24
ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH TIỂU LUẬN MÔN: LUẬT KINH TẾ ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM GVHD: Ths.Dương Mỹ An SVTH : Trần Văn Thuận (108211233) Hoàng Phúc Thịnh (108211234) Nguyễn Quyết Tiến (108211235) Lớp : Quản Trị 9

Tieu luan luat kinh te

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tieu luan luat kinh te

ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN MÔN: LUẬT KINH TẾ

ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM

GVHD: Ths.Dương Mỹ AnSVTH : Trần Văn Thuận (108211233)

Hoàng Phúc Thịnh (108211234)Nguyễn Quyết Tiến (108211235)

Lớp : Quản Trị 9

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHNgày 5, tháng 5, năm 2010

Page 2: Tieu luan luat kinh te

MỤC LỤC

I.QUAN NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ1. Quan niệm về tập đoàn kinh tế2. Sự ra đời của tập đoàn kinh tế3. Đặc điểm của tập đoàn kinh tế

3.1 Các tập đoàn kinh tế thường có quy mô lớn về vốn, doanh thu và phạm vi hoạt động.

3.2 Các tập đoàn kinh tế đã và đang hoạt động trên thế giới hiện nay đều là những tập đoàn đa ngành, tức là hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực.

3.3 Sự đa dạng về cơ cấu tổ chức và sở hữu vốn.4. Vai trò của tập đoàn kinh tế

II.TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM VIỆT NAM1. Con đường hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam

1.1 Phát triển Tập đoàn từ kinh doanh độc quyền

1.2 Tham vọng phát triển tập đoàn nhà nước nhờ chính sách bảo hộ và

bằng vốn vay

1.3 Cổ phần hóa các Tập đoàn kinh tế lớn và thúc đẩy việc niêm yết

trên thị trường chứng khoán

1.4 Sự hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh tế tư nhân, các tập

đoàn kinh tế đa sở hữu

2. Một số thành tựu đạt được3. Một số vấn đề còn tồn tại4. Một số giải pháp đẩy mạnh và hoàn thiện tập đoàn kinh tế ở Việt Nam

******

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Page 3: Tieu luan luat kinh te

LỜI NÓI ĐẦU

Với việc chính thức trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đang đứng trước vận hội lớn để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.

Bối cảnh mới đòi hỏi sự phát triển kinh tế không chỉ dừng lại ở việc nâng cao tốc độ tăng trưởng mà còn phải chủ động lựa chọn những chiến lược phát triển kinh tế năng động, phù hợp với đặc thù của nước ta.

Theo đánh giá của các nhà kinh tế cũng như các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam là một nước có tiềm năng phát triển rất lớn với các lợi thế như: sự ổn định chính trị- xã hội, những thuận lợi về vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên và đặc biệt là nguồn nhân lực.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải có các biện pháp phù hợp để thu hút được các luồng đầu tư nước ngoài, tận dụng triệt để các lợi thế so sánh để đẩy nhanh tốc độ và chất lượng phát triển kinh tế.

Trong bối cảnh hiện nay việc tổ chức, sắp xếp lại các công ty có quy mô nhỏ lẻ, hoạt động manh mún và kém hiệu quả thành những doanh nghiệp lớn có đủ tiềm năng cạnh tranh sòng phẳng với các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng xuất hiện nhiều ở Việt Nam là điều tất yếu.

Chỉ những doanh nghiệp có quy mô lớn, tiềm lực kinh tế mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực mới có thể tận dụng được các lợi thế để phát triển bền vững.

Thấy được điều này, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài “ tìm hiểu về tập đoàn kinh tế ở Việt Nam” làm đề tài tiểu luận môn luật kinh tế. Mong được sự góp ý của cô và các bạn.

Page 4: Tieu luan luat kinh te

I.QUAN NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ

1.Quan niệm về tập đoàn kinh tế.

Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều khái niệm khác nhau về Tập đoàn kinh tế được sử dụng đối với một loại hình, quy mô, lĩnh vực, địa bàn hoạt động khác nhau nhằm chỉ sự liên kết như Cartel (liên hiệp các doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ để kiểm soát giá – nôm na gọi là Hội buôn); Group (Nhóm doanh nghiệp); Consortium (Tổ hợp); hoặc theo cấu trúc vốn, hình thức của nhóm công ty như Stock corporations (Công ty - Công ty cổ phần); General corporations (Tập đoàn công ty cổ phần); hoặc tập đoàn kinh doanh chuyên sâu như tập đoàn dầu khí, tập đoàn Tài chính - ngân hàng, tập đoàn truyền thông; hoặc theo phạm vi hoạt động có thể được gọi là tập đoàn đa quốc gia nếu tập đoàn đó có cơ sở kinh doanh ở các quốc gia khác; hoặc các doanh nghiệp có thể dựa trên cơ sở liên kết kiểu gia đình như dạng Family Business (như của Ford, Cargill, Wall-mart, Motorola,.... ở Châu á, các tập đoàn được gọi là Zaibatsu, Keirestu (Nhật), Chaeblols (TĐ gia đình của Hàn Quốc)...

Tuy có sự khác nhau về thuật ngữ và nội dung chuyển tải như vậy nhưng đa phần các khái niệm được chỉ đến “tập đoàn kinh tế” trên thế giới thì đều được hiểu là một cơ cấu hoặc một tổ hợp các doanh nghiệp có quan hệ với nhau về vốn, quản trị, công nghệ, quản trị, thương hiệu, thị trường, phân phối lợi ích...nhưng trên cơ sở là một một thực thể trong “Tập đoàn” là một thực thể pháp lý độc lập và hoàn toàn có tư cách pháp nhân riêng biệt. Mối qua hệ này chủ yếu dựa trên nhiều yếu tố khác nhau nhưng trên ba nền tảng của quan hệ là:

(i) Sở hữu vốn của Công ty mẹ đối với Công ty con, Công ty cháu hoặc sở hữu vốn của các công ty với nhau trong cùng tập đoàn theo các mức độ khác nhau, có thể là như kiểm soát, chi phối hoặc góp vốn đầu tư đơn thuần

(ii) Quản trị của Công ty mẹ đối với các Công ty con thông qua việc cử người đại diện phần vốn góp và xây dựng hệ quản trị chung cho cả tập đoàn, theo đó các công ty trong tập đoàn (dù bị chi phối/không chi phối về vốn) cam kết chấp thuận hệ quản trị tập đoàn và tuân thủ theo hệ quản trị tập đoàn để xây dựng giá trị cốt nõi, mục tiêu dài hạn và sứ mệnh của cả tập đoàn

(iii) Quan hệ về thương hiệu thể hiện khá rõ nét khi các công ty trong tập đoàn sử dụng được phép sử dụng chung thương hiệu của Công ty mẹ, thương hiệu tập đoàn để. Do đó, quyết định của Công ty mẹ đối với các công ty trong tập đoàn (thường ám chỉ chung là quyết định của tập đoàn) không chỉ đơn thuần dựa vào “lá phiếu” biểu quyết mà còn thông qua các hình thức khác như Bộ Nguyên tắc quản trị tập đoàn, các kế hoạch, định hướng, sứ mệnh, giá trị cốt nõi và các quy định nội bộ khác của tập đoàn bao quát toàn bộ cấu trúc hoạt động chung của cả tập đoàn.

2.Sự ra đời của tập đoàn kinh tế

Page 5: Tieu luan luat kinh te

Quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế trên thế giới có những nét khác biệt nhau, tuy nhiên về bản chất phát triển chung của các tập đoàn thì đều cho thấy các tập đoàn thường là kết hợp giữa phát triển nội sinh (tự phát triển) và phát triển ngoại sinh thông qua việc tập trung kinh tế như sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp khác) hoặc liên kết kinh tế (liên doanh, liên kết với doanh nghiệp khác - M&A) nhằm tích tụ vốn, nâng cao vị thế, tăng cường khả năng cạnh tranh và tạo ra nhiều lợi ích nhất.

Quá trình phát triển nội sinh của các Tập đoàn kinh tế diễn ra đồng thời với quá trình tích luỹ kinh tế từ cuối thế kỷ 19, hơn nữa, với sự phát triển vượt bậc về công nghệ thông tin, kỹ năng quản trị, hạ tầng cơ sở, thị trường .. đã làm cho việc phát triển của các doanh nghiệp nói chung đã vượt ra khỏi địa bàn và ra khỏi biên giới lãnh thổ, theo đó phải có sự tích hợp sức mạnh để cạnh tranh và tồn tại trong môi trường kinh doanh với nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ. Quá trình phát triển nội sinh của các tập đoàn kinh tế dẫn đến sự ra đời của các cơ sở, đơn vị, chi nhánh trực thuộc, nhưng sự phát triển ngày càng lớn dẫn đến công tác kiểm soát gặp rất nhiều khó khăn, do đó việc tách các cơ sở, đơn vị, chi nhánh ra khỏi Công ty mẹ thành các Công ty con, công ty trực thuộc là điều tất yếu. Đó chính là cơ sở cho mô hình Tập đoàn kinh tế ra đời.

Bên cạnh quá trình phát triển nội sinh, quá trình phát triển ngoại sinh cũng là lẽ tất yếu với việc thâu tóm, sáp nhập, hợp nhất (M&A) các công ty, cơ sở kinh doanh khác để tiếp cận thống lĩnh thị trường, tiếp cận công nghệ, kỹ thuật, mở rộng và nhân sức mạnh... Các chiến lược M&A của doanh nghiệp với các tôn chỉ, tiêu chí khác nhau nhưng cùng với một mục tiêu cao nhất là phát triển doanh nghiệp. Hàng năm, Thomsons đã thống kê hàng ngàn vụ M&A lớn nhỏ trên thế giới và đa phần là của các tập đoàn kinh tế với giá trị lên đến nhiều nghìn tỷ USD, điều này cho thấy nhu cầu phát triển, tái cấu trúc thường xuyên để phù hợp với tình hình thị trường là việc làm thường xuyên của các Tập đoàn kinh doanh. Mặt khác, việc phát triển này dẫn đến quá trình tập trung kinh tế, độc chiếm thị trường, do đó nhà nước cũng đã phải kiểm soát với hàng loạt các đạo luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, chống độc quyền thâu tóm thị trường.

3.Đặc điểm của tập đoàn kinh tế

3.1 Các tập đoàn kinh tế thường có quy mô lớn về vốn, doanh thu và phạm vi hoạt động.

Sự liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau trong một tập đoàn luôn luôn nhằm mục tiêu quan trọng nhất là giải quyết những khó khăn về vốn phục vụ kinh doanh. Vì vậy, khi đã hình thành tập đoàn, các doanh nghiệp thành viên phát triển nhanh hơn, tài sản có quyền sở hữu cũng tăng lên khá nhanh, từ đó, tổng tài sản trong toàn tập đoàn cũng khá lớn.Các tập đoàn kinh tế trên thế giới thường chiếm phần lớn thị phần trong những mặt hàng chủ đạo của tập đoàn đó và vì vậy có doanh thu rất cao.

Về lao động, các tập đoàn thường thu hút một số lượng rất lớn lao động ở chính quốc và ở các quốc gia khác. Ví dụ, tập đoàn Air France (Pháp) bao gồm 16 công ty con với 45.000 lao động; tập đoàn Danone (Pháp) chuyên sản xuất sữa tươi, bánh bích quy, thực phẩm, nước khoáng, bia, có 81.000 nhân viên và tập đoàn Fiat (Italia) có 242.300 nhân viên...Phần lớn các tập đoàn mạnh trên thế giới hiện nay là tập đoàn đa quốc gia, tức là có các chi nhánh, công ty con ở nhiều nước trên thế giới. Chẳng hạn, tập đoàn HENKEL (Đức) có 330 chi

Page 6: Tieu luan luat kinh te

nhánh, công ty con ở nước ngoài. Tương tự, số chi nhánh, công ty con ở nước ngoài của tập đoàn Simens (Đức) là 300; tập đoàn Roche (Thụy Sĩ): 140, tập đoàn Tractebel (Bỉ): 100, tập đoàn Unilever (Anh): 90...

3.2 Các tập đoàn kinh tế đã và đang hoạt động trên thế giới hiện nay đều là những tập đoàn đa ngành, tức là hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực.

Hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực là xu hướng có tính quy luật cùng với sự phát triển của các tập đoàn kinh tế. Ví dụ, Mitsubishi ban đầu chỉ hoạt động trong lĩnh vực cơ khí chế tạo nhưng đến nay đã hoạt động trong các lĩnh vực: khai khoáng, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất, ngân hàng, bảo hiểm, ngoại thương, vận tải... Tập đoàn Petronas (Malaysia) trước hoạt động chủ yếu trong ngành dầu khí nhưng hiện nay đã hoạt động trong các lĩnh vực: thăm dò, khai thác dầu khí, lọc dầu, hóa dầu, kinh doanh thương mại các sản phẩm dầu khí, hàng hải, kinh doanh bất động sản, siêu thị và giải trí...

Với sự kết hợp ngày càng chặt chẽ giữa các lĩnh vực có liên quan trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sự liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học và sản xuất, hiện nay, các công ty tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và các viện nghiên cứu ứng dụng về khoa học, công nghệ tham gia vào các tập đoàn kinh tế ngày càng nhiều.

3.3 Sự đa dạng về cơ cấu tổ chức và sở hữu vốn.

Về cơ cấu tổ chức, cho đến nay, chưa có một văn bản pháp lý của một quốc gia nào quy định một cơ cấu tổ chức thống nhất cho tập đoàn kinh tế. Bởi lẽ, các tập đoàn kinh tế được hình thành dần dần trong quá trình phát triển; hai hoặc một số doanh nghiệp hình thành một tập đoàn theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương.

Vấn đề quan trọng nhất cần nhấn mạnh: Tập đoàn không phải là một doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân độc lập. Do đó, các mệnh lệnh hành chính không được sử dụng trong điều hành các tập đoàn. Các doanh nghiệp là thành viên của tập đoàn đều có pháp nhân độc lập, có cơ quan quyền lực cao nhất như hội đồng thành viên (với công ty TNHH), đại hội cổ đông (với công ty cổ phần). Theo thỏa thuận giữa các thành viên của tập đoàn, chủ tịch hội đồng thành viên, hội đồng quản trị các công ty trong tập đoàn tập hợp lại thành hội đồng chủ tịch tập đoàn. Hội đồng chủ tịch bầu ra chủ tịch tập đoàn. Hội đồng chủ tịch không thực hiện chức năng điều hành cụ thể đối với quá trình sản xuất, kinh doanh và tổ chức của các công ty thành viên, do đó, không có chức danh tổng giám đốc tập đoàn.

Sở hữu vốn trong các tập đoàn kinh tế cũng rất đa dạng. Trước hết, vốn trong tập đoàn là do các công ty thành viên làm chủ sở hữu, bao gồm cả vốn tư nhân và vốn nhà nước. Quyền sở hữu vốn trong tập đoàn cũng tùy thuộc vào mức độ phụ thuộc của các công ty thành viên vào công ty mẹ và thông thường ở hai cấp độ:

Cấp độ thấp hay còn gọi là liên kết mềm, vốn của công ty "mẹ", công ty"con", công ty "cháu"... là của từng công ty.

Cấp độ cao hay còn gọi là liên kết cứng là công ty "mẹ" tham gia đầu tư vào các công ty con, biến các công ty "con", công ty "cháu" thành công ty TNHH một thành viên do công ty "mẹ" làm chủ sở hữu hoặc công ty "mẹ" chiếm trên 50% vốn điều lệ (với công ty TNHH), giữ cổ phần chi phối (với công ty "con","cháu" là công ty cổ phần). Trên thực tế, không một tập đoàn kinh tế nào chỉ có quan hệ về sở hữu vốn theo một cấp độ mà đan xen cả hai cấp độ tùy

Page 7: Tieu luan luat kinh te

theo từng trường hợp trong quan hệ giữa công ty "mẹ" và công ty "con", "cháu".

4.Vai trò của tập đoàn kinh tế

Trước hết, ta có thể khẳng định tập đoàn kinh tế có vai trò hết sức to lớn đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, đặc biệt là những quốc gia phát triển, có thể coi tập đoàn kinh tế là trái tim của nền kinh tế. Dưới đây là một số vai trò quan trọng:

Thứ nhất, tập đoàn kinh tế cho phép huy động được các nguồn lực vật chất, lao động và vốn trong xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sự hỗ trợ trong việc cải tổ cơ cấu sản xuất, hình thành những công ty hiện đại, quy mô có tiềm lực kinh tế lớn. Việc hình thành tập đoàn kinh tế cho phép phát huy lợi thế kinh tế có quy mô lớn, khai thác triệt để thương hiệu, hệ thống dịch vụ đầu vào, đầu ra và dịch vụ chung của cả tập đoàn. Việc hình thành tập đoàn kinh tế còn có ý nghĩa tăng cường hiệu quả quản lý, sử dụng lợi thế về quy mô và kết hợp các ưu thế của sự chuyên môn hoá với hoạt động kinh doanh đa dạng và tách bạch được quản lý hành chính và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp của tập đoàn. Bởi vì hầu hết các tập đoàn đều có các bộ phận nghiên cứu thống nhất, bộ phận thực hiện chức năng mà một doanh nghiệp riêng lẻ khó có thể đảm đương nổi như thu thập thông tin, dự đoán thị trường, nghiên cứu kỹ thuật tiên tiến, dự báo xuất khẩu các doanh nghiệp cùng nghành.

Thứ hai, tập đoàn kinh tế góp phần mở rộng phân công lao động quốc tế và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh quá trình phát triển. Trong chiến lược kinh doanh các tập đoàn kinh tế tìm mọi biện pháp để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trước hết là triệt để khai thác các lợi thế so sánh quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tập đoàn kinh tế tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa các công ty tạo điều kiện thuận lợi trong việc thống nhất phương hướng, chiến lược trong phát triển kinh doanh, tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của từng công ty thành viên. Bên cạnh việc đi đầu trong quá trình cạnh tranh khốc liệt với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế cũng đi đầu trong việc hợp tác, phân công chuyên môn hoá với các đối tác trong và ngoài nước nhằm tận dụng những ưu thế của nhau, giảm thiểu các chi phí và tăng thêm lợi nhuận. Chính các tập đoàn kinh tế là lực lượng tiên phong trong việc mở rộng phạm vi kinh tế quốc tế, là tác nhân chủ yếu thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế.

Thứ ba, tập đoàn kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với các nước mới công nghiệp hoá. Nó bảo vệ nền sản xuất trong nước, cạnh tranh với các công ty đa quốc gia , tập đoàn kinh tế lớn của các nước khác. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể thâm nhập vào thị trường quốc tế kể cả thị trường các nước phát triển.

Page 8: Tieu luan luat kinh te

Thứ tư, việc hình thành nên các tập đoàn kinh tế sẽ khắc phục được tình trạng hạn chế về vốn của các công ty riêng lẻ. Trong tập đoàn kinh tế nguồn vốn được huy động từ các công ty thành viên và được tập trung đầu tư vào những công ty, những dự án có hiệu quả nhất, những dự án tạo ra được sức mạnh quyết định cho phát triển tập đoàn đáp ứng nhu cầu lợi nhuận tối đa cho công ty thành viên và tập đoàn. Việc lưu thông vốn từ công ty này đến công ty khác giúp cho các công ty có mối liên kết chặt chẽ hơn, quan tâm đến hiệu quả hơn và giúp nhau phát huy có hiệu quả nguồn vốn của công ty và của cả tập đoàn.

Thứ năm, tập đoàn kinh tế có vai trò to lớn trong việc đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của các công ty thành viên. Khi các công ty liên kết lại với nhau sẽ tận dụng được các lợi thế của các thành viên và áp dụng được cho bản thân công ty mình. Sự hợp tác nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong tập đoàn kinh tế còn cho phép các công ty thành viên có khả năng đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào thực tiễn trên một quy mô rộng lớn hơn nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu và ứng dụng và thu hồi vốn nhanh. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ hiện nay. Bên cạnh đó tập đoàn kinh tế cũng có ý nghĩa rất lớn trong việc cung cấp, trao đổi thông tin và những kinh nghiệm quan trọng trong tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ giữa các công ty thành viên.

Thứ sáu, tập đoàn kinh tế là công cụ điều tiết kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Ở nhiều quốc gia việc xây dựng các tập đoàn kinh tế được coi là một chiến lược nhằm nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển khác như Hàn Quốc, Trung Quốc…Các nước này đã dựa trên sự phát triển của các tập đoàn kinh tế là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và biến đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu. Họ hướng các tập đoàn kinh tế vào ngành, lĩnh vực then chốt và nền tảng làm nòng cốt và có đủ tiềm lực để mở cửa vươn thế lực ra bên ngoài.

II.TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM VIỆT NAM

1.Con đường hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam những năm gần đây

Trong vài năm gần đây, các đơn vị tham mưu hoạch định chính sách thuộc Bộ Kế hoạch

và Đầu tư đang còn trăn trở về việc thiết lập khung khổ pháp lý riêng cho hoạt động của các

Tập đoàn kinh tế . Một số doanh nghiệp tư nhân nêu kiến nghị nhà nước cần có qui định pháp

lý công nhận các Tập đoàn kinh tế để phân biệt với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khối doanh

Page 9: Tieu luan luat kinh te

nghiệp nhà nước thì mong muốn có những quyết định chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành

cấp Tổng công ty hay chuyển đổi những Tổng công ty nhà nước mạnh thành Tập đoàn kinh tế.

Một số Bộ ngành và các địa phương chủ động kiến nghị với Chính phủ thành lập các Tập đoàn

kinh tế nhà nước trên cơ sở hợp nhất, sát nhập các doanh nghiệp nhà nước hay các doanh

nghiệp có cổ phần chi phối để hình thành nên Tập đoàn kinh tế.

Tuy nhiên để thực sự có những tập đoàn kinh tế mạnh, mạnh ở đây xét về năng lực Quản

Trị Doanh Nghiệp, xét về hiệu quả kinh doanh vốn, xét về tốc độ phát triển doanh nghiệp thì

không có nhiều doanh nghiệp xứng đáng với danh hiệu Tập đoàn.

Để tìm hiểu kỹ về Tập đoàn, từ đó có những giải pháp phát triển đúng, điều tiên quyết

là cần phải tìm hiểu kỹ về con đường phát triển các Tập đoàn kinh tế ;

1.1 Phát triển Tập đoàn từ kinh doanh độc quyền :

Các Tập đoàn kinh tế nhà nước đang giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế như Viễn

thông, Xăng dầu, Dầu khí, Điện lực, khai thác than và khoáng sản….đều được hình thành và

phát triển từ sự kinh doanh độc quyền những sản phẩm thiết yếu.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế cộng với các chính sách đổi mới kinh tế của

Chính phủ, vị thế độc quyền của những tập đoàn này đang từng bước được giảm dần. Nhiều

đơn vị thành viên của những tập đoàn này đã và đang được cổ phần hóa mang lại hiệu quả kinh

doanh cao hơn trước.

Tuy nhiên công tác Quản Trị Doanh Nghiệp tại các Tập đoàn này (công ty mẹ ) chưa có

nhiều thay đổi :

Tốc độ đổi mới quản trị doanh nghiệp là rất chậm so với các công ty con đã được cổ

phần hóa và đã niêm yết trên thị trường chứng khoán ;

Quản trị doanh nghiệp tại các Tập đoàn chưa được công khai minh bạch như các công ty

con đang niêm yết. Vào trang Web của các Tập đoàn, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy

thông tin về tình hình tài chính và tình hình hoạt động là hết sức nghèo nàn, khó tìm

thấy 1 báo cáo tài chính của các Tập đoàn.

Hiệu quả kinh doanh của các Tập đoàn kinh tế nhà nước là rất thấp nếu xét về tỷ suất

lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu hay tốc độ tăng trưởng vốn của các Tập đoàn trong những

năm gần đây là rất chậm.

Các Tập đoàn kinh tế nhà nước chưa hoạch định được chiến lược phát triển :

Mô hình sở hữu của Tập đoàn sẽ ra sao ? Rất ít tập đoàn kinh tế nhà nước được cổ phần

hóa so với kế hoạch đã đề ra ?

Kinh doanh đa ngành hay đơn ngành ?

Tình hình cải tổ các đơn vị thành viên chưa rõ ràng ?

Page 10: Tieu luan luat kinh te

1.2 Tham vọng phát triển tập đoàn nhà nước nhờ chính sách bảo hộ và bằng vốn vay :

Chính phủ đã có chủ trương bảo hộ cho 1 số ngành công nghiệp trong nước phát triển,

trong đó có 1 số Tập đoàn nhà nước được hưởng chính sách này. Đây là 1 chủ trương đúng và

phù hợp với thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên đã có tình trạng 1 vài Tập đoàn kinh tế nhà nước có tham vọng trở thành 1

Tập đoàn đa ngành nhưng không phải bằng con đường cổ phần hóa và niêm yết trên TTCK mà

bằng vốn vay : Thành lập nhiều doanh nghiệp, cấp vốn cho nhiều doanh nghiệp để thực hiện

các dự án lớn nhưng nguồn vốn đầu tư chủ yếu hình thành từ vốn đi vay. Con đường phát triển

này có nhiều hạn chế :

Không thể thực hiện phát triển đa ngành khi kinh nghiệm quản trị không có, nguồn nhân

lực quản lý kém cộng với việc không có vốn tự có ;

Hiệu quả kinh doanh rất thấp, thậm chí là thua lỗ do nội lực yếu.

Cần phải hạn chế con đường phát triển như trên đồng thời tăng cường tái cấu trúc Tập

đoàn dưới nhiều hình thức khác nhau.

1.3 Cổ phần hóa các Tập đoàn kinh tế lớn và thúc đẩy việc niêm yết trên thị trường chứng

khoán :

Chính phủ đã thành công trong việc cổ phần hóa các Tập đoàn Bảo hiểm, Ngân hàng

thương mại nhà nước :

Đã thực hiện xong việc cổ phần hóa và niêm yết các Tổng công ty Bảo hiểm nhà nước ;

Đã thực hiện việc chuyển đổi và niêm yết 2 ngân hàng thương mại nhà nước là

Vietincombank và Vietcombank ;

Mặc dù tỷ lệ cổ phần nhà nước trong các tập đoàn ngân hàng và bảo hiểm còn nắm đa số ,

công tác quản trị doanh nghiệp còn chưa hoàn thiện so với nhiều doanh nghiệp niêm yết khác,

song đã có những bước tiến lớn trong công tác quản trị doanh nghiệp :

Điều dễ dàng nhận thấy là qui mô vốn tăng lên nhiều so với trước, lợi nhuận tăng cao

hơn nhiều so với trước, thu nhập người lao động tăng cao hơn so với trước và doanh

nghiệp đã có những cơ chế để thay đổi nội lực ;

Ban quản trị doanh nghiệp phải chịu áp lực về hiệu quả kinh doanh nhiều hơn so với

trước kia, đồng thời cũng có nhiều điều kiện khách quan để năng cao quản trị doanh

nghiệp.

Từ việc chuyển đổi các Tập đoàn này, có thể khẳng định rằng con đường phát triển các Tập

đoàn kinh tế nhà nước phải gắn với việc cổ phần hóa và niêm yết chứng khoán, đi kèm với việc

thu hút các đối tác chiến lược trong nước và nước ngoài tham gia vào quá trình cải tổ.

Page 11: Tieu luan luat kinh te

1.4 Sự hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh tế tư nhân, các tập đoàn kinh tế đa sở

hữu :

Đối tượng của nhóm này không phải là các Tập đoàn kinh tế phát triển nhờ sự độc quyền

kinh doanh hay ở vị thế độc quyền kinh doanh ;

Nhìn chung sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ lên doanh nghiệp lớn chủ yếu nhờ tiến

trình cổ phần hóa và tăng vốn điều lệ :

Các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa phát triển đi lên nhờ thay đổi cơ chế, nhờ quản

trị kinh doanh tốt ;

Các doanh nghiệp tư nhân từ quy mô nhỏ và vừa lên quy mô lớn cũng chủ yếu từ nền

tảng quản trị doanh nghiệp tốt cộng với chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp tư nhân

thành công ty đại chúng ;

Tuy nhiên các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển đi lên thành các doanh nghiệp lớn và

thành các Tập đoàn chủ yếu dựa vào chủ trương niêm yết trên thị trường chứng khoán :

Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng tốc độ huy động vốn cổ phần để đạt được thặng

dư vốn cổ phần là cao hơn nhiều so với tốc độ tích lũy lợi nhuận qua từng năm.

Nhờ việc tăng vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu mới, nhiều doanh nghiệp

niêm yết đã có tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện những dự án đầu tư mở rộng sản

xuất ở quy mô lớn, từ đó tạo ra những khoản lợi nhuận lớn hơn nhiều, thậm chí là đột

biến so với những năm trước đó.

Chỉ cách đây 5 năm thôi, rất ít doanh nghiệp niêm yết có vốn điều lệ trên 100 tỷ đồng, hay

doanh thu 1 năm trên 1000 tỷ, thì nay với những chỉ tiêu này đã có rất nhiều doanh nghiệp

niêm yết đạt được.

Nhiều doanh nghiệp niêm yết đã đạt lợi nhuận hàng năm trên 100 tỷ đồng, đã có một số

doanh nghiệp đạt lợi nhuận hàng năm trên 1000 tỷ đồng.

Có lẽ sự phát triển của các tập đoàn kinh tế này đang làm phong phú cho hàng hóa trên

TTCK, nguồn hàng hóa có chất lượng từ việc cổ phần hóa DNNN sẽ không còn nhiều và đã

đến lúc cần đòi hỏi hàng hóa chất lượng cao niêm yết tại các Sở giao dịch chứng khoán bằng

việc năng tiêu chuẩn niêm yết tại các sàn thay vì biện pháp tăng cung hàng hóa niêm yết mà

không có đòi hỏi cao về tiêu chuẩn niêm yết.

Kết luận : Từ sự phân tích trên để thấy rằng :

a/ Không có khung khổ pháp lý riêng nào qui định cho các Tập đoàn kinh tế , con đường hình

thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước đã có những giải pháp như cổ phần hóa, niêm

yết trên thị trường chứng khoán.

Page 12: Tieu luan luat kinh te

b/ Con đường hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế phải trên cơ sở :

- Thường là công ty cổ phần đại chúng, thực hiện niêm yết trên TTCK ;

- Công tác Quản Trị Doanh Nghiệp phải luôn luôn được hoàn thiện ;

- Phát triển Tập đoàn thường phải dựa vào việc kinh doanh những sản phẩm cốt lõi, khó có thể

phát triển tập đoàn một cách bền vững bằng phương thức phát triển đa ngành ;

- Tốc độ phát triển doanh nghiệp phải phù hợp với tốc độ phát triển năng lực quản trị doanh

nghiệp .

2.Một số thành tựu đạt được.

Việc hình thành tập đoàn kinh tế còn có ý nghĩa tăng cường hiệu quả quản lý, sử dụng lợi thế về quy mô và kết hợp các ưu thế chuyên môn hóa với hoạt động kinh doanh đa dạng; tách quản lý hành chính và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp của tập đoàn. Các tập đoàn kinh tế còn là công cụ giúp điều tiết nền kinh tế; là chiến lược để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển khác; là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và biến đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu.

Đến nay, cả nước có 8 tập đoàn kinh tế nhà nước: Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT); Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV); Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN); Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin); Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex); Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG); Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm (Bảo Việt).

Các tập đoàn kinh tế đã nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, quy mô vốn liên tục tăng và là một trong những khu vực dẫn đầu trong nộp ngân sách Nhà nước; là công cụ điều tiết vĩ mô hiệu quả của Nhà nước. Vai trò trụ cột trong nền kinh tế, công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước của tập đoàn kinh tế được thể hiện khá rõ trong thời gian qua, như:

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam giữ bình ổn giá cả các mặt hàng thiết yếu như phân đạm, khí hóa lỏng, điện. Với nguồn thu chiếm 25% đến 30% ngân sách, việc chi phối ngành dầu khí đã góp phần quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam cung cấp trên 97% tổng lượng than tiêu thụ trong nước, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng. Mặc dù, giá bán than trong nước còn thấp hơn giá thành sản xuất nhưng Tập đoàn vẫn nghiêm túc chấp hành chỉ đạo của Chính phủ, chưa tăng giá bán một số ngành hàng quan trọng để góp phần ổn định kinh tế vĩ mộ, kiềm chế lạm phát.

Tập đoàn Điện lực cung cấp cho nền kinh tế 94% sản lượng với hệ thống phân phối tới 100% các huyện trên toàn quốc; thực hiện bù lỗ cho điện nông thôn mỗi năm 5000 tỷ đồng.

Tập đoàn Dệt may là đơn vị trọng yếu trong ngành dệt may, với 18% doanh thu xuất

Page 13: Tieu luan luat kinh te

khẩu toàn ngành, trong đó có nhiều loại mặt hàng chiếm tỷ trọng cao như: sợi, vải chiếm trên 30%, bông chiếm trên 90%. Đặc biệt, tỷ trọng những mặt hàng cao cấp của dệt may Việt Nam chủ yếu do Tập đoàn Dệt may nắm giữ.

Bên cạnh đó, quy mô và khả năng tích tụ vốn của các tập đoàn kinh tế ngày càng tăng. Doanh thu Tập đoàn Dầu khí Việt Nam trong năm 2006 đạt 180.188 tỷ đồng, tăng 17,5% so với năm 2005, chiếm 18% GDP cả nước, nộp nhân sách Nhà nước 80.060 tỷ đồng; năm 2008, doanh thu đạt 280, 05 nghìn tỷ đồng, tăng 31,2% so với năm 2007.

Cùng với sự phát triển của các tập đoàn kinh tế Nhà nước, nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân đã được hình thành và phát triển, trở thành đầu tàu kinh tế trong một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, như: Tập đoàn Kinh tế - Công nghệ FFPT, Đồng Tâm, Kinh Đô, Hòa Phát, Hoàng Anh, Trung Nguyên…

3.Một số vấn đề còn tồn tại

Trong quá trình thành lập, các tập đoàn kinh tế Nhà nước còn lúng túng trong giải quyết các vấn đề khi xây dựng đề án. Đó là, mối quan hệ và liên kết giữa các đơn vị trong tập đoàn, cơ chế thực hiện liên kết, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý (thành phần, quyền, trách nhiệm và mối quan hệ giữa các bộ phận quản lý trong bộ máy của tập đoàn), thương hiệu của tập đoàn, quy mô, vốn điều lệ và các vấn đề khác để xác lập tập đoàn.

Mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình hình thành và phát triển. Khó khăn nhất đối với các tập đoàn kinh tế tư nhân non trẻ là chưa được pháp luật thừa nhận một cách đầy đủ. Các tập đoàn vẫn phải mang một cái tên không “chính danh” như “Công ty cổ phần tập đoàn” hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn tập đoàn. Luật doanh nghiệp (năm2005) vẫn chưa tạo hành lang pháp lý cho việc hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân. Hiện tại, các tập đoàn kinh tế vẫn được xếp chung với các nhóm công ty.

4.Một số giải pháp đẩy mạnh và hoàn thiện tập đoàn kinh tế ở Việt Nam

Để góp phần phát triển các TĐKT mang lại những hiệu quả thiết thực và phù hợp với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, tác giả cho rằng cần phải lưu ý tới một số vấn đề mang tính định hướng sau đây:Trước hết, cần khẳng định rằng việc Chính phủ ra các quyết định thành lập các TĐKT trong thời gian qua là hết sức cần thiết nhằm thúc đẩy phát triển các TĐKT thuộc các ngành và lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.

Tuy nhiên, cần phải có một khoảng thời gian nhất định để đánh giá về những kết quả đã đạt được lẫn những tồn tại, yếu kém trong hoạt động của các TĐKT này nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm và tìm ra được một hướng đi phù hợp cho các TĐKT nói chung và các TĐKT thuộc sở hữu của Nhà nước nói riêng.

Đẩy mạnh quá trình hình thành các TĐKT là cần thiết nhưng không nên nóng vội và tránh hiện tượng “mốt” thành lập TĐKT. Về lâu dài, việc hình thành các TĐKT cần tuân thủ

Page 14: Tieu luan luat kinh te

nguyên tắc tự nguyện, tự chủ và nhu cầu nội tại của các doanh nghiệp hơn là ý chí chủ quan của của các cấp quản lý.

Nhà nước chỉ nên đóng vai trò hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi bằng các cơ chế chính sách chứ không nên can thiệp bằng các biện pháp hành chính vào quá trình hình thành các TĐKT như hiện nay 

Việc hình thành các TĐKT là nhằm tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn lực và lợi thế của doanh nghiệp trên cơ sở tận dụng sức mạnh liên kết giữa chúng chứ không phải là nhằm tạo ra một vỏ bọc hào nhoáng, “hoành tráng”. Việc quản trị một TĐKT với quy mô lớn với nhiều mối quan hệ chằng chịt, đan xen là một trong những thách thức đặt ra với các nhà quản trị doanh nghiệp.

Vì vậy, bản thân các nhà quản trị doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị chu đáo về cả mặt kiến thức lẫn bản lĩnh kinh doanh để có thể đảm đương được vai trò của mình trong cuộc bứt phá mới.

Có thể nói một cách ví von rằng việc quản trị điều hành một một công ty giống như việc bơi thuyền trên sông; trong khi việc quản trị, điều hành một TĐKT có thể ví với việc lái một con tàu viễn dương.

Nó đòi hỏi người thuyền trưởng - ngoài sự thông hiểu về kiến thức hàng hải- còn phải có một bản lĩnh vững vàng, sự năng động, nhạy bén và khả năng ứng phó để sẵn sàng đương đầu với các thách thức trong suốt hành trình trên đại dương.

Các TĐKT cần được tự chủ hoàn toàn trong việc quyết định chiến lược sản xuất kinh doanh, tức là được toàn quyền chủ động trong việc xác định các mục tiêu, định hướng và các giải pháp thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu đề ra trong khuôn khổ quy định của pháp luật.

Vì vậy, Nhà nước cần tôn trọng quyền tự chủ đó của các TĐKT và tránh can thiệp quá mức cần thiết vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các TĐKT.

Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có các chính sách linh hoạt và phù hợp với từng thời kỳ nhằm tạo điều kiện cho các TĐKT tư nhân được hình thành và hoạt động trong một sân chơi bình đẳng.

Hơn nữa, Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư đan xen với nhau nhằm phát huy thế mạnh, chia sẻ rủi ro và tăng cường khả năng cạnh tranh của các TĐKT trong nước với các TĐKT nước ngoài trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới;

Theo Luật Doanh nghiệp (mới) có hiệu lực từ 01/7/2006, “TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT” (Điều 149).

Tuy nhiên, cho đến nay, Chính phủ vẫn chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT. Đây cũng là một trong những khó khăn vướng mắc làm cản trở sự ra đời của các TĐKT tư nhân.

Vì vậy, để tạo điều kiện cho các TĐKT ra đời và phát triển, Chính phủ cần gấp rút hoàn thiện các quy định về tổ chức và hoạt động của TĐKT. Như đã nói ở trên, các mối quan hệ sở hữu cũng như hoạt động kinh doanh của các TĐKT là rất đa dạng và phức tạp.

Page 15: Tieu luan luat kinh te

Vì vậy, khi xây dựng các quy định này, chúng ta cần nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế và vận dụng một cách phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam;

Cần tiến hành thực hiện việc đánh giá ban đầu về những kết quả hoạt động của các TĐKT trong thời gian qua nhằm phát hiện những ưu, nhược điểm của mô hình kinh doanh mới này và đúc rút được những bài học kinh nghiệm.

Đồng thời thực hiện nghiên cứu một cách toàn diện về các mô hình TĐKT tiêu biểu trên thế giới để có thể tìm ra một (hoặc một số) mô hình TĐKT phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của nước ta.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển các TĐKT nhằm định hướng và tạo điều kiện thuận lợi cho các TĐKT thuộc mọi thành phần kinh tế hình thành và phát triển;

Xây dựng các chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản trị, điều hành cho các TĐKT. Có thể nói rằng cho đến nay, đào tạo về quản trị điều hành doanh nghiệp nói chung và quản trị TĐKT nói riêng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.

Các chương trình đào tạo của chúng ta vẫn còn mang nặng tính lý thuyết và xem nhẹ phần thực tiễn.

Vì vậy, giải pháp trước mắt là cần thiết lập các chương trình liên kết với nước ngoài trong việc đào tạo đội ngũ nhân sự quản trị, điều hành TĐKT; trong đó, cần coi trọng cả mặt lý thuyết lẫn thực hành nhằm đáp ứng nhu cầu “đi tắt, đón đầu” trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho các TĐKT đã, đang và sẽ hình thành trong tương lai;

Bản thân các TĐKT cần có chiến lược kinh doanh riêng biệt, trong đó xác định rõ mục tiêu, định hướng, lộ trình và các giải pháp phát triển sản xuất, kinh doanh phù hợp với đặc thù của ngành nghề hoạt động trong từng giai đoạn; tập trung đầu tư vào lĩnh vực trọng yếu, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, chạy đua theo kiểu “thấy người ăn khoai vác mai mà chạy” và kiểu làm ăn “bóc ngắn cắn dài”.

Bên cạnh sự quan tâm thỏa đáng của Nhà nước, bản thân các TĐKT cần nhận thức đúng đắn về bản chất về tổ chức và họat động của TĐKT, đồng thời có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt thì mới hy vọng xây dựng được những TĐKT tầm cỡ, đủ khả năng cạnh tranh sòng phẳng với các TĐKT trong khu vực và trên thế giới.

Có như vậy thì các TĐKT mới có thể trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và góp phần đưa nước ta vững bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Tiến Cường, Tập đoàn kinh tế- Lý luận và kinh nghiệm quốc tế ứng dụng vào Việt Nam, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội, 2005

2. Baoli Xu và Minggao Shen (2004), Phát triển tập đoàn doanh nghiệp, Phần 3 trong chính

Page 16: Tieu luan luat kinh te

sách phát triển kinh tế - Kinh nghiệm của Trung Quốc, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội, 2004

3. Cục Tài chính doanh nghiệp, Báo cáo tình hình SXKD của các Tập đoàn kinh tế Nhà nước năm 2006, 2007.

4. TS. Đỗ Đức Minh, Viện nghiên cứu tài chính, Rủi ro tài chính và giải pháp phòng ngừa trong phát triển kinh tế và hội nhập tài chính, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 285