Upload
others
View
18
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh lụa Việt Nam là một thể loại tranh nghệ thuật độc đáo mang đậm
chất Á Đông. Cũng giống như các thể loại hội họa giá vẽ khác, tranh lụa Việt
Nam hiện đại được phát triển từ những năm 30 của thế kỷ XX, sau khi thành
lập trường Mỹ thuật Đông Dương. Mặc dù ra đời muộn hơn nghệ thuật tranh
lụa các nước khác (Trung Quốc, Nhật Bản…) nhưng tranh lụa Việt Nam, với
sự sáng tạo, kết hợp tính dân tộc với hiện đại, tinh hoa nghệ thuật phương
Đông với nghệ thuật phương Tây đã tạo ra cho Mỹ thuật Việt Nam một loại
hình nghệ thuật tranh lụa mang đặc trưng riêng. Rất nhiều các tác giả đã chọn
lụa làm chất liệu sáng tác và đã thành công khi cho ra đời nhiều tác phẩm
mang dấu ấn cá nhân như Nguyễn Phan Chánh, Trần Văn Cẩn, Lê Văn Đệ, Lê
Phổ, Mai Trung Thứ… Thời kì tiếp theo có Lương Xuân Nhị, Nguyễn Thị
Mộng Bích, Nguyễn Thụ, Kim Bạch, Vũ Giáng Hương, Trọng Kiệm, Mai
Long… Các tác phẩm tranh lụa Việt Nam được vẽ trực tiếp trên nền lụa căng
khung, bằng phương pháp nhuộm màu lên vải. Khi vẽ, màu được tô đi tô lại
nhiều lớp mỏng để màu từ từ thấm vào từng thớ vải, kết hợp với việc rửa lụa
tạo cho tranh một bề mặt trong trẻo, êm dịu, mịn màng. Những mảng hình,
mảng màu không tách bạch mà rung rinh, mềm mại đầy cảm xúc [32, tr.11-
13].
Cùng với thời gian, sự chuyển mình của đời sống tinh thần, các yếu tố
khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, các họa sỹ vẽ tranh lụa vẫn tiếp tục
phát huy tinh thần vẽ tranh lụa truyền thống. Nhưng thêm vào đó, trong
những năm gần đây ta thấy nghệ thuật tranh lụa có sự thay đổi trong xu hướng
sáng tác, từ quan niệm nghệ thuật đến cả kỹ thuật, màu sắc, bố cục, nội
dung... Qua theo dõi các tác phẩm trưng bày trong các kỳ triển lãm mỹ thuật
toàn quốc những năm gần đây ta có thể phần nào nhận thấy được sự thay đổi
2
trong xu hướng sáng tác tranh lụa. Bên cạnh xu hướng Hiện thực truyền thống
của tranh lụa Việt Nam chiếm phần lớn các tác phẩm trong cả bốn kỳ triển
lãm như Niềm vui (2000) của Nguyễn Thị Mộng Bích, Người mẹ Thái (1999)
của Nguyễn Thụ, Đám trẻ (2000) của Nguyễn Hoàng Tùng, Khoảng khắc
cảng Cái Rồng (2005) của Lê Ngân Chi, Bà Năm Thử (2010) của Lê Thị Kim
Bạch… Đã xuất hiện ba xu hướng mới là Biểu hiện, Siêu thực và Pop art
trong các tác phẩm như Nữ thần (2015) của Vũ Đình Tuấn, Ngày yên bình
(2010) của Trần Xuân Bình, Đàn bà, mặt nạ và bóng tối (2009) của Bùi Tiến
Tuấn, Tiêu bản 20xx (2012) của Mai Hùng, Tuổi teen (2015) của Phạm Hồng
Như… Trong đó, các tác phẩm tranh lụa không chỉ ca ngợi vẻ đẹp hiện thực
mắt ta nhìn thấy mà còn thể hiện thế giới nội tâm phức tạp mang tính biểu
hiện để phản ánh cái tôi trước những vấn đề của xã hội đương đại. Vẫn nền
lụa ấy nhưng tranh lụa mang một góc nhìn khác, một bút phát khác và thể
hiện một tinh thần mới, mang đậm hơi thở đương đại. Sự thay đổi trong xu
hướng sáng tác ấy đã làm phong phú thêm cho thể loại tranh lụa truyền thống
của Hội họa Việt Nam.
Tranh lụa Việt Nam là một phần trong Hội họa tạo hình Việt Nam, với
những đặc tính riêng biệt, độc đáo, việc nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo và tiếp
tục phát huy vẻ đẹp của tranh lụa là một việc làm cần thiết. Với mong muốn
đó người viết đã chọn thực hiện luận văn với tên đề tài “Xu hướng sáng tác
tranh lụa trong triển lãm Mỹ thuật toàn quốc giai đoạn 2000 - 2015”. Đây là
một đề tài mới, không trùng lặp với bất kỳ tài liệu, bài nghiên cứu tạp chí hay
luận văn nào. Luận văn muốn thông qua việc phân tích xu hướng sáng tác
tranh lụa qua các kỳ triển lãm mỹ thuật toàn quốc từ 2000 đến 2015 để thấy
được sự phát triển của tranh lụa, đâu là hướng đi mới mẻ, tích cực và cả
những hạn chế trên con đường hội nhập mỹ thuật đương đại thế giới. Từ đó
rút ra những bài học thiết thực trong tư duy và định hướng sáng tác cho họa sĩ
vẽ tranh lụa ngày nay.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hội họa Việt Nam tính từ thời điểm ra đời của trường Mỹ thuật Đông
Dương cũng gần 100 năm nhưng so với lịch sử nghệ thuật giá vẽ lâu đời của
thế giới vẫn là non trẻ. Đứng về góc độ phê bình Mỹ thuật, đã có khá nhiều
các tác phẩm nghiên cứu mỹ thuật được công bố và xuất bản. Thế nhưng
những tác phẩm, tư liệu nghiên cứu chuyên sâu riêng về mảng tranh lụa Việt
Nam hiện còn rất ít.
Tư liệu nghiên cứu lịch sử và đặc điểm chung về tranh lụa:
Cuốn sách đầu tiên phải kể đến là Giáo trình tranh lụa của Nguyễn Thụ
viết, xuất bản năm 1994 (Nxb Mỹ thuật) [32]. Đây là cuốn sách cơ bản nhất
cho những ai bắt đầu học tranh lụa. Cuốn sách trình bày khái quát sự hình
thành và phát triển của tranh lụa, đặc trưng trong tạo hình, bố cục, màu sắc
tranh lụa, sự khác nhau giữa tranh lụa Trung quốc, Nhật bản với tranh lụa
Việt Nam. Trong sách hướng dẫn kĩ kỹ thuật vẽ lụa cơ bản qua từng bước
chọn lụa, căng lụa, biểu lụa…
Các cuốn sách Mỹ thuật Việt Nam hiện đại (2005, Nxb Mỹ thuật) [24],
Trường Mỹ thuật Đông Dương lịch sử và nghệ thuật (Quang Phòng, Quang
Việt, Mxb Mỹ thuật) [25] là tư liệu nghiên cứu tổng hợp quý của tác giả về sự
hình thành và phát triển của Mỹ thuật Việt Nam, trường Mỹ thuật Việt Nam,
mà trong đó cũng có nói đến cả tranh lụa.
Bài viết Tranh lụa Việt Nam từ 1925 đến 2015 [22] của Nguyễn Thanh
Mai trong tạp chí nghiên cứu Mỹ thuật (số 3 năm 2016) khái lược lịch sử
tranh lụa Việt Nam qua 5 giai đoạn 1925 - 1945, 1946 - 1954, 1955 - 1975,
1976 - 1985, 1986 - 2015. Mỗi giai đoạn bài viết đều nói qua về bối cảnh lịch
sử, tác giả, tác phẩm tiêu biểu, đặc điểm chung của từng giai đoạn trong nội
dung phản ánh, kỹ thuật, hình thức biểu hiện qua đó thấy được các bước phát
triển thăng trầm của tranh lụa. Nếu như giai đoạn 1925 - 1945, các tác phẩm
4
tranh lụa chủ yếu thể hiện những tâm sự, mơ ước của họa sĩ về cuộc sống thì
những năm kháng chiến, đấu tranh thống nhất đất nước lại thể hiện hiện thực
đấu tranh và công cuộc xây dựng đất nước. Từ giai đoạn 1986 - 2015, bên
cạnh việc phản ánh hiện thực cuộc sống, nhiều nghệ sĩ còn có khát vọng biểu
hiện cái “Tôi là ai” trong cuộc sống đương đại
Bài Tranh lụa Việt Nam giai đoạn 1986-2000 trong dòng chảy mỹ thuật
hiện đại Việt Nam, tạp chí Mỹ thuật số 7, 8 năm 2014 [14] của tác giả Hoàng
Minh Đức viết về sự thay đổi của tranh lụa giai đoạn 1986- 2000 về màu sắc,
kỹ thuật thể hiện, bố cục tranh. Thay vì những gam u trầm trước đây vốn
được gán cho màu của chất liệu lụa truyền thống, màu sắc tranh giai đoạn này
đã xuất hiện những gam màu tươi mới. Kỹ thuật thể hiện cũng được các họa
sĩ thể nghiệm, tranh trừu tượng cũng được thể nghiệm trên lụa. Họa sĩ có thể
vẽ acrylic trên bề mặt lụa để tạo ra những hiệu quả nhất định cho chất liệu lụa.
Sự thay đổi về bố cục, đặc tả hình, nét mang yếu tố khái quát cao, bảng màu
được bổ sung thêm màu tím Huế, xanh lơ, xanh lá mạ, hồng tươi, đỏ tía… Từ
những yếu tố đó đã tạo ra hiệu quả không gian trong tranh lụa hiện đại được
mở rộng, từ bề mặt của chất liệu lụa truyền thống các họa sĩ có thể triển khai
nhiều dung lượng thông tin, sự kiện, vấn đề mới theo dòng chảy chung của xã
hội cũng như việc thích ứng với sự phát triển của chất liệu và thể loại khác
trong mỹ thuật hiện đại Việt Nam.
Tư liệu hình ảnh về tranh lụa:
Bốn cuốn vựng tập Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 1995 – 2000 [2],
TLMTTQ 2001 – 2005 [3], TLMTTQ 2006 – 2010 [5] và Triển lãm mỹ thuật
Việt Nam 2015 [6] là hình ảnh tất cả các tranh được hội đồng nghệ thuật chọn
trưng bày trong triển lãm. Bao gồm toàn bộ các tác phẩm tranh lụa trong 4 kỳ
triển lãm.
Hai quyển sách in màu Tranh lụa Việt Nam (1992, NXB Mỹ thuật Hà
Nội) [17], Tranh lụa Việt Nam (1997, NXB Mỹ thuật Hà Nội) [18] tổng hợp
5
và in rất nhiều các tác phẩm tranh lụa Việt Nam chọn lọc qua các năm từ các
tác phẩm lụa hiện đại đầu tiên của Mỹ thuật Việt Nam.
Triển lãm tranh lụa Việt Nam [4] là vựng tập in lại toàn bộ tranh đã được
chọn lọc tham gia triển lãm lụa năm 2007 do Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh, Bộ
Thể thao Văn hóa và Du lịch đứng ra tổ chức nhằm chấn hưng lại nghệ thuật
tranh lụa Việt Nam trước thực trạng chững lại của tranh lụa những năm gần
đây.
Các cuốn sách là các tư liệu hình ảnh của tranh lụa, ngoài lời dẫn chung
ở phần đầu sách chỉ khoảng một vài trang mang tính tổng quát, không phân
tích về sự hình thành, chặng đường phát triển, giá trị, vẻ đẹp, xu hướng sáng
tác tranh lụa…
Tư liệu về tác giả, tác phẩm tranh lụa:
Cuốn Từ điển họa sĩ Việt Nam (Nxb Mỹ thuật) [41] giới thiệu chung về
171 họa sĩ Việt Nam. Trong đó có in nhiều các tác phẩm lụa tiêu biêu với tiểu
sử, đặc điểm chung trong sáng tác nghệ thuật của các tác giả vẽ lụa như Kim
Bạch, Nguyễn Thị Mộng Bích, Tạ thúc Bình, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Linh
Chi, Lê Văn Đệ, Nguyễn Phan Chánh….
Tác giả Nguyễn Hữu Đức có bài viết Ẩn dụ Libido trong tranh lụa của
Vũ Đình Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu mỹ thuật, số 3 năm 2014 [10]. Bài viết
phân tích rất kỹ đặc điểm nghệ thuật tạo hình, nội dung ẩn dụ trong một số tác
phẩm lụa của Vũ Đình Tuấn cùng kỹ thuật lụa riêng của họa sĩ.
Bài viết Tình yêu với tranh lụa của tác giả Lê Anh Vân [38] viết về ấn
tượng và những suy nghĩ của tác giả về triển lãm “Tranh Lụa” của 9 họa sỹ
giảng viên của Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam và Trường Đại học Sư
phạm Nghệ thuật Trung ương năm 2015. Thực trạng là trong những năm gần
đây, vì nhiều lí do, chất liệu lụa không được nhiều họa sĩ trẻ quan tâm, các tác
phẩm lụa dường như đã quá quen thuộc, không có gì mới lạ với công chúng
yêu nghệ thuật. Triển lãm đã đem đến cho người xem một không khí tươi mới
6
với những màu sắc đa dạng, tươi mát với cách biểu hiện, cách nhìn, cách khai
thác chủ đề phong phú, quan niệm tự do, bay bổng, không bị lệ thuộc vào
những khuôn mẫu. Bài viết cũng đưa ra các tác phẩm tiêu biểu trong triển lãm
và phân tích chúng.
Bài viết Triển lãm tranh lụa ngày dịu dàng (Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh
số tháng 4 năm 2016) [39] cũng của tác giả Lê Anh Vân viết về triển lãm
tranh lụa lần thứ hai của nhóm các giảng viên Mỹ thuật sau thành công của
triển lãm Tranh lụa năm 2015. Triển lãm lần này có chủ đề ca ngợi vẻ đẹp
hình thể của người phụ nữ, các tác giả đã đem đếm cho người thưởng ngoạn
một cái nhìn mới trong tranh lụa với những tác phẩm tạo được ấn tượng mạnh
từ khuôn tranh, bố cục và hình ảnh chắt lọc.
Tư liệu nghiên cứu khả năng biểu đạt của tranh lụa:
Tác giả Hoàng Minh Đức có một số bài viết về tranh lụa Việt NamNghệ
thuật tranh Lụa Việt Nam - Hình thức biểu đạt phương Tây trên tinh thần Á
Đông, tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật số 02 [12]. Tranh lụa Việt Nam - Vẻ đẹp
từ chất liệu đến kỹ thuật thể hiện, tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 362, tháng
8/2014 [13]. Các bài viết này nhìn chung giới thiệu về những đặc trưng chất
liệu lụa, kỹ thuật vẽ lụa, những giá trị biểu đạt của các tác phẩm tranh lụa Việt
Nam.
Luận văn Khuynh hướng phát triển của tranh lụa Việt Nam (2007) [15]
của Nguyễn Thị Hà Hoa cũng nghiên cứu vấn đề khuynh hướng tranh lụa.
Luận văn nghiên cứu quá trình phát triển và những thành tựu mà tranh lụa
Việt Nam đã đạt được, có so sánh với đặc điểm tranh lụa của Trung Quốc để
làm nổi bật đặc trưng của lụa Việt Nam qua những tác giả, tác phẩm lụa từ
1930 đến nay (2007). Hoàn toàn không trùng với luận văn này cả về nội dung
và giai đoạn nghiên cứu.
Luận văn Những khả năng biểu đạt trong tranh lụa Việt Nam hiện đại
của Nguyễn Khánh Hùng (Hội họa – Cao học K5) [19] nghiên cứu các tác
7
phẩm tranh lụa Việt Nam thời kỳ đầu tới 2006 và những yếu tố cơ bản để tạo
ra thành công trong tranh lụa Việt Nam, những hạn chế trong đề tài sáng tác,
tình hình sáng tác và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng các tác
phẩm tranh lụa. Đề tài không đi vào phân tích xu hướng sáng tác trong tranh
lụa và có phạm vi nghiên cứu khác với đề tài.
Ngoài ra người viết luận văn này có tham khảo thêm từ một số luận văn
thạc sĩ khác. Luận văn Hoàng Minh Đức (Hội họa – Cao học K8), Những đổi
thay trong hình thức biểu đạt của tranh lụa Việt Nam [11]. Luận văn Phạm
Quang Diệu (Hội họa - Cao học K14) Không gian ước lệ và hình thể biểu đạt
trong tranh lụa Việt Nam đương đại [07].
Hiện chưa thấy công trình nào nghiên cứu cụ thể về xu hướng sáng tác
tranh lụa Việt Nam. Luận văn đưa ra một cách tiếp cận mới trong việc nghiên
cứu các tác phẩm tranh lụa Việt Nam. Đó là “Xu hướng sáng tác tranh lụa
trong triển lãm Mỹ thuật toàn quốc giai đoạn 2000 - 2015”.
Đây là đề tài hoàn toàn mới, không trùng lặp với bất cứ công trình hay
luận văn, tiểu luận, bài viết đã được công bố.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu xu hướng sáng tác trong các tác phẩm tranh lụa qua bốn kỳ
triển lãm Mỹ thuật toàn quốc từ năm 2000 - 2015.
- Sự chuyển biến về quan niệm nghệ thuật và trong phong cách nghệ
thuật của các tác phẩm tranh lụa giai đoạn này.
- Thấy được những thành công và hạn chế trong các xu hướng sáng tác
tranh lụa Việt Nam những năm gần đây.
- Rút ra được những bài học thiết thực trong việc định hướng sáng tác
các tác phẩm tranh lụa cho bản thân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
- Đối tượng nghiên cứu: các tác phẩm tranh lụa Việt Nam qua các kỳ
triển lãm từ 2000 - 2015, xu hướng sáng tác các tác phẩm tranh lụa giai đoạn
này.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung chủ yếu vào nghiên cứu các tác
phẩm tranh lụa trưng bày trong TLMTTQ từ năm 2000 - 2015. Bên cạnh đó
đề tài có đề cập đến một số tác phẩm tranh lụa thời kỳ trước để so sánh, làm
rõ sự chuyển biến, và thấy được sự đổi mới trong các xu hướng sáng tác tranh
lụa.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu: Trước khi bắt đầu làm luận văn, người
viết phải tìm tài liệu về đề tài gồm thu thập toàn bộ tranh lụa qua bốn kỳ triển
lãm nói trên, tập hợp các tư liệu sách, báo, tạp chí chuyên ngành, luận văn
viết về tranh lụa và các xu hướng nghệ thuật liên quan.
- Phương pháp phân loại: Trên cơ sở các tài liệu đã tập hợp được, người
viết phải phân loại các loại tài liệu, xem các tác phẩm tranh lụa nào mang xu
hướng nào.
- Phương pháp so sánh: Xử lý tư liệu, đối chiếu, so sánh, đánh giá, rút ra
các xu hướng trong sáng tác tranh lụa qua bốn TLMTTQ từ năm 2000- 2015.
- Phương pháp Mỹ thuật học: Dùng các lý luận trong Mỹ thuật học để có
những phân tích, nghiên cứu kỹ lưỡng về các xu hướng sáng tác trong tranh
lụa.
- Phương pháp diễn dịch: Luận văn cũng sử dụng phương pháp diễn dịch
để trình bày và làm rõ các vấn đề đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn hoàn thành sẽ góp phần vào tư liệu nghiên cứu lí luận về
tranh lụa Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến 2015, giúp nhận thức rõ nét
hơn trong việc nghiên cứu, nhận định sự phát triển và thay đổi các xu hướng
sáng tác của tranh lụa thời kì mới.
9
- Thông qua luận văn giúp nhận ra những thành công cũng như hạn chế,
những tín hiệu mới mẻ trong việc sáng tác tranh lụa trong những năm 2000 –
2015.
- Từ đây các họa sĩ yêu tranh lụa có thể có tư duy sáng tác tốt hơn, bắt
kịp dòng chảy chung của nghệ thuật đương đại, làm đẹp thêm, phong phú
thêm thể loại tranh lụa truyền thống của Hội họa Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 61 trang, bao gồm phần Mở đầu (09 trang), Kết luận (02
trang). Phần nội dung chính (50 trang) của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở mang tính lý luận để nghiên cứu đề tài (15 trang).
Chương 2: Nghiên cứu xu hướng sáng tác tranh lụa Việt Nam trong triển
lãm Mỹ thuật toàn quốc giai đoạn 2000 - 2015 (25 trang).
Chương 3: Bài học rút ra qua nghiên cứu đề tài (10 trang).
Ngoài ra luận văn còn có phần Tài liệu tham khảo (03 trang) và Phụ lục
ảnh minh họa (35 trang).
10
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ MANG TÍNH LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm xu hướng sáng tác
1.1.1. Khái niệm “xu hướng”
Trong cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” do Nxb Văn hóa thông tin xuất bản
năm 1998 (Nguyễn Như Ý chủ biên) có định nghĩa xu hướng là hướng đi tới,
thể hiện khá rõ thực chất của nó [42, tr.1873]. Trong Từ điển Tiếng Việt của
Nxb Đà Nẵng xuất bản năm 2011 định nghĩa xu hướng là thiên về một hướng
nào đó trong quá trình hoạt động [34, tr.1787]. Như vậy cả hai từ điển đều có
một điểm chung khi cho rằng xu hướng là hướng đi chung, thiên về cùng một
hướng đi của một hoạt động nào đó, trong một thời gian nhất định.
Trong cuộc sống hàng ngày, ta có thể dễ dàng nghe tới hai tiếng xu
hướng được sử dụng để chỉ tập hợp những hướng đi trong rất nhiều lĩnh vực
của đời sống. Đó là xu hướng thời trang, xu hướng tiêu dùng, xu hướng chính
trị, xu hướng kiến trúc… và xu hướng nghệ thuật. Trong lĩnh vực nghệ thuật,
xu hướng thường được đồng nhất với các trào lưu nghệ thuật. Từ điển Mỹ
thuật phổ thông đã định nghĩa cụm từ “xu hướng nghệ thuật” là Khái niệm
chung về các trào lưu (school of art) và các chủ nghĩa nghệ thuật được
phương Tây gọi bằng các từ “…art” hoặc có đuôi là “ism”, với những phong
cách và thủ pháp nghệ thuật đặc thù, hình thành trên cơ sở nhận thức của
nghệ sĩ có cùng quan điểm về triết học, mĩ học, văn hóa, xã hội và tư duy
sáng tạo [23, tr.160]. Khi nói một tác phẩm mang xu hướng nghệ thuật Hiện
thực, tức là tác phẩm đó có mang các yếu tố, đặc điểm của trào lưu nghệ thuật
Hiện thực.
Từ “xu hướng” thường được dùng gần với nghĩa của từ “khuynh
hướng”. Trong các từ điển Tiếng Việt, các định nghĩa về hai từ này đều tương
đồng nhau. Như cuốn Đại từ điển Tiếng Việt từ “khuynh hướng” được định
11
nghĩa là hướng thiên lệch về phía nào trong hoạt động và phát triển [42,
tr.929]. Còn trong Từ điển Tiếng Việt của Nxb Đà Nẵng xuất bản năm
2011thì “khuynh hướng” là sự thiên về một phía nào đó trong hoạt động,
trong quá trình phát triển [34, tr.804]. Ngay cả trong từ điển Việt Anh (Bùi
Phụng, 2003, Nxb thế giới) [26, tr.1058, 2317], hay từ điển Anh Việt (Bùi
Phụng, 2003, Nxb Từ điển Bách khoa) [27, tr.8180, 3290] đều dùng chung hai
từ tendency và trend với nghĩa tương tự nhau. Nhưng theo người viết luận văn
có lẽ từ “khuynh hướng” mang ý nghĩa chắc chắn và mạnh mẽ hơn. Khi nói
tranh lụa Việt Nam giai đoạn này có khuynh hướng nghệ thuật này thì các tác
phẩm tranh lụa mang phong cách nghệ thuật đó phải có số lượng tương đối
lớn, thể hiện rõ nét những đặc trưng của phong cách nghệ thuật đó. Trong
luận văn khi nghiên cứu hướng sáng tác tranh lụa, do số lượng tác phẩm hạn
chế trong TLMTTQ 2000 - 2015, các tác phẩm mang phong cách nghệ thuật
mới như Siêu thực, Pop art, Biểu hiện không nhiều nên người viết dùng từ
“xu hướng” chứ không dùng “khuynh hướng”.
Vậy khái niệm “xu hướng” được sử dụng trong luận văn có thể được
hiểu là những nhóm tác giả có tác phẩm thể hiện sự tương đồng, thống nhất
về phong cách sáng tác và thủ pháp nghệ thuật, hình thành trên cơ sở chung
về nhận thức của nghệ sĩ trong mọi quan điểm tư duy sáng tạo cũng như
những quan điểm khác về xã hội, thẩm mỹ, văn hóa, tư tưởng…
1.1.2. Khái niệm “sáng tác”
Cũng trong hai từ điển Tiếng Việt kể trên từ “sáng tác” có nghĩa vừa là
một động từ, vừa là một danh từ. Nó chỉ quá trình người nghệ sĩ tạo dựng nên,
làm ra các tác phẩm nghệ thuật [42, tr.1429] [34, tr.1320]. Cắt nghĩa một cách
chi tiết, từ “sáng” ở đây là sáng tạo, còn “tác” là tác phẩm. Mỗi một sản phẩm
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật khi được làm ra đều được gọi là tác phẩm.
Tính sáng tạo, cái độc đáo, mới mẻ trong các tác phẩm nghệ thuật càng cao
thì giá trị của tác phẩm càng hấp dẫn.
12
Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, từ “sáng tác” ở đây muốn nói tới
quá trình người họa sĩ làm ra tác phẩm hội họa, mỹ thuật. Sáng tác hội họa
cũng là lao động, nhưng là lao động nghệ thuật, và sản phẩm của nó là những
tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của người họa sĩ. Quá trình
sáng tác hội họa có thể rất nhanh, họa sĩ nắm bắt cảm xúc nhất thời của mình
trước đối tượng nghệ thuật và thể hiện trực tiếp lên tác phẩm. Nhưng cũng có
thể rất lâu, vài tháng hay cả năm trời, từ lúc có ý tưởng, lên phác thảo, bắt đầu
thể hiện đến hoàn thiện tác phẩm. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà
trong đó việc chọn lựa chất liệu để thể hiện tác phẩm cũng là một yếu tố quan
trọng. Tác phẩm nghệ thuật sau khi hoàn thành được thưởng thức bởi khán
giả thông qua con đường thị giác bằng ngôn ngữ tạo hình. Sức hấp dẫn của
hội họa là ở hình thể, không gian, bố cục, đường nét, ở chất cảm, ở màu sắc.
Sáng tác hội họa là kết tinh cao nhất của sự khéo léo, điêu luyện với tư duy
tạo hình và những rung động đầy xúc cảm của người họa sĩ. Vẻ đẹp của một
tác phẩm hội họa không phải ở khả năng sao chép lại hiện thực như mắt nhìn
mà bằng cảm xúc và khả năng tạo hình cùng hòa sắc, kỹ thuật tạo nên một
tổng thể hài hòa kích thích tâm trí, thu hút người xem.
1.1.3. Khái niệm “xu hướng sáng tác”
Tham khảo một số từ điển Tiếng Việt, từ điển Thuật ngữ mỹ thuật phổ
thông, từ điển Mỹ thuật, không có một định nghĩa nào dành cho cụm từ “xu
hướng sáng tác”. Vì vậy dựa trên khái niệm “xu hướng” và “sáng tác” ở trên,
ta có thể hiểu chung lại “xu hướng sáng tác” là sự thiên về một trào lưu, chủ
nghĩa, phong cách nghệ thuật nào đó trong quá trình người nghệ sĩ làm ra các
tác phẩm nghệ thuật.
Lịch sử nghệ thuật thế giới hàng ngàn năm đồng hành cùng với các nhu
cầu thiết yếu khác của đời sống con người đã trải qua rất nhiều các trào lưu,
chủ nghĩa và xu hướng nghệ thuật khác nhau. Từ thời kỳ Nguyên Thủy,
Trung cổ, Phục hưng, trải qua Cổ điển, các trường phái Baroque, Rococo,
13
Lãng mạn, Hiện thực, Ấn tượng tới một loạt các trào lưu nghệ thuật Hiện đại
như Tượng trưng, Biểu hiện, Dã thú, Lập thể, Trừu tượng, Siêu thực… Mỗi
một xu hướng nghệ thuật ra đời đều có những đặc trưng ngôn ngữ riêng. Tại
thời điểm nó ra đời, nó muốn phủ nhận những quan điểm nghệ thuật của xu
hướng trước nó. Nhưng nhìn một cách tổng quan, sự ra đời và tồn tại, phát
triển của mỗi xu hướng đều có nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan riêng
của nó, nó làm đa dạng cho ngôn ngữ tạo hình của nghệ thuật, làm cho bức
tranh nghệ thuật chung của nhân loại trở nên phong phú. Các xu hướng nghệ
thuật ấy ngay cả khi đã thoái trào vẫn âm ỉ tồn tại và có sức ảnh hưởng lớn tới
các thế hệ họa sĩ đi sau.
Hội họa giá vẽ Việt Nam ra đời rất muộn so với thế giới, do đó không
thể không có những ảnh hưởng, chi phối nhất định từ kho tàng các tác phẩm,
họa sĩ, các trào lưu, xu hướng nghệ thuật đa dạng và đồ sộ ấy. Ảnh hưởng ấy
xuất phát ngay từ những năm tháng đầu tiên trường Mỹ thuật Đông Dương ra
đời. Những người thầy Pháp Victor Tardieu, Joseph Inguimberty đều là
những họa sĩ theo khuynh hướng nghệ thuật Cổ điển, bút pháp Ấn tượng đã
ảnh hưởng sâu sắc trong việc lựa chọn đề tài và phong cách sáng tác của các
họa sĩ Việt Nam. Gần như trong những năm từ 1925 tới 1980, hội họa Việt
Nam chỉ tiếp nhận phong cách Hiện thực, Ấn tượng, pha lẫn chút Lãng mạn,
kể cả trong các tác phẩm mang đề tài chiến tranh. Những năm sau Cách Mạng
tháng Tám, các tác phẩm lụa lại đi theo xu hướng hội họa Hiện thực xã hội
chủ nghĩa. Thời kỳ này chỉ có một vài họa sĩ vẽ theo phong cách khác với tính
chất tìm tòi, thể nghiệm. Và sự ảnh hưởng các trào lưu, xu hướng nghệ thuật
diễn ra mạnh mẽ khi đất nước chấm dứt chiến tranh, bao cấp bước sang thời
kỳ mở cửa đổi mới từ năm 1986. Mỹ thuật Việt Nam có nhiều khởi sắc, các
họa sĩ thỏa sức thử nghiệm các phong cách nghệ thuật Hiện đại của thế giới từ
Biểu hiện, Lập thể, Siêu thực tới Trừu tượng, Tượng trưng… Phải nói đây
14
như thời kì trăm hoa đua nở của hội họa nước nhà. Chưa bao giờ xu hướng
sáng tác trong nghệ thuật lại phong phú, đa dạng đến thế. [33, tr.25-28]
Với luận văn này, người viết sẽ tìm hiểu về các phong cách nghệ thuật
xuất hiện trong các tác phẩm lụa ở TLMTTQ giai đoạn 2000 - 2015, chọn lọc,
chia nhóm các tác phẩm tranh lụa mang các phong cách nghệ thuật khác nhau.
Từ đó phân tích các tác phẩm để thấy những xu hướng nghệ thuật xuất hiện
trong sáng tác tranh lụa qua bốn kì TLMTTQ giai đoạn 2000 - 2015.
1.2. Khái quát tranh lụa Việt Nam hiện đại
1.2.2. Sự hình thành và phát triển tranh lụa Việt Nam hiện đại
Từ xưa, cha ông chúng ta đã biết dùng lụa để vẽ tranh, bằng chứng là các
bức tranh lụa cổ còn lưu lại tới ngày nay như Chân dung Nguyễn Trãi (1380-
1442) xác định niên đại vào thời Hậu Lê ở thế kỉ XVI hiện trưng bày ở bảo
tàng Lịch sử; Chân dung Trạng Bùng Phùng Khắc Hoan (1528- 1613) ở nhà
thờ trạng Bùng, Thạch Thất, Hà Tây; Chân dung Trịnh Đình Kiên (1715-
1786) được cho là vẽ vào thế kỷ XVIII, thuộc sưu tập của bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam. Nhưng các tác phẩm này đều không rõ tác giả, chỉ là phỏng đoán
về niên đại tranh và kỹ thuật vẽ lụa là kỹ thuật vẽ khô bằng màu tự nhiên,
khác hẳn kỹ thuật nhuộm lụa trong tranh lụa hiện đại. Hiện tại, chưa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu kĩ lưỡng và khẳng định rằng tranh lụa là
một loại hình nghệ thuật cổ, truyền thống, có từ lâu đời ở Việt Nam.
Mặc dù chưa có câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi về sự hình thành và
phát triển của tranh lụa Việt Nam cổ, có hay không truyền thống vẽ tranh lụa
Việt từ lâu đời nhưng tranh lụa Việt Nam hiện đại chắc chắn ra đời sau khi
thành lập trường Mỹ thuật Đông Dương năm 1925. Trong cuốn sách Trường
Mỹ thuật Đông Dương Lịch sử và nghệ thuật có đoạn trích lại nguyên văn tiểu
luận của Tô Ngọc Vân trên tập san Xuân Thu nhã năm 1942 [25, tr.25]:
“Sự đụng chạm của trường Mỹ thuật với công chúng bắt đầu ở cuộc triển
lãm thứ nhất vào khoảng 1928 - 1929, tại ngay trường Mỹ thuật. Có tranh
15
“thiếu nữ rũ tóc” mặt buồn của Lê Phổ, tranh “thiếu nữ ngồi trên sập” hai mắt
ươn ướt như sắp khóc của Trung Thứ. Có tranh “ông già” nhẹ nhàng của cô
Lê Thị Lựu, những tranh nặng nề nâu tối cảnh nhà quê của Nguyễn Phan
Chánh. Tranh lụa chưa ra đời.
Năm 1931 Đấu xảo thuộc địa bên Pháp đã đưa công chúng Pháp lần đầu
“gặp” tác phẩm hội họa Việt Nam! Tôi muốn nói những bức tranh vẽ lên lụa
không Tây, không Tàu, không Nhật của anh chàng Phan Chánh ôm khư khư ô
ngày trước, cái anh chàng đã gây ra phong trào tranh lụa đặc biệt An Nam mà
chính anh và tất cả không ai ngờ.”
Như vậy, từ những năm 30, nghệ thuật tranh lụa Việt Nam hiện đại mới
bắt đầu hình thành. Nằm trong dòng chảy chung của Mỹ thuật nước nhà, ta có
thể chia sự phát triển của tranh lụa hiện đại Việt Nam thành ba giai đoạn
chính: Giai đoạn từ năm 1930 tới năm 1945, giai đoạn từ năm 1945 tới năm
1986, giai đoạn từ 1986 tới nay (2017).
Giai đoạn từ năm 1930 tới năm 1945: Đây là giai đoạn hình thành tranh
lụa Việt Nam hiện đại, chất liệu lụa đã nhanh chóng khẳng định được vị thế
của mình trong nền hội họa non trẻ của nước nhà. Giai đoạn 1930 - 1945 có
tình hình chính trị xã hội rất phức tạp, mâu thuẫn giữa dân tộc ta và thực dân
Pháp, với giai cấp phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào
kháng chiến cứu quốc… Tuy nhiên các họa sĩ không đề cập đến những vấn đề
chính trị đó mà chỉ sáng tác chủ yếu tranh phong cảnh, sinh hoạt nông thôn,
sinh hoạt thành thị, ca ngợi vẻ đẹp người thiếu nữ, tình mẫu tử…. Các tác
phẩm thời kỳ này mang xu hướng Hiện thực lãng mạn. Các tác phẩm tranh
lụa thể hiện tâm hồn lãng mạn, bay bổng, hướng tới cái đẹp, cái duy mỹ,
không màng thế sự với hòa sắc nhẹ nhàng, êm ả, ngọt ngào như Thiếu nữ bên
cầu ao, Cô dâu (1945) của Lê Văn Đệ, Thiếu nữ chải tóc (1941) của Nguyễn
Văn Long, Gánh lúa (1940) của Lương Xuân Nhị, Đi chợ Tết (1940) của
Nguyễn Tiến Chung, Thiếu nữ (1940) của Nguyễn Thị Nhung, Hai thiếu nữ
16
trước bình phong (1944) của Trần Văn Cẩn… Và đặc biệt, người có công đặt
nền móng cho nghệ thuật tranh lụa Việt Nam hiện đại là danh họa Nguyễn
Phan Chánh. Tranh lụa của ông có một phong cách, dấu ấn riêng, nổi bật ở
cách nhìn dung dị, chân thực, đậm chất nhân văn với khả năng kết nối giữa
tinh thần, hình thể dân gian của người Việt và ý niệm không gian phương
Đông cùng cách biểu đạt bảng màu đơn giản nhưng đa sắc nâu, đen, vàng đất,
các tác phẩm nổi tiếng là Chơi ô ăn quan (1930), Hai thiếu nữ đội nón thúng
quai thao (1932), Thiếu nữ chải tóc (1933), Hái rau muống (1934), Cầu ao
(1938), Chơi cá (1939), Trốn tìm (1939),…
Giai đoạn từ năm 1945 tới năm 1986: Sau Cách mạng tháng Tám thành
công, Đảng ta đã tiến hành cuộc cải cách lớn, mục tiêu phục vụ nhiệm vụ
chính trị đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa
xã hội được đặt lên hàng đầu. Nhiều họa sĩ yêu nước đã rời bỏ thành phố,
tham gia kháng chiến, vừa đấu tranh, vừa ký họa ghi chép, vừa sáng tác. Các
tác phẩm tranh lụa thời kỳ này đa dạng, phong phú, từ sinh hoạt tập thể, công
trường, lao động sản xuất, bộ đội chiến đấu, dân quân… mang tinh thần lãng
mạn Cách mạng, lạc quan Cách mạng, phản ánh đúng tinh thần và Hiện thực
đất nước, gắn liền với nhiệm vụ chính trị đấu tranh giành độc lập, thống nhất
đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một dấu mốc đáng chú ý trên chặng
đường phát triển tranh lụa Việt Nam hiện đại là vào năm 1955, trường Mỹ
thuật được mở cửa lại tại Hà Nội. Năm 1957, trường mở khóa đại học đầu
tiên sau hòa bình, chuyên khoa lụa được chính thức đưa vào chương trình đào
tạo giúp thế hệ họa sĩ vẽ tranh lụa trở nên đông đảo, chuyên sâu, gặt hái nhiều
thành công như Phạm Công Thành, Kim Bạch, Nguyễn Thụ, Linh Chi, Vũ
Giáng Hương, Trần Lưu Hậu.... Các tác phẩm lụa tiêu biểu cho thời kỳ này có
thể kể tên như Góp thóc vào kho (1960) của Tạ Thúc Bình, Bế Văn Đàn
(1958) của Lê Vinh, Hành quân mưa (1958) của Phan Thông, Ghé thăm nhà
(1958) của Nguyễn Trọng Kiệm, Tổ thêu (1958) của Trần Đông Lương, Về
17
nông thôn sản xuất (1960) của Ngô Minh Cầu, Con đọc Bầm nghe (1954) của
Trần Văn Cẩn, Trăng trên cồn cát (1976) của Nguyễn Văn Chung,…
Giai đoạn từ 1986 tới nay (2017): Năm 1986, Việt Nam chuyển sang
nền kinh tế thị trường, mở cửa giao lưu, hợp tác với quốc tế. Đây cũng là giai
đoạn mỹ thuật Việt Nam có nhiều khởi sắc mới, hoạt động mạnh mẽ, sôi nổi.
Các triển lãm cá nhân, triển lãm nhóm, triển lãm hội, khu vực thường xuyên
diễn ra cho thấy sự yêu nghề, tích cực sáng tạo miệt mài của các họa sĩ. Các
họa sĩ được tự do trong lựa chọn đề tài sáng tác, tự do trong thực nghiệm các
chất liệu hội họa mới, tìm kiếm cái tôi riêng biệt nhằm tạo ra bước ngoặt mới,
lạ mắt. Các chủ nghĩa, trường phái trong nghệ thuật Việt Nam bắt đầu trở nên
phong phú. Thời kỳ này, các họa sĩ vẫn tiếp tục tình yêu với chất liệu lụa
truyền thống và tìm tòi đổi mới cho tranh lụa. Xuất hiện những gam màu tươi
sáng thay cho gam màu u trầm thời kỳ trước, thử nghiệm màu acrylic trên lụa,
gắn vàng bạc lên bề mặt lụa…
Vựng tập các TLMTTQ 1985, 1990, và TLMTTQ năm 1995, TLMTTQ
1996 - 2000 là tài liệu mỹ thuật ghi nhận những tác phẩm, tác giả vẽ lụa tiêu
biểu như Cây trái quê hương của Kim Bạch (đoạt huy chương vàng TLMTTQ
1990); Chiến tranh của Lý Trực Dũng, Bác Hồ của Nguyễn Thụ, Trên chặng
đường chiến dịch của Thanh Châu (đoạt huy chương bạc TLMTTQ 1990);
Chiến khu rừng Sác của Huỳnh Phương Đông (đoạt huy chương đồng
TLMTTQ 1990). Bản Thái của Hoàng Minh Hằng, Thuyền Hạ Long của
Nguyễn Quốc Huy, Bếp lửa Trường Sơn của Vũ Giáng Hương (đoạt huy
chương đồng TLMTTQ 1995); Chân dung nữ NSND Quách Thị Hồ của
Nguyễn Thị Mộng Bích, Thiếu nữ chải tóc của Trần Văn Thọ, Tiếng chuông
gọi hồn của Lê Vấn, Quê ngoại của Trà Vinh (đoạt giải khuyến khích
TLMTTQ 1995). Tác phẩm Hai Bà Trưng ra trận của Đỗ Mạnh Cương đoạt
Giải thưởng về đề tài cách mạng (TLMTTQ 1995); Tết Trung thu của Nguyễn
Trọng Dũng (đoạt giải của Quỹ hỗ trợ và phát triển văn hoá Việt Nam - Thụy
18
Điển). Tác phẩm Phong cảnh (1999) của Nguyễn Minh Quang (huy chương
đồng TLMTTQ 2000); Phiên chợ vùng cao (2000) của Lưu Thị Kim Oanh,
Niềm vui (2000) của Nguyễn Thị Mộng Bích, Chiều trên bến (2000) của
Nguyễn Đăng Khoát (giải khuyến khích TLMTTQ 2000)...
Sang những năm đầu thế kỷ XIX, nghệ thuật vẽ tranh lụa có phần chững
lại. Không có nhiều họa sĩ theo đuổi con đường sáng tác bằng chất liệu lụa.
Số lượng các tác giả chuyên tâm vẽ lụa, các tác phẩm lụa thành công, đặc sắc
thưa thớt dần. TLMTTQ năm 2000 chỉ có 49 tác phẩm được tuyển chọn, ở
TLMTTQ năm 2005 là 44, TLMTTQ năm 2010 là 57 và TLM`TVN 2015 là
30 tác phẩm lụa. Cá biệt trong TLMTTQ năm 2005, không có một tác phẩm
lụa nào được giải, chắc có lẽ là lần đầu lụa không có giải trong lịch sử 18 kỳ
TLMTTQ. So với con số 200 tác phẩm lụa trên tổng số 1353 tác phẩm tranh
tượng của TLMTTQ năm 1990 thì quả là một sự sụt giảm đáng kể.
Với mục đích chấn hưng, thúc đẩy sự phát triển nghệ thuật tranh lụa Việt
Nam, Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức
triển lãm, hội thảo chuyên đề tranh lụa Việt Nam 2007. Sự quan tâm của cơ
quan quản lý Nhà nước đã giúp thu hút sự chú ý của thế hệ hoạ sĩ trẻ với chất
liệu lụa truyền thống. Các triển lãm chuyên đề lụa nối tiếp nhau mở ra, vẫn
trên nền lụa truyền thống ấy nhưng với một tư duy tạo hình, một cảm mỹ
nghệ thuật rất trẻ, rất đương đại đang làm mới nghệ thuật lụa truyền thống, lôi
cuốn sự chú ý nhiều hơn vào lụa. TLMTTQ năm 2010 và năm 2015 không có
sự đột biến nào về số lượng tác phẩm lụa nhưng chất lượng các tác phẩm lụa
thì lại cho thấy một tín hiệu đáng mừng của nghệ thuật tranh lụa Việt Nam
hiện đại.
1.2.2. Đặc trưng nghệ thuật tranh lụa Việt Nam hiện đại
Vẻ đẹp tranh lụa khác hẳn với các chất liệu khác như sơn mài, sơn dầu,
do vậy nó được gọi tên theo chất liệu nền của tranh đủ thấy yếu tố lụa quan
trọng như nào trong một tác phẩm tranh lụa. Nền lụa là cái gốc, là cơ sở cho
19
sự ra đời của nghệ thuật vẽ tranh lụa. Vào thời kỳ đầu khi tranh lụa mới ra
đời, các họa sĩ dùng lụa nền là thứ lụa Vân Nam, Trung Quốc. Loại lụa này
thường phải vẽ khi ẩm, nếu vẽ lúc khô gây cảm giác đanh cứng, đục và cặn,
chỉ hợp với lối vẽ lụa Tàu, kiểu vẽ chấm phá quốc họa, không thể cọ rửa,
nhuộm màu nhiều lần được. Hiện nay, các họa sĩ vẽ tranh lụa thường đặt mua
lụa của làng Quan Phố, được dệt hoàn toàn bằng tơ tằm có độ bền chắc và
thấm màu rất tốt. Tùy theo cách thức dệt lụa mau hay thưa, sợi to hay nhỏ mà
đặt tên cho hai loại lụa chính là lụa mịn và lụa thô. Mỗi loại lụa khi vẽ cho
những hiệu quả không giống nhau. Nắm vững tính chất của từng loại lụa giúp
các họa sĩ có thể xử lý linh hoạt và đạt hiệu quả cao nhất cho tác phẩm của
mình.
Lụa trước khi vẽ phải căng lên khung, có thể căng khô hoặc căng ẩm sao
cho tấm lụa căng đều. Thông thường, lụa mới được quét một lớp hồ loãng,
người vẽ nên rửa qua lớp hồ này để màu có thể ngấm vào thớ lụa. Nếu lụa hút
nhiều nước như lụa Trung Quốc thì nên quét một lớp hồ loãng lên trên, có pha
lẫn một ít phèn chua để chống mốc. Khi bắt đầu thể hiện một tác phẩm tranh
lụa, họa sĩ thường phải xây dựng phác thảo (hình, mảng) hết sức kỹ càng.
Nhiều người sử dụng cách can hình từ bản can giấy lên lụa để lưu lại nét một
cách chính xác. Tuy nhiên cũng có thể dùng bút lông chấm màu vẽ trực tiếp
lên lụa một cách thoải mái.
Màu dùng để vẽ lụa thường là màu nước, phẩm hoặc mực nho. Sau này,
người ta còn dùng những họa phẩm đục hơn, dày hơn như tempera, màu bột,
phấn màu... Nghệ thuật đặt màu lên lụa cũng hết sức tinh tế và chủ động vì
khi lụa đã ngấm màu thì không thể nào làm cho sáng lại được nữa, không như
các chất liệu khác (sơn dầu, sơn mài, acrylic) có thể dùng màu nọ chồng lấp
lên màu kia. Kỹ thuật vẽ lụa cổ là vẽ bằng màu tự nhiên. Người ta không rửa
và chuốt mặt lụa quá nhiều, chủ yếu vẽ một lần được ngay, hoặc vờn ngay
trên bề mặt. Còn lụa hiện đại vẽ bằng màu nước, thực chất là một kỹ thuật
20
nhuộm lụa, màu thuốc nước ngấm vào trong thớ lụa, trở thành sợi nhuộm
màu, chứ không ở trên bề mặt. Người ta thường vẽ từ nhạt tới đậm, chồng
nhiều màu lên nhau để tạo độ màu như ý. Thỉnh thoảng, khi màu đã khô, phải
đem ra rửa nước làm cho cặn màu trôi đi, để cho màu ngấm vào từng thớ lụa,
người hoạ sĩ có thể rửa lụa nhiều lần rồi vẽ lên nhiều lớp khác. Chính vì thế
mà tranh lụa hiện đại Việt Nam có độ trong trẻo, sâu lắng, óng ả, êm dịu, vô
cùng tinh tế. Muốn cho các mảng màu cạnh nhau hòa vào với nhau không còn
ranh giới tách bạch, tạo ra một hiệu quả mềm mại, mờ ảo, người ta vẽ khi mặt
lụa còn hơi ẩm và không cần viền nét nữa.
Tranh lụa vẽ xong thường được bồi lên một lớp giấy, sau khi khô hoàn
toàn, họa sĩ rạch phần tranh ra khỏi khung lụa để đưa vào khung kính, vừa
tăng hiệu quả thẩm mỹ, vừa bảo vệ bề mặt lụa.
Một bức tranh lụa đẹp, ngoài sắc màu ra, phải thể hiện được sự óng ả của
thớ lụa, chất lụa, còn gọi là tuyết lụa. Hoạ sĩ Việt Nam vẽ lụa hay dùng cọ để
đánh màu cho tan đều để chuyển độ trung gian, nét và mảng được quyện vào
nhau. Tuy nhiên nếu tranh vẽ bị rửa nhiều nước thì độ mướt của chất lụa sẽ
giảm, chà nhiều tơ lụa sẽ bị xù lông hoặc mặt lụa bị lì, không còn độ bám của
màu nữa, lúc đó người vẽ phải thay lụa mới.
Dù vẽ thế nào thì khả năng diễn tả ánh sáng của lụa là rất khó, không
giống như chất liệu sơn dầu mà các chi tiết trong tranh chỉ mang tính chất
tượng trưng, ước lệ, gợi tả nhiều hơn. Cùng với đó là các đường nét, hình giàu
tính chất trang trí. Đây cũng chính là đặc điểm tạo hình trong tranh lụa, chủ
yếu là mảng, sự liên kết giữa các mảng bằng các độ nhòe mờ tùy theo từng kỹ
thuật vuốt nước và vẽ ướt của từng cá nhân. Do đặc tính từ chất liệu mà lụa
thường có ưu thế trong việc thể hiện những tác phẩm mang xu hướng lãng
mạn, nhẹ nhàng, bay bổng, tình cảm như đề tài thiếu nữ, phong cảnh, tình
mẫu tử…
21
1.3. Khái quát triển lãm Mỹ thuật toàn quốc giai đoạn 2000 - 2015
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc là một sự kiện Mỹ thuật uy tín, một triển
lãm định kỳ, thu hút đông đảo các họa sĩ trong nước tham gia, nhằm công bố,
phổ biến các tác phẩm của giới Mỹ thuật Việt Nam sáng tác trong một giai
đoạn (05 năm tổ chức một lần). Mỗi một kỳ triển lãm thể hiện một giai đoạn
phát triển của Mỹ thuật nước nhà. Sự kiện thu hút sự quan tâm và tham gia
của hầu hết các nghệ sỹ trong cả nước, với hội đồng nghệ thuật thẩm định,
chấm giải, trao thưởng cho các tác phẩm xuất sắc ở các lĩnh vực Hội họa, Đồ
họa và Điêu khắc [16].
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc lần đầu tiên tổ chức tháng 09- năm 1945
với tên gọi là Triển lãm Văn hóa, tại Nhà Khai Trí- Tiến Đức, Hà Nội (góc
phố Hàng Trống, Lê Thái Tổ hiện nay). Từ năm 1945 tới nay do hoàn cảnh
lịch sử, triển lãm có thời gian bị đứt đoạn, mỗi lần triển lãm đều mang những
đặc điểm, thành tựu riêng đóng góp to lớn vào lịch sử mỹ thuật Việt Nam hiện
đại. Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài luận văn, người viết chỉ giới thiệu
về triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 2000 đến năm 2015.
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 1996 – 2000 [02]: Đây là TLMTTQ lần
thứ 15, khai mạc cuối tháng 12 năm 2000 tại nhà triển lãm Giảng Võ.
TLMTTQ 2000 có 44/59 tỉnh thành tham dự với 2535 tác phẩm của 1436 tác
giả trong đó có 825 tác phẩm hội họa, đồ họa và điêu khắc của 692 tác giả
được chọn trưng bày. Lụa chiếm 48 tác phẩm (Theo số liệu của tác giả Đức
Hòa trong Lược sử các triển lãm Mỹ thuật toàn quốc Việt Nam đăng trên Tạp
chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh thì là 49. Nhưng trong quá trình thu thập số liệu tác
giả luận văn thấy tranh Hai chị em của Vũ Quang in trang 85 là tranh thảm
chứ không phải tranh lụa như sách ghi).
Tranh lụa là chất liệu có số tác phẩm lớn thứ 3 trong danh sách 571 tác
phẩm tranh hội họa, đồ họa được duyệt treo trong triển lãm. Tuy vậy so với
tác phẩm sơn dầu và sơn mài thì số các tác phẩm tranh lụa vẫn còn hạn chế.
22
Danh sách các tác giả, tác phẩm đoạt giải thưởng TLMTTQ 2000 phần Hội
họa không có huy chương vàng, huy chương bạc gồm 7 tác phẩm, huy
chương đồng có 9 tác phẩm và giải khuyến khích có 26 tác phẩm.
Trong số 42 tác phẩm đoạt giải có 4 tác phẩm là chất liệu lụa. Gồm 1 tác
phẩm đạt huy chương đồng là Phong cảnh của Nguyễn Minh Quang và 3 tác
phẩm lụa đạt giải khuyến khích là Phiên chợ vùng cao của Lưu Thị Kim
Oanh, Niềm vui của Nguyễn Thị Mộng Bích, Chiều trên bến của Nguyễn
Đăng Khoát.
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 2001- 2005 [03]: Triển lãm thu hút 2979
tác phẩm của các tác giả trong cả nước về tham dự. Hội đồng nghệ thuật đã
tuyển chọn để trưng bày 734 tác phẩm tiêu biểu để trưng bày. Trong đó có
536 tranh hội họa, đồ họa. Năm nay số lượng tranh lụa ít hơn TLMTTQ 2000,
có 44 tác phẩm được chọn lọc trưng bày, chỉ chiếm 1/17 tổng số tranh được
tuyển chọn.
Danh sách tác giả, tác phẩm hội họa - đồ họa được tặng giải thưởng
trong triển lãm mỹ thuật toàn quốc 2001 - 2005 gồm 2 huy chương vàng, 5
huy chương bạc, 8 huy chương đồng và 20 giải khuyến khích nhưng tác phẩm
tranh lụa đoạt giải là con số 0. Con số này phản ánh đúng thực trạng tranh lụa
Việt Nam thời kỳ này. Các họa sĩ thờ ơ với chất liệu lụa, nghệ thuật tranh lụa
đang chững lại, không có những tác phẩm thực sự xuất sắc so với các chất
liệu khác.
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc 2006 – 2010 [05]: Năm nay triển lãm có
sự thay đổi trong cách duyệt, vòng ngoài duyệt treo qua ảnh với gần 5000 bức
cỡ A4 do tác giả gửi tới, sau đó ban tổ chức mới nhận tranh đã được duyệt để
HĐNT xét giải trực tiếp. Hội đồng duyệt treo 836 tác phẩm của 735 tác giả.
Phần Hội hoạ có 543 tranh, trong đó có 57 tác phẩm tranh lụa. Giai đoạn này,
được sự quan tâm của các đơn vị quản lý, các hội thảo tranh lụa, các triển lãm
23
khuyến khích tranh lụa… đã giúp lụa thoát khỏi bước tiến trì trệ giai đoạn 5
năm trước, có những thành tựu mới.
Trong số 2 Huy chương Vàng, 4 Huy chương Bạc, 6 huy chương đồng
và 20 giải khuyến khích, có 4 tác phẩm lụa đoạt giải. 1 tác phẩm lụa đoạt huy
chương bạc là Đàn bà, mặt nạ và bóng tối của Bùi Tiến Tuấn; 2 tác phẩm lụa
đoạt huy chương đồng là Ngày yên bình của Trần Xuân Bình, Trước giờ lên
đường của Lê Văn Sửu; 1 tác phẩm lụa đoạt giải khuyến khích là Không gian
3 của Phạm Thanh Vân.
Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam 2015 [06]: Về tên gọi triển lãm mỹ thuật
toàn quốc được đổi thành triển lãm mỹ thuật Việt Nam 2015. Nhưng bản chất
nó vẫn là triển lãm mỹ thuật do nhà nước tổ chức, có quy mô toàn quốc nhằm
ghi nhận thành tựu mỹ thuật 5 năm một lần. Bên cạnh việc đổi tên thành Triển
lãm Mỹ thuật Việt Nam, đáng chú ý, để nâng cao chất lượng không gian trưng
bày Triển lãm này, Ban Tổ chức đã chọn lọc kỹ lấy những tác phẩm chất
lượng. Với 4076 tác phẩm gửi đến tham dự thì Hội đồng Nghệ thuật chỉ chọn
409 tác phẩm. Số lượng tác phẩm trưng bày năm nay chỉ hơn một nửa so với
kì trước. Số tác phẩm lụa được chọn trưng bày là 30, tính cả một tác phẩm lụa
của Vũ Đình Tuấn trong hội đồng nghệ thuật thì là 31 tác phẩm.
Cơ cấu giải thưởng kỳ triển lãm năm nay thu hẹp hơn so với các kì kể
trên, trong đó có 2 huy chương vàng, 4 huy chương bạc, 12 huy chương đồng
và 20 giải khuyến khích, bao gồm cả đồ họa, hội họa và điêu khắc. Nhưng số
lượng tác phẩm tranh lụa được giải lại tăng lên con số 6, ngang ngửa với số
lượng đoạt giải ở các chất liệu nghệ thuật khác (sơn mài có 6 tác phẩm đoạt
giải, dơn dầu có 4, đồ họa có 5 tác phẩm). Trong đó có 2 tác phẩm tranh lụa
đạt huy chương đồng là Ngày đơm hoa (2015) của Trần Xuân Bình, Tuổi
Teen (2015) Phạm Hồng Như; có 4 tác phẩm lụa đạt giải khuyến khích là Tổ
quốc gọi (2015) của Lê Thị Kim Bạch, Tiêu bản năm 20xx (2012) của Mai
24
Hùng, Góc phố (2013) của Nguyễn Hoàng Long, Ngoài hiên vắng (2012) của
Phạm Thị Thanh Vân.
Tiểu kết chương 1
Tranh lụa Việt Nam hiện đại ra đời ra đời sắp tròn 90 năm, kể từ thành
công đầu tiên của Nguyễn Phan Chánh với những bức tranh lụa đằm thắm
không phải Tây cũng chẳng phải Tàu, hoàn toàn độc đáo, riêng biệt của xứ
An Nam ấy. Trải qua thời gian, những biến động của lịch sử nước nhà, tranh
lụa có lúc hưng lúc suy. Nhưng chắc chắn, với vẻ đẹp và đặc tính riêng biệt
của mình, tranh lụa sẽ không bao giờ mất đi.
Việc nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển của tranh lụa góp phần
bảo lưu những giá trị văn hóa nghệ thuật tốt đẹp của nước nhà trước xã hội
ngày một tiến tới toàn cầu hóa là một việc làm cần thiết. Làm thế nào để tiếp
thu văn hóa mới, để làm giàu thêm giá trị bản thân, đổi mới mình mà không
mất đi bản sắc gốc là một điều khó không phải họa sĩ nào cũng làm được.
Đất nước mở cửa, Mỹ thuật Việt Nam hào hứng tiếp thu các trào lưu
nghệ thuật hiện đại thế giới nhưng hình như tranh lụa vẫn trung thành với
những lối vẽ cũ, những đề tài và gam màu truyền thống đã trở nên cũ kĩ với
thời cuộc. Phải tới những năm gần đây, đáng nói nhất là qua các tác phẩm lụa
hai kì triển lãm toàn quốc năm 2010 và 2015, lụa mới thực sự có thay đổi và
đã đạt được thành công nhất định. Vẫn nền lụa ấy, công cụ ấy, kĩ thuật ấy
nhưng những họa sĩ trẻ đã tìm ra cho mình ngôn ngữ tạo hình và gam màu
tươi mới, khiến cho lụa hấp dẫn lạ.
Bằng sự hiểu biết còn hạn hẹp của cá nhân người viết, qua luận văn này,
người viết muốn tìm hiểu kĩ hơn về xu hướng sáng tác tranh lụa trong triển
lãm mỹ thuật toàn quốc giai đoạn 2000 đến 2015.
25
CHƯƠNG 2
NGHIÊN CỨU XU HƯỚNG SÁNG TÁC TRANH LỤA VIỆT NAM
TRONG TRIỂN LÃM MỸ THUẬT TOÀN QUỐC
GIAI ĐOẠN 2000 - 2015
2.1. Xu hướng Hiện thực trong sáng tác tranh lụa Việt Nam
“Chủ nghĩa Hiện thực”, “phong cách Hiện thực” trong tiếng Anh là
Realism, dùng để chỉ một xu hướng nghệ thuật xuất hiện ở Pháp trong khoảng
thời gian giữa thế kỷ XIX. Chủ nghĩa Hiện thực đối lập với lối vẽ nghiên cứu
kinh viện của chủ nghĩa Cổ điển, chủ nghĩa Lãng mạn. Chủ nghĩa Hiện
thực lấy hiện thực xã hội và những vấn đề có thực của con người, về cuộc
sống, về môi trường xã hội xung quanh làm đối tượng sáng tác, không lí
tưởng hóa, tránh mọi hình thức “gây ảo ảnh” [23, tr.70].
Hội họa giá vẽ Việt Nam ra đời vào những năm đầu thế kỷ XX, đó là
khoảng thời gian khi mà thế giới đang bước vào giai đoạn bùng nổ các trào
lưu nghệ thuật Hiện đại như Tượng trưng, Biểu hiện, Trừu tượng, Dã thú, Lập
thể… Dưới sự đào tạo mang định hướng phát huy nghệ thuật bản địa của
những người thầy Pháp Victor Tardieu, Joseph Inguimberty kết hợp với
khuynh hướng nghệ thuật Cổ điển, trân trọng Hiện thực, bút pháp Ấn tượng
đã ảnh hưởng sâu sắc đến phong cách sáng tác của các họa sĩ Việt Nam.
Chính vì vậy trong hội họa Việt Nam mảng tranh mang phong cách nghệ
thuật Hiện thực chiếm phần đông đảo [25, tr.13-14]. Tranh lụa cũng không
nằm ngoài xu hướng đó. Nhiều tác phẩm tranh lụa Việt Nam hiện đại đi theo
xu hướng Hiện thực. Tuy nhiên hiện thực ở đây khác với lối vẽ hiện thực
Phương Tây là tả chính xác về tỉ lệ, hình khối, không gian, ánh sáng. Mà ở
đây là một phong cách hiện thực có sự kết hợp với lối ước lệ, tượng trưng của
Á Đông. Đó là cách xây dựng hình tượng cấu trúc đúng tỉ lệ thực, không gian
phối cảnh theo lối tả thực Phương Tây nhưng kết hợp với lối vẽ vờn khối, ánh
26
sáng và màu sắc ước lệ. Hoặc cũng có tác phẩm tranh lụa mang xu hướng
hiện thực nhưng pha chút lãng mạn, ấn tượng. Về nội dung phản ánh, ngoài
những chủ đề về tình dân quân, lao động sản xuất, chiến tranh cách
mạng…còn có các đề tài về cuộc sống sinh hoạt của con người, đặc biệt là
khu vực miền núi, nông thôn, miêu tả phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, vẻ đẹp
con người.
Trong TLMTTQ giai đoạn 2000 - 2015 có 150 tác phẩm tranh lụa mang
phong cách nghệ thuật Hiện thực trên tổng số 179 tác phẩm tranh lụa của cả 4
kỳ từ 2000 - 2015. Ở TLMTTQ 2000, 2005 các tác phẩm tranh lụa mang
phong cách Hiện thực chiếm đa số. Nhưng đến TLTTQ 2010 và TLMTVN
2015, các tác phẩm mang phong cách Siêu thực, Pop art xuất hiện nhiều và
chiếm ưu thế. Các tác phẩm lụa Hiện thực thường khai thác vẻ đẹp con người,
thiên nhiên, phong cảnh nhất là nông thôn, miền núi với những hình ảnh sinh
hoạt lao động bình dị hàng ngày. Tuy sử dụng bút pháp tả thực nhưng các họa
sĩ cũng không quá nệ thực mà thường khai thác tính chất ước lệ Á Đông tạo
nên chất dân tộc trong tác phẩm.
Trước hết là những tác phẩm lụa khai thác đề tài hiện thực cuộc sống về
bố cục, cấu trúc hình, không gian nhưng kết hợp lối vờn khối, ánh sáng, màu
sắc ước lệ.
Tác phẩm Niềm vui (H.01) của nữ họa sĩ Nguyễn Thị Mộng Bích (1933)
đạt giải khuyến khích TLMTTQ năm 2000 là một bức tranh hiện thực sinh
động về cuộc sống, con người vùng cao. Bức tranh sử dụng lối vẽ tả thực về
hình khối, tỉ lệ, màu sắc, không gian…Chọn bố cục cận cảnh, tác giả muốn
đặc tả hình ảnh bà mẹ dân tộc đang ngồi thái lá cho lợn ăn, em bé quấn quýt
bám sau lưng mẹ. Bên cạnh là đàn lợn con đang tranh nhau bú mẹ, bếp lửa
đang đun cháy rực ấm áp, xa xa là hình ảnh ruộng bậc thang, núi rừng xanh
non mơm mởm. Từng chi tiết đều thật đắt giá với sự nghiên cứu kỹ về hình,
bố cục, màu sắc. Từ những chiếc lá xanh tươi ở góc tranh đang được bà mẹ
27
thái chuẩn bị bữa tối cho chú lợn, những bắp ngô to, mẩy hạt vàng óng ả, đến
đàn lợn con lúc nhúc đến chục chú, mỗi chú một dáng đang miệt mài bú mẹ…
Mỗi nét vẽ cho thấy tạo hình chắc chắn và kỹ thuật lụa điêu luyện của tác giả.
Dùng cách vờn khối, nhuộm lụa tạo sự chuyển biến của sắc độ êm dịu, các chi
tiết bàn tay, bàn chân của người mẹ được tả kĩ, có phần gân guốc biểu lộ vẻ
đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh của người phụ nữ vùng cao chăm chỉ, vất vả. Chiếc áo
nâu chàm xanh thẫm được tả kỹ hoa văn, họa tiết trên cổ áo, tay áo nhưng vẫn
gợi được khối hình chắc khỏe của cơ thể người mẹ trong dáng ngồi mềm mại
thái lá. Dù vất vả nhưng hình ảnh người phụ nữ vùng cao vẫn hiện lên đẹp đẽ
trong trang phục dân tộc, điệu đà với những đồ trang sức như vòng cổ,
khuyên tai. Và đặc biệt khuôn mặt nở nụ cười rạng rỡ của em bé sáng ngời
bức tranh. Nụ cười của em là niềm vui của mẹ, là sự no nê của đàn lợn con, sự
mãn nguyện của lợn mẹ. Xem tranh Niềm vui, thấy được niềm hạnh phúc, hân
hoan, sự ấm no, sung túc của đời sống mới ở vùng cao.
Thêu thổ cẩm (H.04) cũng là một tác phẩm đẹp về con người miền núi
của Phạm Thanh Liêm. Cũng như Niềm vui tính Hiện thực trong tác phẩm
Thêu thổ cẩm được thể hiện ở lối vẽ tả thực về hình khối, tỉ lệ, màu sắc và gợi
tả không gian của tác phẩm. Tranh đặc tả hình ảnh một cô gái Thái đang ngồi
thêu thổ cẩm bên bếp lửa. Cô gái với nét mặt thanh tú, đôi bàn tay được tạo
hình rất yêu, một tay cầm kim kéo dài chỉ ra, một tay giữ mảnh thổ cẩm.
Chiếc áo Thái trắng ngần nổi bật lên trong không gian của buổi chiều ngập
tràn ánh tím. Các chi tiết trang trí trên quần áo, mảnh thổ cẩm, miếng vải dưới
đất được vẽ khá cẩn thận, hài hòa trong màu sắc chung của bức tranh. Hình
ảnh bếp lửa được tả rất kỹ, ánh lửa hồng rực với những chiếc ấm, nồi, chiếc
kiềng bếp đen xì đặc trưng khi đun củi gỗ. Khung cảnh thật thanh bình. Vẻ
đẹp của cuộc sống, con người như ngưng đọng trên bề mặt tranh.
Cũng với đề tài sinh hoạt ở miền núi, tác phẩm hiện thực lãng mạn
Người mẹ Thái (H.07) của họa sĩ Nguyễn Thụ là hình ảnh người phụ nữ địu
28
con bên hiên nhà đầy chất thơ. Nguyễn Thụ là một họa sĩ lão thành chuyên vẽ
lụa. Đề tài thiên nhiên, con người miền núi mà nhất là hình ảnh những cô gái
Thái trong sinh hoạt hàng ngày là chủ đề chính trong các tác phẩm tranh lụa
của ông. Các tác phẩm tranh lụa Nguyễn Thụ có đặc điểm chung vừa hiện
thực, vừa trữ tình và giàu chất thơ, mộc mạc, biểu cảm. Trong mỗi tác phẩm,
tác giả đều gạn lọc lấy những hình ảnh, chi tiết cô đọng, màu sắc, bố cục đơn
giản. Các sắc độ, mảng hình trong tranh lụa Nguyễn Thụ không rõ nét mà
nhòe mờ vào nhau, chuyển sắc tinh tế nhờ đó mà cảm nhận được hơi sương
lạnh của núi rừng Tây Bắc. Cũng với kỹ thuật lụa rất đặc trưng đó, trong
không gian núi rừng lạnh giá, điểm sắc trắng muốt của cành hoa mai, hoa mận
tác phẩm Người mẹ Thái tập trung vào hình ảnh mẹ con đang ngồi trước nhà
sàn, cuộc sống thật thanh bình, nhẹ nhàng và ấm áp tình mẫu tử biết bao. Tác
phẩm có không gian gợi tả, ước lệ với những mảng màu lớn, những đường
viền mềm, gợi khối nhẹ, hình và nét uyển chuyển, chủ yếu là các sắc đen, nâu
hồng, lam tím.
Ngoài các tác phẩm tiêu biểu phân tích ở trên, đề tài thiên nhiên, phong
cảnh, sinh hoạt con người miền núi sáng tác theo phong cách hiện thực có rất
nhiều. Phải nói mảng đề tài này rất được các họa sĩ Việt Nam ưu ái, không
riêng gì chất liệu lụa. Mỗi bức tranh là một mảnh ghép phản ánh chân thực
cuộc sống miền núi. Một số tác phẩm đẹp tiêu biểu có thể kể tên như Đám trẻ
(H.02) của Nguyễn Hoàng Tùng, Trang điểm (H.03) của Nguyễn Trọng Cát,
Chiều bên suối (2008) (H.05) của Trần Thị Phương Liên, Nghề truyền thống
(H.06) của Trần Quang Dũng, Buổi sớm ở bản (2010) (H.08) của Phạm Ngọc
Sỹ, Chợ Lán Xì (TLMTTQ 2000) (H.09) của Mai Hùng, Đêm vùng cao (2000)
(H.10) của Phạm Mạnh Đức, Buổi sáng trên bản phố (2010) (H.11) của
Nguyễn Thanh Tùng, Phong cảnh miền Đông (2000) (H.13) của Trần Thị
Liên…
29
Mảng các tác phẩm khai thác các đề tài và phong cách hiện thực gắn với
phong cảnh, con người, sinh hoạt, lao động nông thôn Việt Nam cũng chiếm
số lượng lớn tranh lụa mang phong cách nghệ thuật Hiện thực như Ngày mùa
(2005) (H.12) của họa sĩ Lê Văn Sửu, Biển về gom lưới (2006) (H.21) của Lê
Thị Ngân Chi, Bà Năm Thử (2010) (H.14) của Lê Thị Kim Bạch, Kéo lưới
(2000) (H.15) của Mai Xuân Chung, Trước lúc ra khơi (2012) (H.16) của
Phạm Trần Bửu Trâm, Chợ Sét làng Chuông (2005) (H.22) của Lê Thị
Dung…
Tác phẩm Ngày mùa (2005) (H.12) của họa sĩ Lê Văn Sửu diễn tả phong
cảnh nông thôn gắn với kiến trúc chùa Thầy trong một hòa sắc vàng nâu ấm
áp. Các chi tiết trong tranh đều tinh tế, tỉ mỉ, cô đọng trong mảng hình đơn
giản, khúc triết. Tạo hình tranh từ mái nhà với cột kèo, nếp cong, họa tiết
trang trí diềm mái, những cành cây khỏe khoắn, dáng lưng còng còng gánh
những gánh lúa nặng trĩu oằn quang gánh… đều hết sức sinh động. Bức tranh
phong cảnh nông thôn của họa sĩ đẹp êm ả và tình cảm. Bức tranh là sự kết
hợp giữa cách tạo hình hiện đại, nghiên cứu, ký họa kỹ phong cảnh, bố cục,
khái quát lược bỏ những chi tiết rườm rà để còn lại sự cô đọng của hình thể.
Vẫn sử dụng lối tạo hình hiện thực, phối cảnh xa gần nhưng cách tả khối,
dùng màu hoàn toàn mang tính ước lệ, Á đông. Người xem thấy gợi lên màu
sắc nâu vàng quen thuộc như trong tranh của Nguyễn Phan Chánh. Vẫn lối
vờn khối, chuyển sắc độ êm dịu, và cách vẽ nhuộm lụa truyền thống. Nhưng
hơi thở cuộc sống hiện đại vẫn phảng phất trong tác phẩm nhờ lối tạo hình, bố
cục hiện đại.
Biển về gom lưới (2006) (H.21) của Lê Thị Ngân Chi cũng là một tác
phẩm lụa đẹp, rõ tính Hiện thực. Tạo hình, bố cục, màu sắc trong tranh đều
dựa trên những hình ảnh chắt lọc từ thực tế. Quy luật xa gần trong nghệ thuật
phương Tây được áp dụng tạo không gian cho bờ biển với những nhóm người
đang gom lưới trên bờ chạy xa sát mép, hút tầm mắt ra ngoài biển. Màu sắc
30
nhuộm khắp mặt tranh là màu của ánh hoàng hôn chiều. Tranh không đi vào
chi tiết, không tả nhiều, các dáng người được “bắt” rất sinh động cùng với
những mảng bóng đổ dài đã tái hiện thành công cảnh biển chiều, những ngư
dân tất bật gom lưới.
Trong số các tác phẩm mang phong cách Hiện thực tác phẩm Hồn quê
(1999) (H.27) của Nguyễn Yến Nguyệt là thực hơn cả. Bức tranh vẽ một góc
bếp xưa của người miền xuôi. Trong bếp có chiếc chạn bếp làm bằng tre, mấy
chiếc chum sành to nhỏ, chiếc thì kê gạch, đậy nắp nồi đất, chiếc đậy nắp
bằng thớt gỗ, ấm nước đen vì đun củi, đun rơm, chiếc liễn đựng cà, đựng
muối, chiếc mâm gỗ đã sứt mép đôi chỗ… Góc bếp nhỏ hiện lên sinh động
trong sắc nâu đỏ ấm áp no màu, trong trẻo với bút pháp tả thực gần với phong
cách Cực thực. Sẽ chẳng có gì đặc biệt vì tranh mà, không vẽ cái này thì tả cái
kia và góc bếp như vậy, tả như vậy cũng có nhiều họa sĩ sơn dầu vẽ rồi nhưng
nghệ thuật tả thực như vậy trong lụa có lẽ ít thấy. Các tác phẩm lụa từ trước
vẫn được coi là không có khả năng diễn tả ánh sáng, không gian, hình khối
như tranh sơn dầu, mà mọi sự diễn tả mang tính chất tượng trưng hoặc ước
lệ, gợi tả nhiều hơn [12, tr.74]. Nhưng khi xem tranh Hồn quê, dường như các
lý thuyết trước kia đã không còn chính xác nữa. Nó cho thấy tranh lụa cũng
có khả năng diễn tả ánh sáng cũng có thể mô tả sự vật nổi hình nổi khối được
chứ không hoàn toàn chỉ là cuộc chơi của mảng màu và nét trang trí.
Bên cạnh mảng tranh lụa mang phong cách Hiện thực, ta thấy có một số
tác phẩm lụa lại có cách dụng màu, tạo nét và bố cục gần gũi với nghệ thuật
Biểu hiện. Các tác phẩm lụa mang phong cách Hiện thực pha Biểu hiện cho
thấy sự thay đổi trong chính xu hướng Hiện thực của tranh lụa. Tính biểu hiện
của các tác phẩm lụa mang phong cách Hiện thực pha biểu hiện chủ yếu thể
hiện trong màu sắc. Màu sắc các tác phẩm tranh lụa mang phong cách Hiện
thực pha Biểu hiện không phải là màu thực của bản thân đối tượng được vẽ.
Nó là màu theo cảm nhận chủ quan của tác giả, màu sắc đối chọi nhau gây ấn
31
tượng mạnh mẽ nơi người xem. Tuy nhiên những tác phẩm này vẫn chưa
thoát ra khỏi được những khuôn hình hiện thực của đối tượng thể hiện, nên
vẫn nằm trong nhóm các tác phẩm Hiện thực. Tạo hình trong các bức tranh
lụa Hiện thực pha Biểu hiện là sự kết hợp giữa tạo hình thực tế của đối tượng,
nhân vật với sử dụng yếu tố ước lệ tượng trưng giản lược, chắt lọc, khái quát.
Ví dụ như tác phẩm đạt giải khuyến khích trong TLMTTQ 2000 Chiều
trên bến (H.35) của Nguyễn Đăng Khoát diễn tả lại quanh cảnh một bến
thuyền đang tấp nập thu hoạch với những sọt đầy cá. Tranh vẽ theo lối tả
thực, các chi tiết thuyền, người, xọt cá đều rất sinh động. Yếu tố biểu hiện của
tranh nằm ở sắc đỏ của hoàng hôn chiều nhuộm đẫm mặt tranh và bố cục táo
bạo với hai chiếc thuyền lớn đối lập với con người, xọt cá nhỏ bé.
Hay trong tác phẩm Phong cảnh miền núi (2000) (H.32) của Trần Lưu
Tuấn. Tranh vẽ quang cảnh nhà sàn của miền núi phía Bắc, họa sĩ không khai
thác chi tiết đối tượng vẽ mà giản lược quy vào những mảng hình cô động.
Nhất là hình của những mái nhà sàn. Tranh gây ấn tượng nơi người xem bởi
sắc xanh biếc của nhà sàn, xanh màu xanh nước biển, đối chọi với sắc cam
rực của nền đất, màu đỏ của những chú gà trên sân cùng chiếc áo chú bé đứng
trên hiên nhà sàn đầy tính biểu hiện.
Họa sĩ Phạm Thanh Vân có hai tác phẩm trong TLMTTQ 2010 và 2015
đều đạt giải là Không gian 3 (2009) (H.28) và Ngoài hiên vắng (2012) (H.29).
Cả hai bức tranh đều có nội dung, hình thức biểu hiện, bố cục tranh khá đơn
giản và tương đồng nhau. Tranh chỉ vẽ căn nhà ngang, căn nhà chính của
người đồng bằng Bắc Bộ. Bố cục tranh nằm ngang theo chiều dài căn nhà.
Một bức nhìn từ ngoài sân vào mặt trước của nhà và một bức nhìn từ trong
nhà ra. Cả hai bức tranh là một tông màu đỏ, nâu, một chút cam trầm ấm đầy
sức biểu hiện. Toàn bộ bức tranh là nổi bật trong một sắc đỏ, có thêm chút
đen, một chút cam. Chính sự giản dị, kiệm hình, kiệm màu, kiệm nét ấy là nét
đặc sắc trong ngôn ngữ tạo hình hai bức lụa của Phạm Thanh Vân. Trong
32
nghệ thuật, không phải cứ đa sắc, nhiều chi tiết đã là hay. Phải có cái nhìn
tinh tế, phải có sự gắn bó, hiểu biết và tình cảm với truyền thống văn hóa Bắc
bộ mới có được sự chắt lọc như vậy.
Tác phẩm Trường Sơn (2009) (H.36) của nữ họa sĩ Vũ Giáng Hương là
một tác phẩm mang tính Hiện thực pha biểu hiện. Họa sĩ Vũ Giáng Hương là
một họa sĩ chuyên vẽ lụa. Bà vẽ rất nhiều tranh lụa, trong đó chủ đề chiến
tranh Cách mạng chiếm một số lượng lớn. Tranh của bà thường tái hiện lại
những câu chuyện thực tế, những kí ức, kỷ niệm của bản thân trong gam màu
trầm. Ở tác phẩm Trường Sơn (2009), tác giả tái hiện lại một góc con đường
lịch sử Trường Sơn với hình ảnh những chiến sĩ đang trên đường hành quân
băng rừng vượt núi tiến vào Nam. Tính biểu hiện của tranh thể hiện ở nét vẽ
tạo hình của họa sĩ. Nét ở đây không còn thanh mảnh để gợi hình mà được
họa sĩ đi rất hoạt, to, đậm, nổi bật trong tranh. Các mảng màu của các chiến sĩ,
của rừng, núi cùng chung sắc độ được tách ra, khỏe khoắn, mạch lạc nhờ
những nét phẩy, viền bo của nét mà không khiến cho tranh bị cứng nhắc. Sự
kết hợp yếu tố nét to, nhỏ linh hoạt cũng đồng thời tạo đậm nhạt làm cho tác
phẩm có chiều sâu.
Cũng với những đặc điểm ấy, trong TLMTTQ giai đoạn 2000 – 2015 có
một số tác phẩm tranh lụa Hiện thực pha biểu hiện khác ví dụ như tác phẩm
Chợ Bắc Hà (2000) [H.30] của Nguyễn Thế Sơn, Tổ thêu (2000) (H.31) của
Mai Thị Liên, Tắm suối (1999) (H.33) của Nguyễn Thị Thu Hằng, Chờ mẹ
(2010) (H.34) của Lê Thị Hương Giang, Đường về (TLMTTQ 2010) (H.37)
của Đào Hà, Đình làng (2010) (H.38) của Tòng Thị Trang …
Các tác phẩm tranh lụa mang phong cách nghệ thuật Hiện thực trong
TLMTTQ giai đoạn 2000 - 2015 chiếm số lượng lớn cho thấy xu hướng Hiện
thực rõ ràng trong tranh lụa Việt Nam giai đoạn này.
33
2.2. Xu hướng Biểu hiện trong sáng tác tranh lụa
Thuật ngữ “Chủ nghĩa biểu hiện” chỉ xu hướng nghệ thuật và văn học
diễn ra mạnh nhất ở Đức và ở một số nước Châu Âu vào những năm cuối thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX [23, tr.21-23]. Ở Việt Nam, những năm 1980, phong
cách Biểu hiện đã xuất hiện nhưng chỉ lác đác ở vài họa sĩ, do những yêu cầu
của thực tế đời sống mà cụ thể là chịu sự quản lý và tác động văn hóa mạnh
mẽ từ Đảng và quần chúng nhân dân nên phong cách Biểu hiện không phát
triển và nhanh chóng lụi tắt. Đến năm 1990 hội họa Biểu hiện Việt Nam mới
phát triển. Nó như một nhu cầu tất yếu, khi mà con mắt nhìn hội họa hiện đại
của nước nhà đã quen thuộc, các họa sĩ đã nhuần nhuyễn với ngôn ngữ hội
họa hiện thực, ấn tượng. Trái với phong trào Ấn tượng và Hiện thực, nghệ
thuật Biểu hiện thể hiện thế giới xung quanh bằng cái nhìn chủ quan, triệt để
bóp méo, tạo hiệu ứng về mặt cảm xúc nhằm khơi gợi tâm trạng hoặc ý tưởng.
Họa sĩ Biểu hiện không chú tâm mô tả cái nhìn thấy mà chủ đích biểu hiện
mạnh mẽ nhất những cảm xúc tức thời của mình, những trải nghiệm tình cảm
hơn là hiện thực vật chất. Phong cảnh mang một vẻ ngất ngây mạnh mẽ. Các
nhân vật chiếm cứ tiền cảnh và bố cục được đặt trong sự đối chọi. Các đường
nét trong tranh không mềm mại, trơn tru mà đứt gãy, thô giáp, bóp méo uốn
lượn làm tăng sự gay gắt của cảm xúc. Các bức tranh trình bày các hợp sắc
gay gắt và những sắc độ đục, xỉn, màu đen và màu đỏ nổi trội hơn hết. Bút
pháp tạo hình thô, để lại những vệt màu dày lộm cộm, gân guốc [01]. Tuy
nhiên, trên thực tế tranh mang tính Biểu hiện của họa sĩ Việt không hoàn toàn
Biểu hiện mà đôi khi còn được kết hợp với các lối vẽ khác như Biểu hiện trừu
tượng, Biểu hiện Lập thể, hay Biểu hiện Siêu thực [33, tr.36]. Cùng với không
khí sáng tác sôi nổi của phong cách nghệ thuật Biểu hiện ở chất liệu sơn dầu,
sơn mài, tranh lụa hiện đại Việt Nam những năm cuối thế kỷ cũng được các
họa sĩ thể hiện thoải mái về hình, màu, bố cục để biểu đạt cảm xúc.
34
Trong bốn kỳ TLMTTQ từ năm 2000 - 2015 ta vẫn thấy xuất hiện lác
đác các tác phẩm lụa mang phong cách nghệ thuật Biểu hiện, đề cao cảm xúc
nội tâm bằng những thủ pháp về hình màu, không gian (biến điệu hình, không
gian, cường điệu màu sắc, ánh sáng…). Sau khi tìm hiểu về nghệ thuật Biểu
hiện trên thế giới và trong nước, người viết xin tạm xếp 7 tác phẩm sau mang
phong cách nghệ thuật Biểu hiện. Triển lãm MTTQ năm 2000 [02] có 2 tác
phẩm: Đón bạn ngày mai (H.45) và Trước ô cửa nhà dài (H.44) của họa sĩ
Lê Vấn (Đăk Lăk). Triển lãm MTTQ năm 2005 [03] có 2 tác phẩm: Sương
lạnh (H.39) của Nguyễn Tuấn Cường (Hà Nội) và tác phẩm Giã bạn (H.40)
của Ngô Thị Ngân (Hà Tây). Triển lãm MTTQ năm 2010 [05] có 2 tác phẩm:
Người về cuối rừng (H.43) và Trắc trở Tây Nguyên (H.41) của Lê Vấn (Đăk
Lăk). Triển lãm Việt Nam năm 2015 [06] có 1 tác phẩm: Mùa khô Tây
Nguyên (H.42) cũng của Lê Vấn (Đăk Lăk).
Tác phẩm Đón bạn ngày mai (H.45) và Trước ô cửa nhà dài (H.44) của
họa sĩ Lê Vấn (Đak Lak) phản ánh sinh hoạt lễ hội cộng đồng của đồng bào
dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Cả hai tác phẩm đều mang phong cách Biểu
hiện rõ nét. Yếu tố Biểu hiện được thể hiện qua đối tượng phi tả thực của
tranh. Các chi tiết trong tranh là rất nhiều các motif dân gian đặc trưng Tây
Nguyên gợi lên nhà Rông và các biểu tượng chạm khắc gỗ dân gian quen
thuộc. Yếu tố biểu hiện cũng được thấy rõ trong tạo hình nét của tranh. Không
giống với các tác phẩm lụa mang phong cách Hiện thực có nét thanh, mảnh,
khi ẩn, khi hiện mềm mại, nét vẽ trong hai tác phẩm Đón bạn ngày mai và
Trước ô cửa nhà dài được tạo hình bằng nét khái quát tượng trưng có phần
thô, to, méo mó, ngô nghê, ngẫu hứng trong sự thay đổi màu sắc. Các hình vẽ
trong tranh cùng đồng hiện trên nền lụa, hầu như không có yếu tố xa gần. Bố
cục của bức Đón bạn ngày mai chia hai theo chiều ngang với lớp người ở phía
dưới đông vui, thay đổi nhịp điệu với sắc đen đậm đối lập với khoảng trống
phía trên gợi nên hình ảnh mái nhà Rông to lớn bao trùm bức tranh. Còn
35
Trước ô cửa nhà dài bố cục tranh không phân chia rõ mà lộn xộn khắp bề mặt
tranh. Màu sắc trong cả hai bức tranh hoàn toàn do, sự sắp đặt chủ động của
tác giả, không bị lệ thuộc vào sắc màu trong tự nhiên, không chịu sự tác động
của quy luật ánh sáng. Đó là những hòa sắc mạnh đỏ, đen, xanh côban. Bản
thân màu cũng không gò bó trong khuôn hình của đối tượng mà loang nhòe tự
nhiên đầy xúc cảm.
Tác phẩm Sương lạnh (H.39) của Nguyễn Tuấn Cường (Hà Nội) thể hiện
một nội dung đã quá quen thuộc trên lụa, là con người, phong cảnh và sinh
hoạt dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Bên mảng xu hướng Hiện thực, đề tài
này chiếm lượng lớn tác phẩm nhưng Sương lạnh lại chọn cho mình một ngôn
ngữ Biểu hiện khác. Các nhân vật trong tranh được tạo hình khái quát, giản
lược, điểm xuyết với những motif hoa văn trang trí của dân tộc. Tất cả đều
đồng hiện trên một mặt phẳng trong một bố cục chặt chẽ với các mảng màu
trơn, những khoảng đặc rỗng đan xen nhau trên bề mặt tranh. Toàn bộ bức
tranh lấy tông màu chủ đạo là xanh lá, xanh màu xanh của núi rừng, kết hợp
mảng màu đen xen kẽ những mảng hình đỏ rực của chiếc khăn trùm đầu, xà
cạp váy, cho người xem cảm nhận được cái lạnh của hơi sương núi rừng.
Những khuôn mặt toát lên vẻ buồn rầu, trĩu nặng ưu tư. Có hình ảnh của rượu
cá, chén nhỏ, chén to cùng chiếc khèn mà sao không khí lại nặng nề như vậy.
Phải chăng tác giả thông qua những hình ảnh chắt lọc đặc trưng miền Tây Bắc
ấy biểu hiện cảm nhận của mình về cuộc sống, con người nơi đây.
Tác phẩm Giã bạn (H.40) của Ngô Thị Ngân có hòa sắc nóng, tông đen
nâu, trầm ấm quen thuộc của tranh lụa. Nội dung tranh là một buổi chia tay
bịn rịn của liền anh, liền chị quan họ. Tuy nhiên tranh không chọn con đường
hiện thực để làm rõ nội dung tác phẩm mà thay đổi bằng một cách tạo hình
hoàn toàn khác. Toàn bộ hình ảnh trong tranh được đơn giản hóa, không còn
chi tiết, không tả khối, không miêu tả ánh sáng thay vào đó là những mảng
hình như được cắt dán lại với nhau để sắp xếp tạo ra nhân vật. Qua các mảng
36
hình ấy ta vẫn thấy thấp thoáng tà áo tứ thân, nón quai thao, các liền anh đội
khăn xếp, áo the. Những mảng màu đậm đà đặt cạnh nhau vẫn nhìn thấy nét
viền xung quanh mảng hình nhưng không khô ráp vì vẫn có độ nhòe giữa các
đường biên. Chính cách tạo hình nhân vật trong tranh khiến ta liên tưởng ngay
tới phong cách Biểu hiện lập thể.
Ba tác phẩm còn lại đều của họa sĩ Lê Vấn Người về cuối rừng (H.43),
Trắc trở Tây Nguyên (H.41), Mùa khô Tây Nguyên (H.42). Trong đó Trắc trở
Tây Nguyên và Mùa khô Tây Nguyên có lối tạo hình gần nhau hơn. Cũng như
các tác phẩm lụa mang phong cách Biểu hiện ở trên, Trắc trở Tây Nguyên và
mùa khô Tây Nguyên không hề dùng bút pháp tả thực. Mỗi nét vẽ đều rất
giản lược, không phô trương, thanh mảnh nhưng hiện rõ và rất thoải mái khái
quát các chi tiết nhân vật trong tranh. Tranh được phân chia thành những
mảng hình lớn, nhiều khoảng lụa trống. Màu sắc tranh khá tách bạch theo
mảng tranh và hoàn toàn ngẫu hứng theo chủ ý của tác giả chứ không lệ thực.
Tác phẩm Người về cuối rừng gợi cho ta một không gian có yếu tố Biểu hiện
Siêu thực. Mọi thứ trong tranh không mạch lạc rõ ràng, khúc triết mà như ẩn,
như hiện, các motif mang màu sắc dân tộc gợi nếp nhà sàn, hình cây và người
cách điệu hiện lên trên mặt tranh mang nhiều yếu tố trang trí với nét hình
ngẫu hứng, to khỏe. Sắc xanh dương, ghi tối, điểm những nét trắng, một chút
cam đỏ tạo không gian mang nhiều suy tư về con người và mối liên hệ với
rừng, với tâm linh thần bí.
Như vậy có thể thấy số lượng tranh mang xu hướng Biểu hiện của tranh
lụa Việt Nam qua bốn kỳ TLMTTQ là không nhiều, số lượng tác phẩm tranh
tập trung vào 3 họa sĩ, mà chủ yếu là tranh của họa sĩ đến từ Đăk Lăk Lê Vấn.
Đây chưa phải là bức tranh toàn cảnh các tác phẩm mang phong cách Biểu
hiện của tranh lụa Việt Nam. Nhưng rõ ràng là có sự xuất hiện và tiếp nối qua
4 kỳ TLMTTQ của xu hướng Biểu hiện trong sáng tác tranh lụa Việt Nam
giai đoạn 2000- 2015.
37
2.3. Xu hướng Siêu thực trong sáng tác tranh lụa Việt Nam
Phong trào văn học nghệ thuật Siêu thực phát sinh ở Pháp và phát triển
mạnh trong những năm 1920- 1930. Andre Breton, nhà lý thuyết chính của
phong trào, người đã soạn thảo ra tuyên ngôn Siêu thực, nói rằng mục đích
của Siêu thực là “giải quyết tình trạng mâu thuẫn có sẵn giữa mộng và thực,
đưa nó tới một thực tế tuyệt đối, trạng thái siêu thực” [23, tr.121]. Các tác
phẩm hội họa Siêu thực tái hiện lại giấc mơ bằng cách cắt dán các sự vật cạnh
nhau một cách phi lý dưới sự mô tả theo lối hiện thực. Hay cũng có khi kết
hợp các sự vật và bóp méo chúng, biến dạng chúng tạo thành sự kì dị trong
tác phẩm. Siêu thực đã trở thành một phong trào thẩm mỹ được phổ biến rộng
rãi nhất và gây nhiều tranh luận nhất giữa hai cuộc Đại chiến thế giới. Cho
đến ngày hôm nay, tinh thần của nghệ thuật Siêu thực, chú trọng tới sự kỳ dị
nhưng vẫn đậm chất thơ dường như vẫn trường tồn và tiếp tục ảnh hưởng tới
nghệ sĩ ở nhiều nước trên thế giới [21, tr.1047-1048][01].
Ở Việt Nam, cả trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, đã có nhiều thế hệ họa
sĩ tiếp cận với hội họa Siêu thực, bị tinh thần của Siêu thực hấp dẫn để đi đến
thử nghiệm, kiên trì theo đuổi và thành công với phong cách này. Một số họa
sĩ nổi bật là Lê Quảng Hà, Nguyễn Đình Đăng, Lê Huy Tiếp, Lưu Tuyền,
Nguyễn Ngọc Quân, Lê Nguyên Mạnh, Trần Trung Tín,… Các sáng tác Siêu
thực của họ đều bằng chất liệu sơn dầu. Tranh thể hiện sự tự do tự tại trong
một thế giới giao thoa nhau, không bị gò bó bởi không gian hay thời gian theo
đúng nghĩa của nó. Tất cả sự vật trong tranh của họ đều được vờn tỉa kỹ càng,
như thể cầm nắm được, nhưng tinh thần bức họa lại không như vậy. Nó cho ta
cảm giác đó chỉ là những ảnh ảo. Các hình thể dường như cũng có đời sống tự
thân trong một không gian ảo, phi hiện thực. Với nghệ thuật tranh lụa, sau
năm 2007 với “Triển lãm tranh lụa Việt Nam” do Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh,
Bộ Thể thao Văn hóa và Du lịch đứng ra tổ chức, nhiều họa sĩ đã tìm về với
chất liệu lụa, đổi mới ngôn ngữ tạo hình, phong cách nghệ thuật và cho ra đời
38
các tác phẩm tranh lụa mang xu hướng Siêu thực. Các tác phẩm tranh lụa
mang phong cách nghệ thuật Siêu thực chủ yếu nói về vẻ đẹp con người và
mối liên hệ giữa con người với thiên nhiên, cuộc sống. Mỗi tác phẩm đều như
một giấc mơ, phản ánh những ham muốn vô thức của họa sĩ với những hình
ảnh sống động trong không gian mơ màng, hư ảo, thực mà không thực.
Dựa trên hiểu biết của cá nhân, sau khi tham khảo tư liệu lý thuyết, hình
ảnh về thể loại tranh Siêu thực, người viết xếp 5 bức tranh trong TLMTTQ
giai đoạn 2000- 2015 vào các tác phẩm mang phong cách nghệ thuật Siêu
thực. Đó là tác phẩm Dương gian (H.47) của Nguyễn Thị Huệ (Thừa Thiên
Huế), tác phẩm Ngày gió lớn (H.48) của Lê Việt Trung, Tiêu bản năm 20xx
(H.50) của Mai Hùng (Tuyên Quang), Nữ thần (H.46) của Vũ Đình Tuấn,
Muốn thoát ra khỏi cái bóng ấy (H.49) của Nguyễn Thu Hương. Năm tác
phẩm thể hiện bốn nội dung khác nhau, cách thể hiện thông qua hình ảnh
nhân vật, bút pháp và bố cục hoàn toàn khác nhau nhưng đều có thể hiện yếu
tố Siêu thực trong đó.
Tác phẩm Dương gian (H.47) trong TLMTTQ 2010 của Nguyễn Thị
Huệ không khắc họa một không gian thực tại cụ thể nào. Hình ảnh chính của
bức tranh là ba vị tăng sư đang quay lưng lại phía người xem tranh, mặt quay
vào không gian vô định. Toàn bộ bức tranh là gam màu cam nóng đỏ. Lớp
tranh phía sau ba vị tăng sư là khoảng sáng trắng lóa lên giữa toàn bộ khung
cảnh mờ ảo. Trên một phạm vi lớn giữa tranh, vệt bút to, lộ dấu bút xơ như
cào lên mặt lụa tạo cho bố cục bức tranh càng dồn vào trọng tâm, nơi vầng
sáng, đầy suy tư, khắc khoải. Hiệu ứng mờ nhòe trên bề mặt lụa vừa giúp tạo
khối cho hình ảnh ba vị sư như thực, như gần ngay trước mắt, có thể giơ tay
theo mà với được. Không gian tranh hư hư, ảo ảo, không phải thực mà như
được khắc họa từ những cảm giác, bóng hình bước ra từ trong giấc mơ. Bức
tranh gợi đến thế giới tâm linh huyền bí, hướng về ánh sáng, tới cõi Phật như
chính cái tên tranh mà tác giả đặt.
39
Cũng trong TLMTTQ 2010, tác phẩm Ngày gió lớn (H.48) lại gợi cho ta
nghĩ tới một câu chuyện khác. Bố cục tranh nằm ngang, chiếm phần lớn là
hình ảnh một nhân vật nữ nằm ngủ say, co mình trong chăn, cánh tay đưa lên
che gần hết khuôn mặt. Phía bên trái tranh, nhân vật thứ hai không được vẽ
trọn thân hình và bị cắt mất phần đầu và vai, nằm ngang tranh, không cùng
chiều với nhân vật nữ. Cả hai nhân vật đều được tả rất thực, từ nếp tóc trên
gối, khuôn mặt, cánh tay, làn da thịt của nhân vật nữ. Nhất là chiếc chăn đang
ôm trọn lấy cô, từng nếp gấp của chăn đều nổi khối, chỗ nhăn nhúm, chỗ
bông xốp, thực như mắt ta nhìn thấy. Tranh không đi theo lối trang trí, ước lệ
tượng trưng thường thấy ở tranh lụa mà tả rất kĩ, nếu không nhìn chất liệu và
chú thích trong vựng tập, sẽ không nghĩ đây là một tác phẩm tranh lụa mà
nhầm sang sơn dầu mất. Đối lập với cái hiện thực như cầm nắm được của
tranh là không gian trừu tượng. Đó là những chấm tròn quanh cả hai nhân vật,
không rõ đây là họa tiết của nền phía dưới nhân vật, có thể của ga, gối hay
dụng ý nào đó của tác giả. Thêm vào đó là khoảng nền lụa trống trơn, với
những vệt màu xanh quết ngược từ dưới lên. Hình ảnh nhân vật nam, không
những bị giới hạn tranh cắt mất phần trên mà còn bị vẽ chìm vào trong bóng
tối. Phần chân của người nữ không rõ nét như tả phần đầu mà mờ đi. Chính
không gian nền đó, cách xử lí bóng sáng và bố cục tranh cho ta cảm giác
Ngày gió lớn không phải là một ngày của thực tại mà bước ra từ trong ký ức,
trong tâm tưởng của họa sĩ, được chắp ghép lại, cũng lộn xộn và khó hiểu như
bố cục tranh vậy. Bức tranh vẽ theo lối tả thực nhưng mang phong cách nghệ
thuật Siêu thực.
Tác phẩm tranh lụa mang phong cách nghệ thuật Siêu thực thứ ba trong
TLMTTQ giai đoạn 2000 - 2015 là tác phẩm Tiêu bản năm 20xx (H.50) của
họa sĩ Mai Hùng. Tác phẩm là một trong bốn tranh lụa đoạt giải khuyến khích
và là một trong sáu tác phẩm lụa đoạt giải trong TLMTVN 2015. Nó đánh
dấu một thành công mới của tranh lụa trong kỹ thuật và biểu cảm. Có lẽ chưa
40
bao giờ một khuôn mặt, một chân dung lại có thể vẽ chi tiết kĩ càng đến thế.
Bức tranh là một bố cục cắt ghép của hình ảnh đầu một cụ bà dân tộc, hai
mảnh vải thổ cẩm và một mảnh trang sức bạc. Bố cục cắt ghép những hình
ảnh, chi tiết vật thể thực đặt cạnh nhau một cách phi lí trong một không gian
phi thực tế của bức tranh là một trong những đặc trưng của nghệ thuật Siêu
thực. Cả ba chi tiết ở trong bức tranh đều được vẽ theo lối tả thực, kĩ càng.
Nhất là cái đầu tả khuôn mặt bà, làn da già nua nhăn nhúm được tả kĩ từng
nếp da, cái miệng với màu môi đặc trưng của những người ăn trầu, như móm
mém, đôi mắt già không còn tinh anh mà nheo nheo. Đôi lông mày bạc màu
rướn lên theo nhịp nheo của mắt lộ rõ những vết nhăn trên trán. Chiếc tai đặc
trưng của người dân tộc với dáy tai chảy dài, đeo một chiếc khuyên tai bạc
nhỏ. Chiếc khăn đội trên đầu cụ cũng được tả sinh động không kém, mềm mại
như có thể cảm nhận đây là mảnh khăn vải cotton tự nhiên vậy. Chi tiết mảnh
vải thổ cẩm, chi tiết mảnh trang sức bạc cũng được tả kĩ như vậy. Màu sắc
tranh hài hòa tinh tế với khuôn mặt được tả theo đúng màu da thịt nổi lên trên
nền vải màu xanh thổ cẩm, màu trắng của khăn, của chi tiết khuyên tai, mảnh
bạc trang trí. Tất cả các chi tiết trong tranh đều rất thực, đặc biệt khuôn mặt
thật biểu cảm. Nó cho thấy một tình cảm chân thành nơi người vẽ. Liên hệ với
tên tác phẩm, có lẽ tác giả không muốn ca ngợi một nhân vật bà mẹ nào đó
bằng cách phô diễn khả năng vẽ lụa của mình khi vẽ một bức chân dung hoàn
thiện. Mà thông qua bố cục tranh có thể thấy dụng ý của tác giả khi nâng tầm
nhân vật thành biểu tượng. Hình ảnh bà mẹ ấy tượng trưng cho thời gian, cho
quá khứ, cho những đau thương, khó nhọc, hy sinh qua chiến tranh… Hoặc có
thể chỉ là những ám ảnh nào đó trong tâm trí họa sĩ về tình yêu với vẻ đẹp của
bà mẹ dân tộc. Nhưng rõ ràng tác giả đã chọn cách thể hiện tác phẩm của
mình theo hướng Siêu thực.
Tác phẩm mang phong cách nghệ thuật Siêu thực nữa trong giai đoạn
TLMTTQ 2000- 2015, Muốn thoát ra khỏi cái bóng ấy (H.49) của Nguyễn
41
Thu Hương thực sự là khó hiểu với người viết. Tác phẩm có một tông màu
xanh lạnh, nền đen xám, Nguyễn Thu hương không dùng cách cắt ghép các
hình ảnh được tả thực trong không gian phi thực mà khai thác nhiều ở lối bóp
méo hình thể. Bức tranh Muốn thoát ra khỏi cái bóng ấy khắc họa hình ảnh
hai người trong hai tư thế khác nhau, được tô màu xanh lét, khác hẳn với màu
da thịt thông thường, nằm ở giữa những vòng xoáy chạy theo nhịp ngang,
cùng vị trí với đầu của nhân vật, nhưng không rõ đầu. Toàn bộ nền tranh là
một màu ghi xám với nửa trên nhạt hơn một độ, ẩn trên nền là những họa tiết
hoa lá chằng chịt. Có lẽ, tác giả đang muốn thể hiện sự trăn trở, ám ảnh nào
đó trong sâu thẳm nội tâm của bản thân ra bề mặt tranh bằng những hình ảnh
phi lý từ trong suy tư của mình.
Nhưng đặc sắc và nổi bật hơn cả trong loạt các tác phẩm mang phong
cách Siêu thực là tác phẩm Nữ thần (2015) (H.46) của Vũ Đình Tuấn (thuộc
hội đồng nghệ thuật). Tranh không tái hiện hiện thực bằng cách sử dụng ngôn
ngữ tạo hình ước lệ tượng trưng như các tranh lụa hiện đại khác. Trên bố cục
chia làm ba phần, tranh vẽ ba hình mặt người trên nền lụa để trống. Một cái
mặt ở giữa lớn nhất, chính diện và hai cái mặt nhỏ ở hai bên, quay sang hai
phía chỉ thấy một nửa mặt. Một cái bên trái màu đen và một cái bên tay phải
màu trắng, đối lập nhau. Nhưng cả ba khuôn mặt mà đặc biệt là khuôn mặt
chính diện có đúng một cái miệng, còn cả ở hai mặt quay bên cũng chỉ là hình
khuôn mặt, không có mắt, mũi. Thay vào đó, trên cả ba khuôn mặt là các chi
tiết hoa lá đan xen vào nhau quấn quít, những sợi dây được tác giả tả rất kỹ,
rất đầy đặn rủ xuống, quấn chặt lấy những lọn tóc như quấn chặt vào bóng
đêm ẩn ý một điều gì đó khó tả, nhất là những bông hoa Quỳnh trên khuôn
mặt chính diện. Mỗi bông mỗi vẻ, sắc màu biến ảo từ hoa và lá cùng khuôn
mặt. Sắc trắng của hoa Quỳnh thay đổi phong phú, quyến rũ, huyền ảo trong
đêm, hoa nở và hoa tàn rũ rượi, buông thõng cột chặt những nút thắt gợi cho
người xem phải liên tưởng, suy ngẫm. Những chi tiết trang trí được vẽ tỉ mỉ,
42
màu sắc tươi, mạnh, rực trên tranh tạo sức hút, sự hấp dẫn đặc biệt. Nhìn vào
tranh ta có thể liên tưởng tới tác phẩm…. của Salvador Dali (1904- 1989). Nữ
thần của Vũ Đình Tuấn là một tác phẩm mang phong cách tạo hình cá nhân
độc đáo, hoàn toàn khác biệt, đầy tính siêu thực, giàu chất trang trí, kết hợp
yếu tố đồng hiện. Đây cũng là đặc trưng thường thấy trong các tác phẩm tranh
lụa khác của họa sĩ.
Về mặt kỹ thuật lụa, họa sĩ đã kết hợp cả lối vẽ truyền thống (nhuộm
màu nhiều lần) tạo độ sâu và sự lung linh trong trẻo của các sắc độ trong tranh
lẫn kinh nghiệm và kỹ thuật xử lý chất lụa của cá nhân. Nhìn vào tranh có thể
cảm phục kỹ thuật lụa cùng tư duy sáng tạo nghệ thuật của họa sĩ. Đó là sự
kết hợp giữa chất liệu truyền thống và ngôn ngữ tạo hình đương đại với bố
cục táo bạo và màu sắc tương phản mạnh mẽ. Tranh không chỉ là cảm xúc,
ghi nhận lại hiện thực trong cuộc sống mà bao hàm nhiều tầng nghĩa hàm
chứa những vấn đề về thiên nhiên, con người, nội tâm sâu sắc.
Mặc dù tranh lụa mang phong cách nghệ thuật Siêu thực mới xuất hiện
từ TLMTTQ 2010 với số lượng tranh không nhiều nhưng nó vẫn cho thấy sự
hiện hữu của xu hướng Siêu thực trong các tác phẩm mỹ thuật Việt Nam nói
chung và TLMTTQ giai đoạn 2000 - 2015 nói riêng.
2.4. Xu hướng Pop art trong sáng tác tranh lụa Việt Nam
Pop Art được coi là một phong trào nghệ thuật thị giác đặc trưng nổi lên
giữa thập niên 1950 tại Anh, đồng thời bùng nổ ở Mỹ vào cuối thập niên này.
Nghệ thuật Pop art ra đời như một sự phản ứng lại những lý thuyết của chủ
nghĩa Biểu hiện, Trừu tượng, Siêu thực, muốn xoá bỏ sự xa cách giữa nghệ
thuật và cuộc sống.
Pop Art mới xuất hiện ở Việt Nam vào đầu thập niên 1990 đã nhanh
chóng thu hút được các họa sĩ, trở thành xu hướng nổi bật đáng kể của hội họa
đương đại. Các tác phẩm Pop art nói chung sử dụng các khía cạnh của văn
hóa đại chúng, những hình ảnh sản phẩm, vật dụng tầm thường rẻ tiền, sản
43
xuất hàng loạt để sáng tạo nên mỹ cảm, chẳng hạn như quảng cáo, truyện
tranh và các đối tượng văn hóa bình dân… Bố cục tranh Pop art thường rất
ngẫu hứng thể hiện các đề tài mang tính thời sự, các chủ đề cuộc sống nơi
phồn hoa đô thị đương thời, đôi khi tầm thường, sáo rỗng… nhưng nói chung
đều là biểu hiện của một xã hội tiêu thụ. Màu sắc tranh sặc sỡ, lôi cuốn, sống
động, tươi mới, phần lớn là những gam màu chói như đỏ thẫm, đỏ tươi, vàng,
tím, xanh da trời và xanh lá cây.... mang lại cảm giác hiện đại, tươi vui, mới
mẻ. Tranh thường sử dụng mảng phẳng chịu ảnh hưởng từ công nghệ in ấn
hàng loạt. Nó không chỉ lôi cuốn người xem, gây tác động thỏa mãn thị giác
đơn thuần, mà còn thích thú về chủ đề hài hước, trào phúng hay cái nhìn đa
hướng về một xã hội đang trên đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nó vượt ra
ngoài các quy tắc và làm bật lên cá tính của chủ nhân, muốn thể hiện mình mà
không quan tâm đến ý kiến của người khác. Mặc dù nghệ thuật Pop art trên
thế giới xuất hiện từ những năm 50, ở Việt Nam xuất hiện từ những năm 90
của thế kỷ trước và đang phát triển rất mạnh mẽ nhưng nghệ thuật tranh lụa
vẫn chưa có những dấu hiệu bắt kịp với xu thế chung đó. Các tác phẩm tranh
lụa trong các vựng tập Mỹ thuật như cuốn Triển lãm tranh lụa Việt Nam năm
2007, TLMTTQ 2005, TLMTTQ 2000, TLMTTQ 1995, Tranh lụa Việt Nam
xuất bản năm 1997, Tranh lụa Việt Nam xuất bản năm 1992,… đều không
thấy tác phẩm nào mang yếu tố của nghệ thuật Pop art [08].
Trong 4 kỳ TLMTTQ giai đoạn 2000- 2015, ta thấy những tác phẩm
tranh lụa mang phong cách nghệ thuật Pop art bắt đầu thấy xuất hiện từ
TLMTTQ 2010. Đó là 4 tác phẩm lụa của hai họa sĩ Bùi Tiến Tuấn với Sự
cám dỗ (H.54), Đàn bà, mặt nạ và bóng tối (H.53) và Ngày yên bình (H.52),
Thiên nhiên trong nhà (H.51) của Trần Xuân Bình. Sang TLMTVN 2015 con
số các tác phẩm mang phong cách nghệ thuật Pop art tăng lên 12 là Ngày đơm
hoa (H.55) của Trần Xuân Bình, Tuổi teen (H.57) của Phạm Hồng Như, Sự
điều khiển (H.63) của Nguyễn Ngọc Gia Bảo, Vào mùa (H.64) của Trần
44
Hoàng, Hạnh phúc dịu ngọt (H.66) của Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Chợ nổi
(H.58) của Nguyễn Đăng Khoát, Thợ cắt tóc (H.59) của Lương Thị Mỹ Lệ,
Góc phố (H.61) và Một buổi sáng (H.60) của Nguyễn Hoàng Long, Rón rén
(H.65) của Huỳnh Lệ Như, Bơi (H.56) của Trần Thị Song Phụng và Đam mê
2 (H.62) của Phạm Phương Quỳnh. Có thể dễ dàng nhận thấy đặc điểm nổi
bật nhất của nghệ thuật Pop art trong các tác phẩm tranh lụa mang phong cách
này. Đó là tính thời sự, thể hiện cuộc sống đô thị phản ánh trong nội dung, đề
tài tác phẩm; là sự ảnh hưởng từ tryện tranh trong cách tạo hình nhân vật và
tính quảng cáo, sử dụng các mảng bẹt, các chi tiết cắt dán, nhân bản, bố cục
ngẫu hứng, màu sắc phô trương.
Tác phẩm Tuổi teen (H.57) của Phạm Hồng Như vẽ rất chi tiết hai nhân
vật nữ đang độ tuổi trăng tròn, phản ánh chân thực hình ảnh của một thế hệ
mà tiếng lóng xã hội hiện đại bây giờ gọi là tuổi teen. Một bạn gái mặc áo
trắng chấm bi với viền cổ và tay áo màu đỏ, quần soóc bò ngắn, một tay đeo
đồng hồ, mái tóc xuông thẳng buộc bím nhỏ bên cạnh mái được cắt ngang.
Một bạn gái ăn mặc “bụi” hơn, áo ba lỗ màu đen, họa tiết là chữ tiếng Anh
màu trắng (I’m in love, I, Yo…), chiếc áo ngoài khoét nách rộng hở lớp áo
nữa bên trong, kết hợp với chiếc quần jean xanh đúng mốt thời trang được các
bạn trẻ yêu thích những năm gần đây. Bạn gái áo đen còn nhuộm tóc vàng
hoe, buộc tóc đuôi ngựa cao lên, đeo rất nhiều vòng dây tết. Cả hai bạn gái
đều đeo khuyên tai, sơn móng tay rất sành điệu và chăm chú vào chiếc điện
thoại cầm trên tay, một bạn còn đeo tai nghe nhạc. Xung quanh hai bạn gái là
rất nhiều chi tiết chữ, những hình ảnh phổ biến trên mạng xã hội, trò chơi điện
tử trực truyến như chú chim Angry bird, biểu tượng cảm xúc mặt cười
animation, Zalo, Twitter, login, like….Các chi tiết hình ảnh trong tranh đầy
màu sắc, bố cục ngẫu nhiên, tạo sự năng động, trẻ trung, vui nhộn rất đặc
trưng của Pop art. Qua hình ảnh hai bạn gái rất thời trang, rất teen ấy cùng các
chi tiết trên tranh, ta có thể thấy dụng ý của tác giả muốn phản ánh một phần
45
thực tế đời sống của thế hệ trẻ hiện nay. Khi mà cuộc sống càng ngày càng
được công nghệ hóa, các bạn trẻ bị cuốn hút, quan tâm và dành nhiều thời
gian cho thế giới ảo, cho các trang mạng xã hội. Một đề tài mới mẻ, gắn liền
với đời sống xã hội đương đại chưa từng được phản ánh khác hẳn với vẻ nền
nã, mềm mại trong các tranh thiếu nữ của chất liệu lụa trước đây.
Tác phẩm Sự điều khiển (H.63) của Nguyễn Ngọc Gia Bảo cũng nói về
thực tế trong những năm gần đây khi công nghệ thông tin phát triển vượt bậc,
con người ngày càng dành nhiều thời gian cho thế giới ảo, bị chi phối một
cách tiêu cực. Trong tranh là hình ảnh một chú hề đang trong trạng thái nude
với má đỏ, đeo cái vòng cổ xòe gắn các quả bông đỏ và mái tóc thời trang
cũng nhuộm đỏ có phần cường điệu cho kì dị đang bị trói tay lơ lửng trong
tranh như một con rối. Điều đặc biệt làm nên ý nghĩa bức tranh là sợi dây trói
nhân vật vừa là hề, vừa là rối ấy chính là chiếc dây tai nghe head phone, một
đầu cắm vào chiếc điện thoại vẫn đang cầm ở tay. Tác phẩm vì thế mang tính
phản biện xã hội, cũng là đặc trưng trong nội dung mà nghệ thuật Pop art thể
hiện.
Trong số 16 tác phẩm lụa mang phong cách nghệ thuật Pop art, có tới 3
tác phẩm là của họa sĩ Trần Xuân Bình mà 2 trong số đó đã đoạt giải. Trần
Xuân Bình là giáo viên dạy tranh lụa trong trường Đại học Mỹ thuật Việt
Nam. Tranh anh là sự kết hợp giữa kỹ thuật lụa vững vàng, giàu tính hiện
thực, màu sắc nhẹ nhàng, trong trẻo và cái nhìn tinh tế về cuộc sống thành thị.
Tác phẩm Ngày yên bình (H.52) tái hiện một góc sân vắng của khu nhà tập
thể cũ kĩ quen thuộc trong các thành phố lớn với những hàng dây điện chằng
chịt vắt ngang, một vài chiếc xe máy dựng trong sân. Tranh được nhuộm
trong sắc xanh mạ, một sắc màu tươi mới rực rỡ, chưa thấy ở các tác phẩm lụa
khác. Còn trong tác phẩm Ngày đơm hoa (H.55) ta có thể cảm nhận được sự
sung túc, an nhàn, lạc quan, vui vẻ của cuộc sống hiện đại mới. Tranh Ngày
đơm hoa có bố cục 2 lớp, lớp trước là hình ảnh cây cảnh xanh lá đang trổ hoa,
46
toàn bộ lớp sau là quang cảnh bể bơi có đôi trai gái đang bơi và tận hưởng
cuộc sống. Bức tranh chỉ có hai hòa sắc chính là màu xanh lá của cây và xanh
biếc của trời, của nước. Cả bức tranh toát lên một sự trẻ trung, mang rõ tính
Pop art. Bức tranh cuối Thiên nhiên trong nhà (H.51) của Trần Xuân Bình
nếu nhìn thoáng qua ta có thể xếp sang phần các tác phẩm tranh lụa sinh hoạt
gia đình mang phong cách nghệ thuật Hiện thực. Bức tranh vẽ một không gian
phòng khách có bàn ghế, tivi, tranh, lọ lục bình, hoa quả, đèn bàn, với nhân
vật chính là hai mẹ con đang ngồi tựa lưng xem tivi, một khoảnh khắc của
cuộc sống thường ngày. Tranh được vẽ bằng tông màu đỏ, một trong những
sắc màu tươi rực đặc trưng cho phong cách nghệ thuật Pop art. Nhưng không
phải tranh nào mang màu mạnh cũng mang phong cách Pop art. Nhìn kỹ, hầu
hết vật dụng trong bức tranh đều bằng gỗ, nhất bộ bàn ghế gỗ mà chiếc lưng
ghế nằm chình ình ngay giữa mặt tranh, chiếm trọn phần lớn diện tích tranh,
đến cả hai chiếc lục bình to cũng bằng gỗ. Tác phẩm mang tên thiên nhiên
trong nhà mà cả bức tranh chẳng có lấy một chi tiết hoa lá màu xanh vốn có
của thiên nhiên mà thay vào đó là tông màu nâu đỏ rực. Chi tiết đặc biệt là
trên màn hình tivi đang chiếu hình ảnh rừng cây gỗ bị chặt chỉ còn trơ lại gốc.
Đây chính là yếu tố làm nên tính phản biện xã hội cho bức tranh, nó hài hước
và giễu nhại như tên gọi Thiên nhiên trong nhà mà tác giả đã đặt.
Các tác phẩm khác như Góc phố (H.61), Một buổi sáng (H.60) của
Nguyễn Hoàng Long, Thợ cắt tóc (H.59) của Lương Thị Mỹ Lệ, Bơi (H.56)
của Song Phụng, Đam mê 2 (H.62) của Phạm Phương Quỳnh, Vào mùa
(H.64) của Trần Hoàng, Hạnh phúc dịu ngọt (H.66) của Ngọc Huyền, Chợ
nổi (H.58) của Đăng Khoát đều phản ánh hiện thực cuộc sống mới, có phần
thiên về yếu tố hiện thực nhiều hơn. Tác phẩm Góc phố (H.61) tái hiện cuộc
sống thường ngày của người dân lao động trên hè phố với người thợ cắt tóc
đang miệt mài phục vụ khách hàng, đôi người ngồi uống nước chè thong thả
đọc báo, và một chú bé đang ăn kem, tay cầm chiếc máy bay đồ chơi. Một
47
buổi sáng (H.60) là một góc chợ bán vật nuôi, với hình ảnh chiếc xe chở đầy
các lồng nhốt chó mèo, người mua đứng ngắm nghía, vuốt ve chúng. Thợ cắt
tóc (H.59) “zoom” một góc nhìn cận cảnh hơn, tập trung diễn tả khuôn mặt
chăm chú, đôi bàn tay khéo léo của anh thợ cắt tóc. Đam mê 2 (H.62) là một
góc phòng của cô gái trẻ yêu thời trang. Bơi (H.56) lại đem lại không khí mát
mẻ, tươi vui của trẻ con trong làn nước trong xanh ở bể bơi thành phố… Mặc
dù không mang tính phản biện xã hội nhưng các tác phẩm này vẫn ẩn chứa
thông điệp nào đó về cuộc sống thành thị hay đời sống xã hội mới. Đặc điểm
chung trong các tác phẩm tranh lụa này bố cục tranh thoáng đạt, lạ mắt, màu
sắc tươi vui. Một số tác phẩm sử dụng các mảng phẳng, các chi tiết cắt ghép
và cách tạo hình ảnh hưởng từ truyện tranh, báo chí một cách rõ nét như tranh
Góc phố (H.61), Chợ nổi (H.58), Thợ cắt tóc (H.59), Một buổi sáng (H.60),
Tuổi teen (H.57), Vào mùa (H.64), Sự điều khiển (H.63), Rón rén (H.66).
Dường như đặc tính mờ nhòe đặc trưng ở lụa đã được các họa sĩ tết chế một
cách tối đa. Thay vào đó là các mảng hình màu phẳng ít thay đổi sắc độ, khoe
nhiều nét bo quanh hình rõ nét.
Trong số các tác phẩm tranh lụa mang phong cách Pop art, Đàn bà, mặt
nạ và bóng tối (H.53) và Sự cám dỗ (H.54) của Bùi Tiến Tuấn có phong cách
nghệ thuật độc đáo khác biệt. Bùi Tiến Tuấn là họa sĩ được đào tạo chuyên
ngành lụa của trường Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh. Sau một thời gian ra
trường chuyển sang nghiên cứu chất liệu sơn dầu, anh lại quay lại niềm đam
mê với lụa và đã thành công qua hai triển lãm chính tên “Lụa” năm 2009 và
“Phù phiếm” năm 20111. Vẻ đẹp con người mà nhất là hình ảnh người phụ nữ
luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận cho người nghệ sĩ, và với Bùi Tiến
Tuấn cũng vậy. Anh không vẽ hình ảnh làng quê, phong cảnh thanh bình hay
cuộc sống sinh hoạt con người như đa phần tranh lụa truyền thống mà thổi
vào nền lụa một hơi thở mới mẻ. Những người phụ nữ trong lụa của anh có
một đặc trưng ngôn ngữ tạo hình, bố cục, màu sắc và cá tính riêng, không trộn
48
lẫn với bất cứ một hình ảnh nào, đầy ma lực và mộng mị. Trong tác phẩm lụa
treo TLMTTQ 2010, hình ảnh người phụ nữ được chắt lọc bằng những đường
nét tạo hình đầy tính biểu hiện. Làn da trắng để trần, nổi bật, tương phản trên
nền lụa đen ẩn giấu nhiều lớp sắc độ, rất sâu và vô cùng gợi cảm. Điểm vào
đó là sắc đỏ lấp ló ẩn hiện cùng những họa tiết trang trí kín đáo. Vẻ đẹp của
người phụ nữ ấy không phải là của một cô gái thôn quê. Nó tách biệt với thế
giới thực tại, rất bí ẩn, gợi cảm nhưng lại cuồng nhiệt, mạnh mẽ, nổi loạn và
đầy sức quyến rũ. Ngôn ngữ tạo hình và tứ tranh phản ánh cuộc sống nơi
phồn hoa đô thị, nhiều cám dỗ, phù phiếm, mang đậm hơi thở đương đại.
Qua phân tích một số tác phẩm lụa mang phong cách nghệ thuật Pop art
ở trên, ta thấy trong các tác phẩm lụa TLMTTQ giai đoạn 2000 – 2015 có xu
hướng Pop art. Đây là một xu hướng nghệ thuật mới mẻ của tranh lụa. Sự
xuất hiện và thành công của các tác phẩm tranh lụa mang xu hướng Pop art
mà tiên phong là những họa sĩ như Bùi Tiến Tuấn, Trần Xuân Bình đã nhanh
chóng được chú ý và góp phần tạo ra cơn sốt lụa thu hút rất nhiều họa sĩ trẻ
khác vẽ lụa. Sự phát triển lên 12 tác phẩm lụa trong TLMTVN 2015 mang
phong cách nghệ thuật Pop art không phải là con số nhiều nhưng so với 30 tác
phẩm lụa của toàn bộ trển lãm toàn quốc năm đó thì quả là một bước tiến lớn.
Chắc chắn các tác phẩm lụa mang phong cách nghệ thuật Pop art sẽ còn tiếp
tục được phát triển trong tương lai.
Tiểu kết chương 2
Khi nhóm các tác phẩm mang cùng phong cách nghệ thuật nào đó mọi
sự phân chia, sắp xếp chỉ mang tính tương đối. Vì thực ra nếu cứ xét một cách
cứng nhắc rằng hiện thực là phải như tranh Courbet (1819 – 1877) thì thật
khó. Bản thân nghệ thuật Việt Nam tiếp thu nghệ thuật phương Tây không
hoàn toàn theo rập khuôn một cách cứng nhắc mà vẫn kết hợp cả tính trang
trí, đồng hiện, cận viễn phi điểu đặc trưng của phương Đông. Các tác phẩm
tranh lụa khi xếp vào một phong cách nghệ thuật nghĩa là có mang trong mình
49
những yếu tố, đặc điểm nghệ thuật nào đó của phong cách nghệ thuật đó.
Chính vì thế, một số tác phẩm khi đặt vào nhóm này, lại cảm giác là chưa ổn,
hình như nó thuộc nhóm kia. Ví dụ như hai tác phẩm Ngày yên bình (H.52) và
Thiên nhiên trong nhà (H.51) của Trần Xuân Bình hay Góc Phố (H.61) của
Nguyễn Hoàng Long ban đầu người viết cũng có băn khoăn không biết có nên
xếp vào xu hướng Hiện thực không. Nhưng cuối cùng, sau khi nhận định về
cái mới trong ngôn ngữ tạo hình, bố cục, màu sắc và nội dung phản ánh của
tác phẩm đã chuyển sang Pop art, và thấy sự thay đổi này hợp lí hơn.
Thêm vào đó tư liệu ảnh mà người viết dùng để tham khảo là tranh in
giấy trong vựng tập các TLMTTQ nhiều chi tiết không được rõ. Cho nên chắc
chắn cái nhìn của người viết khi phân tích, nghiên cứu các xu hướng nghệ
thuật trong sáng tác tranh lụa Việt Nam giai đoạn 2000- 2015 còn hạn chế…
Nhưng qua nghiên cứu xu hướng sáng tác tranh lụa Việt Nam trong
TLMTTQ giai đoạn 2000 - 2015, ta thấy tranh lụa Việt Nam đang có bốn xu
hướng chính. Đó là xu hướng Hiện thực, xu hướng chiếm phần lớn. Là xu
hướng Biểu hiện với các tác phẩm liên tiếp có mặt qua cả bốn kỳ triển lãm.
Xu hướng Siêu thực bắt đầu xuất hiện ở TLMTTQ năm 2010, bước đầu có sự
phát triển về số lượng tranh tăng trong kỳ tiếp theo. Xu hướng Pop art cũng là
xu hướng mới, cũng xuất hiện lần đầu trong TLMTTQ 2010 như Siêu thực,
nhưng đã nhanh chóng khẳng định được vị thế của mình và có lẽ sẽ còn phát
triển mạnh ở các kỳ TLMTVN tiếp theo.
50
CHƯƠNG 3
BÀI HỌC RÚT RA QUA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1. Thành công và hạn chế của các xu hướng sáng tác tranh lụa
trong TLMTTQ giai đoạn 2000 - 2015
3.1.1. Thành công của các xu hướng sáng tác tranh lụa trong
TLMTTQ giai đoạn 2000 - 2015
Thời kỳ Đổi mới đã qua, đất nước đang tiến vào thời kỳ hậu Đổi mới,
với sự phát triển không ngừng trong mọi mặt của văn hóa, đời sống xã hội và
nhất là công nghệ thông tin, internet, truyền hình đã ảnh hưởng không nhỏ
đến hội họa nói chung và nghệ thuật tranh lụa Việt Nam nói riêng. Sự thay
đổi trong nội dung phản ánh, ngôn ngữ tạo hình và xu hướng nghệ thuật là
quy luật tất yếu kéo theo. Tranh lụa cũng không nằm ngoài quy luật đó. Sự
thay đổi trong xu hướng sáng tác tranh lụa trong TLMTTQ giai đoạn 2000 –
2015 có những thành công nhất định. Sự thành công đó là món quà đáp lại sự
lao động nghệ thuật miệt mài, tình yêu của họa sĩ với chất liệu lụa truyền
thống. Nhất là với các họa sĩ trẻ đang trên con đường tìm tòi, thể nghiệm
phong cách sáng tác mới cho bản thân.
Ngay các tác phẩm tranh lụa phong cách Hiện thực mang tính truyền
thống của lụa ở cả bốn kỳ TLMTTQ đã tiềm ẩn những nhân tố đổi mới. Sự
thay đổi đó là tạo hình cô đọng và màu xanh biếc phi thực tế của những chiếc
nhà sàn đối chọi với nền đất cam đỏ gắt đầy tính Biểu hiện trong tranh Phong
cảnh miền núi (H.32) của Trần Lưu Tuấn. Đó là màu sắc rực rỡ cùng không
gian ước lệ kết hợp thủ pháp đồng hiện trong tác phẩm Tắm suối (H.33) của
Nguyễn Thị Thu Hằng (TLMTTQ 2000). Là sự ngẫu hứng phá cách trong nét
vẽ linh hoạt khi to đậm, thô ráp, khỏe khoắn, khi mảnh, mờ trong tác phẩm
Trường Sơn (H.36) của Lê Thị Kim Bạch. Là sắc đỏ rực trong bố cục cô đọng
của Chiều trên bến (H.35) của Nguyễn Đăng Khoát, của Đình làng (H.38) của
51
Tòng Thị Trang, của Không gian 3 (H.28), Ngoài hiên nắng (H.29) của Phạm
Thanh Vân…
Bên cạnh xu hướng Hiện thực truyền thống trong tranh lụa và xu hướng
Biểu hiện (dù không phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có xuất hiện và tồn tại
qua cả bốn kỳ TLMTTQ), ta thấy sự xuất hiện của hai xu hướng mới là Siêu
thực và xu hướng Pop art. Sự xuất hiện và phát triển của hai xu hướng mới
cũng chính là thành công lớn nhất của các xu hướng sáng tác tranh lụa trong
triển lãm mỹ thuật toàn quốc giai đoạn 2000- 2015.
Theo một số tài liệu mà người viết đã tham khảo được về tranh lụa thì từ
thời kỳ những năm đầu ra đời tới những năm 2000 thì tranh lụa Việt Nam
không thấy có những sáng tác mang phong cách nghệ thuật Siêu thực và Pop
art. Gần đây, một số họa sĩ vẽ lụa đã tìm tòi thể hiện tranh lụa theo hướng
Siêu thực, Pop art nhưng phải đến TLMTTQ 2010 mới thấy sự có mặt của 2
tác phẩm lụa mang yếu tố nghệ thuật Siêu thực và 5 tác phẩm lụa mang yếu tố
nghệ thuật Pop art.
Đây có thể không phải là những tác phẩm tranh lụa đầu tiên mang phong
cách Siêu thực và Pop art của tranh lụa Việt Nam nhưng chắc chắn là những
tác phẩm tranh lụa đầu tiên mang phong cách Siêu thực và Pop art trong các
kỳ TLMTTQ. Nó báo hiệu một sự thay đổi trong tư duy sáng tác của những
họa sĩ yêu lụa, sự đổi mới trong phong cách lẫn nội dung, đề tài và kỹ thuật
của tranh lụa Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015. Phản ánh qua số lượng các tác
phẩm lụa mang phong cách nghệ thuật Siêu thực tăng lên 4 tác phẩm và Pop
art tăng lên 12 trong TLMTVN 2015 cho thấy sự phát triển ở cả hai xu hướng
trong tranh lụa Việt Nam. Và qua cả chất lượng các tác phẩm tranh lụa mang
phong cách nghệ thuật Siêu thực và Pop art. Chính vì thế xu hướng mới đó đã
thành công như những gì nó xứng đáng. Trong xu hướng Siêu thực của lụa, có
1 tác phẩm Tiêu bản 20xx (H.50) của Mai Hùng đạt giải khuyến khích
TLMTVN 2015.
52
Và đặc biệt là sự thành công của xu hướng Pop art trong tranh lụa. Từ 4
tác phẩm trong TLMTTQ 2010, sang TLMTVN 2015 tăng lên 12 tác phẩm,
chiếm gần nửa trong tổng số các tác phẩm tranh lụa được chọn trưng bày.
Trong đó 2 trong số 4 tác phẩm lụa mang phong cách nghệ thuật Pop art trong
TLMTTQ 2010 đã đoạt giải là Đàn bà, mặt nạ và bóng tối (H.53) của Bùi
Tiến Tuấn đã giành huy chương bạc, tác phẩm Ngày yên bình (H.52) của Trần
Xuân Bình đã giành huy chương đồng. Và xu hướng Pop art tiếp tục đạt 3 giải
trong TLMTTQ 2015 là Ngày đơm hoa (H.55) của Trần Xuân Bình, Tuổi
Teen (H.57) Phạm Hồng Như đạt huy chương đồng và Góc phố (H.61) của
Nguyễn Hoàng Long đạt giải khuyến khích.
Sự thay đổi xu hướng sáng tác của nghệ thuật tranh lụa sang Pop art còn
cho thấy sự chuyển biến trong tư duy sáng tác của họa sĩ vẽ lụa. Đối tượng và
nội dung trong các tác phẩm tranh lụa đi ra khỏi những chủ đề nhẹ nhàng,
thiên nhiên, con người, lao động, sinh hoạt hàng ngày mà hướng tới việc thể
hiện nội tâm sâu sắc bên trong tác giả. Nó phù hợp với những xu thế chung
của nghệ thuật đương đại. Khi mà thời kỳ của tranh mang tính tuyên truyền,
cổ động qua đi, các tác phẩm đang hướng tới sự phản ánh nhanh nhạy những
đề tài gắn liền với đời sống xã hội Việt Nam đương đại. Thông qua các tác
phẩm, họa sĩ trình bày, thể hiện các quan điểm, cách nhìn của mình về các
vấn đề thời sự đó.
Thành công nữa của các xu hướng sáng tác tranh lụa trong TLMTTQ
2000 – 2015 là ở sự nhuần nhuyễn vững vàng của các kỹ thuật lụa truyền
thống và sự phát triển thêm những cách xử lý lụa mới mang tính cá nhân riêng
biệt độc đáo và bổ xung các sắc màu đa dạng cho lụa. Màu sắc tranh lụa thời
kỳ này phát triển phong phú, đa dạng với cả những tông màu rực mạnh, có khi
đối chọi nhau khác hẳn tranh lụa thời kỳ trước. Nhiều tác phẩm được tìm hình
kỹ càng, công phu và xử lý sắc độ, màu, hiệu ứng loang nhòe chuẩn mực như
các tác phẩm của họa sĩ Lê Văn Sửu, Trần Xuân Bình,… Một số các tác phẩm
53
tranh lại kết hợp cả lối vẽ truyền thống (nhuộm màu nhiều lần) để tạo độ sâu,
độ lung linh của màu sắc lẫn những kinh nghiệm của bản thân để tạo ra hiệu
quả sau cùng. Ví dụ như các tác phẩm lụa của Vũ Đình Tuấn. Tác giả ít khi
sử dụng kỹ thuật rửa lụa trong quá trình vẽ, thay vào đó là kỹ thuật lau màu
cục bộ, lấy bớt màu nơi cần thiết bằng kỹ thuật riêng biệt để tạo ra sự thay đổi
đậm nhạt, giữ được sắc thắm của màu [10, tr.48]. Bên cạnh đó có những tác
phẩm không chú trọng tìm hình, xử lý vuốt nước, loang nhòe mà vẽ thẳng lên
mặt tranh, đầy cảm xúc và mang tính biểu hiện, thể hiện cá tính mạnh mẽ và
tay nghề vững vàng của họa sĩ.
Đặc biệt với tác phẩm Hồn quê (H.27) và các tác phẩm mang xu hướng
Siêu thực, nghệ thuật tranh lụa đã có sự thay đổi trong những quan niệm về
tạo hình của lụa truyền thống. Trong các tác phẩm tranh lụa từ trước Chơi ô
ăn quan (Nguyễn Phan Chánh), Ghé thăm nhà (Nguyễn Trọng Kiệm), Làng
ven núi (Nguyễn Thụ)… tới nay, các họa sĩ hầu như chỉ dùng mảng và nét để
gợi tả nhân vật và không gian bằng thủ pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng là
chính. Bản thân chất liệu lụa với đặc trưng kĩ thuật nhuộm lụa, vuốt nước của
tranh lụa Việt Nam đã hạn chế khả năng diễn tả khối nổi của không gian tự
nhiên, khả năng diễn ánh sáng, bóng tối. Nhưng các tác giả của các tác phẩm
tranh lụa Hiện thực Hồn quê (H.27), tranh mang phong cách nghệ thuật Siêu
thực Tiêu bản 20xx (H.50), Ngày gió lớn (H.48) đã góp phần mở rộng khả
năng kỹ thuật tạo hình của lụa, chứng minh rằng lụa cũng có thể là một chất
liệu để tả ánh sáng, khối theo cách riêng của mình. Nhất là các chi tiết tả da
thịt trên khuôn mặt hình tượng bà mẹ trong tranh Tiêu bản 20xx (H.50) của
Mai Hùng. Ánh sáng hắt vào khuôn mặt, nổi rõ khối cằm, mũi, gò má, hốc
mắt, sinh động và chân thực không kém gì cách vờn khối tả, vẽ trên sơn dầu.
Đây cũng là một thành công trong kỹ thuật của xu hướng lụa giai đoạn này.
54
3.1.2. Hạn chế của các xu hướng sáng tác tranh lụa trong TLMTTQ
giai đoạn 2000 - 2015
Bên cạnh những thành công, xu hướng sáng tác tranh lụa trong
TLMTTQ cũng cho thấy một số những hạn chế. Tranh lụa với các đặc tính
chất liệu rất khó tính, kén người vẽ nên hạn chế phần nào khả năng sáng tác
của các họa sĩ. Để vẽ được một tác phẩm lụa đẹp đòi hỏi rất nhiều công phu.
Từ khâu tìm hình, hoàn thiện bản nét đến việc cân nhắc đặt màu, sắc độ trong
tranh… rất mất thời gian mà lại không thoải mái trong khi dụng bút tìm hình,
chồng lớp màu. Hơn nữa hiệu quả của tranh lụa lại không tác động thị giác
mạnh như sơn dầu, sơn mài. Nhiều họa sĩ quen vẽ sơn dầu, sơn mài, chuyển
sang lụa cảm thấy khó chịu vì bị gò bó và không thích vẽ lụa. Thêm vào đó
chất liệu lụa lại không bền như chất liệu sơn dầu, sơn mài và về mặt kinh tế
thì tranh lụa bán cũng không được giá như các chất liệu hội họa khác. Đó
cũng chính là lí do vì sao các xu hướng nghệ thuật đã có rất nhiều, từ lâu ở
các chất liệu khác nhưng lụa thì mãi sau này mới có. Nghệ thuật Biểu hiện,
Siêu thực phát triển trên thế giới từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, và Pop art thế giới là những năm 1950 còn trong hội họa Việt Nam là từ
thời kỳ Đổi mới mà mãi tới cuối thế kỷ XX mới thấy Biểu hiện trong tranh
lụa và tới tận đầu thế kỷ XIX mới có những tác phẩm Siêu thực, Pop art lụa
đầu tiên. Quả là một sự chậm trễ.
Chính vì đặc tính chất liệu lụa “đỏng đảnh” như vậy nên các họa sĩ đã
chót yêu chất liệu lụa mặc dù rất muốn thay đổi ngôn ngữ tạo hình, tìm tòi
ngôn ngữ biểu hiện mới cho lụa vẫn phải chiều theo tính cách của lụa. Việc
tìm ra một hướng đi mới mẻ cho một chất liệu lụa truyền thống cũ kĩ, vẽ sao
để lụa là lụa, còn thấy mặt lụa, vẫn phô diễn được chất liệu lụa óng ả, trong
trẻo cùng những thớ lụa là rất khó. Khi kết hợp với các yếu tố đặc trưng của
các phong cách nghệ thuật khác Hiện thực để tìm ra ngôn ngữ tạo hình mới
55
cho lụa, các tác phẩm tranh lụa mang phong cách Biểu hiện, Siêu thực, Pop
art đã có những thể nghiệm thành công, nhưng cũng có cái hạn chế.
Hạn chế rõ nét nhất là một số tác phẩm chịu ảnh hưởng quá nhiều từ
phong cách truyện tranh, cách tạo hình nhân vật truyện tranh và tính chất
quảng cáo, sử dụng các mảng bẹt, các chi tiết cắt dán, với nét bo hình đồng
đều, các mảng màu ít độ rung nhòe đặc trưng của lụa mà tách bạch, rõ mảng
hình. Tác phẩm Vào mùa (H.64) của Trần Hoàng là một ví dụ cho sự ảnh
hưởng này. Tranh được tác giả tìm hình rất kỹ, mỗi chi tiết đều được vẽ rất tỉ
mỉ, đáng yêu, bố cục có nhịp điệu, nhân vật tạo dáng rất hoạt, màu sắc tranh
nhẹ nhàng, tươi mát. Nhưng về phần tạo hình, tác giả đã hơi tham, tất cả các
mảng miếng, hình được tả kĩ như nhau. Cách đi màu cũng vậy, các mảng màu
được thể hiện rõ nét trong phạm vi hình đã được viền sẵn bằng nét mảnh đồng
đều. Chính sự tách bạch đó làm mất trọng tâm của bức tranh, bố cục dàn đều,
rối mắt và cứng nhắc. Có thể suy nghĩ của người viết cũng như nhiều người
khác vẫn quen con mắt nhìn tranh lụa theo chất lụa êm ả, trong trẻo với những
hiệu ứng mờ nhòe quen thuộc thấy một số tác phẩm mang phong cách nghệ
thuật Pop art hơi khô cứng.
Hạn chế thứ hai ở trong cách chọn lọc nhân vật và chi tiết trong tranh
quá mới mẻ, hiện đại khiến cho một số tranh mang xu hướng mới xa lạ với
truyền thống Á Đông. Ví như tranh Sự điều khiển (H.63) của Nguyễn Ngọc
Gia Bảo, tác giả trẻ có kỹ thuật thể hiện trên lụa tốt, bố cục, màu sắc và tạo
hình nhân vật rất bắt mắt. Hình ảnh chú hề như một con rối bị điều khiển bởi
chiếc điện thoại rất đắt giá, khiến cho người xem có thể ngay lập tức hiểu
được dụng ý của tác giả, thích thú bởi màu sắc rất mới, tươi mát, trẻ trung.
Nhưng hình ảnh chú hề ấy có lẽ theo người viết “Tây” quá, các chi tiết của
nhân vật trong tranh không thể hiện một chút nào đặc điểm con người Việt
Nam từ đôi mắt xanh biếc, mũi lõ cao, cằm nhọn hoắt.
56
Trước sự thay đổi vũ bão của công nghệ, của yêu cầu làm mới mình
trong dòng chảy nghệ thuật đương đại thế giới biến đổi mạnh mẽ, việc thay
đổi xu hướng sáng tác, làm mới tranh lụa trong cả đề tài, hình thức lẫn nội
dung là một sự nỗ lực đáng ghi nhận của thế hệ họa sĩ trẻ và là tín hiệu tích
cực cho sự phát triển của tranh lụa giai đoạn 2000 - 2015. Nhưng dù sao lụa
vẫn là lụa, và lụa đẹp vì lụa là lụa, các họa sĩ trẻ dù có đổi mới đến đâu vẫn
cần phải giữ được vẻ đẹp của bề mặt lụa và tiếng nói đậm chất Á Đông trong
lụa. Đó là thách thức trên con đường sáng tạo, đổi mới và đi tìm tiếng nói cá
nhân của mỗi họa sĩ vẽ lụa.
3.2. Đóng góp của việc nghiên cứu đề tài trong định hướng sáng tác
tranh lụa hiện nay
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nghệ thuật tranh lụa có phần chững lại
khi không có nhiều họa sỹ theo đuổi con đường sáng tác tranh lụa, số các họa
sỹ chuyên vẽ lụa là rất ít. Tranh lụa vẫn có nhiều tác phẩm mới, nhưng các
họa sĩ vẽ lụa vẫn xoay quanh lối tạo hình và xử lý hòa sắc với những nội
dung, đề tài đã quá quen thuộc như phong cảnh, tĩnh vật, thiếu nữ, sinh hoạt,
nhất là các tranh về đề tài miền núi là vô cùng nhiều đến mức gây nhàm chán.
Lối vẽ lụa vẫn không có gì chuyển biến, bảng màu của lụa rất kiệm, mãi vẫn
những sắc độ mờ nhạt quen thuộc. Vì thế mà những sáng tác tranh lụa không
có gì mới mẻ, tạo sự hấp dẫn cho người thưởng thức. Các tác giả, tác phẩm
lụa trở nên mờ nhạt trước các chất liệu khác trong nền mỹ thuật nước nhà.
Những năm gần đây, mà nhất là qua các tác phẩm lụa của hai cuộc
TLMTTQ 2010 và TLMTVN 2015, ta thấy có một sự khởi sắc rõ rệt. Không
thể phủ nhận vai trò trong sự tác động và quan tâm kịp thời của các cơ quan
quản lý công với sự phát triển của tranh lụa. Những bài viết phản ánh trên báo
chí về một thực trạng xa xút cả về số lượng, chất lượng của tranh lụa đầu
những năm 2000 đã dấy lên những băn khoăn, trăn trở trong suy nghĩ những
họa sĩ yêu lụa. Các hội thảo chuyên đề về lụa, triển lãm chuyên tranh lụa mở
57
ra đã khuyến khích họa sĩ, nhất là các họa sĩ trẻ không quay lưng với cất liệu
lụa, tìm tòi thể hiện lụa theo tư duy trẻ. Điều đó đã tiếp lửa yêu cho các họa sĩ
trẻ với chất liệu lụa để sáng tạo, tìm tòi con đường sáng tác làm mới chất liệu
truyền thống. Các hình thức biểu đạt, ngôn ngữ tạo hình, chủ đề tranh, kỹ
thuật thể hiện lụa trong sự tiếp thu và ảnh hưởng những phong cách nghệ
thuật Hiện đại và Hậu hiện đại đã đem đến cho lụa một sức sống mới. Kể cả
những tác phẩm lụa mang phong cách Hiện thực cũng sinh động và hấp dẫn
hơn. Không phải là những gam u tối, nâu xám u trầm, buồn bã trước kia mà là
những tông màu rực rỡ, đa sắc, mát mẻ tươi vui trong một hòa sắc mạnh mẽ,
hiện đại đầy sức trẻ. Lụa không chỉ là một khúc ca ngọt ngào êm ái, nhẹ
nhàng ru mắt người xem mà cũng biến đổi đa dạng, khi thì gân guốc trong
đường nét, khi thì táo bạo trong tạo hình, khi thì mạnh mẽ trong màu sắc, khi
lại tỉ mỉ chau chuốt tả bóng khối rõ ràng. Nội dung lụa hướng tới những chủ
đề đa dạng hơn, gần gũi hơn với tinh thần chung của nghệ thuật đương đại.
Đó là thể hiện cái tôi cá tính với cách nhìn riêng về con người, về các vấn đề
của cuộc sống xã hội hiện tại. Các tác phẩm lụa mới của các họa sĩ trẻ như Vũ
Đình Tuấn, Trần Xuân Bình, Bùi Tiến Tuấn, Mai Hùng… đã thành công
trong việc thay đổi xu hướng sáng tác tranh lụa kĩ tính, kiệm màu, đỏng đảnh
ấy. Sự thay đổi đó như một làn gió mới thổi vào lụa, khiến lụa hấp dẫn, khác
hoàn toàn với những tác phẩm lụa trước kia. Nhờ đó đã thu hút sự quan tâm
mạnh mẽ hơn của các tác giả trẻ khác tìm đến với lụa, thúc đẩy họa sĩ trẻ tìm
tòi thể hiện sáng tạo hơn nữa.
Thông qua luận văn, người viết muốn đóng góp những suy nghĩ, phân
tích, nghiên cứu của mình góp phần vào tư liệu nghiên cứu lí luận về tranh lụa
Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 - 2015 giúp nhận thức rõ nét hơn trong việc
nghiên cứu, nhận định sự phát triển và thay đổi các xu hướng sáng tác của
tranh lụa. Từ đó các họa sĩ trẻ có cái nhìn về vấn đề đổi mới xu hướng sáng
tác trong tranh lụa một cách có hệ thống và kĩ càng hơn.
58
Luận văn đã chỉ ra một số những thành công cũng như hạn chế, những
tín hiệu mới mẻ trong việc sáng tác tranh lụa trong TLMTTQ giai đoạn 2000 -
2015. Dựa trên những đánh giá về thành công và hạn chế của xu hướng sáng
tác để thấy đâu là nhân tố tích cực đang phát triển cần học hỏi, phát huy. Và
đâu là những nhân tố còn vụng về, khô khan, chưa hay, kém hấp dẫn mà cần
tiết chế, cân đối, tránh sự khô cứng, xa lạ trong thể hiện và nội dung tranh lụa.
Luận văn mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình trong sự thay đổi
định hướng sáng tác tranh lụa của các họa sĩ trẻ yêu lụa hay đang thử sức tìm
tòi với chất liệu lụa, mà nhất là với các bạn sinh viên mỹ thuật. Từ các phân
tích, tổng hợp đánh giá trên của luận văn, các họa sĩ yêu tranh lụa, cả những
bạn sinh viên sẽ hiểu hơn về những xu hướng trong tranh lụa giai đoạn 2000 –
2015 để có thể có tư duy sáng tác tốt hơn, bắt kịp dòng chảy chung của nghệ
thuật đương đại, làm đẹp thêm, phong phú thêm thể loại tranh lụa truyền
thống của Hội họa Việt Nam.
Tiểu kết chương 3
Từ khi tranh lụa hiện đại Việt Nam ra đời cho tới những năm cuối thế kỷ
XX, khái niệm xu hướng sáng tác trong tranh lụa dường như không tồn tại. Vì
lụa chỉ vẽ theo một lối vẽ ước lệ tượng trưng, thi vị hiện thực đối tượng đưa
vào tranh, rất hiếm các tác phẩm, tác giả cách tân lụa. Qua việc nghiên cứu và
phân tích những tác phẩm tiêu biểu của các xu hướng sáng tác tranh lụa tham
dự TLMTTQ giai đoạn 2000 – 2015, người viết đã chỉ ra sự thay đổi trong xu
hướng sáng tác tranh lụa. Từ những sáng tác mang nặng phong cách Hiện
thực xu hướng sáng tác tranh lụa đã chuyển sang Hiện thực pha biểu hiện,
sang Biểu hiện và phát triển lên các xu hướng mới là Siêu thực, Pop art.
Chương 3 cũng chỉ rõ một số thành công cũng như hạn chế trong sự thay
đổi của các xu hướng sáng tác này, sự đóng góp của các xu hướng mới trong
tranh lụa nói riêng và nghệ thuật tạo hình đương đại Việt Nam nói chung. Ta
có thể thấy được những ảnh hưởng của các xu hướng mới trong tranh lụa tới
59
diện mạo nghệ thuật tranh lụa đương đại và có thể tin tưởng vào sự thay đổi
tích cực tiếp nữa của tranh lụa. Đây rất có thể là dấu mốc đánh dấu sự chuyển
tiếp của một giai đoạn mới, báo hiệu sự khởi sắc cho nghệ thuật tranh lụa
trong tương lai.
Tóm lại, việc tìm hiểu, nghiên cứu những xu hướng sáng tác tranh lụa
trong các tác phẩm triển lãm mỹ thuật Việt Nam toàn quốc giai đoạn 2010 –
2015 là việc làm cần thiết và quan trọng. Luận văn góp phần vào tư liệu
nghiên cứu lý luận lịch sử phát triển của tranh lụa Việt Nam giai đoạn 2000 –
2015. Nó cũng góp phần vào việc xác định phương hướng và vận dụng, phát
huy những yếu tô mới trong sáng tác của các họa sĩ trẻ.
60
KẾT LUẬN
Lịch sử nghệ thuật thế giới đã chứng minh, nghệ thuật không nhất thiết
phải hướng tới cái đẹp, cái duy mỹ nhưng nghệ thuật chắc chắn là phải mới.
Các chủ nghĩa, trào lưu, xu hướng nghệ thuật ra đời, tồn tại, bùng nổ mạnh
mẽ trong một khoảng thời gian nhất định sau đó khi đạt tới đình cao của nghệ
thuật sẽ thoái trào và nhường chỗ cho một chủ nghĩa, trào lưu khác. Bản thân
các họa sĩ cũng vậy, khi đã nhuần nhuyễn một kỹ thuật, đã vẽ mãi một đề tài
cũng thấy nhàm chán và tự tìm tòi chuyển hướng sang một hình thức mới
hơn. Sự thay đổi liên tục đó không phủ nhận những giá trị của những thành
quả nghệ thuật trước mà như một quy luật tất yếu của sự phát triển trong nghệ
thuật. Nó giúp cho nghệ thuật phát triển.
Tranh lụa Việt Nam đã có một lịch sử hình thành và phát triển gần 90
năm. Kể từ những tác giả, tác phẩm tranh lụa mang tinh thần hiện thực, lãng
mạn đầu tiên, qua những giai đoạn chiến tranh cách mạng và hiện thực Xã
hội chủ nghĩa tới ngày hôm nay, tranh lụa đã có những đóng góp to lớn vào
bức tranh sinh động đa màu sắc, đa ngôn ngữ biểu hiện của Mỹ thuật Việt
Nam. Nhưng trước sự thay đổi mạnh mẽ của tình hình kinh tế xã hội, cái nhìn
nhân sinh quan về cuộc sống, con người cùng sự phát triển của mỹ thuật
đương đại, chất liệu lụa vẫn duy trì lối tạo hình và xoay quanh những đề tài cũ
kỹ đã trở nên lạc hậu. Chính vì thế họa sĩ yêu lụa đứng trước thách thức tự
thay đổi trong tư duy sáng tác, ngôn ngữ tạo hình để làm mới lụa. Sự thay đổi
của xu hướng Hiện thực cũ và sự xuất hiện của các xu hướng mới Biểu hiện,
Siêu thực, Pop art trong tranh lụa dù chậm chạp hơn rất nhiều so với những
chất liệu khác nhưng nó báo hiệu sự thay đổi tích cực lạc quan cho sự phát
triển của lụa.
Việc nghiên cứu xu hướng lụa trong những năm gần đây mà với luận văn
là trong các TLMTTQ 2000- 2015 là việc làm cần thiết và có ý nghĩa. Nó
61
giúp cho họa sĩ hiểu hơn về những xu hướng nghệ thuật trong tranh lụa, đâu
là những xu hướng đã cũ, đâu là xu hướng mới, cái hay, sự thành công của cái
mới cũng như cái dở, sự hạn chế của cái mới. Từ đó giúp cho họa sĩ yêu lụa
và nhất là họa sĩ trẻ có những định hướng sáng tác tốt hơn, phù hợp với dòng
chảy nghệ thuật đương đại. Để cho chất liệu hội họa mang quốc hồn, quốc túy
của dân tộc ấy, chất liệu lụa cùng với sơn mài có được tiếng nói và vị thế
xứng đáng của nó trong nền hội họa đương đại nước nhà.
62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
01. Lê Năng An biên dịch (1998), Những trào lưu nghệ thuật tạo hình hiện
đại, Nxb Văn hóa – Thông tin Hà Nội.
02. Bộ văn hóa, thể thao và du lịch (2000), Triển lãm mỹ thuật toàn quốc
1995 – 2000, Công ty In và Văn hóa phẩm.
03. Bộ văn hóa, thể thao và du lịch (2005), Triển lãm mỹ thuật toàn quốc
2001 – 2005, Công ty In và Văn hóa phẩm.
04. Bộ văn hóa, thể thao và du lịch (2007), Triển lãm tranh lụa Việt Nam.
05. Bộ văn hóa, thể thao và du lịch (2010), Triển lãm mỹ thuật toàn quốc
2006 - 2010, Công ty In và Văn hóa phẩm.
06. Bộ văn hóa, thể thao và du lịch (2015), Triển lãm mỹ thuật Việt Nam
2015, Nxb Mỹ thuật.
07. Phạm Quang Diệu (2014), Không gian ước lệ và hình thể biểu đạt trong
tranh lụa Việt Nam đương đại, Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật, Trường đại
học Mỹ thuật Hà Nội.
08. Đinh Minh Đông (2014), Yếu tố Pop art trong hội họa Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Mỹ thuật, Trường đại học Mỹ thuật Hà Nội.
09. Đỗ Đức (2007), Tranh lụa Việt Nam – bao giờ trở lại, tạp chí Mỹ thuật,
Hội Mỹ thuật Việt Nam, số 182, tr.25 - 26.
10. Nguyễn Hữu Đức (2014), Ẩn dụ Libido trong tranh lụa của Vũ Đình
Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu mỹ thuật, số 3, tr.45 – 49.
11. Hoàng Minh Đức (2009), Những đổi thay trong hình thức biểu đạt của
tranh lụa Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật, Trường Đại học Mỹ
thuật Hà Nội.
12. Hoàng Minh Đức (2014), Nghệ thuật tranh Lụa Việt Nam - Hình thức
biểu đạt phương Tây trên tinh thần Á Đông, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật,
số 02, tr.72 – 75.
63
13. Hoàng Minh Đức (2014), Tranh lụa Việt Nam - Vẻ đẹp từ chất liệu đến
kỹ thuật thể hiện, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 361.
14. Hoàng Minh Đức (2014), Tranh lụa Việt Nam (giai đoạn 1986 - 2000)
trong dòng chảy mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Tạp chí Mỹ thuật, Số 7,8.
15. Nguyễn Thị Hà Hoa (2007), Khuynh hướng phát triển của tranh lụa Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật, Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội.
16. Đức Hòa (2015, 2016), Lược sử các triển lãm Mỹ thuật toàn quốc Việt
Nam, Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh số tháng 04, 10 năm 2015, số tháng
11+12 năm 2015 và số tháng 3 năm 2016.
17. Hội nghệ sĩ tạo hình Việt Nam (1992), Tranh lụa Việt Nam, NXB Mỹ
thuật Hà Nội.
18. Hội nghệ sĩ tạo hình Việt Nam (1997), Tranh lụa Việt Nam, NXB Mỹ
thuật Hà Nội.
19. Nguyễn Khánh Hùng (2006), Những khả năng biểu đạt trong tranh lụa
Việt Nam hiện đại, Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật, Trường Đại học Mỹ
thuật Hà Nội.
20. Lê Văn Hùng (2015), Sự tương đồng và khác biệt giữa hội họa Siêu thực
và hiện thực ảnh, Luận văn thạc sĩ Nghệ thuật, Trường đại học Mỹ thuật
Hà Nội.
21. Lê Thanh Lộc (1998), Từ điển Mỹ thuật, Nxb Văn hóa – Thông tin Hà
Nội.
22. Nguyễn Thanh Mai (2016), Tranh lụa Việt Nam từ 1925 đến 2015, Tạp
chí nghiên cứu Mỹ thuật số tháng 3, tr.84 – 92.
23. Đặng Thị Bích Ngân (2012), Từ điển Mỹ thuật phổ thông, Nxb Mỹ thuật.
24. Nhóm tác giả Viện Mỹ thuật, Đại học Mỹ thuật Hà Nội (2005), Mỹ thuật
Việt Nam hiện đại, Nxb Mỹ thuật.
25. Quang Phòng, Quang Việt (2015), Trường Mỹ thuật Đông Dương Lịch sử
và nghệ thuật, Nxb Mỹ thuật.
64
26. Bùi Phụng (2003), Từ điển Việt - Anh, Nxb Thế giới.
27. Bùi Phụng (2003), Đại từ điển Anh – Việt, Nxb Từ điển Bách khoa.
28. Nguyễn Quân (2010), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
Hóa.
29. Nguyễn Quân (2010), Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Tri Thức.
30. Herbert Read (Phạm Minh Thảo và Nguyễn Kim Loan biên dịch, 2001),
Lịch sử Hội họa thế kỷ XX, Nxb Văn Hóa - Thông tin Hà Nội.
31. Trần Xuân Sinh (2011), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại, Nxb Tri
Thức.
32. Nguyễn Thụ (1995), Giáo trình tranh lụa, Trường Đại học Mỹ thuật Hà
Nội, Nxb Mỹ thuật.
33. Phan Cẩm Thượng, Lương Xuân Đoàn (1996), Họa sĩ trẻ Việt Nam, Nxb
Mỹ thuật.
34. Trung tâm từ điển học (2011), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
35. Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, Viện Mỹ thuật (2006), 20 năm Mỹ
thuật Việt Nam thời kỳ Đổi mới, Nxb Mỹ thuật.
36. Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, Viện Mỹ thuật (2008), Nghệ thuật
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb
Mỹ thuật.
37. Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật.
38. Lê Anh Vân (2015), Tình yêu với tranh lụa, Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh
số tháng 6.
39. Lê Anh Vân (2016), Triển lãm tranh lụa ngày dịu dàng, Tạp chí Mỹ thuật
Nhiếp ảnh, số tháng 4.
40. Thái Bá Vân (1997), Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật Hà Nội.
41. Quang Việt (2008), Từ điển họa sĩ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật.
42. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin.