hoạt động điều tra hình

sự là điều tra, xác minh tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật của Nhà nước,

nghĩa vụ của công dân…

Đối tượng thẩm tra, xác minh có liên quan đến các cấp ủy, tổ chức

đảng, đảng viên; đối tượng thanh tra liên quan đến các cơ quan, tổ chức, cá

nhân chịu sự quản lý; còn đối tượng điều tra liên quan đến các loại tội phạm.

Ba là, thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng được tiến

hành theo nguyên tắc và phương pháp công tác đảng: công khai, dân chủ,

dựa vào tổ chức đảng, phát huy tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên,

Page 55: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

52

phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng, đối tượng kiểm tra

đồng thời là chủ thể kiểm tra nên vừa có quyền, vừa có trách nhiệm tự

kiểm tra.

Phương pháp thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng - là

hoạt động nội bộ của Đảng - nên, phải lấy tự phê bình và phê bình làm biện

pháp chính yếu. Khi tiến hành thẩm tra, xác minh phải dùng phương pháp vận

động, thuyết phục, cảm hoá, nêu gương là chủ yếu, không được “cài bẫy”, ép

buộc hoặc hứa hẹn vô nguyên tắc.

Phương pháp thẩm tra, xác minh trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ

để làm rõ về lịch sử chính trị và chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên được

thực hiện qua: thu thập thông tin, tài liệu; nghiên cứu, phân tích, đánh giá,

phát hiện vấn đề cần xem xét về chính trị nội bộ. Việc nghiên cứu hồ sơ, lý

lịch của cán bộ, đảng viên chủ yếu thực hiện theo phương pháp nghiên cứu tại

chỗ. Trong quá trình thực hiện, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác

bảo vệ chính trị nội bộ còn có thể thông qua cơ quan chủ trì yêu cầu các cơ

quan tra cứu, cung cấp thông tin từ tàng thư hồ sơ nghiệp vụ an ninh, cảnh sát,

quân đội, hồ sơ ta thu được của địch, tàng thư căn cước, trích xuất thông tin từ

các cơ sở dữ liệu quản lý hộ chiếu, xuất nhập cảnh, đăng ký và quản lý

phương tiện giao thông, thuế, hải quan, ngân hàng…; đồng thời, có thể yêu

cầu cán bộ, đảng viên giải trình, tiếp xúc nhân chứng, người có trách nhiệm,

quyền lợi liên quan, người tố cáo, tố giác… hoặc đề nghị các cơ quan chức

năng phối hợp, xác minh làm rõ một số nội dung, kể cả xác minh sự việc, con

người có liên quan đến yếu tố nước ngoài.

Trong khi đó, hoạt động thanh tra phải thực hiện theo trình tự, thủ

tục, thẩm quyền được quy định tại Luật Thanh tra và các quy định khác của

pháp luật. Trong công tác thanh tra, phương pháp cơ bản cũng dựa trên sự

động viên, khuyến khích, thuyết phục nhưng còn được sử dụng quyền lực

hành chính.

Page 56: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

53

Bốn là, trong quá trình thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của

Đảng không sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp

luật như sử dụng cơ sơ bí mật, đặc tình, ngoại tuyến…

Trong hoạt động điều tra, cơ quan điều tra được áp dụng mọi biện pháp

do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người đã thực

hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố. Trong điều tra hình sự,

ngoài việc giải thích, giáo dục, thuyết phục kẻ phạm tội, cơ quan điều tra

còn được áp dụng các biện pháp như trinh sát, đặc tình và các biện pháp

ngăn chặn khác.

Năm là, hoạt động thẩm tra, xác minh được thực hiện theo các khâu:

lập kế hoạch thẩm tra, xác minh, tiến hành thẩm tra, xác minh, báo cáo kết

quả thẩm tra, xác minh và sử dụng kết quả thẩm tra, xác minh để kết luận và

xử lý (nếu có vi phạm) theo thẩm quyền được quy định trong Điều lệ Đảng và

các quy định khác trong Đảng.

Về sử dụng các kết quả thu được: kết quả thẩm tra, xác minh trong

công tác kiểm tra đảng được báo cáo trình tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, ủy

ban kiểm tra xem xét, kết luận theo thẩm quyền; nếu không thuộc thẩm quyền

thì báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định. Đối với thanh

tra, sau khi có kết quả thanh tra phải báo cáo, trình thủ trưởng cơ quan xem

xét, ra kết luận và xử lý theo thẩm quyền. Đối với cơ quan điều tra, sau khi có

kết luận điều tra phải chuyển hồ sơ sang cơ quan kiểm sát cùng cấp để ra

quyết định truy tố bị can, chuyển hồ sơ sang Tòa án xét xử; nếu chưa đủ yếu

tố cấu thành tội phạm phải có quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra.

Hoạt động điều tra hình sự có nhiệm vụ tiếp tục và mở rộng công tác

điều tra vụ án, vì đây là hoạt động đấu tranh chống tội phạm. Hoạt động thẩm

tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng chỉ được tiến hành theo đúng

nội dung đã đề ra trong kế hoạch, nội dung tố cáo, khiếu nại; không được làm

những việc ngoài kế hoạch hoặc ngoài nội dung tố cáo, khiếu nại. Tuy nhiên,

Page 57: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

54

trong quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh, nếu phát hiện nội dung, tình tiết

mới phải báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định; nếu cần giám định

kỹ thuật thì phải tiến hành trưng cầu giám định.

2.2.3. Nguyên tắc và thẩm quyền, trách nhiệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng

2.2.3.1. Nguyên tắc thẩm tra, xác minh Hiện nay chưa có văn bản chính thống nào xác định nguyên tắc công

tác kiểm tra cũng như nguyên tắc hoạt động thẩm tra, xác minh. Từ nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng và thực trạng vừa qua, tác giả luận án cho rằng quá trình thẩm tra, xác minh phải thực hiện các nguyên tắc sau đây:

Một là, phải bám sát mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm tra. Thẩm tra, xác minh là một khâu trong quá trình tiến hành cuộc kiểm

tra, nhằm phục vụ cuộc kiểm tra. Mục đích cuối cùng của hoạt động thẩm tra, xác minh là tìm được chứng cứ xác thực, phải làm rõ sự thật, để kết luận nội dung, đối tượng kiểm tra, vì vậy phải căn cứ và thực hiện bằng được mục đích, yêu cầu cuộc kiểm tra mà chủ thể kiểm tra đã xác định. Có bám vào mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm tra thì mới có cơ sở từ khâu chuẩn bị đến quá trình thực hiện, là căn cứ để xác định đối tượng, phương pháp, cách thức thẩm tra, xác minh. Nội dung kiểm tra là cơ sở, cái gốc, là yếu tố để xác định đối tượng thẩm tra, xác minh. Nếu không bám vào nội dung kiểm tra thì quá trình thẩm tra, xác minh sẽ chệch hướng, tràn lan. Khi đã xác định rõ đối tượng thẩm tra, xác minh sẽ thuận lợi cho quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, tiếp cận đúng các cá nhân, tổ chức có liên quan và dự kiến các tình huống xảy ra để giải quyết, hướng đến việc tìm ra bản chất, chỉ đúng sự thật bằng chứng cứ và đã được kiểm chứng trở thành chứng lý kiểm tra.

Hai là, tiến hành thẩm tra, xác minh phải dân chủ, công khai, thận trọng, chặt chẽ, công tâm, khách quan; không bị chi phối bởi bất kỳ sức ép nào

Dân chủ, công khai, thận trọng, chặt chẽ, công tâm, khách quan là điều

bắt buộc trong quá trình thẩm tra, xác minh, là quy định trong sinh hoạt đảng.

Page 58: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

55

Có dân chủ thì mới phát huy được trí tuệ, sức mạnh của tổ chức đảng và đảng

viên, mới giúp cho việc thẩm tra, xác minh thực hiện nhanh chóng, có kết

quả. Khi dân chủ trong Đảng, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình được

phát huy thì chất lượng công tác kiểm tra nói chung và thẩm tra, xác minh nói

riêng sẽ được nâng lên. Công tác kiểm tra liên quan đến sứ mạng chính trị của

tổ chức đảng và đảng viên, vì vậy cần phải tiến hành thận trọng, chặt chẽ và

hết sức khách quan, công tâm, không được thiên vị, mang động cơ cá nhân.

Hoạt động thẩm tra, xác minh phải công khai, minh bạch, không được bí mật,

vì đối tượng kiểm tra cũng đồng thời là chủ thể kiểm tra hoặc chủ thể tự kiểm

tra, họ biết và có trách nhiệm với các hành vi của mình.

Công tác kiểm tra nói chung và quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh

nói riêng là công việc phức tạp, đầy khó khăn, liên quan trực tiếp đến tổ chức

đảng và cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ có chức quyền. Vì vậy,

trong chừng mực nhất định sẽ có thể bị chi phối bởi những sức ép vô hình và

hữu hình từ tâm lý, tình cảm, quyền lực. Nếu bị các sức ép chi phối, cán bộ

kiểm tra sẽ giảm sút ý chí, trắng đen lẫn lộn, tiến hành không khách quan, "dĩ

hoà vi quý", kết quả thẩm tra, xác minh không đúng sự thật, không đúng bản

chất. Để tiến hành tốt thẩm tra, xác minh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu

quả công tác kiểm tra, cán bộ kiểm tra phải đề cao trách nhiệm, có bản lĩnh

vững vàng trước mọi cám dỗ, có dũng khí, không sợ và không được để bất cứ

sức ép nào tác động, chi phối trong quá trình thực thi nhiệm vụ.

Ba là, thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng và phương

pháp công tác kiểm tra đảng

Thẩm tra, xác minh là công việc trong nội bộ Đảng vì vậy phải tuân thủ

các nguyên tắc, quy định của Đảng và phương pháp công tác kiểm tra. Các

nguyên tắc, quy định là căn cứ, nền tảng để quá trình thẩm tra, xác minh dựa

vào đó xem xét, đối chiếu, so sánh, nhận xét, kết luận. Phương pháp công tác

kiểm tra đã được đúc kết từ thực tiễn, từ nguyên tắc xây dựng Đảng, mang

Page 59: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

56

tính Đảng, khác với phương pháp công tác của cơ quan bảo vệ pháp luật.

Phương pháp đó cũng cần được chứng minh bằng phép suy luận khoa học,

bằng tư duy lãnh đạo, bằng đạo đức kiểm tra đảng, phân tích khoa học trên cơ

sở tư duy lý trí và tư duy pháp lý phù hợp với nguyên tắc đảng.

Ở một góc độ khác, hoạt động thẩm tra, xác minh nhất thiết và chủ yếu

phải dựa vào hệ thống tổ chức đảng, tiến hành hoạt động đa phương gồm

nhiều chủ thể, trong đó đối tượng kiểm tra cũng được đồng thời là chủ thể

kiểm tra. Quá trình thẩm tra, xác minh không được cản trở việc thực hiện

nhiệm vụ chính trị, hoạt động bình thường, cũng như hạn chế tính năng động,

sáng tạo, nhân tố phát triển của các tổ chức và cá nhân liên quan.

2.2.3.2. Thẩm quyền, trách nhiệm thẩm tra, xác minh Thẩm quyền tức là quyền quyết định một vấn đề nào đó, như thẩm

quyền quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo, thi hành

kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên. Thẩm quyền thẩm tra, xác minh gắn liền

với thẩm quyền kiểm tra. Tổ chức đảng nào quyết định kiểm tra thì thẩm

quyền thẩm tra, xác minh thuộc tổ chức đó. Khi quyết định kiểm tra một đối

tượng nào đó thì chủ thể kiểm bao giờ cũng quyết định kế hoạch kiểm tra và

trong kế hoạch kiểm tra có khâu thẩm tra, xác minh ở trong bước tiến hành

kiểm tra. Chủ thể kiểm tra có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, điều hành, xử lý

mọi vấn đề trong quá trình kiểm tra, tổ chức lực lượng, như lập đoàn (tổ)

kiểm tra, việc thẩm tra, xác minh và xem xét, kết luận nội dung thẩm tra, xác

minh. Tuy nhiên, việc chỉ đạo, điều hành, tiến hành kiểm tra được phân công,

phân nhiệm cho thường trực của chủ thể kiểm tra, như thường trực cấp uỷ,

thường trực tổ chức đảng, thường trực uỷ ban kiểm tra, còn việc tiến hành

kiểm tra, tiến hành thẩm tra, xác minh thì giao cho một số cán bộ, thông qua

đoàn (tổ) kiểm tra. Như vậy, việc quyết định và chỉ đạo thẩm tra, xác minh

thuộc thẩm quyền của chủ thể kiểm tra, còn việc tiến hành thẩm tra, xác minh

do đội ngũ cán bộ kiểm tra thực hiện.

Page 60: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

57

Đối với đoàn (tổ) và cán bộ kiểm tra phải có trách nhiệm thực hiện

đúng mục đích, yêu cầu cuộc kiểm tra và sự chỉ đạo của chủ thể kiểm tra về

hoạt động thẩm tra, xác minh. Thẩm tra, xác minh không đầy đủ, chính xác,

trung thực là trách nhiệm của cán bộ và đoàn (tổ) kiểm tra.

2.2.4. Nội dung, đối tượng, quy trình, phương pháp thẩm tra, xác

minh trong công tác kiểm tra của Đảng

Mỗi cuộc kiểm tra có nhiệm vụ, nội dung, đối tượng cụ thể khác nhau.

Mặt khác, trong mỗi nhiệm vụ kiểm tra, tuỳ thuộc nội dung, đối tượng kiểm

tra mà có nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh khác nhau. Do đó, công tác

thẩm tra, xác minh trong quá trình thực hiện từng nhiệm vụ kiểm tra lại có nội

dung, đối tượng cụ thể khác nhau.

2.2.4.1. Nội dung thẩm tra, xác minh Nội dung thẩm tra, xác minh là những nội dung kiểm tra có vấn đề cần

được xem xét, làm rõ. Mỗi nhiệm vụ kiểm tra và vụ việc kiểm tra có nội dung

riêng nên nội dung thẩm tra, xác minh rất đa dạng, tùy thuộc vào nội dung

kiểm tra. Nội dung kiểm tra rất rộng, ở nhiều lĩnh vực khác nhau và liên quan

đến nhiều người, nhiều cấp, nhiều ngành trong xã hội. Do vậy, việc xác định

nội dung thẩm tra, xác minh cần tập trung vào những nội dung trọng tâm,

trọng điểm để tránh lan man, không xác định đúng bản chất của vấn đề. Tuy

nhiên, không được bỏ sót nội dung thẩm tra, xác minh dẫn đến không làm rõ

được nội dung kiểm tra. Việc xác định nội dung thẩm tra, xác minh chuẩn xác

là điều kiện bảo đảm chất lượng, hiệu quả của quá trình thẩm tra, xác minh.

Nội dung thẩm tra, xác minh bao gồm: những mâu thuẫn giữa sự việc

so với các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; những vấn đề có tố

cáo, hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm Điều lệ Đảng, các nghị quyết, quy

định của Đảng, pháp luật của Nhà nước cần đi sâu nghiên cứu; những vấn đề

đã gợi ý kiểm điểm, giải trình nhưng chưa được các đối tượng kiểm tra báo

cáo, làm rõ.

Page 61: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

58

2.2.4.2. Đối tượng thẩm tra, xác minh

Cần phân biệt đối tượng kiểm tra với đối tượng thẩm tra, xác minh.

Đối tượng kiểm tra là những tổ chức đảng, đảng viên có vấn đề cần xem xét,

làm rõ, còn đối tượng thẩm tra, xác minh là những thông tin, tư liệu, sự việc,

hiện vật và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến đối tượng và nội dung cần

kiểm tra.

Như vậy, đối tượng thẩm tra, xác minh bao giờ cũng rộng hơn, đa dạng

và phức tạp hơn. Giữa đối tượng kiểm tra và đối ượng thẩm tra, xác minh bao

giờ cũng có mối quan hệ qua lại, mối quan hệ nhân quả. Việc làm của đối

tượng kiểm tra thường thông qua, thể hiện qua đối tượng thẩm tra, xác minh.

Vì vậy, xác định đúng đối tượng thẩm tra, xác minh, nhất là đối tượng chủ

yếu trong quá trình tiến hành nhiệm vụ là rất quan trọng, vì đó là những điểm

cần tập trung để nhanh chóng làm rõ sự thật.

Quá trình thu thập tài liệu, thông tin, qua sự am hiểu, tinh tường và

nhạy cảm của cán bộ kiểm tra mà xác định mối liên hệ, tính chất của sự việc,

phát hiện những điểm mâu thuẫn, bất hợp lý, những điều chưa rõ ràng, những

dấu hiệu của sự bưng bít, che giấu... để xác định sự liên hệ, các đối tượng và

nội dung cần thẩm tra, xác minh.

2.2.4.3. Quy trình tiến hành thẩm tra, xác minh

Quy trình thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là

những quy định về trình tự thủ tục các hoạt động chủ yếu để tiến hành xem

xét, tra cứu, thẩm định nhằm mục tiêu tìm ra sự thật của những thông tin, sự

kiện, hành vi có liên quan đến nội dung và đối tượng kiểm tra của Đảng.

Trong quy trình thẩm tra, xác minh có nhiều khâu, nhiều động tác hoạt

động và có thể chia thành nhiều bước cụ thể. Tuy nhiên, quy trình tiến hành

thẩm tra, xác minh hiện nay vẫn thường được quy tụ và thực hiện theo 3 bước

cơ bản mang tính tổng quát như sau:

Page 62: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

59

Bước thứ nhất, chuẩn bị và xây dựng kế hoạch

Là bước có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm xác định mục đích, yêu

cầu, nội dung, phương pháp thẩm tra, xác minh, thời gian, tổ chức lực lượng

tiến hành thẩm tra, xác minh; xác định những đối tượng thẩm tra, xác minh: tổ

chức, cá nhân cần tiếp xúc; những thông tin, chứng cứ cần thu thập,... và dự

kiến những tình huống có thể phát sinh và cách giải quyết. Trong bước này

cần tiến hành khảo sát tình hình về đối tượng kiểm tra và các tổ chức, đơn vị

liên quan; nghiên cứu xác định mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp

thẩm tra, xác minh; lập kế hoạch cụ thể: dự kiến về thời gian, lực lượng, phân

công, phân nhiệm; dự định những đối tượng cần gặp, những tổ chức cần tiếp

xúc, những thông tin cần tiếp cận, những chứng cứ cần thu thập…

Bước thứ hai, tiến hành các hoạt động thẩm tra, xác minh

Đây là bước, công đoạn quan trọng nhất. Kết quả thẩm tra, xác minh

chủ yếu phục thuộc vào bước này.

Trước hết, đoàn (tổ) kiểm tra thông báo với tổ chức, cá nhân có liên

quan về kế hoạch thẩm tra, xác minh; nghe báo cáo về các nội dung cần thẩm

tra, xác minh.

Tiếp xúc đối tượng kiểm tra. Yêu cầu đối tượng kiểm tra báo cáo kiểm

điểm tường trình và cung cấp thông tin, chứng cứ liên quan nội dung kiểm tra.

Làm tốt công tác tư tưởng và hướng dẫn đối tượng báo cáo tường trình, giải

trình, kiểm điểm trên tinh thần tự phê bình trung thực, tự giác và nghiêm túc

của đối tượng kiểm tra là khâu quan trọng hàng đầu của hoạt động thẩm tra,

xác minh.

Tiếp xúc các tổ chức đảng có liên quan (chi bộ, đảng uỷ, ban cán sự

đảng...). Yêu cầu cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành sinh hoạt tự phê bình và

phê bình trong tổ chức đảng một cách nghiêm túc; yêu cầu lãnh đạo giáo dục,

đôn đốc đối tượng kiểm tra nghiêm túc, tự giác, tự phê bình; đề nghị cấp uỷ

phối hợp trách nhiệm tiến hành thẩm tra, xác minh và lãnh đạo, chỉ đạo các tổ

Page 63: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

60

chức, cá nhân cán bộ đảng viên có liên quan cung cấp tài liệu, hồ sơ, chứng

cứ phục vụ hoạt động thẩm tra, xác minh và cấp uỷ có văn bản tỏ rõ chính

kiến về những nội dung kiểm tra và về đối tượng kiểm tra.

Tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ như: tiếp cận các nguồn

thông tin; tiếp xúc các đối tượng liên quan gồm các cá nhân cán bộ, đảng

viên, quần chúng hoặc tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước có liên quan, liên đới

hoặc đã được chứng kiến; tiếp cận các nguồn thông tin, sự kiện, hành vi của

đối tượng kiểm tra.

Tiến hành phân tích các chứng cứ để tìm ra chứng lý kiểm tra như: thực

hiện đối chứng giữa các chứng cứ với ý kiến báo cáo giải trình, tự phê bình

của đối tượng kiểm tra và ý kiến phê bình cung cấp của tập thể, tổ chức với

các thông tin, chứng cứ thu thập được để sàng lọc, xác định tính hợp pháp và

tính hợp lý của chứng cứ kiểm tra. Đối chứng giữa các thông tin, chứng cứ có

dấu hiệu sai phạm, khuyết điểm, đối chiếu với chuẩn mực, tiêu chí của các

chủ trương, nghị quyết, nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước để

rút ra kết luận là đối tượng kiểm tra có vi phạm hay không vi phạm, hoặc vi

phạm đến mức độ nào...

Bước thứ ba, thống nhất nội dung báo cáo thẩm tra, xác minh trình cấp

có thẩm quyền kết luận

Trao đổi với đối tượng kiểm tra và tổ chức đảng có liên quan về dự

kiến báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh nhất là những nội dung liên quan trực

tiếp đến đối tượng kiểm tra. Ghi rõ ý kiến đồng ý, không đồng ý và ý kiến

khác của đối tượng được kiểm tra và tổ chức có liên quan.

Viết báo cáo thẩm tra, xác minh: Trên cơ sở những tài liệu, thông tin,

bằng chứng đã thu thập được, qua giám định của cơ quan chuyên môn, nghiệp

vụ (nếu có), qua trao đổi với các tổ chức có liên quan, qua phân tích, đánh giá,

nếu thấy đủ cơ sở kết luận thì viết báo cáo thẩm tra, xác minh. Rà soát, xem

xét lại lần cuối kết quả thẩm tra, xác minh, nếu thấy chỗ nào chưa đủ, chưa

Page 64: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

61

chính xác thì tiếp tục thẩm tra, xác minh, tìm kiếm, thu thập thêm chứng cứ để

bổ sung vào báo cáo. Báo cáo do cán bộ được phân công thẩm tra, xác minh

viết và chịu trách nhiệm trước uỷ ban kiểm tra cấp mình. Trường hợp cán bộ

do vụ, phòng hoặc tổ phân công thẩm tra, xác minh thì trước khi báo cáo với

uỷ ban, phải tham khảo ý kiến của vụ trưởng, trưởng phòng hoặc tổ trưởng

phụ trách địa bàn.

Theo Quy trình kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi

phạm; giải quyết tố cáo; giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng… (ban hành kèm theo

Quyết định số 1084-QĐ/UBKTTW, ngày 05-12-2012 của Uỷ ban Kiểm tra

Trung ương), sau khi làm việc với đại diện tổ chức đảng có liên quan và đối

tượng được kiểm tra để triển khai quyết định, kế hoạch kiểm tra; thống nhất lịch

trình tiến hành; yêu cầu đối tượng được kiểm tra chuẩn bị báo cáo giải trình;

cung cấp tài liệu, phối hợp kiểm tra, đoàn kiểm tra sẽ tiến hành thẩm tra, xác

minh. Bước thẩm tra, xác minh bao gồm những nội dung cụ thể sau: Thu thập tài

liệu, chứng cứ, gặp các tổ chức, cá nhân có liên quan; nghiên cứu báo cáo giải

trình và các văn bản, tài liệu. Nếu cần bổ sung nội dung kiểm tra hoặc giám định

kỹ thuật, chuyên môn thì trưởng đoàn (là một đồng chí thành viên uỷ ban) xem

xét, quyết định. Đoàn kiểm tra trao đổi với đối tượng được kiểm tra những nội

dung cần bổ sung, làm rõ. Nếu thấy khuyết điểm đã rõ, vi phạm đến mức phải thi

hành kỷ luật và đối tượng được kiểm tra nhận có vi phạm thì báo cáo thường

trực uỷ ban cho kết hợp làm quy trình xem xét, thi hành kỷ luật.

Sau khi tiến hành thẩm tra, xác minh, đoàn kiểm tra tổ chức hội nghị

các tổ chức đảng có liên quan. Tại hội nghị, đoàn kiểm tra thông báo kết quả

thẩm tra, xác minh bằng văn bản; hội nghị thảo luận, nhận xét và đề nghị; bỏ

phiếu đề nghị hoặc tự nhận hình thức kỷ luật (nếu có).

Đoàn kiểm tra tiếp tục thẩm tra, xác minh những nội dung chưa rõ (nếu

có); chuẩn bị báo cáo kết quả kiểm tra; trao đổi với đối tượng được kiểm tra

và đại diện tổ chức đảng có liên quan về kết quả kiểm tra.

Page 65: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

62

Trong quá trình thực hiện, các nội dung trong kế hoạch có thể được

điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tế.

2.2.4.4. Phương pháp tiến hành thẩm tra, xác minh Một là, thu thập bằng chứng:

"Bằng chứng" theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu là "Vật hoặc việc

dùng làm bằng để chứng tỏ sự việc là có thật" [196, tr.34]. Như vậy, bằng

chứng trong thẩm tra, xác minh khi tiến hành công tác kiểm tra gồm người,

hiện vật, tài liệu, địa điểm, thời gian,... tồn tại khách quan liên quan đến sự

việc, dùng làm căn cứ để chứng tỏ sự việc là có thật. Bằng chứng thường

được thu thập, sưu tầm, khai thác từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, như từ

tổ chức hoặc cá nhân gây ra sự việc đó, từ tổ chức hoặc cá nhân có liên quan

hay biết rõ sự việc đó; những hiện vật, tài liệu có liên quan đến sự việc, như

đất đã chiếm dụng, nhà đã xây trái phép, tiền, tài sản dùng làm quà tặng, biếu

dưới dạng hối lộ đã được trao nhận, tài liệu, sổ sách, chứng từ, hoá đơn, băng

ghi âm, ghi hình, các phương tiện mang tin khác,...

Cách thu thập bằng chứng: trước hết là nghiên cứu, nắm chắc các hồ

sơ, tài liệu đã có, đánh giá tính khách quan, liên quan, hợp lý, hợp pháp của

các hồ sơ, tài liệu đã có (tài liệu đã có là bản chính hay bản sao, tài liệu gốc,

xác thực hay đã được hợp thức hoá hoặc giả mạo; thẩm quyền của tổ chức

hoặc cá nhân đã ký các tài liệu ấy có phù hợp với quy định không v.v...). Trên

cơ sở đó, thu thập những tài liệu gốc, những bản chính, những tài liệu có giá

trị chứng cứ và những tài liệu còn đang thiếu.

Tiếp xúc với các tổ chức đảng hoặc cá nhân đảng viên gây ra sự việc,

yêu cầu họ cung cấp những thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nội

dung kiểm tra, kể cả những chứng cứ chứng minh việc làm đúng của mình,

bác bỏ những nội dung tố cáo không đúng, những kết luận không đúng hoặc

để chứng minh cho việc xử lý là oan, sai. Khi cần, gặp những tổ chức, những

người có liên quan đến sự việc hoặc hiểu rõ sự việc để thu thập thêm tài liệu,

Page 66: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

63

chứng cứ giúp cho việc nhận xét, đánh giá, kết luận được chính xác, khách

quan. Việc tiếp xúc với những đối tượng trên, cần tiến hành với từng đối

tượng; không nhất thiết phải theo một trật tự cứng nhắc hoặc phải chờ thu

thập đầy đủ hồ sơ, tài liệu rồi mới tiếp xúc. Có thể tiếp xúc với mỗi đối tượng

một lần hoặc một số lần, nhưng cố gắng tiếp xúc một lần mà thu thập được

các thông tin, tài liệu, bằng chứng cần thiết để tránh gây phiền hà cho đối

tượng và gây khó khăn cho việc đi lại của cán bộ kiểm tra. Tiếp xúc với các tổ

chức đảng có liên quan (chi bộ, chi ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn,...) để yêu

cầu cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong tổ chức

đảng một cách nghiêm túc.

Trong thực tế, có thể gặp cấp ủy, tổ chức đảng trong quá trình thẩm tra,

xác minh hoặc sau phân tích những vấn đề đã được thẩm tra, xác minh để cấp

uỷ, tổ chức đảng cung cấp tình hình, tài liệu, chứng cứ hoặc thống nhất nội

dung, diễn biến, tình tiết của sự việc. Trường hợp giữa cấp ủy, tổ chức đảng

và cán bộ kiểm tra có vấn đề chưa thống nhất thì yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng

cung cấp thêm tài liệu, bằng chứng để cùng trao đổi, thảo luận. Nếu vẫn còn ý

kiến chưa thống nhất, cán bộ kiểm tra phải báo cáo trung thực, đầy đủ để ủy

ban kiểm tra xem xét, kết luận.

Trước khi tiếp xúc với từng đối tượng, phải chuẩn bị kế hoạch chu đáo,

xác định rõ những vấn đề cần đi sâu khai thác, dự kiến những tình huống có

thể phát sinh và cách giải quyết. Quá trình tiếp xúc với các đối tượng phải giữ

vững nguyên tắc và phương pháp công tác đảng, coi trọng và làm tốt công tác

tư tưởng, tâm lý, động viên trách nhiệm, nghĩa vụ, tinh thần tự giác của đối

tượng. Biết vận động, thuyết phục, tự kiềm chế, khiêm tốn, lắng nghe, nhưng

không bị chi phối trước cám dỗ của vật chất, quyền uy, thế lực. Biết đấu

tranh, lập luận sắc bén, đúng nguyên tắc, thấu tình, đạt lý, nêu đúng vấn đề để

giáo dục, thuyết phục, nhất là khi đối tượng không tự giác, có thái độ cực

đoan, động cơ không lành mạnh. Tuyệt đối không được đe dọa, cưỡng ép,

Page 67: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

64

dùng thủ đoạn đối phó, cài bẫy hoặc hữu khuynh, hứa hẹn vô nguyên tắc.

Không được sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp

luật (như tạm giữ, tạm giam, cưỡng chế, bí mật theo dõi,...) để thay phương

pháp thẩm tra, xác minh của Đảng. Có thể và cần sử dụng các phương tiện kỹ

thuật hiện đại (như ghi âm, ghi hình, vi tính) để nâng cao hiệu quả, chất lượng

của thẩm tra, xác minh. Các thông tin được cung cấp bằng lời phải được ghi

lại thành văn bản và có chữ ký xác nhận của người đã cung cấp.

Ngoài những tài liệu, bằng chứng nêu trên, cần chú ý thu thập những

nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và Nhà nước có liên quan đến vấn đề

thẩm tra, xác minh, vì đó là một trong những căn cứ quan trọng để kết luận

đúng, sai đối với tổ chức đảng và đảng viên. Nghị quyết, chỉ thị, quy định, về

một nội dung nào đó có thể được bổ sung, sửa đổi nhiều lần, bằng nhiều văn

bản khác nhau, thậm chí có trường hợp văn bản này phủ định văn bản khác.

Vì vậy, phải thu thập đủ để có điều kiện đối chiếu, phân tích, đánh giá.

Khi thu thập tài liệu chứng cứ, cán bộ kiểm tra phải trực tiếp gặp đối

tượng, trực tiếp đọc những thông tin, tài liệu, trực tiếp nhìn thấy các vật

chứng, nếu cần thì trực tiếp đến tận nơi xảy ra sự việc để thẩm tra, xác minh.

Không được chỉ nghe qua người khác, nghe dư luận, có nhiều người biết sự

việc nhưng chỉ nghe một vài người hoặc chỉ coi trọng những gì đã được nghe,

được đọc, nhìn lần đầu mà coi nhẹ những gì được thu thập về sau. Mọi thông

tin, tài liệu, bằng chứng thu thập được ban đầu, dù phong phú, có độ tin cậy

cao, nhưng thường là ở một phía, một kênh, một chiều. Muốn đánh giá đúng

sự thật, phải thu thập được bằng chứng xác thực qua các tài liệu, thông tin từ

nhiều phía, nhiều kênh, nhiều chiều có liên quan đến sự việc cần làm rõ.

Hai là, nghiên cứu, phân tích, xử lý tài liệu, thông tin, bằng chứng đã

thu thập được:

Việc thu thập đầy đủ tài liệu, thông tin, chứng cứ là rất quan trọng,

nhưng việc nghiên cứu, phân tích, xử lý những tài liệu, thông tin, bằng chứng

Page 68: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

65

ấy một cách chính xác, khách quan lại càng quan trọng vì đó là cơ sở tin cậy,

xác thực, khách quan để kết luận và xử lý đúng.

Việc nghiên cứu, phân tích, xử lý tài liệu, thông tin, bằng chứng là một

quá trình liên tục từ khi bắt đầu đến khi kết thúc việc làm rõ sự thật, không

chia tách, cắt khúc hoặc phân đoạn một cách máy móc. Khi đọc một tài liệu,

tiếp nhận một thông tin, tiếp xúc một đối tượng, tham dự một cuộc họp... cán

bộ kiểm tra phải nhạy cảm, suy nghĩ, phân tích, đánh giá thực chất của sự

việc, hiện tượng, tình tiết, phát hiện kịp thời những mâu thuẫn, những vấn đề

không hợp lý, chưa rõ hoặc có dấu hiệu đang tiềm ẩn đằng sau đó một sự thật

để vừa tiếp tục thu thập tài liệu, thông tin, bằng chứng khác, vừa thuyết phục,

gợi ý đấu tranh, cung cấp bằng chứng để đối tượng được kiểm tra từng bước

tự nhận ra sự thật hoặc gần với sự thật hơn.

Sau khi thu thập đầy đủ tài liệu, thông tin, bằng chứng, phải nghiên

cứu, phân tích, đánh giá lại tính khách quan, xác thực, hợp lý, hợp pháp của

từng tài liệu, thông tin, bằng chứng và của toàn bộ những vấn đề đã thu thập

được. Trên cơ sở đó, bằng phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, quy

nạp, với quan điểm lịch sử, cụ thể và bằng kiến thức, kinh nghiệm sống, sự

tinh tường, nhạy cảm của mình, cán bộ kiểm tra phải lật đi, lật lại từng vấn đề,

nêu lên những giả thiết và với tài liệu, thông tin, bằng chứng đã thu thập được

để chứng minh cho sự đúng, sai của từng giả thiết, loại dần các giả thiết

không hợp lý để cuối cùng có một kết luận đúng với sự thật. Đây là khâu quan

trọng nhất, khó khăn nhất, đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải có tinh thần trách

nhiệm cao, tác phong tỷ mỉ, cụ thể, phương pháp khoa học và một trình độ,

kiến thức cần thiết.

Ba là, trưng cầu ý kiến giám định của các cơ quan nghiệp vụ đối với

những vấn đề cần thiết:

Tiến hành thẩm tra, xác minh, có nhiều vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh

vực hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, của các cơ quan bảo vệ pháp

Page 69: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

66

luật, trong đó có những nội dung cán bộ hoặc cơ quan kiểm tra không thể tự

mình làm sáng tỏ được. Vì vậy, trong trường hợp cần thiết, phải trưng cầu ý

kiến giám định của cơ quan nghiệp vụ, chuyên môn có thẩm quyền. Ví dụ cơ

quan y tế giám định trạng thái tâm thần của một người; cơ quan công an giám

định chữ viết, chữ ký, con dấu; cơ quan công chứng nhà nước thẩm định giấy

tờ, văn bản; cơ quan tư tưởng, văn hoá, thông tin thẩm định một bài báo, một

tác phẩm có liên quan đến công tác kiểm tra... Các văn bản giám định phải

được cấp có thẩm quyền ký và đóng dấu.

Bốn là, khi tiến hành thẩm tra, xác minh, chủ thể kiểm tra phải thường

xuyên tiếp xúc với tổ chức đảng, đảng viên có liên quan và đối tượng kiểm

tra, vì vậy, đòi hỏi chủ thể kiểm tra phải thực hiện nghiêm túc việc phê bình.

Phương pháp phê bình của chủ thể kiểm tra thường sử dụng như sau:

Thứ nhất, gợi ý những nội dung cần tìm hiểu, thẩm tra, xác minh để các

tổ chức đảng có liên quan và đối tượng kiểm tra trình bày cho sát với mục

đích, yêu cầu, nội dung cần kiểm tra.

Thứ hai, động viên, thuyết phục để đối tượng được kiểm tra bình tĩnh,

tự giác… trình bày rõ ràng, đầy đủ các nội dung cần được thẩm tra, xác minh.

Thứ ba, đối với những trường hợp cố tình che giấu thiếu sót, khuyết

điểm, thiếu tự giác thì cần thể hiện phương pháp phê bình "cứng rắn" để yêu

cầu đối tượng được kiểm tra phải nghiêm túc thực hiện yêu cầu của chủ thể

kiểm tra.

Để thực hiện tốt việc phê bình, chủ thể kiểm tra phải nắm vững: mục

đích, yêu cầu cuộc kiểm tra; nội dung cần kiểm tra, thẩm tra, xác minh; chủ

trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị… có liên quan đến các vấn

đề cần thẩm tra, xác minh để làm cơ sở cho việc thẩm tra, xác minh.

Phương pháp phê bình của chủ thể kiểm tra tốt nhất là đi vào từng vấn

đề cần thẩm tra, xác minh, tránh đi lan man để việc kết luận được đầy đủ,

chính xác đúng trọng tâm.

Page 70: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

67

Năm là, thẩm định, rà soát lại và trao đổi một số nội dung liên quan:

Tiến hành thẩm định bằng cơ chế tập thể để chấp thuận những thông

tin, chứng cứ và chứng lý kiểm tra đã được làm sáng tỏ, minh bạch. Đồng

thời, thống nhất phủ định, loại bỏ các thông tin, chứng cứ không hợp pháp,

bất hợp lý hoặc không đủ độ tin cậy, xác thực. Trong khâu thẩm định hết sức

coi trọng những ý kiến mang tính phản biện, ngược chiều để đi đến kết luận

có sự thống nhất và đạt được độ chuẩn xác cao.

Tiến hành đối thoại dân chủ với đối tượng kiểm tra về dự kiến kết luận

thẩm tra, xác minh nhất là những nội dung kết luận liên quan trực tiếp đến đối

tượng kiểm tra.

Tiến hành trao đổi, thảo luận với các tổ chức đảng liên quan để cùng

thống nhất, đánh giá về dự kiến kết luận thẩm tra, xác minh và những nội

dung chủ yếu của văn bản báo cáo trình lên tổ chức đảng có thẩm quyền.

Sáu là, viết báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh:

Tiến hành dự thảo văn bản và trình tự hoàn thiện văn bản báo cáo kết

luận thẩm tra, xác minh, kiến nghị các biện pháp xử lý trình cấp thẩm quyền

xem xét, quyết định. Nội dung báo cáo cần nêu rõ: Những vấn đề cần thẩm

tra, xác minh (như nội dung tố cáo, nội dung khiếu nại, nội dung kiểm tra,...);

kết quả thẩm tra, xác minh từng nội dung (đối với những nội dung quan trọng,

phức tạp, cần nêu rõ nội dung, tính chất, diễn biến, tình tiết của sự việc, thời

gian, không gian diễn ra sự việc; họ tên, địa chỉ những đối tượng có liên

quan); nhận xét và đề nghị (cần khẳng định sự việc có hay không có, đúng

hay sai, khuyết điểm hay vi phạm; nếu vi phạm thì nêu rõ nội dung, tính chất,

mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm của từng cá nhân và từng tổ chức; ý

kiến đề nghị giải quyết).

Họp tổ chức có thẩm quyền (uỷ ban kiểm tra, cấp uỷ...) xem xét báo

cáo kết quả thẩm tra, xác minh, kết luận, quyết định xử lý, chỉ đạo các hoạt

động tiếp theo.

Page 71: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

68

2.2.5. Tiêu chí đánh giá hoạt động thẩm tra, xác minh trong công

tác kiểm tra của Đảng

Hoạt động thẩm tra, xác minh tốt hay không thể hiện qua kết quả, hiệu

quả thực hiện từng cuộc kiểm tra cụ thể cũng như chất lượng công tác kiểm

tra nói chung. Thẩm tra, xác minh phải làm rõ được nội dung, đối tượng kiểm

tra, tức là phải thu thập được các chứng cứ để tìm ra sự thật, chỉ rõ bản chất

về hành vi của đối tượng kiểm tra giúp việc xem xét, kết luận đúng sai, xử lý

nghiêm minh, chính xác (nếu có vi phạm). Kết quả, hiệu quả thẩm tra, xác

minh là những gì đạt được theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra, tác động trực tiếp

đến kết quả công tác kiểm tra, góp phần thực hiện nhiệm vụ công tác xây

dựng Đảng. Có thể đánh giá hoạt động thẩm tra, xác minh qua một số tiêu chí

sau đây:

Một là, hoạt động thẩm tra, xác minh phải thực hiện đúng nguyên tắc,

theo kế hoạch đã được xác định.

Hoạt động thẩm tra, xác minh có chất lượng tốt hay không tốt, ngay từ

đầu thể hiện ở việc có bám sát mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm tra hay

không. Bám sát mục đích yêu cầu, nội dung kiểm tra sẽ tạo tiền đề, căn cứ

cho việc xác định đúng nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh và các bước

tiếp theo, làm cơ sở cho việc tiến hành thẩm tra, xác minh đúng hướng; đồng

thời, đây cũng là dấu hiệu, tiêu chí minh chứng cho hoạt động thẩm tra, xác

minh có chất lượng, hiệu quả cao. Bên cạnh đó, trong quá trình tiến hành

thẩm tra, xác minh đảm bảo dân chủ, khách quan, công khai; thực hiện đúng

các nguyên tắc, quy định của Đảng.

Hai là, nắm chắc nội dung kiểm tra để xác định và lựa chọn đúng nội

dung, đối tượng thẩm tra, xác minh.

Hoạt động thẩm tra, xác minh có chất lượng tốt hay không còn thể hiện

ở việc đoàn (tổ) kiểm tra có lựa chọn, xác định đúng, cụ thể các nội dung và

đối tượng cần tập trung thẩm tra, xác minh và dự kiến các đối tượng có thể

Page 72: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

69

phát sinh khác. Xác định đúng nội dung thẩm tra, xác minh ở chỗ biết đâu là

vấn đề cần xem xét, làm rõ, đâu là trọng tâm, trọng điểm, mang tính bản chất

cần tập trung "giải mã", đảm bảo không dàn trải nhưng cũng không bỏ sót.

Bên cạnh đó, xác định đúng thông tin, tư liệu, sự việc, hiện vật để tìm, phát

hiện và chứng minh cho nội dung cần làm rõ, lựa chọn đúng các tổ chức, cá

nhân cần làm việc, có liên quan đến đối tượng và nội dung cần kiểm tra.

Ba là, thực hiện đúng quy trình, phương pháp thẩm tra, xác minh trong

công tác kiểm tra của Đảng.

Một cuộc thẩm tra, xác minh có chất lượng phải tiến hành đầy đủ các

bước, thủ tục trong quy trình thẩm tra, xác minh, thậm chí, có những trường

hợp phải thực hiện tiếp khi chưa đủ yếu tố vững chắc cho kết luận của cuộc

kiểm tra. Bên cạnh đó, trong quá trình thẩm tra, xác minh tuân thủ phương

pháp công tác Đảng, là công tác nội bộ trong Đảng; tích cực động viên, phát

huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy được tinh thần,

trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân; phối hợp giữa ủy ban

kiểm tra với các cơ quan thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân, thanh tra của

các đoàn thể chính trị - xã hội và các ban, ngành có liên quan nhằm tạo và

phát huy ưu thế tổng hợp, toàn diện để nhanh chóng đạt mục đích đề ra trong

mỗi cuộc thẩm tra, xác minh.

Bốn là, tìm ra các chứng cứ xác đáng, khách quan, làm căn cứ, cơ sở

chính xác đảm bảo cho kết luận kiểm tra và quyết định xử lý của chủ thể kiểm

tra được đúng đắn.

Hoạt động thẩm tra, xác minh có chất lượng rõ nét nhất ở chỗ là tìm ra

được các chứng cứ xác đáng. Các chứng cứ tìm được qua thẩm tra, xác minh

nếu phản ánh đúng bản chất sự việc, đảm bảo tính khách quan, hợp pháp, hợp

lý sẽ góp phần làm cho cuộc kiểm tra đạt kết quả cao và cũng thể hiện hoạt

động thẩm tra, xác minh đúng đắn. Qua thẩm tra, xác minh, không bỏ sót

chứng cứ, bỏ lọt vi phạm, từ đó đi đến kết luận kiểm tra chính xác, khách

Page 73: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

70

quan, xử lý công minh, chính xác, kịp thời, không để oan sai. Khi chủ thể

kiểm tra kết luận chính xác các nội dung và đối tượng kiểm tra, sẽ giúp cho

đối tượng kiểm tra thấy rõ ưu điểm, nhất là khuyết điểm, vi phạm và trách

nhiệm của mình, quyết tâm sữa chữa, khắc phục, đồng thời có tác dụng lan

tỏa tích cực đến tổ chức đảng và đảng viên khác, góp phần xây dựng Đảng

trong sạch, vững mạnh. Đây được coi là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá

chất lượng hoạt động thẩm tra, xác minh.

Năm là, góp phần tác động đến chất lượng hoạt động và việc thực hiện

nhiệm vụ chính trị của các tổ chức đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng

Bên cạnh các tiêu chí trên, còn có thể nhìn nhận về chất lượng hoạt

động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng ở góc độ mà qua

thẩm tra, xác minh, phát hiện những sơ hở, thiếu sót về cơ chế, chính sách,

nhất là về kinh tế - xã hội, kịp thời kiến nghị các cấp có thẩm quyền của Đảng

và Nhà nước bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới, bảo đảm chủ trương đường

lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống.

Chất lượng thẩm tra, xác minh còn được thể hiện không làm ảnh hưởng đến

hoạt động, đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đối tượng kiểm tra,

không lãng phí thời gian, tiền của, công sức của cán bộ kiểm tra và cơ quan

kiểm tra.

Xét một cách tổng quát, toàn diện, tiêu chí để đánh giá hoạt động thẩm

tra, xác minh được thể hiện, nhìn nhận qua chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của

một cuộc kiểm tra nói riêng và công tác kiểm tra nói chung.

Tiểu kết chương 2

Công tác kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng, là công tác xây

dựng Đảng, sinh hoạt nội bộ Đảng. Một trong những yêu cầu cơ bản của công

tác kiểm tra là phải làm rõ đúng, sai; đánh giá, kết luận đúng ưu điểm, khuyết

Page 74: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

71

điểm, vi phạm (nếu có) của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra để có

quyết định chính xác. Tiến hành công tác kiểm tra phải theo đúng nguyên

tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đúng tính chất công tác đảng, đúng tư tưởng

chỉ đạo, phương pháp cơ bản tiến hành công tác kiểm tra. Phương pháp có

vai trò quan trọng hàng đầu để thực hiện được yêu cầu nhiệm vụ ấy là thẩm

tra, xác minh.

Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động

nghiệp vụ khi tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ

đạo, điều hành của chủ thể kiểm tra, được thực hiện thông qua một số cán bộ,

nhằm tìm ra các bằng chứng, chứng cứ cụ thể, xác thực, qua đó thẩm định,

phân tích để làm rõ sự thật, làm căn cứ để chủ thể kiểm tra nhận xét, đánh giá,

kết luận và xử lý công minh, chính xác đối tượng kiểm tra.

Thẩm tra, xác minh là khâu quan trọng, không thể thiếu được trong

toàn bộ quy trình thực hiện công tác kiểm tra của Đảng. Chất lượng và kết

quả của hoạt động thẩm tra, xác minh trực tiếp quyết định độ chính xác của

các kết luận và độ xác đáng của các quyết định xử lý của tổ chức đảng có

thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra. Tiến hành thẩm tra, xác minh trong

công tác kiểm tra của Đảng phải bám sát mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm

tra; thực hiện dân chủ, công khai, thận trọng, chặt chẽ, khách quan, đúng các

nguyên tắc, quy định của Đảng và phương pháp công tác kiểm tra.

Nội dung thẩm tra, xác minh là những nội dung kiểm tra có vấn đề cần

được xem xét, làm rõ. Đối tượng thẩm tra, xác minh là những thông tin, tư

liệu, sự việc, hiện vật và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến đối tượng và

nội dung cần kiểm tra. Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng

được tiến hành theo trình tự thủ tục các hoạt động chủ yếu để xem xét, tra

cứu, thẩm định nhằm mục tiêu tìm ra sự thật của những thông tin, sự kiện,

hành vi có liên quan đến nội dung và đối tượng kiểm tra của Đảng, theo các

phương pháp như: Thu thập bằng chứng; nghiên cứu, phân tích, xử lý tài liệu,

Page 75: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

72

thông tin, bằng chứng đã thu thập được; trưng cầu ý kiến giám định của các

cơ quan nghiệp vụ đối với những vấn đề cần thiết; tiếp xúc với đối tượng

kiểm tra, tiến hành tự phê bình và phê bình; thẩm định, rà soát và xây dựng

báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh.

Cơ sở để đánh giá hoạt động thẩm tra, xác minh dựa trên một số tiêu

chí như: việc thực hiện nguyên tắc, kế hoạch đã được xác định; nắm chắc nội

dung kiểm tra để xác định và lựa chọn đúng nội dung, đối tượng thẩm tra, xác

minh; thực hiện đúng quy trình, phương pháp và quan trọng là tìm ra các

chứng cứ xác đáng, khách quan, làm căn cứ, cơ sở chính xác đảm bảo cho kết

luận kiểm tra và quyết định xử lý của chủ thể kiểm tra được đúng đắn.

Hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng có một

số điểm tương đồng nhưng đồng thời có những điểm khác biệt với hoạt động

thẩm tra, xác minh trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ; với hoạt động

nghiệp vụ thanh tra của Nhà nước, điều tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Page 76: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

73

Chương 3

THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA

CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,

NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

3.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG

CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

3.1.1. Những ưu điểm của hoạt động thẩm tra, xác minh trong công

tác kiểm tra của Đảng

Thứ nhất, chủ thể kiểm tra, cán bộ trực tiếp tiến hành kiểm tra đã từng

bước có nhận thức đúng về vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh trong công

tác kiểm tra của Đảng, làm tiền đề để lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện thẩm

tra, xác minh

Các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên vừa là chủ thể kiểm tra và tự

kiểm tra, đồng thời là đối tượng kiểm tra, là chỗ dựa khi cấp trên tiến hành

kiểm tra đã từng bước nhận thức đúng và rõ hơn về vị trí, vai trò, ý nghĩa của

hoạt động thẩm tra, xác minh khi tiến hành các cuộc kiểm tra. Từ thực tế kết

quả các cuộc kiểm tra đem lại, các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên đã nhận

thức khi tiến hành kiểm tra thì đương nhiên phải thẩm tra, xác minh; thẩm tra,

xác minh là việc tất yếu, chuyện bình thường khi kiểm tra. Từ nhận thức đó,

các cấp ủy khi là chủ thể thực hiện kiểm tra các tổ chức đảng cấp dưới và

đảng viên đã quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng trực tiếp kiểm tra tiến

hành thẩm tra, xác minh một cách chu đáo, chặt chẽ, cụ thể để xem xét, kết

luận cuộc kiểm tra khách quan, chính xác. Mặt khác, từ nhận thức đó, các cấp

ủy, tổ chức đảng khi được cấp trên kiểm tra, trở thành đối tượng kiểm tra đã

chấp hành, tự giác, tự kiểm tra, giải trình nội dung kiểm tra, đồng thời tạo mọi

điều kiện thuận lợi để cấp trên tiến hành thẩm tra, xác minh, phục vụ cuộc

điều tra đạt kết quả cao nhất.

Page 77: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

74

Đối với ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra các cấp là lực lượng trực

tiếp, nòng cốt tiến hành các cuộc kiểm tra đã nghiêm túc quán triệt mục đích,

ý nghĩa, vai trò, vị trí của việc thẩm tra, xác minh. Cán bộ kiểm tra đã coi

thẩm tra, xác minh là khâu có tính quyết định về chất lượng, hiệu quả, hiệu

lực của cuộc kiểm tra nói riêng và công tác kiểm tra nói chung. Do thấy được

vị trí, tầm quan trọng của công tác thẩm tra, các minh nên trong các tài liệu

hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các lớp tập huấn, các lớp cử nhân kiểm

tra, tài liệu thi chuyển ngạch kiểm tra viên, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đều

biên soạn các bài giảng về thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của

Đảng, đã xác định rất rõ vị trí, ý nghĩa, nội dung, đối tượng, phương pháp tiến

hành và cả những vấn đề cần lưu ý khi thẩm tra, xác minh và bố trí giảng viên

có kinh nghiệm lên lớp trong các đợt bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ. Hội

đồng khoa học cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương và tập thể các tác giả là

cán bộ cơ quan đã đề xuất và được Hội đồng Khoa học các ban Đảng Trung

ương đồng ý cho tiến hành nghiên cứu các đề tài liên quan đến công tác kiểm

tra, xác minh như: cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm

tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; một số giải pháp tháo gỡ khó

khăn, trở ngại của ủy ban kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra

khi có dấu hiệu vi phạm; kỹ năng nâng cao nghiệp vụ công tác kiểm tra. Từ

đây giúp cho cán bộ kiểm tra các cấp từng bước nâng dần trình độ nhận thức,

có cách vận dụng thực hiện tốt trong công tác thẩm tra xác minh.

Thứ hai, luôn bám sát nội dung kiểm tra, từ đó xác định chính xác nội

dung, đối tượng thẩm tra, xác minh

Để việc thẩm tra, xác minh có kết quả tốt, dưới sự chỉ đạo của chủ thể

kiểm tra, các đoàn (tổ) kiểm tra đã căn cứ nội dung và đối tượng kiểm tra để

lựa chọn, xác định đúng, cụ thể các nội dung và đối tượng cần tập trung thẩm

tra, xác minh và dự kiến các đối tượng có thể phát sinh khác. Có thể thấy

trong một trường hợp cụ thể, khi kiểm tra một đồng chí bí thư cấp ủy với nội

Page 78: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

75

dung cần làm rõ và kết luận là có dấu hiệu mất đoàn kết trong ban thường vụ

cấp ủy; để làm rõ nội dung có mất đoàn kết không, thực tế phải tiến hành làm

rõ các nội dung như: quan hệ của đồng chí bí thư với từng đồng chí trong

thường trực, các đồng chí trong thường vụ cấp ủy, đoàn kiểm tra phải đi tìm

các chứng cứ về lời nói, việc làm, các hành động cụ thể của đồng chí bí thư

với các đồng chí trong thường vụ cấp ủy. Đoàn kiểm tra đã làm việc với nhiều

đối tượng để làm rõ như gặp các đồng chí trong ban thường vụ, các đồng chí

khác có liên quan ở văn phòng cấp ủy, các ban của cấp ủy, các đồng chí cấp

ủy viên, cán bộ chủ chốt cấp dưới để tìm hiểu, thu thập chứng cứ mà họ nghe

được, biết được về mối quan hệ của đồng chí bí thư với các đồng chí khác.

Cán bộ kiểm tra đã chú trọng thu thập, sàng lọc, phân tích các thông tin từ các

tổ chức đảng cấp dưới, các đảng viên từ các cấp ủy, các cơ quan tham mưu,

giúp việc cấp ủy, chi bộ, từ các đoàn thể; cán bộ kiểm tra đã phải nghiên cứu

các biên bản họp, hội ý thường trực cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy để thấy

có sự mâu thuẫn, căng thẳng giữa bí thư với các đồng chí trong thường trực,

thường vụ cấp ủy. Rõ ràng để có chứng cứ xem xét và kết luận một đồng chí

về một nội dung nào đó thì thẩm tra xác minh rất cụ thể, công phu, mất

nhiều công sức và thời gian. Các đoàn (tổ) kiểm tra đã chú ý thu thập thông

tin từ nhiều kênh, nhiều nguồn khác nhau để có căn cứ phân tích, so sánh,

lựa chọn những thông tin có độ tin cậy cao nhằm bảo đảm tính xác đáng của

các chứng cứ.

Thứ ba, thực hiện đúng nguyên tắc, phương pháp, cách thức, thủ tục

thẩm tra, xác minh

Cấp uỷ và ủy ban kiểm tra đã chỉ đạo khi tiến hành thẩm tra, xác minh

phải luôn bám chắc và thực hiện đúng các phương pháp công tác kiểm tra;

quán triệt và chấp hành đúng phương pháp thẩm tra, xác minh phải tuân thủ

phương pháp công tác Đảng, là công tác nội bộ trong Đảng. Quá trình thẩm

tra, xác minh cán bộ kiểm tra đã luôn lấy tổ chức đảng làm chỗ dựa để thu

Page 79: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

76

thập các tài liệu, bằng chứng có liên quan đến nội dung, đối tượng kiểm tra; tổ

chức các cuộc họp của tổ chức đảng nghe kết quả thẩm tra, xác minh để từ đó

góp ý, nhận xét, phê bình, đấu tranh làm rõ các vấn đề, tìm ra nguyên nhân,

nhận xét, đánh giá nội dung và đối tượng kiểm tra.

Khi thẩm tra, xác minh, đoàn (tổ) kiểm tra đã tích cực động viên, phát

huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên là đối tượng kiểm tra để

đối tượng kiểm tra cung cấp tài liệu, tự giác nhận khuyết điểm, vi phạm (nếu

có). Do có phương pháp khơi gợi, động viên hợp tình, hợp lý có đối tượng

kiểm tra lúc đầu chưa nhận nhưng từng bước đã tự giác nhận rõ vi phạm và

trách nhiệm của mình, từ đó giúp cho cuộc kiểm tra kết thúc nhanh chóng và

đạt kết quả theo yêu cầu đề ra. Cùng với việc dựa vào tổ chức đảng và phát

huy tinh thần tự giác của tổ chức và đảng viên, quá trình thẩm tra, xác minh,

đoàn (tổ) kiểm tra đã luôn biết dựa, biết phát huy tinh thần, trách nhiệm xây

dựng Đảng của quần chúng nhân dân. Đoàn (tổ) kiểm tra đã giữ mối quan hệ,

đi sát quần chúng nhân dân nơi đối tượng kiểm tra sinh hoạt, hoạt động hoặc

nơi cư trú để thu thập tài liệu, nghe thông tin dư luận, động viên họ cung cấp

chứng cứ phục vụ cho việc thẩm tra xác minh, không ít thông tin, dư luận của

quần chúng sau khi phân tích, sàng lọc trở thành chứng cứ quan trọng để phục

vụ việc xem xét và kết luận nội dung và đối tượng kiểm tra.

Trong công tác kiểm tra nói chung và việc thẩm tra, xác minh nói

riêng, Ban Bí thư và các cấp uỷ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm

tra các cấp rất quan tâm và coi trọng sự phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các

cơ quan thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân, thanh tra của các đoàn thể

chính trị - xã hội và các ban, ngành có liên quan. Trong nhiệm kỳ Đại hội X

và những năm đầu nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XI của Đảng, Ủy ban Kiểm tra

Trung ương đã tham mưu giúp Ban Bí thư ban hành 22 Quy chế phối hợp

công tác kiểm tra giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương với các tổ chức đảng ở

các cơ quan nêu trên. Căn cứ tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mỗi

Page 80: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

77

đơn vị trong cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các tổ chức đảng có

liên quan, cán bộ, kiểm tra viên trong cơ quan đã quán triệt và thực hiện các

quy định của quy chế một cách thiết thực và có hiệu quả. Quá trình thẩm tra,

xác minh, đoàn (tổ) kiểm tra đã tích cực, chủ động phối hợp, làm việc với

từng cơ quan phù hợp với nội dung cần làm rõ, để các tổ chức cung cấp thông

tin, tài liệu, chứng cứ phục vụ các cuộc kiểm tra.

Từ nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban

hành và tham mưu, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ban hành các Quy trình

kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Căn

cứ các quy trình của Trung ương, ủy ban kiểm tra các cấp đã xây dựng và ban

hành các quy trình về kiểm tra, trong đó có 3 bước: bước chuẩn bị, bước tiến

hành kiểm tra và bước kết thúc. Hoạt động thẩm tra, xác minh được xác định

là khâu quan trọng trong bước tiến hành kiểm tra. Khi Ủy ban Kiểm tra Trung

ương và ủy ban kiểm tra các cấp quyết định một cuộc kiểm tra bao giờ cũng

ban hành kèm theo kế hoạch kiểm tra. Kế hoạch kiểm tra xác định 3 bước,

trong đó nêu rất cụ thể từng việc làm ở bước tiến hành mà tập trung vào khâu

thẩm tra, xác minh. Căn cứ kế hoạch kiểm tra, đoàn (tổ) kiểm tra đã chủ động

xây dựng kế hoạch thẩm tra, xác minh của mình. Kế hoạch thẩm tra, xác minh

đã bám sát kế hoạch kiểm tra và được xác định ba bước: bước xây dựng kế

hoạch, bước tiến hành thẩm tra, xác minh và bước thống nhất, hoàn chỉnh nội

dung báo cáo. Cán bộ kiểm tra đã coi bước tiến hành thẩm tra xác minh là khâu

quan trọng nhất, quyết định đến kết quả thẩm tra, xác minh, sẽ góp phần nâng

cao chất lượng, hiệu quả của cuộc kiểm tra; còn bước hoàn chỉnh báo cáo là sản

phẩm, là công sức của quá trình chuẩn bị và tiến hành thẩm tra, xác minh. Nhiều

đoàn kiểm tra đã xác định rất cụ thể, tỉ mỉ từng việc làm cụ thể của từng bước.

Quá trình thực hiện thẩm tra, xác minh, đoàn kiểm tra luôn bám vào kế hoạch,

đồng thời linh hoạt bổ sung những vấn đề mới phát sinh để kết quả thẩm tra,

xác minh tốt hơn, phục vụ kịp thời và có chất lượng cuộc kiểm tra.

Page 81: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

78

Thứ tư, trình độ nghiệp vụ, vốn sống thực tiễn, phong cách làm việc, ý

chí quyết tâm và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ kiểm tra được

nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

Nhìn chung, đại đa số cán bộ kiểm tra đều chú trọng nghiên cứu, tiếp

thu lý luận nghiệp vụ kiểm tra nói chung và lý luận thẩm tra, xác minh nói

riêng; có tác phong sâu sát, tìm cách thâm nhập thực tiễn để nắm bắt thông tin

đa dạng, đa chiều trong quá trình thẩm tra, xác minh. Khi thẩm tra, xác minh

đã chú ý bắt đầu từ cơ sở, từ nơi xảy ra diễn biến sự việc để nắm tình hình

một cách khách quan, chính xác nên luôn ở thế chủ động, tự tin trong quá

trình làm việc với đối tượng kiểm tra. Do ý thức tuân thủ nguyên tắc và

phương pháp công tác cộng với thế mạnh về vốn sống thực tiễn nên phương

pháp tiếp cận nguồn thông tin của đội ngũ cán bộ kiểm tra có ưu điểm như:

nắm vững và tuân thủ nguyên tắc, phương pháp công tác đảng nên không

cưỡng ép, đe dọa, cài bẫy hoặc hứa hẹn vô nguyên tắc với đối tượng. Phong

cách giao tiếp khiêm tốn, chân thành nên thường tạo được niềm tin và sự

nhiệt tình cung cấp thông tin từ đối tượng. Sự chân thành xuất phát từ "tâm"

của cán bộ kiểm tra, từ sự tôn trọng đối tượng tiếp xúc và mong muốn nhận

được sự hợp tác của họ. Đội ngũ cán bộ kiểm tra đã tuân thủ đúng nguyên tắc

và phương pháp công tác, coi trọng cách làm việc thận trọng và nghiêm túc,

cách xem xét, kết luận có lý, có tình và tôn trọng đối tượng tiếp xúc. Đã tiến

hành thu thập thông tin từ nhiều kênh, nhiều nguồn khác nhau để có căn cứ

phân tích, so sánh, lựa chọn những thông tin có độ tin cậy cao nhằm bảo đảm

tính xác đáng của chứng cứ. Khi đánh giá chứng cứ đã chú ý tính khách quan,

hợp pháp, hợp lý của tài liệu để loại bỏ những tài liệu giả, tài liệu đã hợp thức

hóa do các đối tượng có liên quan đến sai phạm thực hiện.

Khi tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, cán

bộ kiểm tra các cấp đã luôn bám sát và tuân thủ thực hiện đúng các nguyên

tắc thẩm tra, xác minh, đó là: Bám sát nội dung kiểm tra; phải dân chủ, khách

Page 82: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

79

quan, công khai; phải thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng và

phương pháp công tác kiểm tra của Đảng. Quá trình thẩm tra, xác minh một

vụ việc nào đó, cán bộ kiểm tra đã tìm các chứng cứ liên quan đến nội dung

kiểm tra. Do vậy đã chỉ ra được hành vi sai trái, hậu quả, nguyên nhân và

trách nhiệm của tổ chức và cá nhân để từ đó sửa chữa, khắc phục, phấn đấu,

tiến bộ. Mặt khác giúp cho các đối tượng khác chưa được kiểm tra thấy đây là

bài học để tự cảnh tỉnh, giữ gìn không dẫn đến vi phạm. Do làm tốt thẩm tra,

xác minh nên nhiều cuộc kiểm tra kết luận chính xác, đối tượng được kiểm tra

“tâm phục”, “khẩu phục”, nhiều vụ việc được xử lý công minh, chính xác, kịp

thời, có tác dụng góp phần nâng cao trách nhiệm, chất lượng công tác xây

dựng Đảng ở nơi được kiểm tra.

Quá trình thẩm tra, xác minh, để làm rõ nội dung kiểm tra, cán bộ kiểm

tra các cấp đã thực hiện yêu cầu và nguyên tắc là phải khách quan, dân chủ,

công khai. Để thực hiện yêu cầu đó, khi thẩm tra xác minh cán bộ kiểm tra đã

sưu tầm, tìm kiếm bằng được các chứng cứ đúng hoặc sai của đối tượng kiểm

tra. Khi tìm chứng cứ cán bộ kiểm tra đã thể hiện “mục sở thị”, là “mắt thấy,

tai nghe, tay cầm được”, không bao giờ chỉ nghe nói; phải người thực, việc

thực; khi tìm, đối chiếu văn bản phải là văn bản gốc, văn bản còn giá trị pháp

lý khi hành vi của đối tượng kiểm tra xảy ra. Khi làm việc với đối tượng thẩm

tra, xác minh và đối tượng kiểm tra luôn để họ được tự do thông tin, báo cáo,

cung cấp tài liệu, công khai những ý kiến, quan điểm của họ; cán bộ thẩm tra,

xác minh không gò ép, áp đặt, hai bên cùng trao đổi, phân tích tìm ra chứng

cứ xác thực những vấn đề liên quan đến nội dung, đối tượng kiểm tra.

Thứ năm, qua thẩm tra, xác minh đã làm rõ, kết luận và xử lý nhiều vụ,

việc vi phạm phức tạp, củng cố niềm tin cho đảng viên và quần chúng nhân dân

Để hoạt động thẩm tra, xác minh có kết quả, tìm được chứng cứ là một

quá trình phức tạp, mất nhiều công sức, thời gian, không ít vụ việc xảy ra từ

lâu, tài liệu, hồ sơ không còn đầy đủ, đã thất lạc, có khi đối tượng kiểm tra do

Page 83: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

80

biết trước đã tìm cách ém nhẹm, che giấu, mặt khác đã trao đổi, thông đồng

hoặc đe dọa các đối tượng có liên quan trong việc hợp tác với cơ quan kiểm

tra; tìm cách đối phó với lực lượng kiểm tra, trong khi tổ chức đảng, đảng

viên ở đó lại “đứng ngoài cuộc”. Chính vì vậy, có những vụ việc lực lượng

kiểm tra phải “đơn thương độc mã” trong sưu tìm tài liệu, chứng cứ. Nhiều

đối tượng kiểm tra phải qua nhiều lần động viên, thuyết phục hoặc có biện

pháp “cứng rắn” thì từng bước mới cung cấp tài liệu, chứng cứ. Khi đã có

chứng cứ nhưng để đối tượng thừa nhận trách nhiệm lại phải qua một quá

trình phân tích, đấu tranh, vừa tình cảm vừa lý trí, là một cuộc đấu tranh phê

bình trong nội bộ, đấu tranh với đối tượng kiểm tra để làm chuyển biến nhận

thức, nâng dần tính tự giác, tự nhận lỗi. Đây là những lúc căng thẳng, người

cán bộ kiểm tra phải có bản lĩnh, phải vững vàng, nhưng đồng thời cũng phải

mềm mỏng, linh hoạt, xử trí tế nhị và khéo léo.

Một số đối tượng kiểm tra lúc đầu còn biểu hiện e ngại, thiếu tin tưởng,

không tự giác, tự phê bình, tự nhận khuyết điểm, có vi phạm còn phản ứng,

đối phó; khuyết điểm, sai lầm “lộ” đến đâu thì nhận đến đó, thậm chí cố tình

không nhận khuyết điểm, vi phạm, còn quanh co đổ lỗi cho tập thể, cho khách

quan, cho người khác, nhưng khi được cán bộ kiểm tra kiên trì bằng mọi biện

pháp động viên, giải thích thuyết phục, cảm hóa cùng với việc đưa ra các

chứng cứ, từ đó đối tượng đã chuyển từ nhận thức chưa đúng sang nhận thức

đúng, từ thiếu tự giác sang tự giác một phần, từng bước cộng tác với cán bộ

kiểm tra để tiến hành thẩm tra, xác minh tốt hơn. Chính vì vậy, nhiều cuộc

kiểm tra phải mất nhiều thời gian, có khi hai, ba tháng mới kết thúc. Vừa qua,

Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành nhiều cuộc kiểm tra khi có dấu

hiệu vi phạm cùng một lúc có ba đối tượng là cán bộ diện Trung ương quản

lý, với nhiều nội dung ở các lĩnh vực khác nhau, từ nguyên tắc tổ chức sinh

hoạt đảng, kinh tế tài chính, phẩm chất đạo đức, lối sống, đoàn kết nội bộ. Để

hoàn thành những cuộc kiểm tra như thế, lực lượng kiểm tra có lúc từ 5-7

Page 84: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

81

đồng chí và phải có sự phối hợp lực lượng của các cơ quan có liên quan như:

Ban Tổ chức Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Thanh tra Chính phủ,

Bộ Công an, Bộ Tài chính,…

Theo số liệu từ Văn phòng và Vụ Tổng hợp của Cơ quan Ủy ban Kiểm

tra Trung ương, trong nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng (từ 2001-

2010), ủy ban kiểm tra các cấp đã tiến hành thẩm tra, xác minh để xem xét,

kết luận hoặc giúp Ban Bí thư, Bộ Chính trị và các cấp ủy kết luận: trên

170.300 lượt đảng viên và 30.700 tổ chức đảng được kiểm tra khi có dấu hiệu

vi phạm; 1.570 tổ chức đảng và 53.800 đảng viên có tố cáo; xử lý kỷ luật

3.200 tổ chức đảng và trên 114.000 đảng viên; giải quyết 4.960 trường hợp

đảng viên khiếu nại kỷ luật đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp đã thẩm tra, xác

minh để đánh giá, kết luận khi kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và

thi hành kỷ luật trong Đảng đối với 328.000 tổ chức đảng và kiểm tra thu chi

ngân sách, thu nộp, quản lý, sử dụng đảng phí ở 388.000 tổ chức đảng...

Đối với tổ chức đảng, nội dung đã thẩm tra, xác minh tập trung vào

việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng gần

20.000 trường hợp; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trên 7.780

trường hợp; việc ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định của cấp

mình 8.900 trường hợp; đoàn kết nội bộ 3.890 trường hợp; thiếu trách

nhiệm để xảy ra vi phạm trong đơn vị 1.780 trường hợp; các nội dung khác

1.500 trường hợp (một tổ chức có thể có 2 hoặc 3 nội dung dấu hiệu vi

phạm). Tổ chức đảng được kiểm tra khi có dấu hiện vi phạm gồm: ban cán

sự đảng, đảng đoàn cấp tỉnh và tương đương 71 trường hợp; ban thường vụ

huyện ủy và tương đương 243 trường hợp; đảng ủy và ban thường vụ đảng

ủy cơ sở 5.620 trường hợp; chi bộ 24.660 trường hợp. Qua thẩm tra, xác

minh đã kết luận số tổ chức đảng có vi phạm 16.750 trường hợp (chiếm

54,6% số tổ chức được kiểm tra), phải thi hành kỷ luật 2.365 trường hợp

(chiếm 77% số được kiểm tra).

Page 85: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

82

Trong kiểm tra đảng viên khi có dấu hiện vi phạm đã thẩm tra, xác

minh tập trung chủ yếu vào: nguyên tắc tập trung dân chủ 11.905 trường hợp;

chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng 54.150 trường hợp; đoàn kết

nội bộ 9.595 trường hợp; thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ 48.725;

tham nhũng lãng phí 4.385 trường hợp; quản lý sử dụng đất đai, nhà đất 7.752

trường hợp; cố ý làm trái 20.818 trường hợp; về phẩm chất, đạo đức, lối sống

23.064 trường hợp… Qua thẩm tra, xác minh, đã kết luận 72,8% số đảng viên

được kiểm tra có vi phạm, trong đó phải thi hành kỷ luật chiếm tới 40,9% số

được kiểm tra.

Trong ba năm đầu nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, cấp uỷ các cấp đã

chỉ đạo thẩm tra, xác minh để xem xét, kết luận khi kiểm tra chấp hành đối

với trên 877.000 lượt đảng viên và trên 161.300 lượt tổ chức đảng, trong đó

có gần 6.800 đảng viên và 4.600 tổ chức vi phạm kỷ luật. Uỷ ban kiểm tra các

cấp đã chỉ đạo tiến hành thẩm tra, xác minh để kết luận đối với trên 40.100

đảng viên và gần 14.800 tổ chức đảng được kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm;

giải quyết tố cáo trên 10.500 đảng viên; xử lý và giúp cấp uỷ các cấp xử lý kỷ

luật gần 44.500 đảng viên; xem xét, giải quyết trên 850 trường hợp khiếu nại

kỷ luật Đảng, trong đó có tới gần 34% phải thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ

luật; kiểm tra trên 3.700 tổ chức đảng về quản lý tài chính đảng và trên

146.600 tổ chức đảng về thu nộp, quản lý, sử dụng đảng phí...

Qua thực tiễn, có thể nêu lên một số vụ, việc phức tạp trong rất nhiều

cuộc kiểm tra mà Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành tổ chức chỉ đạo

thẩm tra, xác minh, kết luận để xử lý như các trường hợp: các đồng chí

nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk

Lắk, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Phước; Thứ trưởng Bộ Y tế; nguyên Tổng

giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam;… hoặc các vụ việc được cán bộ, đảng

viên quan tâm, đó là: các đồng chí chủ chốt của Tỉnh uỷ Ninh Bình. Tháng 6-

2010, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi

Page 86: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

83

phạm đối với các đồng chí trong Thường thực Tỉnh uỷ Ninh Bình với 12 nội

dung cụ thể. Đoàn kiểm tra gồm 6 đồng chí do đồng chí Vụ trưởng làm

trưởng đoàn, đồng chí Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trực tiếp

chỉ đạo cuộc kiểm tra. Sau 3 tháng kiểm tra, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

xem xét, kết luận tất cả các nội dung, tuy mức độ khác nhau nhưng cả ba đồng

chí trong thường trực và các nội dung nào cũng đều vi phạm, có nội dung xảy

ra từ năm 2006. Các sai phạm đã gây hậu quả nghiêm trọng, làm thất thoát,

lãng phí tiền, tài sản, đất đai của Nhà nước. Căn cứ nguyên nhân, tính chất và

mức độ vi phạm, theo thẩm quyền, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã quyết

định thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với đồng chí Phó Bí thư

Thường trực Tỉnh uỷ; kỷ luật khiển trách đối với đồng chí Phó Bí thư Tỉnh

uỷ, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; báo cáo và đề

nghị Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương thi hành kỷ luật cảnh cáo,

đồng thời cho rút khỏi Trung ương đối với đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ.

Thời gian gần đây, đã kiểm tra và huỷ khen thưởng đối với đồng chí

nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế

vi phạm trong việc kê khai thành tích cá nhân để được phong tặng danh hiệu

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Để kết luận được vấn đề phức tạp

này thật không đơn giản, phải làm rất công phu và mất nhiều thời gian, vì sự

việc xảy ra đã trên 40 năm, phải tìm nhiều hồ sơ, tài liệu, làm việc với nhiều

cơ quan, gặp nhiều nhân chứng qua các thời kỳ, cả trực tiếp và gián tiếp biết

hoặc liên quan đến bản thân cũng như quá trình tham gia chiến đấu, hoạt

động của đồng chí nguyên Bí thư Tỉnh ủy để tìm ra sự thật, trong khi nhiều

nội dung đồng chí vẫn cho mình là đúng và không nhận sai. Gần đây nhất là

vụ việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm về nhà, đất của đồng chí nguyên

Tổng Thanh tra Chính phủ, phải thẩm tra, xác minh rất thận trọng, qua nhiều

lần, qua nhiều địa phương, nhiều cơ quan, vì vấn đề nhà đất rất phức tạp,

nhạy cảm...

Page 87: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

84

Tóm lại, quá trình thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra, uỷ ban

kiểm tra và đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đã khắc phục khó khăn, làm việc

khách quan, thận trọng, có quyết tâm, có bản lĩnh, dũng khí, công tâm; bằng

mọi cách tìm được chứng cứ để giúp tập thể uỷ ban kiểm tra và cấp uỷ xem

xét, kết luận và xử lý nhiều vụ việc phức tạp.

3.1.2. Những hạn chế, khuyết điểm của hoạt động thẩm tra, xác

minh trong công tác kiểm tra của Đảng

Thực tế tiến hành công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng cho thấy yếu

tố hàng đầu ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng giải quyết vụ việc là bản

lĩnh chính trị và tính chiến đấu của cán bộ kiểm tra. Tuy vậy, nếu bản lĩnh

chính trị vững vàng và tính chiến đấu cao nhưng nghiệp vụ yếu thì dù muốn

cũng không thể đảm bảo chất lượng và tiến độ giải quyết vụ việc. Trong

những năm qua, việc thực hiện tốt thẩm tra, xác minh đã góp phần quan trọng

vào chất lượng, hiệu quả các cuộc kiểm tra, nhưng nghiêm túc nhìn lại vẫn

còn một số hạn chế, khuyết điểm sau đây:

Một là, sau khi có kế hoạch kiểm tra, chưa quan tâm đến việc lập kế

hoạch thẩm tra, xác minh; kế hoạch không cụ thể, tỷ mỉ, chính xác, dẫn đến

khó khăn khi thực hiện, hạn chế kết quả thẩm tra, xác minh

Kế hoạch thẩm tra, xác minh là căn cứ để tiến hành thẩm tra, xác minh;

kết quả thẩm tra, xác minh phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng kế hoạch.

Vẫn còn trình trạng nhiều đoàn kiểm tra không xây dựng kế hoạch thẩm tra,

xác minh, hoặc có xây dựng nhưng sơ sài, thiếu cụ thể. Kế hoạch thẩm tra,

xác minh chưa căn cứ và chưa bám vào nội dung kiểm tra, nội dung tố cáo,

khiếu nại cần giải quyết về lĩnh vực cụ thể nào đó của đời sống xã hội. Trong

kế hoạch chưa làm rõ vấn đề gì cần gợi ý để đối tượng kiểm tra tự báo cáo,

giải trình, vấn đề gì cần tìm kiếm thu thập; chưa xác định cần sưu tầm những

văn bản nào của Đảng, Nhà nước có liên quan đến nội dung thẩm tra, xác

minh. Kế hoạch thẩm tra, xác minh chưa xác định rõ đối tượng, tổ chức cần

Page 88: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

85

tiếp xúc, trao đổi; những thông tin, văn bản, tài liệu, chứng cứ cần thu thập; chưa

dự kiến những tình huống có thể phát sinh và cách giải quyết. Vẫn còn trình

trạng xác định nội dung thẩm tra, xác minh chưa chuẩn xác dẫn đến kết quả

thẩm tra, xác minh để phục vụ cho kết luận từng nội dung kiểm tra không đầy đủ

nên sau khi thẩm tra, xác minh không đủ căn cứ để kết luận có hay không có vi

phạm. Mặt khác, nhiều trường hợp chọn đối tượng thẩm tra, xác minh quá nhiều,

không cần thiết và xác định nội dung thẩm tra, xác minh không đúng trọng tâm,

trọng điểm làm lệch hướng thẩm tra, xác minh. Những đối tượng, nội dung kiểm

tra phức tạp đáng ra phải hết sức chú ý, chuẩn bị kỹ kế hoạch nhưng chưa được

quan tâm, còn chủ quan, đơn giản trong xây dựng kế hoạch thẩm tra, xác minh,

trong khi mọi sự chủ quan, đơn giản dù chỉ là trong từng chi tiết nhỏ của vụ việc

cũng có thể đẫn đến thiếu căn cứ để kết luận nội dung kiểm tra.

Hai là, việc thu thập thông tin, tài liệu, bằng chứng còn lúng túng,

chưa linh hoạt, nhiều trường hợp không đủ, không chính xác

Bằng chứng gồm người, hiện vật, văn bản, tài liệu, địa điểm, thời

gian,... tồn tại một cách khách quan, có liên quan đến sự việc, con người cụ

thể, dùng làm căn cứ để chứng tỏ sự việc là có thật. Khi thu thập thông tin, tài

liệu, chứng cứ, cán bộ kiểm tra nhiều lúc chưa biết khai thác từ nhiều nguồn

khác nhau như tổ chức hoặc cá nhân gây ra sự việc, tổ chức, cá nhân có liên

quan hoặc biết rõ sự việc, những hiện vật, tài liệu có liên quan đến sự việc

như đất đã chiếm dụng, nhà xây trái phép, tài liệu, sổ sách, băng ghi âm, ghi

hình, chứng từ, hoá đơn, công cụ, phương tiện... Quá trình thu thập chứng cứ,

cán bộ kiểm tra chưa linh hoạt, sáng tạo, thiếu mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm,

dám chịu trách nhiệm nên còn cứng nhắc, không linh hoạt, vận dụng và tìm

các cách làm cụ thể phù hợp thực tế.

Kỹ năng giao tiếp xã hội của một số cán bộ kiểm tra còn nhiều hạn chế.

Mặt khác, kỹ năng của cán bộ kiểm tra khi phân tích tâm lý, nắm bắt tâm tư,

tình cảm của đối tượng cung cấp thông tin để có biện pháp tác động phù hợp

Page 89: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

86

còn nhiều hạn chế. Biểu hiện rõ nhất là khi gặp những người ít cởi mở, thiếu

nhiệt tình, cán bộ kiểm tra chưa tìm cách gợi mở, chưa có hình thức, biện

pháp tác động phù hợp để từng bước làm thay đổi thái độ của họ, làm cho họ

nhiệt tình trao đổi, cung cấp thông tin. Quá trình làm việc với các tổ chức và

cá nhân chưa chủ động, tích cực tìm cách vận động, thuyết phục, cảm hoá con

người nên hiệu quả phát huy tính tự giác của các tổ chức đảng và đảng viên

chưa cao. Cán bộ kiểm tra chưa tạo được không khí giao tiếp thoải mái, cởi

mở, tin cậy lẫn nhau. Khuyết điểm này hạn chế tính tự giác, tính tích cực đấu

tranh và sự nhiệt tình phối hợp trong cung cấp thông tin của các tổ chức đảng

và cá nhân có liên quan. Không ít cán bộ kiểm tra còn lúng túng, bị động về

phương pháp nắm tình hình, phương pháp tiếp cận đối tượng không tốt, làm

cho đối tượng mặc cảm, khó gần, thậm chí phản ứng không hợp tác.

Quá trình thu thập thông tin, tài liệu còn có tình trạng thu thập tràn lan,

không sát với nội dung kiểm tra, do đó mất nhiều thời gian đọc, chọn lọc,

phân loại. Khi nhận báo cáo giải trình của đối tượng kiểm tra, một số cán bộ

kiểm tra chưa xác định đầy đủ các loại văn bản, tài liệu mà từng đối tượng cần

cung cấp nên yêu cầu và tiếp nhận trùng lặp. Ngược lại, có tài liệu cần thu

thập lại không biết để đề nghị cung cấp, nên phải đi lại nhiều lần, mất thời

gian, công sức. Hoặc có đối tượng liên quan, trong tay nắm nhiều tài liệu có

giá trị nhưng lại bị bỏ qua.

Khi làm việc với các tổ chức đảng để nghe kết quả thẩm tra, xác minh,

cán bộ kiểm tra còn lúng túng, chưa mạnh dạn, chưa phân tích, làm rõ các

hành vi của đối tượng kiểm tra. Gặp những tổ chức đảng vì căn bệnh thành

tích hoặc tính chiến đấu kém, muốn bảo vệ cho đối tượng kiểm tra, muốn xử

lý nội bộ, cán bộ kiểm tra tỏ ra "khó xử". Những lúc đó, cán bộ kiểm tra chưa

có dũng khí, thiếu chính kiến, chưa mạnh dạn đấu tranh, phân tích phải trái,

có lúc có thái độ xuôi chiều, chấp nhận đề nghị của tổ chức đảng hoặc của đối

tượng kiểm tra.

Page 90: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

87

Ba là, việc nghiên cứu, phân tích, xử lý các văn bản, tài liệu, thông tin,

bằng chứng không kỹ, không sâu dẫn đến nhiều cuộc kiểm tra bị kéo dài, kết

luận nội dung và đối tượng kiểm tra không chính xác

Việc thu thập đầy đủ văn bản, tài liệu, thông tin, bằng chứng là rất quan

trọng, nhưng việc nghiên cứu, phân tích, xử lý những văn bản, tài liệu, thông

tin, bằng chứng ấy một cách chính xác, khách quan lại càng quan trọng vì đó

là cơ sở tin cậy, xác thực, khách quan để kết luận và xử lý đúng. Thực tế vừa

qua, có nhiều vụ việc sau kiểm tra kết luận không chính xác, tổ chức đảng và

đảng viên "vi phạm một đằng, kết luận một nẻo", do kết luận không đúng sự

việc nên đã "sai một ly đi một dặm"; có nhiều trường hợp kiểm tra xong kết

luận chung chung, "vô thưởng vô phạt", nhiều trường hợp giải quyết tố cáo

không kết luận rõ đúng sai mà chỉ kết luận "chưa có căn cứ", "chưa đủ chứng

cứ" hoặc "không có cơ sở", làm cho cán bộ, đảng viên không đồng tình. Cá

biệt có cuộc kiểm tra đã không thực hiện đúng quy định trong việc trưng cầu

giám định của các cơ quan nghiệp vụ đối với những vấn đề cần thiết. Vì vậy,

có cuộc kiểm tra khi báo cáo trước hội nghị uỷ ban kiểm tra phải dừng lại để

thẩm tra, xác minh, xác nhận giám định của cơ quan có thẩm quyền.

Tình trạng tài liệu, thông tin thu nhận được rất nhiều nhưng do trình độ,

năng lực, kỹ năng phân tích hạn chế nên bị “rối”, không tìm ra được tính xác

thực, hợp lý, hợp pháp của từng văn bản, tài liệu, thông tin, bằng chứng; việc

đối chiếu, so sánh chưa thành thạo và thiếu nhạy cảm, sắc sảo trong việc lật đi

lật lại vấn đề để nắm bắt và kết luận đúng bản chất sự việc. Khi phân tích tài

liệu, chứng cứ cán bộ kiểm tra chưa phát hiện kịp thời những mâu thuẫn, tính

phi lôgic, không hợp lý, mối quan hệ tác động qua lại của chứng cứ, những

vấn đề chưa rõ hoặc có dấu hiệu đang tiềm ẩn đằng sau đó một sự thật để vừa

tiếp tục thu thập văn bản, tài liệu, thông tin, bằng chứng khác, vừa thuyết

phục, gợi ý, đấu tranh để đối tượng kiểm tra từng bước tự nhận ra sự thật hoặc

gần với sự thật hơn. Còn trình trạng sử dụng chứng cứ thiếu căn cứ, chỉ nghe

Page 91: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

88

người khác, qua dư luận, qua phương tiện thông tin đại chúng, báo cáo một

chiều, chưa làm việc, trao đổi trực tiếp với đối tượng kiểm tra hoặc các tổ

chức, cá nhân có liên quan, không đến tận nơi xảy ra sự việc, không nhìn tận

mắt tài liệu, chứng cứ, do đó nhận định, đánh giá, quy kết sai lệch, không

đúng sự thật, bản chất sự việc. Qua xem xét, giải quyết khiếu nại kỷ luật của

đảng viên trong nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng, tỷ lệ thay đổi,

xoá bỏ tương ứng là 26% và 37% so với số đã giải quyết; riêng 3 năm đầu

nhiệm kỳ Đại hội XI tỷ lệ này là 34%. Trong số thay đổi, xoá bỏ chủ yếu là

do thẩm tra, xác minh không đúng, khi thẩm tra, xác minh đã bỏ sót chứng cứ,

không tìm được chứng cứ hoặc chứng cứ thiếu chính xác. Quá trình nghiên

cứu, phân tích thông tin, tài liệu chưa phát huy hết khả năng, trí tuệ của tập

thể trong lực lượng kiểm tra, có khi chỉ là ý kiến phân tích, đánh giá của một

người nên vừa không chính xác vừa không khách quan. Khi đối tượng kiểm

tra có vị trí công tác, chức vụ cao, cán bộ kiểm tra dễ mặc cảm, e ngại, quá tin

vào sự tự giác, vào giải trình của đối tượng nên đã chấp nhận một chiều,

không muốn làm đến cùng, không phân tích tìm ra sự thật.

Bốn là, chất lượng báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh chưa tốt, chưa

chuyển tải hết các chứng cứ để phục vụ việc kết luận nội dung kiểm tra, làm

hạn chế kết quả, chất lượng công tác kiểm tra.

Báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh là sản phẩm cuối cùng của quá

trình tiến hành thẩm tra, xác minh. Nếu báo cáo không tốt, không rõ ràng sẽ

ảnh hưởng, hạn chế kết quả thẩm tra, xác minh; khuyết điểm của thẩm tra xác,

minh nhiều lúc còn bắt nguồn từ cách tổng hợp, báo cáo thẩm tra, xác minh.

Xây dựng báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh, ngoài việc đòi hỏi người cán bộ

phải có vốn kiến thức chuyên môn, ngôn ngữ, văn bản, kinh nghiệm viết báo

cáo… mà còn phải có khả năng phân tích, tổng hợp, biết xây dựng bố cục hợp

lý, lựa chọn ý tứ, câu từ, trích dẫn rõ ràng để lột tả, làm rõ, nêu bật được nội

dung cần phân tích, cần báo cáo. Thực tế vừa qua, quá trình thẩm tra, xác

Page 92: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

89

minh tìm được nhiều chứng cứ có giá trị để chứng minh hành vi của đối tượng

kiểm tra nhưng báo cáo lan man, dài dòng, khó hiểu, dẫn dắt không lôgíc,

không đầy đủ, nội dung phân tích không rõ, có chứng cứ cần phân tích sâu thì

lại viết sơ sài, dẫn chứng chứng cứ có lúc mâu thuẫn, hoặc không đúng chỗ,

thiếu thống nhất giữa phần kết quả thẩm tra, xác minh với những nhận xét, đề

xuất, kiến nghị; nhiều báo cáo chỉ liệt kê, trích dẫn quá nhiều mà không rõ ý,

nhận xét, thiếu rõ ràng, chặt chẽ, sắc nét, không rõ chính kiến của đoàn kiểm

tra; mặt khác một số báo cáo lại đưa ra nhiều nhận xét, đánh giá chung chung,

mang tính chủ quan, không đưa ra được các chứng cứ chứng minh có sức

thuyết phục. Khuyết điểm, hạn chế của thẩm tra, xác minh có phần tác động

không nhỏ từ việc tưởng chừng như không lớn này. Vì vậy cùng với trình độ,

năng lực, kinh nghiệm nghiệp vụ để tiến hành thẩm tra xác minh, đòi hỏi cán

bộ kiểm tra phải nâng cao cả trình độ tổng hợp, khả năng báo cáo kết quả

thẩm tra, xác minh.

3.2. NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC

MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

3.2.1. Nguyên nhân ưu điểm

3.2.1.1. Nguyên nhân khách quan Một là, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian qua được

Đảng và Nhà nước tiến hành quyết liệt đã có ảnh hưởng và tác động tích cực,

thúc đẩy công tác kiểm tra của Đảng, trong đó có việc thẩm tra, xác minh có

chất lượng, hiệu quả hơn.

Thời gian qua nhiều vụ tham nhũng đã được các cơ quan pháp luật xét

xử nghiêm minh, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Quần chúng nhân dân

ngày càng đòi hòi Đảng phải có biện pháp đấu tranh mạnh mẽ hơn để chống

suy thoái trong Đảng, phải làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.

Đây là điều kiện, là “sức ép” để cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra các cấp phải tăng

cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý nghiêm minh

Page 93: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

90

các vụ vi phạm kỷ luật trong Đảng. Tác động trên đã làm chuyển biến nhận

thức và việc tổ chức thực hiện của những người làm công tác kiểm tra, giám

sát, thi hành kỷ luật trong Đảng, từ đó, khi xem xét phải kiên quyết, khách

quan, chính xác. Muốn vậy, đương nhiên hoạt động thẩm tra, xác minh phải

làm tốt hơn.

Cùng với các quy định của Đảng, Quốc hội và Chính phủ tiếp tục ban

hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trên rất nhiều lĩnh vực, nhất là các

luật về Phòng, chống tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm; Luật Tố cáo,

Luật Khiếu nại; Luật Thanh tra; Luật Công chức... Các quy định của Đảng và

Nhà nước là cơ sở để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, làm tiêu chí, chuẩn

mực hành động của cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng tạo hành lang pháp lý

để tiến hành nhiệm vụ kiểm tra và hoạt động thẩm tra, xác minh; tạo điều kiện

tháo gỡ khó khăn, bế tắc trong quá trình thẩm tra, xác minh vì không có chuẩn

mực để phân biệt rạch ròi, kết luận dứt điểm các biểu hiện đúng, sai, tích cực

với tiêu cực trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đầy biến động

và phức tạp.

Hai là, xu thế dân chủ, công khai, minh bạch trong đời sống xã hội,

trong cơ quan Nhà nước ngày càng phát triển, nhất là tình hình và kết quả

chất vấn trong Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; việc các phương tiện

truyền thông đại chúng đưa tin công khai nhiều vụ việc đã có tác động tích

cực đến công tác xây dựng, củng cố Đảng, đến công tác kiểm tra nói chung

và hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng.

Dân chủ, công khai, minh bạch càng được mở rộng và phát huy giúp

cho quần chúng nhân dân nắm bắt, hiểu biết, được tiếp cận tình hình trong

Đảng và các cơ quan Nhà nước nhiều hơn. Nhiều khuyết điểm, yếu kém của

cơ quan quản lý được lộ rõ khi được chất vấn và trả lời chất vấn trong Quốc

hội, hội đồng nhân dân các cấp. Đặc biệt, thời gian qua, phương tiện thông tin

đại chúng đã phanh phui nhiều vụ việc tiêu cực, một mặt tác động mạnh mẽ

Page 94: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

91

trong xã hội, mặt khác tác động tích cực vào công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi

công tác kiểm tra phải nhanh chóng xem xét, kết luận và công khai rõ hơn

những vụ việc đã có kết quả thẩm tra, xác minh.

Ba là, có sự phối hợp, cộng tác tích cực của các cơ quan bảo vệ pháp

luật, các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị và các ban, ngành có

liên quan trong quá trình kiểm tra, nhất là khi thẩm tra, xác minh.

Thời gian qua, nhận thấy được tầm quan trọng của sự phối hợp giữa

công tác kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán của Nhà nước,

thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra, giám sát của các đoàn thể chính trị - xã

hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và các ban, ngành có liên quan, Trung ương

đã ban hành các quy chế phối hợp ở các cơ quan Trung ương, trên cơ sở đó

các địa phương đã vận dụng và ban hành thực hiện. Do có sự phối hợp nên đã

hạn chế tình trạng thiếu tập trung, thiếu thống nhất, chồng chéo, sơ hở, giải

quyết vụ việc không kịp thời, chính xác. Các kết luận của thanh tra, kiểm toán

nhà nước là cơ sở để giúp cho tổ chức đảng nghiên cứu, thẩm tra, xác minh,

kết luận và xử lý vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên được cụ thể, chính

xác, nhanh chóng, toàn diện và khách quan hơn.

3.2.1.2. Nguyên nhân chủ quan Một là, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp

uỷ các cấp đã kịp thời ban hành các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế và

luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra và kỷ

luật trong Đảng, từ đó tạo đà để việc thẩm tra, xác minh tốt hơn.

Thời gian qua, công tác kiểm tra của Đảng nói chung, hoạt động thẩm

tra, xác minh nói riêng có nhiều thuận lợi, được các tổ chức đảng, đảng viên,

quần chúng nhân dân quan tâm và ủng hộ. Trong các văn kiện của Đảng đã

xác định nhiều quan điểm, chủ trương về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật

của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã bổ sung nhiệm

vụ giám sát đối với tổ chức đảng, tăng nhiệm vụ, quyền hạn cho uỷ ban kiểm

Page 95: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

92

tra. Lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) đã ra Nghị quyết về

tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Nghị quyết đã xác định mục

tiêu, nhiệm vụ, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc lãnh đạo, tổ chức

thực hiện công tác kiểm tra, giám sát. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính

trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã có Nghị quyết và nhiều quyết

định, quy định, quy chế, hướng dẫn thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thi

hành kỷ luật trong Đảng, như: Quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Quy

định về những điều đảng viên không được làm; Quy định giám sát trong Đảng

và giám sát cán bộ diện Trung ương quản lý; Quy chế chất vấn trong Đảng,

chất vấn trong cấp uỷ; Quy trình tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, thi

hành kỷ luật trong Đảng; Quy định về tổ chức và hoạt động của đoàn kiểm

tra... Cuối nhiệm kỳ Đại hội IX và nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội X và XI, Bộ

Chính trị và Ban Bí thư đã tiến hành kiểm tra quyết liệt nhiều tổ chức đảng

cấp dưới trực tiếp về nhiều nội dung quan trọng và nổi cộm; thực hiện quyết

định của Trung ương, các cấp uỷ, tổ chức đảng đã tiến hành sâu rộng công tác

kiểm tra và đạt nhiều kết quả.

Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp được quan tâm

kiện toàn, chất lượng cán bộ được nâng lên; chế độ, chính sách, điều kiện

phương tiện, cơ sở vật chất được ưu tiên và tăng cường đáng kể, từ đó động

viên, thu hút cán bộ có phẩm chất, năng lực làm công tác kiểm tra. Sự phối

hợp giữa cơ quan kiểm tra và các cơ quan, tổ chức có liên quan được tăng

cường và có kết quả hơn.

Các cấp ủy ngày càng nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của công tác kiểm

tra và giữ gìn kỷ luật trong Đảng, nhất là trong bối cảnh, tình hình mới; từ đó, đã

xác định rõ phương hướng, nội dung, phạm vi trách nhiệm kiểm tra của các cấp

uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp, tạo cơ sở để thực hiện nhiệm vụ kiểm

tra đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban

kiểm tra các cấp, của chi bộ và chấp hành nghiêm túc khi được kiểm tra.

Page 96: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

93

Hai là, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và uỷ ban kiểm tra các cấp đã xác định được trách nhiệm là cơ quan chuyên trách về công tác kiểm tra của Đảng, từng bước hoàn thiện và đổi mới quy trình, phương pháp công tác, tích cực chỉ đạo việc thẩm tra, xác minh để thực hiện có kết quả các cuộc kiểm tra.

Uỷ ban kiểm tra các cấp đã tự nhận thấy mình là lực lượng nòng cốt, trực tiếp thực hiện công tác kiểm tra; chất lượng, hiệu quả cuộc kiểm tra một phần quan trọng do kết quả thẩm tra, xác minh; vì vậy, đã tập trung tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ quá trình tiến hành cuộc kiểm tra, nhất là khâu thẩm tra, xác minh. Đồng chí thành viên Ủy ban phụ trách và thường trực ủy ban kiểm tra đã thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, sát sao hoạt động của đoàn (tổ) kiểm tra. Không ít trường hợp gặp những đối tượng kiểm tra và nội dung phức tạp, các đồng chí lãnh đạo trong Ủy ban đã trực tiếp “ra tay”, gặp và làm việc với đối tượng được kiểm tra, nhất là các tổ chức đảng và đảng viên là cán bộ có vị trí quan trọng.

Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã từng bước đổi mới quy trình kiểm tra, để nhằm nâng cao chất lượng, kết quả thẩm tra, xác minh. Từ nhiệm kỳ Đại hội IX của Đảng trở về trước, khi cần thiết, nhất là đối với các nội dung phức tạp, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm tra các cấp mới lập đoàn (tổ) kiểm tra, còn những vụ, việc khác không lập đoàn (tổ) kiểm tra. Từ nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng đến nay, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban hành quy định khi uỷ ban kiểm tra thực hiện tất cả các nhiệm vụ phải thành lập đoàn kiểm tra. Trong quy trình kiểm tra có những quy định cụ thể như: kết quả thẩm tra, xác minh phải được trao đổi, thảo luận, bàn bạc trong đoàn kiểm tra. Sau khi kết thúc thẩm tra, xác minh, trước khi chuẩn bị báo cáo tập thể Ủy ban, đoàn kiểm tra phải tranh thủ ý kiến của lãnh đạo Vụ phụ trách địa bàn, lĩnh vực của đối tượng kiểm tra. Từ nhiệm kỳ Đại hội XI đến nay, Ủy ban Kiểm tra Trung ương còn quy định khi kiểm tra đối tượng là cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy trực thuộc Trung ương, các đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng, hoặc kiểm tra các đồng chí đảng viên là cán bộ chủ chốt địa phương,

Page 97: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

94

bộ, ngành Trung ương, cán bộ diện Trung ương quản lý thì trưởng đoàn kiểm tra là một đồng chí thành viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

Ba là, trình độ, năng lực và trách nhiệm của cán bộ trực tiếp làm công

tác kiểm tra đã được nâng lên một bước, góp phần có tính quyết định đến kết

quả thẩm tra, xác minh.

Do được quan tâm, chú ý đến việc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công

tác kiểm tra nói chung và nghiệp vụ cụ thể về thẩm tra, xác minh nói riêng

nên cán bộ kiểm tra có nhận thức, phương pháp, kinh nghiệm tốt hơn khi tiến

hành thẩm tra, xác minh. Vào đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng, Ủy ban Kiểm tra

Trung ương đều biên soạn và ban hành tài liệu nghiệp vụ về công tác kiểm tra,

giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Tài liệu đó được biên soạn cho cấp cơ

sở và cấp trên cơ sở. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã phối hợp với Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các Học viện Chính trị khu vực tổ chức các

lớp cử nhân kiểm tra, mở nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ,

nhất là số cán bộ mới chuyển về cơ quan ủy ban kiểm tra công tác.

Đội ngũ cán bộ kiểm tra nói chung, cán bộ trực tiếp tiến hành thẩm tra,

xác minh nói riêng đã có một bước trưởng thành đáng kể. Đại bộ phận cán bộ

kiểm tra có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống lành mạnh,

trong sáng, trung thực, công tâm, khách quan. Trình độ lý luận chính trị, kinh

tế, pháp luật, ngoại ngữ, tin học, trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm thẩm tra,

xác minh của cán bộ được nâng cao. Đa số cán bộ kiểm tra có kinh nghiệm

thực tiễn, có tư duy mới về công tác kiểm tra của Đảng. Mặt khác, nhiều cán

bộ đã cần mẫn suy nghĩ, tìm tòi những hình thức, phương pháp, năng động

sáng tạo tiến hành thẩm tra, xác minh phù hợp tình hình, hoàn cảnh mới. Nhờ

đó, trước khó khăn phức tạp của nhiệm vụ công tác kiểm tra và thi hành kỷ

luật trong Đảng, đội ngũ cán bộ kiểm tra đã nỗ lực phấn đấu thực hiện có kết

quả một khối lượng lớn nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có

dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo, khiếu nại kỷ luật, xem xét xử lý hoặc đề

Page 98: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

95

nghị cấp ủy xử lý kỷ luật theo thẩm quyền, trong đó có nhiều vụ việc được

quần chúng, đảng viên đồng tình, hoan nghênh.

3.2.2. Nguyên nhân hạn chế, khuyết điểm

3.2.2.1. Nguyên nhân khách quan Một là, nội dung, đối tượng kiểm tra, thẩm tra, xác minh ngày càng đa

dạng, phong phú, phức tạp, vi phạm và cách thức vi phạm trong Đảng ngày

càng tinh vi, khó lường.

Thời gian qua, càng đi sâu vào quá trình đổi mới, phát triển kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta bên cạnh mặt tốt, tích cực đã

phát sinh những mặt trái, tiêu cực tác động vào nhận thức và hoạt động của

mọi người trong xã hội, trong đó có cán bộ, đảng viên. Vi phạm của tổ chức

đảng và đảng viên ngày càng tinh vi, có sự liên kết, lôi kéo, móc nối, khó phát

hiện. Qua tiến hành công tác kiểm tra và xử lý kỷ luật đảng viên trong những

năm qua, nhận thấy những nội dung chủ yếu trong các lĩnh vực của đời sống

xã hội đều có vi phạm và có xu hướng tăng nhanh. Nhiều trường hợp đảng

viên, cán bộ vi phạm không đơn thuần thể hiện ở phạm vi một lĩnh vực, một

địa chỉ mà có liên quan móc xích, chồng chéo, ở nhiều nơi, nhiều cấp, nhiều

ngành; vừa biểu hiện hành vi vi phạm cụ thể, vừa thể hiện ở sự dao động chính

trị, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng và suy thoái phẩm chất, đạo đức.

Kinh tế thị trường ngoài mặt tích cực, thì mặt trái của nó cùng với ảnh

hưởng bởi toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tác động, tạo đà phát triển, làm

cho vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên hết sức tinh vi, đa dạng, phức tạp.

Thực tế tiến hành công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng thời gian

qua cho thấy, tình hình vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên hiện

nay đang có những diễn biến phức tạp cả về đối tượng, nội dung, tính chất,

cách thức và quy mô vi phạm. Đa số đối tượng vi phạm là cán bộ có chức vụ,

quyền lực, trình độ, giàu kinh nghiệm sống, kinh nghiệm công tác và quan hệ

xã hội rộng. Khi trình độ, kinh nghiệm, quyền lực và các mối quan hệ được

Page 99: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

96

kết hợp nhằm lợi dụng kẽ hở của luật pháp và những hạn chế, bất cập của các

quy định hiện hành để che chắn, hợp lý hoá sai phạm, thậm chí đối phó với

kiểm tra thì sẽ gây nhiều khó khăn cho cán bộ kiểm tra khi thẩm tra, xác minh.

Cách thức vi phạm ngày càng đa dạng, tinh vi hơn và được tính toán, che giấu

bằng nhiều chiêu thức tinh vi, khó phát hiện, khó xử lý. Từ việc lợi dụng kẽ hở

của chính sách, pháp luật, lợi dụng vị trí, quyền hạn, lợi dụng sự yếu kém của

công tác quản lý, lợi dụng các khâu của công tác cán bộ đến lợi dụng các mối

quan hệ đều được tính toán kỹ lưỡng để thực hiện các hành vi sai phạm.

Đối tượng kiểm tra có chức vụ, vị trí, có kinh nghiệm, trình độ, có vị

thế trong cơ quan, đơn vị, cán bộ chủ chốt, có khi người đó nắm sứ mạng

chính trị của cả cán bộ kiểm tra. Thông thường, khi biết kiểm tra, đối tượng

kiểm tra lại nặng nề, có mặc cảm, không muốn cộng tác, tìm cách che giấu,

hoặc hợp thức hoá, đối phó, quá trình thực hiện hành vi nào đó có khi đã tính

toán, tìm sơ hở để “lách” các quy định; mặt khác, họ phối hợp với cấp dưới

tìm cách che chắn, phản ứng quyết liệt, có khi dựa vào cấp trên để được bao

che, ủng hộ, vì những bản thân những cán bộ đó cũng liên quan, có phần trách

nhiệm; gần đây, có sự cấu kết giữa cán bộ đảng viên với doanh nghiệp, bọn

tội phạm hoạt động mang tính xã hội đen, vừa khó phát hiện vừa khó khăn

trong kiểm tra, xem xét, kết luận, xử lý, trong khi công tác kiểm tra là công

việc nội bộ Đảng, phải thực hiện theo nguyên tắc và phương pháp công tác

đảng. Bên cạnh tiêu cực, vi phạm của đảng viên, cán bộ thì tình hình khiếu

kiện, tố cáo gay gắt, quyết liệt của nhân dân càng làm cho hoạt động thẩm tra,

xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng trở nên khó khăn rất nhiều.

Hai là, sự phối hợp giữa công tác kiểm tra của Đảng với công tác

thanh tra, kiểm toán Nhà nước, công tác kiểm tra, giám sát của các đoàn thể

chính trị - xã hội, các ban, ngành có liên quan chưa tốt, chưa hiệu quả.

Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong công tác kiểm

tra của Đảng là một trong những phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra,

Page 100: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

97

càng không thể thiếu trong quá trình thẩm tra, xác minh. Thời gian qua, Ủy

ban Kiểm tra Trung ương đã tham mưu để Ban Bí thư ban hành các quy chế

phối hợp công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng giữa Ủy

ban Kiểm tra Trung ương với các tổ chức đảng ở các cơ quan Trung ương có

liên quan; căn cứ các quy chế của Trung ương, cấp ủy các cấp đã ban hành

quy chế phối hợp ở địa phương, đơn vị mình để thực hiện. Tuy nhiên, việc

triển khai thực hiện các quy chế phối hợp còn nhiều hạn chế, chưa đạt kết quả

như mong muốn. Thông báo kết luận của Ban Bí thư về thực hiện các Quy

chế phối hợp nêu trên (Thông báo số 71-TB/TW, ngày 12-01-2012) đã chỉ rõ:

Việc thực hiện nội dung, trách nhiệm, phương pháp phối hợp trong

Quy chế có lúc, có việc chưa chặt chẽ, đầy đủ và thường xuyên,

như trao đổi thông tin, phát hiện dấu hiệu vi phạm để xây dựng kế

hoạch kiểm tra, giám sát chưa kịp thời; phối hợp xem xét giải quyết

tố cáo, khiếu nại, xử lý kỷ luật có trường hợp còn kéo dài và còn

chồng chéo trong thực hiện kế hoạch kiểm tra, thanh tra, kiểm

toán… việc phối hợp chỉ đạo điều tra, giải quyết đối với một số vụ

việc vi phạm pháp luật của các cơ quan tố tụng còn chậm, ảnh

hưởng đến việc phối hợp trong xem xét trách nhiệm, xử lý kỷ luật,

hạn chế tác dụng giáo dục, răn đe đối với tổ chức đảng và đảng viên

vi phạm. Có những vấn đề nảy sinh trong thực tế do chưa được quy

định trong Quy chế phối hợp nên còn lúng túng, chưa chủ động

trong việc thông báo, trao đổi thông tin về tổ chức đảng, đảng viên

không thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý [18, tr.02-03].

Như vậy, có thể thấy mặc dù đã có các quy chế phối hợp trong công tác

kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng giữa ủy ban kiểm tra các cấp với các cơ quan

chức năng có liên quan, nhất là các cơ quan thanh tra, kiểm toán, công an, tòa

án, kiểm sát… và đạt được kết quả nhất định, nhưng công tác phối hợp cụ thể

trong hoạt động thẩm tra, xác minh còn bất cập, chưa rõ ràng, nhiều vấn đề

Page 101: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

98

thực tế phát sinh chưa được quy định. Việc triển khai thực hiện phối hợp chưa

được quan tâm đúng mức, chưa thường xuyên, ổn định, vẫn có tính sự vụ, khi

sự việc phát sinh mới tìm cách liên hệ bằng văn bản xin cung cấp hồ sơ tài

liệu, mới đề nghị, yêu cầu được làm việc, gặp gỡ, trao đổi, cung cấp và chia

sẻ thông tin…; thủ tục hành chính trong phối hợp còn nặng nề, rườm rà qua

nhiều cấp xem xét, có ý kiến… Mặt khác, chưa cụ thể hóa trách nhiệm, cách

thức phối hợp giữa đơn vị tham mưu, chức năng của các cơ quan phối hợp,

các đoàn kiểm tra, cán bộ kiểm tra theo dõi địa bàn… của hai cơ quan.

Nguyên nhân trên đã phần nào làm cho hoạt động thẩm tra, xác minh trong

công tác kiểm tra của Đảng có nhiều khuyết điểm, hạn chế, lúng túng.

Ba là, các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước chưa đầy đủ, đồng

bộ, còn chồng chéo, làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện và kết quả thẩm

tra, xác minh.

Một nguyên nhân không nhỏ nữa là mặc dù những năm qua Đảng và

Nhà nước đã chủ trương tiến hành cải cách hành chính và tích cực ban hành

nhiều văn bản pháp quy, nhưng trong thực tế còn nhiều lĩnh vực hoạt động

vẫn còn tình trạng “trắng luật” hoặc có luật nhưng đã lạc hậu, không đồng bộ

dẫn đến thực trạng hoạt động của nhiều tổ chức, nhiều cán bộ quản lý ở các

đơn vị theo dạng “vừa thi công vừa thiết kế”, thậm chí “thi công không có

thiết kế” (như quy định về đấu thầu và đấu thầu hạn chế cũng còn nhiều sơ hở

từ đó cán bộ đã lợi dụng làm sai dẫn đến tiêu cực…).

Khi các quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước còn thiếu, chưa đầy

đủ, rõ ràng làm cho hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của

Đảng gặp nhiều khó khăn, trở ngại, chứng cứ xem xét, kết luận hành vi vi

phạm phải căn cứ nhiều điều kiện, cơ sở, trước hết là các quy định mang tính

pháp quy. Kết quả của công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác

minh nói riêng phải tìm ra sự thật, phân tích, mổ xẻ, tìm ra bản chất của vấn

đề, nhưng căn cứ, chỗ dựa lại chưa đầy đủ, rõ ràng, sử dụng thế nào cũng

Page 102: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

99

được, vì vậy kết quả thẩm tra, xác minh còn khuyết điểm, hạn chế sẽ không

tránh khỏi.

3.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan Một là, nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên, trong đó có

ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra nói chung và cán bộ trực tiếp tiến hành

thẩm tra, xác minh chưa tốt, chưa đầy đủ.

Do nhận thức chưa đầy đủ, chưa tốt về vị trí, vai trò của công tác kiểm

tra là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, bảo đảm cho chủ

trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định của Đảng, của cấp

ủy và pháp luật Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh và thực hiện thắng

lợi trong thực tiễn, do đó, một số cấp ủy chưa thật sự quan tâm tự mình kiểm

tra hoặc chỉ đạo cơ quan tham mưu kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ. Quá

trình tổ chức thực hiện các cuộc kiểm tra của mình, nếu cấp ủy thiếu kiên

quyết sẽ dẫn đến việc chỉ đạo thẩm tra, xác minh không tốt, không làm rõ

được nội dung kiểm tra, kết luận thiếu chính xác dẫn đến chất lượng, hiệu quả

cuộc kiểm tra không cao, thậm chí còn ngược lại.

Nhận thức của tổ chức đảng và đảng viên về công tác kiểm tra, giám

sát và thi hành kỷ luật đảng nói chung và về hoạt động thẩm tra, xác minh nói

riêng còn hạn chế, phần nào gây cản trở cho công tác kiểm tra. Tổ chức đảng,

nhất là người đứng đầu cấp uỷ do chưa nhận thức đúng đắn đầy đủ về tính

quyết định của kết quả thẩm tra, xác minh đến kết quả kiểm tra nên nhiều lúc

chưa tạo điều kiện thuận lợi, ủng hộ cho hoạt động thẩm tra, xác minh. Từ

nhận thức đó, khi cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên là đối tượng kiểm tra của

cấp trên thì thiếu sự cộng tác, phối hợp trong quá trình kiểm tra, dẫn đến né

tránh trong cung cấp thông tin, tài liệu, cấp trên “hỏi” đến đâu thì cung cấp

đến đó. Khi giải trình các nội dung kiểm tra chỉ nêu chung chung, không tự

giác, tự phê bình, tự nhận khuyết điểm, thậm chí còn che giấu tài liệu, hợp

thức hóa các hành vi sai phạm làm cho việc thẩm tra, xác minh của cấp trên

Page 103: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

100

khó khăn. Khi cấp trên kiên quyết tiến hành thẩm tra, xác minh, làm đến nơi

đến chốn thì cho rằng cán bộ kiểm tra “vạch lá tìm sâu”, từ đó gây cản trở

cuộc kiểm tra. Khi cấp ủy, tổ chức đảng không phải là đối tượng kiểm tra

nhưng trong tổ chức mình có đảng viên, cán bộ được kiểm tra lẽ ra phải là chỗ

dựa tin cậy của cấp trên nhưng lại giữ “im lặng”, không “vạch áo cho người

xem lưng” vì sợ mất uy tín, mất thành tích, từ đó cấp trên không còn chỗ

dựa, không phát huy được tinh thần xây dựng Đảng của các tổ chức đó. Là

đảng viên được kiểm tra do nhận thức không tốt nên mặc cảm, định kiến

với cán bộ kiểm tra, thiếu sự cộng tác, thậm chí đe dọa những người khác

trao đổi, cung cấp tài liệu cho cán bộ kiểm tra. Khi cấp trên cung cấp các

tài liệu, chứng cứ chứng minh khuyết điểm vi phạm của đối tượng kiểm tra

để cấp ủy, đảng viên góp ý nhận xét thì không có tinh thần đấu tranh phê

bình, né tránh, bao che, chỉ phát biểu chung chung, nhiều lúc lại ca ngợi

thành tích, không đề cập, nhận xét gì về khuyết điểm, vi phạm và trách

nhiệm của đối tượng kiểm tra. Rõ ràng những lý do trên làm cho hoạt động

thẩm tra, xác minh của cấp trên gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế đến chất

lượng kết quả thẩm tra, xác minh.

Hai là, chất lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra nhìn

chung còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của công tác

kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng.

Một khó khăn cũng là nguyên nhân quan trọng khác, đó là yêu cầu

vượt qua chính bản thân mình của cán bộ kiểm tra về khoảng cách giữa trình

độ, năng lực, kinh nghiệm, bản lĩnh trước tính phức tạp của nội dung và đối

tượng kiểm tra. Nội dung kiểm tra càng nhiều, càng phức tạp thì càng khó

khăn, bởi trình độ cán bộ có hạn, nhiều lĩnh vực chưa am hiểu, chưa tiếp cận,

cọ xát với thực tế; đối tượng kiểm tra có chức vụ cao, từng trải, “có uy lớn”

thì cán bộ kiểm tra dễ “ngợp” và “choáng”, do đó nếu không có bản lĩnh, trình

độ thì cán bộ sẽ rất khó khăn khi tiến hành thẩm tra, xác minh. Kiểm tra tổ

Page 104: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

101

chức đảng cấp dưới và đảng viên là cấp ủy viên, cán bộ do cấp ủy cùng cấp

quản lý khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo, giải quyết khiếu nại, xem

xét để xử lý kỷ luật theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp ủy xử lý kỷ luật đảng

viên, tổ chức đảng là những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, căng thẳng, tế nhị.

Đối tượng kiểm tra thông thường có vị trí, cương vị, kinh nghiệm, quá trình

công tác, nhiều trường hợp hơn cán bộ trực tiếp kiểm tra. Dấu hiệu vi phạm

và vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên trong bối cảnh hiện nay rất đa

dạng, phức tạp, tinh vi, nhiều nội dung và cách thức vi phạm mới, nhất là

trong bối cảnh đi sâu vào nền kinh tế thị trường, quan hệ hội nhập quốc tế sâu

rộng. Nhiều cuộc kiểm tra với nội dung cần xem xét, kết luận rất rộng, lại đòi

hỏi thời gian gấp để phục vụ công tác xây dựng Đảng. Vấn đề nổi lên hiện

nay là trình độ, năng lực của cán bộ kiểm tra chưa theo kịp và đáp ứng tính

chất, quy mô và yêu cầu của công tác kiểm tra, nhất là trình độ hiểu biết về

kinh tế, xã hội, về quản lý kinh tế - xã hội, hiểu biết pháp luật. Các quan điểm,

chủ trương, chính sách, quy định về kinh tế - xã hội luôn thay đổi, trong khi

cán bộ kiểm tra không được cập nhật, nghiên cứu kịp thời, do vậy trình độ

nắm, hiểu của cán bộ kiểm tra không theo kịp, lạc hậu so với tình hình thực

tiễn. Những hạn chế, bất cập của cán bộ kiểm tra về trình độ, năng lực hiện

nay ở một số nơi đang chậm được khắc phục sẽ là điều cản trở lâu dài đến

hoạt động thẩm tra, xác minh.

Một vấn đề quan trọng khác là, cán bộ kiểm tra còn hạn chế về kinh

nghiệm, vốn sống thực tiễn, phương pháp, phong cách, kỹ năng nghiệp vụ và

cả thái độ ứng xử trước những yêu cầu của tình hình mới và hoạt động thẩm

tra, xác minh. Hạn chế, yếu kém trong thẩm tra, xác minh chứng tỏ trong

nhiều trường hợp cán bộ kiểm tra thiếu kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực

xảy ra về nội dung kiểm tra. Tình trạng này đã hạn chế chất lượng, hiệu quả

thẩm tra, xác minh và do đó ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của các cuộc

kiểm tra nói chung.

Page 105: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

102

Ba là, nguyên tắc, phương pháp, quy trình công tác kiểm tra nói chung

và trong hoạt động thẩm tra, xác minh còn thiếu cụ thể, bất cập, chưa phù

hợp thực tế trong nội bộ Đảng hiện nay.

Hiện nay, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương cũng chưa xác định nguyên tắc

và phương pháp riêng cho hoạt động thẩm tra, xác minh mà chỉ trên cơ sở dựa

vào các nguyên tắc và phương pháp công tác đảng để vận dụng thực hiện; mới

chỉ có quy trình kiểm tra, còn thẩm tra, xác minh đã có hướng dẫn cách tiến

hành nhưng chưa có quy trình riêng.

Đây là một trong các nguyên nhân rất quan trọng làm cho hoạt động

thẩm tra, xác minh có những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém. Thực tiễn công

tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra thời gian qua nói riêng cho

thấy nguyên tắc và các phương pháp trên có nhiều hạn chế, bất cập, không đạt

kết quả như mong muốn. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng đang có

nhiều vi phạm, tình trạng dân chủ hình thức còn phổ biến. Thực hành dân chủ

trong Đảng không được phát huy và bảo đảm; vẫn còn tình trạng độc đoán,

chuyên quyền, bóp nghẹt dân chủ. Biểu hiện rõ nét ở thực trạng đảng viên

không dám phê bình thẳng thắn những khuyết điểm, vi phạm của lãnh đạo,

nhất là người đứng đầu vì sợ trù đập. Có nơi cả ban thường vụ, cả tập thể cấp

uỷ không ai dám nói trái ý kiến bí thư cấp uỷ. Khi đảng viên không dám phát

biểu, nêu hết, nói hết, trình bày hết các quan điểm, chính kiến của mình thì

mọi việc sẽ một chiều, theo ý kiến lãnh đạo, cấp trên không nắm được tình

hình, làm cho cán bộ kiểm tra khó khai thác, khó được cung cấp các chứng

cứ. Khi thẩm tra, xác minh là phải dựa vào tổ chức đảng, vào cấp ủy, nhưng

cấp ủy, tổ chức đảng không tích cực phối hợp trong quá trình kiểm tra, trong

cung cấp thông tin, tài liệu, có lúc lại che chắn; tính chiến đấu, phê bình làm

rõ nội dung vi phạm và trách nhiệm của đối tượng kiểm tra lại rất yếu, “dĩ hòa

vi quý”, e dè, nể nang, khen là chính, tư tưởng “dễ người, dễ ta”, sợ mất thành

tích. Hoạt động thẩm tra, xác minh của Đảng lấy tự phê bình và phê bình làm

Page 106: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

103

biện pháp chính yếu nhưng thực trạng của tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi

chỉ là hình thức. Không ít trường hợp đảng viên, cán bộ, kể cả cán bộ lãnh

đạo thiếu gương mẫu, không nghiêm túc tự phê bình, còn sợ “vạch áo cho

người xem lưng”, có khi trong phê bình lại tìm cách hợp pháp hóa sai phạm,

tiêu cực, thậm chí còn làm đảo lộn đúng sai, tốt xấu, tạo điều kiện cho phần tử

tiêu cực thoái hóa được dung túng, bao che và có chỗ dựa để trù dập, ức hiếp

những đảng viên chân chính, trung thực, từ đó mà tạo ra tâm lý “đấu tranh

tránh đâu”, đây là một cản trở, chướng ngại rất lớn trong công tác kiểm tra và

hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra.

Thẩm tra, xác minh là một khâu quan trọng, khâu chính yếu trong các

phương pháp công tác kiểm tra của Đảng nhưng chưa có quy trình riêng cụ

thể, mới chỉ đề cập một điểm trong bước tiến hành của quy trình công tác

kiểm tra. Do chưa có quy trình cụ thể nên cách thức thực hiện thẩm tra, xác

minh còn lúng túng, thực tế chỉ dựa vào kinh nghiệm của từng cán bộ trực

tiếp kiểm tra, từ đó kết quả thẩm tra xác minh không tốt, dẫn đến những yếu

kém, hạn chế nhất định.

3.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA QUA THỰC TRẠNG

HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG

3.3.1. Một số kinh nghiệm tiến hành thẩm tra, xác minh trong công

tác kiểm tra của Đảng

Để làm tốt việc thẩm tra, xác minh, xuất phát từ thực tiễn công tác

kiểm tra trong Đảng thời gian qua, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau đây:

Một là, ban thường vụ cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng,

ủy ban kiểm tra và cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra các cấp phải có

nhận thức đúng, đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, vị trí, vai trò của hoạt động

thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.

Khi cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy có nhận thức đúng, đầy đủ về

thẩm tra, xác minh sẽ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cuộc kiểm tra của cấp

Page 107: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

104

ủy, sẽ chỉ đạo, định hướng lực lượng tiến hành thẩm tra xác minh một cách

kiên quyết, cụ thể; mặt khác sẽ tạo điều kiện, phối hợp với cấp trên tiến hành

thẩm tra, xác minh khi kiểm tra bản thân tổ chức mình hoặc kiểm tra đảng

viên, cán bộ sinh hoạt tại địa phương, đơn vị mình. Đồng thời, sẽ tạo điều

kiện thuận lợi cho ủy ban kiểm tra tiến hành thẩm tra, xác minh khi kiểm tra

các cấp ủy trực thuộc và đảng viên là cán bộ do cấp ủy quản lý. Muốn có

nhận thức đúng về hoạt động thẩm tra, xác minh trước hết phải có nhận thức

đúng về công tác kiểm tra. Khi thấy được công tác kiểm tra là bộ phận quan

trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ trực tiếp, thường

xuyên của cấp ủy, mục tiêu của công tác kiểm tra là nhằm nâng cao năng lực

lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng thì cấp ủy sẽ quan tâm và chỉ đạo thực hiện

tốt công tác kiểm tra. Nếu cấp ủy nhận thấy muốn công tác kiểm tra có hiệu

quả, hiệu lực và để việc thi hành kỷ luật được “công minh, chính xác, kịp

thời” thì không có cách nào khác là phải làm tốt thẩm tra, xác minh, làm rõ và

kết luận đúng các nội dung kiểm tra.

Đối với ủy ban kiểm tra và cán bộ làm công tác kiểm tra, là người trực

tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện các cuộc kiểm tra, trong đó cốt lõi là tiến

hành thẩm tra, xác minh, nếu uỷ ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra có nhận thức

đúng sẽ chuẩn bị tốt từ kế hoạch kiểm tra, kế hoạch thẩm tra xác minh, tổ

chức thực hiện có kết quả thẩm tra, xác minh; tìm cách khắc phục mọi khó

khăn, sáng tạo, linh hoạt trong thực hiện phương pháp, quy trình kiểm tra.

Thực tế vừa qua, ở cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương có nhiều vụ việc rất

khó khăn, phức tạp cả về đối tượng và nội dung kiểm tra nhưng do có nhận

thức đúng trong cơ quan và sự nỗ lực cố gắng của những cán bộ trực tiếp tiến

hành thẩm tra, xác minh nên cuộc kiểm tra đã đạt kết quả tốt, giúp cho tập thể

Ủy ban Kiểm tra Trung ương xem xét, kết luận, xử lý kịp thời nghiêm minh,

kể cả những trường hợp phải trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, kết luận,

quyết định xử lý kỷ luật theo thẩm quyền.

Page 108: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

105

Hai là, phải luôn có sự quan tâm chỉ đạo cụ thể, kịp thời, sát sao và

kiên quyết của thường trực cấp ủy, thường trực ủy ban kiểm tra trong quá

trình thẩm tra, xác minh.

Chủ thể các cuộc kiểm tra thông thường là ban thường vụ cấp ủy hoặc

của ủy ban kiểm tra. Để tiến hành cuộc kiểm tra thì ban thường vụ cấp ủy, ủy

ban kiểm tra lập ra các đoàn (tổ) kiểm tra, đây là những cán bộ trực tiếp tiến

hành thẩm tra, xác minh. Chất lượng, kết quả cuộc kiểm tra tốt hay không tốt

sẽ gắn với trách nhiệm của ban thường vụ hoặc của ủy ban kiểm tra. Để cuộc

kiểm tra đạt kết quả thì phải có sự quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện của

thường trực cấp ủy, là những người giúp ban thường vụ hoàn thành tốt cuộc

kiểm tra. Tương tự như vậy, cuộc kiểm tra là của tập thể ủy ban kiểm tra,

nhưng thường trực uỷ ban kiểm tra (gồm chủ nhiệm và các phó chủ nhiệm)

được ủy nhiệm thay mặt tập thể ủy ban chỉ đạo, điều hành các công việc,

trong đó có các cuộc kiểm tra. Trước khó khăn khi tiến hành thẩm tra, xác

minh, không thể thiếu sự chỉ đạo, phó mặc cho lực lượng trực tiếp thẩm tra,

xác minh, tự tiến hành “tác chiến”. Không ít đối tượng kiểm tra và các tổ chức

cá nhân có liên quan không cộng tác, phối hợp, còn chần chừ, kéo dài việc

cung cấp tài liệu, hồ sơ nhưng khi có ý kiến chỉ đạo kịp thời của thường trực

cấp ủy và ủy ban kiểm tra thì các đối tượng nghiêm túc thực hiện; có những

trường hợp vi phạm đã được làm rõ nhưng không chịu kiểm điểm, chỉ đến khi

có sự chỉ đạo của thường trực cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra mới viết kiểm

điểm và gửi cho đoàn kiểm tra. Nhiều cuộc kiểm tra khó khăn, phức tạp,

thường trực cấp ủy và ủy ban kiểm tra đã nghe đoàn kiểm tra báo cáo tiến độ,

kết quả thẩm tra, xác minh bước đầu để cho ý kiến, tháo gỡ khó khăn, định

hướng những việc cần làm tiếp. Thực tế chứng minh cuộc kiểm tra nào có sự

quan tâm tích cực, theo dõi, chỉ đạo quyết liệt thì tiến độ, kết quả kiểm tra và

thẩm tra, xác minh được tiến hành nhanh, gọn, bảo đảm có chất lượng, không

để kéo dài, phải thẩm tra, xác minh nhiều lần.

Page 109: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

106

Ba là, bám sát nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh; quá trình tiến

hành thẩm tra, xác minh phải năng động, sáng tạo, linh hoạt trong phương

pháp, cách thức tiến hành.

Như trên đã xác định, nội dung thẩm tra, xác minh là những nội dung

kiểm tra có vấn đề cần được xem xét, làm rõ để kết luận. Mỗi nhiệm vụ kiểm

tra của cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra có nội dung, đối tượng cụ thể khác nhau.

Trong mỗi cuộc kiểm tra, tuỳ nội dung, đối tượng và tình thực tế của vụ việc

mà có nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh khác nhau. Như vậy, muốn làm

rõ nội dung kiểm tra thì không có cách nào khác là phải bám vào các nội dung

cần thẩm tra, xác minh đã được xác định. Mỗi đối tượng thẩm tra, xác minh

lại liên quan chặt chẽ đến nội dung kiểm tra, nhằm chứng minh, làm rõ nội

dung kiểm tra đúng, sai ra sao. Chứng cứ nằm ở đối tượng thẩm tra, xác minh;

có bám sát đối tượng thẩm tra, xác minh thì mới nhanh chóng tìm được chứng

cứ. Quá trình thẩm tra, xác minh nếu quan liêu, tiếp cận không tốt các đối

tượng thẩm tra, xác minh thì sẽ khó khăn trong việc tìm ra chứng cứ. Để

nhanh chóng tìm ra chứng cứ, quá trình thẩm tra, xác minh, cán bộ kiểm tra

phải linh hoạt, năng động và sáng tạo từ việc tiếp cận, thu thập, khai thác thông

tin từ các đối tượng. Thực tế, nếu cán bộ nào có phương pháp tốt thì kết quả

thẩm tra, xác minh sẽ tốt. Vì vậy, hoàn thiện, đổi mới phương pháp, cách thức,

tác phong công tác của cán bộ kiểm tra là rất cần thiết trong thời gian tới.

Bốn là, có đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra đủ “tâm”, đủ

“tầm”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, tính phức tạp của công tác kiểm tra nói

chung và việc thực hiện thẩm tra, xác minh nói riêng.

Trong phần nguyên nhân của ưu điểm đã xác định trình độ, năng lực

cán bộ là một nguyên nhân quan trọng, có tính quyết định đến những ưu điểm,

kết quả của hoạt động thẩm tra, xác minh. Đây cũng là kinh nghiệm hết sức

quan trọng rút ra từ thực tiễn thời gian qua. Cán bộ là một trong những nhân

tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng và

Page 110: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

107

chế độ, là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh

khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [119, tr.269], "công việc

thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Không có đội ngũ cán

bộ tốt thì đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng cũng không thể trở hành hiện

thực được.

Muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra nói chung và

việc thẩm tra, xác minh nói riêng thì đội ngũ cán bộ kiểm tra phải có phẩm

chất, trình độ, năng lực, phải là những người vững vàng về chính trị, giương

mẫu về đạo đức, trong sáng về lối sống, có phong cách tốt, có kiến thức

chuyên môn và năng lực thực tiễn. Có thể khẳng định, số lượng và chất

lượng cán bộ là một trong các cơ sở, điều kiện chủ quan, nội tại, điều kiện

chủ yếu, có tính quyết định đến chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của công tác

kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp, trong đó có kết quả thẩm tra, xác

minh. Như ở phần trên đã đề cập, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất

quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra của Đảng.

Đó là những người mẫu mực nhất, không thể chê trách được; đủ kinh

nghiệm và uy tín, giàu năng lực; có ý thức tổ chức kỷ luật cao; chí công vô

tư, không thiên vị, không thành kiến. Đội ngũ cán bộ đó, phải qua lựa chọn

cẩn thận, sát hạch, thanh tra kỹ, được đặc biệt tin cẩn và được huấn luyện rất

công phu.

Chúng ta không quan trọng hoá, đề cao cán bộ làm công tác kiểm tra.

Cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát là đội ngũ cán bộ của Đảng, yêu cầu

tiêu chuẩn cán bộ kiểm tra, giám sát nằm trong những quy định tiêu chuẩn cán

bộ của Đảng. Tuy nhiên, do tính chất nhiệm vụ, do yêu cầu của công tác kiểm

tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, là nhiệm vụ hết sức quan trọng, liên quan

đến sứ mệnh chính trị của tổ chức đảng và đảng viên, vì vậy, phải đủ số

lượng, có phẩm chất, đạo đức, năng lực, trình độ toàn diện, kinh nghiệm thực

tiễn phong phú, có uy tín, phải có “tâm” và có “tầm”.

Page 111: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

108

3.3.2. Một số vấn đề đặt ra qua hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng

Thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng thời gian qua có nhiều vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu, làm rõ để giải quyết và thực hiện tốt hơn trong thời gian tới; trước mắt xin nêu một số nội dung sau đây:

Một là, cần nghiên cứu, làm rõ sự bất cập và hạn chế của nguyên tắc, phương pháp thẩm tra, xác minh để vận dụng, thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế trong Đảng hiện nay.

Hoạt động thẩm tra, xác minh là hoạt động trong nội bộ Đảng và phải tuân theo các nguyên tắc của Đảng như nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên thực tế trong Đảng hiện nay có nhiều hạn chế, bất cập khi thực hiện các nguyên tắc. Do là công việc nội bộ nên dễ dẫn đến khép kín, nội bộ che giấu, bao bọc cho nhau. Nguyên tắc dân chủ, công khai trong công tác kiểm tra làm cho việc thẩm tra, xác minh khó khăn hơn vì đối tượng kiểm tra có thể lợi dụng để quanh co, lẩn tránh, che giấu hoặc hợp thức hóa vi phạm. Khi kiểm tra ban thường vụ cấp uỷ thì chỉ trong ban thường vụ biết, cấp uỷ không biết, cán bộ, công chức người thường xuyên tiếp xúc, biết công việc cụ thể nhưng không được biết, được nói, từ đó hạn chế tính công khai, hạn chế nguồn cung cấp thông tin, chứng cứ. Tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình có nhiều vi phạm, chỗ dựa quan trọng của hoạt động thẩm tra, xác minh ít tác dụng. Tình hình, điều kiện hiện nay rất khó khăn trong việc tìm chứng cứ; chứng cứ bị bóp méo, không chính xác. Thực trạng này đặt ra cho công tác thẩm tra, xác minh phải đổi mới nếu muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả.

Hai là, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra đang hạn chế, bất cập trước yêu cầu, nhiệm vụ là làm rõ các hành vi vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên khi tiến hành thẩm tra, xác minh.

"Cán bộ nào, phong trào đó". Chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra gắn

liền và có mối quan hệ nhân quả với chất lượng thẩm tra, xác minh, trong khi

Page 112: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

109

cán bộ không am hiểu sâu về kinh tế, pháp luật. Mặt khác hoạt động thu thập

thông tin, chứng cứ khi thẩm tra, xác minh lại tiến hành chủ yếu bằng cách

vận động, thuyết phục, cảm hoá, nêu gương nên đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải

nâng cao phẩm chất, năng lực, nghiệp vụ. Trong khi nội dung vi phạm của tổ

chức đảng và đảng viên rất tinh vi và ngày càng phức tạp, vì vậy vấn đề cấp

bách là phải rà soát, có chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, trình

độ, có kỹ năng nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của công tác kiểm tra trong điều

kiện mới.

Ba là, cần có sự giám sát quá trình thẩm tra, xác minh và phản biện kết

quả thẩm tra, xác minh, coi đây là nhân tố tác động quan trọng để nâng cao

chất lượng thẩm tra, xác minh nói riêng và công tác kiểm tra nói chung.

Một mặt, do năng lực, kinh nghiệm cán bộ kiểm tra còn có hạn nên

trong nhiều trường hợp chưa làm rõ được nội dung kiểm tra cần kết luận, mặt

khác có thể do nguyên nhân khác tác động như có mối quan hệ, do nể nang,

né tránh, ngại va chạm nên không dám mạnh dạn và kiên quyết trong thẩm

tra, xác minh để tìm ra chứng cứ và trong đề xuất, kiến nghị khi kết thúc kiểm

tra. Vì vậy, nên có sự giám sát quá trình thẩm tra, xác minh và phản biện kết

quả thẩm tra, xác minh trước và trong khi báo cáo để tập thể uỷ ban kiểm tra

nghe nhiều chiều, có thêm cơ sở, căn cứ xem xét, kết luận. Giám sát và phản

biện có tác dụng “cảnh tỉnh”, do đó cán bộ và đoàn kiểm tra nhất định sẽ làm

tốt hơn, khách quan hơn, nâng cao được trách nhiệm trong thẩm tra, xác minh

và báo cáo kết quả kiểm tra.

Bốn là, phải coi thẩm tra, xác minh là kỹ năng nghiệp vụ mang tính

khoa học và thực tiễn, cần được nghiên cứu, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để

ngày càng làm tốt hơn trong thời gian tới.

Vấn đề quan trọng nhất trong cách thức tiến hành thẩm tra, xác minh là

xác định những gì có thể làm chứng cứ xác thực cho từng nội dung kiểm tra

và tìm cách thu thập chứng cứ đó theo nguyên tắc và phương pháp công tác

Page 113: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

110

Đảng. Thẩm tra, xác minh không đơn giản thực hành theo chủ nghĩa kinh

nghiệm mà là hoạt động có phương pháp khoa học với sự kết hợp nhuần

nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn. Không được lấy vị thế của cấp trên, của

người đi kiểm tra mà áp đặt chủ quan duy ý chí. Phải trên cơ sở khoa học để

tiến hành tổng kết từ thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm để tiến hành thẩm

tra, xác minh tốt hơn.

Tiểu kết chương 3

Hoạt động thẩm tra, xác minh thời gian qua nằm trong bối cảnh công

tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng được tăng cường, có nhiều

chuyển biến, tiến bộ. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư,

Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và cấp uỷ các cấp có nhiều văn bản quy định,

hướng dẫn và tổ chức thực hiện quyết liệt về công tác kiểm tra, giám sát và thi

hành kỷ luật trong Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi cũng có nhiều khó

khăn, nhất là đối tượng kiểm tra phần lớn là cán bộ có chức vụ, quyền hạn, nội

dung kiểm tra phải làm rõ lại rất phức tạp, đa dạng, vi phạm của tổ chức đảng và

đảng viên ngày càng tinh vi, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, trong khi

trình độ, năng lực, nghiệp vụ của cán bộ kiểm tra còn hạn chế, bất cập.

Ban thường vụ cấp uỷ và nhất là uỷ ban kiểm tra các cấp đã tích cực

chỉ đạo tiến hành thẩm tra, xác minh đạt nhiều kết quả nhất định, phục vụ kết

luận các cuộc kiểm tra theo chương trình, kế hoạch đã được xác định. Trong

đó đặc biệt quan tâm việc phải thực hiện đúng nguyên tắc, phương pháp, quy

trình thẩm tra, xác minh. Quá trình thẩm tra xác minh đã luôn bám vào nội

dung kiểm tra, tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp công tác kiểm tra, phát

huy dân chủ, khách quan, công khai, biết dựa và phát huy tinh thần xây dựng

Đảng của tổ chức đảng, đảng viên và quần chúng, tích cực phối hợp với các tổ

chức đảng trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, tích cực phối hợp với các tổ

chức trong hệ chính trị.

Page 114: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

111

Hoạt động thẩm tra, xác minh thời gian qua đã nâng dần được chất

lượng, giúp cho cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp xem xét, kết luận, xử lý một

khối lượng lớn nội dung, đối tượng được kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm,

giải quyết tố cáo, giải quyết khiếu nại và xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng

viên vi phạm, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, xử

lý kỷ luật trong Đảng. Hoạt động thẩm tra, xác minh đạt được kết quả trên là

do có sự lãnh đạo, chỉ đạo của ban thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra, nhất là

thường trực cấp uỷ, thường trực uỷ ban kiểm tra các cấp và trình độ, năng lực,

phẩm chất đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra được nâng lên một bước.

Tuy nhiên, hoạt động thẩm tra, xác minh thời gian qua cũng còn nhiều

khuyết điểm, hạn chế. Trong đó, nổi bật là tiến hành thẩm tra, xác minh chưa

kỹ, không sâu, chưa đầy đủ và chính xác, vì vậy chất lượng thẩm tra, xác

minh chưa đáp ứng một trong các yêu cầu của công tác kiểm tra là xem xét,

kết luận và xử lý nghiêm vi phạm nếu có. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến

nhiều cuộc kiểm tra chưa đạt kết quả cao, xử lý các vụ vi phạm kỷ luật chưa

công minh, chính xác, kịp thời. Nguyên nhân khuyết điểm, hạn chế trên có

phần bắt nguồn từ khó khăn trong việc làm rõ tính chất, mức độ các vụ vi

phạm kỷ luật trong Đảng, từ thực hiện yêu cầu của công tác kiểm tra, kỷ luật

và những hạn chế, bất cập trong một số nội dung của nguyên tắc, phương

pháp công tác kiểm tra. Bên cạnh đó, điều quan trọng là trình độ, năng lực của

cán bộ kiểm tra chưa theo kịp tình hình hiện nay.

Từ thực trạng trên, vấn đề đặt ra cần quan tâm là dự báo một số tình

hình có liên quan tác động đến công tác kiểm tra, từ đó xác định đúng phương

hướng và các giải pháp tối ưu để thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh

nhằm phục vụ, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực công tác

kiểm tra của Đảng.

Page 115: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

112

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

NHẰM THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH

TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

4.1. DỰ BÁO MỘT SỐ TÌNH HÌNH CÓ LIÊN QUAN VÀ PHƯƠNG

HƯỚNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM

TRA CỦA ĐẢNG TRONG THỜI GIAN TỚI 4.1.1. Dự báo một số tình hình có liên quan

4.1.1.1. Những nhân tố tác động, làm nảy sinh và gia tăng vi phạm

kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên trong thời gian tới Từ nay đến năm 2020, tình hình thế giới, khu vực và trong nước sẽ có

nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường. Điều đó tạo ra cả thuận

lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, phức

tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng. Trong bối cảnh

đó, có những nhân tố, điều kiện tác động đến Đảng, làm nảy sinh, gia tăng

tình hình vi phạm của kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên:

Một là, những mặt trái, tiêu cực của nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, công cuộc đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng với quá hội nhập, mở rộng hợp tác, đa phương,

đa dạng hóa đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào nhận thức và hành động

của cán bộ, đảng viên.

Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do, cạnh tranh, coi trọng lợi

nhuận, do đó cũng làm xuất hiện tâm lý tính toán thiệt hơn, tình trạng phe

cánh, lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Từ đây, tình đồng chí, tình cảm cách

mạng sẽ bị tác động, làm thay đổi nhận thức, hành vi, xa rời những chuẩn

mực đạo đức tốt đẹp vốn có. Nhiều vấn đề phức tạp về an ninh - chính trị, trật

tự xã hội, về văn hóa, xã hội, về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công

Page 116: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

113

chức và nhân dân... nảy sinh; sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo (kể cả

trong cán bộ, đảng viên), khoảng cách giữa các thế hệ; làm thay đổi hệ thống

các giá trị đạo đức, lối sống và dẫn tới những diễn biến hết sức phức tạp trên

tất cả các lĩnh vực, tạo ra nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội; tình trạng khiếu

kiện, đình công có thể gia tăng.

Hai là, trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền, là Đảng duy nhất

lãnh đạo toàn bộ xã hội, đang còn thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực, nhân dân

giám sát cán bộ, đảng viên, bên cạnh thuận lợi là cơ bản cũng nảy sinh nhiều

nguy cơ như: chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, xa dân, độc đoán, chuyên quyền,

đặc quyền đặc lợi, có thể dẫn đến tha hóa, biến chất, mất lòng tin; xuất hiện

tâm lý hoài nghi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tình hình hiện nay trong Đảng

khác hẳn trước đây; hội nhập, tư nhân hóa, đầu tư nước ngoài mở rộng sẽ là

"mảnh đất" thuận lợi để tham nhũng, quan liêu, mất dân chủ, mất đoàn kết nội

bộ, đấu đá, tranh giành quyền lực càng nghiêm trọng và tinh vi. Tình hình tổ

chức đảng còn yếu kém, chưa đủ sức giải quyết hoặc chậm khắc phục những

vấn đề nảy sinh từ cuộc sống; một bộ phận tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên

hạn chế về năng lực, trình độ, bản lĩnh, ý chí chiến đấu, tự phê bình và phê

bình yếu kém, sự đoàn kết, thống nhất, việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị của

Đảng, ý thức tổ chức kỷ luật thấp, không nghiêm; chưa thực hiện tốt các

nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân

chủ; nói không đi đôi với làm còn diễn ra khá phổ biến. Tệ quan liêu, tham

nhũng, lãng phí, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chạy

theo chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng của một bộ phận cán bộ, đảng viên

với tính chất, mức độ nghiêm trọng hơn, gây hậu quả xấu, làm giảm niềm tin

của nhân dân, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Tham nhũng quyền lực

có thể phát triển mạnh, nếu không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc thực thi

quyền lực và việc lạm dụng quyền lực sẽ tạo điều kiện cho bọn cơ hội chính

trị và các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước ta từ bên trong.

Page 117: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

114

Tình trạng xử lý chậm, thậm chí thiếu minh bạch, công bằng đối với những vi

phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa thể khắc phục được

ngay. Một số chủ trương của Đảng cụ thể hóa thành cơ chế, chính sách, pháp

luật của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, sơ hở, thậm chí trái nghị quyết, quyết

định của Đảng, của cơ quan nhà nước cấp trên.

Ba là, các thế lực thù địch, phản động quốc tế sẽ tăng cường cấu kết với

các tổ chức phản động trong nước để tiếp tục thực hiện “diễn biến hòa bình”,

làm diễn biến, chuyển hóa (kể cả tự diễn biến, tự chuyển hóa) từ trong nội bộ

Đảng, trước hết là chuyển hóa về tư tưởng chính trị. Chúng tiếp tục dùng

chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền để tấn công, ép buộc ta, lợi dụng chiêu

bài dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực để kích động các phần tử

cực đoan, bất mãn chống đối, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, chia rẽ

khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Các loại tội phạm có chiều hướng gia tăng, có sự cấu kết ngoài nước

với trong nước, ngoài xã hội với trong nội bộ Đảng, chính quyền, chính trị với

kinh tế, quyền lực với quyền lợi, với sự bao che, tiếp tay của một số cán bộ,

đảng viên thoái hóa, biến chất, dẫn đến vi phạm với nhiều lỗi phạm mới, tinh

vi, phức tạp, khó lường hơn.

Bốn là, quá trình thực hiện thí điểm một số chủ trương, chính sách về

quản lý hành chính, về sản xuất, kinh doanh, nếu không có cơ chế phân cấp,

phân quyền, quản lý, kiểm soát, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, kịp thời để điều

chỉnh, chấn chỉnh cho phù hợp trong quá trình thực hiện sẽ tạo điều kiện cho

một bộ phận tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên lợi dụng để làm trái, trục lợi,

gây thất thoát, thiệt hại cho lợi ích của Đảng, Nhà nước, của nhân dân.

Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn

với mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Cơ cấu tổ chức

đảng và đảng viên sẽ có sự thay đổi theo sự phát triển của cấu trúc xã hội và

cơ cấu kinh tế - xã hội; vai trò, sức chiến đấu, hoạt động của tổ chức đảng,

Page 118: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

115

đảng viên ở nước ngoài, trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài

nhà nước rất khó khăn, hạn chế. Sẽ xuất hiện nhiều đảng viên làm kinh tế tư

nhân và các chủ doanh nghiệp tư nhân đủ điều kiện được kết nạp vào Đảng,

tham gia hoạt động trong các cơ quan quyền lực (đại biểu Quốc hội, hội đồng

nhân dân các cấp), Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, xã hội

nghề nghiệp... tác động đến việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Năm là, tình trạng các quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước chồng

chéo, thiếu đồng bộ, không bao quát hết các hành vi, tạo khuôn khổ pháp lý

để cán bộ, đảng viên tuân theo; trong khi, một số cán bộ, đảng viên lại lợi

dụng kẽ hở, “lách luật” để không làm hoặc làm sai.

Bên cạnh đó, việc xử lý kỷ luật không nghiêm, không đủ sức răn đe đã

góp phần hình thành tâm lý không sợ bị kỷ luật, làm “nhờn thuốc” trong “điều

trị bệnh”, làm “bà đỡ” cho phát sinh vi phạm cả bề rộng và chiều sâu.

Những nhân tố trên có thể tác động, làm nảy sinh và gia tăng vi phạm

kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên trong thời gian tới, đặt ra cho công tác

kiểm tra nói chung, hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng khối lượng nhiệm

vụ nặng nề hơn, yêu cầu chủ động hơn trong việc nắm bắt, nhận dạng để có

biện pháp đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý thích hợp, hiệu quả.

4.1.1.2. Tình hình vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên và

sự tác động đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của

Đảng trong thời gian tới - Tình hình vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên sẽ diễn ra

hết sức đa dạng, phức tạp, tinh vi và có chiều hướng gia tăng ở các tất cả các

lĩnh vực, nhất là lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, lĩnh vực tư pháp, lĩnh

vực dịch vụ công, sản xuất - kinh doanh, thực hiện chính sách an sinh, xã

hội... diễn ra ở tất cả các cấp, các ngành, các khu vực, cả ở trong nước và

ngoài nước.

Page 119: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

116

- Vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên sẽ diễn ra ở phạm vi rộng, ở

tất cả các lĩnh vực, sẽ xuất hiện những nội dung vi phạm mới trong những

lĩnh vực hoạt động mối của đời sống xã hội. Cùng với vi phạm về các nghị

quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của

Đảng, vi phạm, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng gia tăng, nhất là về

thiếu trách nhiệm, cố ý làm trái, ban hành quyết định trái quyết định của cấp

trên, về tham nhũng, lãng phí; vi phạm về đạo đức, lối sống cũng gia tăng với

tính chất tinh vi, mức độ nghiêm trọng hơn. Nguyên nhân dẫn đến vi phạm

cũng đa dạng hơn.

- Cùng với các vi phạm mang tính cá nhân, sẽ xuất hiện vi phạm theo

nhóm, mang tính tập thể, có tổ chức, cấu kết theo chuỗi (cán bộ chính quyền,

doanh nghiệp, xã hội đen...) cũng gia tăng với tính chất, mức độ nghiêm

trọng, phức tạp, thủ đoạn vi phạm ngày càng tinh vi, liên quan đến nhiều cấp,

nhiều ngành, nhiều loại đối tượng. Có sự bao che của một số cán bộ, đảng

viên thoái hóa, biến chất, gây khó khăn, trở ngại cho việc kiểm tra, giám sát,

thanh tra, điều tra, xử lý. Đối tượng vi phạm tìm mọi cách để che giấu hành vi

vi phạm, tẩu tán tài sản.

Những xu hướng, dấu hiệu vi phạm kỷ luật như trên của một bộ phận

cán bộ, đảng viên sẽ khiến cho hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác

kiểm tra của Đảng gặp nhiều khó khăn, phức tạp hơn, đòi hỏi phải được tiến

hành công phu, kỹ lưỡng hơn, với phạm vi, nội dung, đối tượng rộng hơn và

yêu cầu có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên hơn.

4.1.2. Phương hướng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác

kiểm tra của Đảng trong thời gian tới

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; Nghị quyết Hội nghị

lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X về tăng cường công tác kiểm

tra, giám sát của Đảng; Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17-5-2010 của Bộ

Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020

Page 120: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

117

và một số văn bản khác của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát là căn

cứ, định hướng cho công tác kiểm tra nói chung, cho hoạt động thẩm tra, xác

minh trong công tác kiểm tra của Đảng nói riêng. Trên cơ sở đó và xuất phát

từ thực trạng thời gian qua, hoạt động thẩm tra, xác minh trong thời gian tới

cần quán triệt và thực hiện phương hướng sau đây:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức về hoạt động thẩm tra, xác minh;

bổ sung, hoàn thiện và đổi mới phương pháp, quy trình, phấn đấu nâng cao

hơn nữa chất lượng thẩm tra, xác minh để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của

công tác kiểm tra là xem xét, kết luận đúng, kịp thời và xử lý nghiêm minh vi

phạm trong Đảng. Đề cao trách nhiệm của chủ thể kiểm tra và cán bộ kiểm tra

được giao nhiệm vụ trực tiếp tiến hành thẩm tra, xác minh.

Hai là, hoạt động thẩm tra, xác minh phải gắn liền với các phương

pháp công tác kiểm tra của Đảng, luôn bảo đảm sự chỉ đạo của thường trực

cấp uỷ và thường trực uỷ ban kiểm tra, bám sát mục tiêu, yêu cầu cuộc kiểm

tra, thực hiện đúng các nguyên tắc sinh hoạt trong Đảng. Quá trình thẩm tra,

xác minh phải phục vụ và nhằm đạt mục tiêu, yêu cầu cuộc kiểm tra đã được

xác định, đồng thời phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định và sự chỉ đạo, điều

hành của chủ thể kiểm tra.

Ba là, tập trung cao độ xác định rõ chứng cứ, có cơ sở pháp lý, chứng

lý, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả thẩm tra, xác minh, nhằm làm rõ

được đúng, sai nội dung kiểm tra, để xem xét, kết luận rõ ràng, chính xác ưu

điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) và xử lý kịp thời đối tượng kiểm tra theo

quy định của Đảng, góp phần làm tốt công tác kiểm tra của Đảng trong tình

hình mới.

Để thực hiện tốt phương hướng trên đây, cần thực hiện một số yêu cầu

sau đây:

- Tăng cường tuyên truyền, quán triệt nâng cao nhận thức tư tưởng,

trách nhiệm của chủ thể kiểm tra và đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác

Page 121: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

118

kiểm tra trong việc thẩm tra, xác minh. Phải làm cho mỗi cán bộ kiểm tra hiểu

hơn ai hết tầm quan trọng của thẩm tra, xác minh thì có mới cách thực hiện

tốt, đây là yêu cầu thường xuyên và luôn phải có để nhằm thực hiện tốt

phương hướng nêu trên.

- Phải từng bước hoàn thiện và đổi mới phương pháp và cách thức thẩm

tra, xác minh gắn liền với đổi mới, cải tiến phương pháp, quy trình công tác

kiểm tra; xây dựng và ban hành quy trình thẩm tra, xác minh, làm cơ sở cho

hoạt động này đi vào chiều sâu. Để thực hiện tốt thẩm tra, xác minh, ngoài ý

chí và trách nhiệm, yêu cầu phải có phương pháp và cách làm khoa học, phù

hợp với thực tế, phải luôn sáng tạo, năng động để đi đến kết quả tốt nhất.

- Trong mỗi cuộc, vụ, việc kiểm tra, quá trình thẩm tra, xác minh cần

phải được tiến hành một cách chính xác, khách quan, công tâm, thận trọng, tỷ

mỉ, chặt chẽ, đúng quy định, kiên quyết và kịp thời.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG THẨM

TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG

Xuất phát từ thực trạng thuận lợi, tiến bộ cũng như khó khăn, yếu kém

của hoạt động thẩm tra, xác minh thời gian qua và căn cứ các quan điểm định

hướng của Đảng về nhiệm vụ kiểm tra trong tình hình mới, tác giả luận án xin

đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh

trong công tác kiểm tra của Đảng thời gian tới như sau:

4.2.1. Nâng cao nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm

tra các cấp và cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh

trong công tác kiểm tra của Đảng

Việc nâng cao nhận thức cho cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các

cấp và cán bộ, đảng viên về về vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh là đòi hỏi

tất yếu trong công tác kiểm tra nói riêng và công tác xây dựng Đảng nói

chung. Có nhận thức đúng mới thấm nhuần sâu sắc, từ đó có hành động đúng

và có kết quả trong công tác kiểm tra, phục vụ thực hiện nhiệm vụ chính trị và

Page 122: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

119

công tác xây dựng Đảng của từng cấp uỷ, tổ chức đảng. Từ đó, cấp uỷ, tổ

chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp, cán bộ, đảng viên mới coi trọng và thực

hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh, góp phần làm cho công tác kiểm tra

ngày càng đi vào nền nếp, có chất lượng, hiệu quả và hiệu lực.

Một trong những mục tiêu, nhiệm vụ của công tác kiểm tra là giữ vững

kỷ cương, kỷ luật của Đảng, phòng ngừa, ngăn chặn suy thoái trong Đảng.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Một số

vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã nhận định:

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng

viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy

thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện

khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích

kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,

cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc… [91, tr.25].

Các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và cán bộ, đảng viên

một mặt thấy được thực tế trong Đảng, mặt khác cần nhận rõ một trong những

yêu cầu của công tác kiểm tra là phải làm rõ đúng sai, ưu điểm, khuyết điểm,

vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên về các nội dung được kiểm tra. Rõ

ràng, đây là nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của công tác kiểm tra mà mỗi tổ chức

đảng, mỗi cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra và từng đảng viên phải nhận thức một cách

sâu sắc. Để kết luận chính xác, đúng sự thật hành vi vi phạm của tổ chức đảng

và đảng viên thì phải tiến hành thẩm tra, xác minh. Hơn nữa, hoạt động thẩm

tra, xác minh phải thực hiện công phu, chặt chẽ, thận trọng. Cấp uỷ và uỷ ban

kiểm tra phải thấy hết tính phức tạp trong việc làm rõ vi phạm của đối tượng

kiểm tra. Quá trình thẩm tra, xác minh là quá trình đấu tranh quyết liệt, không

có chỗ cho tư tưởng nể nang, dĩ hoà vi quý.

Mặt khác, cần quán triệt hoạt động kiểm tra, kỷ luật trong Đảng là công

tác đảng và là hoạt động lãnh đạo của cấp uỷ đảng, tổ chức đảng; có những

Page 123: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

120

đặc trưng cơ bản, trước hết là đối tượng kiểm tra trong Đảng được đồng thời

là chủ thể kiểm tra; phương thức cơ bản của hoạt động kiểm tra, kỷ luật trong

Đảng là tiến hành kiểm tra phải gắn quyện với tự kiểm tra; phải sử dụng bốn

chỗ dựa chủ yếu để tiến hành thẩm tra, xác minh, đó là: sự tự giác phê bình,

tự kiểm tra của đối tượng kiểm tra; ý kiến phê bình, đấu tranh của tập thể

đảng viên trong tổ chức đảng; chính kiến của cấp uỷ đảng quản lý đảng viên,

cán bộ là đối tượng kiểm tra; ý kiến phê bình, xây dựng của quần chúng nhân

dân liên quan đến nội dung và đối tượng kiểm tra… Biện pháp chính yếu để

tiến hành kiểm tra là thẩm tra, xác minh và tự phê bình và phê bình trong tổ

chức đảng. Phải nắm vững và sử dụng đúng đắn, sáng tạo phương pháp suy

luận logic biện chứng, tranh luận bằng tư duy khoa học và kết luận phải bằng

cơ chế tập thể đa số; phương pháp thẩm định phải bằng tư duy pháp lý cộng

với tư duy lãnh đạo và lương tâm đạo đức kiểm tra của Đảng. Tính chất kỷ

luật của Đảng là kỷ luật sắt, nghĩa là "nghiêm túc và tự giác", trong đó "tự

giác" đóng vai trò quyết định, "bắt buộc" có vai trò quan trọng. Giữa "tự giác"

và "bắt buộc" có mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó "tự giác" không chỉ

là phương tiện mà là tính đảng và mục đích của công tác xây dựng Đảng. Cần

quán triệt mối quan hệ này trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, lấy phê

bình và tự phê bình làm phương pháp cơ bản trong công tác kiểm tra, kỷ luật,

đồng thời gắn với thẩm tra, xác minh, nhất là trong điều kiện tự giác, tự phê

bình và phê bình giảm sút và hệ thống chính sách còn nhiều kẻ hở dễ lợi dụng

như hiện nay.

Phải tuyên truyền để tổ chức đảng và đảng viên thấy được thẩm tra, xác

minh là để làm rõ sự thật, chỉ ra đúng tính chất, mức độ vi phạm, đồng thời

minh oan cho những trường hợp không vi phạm. Phải đấu tranh khắc phục tư

tưởng mặc cảm, phản ứng, có suy nghĩ xấu về công tác kiểm tra nói chung và

hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng, như cho rằng kiểm tra hoặc khi thẩm

tra, xác minh kỹ, thận trọng thì cho đó là "vạch lá tìm sâu", "bới bèo ra bọ"…

Page 124: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

121

Để nâng cao nhận thức cho cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên,

cán bộ kiểm tra các cấp về hoạt động thẩm tra, xác minh, cần thực hiện một

số nội dung, biện pháp sau:

Thứ nhất, cấp ủy các cấp, trong đó ủy ban kiểm tra phải làm nòng cốt

tích cực thực hiện Thông báo số 226-TB/TW, ngày 03-03-2009 của Ban Bí

thư về tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của

Đảng và hướng dẫn của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương; trong đó, chỉ đạo tăng

cường tuyên truyền, phổ biến vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của việc thẩm

tra, xác minh trên các phương tiện truyền thông đại chúng bằng nhiều hình

thức, qua các tin, bài trên báo, đài Trung ương và địa phương.

Thứ hai, Tạp chí Kiểm tra mở chuyên mục nghiên cứu, trao đổi những

vấn đề về hoạt động thẩm tra, xác minh; giải đáp kịp thời các khó khăn,

vướng mắc, trở ngại; biểu dương, phổ biến kinh nghiệm những nơi làm tốt;

góp ý đối với những nơi còn chưa làm tốt.

Thứ ba, thường xuyên cập nhật, cung cấp các văn bản về công tác kiểm

tra, kỷ luật đảng; thông tin các bài viết trao đổi, phản ảnh về công tác kiểm

tra, trong đó có kết quả hoạt động thẩm tra, xác minh… qua trang Thông tin

điện tử của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (hiện nay đang vận hành trên Trang

thông tin diện rộng của Đảng).

Thứ tư, công khai kết quả kiểm tra, xử lý các vụ việc để kịp thời giáo

dục, răn đe, rút kinh nghiệm, nhằm góp phần thúc đẩy kết quả công tác kiểm

tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng.

4.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban

kiểm tra; sự chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát của thường trực cấp ủy và

thường trực uỷ ban kiểm tra đối với hoạt động thẩm tra, xác minh

Đây là giải pháp hết sức quan trọng, có tính quyết định đến kết quả

thẩm tra, xác minh. Thẩm tra, xác minh là việc rất khó khăn, vì vậy đòi hỏi

phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của chủ thể kiểm tra. Cấp ủy, ủy ban

Page 125: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

122

kiểm tra, thường trực cấp ủy và ủy ban kiểm tra căn cứ đối tượng, nội dung

kiểm tra, nhất là những vấn đề kiểm tra phức tạp, đối tượng kiểm tra có vị trí

quan trọng để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát hợp, kịp thời.

Ủy ban, thường trực ủy ban kiểm tra các cấp phải thường xuyên quan

tâm chú ý, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, tạo điều kiện, hỗ trợ cho các đoàn (tổ)

kiểm tra, một mặt để định hướng, uốn nắn giúp hoạt động của đoàn (tổ) kiểm

tra đi đúng hướng, đúng trọng tâm, trọng điểm, thực hiện đúng quy trình, quy

định, cụ thể những trường hợp nào cần tập trung thẩm tra, xác minh kỹ, sâu;

mặt khác, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiến

hành thẩm tra, xác minh để vụ việc được kiểm tra sớm hoàn thành và đạt kết

quả cao.

Thực trạng quá trình thẩm tra, xác minh cho thấy, ở đâu có sự chỉ đạo,

hướng dẫn kịp thời, chặt chẽ của uỷ ban kiểm tra mà trực tiếp, thường xuyên

là thường trực uỷ ban kiểm tra thì ở đó hoạt động thẩm tra, xác minh sẽ có

chất lượng, hiệu quả cao; ngược lại, nếu không có sự quan tâm chỉ đạo, hướng

dẫn thì thẩm tra, xác minh sẽ gặp khó khăn. Hoạt động thẩm tra, xác minh

phải đối mặt với nhiều vấn đề gai góc, xử lý nhiều tình huống phức tạp, vì vậy

đòi hỏi phải có sự chỉ đạo, hướng dẫn của chủ thể kiểm tra. Để thực hiện có

kết quả công tác kiểm tra nói chung và chỉ đạo tốt việc thẩm tra, xác minh nói

riêng, trước hết uỷ ban và thường trực uỷ ban kiểm tra phải có quyết tâm cao,

dám làm, dám chịu trách nhiệm, không e ngại, nể nang, nhất là khi xác định

nội dung, đối tượng và kết luận kiểm tra; phải quán triệt tinh thần không có

“vùng cấm” trong công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng. Thực tế trong thời

gian qua, sau khi ban hành quyết định kiểm tra, lập đoàn kiểm tra ở một nơi

nào đó, uỷ ban và thường trực uỷ ban kiểm tra ít quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn

việc thẩm tra, xác minh mà thông thường phó mặc cho đồng chí thành viên uỷ

ban phụ trách cuộc kiểm tra và đoàn kiểm tra, chỉ đến khi báo cáo trước tập

thể uỷ ban mới có ý kiến, hỏi, chất vấn, đương nhiên đồng chí thành viên uỷ

Page 126: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

123

ban cũng có khả năng và trách nhiệm nhưng sẽ hạn chế so với tập thể một số

đồng chí trong thường trực, vì vậy kết quả còn chưa như mong muốn, nhiều

trường hợp thẩm tra, xác minh không đạt yêu cầu phải làm lại, làm tiếp, mất

thời gian, công sức, ảnh hưởng đến công tác của đối tượng kiểm tra và các cá

nhân, tổ chức có liên quan.

Nội dung chỉ đạo, hướng dẫn của uỷ ban và thường trực uỷ ban kiểm

tra về thẩm tra, xác minh cần tập trung vào các vấn đề như: yêu cầu đoàn

kiểm tra thực hiện đúng nguyên tắc, phương pháp, quy trình thẩm tra, xác

minh, phải bám vào nội dung kiểm tra, nội dung, đối tượng thẩm tra, xác

minh; chỉ đạo đoàn kiểm tra phải tiến hành thận trọng, chặt chẽ, khách quan

và kiên quyết trong quá trình thẩm tra, xác minh; yêu cầu đoàn và các thành

viên trong đoàn kiểm tra phải giữ nghiêm kỷ luật, chấp hành đúng quy định

về quy chế hoạt động của đoàn kiểm tra

Đại diện thường trực uỷ ban kiểm tra phải chỉ đạo, hướng dẫn đoàn

kiểm tra từ việc xây dựng kế hoạch hết sức tỷ mỉ, càng cụ thể càng thuận lợi

trong quá trình thẩm tra, xác minh, dự kiến việc xử lý các tình huống phát

sinh khi thẩm tra, xác minh. Khi đoàn kiểm tra gặp khó khăn, vướng mắc thì

báo cáo kịp thời để thường trực ủy ban có ý kiến tháo gỡ, động viên. Gặp

những đối tượng kiểm tra và đối tượng thẩm tra, xác minh gây khó khăn, cản

trở thì các đồng chí trong thường trực, thậm chí đồng chí chủ nhiệm uỷ ban

phải trực tiếp “ra tay”, “chia lửa”, như trực tiếp gặp các đối tượng, yêu cầu

phải hợp tác, phối hợp theo ý kiến của đoàn kiểm tra. Khi gặp những tình

huống khó khăn, phức tạp, đoàn kiểm tra cần báo cáo kịp thời để cấp trên có ý

kiến chỉ đạo. Tuy nhiên, cũng tránh tình trạng thụ động, trông chờ, ỷ lại cấp

trên, không chủ động của đoàn kiểm tra khi mới gặp vướng mắc ban đầu.

Về cách thức, phương pháp chỉ đạo, hướng dẫn của uỷ ban và thường

trực uỷ ban cần tiến hành linh hoạt như: chỉ đạo qua đồng chí thành viên uỷ

ban trực tiếp phụ trách đoàn kiểm tra, qua trưởng đoàn; việc chỉ đạo phải

Page 127: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

124

được chú ý từ khâu chuẩn bị đến quá trình thẩm tra, xác minh. Trước khi đoàn

kiểm tra triển khai hế hoạch kiểm tra, đại diện thường trực cần gặp gỡ, quán

triệt, xác định trách nhiệm, đặt ra các yêu cầu, hướng dẫn xử lý các tình

huống phát sinh, động viên cán bộ tiến hành tốt nhiệm vụ được giao. Quá

trình thẩm tra, xác minh, một số đồng chí trong thường trực uỷ ban có thể

nghe tiến độ, kết quả bước đầu và sau đó nghe kết quả khi kết thúc thẩm tra,

xác minh, nếu có vấn đề gì chưa rõ, chưa đầy đủ thì yêu cầu thẩm tra, xác

minh thêm. Đối với những vụ việc phức tạp, tập thể thường trực nghe kết quả

thẩm tra, xác minh trước khi đưa vụ việc ra báo cáo uỷ ban kiểm tra để tránh

tình trạng có thể phải làm tiếp sau khi đưa ra uỷ ban thảo luận, xem xét.

Cùng với chỉ đạo, hướng dẫn, thường trực uỷ ban và đồng chí thành

viên uỷ ban kiểm tra phải thường xuyên giám sát đoàn (tổ) kiểm tra. Quá trình

chỉ đạo, hướng dẫn và giám sát hoạt động thẩm tra, xác minh nếu thấy đoàn

kiểm tra có ưu điểm thì biểu dương, động viên, ngược lại thấy thiếu sót,

khuyết điểm thì nhắc nhở, phê bình, nếu làm chưa tốt, chưa đạt yêu cầu thì chỉ

đạo làm tiếp. Nếu có sự quan tâm và tích cực chỉ đạo, hướng dẫn như trên

nhất định chất lượng thẩm tra, xác minh sẽ được nâng lên, góp phần nâng cao

kết quả, hiệu lực công tác kiểm tra của Đảng.

4.2.3. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và đổi mới phương pháp, quy

trình, các quy định, hướng dẫn tiến hành thẩm tra, xác minh trong công

tác kiểm tra của Đảng

4.2.3.1. Về phương pháp Thời gian qua phương pháp hoạt động thẩm tra, xác minh luôn tuân thủ

và thực hiện theo nguyên tắc và phương pháp công tác kiểm tra của Đảng.

Các phương pháp công tác kiểm tra đã giúp cho việc thẩm tra, xác minh có

nhiều ưu điểm, kết quả, góp phần quan trọng vào kết quả chung của công tác

kiểm tra; tuy nhiên cũng có nhiều hạn chế, bất cập, chưa phù hợp đã ảnh

hưởng đến chất lượng thẩm tra, xác minh, mà nổi lên là sức chiến đấu, tinh

Page 128: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

125

thần tự phê bình và phê bình không tốt, giảm sút nghiêm trọng. Vì vậy phải

xem xét, rà soát một cách nghiêm túc, chỗ nào chưa tốt thì phải hoàn thiện, bổ

sung cách thức mới, phù hợp với hoàn cảnh, thực tại trong Đảng hiện nay và

yêu cầu đặt ra đối với thẩm tra, xác minh. Thời gian tới cần thực hiện bảy

phương pháp đặc trưng, cụ thể:

Một là, trực tiếp, tại chỗ, “mắt thấy, tai nghe”

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện,

các xã. Cán bộ huyện phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt

thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ’’ [119, tr.711]. Công tác kiểm tra

khác với công tác giám sát, bao giờ cũng phải tiến hành trực tiếp; khi cấp trên

tiến hành kiểm tra cấp dưới đều phải xuống làm việc trục tiếp với tổ chức

đảng và đảng viên, trực tiếp thông báo quyết định, nghe báo cáo kết quả.

Đây là phong cách, lề lối làm việc của tổ chức đảng và đảng viên, cũng là

phương pháp công tác kiểm tra. Phương pháp này khẳng định khi thẩm tra,

xác minh phải sát thực tế, đến tận nơi; phải trực tiếp thu thập tài liệu,

chứng cứ, không được quan liêu, bàn giấy, nghe báo cáo một chiều. Mắt

phải thấy tài liệu, hiện vật, tai phải nghe phản ảnh, báo cáo, hạn chế việc

che giấu, báo cáo sai sự thật.

Thông tin trong thẩm tra, xác minh khi tiến hành công tác kiểm tra là

những tin tức có ích, làm sâu thêm nhận thức của người nhận tin, được người

nhận tin đánh giá, xử lý và được coi là có ích trong quá trình ra quyết định.

Đối với công tác kiểm tra của Đảng thì "thông tin" chính là những tin tức có

ích về đối tượng kiểm tra cần được thu thập, xử lý để làm rõ bản chất của vụ

việc, của đối tượng, thông qua những thông tin đó, có thể có căn cứ để kết

luận đúng sai, tốt xấu, thậm chí lượng hoá tính chất, mức độ đúng sai mà lựa

chọn và đề xuất giải pháp giải quyết, hình thức xử lý phù hợp.

Để thẩm tra, xác minh, cán bộ kiểm tra có thể thu thập thông tin từ các

nguồn sau: thông tin từ cấp trực tiếp quản lý giao nhiệm vụ; văn bản của

Page 129: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

126

Đảng và Nhà nước quy định điều chỉnh những vấn đề liên quan đến việc đối

tượng kiểm tra thực hiện; dư luận của quần chúng, cơ quan có liên quan hoặc

các cơ quan ngôn luận phản ánh dư luận từ nội bộ, từ bên ngoài hoặc từ

những người tố cáo, khiếu nại, từ chính bản thân đối tượng kiểm tra cung cấp,

giải trình. Đây là những nguồn thông tin khi tiến hành hoạt động thẩm tra, xác

minh người cán bộ kiểm tra phải quan tâm không thể xem nhẹ hoặc bỏ qua

bất cứ một nguồn nào để từ đó biết chọn lựa định hướng đúng khi thu thập và

xử lý thông tin. Cán bộ kiểm tra phải hiểu mọi việc đều có liên quan chặt chẽ

đến quá trình thu thập và xử lý thông tin, kể cả khi người cán bộ kiểm tra hoạt

động đơn lẻ, độc lập cũng như khi theo đoàn kiểm tra. Do vậy, thu thập và xử

lý thông tin là công việc thường xuyên và rất quan trọng trong các hoạt động

nghiệp vụ kiểm tra.

Hai là, kết hợp thẩm tra, xác minh của cấp trên với tự vấn, tự kiểm tra

của đối tượng kiểm tra

Đây là phương pháp có tác động qua lại, cộng tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa

chủ thể và đối tượng kiểm tra, nhanh chóng tìm ra các chứng cứ, đây cũng

xuất phát từ phương pháp công tác kiểm tra là phát huy sự tự giác của tổ chức

đảng và đảng viên khi là đối tượng kiểm tra. Phải tôn trọng kết quả tự kiểm

tra của tổ chức đảng và đảng viên. Đặc biệt lưu ý đến những quan điểm, ý

kiến trái chiều để đối chiếu tìm ra sự thật.

Cách tiếp cận đối tượng cũng cần được hết sức quan tâm. Đối tượng

của hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là

những tổ chức đảng, đảng viên thuộc nhiều lĩnh vực và địa vị xã hội khác

nhau. Do đó, mỗi đối tượng có tâm lý khác nhau. Nhiệm vụ của cán bộ

làm công tác thẩm tra, xác minh là phải tìm hiểu nội tâm của đối tượng và

đề ra được phương pháp tiếp cận thích hợp để hoàn thành tốt nhiệm vụ

được giao. Quá trình thẩm tra, xác minh của cấp trên phải gợi ý, động

viên để đối tượng kiểm tra tự thấy các hành vi của mình, từng bước tự

Page 130: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

127

giác nhận rõ khuyết điểm, trách nhiệm của bản thân, từ đó có cách sửa

chữa, khắc phục.

Ba là, động viên, đối thoại, chất vấn, đối chất trong quá trình thu thập,

phân tích chứng cứ

Đối chất là một hoạt động trong quá trình thẩm tra, xác minh của cơ

quan kiểm tra, được tiến hành bằng cách hỏi hai người cùng một lúc về cùng

một vấn đề trong nội dung thẩm tra, xác minh một vụ việc, nhằm làm rõ hoặc

giải quyết những mâu thuẫn tồn tại trong lời trình bày của họ. Khi không còn

cách thẩm tra, xác minh nào tốt hơn thì mới chọn phương pháp đối chất.

Trong thực tiễn có hai loại hình đối chất:

- Đối chất do cán bộ kiểm tra tổ chức:

Cán bộ kiểm tra cần nắm vững những điều kiện để tiến hành một cuộc

đối chất là: Khi các lời trình bày đã cơ bản thống nhất chỉ còn mâu thuẫn về

một hoặc một số tình tiết có ý nghĩa quyết định đối với thẩm tra, xác minh,

kết luận, xử lý vụ việc thì không nên đưa ra đối chất những vấn đề không liên

quan một cách thiết thực đối với thẩm tra, xác minh, kết luận, xử lý hoặc

những vấn đề chi tiết vụn vặt không có ý nghĩa quan trọng đối với vụ việc.

Khi uỷ ban kiểm tra có khả năng tổ chức và điều kiện để tiến hành cuộc

đối chất chắc chắn sẽ đạt kết quả thì cần xác định rõ những người có thể đưa

ra đối chất. Để cuộc đối chất đạt kết quả, cán bộ kiểm tra cần nghiên cứu kỹ

hồ sơ vụ việc, các thông tin, tài liệu có liên quan, phát hiện những vấn đề còn

mâu thuẫn, xem xét kỹ lại một lần cuối xem những vấn đề có thật sự mâu

thuẫn không; phân tích các mâu thuẫn để xác định mâu thuẫn nào cần giải

quyết bằng đối chất. Cán bộ kiểm tra cần tìm hiểu tâm lý, tình cảm, quan hệ

xã hội, hoàn cảnh gia đình của đối tượng dự kiến đưa ra đối chất; tìm hiểu các

nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn trong lời trình bày của họ. Từ đó, lập kế hoạch

đối chất, xác định mục đích, yêu cầu, phương pháp tiến hành báo trước hoặc

bất ngờ; thứ tự và nội dung các sự việc cần đưa ra đối chất. Dự kiến các câu

Page 131: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

128

hỏi và câu trả lời; chuẩn bị các phương tiện, tài liệu, chứng cứ sẽ sử dụng

trong cuộc đối chất; thời gian và địa điểm tiến hành. Trong quá trình đối chất

cán bộ kiểm tra phải biết khơi dậy trong các đối tượng tham gia đối chất ý

thức, trách nhiệm, tinh thần tự giác, thái độ đúng đắn, trung thực của người

đảng viên và có cách ứng xử linh hoạt, phù hợp với các tình huống xảy ra

trong quá trình tiến hành đối chất.

- Đối chất trong sinh hoạt của tổ chức đảng:

Trong quá trình giải quyết tố cáo, khiếu nại, kiểm tra đảng viên và tổ

chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm, việc thực hiện tự phê bình và

phê bình trong sinh hoạt của tổ chức đảng là cơ hội để giải quyết những ý

kiến còn khác nhau về một sự việc giữa người bị tố cáo, người tố cáo và đảng

viên biết vụ việc, đảng viên có liên quan, đồng thời cũng là thành viên của tổ

chức đảng.

Phương pháp hỏi người làm chứng, đối chất phải tiến hành công khai,

dân chủ theo nguyên tắc của Đảng. Không dùng các thủ thuật, biện pháp

nghiệp vụ bí mật của cơ quan điều tra đối với đảng viên và tổ chức đảng là

đối tượng kiểm tra. Để cuộc đối chất đạt kết quả, cán bộ kiểm tra cần chủ

động phối hợp với người chủ trì làm tốt công tác tư tưởng, nêu cao tính đảng,

thực hiện tốt việc tự phê bình và phê bình với thái độ chân thành trong nội bộ

tổ chức đảng cũng như chuẩn bị tốt chương trình, nội dung, những vấn đề cần

gợi ý, cách tiến hành cuộc đối chất.

Cán bộ trực tiếp tiến hành thẩm tra, xác minh cần hiểu tâm lý đối tượng

kiểm tra và đối tượng thẩm tra, xác minh, đối thoại, khơi gợi, động viên để họ

cung cấp tài liệu, chứng cứ và những vấn đề cần thiết theo yêu cầu. Mặt khác,

cũng phải kiên quyết khi trao đổi, chất vấn, yêu cầu phải trả lời và cung cấp

tài liệu, hồ sơ có liên quan, thậm chí phải tiến hành đối chất giữa các đối

tượng có liên quan khi cần thiết để tìm ra sự thật. Cần thống nhất quan niệm,

hoạt động thẩm tra, xác minh của Đảng không có độc thoại mà phải tiến hành

Page 132: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

129

đối thoại. Khi cần có thể tiến hành đối chứng và đối chất, nhưng phải có

nguyên tắc, để nhằm mục đích phân tích, sàng lọc công khai các nguồn thông

tin từ dư luận, công luận, từ tố cáo, phản ảnh hoặc tài liệu do các cơ quan

cung cấp cho kiểm tra. Đối thoại, đối chất có nguyên tắc sẽ có tác dụng và sức

mạnh như cuộc đấu lý và đấu trí công khai, dân chủ, có tác dụng làm đối

tượng “đuối lý” từ đó dễ đạt tới “tâm phục khẩu phục”.

Việc đối thoại, đối chất, khai thác thông tin từ những người biết sự

việc, người làm chứng là người biết được những tình tiết của vụ việc đang

tiến hành thẩm tra, xác minh được tổ chức đảng có thẩm quyền gặp để hỏi về

những hiểu biết của họ theo trình tự, thủ tục đã được quy định.

Bốn là, công khai, minh bạch các tài liệu, chứng cứ trước tổ chức đảng

và đối tượng kiểm tra để thảo luận, xem xét, có chính kiến nhận xét, đề nghị

Phương pháp này đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải cung cấp mọi vấn đề đã

thẩm tra, xác minh được và yêu cầu tổ chức nơi đối tượng kiểm tra sinh hoạt

động hoặc tổ chức đó được kiểm tra ( chi bộ, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ,

ban cán sự đảng, đảng đoàn...) phải làm rõ và nhận trách nhiệm trước mọi

thông tin, vụ việc, hành vi của đối tượng kiểm tra bằng phương pháp tập thể,

công khai, từ đó phải có chính kiến rõ ràng, dứt khoát, có kết luận đúng, sai

nguyên nhân, trách nhiệm và hình thức xử lý...

Năm là, phải quan niệm đúng về “án tại hồ sơ”, “trọng chứng hơn trọng

cung”, nhưng coi trọng cả “chứng” lẫn “cung”

Hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng rất coi

trọng “án tại hồ sơ”, nghĩa là thông tin, tài liệu, hiện vật… phải có trong hồ

sơ. Mọi hành vi vi phạm của đối tượng kiểm tra phải được thể hiện rõ ràng, cụ

thể trên hồ sơ, nếu chưa thể hiện đầy đủ, chính xác thì chưa kết luận, chưa xử

lý. Tuy nhiên, quyết định của án không phải duy nhất ở hồ sơ mà ở sự thật,

bởi sự thật chỉ là một, còn hồ sơ giả, không đúng sự thật có thể có hàng trăm,

hàng ngàn…

Page 133: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

130

Tiêu điểm cuối cùng của thẩm tra, xác minh là tìm ra chứng cứ. Nếu

không có chứng cứ mà dùng phương pháp suy luận dễ rơi vào tình trạng suy

diễn, áp đặt, quy kết, cực đoan, sẽ khó tránh khỏi không chính xác,oan, sai.

Khi chứng cứ đã phù hợp với các điều kiện, yếu tố khác, còn cung có chỗ

chưa rõ, chưa thuyết phục thì phải coi chứng cứ quan trọng hơn. Chứng cứ

bao giờ cũng tin cậy hơn lời nói chưa được kiểm chứng. Song, không bao giờ

tuyệt đối hoá chứng cứ, vì chứng cứ có khi cũng có độ dung sai nhất định, có

lúc tạo dựng xuyên tạc sự thật; cứ và cung bổ sung cho nhau, nhiều trường

hợp cung chuyển hoá thành cứ, do đó phải coi trọng cả “chứng” lẫn “cung”.

Sáu là, phân tích, đánh giá chứng cứ với tư duy lôgíc biện chứng mang

tính pháp lý và thực tiễn; luôn nghi ngờ các tài liệu, hồ sơ, chứng cứ với tinh

thần cầu thị, khoa học, phát hiện mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn, tìm ra bản

chất và sự thật, tránh cực đoan, một chiều, duy ý chí.

Quá trình thẩm tra, xác minh vừa coi trọng các căn cứ, cơ sở mang tính

khẳng định vừa chú ý đến các căn cứ, cơ sở mang tính phản biện, phủ định.

Phải phân tích các khía cạnh, góc độ và cấp độ của vấn đề thì mới khách

quan, toàn diện, tránh chủ quan, phiến diện. Quá trình thẩm tra, xác minh phải

tìm ra các chứng cứ “buộc tội”, đồng thời không xem nhẹ tìm ra các chứng cứ

“gỡ tội” và cả những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Trong thẩm tra, xác

minh phải coi trọng ý kiến số đông, khi đã biểu quyết phải phục tùng nguyên

tắc theo đa số, biết dựa vào tập thể, nhưng không tuyệt đối hoá số đông và ý

kiến đa số, bởi vì không phải bất cứ mọi trường hợp sự thật, chân lý thuộc về

đa số. Trong tình huống đó phải lưu ý những ý kiến trái chiều, nhất là phải

bảo lưu những ý kiến đó để tiếp tục thẩm tra, xác minh, làm rõ.

Phương pháp suy luận theo tư duy lôgíc biện chứng: Trong thẩm tra,

xác minh của Đảng không được suy diễn để quy kết, áp đặt nhưng quá trình

xem xét rất coi trọng suy luận để nghiên cứu, phân tích, phán đoán tìm đến

bản chất bằng suy luận hợp lôgíc. Trong thẩm tra, xác minh không được lấy ý

Page 134: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

131

kiến một cá nhân, ý kiến một phía, một chiều để xem xét, kết luận mà phải

tranh luận, thảo luận của nhiều người, nhiều phía, nhiều chiều. Việc tiến hành

tranh luận phải trên cơ sở tư duy pháp lý kể cả pháp lý Nhà nước và pháp lý

nguyên tắc của Đảng chứ không phải tranh luận theo cảm tính, chủ quan. Việc

kết luận trong thẩm tra, xác minh đối với tất cả các nội dung, đối tượng đều

phải bằng cơ chế tập thể, quyết định bằng đa số, không được chi phối, sức ép

bởi một cá nhân nào, dù cá nhân có cương vị trọng trách của tổ chức đảng

hoặc cơ quan Nhà nước.

Phương pháp thẩm định bằng tư duy pháp lý cộng với tư duy lãnh đạo

và cộng với lương tâm đạo đức kiểm tra của Đảng. Trong quá trình thẩm

tra, xác minh có thể thu nhận được nhiều thông tin, chứng cứ thông qua

nhiều kênh, nhiều chiều, nhiều nguồn, nhưng để thẩm định lại tất cả thông

tin, chứng cứ đi đến kết luận cuối cùng thì phải sử dụng tư duy pháp lý và

tư duy lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo đồng thời phải cộng với lương tâm đạo

đức kiểm tra Đảng (tư duy pháp lý + tư duy lãnh đạo + đạo đức kiểm tra

Đảng), thì sự thẩm định kết luận mới đạt độ chuẩn xác đáng tin cậy của

kiểm tra đảng.

Bảy là, tổ chức giám sát chặt chẽ quá trình thẩm tra, xác minh để

bảo đảm tính chính xác, khách quan, hạn chế các khuyết điểm trong thẩm

tra, xác minh.

Thực tế vừa qua, chất lượng thẩm tra, xác minh còn nhiều khuyết điểm,

hạn chế có nguyên nhân do năng lực, trình độ hoặc do nể nang, tình cảm

của cán bộ trực tiếp kiểm tra, trong khi lại thiếu sự chỉ đạo, giám sát, thiếu

sự góp ý, vì vậy phải giám sát thường xuyên. Khi đã tiến hành kiểm tra thì

thường trực uỷ ban kiểm tra phải phân công đại diện thường xuyên theo

dõi, nhất là từ bước thẩm tra, xác minh. Mặt khác có thể phối hợp với cán

bộ của các ban đảng để theo dõi, nếu phát hiện có gì chưa tốt thì phản ảnh

với uỷ ban kiểm tra.

Page 135: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

132

Tóm lại, bảy phương pháp trên đây được xác định là phương pháp quan

trọng, thiết yếu để nhằm nhấn mạnh tính đặc thù và tính nguyên tắc của

phương pháp công tác kiểm tra, phương pháp công tác đảng, hoạt động của tổ

chức đảng, đối tượng là cán bộ, đảng viên của Đảng. Đặc trưng nổi bật của

hoạt động kiểm tra Đảng là không phải chỉ có cấp trên kiểm tra cấp dưới, tổ

chức kiểm tra cá nhân, mà là kiểm tra gắn quyện với tự kiểm tra. Tổ chức

đảng và cán bộ, đảng viên khi được kiểm tra, vừa là đối tượng vừa là chủ

thể kiểm tra và tự kiểm tra. Với đặc trưng này không được phép lẫn lộn

giữa các hoạt động thẩm tra, xác minh của Đảng với phương pháp hoạt

động thẩm tra, xác minh của các cơ quan pháp luật Nhà nước. Tiến hành

thẩm tra, xác minh trong Đảng có thể có nhiều biện pháp, có việc gần

giống các biện pháp nghiệp vụ kiểm tra, điều tra của cơ quan pháp luật,

nhưng cần phân biệt sự giống nhau chỉ ở hình thức, động tác, còn về bản

chất, nguyên tắc là phải khác nhau.

Khi tiến hành hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra

Đảng rất cần và có thể học tập, vận dụng, phối hợp các phương pháp nghiệp

vụ thẩm tra, xác minh của các cơ quan Nhà nước nhưng không được áp dụng

dập khuôn, đặc biệt là không được sử dụng các phương pháp đó để thay thế

cho các phương pháp hoạt động của thẩm tra, xác minh trong Đảng. Trong

các phương pháp nêu trên phải luôn nhận thức đúng và chấp hành nghiêm

nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, luôn thực hiện dân chủ tối đa và kỷ

cương nghiêm ngặt trong mọi khâu, mọi bước, mọi động tác trong quá trình

hoạt động thẩm tra, xác minh. Đây là quan điểm, một trong những yêu cầu

cao nhất trong công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh

nói riêng.

4.2.3.2. Về quy trình Từ trước đến nay Uỷ ban kiểm tra Trung ương chỉ mới ban hành quy

trình các cuộc kiểm tra, chưa ban hành quy định về quy trình thẩm tra, xác

Page 136: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

133

minh. Vì vậy, khi các đoàn kiểm tra tiến hành thẩm tra, xác minh đều tự tiến

hành theo cách thức riêng, theo kinh nghiệm của cán bộ, do đó rất cần thiết

phải có quy định chính thức về quy trình thẩm tra, xác minh. Cần nhận thức

quy trình thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là những quy

định về trình tự, thủ tục, cách tiến hành của cán bộ trong hoạt động nghiệp vụ

cụ thể để tìm kiếm chứng cứ xác thực, làm rõ sự thật, là căn cứ để kết luận

kiểm tra.

Quy trình tổng quát gồm có ba bước:

Thứ nhất là bước chuẩn bị (gồm chuẩn bị kế hoạch và phân công cán bộ).

Thứ hai là bước tiến hành thẩm tra, xác minh (Tiếp cận đối tượng kiểm

tra, đối tượng thẩm tra, xác minh, quần chúng nhân dân để thu thập tài liệu,

thông tin, chứng cứ, giám định, phân tích chứng cứ, giải trình của đối tượng

kiểm tra, trao đổi với các tổ chức đảng, tiếp tục thẩm tra, xác minh...). Đây là

bước rất quan trọng, có tính quyết định đến chất lượng hoạt động thẩm tra,

xác minh.

Thứ ba là bước tổng hợp kết quả thẩm tra, xác minh (soát xét lại các

chứng cứ thu thập được đối chiếu với từng nội dung kiểm tra để nhận xét,

đánh giá, tiếp tục thẩm tra, xác minh…).

4.2.3.3. Thực hiện tốt 3 chỗ dựa, 2 phối hợp, 5 khâu trong khi tiến

hành thẩm tra, xác minh Thứ nhất, thực hiện tốt ba chỗ dựa chủ yếu:

Một là, sự tự giác, tự phê bình, nhận khuyết điểm, vi phạm của tổ chức

đảng và đảng viên cán bộ là đối tượng kiểm tra

Hai là, tinh thần đấu tranh, phê bình, góp ý, chính kiến, kết luận của

đảng viên, của tập thể cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, tổ chức đảng nơi đối

tượng kiểm tra sinh hoạt

Ba là, tinh thần, trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân

nơi đối tượng kiểm tra hoạt động, công tác và cư trú. Trong nền dân chủ và cơ

Page 137: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

134

chế thị trường không thể thiếu tiếng nói của nhân dân, đó là vũ khí sắc bén, hỗ

trợ đắc lực cho hoạt động thảm tra, xác minh.

Thứ hai, thực hiện tốt hai phối hợp quan trọng:

Một là, phối hợp tốt với các cơ quan chuyên môn trong hệ thống hành

pháp, tư pháp như: thanh tra, kiểm toán, cơ quan phòng chống tham nhũng, cơ

quan tố tụng, cơ quan thuế... và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã

hội để trao đổi và phân tích thông tin, tài liệu, chứng cứ trong việc uỷ nhiệm

thẩm tra, xác minh một số nội dung cần thiết.

Hai là, phối hợp tốt với các cơ quan thông tin, ngôn luận. Trong tình

hình hiện nay, đây là địa chỉ đáng tin cậy, quan trọng và cần thiết để trao đổi,

cung cấp, tìm kiếm chứng cứ.

Thứ ba, thực hiện tốt năm khâu chủ yếu:

Một là, động viên, khơi gợi tinh thần tự giác, tự phê bình của đối tượng

kiểm tra; hai là, tổ chức, tiến hành sinh hoạt phê bình, góp ý của các tổ chức

đảng có liên quan; ba là, phát động ý thức, trách nhiệm, tinh thần đấu tranh

xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân; bốn là, tiếp cận, tiếp xúc đối tượng

thẩm tra, xác minh để thu thập, tiếp nhận, trao đổi thông tin, tài liệu, chứng

cứ; năm là, tiến hành phân tích chứng cứ tìm ra chứng lý để nhận xét có

khuyết điểm, vi phạm hay không có vi phạm, mức độ, tính chất, hậu quả,

nguyên nhân vi phạm và trách nhiệm của đối tượng kiểm tra.

4.2.3.4. Ban hành một số quy định để làm cơ sở thực hiện tốt việc

thẩm tra, xác minh

Để có thêm cơ sở thực hiện tốt việc thẩm tra, xác minh, cần ban hành

một số quy định như:

- Quy định chế tài xử lý nghiêm các trường hợp là đối tượng kiểm tra,

đối tượng thẩm tra, xác minh cố tình trì hoãn hoặc kéo dài việc cung cấp tài

liệu, báo cáo, giải trình những vấn đề có liên quan đến nội dung kiểm tra.

Page 138: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

135

- Quy định bảo vệ nhân chứng, bảo vệ người cung cấp thông tin, chứng

cứ, người tố giác hành vi vi phạm.

- Quy định phối hợp trong việc uỷ nhiệm cho cơ quan chức năng thẩm

tra, xác minh, giám định một số nội dung như tính hợp pháp, hợp lệ của tài

liệu, hoá đơn, chứng từ, chữ viết, tiếng nói, hình ảnh... mà lực lượng kiểm tra

không có điều kiện xác định.

- Quy định thí điểm sử dụng một số biện pháp nghiệp vụ của cơ quan

bảo vệ pháp luật.

- Quy định tổ chức phản biện kết quả thẩm tra, xác minh…

Để hạn chế đối tượng kiểm tra cùng các đối tượng khác tìm cách hợp

thức hoá sai phạm, hoặc tiêu huỷ chứng cứ, cần có biện pháp ngăn chặn kịp

thời, không chỉ cần thiết cho thẩm tra, xác minh mà còn bảo đảm tính nghiêm

minh của kỷ luật Đảng, do vậy cần tiến hành thí điểm sử dụng một số biện

pháp nghiệp vụ của cơ quan bảo vệ pháp luật như: Niêm phong hồ sơ, tài liệu,

sổ sách kế toán, tài khoản vào thời điểm cần thiết và giao cho một số cá nhân

hoặc tổ chức có thẩm quyền và trách nhiệm quản lý; Cấm chuyển dịch, thay

đổi hiện trạng tài sản có liên quan đến kiểm tra; Khi cần thiết phong tỏa tài

sản, tiền gửi của đối tượng kiểm tra (nếu có).

4.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra trong sạch, có năng lực,

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra

của Đảng giai đoạn hiện nay

Đảng ta đã xác định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của

cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu

then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Cán bộ kiểm tra là một bộ phận

trong đội ngũ cán bộ của Đảng, là cán bộ làm công tác xây dựng Đảng,

chuyên trách về công tác kiểm tra. Đội ngũ cán bộ kiểm tra là lực lượng chủ

công, là nhân tố quyết định việc thực hiện nhiệm vụ của uỷ ban kiểm tra các

cấp. Vì vậy, cần quan tâm và luôn coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm

Page 139: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

136

tra có phẩm chất chính trị tốt, công tâm, trong sạch, đủ năng lực, kể cả năng

lực kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng. Xây dựng đội

ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng là việc quan trọng và cấp bách cả trước mắt

và lâu dài.

Cán bộ kiểm tra (nhất là cán bộ trực tiếp tham gia thẩm tra, xác minh

các vụ việc) là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ của Đảng, là lực lượng trực

tiếp và chủ công tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, góp phần thực hiện tốt

nhiệm vụ xây dựng Đảng và phòng, chống tham nhũng. Nhận thức đúng vị trí,

vai trò của cán bộ kiểm tra nói chung; cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ thẩm tra,

xác minh nói riêng, từ đó nêu cao trách nhiệm, thường xuyên coi trọng và tiến

hành công tác cán bộ làm công tác kiểm tra một cách đúng đắn. Để nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp, nhất là cán bộ trực tiếp thực hiện

thẩm tra, xác minh các vụ việc cần thực hiện một số nội dung sau đây:

- Làm tốt việc quy hoạch cán bộ kiểm tra là nội dung trọng yếu để

nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra. Phải căn cứ vào nhiệm vụ, yêu

cầu xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra; căn cứ vào quy mô, cơ

cấu tổ chức, biên chế cán bộ; căn cứ vào tiêu chuẩn và thực trạng đội ngũ

cán bộ kiểm tra để quy hoạch đội ngũ cán bộ. Về nội dung cần quy hoạch

tổng thể đội ngũ cán bộ từ cấp huyện và tương đương trở lên; quy hoạch cán

bộ ủy ban kiểm tra, tạo nguồn cán bộ đầu ngành, ở mỗi cấp có từ 2-3 độ tuổi

kế tiếp nhau.

- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để đội ngũ cán bộ có trình độ

chuyên môn và kinh nghiệm về những lĩnh vực công tác cần thiết khi được

giao nhiệm vụ đột xuất hoặc cần chuyên môn sâu để thẩm tra, xác minh. Đào

tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức về các chủ trương, nghị quyết, nguyên tắc,

quy chế, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Coi trọng

nâng cao trình độ lý luận chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, kinh tế, nhạy

bén, tinh thông nghiệp vụ thẩm tra, xác minh, có đủ khả năng nghiên cứu,

Page 140: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

137

phân tích vấn đề, thông báo chính xác các dấu hiệu và kết luận các vụ việc,

nhất là trong các lĩnh vực có nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc hiện nay như: đất

đai, xây dựng cơ bản, khai thác tài nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân hàng,

thương mại, xuất nhập khẩu, thực hiện các chương trình dự án, trong hoạt

động tư pháp và nhất là trong công tác tổ chức, cán bộ… Hàng năm, cấp ủy,

ủy ban kiểm tra các cấp cần xây dựng kế hoạch học tập cho từng đối tượng

cán bộ thuộc quyền về chuyên môn nhất là các biện pháp nghiệp vụ về thẩm

tra, xác minh.

- Giải pháp cơ bản và lâu dài là tiến hành nghiên cứu xây dựng tiêu

chuẩn hoá cán bộ kiểm tra Đảng nói chung, cán bộ trực tiếp thẩm tra, xác

minh nói riêng phù hợp với giai đoạn mới. Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ,

xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ và phẩm chất cho

đội ngũ cán bộ hiện có; đồng thời tiến hành sàng lọc, chuyển đổi vị trí công

tác đối với những cán bộ không đủ tiêu chuẩn và không còn triển vọng phấn

đấu vươn lên đáp ứng yêu cầu mới. Cũng trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ

kiểm tra của Đảng mà có biện pháp mạnh dạn phát hiện, tìm nguồn đào tạo

cho lâu dài; đồng thời, phát hiện, tìm nguồn bồi dưỡng bổ sung ngay cho

trước mắt.

+ Về tiêu chuẩn, phẩm chất của cán bộ kiểm tra đảng nói chung, cán bộ

trực tiếp thẩm tra, xác minh nói riêng đều nằm trong tiêu chuẩn của đội ngũ

cán bộ xây dựng Đảng, tiêu chuẩn cấp uỷ viên của Đảng, song trong tình hình

mới cần đặc biệt nhấn mạnh những đức tính, phẩm chất mang tính đặc trưng

đối với nhiệm vụ kiểm tra của Đảng. Cán bộ kiểm tra của Đảng thời kỳ đổi

mới nhất thiết phải có cả "đức" lẫn "tài", cả 3 mặt: phẩm chất chính trị, đạo

đức lối sống và năng lực thực tiễn. "Đức" và "tài" cũng như phẩm chất chính

trị và năng lực, trình độ phải gắn quyện vào nhau và được thể hiện cụ thể ở

hiệu quả nhiệm vụ công tác được giao, ở sự tín nhiệm của tập thể, của tổ chức

và của quần chúng nhân dân. Giữa "đức" và "tài" thì lấy "đức" làm gốc, giữa

Page 141: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

138

phẩm chất và năng lực thì coi phẩm chất là hàng đầu. Phẩm chất hàng đầu của

cán bộ kiểm tra của Đảng là bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt

đối với Đảng, với đường lối đổi mới, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh. Lòng trung thành phải thể hiện ở đức tính trung thực; trung

thực với tổ chức đảng, trung thực trong nhiệm vụ kiểm tra Đảng, trung thực

trong hoạt động thẩm tra, xác minh, trung thực với đồng chí, với tập thể, với

nhân dân mà trước hết là trung thực với chính bản thân mình. Đức tính trung

thực gắn liền với đức tính công tâm, khách quan, vô tư trong công tác, không

thiên vị cá nhân, cục bộ, không định kiến, cơ hội, vụ lợi. Lòng trung thành,

đức tính trung thực của cán bộ kiểm tra của Đảng còn thể hiện sự tâm huyết,

tận tâm, tận lực với nhiệm vụ kiểm tra của Đảng, với công cuộc xây dựng,

chỉnh đốn Đảng. Còn thể hiện ở bản lĩnh kiểm tra vững vàng dám đương đầu

với mọi sức ép, giữ vững chính kiến, đấu tranh đến cùng để chống các hành vi

tiêu cực, vi phạm, thoái hoá biến chất và bảo vệ chân lý, bảo vệ sự thật, bảo

vệ nhân tố tích cực.

Tiêu chuẩn phẩm chất đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng còn đòi hỏi

thể hiện ở phong cách công tác sâu sát, khiêm tốn. Phải có tính đảng cao, tình

đồng chí sâu sắc, và có động cơ xây dựng, "trị bệnh cứu người". Biết căm

phẫn những hành vi sai phạm cố ý, nhưng biết cảm thông, chia sẻ với những

sai phạm lỡ lầm, khách quan, bất khả kháng. Biết thấu đau những nỗi đau oan

trái về sinh mệnh chính trị của đảng viên, cán bộ. Không dung thứ các trường

hợp ngoan cố, nhưng độ lượng với các trường hợp ăn năn, hối lỗi, tự giác, tự

phê bình và kiên quyết sửa chữa, tiến bộ. Phong cách công tác đúng mực, thái

độ khiêm tốn, không "đao to, búa lớn", truy bức ép cung, mớm cung, nhưng

phân tích sắc sảo, thâu lý đạt tình, tâm phục khẩu phục. Không dùng thủ đoạn

cài bẫy, hù dọa đối với đồng chí nhưng cũng không hữu khuynh, cả tin, vị nể.

Kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với những hành vi tha hoá, biến

chất. Không bị sức ép từ nhiều phía, cả sức ép hữu hình lẫn vô hình chi phối.

Page 142: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

139

Cán bộ kiểm tra của Đảng phải luôn giữ vững vị thế, uy tín và bản lĩnh kiểm

tra. Luôn mẫu mực về đạo đức, lối sống. Luôn luôn khiêm tốn và nghiêm túc,

tự giác tự kiểm tra bản thân, hết sức tránh thái độ “kiêu ngạo kiểm tra”.

+ Về tiêu chuẩn năng lực cán bộ kiểm tra Đảng, đòi hỏi thể hiện ở

trình độ tư duy pháp lý và tư duy lãnh đạo trong quá trình thực hiện nhiệm

vụ thẩm tra, xác minh. Quá trình thực hiện thẩm tra, xác minh là quá trình

sử dụng kiến thức pháp lý bao gồm pháp lý Nhà nước và pháp lý về nguyên

tắc, quy định của Đảng để tư duy, nghiên cứu, phân tích, thẩm định, kết

luận. Tuy nhiên, nếu chỉ có trình độ tư duy pháp lý mà thiếu hoặc yếu trình

độ tư duy lãnh đạo, tức là thiếu kiến thức, kinh nghiệm về các mặt công tác

xây dựng Đảng: tư tưởng, tổ chức cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ, dân

vận...; thiếu hiểu biết về phương thức hoạt động lãnh đạo của các tổ chức

đảng, các cấp uỷ đảng trên các lĩnh vực: kinh tế xã hội, chính trị, quốc

phòng, an ninh... thì chất lượng và hiệu quả hoạt động của cán bộ thẩm tra,

xác minh cũng sẽ bị hạn chế. Ngoài tư duy pháp lý, tư duy lãnh đạo, cán bộ

kiểm tra đảng trong tình hình hiện nay cần đặc biệt phải có lương tâm, đạo

đức kiểm tra của Đảng. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện cho cán bộ kiểm tra

phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện, nâng cao trình độ, nhạy bén chính trị và giác

quan nhạy cảm, tinh tế với thực tiễn cuộc sống đời thường tạo nên phẩm

chất tốt và năng lực giỏi của người cán bộ trực tiếp tiến hành hoạt động

thẩm tra, xác minh.

Bên cạnh đó, cần đặc biệt quan tâm đến chế độ, chính sách đối với cán

bộ kiểm tra để tạo điều kiện cho họ và gia đình ổn định cuộc sống, yên tâm

công tác; đồng thời thu hút những người có đủ đức, đủ tài, có tâm huyết, bản

lĩnh để làm công tác kiểm tra. Tổ chức thực hiện tốt "Quy định về tiêu chuẩn

chức danh cán bộ kiểm tra của Đảng"; có chế độ tiền lương, phụ cấp ưu đãi

nghề mang tính đặc thù đối với cán bộ kiểm tra. Sớm có chính sách, chế độ

hợp lý đối với cán bộ kiểm tra đảng ở cơ sở; nghiên cứu việc bố trí cán bộ

Page 143: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

140

kiểm tra Đảng chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; các thành viên ủy ban

kiểm tra đảng ủy cơ sở có chế độ phụ cấp trách nhiệm hợp lý.

+ Đổi mới và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ

kiểm tra

Cần đổi mới việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ kiểm tra bằng

nhiều hình thức thích hợp như: gửi đi đào tạo dài hạn trong nước và nước

ngoài; bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày; tổ chức rút kinh nghiệm theo từng

chuyên đề. Cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra có chương trình, kế hoạch, nội dung,

thời gian đào tạo, bồi dưỡng cụ thể, phù hợp với từng đối tượng. Định kỳ tổ

chức cập nhật các kiến thức về kinh tế, pháp luật, các kiến thức chung...

Hiện nay, kỹ năng nghiệp vụ kiểm tra còn là khâu yếu, khó khăn của uỷ

ban kiểm tra. Vì vậy, phải chỉ đạo nghiên cứu hệ thống kỹ năng nghiệp vụ,

biên soạn thành sách dưới dạng "cẩm nang bỏ túi" phát cho uỷ ban kiểm tra

các cấp nghiên cứu, vận dụng thực hiện trong thực tiễn để nâng cao chất

lượng công tác.

4.2.5. Tăng cường phối hợp, phát huy vai trò của các cơ quan, tổ

chức trong hệ thống chính trị để tiến hành thẩm tra, xác minh

Trong điều kiện một đảng cầm quyền, tổ chức đảng và đảng viên được

phân công lãnh đạo, hoạt động ở mọi lĩnh vực, với chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn khác nhau, ngành nghề khác nhau, thậm chí trong cùng một ngành

cũng có nhiều chuyên môn khác nhau. Do đó, khi tiến hành kiểm tra tổ chức

đảng, đảng viên, nhất là những vấn đề liên quan đến nhiều nội dung, có

chuyên môn, nghiệp vụ khác nhau, ở các lĩnh vực công tác khác nhau thì

thường gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng, từ việc thẩm tra, xác minh, đến kết

luận, xử lý. Trước một sự việc lại có sự đánh giá khác nhau, trong nhiều

trường hợp phát hiện được dấu hiệu vi phạm nhưng không đi đến kết luận, xử

lý thoả đáng để nhắc nhở, ngăn chặn. Để khắc phục tình trạng trên, nhất là

trong tình hình mới, khi quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội đang có sự biến đổi

Page 144: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

141

mạnh mẽ, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa uỷ ban kiểm tra các cấp với các

ban đảng và các cơ quan chức năng của Nhà nước trong quá trình kiểm tra,

xem xét, đánh giá tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.

Phối hợp trong thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra

của Đảng là sự gắn kết các mặt công tác với nhau để bổ sung, hỗ trợ cho nhau

giữa các tổ chức đảng là chủ thể thẩm tra, xác minh với các tổ chức thanh tra

nhà nước, thanh tra nhân dân, các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội

nghề nghiệp, các tổ chức đảng, ban, ngành có liên quan để vừa thực hiện tốt

yêu cầu thẩm tra, xác minh xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, vừa

đảm bảo nguyên tắc hoạt động của mỗi tổ chức. Nói cách khác, việc phối hợp

trong thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng với hoạt

động thanh tra của nhà nước, thanh tra nhân dân, điều tra của các cơ quan tố

tụng, công tác kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề

nghiệp thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức tùy theo mục

đích, yêu cầu, điều kiện của từng vụ việc, từng vấn đề cụ thể cần phải làm rõ

do chủ thể kiểm tra quyết định.

Đối tượng phối hợp trong hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác

kiểm tra của Đảng bao gồm: các cơ quan, tổ chức nhà nước (thanh tra nhà

nước, kiểm toán, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân, cơ quan điều tra...);

các đoàn thể chính trị - xã hội (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông

dân, Tổng Liên đoàn Lao động); các tổ chức xã hội nghề nghiệp (Hội Nhà

báo, Hội Luật gia, Liên đoàn Luật sư,…); thanh tra nhân dân.

Việc phối hợp có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động thẩm tra,

xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, vì đó là một trong những khâu

của phương thức, phương pháp, quy trình thực hiện thẩm tra, xác minh, nhằm

huy động mọi nguồn lực, tạo sức mạnh tổng hợp bảo đảm thực hiện thẩm tra,

xác minh một cách thận trọng, chặt chẽ.

Page 145: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

142

Quá trình thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của

Đảng, nếu chỉ mình chủ thể thẩm tra, xác minh tiến hành mà không có sự phối

hợp với hoạt động thanh tra của Nhà nước, thanh tra nhân dân, công tác kiểm

tra, giám sát của các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp,

nghiệp vụ của các cơ quan tố tụng pháp luật, với các cơ quan, tổ chức có liên

quan thì sẽ gặp những khó khăn, vướng mắc, trở ngại, ảnh hưởng đến chất

lượng, hiệu quả thẩm tra, xác minh. Do đó, thực hiện phối hợp trong hoạt

động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng sẽ giúp cho kết quả

thẩm tra, xác minh khách quan, trung thực, chính xác dù xét dưới góc độ nào,

qua đó, kết luận vụ việc kiểm tra tập trung, thống nhất, đồng bộ, khắc phục sự

sơ hở, thiếu sót, chủ quan, phiến diện, thiếu dân chủ có thể có.

- Việc phối hợp trong hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác

kiểm tra của Đảng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả thực hiện

hoạt động này trong điều kiện nếu chỉ mình chủ thể thẩm tra, xác minh thực

hiện thì vừa không đủ sức, không đủ lực lượng, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh

nghiệm, không bảo đảm chất lượng, hiệu quả thẩm tra, xác minh...

Thực hiện phối hợp dựa trên việc trao đổi, cung cấp thông tin, hồ sơ, tài

liệu các vụ việc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, giải quyết khiếu nại

kỷ luật đảng; về lĩnh vực kinh tế - xã hội, nội chính, tài sản của Đảng có liên

quan đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; các đơn thư tố cáo, khiếu

nại kỷ luật đảng thuộc thẩm quyền của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm

tra các cấp; thực hiện các biện pháp tác nghiệp đặc thù của mỗi cơ quan; thẩm

định, kết luận và có ý kiến phúc đáp chủ thể thẩm tra, xác minh về các vấn đề,

nội dung được đề nghị phối hợp thẩm tra, xác minh…

Trách nhiệm, quyền hạn của chủ thể kiểm tra và lực lương tham gia

thẩm tra, xác minh:

- Chủ thể kiểm tra (cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra) phải chủ

động xây dựng kế hoạch, có văn bản đề nghị với các tổ chức có liên quan phối

Page 146: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

143

hợp cung cấp thông tin, tài liệu hoặc nhận xét, nêu các ý kiến về các nội dung

cần thẩm tra, xác minh; đề nghị cử cán bộ tham gia lực lượng thẩm tra, xác

minh do chủ thể kiểm tra chủ trì. Tuỳ đối tượng và nội dung kiểm tra, chủ thể

kiểm tra trao đổi kết quả sau khi kiểm tra cho các tổ chức có liên quan.

- Lực lượng tham gia phối hợp: Khi được chủ thể kiểm tra đề nghị cung

cấp, trao đổi thông tin, tài liệu, tình hình hoặc cử cán bộ tham gia thẩm tra,

xác minh, phải khẩn trương đáp ứng yêu cầu, tạo điều kiện để cán bộ tham

gia. Cán bộ của các cơ quan, tổ chức khi tham gia thẩm tra, xác minh phải

chấp hành đúng các quy định của Đảng, chịu sự điều hành của chủ thể kiểm

tra; nếu có ý kiến khác trong quá trình thẩm tra, xác minh, chỉ có quyền báo

cáo với chủ thể kiểm tra xem xét, quyết định.

Trong quá trình thực hiện phối hợp cần đảm bảo những vấn đề sau:

- Phải căn cứ vào các quy định của Đảng, quy định pháp luật của Nhà

nước và quy định của các đoàn thể chính trị - xã hội, nghề nghiệp.

- Ủy ban kiểm tra các cấp chủ động tham mưu cấp ủy cho ý kiến chỉ

đạo đối với những vấn đề hệ trọng, vượt quá thẩm quyền nhưng cần sự phối

hợp trong quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh những vụ việc vụ thể.

- Quá trình phối hợp phải trên cơ sở hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều

kiện thuận lợi cho nhau vừa thực hiện tốt nhiệm vụ thẩm tra, xác minh, vừa

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan trong quá trình

phối hợp thực hiện nhiệm vụ. Khi có yêu cầu phối hợp thực hiện (hoặc tham

gia ý kiến), cả cơ quan đề nghị và cơ quan được đề nghị có văn bản yêu cầu

và trả lời chính thức.

- Việc phối hợp phải bằng quy chế, quy định cụ thể về chủ thể, đối

tượng, phạm vi, nguyên tắc, nội dung, trách nhiệm, phương thức và tổ chức

thực hiện việc phối hợp.

- Nâng cao trách nhiệm và chất lượng trao đổi, cung cấp thông tin (nhất

là về tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm) giữa ủy ban kiểm tra

Page 147: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

144

với các tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể

chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí trong hoạt động thẩm tra, xác minh, tuy

nhiên vẫn phải đảm bảo nghiêm túc các nguyên tắc đã đề ra.

- Làm tốt việc sơ kết, tổng kết việc thực hiện các quy chế phối hợp giữa

Ủy ban Kiểm tra Trung ương với các ban đảng, các tổ chức đảng, các cơ quan

ở Trung ương đã được ký kết để hoàn thiện, nâng cao tính khả thi. Chỉ đạo

các cấp ủy cấp dưới ban hành các quy chế, quy định theo thẩm quyền ở cấp

mình, là cơ sở để thực hiện tốt công tác kiểm tra nói chung, trong đó có hoạt

động thẩm tra, xác minh nói riêng.

4.2.6. Tăng cường nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm thực

tiễn về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng

Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng thời gian qua đã được

quan tâm nghiên cứu, nhiều đề tài đã tiếp cận một cách công phu và đang

được áp dụng. Tuy nhiên, vấn đề hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác

kiểm tra lại chưa được thực sự coi trọng trong công tác nghiên cứu, tổng kết,

trong khi đó lại là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng, hiệu quả của

một cuộc kiểm tra.

Thẩm tra, xác minh là một trong những phương pháp cơ bản của công

tác kiểm tra, là kỹ năng nghiệp vụ yêu cầu tính chính xác cao, nội dung, sự

việc lại có yếu tố lịch sử và hiện tại, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đòi

hỏi tính khoa học trong thực hiện, vì vậy cần được tổ chức tiến hành nghiên

cứu một cách thật cơ bản và có hệ thống, xây dựng những tài liệu lý luận

nghiệp vụ chuyên sâu giúp cho cán bộ kiểm tra nghiên cứu, học tập, tham

khảo, vận dụng vào thực tiễn. Hướng nghiên cứu cần tập trung vào đổi mới,

tìm ra cách tiến hành thẩm tra, xác minh thực sự khoa học, sáng tạo, thích hợp

với nội dung, đối tượng kiểm tra trong tình hình hiện nay.

Việc tổng kết, nghiên cứu cần luận giải rõ các vấn đề trong hoạt động

thẩm tra, xác minh, như: Khâu tiếp cận các đối tượng kiểm tra và việc khai

Page 148: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

145

thác, nghiên cứu, phân tích, xử lý các nguồn thông tin, hồ sơ, tài liệu để tìm ra

chứng cứ, chứng lý là một khâu rất quan trọng của hoạt động thẩm tra, xác

minh đòi hỏi trình độ trí tuệ, khả năng nhận thức và lý luận nghiệp vụ kiểm

tra. Cần nhận thức, làm rõ giữa hiện tượng với bản chất, hình thức và nội

dung, giữa khách quan và chủ quan, chính yếu và thứ yếu, hệ thống và nhất

thời, cái chung và cái riêng, số đông và số ít... Trong thực tiễn, việc phân tích

tài liệu, hồ sơ phải qua nhiều bước, bước đầu mới chỉ là dự cảm, phán đoán

theo các hướng đặt ra các giả thiết, giả định để suy luận, phân tích, sàng lọc.

Quá trình xử lý thông tin phụ thuộc rất nhiều vào trình độ tư duy, phương

pháp nghiệp vụ và giác quan nhạy cảm, tinh tế của cán bộ kiểm tra đảng;

đồng thời, khắc phục cách tiến hành thẩm tra, xác minh theo kinh nghiệm chủ

quan, thậm chí duy ý chí. Lý luận về thẩm tra, xác minh, nhất là: mối quan hệ

giữa thẩm tra và xác minh; khi nào thẩm tra, khi nào phải xác minh; bản chất

của thẩm tra, xác minh là gì; sự giống và khác nhau về các phương pháp khác

trong công tác kiểm tra và phương phương pháp thẩm tra, xác minh;… Thực

tế vừa qua, sở dĩ có tình trạng nhận thức chưa đầy đủ, thực hiện chưa đúng,

chất lượng thẩm tra, xác minh chưa tốt vì chúng ta chưa làm rõ, chưa có quy

định rõ ràng trên cơ sở tổng kết thực tiễn về hoạt động thẩm tra, xác minh.

Cần đẩy mạnh việc nghiên cứu các công trình khoa học theo hướng

trên, nhất là các dạng đề tài, đề án, các báo cáo về kỹ năng nghiệp vụ thẩm

tra, xác minh, đi sâu vào nghiên cứu, tổng kết cả lý luận và thực tiễn, đúc rút

kinh nghiệm để xây dựng thành các cuốn "cẩm nang" có tính chất chỉ đạo,

hướng dẫn hoạt động tác nghiệp thẩm tra, xác minh, trang bị cho cán bộ trong

toàn ngành Kiểm tra, nhất là những cán bộ trực tiếp nắm tình hình, nắm địa

bàn, trực tiếp tiến hành thẩm tra, xác minh.

Để việc nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra

nói chung, về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng

nói riêng có kết quả tốt, thiết thực, hiệu quả, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp

Page 149: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

146

uỷ cần chỉ đạo Hội đồng Lý luận Trung ương và các cơ quan khoa học có liên

quan quan tâm và có chương trình, kế hoạch, nội dung nghiên cứu khoa học,

tổng kết thực tiễn những vấn đề đặt ra của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật

đảng trong điều kiện mới. Cần nghiên cứu lý luận về công tác kiểm tra trong

điều kiện một Đảng cầm quyền, vấn đề giám sát quyền lực, cơ chế tổ chức, bộ

máy cơ quan kiểm tra chuyên trách, mối quan hệ giữa cơ quan kiểm tra đảng

với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị…

Trong thời gian tới, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và uỷ ban kiểm tra

các cấp cần chú trọng một số việc sau đây:

- Chỉ đạo Hội đồng Khoa học cơ quan tổ chức nghiên cứu sâu về thẩm

tra, xác minh dưới dạng các đề tài khoa học, đề án, các báo cáo chuyên đề về

thẩm tra, xác minh, về kỹ năng nghiệp vụ thẩm tra, xác minh. Trên cơ sở

nghiên cứu lý luận, tăng cường tổng kết kinh nghiệm phong phú, bổ ích từ

thực tiễn, xây dựng quy định, quy trình về thẩm tra, xác minh.

- Chỉ đạo và quy định hóa về yêu cầu trao đổi, rút kinh nghiệm trong

nội bộ đoàn (tổ) kiểm tra về tình hình, kết quả, nguyên nhân, bài học việc

thực hiện thẩm tra, xác minh qua từng vụ việc (kiểm tra chấp hành, kiểm tra

khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo, kiểm tra tài chính đảng, giải quyết

khiếu nại kỷ luật đảng,...) để phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót, khuyết

điểm, hạn chế.

- Tiến hành sơ kết trước hết trong từng đơn vị của cơ quan (vụ, phòng)

về việc thực hiện công tác thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra nói

chung, theo từng nhiệm vụ kiểm tra nói riêng để hoàn thiện lý luận, nguyên

tắc, phương pháp, quy trình thẩm tra, xác minh phù hợp với tình hình thực tế.

Khắc phục tình trạng làm việc theo lối mòn, thiếu năng động, sáng tạo khi

tình hình thực tế đã thay đổi.

- Yêu cầu và hướng dẫn cán bộ kiểm tra tự học hỏi kinh nghiệm kiểm

tra qua các bài báo về công tác kiểm tra, thanh tra; trao đổi kinh nghiệm với

Page 150: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

147

đồng nghiệp về phương pháp, cách thức giải quyết các vấn đề, các tình huống,

nhất là các cuộc kiểm tra có nội dung phức tạp, khó khăn. Khuyến khích cán

bộ kiểm tra các cấp tự nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo đề xuất những phương

pháp, cách thức giải quyết vấn đề, xử lý các tình huống để đạt kết quả cao

nhất trong thẩm tra, xác minh.

- Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh

để xác định các biện pháp thực hiện có hiệu quả, đồng thời qua đó rèn luyện

kỹ năng nghiệp vụ thẩm tra, xác minh dưới nhiều hình thức như hội thảo, tổng

kết chuyên đề...

- Tăng cường trao đổi, nghiên cứu kinh nghiệm công tác kiểm tra, kỷ

luật trong và ngoài nước (có thể nghiên cứu, tham khảo cả kinh nghiệm công

tác kiểm tra, kỷ luật của các đảng cộng sản, đảng dân chủ, đảng xã hội dân

chủ, đảng cầm quyền ở một số nước trên thế giới và trong khu vực) để học tập

kinh nghiệm, vận dụng phù hợp với thực tiễn, đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh

của Đảng ta, của uỷ ban kiểm tra các cấp.

- Bên cạnh đó, cơ quan Nhà nước cần có kế hoạch bố trí ngân sách,

thông qua Văn phòng Trung ương Đảng dự trù, cấp kinh phí để tổ chức đảng

và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương tổ chức thực hiện.

Tiểu kết chương 4

Thẩm tra, xác minh là một khâu quan trọng trong quá trình tiến hành

kiểm tra, là điều kiện có tính quyết định đến kết quả, hiệu quả của công tác

kiểm tra. Hoạt động thẩm tra, xác minh phải quán triệt mục tiêu của công tác

kiểm tra đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung

ương (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng chỉ ra là:

Kịp thời đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để

phát huy, phát hiện, làm rõ thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc

phục và xử lý nghiêm minh khi có vi phạm, góp phần xây dựng

Page 151: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

148

Đảng trong sạch, vững mạnh; phục vụ việc tổng kết thực tiễn, nhân

rộng những nhân tố mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường

lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;

chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, cục bộ, bản vị, chống quan liêu,

tham nhũng, tiêu cực [88, tr.112].

Để thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh, đáp ứng nhiệm vụ công

tác kiểm tra, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: Một là, nâng cao hơn nữa

nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp, của người đứng

đầu (trước hết là ủy ban kiểm tra) và cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của

thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng (đây là tiền đề, điều kiện

để lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện có kết quả quá trình thẩm tra, xác minh). Hai

là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra, sự chỉ

đạo, hướng dẫn, giám sát của thường trực cấp ủy và thường trực uỷ ban kiểm

tra đối với hoạt động thẩm tra, xác minh; qua đó, tạo thuận lợi, tháo gỡ khó

khăn, vướng mắc trong quá trình thẩm tra, xác minh. Ba là, tiếp tục bổ sung,

hoàn thiện và đổi mới phương pháp, quy trình, các quy định, hướng dẫn, tạo

hành lang pháp lý tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của

Đảng. Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra trong sạch, có năng lực, đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng

giai đoạn hiện nay. Muốn công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra,

xác minh nói riêng có kết quả, chất lượng tốt phải có đội ngũ cán bộ có phẩm

chất, năng lực. Năm là, tăng cường phối hợp, phát huy vai trò, sức mạnh tổng

hợp của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị để thực hiện tốt thẩm

tra, xác minh. Sáu là, tăng cường nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm

thực tiễn về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng,

nhằm làm sáng tỏ những vấn đề còn vướng mắc.

Page 152: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

149

KẾT LUẬN

1. Công tác kiểm tra của uỷ ban kiểm tra là công tác đảng, có đặc thù

riêng là tiến hành kiểm tra, kết luận, xử lý hoặc giúp cấp uỷ xử lý kỷ luật

những trường hợp có vi phạm đến mức phải xử lý. Đặc thù này không những

khác với các ban của cấp uỷ mà còn khác với các cơ quan bảo vệ pháp luật

của Nhà nước (điều tra, truy tố, xét xử đều do từng cơ quan độc lập tiến

hành). Vì vậy, bên cạnh việc coi trọng và làm tốt các phương pháp cơ bản

khác của công tác đảng, cần đặc biệt coi trọng và làm tốt hoạt động thẩm tra,

xác minh để phục vụ cho việc kiểm tra, kết luận, xử lý được công minh, chính

xác, kịp thời.

Thẩm tra, xác minh là khâu đặc biệt quan trọng và mang tính quyết

định trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kiểm tra của Đảng. Thẩm tra, xác minh

trong công tác kiểm tra của Đảng là những hoạt động mang tính xem xét, tra

cứu, thẩm định để tìm ra sự thật, chỉ đúng bản chất các thông tin, vụ việc cũng

như hành vi của đối tượng kiểm tra, bằng chứng cứ và chứng lý thẩm tra, xác

minh. Trên cơ sở chứng cứ và chứng lý thẩm tra, xác minh, các tổ chức đảng

có thẩm quyền quyết định kết luận xử lý đối với các nội dung và đối tượng

kiểm tra. Phương châm "chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả" của công

tác kiểm tra đảng và “công minh, chính xác, kịp thời” trong thi hành kỷ luật

đảng phụ thuộc phần lớn vào độ chính xác và hiệu quả của hoạt động thẩm

tra, xác minh.

2. Việc thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng

trong thời gian qua đã có nhiều tiến bộ, ưu điểm: Các cấp ủy, tổ chức đảng và

đảng viên đã từng bước nhận thức đúng và rõ hơn về vị trí, vai trò, ý nghĩa

của hoạt động thẩm tra, xác minh khi tiến hành các cuộc kiểm tra. Trình độ

nghiệp vụ của đa số cán bộ kiểm tra ngày càng được nâng cao, vốn sống thực

tiễn phong phú, phong cách làm việc khoa học, khách quan, công tâm, có

Page 153: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

150

chính kiến trong công việc. Khi tiến hành thẩm tra, xác minh, cán bộ kiểm tra

các cấp đã luôn bám sát, tuân thủ các nguyên tắc thẩm tra, xác minh; cơ bản

đã lựa chọn, xác định và thực hiện đúng nội dung, đối tượng thẩm tra, xác

minh; việc thực hiện phương pháp, cách thức, thủ tục thẩm tra, xác minh được

đảm bảo thận trọng, chính xác, tỷ mỉ. Qua thẩm tra, xác minh, đã tìm được

nhiều chứng cứ xác đáng, chứng lý sắc bén, góp phần quyết định để uỷ ban

kiểm tra các cấp có căn cứ, cơ sở xem xét, đánh giá, kết luận cuộc kiểm tra.

Tuy nhiên, thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng cũng

còn không ít hạn chế: Một số cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra và cán bộ

trực tiếp tiến hành kiểm tra chưa quan tâm, chưa thật sự coi trọng vị trí, vai

trò của hoạt động thẩm tra, xác minh; trong nhiều cuộc kiểm tra, việc lựa

chọn nội dung và đối tượng thẩm tra, xác minh nhiều lúc không đúng, không

đầy đủ, thiếu tập trung, lan man, dẫn đến khó khăn, lúng túng khi thu thập tài

liệu, chứng cứ, dẫn đến kéo dài thời gian và hạn chế kết quả thẩm tra, xác

minh; tiến hành thẩm tra, xác minh không kỹ, chưa sâu, chưa tìm được bằng

chứng xác thực; chứng cứ nhiều khi không đầy đủ và chính xác; chất lượng

báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh chưa tốt, chưa chuyển tải hết các chứng cứ

để phục vụ việc kết luận nội dung kiểm tra, làm hạn chế kết quả, chất lượng

công tác kiểm tra.

3. Để làm tốt thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng cần

thực hiện các giải pháp mang tính hệ thống và đặc thù sau: Thứ nhất, nâng

cao nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và cán bộ,

đảng viên về vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của

Đảng. Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm

tra; sự chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát của thường trực cấp ủy và thường trực uỷ

ban kiểm tra đối với hoạt động thẩm tra, xác minh. Thứ ba, tiếp tục bổ sung,

hoàn thiện và đổi mới phương pháp, quy trình, các quy định, hướng dẫn tiến

hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Thứ tư, xây dựng

Page 154: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

151

đội ngũ cán bộ kiểm tra trong sạch, có năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay. Thứ

năm, tăng cường phối hợp, phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức trong hệ

thống chính trị để tiến hành thẩm tra, xác minh. Thứ sáu, nghiên cứu khoa

học, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động thẩm tra, xác minh trong

công tác kiểm tra của Đảng.

4. Để hoạt động thẩm tra, xác minh có chất lượng, hiệu quả hơn trong

tình hình mới vừa là một yêu cầu đúng đắn, nhưng đồng thời cũng là một đòi

hỏi hết sức khó khăn. Luận án - trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận về

công tác kiểm tra, về thẩm tra, xác minh và đánh giá thực trạng hoạt động

thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng trong thời gian qua - đã

đề xuất một số giải pháp chủ yếu vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa

mang tính cơ bản lâu dài đối với hoạt động kiểm tra của Đảng nói chung, hoạt

động thẩm tra, xác minh nói riêng. Việc thực hiện một cách đồng bộ các giải

pháp sẽ là tiền đề góp phần thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong

công tác kiểm tra của Đảng trong thời gian tới.

Page 155: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

152

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Bùi Anh Tuấn (2009), Tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra,

kỷ luật của Đảng, Bùi Văn Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

2. Bùi Anh Tuấn (2009), "Đảng bộ thành phố Hải Phòng đổi mới phương

thức kiểm tra, giám sát", Tạp chí Lịch sử Đảng, (8), tr.75.

3. Bùi Anh Tuấn (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng

chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, TS Lê Hồng Liêm (chủ

biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Bùi Anh Tuấn (2014), "Bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm tra, xác minh cho cán

bộ kiểm tra", Tạp chí Kiểm tra, (5), tr.47.

Page 156: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

153

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư (2007), Quy chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị

nội bộ giữa Ban Tổ chức Trung ương với Uỷ ban Kiểm tra Trung

ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng uỷ Quân sự Trung ương,

Đảng uỷ Công an Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao (ban

hành kèm theo Quyết định số 69-QĐ/TW, ngày 25-7-2007), Hà Nội.

2. Ban Bí thư (2009), Quy định số 222-QĐ/TW, ngày 08-5-2009 về chức

năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu,

giúp việc tỉnh uỷ, thành uỷ (nay là Quy định số 219-QĐ/TW, ngày

27-12-2013), Hà Nội.

3. Ban Bí thư (2009), Thông báo số 226-TB/TW, ngày 03-03-2009 về tăng

cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng,

Hà Nội.

4. Ban Bí thư (2011), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Ban Đối ngoại Trung ương trong công tác kiểm tra, giám sát, thi

hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 23-QĐ/TW,

ngày 19-7-2011), Hà Nội.

5. Ban Bí thư (2011), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ trong công tác kiểm tra, giám sát,

thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 24-

QĐ/TW, ngày 19-7-2011), Hà Nội.

6. Ban Bí thư (2012), Hướng dẫn số 01-HD/TW, ngày 05-01-2012 về một

số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng, Hà Nội.

7. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ

kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo

Quyết định số 136-QĐ/TW, ngày 02-10-2012), Hà Nội.

Page 157: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

154

8. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương trong thực hiện nhiệm

vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng (ban hành kèm theo

Quyết định số 137-QĐ/TW, ngày 02-10-2012), Hà Nội.

9. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Ban Tuyên giáo Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,

giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số

145-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.

10. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương với

Đảng đoàn Quốc hội trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và

thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 146-QĐ/TW,

ngày 09-11-2012), Hà Nội.

11. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Đảng uỷ Công an Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ kiểm

tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết

định số 147-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.

12. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Ban cán sự đảng Kiểm toán Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ

kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo

Quyết định số 148-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.

13. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Quân uỷ Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám

sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 149-

QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.

14. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Ban cán sự đảng Thanh tra Chính phủ trong thực hiện nhiệm vụ

kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo

Quyết định số 150-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.

Page 158: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

155

15. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện nhiệm vụ

kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo

Quyết định số 151-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.

16. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương

với Ban cán sự đảng Chính phủ trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,

giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số

152-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.

17. Ban Bí thư (2012), Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 10-01-2012 về công

tác kiểm tra của tố chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo

đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, Hà Nội.

18. Ban Bí thư (2012), Thông báo Kết luận số 71-TB/TW, ngày 12-01-2012 về

thực hiện Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương với tổ

chức có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi

hành kỷ luật đảng, Hà Nội.

19. Ban Bí thư (2012), Thông báo Kết luận số 115-TB/TW, ngày 17-12-2012

về Đề án "Phát hiện, xác định, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp

dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm", Hà Nội.

20. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Hướng dẫn thực hiện các quy định

về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương

VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khoá XI (ban hành kèm theo

Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01-11-2011), Hà Nội.

21. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Quy định số 45-QĐ/TW, ngày 01-

11-2011 về thi hành Điều lệ Đảng, Hà Nội.

22. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-

11-2011 về những điều đảng viên không được làm, Hà Nội.

23. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Kết luận số 21-KL/TW, ngày 21-5-

2012 tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá XI

Page 159: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

156

về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành Trung ương khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Hà Nội.

24. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2007), Giương

cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, phấn đấu

giành thắng lợi mới trong xây dựng toàn diện xã hội khá giả (Báo

cáo trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVII Đảng Cộng sản

Trung Quốc, ngày 15-10-2007), Bản dịch của Vụ Trung Quốc -

Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương, Trung Quốc.

25. Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương tổng kết thực hiện Chỉ thị 09-CT/TW

và pháp luật về khiếu nại, tố cáo (2012), Tài liệu Hội nghị tổng kết

thực hiện Chỉ thị 09-CT/TW của Ban Bí thư và pháp luật về khiếu nại,

tố cáo, tập I, Hà Nội.

26. Ban Chỉ đạo Tổng kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý

luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2003), Tiếp tục thực hiện Nghị quyết

Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng,

chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng, lãng phí, Nhà xuất bản Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

28. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2004), Kinh nghiệm và giải pháp xây

dựng, chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí rút ra

từ các vụ án kinh tế - xã hội và kết quả thanh tra, kiểm tra, Kỷ yếu

hội thảo, Hà Nội.

29. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2005), Đảng, Bác Hồ về tự phê bình và

phê bình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2005), Tệ quan liêu, lãng phí và một số

giải pháp phòng chống, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 160: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

157

31. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (2010), Báo cáo số 70-BC/BCĐ, ngày 09-12-2010 tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng trong nhiệm kỳ Đại hội X, Hà Nội.

32. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (2011), Báo cáo số 01-BC/BCĐ, ngày 28-01-2011 về kết quả công tác phòng, chống tham nhũng năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011, Hà Nội.

33. Ban Nội chính Trung ương (2005), Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới, (Sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Bộ Chính trị (2007), Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ (ban hành kèm theo Quyết định số 58-QĐ/TW, ngày 07-5-2007), Hà Nội.

35. Bộ Chính trị (2008), Quy trình kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư (ban hành kèm theo Quyết định số 173-QĐ/TW, ngày 08-7-2008), Hà Nội.

36. Bộ Chính trị (2008), Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (ban hành kèm theo Quyết định số 174-QĐ/TW, ngày 08-7-2008), Hà Nội.

37. Bộ Chính trị (2008), Quy trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, thi hành kỷ luật đối với đảng viên là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương thay thế Quy trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, thi hành kỷ luật đối với đảng viên là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành tại Quyết định số 174-QĐ/TW, ngày 08-7-2008 của Bộ Chính trị (ban hành kèm theo Quyết định số 195-QĐ/TW, ngày 19-11-2008), Hà Nội.

38. Bộ Chính trị (2008), Thông báo Kết luận số 130-TB/TW, ngày 10-1-2008

về tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2006 đến

nay và giải pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

Page 161: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

158

39. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17-5-2010 về Chiến

lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020, Hà Nội.

40. Bộ Chính trị (2010), Quy chế đánh giá cán bộ, công chức (ban hành kèm

theo Quyết định số 286-QĐ/TW, ngày 08-02-2010), Hà Nội.

41. Bộ Chính trị (2010), Quy trình giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng của Ban

Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (ban hành kèm

theo Quyết định số 321-QĐ/TW, ngày 06-8-2010), Hà Nội.

42. Bộ Chính trị (2011), Thông báo Kết luận số 68-TB/TW, ngày 30-12-2011

sơ kết trên 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về

tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Hà Nội.

43. Bộ Chính trị (2012), Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 24-02-2012 về việc thực

hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương

Đảng (khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện

nay", Hà Nội.

44. Bộ Chính trị (2013), Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30-3-2013 về xử lý

kỷ luật đảng viên vi phạm, Hà Nội.

45. Bộ Chính trị (2013), Quy định giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán

bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (ban hành kèm theo

Quyết định số 210-QĐ/TW, ngày 08-11-2013), Hà Nội.

46. Bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2005), Dự thảo Báo

cáo giải pháp phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh

đốn Đảng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, Hà Nội.

47. Nguyễn Văn Chi (2008), Công tác kiểm tra, giám sát góp phần đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

48. Trường Chinh (1962), Công tác tư tưởng của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

49. Chính phủ (2008), Báo cáo số 135/BC/CP, ngày 19-9-2008 về công tác

phòng, chống tham nhũng năm 2008, (Báo cáo Quốc hội), Hà Nội.

Page 162: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

159

50. Chính phủ (2009), Báo cáo số 157/BC/CP, ngày 02-10-2009 về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2009, (Báo cáo Quốc hội), Hà Nội.

51. Chính phủ (2010), Báo cáo số 103/BC/CP, ngày 01-9-2010 về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2010, (Báo cáo Quốc hội), Hà Nội.

52. Chính phủ (2013), Nghị định số 78/2013/NĐ-CP, ngày 17-7-2013 về minh bạch tài sản, thu nhập, Hà Nội.

53. Chính phủ (2013), Nghị định số 91/2013/NĐ-CP, ngày 12-8-2013 quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong Công an nhân dân, Hà Nội.

54. Phạm Thị Hải Chuyền (Chủ biên) (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Phạm Hồng Chương (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.

56. Đỗ Hùng Cường (2012), “Một số vấn đề về thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, (10), tr.46.

57. Bùi Mạnh Cường (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề chống tham nhũng, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

58. Giang Trạch Dân (2003), Bàn về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, Tập I-II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Lý Quang Diệu (2001), Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore: 1965-2000, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

60. Nguyễn Thị Doan (Chủ biên) (2006), Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Nguyễn Trung Dong (2014), “Kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”, Tạp chí Kiểm tra, (4), tr.36.

62. Nguyễn Ngọc Đán - Cao Văn Thống (Đồng chủ biên) (2012), Cẩm nang về kỹ năng giải quyết khiếu nại kỷ luật của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

Page 163: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

160

63. Nguyễn Ngọc Đán - Cao Văn Thống (Đồng chủ biên) (2012), Cẩm nang về kỹ năng giải quyết tố cáo trong Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

64. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997), Điều lệ công tác điều tra, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

65. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997), Những chuẩn tắc liêm chính và điều khoản liên quan, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

66. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997), Quy định về việc cán bộ lãnh đạo báo cáo những vấn đề có liên quan đến bản thân, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

67. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2000), Một số chuẩn mực về cán bộ lãnh đạo, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc làm việc liêm khiết, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

68. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2000), Một số quy định cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước làm việc liêm khiết, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

69. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2004), Điều lệ giám sát nội bộ (thi hành thử), Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

70. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2004), Điều lệ xử lý kỷ luật, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

71. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2005), Đề cương thực thi xây dựng, kiện toàn hệ thống trừng trị và phòng ngừa tham nhũng, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

72. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2006), Quy định tạm thời về tăng cường quản lý đối với nhân viên công tác nhà nước có vợ (chồng), con cái định cư ở nước ngoài, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

Page 164: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

161

73. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2008), Điều lệ công tác tuần thị Đảng Cộng sản Trung Quốc (thi hành thử), Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

74. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2008), Điều lệ tạm thời về chế độ nhiệm kỳ đối với Đại hội đại biểu toàn quốc và đại hội đại biểu các cấp, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

75. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2008), Thông tư về in phát "Quy hoạch công tác 2008-2012 xây dựng, kiện toàn hệ thống trừng trị và phòng ngừa tham nhũng", Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

76. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2010), Chống tham nhũng và xây dựng liêm khiết ở Trung Quốc, (Sách trắng), Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

77. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2010), Quy định về thực hiện chế độ trách nhiệm xây dựng liêm chính trong Đảng, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

78. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2011), Quy định tạm thời về thực hiện chất vấn trách nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

79. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

80. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

81. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

82. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 165: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

162

84. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

89. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ (thông qua tại Đại hội biểu toàn quốc lần thứ XI), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

90. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

91. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

93. Phạm Thành Đồng (2012), “Chứng cứ trong kiểm tra dấu hiệu vi phạm khi phải tiến hành trưng cầu giám định”, Tạp chí Kiểm tra, (11-221), tr.42.

94. Lê Văn Giảng (Chủ biên) (2011), Nâng cao chất lượng dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Lê Tiến Hào (2004), Công tác kiểm tra của Thành uỷ Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

96. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

97. Mai Thanh Hiếu - Nguyễn Chí Công (2008), Trình tự, thủ tục giải quyết

các vụ án hình sự, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội.

Page 166: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

163

98. Nguyễn Công Học (Chủ biên) (2012), Một số giải pháp bảo đảm việc

chấp hành kỷ luật và thi hành kỷ luật trong Đảng hiện nay, Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

99. Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2010), Công tác

tham mưu tại các cơ quan Đảng Trung ương - Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Lê Khắc Khoa (2010), “Về ngôn ngữ nói trong thẩm tra, xác minh”, Tạp

chí Kiểm tra, (2), tr.48.

101. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 31, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.

102. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 32, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.

103. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 37, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.

104. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 39, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.

105. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 41, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.

106. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.

107. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.

108. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.

109. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.

110. V.I.Lênin - I.V.Xtalin (1974), Về dân chủ là kỷ luật trong Đảng, Nhà

xuất bản Sự thật, Hà Nội.

111. V.I.Lênin (1998), Bàn về kiểm kê, kiểm soát, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

112. Lê Hồng Liêm (Chủ biên) (2010), Một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, trở

ngại của uỷ ban kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra

khi có dấu hiệu vi phạm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

113. Lê Hồng Liêm (Chủ biên) (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

114. Liên hợp quốc (2003), Công ước về chống tham nhũng.

Page 167: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

164

115. Nguyễn Anh Liên (Chủ nhiệm) (2001), Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, Đề tài khoa học cấp Ban Đảng Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương.

116. Vũ Đình Lợi (2013), “Thẩm tra, xác minh - một khâu quan trọng trong giải quyết tố cáo”, Tạp chí Kiểm tra, (9), tr.49.

117. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

118. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

119. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

120. Nguyễn Hoàng Minh (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

121. Phạm Thị Ngạn (Chủ nhiệm) (2007), Hệ thống kỹ năng nghiệp vụ trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, Đề tài khoa học cấp Bộ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Hà Nội.

122. Phạm Thị Ngạn (2013), “Các yếu tố cấu thành trình độ nghiệp vụ thẩm tra, xác minh của cán bộ kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, (6), tr.45.

123. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2001), Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới, Hà Nội.

124. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2001 - 2004, (Sách phục vụ thảo luận các dự thảo văn kiện Đại hội X), Hà Nội.

125. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Xây dựng đảng cầm quyền: Kinh nghiệm của Việt Nam - Kinh nghiệm của Trung Quốc, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Hà Nội.

Page 168: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

165

126. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Sách tra cứu các mục từ về tổ chức, Hà Nội.

127. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2005), Một số văn bản của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, Hà Nội.

128. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2005), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 1, Hà Nội.

129. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.

130. Nhà xuất bản Công an nhân dân (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Hà Nội.

131. Nhà xuất bản Sự thật (1970), Bộ Quốc triều hình luật, Hà Nội. 132. Nhà xuất bản Thanh tra (2002), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác

Thanh tra, Hà Nội. 133. Nhà xuất bản Thông tấn (2006), Học cách chống tham nhũng - Kinh

nghiệm của báo chí nước ngoài, Hà Nội. 134. Nhà xuất bản Tư pháp (2006), Các quy định pháp luật về khiếu nại, tố

cáo và thanh tra, Hà Nội. 135. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa - Nhà xuất bản Tư pháp (2006), Từ điển

Luật học, Hà Nội. 136. Phạm Đình Phi (2010), “Kinh nghiệm thẩm tra, xác minh trong giải

quyết khiếu nại kỷ luật đảng”, Tạp chí Kiểm tra, (8), tr.39. 137. Phuthắc Phítthanuson (2003), Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân

Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

138. Quốc hội (2005), Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

139. Quốc hội (2005), Luật Thanh tra, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 140. Quốc hội (2012), Luật Khiếu nại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 141. Quốc hội (2012), Luật Tố cáo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 169: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

166

142. Phạm Đăng Quyền - Đặng Thị Thanh (2011), Sổ tay chiến thuật điều tra hình sự, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

143. Chănsyseng Sômphu (2011), Chất lượng công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

144. Bùi Ngọc Thanh (2008), Một số vấn đề về xây dựng Đảng và công tác cán bộ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

145. Thanh tra Chính phủ (2008), Cải cách cơ chế kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản hành chính ở Trung Quốc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

146. Thanh tra Nhà nước (1999), Những điều cần biết về pháp luật khiếu nại, tố cáo, Công ty In Công đoàn Việt Nam, Hà Nội.

147. Bùi Văn Thể (Chủ biên) (2009), Giải pháp nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

148. Trương Thị Thông (1996), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay, Luận án Phó Tiến sỹ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

149. Thông tấn xã Nam Ninh (2003), Những vấn đề nóng bỏng của các cấp lãnh đạo Trung Quốc sau Đại hội XVI (phần I), (Tài liệu tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

150. Cao Văn Thống (2009), Tăng cường kiểm tra, giám sát phục vụ nhiệm chính trị và công tác xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

151. Cao Văn Thống (Chủ biên) (2012), Cẩm nang về kỹ năng kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

152. Cao Văn Thống (Chủ biên) (2012), Đổi mới phương thức kiểm tra, giám sát của Đảng giai đoạn hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

Page 170: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

167

153. Cao Văn Thống (2013), Kinh nghiệm và giải pháp giải quyết tố cáo

trong Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

154. Cao Văn Thống (Chủ biên) (2011), Những vấn đề cơ bản về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

155. Cao Văn Thống (chủ biên) (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

156. Cao Văn Thống - Đỗ Xuân Tuất (Đồng chủ biên) (2012), Nâng cao chất lượng kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

157. Tô Quang Thu (Chủ nhiệm) (2008), Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra, Đề tài khoa học cấp Bộ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Hà Nội.

158. Nguyễn Huy Thuật (2009), Sổ tay điều tra các tội phạm về trật tự xã hội, (Sách chuyên khảo - Lưu hành nội bộ), (Tái bản, có chỉnh lý, bổ sung), Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

159. Nguyễn Huy Thuật (2010), Chiến thuật điều tra hình sự (Sách chuyên khảo - Lưu hành nội bộ), Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

160. Nguyễn Thành Tiến (Biên dịch) (2001), Trung Quốc được mùa chống tham nhũng, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

161. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

162. Nguyễn Thế Tư (2004), Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở các tỉnh duyên hải miền Trung hiện nay, Luận án Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Page 171: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

168

163. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Yên Bái (2004), Kết hợp giải quyết tố cáo với kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm ở Đảng bộ tỉnh Yên Bái, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

164. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2003), Báo cáo số 133-BC/KTTW, ngày 02-10-2003 về kiểm điểm công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng giữa nhiệm kỳ, Hà Nội.

165. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2005), Báo cáo số 358-BC/KTTW, ngày 13-6-2005 về tổng kết thực hiện công tác kiểm tra của Đảng trong gần 20 năm đổi mới, Hà Nội.

166. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2006), Báo cáo số 425-BC/KTTW, ngày 02-3-2006 về tổng kết công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp nhiệm kỳ 2001 - 2005, Hà Nội.

167. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2007), Hướng dẫn số 07-HD/UBKTTW, ngày 11-9-2007 thực hiện Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ (ban hành kèm theo Quyết định số 58-QĐ/TW, ngày 07-5-2007 của Bộ Chính trị), Hà Nội.

168. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2007), Hướng dẫn số 08-HD/UBKTTW, ngày 28-9-2007 thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Hà Nội.

169. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2008), Báo cáo số 220-BC/UBKTTW, ngày 15-12-2008 về kết quả thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; việc thực hiện Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương trong nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng, Hà Nội.

170. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2008), Nâng cao chất lượng chấp hành kỷ luật và việc thi hành kỷ luật trong Đảng khu vực miền Trung - Tây Nguyên từ năm 2001-2008, Báo cáo chuyên đề, Hà Nội.

171. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2008), 60 năm truyền thống Ngành kiểm tra Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 172: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

169

172. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2008), Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

173. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2009), Công tác phục vụ đại hội đảng của uỷ ban kiểm tra các cấp, Nhà xuất bản Thời đại, Hà Nội.

174. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2010), Báo cáo số 390-BC/UBKTTW, ngày 05-10-2010 tổng kết công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp nhiệm kỳ 2006-2010, Hà Nội.

175. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2012), Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng (Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ), Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

176. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Hướng dẫn số 03-HD/UBKTTW, ngày 15-3-2012 thực hiện Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, Hà Nội.

177. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW, ngày 15-3-2012 về công tác kiểm tra, giám sát thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Hà Nội.

178. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Hướng dẫn số 05-HD/UBKTTW, ngày 17-4-2012 thực hiện Quy định về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, Hà Nội.

179. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Kế hoạch số 52-HD/UBKTTW, ngày 23-3-2012 thực hiện Thông báo kết luận của Bộ Chính trị sơ kết trên 4 năm thực hiện nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Hà Nội.

180. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Quy trình tiến hành công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng của Uỷ ban Kiểm tra Trung

Page 173: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

170

ương (ban hành kèm theo Quyết định số 1084-QĐ/UBKTTW, ngày 05-12-2012), Hà Nội.

181. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), 65 năm truyền thống Ngành kiểm tra Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

182. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Các Báo cáo của các đoàn công tác Uỷ ban Kiểm tra Trung ương về kết quả nghiên cứu, học tập, trao đổi kinh nghiệm về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng tại Trung Quốc, Lào; về phòng, chống tham nhũng tại Trung Quốc, Australia, Singapore, Đức, Italia, Pháp, Hàn Quốc,… kết quả tham dự các Hội thảo quốc tế về công tác phòng, chống tham nhũng tại Mỹ, Anh, Malaysia...

183. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Hệ thống mẫu văn bản nghiệp vụ về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 1403-QĐ/UBKTTW, ngày 29-7-2013), Hà Nội.

184. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Hướng dẫn số 09-HD/UBKTTW, ngày 06-6-2013 thực hiện một số điều của Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30-3-2013 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm Hà Nội.

185. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Quy định về phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm (ban hành kèm theo Quyết định số 1319-QĐ/UBKTTW, ngày 10-6-2013), Hà Nội.

186. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Quy định số 08-QĐ/UBKTTW,

ngày 18-6-2013 về tổ chức, hoạt động của đoàn kiểm tra, giám sát

của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Hà Nội.

187. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Thông báo Kết luận số 433-TB/UBKTTW, ngày 09-5-2013 làm rõ một số vấn đề về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, Hà Nội.

188. Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2012), Báo cáo công tác trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XVIII (thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng

Page 174: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

171

Cộng sản Trung Quốc, ngày 14-11-2012), Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.

189. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2005), Pháp lệnh Chống tham nhũng và văn bản hướng dẫn thi hành, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.

190. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2008), Báo cáo kết quả giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.

191. Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (2009), Một số văn bản của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

192. Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Bản tin phòng, chống tham nhũng, số 31 (tháng 2/2010), số 32 (tháng 8/2010) số 34 (10/2010), số 37 (01/2011), số 38 (02/2011).

193. Viện Chiến lược và Khoa học Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

194. Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa - Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

195. Viện Nghiên cứu Khoa học Công an (1977), Từ điển Nghiệp vụ phổ thông, Hà Nội.

196. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng. 197. Hồng Vĩ (2004), Các biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc (Sách

tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 198. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

Page 175: thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ... · Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN

172

PHỤ LỤC

1. Nguồn: Các Báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương về tổng kết

công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp nhiệm kỳ Đại hội IX (2001-

2006), nhiệm kỳ Đại hội X (2006-2011), năm 2011, năm 2012, năm 2013.

2. Chú thích các chữ viết tắt trong phần Phụ lục:

BTV : ban thường vụ

THKL : thi hành kỷ luật

UBKT : uỷ ban kiểm tra