Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI ANH TUẤN
thÈm tra, x¸c minh trong c«ng t¸c kiÓm tra cña ®¶ng giai ®o¹n hiÖn nay
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ Chuyên ngành: Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 31 23 01
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS. NGÔ HUY TIẾP
2. TS. NGÔ KIM NGÂN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Bùi Anh Tuấn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6
Chương 1: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 31
1.1. Khái quát về công tác kiểm tra của Đảng 31 1.2. Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 39
Chương 2: THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 73
2.1. Thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng hiện nay 73
2.2. Nguyên nhân thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng hiện nay 89
2.3. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra qua thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 103
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 112
3.1. Dự báo một số tình hình có liên quan và phương hướng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng trong thời gian tới 112
3.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng 118
KẾT LUẬN 119 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 152 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153 PHỤ LỤC 172
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt
quan tâm công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Đảng ta luôn khẳng
định: lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo; kiểm tra là
chức năng lãnh đạo của Đảng, là một nội dung của phương thức lãnh đạo, là
bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
Trong quá trình tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, thẩm tra, xác
minh là một khâu hoạt động rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, nếu chưa
thẩm tra, xác minh hoặc thẩm tra, xác minh chưa rõ ràng, chu đáo thì chưa thể
kết thúc kiểm tra và như thế cũng có nghĩa là chưa thể kết luận, xử lý đối với
nội dung và đối tượng kiểm tra. Chất lượng và kết quả của hoạt động thẩm
tra, xác minh có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc kết luận và quyết định
xử lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra. Phương
châm “công minh, chính xác, kịp thời” của việc thi hành kỷ luật trong Đảng
được thực hiện tốt hay không, đạt được đến mức độ nào đều phụ thuộc vào
mức độ, hiệu quả của hoạt động thẩm tra, xác minh.
Nhiều năm qua, nhất là từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới
toàn diện và sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, công tác kiểm tra nói chung và hoạt
động thẩm tra, xác minh nói riêng của các tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra
các cấp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực trong công
tác xây dựng Đảng. Khi tiến hành thẩm tra xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng, cán bộ kiểm tra các cấp đã bám sát và tuân thủ thực hiện đúng các
nguyên tắc thẩm tra, xác minh, bám sát nội dung kiểm tra; thực hiện dân chủ,
khách quan, công khai; thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng và
phương pháp công tác kiểm tra của Đảng. Do làm tốt thẩm tra, xác minh nên
nhiều cuộc kiểm tra kết luận chính xác, đối tượng được kiểm tra “tâm phục”,
2
“khẩu phục”, nhiều vụ việc được xử lý công minh, chính xác, kịp thời, có tác
dụng góp phần nâng cao trách nhiệm, chất lượng công tác xây dựng Đảng ở
nơi được kiểm tra.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, những kết quả đạt được, hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra cũng đã và đang bộc lộ
những khó khăn, hạn chế cần nhanh chóng được khắc phục. Một số cấp ủy, tổ
chức đảng, ủy ban kiểm tra và cán bộ trực tiếp tiến hành kiểm tra chưa thật sự
quan tâm, coi trọng vị trí, vai trò của hoạt động thẩm tra, xác minh. Một số vụ
việc tiến hành thẩm tra, xác minh không kỹ, không đầy đủ, chưa sâu, chưa tìm
được bằng chứng xác thực, làm ảnh hưởng đến tính chính xác, khách quan khi
kết luận nội dung kiểm tra. Chất lượng chứng cứ sau một số cuộc thẩm tra,
xác minh không đầy đủ và xác đáng để làm cơ sở kết luận nội dung và đối
tượng kiểm tra. Hoạt động thẩm tra, xác minh - theo nguyên tắc và phương
pháp công tác đảng - phải lấy việc tự phê bình và phê bình làm biện pháp
chính; tuy nhiên, trong thực tế, hiệu quả của việc thực hiện biện pháp chính
yếu này không phải là như nhau và lúc nào cũng có vai trò tích cực, nhất là
trong bối cảnh những tổ chức đảng mất đoàn kết nội bộ, ý thức đảng chưa
cao. Đặc biệt, nhiều vụ việc, hành vi của đối tượng kiểm tra không chỉ dừng
trong nội bộ Đảng, mà còn liên quan đến pháp luật, đến nhiều lĩnh vực khác,
kể cả những mối quan hệ xã hội của đối tượng kiểm tra… Điều đó đòi hỏi
hoạt động thẩm tra, xác minh muốn có hiệu quả cần phải có sự cộng tác, phối
hợp của nhiều hoạt động, nhiều tổ chức và mang tính nghiệp vụ cao. Biện
pháp tự phê bình và phê bình trong nội bộ tổ chức đảng để tiến hành thẩm tra,
xác minh cũng cần được hoàn thiện, phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn
hiện nay trên cơ sở đặc điểm thực trạng của tổ chức cơ sở đảng có đối tượng
kiểm tra.
Những hạn chế trong hoạt động thẩm tra, xác minh dẫn đến quyết định
xử lý không chuẩn xác như oan sai, bỏ lọt các hành vi và đối tượng vi phạm,
3
tiêu cực hoặc không bảo vệ được chân lý và các nhân tố tích cực… Những
hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: tính phức tạp của các vụ
việc, sự yếu kém về tính tự giác của đối tượng kiểm tra, thực trạng nội bộ tổ
chức đảng thiếu tính chiến đấu,... song nguyên nhân cơ bản là về quan điểm
và phương pháp, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kiểm tra cũng như quy trình
tiến hành thẩm tra, xác minh chưa có sự đổi mới, nâng cao chất lượng cho
phù hợp với tình hình mới.
Để tiếp tục phát huy kết quả cũng như góp phần khắc phục những mặt
hạn chế, yếu kém trong công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra,
xác minh nói riêng thời gian qua nhằm đáp ứng những yêu cầu của công cuộc
đổi mới và công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, việc nghiên cứu đề tài
“Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay”
là rất cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất
một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, khái quát một số kinh
nghiệm tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai
đoạn hiện nay.
- Phân tích những nhân tố tác động, đề xuất phương hướng và một số
giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về lĩnh vực nghiên cứu, luận án đi sâu nghiên cứu thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trên tất cả các đối tượng, nhiệm vụ kiểm tra.
Phạm vi nghiên cứu của luận án về thời gian từ năm 2001 đến nay; phương hướng giải pháp của luận án có giá trị định hướng đến năm 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra, về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; nghiên cứu một số Luật, văn bản dưới Luật liên quan đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, như: Luật Tố cáo; Luật Khiếu nại; Luật Phòng, chống tham nhũng; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính… Luận án còn kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú trọng việc tổng kết thực tiễn, điều tra, khảo sát, phương pháp chuyên gia, hệ thống, kết hợp chặt chẽ lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh.
5. Đóng góp khoa học của luận án - Luận giải, làm rõ hơn, sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về công tác
kiểm tra của Đảng, trong đó tập trung vào hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng.
5
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng, khái quát một số kinh nghiệm tiến hành thẩm tra,
xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.
- Đề xuất một số nội dung, biện pháp có tính khả thi nhằm thực hiện tốt hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo có giá trị đối với
ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng; trong bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác
kiểm tra của Đảng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn xây dựng
Đảng và chính quyền Nhà nước trong các học viện, nhà trường trong cả nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận các danh muc công trình của tác giả liên
quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội chính của luận
án gồm 3 chương, 7 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Ở NƯỚC NGOÀI VÀ CÁC NGHIÊN CỨU VỀ KINH NGHIỆM CỦA NƯỚC NGOÀI 1.1.1. Các công trình nghiên cứu có tác giả là người nước ngoài
Lý Quang Diệu trong "Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965-
2000" [59], trong bài viết chủ đề “Xây dựng một Chính phủ trong sạch”, tác
giả - Thủ tướng đầu tiên (từ năm 1959-1990) và là người có vai trò to lớn
trong việc thay đổi và phát triển đất nước Singapore trở thành một trong
những “con rồng Châu Á” - đã khẳng định và nêu bật quyết tâm của Đảng
Hành động Nhân dân (tên viết tắt tiếng Anh là PAP) khi lên nắm chính
quyền vào năm 1959, là đã xác định và bắt tay xây dựng một chính quyền
trong sạch. Một trong những “công cụ được mài nhọn” để có thể ngăn
chặn, phát hiện và cản trở những thủ đoạn tham nhũng là cơ quan trọng yếu
thực hiện nhiệm vụ này: Ban Điều tra hành vi tham nhũng (tên viết tắt
tiếng Anh là CPIB), có quyền hạn được điều tra bất kỳ viên chức hay vị Bộ
trưởng nào. Nhân viên của Ban cũng được ủng hộ để thực thi luật, không e
dè hay thiên vị.
Đến năm 1960, chính quyền của Đảng PAP thực hiện việc nới rộng
quyền lực của các điều tra viên, kể cả quyền bắt giữ, khám xét, thanh tra tài
khoản, sổ ghi tiền gửi ngân hàng của những kẻ bị tình nghi cũng như của vợ,
con và thuộc hạ của họ. Một sự thay đổi nữa là cho phép những người xét xử
xem những chứng cứ cho thấy người bị tố cáo đang sống ở mức sống vượt
quá khả năng kinh tế của họ hoặc có những tài sản mà thu nhập của họ không
thể giải thích, là bằng chứng xác thực chứng minh rằng người bị tố cáo đã
nhận hối lộ.
7
Tác giả Lý Quang Diệu rút ra nhận định ở cuối bài viết: “Hệ thống
được lập ra điều tra và báo cáo trung thực sẽ chứng minh hệ thống ấy công
minh và hiệu quả, không ai ở ngoài lưới pháp luật cả” [59, tr.175].
Hồng Vĩ trong "Các biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc"
[197] đã nghiên cứu và trình bày rất sâu sắc về nạn tham nhũng, về cuộc đấu
tranh chống tham nhũng ở Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trung Quốc và vai trò lĩnh ấn tiên phong của Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung
ương trong cuộc đấu tranh khắc nghiệt này.
Sau khi phân tích những khó khăn trong việc chống tham nhũng, tác
giả cho rằng, các cơ quan chức năng phải không ngừng tăng cường công tác
điều tra xử lý các vụ án lớn, nghiêm trọng để trừng phạt nghiêm khắc và gây
sức ép mạnh mẽ, quyết không cho phép những phần tử tham nhũng ẩn náu
trong Đảng. Theo tác giả, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Uỷ ban Kiểm tra Kỷ
luật Trung ương ưu tiên, đặt trọng tâm là phải điều tra tỷ mỉ và xử lý nghiêm
các vụ án cán bộ lãnh đạo lợi dụng chức quyền mưu lợi cá nhân, coi thường
chức trách, cương vị công tác, gây thất thoát nghiêm trọng tài sản nhà nước;
điều tra thận trọng và xử lý các vụ án cán bộ cấp cơ sở nông thôn vi phạm kỷ
cương, luật pháp... Để làm được việc này, bên cạnh việc thực hiện một số
biện pháp, phải tăng cường sự phối hợp giữa các ngành kiểm tra kỷ luật, tòa
án, kiểm sát, giám sát, thẩm duyệt trong quá trình điều tra, xử lý các vụ án.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII của Đảng Cộng sản
Trung Quốc (tháng 11-2012), Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã trình bày Báo cáo về tình hình công tác 5 năm
(2007-2012) và kiến nghị công tác thời gian tới [188], báo cáo đã được Đại
hội thẩm tra và thông qua. Trong Báo cáo có một số nội dung về công tác điều
tra trong Đảng như:
Kiên quyết điều tra xử lý những vụ án vi phạm pháp luật, bảo vệ tính
nghiêm túc của kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đặt việc điều tra xử lý
8
các vụ án lên vị trí quan trọng, điều tra xử lý trọng điểm những vụ án lạm
dụng chức quyền, tham ô hối lộ, tha hóa biến chất, không làm tròn chức trách
của cơ quan lãnh đạo và cán bộ lãnh đạo, những vụ án mà những người liên
quan tuy cấp bậc không cao nhưng số tiền lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng, và
những vụ án tham nhũng nảy sinh bên cạnh quần chúng… Tăng cường công
tác thẩm tra, xét xử khiếu nại, điều tra lại và quản lý giám sát vụ án, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của cán bộ, đảng viên. Cơ chế tổ chức phối hợp điều tra
vụ án ngày càng kiện toàn hơn. Các chức năng trị tận gốc, trong đó có điều tra
xử lý vụ án ngày càng được phát huy.
Báo cáo cũng nhận định: Hành vi tham nhũng ngày càng phức tạp, kín
đáo, độ khó của việc phát hiện và điều tra ngày càng tăng …
Báo cáo đã nêu lên bảy kinh nghiệm cơ bản trong công tác xây dựng
tác phong Đảng liêm chính và chống tham nhũng, trong đó có kinh nghiệm
(thứ năm): Kiên quyết điều tra xử lý những vụ án vi phạm kỷ luật, pháp luật,
đặc biệt là phải làm tốt việc điều tra xử lý các vụ án lớn, quan trọng…
Qua Báo cáo, Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương đã đề xuất 8 kiến
nghị với với Đại hội XVIII, trong đó: Kiến nghị thứ nhất: Ủy ban kiểm tra kỷ
luật các cấp phải nghiêm khắc điều tra xử lý hành vi vi phạm kỷ luật chính trị,
kiên quyết bảo vệ sự tập trung thống nhất của Đảng; kiến nghị thứ tư tập trung
nhấn mạnh: Đẩy mạnh công tác điều tra, xử lý những vụ án vi phạm kỷ luật,
pháp luật, bảo đảm xu thế trừng trị tham nhũng mạnh mẽ; kiến nghị thứ năm
nêu: Tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện, nghiêm túc điều tra
hành vi vi phạm và nâng cao năng lực thực hiện chế độ liêm khiết; kiến nghị
thứ sáu: Phát huy hơn nữa vai trò giám sát của chế độ tuần thị, tăng cường
năng lực phát hiện vấn đề. Kiên trì làm tốt việc thẩm tra trách nhiệm kinh tế
của cán bộ lãnh đạo chủ chốt và nhân viên lãnh đạo công ty nhà nước, tăng
cường thẩm tra đối với vốn chuyên đề trọng điểm và công trình đầu tư lớn; kiến
nghị thứ tám nhấn mạnh về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra cả về
9
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, trong đó: Cán bộ kiểm
tra, giám sát cần phải nắm vững mấu chốt là xây dựng, tăng cường năng lực
điều tra, phương pháp và trình độ thực hiện chức trách một cách khoa học…
Tác giả Phuthắc Phítthanuson trong “Công tác kiểm tra của Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay” [137], tại chương 2, khi
đánh giá ưu điểm trong công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào, tác giả viết: …Khi kiểm tra và xử lý kỷ luật đã làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh… Tuy nhiên, ở phần đánh giá nhược điểm, tác giả cũng thẳng thắn
thừa nhận: …Uỷ ban kiểm tra chưa đủ mạnh, chưa có phương pháp, phương
thức tiếp cận. Cho nên, trong thời gian qua, chỉ khi có vi phạm nghiêm trọng
đến mức phạm pháp thì mới tiến hành kiểm tra, thẩm tra, xác minh và phải tổ
chức thành đoàn kiểm tra theo chỉ thị, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng mới tiến hành kiểm tra được, nhất là cán bộ là ủy viên ban chấp hành
tỉnh ủy, huyện ủy…
Trong chương 3, ở giải pháp thứ hai (Kiện toàn bộ máy ủy ban kiểm tra
và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kiểm tra), tác giả nêu: Người cán bộ
kiểm tra là người có khả năng triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ lập kế hoạch,
thẩm tra, xác minh, viết báo cáo, văn bản, theo dõi thực hiện quyết định và lập
hồ sơ lưu trữ;… Ở giải pháp thứ tư, tác giả đề xuất: phải phát huy trách nhiệm
xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân, tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở,
tạo điều kiện để quần chúng tham gia ý kiến, phản ảnh về đối tượng kiểm tra;
tuy nhiên, những ý kiến đó phải được chọn lọc, kiểm tra, xác minh.
Tác giả Chănsyseng Sômphu trong “Chất lượng công tác kiểm tra của
ủy ban kiểm tra Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay” [143], tác giả luận án
đã đề xuất giải pháp “Nắm vững và thực hiện tốt phương pháp, nguyên tắc,
hình thức kiểm tra, thực hiện dân chủ hóa, công khai hóa công tác kiểm tra”,
trong đó phải làm tốt công tác thẩm tra, xác minh. Yêu cầu đặt ra khi đánh
10
giá, kết luận những ưu điểm và khuyết điểm của cán bộ, đảng viên hoặc tổ
chức đảng được kiểm tra phải đúng với bản chất của sự việc, sự kiện, do đó
trong quá trình kiểm tra nhất thiết phải có khâu thẩm tra, xác minh. Tác giả
cũng đặt ra yêu cầu là cần xác định đúng về đối tượng thẩm tra, xác minh và
phân biệt giữa đối tượng kiểm tra với đối tượng thẩm tra, xác minh; chọn
đúng nội dung, đồng thời phải có phương pháp thẩm tra, xác minh hết sức
khoa học, tinh vi mới đảm bảo hiệu quả, đáp ứng yêu cầu công tác kiểm tra
Đảng và Nhà nước giai đoạn mới hiện nay.
1.1.2. Các công trình có tác giả là người Việt Nam nghiên cứu về
kinh nghiệm của nước ngoài
Sách "Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế
giới" của Ban Nội chính Trung ương [33], đã nêu và phân tích kinh nghiệm
của một số nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, trong đó có
những kinh nghiệm về biện pháp kiểm tra, điều tra của Đảng cầm quyền, như:
Lào thực hiện nhất thể các chức danh lãnh đạo Đảng và Nhà nước;
kiểm tra Đảng và thanh tra Chính phủ sáp nhập thành Ban Kiểm tra Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào. Do đó, việc phối, kết hợp giữa kiểm tra đảng và
thanh tra nhà nước phát huy và khai thác được khả năng cán bộ, hỗ trợ, bổ
sung cho nhau về kết quả thẩm tra, xác minh trong quá trình thực hiện các
cuộc kiểm tra và thanh tra để kịp thời và đồng bộ trong xử lý.
Các đảng cầm quyền ở Australia luôn đề cao cơ chế bảo đảm sự liêm
chính trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan công quyền; áp dụng kỹ
thuật điều tra đặc biệt, các phiên điều trần theo quy định của luật pháp. Bên
cạnh đó, coi trọng công luận và dư luận quần chúng trong việc giám sát hành
vi của công chức, khuyến khích và phát huy vai trò báo chí có tính độc lập
tương đối trong điều tra, phòng, chống tham nhũng và công chức có sai phạm.
Đảng Hành động Nhân dân Singapore (là Đảng duy nhất nắm quyền ở
Singapore suốt từ thời lập quốc đến nay) xác định xem xét cả các đơn thư tố
11
giác không ghi tên người gửi, thậm chí xem xét cả các cuộc điện thoại gọi tới.
Khi xem xét, phải quyết định có tiến hành điều tra hay không, nếu có thì phải
điều tra ngay (không được để quá 4 ngày). Vì họ cho rằng, thư nặc danh là
một nguồn thông tin, còn kết luận công chức có sai phạm, có tham nhũng hay
không thuộc nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, nhiều nước cho phép cơ quan chức năng được sử dụng
một số biện pháp đặc biệt như nghe điện thoại bí mật, xây dựng cơ sở bí
mật... để phát hiện công chức sai phạm, tham nhũng.
Trong "Báo cáo khảo sát, nghiên cứu về công tác kiểm tra, kỷ luật của
Đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng tại Trung Quốc" của
các đoàn công tác của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Ban Đối ngoại Trung
ương, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng -
Ban Nội chính Trung ương, Thanh tra Chính phủ (giai đoạn 2008-2014) [182]
đã tổng hợp rất sâu sắc nhiều nội dung như:
Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc có các quyền hạn:
Quyền giám sát, quyền kiểm tra, quyền điều tra, quyền kiến nghị và quyền xử
lý kỷ luật. Nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra, kỷ luật trong công tác kiểm tra vụ việc
có nội dung: điều tra rõ sự việc; thu thập chứng cứ xác đáng, đầy đủ; người vi
phạm bị kỷ luật và trừng trị thích đáng; người không vi phạm không bị truy cứu.
Yêu cầu đặt ra là sự thật rõ ràng; chứng cứ xác đáng, chuẩn xác (rất quan trọng);
xử lý đúng mức; thủ tục hoàn chỉnh và trình tự phải hợp pháp.
Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc rất chú trọng
những kỹ năng cơ bản của công tác kiểm tra, cụ thể là 4 kỹ năng: Kỹ năng kết
hợp giữa tiến hành thẩm tra, xác minh trực tiếp, công khai với gián tiếp, bí
mật; Kỹ năng kết hợp công tác tư tưởng để phát huy tính tự giác của đối
tượng kiểm tra với thẩm tra, xác minh, tìm bằng chứng; Kỹ năng nắm tình
hình tại chỗ (qua việc thành lập các tổ thị sát) và Kỹ năng xem xét nguồn gốc
phát sinh sai phạm ("trị tận gốc, trị lý tổng hợp, coi trọng phòng ngừa").
12
Trình tự và phương pháp khi xử lý một vụ án của uỷ ban kiểm tra kỷ
luật Đảng Cộng sản Trung Quốc được tiến hành theo các bước như sau:
Thứ nhất, thụ lý vụ án
Sau khi xem xét sơ bộ tài liệu và tiến hành xử lý, nếu tài liệu cán bộ bị
xử lý thuộc thẩm quyền của ủy ban kiểm tra kỷ luật thì xác định có thể điều
tra xử lý trực tiếp, làm rõ vấn đề có lập án không; những tài liệu ủy ban kiểm
tra kỷ luật đang làm rõ bước đầu, lập án phải chuyển các đội điều tra chuyên
môn. Tài liệu phát hiện chưa rõ dấu hiệu vi phạm chuyển ủy ban kiểm tra kỷ
luật cấp dưới làm rõ hơn; tài liệu không cụ thể, không có khả năng điều tra thì
lưu trữ lại.
Thứ hai, xác minh, làm rõ bước đầu
Về trình tự trong xác minh: Ủy ban kiểm tra kỷ luật, cơ quan thanh
tra quyết định lập tổ làm rõ bước đầu, làm rõ bước đầu tài liệu tố cáo, đơn
khiếu nại trước khi lập án (vấn đề trong đơn thư có thật hay không, có cần
xử lý kỷ luật đối với đối tượng được phản ánh trong đơn thư không; cung
cấp được chứng cứ cho việc lập án hay không). Giai đoạn này phải điều tra
lấy chứng cứ cho chặt chẽ, phải giữ gìn bí mật với bên ngoài và trong nội
bộ. Nếu đủ chứng cứ thì lập án, nếu chưa đủ thì chưa lập án. Trong tài liệu
phản ánh cán bộ có nhiều vấn đề, tiến hành làm rõ vấn đề chính, nếu thu
thập một chứng cứ khi trao đổi trực tiếp với đối tượng, họ không khai thì
tìm giải pháp khác; những vấn đề chính tìm ra càng nhiều chứng cứ càng
tốt. Quá trình làm rõ bước đầu, chú ý nhân vật đặc biệt, việc đặc biệt, thời
điểm đặc biệt. Kiên trì nguyên tắc thực sự cầu thị, khẳng định rõ có hoặc
không. Vì đối tượng điều tra là cán bộ đảm nhiệm chức vụ nhất định, để
tránh hiệu ứng tiêu cực không cần thiết, chú trọng xử lý khéo léo. Có giải
pháp điều tra hợp lý, điều tra cấp trên tiến hành từ cấp dưới, bên trong từ
bên ngoài, điều tra đối tượng A từ đối tượng B, qua đó nắm bắt được nhiều
chứng cứ.
13
Về xử lý kết quả xác minh: Khi kết thúc làm rõ bước đầu, đánh giá kết quả làm rõ, đưa ra kiến nghị xử lý. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm, phải truy cứu thì lập án để điều tra sâu hơn.
Thứ ba, lập án để điều tra Chỉ ủy ban kiểm tra, kỷ luật theo thẩm quyền quy định của Điều lệ
Đảng phát hiện tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm phải truy cứu thì quyết định lập án để điều tra.
Thứ tư, điều tra sau khi lập án Thông qua điều tra làm rõ vấn đề trái kỷ luật đối với những vấn đề đã
được lập án. Hiệu quả của vụ án phụ thuộc vào giai đoạn điều tra. Thời hạn điều tra là 3 tháng, nếu vụ án phức tạp có thể kéo dài thêm 1 tháng, gia hạn thêm không quá 3 tháng (không vượt thời hạn điều tra trong 6 tháng).
Trình tự điều tra theo 3 bước sau: Một là, bước chuẩn bị: Thành lập tổ điều tra vụ án: trong khi lập tổ điều tra vụ án phải bổ sung
thêm cán bộ tham gia để điều tra các mặt vi phạm của cán bộ. Trong tổ điều tra án chuyên môn có 3 tiểu tổ: tiểu tổ trao đổi trực tiếp với đối tượng chính; tiểu tổ điều tra những vấn đề phản ánh và tiểu tổ tổng hợp. Tiến hành nghiên cứu về những tình tiết, thiết kế, xây dựng, xem xét phương án điều tra, trong đó chú ý quyết định bước đi, công tác trọng điểm. Khi phương án điều tra được phê duyệt thì chuyển sang bước thực thi.
Hai là, bước thực thi: Công bố quyết định lập án: Sau khi có quyết định lập án phải công bố
quyết định này trước đối tượng bị kiểm tra. Tổ điều tra phải tỏ rõ thái độ lập án, nêu yêu cầu đối với đối tượng kiểm tra về: tích cực phối hợp làm rõ vấn đề của mình; đối xử đúng đắn, không có hành vi câu kết với người khác, không có thái độ phản ứng, thiếu hợp tác hoặc tiêu hủy chứng cứ; không trả thù người tố cáo (tổ điều tra phải coi trọng việc bảo vệ người tố cáo trong quá trình điều tra, không để lộ cho người bị điều tra biết).
14
Thu thập, điều tra chứng cứ một cách toàn diện: thu thập nhân chứng,
vật chứng, tài liệu tố cáo; xem xét, phân tích hiện trường thông qua kỹ thuật
hiện đại. Yêu cầu đối với việc điều tra phải toàn diện, khách quan, phải thực
sự cầu thị, không được chủ quan; không chỉ thu thập tài liệu, chứng cứ làm rõ
hành vi trái kỷ luật, pháp luật của đối tượng bị điều tra, mà phải thu thập, tổng
hợp cả tài liệu chứng minh hành vi không trái kỷ luật, pháp luật của đối tượng
bị điều tra. Việc điều tra lấy chứng cứ, lực lượng chủ chốt là cán bộ trong tổ
điều tra chuyên môn, đồng thời chú trọng huy động nhân dân tham gia vào
việc điều tra. Khi xảy ra vụ việc sẽ để lại chứng cứ, sẽ có người biết việc, nên
yêu cầu công tác điều tra phải đi sâu hơn, kỹ lưỡng hơn. Vì vậy, trong quá
trình điều tra thu thập chứng cứ, cần yêu cầu cơ quan hữu quan giúp đỡ, phối
hợp (cơ quan thuế vụ điều tra nộp thuế của đối tượng; trung tâm chống rửa
tiền điều tra tiền vốn của đối tượng…). Thông qua sự cố gắng chung, phối
hợp cơ quan hữu quan làm rõ sự thật, chứng cứ của vụ án.
Ba là, bước cuối cùng (bước kết thúc):
Phân tích vụ án, tìm ra sự thật hành vi sai trái, cho người bị điều tra
xem xét lại nội dung hành vi vi phạm; đưa ra ý kiến thẩm định và đề xuất việc
xem xét, xử lý. Hoàn chỉnh báo cáo xử lý, đồng thời hoàn chỉnh giai đoạn
điều tra, chuyển cơ quan hữu quan. Giai đoạn điều tra xử lý vụ án có nhiều cơ
quan hữu quan, như: cơ quan tiếp dân tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của quần
chúng; cơ quan phụ trách vụ án; đơn vị làm rõ sơ bộ, lập án điều tra. Khi kết
thúc điều tra lập án, chuyển hồ sơ, tài liệu điều tra sang văn phòng xét xử vụ
án; văn phòng xét xử vụ án căn cứ tình tiết vi phạm, đưa ra kiến nghị xử lý.
Các biện pháp điều tra được sử dụng, bao gồm:
Một là, các biện pháp điều tra chung: Song quy (yêu cầu đảng viên
trong vụ án trình bày rõ vấn đề trong thời gian quy định, địa điểm quy định;
đồng thời, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp chứng cứ
đúng sự thật, tài liệu liên quan đến vụ án, không được từ chối, quấy nhiễu vụ
15
án); ghi âm, chụp ảnh, quay phim về những nhân viên, vụ việc liên quan đến
vụ án khi cần thiết (hình thức này làm chặt chẽ chứng cứ thu thập được và
giám sát chặt chẽ cán bộ xử lý vụ án); thẩm tra tài liệu và sao tài liệu liên
quan (khi cần thiết có thể tiến hành niêm phong tài liệu); điều tra tài khoản
đơn vị và nhân viên liên quan (có thể mời tòa án phong tỏa tài khoản của cán
bộ bị điều tra tại ngân hàng); mời cơ quan hữu quan thực hiện việc giám định
kỹ thuật những vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ.
Hai là, biện pháp điều tra đột phá vụ án quan trọng, vụ án lớn:
Công tác chính trong xử lý vụ án phải tập trung đối thoại với đối tượng
bị điều tra, tranh thủ đột phá vào trung tâm. Thực tiễn phải dựa vào "4 dùng":
dùng sức đe dọa của kỷ luật đảng; dùng thuyết minh chính sách; dùng quan
điểm tính nhân văn; dùng chính trị của mình. Phải nắm bắt trạng thái tâm lý,
hiểu mong muốn, nỗi sợ, suy nghĩ của đối tượng điều tra. Trường hợp đối
tượng bị điều tra cố tình không khai báo, tổ điều tra phải tự tiến hành việc thu
thập chứng cứ và đề phòng họ có nhiều hình thức biện bạch về vi phạm của
mình. Đối tượng - kể cả là cán bộ lãnh đạo - càng cố giấu hành vi vi phạm của
mình, mặc dù họ chưa khai báo, qua chứng cứ chặt chẽ thu được vẫn làm rõ
được sự thật. Yêu cầu quá trình xử lý vụ án phải trọng chứng cứ, không chỉ
dựa vào lời khai, đây là hai mặt của vụ án. Xử lý quá trình trung tâm rút ngắn
thời gian xử lý vụ án và giảm chi phí là rất quan trọng.
Đột phá không lời khai cung phải đầu tư nhiều sức người, tiền của, tốn
kém thời gian. Nếu để thời gian kéo dài gây hiệu ứng tiêu cực cho quá trình
xử lý vụ án. Vì vậy, khi cần thiết phải dựa vào trinh sát điều tra thu thập
chứng cứ để đột phá nhanh vào trung tâm.
Khi kết thúc điều tra, cho đối tượng bị điều tra xem tài liệu thu thập
được và cho các đối tượng này gặp nhau để họ thực sự tâm phục, khẩu phục.
Nếu các đối tượng điều tra có ý kiến bất đồng đúng đắn thì chấp nhận, không
đúng đắn thì giải thích lại, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, xác định tính chất
16
trái kỷ luật của họ, đưa ra kiến nghị kết quả xử lý thích hợp. Sau đó, hoàn
thành báo cáo, chuyển cơ quan có chức năng xử lý.
Như vậy, có thể thấy trong trình tự và phương pháp kiểm tra xử lý vụ
án (vụ việc), ủy ban kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc rất quan tâm
và tôn trọng các bước thẩm tra, xác minh từ khâu ban đầu đến khi kết thúc vụ
việc. Trong thông tin ban đầu là cơ sở để lập hồ sơ điều tra vụ án, vì vậy đây
được coi là khâu quan trọng có tính quyết định tới các bước tiếp theo. Trong
khi điều tra vụ án phải tuân theo nguyên tắc và trình tự điều tra vụ án (trình
tự, thủ tục thẩm tra, xác minh) để làm rõ vụ việc.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC 1.2.1. Các đề tài khoa học
Tác giả Nguyễn Anh Liên trong “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và
nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng”
[115], đây là đề tài khoa học đầu tiên về thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng. Đề tài được thực hiện với mục tiêu tập trung đề xuất, kiến
nghị những giải pháp đổi mới về phương pháp, nghiệp vụ và quy trình tiến
hành thẩm tra xác minh, nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ nhiệm vụ kiểm tra
Đảng. Các tác giả của đề tài đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn của hoạt động thẩm tra, xác minh và cũng là đóng góp mới về khoa
học và thực tiễn, như: đã luận giải có sức thuyết phục tư tưởng Hồ Chí Minh
về tự phê bình và phê bình là cơ sở phương pháp luận của hoạt động thẩm tra,
xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; do vậy, hoạt động thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng phải lấy tự phê bình và phê bình trong
tổ chức đảng làm biện pháp chính yếu; đã đi sâu nghiên cứu những khái niệm
như "thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng"; những vấn đề về
quan niệm như: "trọng chứng", "trọng cung", "án tại hồ sơ"… trong công tác
kiểm tra của Đảng; làm nổi bật được hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng nhất thiết và chủ yếu phải dựa vào hệ thống tổ chức
17
đảng; người được kiểm tra cũng đồng thời là người kiểm tra; đã đề xuất được
ba giải pháp hợp lý, có tính khả thi nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả, chất
lượng thẩm tra, xác minh...
Tuy nhiên, vì một số lý do, đề tài có thể cần phân tích sâu hơn mối
quan hệ giữa hoạt động thẩm tra, xác minh và các hoạt động khác, trong đó
chú trọng hoạt động phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên,
của phương pháp cơ bản trong công tác kiểm tra của Đảng, có những kiến
nghị cụ thể hơn việc áp dụng kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn của
ủy ban kiểm tra các cấp, góp phần theo dõi, giúp đỡ ủy ban kiểm tra các cấp
vận dụng quy trình trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài…
Mặc dù vậy, tuy có dung lượng không lớn (khoảng 60 trang đánh máy)
nhưng đây là lần đầu tiên, một đề tài đã nêu lên những vấn đề rất mới mẻ,
khái quát một cách có hệ thống, luận chứng khá sâu sắc, cụ thể về thẩm tra,
xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Những nội dung, kiến thức,
những luận cứ khoa học, những vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài là nguồn
tham khảo hết sức quý báu, hữu ích và sát thực cho luận án.
Tác giả Phạm Thị Ngạn trong “Hệ thống kỹ năng nghiệp vụ trong công
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng” [121], đã phân tích cụ thể hệ thống kỹ
năng nghiệp vụ kiểm tra, bao gồm: các kỹ năng chung của công tác kiểm tra,
kỷ luật đảng và các kỹ năng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định tại
Điều 32 Điều lệ Đảng. Trong các kỹ năng chung có: Kỹ năng giao tiếp; kỹ
năng vận động, thuyết phục và cảm hóa con người; kỹ năng phối hợp nhóm;
kỹ năng thu thập và xử lý thông tin; kỹ năng thẩm tra, xác minh.
Tác giả Tô Quang Thu trong “Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ
năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra trong giai đoạn mới” [157], đã đề xuất
các nhóm giải pháp nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra, trong đó
có kỹ năng thẩm tra, xác minh, qua việc đào tạo, bồi dưỡng và tự đào tạo, bồi
dưỡng (về nghiệp vụ) và việc rèn luyện trong thực tiễn (trong quá trình giải
18
quyết vụ việc của các đoàn kiểm tra; rèn luyện phương pháp tư duy, phương
pháp làm việc khoa học; tổng kết kinh nghiệm,…).
1.2.2. Sách
Tác giả Nguyễn Thị Doan trong “Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật
nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới”
[60], trong chương 3, phần "Quan điểm và định hướng đổi mới công tác kiểm
tra, kỷ luật đảng", các tác giả cuốn sách khẳng định: Khi kiểm tra phải làm tốt
thẩm tra, xác minh, chưa thẩm tra, xác minh để có chứng cứ cụ thể, rõ ràng
bảo đảm tính pháp lý, hợp lý thì chưa kết luận. Về yêu cầu đổi mới công tác
kiểm tra, kỷ luật trong Đảng, cụ thể là đổi mới phương thức hoạt động kiểm
tra trong Đảng, các tác giả đã nhấn mạnh tính đặc trưng của phương pháp
kiểm tra, nhất là phương pháp nghiệp vụ tiến hành thẩm tra, xác minh - một
khâu trọng yếu có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động kiểm tra và bảo
đảm phương châm "công minh, chính xác, kịp thời" trong việc thi hành kỷ
luật. Theo các tác giả, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng rất quan trọng bởi trong giai đoạn cách mạng mới, dưới tác động
của các mặt tiêu cực, tính tự giác và tự phê bình của một số cán bộ, đảng viên
giảm sút, trong khi cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, thậm chí không có, không
đồng bộ nên thiếu chuẩn mực để xem xét, kết luận.
Ở chương 4, vấn đề lý luận thứ năm được các tác giả rút ra qua hoạt
động thực tiễn là: Nắm vững và thực hiện tốt phương pháp cơ bản có tính
nguyên tắc của công tác kiểm tra, trong đó có việc làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh. Các tác giả cho rằng: Trong các phương pháp cơ bản, thẩm tra, xác
minh là phương pháp đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay…
Chưa thẩm tra, xác minh thì chưa thể kết luận. Trường hợp tự phê bình và phê
bình càng yếu, tự giác càng kém thì đòi hỏi thẩm tra, xác minh càng phải công
phu, tỷ mỉ, thận trọng, chính xác. Mặt khác, thẩm tra, xác minh cũng là một
biện pháp nhằm hỗ trợ nâng cao tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên…
19
Tác giả Bùi Văn Thể trong “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, kỷ luật đảng”
[147], trong chương 1, các tác giả cuốn sách nhận định: Để thực hiện tốt việc
phê bình, chủ thể kiểm tra phải nắm vững: mục đích, yêu cầu cuộc kiểm tra;
nội dung cần kiểm tra, thẩm tra, xác minh; chủ trương, đường lối, chính sách,
nghị quyết, chỉ thị… có liên quan đến các vấn đề cần thẩm tra, xác minh để
làm cơ sở cho việc thẩm tra, xác minh.
Ở chương 2, khi đề cập về vai trò của thẩm tra, xác minh đối với việc
thực hiện tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, các
tác giả cho rằng: Nhiều chứng cứ thu thập được qua thẩm tra, xác minh đã có
sức thuyết phục trong đấu tranh phê bình với những đảng viên vi phạm kỷ
luật đảng, pháp luật của Nhà nước.
Ở chương 3, trong giải pháp thứ năm, các tác giả nhấn mạnh: Trường
hợp đối tượng kiểm tra tính chiến đấu kém, không thành khẩn, thiếu tự giác tự
phê bình, cố tình không nhận thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm, trong khi
chứng lý của chủ thể kiểm tra đưa ra chưa chắc chắn, chưa đủ sức thuyết
phục, thì phải kết hợp chặt chẽ với công tác thẩm tra, xác minh để thu thập, tài
liệu, chứng lý có cơ sở vững chắc để kết luận vụ việc, đồng thời, phải chú ý
phát huy trách nhiệm phê bình, góp ý của tổ chức đảng và đảng viên có liên
quan đến đối tượng kiểm tra để làm rõ trách nhiệm, thiếu sót, vi phạm của đối
tượng kiểm tra...
Tác giả Lê Hồng Liêm trong “Một số giải pháp cơ bản tháo gỡ khó
khăn, trở ngại khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các cấp” [112], ở chương
II, khi đề cập đến khó khăn, trở ngại trong thực hiện phương pháp, quy trình
kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, các tác giả cuốn sách đã đánh giá: …Việc
phối hợp trao đổi thông tin, đánh giá nhận định dấu hiệu vi phạm có trường
hợp "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", có trường hợp không cung cấp thông
20
tin cho là "bảo mật", gây trở ngại cho công tác thẩm tra, xác minh do chạy
theo thành tích, bảo vệ lẫn nhau, ngại va chạm, có trường hợp thiếu trách
nhiệm đến mức né tránh, vòng vo, không hợp tác theo yêu cầu của uỷ ban
kiểm tra… Khi đề cập đến nguyên nhân những khó khăn, trở ngại của uỷ ban
kiểm tra các cấp khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, ban chủ nhiệm đề tài đã cho rằng: Việc
kiểm tra phải đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng, không được sử
dụng các phương pháp thẩm tra, xác minh của các cơ quan tư pháp, thanh tra
nhà nước,... Một trong những bài học kinh nghiệm qua tháo gỡ khó khăn, trở
ngại của uỷ ban kiểm tra các cấp khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức
đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm - theo các tác giả - là: Uỷ
ban kiểm tra các cấp vừa phải chủ động làm tốt công tác tư tưởng đối với đối
tượng kiểm tra, vừa nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình, đồng thời coi
trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm tra, xác minh.
Ở chương III, khi phân tích các giải pháp, các tác giả đã đề cập đến việc:
Đổi mới và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra (kể cả kỹ năng
nghiệp vụ) cho tổ chức đảng, cán bộ kiểm tra các cấp, trong đó có kỹ năng thu
thập thông tin, nhận biết, phân tích dấu hiệu vi phạm; kỹ năng thẩm tra, xác
minh, thu thập chứng cứ; kỹ năng thiết lập các báo cáo thẩm tra, xác minh;…
Tác giả Lê Hồng Liêm với “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với
phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay - Thực trạng và giải
pháp” [113], trong chương 2, phần về bài học kinh nghiệm, các tác giả đã
khẳng định: Việc tổ chức thu thập thông tin phải nhiều phía, kiểm tra xử lý
chọn lọc thông tin để phục vụ kiểm tra, giám sát chống tham nhũng có hiệu
quả, việc lưu trữ thông tin rất cần quy củ, khoa học để khai thác khi cần thiết.
Thực tế cho thấy, cần chú trọng chọn lọc các thông tin về quan hệ nhiều mặt
của cán bộ, đảng viên và thân nhân,... khi có dấu hiệu bất minh cần có biện
pháp thẩm tra, xác minh thích hợp, chặt chẽ, kịp thời.
21
Tác giả Lê Văn Giảng trong “Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng thực hiện dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật trong Đảng” [94], đã đánh giá việc thực hiện dân chủ qua các phương
pháp, quy trình kiểm tra, kỷ luật đảng, các tác giả cuốn sách đã nhận định:
Một nội dung cơ bản trong phương pháp kiểm tra của Đảng là thực hiện dân
chủ trong công tác thẩm tra, xác minh... Qua công tác kiểm tra, nhiều đoàn
kiểm tra đã thực hiện tốt dân chủ trong thẩm tra, xác minh. Việc chủ động thu
thập bằng chứng, chứng cứ được thực hiện bằng nhiều cách như nghiên cứu
hồ sơ, tài liệu có liên quan; tiếp xúc đối với tổ chức đảng và cá nhân để yêu
cầu, động viên họ cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nội dung kiểm
tra để có cơ sở loại bỏ những thông tin sai sự thật, những chứng cứ giả hoặc
không đủ cơ sở để kết luận, gây oan ức cho đối tượng kiểm tra… Trường hợp
giữa cấp uỷ, tổ chức đảng và đoàn kiểm tra có vấn đề chưa thống nhất thì
đoàn kiểm tra yêu cầu cung cấp thêm bằng chứng để cùng trao đổi, thảo luận
hoặc tiếp tục thẩm tra, xác minh làm rõ.
Tác giả Cao Văn Thống trong “Những vấn đề cơ bản về công tác kiểm
tra, giám sát và kỷ luật của Đảng” [154], tác giả đã dành riêng một chương
(chương 8) để bàn về thẩm tra, xác minh - nghiệp vụ quan trọng, cơ bản của
công tác kiểm tra. Trong Chương này, tác giả đã nêu lên một số khái niệm
(thẩm tra; xác minh; thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng…);
phân tích đặc điểm, vị trí, ý nghĩa, tác dụng của thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng; nội dung, đối tượng và phương pháp thẩm tra,
xác minh. Ở cuối chương, tác giả cũng nêu lên những vấn đề cần lưu ý và
nắm vững khi tiến hành thẩm tra, xác minh.
Các tác giả đã khẳng định: Công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra là
công tác đảng, có đặc thù riêng là tiến hành kiểm tra, kết luận, xử lý hoặc giúp
cấp ủy xử lý kỷ luật những trường hợp có vi phạm đến mức phải xử lý. Đặc
thù này không những khác với các ban của cấp ủy mà còn khác với các cơ
22
quan bảo vệ pháp luật của Nhà nước (điều tra, truy tố, xét xử đều do từng cơ
quan độc lập tiến hành). Vì vậy, bên cạnh việc coi trọng và làm tốt các
phương pháp cơ bản của công tác đảng, cần đặc biệt coi trọng và làm tốt công
tác thẩm tra, xác minh để phục vụ cho việc kiểm tra, kết luận, xử lý được
công minh, chính xác, kịp thời.
Nguyễn Công Học trong “Một số giải pháp đảm bảo việc chấp hành kỷ
luật và việc thi hành kỷ luật đảng trong tình hình hiện nay” [98], tại chương
1, các tác giả cuốn sách đã nêu một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam khi xem xét, thi hành kỷ luật Đảng là: phải điều
tra, nghiên cứu kỹ càng, thận trọng, đi sâu tìm hiểu bản chất và căn cứ vào
những bằng chứng xác thực.
Ở chương 3, trong Nhóm giải pháp bảo đảm việc thi hành kỷ luật trong
Đảng, tại giải pháp thứ 3, các tác giả đề xuất: Trong điều kiện tự phê bình và
phê bình của đối tượng kiểm tra ngày càng giảm sút, phải đề cao và làm tốt
khâu thẩm tra, xác minh;... Chú trọng công tác thẩm tra, xác minh để làm rõ
đúng, sai, xác định cụ thể chứng lý, với thái độ công tâm, khách quan, thận
trọng và chặt chẽ, bảo đảm việc thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ
luật đảng được dân chủ, chính xác, công bằng, nghiêm minh.
Các tác giả Cao Văn Thống - Đỗ Xuân Tuất trong “Nâng cao chất
lượng kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm”
[156], đã phân tích cả về lý luận lẫn thực tiễn, đánh giá thực trạng hay đề ra
các giải pháp để nâng cao chất lượng việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ
chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, các tác giả đều
nhấn mạnh một vấn đề quan trọng là: Chỉ được khẳng định tổ chức đảng hoặc
đảng viên có vi phạm khi được tổ chức đảng có thẩm quyền qua kiểm tra,
xem xét, kết luận. Do vậy, phải hết sức coi trọng công tác thẩm tra, xác minh,
chưa thẩm tra, xác minh thì chưa được kết luận.
23
1.2.3. Luận án, luận văn
Tác giả Trương Thị Thông trong “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
kiểm tra chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay” [148], ở chương 1,
tác giả cho rằng một trong những yêu cầu của tình hình mới là sự phát triển
của xã hội đòi hỏi đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách phải thực sự có năng
lực, có phẩm chất, có bản lĩnh vững vàng để phân biệt rõ cái đúng - cái sai,
cái tiến bộ - cái lạc hậu…
Ở chương 2, khi đánh giá nguyên nhân khách quan của những khó
khăn, trở ngại về đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách, tác giả có đề cập đến
việc hệ thống luật pháp, nhiều chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước chưa
theo kịp sự phát triển của công cuộc đổi mới, chưa đồng bộ, thống nhất, thậm
chí mâu thuẫn nhau; chuẩn mực để phân biệt đúng - sai chưa rõ ràng và thiếu
nhất quán. Cũng trong chương này, tác giả đã chỉ ra bảy bài học kinh nghiệm
qua thực tiễn hoạt động của uỷ ban kiểm tra các cấp và của đội ngũ cán bộ
kiểm tra chuyên trách trong những năm qua, trong đó có kinh nghiệm thứ tư:
Phải nắm vững và chấp hành đúng phương pháp, quy trình công tác kiểm tra.
Tác giả phân tích: Trong quá trình kiểm tra, không được lẫn lộn và thay
phương pháp kiểm tra của Đảng với phương pháp kiểm tra của các cơ quan
Nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật. Vận dụng phương pháp kiểm tra
phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với nội dung, đối tượng kiểm tra và tình hình
cụ thể của đơn vị đó, nhưng dù linh hoạt đến đâu công tác kiểm tra cũng phải
dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của đảng viên để làm tốt công
tác thẩm tra, xác minh. Tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên càng yếu, đòi
hỏi công tác thẩm tra, xác minh phải tỷ mỉ và chính xác mới bảo đảm cho những
đánh giá, kết luận, xử lý có căn cứ xác đáng, khách quan và khoa học.
Luận án thực sự đã đóng góp vào công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm
tra chuyên trách nói riêng, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
24
Lê Tiến Hào trong “Công tác kiểm tra của Thành uỷ Hà Nội trong giai đoạn hiện nay” [95], đã phân tích những quan điểm cơ bản về lý luận và thực tiễn về công tác kiểm tra của Đảng và công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội; quan niệm và một số tiêu chí đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội... Luận án đánh giá thực trạng công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XII, XIII (1996 - 2002), trong đó có việc thực hiện các phương pháp công tác kiểm tra của Đảng; tổng kết một số kinh nghiệm về công tác kiểm tra... Trong các giải pháp tác giả đưa ra, đáng chú ý có giải pháp thứ ba, nâng cao chất lượng các cuộc kiểm tra của Thành ủy, chú trọng về các phương pháp kiểm tra, trong đó trọng tâm là phương pháp thẩm tra, xác minh.
Luận án thực sự đã có những đóng góp mới về mặt khoa học, góp phần vào công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra của Đảng nói chung, công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội nói riêng, nhằm thúc đẩy công tác kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong thời gian sau đạt được những kết quả tốt hơn.
Tác giả Nguyễn Thế Tư trong “Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở các tỉnh duyên hải miền Trung hiện nay” [162], đã phân tích những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; thực trạng công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra huyện ủy ở các tỉnh duyên hải miền Trung, chỉ ra những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Từ những cơ sở trên, cùng với việc chỉ rõ mục tiêu, phương hướng và quan điểm chỉ đạo, tác giả luận án đã đề ra sáu giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra huyện ủy ở các tỉnh Duyên hải miền Trung thời gian tới, trong đó có giải pháp thứ tư: chủ động phát hiện sớm dấu hiệu vi phạm, kiên quyết đấu tranh làm rõ đúng, sai, kết luận chính xác, kịp thời, đã đề cập sâu đến phương pháp thẩm tra, xác minh.
25
Tác giả Nguyễn Hoàng Minh trong “Công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh” [120], đã khẳng định, trong quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh, cán bộ
ủy ban kiểm tra phải biết tranh thủ ý kiến của cả đảng viên và quần chúng ngoài
Đảng, biết phát huy vai trò xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân để phân
tích, tổng hợp, góp phần kết luận các vấn đề kiểm tra thật sự khách quan, chính
xác về các hiện tượng vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước.
1.2.4. Các bài báo khoa học
Tác giả Lê Khắc Khoa trong “Về ngôn ngữ nói trong thẩm tra, xác
minh” [100], tác giả viết: Lời nói trở thành một cơ sở không thể thiếu và hết
sức quan trọng để dùng làm căn cứ xác thực chứng tỏ sự việc với tính chân
thật khách quan, từ đó làm căn cứ kết luận đúng sai. Đặc biệt, tác giả còn nêu
lên hai ví dụ thực tiễn sinh động: trường hợp thứ nhất, dấu hiệu vi phạm của
đối tượng kiểm tra chỉ là những chỉ đạo bằng miệng, “khẩu dụ”, không có
bằng chứng, dấu vết bằng chữ viết, nhưng dựa vào cơ sở lập luận, lý lẽ sắc
bén, qua đấu tranh, cán bộ kiểm đã khiến đối tượng kiểm tra thừa nhận vi phạm
của mình; trường hợp thứ hai, đối tượng kiểm tra không thừa nhận lời nói của
mình, nhưng nhờ việc ghi âm công khai hội nghị kiểm điểm đã trở thành chứng
cứ quan trọng để bác bỏ nội dung khiếu nại của đối tượng kiểm tra.
Để “lời nói… gió không bay”, theo tác giả: phải áp dụng các phương
pháp lưu trữ lời nói bằng cách ghi biên bản, ghi âm, ghi hình.
Tác giả Phạm Đình Phi trong “Kinh nghiệm thẩm tra, xác minh trong
giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng” [136], đã khẳng định: Để thực hiện tốt
công tác thẩm tra, xác minh trong giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng, cần thực
hiện tốt các phương pháp thu thập chứng cứ; nghiên cứu, phân tích, xử lý tài
liệu, thông tin; trưng cầu giám định của các cơ quan chuyên môn nghiệp vụ
đối với những vấn đề cần thiết. Trên cơ sở đó, tổ chức đảng có thẩm quyền
xem xét, đánh giá, kết luận những nội dung vi phạm, quy trình, nguyên tắc,
26
thủ tục và phương hướng, phương châm thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp
dưới trong quá trình xem xét, xử lý kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật
đảng. Khi thu thập tài liệu, bằng chứng, cán bộ kiểm tra phải trực tiếp gặp đối
tượng, trực tiếp đọc những thông tin, tài liệu, nhìn thấy các vật chứng, nếu cần
thì đến tận nơi xảy ra sự việc để thẩm tra, xác minh; không được chỉ nghe qua
người khác, dư luận. Muốn đánh giá đúng sự thật, phải thu thập được bằng
chứng xác thực qua các tài liệu, thông tin nhiều phía, nhiều kênh, nhiều chiều
có liên quan đến sự việc cần làm rõ.
Tác giả còn nêu thêm một kinh nghiệm rằng: Việc thu thập đầy đủ tài
liệu, thông tin, bằng chứng là rất quan trọng, nhưng việc nghiên cứu, phân
tích, xử lý tài liệu, thông tin, bằng chứng ấy một cách khoa học, khách quan,
chính xác lại càng quan trọng, vì đó là cơ sở để kết luận và xử lý đúng.
Tác giả Đỗ Hùng Cường trong “Một số vấn đề về thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra” [56], đã nhận định: Kết quả và chất lượng của thẩm
tra, xác minh có ý nghĩa quyết định việc kết luận và xử lý đối với đối tượng
kiểm tra; đồng thời chỉ ra: Một thực tế cho thấy thực trạng tình hình vi phạm,
tiêu cực nhất là tệ tham nhũng đã, đang và sẽ vẫn tiếp tục xảy ra nghiêm trọng,
có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất đó
là khâu thẩm tra, xác minh còn một số bất cập; nổi lên là không tìm ra được
chứng cứ vững chắc để kết luận vụ việc và quyết định xử lý kỷ luật.
Tác giả kết luận: Phương pháp tư duy khoa học làm cho quá trình thẩm
tra, xác minh được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, phương pháp, biện pháp
rõ ràng, khoa học và được thực hiện một cách khách quan, linh hoạt, sáng tạo
để có thể đưa ra các kết luận chính xác.
Tác giả Phạm Thành Đồng trong “Chứng cứ trong kiểm tra dấu hiệu vi
phạm khi phải tiến hành trưng cầu giám định” [93], tác giả cho rằng: chứng
cứ là những gì có thật được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật để từ đó
các cơ quan tiến hành tố tụng làm căn cứ xác định hành vi vi phạm và tội
27
phạm. Chứng cứ được xác định bằng vật chứng, lời khai của bị can, bị cáo,
của những người liên quan, người biết sự việc, kết luận giám định, các biên
bản và những tài liệu thu thập trong quá trình thẩm tra, xác minh. Mỗi chứng
cứ phải được đánh giá để xác định tính hợp pháp, khách quan, toàn diện và
đầy đủ các tình tiết.
Tác giả cũng kiến nghị với Uỷ ban Kiểm tra Trung ương một số vấn đề về
việc đề nghị trưng cầu giám định chứng cứ trong quá trình thẩm tra, xác minh.
Tác giả Phạm Thị Ngạn trong“Các yếu tố cấu thành trình độ nghiệp vụ
thẩm tra, xác minh của cán bộ kiểm tra” [122], theo tác giả: Hiện nay, các vi
phạm của tổ chức đảng và đảng viên đang có xu hướng gia tăng về số lượng
và đa dạng, phức tạp hơn về nội dung, tính chất với nhiều hình thức tinh vi và
cách thức khôn khéo. Để phân định rõ đúng sai, kết luận chính xác và xử lý
nghiêm minh các trường hợp vi phạm, đòi hỏi đội ngũ cán bộ kiểm tra phải có
nghiệp vụ vững vàng, trong đó khả năng thẩm tra, xác minh, tìm chứng cứ để
kết luận kiểm tra có ý nghĩa quyết định. Trình độ nghiệp vụ thẩm tra, xác
minh của mỗi cán bộ kiểm tra được cấu thành bởi 5 yếu tố chủ yếu: Kiến thức
và vốn sống thực tiễn; mức độ nắm vững và khả năng vận dụng lý luận về
thẩm tra, xác minh; khả năng vận dụng phương pháp thẩm tra, xác minh; vốn
kinh nghiệm cá nhân về thẩm tra, xác minh; phong cách làm việc của cá nhân.
Các yếu tố đó có mối liên kết chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Mỗi yếu tố vừa
là một bộ phận trong tổng thể, vừa có vai trò hỗ trợ cho sự phát triển và phát
huy tác dụng của các yếu tố khác; nếu có một yếu tố bị thiếu hoặc yếu thì các
yếu tố còn lại sẽ khó phát huy tác dụng.
Vũ Đình Lợi trong “Thẩm tra, xác minh - một khâu quan trọng trong
giải quyết tố cáo” [116], tác giả khẳng định: Chỉ khi làm tốt công tác thẩm
tra, xác minh, trên cơ sở bằng chứng xác thực thì việc kết luận giải quyết tố
cáo mới chính xác. Trong bài báo, tác giả nêu lên kinh nghiệm thực tiễn qua
một vụ việc giải quyết tố cáo cụ thể (về việc giả mạo bằng cấp). Qua dẫn
28
chứng đó, tác giả càng khẳng định thẩm tra, xác minh làm một khâu rất quan
trọng trong toàn bộ quá trình thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra của Đảng nói
chung, đặc biệt trong việc giải quyết đơn thư tố cáo nói riêng.
Tác giả rút ra: Để việc thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đạt
kết quả, cán bộ giải quyết tố cáo phải có quyết tâm cao, thể hiện rõ bản lĩnh,
chính kiến, nhạy bén trước mọi tình huống xảy ra; có kỹ năng nghiệp vụ
thuần thục. Đặc biệt, phải có đầu óc phán đoán đề ra phương án, kế hoạch
thẩm tra, xác minh tối ưu, phù hợp với nội dung tố cáo cần giải quyết, nhất là
đối với những đơn thư có nội dung tố cáo phức tạp, kéo dài, thời gian xảy ra
đã lâu, gây nhiều bức xúc trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân,
liên quan đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền các cấp.
Tác giả Nguyễn Trung Dong trong “Kinh nghiệm về thẩm tra, xác
minh trong giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị,
Ban Bí thư quản lý” [61], tác giả thẳng thắn nhận định: Thẩm tra, xác minh
trong giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản
lý trên địa bàn Vụ Địa phương III, Cơ quan Uỷ ban Kiểm tra Trung ương gặp
rất nhiều khó khăn, vì: đối tượng bị tố cáo, nội dung tố cáo rất đa dạng; một
số vụ tố cáo với tính chất phức tạp, nhiều nội dung, sự việc, có liên quan đến
nhiều người, nhiều cấp, nhất là cán bộ quản lý nhà nước, quản lý tài chính,
phụ trách công trình, dự án, đất đai,… Một số cán bộ bị tố cáo có thái độ phản
ứng, đối phó, bất hợp tác, không nhận khuyết điểm, vi phạm hoặc tuy có nhận
nhưng chưa tương xứng với tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân của vi
phạm, thậm chí có trường hợp còn “tố cáo ngược” cán bộ giải quyết tố cáo.
Tác giả cũng rút ra một số kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh trong
giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý,
đồng thời nhấn mạnh: Khâu thẩm tra, xác minh để tìm ra chứng cứ là một
khâu có tính quyết định trực tiếp đến nhiệm vụ giải quyết tố cáo. Hiệu quả
của việc giải quyết tố cáo phụ thuộc rất lớn vào việc tìm ra hay không tìm ra
29
chứng cứ. Mọi kết luận đúng, sai, có vi phạm hay không vi phạm của đối
tượng bị tố cáo đều bắt buộc phải dựa trên những chứng cứ xác thực, liên
quan. Qua đó, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện Bộ
Chính trị, Ban Bí thư quản lý trong thời gian tới.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu nêu trên đều là những sản phẩm
khoa học trí tuệ, nghiêm túc, chất lượng, hết sức có giá trị dù ở những mức độ
khác nhau. Các công trình hoặc nghiên cứu bình diện chung, mang tính tổng
thể, hoặc đi sâu vào một lĩnh vực cụ thể trong công tác kiểm tra của Đảng.
Mỗi công trình đều có đề cập đến hoạt động thẩm tra, xác minh - một phương
pháp, một nghiệp vụ rất quan trọng trong công tác kiểm tra của Đảng. Tuy
nhiên, các công trình đều chỉ nghiên cứu về thẩm tra, xác minh ở những khía
cạnh, góc độ nhất định, một “bộ phận” cần phân tích, đánh giá trong tổng thể
chung về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng. Ngoại trừ Đề tài khoa học cấp
Bộ KHBĐ-0015 “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm
tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng”, đến nay chưa có công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu, chuyên biệt về thẩm tra, xác minh. Mặc dù, nội
dung Đề tài KHBĐ-0015 rất có giá trị, cung cấp nhiều luận cứ, luận chứng,
luận điểm để tác giả luận án lĩnh hội, tiếp thu, song do thời gian nghiên cứu
(từ năm 2000-2001) so với tình hình thực tế hiện tại đã có nhiều thay đổi, ảnh
hưởng, tác động đến công tác kiểm tra nói chung, đến hoạt động thẩm tra, xác
minh nói riêng nên một số điểm cần nhìn nhận, đánh giá, phân tích, luận giải
thêm. Mặt khác, do yếu tố đặc thù và một số điều kiện, dung lượng nghiên
cứu của đề tài KHBĐ-0015 nêu trên cũng cần được bổ sung, hoàn chỉnh thêm.
Ở một bình diện khác, vấn đề về thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng Cộng sản cầm quyền nói riêng, của các đảng chính trị cầm
quyền nói chung một phần do hoàn cảnh, điều kiện, yếu tố chính trị, một phần
do điều kiện sưu tầm, tìm tòi, thu thập (cả ở trong nước và ngoài nước) còn
30
hạn chế, nên cho thấy các công trình nghiên cứu về vấn đề này không nhiều.
Các tài liệu đề cập đến chủ yếu qua hình thức các giáo trình, bài giảng, tài liệu
huấn luyện nghiệp vụ về kiểm tra, điều tra vụ việc, được các đoàn nghiên cứu
của các cơ quan hữu quan của Đảng, Nhà nước ta tổng hợp lại; hoặc được
giới thiệu một cách sơ lược, khái quát trong một số tài liệu của các cơ quan
chức năng của các nước bạn khi tham dự các cuộc hội đàm, hội thảo. Một vấn
đề nữa cũng cần đặt ra là, do đặc điểm, hoàn cảnh, yếu tố, thể chế chính trị
(ngay cả trong những nước có Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền) khác
nhau, nên kinh nghiệm, bài học của mỗi nước cũng có những điểm đặc thù,
không thể tiếp nhận, tiếp thu một cách tuyệt đối, máy móc, cơ học mà đòi hỏi có
sự gạn lọc, đánh giá, suy xét hợp lý để cùng trao đổi, thực hiện cho phù hợp.
Tình hình nghiên cứu trên đặt ra cho tác giả luận án yêu cầu phải
nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện hơn, hệ thống cả về phương diện lý
luận cũng như hoạt động nghiệp vụ thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng Cộng sản Việt Nam; việc tiến hành hoạt động thẩm tra, xác minh
cả trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng cũng
như trong thực hiện nhiệm vụ cấp ủy giao của ủy ban kiểm tra các cấp. Tình
hình mới với những đặc điểm, hoàn cảnh mới tác động đến công tác kiểm tra,
đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng cũng là
vấn đề, yêu cầu nhiệm vụ xuyên suốt mà luận án sẽ phải giải quyết.
31
Chương 2
THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
2.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng
2.1.1.1. Khái niệm về công tác kiểm tra của Đảng * Khái niệm kiểm tra
Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là "xem xét tình hình thực tế để
đánh giá, nhận xét" [196, tr.523]. Từ điển Luật học nêu: kiểm tra là "xem xét
tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung
hay một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét" [135, tr.265].
Còn theo Sách tra cứu các mục từ về tổ chức thì kiểm tra là: "Xem xét
tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nói chung
hay một công tác cụ thể được giao của một cơ quan, đơn vị hoặc một người
để đánh giá, nhận xét chất lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị hoặc người
đó" [126, tr.468]. Như vậy, kiểm tra cũng là công tác thuộc nhiệm vụ của cơ
quan nhà nước, của tổ chức đảng, đoàn thể cấp trên đối với cấp dưới, của thủ
trưởng hoặc người lãnh đạo đối với nhân viên dưới quyền.
* Khái niệm kiểm tra của Đảng
Theo Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI
(ban hành kèm theo Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban
Chấp hành Trung ương):
Kiểm tra của Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của
Đảng, là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu
điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới
32
và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của
Nhà nước [20, tr.02].
* Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng Theo Từ điển Tiếng Việt, “công tác” được hiểu là “công việc của nhà
nước hoặc của đoàn thể” [196, tr.48]. Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị, một bộ phận trong hệ thống chính trị Việt Nam, đồng thời có vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn xã hội. Công tác kiểm tra của Đảng có thể được hiểu là: việc chủ thể kiểm tra thông qua thực hiện các phương pháp, hình thức, biện pháp để xem xét tình hình thực tế, nhận xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có) của đối tượng kiểm tra trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đưa ra những yêu cầu, kiến nghị với đối tượng kiểm tra, các tổ chức, cá nhân có liên quan theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra.
Từ khái niệm nêu trên, có thể nhận thức về công tác kiểm tra của Đảng ở một số điểm cụ thể như sau:
Một là, công tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng. Điều lệ Đảng quy định tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.
Chủ thể kiểm tra là tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý. Đối tượng kiểm tra là tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền. Các tổ chức đảng vừa là chủ thể kiểm tra (có trách nhiệm tiến hành công tác kiểm tra), vừa là đối tượng kiểm tra (chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm quyền cấp trên). Do các tổ chức đảng có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, nên phạm vi trách nhiệm, nội dung, đối tượng, cách tiến hành kiểm tra của các tổ chức đảng được quy định cũng khác nhau.
33
Hai là, công tác kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng, là công
tác xây dựng Đảng, sinh hoạt nội bộ Đảng, do các tổ chức đảng tiến hành căn
cứ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền được Điều lệ Đảng
quy định. Do đó, tiến hành công tác kiểm tra phải theo đúng nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng, đúng tính chất công tác đảng, đúng tư tưởng chỉ đạo,
phương pháp cơ bản tiến hành công tác kiểm tra, đúng phạm vi trách nhiệm
của từng tổ chức đảng và đều phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng, nhằm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và công tác ấy.
Ba là, qua việc thực hiện hệ thống các cách thức, biện pháp mà chủ thể
và đối tượng kiểm tra phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công
tác kiểm tra, phải xem xét đúng tình hình thực tế khách quan; phát hiện ưu
điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết điểm, lệch lạc để uốn nắn, khắc phục, sửa
chữa; làm rõ đúng sai, nhận xét, đánh giá chính xác có vi phạm hay không vi
phạm để kết luận rõ ràng, một mặt để tiếp tục kiện toàn, củng cố, phát huy tổ
chức và cá nhân, mặt khác để chấn chỉnh, xử lý kịp thời, nghiêm minh vi
phạm; cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Bên
cạnh đó, qua công tác kiểm tra, phát hiện những sơ hở, thiếu sót, bất cập trong
các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện để kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình
hình thực tế, góp phần không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động lãnh đạo, quản lý.
2.1.1.2. Vị trí, vai trò công tác kiểm tra của Đảng Một là, kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng.
Thực tiễn đã khẳng định, lãnh đạo không chỉ là đề ra chủ trương,
đường lối, tổ chức thực hiện, bố trí cán bộ, động viên tư tưởng, mà còn phải
kiểm tra, giám sát. Không những kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối,
Cương lĩnh chính trị, chủ trương, chính sách, mà kiểm tra ngay từ chính
Cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách đó và kiểm tra cả các tổ chức tiến
34
hành kiểm tra nhằm bảo đảm đường lối, chính sách được xác định đúng, được
quán triệt và thực hiện thắng lợi trong thực tiễn. Đó là vấn đề có tính nguyên
tắc; vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương pháp,
quy trình lãnh đạo của Đảng.
V.I.Lênin đã khẳng định: khi đường lối, chính sách đã được xác định,
phương hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên
hàng đầu và sự lãnh đạo phải "chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc
lệnh và mệnh lệnh sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện" [105,
tr.450]. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành
công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa
chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng
mấy cũng vô ích" [118, tr.520].
Đảng ta luôn xác định kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo
của Đảng. Trong suốt quá trình hoạt động, Đảng không những luôn coi trọng,
mà xác định kiểm tra là chức năng, nội dung lãnh đạo của Đảng. Công tác
kiểm tra là khâu rất quan trọng vì nó là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ
quan lãnh đạo và chỉ đạo. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền càng
phải tăng cường công tác kiểm tra của Đảng.
Hai là, kiểm tra là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây
dựng Đảng.
Xây dựng Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức luôn là
đòi hỏi cấp thiết và có tính khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên, cán bộ làm trọn nhiệm
vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó,
mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức” [118, tr.133].
Qua thực tiễn, Đảng ta đã kết luận: công tác kiểm tra là “một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng” [81, tr.122], là "một khâu quan
trọng của tổ chức thực hiện” [81, tr.123].
35
Ba là, công tác kiểm tra là nhiệm vụ của toàn Đảng; là nhiệm vụ trực
tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên.
Công tác kiểm tra là công tác đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, được
tiến hành đối với tổ chức đảng và đảng viên. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn xác định: "Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm
vụ của toàn Đảng. Các tổ chức đảng, trước hết là các cấp uỷ đảng, Bộ Chính
trị và các ban thường vụ cấp uỷ, cần tự mình tiến hành kiểm tra và sử dụng
các ban để tổ chức thường xuyên nhiệm vụ kiểm tra" [82, tr.150-151]. Để bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm
tra các cấp phải chú trọng và thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra các tổ
chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng.
2.1.2. Nội dung, phương pháp công tác kiểm tra của Đảng
2.1.2.1. Nội dung công tác kiểm tra
Nội dung công tác kiểm tra của Đảng bao gồm kiểm tra việc thực hiện
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Đảng... - những vấn đề có tính nguyên tắc đã
được Đảng xác định, mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân thủ, chấp hành
và trở thành nội dung kỷ luật của Đảng. Tuy nhiên, Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng cũng như nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của Đảng bao gồm nhiều vấn đề lớn, rất rộng. Mặt khác, do
chức năng, nhiệm vụ và phạm vi kiểm tra của mỗi tổ chức đảng khác nhau
nên khi tiến hành kiểm tra các tổ chức đảng phải căn cứ nhiệm vụ, quyền hạn
kiểm tra của cấp mình và tình hình, đặc điểm, yêu cầu của việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của địa phương, đơn vị trong
từng thời gian và trọng tâm, trọng điểm lãnh đạo của mình để xác định nội
dung kiểm tra phù hợp.
36
Tóm lại, nội dung kiểm tra là kiểm tra việc thực hiện những nhiệm vụ
chính trị, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng có quan hệ đến chức trách, nhiệm
vụ, quyền hạn của tổ chức đảng và đảng viên. Mỗi tổ chức đảng phải căn cứ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình để xác
định nội dung kiểm tra cụ thể, phù hợp. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
việc chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể chính trị - xã hội
cũng là một nội dung kỷ luật của Đảng, đương nhiên trở thành một nội dung
kiểm tra đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên.
2.1.2.2. Phương pháp công tác kiểm tra Phương pháp công tác kiểm tra của Đảng là hệ thống các cách thức tiến
hành trong hoạt động kiểm tra của Đảng mà mọi tổ chức đảng và đảng viên
(chủ thể, đối tượng) phải tuân thủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác
kiểm tra. Khi tiến hành công tác kiểm tra, phải sử dụng đồng bộ, linh hoạt
năm phương pháp cơ bản có mối quan hệ mật thiết, không tách rời của công
tác kiểm tra đảng.
Thứ nhất: Dựa vào tổ chức đảng
Đây vừa là phương pháp cơ bản, vừa là vấn đề có tính nguyên tắc trong
công tác xây dựng Đảng nói chung. Tổ chức đảng là cơ quan lãnh đạo, quản
lý, giám sát, giáo dục, rèn luyện đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới; nơi nắm
vững tình hình, đặc điểm của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; nơi tổ chức
thực hiện và lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng
Đảng, các kết luận kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên; là nơi chịu
trách nhiệm trước tổ chức đảng cấp trên về hoạt động của tổ chức đảng và
đảng viên thuộc phạm vi quản lý của mình. Do đó, dựa vào tổ chức đảng quản
lý đối tượng kiểm tra vừa có tính nguyên tắc vừa đảm bảo tính hiệu quả, thực
tiễn của công tác kiểm tra. Có dựa vào tổ chức đảng và đảng viên, chủ thể
kiểm tra mới hiểu rõ đặc điểm tình hình, điều kiện, hoàn cảnh, khó khăn,
37
thuận lợi, ưu điểm, khuyết điểm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của đối tượng kiểm tra để có cơ sở nhận xét, đánh giá, xem xét, kết luận
một cách chính xác.
Thứ hai: Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc. Đội ngũ đảng viên bao gồm những phần tử tiên tiến, giác ngộ lý
tưởng, giác ngộ giai cấp, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng; là những
chiến sĩ cách mạng phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng. Đó là cơ sở tư
tưởng và tổ chức để tổ chức đảng và đảng viên tự giác chấp hành Điều lệ
Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và nhiệm vụ được giao; tự giác tự kiểm tra và chịu sự kiểm tra, giám sát của
tổ chức đảng có thẩm quyền.
Phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên cũng là một
vấn đề có tính nguyên tắc. Vì vậy, tiến hành công tác kiểm tra, thi hành kỷ
luật đảng, chủ thể kiểm tra cần coi trọng và làm tốt công tác tư tưởng đối với
đối tượng kiểm tra, dựa vào tính tự giác của đối tượng kiểm tra để giúp cho
việc xem xét, kết luận được khách quan, chuẩn xác. Đồng thời, không ngừng
xây dựng, phát huy và nâng cao tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình,
tính chiến đấu của đối tượng kiểm tra là mục đích của công tác xây dựng
Đảng. Đối với những trường hợp quanh co, giấu diếm sai lầm, khuyết điểm,
cần kiên trì động viên, thuyết phục, kết hợp với đấu tranh phê bình và công
tác thẩm tra, xác minh để làm rõ đúng sai, giúp việc kết luận và xử lý được
chuẩn xác.
Thứ ba: Phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng không có mục đích tự thân, mục đích của Đảng là phụng sự Tổ quốc,
38
phụng sự nhân dân. Một trong những phương châm xây dựng Đảng là tổ
chức, động viên quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp phần kiểm tra,
giám sát hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.
Mọi hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên luôn được nhân
dân quan tâm, nhận biết và giám sát, kiểm tra. Thực tiễn đã chứng minh có
nhiều vụ việc tiêu cực xảy ra trong nội bộ Đảng là do nhân dân phát hiện và
phản ảnh với tổ chức đảng có thẩm quyền. Vì vậy, tiến hành công tác kiểm
tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng phải coi trọng việc phát huy tinh thần trách
nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân. Những ý kiến nhân dân đóng góp đúng
phải trân trọng tiếp thu, khuyến khích, cổ vũ; nếu có ý kiến chưa đúng phải
giải thích để nhân dân hiểu rõ, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất giữa tổ chức
đảng, đảng viên với quần chúng.
Thứ tư: Làm tốt công tác thẩm tra, xác minh
Một trong những yêu cầu cơ bản của công tác kiểm tra là phải làm
rõ đúng, sai; đánh giá, kết luận đúng ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu
có) của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra để có quyết định chính
xác. Ngoài việc phải dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của
tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra, phát huy trách nhiệm xây dựng
Đảng của nhân dân, phải hết sức coi trọng và làm tốt công tác thẩm tra,
xác minh.
Thực hiện tốt công tác thẩm tra, xác minh chính là thực hiện tốt mối
quan hệ giữa tự giác và bắt buộc trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật
đảng. Trong điều kiện tính tự giác, tự phê bình và phê bình trong Đảng nói
chung, trong không ít tổ chức đảng và đảng viên nói riêng bị giảm sút, tính
chiến đấu không cao, có nơi bị tê liệt, để làm rõ đúng sai, phải, trái, tìm ra
chứng lý của vụ việc, làm rõ vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, đòi hỏi
phải làm tốt công tác thẩm tra, xác minh.
39
Thứ năm: Khi tiến hành công tác kiểm tra, cần có sự phối hợp giữa ủy
ban kiểm tra với các tổ chức đảng, thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân và
các đoàn thể chính trị - xã hội có liên quan
Một trong những phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, thi hành
kỷ luật đảng là phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Nhà nước,
thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, xã
hội nghề nghiệp và phối hợp với các ban, ngành có liên quan của Đảng và
Nhà nước.
Đảng ta là đảng cầm quyền, có đặc điểm đảng viên vừa là thành viên
của Đảng, vừa là công dân, là thành viên của tổ chức nhà nước và các đoàn
thể chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo. Vì vậy, nếu không có cơ chế phối hợp
chặt chẽ, phù hợp, nhất là trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng đối
với cán bộ, đảng viên của Đảng dễ dẫn đến tình trạng thiếu tập trung, thống
nhất, chồng chéo, sơ hở, kiểm tra, giải quyết vụ việc không kịp thời, chính
xác. Sự phối hợp trong công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng với công tác
thanh tra nhà nước, thanh tra của đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức
đảng trong khối nội chính đã trở thành tất yếu. Để công tác kiểm tra, thi hành
kỷ luật đảng bảo đảm có chất lượng và hiệu quả, phải có sự phối hợp chặt chẽ
giữa công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật của Đảng với thanh tra của Nhà nước,
thanh tra nhân dân, thanh tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, phối hợp giữa
uỷ ban kiểm tra với các ban của cấp uỷ, với tổ chức đảng trong các cơ quan
bảo vệ pháp luật.
2.2. THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 2.2.1. Khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
2.2.1.1. Khái niệm thẩm tra trong công tác kiểm tra của Đảng Thẩm tra là "điều tra, xem xét lại có đúng, có chính xác không một vấn
đề, một sự việc nào đó" [196, tr.922], hay diễn đạt một cách khác, là “điều tra,
tìm hiểu để xem xét lại điều đã kết luận hoặc khai báo trước có đúng, có chính
40
xác không” [198, tr.541]. Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt
Nam: “Thẩm tra là điều tra, xem xét lại kỹ lưỡng trên cơ sở tài liệu đã có, để
xác định rõ và có kết luận chính xác về một người, một việc, một hiện tượng
theo yêu cầu nhất định” [193, tr.1079]. Trong đó, điều tra là tìm hỏi, xem xét
để biết rõ sự thật. Như vậy, thẩm tra là hoạt động tìm kiếm, dò hỏi, thu thập
thông tin, chứng cứ liên quan đến vụ việc cần thẩm tra để sự việc đó được
chứng minh là đúng hay không.
Thẩm tra là một hoạt động rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, trong đó có các
lĩnh vực thuộc công tác công an, hoạt động kinh tế (thẩm tra dự án đầu tư,
thẩm tra dự toán), công tác đảng (thẩm tra lý lịch đảng viên), công tác làm
luật (thẩm tra dự án luật: là một bước (khâu) trong quá trình làm luật)…
Trong công tác kiểm tra của Đảng, thẩm tra là hoạt động của tổ chức
đảng tiến hành nắm tình hình, tìm kiếm, thu thập thông tin, tài liệu để xem
xét, nghiên cứu về những thông tin, sự kiện, sự việc có liên quan đến nội
dung, đối tượng kiểm tra. Thực chất của hoạt động thẩm tra là tiếp xúc với
các đối tượng cần thiết để tìm kiếm, thu thập thông tin, tư liệu, tiếp cận hồ
sơ, nắm bắt thông tin, tìm kiếm những cơ sở ban đầu về những chứng cứ,
nhân chứng, vật chứng… để phục vụ cho việc xác minh, thẩm định, kết
luận sau này.
2.2.1.2. Khái niệm xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng Xác minh là "làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cứ cụ thể" [196,
tr.1140], hay “làm rõ thực chất sự việc với những chứng cớ cụ thể” [198, tr.1848].
Cũng như thẩm tra, xác minh là một hoạt động có trong nhiều lĩnh vực,
như: công tác đảng (xác minh lý lịch đảng viên), công tác công an (hoạt động
xác minh đối tượng kiểm tra nghiệp vụ: “là quá trình điều tra nghiên cứu, làm
rõ trong quá trình kiểm tra nghiệp vụ nhằm kết luận những vấn đề về đối
tượng nghi có hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia” [193, tr.1318]; hay hoạt
động xác minh hiềm nghi: “là quá trình điều tra nghiên cứu cụ thể và kết luận,
41
làm rõ thực chất vấn đề nghi vấn về đối tượng để kết luận chính xác đối tượng
có phạm tội hay không” [193, tr.1319])…
Còn trong công tác kiểm tra của Đảng, xác minh là tiến hành các hoạt
động mang tính xem xét, tra cứu, phân tích, so sánh, thẩm định, đối chiếu các
chứng cứ thu thập được trong quá trình thẩm tra với thực tế, với các quy định
của Đảng, Nhà nước để tìm ra các chứng cứ liên quan đến nội dung, đối
tượng kiểm tra.
Xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là những hoạt động diễn ra
tiếp theo hoạt động thẩm tra. Nhưng, không phải lúc nào cũng cứng nhắc
thẩm tra trước, xác minh sau, mà trong thực tế hoạt động thẩm tra cùng đan
xen với hoạt động xác minh. Hai hoạt động này có quan hệ mật thiết với nhau,
hoạt động này bổ sung cho hoạt động kia và ngược lại, nhằm làm rõ hơn
những thông tin, sự việc, sự kiện thông qua nhân chứng, vật chứng đã thu
thập được ở khâu thẩm tra để đối chiếu, so sánh, sàng lọc nhằm tìm ra chứng
cứ xác thực, đúng đắn; phân biệt rõ đúng sai và kết luận một cách khách quan,
chính xác về con người và sự việc kiểm tra.
2.2.1.3. Khái niệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng Thẩm tra, xác minh là hai khái niệm không đồng nhất nhưng thường đi
kèm và quan hệ mật thiết với nhau. Thực tiễn công tác kiểm tra của Đảng cho
thấy, khái niệm thẩm tra, xác minh được dùng với tư cách là một khái niệm
ghép để chỉ một hoạt động có tính tổng hợp, hệ thống trong công tác kiểm tra
của Đảng.
Theo Đề tài khoa học (mã số KHBĐ-0015, do Nguyễn Anh Liên làm
Chủ nhiệm), thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là:
quá trình thực hiện các hoạt động tìm kiếm, phát hiện, thu thập,
xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá và sử dụng các chứng cứ;
phân tích sự liên hệ và sự phù hợp giữa các chứng cứ với nhau và
với vụ việc theo phương pháp công tác đảng, để tìm ra sự thật, chỉ
42
rõ bản chất của sự việc và hành vi của các đối tượng được kiểm tra
để kết luận rõ đúng sai [115, tr.31]
Khái niệm trên đây có điểm chưa đầy đủ, chưa rõ như: chưa xác định
được chủ thể tiến hành hoạt động thẩm tra, xác minh. Bên cạnh đó, việc nêu
cụ thể hoạt động mang tính liệt kê, chỉ việc là chưa bao quát được vấn đề, dễ
thiếu, sót nội dung cần định nghĩa.
Theo Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ ban hành năm 2012 của Uỷ ban
Kiểm tra Trung ương:
Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là việc chủ
thể kiểm tra tiến hành các hoạt động phát hiện, tìm kiếm, thu thập,
xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá và sử dụng những chứng cứ,
phân tích thông tin, tài liệu đã thu thập được liên quan đến vụ việc
kiểm tra; phân tích mối liên hệ và sự phù hợp giữa các chứng cứ với
nhau và với vụ việc kiểm tra theo các nguyên tắc, phương pháp
công tác Đảng để tìm ra sự thật, chỉ đúng bản chất thông tin, chứng
cứ đó nhằm chứng minh đối tượng được kiểm tra có hay không có
khuyết điểm hoặc vi phạm, giúp cho việc kết luận, xử lý bảo đảm
công minh, chính xác, kịp thời [175, tr.79].
Khái niệm này khá dài, mang tính giải thích, chỉ ra cách làm cụ thể,
hoặc có chỗ chưa rõ như: cho rằng chủ thể kiểm tra tiến hành các hoạt động
phát hiện, tìm kiếm… là chưa đúng thực tế, bởi chủ thể kiểm tra (là ban
thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra…) chưa bao giờ tiến hành các công việc
việc cụ thể đó, mà do các cán bộ thừa hành thực hiện, trên cơ sở giao nhiệm
vụ và chỉ đạo, điều hành của ban thường vụ, thường trực cấp uỷ, hoặc uỷ ban,
thường trực uỷ ban kiểm tra.
Từ khái niệm chung về thẩm tra, xác minh, kế thừa quan điểm của các
tác giả và thực tiễn vừa qua, tác giả luận án đưa ra khái niệm như sau: Thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động nghiệp vụ khi
43
tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành của chủ thể kiểm tra, được thực hiện thông qua một số cán bộ, nhằm tìm
ra các bằng chứng, chứng cứ cụ thể, xác thực, qua đó thẩm định, phân tích để
làm rõ sự thật, làm căn cứ để chủ thể kiểm tra nhận xét, đánh giá, kết luận và
xử lý công minh, chính xác đối tượng kiểm tra.
Khái niệm trên đây làm rõ được bản chất của thẩm tra, xác minh như vị
trí, tính chất, chủ thể chỉ đạo, chủ thể thực hiện, mục tiêu của hoạt động thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Hoạt động thẩm tra, xác minh
là hoạt động nghiệp vụ, mang tính đặc thù của công tác kiểm tra, là cách tiến
hành bước đi cụ thể để tìm kiếm chứng cứ, làm rõ đúng, sai của đối tượng
kiểm tra, đòi hỏi phải có kỹ năng, trình độ, kinh nghiệm. Việc tiến hành thẩm
tra, xác minh trực tiếp do đội ngũ cán bô kiểm tra tiến hành, theo kế hoạch và
sự chỉ đạo, điều hành của đại diện chủ thể kiểm tra. Bản chất, mục tiêu của
thẩm tra, xác minh là để chủ thể kiểm tra xem xét, kết luận, xử lý kết quả
kiểm tra một cách công minh, chính xác.
Như vậy, có thể nói, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng thực chất là sự tìm kiếm, thu thập, tra cứu, đánh giá các chứng
cứ bằng phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh một cách khoa học sâu
sắc, có hệ thống và có định hướng vào quá trình giải quyết nội dung, đối
tượng kiểm tra nhằm làm rõ bản chất của vụ việc, giúp cho đối tượng kiểm tra
nhận thức rõ những khuyết điểm, vi phạm và tham mưu giúp cấp ủy, ủy ban
kiểm tra các cấp kết luận, xử lý vụ việc một cách công minh, chính xác; đối
tượng kiểm tra “tâm phục khẩu phục”, góp phần xây dựng Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh.
Có thể xem xét, phân tích khái niệm thẩm tra, xác minh từ một số khía
cạnh chủ yếu sau:
Một là, thẩm tra, xác minh như là một công cụ quan trọng, một nguyên
tắc cơ bản trong khâu tìm kiếm, phát hiện, thu thập thông tin, chứng cứ liên
44
quan đến nội dung, đối tượng cần thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng. Đây cũng là phương pháp hiệu quả để tìm ra sự thật, bản chất sự
việc giúp các cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét kết luận, xử lý một
cách nghiêm minh, chính xác đối với các nội dung và đối tượng vi phạm.
Hai là, hoạt động thẩm tra, xác minh là khâu rất quan trọng trong công
tác kiểm tra của Đảng, nhưng phải luôn thực hiện công khai, dân chủ, tự phê
bình và phê bình để xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá, phân tích và sử
dụng các chứng cứ nhằm làm rõ bản chất của sự việc và hành vi, nội dung và
đối tượng kiểm tra để kết luận rõ đúng sai đảm bảo đúng nguyên tắc, phương
pháp công tác đảng.
Ba là, mục đích, yêu cầu cơ bản của thẩm tra, xác minh là tìm ra bản
chất, làm rõ sự thật bằng chứng cứ xác thực trên cơ sở khoa học, khách
quan. Từ chứng cứ qua thẩm tra, xác minh đã được thẩm định giúp cho các
tổ chức đảng có thẩm quyền kết luận và ra quyết định đối với các nội dung,
đối tượng kiểm tra. Độ chính xác và hiệu quả của các kết luận, quyết định xử
lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra chủ yếu tùy
thuộc vào kết quả và độ chính xác của các chứng cứ thu thập được qua thẩm
tra, xác minh.
Ngoài ra, khi bàn đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng, có một khái niệm cũng rất cần được đề cập đến, bởi nó có
ý nghĩa rất quan trọng và là yếu tố tất yếu phải tìm kiếm, phải thu thập được
mới đem lại kết quả trong hoạt động thẩm tra, xác minh, đó là chứng cứ.
Từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học xuất bản định nghĩa chứng
cứ là “cái được dẫn ra để làm căn cứ xác định điều gì đó là có thật” [196,
tr.192]; Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa chứng cứ
là “cái được dẫn ra để dựa vào đó mà xác định điều gì đó đúng hay sai, thật
hay giả” [198, tr.415]. Qua đó có thể hiểu, chứng cứ chính là những cái có
thật, được dùng làm cơ sở để xem xét, kết luận về một hành vi hay một sự
45
việc. Chứng cứ là cái đã xảy ra, là thực tế khách quan, tồn tại ngoài ý muốn
của con người. Mọi sự suy diễn, phỏng đoán hay tưởng tượng… đều không
thể thay cho chứng cứ.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, chứng cứ là những tài liệu thực tế mà
các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án làm căn cứ theo trình tự luật định để xác
định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và
những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án. Chứng
cứ được xác định bằng: vật chứng; lời khai của nguời làm chứng, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết
luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu khác.
Chứng cứ là phương tiện để xác minh sự thật về vụ án. Luật có một số yêu
cầu đối với chứng cứ nhằm bảo đảm tính xác thực, cũng như kiểm tra và đánh
giá đúng đắn chứng cứ: chứng cứ phải chứa đựng những tài liệu thực tế có
liên quan đến vụ án cụ thể; phải được rút ra từ những nguồn do luật quy định.
Trong công tác kiểm tra của Đảng, khi tiến hành kiểm tra tổ chức đảng
hoặc đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại
hay kết thúc một cuộc kiểm tra chấp hành thì phải kết luận được việc làm
đúng, sai của đối tượng kiểm tra để quyết định xử lý hoặc đề nghị cấp có thẩm
quyền xử lý kỷ luật một cách thỏa đáng. Vì vậy, trong hoạt động thẩm tra, xác
minh không chỉ tìm chứng cứ để kết luận hành vi của đối tượng kiểm tra có vi
phạm hay không, mà còn phải tìm cả những chứng cứ để kết luận việc làm
đúng, tốt của đối tượng kiểm tra. Đó chính là những điểm cơ bản của chứng
cứ trong hoạt động kiểm tra của Đảng.
Vậy, chứng cứ trong hoạt động thẩm tra xác minh trong công tác kiểm
tra của Đảng là những sự vật, hiện tượng có thật, liên quan đến nội dung, đối
tượng kiểm tra; giải quyết tố cáo, khiếu nại kỷ luật đảng, được các tổ chức
đảng, ủy ban kiểm tra các cấp thu thập trong quá trình thẩm tra, xác minh,
dùng làm căn cứ để kết luận việc làm đúng, sai của đối tượng kiểm tra.
46
2.2.2. Vị trí, vai trò, đặc điểm của thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng
2.2.2.1. Vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng Trong công tác kiểm tra, giám sát, kiểm kê, kiểm soát, V.I.Lênin rất coi
trọng công tác thẩm tra, xác minh; coi trọng phương pháp đối chiếu, so sánh,
cụ thể, tỉ mỉ với công việc, xem xét, cụ thể trên hồ sơ, tài liệu, sổ sách, chứng
từ, làm rõ đúng, sai, phải trái, làm rõ chứng lý để kết luận được chuẩn xác.
Người phê phán thái độ kiểm tra, giám sát quan liêu, thiếu dân chủ, không sâu
sát, trực tiếp tại chỗ, không xem xét cụ thể hồ sơ, tài liệu, sổ sách, không coi
trọng thực hiện công tác thẩm tra, xác minh, mà chỉ nghe báo cáo trên giấy.
Lênin chỉ rõ: "các ủy ban nhà máy đang muốn có một sự kiểm soát thật sự của
công nhân, chứ không phải là một sự kiểm soát trên giấy tờ" [105, tr.303]. Và
Người yêu cầu: phải "thực sự cầu thị, bằng cách hỏi han tỉ mỉ, kiểm tra các
con số, chứ không chỉ tin vào lời nói..." [109, tr.389]. V.I.Lênin nêu rõ cách
thức thực hiện công tác thẩm tra, xác minh là phải:
đưa ra các tài liệu cụ thể, thực tế, có số liệu, về những lực lượng
nào (trước hết là các đảng viên, sau đến những người ngoài Đảng
nhưng phải tuyệt đối trung thực) mà chúng ta có để tiến hành một
cuộc kiểm tra thực tế. Số lượng chuyên gia ở các ngành, số lượng
đồng chí có kinh nghiệm trong công tác hành chính, trong công tác
quản lý [107, tr.417].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, phương pháp thi
hành kỷ luật đảng, Người cho rằng: để thi hành kỷ luật bảo đảm công minh,
chính xác, kịp thời, đúng phương châm, nguyên tắc, thủ tục thì phải coi trọng
công tác kiểm tra và người đi kiểm tra phải chú trọng khâu thẩm tra, xác minh
để xem xét sự việc, làm rõ đúng, sai, nội dung, tính chất, mức độ, tác hại và
nguyên nhân của vi phạm, giúp cho việc kết luận và xử lý vi phạm được chuẩn
47
xác. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "…cần phải phân tách rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét
kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng" [118, tr.284].
Trong công tác kiểm tra, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đề cao vị trí,
vai trò của thẩm tra, xác minh. Về phương châm, phương pháp xem xét, thi
hành kỷ luật, Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương được thảo luận và thông
qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10-
1930 ghi rõ: “Trước khi quyết định kỷ luật, tổ chức của Đảng phải điều tra,
nghiên cứu tại chỗ cho rõ ràng sự thực, tập hợp đầy đủ chứng cớ mọi mặt,
trên cơ sở đó mà phân tích một cách cụ thể, toàn diện và khách quan, xác
định đúng mức độ, tính chất, nguyên nhân” [128, tr.376]. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III, Đảng ta đã chỉ rõ khuynh hướng lệch lạc trong
thi hành kỷ luật:
Một số đồng chí trong các cấp ủy khi thi hành kỷ luật đảng viên,
không chú ý làm công tác tư tưởng một cách sâu sắc và tỉ mỉ, thiếu
nhẫn nại, kiên trì thuyết phục, thiếu phân tích tính chất sai lầm, làm
rõ nguồn gốc sai lầm và vạch rõ phương pháp sửa chữa, sau đó lại
không theo dõi, giúp đỡ, tạo điều kiện cho đảng viên phạm lỗi tiến
bộ [92, tr.165].
Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
đã quy định: “Việc thi hành kỷ luật là để đảm bảo cho kỷ luật của Đảng
được nghiêm minh… phải điều tra nghiên cứu kỹ càng và căn cứ vào những
bằng chứng xác thực” [92, tr.812]. Đến Đại hội lần thứ IV, Điều lệ Đảng
quy định: “Việc thi hành kỷ luật của Đảng phải đảm bảo chặt chẽ, kịp thời…
phải hết sức thận trọng; phải điều tra, nghiên cứu kỹ càng, đi sâu tìm hiểu
bản chất, tránh chỉ nhìn hiện tượng và phải căn cứ vào những bằng chứng
xác thực” [79, tr.298].
Có thể nhìn nhận thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
ở một số vị trí, vai trò sau:
48
Một là, thẩm tra, xác minh là khâu quan trọng, không thể thiếu được
trong toàn bộ quy trình thực hiện công tác kiểm tra của Đảng
Yêu cầu của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng là xem xét
khách quan, kết luận chính xác, xử lý nghiêm minh. Để đạt mục đích đó, phải
tiến hành thẩm tra, xác minh để thu thập chứng cứ, chuẩn bị chứng lý sắc bén
cho các kết luận kiểm tra. Muốn tìm được chứng cứ, xây dựng được chứng lý
chỉ có thể thực hiện được sau khi đã tiến hành thẩm tra, xác minh.
Trong thực tiễn hiện nay, các vi phạm đang có xu hướng ngày càng gia
tăng với biểu hiện rất đa dạng, nội dung và tính chất phức tạp, thủ đoạn tinh
vi, quy mô rộng cộng với tính tự giác, trung thực, tinh thần tự phê bình và phê
bình của một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút làm cho công tác kiểm tra
gặp nhiều khó khăn. Tình hình đó đòi hỏi phải hết sức chú trọng công tác
thẩm tra, xác minh, coi đó là khâu then chốt trong công tác kiểm tra của
Đảng; nếu chưa thẩm tra, xác minh hoặc thẩm tra, xác minh chưa rõ ràng, chu
đáo thì chưa chưa được kết luận, xử lý đối với nội dung và đối tượng kiểm tra.
Thẩm tra, xác minh tốt, có chất lượng góp phần có tính quyết định đến kết
quả kiểm tra, ngược lại sẽ ảnh hưởng đến công tác kiểm tra, làm cho công tác
kiểm tra hạn chế, khuyết điểm, thậm chí yếu kém.
Hai là, chất lượng và kết quả của hoạt động thẩm tra, xác minh trực
tiếp quyết định độ chính xác của các kết luận và độ xác đáng của các quyết
định xử lý của tổ chức đảng có thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra
Mục đích, yêu cầu của công tác kiểm tra là phải xem xét, đánh giá, kết
luận chính xác ưu điểm, khuyết điểm, tính chất, mức độ, tác hại, nguyên nhân
vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra để quyết định xử lý
theo thẩm quyền. Chất lượng, hiệu quả, hiệu lực công tác kiểm tra tuỳ thuộc
rất lớn vào việc đánh giá, kết luận đó. Muốn vậy, việc thẩm tra, xác minh phải
có chất lượng, hiệu quả, phải tìm ra được các bằng chứng khách quan, xác
đáng để chứng minh cho các kết luận kiểm tra. Kết quả thẩm tra, xác minh là
49
căn cứ, cơ sở để tổ chức đảng có thẩm quyền có đầy đủ thông tin đánh giá,
nhận xét, quyết định đến vấn đề, nội dung kiểm tra; điều đó cũng ảnh hưởng
đến sinh mệnh chính trị của đối tượng kiểm tra.
Ba là, thẩm tra, xác minh góp phần giúp công tác kiểm tra giữ gìn tính
nghiêm minh của kỷ luật đảng, bảo đảm sự công bằng trong tổ chức, xây
dựng nội bộ đoàn kết, trong sạch, vững mạnh
Hoạt động thẩm tra, xác minh phải đi đến cùng để nhằm làm rõ đúng,
sai, vi phạm hay không vi phạm của đối tượng được kiểm tra; thanh minh
cho những đảng viên, tổ chức đảng bị oan, sai, xử lý nghiêm minh, chính
xác những cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng có vi phạm. Thẩm tra, xác
minh tốt còn góp phần ngăn ngừa, giáo dục cán bộ, đảng viên trong tổ chức
đảng được kiểm tra có vi phạm, tiêu cực và cả những tổ chức đảng và đảng
viên chưa được kiểm tra. Mặt khác, qua thẩm tra, xác minh, chỉ ra cái đúng,
mặt ưu điểm, việc nghiêm túc chấp hành các quy định của tổ chức đảng,
đảng viên để công khai, phát huy. Hoạt động công tác kiểm tra nói chung,
hoạt động thẩm tra xác minh nói riêng đều nhằm góp phần xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh.
Để thực hiện phương châm "công minh, chính xác, kịp thời" trong việc
thi hành kỷ luật của Đảng, phải quan tâm đến khâu thẩm tra, xác minh. Thực
tiễn đã chứng minh, nhiều vụ việc sau kiểm tra kết luận, xử lý không chính
xác, xử lý oan, sai gây hậu quả nghiêm trọng đến sinh mệnh chính trị của cán
bộ, đảng viên, ngược lại nhiều trường hợp xử lý không nghiêm có nguyên
nhân từ khâu thẩm tra, xác minh. Thực tiễn cũng chỉ rõ tình hình tiêu cực, vi
phạm nhất là tệ tham nhũng đã, đang và vẫn tiếp tục xảy ra ngày càng nghiêm
trọng do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân cơ bản là khâu
thẩm tra, xác minh còn nhiều hạn chế, bất cập, không tìm ra được chứng cứ,
nên không có cơ sở vững chắc để xem xét, quyết định xử lý.
50
Bốn là, thẩm tra, xác minh góp phần thúc đẩy tính tự giác, trung thực
tiên phong của đảng viên
Thẩm tra, xác minh tốt không những thể hiện trách nhiệm, chất lượng,
hiệu quả của hoạt động kiểm tra mà còn góp phần thúc đẩy tính tự giác của
đảng viên. Hoạt động thẩm tra, xác minh có chất lượng sẽ chỉ ra đúng những
mặt tốt cũng như những mặt thiếu sót, hạn chế từ những chứng cứ cụ thể,
những kết quả tìm thấy, những luận giải có lý, có tình. Qua đó, cán bộ, đảng
viên, tổ chức đảng nhìn lại mình, soi chiếu mình rõ hơn, có trách nhiệm hơn
với tổ chức và với những việc do bản thân mình làm để nghiêm túc nhìn nhận,
đánh giá, tự phê bình một cách chân thành, thẳng thắn, nghiêm túc, cầu thị về
cả những ưu điểm và khuyết điểm. Bên cạnh đó, thẩm tra, xác minh còn
khuyến khích quần chúng nâng cao trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng, góp
ý cho tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên nhằm giữ uy tín của Đảng và nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.
2.2.2.2. Đặc điểm của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng Một là, thẩm tra, xác minh là hoạt động trong nội bộ Đảng, liên quan
đến sự lãnh đạo, thực hiện và kỷ luật đảng, chủ yếu giữa các tổ chức đảng và
từng đảng viên. Tuy nhiên, do Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn bộ
xã hội, nên nhiều vấn đề trong nội bộ Đảng cũng liên quan đến quần chúng
nhân dân, đến các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
So với các hoạt động nghiệp vụ khác của các cơ quan điều tra, thanh
tra, nội chính, tư pháp, giữa hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm
tra với hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ
của Đảng có khá nhiều nét tương đồng vì đây đều là các hoạt động nội bộ
Đảng, với mục đích củng cố tổ chức, nội bộ trong sạch, vững mạnh. Còn khi
so sánh với các hoạt động nghiệp vụ khác, hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng cũng như hoạt động điều tra hình sự và thanh tra
của Nhà nước có những điểm tương đồng ở chỗ, đều có mục đích chung là
51
thông qua hoạt động tìm tòi, thu thập, tra cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh,
thẩm định,… để làm rõ sự thật của sự việc, hiện tượng để kết luận rõ đúng,
sai; phát huy những nhân tố tích cực, phát hiện, phòng ngừa, xử lý vi phạm,
góp phần cho hoạt động lãnh đạo, quản lý đạt hiệu quả, có trật tự, nền nếp,
theo khuôn khổ, từ đó, tạo điều kiện để từng bước hoàn thiện cơ chế lãnh
đạo, quản lý, tăng cường kỷ cương, kỷ luật để xây dựng tổ chức trong sạch,
vững mạnh.
Chủ thể chính chỉ đạo và trực tiếp thực hiện thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra là cấp ủy, ủy ban kiểm tra, cán bộ kiểm tra; còn trong công
tác bảo vệ chính trị nội bộ là ban tổ chức, cán bộ tổ chức của cấp ủy; còn chủ
thể thanh tra là các cơ quan quản lý Nhà nước; chủ thể trong hoạt động điều
tra gồm có: cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển.
Hai là, nội dung thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
là xem xét, đánh giá những vi phạm trong việc thực hiện Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng,
pháp luật của Nhà nước của các tổ chức đảng và đảng viên để kết luận và kiến
nghị xử lý kỷ luật. Trong khi đó, nội dung thanh tra là xem xét, đánh giá, xử
lý việc thực hiện chính sách, pháp luật. Nội dung của hoạt động điều tra hình
sự là điều tra, xác minh tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật của Nhà nước,
nghĩa vụ của công dân…
Đối tượng thẩm tra, xác minh có liên quan đến các cấp ủy, tổ chức
đảng, đảng viên; đối tượng thanh tra liên quan đến các cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự quản lý; còn đối tượng điều tra liên quan đến các loại tội phạm.
Ba là, thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng được tiến
hành theo nguyên tắc và phương pháp công tác đảng: công khai, dân chủ,
dựa vào tổ chức đảng, phát huy tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên,
52
phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng, đối tượng kiểm tra
đồng thời là chủ thể kiểm tra nên vừa có quyền, vừa có trách nhiệm tự
kiểm tra.
Phương pháp thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng - là
hoạt động nội bộ của Đảng - nên, phải lấy tự phê bình và phê bình làm biện
pháp chính yếu. Khi tiến hành thẩm tra, xác minh phải dùng phương pháp vận
động, thuyết phục, cảm hoá, nêu gương là chủ yếu, không được “cài bẫy”, ép
buộc hoặc hứa hẹn vô nguyên tắc.
Phương pháp thẩm tra, xác minh trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ
để làm rõ về lịch sử chính trị và chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên được
thực hiện qua: thu thập thông tin, tài liệu; nghiên cứu, phân tích, đánh giá,
phát hiện vấn đề cần xem xét về chính trị nội bộ. Việc nghiên cứu hồ sơ, lý
lịch của cán bộ, đảng viên chủ yếu thực hiện theo phương pháp nghiên cứu tại
chỗ. Trong quá trình thực hiện, hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
bảo vệ chính trị nội bộ còn có thể thông qua cơ quan chủ trì yêu cầu các cơ
quan tra cứu, cung cấp thông tin từ tàng thư hồ sơ nghiệp vụ an ninh, cảnh sát,
quân đội, hồ sơ ta thu được của địch, tàng thư căn cước, trích xuất thông tin từ
các cơ sở dữ liệu quản lý hộ chiếu, xuất nhập cảnh, đăng ký và quản lý
phương tiện giao thông, thuế, hải quan, ngân hàng…; đồng thời, có thể yêu
cầu cán bộ, đảng viên giải trình, tiếp xúc nhân chứng, người có trách nhiệm,
quyền lợi liên quan, người tố cáo, tố giác… hoặc đề nghị các cơ quan chức
năng phối hợp, xác minh làm rõ một số nội dung, kể cả xác minh sự việc, con
người có liên quan đến yếu tố nước ngoài.
Trong khi đó, hoạt động thanh tra phải thực hiện theo trình tự, thủ
tục, thẩm quyền được quy định tại Luật Thanh tra và các quy định khác của
pháp luật. Trong công tác thanh tra, phương pháp cơ bản cũng dựa trên sự
động viên, khuyến khích, thuyết phục nhưng còn được sử dụng quyền lực
hành chính.
53
Bốn là, trong quá trình thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng không sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp
luật như sử dụng cơ sơ bí mật, đặc tình, ngoại tuyến…
Trong hoạt động điều tra, cơ quan điều tra được áp dụng mọi biện pháp
do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người đã thực
hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố. Trong điều tra hình sự,
ngoài việc giải thích, giáo dục, thuyết phục kẻ phạm tội, cơ quan điều tra
còn được áp dụng các biện pháp như trinh sát, đặc tình và các biện pháp
ngăn chặn khác.
Năm là, hoạt động thẩm tra, xác minh được thực hiện theo các khâu:
lập kế hoạch thẩm tra, xác minh, tiến hành thẩm tra, xác minh, báo cáo kết
quả thẩm tra, xác minh và sử dụng kết quả thẩm tra, xác minh để kết luận và
xử lý (nếu có vi phạm) theo thẩm quyền được quy định trong Điều lệ Đảng và
các quy định khác trong Đảng.
Về sử dụng các kết quả thu được: kết quả thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra đảng được báo cáo trình tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, ủy
ban kiểm tra xem xét, kết luận theo thẩm quyền; nếu không thuộc thẩm quyền
thì báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định. Đối với thanh
tra, sau khi có kết quả thanh tra phải báo cáo, trình thủ trưởng cơ quan xem
xét, ra kết luận và xử lý theo thẩm quyền. Đối với cơ quan điều tra, sau khi có
kết luận điều tra phải chuyển hồ sơ sang cơ quan kiểm sát cùng cấp để ra
quyết định truy tố bị can, chuyển hồ sơ sang Tòa án xét xử; nếu chưa đủ yếu
tố cấu thành tội phạm phải có quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra.
Hoạt động điều tra hình sự có nhiệm vụ tiếp tục và mở rộng công tác
điều tra vụ án, vì đây là hoạt động đấu tranh chống tội phạm. Hoạt động thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng chỉ được tiến hành theo đúng
nội dung đã đề ra trong kế hoạch, nội dung tố cáo, khiếu nại; không được làm
những việc ngoài kế hoạch hoặc ngoài nội dung tố cáo, khiếu nại. Tuy nhiên,
54
trong quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh, nếu phát hiện nội dung, tình tiết
mới phải báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định; nếu cần giám định
kỹ thuật thì phải tiến hành trưng cầu giám định.
2.2.3. Nguyên tắc và thẩm quyền, trách nhiệm thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
2.2.3.1. Nguyên tắc thẩm tra, xác minh Hiện nay chưa có văn bản chính thống nào xác định nguyên tắc công
tác kiểm tra cũng như nguyên tắc hoạt động thẩm tra, xác minh. Từ nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng và thực trạng vừa qua, tác giả luận án cho rằng quá trình thẩm tra, xác minh phải thực hiện các nguyên tắc sau đây:
Một là, phải bám sát mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm tra. Thẩm tra, xác minh là một khâu trong quá trình tiến hành cuộc kiểm
tra, nhằm phục vụ cuộc kiểm tra. Mục đích cuối cùng của hoạt động thẩm tra, xác minh là tìm được chứng cứ xác thực, phải làm rõ sự thật, để kết luận nội dung, đối tượng kiểm tra, vì vậy phải căn cứ và thực hiện bằng được mục đích, yêu cầu cuộc kiểm tra mà chủ thể kiểm tra đã xác định. Có bám vào mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm tra thì mới có cơ sở từ khâu chuẩn bị đến quá trình thực hiện, là căn cứ để xác định đối tượng, phương pháp, cách thức thẩm tra, xác minh. Nội dung kiểm tra là cơ sở, cái gốc, là yếu tố để xác định đối tượng thẩm tra, xác minh. Nếu không bám vào nội dung kiểm tra thì quá trình thẩm tra, xác minh sẽ chệch hướng, tràn lan. Khi đã xác định rõ đối tượng thẩm tra, xác minh sẽ thuận lợi cho quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, tiếp cận đúng các cá nhân, tổ chức có liên quan và dự kiến các tình huống xảy ra để giải quyết, hướng đến việc tìm ra bản chất, chỉ đúng sự thật bằng chứng cứ và đã được kiểm chứng trở thành chứng lý kiểm tra.
Hai là, tiến hành thẩm tra, xác minh phải dân chủ, công khai, thận trọng, chặt chẽ, công tâm, khách quan; không bị chi phối bởi bất kỳ sức ép nào
Dân chủ, công khai, thận trọng, chặt chẽ, công tâm, khách quan là điều
bắt buộc trong quá trình thẩm tra, xác minh, là quy định trong sinh hoạt đảng.
55
Có dân chủ thì mới phát huy được trí tuệ, sức mạnh của tổ chức đảng và đảng
viên, mới giúp cho việc thẩm tra, xác minh thực hiện nhanh chóng, có kết
quả. Khi dân chủ trong Đảng, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình được
phát huy thì chất lượng công tác kiểm tra nói chung và thẩm tra, xác minh nói
riêng sẽ được nâng lên. Công tác kiểm tra liên quan đến sứ mạng chính trị của
tổ chức đảng và đảng viên, vì vậy cần phải tiến hành thận trọng, chặt chẽ và
hết sức khách quan, công tâm, không được thiên vị, mang động cơ cá nhân.
Hoạt động thẩm tra, xác minh phải công khai, minh bạch, không được bí mật,
vì đối tượng kiểm tra cũng đồng thời là chủ thể kiểm tra hoặc chủ thể tự kiểm
tra, họ biết và có trách nhiệm với các hành vi của mình.
Công tác kiểm tra nói chung và quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh
nói riêng là công việc phức tạp, đầy khó khăn, liên quan trực tiếp đến tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ có chức quyền. Vì vậy,
trong chừng mực nhất định sẽ có thể bị chi phối bởi những sức ép vô hình và
hữu hình từ tâm lý, tình cảm, quyền lực. Nếu bị các sức ép chi phối, cán bộ
kiểm tra sẽ giảm sút ý chí, trắng đen lẫn lộn, tiến hành không khách quan, "dĩ
hoà vi quý", kết quả thẩm tra, xác minh không đúng sự thật, không đúng bản
chất. Để tiến hành tốt thẩm tra, xác minh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kiểm tra, cán bộ kiểm tra phải đề cao trách nhiệm, có bản lĩnh
vững vàng trước mọi cám dỗ, có dũng khí, không sợ và không được để bất cứ
sức ép nào tác động, chi phối trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
Ba là, thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng và phương
pháp công tác kiểm tra đảng
Thẩm tra, xác minh là công việc trong nội bộ Đảng vì vậy phải tuân thủ
các nguyên tắc, quy định của Đảng và phương pháp công tác kiểm tra. Các
nguyên tắc, quy định là căn cứ, nền tảng để quá trình thẩm tra, xác minh dựa
vào đó xem xét, đối chiếu, so sánh, nhận xét, kết luận. Phương pháp công tác
kiểm tra đã được đúc kết từ thực tiễn, từ nguyên tắc xây dựng Đảng, mang
56
tính Đảng, khác với phương pháp công tác của cơ quan bảo vệ pháp luật.
Phương pháp đó cũng cần được chứng minh bằng phép suy luận khoa học,
bằng tư duy lãnh đạo, bằng đạo đức kiểm tra đảng, phân tích khoa học trên cơ
sở tư duy lý trí và tư duy pháp lý phù hợp với nguyên tắc đảng.
Ở một góc độ khác, hoạt động thẩm tra, xác minh nhất thiết và chủ yếu
phải dựa vào hệ thống tổ chức đảng, tiến hành hoạt động đa phương gồm
nhiều chủ thể, trong đó đối tượng kiểm tra cũng được đồng thời là chủ thể
kiểm tra. Quá trình thẩm tra, xác minh không được cản trở việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị, hoạt động bình thường, cũng như hạn chế tính năng động,
sáng tạo, nhân tố phát triển của các tổ chức và cá nhân liên quan.
2.2.3.2. Thẩm quyền, trách nhiệm thẩm tra, xác minh Thẩm quyền tức là quyền quyết định một vấn đề nào đó, như thẩm
quyền quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo, thi hành
kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên. Thẩm quyền thẩm tra, xác minh gắn liền
với thẩm quyền kiểm tra. Tổ chức đảng nào quyết định kiểm tra thì thẩm
quyền thẩm tra, xác minh thuộc tổ chức đó. Khi quyết định kiểm tra một đối
tượng nào đó thì chủ thể kiểm bao giờ cũng quyết định kế hoạch kiểm tra và
trong kế hoạch kiểm tra có khâu thẩm tra, xác minh ở trong bước tiến hành
kiểm tra. Chủ thể kiểm tra có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, điều hành, xử lý
mọi vấn đề trong quá trình kiểm tra, tổ chức lực lượng, như lập đoàn (tổ)
kiểm tra, việc thẩm tra, xác minh và xem xét, kết luận nội dung thẩm tra, xác
minh. Tuy nhiên, việc chỉ đạo, điều hành, tiến hành kiểm tra được phân công,
phân nhiệm cho thường trực của chủ thể kiểm tra, như thường trực cấp uỷ,
thường trực tổ chức đảng, thường trực uỷ ban kiểm tra, còn việc tiến hành
kiểm tra, tiến hành thẩm tra, xác minh thì giao cho một số cán bộ, thông qua
đoàn (tổ) kiểm tra. Như vậy, việc quyết định và chỉ đạo thẩm tra, xác minh
thuộc thẩm quyền của chủ thể kiểm tra, còn việc tiến hành thẩm tra, xác minh
do đội ngũ cán bộ kiểm tra thực hiện.
57
Đối với đoàn (tổ) và cán bộ kiểm tra phải có trách nhiệm thực hiện
đúng mục đích, yêu cầu cuộc kiểm tra và sự chỉ đạo của chủ thể kiểm tra về
hoạt động thẩm tra, xác minh. Thẩm tra, xác minh không đầy đủ, chính xác,
trung thực là trách nhiệm của cán bộ và đoàn (tổ) kiểm tra.
2.2.4. Nội dung, đối tượng, quy trình, phương pháp thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Mỗi cuộc kiểm tra có nhiệm vụ, nội dung, đối tượng cụ thể khác nhau.
Mặt khác, trong mỗi nhiệm vụ kiểm tra, tuỳ thuộc nội dung, đối tượng kiểm
tra mà có nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh khác nhau. Do đó, công tác
thẩm tra, xác minh trong quá trình thực hiện từng nhiệm vụ kiểm tra lại có nội
dung, đối tượng cụ thể khác nhau.
2.2.4.1. Nội dung thẩm tra, xác minh Nội dung thẩm tra, xác minh là những nội dung kiểm tra có vấn đề cần
được xem xét, làm rõ. Mỗi nhiệm vụ kiểm tra và vụ việc kiểm tra có nội dung
riêng nên nội dung thẩm tra, xác minh rất đa dạng, tùy thuộc vào nội dung
kiểm tra. Nội dung kiểm tra rất rộng, ở nhiều lĩnh vực khác nhau và liên quan
đến nhiều người, nhiều cấp, nhiều ngành trong xã hội. Do vậy, việc xác định
nội dung thẩm tra, xác minh cần tập trung vào những nội dung trọng tâm,
trọng điểm để tránh lan man, không xác định đúng bản chất của vấn đề. Tuy
nhiên, không được bỏ sót nội dung thẩm tra, xác minh dẫn đến không làm rõ
được nội dung kiểm tra. Việc xác định nội dung thẩm tra, xác minh chuẩn xác
là điều kiện bảo đảm chất lượng, hiệu quả của quá trình thẩm tra, xác minh.
Nội dung thẩm tra, xác minh bao gồm: những mâu thuẫn giữa sự việc
so với các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; những vấn đề có tố
cáo, hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm Điều lệ Đảng, các nghị quyết, quy
định của Đảng, pháp luật của Nhà nước cần đi sâu nghiên cứu; những vấn đề
đã gợi ý kiểm điểm, giải trình nhưng chưa được các đối tượng kiểm tra báo
cáo, làm rõ.
58
2.2.4.2. Đối tượng thẩm tra, xác minh
Cần phân biệt đối tượng kiểm tra với đối tượng thẩm tra, xác minh.
Đối tượng kiểm tra là những tổ chức đảng, đảng viên có vấn đề cần xem xét,
làm rõ, còn đối tượng thẩm tra, xác minh là những thông tin, tư liệu, sự việc,
hiện vật và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến đối tượng và nội dung cần
kiểm tra.
Như vậy, đối tượng thẩm tra, xác minh bao giờ cũng rộng hơn, đa dạng
và phức tạp hơn. Giữa đối tượng kiểm tra và đối ượng thẩm tra, xác minh bao
giờ cũng có mối quan hệ qua lại, mối quan hệ nhân quả. Việc làm của đối
tượng kiểm tra thường thông qua, thể hiện qua đối tượng thẩm tra, xác minh.
Vì vậy, xác định đúng đối tượng thẩm tra, xác minh, nhất là đối tượng chủ
yếu trong quá trình tiến hành nhiệm vụ là rất quan trọng, vì đó là những điểm
cần tập trung để nhanh chóng làm rõ sự thật.
Quá trình thu thập tài liệu, thông tin, qua sự am hiểu, tinh tường và
nhạy cảm của cán bộ kiểm tra mà xác định mối liên hệ, tính chất của sự việc,
phát hiện những điểm mâu thuẫn, bất hợp lý, những điều chưa rõ ràng, những
dấu hiệu của sự bưng bít, che giấu... để xác định sự liên hệ, các đối tượng và
nội dung cần thẩm tra, xác minh.
2.2.4.3. Quy trình tiến hành thẩm tra, xác minh
Quy trình thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là
những quy định về trình tự thủ tục các hoạt động chủ yếu để tiến hành xem
xét, tra cứu, thẩm định nhằm mục tiêu tìm ra sự thật của những thông tin, sự
kiện, hành vi có liên quan đến nội dung và đối tượng kiểm tra của Đảng.
Trong quy trình thẩm tra, xác minh có nhiều khâu, nhiều động tác hoạt
động và có thể chia thành nhiều bước cụ thể. Tuy nhiên, quy trình tiến hành
thẩm tra, xác minh hiện nay vẫn thường được quy tụ và thực hiện theo 3 bước
cơ bản mang tính tổng quát như sau:
59
Bước thứ nhất, chuẩn bị và xây dựng kế hoạch
Là bước có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm xác định mục đích, yêu
cầu, nội dung, phương pháp thẩm tra, xác minh, thời gian, tổ chức lực lượng
tiến hành thẩm tra, xác minh; xác định những đối tượng thẩm tra, xác minh: tổ
chức, cá nhân cần tiếp xúc; những thông tin, chứng cứ cần thu thập,... và dự
kiến những tình huống có thể phát sinh và cách giải quyết. Trong bước này
cần tiến hành khảo sát tình hình về đối tượng kiểm tra và các tổ chức, đơn vị
liên quan; nghiên cứu xác định mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp
thẩm tra, xác minh; lập kế hoạch cụ thể: dự kiến về thời gian, lực lượng, phân
công, phân nhiệm; dự định những đối tượng cần gặp, những tổ chức cần tiếp
xúc, những thông tin cần tiếp cận, những chứng cứ cần thu thập…
Bước thứ hai, tiến hành các hoạt động thẩm tra, xác minh
Đây là bước, công đoạn quan trọng nhất. Kết quả thẩm tra, xác minh
chủ yếu phục thuộc vào bước này.
Trước hết, đoàn (tổ) kiểm tra thông báo với tổ chức, cá nhân có liên
quan về kế hoạch thẩm tra, xác minh; nghe báo cáo về các nội dung cần thẩm
tra, xác minh.
Tiếp xúc đối tượng kiểm tra. Yêu cầu đối tượng kiểm tra báo cáo kiểm
điểm tường trình và cung cấp thông tin, chứng cứ liên quan nội dung kiểm tra.
Làm tốt công tác tư tưởng và hướng dẫn đối tượng báo cáo tường trình, giải
trình, kiểm điểm trên tinh thần tự phê bình trung thực, tự giác và nghiêm túc
của đối tượng kiểm tra là khâu quan trọng hàng đầu của hoạt động thẩm tra,
xác minh.
Tiếp xúc các tổ chức đảng có liên quan (chi bộ, đảng uỷ, ban cán sự
đảng...). Yêu cầu cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành sinh hoạt tự phê bình và
phê bình trong tổ chức đảng một cách nghiêm túc; yêu cầu lãnh đạo giáo dục,
đôn đốc đối tượng kiểm tra nghiêm túc, tự giác, tự phê bình; đề nghị cấp uỷ
phối hợp trách nhiệm tiến hành thẩm tra, xác minh và lãnh đạo, chỉ đạo các tổ
60
chức, cá nhân cán bộ đảng viên có liên quan cung cấp tài liệu, hồ sơ, chứng
cứ phục vụ hoạt động thẩm tra, xác minh và cấp uỷ có văn bản tỏ rõ chính
kiến về những nội dung kiểm tra và về đối tượng kiểm tra.
Tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ như: tiếp cận các nguồn
thông tin; tiếp xúc các đối tượng liên quan gồm các cá nhân cán bộ, đảng
viên, quần chúng hoặc tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước có liên quan, liên đới
hoặc đã được chứng kiến; tiếp cận các nguồn thông tin, sự kiện, hành vi của
đối tượng kiểm tra.
Tiến hành phân tích các chứng cứ để tìm ra chứng lý kiểm tra như: thực
hiện đối chứng giữa các chứng cứ với ý kiến báo cáo giải trình, tự phê bình
của đối tượng kiểm tra và ý kiến phê bình cung cấp của tập thể, tổ chức với
các thông tin, chứng cứ thu thập được để sàng lọc, xác định tính hợp pháp và
tính hợp lý của chứng cứ kiểm tra. Đối chứng giữa các thông tin, chứng cứ có
dấu hiệu sai phạm, khuyết điểm, đối chiếu với chuẩn mực, tiêu chí của các
chủ trương, nghị quyết, nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước để
rút ra kết luận là đối tượng kiểm tra có vi phạm hay không vi phạm, hoặc vi
phạm đến mức độ nào...
Bước thứ ba, thống nhất nội dung báo cáo thẩm tra, xác minh trình cấp
có thẩm quyền kết luận
Trao đổi với đối tượng kiểm tra và tổ chức đảng có liên quan về dự
kiến báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh nhất là những nội dung liên quan trực
tiếp đến đối tượng kiểm tra. Ghi rõ ý kiến đồng ý, không đồng ý và ý kiến
khác của đối tượng được kiểm tra và tổ chức có liên quan.
Viết báo cáo thẩm tra, xác minh: Trên cơ sở những tài liệu, thông tin,
bằng chứng đã thu thập được, qua giám định của cơ quan chuyên môn, nghiệp
vụ (nếu có), qua trao đổi với các tổ chức có liên quan, qua phân tích, đánh giá,
nếu thấy đủ cơ sở kết luận thì viết báo cáo thẩm tra, xác minh. Rà soát, xem
xét lại lần cuối kết quả thẩm tra, xác minh, nếu thấy chỗ nào chưa đủ, chưa
61
chính xác thì tiếp tục thẩm tra, xác minh, tìm kiếm, thu thập thêm chứng cứ để
bổ sung vào báo cáo. Báo cáo do cán bộ được phân công thẩm tra, xác minh
viết và chịu trách nhiệm trước uỷ ban kiểm tra cấp mình. Trường hợp cán bộ
do vụ, phòng hoặc tổ phân công thẩm tra, xác minh thì trước khi báo cáo với
uỷ ban, phải tham khảo ý kiến của vụ trưởng, trưởng phòng hoặc tổ trưởng
phụ trách địa bàn.
Theo Quy trình kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi
phạm; giải quyết tố cáo; giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng… (ban hành kèm theo
Quyết định số 1084-QĐ/UBKTTW, ngày 05-12-2012 của Uỷ ban Kiểm tra
Trung ương), sau khi làm việc với đại diện tổ chức đảng có liên quan và đối
tượng được kiểm tra để triển khai quyết định, kế hoạch kiểm tra; thống nhất lịch
trình tiến hành; yêu cầu đối tượng được kiểm tra chuẩn bị báo cáo giải trình;
cung cấp tài liệu, phối hợp kiểm tra, đoàn kiểm tra sẽ tiến hành thẩm tra, xác
minh. Bước thẩm tra, xác minh bao gồm những nội dung cụ thể sau: Thu thập tài
liệu, chứng cứ, gặp các tổ chức, cá nhân có liên quan; nghiên cứu báo cáo giải
trình và các văn bản, tài liệu. Nếu cần bổ sung nội dung kiểm tra hoặc giám định
kỹ thuật, chuyên môn thì trưởng đoàn (là một đồng chí thành viên uỷ ban) xem
xét, quyết định. Đoàn kiểm tra trao đổi với đối tượng được kiểm tra những nội
dung cần bổ sung, làm rõ. Nếu thấy khuyết điểm đã rõ, vi phạm đến mức phải thi
hành kỷ luật và đối tượng được kiểm tra nhận có vi phạm thì báo cáo thường
trực uỷ ban cho kết hợp làm quy trình xem xét, thi hành kỷ luật.
Sau khi tiến hành thẩm tra, xác minh, đoàn kiểm tra tổ chức hội nghị
các tổ chức đảng có liên quan. Tại hội nghị, đoàn kiểm tra thông báo kết quả
thẩm tra, xác minh bằng văn bản; hội nghị thảo luận, nhận xét và đề nghị; bỏ
phiếu đề nghị hoặc tự nhận hình thức kỷ luật (nếu có).
Đoàn kiểm tra tiếp tục thẩm tra, xác minh những nội dung chưa rõ (nếu
có); chuẩn bị báo cáo kết quả kiểm tra; trao đổi với đối tượng được kiểm tra
và đại diện tổ chức đảng có liên quan về kết quả kiểm tra.
62
Trong quá trình thực hiện, các nội dung trong kế hoạch có thể được
điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tế.
2.2.4.4. Phương pháp tiến hành thẩm tra, xác minh Một là, thu thập bằng chứng:
"Bằng chứng" theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu là "Vật hoặc việc
dùng làm bằng để chứng tỏ sự việc là có thật" [196, tr.34]. Như vậy, bằng
chứng trong thẩm tra, xác minh khi tiến hành công tác kiểm tra gồm người,
hiện vật, tài liệu, địa điểm, thời gian,... tồn tại khách quan liên quan đến sự
việc, dùng làm căn cứ để chứng tỏ sự việc là có thật. Bằng chứng thường
được thu thập, sưu tầm, khai thác từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, như từ
tổ chức hoặc cá nhân gây ra sự việc đó, từ tổ chức hoặc cá nhân có liên quan
hay biết rõ sự việc đó; những hiện vật, tài liệu có liên quan đến sự việc, như
đất đã chiếm dụng, nhà đã xây trái phép, tiền, tài sản dùng làm quà tặng, biếu
dưới dạng hối lộ đã được trao nhận, tài liệu, sổ sách, chứng từ, hoá đơn, băng
ghi âm, ghi hình, các phương tiện mang tin khác,...
Cách thu thập bằng chứng: trước hết là nghiên cứu, nắm chắc các hồ
sơ, tài liệu đã có, đánh giá tính khách quan, liên quan, hợp lý, hợp pháp của
các hồ sơ, tài liệu đã có (tài liệu đã có là bản chính hay bản sao, tài liệu gốc,
xác thực hay đã được hợp thức hoá hoặc giả mạo; thẩm quyền của tổ chức
hoặc cá nhân đã ký các tài liệu ấy có phù hợp với quy định không v.v...). Trên
cơ sở đó, thu thập những tài liệu gốc, những bản chính, những tài liệu có giá
trị chứng cứ và những tài liệu còn đang thiếu.
Tiếp xúc với các tổ chức đảng hoặc cá nhân đảng viên gây ra sự việc,
yêu cầu họ cung cấp những thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến nội
dung kiểm tra, kể cả những chứng cứ chứng minh việc làm đúng của mình,
bác bỏ những nội dung tố cáo không đúng, những kết luận không đúng hoặc
để chứng minh cho việc xử lý là oan, sai. Khi cần, gặp những tổ chức, những
người có liên quan đến sự việc hoặc hiểu rõ sự việc để thu thập thêm tài liệu,
63
chứng cứ giúp cho việc nhận xét, đánh giá, kết luận được chính xác, khách
quan. Việc tiếp xúc với những đối tượng trên, cần tiến hành với từng đối
tượng; không nhất thiết phải theo một trật tự cứng nhắc hoặc phải chờ thu
thập đầy đủ hồ sơ, tài liệu rồi mới tiếp xúc. Có thể tiếp xúc với mỗi đối tượng
một lần hoặc một số lần, nhưng cố gắng tiếp xúc một lần mà thu thập được
các thông tin, tài liệu, bằng chứng cần thiết để tránh gây phiền hà cho đối
tượng và gây khó khăn cho việc đi lại của cán bộ kiểm tra. Tiếp xúc với các tổ
chức đảng có liên quan (chi bộ, chi ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn,...) để yêu
cầu cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong tổ chức
đảng một cách nghiêm túc.
Trong thực tế, có thể gặp cấp ủy, tổ chức đảng trong quá trình thẩm tra,
xác minh hoặc sau phân tích những vấn đề đã được thẩm tra, xác minh để cấp
uỷ, tổ chức đảng cung cấp tình hình, tài liệu, chứng cứ hoặc thống nhất nội
dung, diễn biến, tình tiết của sự việc. Trường hợp giữa cấp ủy, tổ chức đảng
và cán bộ kiểm tra có vấn đề chưa thống nhất thì yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng
cung cấp thêm tài liệu, bằng chứng để cùng trao đổi, thảo luận. Nếu vẫn còn ý
kiến chưa thống nhất, cán bộ kiểm tra phải báo cáo trung thực, đầy đủ để ủy
ban kiểm tra xem xét, kết luận.
Trước khi tiếp xúc với từng đối tượng, phải chuẩn bị kế hoạch chu đáo,
xác định rõ những vấn đề cần đi sâu khai thác, dự kiến những tình huống có
thể phát sinh và cách giải quyết. Quá trình tiếp xúc với các đối tượng phải giữ
vững nguyên tắc và phương pháp công tác đảng, coi trọng và làm tốt công tác
tư tưởng, tâm lý, động viên trách nhiệm, nghĩa vụ, tinh thần tự giác của đối
tượng. Biết vận động, thuyết phục, tự kiềm chế, khiêm tốn, lắng nghe, nhưng
không bị chi phối trước cám dỗ của vật chất, quyền uy, thế lực. Biết đấu
tranh, lập luận sắc bén, đúng nguyên tắc, thấu tình, đạt lý, nêu đúng vấn đề để
giáo dục, thuyết phục, nhất là khi đối tượng không tự giác, có thái độ cực
đoan, động cơ không lành mạnh. Tuyệt đối không được đe dọa, cưỡng ép,
64
dùng thủ đoạn đối phó, cài bẫy hoặc hữu khuynh, hứa hẹn vô nguyên tắc.
Không được sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp
luật (như tạm giữ, tạm giam, cưỡng chế, bí mật theo dõi,...) để thay phương
pháp thẩm tra, xác minh của Đảng. Có thể và cần sử dụng các phương tiện kỹ
thuật hiện đại (như ghi âm, ghi hình, vi tính) để nâng cao hiệu quả, chất lượng
của thẩm tra, xác minh. Các thông tin được cung cấp bằng lời phải được ghi
lại thành văn bản và có chữ ký xác nhận của người đã cung cấp.
Ngoài những tài liệu, bằng chứng nêu trên, cần chú ý thu thập những
nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và Nhà nước có liên quan đến vấn đề
thẩm tra, xác minh, vì đó là một trong những căn cứ quan trọng để kết luận
đúng, sai đối với tổ chức đảng và đảng viên. Nghị quyết, chỉ thị, quy định, về
một nội dung nào đó có thể được bổ sung, sửa đổi nhiều lần, bằng nhiều văn
bản khác nhau, thậm chí có trường hợp văn bản này phủ định văn bản khác.
Vì vậy, phải thu thập đủ để có điều kiện đối chiếu, phân tích, đánh giá.
Khi thu thập tài liệu chứng cứ, cán bộ kiểm tra phải trực tiếp gặp đối
tượng, trực tiếp đọc những thông tin, tài liệu, trực tiếp nhìn thấy các vật
chứng, nếu cần thì trực tiếp đến tận nơi xảy ra sự việc để thẩm tra, xác minh.
Không được chỉ nghe qua người khác, nghe dư luận, có nhiều người biết sự
việc nhưng chỉ nghe một vài người hoặc chỉ coi trọng những gì đã được nghe,
được đọc, nhìn lần đầu mà coi nhẹ những gì được thu thập về sau. Mọi thông
tin, tài liệu, bằng chứng thu thập được ban đầu, dù phong phú, có độ tin cậy
cao, nhưng thường là ở một phía, một kênh, một chiều. Muốn đánh giá đúng
sự thật, phải thu thập được bằng chứng xác thực qua các tài liệu, thông tin từ
nhiều phía, nhiều kênh, nhiều chiều có liên quan đến sự việc cần làm rõ.
Hai là, nghiên cứu, phân tích, xử lý tài liệu, thông tin, bằng chứng đã
thu thập được:
Việc thu thập đầy đủ tài liệu, thông tin, chứng cứ là rất quan trọng,
nhưng việc nghiên cứu, phân tích, xử lý những tài liệu, thông tin, bằng chứng
65
ấy một cách chính xác, khách quan lại càng quan trọng vì đó là cơ sở tin cậy,
xác thực, khách quan để kết luận và xử lý đúng.
Việc nghiên cứu, phân tích, xử lý tài liệu, thông tin, bằng chứng là một
quá trình liên tục từ khi bắt đầu đến khi kết thúc việc làm rõ sự thật, không
chia tách, cắt khúc hoặc phân đoạn một cách máy móc. Khi đọc một tài liệu,
tiếp nhận một thông tin, tiếp xúc một đối tượng, tham dự một cuộc họp... cán
bộ kiểm tra phải nhạy cảm, suy nghĩ, phân tích, đánh giá thực chất của sự
việc, hiện tượng, tình tiết, phát hiện kịp thời những mâu thuẫn, những vấn đề
không hợp lý, chưa rõ hoặc có dấu hiệu đang tiềm ẩn đằng sau đó một sự thật
để vừa tiếp tục thu thập tài liệu, thông tin, bằng chứng khác, vừa thuyết phục,
gợi ý đấu tranh, cung cấp bằng chứng để đối tượng được kiểm tra từng bước
tự nhận ra sự thật hoặc gần với sự thật hơn.
Sau khi thu thập đầy đủ tài liệu, thông tin, bằng chứng, phải nghiên
cứu, phân tích, đánh giá lại tính khách quan, xác thực, hợp lý, hợp pháp của
từng tài liệu, thông tin, bằng chứng và của toàn bộ những vấn đề đã thu thập
được. Trên cơ sở đó, bằng phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu, quy
nạp, với quan điểm lịch sử, cụ thể và bằng kiến thức, kinh nghiệm sống, sự
tinh tường, nhạy cảm của mình, cán bộ kiểm tra phải lật đi, lật lại từng vấn đề,
nêu lên những giả thiết và với tài liệu, thông tin, bằng chứng đã thu thập được
để chứng minh cho sự đúng, sai của từng giả thiết, loại dần các giả thiết
không hợp lý để cuối cùng có một kết luận đúng với sự thật. Đây là khâu quan
trọng nhất, khó khăn nhất, đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải có tinh thần trách
nhiệm cao, tác phong tỷ mỉ, cụ thể, phương pháp khoa học và một trình độ,
kiến thức cần thiết.
Ba là, trưng cầu ý kiến giám định của các cơ quan nghiệp vụ đối với
những vấn đề cần thiết:
Tiến hành thẩm tra, xác minh, có nhiều vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh
vực hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, của các cơ quan bảo vệ pháp
66
luật, trong đó có những nội dung cán bộ hoặc cơ quan kiểm tra không thể tự
mình làm sáng tỏ được. Vì vậy, trong trường hợp cần thiết, phải trưng cầu ý
kiến giám định của cơ quan nghiệp vụ, chuyên môn có thẩm quyền. Ví dụ cơ
quan y tế giám định trạng thái tâm thần của một người; cơ quan công an giám
định chữ viết, chữ ký, con dấu; cơ quan công chứng nhà nước thẩm định giấy
tờ, văn bản; cơ quan tư tưởng, văn hoá, thông tin thẩm định một bài báo, một
tác phẩm có liên quan đến công tác kiểm tra... Các văn bản giám định phải
được cấp có thẩm quyền ký và đóng dấu.
Bốn là, khi tiến hành thẩm tra, xác minh, chủ thể kiểm tra phải thường
xuyên tiếp xúc với tổ chức đảng, đảng viên có liên quan và đối tượng kiểm
tra, vì vậy, đòi hỏi chủ thể kiểm tra phải thực hiện nghiêm túc việc phê bình.
Phương pháp phê bình của chủ thể kiểm tra thường sử dụng như sau:
Thứ nhất, gợi ý những nội dung cần tìm hiểu, thẩm tra, xác minh để các
tổ chức đảng có liên quan và đối tượng kiểm tra trình bày cho sát với mục
đích, yêu cầu, nội dung cần kiểm tra.
Thứ hai, động viên, thuyết phục để đối tượng được kiểm tra bình tĩnh,
tự giác… trình bày rõ ràng, đầy đủ các nội dung cần được thẩm tra, xác minh.
Thứ ba, đối với những trường hợp cố tình che giấu thiếu sót, khuyết
điểm, thiếu tự giác thì cần thể hiện phương pháp phê bình "cứng rắn" để yêu
cầu đối tượng được kiểm tra phải nghiêm túc thực hiện yêu cầu của chủ thể
kiểm tra.
Để thực hiện tốt việc phê bình, chủ thể kiểm tra phải nắm vững: mục
đích, yêu cầu cuộc kiểm tra; nội dung cần kiểm tra, thẩm tra, xác minh; chủ
trương, đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị… có liên quan đến các vấn
đề cần thẩm tra, xác minh để làm cơ sở cho việc thẩm tra, xác minh.
Phương pháp phê bình của chủ thể kiểm tra tốt nhất là đi vào từng vấn
đề cần thẩm tra, xác minh, tránh đi lan man để việc kết luận được đầy đủ,
chính xác đúng trọng tâm.
67
Năm là, thẩm định, rà soát lại và trao đổi một số nội dung liên quan:
Tiến hành thẩm định bằng cơ chế tập thể để chấp thuận những thông
tin, chứng cứ và chứng lý kiểm tra đã được làm sáng tỏ, minh bạch. Đồng
thời, thống nhất phủ định, loại bỏ các thông tin, chứng cứ không hợp pháp,
bất hợp lý hoặc không đủ độ tin cậy, xác thực. Trong khâu thẩm định hết sức
coi trọng những ý kiến mang tính phản biện, ngược chiều để đi đến kết luận
có sự thống nhất và đạt được độ chuẩn xác cao.
Tiến hành đối thoại dân chủ với đối tượng kiểm tra về dự kiến kết luận
thẩm tra, xác minh nhất là những nội dung kết luận liên quan trực tiếp đến đối
tượng kiểm tra.
Tiến hành trao đổi, thảo luận với các tổ chức đảng liên quan để cùng
thống nhất, đánh giá về dự kiến kết luận thẩm tra, xác minh và những nội
dung chủ yếu của văn bản báo cáo trình lên tổ chức đảng có thẩm quyền.
Sáu là, viết báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh:
Tiến hành dự thảo văn bản và trình tự hoàn thiện văn bản báo cáo kết
luận thẩm tra, xác minh, kiến nghị các biện pháp xử lý trình cấp thẩm quyền
xem xét, quyết định. Nội dung báo cáo cần nêu rõ: Những vấn đề cần thẩm
tra, xác minh (như nội dung tố cáo, nội dung khiếu nại, nội dung kiểm tra,...);
kết quả thẩm tra, xác minh từng nội dung (đối với những nội dung quan trọng,
phức tạp, cần nêu rõ nội dung, tính chất, diễn biến, tình tiết của sự việc, thời
gian, không gian diễn ra sự việc; họ tên, địa chỉ những đối tượng có liên
quan); nhận xét và đề nghị (cần khẳng định sự việc có hay không có, đúng
hay sai, khuyết điểm hay vi phạm; nếu vi phạm thì nêu rõ nội dung, tính chất,
mức độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm của từng cá nhân và từng tổ chức; ý
kiến đề nghị giải quyết).
Họp tổ chức có thẩm quyền (uỷ ban kiểm tra, cấp uỷ...) xem xét báo
cáo kết quả thẩm tra, xác minh, kết luận, quyết định xử lý, chỉ đạo các hoạt
động tiếp theo.
68
2.2.5. Tiêu chí đánh giá hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng
Hoạt động thẩm tra, xác minh tốt hay không thể hiện qua kết quả, hiệu
quả thực hiện từng cuộc kiểm tra cụ thể cũng như chất lượng công tác kiểm
tra nói chung. Thẩm tra, xác minh phải làm rõ được nội dung, đối tượng kiểm
tra, tức là phải thu thập được các chứng cứ để tìm ra sự thật, chỉ rõ bản chất
về hành vi của đối tượng kiểm tra giúp việc xem xét, kết luận đúng sai, xử lý
nghiêm minh, chính xác (nếu có vi phạm). Kết quả, hiệu quả thẩm tra, xác
minh là những gì đạt được theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra, tác động trực tiếp
đến kết quả công tác kiểm tra, góp phần thực hiện nhiệm vụ công tác xây
dựng Đảng. Có thể đánh giá hoạt động thẩm tra, xác minh qua một số tiêu chí
sau đây:
Một là, hoạt động thẩm tra, xác minh phải thực hiện đúng nguyên tắc,
theo kế hoạch đã được xác định.
Hoạt động thẩm tra, xác minh có chất lượng tốt hay không tốt, ngay từ
đầu thể hiện ở việc có bám sát mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm tra hay
không. Bám sát mục đích yêu cầu, nội dung kiểm tra sẽ tạo tiền đề, căn cứ
cho việc xác định đúng nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh và các bước
tiếp theo, làm cơ sở cho việc tiến hành thẩm tra, xác minh đúng hướng; đồng
thời, đây cũng là dấu hiệu, tiêu chí minh chứng cho hoạt động thẩm tra, xác
minh có chất lượng, hiệu quả cao. Bên cạnh đó, trong quá trình tiến hành
thẩm tra, xác minh đảm bảo dân chủ, khách quan, công khai; thực hiện đúng
các nguyên tắc, quy định của Đảng.
Hai là, nắm chắc nội dung kiểm tra để xác định và lựa chọn đúng nội
dung, đối tượng thẩm tra, xác minh.
Hoạt động thẩm tra, xác minh có chất lượng tốt hay không còn thể hiện
ở việc đoàn (tổ) kiểm tra có lựa chọn, xác định đúng, cụ thể các nội dung và
đối tượng cần tập trung thẩm tra, xác minh và dự kiến các đối tượng có thể
69
phát sinh khác. Xác định đúng nội dung thẩm tra, xác minh ở chỗ biết đâu là
vấn đề cần xem xét, làm rõ, đâu là trọng tâm, trọng điểm, mang tính bản chất
cần tập trung "giải mã", đảm bảo không dàn trải nhưng cũng không bỏ sót.
Bên cạnh đó, xác định đúng thông tin, tư liệu, sự việc, hiện vật để tìm, phát
hiện và chứng minh cho nội dung cần làm rõ, lựa chọn đúng các tổ chức, cá
nhân cần làm việc, có liên quan đến đối tượng và nội dung cần kiểm tra.
Ba là, thực hiện đúng quy trình, phương pháp thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng.
Một cuộc thẩm tra, xác minh có chất lượng phải tiến hành đầy đủ các
bước, thủ tục trong quy trình thẩm tra, xác minh, thậm chí, có những trường
hợp phải thực hiện tiếp khi chưa đủ yếu tố vững chắc cho kết luận của cuộc
kiểm tra. Bên cạnh đó, trong quá trình thẩm tra, xác minh tuân thủ phương
pháp công tác Đảng, là công tác nội bộ trong Đảng; tích cực động viên, phát
huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy được tinh thần,
trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân; phối hợp giữa ủy ban
kiểm tra với các cơ quan thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân, thanh tra của
các đoàn thể chính trị - xã hội và các ban, ngành có liên quan nhằm tạo và
phát huy ưu thế tổng hợp, toàn diện để nhanh chóng đạt mục đích đề ra trong
mỗi cuộc thẩm tra, xác minh.
Bốn là, tìm ra các chứng cứ xác đáng, khách quan, làm căn cứ, cơ sở
chính xác đảm bảo cho kết luận kiểm tra và quyết định xử lý của chủ thể kiểm
tra được đúng đắn.
Hoạt động thẩm tra, xác minh có chất lượng rõ nét nhất ở chỗ là tìm ra
được các chứng cứ xác đáng. Các chứng cứ tìm được qua thẩm tra, xác minh
nếu phản ánh đúng bản chất sự việc, đảm bảo tính khách quan, hợp pháp, hợp
lý sẽ góp phần làm cho cuộc kiểm tra đạt kết quả cao và cũng thể hiện hoạt
động thẩm tra, xác minh đúng đắn. Qua thẩm tra, xác minh, không bỏ sót
chứng cứ, bỏ lọt vi phạm, từ đó đi đến kết luận kiểm tra chính xác, khách
70
quan, xử lý công minh, chính xác, kịp thời, không để oan sai. Khi chủ thể
kiểm tra kết luận chính xác các nội dung và đối tượng kiểm tra, sẽ giúp cho
đối tượng kiểm tra thấy rõ ưu điểm, nhất là khuyết điểm, vi phạm và trách
nhiệm của mình, quyết tâm sữa chữa, khắc phục, đồng thời có tác dụng lan
tỏa tích cực đến tổ chức đảng và đảng viên khác, góp phần xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh. Đây được coi là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá
chất lượng hoạt động thẩm tra, xác minh.
Năm là, góp phần tác động đến chất lượng hoạt động và việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị của các tổ chức đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng
Bên cạnh các tiêu chí trên, còn có thể nhìn nhận về chất lượng hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng ở góc độ mà qua
thẩm tra, xác minh, phát hiện những sơ hở, thiếu sót về cơ chế, chính sách,
nhất là về kinh tế - xã hội, kịp thời kiến nghị các cấp có thẩm quyền của Đảng
và Nhà nước bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới, bảo đảm chủ trương đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống.
Chất lượng thẩm tra, xác minh còn được thể hiện không làm ảnh hưởng đến
hoạt động, đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đối tượng kiểm tra,
không lãng phí thời gian, tiền của, công sức của cán bộ kiểm tra và cơ quan
kiểm tra.
Xét một cách tổng quát, toàn diện, tiêu chí để đánh giá hoạt động thẩm
tra, xác minh được thể hiện, nhìn nhận qua chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của
một cuộc kiểm tra nói riêng và công tác kiểm tra nói chung.
Tiểu kết chương 2
Công tác kiểm tra là một chức năng lãnh đạo của Đảng, là công tác xây
dựng Đảng, sinh hoạt nội bộ Đảng. Một trong những yêu cầu cơ bản của công
tác kiểm tra là phải làm rõ đúng, sai; đánh giá, kết luận đúng ưu điểm, khuyết
71
điểm, vi phạm (nếu có) của tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra để có
quyết định chính xác. Tiến hành công tác kiểm tra phải theo đúng nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đúng tính chất công tác đảng, đúng tư tưởng
chỉ đạo, phương pháp cơ bản tiến hành công tác kiểm tra. Phương pháp có
vai trò quan trọng hàng đầu để thực hiện được yêu cầu nhiệm vụ ấy là thẩm
tra, xác minh.
Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là hoạt động
nghiệp vụ khi tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành của chủ thể kiểm tra, được thực hiện thông qua một số cán bộ,
nhằm tìm ra các bằng chứng, chứng cứ cụ thể, xác thực, qua đó thẩm định,
phân tích để làm rõ sự thật, làm căn cứ để chủ thể kiểm tra nhận xét, đánh giá,
kết luận và xử lý công minh, chính xác đối tượng kiểm tra.
Thẩm tra, xác minh là khâu quan trọng, không thể thiếu được trong
toàn bộ quy trình thực hiện công tác kiểm tra của Đảng. Chất lượng và kết
quả của hoạt động thẩm tra, xác minh trực tiếp quyết định độ chính xác của
các kết luận và độ xác đáng của các quyết định xử lý của tổ chức đảng có
thẩm quyền đối với đối tượng kiểm tra. Tiến hành thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng phải bám sát mục đích, yêu cầu, nội dung kiểm
tra; thực hiện dân chủ, công khai, thận trọng, chặt chẽ, khách quan, đúng các
nguyên tắc, quy định của Đảng và phương pháp công tác kiểm tra.
Nội dung thẩm tra, xác minh là những nội dung kiểm tra có vấn đề cần
được xem xét, làm rõ. Đối tượng thẩm tra, xác minh là những thông tin, tư
liệu, sự việc, hiện vật và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến đối tượng và
nội dung cần kiểm tra. Thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
được tiến hành theo trình tự thủ tục các hoạt động chủ yếu để xem xét, tra
cứu, thẩm định nhằm mục tiêu tìm ra sự thật của những thông tin, sự kiện,
hành vi có liên quan đến nội dung và đối tượng kiểm tra của Đảng, theo các
phương pháp như: Thu thập bằng chứng; nghiên cứu, phân tích, xử lý tài liệu,
72
thông tin, bằng chứng đã thu thập được; trưng cầu ý kiến giám định của các
cơ quan nghiệp vụ đối với những vấn đề cần thiết; tiếp xúc với đối tượng
kiểm tra, tiến hành tự phê bình và phê bình; thẩm định, rà soát và xây dựng
báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh.
Cơ sở để đánh giá hoạt động thẩm tra, xác minh dựa trên một số tiêu
chí như: việc thực hiện nguyên tắc, kế hoạch đã được xác định; nắm chắc nội
dung kiểm tra để xác định và lựa chọn đúng nội dung, đối tượng thẩm tra, xác
minh; thực hiện đúng quy trình, phương pháp và quan trọng là tìm ra các
chứng cứ xác đáng, khách quan, làm căn cứ, cơ sở chính xác đảm bảo cho kết
luận kiểm tra và quyết định xử lý của chủ thể kiểm tra được đúng đắn.
Hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng có một
số điểm tương đồng nhưng đồng thời có những điểm khác biệt với hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ; với hoạt động
nghiệp vụ thanh tra của Nhà nước, điều tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
73
Chương 3
THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG
CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG HIỆN NAY
3.1.1. Những ưu điểm của hoạt động thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng
Thứ nhất, chủ thể kiểm tra, cán bộ trực tiếp tiến hành kiểm tra đã từng
bước có nhận thức đúng về vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng, làm tiền đề để lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện thẩm
tra, xác minh
Các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên vừa là chủ thể kiểm tra và tự
kiểm tra, đồng thời là đối tượng kiểm tra, là chỗ dựa khi cấp trên tiến hành
kiểm tra đã từng bước nhận thức đúng và rõ hơn về vị trí, vai trò, ý nghĩa của
hoạt động thẩm tra, xác minh khi tiến hành các cuộc kiểm tra. Từ thực tế kết
quả các cuộc kiểm tra đem lại, các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên đã nhận
thức khi tiến hành kiểm tra thì đương nhiên phải thẩm tra, xác minh; thẩm tra,
xác minh là việc tất yếu, chuyện bình thường khi kiểm tra. Từ nhận thức đó,
các cấp ủy khi là chủ thể thực hiện kiểm tra các tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên đã quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng trực tiếp kiểm tra tiến
hành thẩm tra, xác minh một cách chu đáo, chặt chẽ, cụ thể để xem xét, kết
luận cuộc kiểm tra khách quan, chính xác. Mặt khác, từ nhận thức đó, các cấp
ủy, tổ chức đảng khi được cấp trên kiểm tra, trở thành đối tượng kiểm tra đã
chấp hành, tự giác, tự kiểm tra, giải trình nội dung kiểm tra, đồng thời tạo mọi
điều kiện thuận lợi để cấp trên tiến hành thẩm tra, xác minh, phục vụ cuộc
điều tra đạt kết quả cao nhất.
74
Đối với ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra các cấp là lực lượng trực
tiếp, nòng cốt tiến hành các cuộc kiểm tra đã nghiêm túc quán triệt mục đích,
ý nghĩa, vai trò, vị trí của việc thẩm tra, xác minh. Cán bộ kiểm tra đã coi
thẩm tra, xác minh là khâu có tính quyết định về chất lượng, hiệu quả, hiệu
lực của cuộc kiểm tra nói riêng và công tác kiểm tra nói chung. Do thấy được
vị trí, tầm quan trọng của công tác thẩm tra, các minh nên trong các tài liệu
hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các lớp tập huấn, các lớp cử nhân kiểm
tra, tài liệu thi chuyển ngạch kiểm tra viên, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đều
biên soạn các bài giảng về thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng, đã xác định rất rõ vị trí, ý nghĩa, nội dung, đối tượng, phương pháp tiến
hành và cả những vấn đề cần lưu ý khi thẩm tra, xác minh và bố trí giảng viên
có kinh nghiệm lên lớp trong các đợt bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ. Hội
đồng khoa học cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương và tập thể các tác giả là
cán bộ cơ quan đã đề xuất và được Hội đồng Khoa học các ban Đảng Trung
ương đồng ý cho tiến hành nghiên cứu các đề tài liên quan đến công tác kiểm
tra, xác minh như: cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm
tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng; một số giải pháp tháo gỡ khó
khăn, trở ngại của ủy ban kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
khi có dấu hiệu vi phạm; kỹ năng nâng cao nghiệp vụ công tác kiểm tra. Từ
đây giúp cho cán bộ kiểm tra các cấp từng bước nâng dần trình độ nhận thức,
có cách vận dụng thực hiện tốt trong công tác thẩm tra xác minh.
Thứ hai, luôn bám sát nội dung kiểm tra, từ đó xác định chính xác nội
dung, đối tượng thẩm tra, xác minh
Để việc thẩm tra, xác minh có kết quả tốt, dưới sự chỉ đạo của chủ thể
kiểm tra, các đoàn (tổ) kiểm tra đã căn cứ nội dung và đối tượng kiểm tra để
lựa chọn, xác định đúng, cụ thể các nội dung và đối tượng cần tập trung thẩm
tra, xác minh và dự kiến các đối tượng có thể phát sinh khác. Có thể thấy
trong một trường hợp cụ thể, khi kiểm tra một đồng chí bí thư cấp ủy với nội
75
dung cần làm rõ và kết luận là có dấu hiệu mất đoàn kết trong ban thường vụ
cấp ủy; để làm rõ nội dung có mất đoàn kết không, thực tế phải tiến hành làm
rõ các nội dung như: quan hệ của đồng chí bí thư với từng đồng chí trong
thường trực, các đồng chí trong thường vụ cấp ủy, đoàn kiểm tra phải đi tìm
các chứng cứ về lời nói, việc làm, các hành động cụ thể của đồng chí bí thư
với các đồng chí trong thường vụ cấp ủy. Đoàn kiểm tra đã làm việc với nhiều
đối tượng để làm rõ như gặp các đồng chí trong ban thường vụ, các đồng chí
khác có liên quan ở văn phòng cấp ủy, các ban của cấp ủy, các đồng chí cấp
ủy viên, cán bộ chủ chốt cấp dưới để tìm hiểu, thu thập chứng cứ mà họ nghe
được, biết được về mối quan hệ của đồng chí bí thư với các đồng chí khác.
Cán bộ kiểm tra đã chú trọng thu thập, sàng lọc, phân tích các thông tin từ các
tổ chức đảng cấp dưới, các đảng viên từ các cấp ủy, các cơ quan tham mưu,
giúp việc cấp ủy, chi bộ, từ các đoàn thể; cán bộ kiểm tra đã phải nghiên cứu
các biên bản họp, hội ý thường trực cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy để thấy
có sự mâu thuẫn, căng thẳng giữa bí thư với các đồng chí trong thường trực,
thường vụ cấp ủy. Rõ ràng để có chứng cứ xem xét và kết luận một đồng chí
về một nội dung nào đó thì thẩm tra xác minh rất cụ thể, công phu, mất
nhiều công sức và thời gian. Các đoàn (tổ) kiểm tra đã chú ý thu thập thông
tin từ nhiều kênh, nhiều nguồn khác nhau để có căn cứ phân tích, so sánh,
lựa chọn những thông tin có độ tin cậy cao nhằm bảo đảm tính xác đáng của
các chứng cứ.
Thứ ba, thực hiện đúng nguyên tắc, phương pháp, cách thức, thủ tục
thẩm tra, xác minh
Cấp uỷ và ủy ban kiểm tra đã chỉ đạo khi tiến hành thẩm tra, xác minh
phải luôn bám chắc và thực hiện đúng các phương pháp công tác kiểm tra;
quán triệt và chấp hành đúng phương pháp thẩm tra, xác minh phải tuân thủ
phương pháp công tác Đảng, là công tác nội bộ trong Đảng. Quá trình thẩm
tra, xác minh cán bộ kiểm tra đã luôn lấy tổ chức đảng làm chỗ dựa để thu
76
thập các tài liệu, bằng chứng có liên quan đến nội dung, đối tượng kiểm tra; tổ
chức các cuộc họp của tổ chức đảng nghe kết quả thẩm tra, xác minh để từ đó
góp ý, nhận xét, phê bình, đấu tranh làm rõ các vấn đề, tìm ra nguyên nhân,
nhận xét, đánh giá nội dung và đối tượng kiểm tra.
Khi thẩm tra, xác minh, đoàn (tổ) kiểm tra đã tích cực động viên, phát
huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên là đối tượng kiểm tra để
đối tượng kiểm tra cung cấp tài liệu, tự giác nhận khuyết điểm, vi phạm (nếu
có). Do có phương pháp khơi gợi, động viên hợp tình, hợp lý có đối tượng
kiểm tra lúc đầu chưa nhận nhưng từng bước đã tự giác nhận rõ vi phạm và
trách nhiệm của mình, từ đó giúp cho cuộc kiểm tra kết thúc nhanh chóng và
đạt kết quả theo yêu cầu đề ra. Cùng với việc dựa vào tổ chức đảng và phát
huy tinh thần tự giác của tổ chức và đảng viên, quá trình thẩm tra, xác minh,
đoàn (tổ) kiểm tra đã luôn biết dựa, biết phát huy tinh thần, trách nhiệm xây
dựng Đảng của quần chúng nhân dân. Đoàn (tổ) kiểm tra đã giữ mối quan hệ,
đi sát quần chúng nhân dân nơi đối tượng kiểm tra sinh hoạt, hoạt động hoặc
nơi cư trú để thu thập tài liệu, nghe thông tin dư luận, động viên họ cung cấp
chứng cứ phục vụ cho việc thẩm tra xác minh, không ít thông tin, dư luận của
quần chúng sau khi phân tích, sàng lọc trở thành chứng cứ quan trọng để phục
vụ việc xem xét và kết luận nội dung và đối tượng kiểm tra.
Trong công tác kiểm tra nói chung và việc thẩm tra, xác minh nói
riêng, Ban Bí thư và các cấp uỷ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm
tra các cấp rất quan tâm và coi trọng sự phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các
cơ quan thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân, thanh tra của các đoàn thể
chính trị - xã hội và các ban, ngành có liên quan. Trong nhiệm kỳ Đại hội X
và những năm đầu nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XI của Đảng, Ủy ban Kiểm tra
Trung ương đã tham mưu giúp Ban Bí thư ban hành 22 Quy chế phối hợp
công tác kiểm tra giữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương với các tổ chức đảng ở
các cơ quan nêu trên. Căn cứ tính chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mỗi
77
đơn vị trong cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các tổ chức đảng có
liên quan, cán bộ, kiểm tra viên trong cơ quan đã quán triệt và thực hiện các
quy định của quy chế một cách thiết thực và có hiệu quả. Quá trình thẩm tra,
xác minh, đoàn (tổ) kiểm tra đã tích cực, chủ động phối hợp, làm việc với
từng cơ quan phù hợp với nội dung cần làm rõ, để các tổ chức cung cấp thông
tin, tài liệu, chứng cứ phục vụ các cuộc kiểm tra.
Từ nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban
hành và tham mưu, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ban hành các Quy trình
kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Căn
cứ các quy trình của Trung ương, ủy ban kiểm tra các cấp đã xây dựng và ban
hành các quy trình về kiểm tra, trong đó có 3 bước: bước chuẩn bị, bước tiến
hành kiểm tra và bước kết thúc. Hoạt động thẩm tra, xác minh được xác định
là khâu quan trọng trong bước tiến hành kiểm tra. Khi Ủy ban Kiểm tra Trung
ương và ủy ban kiểm tra các cấp quyết định một cuộc kiểm tra bao giờ cũng
ban hành kèm theo kế hoạch kiểm tra. Kế hoạch kiểm tra xác định 3 bước,
trong đó nêu rất cụ thể từng việc làm ở bước tiến hành mà tập trung vào khâu
thẩm tra, xác minh. Căn cứ kế hoạch kiểm tra, đoàn (tổ) kiểm tra đã chủ động
xây dựng kế hoạch thẩm tra, xác minh của mình. Kế hoạch thẩm tra, xác minh
đã bám sát kế hoạch kiểm tra và được xác định ba bước: bước xây dựng kế
hoạch, bước tiến hành thẩm tra, xác minh và bước thống nhất, hoàn chỉnh nội
dung báo cáo. Cán bộ kiểm tra đã coi bước tiến hành thẩm tra xác minh là khâu
quan trọng nhất, quyết định đến kết quả thẩm tra, xác minh, sẽ góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả của cuộc kiểm tra; còn bước hoàn chỉnh báo cáo là sản
phẩm, là công sức của quá trình chuẩn bị và tiến hành thẩm tra, xác minh. Nhiều
đoàn kiểm tra đã xác định rất cụ thể, tỉ mỉ từng việc làm cụ thể của từng bước.
Quá trình thực hiện thẩm tra, xác minh, đoàn kiểm tra luôn bám vào kế hoạch,
đồng thời linh hoạt bổ sung những vấn đề mới phát sinh để kết quả thẩm tra,
xác minh tốt hơn, phục vụ kịp thời và có chất lượng cuộc kiểm tra.
78
Thứ tư, trình độ nghiệp vụ, vốn sống thực tiễn, phong cách làm việc, ý
chí quyết tâm và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ kiểm tra được
nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
Nhìn chung, đại đa số cán bộ kiểm tra đều chú trọng nghiên cứu, tiếp
thu lý luận nghiệp vụ kiểm tra nói chung và lý luận thẩm tra, xác minh nói
riêng; có tác phong sâu sát, tìm cách thâm nhập thực tiễn để nắm bắt thông tin
đa dạng, đa chiều trong quá trình thẩm tra, xác minh. Khi thẩm tra, xác minh
đã chú ý bắt đầu từ cơ sở, từ nơi xảy ra diễn biến sự việc để nắm tình hình
một cách khách quan, chính xác nên luôn ở thế chủ động, tự tin trong quá
trình làm việc với đối tượng kiểm tra. Do ý thức tuân thủ nguyên tắc và
phương pháp công tác cộng với thế mạnh về vốn sống thực tiễn nên phương
pháp tiếp cận nguồn thông tin của đội ngũ cán bộ kiểm tra có ưu điểm như:
nắm vững và tuân thủ nguyên tắc, phương pháp công tác đảng nên không
cưỡng ép, đe dọa, cài bẫy hoặc hứa hẹn vô nguyên tắc với đối tượng. Phong
cách giao tiếp khiêm tốn, chân thành nên thường tạo được niềm tin và sự
nhiệt tình cung cấp thông tin từ đối tượng. Sự chân thành xuất phát từ "tâm"
của cán bộ kiểm tra, từ sự tôn trọng đối tượng tiếp xúc và mong muốn nhận
được sự hợp tác của họ. Đội ngũ cán bộ kiểm tra đã tuân thủ đúng nguyên tắc
và phương pháp công tác, coi trọng cách làm việc thận trọng và nghiêm túc,
cách xem xét, kết luận có lý, có tình và tôn trọng đối tượng tiếp xúc. Đã tiến
hành thu thập thông tin từ nhiều kênh, nhiều nguồn khác nhau để có căn cứ
phân tích, so sánh, lựa chọn những thông tin có độ tin cậy cao nhằm bảo đảm
tính xác đáng của chứng cứ. Khi đánh giá chứng cứ đã chú ý tính khách quan,
hợp pháp, hợp lý của tài liệu để loại bỏ những tài liệu giả, tài liệu đã hợp thức
hóa do các đối tượng có liên quan đến sai phạm thực hiện.
Khi tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, cán
bộ kiểm tra các cấp đã luôn bám sát và tuân thủ thực hiện đúng các nguyên
tắc thẩm tra, xác minh, đó là: Bám sát nội dung kiểm tra; phải dân chủ, khách
79
quan, công khai; phải thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng và
phương pháp công tác kiểm tra của Đảng. Quá trình thẩm tra, xác minh một
vụ việc nào đó, cán bộ kiểm tra đã tìm các chứng cứ liên quan đến nội dung
kiểm tra. Do vậy đã chỉ ra được hành vi sai trái, hậu quả, nguyên nhân và
trách nhiệm của tổ chức và cá nhân để từ đó sửa chữa, khắc phục, phấn đấu,
tiến bộ. Mặt khác giúp cho các đối tượng khác chưa được kiểm tra thấy đây là
bài học để tự cảnh tỉnh, giữ gìn không dẫn đến vi phạm. Do làm tốt thẩm tra,
xác minh nên nhiều cuộc kiểm tra kết luận chính xác, đối tượng được kiểm tra
“tâm phục”, “khẩu phục”, nhiều vụ việc được xử lý công minh, chính xác, kịp
thời, có tác dụng góp phần nâng cao trách nhiệm, chất lượng công tác xây
dựng Đảng ở nơi được kiểm tra.
Quá trình thẩm tra, xác minh, để làm rõ nội dung kiểm tra, cán bộ kiểm
tra các cấp đã thực hiện yêu cầu và nguyên tắc là phải khách quan, dân chủ,
công khai. Để thực hiện yêu cầu đó, khi thẩm tra xác minh cán bộ kiểm tra đã
sưu tầm, tìm kiếm bằng được các chứng cứ đúng hoặc sai của đối tượng kiểm
tra. Khi tìm chứng cứ cán bộ kiểm tra đã thể hiện “mục sở thị”, là “mắt thấy,
tai nghe, tay cầm được”, không bao giờ chỉ nghe nói; phải người thực, việc
thực; khi tìm, đối chiếu văn bản phải là văn bản gốc, văn bản còn giá trị pháp
lý khi hành vi của đối tượng kiểm tra xảy ra. Khi làm việc với đối tượng thẩm
tra, xác minh và đối tượng kiểm tra luôn để họ được tự do thông tin, báo cáo,
cung cấp tài liệu, công khai những ý kiến, quan điểm của họ; cán bộ thẩm tra,
xác minh không gò ép, áp đặt, hai bên cùng trao đổi, phân tích tìm ra chứng
cứ xác thực những vấn đề liên quan đến nội dung, đối tượng kiểm tra.
Thứ năm, qua thẩm tra, xác minh đã làm rõ, kết luận và xử lý nhiều vụ,
việc vi phạm phức tạp, củng cố niềm tin cho đảng viên và quần chúng nhân dân
Để hoạt động thẩm tra, xác minh có kết quả, tìm được chứng cứ là một
quá trình phức tạp, mất nhiều công sức, thời gian, không ít vụ việc xảy ra từ
lâu, tài liệu, hồ sơ không còn đầy đủ, đã thất lạc, có khi đối tượng kiểm tra do
80
biết trước đã tìm cách ém nhẹm, che giấu, mặt khác đã trao đổi, thông đồng
hoặc đe dọa các đối tượng có liên quan trong việc hợp tác với cơ quan kiểm
tra; tìm cách đối phó với lực lượng kiểm tra, trong khi tổ chức đảng, đảng
viên ở đó lại “đứng ngoài cuộc”. Chính vì vậy, có những vụ việc lực lượng
kiểm tra phải “đơn thương độc mã” trong sưu tìm tài liệu, chứng cứ. Nhiều
đối tượng kiểm tra phải qua nhiều lần động viên, thuyết phục hoặc có biện
pháp “cứng rắn” thì từng bước mới cung cấp tài liệu, chứng cứ. Khi đã có
chứng cứ nhưng để đối tượng thừa nhận trách nhiệm lại phải qua một quá
trình phân tích, đấu tranh, vừa tình cảm vừa lý trí, là một cuộc đấu tranh phê
bình trong nội bộ, đấu tranh với đối tượng kiểm tra để làm chuyển biến nhận
thức, nâng dần tính tự giác, tự nhận lỗi. Đây là những lúc căng thẳng, người
cán bộ kiểm tra phải có bản lĩnh, phải vững vàng, nhưng đồng thời cũng phải
mềm mỏng, linh hoạt, xử trí tế nhị và khéo léo.
Một số đối tượng kiểm tra lúc đầu còn biểu hiện e ngại, thiếu tin tưởng,
không tự giác, tự phê bình, tự nhận khuyết điểm, có vi phạm còn phản ứng,
đối phó; khuyết điểm, sai lầm “lộ” đến đâu thì nhận đến đó, thậm chí cố tình
không nhận khuyết điểm, vi phạm, còn quanh co đổ lỗi cho tập thể, cho khách
quan, cho người khác, nhưng khi được cán bộ kiểm tra kiên trì bằng mọi biện
pháp động viên, giải thích thuyết phục, cảm hóa cùng với việc đưa ra các
chứng cứ, từ đó đối tượng đã chuyển từ nhận thức chưa đúng sang nhận thức
đúng, từ thiếu tự giác sang tự giác một phần, từng bước cộng tác với cán bộ
kiểm tra để tiến hành thẩm tra, xác minh tốt hơn. Chính vì vậy, nhiều cuộc
kiểm tra phải mất nhiều thời gian, có khi hai, ba tháng mới kết thúc. Vừa qua,
Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành nhiều cuộc kiểm tra khi có dấu
hiệu vi phạm cùng một lúc có ba đối tượng là cán bộ diện Trung ương quản
lý, với nhiều nội dung ở các lĩnh vực khác nhau, từ nguyên tắc tổ chức sinh
hoạt đảng, kinh tế tài chính, phẩm chất đạo đức, lối sống, đoàn kết nội bộ. Để
hoàn thành những cuộc kiểm tra như thế, lực lượng kiểm tra có lúc từ 5-7
81
đồng chí và phải có sự phối hợp lực lượng của các cơ quan có liên quan như:
Ban Tổ chức Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Thanh tra Chính phủ,
Bộ Công an, Bộ Tài chính,…
Theo số liệu từ Văn phòng và Vụ Tổng hợp của Cơ quan Ủy ban Kiểm
tra Trung ương, trong nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng (từ 2001-
2010), ủy ban kiểm tra các cấp đã tiến hành thẩm tra, xác minh để xem xét,
kết luận hoặc giúp Ban Bí thư, Bộ Chính trị và các cấp ủy kết luận: trên
170.300 lượt đảng viên và 30.700 tổ chức đảng được kiểm tra khi có dấu hiệu
vi phạm; 1.570 tổ chức đảng và 53.800 đảng viên có tố cáo; xử lý kỷ luật
3.200 tổ chức đảng và trên 114.000 đảng viên; giải quyết 4.960 trường hợp
đảng viên khiếu nại kỷ luật đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp đã thẩm tra, xác
minh để đánh giá, kết luận khi kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và
thi hành kỷ luật trong Đảng đối với 328.000 tổ chức đảng và kiểm tra thu chi
ngân sách, thu nộp, quản lý, sử dụng đảng phí ở 388.000 tổ chức đảng...
Đối với tổ chức đảng, nội dung đã thẩm tra, xác minh tập trung vào
việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng gần
20.000 trường hợp; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trên 7.780
trường hợp; việc ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định của cấp
mình 8.900 trường hợp; đoàn kết nội bộ 3.890 trường hợp; thiếu trách
nhiệm để xảy ra vi phạm trong đơn vị 1.780 trường hợp; các nội dung khác
1.500 trường hợp (một tổ chức có thể có 2 hoặc 3 nội dung dấu hiệu vi
phạm). Tổ chức đảng được kiểm tra khi có dấu hiện vi phạm gồm: ban cán
sự đảng, đảng đoàn cấp tỉnh và tương đương 71 trường hợp; ban thường vụ
huyện ủy và tương đương 243 trường hợp; đảng ủy và ban thường vụ đảng
ủy cơ sở 5.620 trường hợp; chi bộ 24.660 trường hợp. Qua thẩm tra, xác
minh đã kết luận số tổ chức đảng có vi phạm 16.750 trường hợp (chiếm
54,6% số tổ chức được kiểm tra), phải thi hành kỷ luật 2.365 trường hợp
(chiếm 77% số được kiểm tra).
82
Trong kiểm tra đảng viên khi có dấu hiện vi phạm đã thẩm tra, xác
minh tập trung chủ yếu vào: nguyên tắc tập trung dân chủ 11.905 trường hợp;
chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng 54.150 trường hợp; đoàn kết
nội bộ 9.595 trường hợp; thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ 48.725;
tham nhũng lãng phí 4.385 trường hợp; quản lý sử dụng đất đai, nhà đất 7.752
trường hợp; cố ý làm trái 20.818 trường hợp; về phẩm chất, đạo đức, lối sống
23.064 trường hợp… Qua thẩm tra, xác minh, đã kết luận 72,8% số đảng viên
được kiểm tra có vi phạm, trong đó phải thi hành kỷ luật chiếm tới 40,9% số
được kiểm tra.
Trong ba năm đầu nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, cấp uỷ các cấp đã
chỉ đạo thẩm tra, xác minh để xem xét, kết luận khi kiểm tra chấp hành đối
với trên 877.000 lượt đảng viên và trên 161.300 lượt tổ chức đảng, trong đó
có gần 6.800 đảng viên và 4.600 tổ chức vi phạm kỷ luật. Uỷ ban kiểm tra các
cấp đã chỉ đạo tiến hành thẩm tra, xác minh để kết luận đối với trên 40.100
đảng viên và gần 14.800 tổ chức đảng được kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm;
giải quyết tố cáo trên 10.500 đảng viên; xử lý và giúp cấp uỷ các cấp xử lý kỷ
luật gần 44.500 đảng viên; xem xét, giải quyết trên 850 trường hợp khiếu nại
kỷ luật Đảng, trong đó có tới gần 34% phải thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ
luật; kiểm tra trên 3.700 tổ chức đảng về quản lý tài chính đảng và trên
146.600 tổ chức đảng về thu nộp, quản lý, sử dụng đảng phí...
Qua thực tiễn, có thể nêu lên một số vụ, việc phức tạp trong rất nhiều
cuộc kiểm tra mà Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành tổ chức chỉ đạo
thẩm tra, xác minh, kết luận để xử lý như các trường hợp: các đồng chí
nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk
Lắk, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Phước; Thứ trưởng Bộ Y tế; nguyên Tổng
giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam;… hoặc các vụ việc được cán bộ, đảng
viên quan tâm, đó là: các đồng chí chủ chốt của Tỉnh uỷ Ninh Bình. Tháng 6-
2010, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi
83
phạm đối với các đồng chí trong Thường thực Tỉnh uỷ Ninh Bình với 12 nội
dung cụ thể. Đoàn kiểm tra gồm 6 đồng chí do đồng chí Vụ trưởng làm
trưởng đoàn, đồng chí Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trực tiếp
chỉ đạo cuộc kiểm tra. Sau 3 tháng kiểm tra, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
xem xét, kết luận tất cả các nội dung, tuy mức độ khác nhau nhưng cả ba đồng
chí trong thường trực và các nội dung nào cũng đều vi phạm, có nội dung xảy
ra từ năm 2006. Các sai phạm đã gây hậu quả nghiêm trọng, làm thất thoát,
lãng phí tiền, tài sản, đất đai của Nhà nước. Căn cứ nguyên nhân, tính chất và
mức độ vi phạm, theo thẩm quyền, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã quyết
định thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với đồng chí Phó Bí thư
Thường trực Tỉnh uỷ; kỷ luật khiển trách đối với đồng chí Phó Bí thư Tỉnh
uỷ, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; báo cáo và đề
nghị Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương thi hành kỷ luật cảnh cáo,
đồng thời cho rút khỏi Trung ương đối với đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ.
Thời gian gần đây, đã kiểm tra và huỷ khen thưởng đối với đồng chí
nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế
vi phạm trong việc kê khai thành tích cá nhân để được phong tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Để kết luận được vấn đề phức tạp
này thật không đơn giản, phải làm rất công phu và mất nhiều thời gian, vì sự
việc xảy ra đã trên 40 năm, phải tìm nhiều hồ sơ, tài liệu, làm việc với nhiều
cơ quan, gặp nhiều nhân chứng qua các thời kỳ, cả trực tiếp và gián tiếp biết
hoặc liên quan đến bản thân cũng như quá trình tham gia chiến đấu, hoạt
động của đồng chí nguyên Bí thư Tỉnh ủy để tìm ra sự thật, trong khi nhiều
nội dung đồng chí vẫn cho mình là đúng và không nhận sai. Gần đây nhất là
vụ việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm về nhà, đất của đồng chí nguyên
Tổng Thanh tra Chính phủ, phải thẩm tra, xác minh rất thận trọng, qua nhiều
lần, qua nhiều địa phương, nhiều cơ quan, vì vấn đề nhà đất rất phức tạp,
nhạy cảm...
84
Tóm lại, quá trình thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra, uỷ ban
kiểm tra và đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp đã khắc phục khó khăn, làm việc
khách quan, thận trọng, có quyết tâm, có bản lĩnh, dũng khí, công tâm; bằng
mọi cách tìm được chứng cứ để giúp tập thể uỷ ban kiểm tra và cấp uỷ xem
xét, kết luận và xử lý nhiều vụ việc phức tạp.
3.1.2. Những hạn chế, khuyết điểm của hoạt động thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Thực tế tiến hành công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng cho thấy yếu
tố hàng đầu ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng giải quyết vụ việc là bản
lĩnh chính trị và tính chiến đấu của cán bộ kiểm tra. Tuy vậy, nếu bản lĩnh
chính trị vững vàng và tính chiến đấu cao nhưng nghiệp vụ yếu thì dù muốn
cũng không thể đảm bảo chất lượng và tiến độ giải quyết vụ việc. Trong
những năm qua, việc thực hiện tốt thẩm tra, xác minh đã góp phần quan trọng
vào chất lượng, hiệu quả các cuộc kiểm tra, nhưng nghiêm túc nhìn lại vẫn
còn một số hạn chế, khuyết điểm sau đây:
Một là, sau khi có kế hoạch kiểm tra, chưa quan tâm đến việc lập kế
hoạch thẩm tra, xác minh; kế hoạch không cụ thể, tỷ mỉ, chính xác, dẫn đến
khó khăn khi thực hiện, hạn chế kết quả thẩm tra, xác minh
Kế hoạch thẩm tra, xác minh là căn cứ để tiến hành thẩm tra, xác minh;
kết quả thẩm tra, xác minh phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng kế hoạch.
Vẫn còn trình trạng nhiều đoàn kiểm tra không xây dựng kế hoạch thẩm tra,
xác minh, hoặc có xây dựng nhưng sơ sài, thiếu cụ thể. Kế hoạch thẩm tra,
xác minh chưa căn cứ và chưa bám vào nội dung kiểm tra, nội dung tố cáo,
khiếu nại cần giải quyết về lĩnh vực cụ thể nào đó của đời sống xã hội. Trong
kế hoạch chưa làm rõ vấn đề gì cần gợi ý để đối tượng kiểm tra tự báo cáo,
giải trình, vấn đề gì cần tìm kiếm thu thập; chưa xác định cần sưu tầm những
văn bản nào của Đảng, Nhà nước có liên quan đến nội dung thẩm tra, xác
minh. Kế hoạch thẩm tra, xác minh chưa xác định rõ đối tượng, tổ chức cần
85
tiếp xúc, trao đổi; những thông tin, văn bản, tài liệu, chứng cứ cần thu thập; chưa
dự kiến những tình huống có thể phát sinh và cách giải quyết. Vẫn còn trình
trạng xác định nội dung thẩm tra, xác minh chưa chuẩn xác dẫn đến kết quả
thẩm tra, xác minh để phục vụ cho kết luận từng nội dung kiểm tra không đầy đủ
nên sau khi thẩm tra, xác minh không đủ căn cứ để kết luận có hay không có vi
phạm. Mặt khác, nhiều trường hợp chọn đối tượng thẩm tra, xác minh quá nhiều,
không cần thiết và xác định nội dung thẩm tra, xác minh không đúng trọng tâm,
trọng điểm làm lệch hướng thẩm tra, xác minh. Những đối tượng, nội dung kiểm
tra phức tạp đáng ra phải hết sức chú ý, chuẩn bị kỹ kế hoạch nhưng chưa được
quan tâm, còn chủ quan, đơn giản trong xây dựng kế hoạch thẩm tra, xác minh,
trong khi mọi sự chủ quan, đơn giản dù chỉ là trong từng chi tiết nhỏ của vụ việc
cũng có thể đẫn đến thiếu căn cứ để kết luận nội dung kiểm tra.
Hai là, việc thu thập thông tin, tài liệu, bằng chứng còn lúng túng,
chưa linh hoạt, nhiều trường hợp không đủ, không chính xác
Bằng chứng gồm người, hiện vật, văn bản, tài liệu, địa điểm, thời
gian,... tồn tại một cách khách quan, có liên quan đến sự việc, con người cụ
thể, dùng làm căn cứ để chứng tỏ sự việc là có thật. Khi thu thập thông tin, tài
liệu, chứng cứ, cán bộ kiểm tra nhiều lúc chưa biết khai thác từ nhiều nguồn
khác nhau như tổ chức hoặc cá nhân gây ra sự việc, tổ chức, cá nhân có liên
quan hoặc biết rõ sự việc, những hiện vật, tài liệu có liên quan đến sự việc
như đất đã chiếm dụng, nhà xây trái phép, tài liệu, sổ sách, băng ghi âm, ghi
hình, chứng từ, hoá đơn, công cụ, phương tiện... Quá trình thu thập chứng cứ,
cán bộ kiểm tra chưa linh hoạt, sáng tạo, thiếu mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm nên còn cứng nhắc, không linh hoạt, vận dụng và tìm
các cách làm cụ thể phù hợp thực tế.
Kỹ năng giao tiếp xã hội của một số cán bộ kiểm tra còn nhiều hạn chế.
Mặt khác, kỹ năng của cán bộ kiểm tra khi phân tích tâm lý, nắm bắt tâm tư,
tình cảm của đối tượng cung cấp thông tin để có biện pháp tác động phù hợp
86
còn nhiều hạn chế. Biểu hiện rõ nhất là khi gặp những người ít cởi mở, thiếu
nhiệt tình, cán bộ kiểm tra chưa tìm cách gợi mở, chưa có hình thức, biện
pháp tác động phù hợp để từng bước làm thay đổi thái độ của họ, làm cho họ
nhiệt tình trao đổi, cung cấp thông tin. Quá trình làm việc với các tổ chức và
cá nhân chưa chủ động, tích cực tìm cách vận động, thuyết phục, cảm hoá con
người nên hiệu quả phát huy tính tự giác của các tổ chức đảng và đảng viên
chưa cao. Cán bộ kiểm tra chưa tạo được không khí giao tiếp thoải mái, cởi
mở, tin cậy lẫn nhau. Khuyết điểm này hạn chế tính tự giác, tính tích cực đấu
tranh và sự nhiệt tình phối hợp trong cung cấp thông tin của các tổ chức đảng
và cá nhân có liên quan. Không ít cán bộ kiểm tra còn lúng túng, bị động về
phương pháp nắm tình hình, phương pháp tiếp cận đối tượng không tốt, làm
cho đối tượng mặc cảm, khó gần, thậm chí phản ứng không hợp tác.
Quá trình thu thập thông tin, tài liệu còn có tình trạng thu thập tràn lan,
không sát với nội dung kiểm tra, do đó mất nhiều thời gian đọc, chọn lọc,
phân loại. Khi nhận báo cáo giải trình của đối tượng kiểm tra, một số cán bộ
kiểm tra chưa xác định đầy đủ các loại văn bản, tài liệu mà từng đối tượng cần
cung cấp nên yêu cầu và tiếp nhận trùng lặp. Ngược lại, có tài liệu cần thu
thập lại không biết để đề nghị cung cấp, nên phải đi lại nhiều lần, mất thời
gian, công sức. Hoặc có đối tượng liên quan, trong tay nắm nhiều tài liệu có
giá trị nhưng lại bị bỏ qua.
Khi làm việc với các tổ chức đảng để nghe kết quả thẩm tra, xác minh,
cán bộ kiểm tra còn lúng túng, chưa mạnh dạn, chưa phân tích, làm rõ các
hành vi của đối tượng kiểm tra. Gặp những tổ chức đảng vì căn bệnh thành
tích hoặc tính chiến đấu kém, muốn bảo vệ cho đối tượng kiểm tra, muốn xử
lý nội bộ, cán bộ kiểm tra tỏ ra "khó xử". Những lúc đó, cán bộ kiểm tra chưa
có dũng khí, thiếu chính kiến, chưa mạnh dạn đấu tranh, phân tích phải trái,
có lúc có thái độ xuôi chiều, chấp nhận đề nghị của tổ chức đảng hoặc của đối
tượng kiểm tra.
87
Ba là, việc nghiên cứu, phân tích, xử lý các văn bản, tài liệu, thông tin,
bằng chứng không kỹ, không sâu dẫn đến nhiều cuộc kiểm tra bị kéo dài, kết
luận nội dung và đối tượng kiểm tra không chính xác
Việc thu thập đầy đủ văn bản, tài liệu, thông tin, bằng chứng là rất quan
trọng, nhưng việc nghiên cứu, phân tích, xử lý những văn bản, tài liệu, thông
tin, bằng chứng ấy một cách chính xác, khách quan lại càng quan trọng vì đó
là cơ sở tin cậy, xác thực, khách quan để kết luận và xử lý đúng. Thực tế vừa
qua, có nhiều vụ việc sau kiểm tra kết luận không chính xác, tổ chức đảng và
đảng viên "vi phạm một đằng, kết luận một nẻo", do kết luận không đúng sự
việc nên đã "sai một ly đi một dặm"; có nhiều trường hợp kiểm tra xong kết
luận chung chung, "vô thưởng vô phạt", nhiều trường hợp giải quyết tố cáo
không kết luận rõ đúng sai mà chỉ kết luận "chưa có căn cứ", "chưa đủ chứng
cứ" hoặc "không có cơ sở", làm cho cán bộ, đảng viên không đồng tình. Cá
biệt có cuộc kiểm tra đã không thực hiện đúng quy định trong việc trưng cầu
giám định của các cơ quan nghiệp vụ đối với những vấn đề cần thiết. Vì vậy,
có cuộc kiểm tra khi báo cáo trước hội nghị uỷ ban kiểm tra phải dừng lại để
thẩm tra, xác minh, xác nhận giám định của cơ quan có thẩm quyền.
Tình trạng tài liệu, thông tin thu nhận được rất nhiều nhưng do trình độ,
năng lực, kỹ năng phân tích hạn chế nên bị “rối”, không tìm ra được tính xác
thực, hợp lý, hợp pháp của từng văn bản, tài liệu, thông tin, bằng chứng; việc
đối chiếu, so sánh chưa thành thạo và thiếu nhạy cảm, sắc sảo trong việc lật đi
lật lại vấn đề để nắm bắt và kết luận đúng bản chất sự việc. Khi phân tích tài
liệu, chứng cứ cán bộ kiểm tra chưa phát hiện kịp thời những mâu thuẫn, tính
phi lôgic, không hợp lý, mối quan hệ tác động qua lại của chứng cứ, những
vấn đề chưa rõ hoặc có dấu hiệu đang tiềm ẩn đằng sau đó một sự thật để vừa
tiếp tục thu thập văn bản, tài liệu, thông tin, bằng chứng khác, vừa thuyết
phục, gợi ý, đấu tranh để đối tượng kiểm tra từng bước tự nhận ra sự thật hoặc
gần với sự thật hơn. Còn trình trạng sử dụng chứng cứ thiếu căn cứ, chỉ nghe
88
người khác, qua dư luận, qua phương tiện thông tin đại chúng, báo cáo một
chiều, chưa làm việc, trao đổi trực tiếp với đối tượng kiểm tra hoặc các tổ
chức, cá nhân có liên quan, không đến tận nơi xảy ra sự việc, không nhìn tận
mắt tài liệu, chứng cứ, do đó nhận định, đánh giá, quy kết sai lệch, không
đúng sự thật, bản chất sự việc. Qua xem xét, giải quyết khiếu nại kỷ luật của
đảng viên trong nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng, tỷ lệ thay đổi,
xoá bỏ tương ứng là 26% và 37% so với số đã giải quyết; riêng 3 năm đầu
nhiệm kỳ Đại hội XI tỷ lệ này là 34%. Trong số thay đổi, xoá bỏ chủ yếu là
do thẩm tra, xác minh không đúng, khi thẩm tra, xác minh đã bỏ sót chứng cứ,
không tìm được chứng cứ hoặc chứng cứ thiếu chính xác. Quá trình nghiên
cứu, phân tích thông tin, tài liệu chưa phát huy hết khả năng, trí tuệ của tập
thể trong lực lượng kiểm tra, có khi chỉ là ý kiến phân tích, đánh giá của một
người nên vừa không chính xác vừa không khách quan. Khi đối tượng kiểm
tra có vị trí công tác, chức vụ cao, cán bộ kiểm tra dễ mặc cảm, e ngại, quá tin
vào sự tự giác, vào giải trình của đối tượng nên đã chấp nhận một chiều,
không muốn làm đến cùng, không phân tích tìm ra sự thật.
Bốn là, chất lượng báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh chưa tốt, chưa
chuyển tải hết các chứng cứ để phục vụ việc kết luận nội dung kiểm tra, làm
hạn chế kết quả, chất lượng công tác kiểm tra.
Báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh là sản phẩm cuối cùng của quá
trình tiến hành thẩm tra, xác minh. Nếu báo cáo không tốt, không rõ ràng sẽ
ảnh hưởng, hạn chế kết quả thẩm tra, xác minh; khuyết điểm của thẩm tra xác,
minh nhiều lúc còn bắt nguồn từ cách tổng hợp, báo cáo thẩm tra, xác minh.
Xây dựng báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh, ngoài việc đòi hỏi người cán bộ
phải có vốn kiến thức chuyên môn, ngôn ngữ, văn bản, kinh nghiệm viết báo
cáo… mà còn phải có khả năng phân tích, tổng hợp, biết xây dựng bố cục hợp
lý, lựa chọn ý tứ, câu từ, trích dẫn rõ ràng để lột tả, làm rõ, nêu bật được nội
dung cần phân tích, cần báo cáo. Thực tế vừa qua, quá trình thẩm tra, xác
89
minh tìm được nhiều chứng cứ có giá trị để chứng minh hành vi của đối tượng
kiểm tra nhưng báo cáo lan man, dài dòng, khó hiểu, dẫn dắt không lôgíc,
không đầy đủ, nội dung phân tích không rõ, có chứng cứ cần phân tích sâu thì
lại viết sơ sài, dẫn chứng chứng cứ có lúc mâu thuẫn, hoặc không đúng chỗ,
thiếu thống nhất giữa phần kết quả thẩm tra, xác minh với những nhận xét, đề
xuất, kiến nghị; nhiều báo cáo chỉ liệt kê, trích dẫn quá nhiều mà không rõ ý,
nhận xét, thiếu rõ ràng, chặt chẽ, sắc nét, không rõ chính kiến của đoàn kiểm
tra; mặt khác một số báo cáo lại đưa ra nhiều nhận xét, đánh giá chung chung,
mang tính chủ quan, không đưa ra được các chứng cứ chứng minh có sức
thuyết phục. Khuyết điểm, hạn chế của thẩm tra, xác minh có phần tác động
không nhỏ từ việc tưởng chừng như không lớn này. Vì vậy cùng với trình độ,
năng lực, kinh nghiệm nghiệp vụ để tiến hành thẩm tra xác minh, đòi hỏi cán
bộ kiểm tra phải nâng cao cả trình độ tổng hợp, khả năng báo cáo kết quả
thẩm tra, xác minh.
3.2. NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC
MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG HIỆN NAY
3.2.1. Nguyên nhân ưu điểm
3.2.1.1. Nguyên nhân khách quan Một là, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian qua được
Đảng và Nhà nước tiến hành quyết liệt đã có ảnh hưởng và tác động tích cực,
thúc đẩy công tác kiểm tra của Đảng, trong đó có việc thẩm tra, xác minh có
chất lượng, hiệu quả hơn.
Thời gian qua nhiều vụ tham nhũng đã được các cơ quan pháp luật xét
xử nghiêm minh, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Quần chúng nhân dân
ngày càng đòi hòi Đảng phải có biện pháp đấu tranh mạnh mẽ hơn để chống
suy thoái trong Đảng, phải làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.
Đây là điều kiện, là “sức ép” để cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra các cấp phải tăng
cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, xử lý nghiêm minh
90
các vụ vi phạm kỷ luật trong Đảng. Tác động trên đã làm chuyển biến nhận
thức và việc tổ chức thực hiện của những người làm công tác kiểm tra, giám
sát, thi hành kỷ luật trong Đảng, từ đó, khi xem xét phải kiên quyết, khách
quan, chính xác. Muốn vậy, đương nhiên hoạt động thẩm tra, xác minh phải
làm tốt hơn.
Cùng với các quy định của Đảng, Quốc hội và Chính phủ tiếp tục ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trên rất nhiều lĩnh vực, nhất là các
luật về Phòng, chống tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm; Luật Tố cáo,
Luật Khiếu nại; Luật Thanh tra; Luật Công chức... Các quy định của Đảng và
Nhà nước là cơ sở để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, làm tiêu chí, chuẩn
mực hành động của cán bộ, đảng viên, đồng thời cũng tạo hành lang pháp lý
để tiến hành nhiệm vụ kiểm tra và hoạt động thẩm tra, xác minh; tạo điều kiện
tháo gỡ khó khăn, bế tắc trong quá trình thẩm tra, xác minh vì không có chuẩn
mực để phân biệt rạch ròi, kết luận dứt điểm các biểu hiện đúng, sai, tích cực
với tiêu cực trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế đầy biến động
và phức tạp.
Hai là, xu thế dân chủ, công khai, minh bạch trong đời sống xã hội,
trong cơ quan Nhà nước ngày càng phát triển, nhất là tình hình và kết quả
chất vấn trong Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; việc các phương tiện
truyền thông đại chúng đưa tin công khai nhiều vụ việc đã có tác động tích
cực đến công tác xây dựng, củng cố Đảng, đến công tác kiểm tra nói chung
và hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng.
Dân chủ, công khai, minh bạch càng được mở rộng và phát huy giúp
cho quần chúng nhân dân nắm bắt, hiểu biết, được tiếp cận tình hình trong
Đảng và các cơ quan Nhà nước nhiều hơn. Nhiều khuyết điểm, yếu kém của
cơ quan quản lý được lộ rõ khi được chất vấn và trả lời chất vấn trong Quốc
hội, hội đồng nhân dân các cấp. Đặc biệt, thời gian qua, phương tiện thông tin
đại chúng đã phanh phui nhiều vụ việc tiêu cực, một mặt tác động mạnh mẽ
91
trong xã hội, mặt khác tác động tích cực vào công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi
công tác kiểm tra phải nhanh chóng xem xét, kết luận và công khai rõ hơn
những vụ việc đã có kết quả thẩm tra, xác minh.
Ba là, có sự phối hợp, cộng tác tích cực của các cơ quan bảo vệ pháp
luật, các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị và các ban, ngành có
liên quan trong quá trình kiểm tra, nhất là khi thẩm tra, xác minh.
Thời gian qua, nhận thấy được tầm quan trọng của sự phối hợp giữa
công tác kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán của Nhà nước,
thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra, giám sát của các đoàn thể chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và các ban, ngành có liên quan, Trung ương
đã ban hành các quy chế phối hợp ở các cơ quan Trung ương, trên cơ sở đó
các địa phương đã vận dụng và ban hành thực hiện. Do có sự phối hợp nên đã
hạn chế tình trạng thiếu tập trung, thiếu thống nhất, chồng chéo, sơ hở, giải
quyết vụ việc không kịp thời, chính xác. Các kết luận của thanh tra, kiểm toán
nhà nước là cơ sở để giúp cho tổ chức đảng nghiên cứu, thẩm tra, xác minh,
kết luận và xử lý vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên được cụ thể, chính
xác, nhanh chóng, toàn diện và khách quan hơn.
3.2.1.2. Nguyên nhân chủ quan Một là, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp
uỷ các cấp đã kịp thời ban hành các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế và
luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra và kỷ
luật trong Đảng, từ đó tạo đà để việc thẩm tra, xác minh tốt hơn.
Thời gian qua, công tác kiểm tra của Đảng nói chung, hoạt động thẩm
tra, xác minh nói riêng có nhiều thuận lợi, được các tổ chức đảng, đảng viên,
quần chúng nhân dân quan tâm và ủng hộ. Trong các văn kiện của Đảng đã
xác định nhiều quan điểm, chủ trương về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
của Đảng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã bổ sung nhiệm
vụ giám sát đối với tổ chức đảng, tăng nhiệm vụ, quyền hạn cho uỷ ban kiểm
92
tra. Lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) đã ra Nghị quyết về
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Nghị quyết đã xác định mục
tiêu, nhiệm vụ, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc lãnh đạo, tổ chức
thực hiện công tác kiểm tra, giám sát. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã có Nghị quyết và nhiều quyết
định, quy định, quy chế, hướng dẫn thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thi
hành kỷ luật trong Đảng, như: Quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Quy
định về những điều đảng viên không được làm; Quy định giám sát trong Đảng
và giám sát cán bộ diện Trung ương quản lý; Quy chế chất vấn trong Đảng,
chất vấn trong cấp uỷ; Quy trình tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, thi
hành kỷ luật trong Đảng; Quy định về tổ chức và hoạt động của đoàn kiểm
tra... Cuối nhiệm kỳ Đại hội IX và nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội X và XI, Bộ
Chính trị và Ban Bí thư đã tiến hành kiểm tra quyết liệt nhiều tổ chức đảng
cấp dưới trực tiếp về nhiều nội dung quan trọng và nổi cộm; thực hiện quyết
định của Trung ương, các cấp uỷ, tổ chức đảng đã tiến hành sâu rộng công tác
kiểm tra và đạt nhiều kết quả.
Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp được quan tâm
kiện toàn, chất lượng cán bộ được nâng lên; chế độ, chính sách, điều kiện
phương tiện, cơ sở vật chất được ưu tiên và tăng cường đáng kể, từ đó động
viên, thu hút cán bộ có phẩm chất, năng lực làm công tác kiểm tra. Sự phối
hợp giữa cơ quan kiểm tra và các cơ quan, tổ chức có liên quan được tăng
cường và có kết quả hơn.
Các cấp ủy ngày càng nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của công tác kiểm
tra và giữ gìn kỷ luật trong Đảng, nhất là trong bối cảnh, tình hình mới; từ đó, đã
xác định rõ phương hướng, nội dung, phạm vi trách nhiệm kiểm tra của các cấp
uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp, tạo cơ sở để thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban
kiểm tra các cấp, của chi bộ và chấp hành nghiêm túc khi được kiểm tra.
93
Hai là, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và uỷ ban kiểm tra các cấp đã xác định được trách nhiệm là cơ quan chuyên trách về công tác kiểm tra của Đảng, từng bước hoàn thiện và đổi mới quy trình, phương pháp công tác, tích cực chỉ đạo việc thẩm tra, xác minh để thực hiện có kết quả các cuộc kiểm tra.
Uỷ ban kiểm tra các cấp đã tự nhận thấy mình là lực lượng nòng cốt, trực tiếp thực hiện công tác kiểm tra; chất lượng, hiệu quả cuộc kiểm tra một phần quan trọng do kết quả thẩm tra, xác minh; vì vậy, đã tập trung tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ quá trình tiến hành cuộc kiểm tra, nhất là khâu thẩm tra, xác minh. Đồng chí thành viên Ủy ban phụ trách và thường trực ủy ban kiểm tra đã thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, sát sao hoạt động của đoàn (tổ) kiểm tra. Không ít trường hợp gặp những đối tượng kiểm tra và nội dung phức tạp, các đồng chí lãnh đạo trong Ủy ban đã trực tiếp “ra tay”, gặp và làm việc với đối tượng được kiểm tra, nhất là các tổ chức đảng và đảng viên là cán bộ có vị trí quan trọng.
Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đã từng bước đổi mới quy trình kiểm tra, để nhằm nâng cao chất lượng, kết quả thẩm tra, xác minh. Từ nhiệm kỳ Đại hội IX của Đảng trở về trước, khi cần thiết, nhất là đối với các nội dung phức tạp, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm tra các cấp mới lập đoàn (tổ) kiểm tra, còn những vụ, việc khác không lập đoàn (tổ) kiểm tra. Từ nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng đến nay, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã ban hành quy định khi uỷ ban kiểm tra thực hiện tất cả các nhiệm vụ phải thành lập đoàn kiểm tra. Trong quy trình kiểm tra có những quy định cụ thể như: kết quả thẩm tra, xác minh phải được trao đổi, thảo luận, bàn bạc trong đoàn kiểm tra. Sau khi kết thúc thẩm tra, xác minh, trước khi chuẩn bị báo cáo tập thể Ủy ban, đoàn kiểm tra phải tranh thủ ý kiến của lãnh đạo Vụ phụ trách địa bàn, lĩnh vực của đối tượng kiểm tra. Từ nhiệm kỳ Đại hội XI đến nay, Ủy ban Kiểm tra Trung ương còn quy định khi kiểm tra đối tượng là cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy trực thuộc Trung ương, các đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng, hoặc kiểm tra các đồng chí đảng viên là cán bộ chủ chốt địa phương,
94
bộ, ngành Trung ương, cán bộ diện Trung ương quản lý thì trưởng đoàn kiểm tra là một đồng chí thành viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Ba là, trình độ, năng lực và trách nhiệm của cán bộ trực tiếp làm công
tác kiểm tra đã được nâng lên một bước, góp phần có tính quyết định đến kết
quả thẩm tra, xác minh.
Do được quan tâm, chú ý đến việc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ công
tác kiểm tra nói chung và nghiệp vụ cụ thể về thẩm tra, xác minh nói riêng
nên cán bộ kiểm tra có nhận thức, phương pháp, kinh nghiệm tốt hơn khi tiến
hành thẩm tra, xác minh. Vào đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng, Ủy ban Kiểm tra
Trung ương đều biên soạn và ban hành tài liệu nghiệp vụ về công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Tài liệu đó được biên soạn cho cấp cơ
sở và cấp trên cơ sở. Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã phối hợp với Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các Học viện Chính trị khu vực tổ chức các
lớp cử nhân kiểm tra, mở nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ,
nhất là số cán bộ mới chuyển về cơ quan ủy ban kiểm tra công tác.
Đội ngũ cán bộ kiểm tra nói chung, cán bộ trực tiếp tiến hành thẩm tra,
xác minh nói riêng đã có một bước trưởng thành đáng kể. Đại bộ phận cán bộ
kiểm tra có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống lành mạnh,
trong sáng, trung thực, công tâm, khách quan. Trình độ lý luận chính trị, kinh
tế, pháp luật, ngoại ngữ, tin học, trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm thẩm tra,
xác minh của cán bộ được nâng cao. Đa số cán bộ kiểm tra có kinh nghiệm
thực tiễn, có tư duy mới về công tác kiểm tra của Đảng. Mặt khác, nhiều cán
bộ đã cần mẫn suy nghĩ, tìm tòi những hình thức, phương pháp, năng động
sáng tạo tiến hành thẩm tra, xác minh phù hợp tình hình, hoàn cảnh mới. Nhờ
đó, trước khó khăn phức tạp của nhiệm vụ công tác kiểm tra và thi hành kỷ
luật trong Đảng, đội ngũ cán bộ kiểm tra đã nỗ lực phấn đấu thực hiện có kết
quả một khối lượng lớn nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có
dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo, khiếu nại kỷ luật, xem xét xử lý hoặc đề
95
nghị cấp ủy xử lý kỷ luật theo thẩm quyền, trong đó có nhiều vụ việc được
quần chúng, đảng viên đồng tình, hoan nghênh.
3.2.2. Nguyên nhân hạn chế, khuyết điểm
3.2.2.1. Nguyên nhân khách quan Một là, nội dung, đối tượng kiểm tra, thẩm tra, xác minh ngày càng đa
dạng, phong phú, phức tạp, vi phạm và cách thức vi phạm trong Đảng ngày
càng tinh vi, khó lường.
Thời gian qua, càng đi sâu vào quá trình đổi mới, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta bên cạnh mặt tốt, tích cực đã
phát sinh những mặt trái, tiêu cực tác động vào nhận thức và hoạt động của
mọi người trong xã hội, trong đó có cán bộ, đảng viên. Vi phạm của tổ chức
đảng và đảng viên ngày càng tinh vi, có sự liên kết, lôi kéo, móc nối, khó phát
hiện. Qua tiến hành công tác kiểm tra và xử lý kỷ luật đảng viên trong những
năm qua, nhận thấy những nội dung chủ yếu trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội đều có vi phạm và có xu hướng tăng nhanh. Nhiều trường hợp đảng
viên, cán bộ vi phạm không đơn thuần thể hiện ở phạm vi một lĩnh vực, một
địa chỉ mà có liên quan móc xích, chồng chéo, ở nhiều nơi, nhiều cấp, nhiều
ngành; vừa biểu hiện hành vi vi phạm cụ thể, vừa thể hiện ở sự dao động chính
trị, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng và suy thoái phẩm chất, đạo đức.
Kinh tế thị trường ngoài mặt tích cực, thì mặt trái của nó cùng với ảnh
hưởng bởi toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tác động, tạo đà phát triển, làm
cho vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên hết sức tinh vi, đa dạng, phức tạp.
Thực tế tiến hành công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng thời gian
qua cho thấy, tình hình vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên hiện
nay đang có những diễn biến phức tạp cả về đối tượng, nội dung, tính chất,
cách thức và quy mô vi phạm. Đa số đối tượng vi phạm là cán bộ có chức vụ,
quyền lực, trình độ, giàu kinh nghiệm sống, kinh nghiệm công tác và quan hệ
xã hội rộng. Khi trình độ, kinh nghiệm, quyền lực và các mối quan hệ được
96
kết hợp nhằm lợi dụng kẽ hở của luật pháp và những hạn chế, bất cập của các
quy định hiện hành để che chắn, hợp lý hoá sai phạm, thậm chí đối phó với
kiểm tra thì sẽ gây nhiều khó khăn cho cán bộ kiểm tra khi thẩm tra, xác minh.
Cách thức vi phạm ngày càng đa dạng, tinh vi hơn và được tính toán, che giấu
bằng nhiều chiêu thức tinh vi, khó phát hiện, khó xử lý. Từ việc lợi dụng kẽ hở
của chính sách, pháp luật, lợi dụng vị trí, quyền hạn, lợi dụng sự yếu kém của
công tác quản lý, lợi dụng các khâu của công tác cán bộ đến lợi dụng các mối
quan hệ đều được tính toán kỹ lưỡng để thực hiện các hành vi sai phạm.
Đối tượng kiểm tra có chức vụ, vị trí, có kinh nghiệm, trình độ, có vị
thế trong cơ quan, đơn vị, cán bộ chủ chốt, có khi người đó nắm sứ mạng
chính trị của cả cán bộ kiểm tra. Thông thường, khi biết kiểm tra, đối tượng
kiểm tra lại nặng nề, có mặc cảm, không muốn cộng tác, tìm cách che giấu,
hoặc hợp thức hoá, đối phó, quá trình thực hiện hành vi nào đó có khi đã tính
toán, tìm sơ hở để “lách” các quy định; mặt khác, họ phối hợp với cấp dưới
tìm cách che chắn, phản ứng quyết liệt, có khi dựa vào cấp trên để được bao
che, ủng hộ, vì những bản thân những cán bộ đó cũng liên quan, có phần trách
nhiệm; gần đây, có sự cấu kết giữa cán bộ đảng viên với doanh nghiệp, bọn
tội phạm hoạt động mang tính xã hội đen, vừa khó phát hiện vừa khó khăn
trong kiểm tra, xem xét, kết luận, xử lý, trong khi công tác kiểm tra là công
việc nội bộ Đảng, phải thực hiện theo nguyên tắc và phương pháp công tác
đảng. Bên cạnh tiêu cực, vi phạm của đảng viên, cán bộ thì tình hình khiếu
kiện, tố cáo gay gắt, quyết liệt của nhân dân càng làm cho hoạt động thẩm tra,
xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng trở nên khó khăn rất nhiều.
Hai là, sự phối hợp giữa công tác kiểm tra của Đảng với công tác
thanh tra, kiểm toán Nhà nước, công tác kiểm tra, giám sát của các đoàn thể
chính trị - xã hội, các ban, ngành có liên quan chưa tốt, chưa hiệu quả.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong công tác kiểm
tra của Đảng là một trong những phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra,
97
càng không thể thiếu trong quá trình thẩm tra, xác minh. Thời gian qua, Ủy
ban Kiểm tra Trung ương đã tham mưu để Ban Bí thư ban hành các quy chế
phối hợp công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng giữa Ủy
ban Kiểm tra Trung ương với các tổ chức đảng ở các cơ quan Trung ương có
liên quan; căn cứ các quy chế của Trung ương, cấp ủy các cấp đã ban hành
quy chế phối hợp ở địa phương, đơn vị mình để thực hiện. Tuy nhiên, việc
triển khai thực hiện các quy chế phối hợp còn nhiều hạn chế, chưa đạt kết quả
như mong muốn. Thông báo kết luận của Ban Bí thư về thực hiện các Quy
chế phối hợp nêu trên (Thông báo số 71-TB/TW, ngày 12-01-2012) đã chỉ rõ:
Việc thực hiện nội dung, trách nhiệm, phương pháp phối hợp trong
Quy chế có lúc, có việc chưa chặt chẽ, đầy đủ và thường xuyên,
như trao đổi thông tin, phát hiện dấu hiệu vi phạm để xây dựng kế
hoạch kiểm tra, giám sát chưa kịp thời; phối hợp xem xét giải quyết
tố cáo, khiếu nại, xử lý kỷ luật có trường hợp còn kéo dài và còn
chồng chéo trong thực hiện kế hoạch kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán… việc phối hợp chỉ đạo điều tra, giải quyết đối với một số vụ
việc vi phạm pháp luật của các cơ quan tố tụng còn chậm, ảnh
hưởng đến việc phối hợp trong xem xét trách nhiệm, xử lý kỷ luật,
hạn chế tác dụng giáo dục, răn đe đối với tổ chức đảng và đảng viên
vi phạm. Có những vấn đề nảy sinh trong thực tế do chưa được quy
định trong Quy chế phối hợp nên còn lúng túng, chưa chủ động
trong việc thông báo, trao đổi thông tin về tổ chức đảng, đảng viên
không thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý [18, tr.02-03].
Như vậy, có thể thấy mặc dù đã có các quy chế phối hợp trong công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng giữa ủy ban kiểm tra các cấp với các cơ quan
chức năng có liên quan, nhất là các cơ quan thanh tra, kiểm toán, công an, tòa
án, kiểm sát… và đạt được kết quả nhất định, nhưng công tác phối hợp cụ thể
trong hoạt động thẩm tra, xác minh còn bất cập, chưa rõ ràng, nhiều vấn đề
98
thực tế phát sinh chưa được quy định. Việc triển khai thực hiện phối hợp chưa
được quan tâm đúng mức, chưa thường xuyên, ổn định, vẫn có tính sự vụ, khi
sự việc phát sinh mới tìm cách liên hệ bằng văn bản xin cung cấp hồ sơ tài
liệu, mới đề nghị, yêu cầu được làm việc, gặp gỡ, trao đổi, cung cấp và chia
sẻ thông tin…; thủ tục hành chính trong phối hợp còn nặng nề, rườm rà qua
nhiều cấp xem xét, có ý kiến… Mặt khác, chưa cụ thể hóa trách nhiệm, cách
thức phối hợp giữa đơn vị tham mưu, chức năng của các cơ quan phối hợp,
các đoàn kiểm tra, cán bộ kiểm tra theo dõi địa bàn… của hai cơ quan.
Nguyên nhân trên đã phần nào làm cho hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng có nhiều khuyết điểm, hạn chế, lúng túng.
Ba là, các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước chưa đầy đủ, đồng
bộ, còn chồng chéo, làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện và kết quả thẩm
tra, xác minh.
Một nguyên nhân không nhỏ nữa là mặc dù những năm qua Đảng và
Nhà nước đã chủ trương tiến hành cải cách hành chính và tích cực ban hành
nhiều văn bản pháp quy, nhưng trong thực tế còn nhiều lĩnh vực hoạt động
vẫn còn tình trạng “trắng luật” hoặc có luật nhưng đã lạc hậu, không đồng bộ
dẫn đến thực trạng hoạt động của nhiều tổ chức, nhiều cán bộ quản lý ở các
đơn vị theo dạng “vừa thi công vừa thiết kế”, thậm chí “thi công không có
thiết kế” (như quy định về đấu thầu và đấu thầu hạn chế cũng còn nhiều sơ hở
từ đó cán bộ đã lợi dụng làm sai dẫn đến tiêu cực…).
Khi các quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước còn thiếu, chưa đầy
đủ, rõ ràng làm cho hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng gặp nhiều khó khăn, trở ngại, chứng cứ xem xét, kết luận hành vi vi
phạm phải căn cứ nhiều điều kiện, cơ sở, trước hết là các quy định mang tính
pháp quy. Kết quả của công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác
minh nói riêng phải tìm ra sự thật, phân tích, mổ xẻ, tìm ra bản chất của vấn
đề, nhưng căn cứ, chỗ dựa lại chưa đầy đủ, rõ ràng, sử dụng thế nào cũng
99
được, vì vậy kết quả thẩm tra, xác minh còn khuyết điểm, hạn chế sẽ không
tránh khỏi.
3.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan Một là, nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên, trong đó có
ủy ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra nói chung và cán bộ trực tiếp tiến hành
thẩm tra, xác minh chưa tốt, chưa đầy đủ.
Do nhận thức chưa đầy đủ, chưa tốt về vị trí, vai trò của công tác kiểm
tra là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, bảo đảm cho chủ
trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định của Đảng, của cấp
ủy và pháp luật Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh và thực hiện thắng
lợi trong thực tiễn, do đó, một số cấp ủy chưa thật sự quan tâm tự mình kiểm
tra hoặc chỉ đạo cơ quan tham mưu kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ. Quá
trình tổ chức thực hiện các cuộc kiểm tra của mình, nếu cấp ủy thiếu kiên
quyết sẽ dẫn đến việc chỉ đạo thẩm tra, xác minh không tốt, không làm rõ
được nội dung kiểm tra, kết luận thiếu chính xác dẫn đến chất lượng, hiệu quả
cuộc kiểm tra không cao, thậm chí còn ngược lại.
Nhận thức của tổ chức đảng và đảng viên về công tác kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật đảng nói chung và về hoạt động thẩm tra, xác minh nói
riêng còn hạn chế, phần nào gây cản trở cho công tác kiểm tra. Tổ chức đảng,
nhất là người đứng đầu cấp uỷ do chưa nhận thức đúng đắn đầy đủ về tính
quyết định của kết quả thẩm tra, xác minh đến kết quả kiểm tra nên nhiều lúc
chưa tạo điều kiện thuận lợi, ủng hộ cho hoạt động thẩm tra, xác minh. Từ
nhận thức đó, khi cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên là đối tượng kiểm tra của
cấp trên thì thiếu sự cộng tác, phối hợp trong quá trình kiểm tra, dẫn đến né
tránh trong cung cấp thông tin, tài liệu, cấp trên “hỏi” đến đâu thì cung cấp
đến đó. Khi giải trình các nội dung kiểm tra chỉ nêu chung chung, không tự
giác, tự phê bình, tự nhận khuyết điểm, thậm chí còn che giấu tài liệu, hợp
thức hóa các hành vi sai phạm làm cho việc thẩm tra, xác minh của cấp trên
100
khó khăn. Khi cấp trên kiên quyết tiến hành thẩm tra, xác minh, làm đến nơi
đến chốn thì cho rằng cán bộ kiểm tra “vạch lá tìm sâu”, từ đó gây cản trở
cuộc kiểm tra. Khi cấp ủy, tổ chức đảng không phải là đối tượng kiểm tra
nhưng trong tổ chức mình có đảng viên, cán bộ được kiểm tra lẽ ra phải là chỗ
dựa tin cậy của cấp trên nhưng lại giữ “im lặng”, không “vạch áo cho người
xem lưng” vì sợ mất uy tín, mất thành tích, từ đó cấp trên không còn chỗ
dựa, không phát huy được tinh thần xây dựng Đảng của các tổ chức đó. Là
đảng viên được kiểm tra do nhận thức không tốt nên mặc cảm, định kiến
với cán bộ kiểm tra, thiếu sự cộng tác, thậm chí đe dọa những người khác
trao đổi, cung cấp tài liệu cho cán bộ kiểm tra. Khi cấp trên cung cấp các
tài liệu, chứng cứ chứng minh khuyết điểm vi phạm của đối tượng kiểm tra
để cấp ủy, đảng viên góp ý nhận xét thì không có tinh thần đấu tranh phê
bình, né tránh, bao che, chỉ phát biểu chung chung, nhiều lúc lại ca ngợi
thành tích, không đề cập, nhận xét gì về khuyết điểm, vi phạm và trách
nhiệm của đối tượng kiểm tra. Rõ ràng những lý do trên làm cho hoạt động
thẩm tra, xác minh của cấp trên gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế đến chất
lượng kết quả thẩm tra, xác minh.
Hai là, chất lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra nhìn
chung còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của công tác
kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng.
Một khó khăn cũng là nguyên nhân quan trọng khác, đó là yêu cầu
vượt qua chính bản thân mình của cán bộ kiểm tra về khoảng cách giữa trình
độ, năng lực, kinh nghiệm, bản lĩnh trước tính phức tạp của nội dung và đối
tượng kiểm tra. Nội dung kiểm tra càng nhiều, càng phức tạp thì càng khó
khăn, bởi trình độ cán bộ có hạn, nhiều lĩnh vực chưa am hiểu, chưa tiếp cận,
cọ xát với thực tế; đối tượng kiểm tra có chức vụ cao, từng trải, “có uy lớn”
thì cán bộ kiểm tra dễ “ngợp” và “choáng”, do đó nếu không có bản lĩnh, trình
độ thì cán bộ sẽ rất khó khăn khi tiến hành thẩm tra, xác minh. Kiểm tra tổ
101
chức đảng cấp dưới và đảng viên là cấp ủy viên, cán bộ do cấp ủy cùng cấp
quản lý khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo, giải quyết khiếu nại, xem
xét để xử lý kỷ luật theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp ủy xử lý kỷ luật đảng
viên, tổ chức đảng là những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, căng thẳng, tế nhị.
Đối tượng kiểm tra thông thường có vị trí, cương vị, kinh nghiệm, quá trình
công tác, nhiều trường hợp hơn cán bộ trực tiếp kiểm tra. Dấu hiệu vi phạm
và vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên trong bối cảnh hiện nay rất đa
dạng, phức tạp, tinh vi, nhiều nội dung và cách thức vi phạm mới, nhất là
trong bối cảnh đi sâu vào nền kinh tế thị trường, quan hệ hội nhập quốc tế sâu
rộng. Nhiều cuộc kiểm tra với nội dung cần xem xét, kết luận rất rộng, lại đòi
hỏi thời gian gấp để phục vụ công tác xây dựng Đảng. Vấn đề nổi lên hiện
nay là trình độ, năng lực của cán bộ kiểm tra chưa theo kịp và đáp ứng tính
chất, quy mô và yêu cầu của công tác kiểm tra, nhất là trình độ hiểu biết về
kinh tế, xã hội, về quản lý kinh tế - xã hội, hiểu biết pháp luật. Các quan điểm,
chủ trương, chính sách, quy định về kinh tế - xã hội luôn thay đổi, trong khi
cán bộ kiểm tra không được cập nhật, nghiên cứu kịp thời, do vậy trình độ
nắm, hiểu của cán bộ kiểm tra không theo kịp, lạc hậu so với tình hình thực
tiễn. Những hạn chế, bất cập của cán bộ kiểm tra về trình độ, năng lực hiện
nay ở một số nơi đang chậm được khắc phục sẽ là điều cản trở lâu dài đến
hoạt động thẩm tra, xác minh.
Một vấn đề quan trọng khác là, cán bộ kiểm tra còn hạn chế về kinh
nghiệm, vốn sống thực tiễn, phương pháp, phong cách, kỹ năng nghiệp vụ và
cả thái độ ứng xử trước những yêu cầu của tình hình mới và hoạt động thẩm
tra, xác minh. Hạn chế, yếu kém trong thẩm tra, xác minh chứng tỏ trong
nhiều trường hợp cán bộ kiểm tra thiếu kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực
xảy ra về nội dung kiểm tra. Tình trạng này đã hạn chế chất lượng, hiệu quả
thẩm tra, xác minh và do đó ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của các cuộc
kiểm tra nói chung.
102
Ba là, nguyên tắc, phương pháp, quy trình công tác kiểm tra nói chung
và trong hoạt động thẩm tra, xác minh còn thiếu cụ thể, bất cập, chưa phù
hợp thực tế trong nội bộ Đảng hiện nay.
Hiện nay, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương cũng chưa xác định nguyên tắc
và phương pháp riêng cho hoạt động thẩm tra, xác minh mà chỉ trên cơ sở dựa
vào các nguyên tắc và phương pháp công tác đảng để vận dụng thực hiện; mới
chỉ có quy trình kiểm tra, còn thẩm tra, xác minh đã có hướng dẫn cách tiến
hành nhưng chưa có quy trình riêng.
Đây là một trong các nguyên nhân rất quan trọng làm cho hoạt động
thẩm tra, xác minh có những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém. Thực tiễn công
tác xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra thời gian qua nói riêng cho
thấy nguyên tắc và các phương pháp trên có nhiều hạn chế, bất cập, không đạt
kết quả như mong muốn. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng đang có
nhiều vi phạm, tình trạng dân chủ hình thức còn phổ biến. Thực hành dân chủ
trong Đảng không được phát huy và bảo đảm; vẫn còn tình trạng độc đoán,
chuyên quyền, bóp nghẹt dân chủ. Biểu hiện rõ nét ở thực trạng đảng viên
không dám phê bình thẳng thắn những khuyết điểm, vi phạm của lãnh đạo,
nhất là người đứng đầu vì sợ trù đập. Có nơi cả ban thường vụ, cả tập thể cấp
uỷ không ai dám nói trái ý kiến bí thư cấp uỷ. Khi đảng viên không dám phát
biểu, nêu hết, nói hết, trình bày hết các quan điểm, chính kiến của mình thì
mọi việc sẽ một chiều, theo ý kiến lãnh đạo, cấp trên không nắm được tình
hình, làm cho cán bộ kiểm tra khó khai thác, khó được cung cấp các chứng
cứ. Khi thẩm tra, xác minh là phải dựa vào tổ chức đảng, vào cấp ủy, nhưng
cấp ủy, tổ chức đảng không tích cực phối hợp trong quá trình kiểm tra, trong
cung cấp thông tin, tài liệu, có lúc lại che chắn; tính chiến đấu, phê bình làm
rõ nội dung vi phạm và trách nhiệm của đối tượng kiểm tra lại rất yếu, “dĩ hòa
vi quý”, e dè, nể nang, khen là chính, tư tưởng “dễ người, dễ ta”, sợ mất thành
tích. Hoạt động thẩm tra, xác minh của Đảng lấy tự phê bình và phê bình làm
103
biện pháp chính yếu nhưng thực trạng của tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi
chỉ là hình thức. Không ít trường hợp đảng viên, cán bộ, kể cả cán bộ lãnh
đạo thiếu gương mẫu, không nghiêm túc tự phê bình, còn sợ “vạch áo cho
người xem lưng”, có khi trong phê bình lại tìm cách hợp pháp hóa sai phạm,
tiêu cực, thậm chí còn làm đảo lộn đúng sai, tốt xấu, tạo điều kiện cho phần tử
tiêu cực thoái hóa được dung túng, bao che và có chỗ dựa để trù dập, ức hiếp
những đảng viên chân chính, trung thực, từ đó mà tạo ra tâm lý “đấu tranh
tránh đâu”, đây là một cản trở, chướng ngại rất lớn trong công tác kiểm tra và
hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra.
Thẩm tra, xác minh là một khâu quan trọng, khâu chính yếu trong các
phương pháp công tác kiểm tra của Đảng nhưng chưa có quy trình riêng cụ
thể, mới chỉ đề cập một điểm trong bước tiến hành của quy trình công tác
kiểm tra. Do chưa có quy trình cụ thể nên cách thức thực hiện thẩm tra, xác
minh còn lúng túng, thực tế chỉ dựa vào kinh nghiệm của từng cán bộ trực
tiếp kiểm tra, từ đó kết quả thẩm tra xác minh không tốt, dẫn đến những yếu
kém, hạn chế nhất định.
3.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA QUA THỰC TRẠNG
HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
3.3.1. Một số kinh nghiệm tiến hành thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng
Để làm tốt việc thẩm tra, xác minh, xuất phát từ thực tiễn công tác
kiểm tra trong Đảng thời gian qua, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu sau đây:
Một là, ban thường vụ cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng,
ủy ban kiểm tra và cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra các cấp phải có
nhận thức đúng, đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, vị trí, vai trò của hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng.
Khi cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy có nhận thức đúng, đầy đủ về
thẩm tra, xác minh sẽ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cuộc kiểm tra của cấp
104
ủy, sẽ chỉ đạo, định hướng lực lượng tiến hành thẩm tra xác minh một cách
kiên quyết, cụ thể; mặt khác sẽ tạo điều kiện, phối hợp với cấp trên tiến hành
thẩm tra, xác minh khi kiểm tra bản thân tổ chức mình hoặc kiểm tra đảng
viên, cán bộ sinh hoạt tại địa phương, đơn vị mình. Đồng thời, sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho ủy ban kiểm tra tiến hành thẩm tra, xác minh khi kiểm tra
các cấp ủy trực thuộc và đảng viên là cán bộ do cấp ủy quản lý. Muốn có
nhận thức đúng về hoạt động thẩm tra, xác minh trước hết phải có nhận thức
đúng về công tác kiểm tra. Khi thấy được công tác kiểm tra là bộ phận quan
trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ trực tiếp, thường
xuyên của cấp ủy, mục tiêu của công tác kiểm tra là nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng thì cấp ủy sẽ quan tâm và chỉ đạo thực hiện
tốt công tác kiểm tra. Nếu cấp ủy nhận thấy muốn công tác kiểm tra có hiệu
quả, hiệu lực và để việc thi hành kỷ luật được “công minh, chính xác, kịp
thời” thì không có cách nào khác là phải làm tốt thẩm tra, xác minh, làm rõ và
kết luận đúng các nội dung kiểm tra.
Đối với ủy ban kiểm tra và cán bộ làm công tác kiểm tra, là người trực
tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện các cuộc kiểm tra, trong đó cốt lõi là tiến
hành thẩm tra, xác minh, nếu uỷ ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra có nhận thức
đúng sẽ chuẩn bị tốt từ kế hoạch kiểm tra, kế hoạch thẩm tra xác minh, tổ
chức thực hiện có kết quả thẩm tra, xác minh; tìm cách khắc phục mọi khó
khăn, sáng tạo, linh hoạt trong thực hiện phương pháp, quy trình kiểm tra.
Thực tế vừa qua, ở cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương có nhiều vụ việc rất
khó khăn, phức tạp cả về đối tượng và nội dung kiểm tra nhưng do có nhận
thức đúng trong cơ quan và sự nỗ lực cố gắng của những cán bộ trực tiếp tiến
hành thẩm tra, xác minh nên cuộc kiểm tra đã đạt kết quả tốt, giúp cho tập thể
Ủy ban Kiểm tra Trung ương xem xét, kết luận, xử lý kịp thời nghiêm minh,
kể cả những trường hợp phải trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, kết luận,
quyết định xử lý kỷ luật theo thẩm quyền.
105
Hai là, phải luôn có sự quan tâm chỉ đạo cụ thể, kịp thời, sát sao và
kiên quyết của thường trực cấp ủy, thường trực ủy ban kiểm tra trong quá
trình thẩm tra, xác minh.
Chủ thể các cuộc kiểm tra thông thường là ban thường vụ cấp ủy hoặc
của ủy ban kiểm tra. Để tiến hành cuộc kiểm tra thì ban thường vụ cấp ủy, ủy
ban kiểm tra lập ra các đoàn (tổ) kiểm tra, đây là những cán bộ trực tiếp tiến
hành thẩm tra, xác minh. Chất lượng, kết quả cuộc kiểm tra tốt hay không tốt
sẽ gắn với trách nhiệm của ban thường vụ hoặc của ủy ban kiểm tra. Để cuộc
kiểm tra đạt kết quả thì phải có sự quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện của
thường trực cấp ủy, là những người giúp ban thường vụ hoàn thành tốt cuộc
kiểm tra. Tương tự như vậy, cuộc kiểm tra là của tập thể ủy ban kiểm tra,
nhưng thường trực uỷ ban kiểm tra (gồm chủ nhiệm và các phó chủ nhiệm)
được ủy nhiệm thay mặt tập thể ủy ban chỉ đạo, điều hành các công việc,
trong đó có các cuộc kiểm tra. Trước khó khăn khi tiến hành thẩm tra, xác
minh, không thể thiếu sự chỉ đạo, phó mặc cho lực lượng trực tiếp thẩm tra,
xác minh, tự tiến hành “tác chiến”. Không ít đối tượng kiểm tra và các tổ chức
cá nhân có liên quan không cộng tác, phối hợp, còn chần chừ, kéo dài việc
cung cấp tài liệu, hồ sơ nhưng khi có ý kiến chỉ đạo kịp thời của thường trực
cấp ủy và ủy ban kiểm tra thì các đối tượng nghiêm túc thực hiện; có những
trường hợp vi phạm đã được làm rõ nhưng không chịu kiểm điểm, chỉ đến khi
có sự chỉ đạo của thường trực cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra mới viết kiểm
điểm và gửi cho đoàn kiểm tra. Nhiều cuộc kiểm tra khó khăn, phức tạp,
thường trực cấp ủy và ủy ban kiểm tra đã nghe đoàn kiểm tra báo cáo tiến độ,
kết quả thẩm tra, xác minh bước đầu để cho ý kiến, tháo gỡ khó khăn, định
hướng những việc cần làm tiếp. Thực tế chứng minh cuộc kiểm tra nào có sự
quan tâm tích cực, theo dõi, chỉ đạo quyết liệt thì tiến độ, kết quả kiểm tra và
thẩm tra, xác minh được tiến hành nhanh, gọn, bảo đảm có chất lượng, không
để kéo dài, phải thẩm tra, xác minh nhiều lần.
106
Ba là, bám sát nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh; quá trình tiến
hành thẩm tra, xác minh phải năng động, sáng tạo, linh hoạt trong phương
pháp, cách thức tiến hành.
Như trên đã xác định, nội dung thẩm tra, xác minh là những nội dung
kiểm tra có vấn đề cần được xem xét, làm rõ để kết luận. Mỗi nhiệm vụ kiểm
tra của cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra có nội dung, đối tượng cụ thể khác nhau.
Trong mỗi cuộc kiểm tra, tuỳ nội dung, đối tượng và tình thực tế của vụ việc
mà có nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh khác nhau. Như vậy, muốn làm
rõ nội dung kiểm tra thì không có cách nào khác là phải bám vào các nội dung
cần thẩm tra, xác minh đã được xác định. Mỗi đối tượng thẩm tra, xác minh
lại liên quan chặt chẽ đến nội dung kiểm tra, nhằm chứng minh, làm rõ nội
dung kiểm tra đúng, sai ra sao. Chứng cứ nằm ở đối tượng thẩm tra, xác minh;
có bám sát đối tượng thẩm tra, xác minh thì mới nhanh chóng tìm được chứng
cứ. Quá trình thẩm tra, xác minh nếu quan liêu, tiếp cận không tốt các đối
tượng thẩm tra, xác minh thì sẽ khó khăn trong việc tìm ra chứng cứ. Để
nhanh chóng tìm ra chứng cứ, quá trình thẩm tra, xác minh, cán bộ kiểm tra
phải linh hoạt, năng động và sáng tạo từ việc tiếp cận, thu thập, khai thác thông
tin từ các đối tượng. Thực tế, nếu cán bộ nào có phương pháp tốt thì kết quả
thẩm tra, xác minh sẽ tốt. Vì vậy, hoàn thiện, đổi mới phương pháp, cách thức,
tác phong công tác của cán bộ kiểm tra là rất cần thiết trong thời gian tới.
Bốn là, có đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra đủ “tâm”, đủ
“tầm”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, tính phức tạp của công tác kiểm tra nói
chung và việc thực hiện thẩm tra, xác minh nói riêng.
Trong phần nguyên nhân của ưu điểm đã xác định trình độ, năng lực
cán bộ là một nguyên nhân quan trọng, có tính quyết định đến những ưu điểm,
kết quả của hoạt động thẩm tra, xác minh. Đây cũng là kinh nghiệm hết sức
quan trọng rút ra từ thực tiễn thời gian qua. Cán bộ là một trong những nhân
tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng và
107
chế độ, là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [119, tr.269], "công việc
thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Không có đội ngũ cán
bộ tốt thì đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng cũng không thể trở hành hiện
thực được.
Muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra nói chung và
việc thẩm tra, xác minh nói riêng thì đội ngũ cán bộ kiểm tra phải có phẩm
chất, trình độ, năng lực, phải là những người vững vàng về chính trị, giương
mẫu về đạo đức, trong sáng về lối sống, có phong cách tốt, có kiến thức
chuyên môn và năng lực thực tiễn. Có thể khẳng định, số lượng và chất
lượng cán bộ là một trong các cơ sở, điều kiện chủ quan, nội tại, điều kiện
chủ yếu, có tính quyết định đến chất lượng, hiệu quả, hiệu lực của công tác
kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp, trong đó có kết quả thẩm tra, xác
minh. Như ở phần trên đã đề cập, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra của Đảng.
Đó là những người mẫu mực nhất, không thể chê trách được; đủ kinh
nghiệm và uy tín, giàu năng lực; có ý thức tổ chức kỷ luật cao; chí công vô
tư, không thiên vị, không thành kiến. Đội ngũ cán bộ đó, phải qua lựa chọn
cẩn thận, sát hạch, thanh tra kỹ, được đặc biệt tin cẩn và được huấn luyện rất
công phu.
Chúng ta không quan trọng hoá, đề cao cán bộ làm công tác kiểm tra.
Cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát là đội ngũ cán bộ của Đảng, yêu cầu
tiêu chuẩn cán bộ kiểm tra, giám sát nằm trong những quy định tiêu chuẩn cán
bộ của Đảng. Tuy nhiên, do tính chất nhiệm vụ, do yêu cầu của công tác kiểm
tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, là nhiệm vụ hết sức quan trọng, liên quan
đến sứ mệnh chính trị của tổ chức đảng và đảng viên, vì vậy, phải đủ số
lượng, có phẩm chất, đạo đức, năng lực, trình độ toàn diện, kinh nghiệm thực
tiễn phong phú, có uy tín, phải có “tâm” và có “tầm”.
108
3.3.2. Một số vấn đề đặt ra qua hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Thực trạng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng thời gian qua có nhiều vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu, làm rõ để giải quyết và thực hiện tốt hơn trong thời gian tới; trước mắt xin nêu một số nội dung sau đây:
Một là, cần nghiên cứu, làm rõ sự bất cập và hạn chế của nguyên tắc, phương pháp thẩm tra, xác minh để vận dụng, thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế trong Đảng hiện nay.
Hoạt động thẩm tra, xác minh là hoạt động trong nội bộ Đảng và phải tuân theo các nguyên tắc của Đảng như nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên thực tế trong Đảng hiện nay có nhiều hạn chế, bất cập khi thực hiện các nguyên tắc. Do là công việc nội bộ nên dễ dẫn đến khép kín, nội bộ che giấu, bao bọc cho nhau. Nguyên tắc dân chủ, công khai trong công tác kiểm tra làm cho việc thẩm tra, xác minh khó khăn hơn vì đối tượng kiểm tra có thể lợi dụng để quanh co, lẩn tránh, che giấu hoặc hợp thức hóa vi phạm. Khi kiểm tra ban thường vụ cấp uỷ thì chỉ trong ban thường vụ biết, cấp uỷ không biết, cán bộ, công chức người thường xuyên tiếp xúc, biết công việc cụ thể nhưng không được biết, được nói, từ đó hạn chế tính công khai, hạn chế nguồn cung cấp thông tin, chứng cứ. Tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình có nhiều vi phạm, chỗ dựa quan trọng của hoạt động thẩm tra, xác minh ít tác dụng. Tình hình, điều kiện hiện nay rất khó khăn trong việc tìm chứng cứ; chứng cứ bị bóp méo, không chính xác. Thực trạng này đặt ra cho công tác thẩm tra, xác minh phải đổi mới nếu muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả.
Hai là, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra đang hạn chế, bất cập trước yêu cầu, nhiệm vụ là làm rõ các hành vi vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên khi tiến hành thẩm tra, xác minh.
"Cán bộ nào, phong trào đó". Chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra gắn
liền và có mối quan hệ nhân quả với chất lượng thẩm tra, xác minh, trong khi
109
cán bộ không am hiểu sâu về kinh tế, pháp luật. Mặt khác hoạt động thu thập
thông tin, chứng cứ khi thẩm tra, xác minh lại tiến hành chủ yếu bằng cách
vận động, thuyết phục, cảm hoá, nêu gương nên đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải
nâng cao phẩm chất, năng lực, nghiệp vụ. Trong khi nội dung vi phạm của tổ
chức đảng và đảng viên rất tinh vi và ngày càng phức tạp, vì vậy vấn đề cấp
bách là phải rà soát, có chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, trình
độ, có kỹ năng nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của công tác kiểm tra trong điều
kiện mới.
Ba là, cần có sự giám sát quá trình thẩm tra, xác minh và phản biện kết
quả thẩm tra, xác minh, coi đây là nhân tố tác động quan trọng để nâng cao
chất lượng thẩm tra, xác minh nói riêng và công tác kiểm tra nói chung.
Một mặt, do năng lực, kinh nghiệm cán bộ kiểm tra còn có hạn nên
trong nhiều trường hợp chưa làm rõ được nội dung kiểm tra cần kết luận, mặt
khác có thể do nguyên nhân khác tác động như có mối quan hệ, do nể nang,
né tránh, ngại va chạm nên không dám mạnh dạn và kiên quyết trong thẩm
tra, xác minh để tìm ra chứng cứ và trong đề xuất, kiến nghị khi kết thúc kiểm
tra. Vì vậy, nên có sự giám sát quá trình thẩm tra, xác minh và phản biện kết
quả thẩm tra, xác minh trước và trong khi báo cáo để tập thể uỷ ban kiểm tra
nghe nhiều chiều, có thêm cơ sở, căn cứ xem xét, kết luận. Giám sát và phản
biện có tác dụng “cảnh tỉnh”, do đó cán bộ và đoàn kiểm tra nhất định sẽ làm
tốt hơn, khách quan hơn, nâng cao được trách nhiệm trong thẩm tra, xác minh
và báo cáo kết quả kiểm tra.
Bốn là, phải coi thẩm tra, xác minh là kỹ năng nghiệp vụ mang tính
khoa học và thực tiễn, cần được nghiên cứu, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để
ngày càng làm tốt hơn trong thời gian tới.
Vấn đề quan trọng nhất trong cách thức tiến hành thẩm tra, xác minh là
xác định những gì có thể làm chứng cứ xác thực cho từng nội dung kiểm tra
và tìm cách thu thập chứng cứ đó theo nguyên tắc và phương pháp công tác
110
Đảng. Thẩm tra, xác minh không đơn giản thực hành theo chủ nghĩa kinh
nghiệm mà là hoạt động có phương pháp khoa học với sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn. Không được lấy vị thế của cấp trên, của
người đi kiểm tra mà áp đặt chủ quan duy ý chí. Phải trên cơ sở khoa học để
tiến hành tổng kết từ thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm để tiến hành thẩm
tra, xác minh tốt hơn.
Tiểu kết chương 3
Hoạt động thẩm tra, xác minh thời gian qua nằm trong bối cảnh công
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng được tăng cường, có nhiều
chuyển biến, tiến bộ. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và cấp uỷ các cấp có nhiều văn bản quy định,
hướng dẫn và tổ chức thực hiện quyết liệt về công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật trong Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi cũng có nhiều khó
khăn, nhất là đối tượng kiểm tra phần lớn là cán bộ có chức vụ, quyền hạn, nội
dung kiểm tra phải làm rõ lại rất phức tạp, đa dạng, vi phạm của tổ chức đảng và
đảng viên ngày càng tinh vi, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, trong khi
trình độ, năng lực, nghiệp vụ của cán bộ kiểm tra còn hạn chế, bất cập.
Ban thường vụ cấp uỷ và nhất là uỷ ban kiểm tra các cấp đã tích cực
chỉ đạo tiến hành thẩm tra, xác minh đạt nhiều kết quả nhất định, phục vụ kết
luận các cuộc kiểm tra theo chương trình, kế hoạch đã được xác định. Trong
đó đặc biệt quan tâm việc phải thực hiện đúng nguyên tắc, phương pháp, quy
trình thẩm tra, xác minh. Quá trình thẩm tra xác minh đã luôn bám vào nội
dung kiểm tra, tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp công tác kiểm tra, phát
huy dân chủ, khách quan, công khai, biết dựa và phát huy tinh thần xây dựng
Đảng của tổ chức đảng, đảng viên và quần chúng, tích cực phối hợp với các tổ
chức đảng trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, tích cực phối hợp với các tổ
chức trong hệ chính trị.
111
Hoạt động thẩm tra, xác minh thời gian qua đã nâng dần được chất
lượng, giúp cho cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp xem xét, kết luận, xử lý một
khối lượng lớn nội dung, đối tượng được kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm,
giải quyết tố cáo, giải quyết khiếu nại và xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng
viên vi phạm, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, xử
lý kỷ luật trong Đảng. Hoạt động thẩm tra, xác minh đạt được kết quả trên là
do có sự lãnh đạo, chỉ đạo của ban thường vụ cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra, nhất là
thường trực cấp uỷ, thường trực uỷ ban kiểm tra các cấp và trình độ, năng lực,
phẩm chất đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác kiểm tra được nâng lên một bước.
Tuy nhiên, hoạt động thẩm tra, xác minh thời gian qua cũng còn nhiều
khuyết điểm, hạn chế. Trong đó, nổi bật là tiến hành thẩm tra, xác minh chưa
kỹ, không sâu, chưa đầy đủ và chính xác, vì vậy chất lượng thẩm tra, xác
minh chưa đáp ứng một trong các yêu cầu của công tác kiểm tra là xem xét,
kết luận và xử lý nghiêm vi phạm nếu có. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến
nhiều cuộc kiểm tra chưa đạt kết quả cao, xử lý các vụ vi phạm kỷ luật chưa
công minh, chính xác, kịp thời. Nguyên nhân khuyết điểm, hạn chế trên có
phần bắt nguồn từ khó khăn trong việc làm rõ tính chất, mức độ các vụ vi
phạm kỷ luật trong Đảng, từ thực hiện yêu cầu của công tác kiểm tra, kỷ luật
và những hạn chế, bất cập trong một số nội dung của nguyên tắc, phương
pháp công tác kiểm tra. Bên cạnh đó, điều quan trọng là trình độ, năng lực của
cán bộ kiểm tra chưa theo kịp tình hình hiện nay.
Từ thực trạng trên, vấn đề đặt ra cần quan tâm là dự báo một số tình
hình có liên quan tác động đến công tác kiểm tra, từ đó xác định đúng phương
hướng và các giải pháp tối ưu để thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh
nhằm phục vụ, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực công tác
kiểm tra của Đảng.
112
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH
TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
4.1. DỰ BÁO MỘT SỐ TÌNH HÌNH CÓ LIÊN QUAN VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM
TRA CỦA ĐẢNG TRONG THỜI GIAN TỚI 4.1.1. Dự báo một số tình hình có liên quan
4.1.1.1. Những nhân tố tác động, làm nảy sinh và gia tăng vi phạm
kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên trong thời gian tới Từ nay đến năm 2020, tình hình thế giới, khu vực và trong nước sẽ có
nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường. Điều đó tạo ra cả thuận
lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, phức
tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng. Trong bối cảnh
đó, có những nhân tố, điều kiện tác động đến Đảng, làm nảy sinh, gia tăng
tình hình vi phạm của kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên:
Một là, những mặt trái, tiêu cực của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, công cuộc đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng với quá hội nhập, mở rộng hợp tác, đa phương,
đa dạng hóa đang hàng ngày, hàng giờ tác động vào nhận thức và hành động
của cán bộ, đảng viên.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự do, cạnh tranh, coi trọng lợi
nhuận, do đó cũng làm xuất hiện tâm lý tính toán thiệt hơn, tình trạng phe
cánh, lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Từ đây, tình đồng chí, tình cảm cách
mạng sẽ bị tác động, làm thay đổi nhận thức, hành vi, xa rời những chuẩn
mực đạo đức tốt đẹp vốn có. Nhiều vấn đề phức tạp về an ninh - chính trị, trật
tự xã hội, về văn hóa, xã hội, về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công
113
chức và nhân dân... nảy sinh; sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo (kể cả
trong cán bộ, đảng viên), khoảng cách giữa các thế hệ; làm thay đổi hệ thống
các giá trị đạo đức, lối sống và dẫn tới những diễn biến hết sức phức tạp trên
tất cả các lĩnh vực, tạo ra nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội; tình trạng khiếu
kiện, đình công có thể gia tăng.
Hai là, trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền, là Đảng duy nhất
lãnh đạo toàn bộ xã hội, đang còn thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực, nhân dân
giám sát cán bộ, đảng viên, bên cạnh thuận lợi là cơ bản cũng nảy sinh nhiều
nguy cơ như: chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, xa dân, độc đoán, chuyên quyền,
đặc quyền đặc lợi, có thể dẫn đến tha hóa, biến chất, mất lòng tin; xuất hiện
tâm lý hoài nghi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tình hình hiện nay trong Đảng
khác hẳn trước đây; hội nhập, tư nhân hóa, đầu tư nước ngoài mở rộng sẽ là
"mảnh đất" thuận lợi để tham nhũng, quan liêu, mất dân chủ, mất đoàn kết nội
bộ, đấu đá, tranh giành quyền lực càng nghiêm trọng và tinh vi. Tình hình tổ
chức đảng còn yếu kém, chưa đủ sức giải quyết hoặc chậm khắc phục những
vấn đề nảy sinh từ cuộc sống; một bộ phận tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên
hạn chế về năng lực, trình độ, bản lĩnh, ý chí chiến đấu, tự phê bình và phê
bình yếu kém, sự đoàn kết, thống nhất, việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, ý thức tổ chức kỷ luật thấp, không nghiêm; chưa thực hiện tốt các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ; nói không đi đôi với làm còn diễn ra khá phổ biến. Tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chạy
theo chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng của một bộ phận cán bộ, đảng viên
với tính chất, mức độ nghiêm trọng hơn, gây hậu quả xấu, làm giảm niềm tin
của nhân dân, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Tham nhũng quyền lực
có thể phát triển mạnh, nếu không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc thực thi
quyền lực và việc lạm dụng quyền lực sẽ tạo điều kiện cho bọn cơ hội chính
trị và các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước ta từ bên trong.
114
Tình trạng xử lý chậm, thậm chí thiếu minh bạch, công bằng đối với những vi
phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa thể khắc phục được
ngay. Một số chủ trương của Đảng cụ thể hóa thành cơ chế, chính sách, pháp
luật của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, sơ hở, thậm chí trái nghị quyết, quyết
định của Đảng, của cơ quan nhà nước cấp trên.
Ba là, các thế lực thù địch, phản động quốc tế sẽ tăng cường cấu kết với
các tổ chức phản động trong nước để tiếp tục thực hiện “diễn biến hòa bình”,
làm diễn biến, chuyển hóa (kể cả tự diễn biến, tự chuyển hóa) từ trong nội bộ
Đảng, trước hết là chuyển hóa về tư tưởng chính trị. Chúng tiếp tục dùng
chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền để tấn công, ép buộc ta, lợi dụng chiêu
bài dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực để kích động các phần tử
cực đoan, bất mãn chống đối, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các loại tội phạm có chiều hướng gia tăng, có sự cấu kết ngoài nước
với trong nước, ngoài xã hội với trong nội bộ Đảng, chính quyền, chính trị với
kinh tế, quyền lực với quyền lợi, với sự bao che, tiếp tay của một số cán bộ,
đảng viên thoái hóa, biến chất, dẫn đến vi phạm với nhiều lỗi phạm mới, tinh
vi, phức tạp, khó lường hơn.
Bốn là, quá trình thực hiện thí điểm một số chủ trương, chính sách về
quản lý hành chính, về sản xuất, kinh doanh, nếu không có cơ chế phân cấp,
phân quyền, quản lý, kiểm soát, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, kịp thời để điều
chỉnh, chấn chỉnh cho phù hợp trong quá trình thực hiện sẽ tạo điều kiện cho
một bộ phận tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên lợi dụng để làm trái, trục lợi,
gây thất thoát, thiệt hại cho lợi ích của Đảng, Nhà nước, của nhân dân.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn
với mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Cơ cấu tổ chức
đảng và đảng viên sẽ có sự thay đổi theo sự phát triển của cấu trúc xã hội và
cơ cấu kinh tế - xã hội; vai trò, sức chiến đấu, hoạt động của tổ chức đảng,
115
đảng viên ở nước ngoài, trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài
nhà nước rất khó khăn, hạn chế. Sẽ xuất hiện nhiều đảng viên làm kinh tế tư
nhân và các chủ doanh nghiệp tư nhân đủ điều kiện được kết nạp vào Đảng,
tham gia hoạt động trong các cơ quan quyền lực (đại biểu Quốc hội, hội đồng
nhân dân các cấp), Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, xã hội
nghề nghiệp... tác động đến việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, tình trạng các quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước chồng
chéo, thiếu đồng bộ, không bao quát hết các hành vi, tạo khuôn khổ pháp lý
để cán bộ, đảng viên tuân theo; trong khi, một số cán bộ, đảng viên lại lợi
dụng kẽ hở, “lách luật” để không làm hoặc làm sai.
Bên cạnh đó, việc xử lý kỷ luật không nghiêm, không đủ sức răn đe đã
góp phần hình thành tâm lý không sợ bị kỷ luật, làm “nhờn thuốc” trong “điều
trị bệnh”, làm “bà đỡ” cho phát sinh vi phạm cả bề rộng và chiều sâu.
Những nhân tố trên có thể tác động, làm nảy sinh và gia tăng vi phạm
kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên trong thời gian tới, đặt ra cho công tác
kiểm tra nói chung, hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng khối lượng nhiệm
vụ nặng nề hơn, yêu cầu chủ động hơn trong việc nắm bắt, nhận dạng để có
biện pháp đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý thích hợp, hiệu quả.
4.1.1.2. Tình hình vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên và
sự tác động đến hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng trong thời gian tới - Tình hình vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên sẽ diễn ra
hết sức đa dạng, phức tạp, tinh vi và có chiều hướng gia tăng ở các tất cả các
lĩnh vực, nhất là lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, lĩnh vực tư pháp, lĩnh
vực dịch vụ công, sản xuất - kinh doanh, thực hiện chính sách an sinh, xã
hội... diễn ra ở tất cả các cấp, các ngành, các khu vực, cả ở trong nước và
ngoài nước.
116
- Vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên sẽ diễn ra ở phạm vi rộng, ở
tất cả các lĩnh vực, sẽ xuất hiện những nội dung vi phạm mới trong những
lĩnh vực hoạt động mối của đời sống xã hội. Cùng với vi phạm về các nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng, vi phạm, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng gia tăng, nhất là về
thiếu trách nhiệm, cố ý làm trái, ban hành quyết định trái quyết định của cấp
trên, về tham nhũng, lãng phí; vi phạm về đạo đức, lối sống cũng gia tăng với
tính chất tinh vi, mức độ nghiêm trọng hơn. Nguyên nhân dẫn đến vi phạm
cũng đa dạng hơn.
- Cùng với các vi phạm mang tính cá nhân, sẽ xuất hiện vi phạm theo
nhóm, mang tính tập thể, có tổ chức, cấu kết theo chuỗi (cán bộ chính quyền,
doanh nghiệp, xã hội đen...) cũng gia tăng với tính chất, mức độ nghiêm
trọng, phức tạp, thủ đoạn vi phạm ngày càng tinh vi, liên quan đến nhiều cấp,
nhiều ngành, nhiều loại đối tượng. Có sự bao che của một số cán bộ, đảng
viên thoái hóa, biến chất, gây khó khăn, trở ngại cho việc kiểm tra, giám sát,
thanh tra, điều tra, xử lý. Đối tượng vi phạm tìm mọi cách để che giấu hành vi
vi phạm, tẩu tán tài sản.
Những xu hướng, dấu hiệu vi phạm kỷ luật như trên của một bộ phận
cán bộ, đảng viên sẽ khiến cho hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng gặp nhiều khó khăn, phức tạp hơn, đòi hỏi phải được tiến
hành công phu, kỹ lưỡng hơn, với phạm vi, nội dung, đối tượng rộng hơn và
yêu cầu có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên hơn.
4.1.2. Phương hướng hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng trong thời gian tới
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; Nghị quyết Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X về tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng; Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17-5-2010 của Bộ
Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020
117
và một số văn bản khác của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát là căn
cứ, định hướng cho công tác kiểm tra nói chung, cho hoạt động thẩm tra, xác
minh trong công tác kiểm tra của Đảng nói riêng. Trên cơ sở đó và xuất phát
từ thực trạng thời gian qua, hoạt động thẩm tra, xác minh trong thời gian tới
cần quán triệt và thực hiện phương hướng sau đây:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức về hoạt động thẩm tra, xác minh;
bổ sung, hoàn thiện và đổi mới phương pháp, quy trình, phấn đấu nâng cao
hơn nữa chất lượng thẩm tra, xác minh để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
công tác kiểm tra là xem xét, kết luận đúng, kịp thời và xử lý nghiêm minh vi
phạm trong Đảng. Đề cao trách nhiệm của chủ thể kiểm tra và cán bộ kiểm tra
được giao nhiệm vụ trực tiếp tiến hành thẩm tra, xác minh.
Hai là, hoạt động thẩm tra, xác minh phải gắn liền với các phương
pháp công tác kiểm tra của Đảng, luôn bảo đảm sự chỉ đạo của thường trực
cấp uỷ và thường trực uỷ ban kiểm tra, bám sát mục tiêu, yêu cầu cuộc kiểm
tra, thực hiện đúng các nguyên tắc sinh hoạt trong Đảng. Quá trình thẩm tra,
xác minh phải phục vụ và nhằm đạt mục tiêu, yêu cầu cuộc kiểm tra đã được
xác định, đồng thời phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định và sự chỉ đạo, điều
hành của chủ thể kiểm tra.
Ba là, tập trung cao độ xác định rõ chứng cứ, có cơ sở pháp lý, chứng
lý, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả thẩm tra, xác minh, nhằm làm rõ
được đúng, sai nội dung kiểm tra, để xem xét, kết luận rõ ràng, chính xác ưu
điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) và xử lý kịp thời đối tượng kiểm tra theo
quy định của Đảng, góp phần làm tốt công tác kiểm tra của Đảng trong tình
hình mới.
Để thực hiện tốt phương hướng trên đây, cần thực hiện một số yêu cầu
sau đây:
- Tăng cường tuyên truyền, quán triệt nâng cao nhận thức tư tưởng,
trách nhiệm của chủ thể kiểm tra và đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác
118
kiểm tra trong việc thẩm tra, xác minh. Phải làm cho mỗi cán bộ kiểm tra hiểu
hơn ai hết tầm quan trọng của thẩm tra, xác minh thì có mới cách thực hiện
tốt, đây là yêu cầu thường xuyên và luôn phải có để nhằm thực hiện tốt
phương hướng nêu trên.
- Phải từng bước hoàn thiện và đổi mới phương pháp và cách thức thẩm
tra, xác minh gắn liền với đổi mới, cải tiến phương pháp, quy trình công tác
kiểm tra; xây dựng và ban hành quy trình thẩm tra, xác minh, làm cơ sở cho
hoạt động này đi vào chiều sâu. Để thực hiện tốt thẩm tra, xác minh, ngoài ý
chí và trách nhiệm, yêu cầu phải có phương pháp và cách làm khoa học, phù
hợp với thực tế, phải luôn sáng tạo, năng động để đi đến kết quả tốt nhất.
- Trong mỗi cuộc, vụ, việc kiểm tra, quá trình thẩm tra, xác minh cần
phải được tiến hành một cách chính xác, khách quan, công tâm, thận trọng, tỷ
mỉ, chặt chẽ, đúng quy định, kiên quyết và kịp thời.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT HOẠT ĐỘNG THẨM
TRA, XÁC MINH TRONG CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
Xuất phát từ thực trạng thuận lợi, tiến bộ cũng như khó khăn, yếu kém
của hoạt động thẩm tra, xác minh thời gian qua và căn cứ các quan điểm định
hướng của Đảng về nhiệm vụ kiểm tra trong tình hình mới, tác giả luận án xin
đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra của Đảng thời gian tới như sau:
4.2.1. Nâng cao nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm
tra các cấp và cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra của Đảng
Việc nâng cao nhận thức cho cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các
cấp và cán bộ, đảng viên về về vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh là đòi hỏi
tất yếu trong công tác kiểm tra nói riêng và công tác xây dựng Đảng nói
chung. Có nhận thức đúng mới thấm nhuần sâu sắc, từ đó có hành động đúng
và có kết quả trong công tác kiểm tra, phục vụ thực hiện nhiệm vụ chính trị và
119
công tác xây dựng Đảng của từng cấp uỷ, tổ chức đảng. Từ đó, cấp uỷ, tổ
chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp, cán bộ, đảng viên mới coi trọng và thực
hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh, góp phần làm cho công tác kiểm tra
ngày càng đi vào nền nếp, có chất lượng, hiệu quả và hiệu lực.
Một trong những mục tiêu, nhiệm vụ của công tác kiểm tra là giữ vững
kỷ cương, kỷ luật của Đảng, phòng ngừa, ngăn chặn suy thoái trong Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã nhận định:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích
kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,
cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc… [91, tr.25].
Các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và cán bộ, đảng viên
một mặt thấy được thực tế trong Đảng, mặt khác cần nhận rõ một trong những
yêu cầu của công tác kiểm tra là phải làm rõ đúng sai, ưu điểm, khuyết điểm,
vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên về các nội dung được kiểm tra. Rõ
ràng, đây là nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của công tác kiểm tra mà mỗi tổ chức
đảng, mỗi cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra và từng đảng viên phải nhận thức một cách
sâu sắc. Để kết luận chính xác, đúng sự thật hành vi vi phạm của tổ chức đảng
và đảng viên thì phải tiến hành thẩm tra, xác minh. Hơn nữa, hoạt động thẩm
tra, xác minh phải thực hiện công phu, chặt chẽ, thận trọng. Cấp uỷ và uỷ ban
kiểm tra phải thấy hết tính phức tạp trong việc làm rõ vi phạm của đối tượng
kiểm tra. Quá trình thẩm tra, xác minh là quá trình đấu tranh quyết liệt, không
có chỗ cho tư tưởng nể nang, dĩ hoà vi quý.
Mặt khác, cần quán triệt hoạt động kiểm tra, kỷ luật trong Đảng là công
tác đảng và là hoạt động lãnh đạo của cấp uỷ đảng, tổ chức đảng; có những
120
đặc trưng cơ bản, trước hết là đối tượng kiểm tra trong Đảng được đồng thời
là chủ thể kiểm tra; phương thức cơ bản của hoạt động kiểm tra, kỷ luật trong
Đảng là tiến hành kiểm tra phải gắn quyện với tự kiểm tra; phải sử dụng bốn
chỗ dựa chủ yếu để tiến hành thẩm tra, xác minh, đó là: sự tự giác phê bình,
tự kiểm tra của đối tượng kiểm tra; ý kiến phê bình, đấu tranh của tập thể
đảng viên trong tổ chức đảng; chính kiến của cấp uỷ đảng quản lý đảng viên,
cán bộ là đối tượng kiểm tra; ý kiến phê bình, xây dựng của quần chúng nhân
dân liên quan đến nội dung và đối tượng kiểm tra… Biện pháp chính yếu để
tiến hành kiểm tra là thẩm tra, xác minh và tự phê bình và phê bình trong tổ
chức đảng. Phải nắm vững và sử dụng đúng đắn, sáng tạo phương pháp suy
luận logic biện chứng, tranh luận bằng tư duy khoa học và kết luận phải bằng
cơ chế tập thể đa số; phương pháp thẩm định phải bằng tư duy pháp lý cộng
với tư duy lãnh đạo và lương tâm đạo đức kiểm tra của Đảng. Tính chất kỷ
luật của Đảng là kỷ luật sắt, nghĩa là "nghiêm túc và tự giác", trong đó "tự
giác" đóng vai trò quyết định, "bắt buộc" có vai trò quan trọng. Giữa "tự giác"
và "bắt buộc" có mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó "tự giác" không chỉ
là phương tiện mà là tính đảng và mục đích của công tác xây dựng Đảng. Cần
quán triệt mối quan hệ này trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, lấy phê
bình và tự phê bình làm phương pháp cơ bản trong công tác kiểm tra, kỷ luật,
đồng thời gắn với thẩm tra, xác minh, nhất là trong điều kiện tự giác, tự phê
bình và phê bình giảm sút và hệ thống chính sách còn nhiều kẻ hở dễ lợi dụng
như hiện nay.
Phải tuyên truyền để tổ chức đảng và đảng viên thấy được thẩm tra, xác
minh là để làm rõ sự thật, chỉ ra đúng tính chất, mức độ vi phạm, đồng thời
minh oan cho những trường hợp không vi phạm. Phải đấu tranh khắc phục tư
tưởng mặc cảm, phản ứng, có suy nghĩ xấu về công tác kiểm tra nói chung và
hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng, như cho rằng kiểm tra hoặc khi thẩm
tra, xác minh kỹ, thận trọng thì cho đó là "vạch lá tìm sâu", "bới bèo ra bọ"…
121
Để nâng cao nhận thức cho cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên,
cán bộ kiểm tra các cấp về hoạt động thẩm tra, xác minh, cần thực hiện một
số nội dung, biện pháp sau:
Thứ nhất, cấp ủy các cấp, trong đó ủy ban kiểm tra phải làm nòng cốt
tích cực thực hiện Thông báo số 226-TB/TW, ngày 03-03-2009 của Ban Bí
thư về tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng và hướng dẫn của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương; trong đó, chỉ đạo tăng
cường tuyên truyền, phổ biến vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của việc thẩm
tra, xác minh trên các phương tiện truyền thông đại chúng bằng nhiều hình
thức, qua các tin, bài trên báo, đài Trung ương và địa phương.
Thứ hai, Tạp chí Kiểm tra mở chuyên mục nghiên cứu, trao đổi những
vấn đề về hoạt động thẩm tra, xác minh; giải đáp kịp thời các khó khăn,
vướng mắc, trở ngại; biểu dương, phổ biến kinh nghiệm những nơi làm tốt;
góp ý đối với những nơi còn chưa làm tốt.
Thứ ba, thường xuyên cập nhật, cung cấp các văn bản về công tác kiểm
tra, kỷ luật đảng; thông tin các bài viết trao đổi, phản ảnh về công tác kiểm
tra, trong đó có kết quả hoạt động thẩm tra, xác minh… qua trang Thông tin
điện tử của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (hiện nay đang vận hành trên Trang
thông tin diện rộng của Đảng).
Thứ tư, công khai kết quả kiểm tra, xử lý các vụ việc để kịp thời giáo
dục, răn đe, rút kinh nghiệm, nhằm góp phần thúc đẩy kết quả công tác kiểm
tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh nói riêng.
4.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban
kiểm tra; sự chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát của thường trực cấp ủy và
thường trực uỷ ban kiểm tra đối với hoạt động thẩm tra, xác minh
Đây là giải pháp hết sức quan trọng, có tính quyết định đến kết quả
thẩm tra, xác minh. Thẩm tra, xác minh là việc rất khó khăn, vì vậy đòi hỏi
phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của chủ thể kiểm tra. Cấp ủy, ủy ban
122
kiểm tra, thường trực cấp ủy và ủy ban kiểm tra căn cứ đối tượng, nội dung
kiểm tra, nhất là những vấn đề kiểm tra phức tạp, đối tượng kiểm tra có vị trí
quan trọng để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát hợp, kịp thời.
Ủy ban, thường trực ủy ban kiểm tra các cấp phải thường xuyên quan
tâm chú ý, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, tạo điều kiện, hỗ trợ cho các đoàn (tổ)
kiểm tra, một mặt để định hướng, uốn nắn giúp hoạt động của đoàn (tổ) kiểm
tra đi đúng hướng, đúng trọng tâm, trọng điểm, thực hiện đúng quy trình, quy
định, cụ thể những trường hợp nào cần tập trung thẩm tra, xác minh kỹ, sâu;
mặt khác, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiến
hành thẩm tra, xác minh để vụ việc được kiểm tra sớm hoàn thành và đạt kết
quả cao.
Thực trạng quá trình thẩm tra, xác minh cho thấy, ở đâu có sự chỉ đạo,
hướng dẫn kịp thời, chặt chẽ của uỷ ban kiểm tra mà trực tiếp, thường xuyên
là thường trực uỷ ban kiểm tra thì ở đó hoạt động thẩm tra, xác minh sẽ có
chất lượng, hiệu quả cao; ngược lại, nếu không có sự quan tâm chỉ đạo, hướng
dẫn thì thẩm tra, xác minh sẽ gặp khó khăn. Hoạt động thẩm tra, xác minh
phải đối mặt với nhiều vấn đề gai góc, xử lý nhiều tình huống phức tạp, vì vậy
đòi hỏi phải có sự chỉ đạo, hướng dẫn của chủ thể kiểm tra. Để thực hiện có
kết quả công tác kiểm tra nói chung và chỉ đạo tốt việc thẩm tra, xác minh nói
riêng, trước hết uỷ ban và thường trực uỷ ban kiểm tra phải có quyết tâm cao,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, không e ngại, nể nang, nhất là khi xác định
nội dung, đối tượng và kết luận kiểm tra; phải quán triệt tinh thần không có
“vùng cấm” trong công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng. Thực tế trong thời
gian qua, sau khi ban hành quyết định kiểm tra, lập đoàn kiểm tra ở một nơi
nào đó, uỷ ban và thường trực uỷ ban kiểm tra ít quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn
việc thẩm tra, xác minh mà thông thường phó mặc cho đồng chí thành viên uỷ
ban phụ trách cuộc kiểm tra và đoàn kiểm tra, chỉ đến khi báo cáo trước tập
thể uỷ ban mới có ý kiến, hỏi, chất vấn, đương nhiên đồng chí thành viên uỷ
123
ban cũng có khả năng và trách nhiệm nhưng sẽ hạn chế so với tập thể một số
đồng chí trong thường trực, vì vậy kết quả còn chưa như mong muốn, nhiều
trường hợp thẩm tra, xác minh không đạt yêu cầu phải làm lại, làm tiếp, mất
thời gian, công sức, ảnh hưởng đến công tác của đối tượng kiểm tra và các cá
nhân, tổ chức có liên quan.
Nội dung chỉ đạo, hướng dẫn của uỷ ban và thường trực uỷ ban kiểm
tra về thẩm tra, xác minh cần tập trung vào các vấn đề như: yêu cầu đoàn
kiểm tra thực hiện đúng nguyên tắc, phương pháp, quy trình thẩm tra, xác
minh, phải bám vào nội dung kiểm tra, nội dung, đối tượng thẩm tra, xác
minh; chỉ đạo đoàn kiểm tra phải tiến hành thận trọng, chặt chẽ, khách quan
và kiên quyết trong quá trình thẩm tra, xác minh; yêu cầu đoàn và các thành
viên trong đoàn kiểm tra phải giữ nghiêm kỷ luật, chấp hành đúng quy định
về quy chế hoạt động của đoàn kiểm tra
Đại diện thường trực uỷ ban kiểm tra phải chỉ đạo, hướng dẫn đoàn
kiểm tra từ việc xây dựng kế hoạch hết sức tỷ mỉ, càng cụ thể càng thuận lợi
trong quá trình thẩm tra, xác minh, dự kiến việc xử lý các tình huống phát
sinh khi thẩm tra, xác minh. Khi đoàn kiểm tra gặp khó khăn, vướng mắc thì
báo cáo kịp thời để thường trực ủy ban có ý kiến tháo gỡ, động viên. Gặp
những đối tượng kiểm tra và đối tượng thẩm tra, xác minh gây khó khăn, cản
trở thì các đồng chí trong thường trực, thậm chí đồng chí chủ nhiệm uỷ ban
phải trực tiếp “ra tay”, “chia lửa”, như trực tiếp gặp các đối tượng, yêu cầu
phải hợp tác, phối hợp theo ý kiến của đoàn kiểm tra. Khi gặp những tình
huống khó khăn, phức tạp, đoàn kiểm tra cần báo cáo kịp thời để cấp trên có ý
kiến chỉ đạo. Tuy nhiên, cũng tránh tình trạng thụ động, trông chờ, ỷ lại cấp
trên, không chủ động của đoàn kiểm tra khi mới gặp vướng mắc ban đầu.
Về cách thức, phương pháp chỉ đạo, hướng dẫn của uỷ ban và thường
trực uỷ ban cần tiến hành linh hoạt như: chỉ đạo qua đồng chí thành viên uỷ
ban trực tiếp phụ trách đoàn kiểm tra, qua trưởng đoàn; việc chỉ đạo phải
124
được chú ý từ khâu chuẩn bị đến quá trình thẩm tra, xác minh. Trước khi đoàn
kiểm tra triển khai hế hoạch kiểm tra, đại diện thường trực cần gặp gỡ, quán
triệt, xác định trách nhiệm, đặt ra các yêu cầu, hướng dẫn xử lý các tình
huống phát sinh, động viên cán bộ tiến hành tốt nhiệm vụ được giao. Quá
trình thẩm tra, xác minh, một số đồng chí trong thường trực uỷ ban có thể
nghe tiến độ, kết quả bước đầu và sau đó nghe kết quả khi kết thúc thẩm tra,
xác minh, nếu có vấn đề gì chưa rõ, chưa đầy đủ thì yêu cầu thẩm tra, xác
minh thêm. Đối với những vụ việc phức tạp, tập thể thường trực nghe kết quả
thẩm tra, xác minh trước khi đưa vụ việc ra báo cáo uỷ ban kiểm tra để tránh
tình trạng có thể phải làm tiếp sau khi đưa ra uỷ ban thảo luận, xem xét.
Cùng với chỉ đạo, hướng dẫn, thường trực uỷ ban và đồng chí thành
viên uỷ ban kiểm tra phải thường xuyên giám sát đoàn (tổ) kiểm tra. Quá trình
chỉ đạo, hướng dẫn và giám sát hoạt động thẩm tra, xác minh nếu thấy đoàn
kiểm tra có ưu điểm thì biểu dương, động viên, ngược lại thấy thiếu sót,
khuyết điểm thì nhắc nhở, phê bình, nếu làm chưa tốt, chưa đạt yêu cầu thì chỉ
đạo làm tiếp. Nếu có sự quan tâm và tích cực chỉ đạo, hướng dẫn như trên
nhất định chất lượng thẩm tra, xác minh sẽ được nâng lên, góp phần nâng cao
kết quả, hiệu lực công tác kiểm tra của Đảng.
4.2.3. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và đổi mới phương pháp, quy
trình, các quy định, hướng dẫn tiến hành thẩm tra, xác minh trong công
tác kiểm tra của Đảng
4.2.3.1. Về phương pháp Thời gian qua phương pháp hoạt động thẩm tra, xác minh luôn tuân thủ
và thực hiện theo nguyên tắc và phương pháp công tác kiểm tra của Đảng.
Các phương pháp công tác kiểm tra đã giúp cho việc thẩm tra, xác minh có
nhiều ưu điểm, kết quả, góp phần quan trọng vào kết quả chung của công tác
kiểm tra; tuy nhiên cũng có nhiều hạn chế, bất cập, chưa phù hợp đã ảnh
hưởng đến chất lượng thẩm tra, xác minh, mà nổi lên là sức chiến đấu, tinh
125
thần tự phê bình và phê bình không tốt, giảm sút nghiêm trọng. Vì vậy phải
xem xét, rà soát một cách nghiêm túc, chỗ nào chưa tốt thì phải hoàn thiện, bổ
sung cách thức mới, phù hợp với hoàn cảnh, thực tại trong Đảng hiện nay và
yêu cầu đặt ra đối với thẩm tra, xác minh. Thời gian tới cần thực hiện bảy
phương pháp đặc trưng, cụ thể:
Một là, trực tiếp, tại chỗ, “mắt thấy, tai nghe”
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện,
các xã. Cán bộ huyện phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt
thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ’’ [119, tr.711]. Công tác kiểm tra
khác với công tác giám sát, bao giờ cũng phải tiến hành trực tiếp; khi cấp trên
tiến hành kiểm tra cấp dưới đều phải xuống làm việc trục tiếp với tổ chức
đảng và đảng viên, trực tiếp thông báo quyết định, nghe báo cáo kết quả.
Đây là phong cách, lề lối làm việc của tổ chức đảng và đảng viên, cũng là
phương pháp công tác kiểm tra. Phương pháp này khẳng định khi thẩm tra,
xác minh phải sát thực tế, đến tận nơi; phải trực tiếp thu thập tài liệu,
chứng cứ, không được quan liêu, bàn giấy, nghe báo cáo một chiều. Mắt
phải thấy tài liệu, hiện vật, tai phải nghe phản ảnh, báo cáo, hạn chế việc
che giấu, báo cáo sai sự thật.
Thông tin trong thẩm tra, xác minh khi tiến hành công tác kiểm tra là
những tin tức có ích, làm sâu thêm nhận thức của người nhận tin, được người
nhận tin đánh giá, xử lý và được coi là có ích trong quá trình ra quyết định.
Đối với công tác kiểm tra của Đảng thì "thông tin" chính là những tin tức có
ích về đối tượng kiểm tra cần được thu thập, xử lý để làm rõ bản chất của vụ
việc, của đối tượng, thông qua những thông tin đó, có thể có căn cứ để kết
luận đúng sai, tốt xấu, thậm chí lượng hoá tính chất, mức độ đúng sai mà lựa
chọn và đề xuất giải pháp giải quyết, hình thức xử lý phù hợp.
Để thẩm tra, xác minh, cán bộ kiểm tra có thể thu thập thông tin từ các
nguồn sau: thông tin từ cấp trực tiếp quản lý giao nhiệm vụ; văn bản của
126
Đảng và Nhà nước quy định điều chỉnh những vấn đề liên quan đến việc đối
tượng kiểm tra thực hiện; dư luận của quần chúng, cơ quan có liên quan hoặc
các cơ quan ngôn luận phản ánh dư luận từ nội bộ, từ bên ngoài hoặc từ
những người tố cáo, khiếu nại, từ chính bản thân đối tượng kiểm tra cung cấp,
giải trình. Đây là những nguồn thông tin khi tiến hành hoạt động thẩm tra, xác
minh người cán bộ kiểm tra phải quan tâm không thể xem nhẹ hoặc bỏ qua
bất cứ một nguồn nào để từ đó biết chọn lựa định hướng đúng khi thu thập và
xử lý thông tin. Cán bộ kiểm tra phải hiểu mọi việc đều có liên quan chặt chẽ
đến quá trình thu thập và xử lý thông tin, kể cả khi người cán bộ kiểm tra hoạt
động đơn lẻ, độc lập cũng như khi theo đoàn kiểm tra. Do vậy, thu thập và xử
lý thông tin là công việc thường xuyên và rất quan trọng trong các hoạt động
nghiệp vụ kiểm tra.
Hai là, kết hợp thẩm tra, xác minh của cấp trên với tự vấn, tự kiểm tra
của đối tượng kiểm tra
Đây là phương pháp có tác động qua lại, cộng tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa
chủ thể và đối tượng kiểm tra, nhanh chóng tìm ra các chứng cứ, đây cũng
xuất phát từ phương pháp công tác kiểm tra là phát huy sự tự giác của tổ chức
đảng và đảng viên khi là đối tượng kiểm tra. Phải tôn trọng kết quả tự kiểm
tra của tổ chức đảng và đảng viên. Đặc biệt lưu ý đến những quan điểm, ý
kiến trái chiều để đối chiếu tìm ra sự thật.
Cách tiếp cận đối tượng cũng cần được hết sức quan tâm. Đối tượng
của hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là
những tổ chức đảng, đảng viên thuộc nhiều lĩnh vực và địa vị xã hội khác
nhau. Do đó, mỗi đối tượng có tâm lý khác nhau. Nhiệm vụ của cán bộ
làm công tác thẩm tra, xác minh là phải tìm hiểu nội tâm của đối tượng và
đề ra được phương pháp tiếp cận thích hợp để hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Quá trình thẩm tra, xác minh của cấp trên phải gợi ý, động
viên để đối tượng kiểm tra tự thấy các hành vi của mình, từng bước tự
127
giác nhận rõ khuyết điểm, trách nhiệm của bản thân, từ đó có cách sửa
chữa, khắc phục.
Ba là, động viên, đối thoại, chất vấn, đối chất trong quá trình thu thập,
phân tích chứng cứ
Đối chất là một hoạt động trong quá trình thẩm tra, xác minh của cơ
quan kiểm tra, được tiến hành bằng cách hỏi hai người cùng một lúc về cùng
một vấn đề trong nội dung thẩm tra, xác minh một vụ việc, nhằm làm rõ hoặc
giải quyết những mâu thuẫn tồn tại trong lời trình bày của họ. Khi không còn
cách thẩm tra, xác minh nào tốt hơn thì mới chọn phương pháp đối chất.
Trong thực tiễn có hai loại hình đối chất:
- Đối chất do cán bộ kiểm tra tổ chức:
Cán bộ kiểm tra cần nắm vững những điều kiện để tiến hành một cuộc
đối chất là: Khi các lời trình bày đã cơ bản thống nhất chỉ còn mâu thuẫn về
một hoặc một số tình tiết có ý nghĩa quyết định đối với thẩm tra, xác minh,
kết luận, xử lý vụ việc thì không nên đưa ra đối chất những vấn đề không liên
quan một cách thiết thực đối với thẩm tra, xác minh, kết luận, xử lý hoặc
những vấn đề chi tiết vụn vặt không có ý nghĩa quan trọng đối với vụ việc.
Khi uỷ ban kiểm tra có khả năng tổ chức và điều kiện để tiến hành cuộc
đối chất chắc chắn sẽ đạt kết quả thì cần xác định rõ những người có thể đưa
ra đối chất. Để cuộc đối chất đạt kết quả, cán bộ kiểm tra cần nghiên cứu kỹ
hồ sơ vụ việc, các thông tin, tài liệu có liên quan, phát hiện những vấn đề còn
mâu thuẫn, xem xét kỹ lại một lần cuối xem những vấn đề có thật sự mâu
thuẫn không; phân tích các mâu thuẫn để xác định mâu thuẫn nào cần giải
quyết bằng đối chất. Cán bộ kiểm tra cần tìm hiểu tâm lý, tình cảm, quan hệ
xã hội, hoàn cảnh gia đình của đối tượng dự kiến đưa ra đối chất; tìm hiểu các
nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn trong lời trình bày của họ. Từ đó, lập kế hoạch
đối chất, xác định mục đích, yêu cầu, phương pháp tiến hành báo trước hoặc
bất ngờ; thứ tự và nội dung các sự việc cần đưa ra đối chất. Dự kiến các câu
128
hỏi và câu trả lời; chuẩn bị các phương tiện, tài liệu, chứng cứ sẽ sử dụng
trong cuộc đối chất; thời gian và địa điểm tiến hành. Trong quá trình đối chất
cán bộ kiểm tra phải biết khơi dậy trong các đối tượng tham gia đối chất ý
thức, trách nhiệm, tinh thần tự giác, thái độ đúng đắn, trung thực của người
đảng viên và có cách ứng xử linh hoạt, phù hợp với các tình huống xảy ra
trong quá trình tiến hành đối chất.
- Đối chất trong sinh hoạt của tổ chức đảng:
Trong quá trình giải quyết tố cáo, khiếu nại, kiểm tra đảng viên và tổ
chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm, việc thực hiện tự phê bình và
phê bình trong sinh hoạt của tổ chức đảng là cơ hội để giải quyết những ý
kiến còn khác nhau về một sự việc giữa người bị tố cáo, người tố cáo và đảng
viên biết vụ việc, đảng viên có liên quan, đồng thời cũng là thành viên của tổ
chức đảng.
Phương pháp hỏi người làm chứng, đối chất phải tiến hành công khai,
dân chủ theo nguyên tắc của Đảng. Không dùng các thủ thuật, biện pháp
nghiệp vụ bí mật của cơ quan điều tra đối với đảng viên và tổ chức đảng là
đối tượng kiểm tra. Để cuộc đối chất đạt kết quả, cán bộ kiểm tra cần chủ
động phối hợp với người chủ trì làm tốt công tác tư tưởng, nêu cao tính đảng,
thực hiện tốt việc tự phê bình và phê bình với thái độ chân thành trong nội bộ
tổ chức đảng cũng như chuẩn bị tốt chương trình, nội dung, những vấn đề cần
gợi ý, cách tiến hành cuộc đối chất.
Cán bộ trực tiếp tiến hành thẩm tra, xác minh cần hiểu tâm lý đối tượng
kiểm tra và đối tượng thẩm tra, xác minh, đối thoại, khơi gợi, động viên để họ
cung cấp tài liệu, chứng cứ và những vấn đề cần thiết theo yêu cầu. Mặt khác,
cũng phải kiên quyết khi trao đổi, chất vấn, yêu cầu phải trả lời và cung cấp
tài liệu, hồ sơ có liên quan, thậm chí phải tiến hành đối chất giữa các đối
tượng có liên quan khi cần thiết để tìm ra sự thật. Cần thống nhất quan niệm,
hoạt động thẩm tra, xác minh của Đảng không có độc thoại mà phải tiến hành
129
đối thoại. Khi cần có thể tiến hành đối chứng và đối chất, nhưng phải có
nguyên tắc, để nhằm mục đích phân tích, sàng lọc công khai các nguồn thông
tin từ dư luận, công luận, từ tố cáo, phản ảnh hoặc tài liệu do các cơ quan
cung cấp cho kiểm tra. Đối thoại, đối chất có nguyên tắc sẽ có tác dụng và sức
mạnh như cuộc đấu lý và đấu trí công khai, dân chủ, có tác dụng làm đối
tượng “đuối lý” từ đó dễ đạt tới “tâm phục khẩu phục”.
Việc đối thoại, đối chất, khai thác thông tin từ những người biết sự
việc, người làm chứng là người biết được những tình tiết của vụ việc đang
tiến hành thẩm tra, xác minh được tổ chức đảng có thẩm quyền gặp để hỏi về
những hiểu biết của họ theo trình tự, thủ tục đã được quy định.
Bốn là, công khai, minh bạch các tài liệu, chứng cứ trước tổ chức đảng
và đối tượng kiểm tra để thảo luận, xem xét, có chính kiến nhận xét, đề nghị
Phương pháp này đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải cung cấp mọi vấn đề đã
thẩm tra, xác minh được và yêu cầu tổ chức nơi đối tượng kiểm tra sinh hoạt
động hoặc tổ chức đó được kiểm tra ( chi bộ, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ,
ban cán sự đảng, đảng đoàn...) phải làm rõ và nhận trách nhiệm trước mọi
thông tin, vụ việc, hành vi của đối tượng kiểm tra bằng phương pháp tập thể,
công khai, từ đó phải có chính kiến rõ ràng, dứt khoát, có kết luận đúng, sai
nguyên nhân, trách nhiệm và hình thức xử lý...
Năm là, phải quan niệm đúng về “án tại hồ sơ”, “trọng chứng hơn trọng
cung”, nhưng coi trọng cả “chứng” lẫn “cung”
Hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng rất coi
trọng “án tại hồ sơ”, nghĩa là thông tin, tài liệu, hiện vật… phải có trong hồ
sơ. Mọi hành vi vi phạm của đối tượng kiểm tra phải được thể hiện rõ ràng, cụ
thể trên hồ sơ, nếu chưa thể hiện đầy đủ, chính xác thì chưa kết luận, chưa xử
lý. Tuy nhiên, quyết định của án không phải duy nhất ở hồ sơ mà ở sự thật,
bởi sự thật chỉ là một, còn hồ sơ giả, không đúng sự thật có thể có hàng trăm,
hàng ngàn…
130
Tiêu điểm cuối cùng của thẩm tra, xác minh là tìm ra chứng cứ. Nếu
không có chứng cứ mà dùng phương pháp suy luận dễ rơi vào tình trạng suy
diễn, áp đặt, quy kết, cực đoan, sẽ khó tránh khỏi không chính xác,oan, sai.
Khi chứng cứ đã phù hợp với các điều kiện, yếu tố khác, còn cung có chỗ
chưa rõ, chưa thuyết phục thì phải coi chứng cứ quan trọng hơn. Chứng cứ
bao giờ cũng tin cậy hơn lời nói chưa được kiểm chứng. Song, không bao giờ
tuyệt đối hoá chứng cứ, vì chứng cứ có khi cũng có độ dung sai nhất định, có
lúc tạo dựng xuyên tạc sự thật; cứ và cung bổ sung cho nhau, nhiều trường
hợp cung chuyển hoá thành cứ, do đó phải coi trọng cả “chứng” lẫn “cung”.
Sáu là, phân tích, đánh giá chứng cứ với tư duy lôgíc biện chứng mang
tính pháp lý và thực tiễn; luôn nghi ngờ các tài liệu, hồ sơ, chứng cứ với tinh
thần cầu thị, khoa học, phát hiện mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn, tìm ra bản
chất và sự thật, tránh cực đoan, một chiều, duy ý chí.
Quá trình thẩm tra, xác minh vừa coi trọng các căn cứ, cơ sở mang tính
khẳng định vừa chú ý đến các căn cứ, cơ sở mang tính phản biện, phủ định.
Phải phân tích các khía cạnh, góc độ và cấp độ của vấn đề thì mới khách
quan, toàn diện, tránh chủ quan, phiến diện. Quá trình thẩm tra, xác minh phải
tìm ra các chứng cứ “buộc tội”, đồng thời không xem nhẹ tìm ra các chứng cứ
“gỡ tội” và cả những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Trong thẩm tra, xác
minh phải coi trọng ý kiến số đông, khi đã biểu quyết phải phục tùng nguyên
tắc theo đa số, biết dựa vào tập thể, nhưng không tuyệt đối hoá số đông và ý
kiến đa số, bởi vì không phải bất cứ mọi trường hợp sự thật, chân lý thuộc về
đa số. Trong tình huống đó phải lưu ý những ý kiến trái chiều, nhất là phải
bảo lưu những ý kiến đó để tiếp tục thẩm tra, xác minh, làm rõ.
Phương pháp suy luận theo tư duy lôgíc biện chứng: Trong thẩm tra,
xác minh của Đảng không được suy diễn để quy kết, áp đặt nhưng quá trình
xem xét rất coi trọng suy luận để nghiên cứu, phân tích, phán đoán tìm đến
bản chất bằng suy luận hợp lôgíc. Trong thẩm tra, xác minh không được lấy ý
131
kiến một cá nhân, ý kiến một phía, một chiều để xem xét, kết luận mà phải
tranh luận, thảo luận của nhiều người, nhiều phía, nhiều chiều. Việc tiến hành
tranh luận phải trên cơ sở tư duy pháp lý kể cả pháp lý Nhà nước và pháp lý
nguyên tắc của Đảng chứ không phải tranh luận theo cảm tính, chủ quan. Việc
kết luận trong thẩm tra, xác minh đối với tất cả các nội dung, đối tượng đều
phải bằng cơ chế tập thể, quyết định bằng đa số, không được chi phối, sức ép
bởi một cá nhân nào, dù cá nhân có cương vị trọng trách của tổ chức đảng
hoặc cơ quan Nhà nước.
Phương pháp thẩm định bằng tư duy pháp lý cộng với tư duy lãnh đạo
và cộng với lương tâm đạo đức kiểm tra của Đảng. Trong quá trình thẩm
tra, xác minh có thể thu nhận được nhiều thông tin, chứng cứ thông qua
nhiều kênh, nhiều chiều, nhiều nguồn, nhưng để thẩm định lại tất cả thông
tin, chứng cứ đi đến kết luận cuối cùng thì phải sử dụng tư duy pháp lý và
tư duy lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo đồng thời phải cộng với lương tâm đạo
đức kiểm tra Đảng (tư duy pháp lý + tư duy lãnh đạo + đạo đức kiểm tra
Đảng), thì sự thẩm định kết luận mới đạt độ chuẩn xác đáng tin cậy của
kiểm tra đảng.
Bảy là, tổ chức giám sát chặt chẽ quá trình thẩm tra, xác minh để
bảo đảm tính chính xác, khách quan, hạn chế các khuyết điểm trong thẩm
tra, xác minh.
Thực tế vừa qua, chất lượng thẩm tra, xác minh còn nhiều khuyết điểm,
hạn chế có nguyên nhân do năng lực, trình độ hoặc do nể nang, tình cảm
của cán bộ trực tiếp kiểm tra, trong khi lại thiếu sự chỉ đạo, giám sát, thiếu
sự góp ý, vì vậy phải giám sát thường xuyên. Khi đã tiến hành kiểm tra thì
thường trực uỷ ban kiểm tra phải phân công đại diện thường xuyên theo
dõi, nhất là từ bước thẩm tra, xác minh. Mặt khác có thể phối hợp với cán
bộ của các ban đảng để theo dõi, nếu phát hiện có gì chưa tốt thì phản ảnh
với uỷ ban kiểm tra.
132
Tóm lại, bảy phương pháp trên đây được xác định là phương pháp quan
trọng, thiết yếu để nhằm nhấn mạnh tính đặc thù và tính nguyên tắc của
phương pháp công tác kiểm tra, phương pháp công tác đảng, hoạt động của tổ
chức đảng, đối tượng là cán bộ, đảng viên của Đảng. Đặc trưng nổi bật của
hoạt động kiểm tra Đảng là không phải chỉ có cấp trên kiểm tra cấp dưới, tổ
chức kiểm tra cá nhân, mà là kiểm tra gắn quyện với tự kiểm tra. Tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên khi được kiểm tra, vừa là đối tượng vừa là chủ
thể kiểm tra và tự kiểm tra. Với đặc trưng này không được phép lẫn lộn
giữa các hoạt động thẩm tra, xác minh của Đảng với phương pháp hoạt
động thẩm tra, xác minh của các cơ quan pháp luật Nhà nước. Tiến hành
thẩm tra, xác minh trong Đảng có thể có nhiều biện pháp, có việc gần
giống các biện pháp nghiệp vụ kiểm tra, điều tra của cơ quan pháp luật,
nhưng cần phân biệt sự giống nhau chỉ ở hình thức, động tác, còn về bản
chất, nguyên tắc là phải khác nhau.
Khi tiến hành hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
Đảng rất cần và có thể học tập, vận dụng, phối hợp các phương pháp nghiệp
vụ thẩm tra, xác minh của các cơ quan Nhà nước nhưng không được áp dụng
dập khuôn, đặc biệt là không được sử dụng các phương pháp đó để thay thế
cho các phương pháp hoạt động của thẩm tra, xác minh trong Đảng. Trong
các phương pháp nêu trên phải luôn nhận thức đúng và chấp hành nghiêm
nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, luôn thực hiện dân chủ tối đa và kỷ
cương nghiêm ngặt trong mọi khâu, mọi bước, mọi động tác trong quá trình
hoạt động thẩm tra, xác minh. Đây là quan điểm, một trong những yêu cầu
cao nhất trong công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra, xác minh
nói riêng.
4.2.3.2. Về quy trình Từ trước đến nay Uỷ ban kiểm tra Trung ương chỉ mới ban hành quy
trình các cuộc kiểm tra, chưa ban hành quy định về quy trình thẩm tra, xác
133
minh. Vì vậy, khi các đoàn kiểm tra tiến hành thẩm tra, xác minh đều tự tiến
hành theo cách thức riêng, theo kinh nghiệm của cán bộ, do đó rất cần thiết
phải có quy định chính thức về quy trình thẩm tra, xác minh. Cần nhận thức
quy trình thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng là những quy
định về trình tự, thủ tục, cách tiến hành của cán bộ trong hoạt động nghiệp vụ
cụ thể để tìm kiếm chứng cứ xác thực, làm rõ sự thật, là căn cứ để kết luận
kiểm tra.
Quy trình tổng quát gồm có ba bước:
Thứ nhất là bước chuẩn bị (gồm chuẩn bị kế hoạch và phân công cán bộ).
Thứ hai là bước tiến hành thẩm tra, xác minh (Tiếp cận đối tượng kiểm
tra, đối tượng thẩm tra, xác minh, quần chúng nhân dân để thu thập tài liệu,
thông tin, chứng cứ, giám định, phân tích chứng cứ, giải trình của đối tượng
kiểm tra, trao đổi với các tổ chức đảng, tiếp tục thẩm tra, xác minh...). Đây là
bước rất quan trọng, có tính quyết định đến chất lượng hoạt động thẩm tra,
xác minh.
Thứ ba là bước tổng hợp kết quả thẩm tra, xác minh (soát xét lại các
chứng cứ thu thập được đối chiếu với từng nội dung kiểm tra để nhận xét,
đánh giá, tiếp tục thẩm tra, xác minh…).
4.2.3.3. Thực hiện tốt 3 chỗ dựa, 2 phối hợp, 5 khâu trong khi tiến
hành thẩm tra, xác minh Thứ nhất, thực hiện tốt ba chỗ dựa chủ yếu:
Một là, sự tự giác, tự phê bình, nhận khuyết điểm, vi phạm của tổ chức
đảng và đảng viên cán bộ là đối tượng kiểm tra
Hai là, tinh thần đấu tranh, phê bình, góp ý, chính kiến, kết luận của
đảng viên, của tập thể cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, tổ chức đảng nơi đối
tượng kiểm tra sinh hoạt
Ba là, tinh thần, trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân
nơi đối tượng kiểm tra hoạt động, công tác và cư trú. Trong nền dân chủ và cơ
134
chế thị trường không thể thiếu tiếng nói của nhân dân, đó là vũ khí sắc bén, hỗ
trợ đắc lực cho hoạt động thảm tra, xác minh.
Thứ hai, thực hiện tốt hai phối hợp quan trọng:
Một là, phối hợp tốt với các cơ quan chuyên môn trong hệ thống hành
pháp, tư pháp như: thanh tra, kiểm toán, cơ quan phòng chống tham nhũng, cơ
quan tố tụng, cơ quan thuế... và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội để trao đổi và phân tích thông tin, tài liệu, chứng cứ trong việc uỷ nhiệm
thẩm tra, xác minh một số nội dung cần thiết.
Hai là, phối hợp tốt với các cơ quan thông tin, ngôn luận. Trong tình
hình hiện nay, đây là địa chỉ đáng tin cậy, quan trọng và cần thiết để trao đổi,
cung cấp, tìm kiếm chứng cứ.
Thứ ba, thực hiện tốt năm khâu chủ yếu:
Một là, động viên, khơi gợi tinh thần tự giác, tự phê bình của đối tượng
kiểm tra; hai là, tổ chức, tiến hành sinh hoạt phê bình, góp ý của các tổ chức
đảng có liên quan; ba là, phát động ý thức, trách nhiệm, tinh thần đấu tranh
xây dựng Đảng của quần chúng nhân dân; bốn là, tiếp cận, tiếp xúc đối tượng
thẩm tra, xác minh để thu thập, tiếp nhận, trao đổi thông tin, tài liệu, chứng
cứ; năm là, tiến hành phân tích chứng cứ tìm ra chứng lý để nhận xét có
khuyết điểm, vi phạm hay không có vi phạm, mức độ, tính chất, hậu quả,
nguyên nhân vi phạm và trách nhiệm của đối tượng kiểm tra.
4.2.3.4. Ban hành một số quy định để làm cơ sở thực hiện tốt việc
thẩm tra, xác minh
Để có thêm cơ sở thực hiện tốt việc thẩm tra, xác minh, cần ban hành
một số quy định như:
- Quy định chế tài xử lý nghiêm các trường hợp là đối tượng kiểm tra,
đối tượng thẩm tra, xác minh cố tình trì hoãn hoặc kéo dài việc cung cấp tài
liệu, báo cáo, giải trình những vấn đề có liên quan đến nội dung kiểm tra.
135
- Quy định bảo vệ nhân chứng, bảo vệ người cung cấp thông tin, chứng
cứ, người tố giác hành vi vi phạm.
- Quy định phối hợp trong việc uỷ nhiệm cho cơ quan chức năng thẩm
tra, xác minh, giám định một số nội dung như tính hợp pháp, hợp lệ của tài
liệu, hoá đơn, chứng từ, chữ viết, tiếng nói, hình ảnh... mà lực lượng kiểm tra
không có điều kiện xác định.
- Quy định thí điểm sử dụng một số biện pháp nghiệp vụ của cơ quan
bảo vệ pháp luật.
- Quy định tổ chức phản biện kết quả thẩm tra, xác minh…
Để hạn chế đối tượng kiểm tra cùng các đối tượng khác tìm cách hợp
thức hoá sai phạm, hoặc tiêu huỷ chứng cứ, cần có biện pháp ngăn chặn kịp
thời, không chỉ cần thiết cho thẩm tra, xác minh mà còn bảo đảm tính nghiêm
minh của kỷ luật Đảng, do vậy cần tiến hành thí điểm sử dụng một số biện
pháp nghiệp vụ của cơ quan bảo vệ pháp luật như: Niêm phong hồ sơ, tài liệu,
sổ sách kế toán, tài khoản vào thời điểm cần thiết và giao cho một số cá nhân
hoặc tổ chức có thẩm quyền và trách nhiệm quản lý; Cấm chuyển dịch, thay
đổi hiện trạng tài sản có liên quan đến kiểm tra; Khi cần thiết phong tỏa tài
sản, tiền gửi của đối tượng kiểm tra (nếu có).
4.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra trong sạch, có năng lực,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng giai đoạn hiện nay
Đảng ta đã xác định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Cán bộ kiểm tra là một bộ phận
trong đội ngũ cán bộ của Đảng, là cán bộ làm công tác xây dựng Đảng,
chuyên trách về công tác kiểm tra. Đội ngũ cán bộ kiểm tra là lực lượng chủ
công, là nhân tố quyết định việc thực hiện nhiệm vụ của uỷ ban kiểm tra các
cấp. Vì vậy, cần quan tâm và luôn coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm
136
tra có phẩm chất chính trị tốt, công tâm, trong sạch, đủ năng lực, kể cả năng
lực kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng. Xây dựng đội
ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng là việc quan trọng và cấp bách cả trước mắt
và lâu dài.
Cán bộ kiểm tra (nhất là cán bộ trực tiếp tham gia thẩm tra, xác minh
các vụ việc) là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ của Đảng, là lực lượng trực
tiếp và chủ công tiến hành công tác kiểm tra của Đảng, góp phần thực hiện tốt
nhiệm vụ xây dựng Đảng và phòng, chống tham nhũng. Nhận thức đúng vị trí,
vai trò của cán bộ kiểm tra nói chung; cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ thẩm tra,
xác minh nói riêng, từ đó nêu cao trách nhiệm, thường xuyên coi trọng và tiến
hành công tác cán bộ làm công tác kiểm tra một cách đúng đắn. Để nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp, nhất là cán bộ trực tiếp thực hiện
thẩm tra, xác minh các vụ việc cần thực hiện một số nội dung sau đây:
- Làm tốt việc quy hoạch cán bộ kiểm tra là nội dung trọng yếu để
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra. Phải căn cứ vào nhiệm vụ, yêu
cầu xây dựng Đảng nói chung và công tác kiểm tra; căn cứ vào quy mô, cơ
cấu tổ chức, biên chế cán bộ; căn cứ vào tiêu chuẩn và thực trạng đội ngũ
cán bộ kiểm tra để quy hoạch đội ngũ cán bộ. Về nội dung cần quy hoạch
tổng thể đội ngũ cán bộ từ cấp huyện và tương đương trở lên; quy hoạch cán
bộ ủy ban kiểm tra, tạo nguồn cán bộ đầu ngành, ở mỗi cấp có từ 2-3 độ tuổi
kế tiếp nhau.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để đội ngũ cán bộ có trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm về những lĩnh vực công tác cần thiết khi được
giao nhiệm vụ đột xuất hoặc cần chuyên môn sâu để thẩm tra, xác minh. Đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức về các chủ trương, nghị quyết, nguyên tắc,
quy chế, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Coi trọng
nâng cao trình độ lý luận chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, kinh tế, nhạy
bén, tinh thông nghiệp vụ thẩm tra, xác minh, có đủ khả năng nghiên cứu,
137
phân tích vấn đề, thông báo chính xác các dấu hiệu và kết luận các vụ việc,
nhất là trong các lĩnh vực có nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc hiện nay như: đất
đai, xây dựng cơ bản, khai thác tài nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân hàng,
thương mại, xuất nhập khẩu, thực hiện các chương trình dự án, trong hoạt
động tư pháp và nhất là trong công tác tổ chức, cán bộ… Hàng năm, cấp ủy,
ủy ban kiểm tra các cấp cần xây dựng kế hoạch học tập cho từng đối tượng
cán bộ thuộc quyền về chuyên môn nhất là các biện pháp nghiệp vụ về thẩm
tra, xác minh.
- Giải pháp cơ bản và lâu dài là tiến hành nghiên cứu xây dựng tiêu
chuẩn hoá cán bộ kiểm tra Đảng nói chung, cán bộ trực tiếp thẩm tra, xác
minh nói riêng phù hợp với giai đoạn mới. Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ,
xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ và phẩm chất cho
đội ngũ cán bộ hiện có; đồng thời tiến hành sàng lọc, chuyển đổi vị trí công
tác đối với những cán bộ không đủ tiêu chuẩn và không còn triển vọng phấn
đấu vươn lên đáp ứng yêu cầu mới. Cũng trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ
kiểm tra của Đảng mà có biện pháp mạnh dạn phát hiện, tìm nguồn đào tạo
cho lâu dài; đồng thời, phát hiện, tìm nguồn bồi dưỡng bổ sung ngay cho
trước mắt.
+ Về tiêu chuẩn, phẩm chất của cán bộ kiểm tra đảng nói chung, cán bộ
trực tiếp thẩm tra, xác minh nói riêng đều nằm trong tiêu chuẩn của đội ngũ
cán bộ xây dựng Đảng, tiêu chuẩn cấp uỷ viên của Đảng, song trong tình hình
mới cần đặc biệt nhấn mạnh những đức tính, phẩm chất mang tính đặc trưng
đối với nhiệm vụ kiểm tra của Đảng. Cán bộ kiểm tra của Đảng thời kỳ đổi
mới nhất thiết phải có cả "đức" lẫn "tài", cả 3 mặt: phẩm chất chính trị, đạo
đức lối sống và năng lực thực tiễn. "Đức" và "tài" cũng như phẩm chất chính
trị và năng lực, trình độ phải gắn quyện vào nhau và được thể hiện cụ thể ở
hiệu quả nhiệm vụ công tác được giao, ở sự tín nhiệm của tập thể, của tổ chức
và của quần chúng nhân dân. Giữa "đức" và "tài" thì lấy "đức" làm gốc, giữa
138
phẩm chất và năng lực thì coi phẩm chất là hàng đầu. Phẩm chất hàng đầu của
cán bộ kiểm tra của Đảng là bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt
đối với Đảng, với đường lối đổi mới, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Lòng trung thành phải thể hiện ở đức tính trung thực; trung
thực với tổ chức đảng, trung thực trong nhiệm vụ kiểm tra Đảng, trung thực
trong hoạt động thẩm tra, xác minh, trung thực với đồng chí, với tập thể, với
nhân dân mà trước hết là trung thực với chính bản thân mình. Đức tính trung
thực gắn liền với đức tính công tâm, khách quan, vô tư trong công tác, không
thiên vị cá nhân, cục bộ, không định kiến, cơ hội, vụ lợi. Lòng trung thành,
đức tính trung thực của cán bộ kiểm tra của Đảng còn thể hiện sự tâm huyết,
tận tâm, tận lực với nhiệm vụ kiểm tra của Đảng, với công cuộc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Còn thể hiện ở bản lĩnh kiểm tra vững vàng dám đương đầu
với mọi sức ép, giữ vững chính kiến, đấu tranh đến cùng để chống các hành vi
tiêu cực, vi phạm, thoái hoá biến chất và bảo vệ chân lý, bảo vệ sự thật, bảo
vệ nhân tố tích cực.
Tiêu chuẩn phẩm chất đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng còn đòi hỏi
thể hiện ở phong cách công tác sâu sát, khiêm tốn. Phải có tính đảng cao, tình
đồng chí sâu sắc, và có động cơ xây dựng, "trị bệnh cứu người". Biết căm
phẫn những hành vi sai phạm cố ý, nhưng biết cảm thông, chia sẻ với những
sai phạm lỡ lầm, khách quan, bất khả kháng. Biết thấu đau những nỗi đau oan
trái về sinh mệnh chính trị của đảng viên, cán bộ. Không dung thứ các trường
hợp ngoan cố, nhưng độ lượng với các trường hợp ăn năn, hối lỗi, tự giác, tự
phê bình và kiên quyết sửa chữa, tiến bộ. Phong cách công tác đúng mực, thái
độ khiêm tốn, không "đao to, búa lớn", truy bức ép cung, mớm cung, nhưng
phân tích sắc sảo, thâu lý đạt tình, tâm phục khẩu phục. Không dùng thủ đoạn
cài bẫy, hù dọa đối với đồng chí nhưng cũng không hữu khuynh, cả tin, vị nể.
Kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với những hành vi tha hoá, biến
chất. Không bị sức ép từ nhiều phía, cả sức ép hữu hình lẫn vô hình chi phối.
139
Cán bộ kiểm tra của Đảng phải luôn giữ vững vị thế, uy tín và bản lĩnh kiểm
tra. Luôn mẫu mực về đạo đức, lối sống. Luôn luôn khiêm tốn và nghiêm túc,
tự giác tự kiểm tra bản thân, hết sức tránh thái độ “kiêu ngạo kiểm tra”.
+ Về tiêu chuẩn năng lực cán bộ kiểm tra Đảng, đòi hỏi thể hiện ở
trình độ tư duy pháp lý và tư duy lãnh đạo trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ thẩm tra, xác minh. Quá trình thực hiện thẩm tra, xác minh là quá trình
sử dụng kiến thức pháp lý bao gồm pháp lý Nhà nước và pháp lý về nguyên
tắc, quy định của Đảng để tư duy, nghiên cứu, phân tích, thẩm định, kết
luận. Tuy nhiên, nếu chỉ có trình độ tư duy pháp lý mà thiếu hoặc yếu trình
độ tư duy lãnh đạo, tức là thiếu kiến thức, kinh nghiệm về các mặt công tác
xây dựng Đảng: tư tưởng, tổ chức cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ, dân
vận...; thiếu hiểu biết về phương thức hoạt động lãnh đạo của các tổ chức
đảng, các cấp uỷ đảng trên các lĩnh vực: kinh tế xã hội, chính trị, quốc
phòng, an ninh... thì chất lượng và hiệu quả hoạt động của cán bộ thẩm tra,
xác minh cũng sẽ bị hạn chế. Ngoài tư duy pháp lý, tư duy lãnh đạo, cán bộ
kiểm tra đảng trong tình hình hiện nay cần đặc biệt phải có lương tâm, đạo
đức kiểm tra của Đảng. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện cho cán bộ kiểm tra
phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện, nâng cao trình độ, nhạy bén chính trị và giác
quan nhạy cảm, tinh tế với thực tiễn cuộc sống đời thường tạo nên phẩm
chất tốt và năng lực giỏi của người cán bộ trực tiếp tiến hành hoạt động
thẩm tra, xác minh.
Bên cạnh đó, cần đặc biệt quan tâm đến chế độ, chính sách đối với cán
bộ kiểm tra để tạo điều kiện cho họ và gia đình ổn định cuộc sống, yên tâm
công tác; đồng thời thu hút những người có đủ đức, đủ tài, có tâm huyết, bản
lĩnh để làm công tác kiểm tra. Tổ chức thực hiện tốt "Quy định về tiêu chuẩn
chức danh cán bộ kiểm tra của Đảng"; có chế độ tiền lương, phụ cấp ưu đãi
nghề mang tính đặc thù đối với cán bộ kiểm tra. Sớm có chính sách, chế độ
hợp lý đối với cán bộ kiểm tra đảng ở cơ sở; nghiên cứu việc bố trí cán bộ
140
kiểm tra Đảng chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; các thành viên ủy ban
kiểm tra đảng ủy cơ sở có chế độ phụ cấp trách nhiệm hợp lý.
+ Đổi mới và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ
kiểm tra
Cần đổi mới việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ kiểm tra bằng
nhiều hình thức thích hợp như: gửi đi đào tạo dài hạn trong nước và nước
ngoài; bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày; tổ chức rút kinh nghiệm theo từng
chuyên đề. Cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra có chương trình, kế hoạch, nội dung,
thời gian đào tạo, bồi dưỡng cụ thể, phù hợp với từng đối tượng. Định kỳ tổ
chức cập nhật các kiến thức về kinh tế, pháp luật, các kiến thức chung...
Hiện nay, kỹ năng nghiệp vụ kiểm tra còn là khâu yếu, khó khăn của uỷ
ban kiểm tra. Vì vậy, phải chỉ đạo nghiên cứu hệ thống kỹ năng nghiệp vụ,
biên soạn thành sách dưới dạng "cẩm nang bỏ túi" phát cho uỷ ban kiểm tra
các cấp nghiên cứu, vận dụng thực hiện trong thực tiễn để nâng cao chất
lượng công tác.
4.2.5. Tăng cường phối hợp, phát huy vai trò của các cơ quan, tổ
chức trong hệ thống chính trị để tiến hành thẩm tra, xác minh
Trong điều kiện một đảng cầm quyền, tổ chức đảng và đảng viên được
phân công lãnh đạo, hoạt động ở mọi lĩnh vực, với chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn khác nhau, ngành nghề khác nhau, thậm chí trong cùng một ngành
cũng có nhiều chuyên môn khác nhau. Do đó, khi tiến hành kiểm tra tổ chức
đảng, đảng viên, nhất là những vấn đề liên quan đến nhiều nội dung, có
chuyên môn, nghiệp vụ khác nhau, ở các lĩnh vực công tác khác nhau thì
thường gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng, từ việc thẩm tra, xác minh, đến kết
luận, xử lý. Trước một sự việc lại có sự đánh giá khác nhau, trong nhiều
trường hợp phát hiện được dấu hiệu vi phạm nhưng không đi đến kết luận, xử
lý thoả đáng để nhắc nhở, ngăn chặn. Để khắc phục tình trạng trên, nhất là
trong tình hình mới, khi quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội đang có sự biến đổi
141
mạnh mẽ, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa uỷ ban kiểm tra các cấp với các
ban đảng và các cơ quan chức năng của Nhà nước trong quá trình kiểm tra,
xem xét, đánh giá tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Phối hợp trong thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra
của Đảng là sự gắn kết các mặt công tác với nhau để bổ sung, hỗ trợ cho nhau
giữa các tổ chức đảng là chủ thể thẩm tra, xác minh với các tổ chức thanh tra
nhà nước, thanh tra nhân dân, các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
nghề nghiệp, các tổ chức đảng, ban, ngành có liên quan để vừa thực hiện tốt
yêu cầu thẩm tra, xác minh xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, vừa
đảm bảo nguyên tắc hoạt động của mỗi tổ chức. Nói cách khác, việc phối hợp
trong thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng với hoạt
động thanh tra của nhà nước, thanh tra nhân dân, điều tra của các cơ quan tố
tụng, công tác kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức tùy theo mục
đích, yêu cầu, điều kiện của từng vụ việc, từng vấn đề cụ thể cần phải làm rõ
do chủ thể kiểm tra quyết định.
Đối tượng phối hợp trong hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng bao gồm: các cơ quan, tổ chức nhà nước (thanh tra nhà
nước, kiểm toán, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân, cơ quan điều tra...);
các đoàn thể chính trị - xã hội (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông
dân, Tổng Liên đoàn Lao động); các tổ chức xã hội nghề nghiệp (Hội Nhà
báo, Hội Luật gia, Liên đoàn Luật sư,…); thanh tra nhân dân.
Việc phối hợp có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động thẩm tra,
xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, vì đó là một trong những khâu
của phương thức, phương pháp, quy trình thực hiện thẩm tra, xác minh, nhằm
huy động mọi nguồn lực, tạo sức mạnh tổng hợp bảo đảm thực hiện thẩm tra,
xác minh một cách thận trọng, chặt chẽ.
142
Quá trình thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng, nếu chỉ mình chủ thể thẩm tra, xác minh tiến hành mà không có sự phối
hợp với hoạt động thanh tra của Nhà nước, thanh tra nhân dân, công tác kiểm
tra, giám sát của các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp,
nghiệp vụ của các cơ quan tố tụng pháp luật, với các cơ quan, tổ chức có liên
quan thì sẽ gặp những khó khăn, vướng mắc, trở ngại, ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả thẩm tra, xác minh. Do đó, thực hiện phối hợp trong hoạt
động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng sẽ giúp cho kết quả
thẩm tra, xác minh khách quan, trung thực, chính xác dù xét dưới góc độ nào,
qua đó, kết luận vụ việc kiểm tra tập trung, thống nhất, đồng bộ, khắc phục sự
sơ hở, thiếu sót, chủ quan, phiến diện, thiếu dân chủ có thể có.
- Việc phối hợp trong hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra của Đảng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả thực hiện
hoạt động này trong điều kiện nếu chỉ mình chủ thể thẩm tra, xác minh thực
hiện thì vừa không đủ sức, không đủ lực lượng, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh
nghiệm, không bảo đảm chất lượng, hiệu quả thẩm tra, xác minh...
Thực hiện phối hợp dựa trên việc trao đổi, cung cấp thông tin, hồ sơ, tài
liệu các vụ việc kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, giải quyết khiếu nại
kỷ luật đảng; về lĩnh vực kinh tế - xã hội, nội chính, tài sản của Đảng có liên
quan đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; các đơn thư tố cáo, khiếu
nại kỷ luật đảng thuộc thẩm quyền của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm
tra các cấp; thực hiện các biện pháp tác nghiệp đặc thù của mỗi cơ quan; thẩm
định, kết luận và có ý kiến phúc đáp chủ thể thẩm tra, xác minh về các vấn đề,
nội dung được đề nghị phối hợp thẩm tra, xác minh…
Trách nhiệm, quyền hạn của chủ thể kiểm tra và lực lương tham gia
thẩm tra, xác minh:
- Chủ thể kiểm tra (cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra) phải chủ
động xây dựng kế hoạch, có văn bản đề nghị với các tổ chức có liên quan phối
143
hợp cung cấp thông tin, tài liệu hoặc nhận xét, nêu các ý kiến về các nội dung
cần thẩm tra, xác minh; đề nghị cử cán bộ tham gia lực lượng thẩm tra, xác
minh do chủ thể kiểm tra chủ trì. Tuỳ đối tượng và nội dung kiểm tra, chủ thể
kiểm tra trao đổi kết quả sau khi kiểm tra cho các tổ chức có liên quan.
- Lực lượng tham gia phối hợp: Khi được chủ thể kiểm tra đề nghị cung
cấp, trao đổi thông tin, tài liệu, tình hình hoặc cử cán bộ tham gia thẩm tra,
xác minh, phải khẩn trương đáp ứng yêu cầu, tạo điều kiện để cán bộ tham
gia. Cán bộ của các cơ quan, tổ chức khi tham gia thẩm tra, xác minh phải
chấp hành đúng các quy định của Đảng, chịu sự điều hành của chủ thể kiểm
tra; nếu có ý kiến khác trong quá trình thẩm tra, xác minh, chỉ có quyền báo
cáo với chủ thể kiểm tra xem xét, quyết định.
Trong quá trình thực hiện phối hợp cần đảm bảo những vấn đề sau:
- Phải căn cứ vào các quy định của Đảng, quy định pháp luật của Nhà
nước và quy định của các đoàn thể chính trị - xã hội, nghề nghiệp.
- Ủy ban kiểm tra các cấp chủ động tham mưu cấp ủy cho ý kiến chỉ
đạo đối với những vấn đề hệ trọng, vượt quá thẩm quyền nhưng cần sự phối
hợp trong quá trình tiến hành thẩm tra, xác minh những vụ việc vụ thể.
- Quá trình phối hợp phải trên cơ sở hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho nhau vừa thực hiện tốt nhiệm vụ thẩm tra, xác minh, vừa
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan trong quá trình
phối hợp thực hiện nhiệm vụ. Khi có yêu cầu phối hợp thực hiện (hoặc tham
gia ý kiến), cả cơ quan đề nghị và cơ quan được đề nghị có văn bản yêu cầu
và trả lời chính thức.
- Việc phối hợp phải bằng quy chế, quy định cụ thể về chủ thể, đối
tượng, phạm vi, nguyên tắc, nội dung, trách nhiệm, phương thức và tổ chức
thực hiện việc phối hợp.
- Nâng cao trách nhiệm và chất lượng trao đổi, cung cấp thông tin (nhất
là về tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm) giữa ủy ban kiểm tra
144
với các tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể
chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí trong hoạt động thẩm tra, xác minh, tuy
nhiên vẫn phải đảm bảo nghiêm túc các nguyên tắc đã đề ra.
- Làm tốt việc sơ kết, tổng kết việc thực hiện các quy chế phối hợp giữa
Ủy ban Kiểm tra Trung ương với các ban đảng, các tổ chức đảng, các cơ quan
ở Trung ương đã được ký kết để hoàn thiện, nâng cao tính khả thi. Chỉ đạo
các cấp ủy cấp dưới ban hành các quy chế, quy định theo thẩm quyền ở cấp
mình, là cơ sở để thực hiện tốt công tác kiểm tra nói chung, trong đó có hoạt
động thẩm tra, xác minh nói riêng.
4.2.6. Tăng cường nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng thời gian qua đã được
quan tâm nghiên cứu, nhiều đề tài đã tiếp cận một cách công phu và đang
được áp dụng. Tuy nhiên, vấn đề hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác
kiểm tra lại chưa được thực sự coi trọng trong công tác nghiên cứu, tổng kết,
trong khi đó lại là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng, hiệu quả của
một cuộc kiểm tra.
Thẩm tra, xác minh là một trong những phương pháp cơ bản của công
tác kiểm tra, là kỹ năng nghiệp vụ yêu cầu tính chính xác cao, nội dung, sự
việc lại có yếu tố lịch sử và hiện tại, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đòi
hỏi tính khoa học trong thực hiện, vì vậy cần được tổ chức tiến hành nghiên
cứu một cách thật cơ bản và có hệ thống, xây dựng những tài liệu lý luận
nghiệp vụ chuyên sâu giúp cho cán bộ kiểm tra nghiên cứu, học tập, tham
khảo, vận dụng vào thực tiễn. Hướng nghiên cứu cần tập trung vào đổi mới,
tìm ra cách tiến hành thẩm tra, xác minh thực sự khoa học, sáng tạo, thích hợp
với nội dung, đối tượng kiểm tra trong tình hình hiện nay.
Việc tổng kết, nghiên cứu cần luận giải rõ các vấn đề trong hoạt động
thẩm tra, xác minh, như: Khâu tiếp cận các đối tượng kiểm tra và việc khai
145
thác, nghiên cứu, phân tích, xử lý các nguồn thông tin, hồ sơ, tài liệu để tìm ra
chứng cứ, chứng lý là một khâu rất quan trọng của hoạt động thẩm tra, xác
minh đòi hỏi trình độ trí tuệ, khả năng nhận thức và lý luận nghiệp vụ kiểm
tra. Cần nhận thức, làm rõ giữa hiện tượng với bản chất, hình thức và nội
dung, giữa khách quan và chủ quan, chính yếu và thứ yếu, hệ thống và nhất
thời, cái chung và cái riêng, số đông và số ít... Trong thực tiễn, việc phân tích
tài liệu, hồ sơ phải qua nhiều bước, bước đầu mới chỉ là dự cảm, phán đoán
theo các hướng đặt ra các giả thiết, giả định để suy luận, phân tích, sàng lọc.
Quá trình xử lý thông tin phụ thuộc rất nhiều vào trình độ tư duy, phương
pháp nghiệp vụ và giác quan nhạy cảm, tinh tế của cán bộ kiểm tra đảng;
đồng thời, khắc phục cách tiến hành thẩm tra, xác minh theo kinh nghiệm chủ
quan, thậm chí duy ý chí. Lý luận về thẩm tra, xác minh, nhất là: mối quan hệ
giữa thẩm tra và xác minh; khi nào thẩm tra, khi nào phải xác minh; bản chất
của thẩm tra, xác minh là gì; sự giống và khác nhau về các phương pháp khác
trong công tác kiểm tra và phương phương pháp thẩm tra, xác minh;… Thực
tế vừa qua, sở dĩ có tình trạng nhận thức chưa đầy đủ, thực hiện chưa đúng,
chất lượng thẩm tra, xác minh chưa tốt vì chúng ta chưa làm rõ, chưa có quy
định rõ ràng trên cơ sở tổng kết thực tiễn về hoạt động thẩm tra, xác minh.
Cần đẩy mạnh việc nghiên cứu các công trình khoa học theo hướng
trên, nhất là các dạng đề tài, đề án, các báo cáo về kỹ năng nghiệp vụ thẩm
tra, xác minh, đi sâu vào nghiên cứu, tổng kết cả lý luận và thực tiễn, đúc rút
kinh nghiệm để xây dựng thành các cuốn "cẩm nang" có tính chất chỉ đạo,
hướng dẫn hoạt động tác nghiệp thẩm tra, xác minh, trang bị cho cán bộ trong
toàn ngành Kiểm tra, nhất là những cán bộ trực tiếp nắm tình hình, nắm địa
bàn, trực tiếp tiến hành thẩm tra, xác minh.
Để việc nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn về công tác kiểm tra
nói chung, về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
nói riêng có kết quả tốt, thiết thực, hiệu quả, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp
146
uỷ cần chỉ đạo Hội đồng Lý luận Trung ương và các cơ quan khoa học có liên
quan quan tâm và có chương trình, kế hoạch, nội dung nghiên cứu khoa học,
tổng kết thực tiễn những vấn đề đặt ra của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng trong điều kiện mới. Cần nghiên cứu lý luận về công tác kiểm tra trong
điều kiện một Đảng cầm quyền, vấn đề giám sát quyền lực, cơ chế tổ chức, bộ
máy cơ quan kiểm tra chuyên trách, mối quan hệ giữa cơ quan kiểm tra đảng
với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị…
Trong thời gian tới, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và uỷ ban kiểm tra
các cấp cần chú trọng một số việc sau đây:
- Chỉ đạo Hội đồng Khoa học cơ quan tổ chức nghiên cứu sâu về thẩm
tra, xác minh dưới dạng các đề tài khoa học, đề án, các báo cáo chuyên đề về
thẩm tra, xác minh, về kỹ năng nghiệp vụ thẩm tra, xác minh. Trên cơ sở
nghiên cứu lý luận, tăng cường tổng kết kinh nghiệm phong phú, bổ ích từ
thực tiễn, xây dựng quy định, quy trình về thẩm tra, xác minh.
- Chỉ đạo và quy định hóa về yêu cầu trao đổi, rút kinh nghiệm trong
nội bộ đoàn (tổ) kiểm tra về tình hình, kết quả, nguyên nhân, bài học việc
thực hiện thẩm tra, xác minh qua từng vụ việc (kiểm tra chấp hành, kiểm tra
khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo, kiểm tra tài chính đảng, giải quyết
khiếu nại kỷ luật đảng,...) để phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót, khuyết
điểm, hạn chế.
- Tiến hành sơ kết trước hết trong từng đơn vị của cơ quan (vụ, phòng)
về việc thực hiện công tác thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra nói
chung, theo từng nhiệm vụ kiểm tra nói riêng để hoàn thiện lý luận, nguyên
tắc, phương pháp, quy trình thẩm tra, xác minh phù hợp với tình hình thực tế.
Khắc phục tình trạng làm việc theo lối mòn, thiếu năng động, sáng tạo khi
tình hình thực tế đã thay đổi.
- Yêu cầu và hướng dẫn cán bộ kiểm tra tự học hỏi kinh nghiệm kiểm
tra qua các bài báo về công tác kiểm tra, thanh tra; trao đổi kinh nghiệm với
147
đồng nghiệp về phương pháp, cách thức giải quyết các vấn đề, các tình huống,
nhất là các cuộc kiểm tra có nội dung phức tạp, khó khăn. Khuyến khích cán
bộ kiểm tra các cấp tự nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo đề xuất những phương
pháp, cách thức giải quyết vấn đề, xử lý các tình huống để đạt kết quả cao
nhất trong thẩm tra, xác minh.
- Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh
để xác định các biện pháp thực hiện có hiệu quả, đồng thời qua đó rèn luyện
kỹ năng nghiệp vụ thẩm tra, xác minh dưới nhiều hình thức như hội thảo, tổng
kết chuyên đề...
- Tăng cường trao đổi, nghiên cứu kinh nghiệm công tác kiểm tra, kỷ
luật trong và ngoài nước (có thể nghiên cứu, tham khảo cả kinh nghiệm công
tác kiểm tra, kỷ luật của các đảng cộng sản, đảng dân chủ, đảng xã hội dân
chủ, đảng cầm quyền ở một số nước trên thế giới và trong khu vực) để học tập
kinh nghiệm, vận dụng phù hợp với thực tiễn, đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh
của Đảng ta, của uỷ ban kiểm tra các cấp.
- Bên cạnh đó, cơ quan Nhà nước cần có kế hoạch bố trí ngân sách,
thông qua Văn phòng Trung ương Đảng dự trù, cấp kinh phí để tổ chức đảng
và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương tổ chức thực hiện.
Tiểu kết chương 4
Thẩm tra, xác minh là một khâu quan trọng trong quá trình tiến hành
kiểm tra, là điều kiện có tính quyết định đến kết quả, hiệu quả của công tác
kiểm tra. Hoạt động thẩm tra, xác minh phải quán triệt mục tiêu của công tác
kiểm tra đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng chỉ ra là:
Kịp thời đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để
phát huy, phát hiện, làm rõ thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, khắc
phục và xử lý nghiêm minh khi có vi phạm, góp phần xây dựng
148
Đảng trong sạch, vững mạnh; phục vụ việc tổng kết thực tiễn, nhân
rộng những nhân tố mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, cục bộ, bản vị, chống quan liêu,
tham nhũng, tiêu cực [88, tr.112].
Để thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh, đáp ứng nhiệm vụ công
tác kiểm tra, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: Một là, nâng cao hơn nữa
nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp, của người đứng
đầu (trước hết là ủy ban kiểm tra) và cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng (đây là tiền đề, điều kiện
để lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện có kết quả quá trình thẩm tra, xác minh). Hai
là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra, sự chỉ
đạo, hướng dẫn, giám sát của thường trực cấp ủy và thường trực uỷ ban kiểm
tra đối với hoạt động thẩm tra, xác minh; qua đó, tạo thuận lợi, tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thẩm tra, xác minh. Ba là, tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện và đổi mới phương pháp, quy trình, các quy định, hướng dẫn, tạo
hành lang pháp lý tiến hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng. Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra trong sạch, có năng lực, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
giai đoạn hiện nay. Muốn công tác kiểm tra nói chung và hoạt động thẩm tra,
xác minh nói riêng có kết quả, chất lượng tốt phải có đội ngũ cán bộ có phẩm
chất, năng lực. Năm là, tăng cường phối hợp, phát huy vai trò, sức mạnh tổng
hợp của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị để thực hiện tốt thẩm
tra, xác minh. Sáu là, tăng cường nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn về hoạt động thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng,
nhằm làm sáng tỏ những vấn đề còn vướng mắc.
149
KẾT LUẬN
1. Công tác kiểm tra của uỷ ban kiểm tra là công tác đảng, có đặc thù
riêng là tiến hành kiểm tra, kết luận, xử lý hoặc giúp cấp uỷ xử lý kỷ luật
những trường hợp có vi phạm đến mức phải xử lý. Đặc thù này không những
khác với các ban của cấp uỷ mà còn khác với các cơ quan bảo vệ pháp luật
của Nhà nước (điều tra, truy tố, xét xử đều do từng cơ quan độc lập tiến
hành). Vì vậy, bên cạnh việc coi trọng và làm tốt các phương pháp cơ bản
khác của công tác đảng, cần đặc biệt coi trọng và làm tốt hoạt động thẩm tra,
xác minh để phục vụ cho việc kiểm tra, kết luận, xử lý được công minh, chính
xác, kịp thời.
Thẩm tra, xác minh là khâu đặc biệt quan trọng và mang tính quyết
định trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kiểm tra của Đảng. Thẩm tra, xác minh
trong công tác kiểm tra của Đảng là những hoạt động mang tính xem xét, tra
cứu, thẩm định để tìm ra sự thật, chỉ đúng bản chất các thông tin, vụ việc cũng
như hành vi của đối tượng kiểm tra, bằng chứng cứ và chứng lý thẩm tra, xác
minh. Trên cơ sở chứng cứ và chứng lý thẩm tra, xác minh, các tổ chức đảng
có thẩm quyền quyết định kết luận xử lý đối với các nội dung và đối tượng
kiểm tra. Phương châm "chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả" của công
tác kiểm tra đảng và “công minh, chính xác, kịp thời” trong thi hành kỷ luật
đảng phụ thuộc phần lớn vào độ chính xác và hiệu quả của hoạt động thẩm
tra, xác minh.
2. Việc thực hiện thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng
trong thời gian qua đã có nhiều tiến bộ, ưu điểm: Các cấp ủy, tổ chức đảng và
đảng viên đã từng bước nhận thức đúng và rõ hơn về vị trí, vai trò, ý nghĩa
của hoạt động thẩm tra, xác minh khi tiến hành các cuộc kiểm tra. Trình độ
nghiệp vụ của đa số cán bộ kiểm tra ngày càng được nâng cao, vốn sống thực
tiễn phong phú, phong cách làm việc khoa học, khách quan, công tâm, có
150
chính kiến trong công việc. Khi tiến hành thẩm tra, xác minh, cán bộ kiểm tra
các cấp đã luôn bám sát, tuân thủ các nguyên tắc thẩm tra, xác minh; cơ bản
đã lựa chọn, xác định và thực hiện đúng nội dung, đối tượng thẩm tra, xác
minh; việc thực hiện phương pháp, cách thức, thủ tục thẩm tra, xác minh được
đảm bảo thận trọng, chính xác, tỷ mỉ. Qua thẩm tra, xác minh, đã tìm được
nhiều chứng cứ xác đáng, chứng lý sắc bén, góp phần quyết định để uỷ ban
kiểm tra các cấp có căn cứ, cơ sở xem xét, đánh giá, kết luận cuộc kiểm tra.
Tuy nhiên, thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng cũng
còn không ít hạn chế: Một số cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra và cán bộ
trực tiếp tiến hành kiểm tra chưa quan tâm, chưa thật sự coi trọng vị trí, vai
trò của hoạt động thẩm tra, xác minh; trong nhiều cuộc kiểm tra, việc lựa
chọn nội dung và đối tượng thẩm tra, xác minh nhiều lúc không đúng, không
đầy đủ, thiếu tập trung, lan man, dẫn đến khó khăn, lúng túng khi thu thập tài
liệu, chứng cứ, dẫn đến kéo dài thời gian và hạn chế kết quả thẩm tra, xác
minh; tiến hành thẩm tra, xác minh không kỹ, chưa sâu, chưa tìm được bằng
chứng xác thực; chứng cứ nhiều khi không đầy đủ và chính xác; chất lượng
báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh chưa tốt, chưa chuyển tải hết các chứng cứ
để phục vụ việc kết luận nội dung kiểm tra, làm hạn chế kết quả, chất lượng
công tác kiểm tra.
3. Để làm tốt thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng cần
thực hiện các giải pháp mang tính hệ thống và đặc thù sau: Thứ nhất, nâng
cao nhận thức của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và cán bộ,
đảng viên về vị trí, vai trò của thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng. Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm
tra; sự chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát của thường trực cấp ủy và thường trực uỷ
ban kiểm tra đối với hoạt động thẩm tra, xác minh. Thứ ba, tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện và đổi mới phương pháp, quy trình, các quy định, hướng dẫn tiến
hành thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng. Thứ tư, xây dựng
151
đội ngũ cán bộ kiểm tra trong sạch, có năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng giai đoạn hiện nay. Thứ
năm, tăng cường phối hợp, phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống chính trị để tiến hành thẩm tra, xác minh. Thứ sáu, nghiên cứu khoa
học, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng.
4. Để hoạt động thẩm tra, xác minh có chất lượng, hiệu quả hơn trong
tình hình mới vừa là một yêu cầu đúng đắn, nhưng đồng thời cũng là một đòi
hỏi hết sức khó khăn. Luận án - trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận về
công tác kiểm tra, về thẩm tra, xác minh và đánh giá thực trạng hoạt động
thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng trong thời gian qua - đã
đề xuất một số giải pháp chủ yếu vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa
mang tính cơ bản lâu dài đối với hoạt động kiểm tra của Đảng nói chung, hoạt
động thẩm tra, xác minh nói riêng. Việc thực hiện một cách đồng bộ các giải
pháp sẽ là tiền đề góp phần thực hiện tốt hoạt động thẩm tra, xác minh trong
công tác kiểm tra của Đảng trong thời gian tới.
152
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Bùi Anh Tuấn (2009), Tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra,
kỷ luật của Đảng, Bùi Văn Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
2. Bùi Anh Tuấn (2009), "Đảng bộ thành phố Hải Phòng đổi mới phương
thức kiểm tra, giám sát", Tạp chí Lịch sử Đảng, (8), tr.75.
3. Bùi Anh Tuấn (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, TS Lê Hồng Liêm (chủ
biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Bùi Anh Tuấn (2014), "Bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm tra, xác minh cho cán
bộ kiểm tra", Tạp chí Kiểm tra, (5), tr.47.
153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư (2007), Quy chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị
nội bộ giữa Ban Tổ chức Trung ương với Uỷ ban Kiểm tra Trung
ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Đảng uỷ Quân sự Trung ương,
Đảng uỷ Công an Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao (ban
hành kèm theo Quyết định số 69-QĐ/TW, ngày 25-7-2007), Hà Nội.
2. Ban Bí thư (2009), Quy định số 222-QĐ/TW, ngày 08-5-2009 về chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy cơ quan chuyên trách tham mưu,
giúp việc tỉnh uỷ, thành uỷ (nay là Quy định số 219-QĐ/TW, ngày
27-12-2013), Hà Nội.
3. Ban Bí thư (2009), Thông báo số 226-TB/TW, ngày 03-03-2009 về tăng
cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát của Đảng,
Hà Nội.
4. Ban Bí thư (2011), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Ban Đối ngoại Trung ương trong công tác kiểm tra, giám sát, thi
hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 23-QĐ/TW,
ngày 19-7-2011), Hà Nội.
5. Ban Bí thư (2011), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ trong công tác kiểm tra, giám sát,
thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 24-
QĐ/TW, ngày 19-7-2011), Hà Nội.
6. Ban Bí thư (2012), Hướng dẫn số 01-HD/TW, ngày 05-01-2012 về một
số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng, Hà Nội.
7. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo
Quyết định số 136-QĐ/TW, ngày 02-10-2012), Hà Nội.
154
8. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương trong thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng (ban hành kèm theo
Quyết định số 137-QĐ/TW, ngày 02-10-2012), Hà Nội.
9. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Ban Tuyên giáo Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số
145-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.
10. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương với
Đảng đoàn Quốc hội trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 146-QĐ/TW,
ngày 09-11-2012), Hà Nội.
11. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Đảng uỷ Công an Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết
định số 147-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.
12. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Ban cán sự đảng Kiểm toán Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo
Quyết định số 148-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.
13. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Quân uỷ Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 149-
QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.
14. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Ban cán sự đảng Thanh tra Chính phủ trong thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo
Quyết định số 150-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.
155
15. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo
Quyết định số 151-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.
16. Ban Bí thư (2012), Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương
với Ban cán sự đảng Chính phủ trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số
152-QĐ/TW, ngày 09-11-2012), Hà Nội.
17. Ban Bí thư (2012), Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 10-01-2012 về công
tác kiểm tra của tố chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, Hà Nội.
18. Ban Bí thư (2012), Thông báo Kết luận số 71-TB/TW, ngày 12-01-2012 về
thực hiện Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Trung ương với tổ
chức có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng, Hà Nội.
19. Ban Bí thư (2012), Thông báo Kết luận số 115-TB/TW, ngày 17-12-2012
về Đề án "Phát hiện, xác định, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm", Hà Nội.
20. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Hướng dẫn thực hiện các quy định
về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương
VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khoá XI (ban hành kèm theo
Quyết định số 46-QĐ/TW, ngày 01-11-2011), Hà Nội.
21. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Quy định số 45-QĐ/TW, ngày 01-
11-2011 về thi hành Điều lệ Đảng, Hà Nội.
22. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-
11-2011 về những điều đảng viên không được làm, Hà Nội.
23. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Kết luận số 21-KL/TW, ngày 21-5-
2012 tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá XI
156
về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Hà Nội.
24. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2007), Giương
cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, phấn đấu
giành thắng lợi mới trong xây dựng toàn diện xã hội khá giả (Báo
cáo trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVII Đảng Cộng sản
Trung Quốc, ngày 15-10-2007), Bản dịch của Vụ Trung Quốc -
Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương, Trung Quốc.
25. Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương tổng kết thực hiện Chỉ thị 09-CT/TW
và pháp luật về khiếu nại, tố cáo (2012), Tài liệu Hội nghị tổng kết
thực hiện Chỉ thị 09-CT/TW của Ban Bí thư và pháp luật về khiếu nại,
tố cáo, tập I, Hà Nội.
26. Ban Chỉ đạo Tổng kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý
luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2003), Tiếp tục thực hiện Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng, lãng phí, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
28. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2004), Kinh nghiệm và giải pháp xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí rút ra
từ các vụ án kinh tế - xã hội và kết quả thanh tra, kiểm tra, Kỷ yếu
hội thảo, Hà Nội.
29. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2005), Đảng, Bác Hồ về tự phê bình và
phê bình, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2005), Tệ quan liêu, lãng phí và một số
giải pháp phòng chống, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
31. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (2010), Báo cáo số 70-BC/BCĐ, ngày 09-12-2010 tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng trong nhiệm kỳ Đại hội X, Hà Nội.
32. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (2011), Báo cáo số 01-BC/BCĐ, ngày 28-01-2011 về kết quả công tác phòng, chống tham nhũng năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011, Hà Nội.
33. Ban Nội chính Trung ương (2005), Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới, (Sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Bộ Chính trị (2007), Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ (ban hành kèm theo Quyết định số 58-QĐ/TW, ngày 07-5-2007), Hà Nội.
35. Bộ Chính trị (2008), Quy trình kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư (ban hành kèm theo Quyết định số 173-QĐ/TW, ngày 08-7-2008), Hà Nội.
36. Bộ Chính trị (2008), Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (ban hành kèm theo Quyết định số 174-QĐ/TW, ngày 08-7-2008), Hà Nội.
37. Bộ Chính trị (2008), Quy trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, thi hành kỷ luật đối với đảng viên là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương thay thế Quy trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, thi hành kỷ luật đối với đảng viên là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành tại Quyết định số 174-QĐ/TW, ngày 08-7-2008 của Bộ Chính trị (ban hành kèm theo Quyết định số 195-QĐ/TW, ngày 19-11-2008), Hà Nội.
38. Bộ Chính trị (2008), Thông báo Kết luận số 130-TB/TW, ngày 10-1-2008
về tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2006 đến
nay và giải pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
158
39. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 72-KL/TW, ngày 17-5-2010 về Chiến
lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020, Hà Nội.
40. Bộ Chính trị (2010), Quy chế đánh giá cán bộ, công chức (ban hành kèm
theo Quyết định số 286-QĐ/TW, ngày 08-02-2010), Hà Nội.
41. Bộ Chính trị (2010), Quy trình giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư (ban hành kèm
theo Quyết định số 321-QĐ/TW, ngày 06-8-2010), Hà Nội.
42. Bộ Chính trị (2011), Thông báo Kết luận số 68-TB/TW, ngày 30-12-2011
sơ kết trên 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X) về
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Hà Nội.
43. Bộ Chính trị (2012), Chỉ thị số 15-CT/TW, ngày 24-02-2012 về việc thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay", Hà Nội.
44. Bộ Chính trị (2013), Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30-3-2013 về xử lý
kỷ luật đảng viên vi phạm, Hà Nội.
45. Bộ Chính trị (2013), Quy định giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán
bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (ban hành kèm theo
Quyết định số 210-QĐ/TW, ngày 08-11-2013), Hà Nội.
46. Bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) (2005), Dự thảo Báo
cáo giải pháp phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, Hà Nội.
47. Nguyễn Văn Chi (2008), Công tác kiểm tra, giám sát góp phần đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
48. Trường Chinh (1962), Công tác tư tưởng của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
49. Chính phủ (2008), Báo cáo số 135/BC/CP, ngày 19-9-2008 về công tác
phòng, chống tham nhũng năm 2008, (Báo cáo Quốc hội), Hà Nội.
159
50. Chính phủ (2009), Báo cáo số 157/BC/CP, ngày 02-10-2009 về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2009, (Báo cáo Quốc hội), Hà Nội.
51. Chính phủ (2010), Báo cáo số 103/BC/CP, ngày 01-9-2010 về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2010, (Báo cáo Quốc hội), Hà Nội.
52. Chính phủ (2013), Nghị định số 78/2013/NĐ-CP, ngày 17-7-2013 về minh bạch tài sản, thu nhập, Hà Nội.
53. Chính phủ (2013), Nghị định số 91/2013/NĐ-CP, ngày 12-8-2013 quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong Công an nhân dân, Hà Nội.
54. Phạm Thị Hải Chuyền (Chủ biên) (2010), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Phạm Hồng Chương (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
56. Đỗ Hùng Cường (2012), “Một số vấn đề về thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, (10), tr.46.
57. Bùi Mạnh Cường (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề chống tham nhũng, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
58. Giang Trạch Dân (2003), Bàn về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, Tập I-II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Lý Quang Diệu (2001), Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore: 1965-2000, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Nguyễn Thị Doan (Chủ biên) (2006), Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Nguyễn Trung Dong (2014), “Kinh nghiệm về thẩm tra, xác minh trong giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”, Tạp chí Kiểm tra, (4), tr.36.
62. Nguyễn Ngọc Đán - Cao Văn Thống (Đồng chủ biên) (2012), Cẩm nang về kỹ năng giải quyết khiếu nại kỷ luật của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
160
63. Nguyễn Ngọc Đán - Cao Văn Thống (Đồng chủ biên) (2012), Cẩm nang về kỹ năng giải quyết tố cáo trong Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
64. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997), Điều lệ công tác điều tra, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
65. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997), Những chuẩn tắc liêm chính và điều khoản liên quan, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
66. Đảng Cộng sản Trung Quốc (1997), Quy định về việc cán bộ lãnh đạo báo cáo những vấn đề có liên quan đến bản thân, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
67. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2000), Một số chuẩn mực về cán bộ lãnh đạo, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc làm việc liêm khiết, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
68. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2000), Một số quy định cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước làm việc liêm khiết, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
69. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2004), Điều lệ giám sát nội bộ (thi hành thử), Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
70. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2004), Điều lệ xử lý kỷ luật, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
71. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2005), Đề cương thực thi xây dựng, kiện toàn hệ thống trừng trị và phòng ngừa tham nhũng, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
72. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2006), Quy định tạm thời về tăng cường quản lý đối với nhân viên công tác nhà nước có vợ (chồng), con cái định cư ở nước ngoài, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
161
73. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2008), Điều lệ công tác tuần thị Đảng Cộng sản Trung Quốc (thi hành thử), Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
74. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2008), Điều lệ tạm thời về chế độ nhiệm kỳ đối với Đại hội đại biểu toàn quốc và đại hội đại biểu các cấp, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
75. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2008), Thông tư về in phát "Quy hoạch công tác 2008-2012 xây dựng, kiện toàn hệ thống trừng trị và phòng ngừa tham nhũng", Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
76. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2010), Chống tham nhũng và xây dựng liêm khiết ở Trung Quốc, (Sách trắng), Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
77. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2010), Quy định về thực hiện chế độ trách nhiệm xây dựng liêm chính trong Đảng, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
78. Đảng Cộng sản Trung Quốc (2011), Quy định tạm thời về thực hiện chất vấn trách nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
79. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
80. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
81. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
82. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
84. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ (thông qua tại Đại hội biểu toàn quốc lần thứ XI), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
90. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
91. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
93. Phạm Thành Đồng (2012), “Chứng cứ trong kiểm tra dấu hiệu vi phạm khi phải tiến hành trưng cầu giám định”, Tạp chí Kiểm tra, (11-221), tr.42.
94. Lê Văn Giảng (Chủ biên) (2011), Nâng cao chất lượng dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Lê Tiến Hào (2004), Công tác kiểm tra của Thành uỷ Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
96. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Mai Thanh Hiếu - Nguyễn Chí Công (2008), Trình tự, thủ tục giải quyết
các vụ án hình sự, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội.
163
98. Nguyễn Công Học (Chủ biên) (2012), Một số giải pháp bảo đảm việc
chấp hành kỷ luật và thi hành kỷ luật trong Đảng hiện nay, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
99. Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2010), Công tác
tham mưu tại các cơ quan Đảng Trung ương - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Lê Khắc Khoa (2010), “Về ngôn ngữ nói trong thẩm tra, xác minh”, Tạp
chí Kiểm tra, (2), tr.48.
101. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 31, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
102. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 32, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
103. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 37, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
104. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 39, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
105. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 41, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
106. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
107. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
108. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
109. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva.
110. V.I.Lênin - I.V.Xtalin (1974), Về dân chủ là kỷ luật trong Đảng, Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội.
111. V.I.Lênin (1998), Bàn về kiểm kê, kiểm soát, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
112. Lê Hồng Liêm (Chủ biên) (2010), Một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, trở
ngại của uỷ ban kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
khi có dấu hiệu vi phạm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Lê Hồng Liêm (Chủ biên) (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
114. Liên hợp quốc (2003), Công ước về chống tham nhũng.
164
115. Nguyễn Anh Liên (Chủ nhiệm) (2001), Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của Đảng, Đề tài khoa học cấp Ban Đảng Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
116. Vũ Đình Lợi (2013), “Thẩm tra, xác minh - một khâu quan trọng trong giải quyết tố cáo”, Tạp chí Kiểm tra, (9), tr.49.
117. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Nguyễn Hoàng Minh (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
121. Phạm Thị Ngạn (Chủ nhiệm) (2007), Hệ thống kỹ năng nghiệp vụ trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, Đề tài khoa học cấp Bộ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Hà Nội.
122. Phạm Thị Ngạn (2013), “Các yếu tố cấu thành trình độ nghiệp vụ thẩm tra, xác minh của cán bộ kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, (6), tr.45.
123. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2001), Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới, Hà Nội.
124. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2001 - 2004, (Sách phục vụ thảo luận các dự thảo văn kiện Đại hội X), Hà Nội.
125. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Xây dựng đảng cầm quyền: Kinh nghiệm của Việt Nam - Kinh nghiệm của Trung Quốc, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Hà Nội.
165
126. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2004), Sách tra cứu các mục từ về tổ chức, Hà Nội.
127. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2005), Một số văn bản của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, Hà Nội.
128. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2005), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 1, Hà Nội.
129. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.
130. Nhà xuất bản Công an nhân dân (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
131. Nhà xuất bản Sự thật (1970), Bộ Quốc triều hình luật, Hà Nội. 132. Nhà xuất bản Thanh tra (2002), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác
Thanh tra, Hà Nội. 133. Nhà xuất bản Thông tấn (2006), Học cách chống tham nhũng - Kinh
nghiệm của báo chí nước ngoài, Hà Nội. 134. Nhà xuất bản Tư pháp (2006), Các quy định pháp luật về khiếu nại, tố
cáo và thanh tra, Hà Nội. 135. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa - Nhà xuất bản Tư pháp (2006), Từ điển
Luật học, Hà Nội. 136. Phạm Đình Phi (2010), “Kinh nghiệm thẩm tra, xác minh trong giải
quyết khiếu nại kỷ luật đảng”, Tạp chí Kiểm tra, (8), tr.39. 137. Phuthắc Phítthanuson (2003), Công tác kiểm tra của Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
138. Quốc hội (2005), Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
139. Quốc hội (2005), Luật Thanh tra, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 140. Quốc hội (2012), Luật Khiếu nại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 141. Quốc hội (2012), Luật Tố cáo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
166
142. Phạm Đăng Quyền - Đặng Thị Thanh (2011), Sổ tay chiến thuật điều tra hình sự, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
143. Chănsyseng Sômphu (2011), Chất lượng công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra Đảng và Nhà nước cấp tỉnh ở các tỉnh phía Bắc nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sỹ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
144. Bùi Ngọc Thanh (2008), Một số vấn đề về xây dựng Đảng và công tác cán bộ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
145. Thanh tra Chính phủ (2008), Cải cách cơ chế kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản hành chính ở Trung Quốc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
146. Thanh tra Nhà nước (1999), Những điều cần biết về pháp luật khiếu nại, tố cáo, Công ty In Công đoàn Việt Nam, Hà Nội.
147. Bùi Văn Thể (Chủ biên) (2009), Giải pháp nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
148. Trương Thị Thông (1996), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra chuyên trách của Đảng trong tình hình hiện nay, Luận án Phó Tiến sỹ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
149. Thông tấn xã Nam Ninh (2003), Những vấn đề nóng bỏng của các cấp lãnh đạo Trung Quốc sau Đại hội XVI (phần I), (Tài liệu tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
150. Cao Văn Thống (2009), Tăng cường kiểm tra, giám sát phục vụ nhiệm chính trị và công tác xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
151. Cao Văn Thống (Chủ biên) (2012), Cẩm nang về kỹ năng kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
152. Cao Văn Thống (Chủ biên) (2012), Đổi mới phương thức kiểm tra, giám sát của Đảng giai đoạn hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
167
153. Cao Văn Thống (2013), Kinh nghiệm và giải pháp giải quyết tố cáo
trong Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
154. Cao Văn Thống (Chủ biên) (2011), Những vấn đề cơ bản về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
155. Cao Văn Thống (chủ biên) (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
156. Cao Văn Thống - Đỗ Xuân Tuất (Đồng chủ biên) (2012), Nâng cao chất lượng kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
157. Tô Quang Thu (Chủ nhiệm) (2008), Thực trạng và giải pháp nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm tra, Đề tài khoa học cấp Bộ, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Hà Nội.
158. Nguyễn Huy Thuật (2009), Sổ tay điều tra các tội phạm về trật tự xã hội, (Sách chuyên khảo - Lưu hành nội bộ), (Tái bản, có chỉnh lý, bổ sung), Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
159. Nguyễn Huy Thuật (2010), Chiến thuật điều tra hình sự (Sách chuyên khảo - Lưu hành nội bộ), Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
160. Nguyễn Thành Tiến (Biên dịch) (2001), Trung Quốc được mùa chống tham nhũng, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
161. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
162. Nguyễn Thế Tư (2004), Nâng cao chất lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của uỷ ban kiểm tra huyện uỷ ở các tỉnh duyên hải miền Trung hiện nay, Luận án Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
168
163. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Yên Bái (2004), Kết hợp giải quyết tố cáo với kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm ở Đảng bộ tỉnh Yên Bái, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
164. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2003), Báo cáo số 133-BC/KTTW, ngày 02-10-2003 về kiểm điểm công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng giữa nhiệm kỳ, Hà Nội.
165. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2005), Báo cáo số 358-BC/KTTW, ngày 13-6-2005 về tổng kết thực hiện công tác kiểm tra của Đảng trong gần 20 năm đổi mới, Hà Nội.
166. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2006), Báo cáo số 425-BC/KTTW, ngày 02-3-2006 về tổng kết công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp nhiệm kỳ 2001 - 2005, Hà Nội.
167. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2007), Hướng dẫn số 07-HD/UBKTTW, ngày 11-9-2007 thực hiện Quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ (ban hành kèm theo Quyết định số 58-QĐ/TW, ngày 07-5-2007 của Bộ Chính trị), Hà Nội.
168. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2007), Hướng dẫn số 08-HD/UBKTTW, ngày 28-9-2007 thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Hà Nội.
169. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2008), Báo cáo số 220-BC/UBKTTW, ngày 15-12-2008 về kết quả thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; việc thực hiện Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương trong nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng, Hà Nội.
170. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2008), Nâng cao chất lượng chấp hành kỷ luật và việc thi hành kỷ luật trong Đảng khu vực miền Trung - Tây Nguyên từ năm 2001-2008, Báo cáo chuyên đề, Hà Nội.
171. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2008), 60 năm truyền thống Ngành kiểm tra Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
169
172. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2008), Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
173. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2009), Công tác phục vụ đại hội đảng của uỷ ban kiểm tra các cấp, Nhà xuất bản Thời đại, Hà Nội.
174. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2010), Báo cáo số 390-BC/UBKTTW, ngày 05-10-2010 tổng kết công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp nhiệm kỳ 2006-2010, Hà Nội.
175. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2012), Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng (Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ), Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
176. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Hướng dẫn số 03-HD/UBKTTW, ngày 15-3-2012 thực hiện Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, Hà Nội.
177. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW, ngày 15-3-2012 về công tác kiểm tra, giám sát thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Hà Nội.
178. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Hướng dẫn số 05-HD/UBKTTW, ngày 17-4-2012 thực hiện Quy định về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, Hà Nội.
179. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Kế hoạch số 52-HD/UBKTTW, ngày 23-3-2012 thực hiện Thông báo kết luận của Bộ Chính trị sơ kết trên 4 năm thực hiện nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Hà Nội.
180. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2012), Quy trình tiến hành công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng của Uỷ ban Kiểm tra Trung
170
ương (ban hành kèm theo Quyết định số 1084-QĐ/UBKTTW, ngày 05-12-2012), Hà Nội.
181. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), 65 năm truyền thống Ngành kiểm tra Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
182. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Các Báo cáo của các đoàn công tác Uỷ ban Kiểm tra Trung ương về kết quả nghiên cứu, học tập, trao đổi kinh nghiệm về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng tại Trung Quốc, Lào; về phòng, chống tham nhũng tại Trung Quốc, Australia, Singapore, Đức, Italia, Pháp, Hàn Quốc,… kết quả tham dự các Hội thảo quốc tế về công tác phòng, chống tham nhũng tại Mỹ, Anh, Malaysia...
183. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Hệ thống mẫu văn bản nghiệp vụ về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng (ban hành kèm theo Quyết định số 1403-QĐ/UBKTTW, ngày 29-7-2013), Hà Nội.
184. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Hướng dẫn số 09-HD/UBKTTW, ngày 06-6-2013 thực hiện một số điều của Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30-3-2013 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm Hà Nội.
185. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Quy định về phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm, quyết định kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm (ban hành kèm theo Quyết định số 1319-QĐ/UBKTTW, ngày 10-6-2013), Hà Nội.
186. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Quy định số 08-QĐ/UBKTTW,
ngày 18-6-2013 về tổ chức, hoạt động của đoàn kiểm tra, giám sát
của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Hà Nội.
187. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2013), Thông báo Kết luận số 433-TB/UBKTTW, ngày 09-5-2013 làm rõ một số vấn đề về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, Hà Nội.
188. Uỷ ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2012), Báo cáo công tác trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XVIII (thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng
171
Cộng sản Trung Quốc, ngày 14-11-2012), Bản dịch của Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương.
189. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2005), Pháp lệnh Chống tham nhũng và văn bản hướng dẫn thi hành, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
190. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2008), Báo cáo kết quả giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.
191. Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (2009), Một số văn bản của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
192. Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Bản tin phòng, chống tham nhũng, số 31 (tháng 2/2010), số 32 (tháng 8/2010) số 34 (10/2010), số 37 (01/2011), số 38 (02/2011).
193. Viện Chiến lược và Khoa học Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
194. Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa - Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
195. Viện Nghiên cứu Khoa học Công an (1977), Từ điển Nghiệp vụ phổ thông, Hà Nội.
196. Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng. 197. Hồng Vĩ (2004), Các biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc (Sách
tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 198. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
172
PHỤ LỤC
1. Nguồn: Các Báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương về tổng kết
công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra các cấp nhiệm kỳ Đại hội IX (2001-
2006), nhiệm kỳ Đại hội X (2006-2011), năm 2011, năm 2012, năm 2013.
2. Chú thích các chữ viết tắt trong phần Phụ lục:
BTV : ban thường vụ
THKL : thi hành kỷ luật
UBKT : uỷ ban kiểm tra