44
TIỂU LUẬN MÔN HỌC NGUYÊN LÝ VÀ LÝ LUẬN PHƯƠNG PHÁP THỂ DỤC THỂ THAO CHUYÊN ĐỀ I: THỂ DỤC TRONG MỤC TIÊU GIÁO DỤC TOÀN DIỆN A. MỞ ĐẦU: Nói đến thể dục thể thao(TDTT) là nói đến sức khoẻ và vẻ đẹp của cơ thể, nói đến sự phát triển con người toàn diện: đức, trí thể, mỹ. Đó chính là giá trị to lớn của Văn hoá thể chất đối với mỗi con người và toàn thể cộng đồng, là mục tiêu trước tiên của sự nghiệp TDTT. Sức khoẻ ở đây là sức khoẻ của cơ bắp, sức khoẻ của thần kinh, sức khoẻ của tinh thần. Đúng như định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới(OMS) về sức khoẻ : “Sức khoẻ không chỉ là không có bệnh tật mà là trạng thái hoàn thiện về tâm sinh lý lành mạnh.” Và cũng đúng như tư tưởng Hồ Chí Minh về thể

TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

TIỂU LUẬN MÔN HỌC

NGUYÊN LÝ VÀ LÝ LUẬN PHƯƠNG PHÁP

THỂ DỤC THỂ THAO

CHUYÊN ĐỀ I:

THỂ DỤC TRONG MỤC TIÊU GIÁO DỤC TOÀN DIỆN

A. MỞ ĐẦU:

Nói đến thể dục thể thao(TDTT) là nói đến sức khoẻ và vẻ đẹp của

cơ thể, nói đến sự phát triển con người toàn diện: đức, trí thể, mỹ. Đó chính

là giá trị to lớn của Văn hoá thể chất đối với mỗi con người và toàn thể

cộng đồng, là mục tiêu trước tiên của sự nghiệp TDTT. Sức khoẻ ở đây là

sức khoẻ của cơ bắp, sức khoẻ của thần kinh, sức khoẻ của tinh thần. Đúng

như định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới(OMS) về sức khoẻ : “Sức khoẻ

không chỉ là không có bệnh tật mà là trạng thái hoàn thiện về tâm sinh lý

lành mạnh.” Và cũng đúng như tư tưởng Hồ Chí Minh về thể dục thể thao

trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục: “…. ” vào tháng 3/1946.

TDTT là một trong những biện pháp quan trọng để phát triển con

người toàn diện, để củng cố và nâng cao sức khoẻ, kéo dài tuổi thọ và nâng

cao chất lượng cuộc sống của con người.

Ai cũng muốn có sức khoẻ, muốn có vóc dáng khoẻ đẹp, cường

tráng, cân đối, có thể chất phát triển nhanh-mạnh-bền-khéo léo, có tinh thần

khoẻ mạnh, lạc quan, yêu đời, một trí tuệ khoẻ mạnh trong một cơ thể khoẻ

mạnh….Tất cả những cái đó sẽ có được nếu thường xuyên tập luyện thể

Page 2: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

dục thể thao. Trong thư Bác Hồ gửi Hội nghị cán bộ thể dục thể thao toàn

miền Bắc vào ngày 31/3/1960 “Muốn lao động sản xuất tốt, công tác và

học tập tốt, thì cần có sức khoẻ. Muốn có sức khoẻ thì nên thường xuyên

luyện tập thể dục thể thao.”

Tuổi trẻ - sức khoẻ - vẻ đẹp - thể thao - niềm vui – năng suất lao

động - hiệu quả kinh tế ; Đó là những tiếng luôn vang lên trong cuộc sống

của thanh niên hôm nay. Như một nhà thơ Cu Ba đã viết “Ôi thể thao,

người là bài ca về sắc đẹp, là bản nhạc của những bông hoa, là lứa tuổi

thanh xuân vĩnh cửu”.

B.NỘI DUNG:

Trước tiên ta đi tìm hiểu một số khái niệm cơ bản của Thể dục thể thao:

1.Thể dục: Theo cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì:

-Thể là cơ thể, còn dục là giáo dục.

Như vậy Thể dục là giáo dục cơ thể, tức là giáo dục thể chất

Nếu theo quan điểm của Lý luận TDTT, thì Giáo dục thể chất là một

quá trình giáo dục nhằm hoàn thiện về mặt thể chất và chức năng của cơ

thể con người, hình thành và củng cố những kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ

bản quan trọng trong đời sống, cùng hiểu biết có liên quan, phát triển các tố

chất thể lực, tăng cường sức khoẻ.

Thể chất là chất lượng cơ thể.

Thể chất bao gồm: - Thể hình (hình thái)

- Năng lực thể chất.

- Năng lực thích ứng.

+ Thể hình: Bao gồm các thông số bên ngoài như chiều cao, cân

nặng, hình thái, cấu trúc cơ thể…(có hơn 100 số đo).

+Năng lực thể chất: Thông qua hoạt động thể dục thể thao giúp cho

hệ thống các cơ quan cơ thể như hệ tuần hoàn, hô hấp…phát triển, đồng

Page 3: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

thời hình thành và phát triển các tố chất thể lực: sức nhanh, sức mạnh, sức

bền, và khéo léo, khả năng phối hợp vận động và giúp cho các hệ thống cơ

quan vận động : đi, chạy, nhảy, leo, trèo, mang vát… được phát triển.

+Năng lực thích ứng: Thích nghi với môi trường, thiên nhiên … để

chống lại những nhân tố tiêu cực của thiên nhiên, môi trường.

2. Phát triển thể chất: Là một quá trình hình thành và thay đổi hình

thái và chức năng sinh vật của cơ thể con người; quá trình đó xảy ra dưới

ảnh hưởng của điều kiện sống, mà đặc biệt là giáo dục.

. Hoàn thiện thể chất: Là cơ thể được phát triển một cách toàn

diện, nhịp nhàng, hài hoà kể cả hình thái và chức năng. Thể lực cường

tráng, có khả năng thích ứng tốt nhất với các điều kiện sản xuất và chiến

đấu. Các phẩm chất trí tuệ và tinh thần phát triển tốt. Thích nghi dễ dàng

với môi trường sống luôn luôn biến động.

4.Sức khoẻ: Theo Tổ chức Y tế thế giới (OMS) thì sức khoẻ không

chỉ là không có bệnh tật mà là trạng thái hoàn thiên về tâm sinh lý lành

mạnh.

Bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho nhân dân là một việc rất quan

trọng và cần thiết gắng liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã

hội, với hạnh phúc của nhân dân. “Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu

của bản thân con người, đồng thời là vốn quí để tạo ra tài sản trí tuệ và vật

chất cho xã hội”đó cũng là quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng, của

Nhà Nước ta từ trước đến nay. Do đó mục đích của thể dục thể thao nước

nhà là:

+ Tăng cường thể chất cho nhân dân.

Page 4: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

+ Nâng cao thành tích thể thao.

+ Góp phần làm phong phú đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân

để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Để đạt được mục đích trên, chúng ta đặt ra những nhiệm vụ của giáo

dục thể dục thể thao:

+ Phát triển cân đối về hình thái và chức năng của cơ thể con người

nhằm hoàn thiện toàn diện những năng lực thể chất, giữ gìn sức khoẻ và

nâng cao tuổi thọ cho nhân dân lao động.

+ Hình thành những kỹ năng, kỹ xảo vận động chủ yếu của con

ngươì trong cuộc sống cùng hiểu biết chuyên môn.

+ Giáo dục phẩm chất đạo đức, ý chí, thẩm mỹ và trí lực.

+ Phát hiện nhân tài để đào tạo vận động viên cấp cao.

Để thực hiện thành công các nhiệm vụ nêu trên nhằm đạt được mục

đích TDTT đưa ra, phục vụ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, cũng là

quan điểm của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện trong nhiều Nghị quyết,

Chỉ thị trong mỗi bước ngoặt của cách mạng để hướng dẫn, tổ chức các

hoạt động TDTT cho phù hợp:

Chỉ thị 180/CT-TW ngày 26/8/ 1970 nêu rõ “…việc khắc phục và

tăng cường sức khoẻ cho nhân dân lao động nhằm phục vụ kinh tế và quốc

phòng trở thành một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng và Nhà

nước ta….Việc bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của con người là một bộ

phận quan trọng trong việc xây dựng con người XHCN toàn diện, TDTT là

một biện pháp tích cực để bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của con người,

chúng ta cần phải ra sức phát triển công tác TDTT, đưa phong trào TDTT

tiến lên mạnh mẽ, vững chắc…”

Page 5: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Khi đất nước hoàn toàn giải phóng , cách mạng Việt Nam đã chuyển

sang giai đoạn mới, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 227/CT-TW

ngày 18/11/1975. Trong Chỉ thị, yêu cầu ngành TDTT: “Phấn đấu vươn

lên, đưa phong trào quần chúng rèn luyện thân thể vào nền nếp, phát triển

công tác TDTT có chất lượng, có tác dụng thiết thực nhằm mục tiêu: khôi

phục và tăng cường sức khoẻ của nhân dân, góp phần xây dựng con người

mới phát triển toàn diện…”

Trước tình hình mới, Đảng ta ra chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/3/1994

nhấn mạnh: “Sự nghiệp TDTT cần được phát triển đúng hướng theo những

quan điểm sau:

+ Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát

triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.

+ Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học

+ Hình thành hệ thống đào tạo tài năng thể thao quốc gia

+ Kiện toàn hệ thống đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, huấn

luyện viên, giáo viên thể dục thể thao.”

Sinh thời Bác Hồ rất quan tâm đến việc phát triển ngành TDTT, Bác

coi TDTT trong mục tiêu giáo dục toàn diện.

Vào cuối tháng 3/1946 mặc dù đất nước còn rất nhiều khó khăn

nhưng Bác vẫn viết lời kêu gọi toàn dân tập thể dục, đến ngày 26/5/1946

diễn ra hoạt động thể thao, văn hoá sôi nỗi của tuổi trẻ Thủ đô Hà Nội, Bác

đích thân tới dự ngày hội ấy và người châm ngọn lửa phát động phong trào

khoẻ vì nước .

Ngày 18/8/1958 trong cuộc họp của Ban Bí thư Trung ương Đảng

bàn về TDTT, Bác có ý kiến chỉ đạo “Công tác tuyên truyền phải làm nổi

bật tầm quan trọng của TDTT đối với sản xuất và quốc phòng” Bác chỉ rõ

Page 6: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

“dân cường thì nước thịnh”, dân cường là sức khoẻ của nhân dân cả thể

chất lẫn tinh thần .

Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, thì Người xem giáo dục thể chất học

đường trong nền giáo dục phát triển con người toàn diện. Người xác định

giáo dục thể chất là một trong những mặt “làm phát triển hoàn toàn năng

lực sẵn có ” của tuổi trẻ học đường. Nền giáo dục mới Việt Nam bao hàm

các mặt giáo dục như đức, trí, thể, mỹ. Đó là nền giáo dục phát triển con

người toàn diện nhằm “đào tạo các em nên những người công dân hữu ích

cho nước Việt Nam”(Bác Hồ).Nhiều lần người coi giáo dục thể chất như là

tiền đề của các mặt giáo dục khác: đức dục, trí dục, mỹ dục.“Việc giáo dục

trong nhà trường đòi hỏi môn học nào học sinh, sinh viên cũng phải học

tập tốt, kể cả môn giáo dục thể chất” Bác đã từng lưu ý học sinh phải cố

gắng học tốt môn thể dục như những môn học khác.

Coi trọng giáo dục thể chất học đường trong nền giáo dục phát triển

con người toàn diện là tư tưởng định hưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối

với sự nghiệp giáo dục và đào tạo các thế hệ trẻ Việt Nam.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò của giáo dục thể chất ngày càng

có tầm quan trọng đối với thế hệ trẻ, đối với đất nước và nhân dân ta.

Trong nhà trường phổ thông và Cao đẳng, Đại học ở nước ta hiện nay việc

giáo dục thể chất và thể thao được chú trọng hơn trước nhằm tăng cường

đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong công cuộc phát triển đất nước

và tiến trình cải tạo nòi giống Việt Nam. Trong bài phát biểu của ông J.A

Samaranch, Chủ tịch Uỷ ban Olympic Quốc tế, tại khoá họp lần thứ 50 Đại

hội đồng Liên hiệp quốc( Newyork, 6/11/1995) đã nêu lên một quan điểm

đúng “Muốn thay đổi thế giới, người ta phải trước hết đem lại sự thay đổi

cho ngay dân tộc mình, và chắc chắn là trong lĩnh vực này, vai trò của thể

thao như là một triết học sẽ phát huy tác dụng, bằng cách thúc đẩy việc

thực hiện lý tưởng phát triển con người toàn diện”

Page 7: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Xuất phát từ các quan điểm của Đảng, của Tư tưởng Hồ Chí Minh và

cũng là mục đích hành động của ngành TDTT, có thể kết luận rằng: ngay

từ lúc chưa có chính quyền đến khí lãnh đạo toàn dân đánh giặc ngoại xâm

giành được độc lập và thống nhất đất nước và ngày nay đang chuyển sang

thời kỳ phát triển mới- đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Bác Hồ và

Đảng, Nhà nước ta trước sau như một quan tâm đến việc chăm lo sức khoẻ

cho nhân dân, với thể dục trong mục tiêu giáo dục toàn diện :“Sự cường

tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quí

để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội (báo cáo của Ban chấp hành

TW Đảng khoá VII). Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của

toàn xã hội nói chung, của ngành thể dục thể thao nói riêng. Đó cũng chính

là mục đích cơ bản, quan trọng thứ nhất của giáo dục thể dục thể thao ở

nước ta.”

VAI TRÒ CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN THỂ DỤC

Trong thư gửi Hội nghị cán bộ TDTT nước ta vào cuối tháng 3/1960,

Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy “Cán bộ thể dục thể thao phải học tập chính trị,

nghiên cứu nghiệp vụ và hăng hái công tác. Vì đó cũng là một công tác

trong những công tác cách mạng khác”. Trong báo cáo của Ban chấp hành

Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa 7 đã nêu “Giáo dục TDTT

phải là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội

của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người,

làm cho con người phát triển toàn diện.”

Người giáo viên TDTT phải nhận thức đầy đủ tư tưởng chỉ đạo của

Bác và của Đảng để đưa nó được thực thi trong cuộc sống. Muốn vậy phải

phát huy năng lực, vai trò sư phạm của mình trong giảng dạy, huấn luyện.

Page 8: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Người giáo viên TDTT phải biết giáo dục cho học sinh có lý tưởng,

biết tham gia tích cực trong lao động sản xuất, giúp họ lựa chọn con đường

trong cuộc sống và thực hiện nghĩa vụ của người công dân đối với Tổ quốc.

Phải là người nắm vững công việc của mình đang làm, phải biết yêu lao

động, phải biết khắc phục khó khăn, gian khổ để đạt được mục đích đề ra,

phải thật sự gương mẫu, thật sự là tấm gương sáng để học sinh noi theo,

phải có trình độ văn hoá chung, phải có hiểu biết về nghệ thuật, phải biết

cách giáo dục về tình cảm, thị hiếu, quan điểm, thẩm mỹ trong phạm vi

TDTT, bản thân phải là người khoẻ mạnh, biết tập luyện để giữ gìn cơ thể

mình được hài hoà và cân đối, có trình độ điêu luyện về kỹ thuật TDTT.

Trình độ càng cao, tri thức chuyên môn trong lĩnh vực TDTT càng rộng, thì

nhà giáo dục càng có nhiều khả năng giải quyết tốt các nhiệm vụ giáo dục.

Như C.Mác có nói “Nhà giáo dục phải là người được giáo dục”

Với vai trò to lớn như vậy, người giáo viên thể dục thể thao phải

không ngừng học hỏi, rèn luyện nâng cao năng lực sư phạm của mình.

Năng lực sư phạm có 3 nhóm:

- Năng lực dạy học.

- Năng lực giáo dục.

- Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục.

1.Năng lực dạy học:

a.Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục:

Là năng lực xâm nhập vào thế giới bên trong của học sinh, năng lực

này có chỉ số cơ bản nhất của năng lực dạy học. Hiẻu được học sinh, nắm

được tâm sinh lý, nắm được trình độ, đặc điểm cá nhân của học sinh mới

xác định được khối lượng, kiến thức phù hợp với khả năng tiếp thu của họ.

b. Tri thức và tầm hiểu biết của thầy giáo:

Page 9: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Là một trong những năng lực cơ bản, trụ cột của nghề dạy học.

Người giáo viên có tri thức và tầm hiểu biết được thể hiện qua những vấn

đề sau:

- Nắm vững và hiểu biết rộng chuyên môn mình phụ trách.

- Thường xuyên theo dõi những xu hướng, những phát minh khoa

học mới trong chuyên môn mình phụ trách, biết nghiên cứu khoa học và có

hứng thú với nó.

- Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức

của mình.

- Có năng lực biên soạn tài liệu.

- Có óc sáng tạo, truyền đạt kiến thức cho người khác, giúp cho

người khác hiểu được vấn đề mình truyền đạt một cách nhanh chóng.

c. Nắm vững kỹ năng dạy học:

Dạy và học là hai mặt của một quá trình, hoạt động của thầy nhằm

tạo ra hoạt động nhận thức tích cực của trò. Vì giáo viên là người tổ chức,

điều khiển học sinh tích cực hoạt động, người trò tiếp thu một cách tích

cực, chủ động, tự giác lĩnh hội những tri thức mà thầy truyền đạt. Do vậy

nếu người thầy dạy học mang tính nghệ thuật cao thì trò tiếp thu kiến thức

một cách dễ dàng hơn.

Việc nắm vững kỹ thuật dạy học được thể hiện:

- Nắm vững kỹ thuật dạy học mới, tạo cho học sinh ở vị trí người

phát minh trong quá trình dạy học chứ không phải là người thụ động trong

nhận thức kiến thức.

- Thầy giáo truyền đạt tài liệu rõ rang, dễ hiểu làm cho tài liệu trở

nên vừa sức với học sinh.

- Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập

trong việc lĩnh hội kiến thức.

Page 10: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

d. Năng lực ngôn ngữ:

Cần hết sức chú ý đến ngôn ngữ có văn hoá, tác động ngôn ngữ của

người thầy phụ thuộc trực tiếp vào kết cấu hợp lôgic, vào sự thông hiểu văn

học, vào tính chính xác, rõ ràng, mạch lạc, ý nghĩa, tính diễn cảm của ngôn

ngữ và tình cảm của mình bằng lời nói, nếu được có thể diễn đạt bằng cả

nét mặt, điệu bộ…

Năng lực ngôn ngữ là công cụ sống còn đảm bảo cho người giáo

viên thực hiện chức năng dạy học và giáo dục của mình. Ngôn ngữ có sức

truyền cảm mạnh và ấm cúng đầy sức thuyết phục sẽ có sức mạnh truyền

thụ kiến thức và giáo dục rất lớn.

Về nội dung, ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ thông tin lớn, chính

xác, cô đọng, có giá trị; nội dung và hình thức ngôn ngữ phải phù hợp với

nhận thức của học trò.

Nhân cách, phẩm chất của giáo viên là hậu thuẫn vững chắc nhất cho

lời nói của mình, sức mạnh, sự lôi cuốn, lực hấp dẫn, tính điều khiển, tính

thân tình, cởi mở…tuỳ thuộc vào nhân cách và uy tín của giáo viên có ảnh

hưởng rất lớn đối với học sinh.

Hình thức ngôn ngữ phải giản dị, sinh động, giàu hình ảnh, biểu

cảm,phát âm mạch lạc, không sai phạm về từ ngữ hoặc về ngữ pháp, ngữ

âm.

2.Năng lực giáo dục:

a.Năng lực vạch dự án, phát triển nhân cách học sinh:

Trên cơ sở kế hoạch của nhà trường mà mỗi giáo viên phải biết tự

xây dựng cho riêng mình một kế hoạch tổng thể cũng như chi tiết một cách

khoa học, độc lập, sáng tạo, logic… để phục vụ tốt nhất cho công việc của

Page 11: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

mình muốn hướng tới và hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ được

giao.

b.Năng lực giao tiếp:

Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh, giữa giáo viên và giáo viên.

- Thông qua hành vi của mình mà giao tiếp với học sinh mang tính

hài hoà, chân tình, tình cảm…để giúp cho học sinh tiếp thu kiến tức tốt

hơn.

- Năng lực tiếp xúc với đồng nghiệp, với phụ huynh, với các tổ chức

xã hội khác bằng tình cảm, bằng chuyên môn… với sự lôi cuốn thuyết phục

cao giúp họ tin tưởng ở mình.

c.Năng lực cảm hoá học sinh:

Gây ảnh hưởng trực tiếp của mình đến học sinh về mặt tình cảm và ý

chí hay nói cách khác là khả năng làm cho học sinh nghe, tin làm theo mình

bằng tình cảm và bằng niềm tin chứ không phải bằng mệnh lệnh của mình.

Để có năng lực này người giáo viên phải:

- Có tinh thần trách nhiệm với công việc.

- Có niềm tin vào sự nghiệp cũng như khả năng truyền đạt niềm tin

đó cho học sinh.

- Phải luôn luôn tu dưỡng để có nếp sống văn hoá cao, cung cách

mẫu mực nhằm tạo ra uy tín chân chính, biểu hiện từ cử chỉ, lời nói đến

tinh thần lao động hăng say, sáng tạo, ý tưởng nghề nghiệp cao đẹp. Xây

dựng mối quan hệ thầy-trò tốt đẹp vừa nghiêm túc vừa thân mật, có thái độ

yêu thương và tin tưởng lẫn nhau, biết đối xử dân chủ, công bằng chân

thành và giản dị.

d.Năng lực khéo léo ứng xử sư phạm:

Page 12: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

- Tình thương yêu của giáo viên đối với học sinh.

- Sự thống nhất giữa tôn trọng nhân cách và có yêu cầu cao đối với

họ.

-Sự thống nhất giữa niềm tin và sự kiểm tra sư phạm.

Sự nhạy bén của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến học sinh.

3.Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục:

Tổ chức các hoạt động giáo dục là một biện pháp có tầm quan trọng

và có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với học sinh, giữ vững được trật tự, kỹ

luật và động viên được tính tích cực tham gia hoạt động, học tập, tập luyện

của học sinh.

Để có năng lực này người giáo viên phải biết giải thích mục đích,

nhiệm vụ hoạt động, xác định yêu cầu cụ thể và tổ chức cho học sinh hoạt

động thực hiện chúng, theo dõi các hoạt động của học sinh, phân tích đánh

giá kết quả việc thực hiện, điều chỉnh các hoạt động, đồng thời phê phán,

uốn nắn một cách tế nhị các hành vi của học sinh, xây dựng mối quan hệ

giữa học sinh với nhau. Hoạt động này của thầy giữ vai trò tổ chức, điều

khiển, định hướng, kiểm tra và kích thích sự hoạt động tích cực của học

sinh.

Như vậy vai trò của người giáo viên thể dục trong giáo dục toàn diện

rất quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp rất lớn đối với học sinh, nên người

giáo thể dục thể thao phải luôn luôn rèn luyện mình về đạo đức, phong

cách, về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm để hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ mình đang đảm trách và thật sự là một tấm gương sáng

để học sinh noi theo.

Page 13: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

CHUYÊN ĐỀ II

ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT

Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG THÌ THẦY GIÁO

CẦN PHẢI LÀM GÌ?

Để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong trường phổ thông,

người giáo viên thể dục, trước hết phải quán triệt các nguyên tắc chung của

thể dục thể thao và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc và phương pháp

giảng dạy thể dục thể thao.

I. nguyên tắc chung của giáo dục thể dục thể thao:

Nguyên tắc chung có tính chất xã hội, tính chiến lược, có tính vĩ mô

chung cho nền TDTT Quốc gia cho một lĩnh vực, làm cơ sở định hướng mà

bắt buộc các ngành nghề khác phải cùng tham gia tuân theo.

Trong giáo dục thể chất, có những nguyên tắc chung nhất chi phối

toàn bộ hoạt động của giáo dục thể chất, có liên quan trực tiếp đến sự thực

hiện mục đích của giáo dục.

Nhóm nguyên tắc chung này gồm 3 nguyên tắc liên quan mật thiết

với nhau, chỉ đạo toàn bộ hoạt động giáo dục cũng như tổ chức của hệ

thống Giáo dục thể chất:

1.Nguyên tắc kết hợp giáo dục thể dục thể thao với thực tiễn lao

động và chiến đấu:

Nguyên tắc này phản ánh tính qui luật xã hội, chức năng thực dụng

cơ bản của TDTT là phục vụ xã hội, là chuẩn bị cho con người đi vào cuộc

sống với trạng thái sung sức và sẵn sàng lao động, sẵn sang chiến đấu với

năng suất và hiệu quả cao nhất. “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.Nội

dung của nguyên tắc này thể hiện qua các yêu cầu sau:

Page 14: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

- Đảm bảo hiệu quả thực dụng của TDTT trong quá trình giáo dục

thể chất.

- Xây dựng các tiền đề rộng rãi cho việc tiếp thu các hình thức hoạt

động kác nhau.

Như vậy, nguyên tắc này nhất thiết phải quán triệt trong khi giải

quyết các nhiệm vụ riêng của giáo dục thể chất, đồng thời đưa những động

tác có ý nghĩa thực dụng trực tiếp vào chương trình huấn luyện, giảng dạy

cho học sinh và nhân dân.

2.Nguyên tắc phát triển con người toàn diện:

Trong lĩnh vực về phương pháp đào tạo con người, C.Mác viết

“Giáo dục trong tương lai sẽ thống nhất lao động sản xuất với giảng dạy

và thể dục, sự thống nhất đó không chỉ là phương pháp nâng cao sản xuất

xã hội, mà còn là phương pháp độc nhất để đào tạo con người phát triển

toàn diện”. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “… Muốn đào tạo con

người mới, con người toàn diện, ngoài các mục tiêu phấn đấu trên, không

còn các mục tiêu nào khác . Đức dục là tư tưởng. Trí dục là hiểu biết về

văn hoá, khoa học, kỹ thuật. Mỹ dục là hiểu biết về cái hay, cái đẹp. Cuối

cùng là thể dục, một mục tiêu không thể thiếu được theo quan điểm giáo

dục của chúng ta, là cơ sở để thiếp thu tốt đức dục, trí dục, mỹ dục”

Trong giáo dục TDTT, do có sự thống nhất về thể chất và tinh thần

trong sự phát triển của con người nên có nhiều khả năng to lớn để thực hiện

các nhiệm vu giáo dục về đức dục, trí dục, và mỹ dục. Việc giải quyết các

nhiệm vụ đó không chỉ mở rộng vai trò của giáo dục TDTT như một nhân

tố để giáo dục con người toàn diện mà còn trực tiếp quyết định kết quả của

chính quá trình giáo dục TDTT.

Ý nghĩa thực tiễn của nguyên tắc này được biểu hiện:

Page 15: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

- Khi giải quyết các nhiệm vụ đặc trưng của TDTT, cần thường

xuyên đảm bảo mối liên hệ chặt chẽ giữa các mặt giáo dục khác: Đức dục,

trí dục, mỹ dục.

- Bảo đảm tính toàn diện của bản thân hoạt động thể dục thể thao,

đảm bảo sự thống nhất giữa chuẩn bị thể lực chung và chuẩn bị thể lực

chuyên môn.

a.Mối liên hệ giữa giáo dục thể dục thể thao và giáo dục đạo

đức:

Giáo dục TDTT và giáo dục đạo đức có mối liên hệ hai chiều do

những quy luật phát triển toàn diện và cân đối của từng cá nhân quyết

định.Cơ sở khoa học của mối liên hệ này là học thuyết về sự thống nhất của

cơ thể, về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa phát triển thể chất và tinh thần của cá

nhân.

Trong giáo dụcTDTT thì những hành vi vận động giữ vai trò đặc biệt

quan trọng để hình thành và hoàn thiện đạo đức cho người tập.Tập luyện

TDTT không những chỉ gây nên những biến đổi sinh lý trong cơ thể mà

còn biến đổi cả quan điểm, niềm tin, tình cảm, tập quán, sở thích và các

mặt khác của người tập.Thường xuyên được hoàn thiện và củng cố, những

phẩm chất đạo đức, lý trí có thể trở thành thói quen của người tập và biểu

hiện không những trong hoạt động thể dục thể thao mà cả trong lao động,

trong cuộc sống hàng ngày.

b.Mối quan hệ giữa giáo dục thể dục thể thao và giáo dục trí dục:

P.F.Letxgap đã viết: “Giữa phát triển trí tuệ và phát triển thể chất có

mối liên quan rõ rệt chặt chẽ….Sự lớn lên và sự phát triển của trí tuệ đòi

hỏi phải có sự phát triển thể chất tương ứng”

Page 16: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Một cơ thể khoẻ mạnh là tiền đề vật chất giúp cho con người phát

triển năng lực hoạt động trí óc của mình. Khoa tâm lý học thể dục thể thao

xác minh rằng: “Việc tập luyện thể dục thể thao, đặc biệt là thể thao được

thực hiện trên cơ sở tư duy trí tuệ rộng rãi”

Quá trình giáo dục, TDTT đảm bảo củng cố sức khoẻ, khả năng vận

động và hoàn thiện thể chất là nguồn sống đối với năng lực hoạt động trí

tuệ, là đảm bảo tuổi thọ sáng tạo của con người.Về phần mình giáo dục trí

tuệ làm phát triển tư duy người tập, đảm bảo cho việc tiếp thu các kinh

nghiệm vận động một cách sáng tạo và có đầu óc, đồng thời tạo điều kiện

hoàn thiện năng lực thể chất của mình một cách hợp lý trong lao động và

thể thao.Trong quá trình giáo dục TDTT, nội dung cơ bản của hoạt động trí

tuệ là việc tiếp thu và mở rộng hàng ngày tri thức chuyên môn, giáo dục kỹ

năng sử dụng hợp lý những tri thức đó vào tập luyện TDTT.

c.Mối quan hệ giữa thể dục thể thao với giáo dục thẩm mỹ:

Giáo dục TDTT vừa củng cố sức khoẻ, phát triển cơ thể con người,

vừa tạo nên tiền đề thuận lợi cho giáo dục thẩm mỹ và mở rộng phạm vi tác

động thẩm mỹ đối với con người. Luyện tập TDTT thường sẽ làm chủ

được cơ thể mình một cách tự nhiên, thoả mái, tác phong nhanh nhẹn, hoạt

bát, tinh thần thoả mái, lạc quan. Nhìn vào người như vậy ta sẽ cảm nhận

được sự trẻ tung, tràn đầy sức sống, yêu đời. Mặt khác, bản thân TDTT

cũng chứa đựng nhiều yếu tố nghệ thuật, như các động tác của các môn thể

thao, thể dục nghệ thuật, nhịp điệu…đặc biệt là thể dục đồng diễn mang

tính nghệ thuật tổng hợp rất cao.

Giáo dục thẩm mỹ vừa nâng cao phong cách tinh thần của vận động

viên và phát triển khát vọng hướng tới cái đẹp thể chất, tới sự thể hiện sáng

tạo trong hoạt động vận động, tới hành vi có thẩm mỹ, vừa nâng cao hiệu

quả giáo TDTT.

Page 17: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

3.Nguyên tắc giữ gìn và nâng cao sức khoẻ:

Trong bất kỳ hoạt động TDTT cũng phải đảm bảo hiệu quả sức khoẻ,

sức khoẻ không chỉ nằm trong quyền sở hữu cá nhân, mà ngày nay được

coi như là tài sản quốc gia, vì nó thúc đẩy quá trình tái sản xuất sức lao

động.Giữ gìn và nâng cao sức khoẻ cho nhân dân không chỉ là của Đảng,

Nhà nước mà còn được Bác Hồ xác định: “Đó là bổn phận của mỗi người

dân yêu nước”

Xuất phát từ nguyên tắc này sẽ nảy sinh hai vấn đề cần lưu ý khi

thực hiện:

+ Trách nhiệm của các tổ chức và các cá nhân trước Đảng, Nhà nước

và nhân dân về việc nâng cao sức khoẻ cho người tập.

+ Sự bắt buộc về kiểm tra Y học và kiểm tra sư phạm.

Do vậy khi lựa chọn các phương tiện của giáo dục thể chất phải xuất

phát từ giá trị nâng cao sức khoẻ như những tiêu chuẩn bắt buộc. Vì các bài

tập TDTT như con dao hai lưỡi, nếu thực hiện đúng, khoa học thì nó sẽ

đem lại sức khoẻ cho người tập, còn ngược lại thì nó có thể làm hại cho sức

khoẻ.

Mặt khác phải đảm bảo tính thường xuyên và thống nhất giữa kiểm

tra Y học và kiểm tra sư phạm. Cần phải tiến hành thường xuyên ảnh

hưởng của luyện tập TDTT với người tập, trách nhiệm đó trước tiên thuộc

về giáo viên, huấn luyện viên… và các thầy thuốc có liên quan. Họ cùng

phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và xã hội, đảm bảo hiệu quả của

TDTT là nâng cao sức khoẻ cho nhân dân.Do đó thực hiện nguyên tắc giữ

gìn và nâng cao sức khoẻ đòi hỏi phải có sự hợp tác sáng tạo, chặt chẽ hàng

ngày giữa những người làm công tác giáo dục TDTT với các bác sĩ chuyên

khoa và ngay cả với bản thân người tập.

Page 18: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Để thực hiện các nguyên tắc trên, Đảng ta có những quan điểm chỉ

đạo cơ bản có tính định hướng ,để xác định vị trí và các mối quan hệ của

toàn bộ sự nghiệp TDTT nước ta trong thời kỳ dài mang tính chiến

lược(đối với đời sống, kinh tế xã hội, các quan hệ nội tại của hoạt động

TDTT, cũng như để xác định nghĩa vụ và giải pháp lớn của công tác

TDTT)

+Quan điểm 1: Trong mối quan hệ với đời sống kinh tế, xã hội thì

phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan, một mặt quan trọng của chính

sách xã hội nhằm chăm lo cho con người, phục vụ đắc lực cho những

nhiệm vụ phát triển đất nước về mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh,

quốc phòng.

Vì TDTT là một phương tiện đặc biệt có ý nghĩa để ngăn chặn sự sa

sút về sức khoẻ, đồng thời cũng là phương tiện duy nhất để phát triển sức

khoẻ, nâng cao thể chất cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước.

+ Quan điểm 2: Bảo đảm tính dân tộc, tính khoa học và tính nhân

dân, kết hợp chặt chẽ phát triển TDTT quần chúng với việc xây dựng lực

lượng vận động viên, nâng cao thành tích các môn thể thao.

-Tính dân tộc: Nội dung và hình thức hoạt động TDTT phải có bản

sắc dân tộc, phù hợp với đạo lý, tập quán, truyền thống….Phát huy các

môn thể thao dân tộc, đồng thời hạn chế và xoá bỏ những cái lạc hậu, có

hại trong tập quán cũ.

-Tính khoa học: Chọn lọc, kế thừa những tinh hoa tri thức của nhân

loại kết hợp với truyền thống dân tộc.

- Tính nhân dân: Phát động rộng rãi nhân dân tham gia tập luyện, rèn

luyện thân thể, mặt khác phải phát huy vai trò chủ động sáng tạo của quần

chúng, TDTT là sự nghiệp của quần chúng.

Page 19: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

-Thể dục thể thao quần chúng kết hợp với TT thành tích cao: Coi đây

là cốt lõi của ngành thể thao nước nhà, phát trển thể thao trường học là cốt

lõi, là đối tượng, là chiến lược của nền thể thao nước nhà.

+Quan điểm 3: Thực hiện xã hội hoáTDTT.

Là quá trình nâng cao tính tự giác tích cực của nhân dân tham gia

vào các hoạt động TDTT, cùng tổ chức quản lý, đóng góp xây dựng vào

các phong trào TDTT, cùng chăm lo có trách nhiệm, đa dạng hoá hoạt

động, chủ động và bình đẳng.

+Quan điểm 4: Kết hợp phát trtiển TDTT trong nước với việc mở

rộng các quan hệ quốc tế về TDTT.

Việc mở rộng quốc tế về TDTT phù hợp với đường lối đối ngoại của

Đảng và Nhà nước ta, mối quan hệ không chỉ hiểu là giữa các nhà nước,

quốc gia mà còn với các tổ chức xã hội như Olympic, các liên đoàn thể

thao.

II. Nguyên tắc giảng dạy thể dục thể thao:

Nguyên tắc giảng dạy TDTT là những phương hướng chung được

đúc kết thành những nguyên lý cơ bản có giá trị chỉ đạo toàn bộ quá trình

giảng dạy và giáo dục, làm cho công tác này một mặt đi đúng mục đích của

giáo dục thể chất, mặt khác lại diễn ra theo đúng quy luật chung của quá

trình nhận thức và các quy luật riêng của quá trình giảng dạy động tác.

1.Nguyên tắc tự giác tích cực:

Là một trong những nguyên tắc về phương pháp, trong đó người tập

tự nhận thức được và có hành động mạnh mẽ, kiên trì để giải quyết thành

công nhiệm vụ đặc ra.Tính tích cực của người học thường được thể hiện

qua hành động hoạt động tự giác, tính tự giác được hiểu là tự ý thức của

bản thân của người học trước nhiệm vụ đặc ra, từ đó người học tập trung

Page 20: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

cao độ sinh lực và ý chí để khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ đặc ra

với sự thông minh và sáng tạo.

Để thực hiện nguyên tắc này thì phải xây dựng tính tự giác, tích cực

cho học sinh, bằng cách giải quyết ba vấn đề sau:

a.Giáo dục tính tự giác và hứng thú bền vững đối với mục đích buổi

tập chung cũng như đối với nhiệm vụ cụ thể của từng buổi tập:

Tiền đề của thái độ tự giác là động cơ tham gia tập luyện, động cơ rất

đa dạng, ở trẻ em thì động cơ ngẫu nhiên, không sâu sắc, không có ý định

trước…nên giáo viên phải nắm bắt được những động cơ đó để hướng dẫn

các em tập luyện. Khi có động cơ đúng thì sẽ kích thích tập luyện, hiểu

được bản chất sâu xa của tập luyện TDTT, từ đó sẽ hình thành hứng thú

bền vững và lâu dài, người tập thấy được mục đích của việc tập luyện và

trách nhiệm của mình để giải quyết các nhiệm vụ, từ đó mở ra triển vọng

cho con đường sau này.

Đối với nhiệm vụ vận động, người tập phải hiểu được tập cái gì? tập

để làm gì? tập như thế nào? Và tại sao tập như thế này mà không tập như

thế kia?...Mức độ nhận thức của người tập được nâng cao dần dần, bắt đầu

từ những khái niệm đơn giản, sơ đẳng, thông qua tập luyện nhận thức của

họ trở nên sâu sắc hơn về nhiệm vụ vận động cần giải quyết, từ đó sự hứng

thú ngày càng cao hơn và có thái độ tự giác, tích cực ngày càng cao.

b.Giáo dục khả năng phân tích có ý thức, kiểm tra sử dụng sức lực

hợp lý khi thực hiện bài tập:

Ý thức về sự thực hiện của người tập phải được quan tâm thường

xuyên trong quá trình giảng dạy, tạo cho người tập có sự động não trong

quá trình tập luyện, suy nghĩ về nguyên nhân của những lần làm tốt và

những lần thất bại. Khi động tác đã trở thành kỹ xảo vận động thì vẫn

Page 21: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

không quên vai trò ý thức của người tập để tiếp tục nâng cao chất lượng bài

tập.

Kết quả tập luyện còn phụ thuộc vào sự tự đánh giá của người tập về

những chỉ số không gian, thời gian, dùng sức khi thực hiện động tác,biết so

sánh và tự điều chỉnh hành vi vận động của mình.

c.Giáo dục tính tự chủ và sáng tạo với nhiệm vụ vận động:

Tự giác, tích cực luôn song hành với tự chủ và sáng tạo, để rèn luyện

ý thức tự chủ và sáng tạo thì trong giảng dạy cần kết hợp chặt chẽ giữa vai

trò chủ đạo của giáo viên với ý thức tự giác, tích cực của học sinh. Trong

quá trình giảng dạy, không chỉ dừng lại ở sự hoàn thành nhiệm vụ vận động

mà phải hình thành ở họ phong cách thực hiện riêng tương xứng với khả

năng của họ. Sự tự chủ sáng tạo được thể hiện trong từng động tác, người

tập cần biết tự giải quyết nhiệm vụ vận động, biết tự sử dụng hợp lý các

phương tiện giáo dục thể chất.

Về bản chất thì các bài tập thể lực có sự liên kết với các cảm giác vui

sướng, thoả mái nên giáo viên phải biết cách khêu gợi tính hứng thú tích

cực của người học. Tuy nhiên khêu gợi tính hứng thú thì chưa đủ mà trên

con đường để hoàn thiện thể chất, trở thành vận động viên cấp cao thì phải

trải qua con đường tập luyên gian khổ, khó khăn lâu dài, vì vậy đòi hỏi

người học phải hình thành và nâng cao tinh thần bền bỉ khắc phục khó

khăn, tìm thấy niềm vui, niềm tin trong tập luyện.

2.Nguyên tắc trực quan:

Trực quan trong dạy học là sử dụng các cảm giác, các thụ cảm của

nhiều giác quan để tiếp xúc được hoạt động và hiện thực của môi trường

bên ngoài. trực quan là tiền đề cần thiết để tiếp thu động tác bài tập. Thực

Page 22: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

chất của trực quan trong TDTT là kiến lập một hình ảnh và khái niệm rõ rệt

về động tác bắt đầu học.

+Vai trò của trực quan:

-Tính trực quan là tiền đề cần thiết để tiếp thu động tác: Muốn tiếp thu

động tác phải xây dựng đúng biểu tượng về động tác đó và biểu tượng động

tác chỉ xuất hiện khi người tập được quan sát động tác. Nếu các hình ảnh

cảm giác càng phong phú và rõ ràng bao nhiêu thì các kỹ năng, kỹ xảo

được hình thành trên cơ sở của cảm giác đó càng nhanh chóng và chính

xác, các phẩm chất thể lực và ý chí càng được biểu hiện có hiệu quả hơn

bấy nhiêu. Mặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ, do

vậy kinh nghiệm vận động cũng đóng một vai trò quan trọng nhất định

trong việc tiếp thu động tác.

-Trong quá trình học động tác các cơ quan cảm giác ngày càng phối hợp

chặt chẽ nhau tạo nên một cơ quan phân tích tổng hợp, thống nhất để thụ

cảm một cách tinh tế về động tác, điều khiển hoàn chỉnh động tác. Do vậy

bằng con đường sử dụng tổng hợp các hình thức trực quan khác nhau như

làm mẫu động tác kết hợp với lời nói, với xem tranh ảnh với vận động, cho

nên không thể hoàn thiện các kỹ năng vận động, hoàn thiện thể chất mà

không thường xuyên dựa vào các cảm giác, tri giác, biểu tượng trực quan.

Những yêu cầu đảm bảo tính trực quan:

- Xác định rõ dùng phương tiện trực quan để giải quyết nhiệm vụ gì?

-Phải thông qua nhiều cơ quan cảm giác để động tác được tiếp thu

toàn vẹn.

-Sử dụng phương tiện trực quan phù hợp với đối tượng.

-Cần khêu gợi tính tự giác, tích cực của người học.

3. Nguyên tắc hệ thống:

Page 23: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Đảm bảo nguyên tắc hệ thống trong quá trình giảng dạy, có nghĩa là

thực hiện sự tuần tự hợp lý trong khi sử dụng các phương tiện và phương

pháp giáo dục TDTT, cũng như khi hướng dẫn các buổi tập.

Một trong những điều kiện chính để đảm bảo tính hệ thống là phải

sắp xếp bài học khó dần lên và phù hợp với khả năng người học.

Tính hệ thống còn thể hiện ở sự thường xuyên liên tục của các buổi

tập, sự luân phiên hợp lý giữa vận động và nghỉ ngơi, điểm then chốt của

tính hệ thống là không cho phép nghỉ đến mức làm mất hiệu quả tốt đã có

qua tập luyện. Hệ thống còn có nghĩa là lặp lại nhiều lần và lặp lại một

cách hợp lý kết hợp với luyện tập biến dạng.

Để đảm bảo nguyên tắc hệ thống cần chú ý:

-Kế hoạch hoá toàn bộ công tác giảng dạy.

-Thực hiện kiểm tra đánh giá định kỳ kết quả giảng dạy.

-Không để quá trình học tập bị đứt quãng.

-Phân chia đúng và đủ thời gian để học tập cho mỗi động tác.

-Cùng với sự lặp lại cần phối hợp với nhiều phương tiện tác động

khác.

4.Nguyên tắc vừa sức:

a.Bản chất của nguyên tắc: Là khi đưa ra một yêu cầu nào đó thì phải

tương ứng với khả năng người tập và phải tính toán đến đặc điểm cá nhân:

lứa tuổi, giới tính, trình độ chuẩn bị thể lực… thì mới mang lại hiệu

quả.Bản chất của nguyên tắc này thể hiện qua các yêu cầu cơ bản sau:

-Xác định mức độ vừa sức, tính thích hợp thể lực phụ thuộc trực tiếp

vào khả năng của người tập.

-Các khó khăn khách quan khi thực hiện bài tập, như sự phối hợp

động tác, khối lượng vận động…

Page 24: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Cho nên khi xác định mức độ thích hợp trước hết phải dựa vào các

chương trình và các yêu cầu có tính chất tiêu chuẩn cho đối tượng cụ thể

trên số liệu khoa học và tổng kết kinh nghiệm thực tế, trước hết là các

chương trình giáo dục thể chất cho các lứa tuổi từ mầm non đến đại học.

+Tổ chức kiểm tra đánh giá tình trạng sức khoẻ ban đầu.

+Vừa sức không có nghĩa là không có khó khăn mà có những khó

khăn với sự động viên hợp lý để giúp cho người học vượt khó hoàn thành

nhiệm vụ bài tập từ đó nâng cao khả năng người học.Lượng vận động nào

mà đưa tới sự phát triển về thể lực, sức khoẻ thì lượng vận động đó là vừa

sức.

b.Những yêu cầu về phương pháp để đảm bảo tính vừa sức:

-Cần phải tổ chức sao cho mỗi buổi tập hôm trước trở thành bật

thang dẫn dắt con đường ngắn nhất tới việc tiếp thu nội dung buổi tập hôm

sau, theo qui tắc từ biết đến chưa biết, từ tiếp thu đến chưa tiếp thu

-Đảm bảo tính tuần tự trong việc chuyển từ nhiệm vụ này tương đối

dễ dàng hơn sang nhiệm vụ khác tương đối khó khăn hơn.

-Sự luân phiên hợp lý giữa vận động và nghỉ ngơi nhờ sự thay đổi

lượng vận động theo qui tắc từ đơn gỉan đến phức tạp, từ dể đến khó.

- Lưu ý đến đặc điểm cá nhân và cá biệt hoá.

5. Nguyên tắc củng cố và tăng tiến:

Muốn duy trì được kỹ năng, kỹ xảo thì phải thực hiện việc củng cố

để tăng tính ổn định và phải tăng dần các yêu cầu để trình độ ngày càng

nâng cao lên

Để đảm bảo nguyên tắc củng cố cần phải khêu gợi tính tự giác tích

cực tập luyện của học sinh, lặp đi lặp lại nhiều lần và hệ thống các bài tập

đã biết, thay đổi nhiều tình huống, tăng độ khó nhiều hơn ngoài thực tế.

Page 25: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Muốn cơ thể phát triển thì phải tăng lương. vận động theo 3 hình

thức:

-Tăng theo đường thẳng: Tăng dần đều lượng vận động ở các buổi tập sau.

-Tăng theo bật thang: Tăng đột ngột, sau đó có tập duy trì rồi lại tăng cao

đột ngột.

-Tăng theo làn song: Tăng dần các buổi tập, sau đó giảm dần rồi lại tăng

sóng khác cao hơn.

II.Phương pháp giảng dạy thể dục thể thao:

Phương pháp dạy học là cách tiến hành những hoạt động liên quan

giữa người dạy và người học nhằm giải quyết nhiệm vụ giáo dục.

Các phương pháp giản dạy TDTT có thể chia làm 3 nhóm chính:

1.Nhóm phương pháp sử dụng lời nói:

Nhờ lời nói giáo viên thực hiện được vai trò chủ đạo của mình, tạo

mối quan hệ thầy-trò.Truyền thụ được kiến thức, đánh giá được kết quả học

tập của học sinh cũng như giáo viên tiến hành được mối quan hệ giữa thể

dục với các mặt giáo dục khác.

Giờ học TDTT phần lớn thời gian để tập luyện cho nên lời nói phải

chính xác, lập luận chặt chẽ, ngắn gọn, rõ ràng, giàu hình ảnh,trọng tâm.

Nhóm phương pháp sử dụng lời nói có các phương pháp sau:

a. Phương pháp giảng giải: Giải thích các qui luật của quá trình thực

hiện động tác theo trật tự nhất định và khoa học.

b.Phương pháp kể chuyện: Là cách diễn tả các nhân tố và hiện tượng

phát triển trình tự, có logic.

c.Phương pháp đàm thoại: Hình thức của phương pháp này giống

như hỏi-đáp trong giảng dạy, thường tiến hành cùng với phương pháp

giảng giải và kể chuyện.

Page 26: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

Ngoài ra còn sử dụng lời nói trong các dạng khác như: chỉ dẫn, mệnh

lệnh, đếm nhịp, tự nhủ…

2. Nhóm phương pháp trực quan:

Không chỉ hạn chế ở trực quan thị giác mà còn là sự lôi cuốn tất cả

các giác quan tham gia vào cảm nhận động tác. Đặc điểm nổi bật của

phương pháp này là tạo nên những hình ảnh cụ thể của động tác, thúc đẩy

quá trình nhận thức nhanh hơn, sâu sắc hơn và chính xác hơn, nâng cao

được hứng thú tập luyện của học sinh.

Các phương pháp trực quan chia làm 2 loại:

-Trực quan trực tiếp: Giáo viên hoặc học sinh làm mẫu bằng hình

ảnh sống động để học sinh quan sát.

-Trực quan gián tiếp: Dùng tranh ảnh, sơ đồ, vật chuẩn, tiếng động…

để học sinh nắm được động tác.

Đặc trưng cho nhóm phương pháp này là phương pháp làm mẫu:

Biểu diễn lại một cách sinh động của động tác giúp người học nắm bắt

được tư thế, kết cấu và diễn biến của kỹ thuật động tác cần học.

3.Nhóm phương pháp tập luyện:

Là cách vận dụng các phương tiện để đạt được mục đích hình thành

kỹ năng, kỹ xảo vận động và phát triển các tố chất thể lực.

Những phương pháp chính của nhóm phương pháp tập luyện:

a.Phương pháp hoàn chỉnh: Là phương pháp tập luyện động tác với

toàn vẹn kết cấu của nó.

b.Phương pháp phân chia: Phân chia động tác ra các phần tương đối

độc lập để tập luyện nhưng không phá hỏng cấu trúc của nó, sau đó

hợp nhất lại thành động tác hoàn chỉnh.

Page 27: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,

c.Phương pháp trò chơi: Trò chơi có tác dụng gây hứng thú cho

người tập, có thể sử dụng trò chơi để giáo dục thể chất , hoặc biến

những bài tập, những động tác thành trò chơi để giáo dục.

d.Phương pháp thi đấu: Cần tổ chức tập luyện có hoàn cảnh giống

như thi đấu thật, có tác dụng bồi dưỡng về mặt tâm lý, chiến thuật và kiểm

tra chất lượng mọi mặt của quá trình chuẩn bị cho thi đấu.

e.Phương pháp tổng hợp: Là phương pháp tiến hành một loạt bài tập

được sắp xếp theo thứ tự và số lần nhất định.

C. KẾT LUẬN:

Thể dục thể thao trong giáo dục toàn diện, đã được Đảng, Bác Hồ và

Nhà nước ta chỉ đạo cho các ngành các cấp nhất là ngành TDTT bằng

những Chỉ thị, những Quan điểm rõ ràng, cụ thể xác định vai trò của TDTT

trong sự phát triển con người toàn diện, trong sự phát triển của của xã

hội.Là giáo viên TDTT phải nghiêm túc thực hiện các Chỉ thị, các Quan

điểm đó bằng cách quán triệt các nguyên tắc chung cũng như các nguyên

tắc và phương pháp giảng dạy TDTT để hoàn thành tôt nhiệm vụ mình đảm

trách, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xá hội chủ nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Lý luận và phương pháp giáo dục TDTT trong nhà trường.

PGS.TS Trịnh Trung Hiếu.

2.Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh trong lĩnh vực TDTT.

Th S Trương Quốc Uyên.

3.Các văn kiện của Đảng về TDTT.

---------------------------------------------------------

Page 28: TIỂU LUẬN MÔN HỌC - tdqpanpdutdqpanpdu.yolasite.com/resources/TIEU LUAN LLPP.doc · Web viewMặt khác học động tác mới trên cơ sở tiếp thu động tác cũ,