Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI ----- -----
NGUYỄN HOÀNG LINH CHI
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG, NHIỄM GIUN VÀ
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA TRẺ EM
12-36 THÁNG TUỔI TẠI HUYỆN ĐAKRÔNG
TỈNH QUẢNG TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ Y KHOA
Khóa 2005-2011
Giáo viên hướng dẫn : TS LÊ THỊ HƯƠNG
HÀ NỘI_2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy dinh dưỡng protein năng lượng ở trẻ em vẫn phổ biến ở mức ý nghĩa
sức khỏe cộng đồng ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Bệnh không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất mà còn ảnh hưởng tới sự
phát triển tinh thần, trí tuệ của trẻ. Về mặt xã hội, suy dinh dưỡng gây nhiều
thiệt hại về kinh tế, kìm hãm phát triển kinh tế bởi nó trực tiếp ảnh hưởng tới
nguồn nhân lực, ảnh hưởng tới giống nòi.
Theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng từ năm 2000-2009, tỷ lệ
SDD trẻ em đã giảm đi một cách rõ rệt, nếu như năm 2000 tỷ lệ SDD trẻ em
dưới 5 tuổi là 33,8% (theo chỉ tiêu cân nặng theo tuổi) thì tới năm 2009 đã
giảm chỉ còn 18,9% [13]. Tuy nhiên, theo điều tra theo dõi tỷ lệ SDD trẻ em
các tỉnh năm 2009 của Viện Dinh Dưỡng cho thấy có sự khác nhau nhiều về
tỷ lệ SDD trẻ em giữa các vùng sinh thái trên cả nước. Trong đó, tỷ lệ SDD
khu vực miền núi luôn cao hơn đồng bằng, nông thôn cao hơn thành thị,
những vùng bị hạn hán, lũ lụt có tỷ lệ SDD cao hơn các vùng khác. Trong khi
một số tỉnh đồng bằng tỷ lệ SDD đã giảm xuống mức thấp như thành phố
HCM (5,3%), Hà Nội (12,6%)... thì nhiều khu vực miền núi tỷ lệ SDD vẫn ở
mức rất cao như Kon Tum (29,5%), Đắc Nông (29,4%), Lai Châu (27,8%),
Quảng Bình (25,9%)… [13]. Sự chênh lệch ở mức từ 2-4 lần giữa miền xuôi
và miền núi cho thấy mức độ trầm trọng của SDD trẻ em khu vực miền núi.
Đakrông là một huyện miền núi vùng cao biên giới phía Tây Nam của
tỉnh Quảng Trị, là nơi có nhiều đồng bào các dân tộc sinh sống trong đó chủ
yếu là dân tộc Vân Kiều và Pakoh (chiếm 82%, theo số liệu cục thống kê tỉnh
Quảng Trị). Đời sống kinh tế của người dân ở đây còn gặp nhiều khó khăn.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở vùng này rất cao. Theo một đánh giá về tình
trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 2 tuổi được thực hiện tại Đakrông và
3
Hướng Hóa vào tháng 12/2009 cho thấy rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em
ở đây rất cao: 41.9% (thể nhẹ cân), 44.1% (thể thấp còi) và 13,4% (thể gầy
còm) [23]. Trẻ em dưới 36 tháng tuổi bị suy dinh dưỡng có nhiều nguyên
nhân, trong đó nhiễm giun đường ruột là một nguyên nhân cần được quan
tâm. Nhiễm giun gây nên chán ăn, hấp thu kém, tiêu hóa kém, viêm mạn tính
ống tiêu hóa, cạnh tranh sử dụng và làm tăng mất các chất dinh dưỡng:
protein, lipid, vitamin A... Lâu dài, giun làm suy dinh dưỡng-thiếu máu, chậm
phát triển thể chất và tinh thần [24], [37]. Các nghiên cứu về tình trạng dinh
dưỡng và nhiễm giun của trẻ em dân tộc thiểu số còn rất ít, là lý do chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này với 2 mục tiêu sau:
(1) Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và nhiễm giun của trẻ em 12-36 tháng
tuổi tại vùng đồng bào dân tộc Pakoh và Vân Kiều của huyện
Đakrông tỉnh Quảng Trị.
(2) Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và nhiễm
giun của trẻ 12-36 tháng tuổi tại vùng đồng bào dân tộc Pakoh và Vân
Kiều của huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Các thời kỳ phát triển của trẻ em và các đặc điểm sinh học cơ bản
của trẻ dưới 3 tuổi:
1.1.1. Cách phân chia các thời kỳ:
Cơ thể trẻ em có những đặc điểm riêng về cấu tạo và sinh lý. Từ lúc thụ
thai đến tuổi trưởng thành trẻ phải trải qua hai hiện tượng: trước hết là sự tăng
trưởng, phát triển về số lượng và kích thước của tế bào ở các mô; sau đó là sự
trưởng thành về cấu trúc, chức năng các cơ quan.
Quá trình lớn lên và phát triển của trẻ có tính chất toàn diện, cả về thể
chất, tâm thần và vận động. Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng về bệnh
lý và sinh lý.
Sự phân chia các thời kỳ (giai đoạn) của trẻ em là một thực tế khách
quan, nhưng ranh giới giữa các giai đoạn không rõ ràng và có sự khác biệt đối
với từng đứa trẻ, giai đoạn trước chuẩn bị cho giai đoạn sau.
Theo WHO trẻ em bao gồm từ 0 đến 18 tuổi, được phân chia cụ thể như
sau [30]:
- Sơ sinh (newborn): từ lúc sinh đến 1 tháng
- Trẻ bú mẹ (infant): 1 đến 23 tháng
- Trẻ tiền học đường (preschool child): 2 đến 5 tuổi
- Trẻ em nhi đồng (child): 6 đến 12 tuổi
- Trẻ vị thành niên (adolescent): 13 đến 18 tuổi
5
1.1.2. Đặc điểm sinh học cơ bản của trẻ dưới 3 tuổi:
Lứa tuổi này tốc độ lớn có giảm so với lứa tuổi trước 12 tháng nhưng
vẫn còn cao đồng thời các hoạt động đã bắt đầu tăng lên cùng theo với tuổi
tập đi, tập nói... do đó tiêu hao năng lượng so với cơ thể vẫn cao.
Trẻ từ 1-3 tuổi, cơ quan tiêu hóa chưa phát triển hoàn chỉnh, do vậy các
thức ăn cho trẻ cần phải dễ tiêu hóa, giàu các chất dinh dưỡng có giá trị cao
và đủ các nhóm thực phẩm trong ô dinh dưỡng để đáp ứng nhu cầu các chất
dinh dưỡng. Đảm bảo tốt vệ sinh thực phẩm và ăn uống để phòng tránh nhiễm
khuẩn và các bệnh đường ruột ở trẻ.
Do tiếp xúc rộng rãi với môi trường nên trẻ dễ bị lây các bệnh truyền
nhiễm (sởi, ho gà, bạch hầu, uốn ván, viêm gan virus, sốt xuất huyết). Hệ
thống miễn dịch hoạt động tốt, các bệnh nhiễm trùng giảm, nhưng trẻ lại bị
các bệnh dị ứng như viêm cầu thận cấp, hen suyễn, nổi mề đay [30].
1.1.3. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 3 tuổi:
Nhu cầu năng lượng theo bảng khuyến nghị của Việt Nam cho trẻ từ 1-3
tuổi là 1300 kcal (100 kcal/kg cân nặng), trong đó 50% đáp ứng cho chuyển
hóa cơ bản, 12% cho tăng trưởng, 25% cho hoạt động thể lực [14].
Trong chế độ ăn của trẻ dưới 3 tuổi, nhu cầu protein hàng ngày là
28g/ngày (2,5g-3g/kg cân nặng của trẻ). Trong đó, protein có nguồn gốc động
vật chiếm 50-60% tổng số protein [14].
Nhu cầu lipid ở trẻ đảm bảo cho nhu cầu về năng lượng (1g chất béo
cung cấp 9 kcal), cung cấp các acid béo cần thiết và hỗ trợ cho việc hấp thu
các vitamin tan trong dầu (A,D,E,K) [30]
Chế độ ăn của trẻ có 60-65% kcal từ glucid, chủ yếu từ ngũ cốc, khoai
củ, một số loại rau củ…
6
Ở lứa tuổi này hàng ngày cần cung cấp 400-500mg canxi, là chất khoáng
rất cần cho sự tạo xương, tạo răng, tạo máu và các hoạt động chức năng sinh
lý của cơ thể. Trẻ cần 6-7mg sắt mỗi ngày cho sự tạo máu và tham gia vào
thành phần nhiều men quan trọng trong cơ thể [14].
Mọi vitamin đều cần thiết cho trẻ, trong đó cần chú ý cung cấp đủ
vitamin A (400µg) và vitamin C (35mg) là những vitamin rất cần cho sự phát
triển bình thường của trẻ, cần cho sự tạo máu, tăng cường sức chống đỡ với
bệnh tật [11].
Số bữa ăn trong ngày nên từ 4-5 bữa, với chế độ ăn riêng của trẻ, các
thức ăn mềm và tập dần cho trẻ ăn từng loại thức ăn từ ít đến nhiều, cho đến
thức ăn hỗn hợp.
1.2. Tình hình SDD protein năng lượng của trẻ em
1.2.1. Tình hình SDD protein năng lượng trên Thế giới:
Theo báo cáo của UNICEF công bố ngày 2/5/2006 cho thấy hơn 1/4 trẻ
em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển ở tình trạng SDD nhẹ cân, cuộc
sống đang bị đe doạ. Dinh dưỡng không đầy đủ vẫn là đại dịch toàn cầu dẫn
đến một nửa số ca tử vong là trẻ em, khoảng 5,6 triệu trẻ em mỗi năm. Mặc
dù đã có tiến bộ ở một số quốc gia, nhưng trong 15 năm vừa qua các quốc gia
đang phát triển trung bình mới chỉ giảm được 1,5% trẻ em SDD nhẹ cân [20].
Thống kê tỷ lệ SDD qua các cuộc điều tra quốc gia từ 1980-1992 của 79
nước đang phát triển cho thấy tỷ lệ SDD là 35,8%, tỷ lệ trẻ em còi cọc là
42,7% và tỷ lệ trẻ em gầy còm là 9,2 %. Châu Á có tỷ lệ SDD cao nhất so với
các châu lục khác: 42% trẻ em SDD, 47,1% trẻ em còi cọc và 10,8% trẻ gầy
còm. Châu Úc có 29,1% trẻ em SDD, 41,9% trẻ em còi cọc, 7,2% trẻ em gầy
còm. Châu Phi có 27,4% trẻ em SDD, 38,6% trẻ em còi cọc và 7,2% trẻ em
7
gầy còm. Có ít nhất 2/3 số trẻ em châu Á và 1 nửa số trẻ em SDD trên thế giới
sống ở khu vực Nam Á [45].
Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở Việt Nam tuy đã giảm nhiều, nhưng vẫn
còn ở mức cao so với trung bình các nước trong khu vực và các nước đang
phát triển có thu nhập đầu người tương tự.
Bảng 1.1. Suy dinh dưỡng trẻ em Việt Nam so với khu vực và Thế giới -
Năm 2000 [9]
SDD
Khu vực
Thể nhẹ cân
(%)
Thể thấp còi
(%)
Thể gầy còm
(%)
Banglades 56 55 18
Việt nam 34 36 8
Thái Lan 19 16 6
Philippin 28 30 6
Indonesia 34 42 13
Lào 40 47 11
Campuchia 52 56 13
Trung Quốc 10 17 11
Theo báo cáo của UNICEF (Quĩ Nhi đồng của Liên Hiệp Quốc) năm
2007, trên thế giới có khoảng 146 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
thể nhẹ cân, phần lớn tập trung ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La tinh. Trong
số này có khoảng 2 triệu trẻ em từ Việt Nam.
Theo kết quả điều tra của Viện Dinh dưỡng Quốc gia năm 2007, số trẻ
em dưới 5 tuổi ở nước ta có khoảng 9,4 triệu, có đến 2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi
bị suy dinh dưỡng thiếu cân (chiếm 21,2%) [13]. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X đã đề ra chỉ tiêu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng
xuống dưới 20% vào năm 2010 [29]. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em tuy có xu
8
Diễn biến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc (1999 – 2010)
36,7 33,8 31,9
30,1
28,4 26,6 25,2
23,4 21,2 19,9 18,9 17,5
38,736,5 34,8 33 32,0 30,7 29,6
31,933,9 32,6 31,9
29,3
0 5
1015202530354045
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
%
Thể nhẹ cân Thể thấp còi
hướng giảm, nhưng vẫn còn khoảng 1/3 trẻ em cơ thể trong tình trạng kém
phát triển. Con số này đặt nước ta vào số 36 nước có tỷ lệ trẻ em bị suy dinh
dưỡng cao nhất thế giới, và đó là một vấn đề y tế công cộng rất lớn.
1.2.1 Tình hình SDD protein năng lượng trẻ em tại Việt Nam
Suy dinh dưỡng protein năng lượng ở trẻ em Việt Nam còn là một thách
thức quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế xã hội. Các
kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng Việt Nam từ năm 1999 đến năm
2010 cho thấy tình tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em trong cộng đồng đã giảm,
nhưng vẫn là một mức cao theo tiêu chuẩn đánh giá của WHO [12]. Suy dinh
dưỡng trẻ em làm ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng đến sự phát triển của
kinh tế-xã hội, làm tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong ở trẻ em lên 2,5-2,8 lần
so với trẻ bình thường.
Biểu đồ 1.1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại Việt Nam qua các
năm 1999-2010 [13].
Tháng 10/1999, Trương Thị Sương và cộng sự tiến hành khám lưu động
cho 5.084 trẻ em, trong đó có 1.906 trẻ dưới 5 tuổi tại 18 xã thuộc 9 huyện
của tỉnh Quảng Nam cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng là 42,47%, trong đó suy
9
dinh dưỡng nặng và rất nặng chiếm 11,38%. Nhóm tuổi có tỷ lệ suy dinh
dưỡng thấp nhất là từ 0-12 tháng, nhóm có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao nhất là từ
24-36 tháng (56,0%) [35].
Kết quả điều tra trên 749 trẻ từ 0-60 tháng tuổi của Đinh Văn Thức và
cộng sự tại hai xã Đặng Cương và Quốc Tuấn, huyện An Hải, Hải Phòng năm
2000 cho thấy tỷ lệ SDD thể thấp còi chiếm 42,32%, thể nhẹ cân là 4,41% và
thể gày mòn là 2,80%. Tỷ lệ SDD cao nhất ở nhóm tuổi 13-24 tháng
(42,76%), thấp nhất ở nhóm 0-12 tháng tuổi (23,42%) [38].
Qua cuộc tổng điều tra về dinh dưỡng năm 2000 cho thấy, tỷ lệ SDD trẻ
dưới 5 tuổi còn có sự chênh lệch giữa các nhóm tuổi khác nhau [8]: tỷ lệ SDD
ở nhóm trẻ dưới 12 tháng tuổi là thấp nhất đối với cả 3 thể ( thể nhẹ cân, thể
thấp còi, thể gầy còm), sau đó tăng lên nhanh ở cả 3 chỉ tiêu cho tới 2-3 tuổi
và tiếp tục duy trì ở mức cao trong những năm tiếp theo. Điều đó cho thấy tỷ
lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi ở cả 3 chỉ tiêu (CN/T, CC/T, CN/CC) đều đã giảm
nhưng các đặc điểm SDD ở trẻ em nước ta đã được nghiên cứu trước đây vẫn
còn ý nghĩa và chương trình phòng chống SDD trẻ em cần tiếp tục được đẩy
mạnh.
12.9
19
6
36.3
41.8
12.2
40.938.6
9.2
40.243
8.5
41.744.8
8.8
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
%
≤12tháng
13-24tháng
25-36tháng
37-48tháng
49-60tháng
Tháng tuổi
SDD W/A(%)
SDD H/A(%)
SDD W/H(%)
Biểu đồ 1.2. Tỷ lệ (%) SDD trẻ em dưới 5 tuổi theo nhóm tháng tuổi [8]
10
Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cũng khác nhau rất nhiều giữa các vùng
sinh thái. Tỷ lệ cao nhất ở vùng Tây Nguyên vì đây là vùng nghèo, còn nhiều
khó khăn, mùa màng thường xuyên chịu tác động nặng nề bởi thiên tai, lũ lụt.
Thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng, sông Cửu
Long.
Bảng 1.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi của Việt Nam phân bố
theo vùng sinh thái - Năm 2009 [11]
Tỷ lệ %
Tên vùng
Thể nhẹ cân Thể thấp còi Thể gầy còm
Toàn quốc 18,9 31,9 6,9
Đồng bằng sông Hồng 16,7 27,8 6,6
Tây Bắc 24,6 35,7 7,8
Đông Bắc 22,3 34,8 7,0
Bắc Trung Bộ 22,9 34,3 6,9
Nam Trung Bộ 19,3 31,8 7,1
Tây Nguyên 28,5 39,2 7,3
Đông Nam Bộ 16,4 18,1 6,8
Đồng bằng sông Cửu Long 18,7 19,1 6,7
Có sự khác biệt khá lớn về tỷ lệ SDD trẻ em ở thành thị và nông thôn.
Điều này lý giải bởi sự bất cập trong việc tiếp cận dịch vụ Y tế, trình độ dân
trí và khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực nông thôn, miền núi so với các
thành phố lớn và các khu đô thị.
11
Bảng 1.3. Tỷ lệ SDD trẻ em theo khu vực - Năm 2005 [7]
Tỷ lệ %
Khu vực
Nhẹ cân Thấp còi Gày còm
Thành thị 19,6 21,9 4,7
Nông thôn 29,3 34,1 7,5
Chung 25,2 29,6 6,9
1.3. Phương pháp đánh giá tình trạng SDD trẻ em :
1.3.1. Khái niệm :
Suy dinh dưỡng là tình trạng cơ thể thiếu protein, năng lượng và các vi
chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, biểu hiện ở nhiều mức
độ khác nhau, nhưng ít nhiều đều có ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất,
tinh thần và vận động của trẻ [30].
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ em
Hiện nay có 4 nhóm chỉ tiêu được dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng
của trẻ em [24]:
- Điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống.
- Thăm khám thực thể để phát hiện các dấu hiệu lâm sàng của bệnh tật có
liên quan đến ăn uống.
- Các chỉ tiêu nhân trắc.
- Các xét nghiệm hóa sinh.
Trong đó 2 nhóm chỉ tiêu được sử dụng nhiều nhất là nhân trắc và điều
tra khẩu phần ăn mà các số đo nhân trắc là các chỉ số đánh giá trực tiếp tình
trạng dinh dưỡng.
WHO đã khuyến cáo có 3 chỉ tiêu nhân trắc nên dùng là cân nặng theo
tuổi, cân nặng theo chiều cao và chiều cao theo tuổi [41]. Cụ thể như sau
12
• Cân nặng theo tuổi:
Là chỉ số được dùng sớm nhất và phổ biến nhất. Chỉ số này được dùng
để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của cá thể hay cộng đồng. Cân nặng theo
tuổi thấp là hậu quả của thiếu dinh dưỡng hiện tại. Chỉ số cân nặng theo tuổi
nhạy có thể quan sát trong 1 thời gian ngắn.
• Chiều cao theo tuổi:
Phản ánh tiền sử dinh dưỡng. Chiều cao theo tuổi thấp phản ánh tình
trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc thuộc về quá khứ làm cho đứa trẻ bị còi.
• Cân nặng theo chiều cao:
Là chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng hiện tại. Chỉ số này phản ánh
tình trạng SDD cấp hay còn gọi “Wasting”. Cân nặng theo chiều cao thấp
phản ánh sự không tăng cân hay giảm cân nếu so sánh với trẻ có cùng chiều
cao, chính là phản ánh mức độ thiếu ăn và nhiễm khuẩn là hai nguyên nhân
chính dẫn đến tình trạng này.
1.3.3. Cách phân loại suy dinh dưỡng
1.3.3.1. Phân loại theo Gomez (1956)
Là phân loại được dùng sớm nhất, nó chỉ dựa trên chỉ só cân nặng theo
tuổi và sử dụng quần thể tham khảo
Tiêu chuẩn Mức độ SDD
Từ 70%-90% của cân nặng chuẩn SDD độ I
Từ 60%-75% của cân nặng chuẩn SDD độ II
Từ dưới 60% của cân nặng chuẩn SDD độ III
Cách phân loại này không phân biệt giữa SDD cấp hay mãn cũng như
giữa Marasmus và Kwashiorkor bởi vì cách phân loại này không đánh giá tới
chiều cao.
13
1.3.3.2. Phân loại theo Wellcome (1970)
Cân nặng (%) so với chuẩn Phù
Có Không
60%-80% Kwashiorkor SDD I, II
<60% Marasmus +
Kwashiorkor
Marasmus
1.3.3.3. Phân loại theo Waterlow (1972)
Để khắc phục nhược điểm phân loại Wellcome là không phân biệt được
suy dinh dưỡng hiện tại hay quá khứ
Chiều cao theo tuổi
(90%hay - 2SD)
Cân nặng theo chiều cao (80% hay -2SD)
Trên Dưới
Trên Bình thường Thiếu DD gầy còm
Dưới Thiếu DD thấp còi Thiếu DD nặng kéo dài
Thiếu dinh dưỡng gầy còm là thiếu dinh dưỡng cấp tính. Thiếu dinh
dưỡng thấp còi là biểu hiện thiếu dinh dưỡng trường diễn và đã chịu thiếu
dinh dưỡng từ lâu.
1.3.3.4. Phân loại theo WHO 2005:
SDD trong cộng đồng được chia thành 3 thể: SDD nhẹ cân, SDD thấp
còi và SDD gày còm [50].Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới, các
chỉ tiêu thường dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng là cân nặng theo tuổi
(CN/T), chiều cao theo tuổi (CC/T), cân nặng theo chiều cao (CN/CC). Suy
dinh dưỡng được ghi nhận khi các chỉ tiêu nói trên thấp hơn hai độ lệch chuẩn
(< -2SD) so với quần thể tham chiếu NCHS (National Center For Health
Statistics) của Hoa Kỳ [49]. Đây là cách phân loại đơn giản cho phép đánh giá
nhanh các mức độ SDD và có thể áp dụng rộng rãi trong cộng đồng.
14
Tuy nhiên, hiện nay việc sử dụng quần thể tham chiếu NCHS để đánh
giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em không phù hợp với thực tế vì vậy để
đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ từ năm 2006 WHO đưa ra “chuẩn tăng
trưởng mới ở trẻ em” và đề nghị áp dụng trên toàn thế giới [51]. Dựa vào các
chỉ tiêu nhân trắc: tuổi, giới, cân nặng, chiều cao đo được và số trung bình của
quần thể tham chiếu WHO 2005 để tính toán các chỉ số Z–score cân nặng
theo tuổi (WAZ), Z–score chiều cao theo tuổi (HAZ), Z–score cân nặng theo
chiều cao (WHZ). WHO đề nghị lấy điểm ngưỡng dưới 2 độ lệch chuẩn (< -
2SD) so với quần thể tham chiếu WHO 2005 để đánh giá trẻ bị suy dinh
dưỡng.:
Công thức tính độ lệch chuẩn Z-score ( SD score ):
- SDD thể nhẹ cân: CN/T Z-score (WAZ) < - 2SD;
- SDD thể thấp còi: CC/T Z-score (HAZ) < - 2SD
- SDD thể gày còm: CN/CC Z-score (WHZ) < - 2SD.
WHO cũng đưa ra các mức phân loại sau đây để nhận định ý nghĩa sức
khỏe cộng đồng [48].
Bảng 1.4. Phân loại mức suy dinh dưỡng cộng đồng trẻ dưới 5 tuổi [48]
Mức độ suy dinh dưỡng theo tỷ lệ %
Thấp T/bình Cao Rất cao
Thấp còi ( Stunting ) < 20 20-29 30-39 ≥ 40
Nhẹ cân ( Underweight) < 10 10-19 20-29 ≥ 30
Gầy còm ( Wasting ) < 5 5-9 10-15 ≥ 15
Kích thước đo được - Số trung bình của quần thể tham chiếu
Z-score hay SD score =
Độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu
Chỉ tiêu
15
1.3.4. Một số nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng :
Tác giả Lê Thị Hương, Trần Thị Lan đánh giá tình trạng dinh dưỡng của
trẻ em dưới 2 tuổi tại Đakrông và Hướng Hóa vào tháng 12/2009 cho thấy
rằng tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em ở đây rất cao. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ
dưới hai tuổi là 41.9% (thể nhẹ cân); 44.1% (thể thấp còi) và 13,4% ( thể gầy
còm) trong khi tỷ lệ trẻ được cung cấp đầy đủ 4 nhóm thực phẩm vào ngày
hôm trước rất thấp (13,3%), có đến 45% và 60% bị tiêu chảy và nhiếm trùng
đường hô hấp trong 2 tuần qua [23].
Nghiên cứu của Vũ Phương Hà và cộng sự tại hai huyện Hướng Hóa và
Đakrông của tỉnh Quảng trị trong năm 2010 cho thấy: tỷ lệ SDD cao ở cả 3
chỉ số, trong đó SDD thể nhẹ cân là 42,1% (CN/T), thể thấp còi 48,2%
(CC/T) và thể gầy còm 13,9% (CN/CC). Trên 50% các bà mẹ cho rằng phải
cho con ăn bổ sung trước 6 tháng hoặc không biết nên bắt đầu cho ăn vào thời
điểm nào [15].
Tác giả Lương Thị Thu Hà tiến hành nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng
trẻ em dưới 5 tuổi tại hai xã của huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên năm
2008 nhận thấy tỷ lệ SDD ở thể nhẹ cân (35,4%), thể thấp còi (41,5%) và thể
gầy còm (8,4%), độ tuổi có tỷ lệ SDD cao ở nhóm tuổi 13 - 48 tháng tuổi. Ở
thể nhẹ cân, tỷ lệ SDD trẻ gái cao hơn trẻ trai, ở trẻ em người dân tộc thiểu số
cao hơn trẻ em người Kinh. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra một số yếu tố
nguy cơ đối với SDD thể nhẹ cân ở trẻ em như thời gian ăn bổ sung không
đúng, chất lượng thức ăn bổ sung không đảm bảo và tình trạng nhiễm khuẩn
đường tiêu hóa, hô hấp [16].
16
1.4. Tình hình nhiễm giun của trẻ em trên Thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Tình hình nhiễm giun của trẻ em trên thế giới
Nhiễm giun là bệnh thường gặp nhất ở người, hay gặp ở các nước nhiệt
đới, phần lớn các nước đang phát triển là vùng nhiễm kí sinh trùng. Theo
thống kê của WHO 2002, có đến 230 triệu trẻ em từ 0-4 tuổi bị nhiễm giun,
vùng bị nhiễm nhiều nhất là vùng châu Á, Trung quốc, Ấn độ và sa mạc
Sahara [18].
Năm 1997 tại Ấn Độ, Awashi. S và cộng sự nghiên cứu 1061 trẻ em từ
18-42 tháng tuổi thấy tỷ lệ nhiễm kí sinh trùng đường ruột là 17,5%, trong đó
nhiễm giun đũa chiếm 68,1% [34]. Tại Kenya, Olsen A và cộng sự cho thấy
16% trẻ nhiễm giun đũa, 63% nhiễm giun móc và 24% nhiễm giun tóc [25].
Bệnh giun đũa rất phổ biến trên thế giới, có mặt hầu hết các châu lục,
Châu Á có tỷ lệ nhiễm giun đũa cao nhất, khoảng 70%; Châu Phi là 32,32%;
các nước Châu Mỹ có tỷ lệ nhiễm khoảng 8%. Tình trạng nhiễm giun đũa ở
trẻ em tại một số nước Đông Nam Á: Thủ đô Kuala Lumpur có tỷ lệ nhiễm
giun 15,5%, ở Sulawesi có tỷ lệ nhiễm 59,8%, Sukaraja có tỷ lệ nhiễm 44%,
Philippin có tỷ lệ nhiễm 70,6%
Do tính chất sinh thái giống nhau giữa giun tóc và giun đũa nên các vùng
có bệnh giun đũa đều có bệnh giun tóc. Bệnh giun tóc phổ biến ở các vùng
nhiệt đới Châu Phi và vùng Đông Nam Á [1]. Ở Jamaicar, tỷ lệ trẻ em nhiễm
giun tóc là 38,3%, Guatemala tỷ lệ trẻ em nhiễm giun tóc là 82%. Ở Indonesia
có tỷ lệ nhiễm từ 54,9%-76,0%. Tỷ lệ nhiễm ở trẻ em Philippin là 85,0%.
Bệnh giun móc cũng gặp ở hầu hết các nước trên thế giới, nhưng chủ yếu
ở các nước nhiệt đới như Nam Mỹ, Châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á và một
số nước Châu Âu. Các nước khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ nhiễm phục thuộc
vào từng nước, từng khu vực: Thái Lan là 40.56%, Indonesia năm 1980 là
17
52%-80%, Malaysia 43-51%, Singapore tỷ lệ nhiễm thấp: 0,3%-6,1%; Lào
2%-31%, Campuchia 35-56% [8].
1.4.2. Tình hình nhiễm giun của trẻ em ở Việt Nam:
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam Á, có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Vì
vậy có đầy đủ các yếu tố về: khí hậu, thổ nhưỡng cho các bệnh giun truyền
qua đất phát triển. Mặt khác nền kinh tế chưa phát triển, văn hóa xã hội còn
nhiều phong tục tập quán như ăn rau sống, dùng phân tươi trong canh tác...
Tất cả các yếu tố trên đã tạo điều kiện cho mầm bệnh giun sán tồn tại và phát
triển, vì vậy tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở Việt Nam rất cao [2].
WHO đề nghị cộng đồng được xếp loại có tỷ lệ nhiễm giun cao khi 50%
số người thuộc cộng đồng có kết quả xét nghiệm dương tính. Những vùng có
tỷ lệ giun móc lưu hành là những vùng có tỷ lệ nhiễm giun móc trên 20-30%
[42].
Ở Việt Nam, nhiễm giun là vấn đề sức khỏe cộng đồng. Trên toàn quốc
ước tính số người nhiễm giun đũa khoảng 60 triệu, giun tóc 40 triệu và giun
móc 40 triệu, tỷ lệ nhiễm nói chung từ 50-60% [2], [3]. Đặc biệt, tỷ lệ đa
nhiễm hai, ba loại giun rất cao, đạt 60-70% [2]. Riêng trẻ em, tỷ lệ nhiễm giun
từ 36,1-99,8%; trong đó, nhiễm giun Đũa 30,4-93,9%, giun Móc 6,4-70,2%,
giun Tóc 0,7-86,6 %. Cường độ nhiễm giun khá cao, 1 gam phân có 8,199
trứng giun Đũa, 264 giun Tóc [26].
Theo nghiên cứu của Đỗ Dương Thái và cộng sự, tỷ lệ nhiễm giun đũa ở
trẻ từ 2 - 5 tuổi là 42,8% - 66% [36]. Hoàng Thị Kim và cộng sự nghiên cứu ở
trẻ 1 - 4 tuổi vùng đồng bằng tỷ lệ nhiễm giun móc là 1,4% [27]; Trần Minh
Hậu và cộng sự cho thấy, trẻ em dưới 5 tuổi tại Thái Bình tỷ lệ nhiễm giun
đũa là 77,4%, giun tóc 30,1%, giun móc 1,07% [18] ; Đỗ Thị Đáng nghiên
cứu ở huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa ở trẻ 6
tháng đến 15 tuổi là 87% - 89%, giun tóc 78% - 80% và giun móc 20% [5].
18
1.4.3. Đặc điểm sinh học, tác hại đối với sức khỏe và bệnh tật trẻ em của
một số loại giun thường gặp
1.4.3.1. Đặc điểm sinh học của một số loại giun thường gặp
Giun đũa (Ascaris Lumbricoides) là một loại giun lớn, có hình thể dài và
to như chiếc đũa [32]. Bệnh giun đũa gây tác hại tiềm tàng do khả năng chiếm
thức ăn của chúng ở ruột non. Ngoài việc chiếm protein của cơ thể, giun đũa
còn gây ra rối loạn các chức năng về tiêu hóa và dinh dưỡng. Do đó ảnh
hưởng đến thể lực, tuổi thọ của mỗi người, đặc biệt làm giảm khả năng phát
triển thể lực và trí tuệ của trẻ em [32]
Giun móc/mỏ gây bệnh ở người chủ yếu do hai loài giun tròn nhỏ thuộc
họ Ancylostomide là giun móc (Ancylostoma duoenalae) và giun mỏ (Necator
americanus) gây ra. Hai loại giun này tuy có khác nhau về hình thể nhưng có
đặc điểm dịch tễ học, bệnh học và các tác hại tương tự nhau nên thường được
gọi chung là giun móc [32]. Giun móc sống ở tá tràng và phần đầu ruột non,
cắm miệng vào niêm mạc ruột để hút máu. Tác hại chủ yếu và nguy hiểm nhất
của nhiễm giun móc là gây nên sự mất máu kéo dài, dẫn đến tình trạng thiếu
máu của người bệnh. Đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ em và phụ nữ tuổi sinh
đẻ. Trong khi hút máu, giun móc còn tiết ra chất chống đông máu, do đó, máu
vẫn tiếp tục chảy sau khi đã hút máu no. Người ta ước tính mỗi con giun móc
mỗi ngày làm mất 0,02-0,07 ml máu. Nếu bị nhiễm hàng trăm con giun móc,
lượng máu mất hàng ngày có thể tới 50-60 ml. Mất máu kéo dài như vậy sẽ
gây thiếu máu thiếu sắt nặng, ngay cả trong trường hợp trẻ em và người lớn
được ăn uống tốt [31], [32].
Giun tóc (Trichuris trichiura) là loài giun nhỏ dài 3-5 mm có phần đầu
mảnh, nhỏ như sợi tóc (Trichusis trichiura) gây ra. Giun tóc ký sinh ở chủ
yếu vùng manh tràng và đại tràng. Giun tóc cắm sâu vào niêm mạc ruột để hút
máu [32]. Do giun tóc có phương thức ký sinh và cắm sâu phần đầu vào niêm
19
mạc ruột vật chủ nên gây tổn thương tế bào, làm rối loạn chức năng ruột và
viêm ruột. Nhiễm giun tóc nặng, kéo dài có thể gây thiếu máu nhược sắc,
hồng cầu giảm [31].
1.4.3.2. Tác hại đối với sức khỏe và bệnh tật trẻ em của một số loại giun
Nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa nhiễm kí sinh trùng và
tình trạng dinh dưỡng biểu hiện qua các chỉ số nhân trắc.
Tác hại của giun đũa thường liên quan đến số lượng giun tích lũy trong
cơ thể. Số lượng giun đũa càng nhiều thì lượng thức ăn bị chiếm đoạt của vật
chủ càng lớn. Các nghiên cứu đều cho thấy nhiễm giun Đũa số lượng lớn sẽ
ảnh hưởng đến sự tăng trưởng [2], [37]. Nhiễm giun số lượng nhẹ - vừa thì
không thấy triệu chứng gì rõ rệt, đôi khi thấy buồn nôn, ăn không tiêu, hay
đau bụng, đi ngoài phân nát. Ở trẻ em hay gặp các triệu chứng như: gầy còm,
bụng chướng, biếng ăn, co giật, ứa nước bọt, đó là những triệu chứng nhiễm
độc thần kinh do độc tố của giun gây ra. Biểu hiện suy dinh dưỡng ở trẻ em
nhiễm giun thường kéo dài, cân nặng và tốc độ phát triển thể lực của trẻ em
nhiều khi rất thấp [32], [37].
Giun móc không những gây ra tình trạng thiếu máu mà còn làm giảm
Vitamin A, B1, C... và giảm protein. Kết quả nghiên cứu bằng đồng vị phóng
xạ cho thấy: hiện tượng giảm protein trong bệnh giun móc vừa do mất máu
vừa do rối loạn hấp thu [2]. Như vậy hậu quả nghiêm trọng nhất của nhiễm
giun móc là sự mất máu mãn tính từ tá tràng đến ruột non làm giảm dự trữ sắt
của cơ thể và phát sinh bệnh thiếu máu, thiếu sắt và cũng có thể mất protein
huyết thanh dẫn đến giảm Albumin nghiêm trọng. Ở trẻ em nhiễm giun móc
nhiều và kéo dài có thể làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể như: chậm
lớn, còi cọc, chậm phát triển về tinh thần và trí tuệ [32].
Giun tóc ký sinh ở đại tràng, manh tràng, phần đầu của giun tóc cắm sâu
vào niêm mạc ruột gây tổn thương tế bào, làm rối loạn chức năng ruột và
20
viêm ruột. Hậu quả gây ra những triệu chứng rối loạn tiêu hóa, đau bụng, đi
ngoài... Vì giun tóc hút máu nên những trường hợp nhiễm nặng thường bị
thiếu máu nhược sắc, hồng cầu giảm [21], [31].
Theo WHO, số dân của Việt Nam là 70 triệu, tỷ lệ nhiễm trong dân là
80% nhiễm giun đũa, 52% nhiễm giun Tóc và 32% giun Móc. Mỗi người Việt
Nam trung bình có 8 con giun đũa, 22 con giun tóc và 17 con giun móc. Như
vậy, trong một năm tác hại do giun như sau: giun đũa tiêu thụ 28.616 tấn gạo;
31,8 tấn thịt; giun tóc tiêu thụ 1.461.460 lít máu; giun móc tiêu thụ
27.798.400 lít máu [50].
1.4.4. Một số nghiên cứu về tình trạng nhiễm giun trẻ em
Năm 1997 tại Ấn Độ, Awashi. S và CS nghiên cứu 1061 trẻ em từ 1,5
đến 3,5 tuổi thấy tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường ruột là 17,5%, trong đó giun
đũa chiếm 68,1% [43].
Nguyễn Võ Hinh và CS nghiên cứu trên 6882 mẫu phân trẻ từ 1 - 14 tuổi
tại Thừa Thiên Huế thấy tỷ lệ nhiễm ở trẻ 1 - 5 tuổi giun đũa là 81,8%, giun
tóc 20,9%, giun móc 13,64% [20].
Đỗ Dương Thái và CS nghiên cứu trên 1472 trẻ em dưới 3 tuổi tại Hà
Nội, trong nội thành thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa là 17,84%, giun tóc 3,22%
ngoại thành tỷ lệ nhiễm giun đũa là 46,49%, giun tóc 3,08% [36].
Hoàng Tân Dân và CS nghiên cứu tại trường mầm non nội thành Hà Nội
thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa là 8,8% - 10,2%, giun tóc 3,47% - 4,34%, không có
trẻ nào nhiễm giun móc, tỷ lệ nhiễm phối hợp thấp, cường độ nhiễm nhẹ,
không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giữa các lứa tuổi và giới của trẻ [4].
Năm 2003, Phạm Trung Kiên nghiên cứu ở trẻ dưới 60 tháng tuổi tại
Kim Bảng Hà Nam cho thấy tỷ lệ nhiễm giun chung là 93,4%, trong đó trẻ em
ở xã Hoàng Tây có tỷ lệ nhiễm giun đũa là 85,3%, giun tóc 69,5% và trẻ ở xã
Văn Xá tỷ lệ nhiễm giun đũa là 79,5%, giun tóc 63,9% [25].
21
Tác giả Châu Văn Hiền và CS tiến hành xét nghiệm phân 240 trẻ em từ
12 đến 36 tháng tuổi tại 5 xã của huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị tháng
2/2006, kết quả ghi nhận tình hình nhiễm giun đường ruột chung là 52,50%;
trong đó 35,00% nhiễm giun đũa, 20,10% nhiễm giun móc và không có
trường hợp nào nhiễm giun tóc; nhiễm phối hợp 2 loại giun (đũa+móc) là
2,91%. Trẻ em từ 12 đến 24 tháng tuổi nhiễm giun đường ruột là 47,54%, trẻ
em từ 25 đến 36 tháng tuổi nhiễm giun đường ruột là 57,36%, đồng thời kết
quả điều tra cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng trong nhóm trẻ em nhiễm giun là
72,00% [19].
1.5. Nguyên nhân và các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng và
nhiễm giun của trẻ em
1.5.1. Nguyên nhân, yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng
Năm 1998, UNICEF đã phát triển mô hình nguyên nhân suy dinh dưỡng.
Một số tổ chức khác cũng đã có những mô hình nguyên nhân - hậu quả SDD
riêng, hoặc phát triển mô hình mới dựa trên mô hình của UNICEF.
Mô hình nguyên nhân của SDD thiếu protein, năng lượng ở trẻ em dưới
5 tuổi cho thấy, suy dinh dưỡng là do tác động của nhiều yếu tố, có mối quan
hệ chặt chẽ với vấn đề y tế, lương thực-thực phẩm và thực hành chăm sóc trẻ
tại hộ gia đình. Mô hình chỉ ra các nguyên nhân ở các cấp độ khác nhau:
nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân sâu xa và các yếu tố
ở cấp độ này ảnh hưởng đến cấp độ khác.
Nguyên nhân trực tiếp của SDD trẻ em gồm ăn uống không hợp lý và
bệnh tật:
- Các yếu tố về dinh dưỡng/chế độ ăn :
Các số liệu điều tra riêng về khẩu phần ăn của người lớn và trẻ em cho
thấy chế độ ăn đóng vai trò quan trọng dẫn tới tình trạng suy dinh dưỡng ở
Việt Nam. Nhìn chung, khẩu phần ăn ở cả người lớn và trẻ em nước ta còn ở
22
mức thấp so với các nước trong khu vực [34]. Đối với trẻ em trên 2 tuổi thì
hầu hết các gia đình cho trẻ ăn cơm cùng bữa cơm với gia đình, nhưng số bữa
ăn hàng ngày thấp (trung bình 3 bữa/ngày). Ngay ở nhóm trẻ 24-36 tháng tuổi
cũng chỉ có 17,5% được ăn 3 bữa/ ngày. Tần xuất xuất hiện các thực phẩm
như thịt, cá, trứng, sữa trong bữa ăn của trẻ thấp, thường do điều kiện kinh tế
gia đình hoặc do hiểu biết của bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng trẻ em còn quá
hạn chế [34].
- Bệnh nhiễm trùng :
Vòng xoắn bệnh lý giữa các bệnh nhiễm trùng ở trẻ em và SDD đã được
chứng minh. Bệnh nhiễm trùng dẫn đến SDD, SDD dẫn đến bệnh nhiễm trùng
và vòng xoắn bệnh lý cứ thế tiếp diễn nếu không có can thiệp hoặc xử trí phù
hợp.
Nhiễm trùng, đặc biệt là tiêu chảy ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng
của trẻ em. Các tổn thương đường tiêu hóa làm tăng hao hụt các chất dinh
dưỡng, giảm hấp thu, đặc biệt các vi chất dễ đưa đến SDD do rối loạn tiêu
hoá. Và ngược lại, SDD dễ dẫn tới nhiễm khuẩn do sức đề kháng giảm. Do
đó, tỷ lệ SDD có thể dao động theo mùa và thường cao trong những mùa có
các bệnh nhiễm khuẩn lưu hành ở mức cao (tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp,
sốt rét) [34]. Bên cạnh đó, các bệnh nhiễm trùng khác cũng ảnh hưởng nhiều
tới dinh dưỡng như nhiễm khuẩn đường hô hấp, sởi và các bệnh kí sinh trùng
đường ruột.
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột cũng là nguyên nhân quan trọng gây ra
SDD, thiếu máu ở trẻ em. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột với cường độ cao
và trong một thời gian dài có thể gây suy dinh dưỡng như thấp còi, nhẹ cân và
ở những trường hợp nặng có thể gây tử vong [51].
Nguyên nhân sâu xa (tiềm tàng) của SDD do sự bất cập trong dịch vụ
chăm sóc bà mẹ, trẻ em, kiến thức của người chăm sóc trẻ, yếu tố chăm sóc
23
của gia đình, các vấn đề nước sạch, vệ sinh môi trường và tình trạng nhà ở
không đảm bảo, mất vệ sinh. Tỷ lệ SDD ở trẻ có mối quan hệ mật thiết với
trình độ giáo dục và tình trạng SDD mạn tính của người mẹ. Những phụ nữ bị
thiếu năng lượng trường diễn hoặc chiều cao thấp thường dễ đẻ con nhỏ yếu,
cân nặng sơ sinh thấp [44]. Những đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi những người
phụ nữ có học thức cao hơn thì thường được chăm sóc dinh dưỡng tốt hơn.
Theo kết quả nghiên cứu của Đặng Oanh, Vũ Đức Bảo, Nguyễn Thanh Quế
cùng cộng sự (1997) cho thấy, trẻ của những bà mẹ có trình độ văn hóa từ cấp
1 trở xuống hoặc mù chữ có tỷ lệ SDD cao hơn những bà mẹ có trình độ văn
hóa từ cấp 2 trở lên [33].
Nguyên nhân gốc rễ (cơ bản) của SDD trẻ em đó là nghèo đói và thiếu
kiến thức. Đói nghèo chủ yếu rơi vào những hộ gia đình có trình độ học vấn
thấp, khó có cơ hội tiếp xúc với thông tin và với các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ. Mặt khác, phần lớn các hộ gia đình nghèo, nhất là vùng nông thôn và
miền núi lại thường sinh nhiều con. Vì gia đình đông con nên chế độ dinh
dưỡng, khẩu phần ăn của trẻ không được đảm bảo. Chính điều này lại tạo nên
vòng luẩn quẩn của đói nghèo khó giải quyết.
1.5.2. Nguyên nhân, yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm giun của trẻ
em
Các nước khí hậu nhiệt đới rất thuận tiện cho sự sinh trưởng và phát triển
của giun truyền qua đất và các nước có nền kinh tế chậm phát triển, điều kiện
vệ sinh môi trường còn thấp thì tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất cao hơn. Việt
Nam là nước có nhiều điều kiện thuận lợi cho bệnh giun truyền qua đất tồn tại
và phát triển.
Từ những năm 60, cả nước ta đã có phong trào “ba sạch, ba diệt”, việc
xây dựng những công trình vệ sinh an toàn đã góp phần làm giảm tỷ lệ bệnh
giun sán và bệnh đường tiêu hoá. Theo nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp và
24
Phát triển nông thôn, hố xí hai ngăn là loại hố xí phù hợp nhất với vùng nông
thôn đồng bằng Bắc Bộ. Hố xí dội thấm nước tuy cũng diệt được mầm bệnh
GTQĐ, nhưng có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước.
Giáo dục sức khoẻ có vai trò quan trọng trong phòng chống bệnh giun
truyền qua đất. Giáo dục sức khoẻ nhằm tăng cường lối sống vệ sinh, lành
mạnh, nâng cao kiến thức vệ sinh phòng bệnh của người dân. Mascie - Taylor
(1999) thấy giáo dục sức khoẻ (cải thiện vệ sinh cá nhân, đi dép, rửa tay, dùng
hố xí sạch) là biện pháp phòng bệnh GTQĐ hiệu quả và ít tốn kém nhất [55].
Nghiên cứu của Lê Nguyễn Bảo Khanh và CS (1998) cho thấy thực hiện tăng
cường giáo dục kiến thức phòng bệnh giun sán cho học sinh tiểu học đã làm
giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất [56]. Tuy nhiên, để giáo dục sức
khoẻ đạt hiệu quả, đòi hỏi phải có sự lồng ghép và liên kết nhiều chương trình
y tế với sự tham gia của cộng đồng, trường học, các đoàn thể xã hội và các
chuyên gia truyền thông. Chỉ có các biện pháp vệ sinh môi trường mới đảm
bảo tính an toàn và hiệu quả lâu dài của chương trình phòng chống GTQĐ.
25
CHƯƠNG 2:
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại 4 xã (ABung, Tà Rụt, Đakrông và xã
Hướng Hiệp) thuộc huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị.
Đakrông là một huyện miền núi biên giới phía Tây Nam của tỉnh
Quảng Trị, có 13 xã và 1 thị trấn, với 102 thôn. Về vị trí địa lý: diện tích tự
nhiên là 1123,32 km2; phía bắc giáp huyện Hướng Hóa, phía nam giáp tỉnh
Thừa Thiên - Huế, phía tây là nước bạn Lào, phía đông giáp các huyện Hải
Lăng, Triệu Phong, Cam Lộ, Gio Linh. Theo Chi cục thống kê huyện, dân số
của huyện tính tới tháng 12/2003 là 34.869 người, trong đó 82% là đồng bào
dân tộc thiểu số Vân Kiều và Pakoh.Về kinh tế, Đakrông là huyện nghèo của
tỉnh, giao thông khó khăn, điều kiện phát triển kinh tế thấp kém kéo theo tình
trạng y tế chưa được đảm bảo tốt gây khó khăn cho ngành Y tế trong việc
đảm bảo chỉ tiêu giảm tình trạng SDD trên địa bàn. Tính tới tháng 12/2008,
theo báo cáo của Sở Y tế tỉnh Quảng Trị tỷ lê SDD tại Đakrông là 36,6% [39].
2.2. Đối tượng nghiên cứu
• Trẻ em từ 12 đến 36 tháng tuổi trên địa bàn nghiên cứu.
• Bà mẹ của trẻ có con từ 12-36 tháng tuổi (mẹ của những trẻ đã
được chọn) đang có mặt tại địa bàn trong thời gian nghiên cứu).
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Trẻ: trong độ tuổi 12-36 tháng có mặt tại thời điểm và trên địa bàn nghiên
cứu đó được lựa chọn. Trẻ không bị mắc các bệnh bẩm sinh, các bệnh
mạn tính, hiện tại không mắc các bệnh cấp tính.
- Bà mẹ: là mẹ của các trẻ được lựa chọn, không bị tâm thần, không bị rối loạn
trí nhớ và hợp tác.
26
2.2.2.Tiêu chuẩn loại trừ
- Trẻ: mắc các bệnh bẩm sinh, các bệnh mạn tính (tim, gan, thận) hoặc đang
mắc bệnh cấp tính.
- Bà mẹ bị bệnh tâm thần, rối loạn trí nhớ, có thái độ không hợp tác....
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.3.2 Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
2.3.2.1. Cỡ mẫu
Công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả
p(1-p) n = Z2
(1-α/2) e2
Trong đó:
n = số mẫu cần chọn cho một vùng dân tộc nghiên cứu
p = 0,4 (tỷ lệ SDD trẻ em tại huyện Đakrông theo nghiên cứu trước đó [23a]).
Z(1-α/2) = 1,96 là giá trị của hệ số giới hạn tin cậy ứng với α=0,05 với độ tin
cậy của ước lượng là 95%. e : sai số cho phép, chọn e = 0,05
Thay vào công thức trên, ta tính được n = 345
Như vậy, số trẻ lấy từ mỗi vùng dân tộc là 345 trẻ và 2 vùng dân tộc Vân
Kiều và PaKoh sẽ là 690 trẻ.
27
2.3.2.2 Phương pháp chọn mẫu
Việc chọn mẫu cho nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp chọn
mẫu nhiều giai đoạn:
- Giai đoạn I (chọn huyện): Chọn chủ đích huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị vào
nghiên cứu.
- Giai đoạn II (chọn xã): Chọn chủ đích 4 xã
+ 2 xã đại diện cho vùng người Pakoh: Xã A Bung; xã Tà Rụt
+ 2 xã đại diện cho vùng người Vân Kiều: Xã Đakrông; xã Hướng Hiệp
4 xã này là những xã nghèo có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao, tuy nhiên đường đi
lại đến các thôn không quá khó khăn và chính quyền địa phương và cán bộ y
tế cam kết tham gia nghiên cứu.
- Giai đoạn III (chọn đối tượng nghiên cứu):
Từ các xã đã chọn, danh sách trẻ từ 12-36 tháng tuổi sẽ được lập với đầy
đủ các thông tin về ngày tháng năm sinh và giới tính. Dựa trên danh sách trẻ
từ 12-36 tháng tuổi (được lập trước thời điểm điều tra) của các xã được chọn,
tiến hành chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống với
khoảng cách mẫu k = N/n (k là khoảng cách mẫu, N tổng số trẻ từ 12-36
tháng tuổi của các xã đã chọn, n= cỡ mẫu cho nghiên cứu). Tiến hành chọn
mẫu cho tới khi đủ số lượng trẻ là 345 trẻ cho mỗi vùng dân tộc, 690 cho 2
vùng dân tộc thì thôi. Trường hợp nếu trẻ được lựa chọn không đủ tiêu chuẩn,
điều kiện tham gia nghiên cứu thì lấy trẻ kế tiếp ngay sau trẻ được chọn trong
bảng danh sách.
Thực tế đã điều tra toàn bộ số trẻ (692 trẻ) trong độ tuổi 12 - 36 tháng
tuổi của 4 xã trên tại thời điểm nghiên cứu (tháng 9/2010) và các bà mẹ của
trẻ.
28
2.4. Thu thập thông tin
2.4.1. Đo các chỉ số nhân trắc của các trẻ từ 12-36 tháng tuổi đã được lựa
chọn:
* Đo chiều dài nằm trẻ
- Dụng cụ: thước đo chiều dài nằm cho trẻ dưới 2 tuổi với độ chia tối thiểu
0,1 cm.
- Vị trí đặt thước: để trên mặt phẳng nằm ngang (trên mặt bàn hoặc dưới sàn)
- Thao tác đo (2 điều tra viên hỗ trợ nhau):
+ Bỏ tất cả dày dép, mũ...của trẻ. Đặt trẻ nằm ngửa trên mặt thước, đảm
bảo 5 điểm chạm, trục của thước trùng với trục của cơ thể.
+ Một người giữ đầu trẻ sao cho mắt trẻ hướng thẳng lên trần nhà, đỉnh đầu
chạm vào êke chỉ số 0.
+ Người thứ 2 giữ thẳng 2 đầu gối của trẻ sao cho 2 gót chân chạm nhau,
tay kia đẩy êke di động áp sát vào 2 bàn chân thẳng đứng, vuông góc với mặt
thước.
+ Đọc kết quả theo đơn vị là cm với 1 số thập phân.
* Đo chiều cao đứng cho trẻ > 2 tuổi
- Dụng cụ: thước đo chiều cao loại bằng gỗ
- Thao tác: trẻ bỏ dép, đứng sát tường, dưới thước đo, mắt nhìn thẳng sao
cho chẩm, vai, mông, gót cùng trên một mặt phẳng. Người đo kéo nhẹ thanh
trượt theo phương thẳng đứng, khi chạm sát đỉnh đầu đối tượng thì đọc kết
quả và ghi theo cm với mỗi số lẻ.
* Cân trẻ
- Dụng cụ cân: sử dụng cân lòng máng Nhơn Hòa.
- Vị trí đặt cân: nơi bằng phẳng, thuận tiện để cân.
- Chỉnh cân: chỉnh cân về số 0 trước khi cân, kiểm tra độ nhạy của cân.
Thường xuyên kiểm tra độ chính xác của cân sau 10 lượt cân.
29
- Kỹ thuật cân:
+ Đối tượng mặc quần áo tối thiểu, bỏ dày dép, mũ nón và các vật nặng
khác trên người.
+ Trẻ đứng, ngồi hoặc nằm giữa cân, không cử động.
+ Ng−êi c©n trÎ ngåi ®èi diÖn chÝnh gi÷a mÆt c©n, khi c©n th¨ng b»ng ®äc
kÕt qu¶ theo ®¬n vÞ kg víi 1 sè thËp ph©n.
2.4.2. Lấy phân và xét nghiệm trứng giun
- Trước khi lấy mẫu phân, bố mẹ trẻ phải được giải thích và đồng ý tham gia
vào nghiên cứu cũng như được hướng dẫn cách lấy phân để đưa đến điểm
tập trung của thôn/xã, cán bộ y tế xã/huyện sẽ trực tiếp đưa mẫu phân đến
trạm y tế cho kỹ thuật viên xét nghiệm ngay trong ngày (trong vòng 24
giờ)
- Sử dụng kĩ thuật xét nghiệm phân theo phương pháp Kato-Katz.
* Kỹ thuật tiến hành
- Lấy một lượng phân bằng hạt ngô (5g) để trên giấy thấm
- Đặt miếng lưới lên trên mẫu phân, dùng que ấn miếng lưới và vét lấy phân
trên lưới
- Đặt tấm đong trên lam kính, cho phân vừa lọc vào đầy hố đong. Gạt nhẹ
trên miệng hố để loại phần phân thừa
- Cẩn thận nhấc tấm đong sao cho phần phân trong hố được giữ lại trên lam
- Phủ trên phân mảnh cellophane đã được ngâm trước trong dung dịch xanh
malachit
- Dùng nút cao su ấn nhẹ phân qua mảnh cellophane để phân dàn đều dưới
mặt tiếp xúc của nút cao su
- Nhấc nút cao su khỏi lam kính. Mảnh cellophane còn giữ lại trên lam và
tác dụng thay cho lá kính
30
- Đặt tiêu bản lên mâm kính soi phát hiện trứng giun sán sau khi thấy tiêu
bản trong và khô (thường sau 15 phút khi trời khô hanh, sau 30 phút đến 1
giờ khi trời ẩm ướt)
- Kỹ thuật Kato-Katz được đếm toàn bộ số trứng/lam, sau đó nhân với hệ số
24 để được số trứng/g phân. Hệ số này thay đổi tùy theo đường kính lỗ
đong và độ dày tấm đong
- Lưu ý: Hệ số 24 chỉ dùng với tấm đong có đường kính lỗ đong 6mm và độ
dày tấm đong 1,5mm
* Các chỉ số đánh giá:
- Tỷ lệ nhiễm giun đũa, tóc, móc (%) qua xét nghiệm Kato-Katz
- Tỷ lệ nhiễm giun (%) = Số mẫu XN có trứng giun x 100/Số mẫu XN
- Cường độ nhiễm giun tính theo số trứng giun trên 1g phân được xác định
qua xét nghiệm Kato-Katz. Phân loại theo tiêu chuẩn của WHO,2002
Mức độ
Loại giun
Nhiễm nhẹ
( trứng)
Nhiễm TB
(trứng)
Nhiễm nặng
(trứng )
Giun đũa 1-4999 5000-49999 ≥50000
Giun tóc 1-999 1000-9999 ≥ 10000
Giun móc 1-1999 2000-3999 ≥ 4000
2.4.3. Phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ là mẹ của các trẻ đã được lựa chọn
bằng bộ phiếu phỏng vấn
31
2.5. Biến số và chỉ số nghiên cứu
Mục tiêu Nhóm biến số Biến số/chỉ số Phương pháp
thu thập
Thông tin chung:
Điều kiện kinh tế,
văn hóa, xã hội của
các bà mẹ có con
12-36 tháng tuổi
thuộc đối tượng
nghiên cứu ở 4 xã
huyện Đakrông
Số con Số con đã sinh
Phỏng vấn, bảng
hỏi
Nghề nghiệp,
trình độ học
vấn của mẹ
Nghề nghiệp chính
của mẹ
Trình độ học vấn
của bà mẹ
Tình trạng
kinh tế
Tình trạng thiếu
ăn trong năm qua
Xếp diện hộ nghèo
Mục tiêu 1
Đánh giá tình trạng
dinh dưỡng và tình
trạng nhiễm giun
của trẻ 12 đến 36
tháng tuổi ở huyện
Đakrông tỉnh
Quảng Trị
Các thông tin
về trẻ:
Các chỉ số
nhân trắc
Tuổi của trẻ Phỏng vấn, bảng
hỏi Giới của trẻ
Cân nặng trẻ Cân trẻ
Chiều cao trẻ Đo chiều cao trẻ
Các chỉ số về
giun sán
Tỷ lệ nhiễm giun
các loại
Xét nghiệm phân
theo phương pháp
Kato-Katz Bội nhiễm giun
Thực hành
chăm sóc dinh
dưỡng của bà
mẹ
Thời gian bắt đầu
cho ăn bổ sung
Phỏng vấn, bảng
hỏi
Thành phần thức
ăn bổ sung
Chế biến riêng
thức ăn cho trẻ
32
Mục tiêu 2
Tìm hiểu một số
yếu tố liên quan
đến tình trạng dinh
dưỡng và nhiễm
giun của trẻ 12-36
tháng tuổi ở huyện
Đakrông tỉnh
Quảng Trị
Tình hình mắc
bệnh tiêu chảy
và thực hành
chăm sóc của
bà mẹ
Tình trạng mắc
bệnh tiêu chảy 2
tuần qua
Phỏng vấn, bảng
hỏi
Đáp ứng của mẹ
với việc chăm sóc
trẻ tiêu chảy
Chế độ dinh
dưỡng khi trẻ bị
tiêu chảy
Tình hình mắc
bệnh nhiễm
khuẩn hô hấp
cấp tính và
thực hành
chăm sóc của
bà mẹ
Tình trạng bệnh
nhiễm khuẩn hô
hấp cấp tính 2 tuần
qua
Phỏng vấn, bảng
hỏi
Đáp ứng của mẹ
với việc chăm sóc
trẻ ho, sốt
Chế độ dinh
dưỡng khi trẻ bị
ho, sốt
Thực hành
chăm sóc vệ
sinh cho trẻ
của bà mẹ
Thói quen vệ sinh
cho trẻ sau khi đi
cầu
Phỏng vấn, bảng
hỏi
Thói quen mặc
quần cho trẻ
Thói quen đi dép
cho trẻ
33
2.6. Sai số và khống chế sai số
- Sai số nhớ lại
- Sai số kỹ thuật cân đo
- Pháng vÊn thö ®Ó kiÓm tra tÝnh phï hîp cña bé c©u hái;
- Chọn lựa các điều tra viên có kinh nghiệm trong điều tra dinh dưỡng, có
kinh nghiệm làm việc với y tế thôn bản;
- Tổ chức tập huấn chi tiết về bảng hỏi và kỹ thuật cân đo trước khi điều
tra
2.7. Phân tích và xử lý số liệu
- Làm sạch số liệu từ phiếu
- Nhập và xử lý số liệu trên phần mềm EPI DATA và SPSS 16.0
- Dùng test χ2 để kiểm định sự khác biệt của hai tỷ lệ và T-test để kiểm định
sự khác biệt của hai giá trị trung bình
2.8. Thời gian nghiên cứu : Tháng 9/2010
2.9. Đạo đức nghiên cứu
- Tất cả những người tham gia nghiên cứu là hoàn toàn tự nguyện và được
đọc bản thoả thuận nghiên cứu được xây dựng theo hướng dẫn về đạo đức
trong nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu có quyền từ chối tham gia vào nghiên cứu nếu họ
không muốn
- Nghiên cứu này được thông báo cho chính quyền địa phương về quy mô
và thời gian tiến hành.
34
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm cơ bản của bà mẹ và hộ gia đình
Đặc điểm gia đình của bà mẹ
Đặc điểm n %
Số con trong gia đình (n=686)
Trên 2 con
1-2 con
311
375
45,3
54,7
Nghề nghiệp của mẹ ( n=692)
Làm rẫy/làm ruộng
Làm thợ
Cán bộ/công nhân
Nội trợ
Buôn bán
Khác
663
2
12
1
7
2
96,5
0,3
1,7
0,1
1,0
0,3
Dân tộc (n=687)
Vân Kiều
Pakoh
Kinh
Khác
451
221
11
4
65,7
32,2
1,6
0,6
35
Trình độ học vấn của bà mẹ( n=692)
Mù chữ
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trung cấp
Đại học/cao đẳng
360
122
149
43
7
6
52,4
17,8
21,7
6,3
1,0
0,9
Tình hình kinh tế
Tình trạng thiếu gạo ăn năm qua (2009) (n=687)
Có đủ gạo ăn
Thiếu gạo ăn
391
296
56,9
43,1
Số tháng thiếu gạo ăn trong năm ngoái (n=387)
Thiếu dưới 3 tháng
Thiếu 3 đến 6 tháng
Thiếu 6 đến 9 tháng
Thiếu 9 đến 12 tháng
301
71
9
6
77,8
18,3
2,3
1,6
Tỷ lệ hộ nghèo (n=685)
Hộ nghèo
Không nghèo
312
373
45,5
54,5
Nhận xét :
Nghề nghiệp của các bà mẹ chủ yếu là làm rẫy, làm ruộng (96,5%).
Tình trạng các bà mẹ mù chữ là phổ biến (52,4%). Có 17,8% bà mẹ học
hết tiểu học, 21,7% học hết bậc học trung học cơ sở, chỉ có 7,2% các bà mẹ
học cấp 3 hoặc cao hơn.
36
Trong số các bà mẹ được điều tra chiếm đa số là dân tộc Vân Kiều
(65,6%), tiếp đến là Pakoh (32,2%), chỉ có 1 số nhỏ trẻ người Kinh (1,6%),
còn lại dân tộc khác (0,6%).
Tỷ lệ hộ gia đình có từ 1-2 con là 54,7%, còn lại gia đình trên 2 con
chiếm 45,3%.
Tỷ lệ các gia đình thiếu gạo ăn trong năm 2009 là 56,9%. Hầu hết các gia
đình thiếu gạo ăn dưới 3 tháng (77,8%), thiếu 3 đến 6 tháng là 18,3%. Một số
ít hộ gia đình thiếu ăn lâu ngày 6 đến 9 tháng (2,3%) và đặc biệt có 6 gia đình
(1,6%) thiếu 9 đến 12 tháng. 45,5% gia đình thuộc diện hộ nghèo theo đánh
giá của Chính quyền địa phương (có giấy chứng nhận hộ nghèo).
42.8
46.4
10.8
Nước lấy từ sông suối
Hệ thống nước tự chảy
Nước giếng/nước máy
Biểu đồ 3.1. Nguồn nước các hộ gia đình sử dụng cho ăn uống
Nhận xét:
Nguồn nước chính của người dân địa phương sử dụng cho ăn uống là từ
sông suối, trong đó lấy nước từ hệ thống nước tự chảy dẫn về từ sông suối là
46,4%; người dân tự lấy từ suối là 42,8%. Có 10,8% hộ gia đình sử dụng
nước giếng / nước máy.
37
4.1 6.814.6
68.9
0.11.9 1.9 1.70
10
20
30
40
50
60
70
80
Hố xí tựhoại
Hố xí thấmdội nước
Hố xí haingăn
Hố xí mộtngăn
Hố xí đàocó nắpđậy
Hố xí đàokhông cónắp đậy
Không cóhố xí
Khác
Biểu đồ 3.2. Các loại hố xí mà các gia đình đang sử dụng
Nhận xét:
Hầu hết các gia đình không có hố xí (68,9%), các gia đình này chủ yếu là
đi cầu ở ngoài vườn hoặc sông suối… Trong số các gia đình có hố xí, loại hố
xí mà các gia đình hay sử dụng nhất là hố xí đào không có nắp đậy chiếm
14,6%, là một loại nhà xí không hợp vệ sinh. Các loại nhà xí được coi là hợp
vệ sinh như hố xí tự hoại, hố xí thấm dội nước có tỷ lệ lần lượt là 1,9% và
4,1%.
Bảng 3.2. Phân bố tuổi theo giới của trẻ tham gia vào nghiên cứu
Nhóm tuổi
(tháng)
Nam Nữ Tổng số
Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ %
12-17 71 52,6 64 47,4 135 19,5
18-23 100 57,1 75 42,9 175 25,3
24-29 84 50,6 82 49,4 166 24,0
30-36 128 59,3 88 40,7 216 31,2
Chung 383 55,3 309 44,7 692 100,0
38
Nhận xét:
Bảng 3.2 cho thấy sự phân bố giới tính giữa các trẻ điều tra là tương đối
đồng đều ở tất cả các nhóm tuổi. Tỷ lệ chung là 55,3% nam, 44,7% nữ.
3.2. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ
14.5
67.1
53.9
01020304050607080
Nhẹ cân Thấp còi Gầy còm
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ SDD của trẻ theo các thể nhẹ cân, thấp còi và gầy còm
Nhận xét :
Biểu đồ 3.4 cho thấy có 53,9% trẻ SDD thể nhẹ cân, 67,1% trẻ SDD thể
thấp còi và 14,5% trẻ SDD thể gầy còm.
Bảng 3.3. Cân nặng và chiều cao, WAZ,HAZ và WHZ trung bình của trẻ
TB±SD Tổng
(n=692)
Trẻ trai
(n=383)
Trẻ gái
(n=309)
p
(t-test)
Cân nặng (kg) 9,4±1,4 9,7±1,5 9,1±1,3 0,001
Chiều cao (cm) 79,5±5,5 80,2±5,7 78,7±5,1 0,001
WAZ (Zscore) -2,1±1,0 -2,1±1,0 -2,1±0,9 0,62
HAZ (Zscore) -2,4±1,1 -2,5±1,2 -2,4±1,0 0,80
WHZ (Zscore) -1,2±0,9 -1,2±1,0 -1,1±0,8 0,43
39
Nhận xét :
Bảng 3.3 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về cân nặng trung
bình giữa nam và nữ (p<0,05, t-test) ; các bé trai nặng hơn các bé gái trung
bình là 0,6kg. Tuy nhiên, giá trị Zscore trung bình theo các chỉ tiêu CN/T,
CC/T và CN/CC không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa trẻ trai và trẻ
gái.
53.7
63.8
16.2
54.2
65.6
12.3
010203040506070
Nam Nữ
Nhẹ cân Thấp còi Gầy còm
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ theo giới tính
Nhận xét :
Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân lần lượt 53,7% (trẻ trai) và 54,2% (trẻ gái). Tỷ lệ
SDD thể thấp còi 68,3% (trẻ trai) và 65,6% (trẻ gái). Tỷ lệ SDD thể gầy còm
lần lượt 12,6% (trẻ trai) và 12,3% ở trẻ gái. Sự khác biệt giữa tỷ lệ suy dinh
dưỡng ở trẻ nam và trẻ nữ của cả 3 thể không có ý nghĩa thống kê (p>0,1, χ2
test) hay nói tóm lại, không có sự khác biệt giữa tình trạng suy dinh dưỡng
giữa trẻ trai và trẻ gái.
40
54.1
65.769.7
74.4
46.752 50.3
62.8
13.514.921.5
9.7
0
10
20
30
40
50
6070
80
12-17 tháng 18-23 tháng 24-29 tháng 30-36 tháng
Nhẹ cân Thấp còi Gầy còm
Biều đồ 3.5. Phân bố tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ ở các thể theo nhóm tuổi
Nhận xét:
Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân và thể thấp còi có chiều hướng tăng dần theo độ
tuổi của trẻ. Tỷ lệ trẻ nhẹ cân và thấp còi thấp nhất ở nhóm 12-17 tháng tuổi
(46,7% và 54,1%) và cao nhất là ở nhóm 30-36 tháng tuổi (62,8% và 74,4%).
Tuy nhiên, tỷ lệ SDD thể gầy còm lại cao nhất ở nhóm tuổi từ 12 -17 tháng
(21,5%).
20
30
10
55.2
66.3
15.3
52.9
69.7
13.1
0
10
20
30
40
50
60
70
Kinh Vân Kiều Pakoh
Nhẹ cân Thấp còi Gầy còm
Biểu đồ 3.6. Phân bố tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ theo nhóm dân tộc
41
Nhận xét:
Tỷ lệ SDD ở trẻ người dân tộc thiểu số Vân Kiều và Pakoh cao hơn so
với nhóm trẻ người Kinh ở tất cả các chỉ số 55,2% và 52,9% so với 20%
(SDD thể nhẹ cân); 66,3% và 69,7% so với 30% (SDD thể thấp còi) và 15,3%
và 13,1% so với 10% (SDD thể gầy còm). Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em
người Vân Kiều và người Pakoh gần tương đương nhau.
3.3. Thực hành nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ và gia đình
Bảng 3.4. Thời gian bắt đầu ăn bổ sung, lọai thức ăn đầu tiên
Thực hành ăn bổ sung n %
Thời gian bắt đầu cho trẻ ăn dặm (n=687)
Dưới 6 tháng tuổi
Từ 6 tháng tuổi
170
517
24,7
75,3
Loại thức ăn đầu tiên của trẻ (n=687)
Nước cơm
Bột ngũ cốc tự làm
Bột dinh dưỡng/bột sữa
Nấu cháo
Cơm nhai/nhá
Bột rồng vàng
0
120
82
107
5
373
0
17,5
11,9
15,6
0,7
54,3
Nhận xét:
Bảng 3.5 cho thấy hầu hết trẻ được cho ăn bổ sung sau 6 tháng (75,3%),
24,7% các bà mẹ cho con ăn dặm trước 6 tháng.
Loại thức ăn đầu tiên của trẻ chủ yếu là bột rồng vàng (54,3%), 17,5% ăn
bột ngũ cốc tự làm, 15,6% ăn cháo và 11,9% trẻ ăn bột sữa.
42
Bảng 3.5. Thực hành nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ và gia đình
Thực hành nuôi dưỡng trẻ n %
Những loại thức ăn hiện tại trẻ đang sử dụng
(n=687)
Bột ngũ cốc tự làm
Bột dinh dưỡng/bột sữa
Cháo (cháo nấu/cháo gói)
Cơm nhai
Cơm bình thường như người lớn
Khác
5
9
226
13
610
10
0,7
1,3
32,9
1,9
88,8
1,5
Hình thức chế biến thức ăn cho trẻ (n= 687)
Chế biến thức ăn riêng cho trẻ
Không chế biến thường xuyên cho trẻ
Cho trẻ ăn như người lớn trong gia đình
95
147
445
13,8
21,4
64,8
Thời điểm bắt đầu cho trẻ ăn thức ăn như
người lớn (n=687)
Dưới 12 tháng
Từ 12 tháng đến dưới 24 tháng
Từ 24 tháng trở lên
161
388
42
27,2
65,7
7,1
Nhận xét :
Bảng 3.7 cho thấy trẻ ở độ tuổi 12 đến 36 tháng tuổi nhưng có đến
64,8% gia đình thường xuyên cho trẻ ăn như chế độ ăn chung với người lớn
trong gia đình. Chỉ có 13,8% gia đình biết chế biến thức ăn riêng cho trẻ vì trẻ
đang nhỏ. Hiện tại có 88,8% trẻ ăn cơm bình thường như người lớn, 32,9% trẻ
hiện đang ăn cháo, còn lại 4,8% là các loại thức ăn khác
43
Về thời gian bắt đầu cho trẻ ăn chế độ ăn như người lớn cũng rất sớm:
27,2% trẻ ăn chế độ ăn như người lớn trong gia đình từ lúc trẻ dưới 1 năm
tuổi; 65,7% trẻ bắt đầu chế độ ăn chung với gia đình khi trẻ từ 12 đến 24
tháng tuổi. Chỉ có 7,1% gia đình cho trẻ ăn chế độ ăn chung với người lớn
trong gia đình khi trẻ trên 24 tháng tuổi.
3.4. Thực hành chăm sóc sức khỏe trẻ khi bị bệnh
Bảng 3.6. Tình hình mắc bệnh tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp của trẻ
Mắc bệnh trong 2 tuần qua
Tiêu chảy Ho, sốt
n Tỷ lệ % n Tỷ lệ %
Có 193 29,7 359 52,8
Không 456 70,3 321 47,2
Tổng 687 100,0 680 100,0
Nhận xét:
Bảng 3.4 cho thấy trong 2 tuần qua có 29,7% số trẻ bị mắc tiêu chảy và
52,8% số trẻ bị bệnh viêm đường hô hấp
39.2
0.9
1.8
11.1
1.8
3.8
0.6
2.3
76.9
3.8
14.3
85.9
16.5
2.9
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Tự mua thuốc uống
Đến cơ sở y tế
Đến cơ sở tư nhân
Đến y tế thôn bản
Tự kiếm thuốc nam
Cúng giàng
Không làm gì
NKHH
Tiêu chảy
Biều đồ 3.7. Giải pháp của bà mẹ khi trẻ bị tiêu chảy và NKHH
44
Nhận xét:
Biểu đồ 3.8 cho thấy khi trẻ bị tiêu chảy hoặc NKHH phần lớn các bà mẹ
thường đưa trẻ tới các cơ sở y tế để được điều trị (76,9% trẻ bị tiêu chảy và
85,9% trẻ bị NKHH). Bên cạnh đó, cũng có một số bà mẹ tự mua thuốc hoặc
lấy lá cây theo kinh nghiệm dân gian cho trẻ uống (tiêu chảy: 11,1% tự mua
thuốc, 39,2% uống thuốc nam; NKHH: 14,3% tự mua thuốc)
Đặc biệt còn có một bộ phận nhỏ còn cúng giàng (3,8%); 2,3% và 2,9% các
bà mẹ không có can thiệp gì khi con bị tiêu chảy và NKHH.
33.8
24
29.5
8.4Như bình thường
Nhiều hơn bình thường
Ít hơn bình thường
Kiêng/ngừng ăn
Biểu đồ 3.8. Cho ăn khi trẻ bị tiêu chảy
Nhận xét:
Về việc chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ khi trẻ bị tiêu chảy, chỉ có 24,0%
bà mẹ cho trẻ ăn nhiều hơn bình thường khi trẻ bị tiêu chảy. Số bà mẹ còn lại
có cách chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ chưa đúng khi trẻ bị tiêu chảy: chỉ cho
trẻ ăn như bình thường (33,8%); cho trẻ ăn ít hơn bình thường (29,5%), thậm
chí không cho trẻ ăn hoặc ăn kiêng (8,4%).
45
3.5. Tình trang nhiễm giun của trẻ
Bảng 3.7. Tình trạng nhiễm giun của trẻ (n=680)
Tình trạng nhiễm giun của trẻ n %
Tỷ lệ nhiễm giun chung 215 31,6
Tỷ lệ nhiễm giun đũa 167 24,6
Tỷ lệ nhiễm giun tóc 42 6,2
Tỷ lệ nhiễm giun móc 44 6,5
Nhận xét :
Trong số 680 trẻ được xét nghiệm mẫu phân thì có 31,6% trẻ bị nhiễm
giun, trong đó chủ yếu là nhiễm giun đũa (24,6%), tiếp theo là giun
móc(6,5%) và giun tóc (6,2%).
46.1
95.2
81.8
47.3
4.8 9.1 6.60
9.1
0
20
40
60
80
100
Nhẹ Trung bình Nặng
Giun đũa
Giun tóc
Giun móc
Biểu đồ 3.9. Mức độ nhiễm giun theo từng loại giun
Nhận xét:
Đối với 167 trẻ nhiễm giun đũa thì số trẻ bị nhiễm ở mức nhẹ là 46,1%,
gần tương đương với số trẻ bị nhiễm ở mức trung bình là 47,3%, chỉ có 6,6%
trẻ bị nhiễm ở mức độ nặng. Còn với nhiễm giun tóc, hầu hết nhiễm ở mức độ
46
nhẹ (95,2%), chỉ có 4,8% trẻ bị nhiễm ở mức độ trung bình, không có trẻ
nhiễm giun tóc ở mức độ nặng. Đối với những trẻ nhiễm giun móc, 81,8% trẻ
nhiễm ở mức độ nhẹ; 9,1% nhiễm ở mức độ trung bình và 9,1% nhiễm ở mức
độ nặng
Biểu đồ 3.10. Tình trạng bội nhiễm giun ở trẻ
Nhận xét:
Hầu hết trẻ chỉ nhiễm một loại giun (26%), chỉ có 5,6% trẻ nhiễm 2 loại
giun và không có trẻ nào nhiễm cả 3 loại giun.
Bảng 3.8. Tình trạng bội nhiễm giun theo từng loại giun
Nhiễm giun n=215 %
Nhiễm 1 loại giun (n=177)
Giun đũa 131 74,0
Giun tóc 16 9,0
Giun móc 30 16,9
Bội nhiễm giun
Giun đũa+tóc 12 5,6
Giun đũa+móc 24 11,2
Giun tóc+móc 2 0,01
Giun đũa+tóc+móc 0 0
Không nhiễm68%
1 loại26%
2 loại6%
47
Nhận xét :
Đối với nhiễm 1 loại giun, có 74,0% trẻ chỉ nhiễm giun đũa, 16,9% trẻ
đơn nhiễm giun móc và 9% trẻ chỉ nhiễm giun tóc. Đối với nhiễm 2 loại giun,
có 11,2% trẻ nhiễm giun đũa+móc, 5,6% trẻ nhiễm giun đũa+tóc và 0,01%
trẻ nhiễm giun tóc+móc. Không có trẻ nào nhiễm cả 3 loại giun.
20.55.5
74
30.7
5.6
63.7
0
20
40
60
80
100
12-23 tháng 24-36 tháng
Không nhiễm2 loại
1 loại
Biểu đồ 3.11. Tỷ lệ bội nhiễm giun theo nhóm tuổi
Nhận xét:
Tỷ lệ nhiễm một loại giun ở nhóm trẻ 24-36 tháng (30,7%) cao hơn ở
nhóm 12-23 tháng (20,5%). Tỷ lệ bội nhiễm giun ở cả 2 nhóm tuổi là tương
đương nhau.
40%
16.3%
0%
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Vân Kiều Pakoh Kinh
Biểu đồ 3.12. Tình trạng nhiễm giun của trẻ phân bố theo nhóm dân tộc
48
Nhận xét:
Tỷ lệ nhiễm giun ở trẻ em người Vân Kiều cao nhất và cao hơn nhóm trẻ
em người Pakoh và người Kinh (40% so với 16,3% và 0%).
3.6. Thực hành chăm sóc vệ sinh cho trẻ của bà mẹ và gia đình
Bảng 3.9. Hành vi chăm sóc vệ sinh cho trẻ
Hành vi chăm sóc vệ sinh cho trẻ
Đặc điểm n %
Tỷ lệ bà mẹ thường xuyên rửa tay cho trẻ (n=687)
Không rửa tay cho trẻ
Lý do không rửa tay cho trẻ
Không có thói quen rửa tay cho trẻ
Thiếu nước
Khác
266
210
7
45
38,7
81,1
2,7
17,5
Tỷ lệ rửa/lau đít cho trẻ sau khi trẻ đi cầu (n=684)
Không rửa/lau đít cho trẻ
Lý do không rửa/lau đít cho trẻ sau khi đi cầu
Không có thói quen
Thiếu nước/thiếu giấy lau
Khác
52
24
3
23
7,6
48,0
6,0
46,0
Tỷ lệ bà mẹ mặc quần cho trẻ (n=687)
Không mặc quần cho trẻ
Lý do bà mẹ không mặc quần cho trẻ
Bà mẹ thấy không cần thiết
Thiếu quần áo
Khác
286
113
98
75
41,6
39,4
34,1
26,3
49
Tỷ lệ bà mẹ thường xuyên đi dép cho trẻ (n=687)
Không đi dép cho trẻ
Lý do bà mẹ không mang dép cho trẻ
Bà mẹ thấy chưa cần thiết
Thiếu dép
Khác
449
232
92
123
65,4
51,9
20,6
27,5
Tỷ lệ trẻ có xổ giun trước điều tra (n=687) 96 14,0
Nhận xét:
Thực hành của bà mẹ để chăm sóc vệ sinh cho trẻ cũng rất hạn chế.
38,7% bà mẹ không thường xuyên rửa tay cho trẻ vì không có thói quen
(81,1%), thiếu nước (2,7%) và những lý do khác (17,5%). Vẫn có 7,6% bà mẹ
không thường xuyên lau đít hoặc rửa đít cho trẻ sau khi trẻ đi cầu vì lý do
không có thói quen thực hành, thiếu giấy vệ sinh, thiếu nước và những lý do
khác. Đặc biệt có 41,6% trẻ không thường xuyên được mặc quần (ở truồng) vì
các bà mẹ cho rằng không cần thiết mặc quần cho trẻ (39,4%), thiếu quần áo
cho trẻ (34,1%). Phần lớn trẻ em không thường xuyên đi dép (65,4%), chủ
yếu vì các bà mẹ thấy chưa cần thiết (51,9%), thiếu dép (20,6%) và lý do khác
(27,5%). Trong số được điều tra chỉ có khoảng 14% số trẻ đã có tẩy giun.
50
3.7. Các yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm giun ở trẻ em
Bảng 3.10. Tình trạng nhiễm các loại giun theo lứa tuổi
Nhận xét:
Bảng 3.10 cho thấy tỷ lệ trẻ bị nhiễm giun tăng theo lứa tuổi, trẻ trên 24
tháng có tỷ lệ nhiễm giun cao hơn trẻ trong độ tuổi từ 12-23 tháng với p<0,05.
Trong đó, tỷ lệ nhiễm giun đũa giữa 2 nhóm tuổi khác biệt có ý nghĩa thống
kê với độ tin cậy 95%.
Nhóm tuổi
Tỷ lệ nhiễm giun
Trẻ 12-23 tháng tuổi (n=310 )
Trẻ 24-36 tháng tuổi (n=382 )
OR
95% CI
p n % n %
Nhiễm giun chung Có 80 26,0 135 36,3 OR=0,6
0,44-0,86
p<0.05 Không 228 74,0 237 63,7
Nhiễm giun đũa Có 63 20,5 104 28,0 OR=0,7
0,46-0,95 p<0.05 Không 245 79,5 268 72
Nhiễm giun tóc Có 20 6,5 22 5,9 OR=1,1
0,59-2,07 p>0.05 Không 288 93,5 350 94,1
Nhiễm giun móc Có 14 4,5 30 8,1 OR=0,5
0,28-1,04 p>0.05 Không 294 95,5 342 91,9
51
Bảng 3.11. Các yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm giun ở trẻ
Tình trạng nhiễm giun
Yếu tố liên quan
Không
nhiễm
(%)
Nhiễm
giun
(%)
OR
95%CI
p
Nguồn nước (n=676)
Nguồn nước an toàn
Nguồn nước không an toàn
71,8
67,9
28,2
32,1
OR=1,2
(0,69-2,08)
p>0,05
Nhà vệ sinh (n=675)
Hố xí hợp vệ sinh
Không có hố xí/không hợp vệ sinh
67,5
68,3
32,5
31,7
OR=0,9
(0,49-1,90)
p>0,05
Thói quen vệ sinh sau khi trẻ đi cầu
(n=676)
Rửa tay thường xuyên
Không rửa tay thường xuyên
67
70,5
33
29,5
OR=0,85
(0,61-1,19)
p>0,05
Thói quen lau/rửa đít cho trẻ sau đi cầu
(n=673)
Rửa/lau đít cho trẻ sau đi cầu
Không rửa/lau đít
69,8
49,0
30,2
51,0
OR=2,4
(1,35-4,27)
p<0,05
Thói quen mặc quần cho trẻ (n=676)
Thường xuyên mặc quần cho trẻ
Không thường xuyên mặc quần
70,5
65,2
29,5
34,8
OR=1,3
(0,92-1,77)
p>0,05
Thói quen đi dép cho trẻ (n=676)
Thường xuyên đi dép cho trẻ
Không thường xuyên đi dép cho trẻ
71,1
66,9
28,9
33,1
OR=1,2
(0,86-1,72)
p>0,05
52
Nhận xét:
Tỷ lệ nhiễm giun của nhóm trẻ không có thói quen lau/rửa đít sau khi đi
cầu cao hơn ở nhóm được bà mẹ thường xuyên rửa/lau đít cho trẻ sau khi đi
cầu (51% so với 30,2%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Độ tuổi
của trẻ cũng có liên quan đến tình trạng nhiễm giun của trẻ có ý nghĩa thống
kê. Trẻ trên 24 tháng tuổi có tỷ lệ nhiễm giun cao hơn trẻ dưới 24 tháng tuổi
(36,3% so với 26%) (p<0,05,χ2 test). Các yếu tố khác như nguồn nước, nhà
vệ sinh hay việc thực hành vệ sinh sau đi cầu, thói quen không mặc quần,
không đi dép cho trẻ không ảnh hưởng tới tỷ lệ nhiễm giun của trẻ.
3.8. Các yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em
Bảng 3.12. Các yếu tố liên quan đến tình trạng SDD thể nhẹ cân
Tình trạng dinh dưỡng
(CN/T)
Yếu tố liên quan
Không
SDD
(%)
SDD
(%)
OR
95%CI
p
Độ tuổi của trẻ (n=690)
≥ 24 tháng tuổi
< 24 tháng tuổi
42,6
50,3
57,4
49,7
OR=0,7
0,54-0,99
p<0,05
Tình trạng thiếu gạo ăn (n=686)
Không thiếu gạo ăn
Thiếu gạo ăn
52,9
40,9
47,1
59,1
OR=1,6
1,2-2,2
p<0,05
Tình trạng kinh tế hộ gia đình (n=684)
Không có sổ hộ nghèo
49,7
50,3
OR=1,4
1,02-1,88
Tình trạng nhiễm giun chung (n=679)
Trẻ không bị nhiễm giun
Trẻ bị nhiễm giun
45,5
47,0
54,5
53,0
OR=0,94
0,68-1,30
p>0,05
Tình trạng nhiễm giun đũa (n=679)
Trẻ không bị nhiễm giun đũa
44,9
55,1
OR=0,85
0,6-1,2
53
Trẻ bị bị nhiễm giun đũa 49,1 50,9 p>0,05
Tình trạng nhiễm giun móc (n=679)
Trẻ không bị nhiễm giun móc
Trẻ bị nhiễm giun móc
46,3
40,9
53,7
59,1
OR=1,25
0,67-2,32
p>0,05
Tình trạng bệnh tiêu chảy 2 tuần qua
(n=648)
Trẻ không bị ỉa chảy 2 tuần qua
Trẻ bị ỉa chảy 2 tuần qua
48,8
38,9
51,2
61,1
OR=1,5
1,06-2,11
p<0,05
Tình trạng nhiễm khuẩn hô hấp 2 tuần qua
(n=679)
Trẻ không bị NKHH 2 tuần qua
Trẻ bị NKHH 2 tuần qua
49,5
43,0
50,5
57,0
OR=1,3
0,96-1,76
p>0,05
Chế biến chế độ ăn của trẻ (n=686)
Chế biến thức ăn riêng cho trẻ
Không chế biến riêng cho trẻ
45,3
46,2
54,7
53,8
OR=0,96
0,62-1,49
p>0,05
Nhận xét:
Tỷ lệ SDD nhẹ cân có chiều hướng tăng theo tuổi, trẻ ≥ 24 tháng tuổi có tỷ
lệ SDD thể nhẹ cân cao hơn trẻ dưới 24 tháng tuổi với p<0,05. Có mối liên
quan giữa tình trạng kinh tế của các hộ gia đình với tình trạng SDD thể nhẹ
cân, những gia đình thiếu gạo ăn có tỷ lệ trẻ SDD cao hơn 1,6 lần so với gia
đình không thiếu gạo ăn (OR=1,6; p<0,05). Gia đình có sổ hộ nghèo có tỷ lệ
trẻ SDD cao hơn 1,4 lần so với gia đình không có sổ nghèo (OR=1,4; p<0,05).
Trẻ có bị tiêu chảy trong 2 tuần qua có nguy cơ SDD nhẹ cân cao hơn trẻ
không bị tiêu chảy, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,5; p<0,05).
Không thấy có mối liên quan giữa tình trạng nhiễm giun và tình trạng SDD
thể nhẹ cân.
54
Bảng 3.13. Các yếu tố liên quan đến tình trạng SDD thể thấp còi
Tình trạng dinh dưỡng
(CC/T)
Yếu tố liên quan
Không
SDD
(%)
SDD
(%)
OR
95%CI
p
Độ tuổi của trẻ (n=690)
≥ 24 tháng tuổi
< 24 tháng tuổi
27,6
39,4
72,4
60,6
OR=0,59
0,43-0,81
p<0,05
Tình trạng thiếu gạo ăn (n=686)
Không thiếu gạo ăn
Thiếu gạo ăn
42,4
26,1
57,6
73,9
OR=2,1
1,51-2,88
p<0,05
Tình trạng kinh tế hộ gia đình (n=684)
Không có sổ hộ nghèo
Có sổ hộ nghèo của chính phủ cấp
35,5
30,1
645
69,9
OR=1,28
0,93-1,76
p>0,05
Tình trạng nhiễm giun chung (n=679)
Trẻ không bị nhiễm giun
Trẻ bị nhiễm giun
34,5
30,2
65,5
69,8
OR=1,22
0,86-1,72
p>0,05
Tình trạng nhiễm giun đũa (n=679)
Trẻ không bị nhiễm giun đũa
Trẻ bị nhiễm giun đũa
33,4
32,3
66,6
67,7
OR=1,05
0,72-1,52
p>0,05
Tình trạng nhiễm giun móc (n=679)
Trẻ không bị nhiễm giun móc
Trẻ bị nhiễm giun móc
34,2
18,2
65,8
81,8
OR=2,34
1,07-5,11
p<0,05
Tình trạng bệnh ỉa chảy 2 tuần qua
55
(n=648)
Trẻ không bị ỉa chảy 2 tuần qua
Trẻ bị ỉa chảy 2 tuần qua
34,9
29.5
65,1
70,5
OR=1,29
0,89-1,85
p>0,05
Tình trạng nhiễm khuẩn hô hấp
2 tuần qua (n=679)
Trẻ không bị NKHH 2 tuần qua
Trẻ bị NKHH 2 tuần qua
35,8
30,7
64,2
69,3
OR=1,26
0,91-1,73
p>0,05
Chế biến thức ăn cho trẻ (n=686)
Chế biến thức ăn riêng cho trẻ
Không chế biến riêng cho trẻ
38,9
32,1
61,1
67,9
OR=1,35
0,86-2,11
p>0,05
Nhận xét:
Bảng 3.13 chỉ ra rằng trẻ càng lớn thì tỷ lệ trẻ bị SDD thấp còi càng cao,
trẻ trên 24 tháng tuổi có tỷ lệ SDD thấp còi cao hơn trẻ dưới 24 tháng tuổi có
ý nghĩa thống kê (p<0,05). Gia đình thiếu gạo ăn có tỷ lệ trẻ SDD thấp còi cao
hơn 2,1 lần những gia đình không thiếu gạo ăn (OR=2,1; p<0,05). Trẻ bị
nhiễm giun móc có tỷ lệ SDD thấp còi cao hơn trẻ không bị nhiễm rất nhiều
(OR=2,34; p<0,05). Trong nghiên cứu không thấy có mối liên hệ giữa tình
trạng SDD thấp còi với tình trạng kinh tế hộ gia đình, tình trạng mắc tiêu
chảy, NKHH trong 2 tuần qua và thực hành chế biến thức ăn cho trẻ.
56
Bảng 3.14. Các yếu tố liên quan đến tình trạng SDD thể gầy còm
Tình trạng dinh dưỡng
(CN/CC)
Yếu tố liên quan
Không
SDD
(%)
SDD
(%)
OR
95%CI
p
Độ tuổi của trẻ (n=690)
≥ 24 tháng tuổi
< 24 tháng tuổi
56,8
43,2
45,0
55,0
OR=1,6
1,05-2,46
p<0,05
Tình trạng thiếu gạo ăn (n=686)
Không thiếu gạo ăn
Thiếu gạo ăn
41,9
49,5
49,5
50,5
OR=0,74
0,48-1,13
p>0,05
Tình trạng kinh tế hộ gia đình (n=684)
Không có sổ hộ nghèo
Có sổ hộ nghèo của chính phủ cấp
53,9
46,1
57,1
42,9
OR=0,88
0,57-1,35
p>0,05
Tình trạng nhiễm giun chung (n=679)
Trẻ không bị nhiễm giun
Trẻ bị nhiễm giun
67,6
32,3
72,4
27,6
OR=0,8
0,49-1,28
p>0,05
Tình trạng nhiễm giun đũa (n=679)
Trẻ không bị nhiễm giun đũa
Trẻ bị nhiễm giun đũa
74,7
25,3
79,6
20,4
OR=0,76
0,45-1,28
p>0,05
Tình trạng nhiễm giun móc (n=679)
Trẻ không bị nhiễm giun móc
Trẻ bị nhiễm giun móc
93,5
6,5
93,9
6,1
OR=0,93
0,38-2,27
p>0,05
Tình trạng bệnh ỉa chảy 2 tuần qua
(n=648)
Trẻ không bị ỉa chảy 2 tuần qua
Trẻ bị ỉa chảy 2 tuần qua
72,5
27,5
57,1
42,9
OR=1,98
1,27-3,08
p<0,05
57
Tình trạng NKHH 2 tuần qua (n=679)
Trẻ không bị NKHH 2 tuần qua
Trẻ bị NKHH 2 tuần qua
48,4
51,6
40,4
59,6
OR=1,39
0,89-2,14
p>0,05
Chế biến chế độ ăn của trẻ (n=686)
Chế biến thức ăn riêng cho trẻ
Không chế biến riêng cho trẻ
12,4
87,6
22,2
77,8
OR=0,5
0,29-0,85
p<0,05
Nhận xét:
Tỷ lệ SDD gầy còm của nhóm tuổi ≥ 24 tháng tuổi cao hơn 1,6 lần so
với nhóm trẻ dưới 24 tháng tuổi (OR=1,6; p<0,05). Trẻ bị tiêu chảy trong 2
tuần qua có tỷ lệ SDD thể gầy còm cao hơn so với những trẻ không bị tiêu
chảy có ý nghĩa thống kê (OR=1,98; p<0,05). Trẻ có chế độ ăn không được
chế biến riêng có nguy cơ SDD gầy còm cao hơn so với trẻ được gia đình chế
biến thức ăn riêng có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95%. Không thấy có
mối liên quan giữa kinh tế hộ gia đình, tình trạng nhiễm giun, tình trạng mắc
NKHH trong 2 tuần qua với SDD thể gầy còm.
58
CHUƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 12-36 tháng tuổi tại huyện
Đakrông tỉnh Quảng Trị
Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em từ 12 đến 36 tháng tuổi tại
huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị rất cao ở cả 3 chỉ số, trong đó SDD thể nhẹ
cân là 53,9% (CN/T); thể thấp còi 67,1% (CC/T) và thể gầy còm
14,5%(CN/CC) (Biểu đồ 3.3). Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân chiếm 53,9% ở mức rất
cao so với ngưỡng phân loại mức độ SDD trẻ em ở cộng đồng của WHO [48].
So với số liệu điều tra toàn quốc năm 2009, tỷ lệ SDD trong nghiên cứu này
cao hơn hẳn so với mức suy dinh dưỡng trung bình của tỉnh Quảng Trị
(20,6%), của khu vực Bắc Trung Bộ (22,9%) và cả nước (18,9%) [11]. Kết
quả nghiên cứu này khi so sánh với nghiên cứu của tác giả Lê Thị Hương ở
huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị (một huyện đồng bằng của tỉnh Quảng Trị)
thì tỷ lệ SDD thể nhẹ cân trong nghiên cứu này cao hơn rất nhiều (SDD thể
nhẹ cân tại Hải Lăng là 17,7%) [22].
Tỷ lệ SDD thể gầy còm của trẻ tại địa bàn nghiên cứu còn rất cao
(14,5%) so với tỷ lệ SDD chung năm 2009 của tỉnh Quảng Trị (6,8%) và toàn
quốc (6,9%). Tỷ lệ này cũng cao hơn so với tỷ lệ SDD thể gầy còm trong một
nghiên cứu về tỷ lệ SDD của một số dân tộc miền núi phía bắc ở Sơn La như
dân tộc Dao(15,6%) năm 2002 [28], Nùng (11,8%) năm 2003 [40].
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ SDD thấp còi là 67,1% cao hơn nhiều so
với tỷ lệ SDD thể nhẹ cân và gầy còm, chứng tỏ tình trạng SDD mạn tính
đang phổ biến tại địa bàn nghiên cứu và cũng phù hợp với xu thế chung của
quốc gia. So sánh với điều tra toàn quốc năm 2009 của Viện Dinh dưỡng thấy
rằng tỷ lệ SDD thấp còi tại vùng nghiên cứu cũng cao hơn SDD thấp còi tỉnh
59
tỉnh Quảng Trị (33,8%) và toàn quốc (31,9%) [11]. So sánh với nghiên cứu
của tác giả Lương Thị Thu Hà tại hai xã của huyện Phú Lương, tỉnh Thái
Nguyên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn tỷ lệ SDD thể thấp còi
trong nghiên cứu này (SDD thể thấp còi tại Phú Lương là 8,4%) [16]. Tỷ lệ
SDD thấp còi được coi là chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của xã hội, phản ánh
tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc SDD trong quá khứ làm cho trẻ bị
còi cọc và là chỉ số đánh giá hậu quả của sự nghèo đói. Địa bàn nghiên cứu là
những xã miền núi, vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Trị nơi mà tỷ
lệ hộ đói nghèo còn cao 45,5% (theo phân loại của địa phương) và số hộ thiếu
ăn hàng năm lên tới 43,1%. Đồng thời huyện Đakrông còn là huyện được xếp
là một trong 61 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ.
Trên phạm vi cả nước, báo cáo về tình trạng dinh dưỡng hàng năm của
Viện Dinh dưỡng đều cho thấy vùng miền núi, vùng sâu vùng xa có tỷ lệ SDD
thấp còi cao hơn các vùng khác. Những vùng có tỷ lệ SDD cân nặng/tuổi cao
thì SDD thấp còi cũng cao và ngược lại. Qua đó có thể thấy, tỷ lệ SDD nhẹ
cân và thấp còi trẻ em từ 12-36 tháng tại Đakrông ở mức cao nhưng cũng nằm
trong bối cảnh chung của trẻ em tại các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng dân
tộc thiểu số Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tỷ lệ SDD có xu hướng tăng dần theo
nhóm tuổi, đặc biệt là với thể nhẹ cân và thấp còi thấp nhất ở nhóm 12-17
tháng tuổi (46,7% và 54,1%) sau đó tăng dần và cao nhất là ở nhóm 30-36
tháng tuổi (62,8% và 74,4%) (Biểu đồ 3.5). Kết quả này cũng phù hợp với kết
quả nghiên cứu của tác giả Trương Thị Sương tại 18 xã thuộc 9 huyện của
tỉnh Quảng Nam tháng 10/1999, nhóm tuổi có tỷ lệ SDD thấp nhất là từ 0-12
tháng, nhóm có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao nhất là từ 24-36 tháng (56,0%) [35].
Kết quả điều tra trên 749 trẻ từ 0-60 tháng tuổi của Đinh Văn Thức và CS tại
60
hai xã Đặng Cương và Quốc Tuấn, huyện An Hải, Hải Phòng năm 2000 cũng
thấy sự tương đồng [38].
Theo một số tác giả thì ở lứa tuổi này trẻ phát triển nhanh, đòi hỏi nhu
cầu năng lượng cao vừa để cho quá trình phát triển vừa để cho các hoạt động
vận cơ tăng lên nhưng quá trình cung cấp thì lại thiếu nhiều. Có thể có nhiều
lý do, nhưng ở tuổi này trẻ em ít được chăm sóc hơn, bà mẹ quan niệm là con
đã lớn nên chế độ ăn như người lớn, nhiều trẻ em sau cai sữa có chế độ ăn
không hợp lý, tỷ lệ bệnh nhiễm trùng tăng cao do vậy đã làm tăng tỷ lệ SDD.
Vì thế, trong chương trình phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em cần phải
có biện pháp dự phòng ngay khi trẻ dưới 6 tháng tuổi và các biện pháp phục
hồi dinh dưỡng cũng cần chú ý hơn cho trẻ em 30-36 tháng tuổi.
4.2. Thực hành chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ
Thời kì bắt đầu ăn bổ sung cho đến khi cai sữa là thời kỳ đe dọa nhất đối
với tình trạng dinh dưỡng trẻ em. Cho trẻ ăn bổ sung sớm không có lợi cho
sức khoẻ của trẻ vì trước 6 tháng tuổi trẻ chưa cần đến thức ăn ngoài sữa mẹ,
cho trẻ ăn khiến trẻ bú ít đi, sữa được sản sinh ra ít hơn và trẻ mất đi nguồn
dinh dưỡng quí giá từ sữa mẹ. Hơn nữa, bộ máy tiêu hoá của trẻ chưa hoàn
chỉnh vì vậy cho trẻ ăn bổ sung sớm trẻ rất dễ bị tiêu chảy. Mặt khác, nếu cho
trẻ ăn bổ sung muộn nguồn sữa mẹ không đủ cung cấp năng lượng cho trẻ vì
vậy trẻ sẽ bị thiếu năng lượng, thiếu các chất dinh dưỡng. Theo khuyến cáo
của Viện Dinh dưỡng, từ tháng thứ 6 trở đi ngoài sữa mẹ trẻ cần được ăn
bổ sung hợp lý bằng các loại thực phẩm khác.
Ở nghiên cứu này kết quả cho thấy hầu hết trẻ được cho ăn bổ sung sau
6 tháng (75,3%) nhưng loại thức ăn đầu tiên của trẻ chủ yếu là loại bột rồng
vàng, một loại bột được cho là bột phòng chống suy dinh dưỡng nên hầu hết
các bà mẹ không cho thêm bất kỳ một loại thực phẩm nào vào bột này mà
nghĩ rằng chỉ bột này cũng đã đủ chất cho trẻ. Có 54,3% số trẻ ăn loại bột
61
rồng vàng này. Về thời gian bắt đầu cho trẻ ăn chế độ ăn như người lớn cũng
rất sớm: 27,2% gia đình bắt đầu cho trẻ ăn chế độ ăn như người lớn trong gia
đình từ lúc trẻ dưới 1 năm tuổi; 65,7% gia đình bắt đầu cho trẻ bắt đầu chế độ
ăn chung với gia đình trong khoảng trẻ từ 12 đến 24 tháng tuổi. Chỉ có 7,1%
gia đình bắt đầu cho trẻ ăn chế độ ăn chung với người lớn trong gia đình khi
trẻ trên 24 tháng tuổi (Bảng 3.4). Chứng tỏ rằng, trẻ em ở địa bàn nghiên cứu
ít được chăm sóc về chế độ dinh dưỡng từ khi trẻ còn rất bé.
4.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 12-
36 tháng vùng dân tộc thiểu số tại huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị
4.3.1.Liên quan giữa yếu tố kinh tế văn hóa xã hội và gia đình với tình
trạng dinh dưỡng:
Yếu tố kinh tế hộ gia đình phản ánh sự đáp ứng đủ hay không đủ nhu cầu
dinh dưỡng của trẻ và các nhu cầu khác. Trẻ em có quyền đựơc nuôi dưỡng
và chăm sóc tốt nhất để có thể đạt tới chỉ số tối ưu về sức khoẻ và dinh
dưỡng. Một số nghiên cứu thực hiện ở nhiều vùng khác nhau đều cho thấy
thiếu lương thực hộ gia đình ảnh hưởng lớn đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ
[33], [40]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 45,5% gia đình thuộc
diện hộ nghèo theo đánh giá của Chính quyền địa phương (có giấy chứng
nhận hộ nghèo) và 56,9% hộ gia đình thiếu gạo ăn trong vừa qua (năm 2009).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhóm trẻ thuộc những hộ nghèo có
tỷ lệ SDD nhẹ cân cao hơn nhóm trẻ mà gia đình đủ ăn là 1,4 lần (OR=1,4;
p<0,05, test χ2). Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu ở
Phú Lương, Thái Nguyên năm 2008 [16], ở Lào Cai năm 2005 [1].
Thực tế cho thấy rằng khẩu phần ăn của trẻ phụ thuộc vào khẩu phần ăn
gia đình, ở những vùng có tỷ lệ suy dinh dưỡng trên dưới 60% thì thường có
trên 50% hộ gia đình thiếu ăn và nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDD trẻ em
là đói nghèo [17]. Như vậy, chương trình phòng chống SDD phải được xã hội
62
hoá cao, gắn liền với chương trình xoá đói, giảm nghèo, xây dựng gia đình
văn hoá mới (văn hoá nuôi con).
Mỗi một dân tộc có một phong tục, tập quán riêng về ăn uống và nuôi
con. Những quan niệm về văn hoá có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới
chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em nói chung và dinh dưỡng cho trẻ em nói riêng.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng tỷ lệ SDD ở trẻ người dân tộc
thiểu số Vân Kiều và Pakoh rất cao ở tất cả các chỉ số 55,2% và 52,9% (SDD
thể nhẹ cân); 66,3% và 69,7% (SDD thể thấp còi); 15,3% và 13,1% (SDD thể
gầy còm). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên
cứu của tác giả Lương Thị Thu Hà tại Phú Lương tỉnh Thái Nguyên năm 2008
[16], Nguyễn Thị Hải Anh ở Lào Cai năm 2005 [1]. Có thể lý giải vấn đề trên
là do địa bàn nghiên cứu của chúng tôi là một huyện miền núi có đến 82% bà
mẹ là người dân tộc thiểu số (Vân Kiều, Pakoh) sinh sống; hầu hết các bà mẹ
có trình độ học vấn rất thấp (52,4% mù chữ, 17,8% chỉ học tiểu học) nên việc
phổ biến kiến thức chăm sóc sức khỏe cho trẻ em còn gặp nhiều khó khăn.
Đề cập đến SDD trẻ em theo giới, kết quả nghiên cứu cho thấy không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng SDD của trẻ trai và trẻ gái ở
cả 3 thể (p>0,05, test χ2). Nghiên cứu của Phan Lê Thu Hằng, Lê Thanh Sơn
(2004) tại 4 xã tỉnh Hà Tây [17],Vũ Phương Hà tại các xã của 2 huyện Hướng
Hóa và Đakrông [15], cũng cho kết quả tương tự. Nhưng so sánh với kết quả
nghiên cứu tại Thái Nguyên của Lương Thị Thu Hà [16] thì kết quả của
chúng tôi lại không phù hợp.
4.3.2.Liên quan giữa thực hành nuôi dưỡng trẻ và tình trạng dinh dưỡng
Trẻ trong đối tượng nghiên cứu ở độ tuổi 12-36 tháng tuổi nhưng có đến
64,8% gia đình xem trẻ như người lớn và thường xuyên cho trẻ ăn như chế độ
ăn chung với người lớn trong gia đình. Nhóm trẻ có chế độ ăn không được
chế biến riêng có nguy cơ SDD gầy còm cao hơn so với trẻ được gia đình chế
63
biến thức ăn riêng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Không thấy có mối liên
quan giữa SDD thể nhẹ cân và thấp còi và thực hành chế biến thức ăn cho trẻ
(OR=0,5; p>0,05). Suy dinh dưỡng thể gầy còm (cân nặng theo chiều cao
thấp) thể hiện tình trạng thiếu ăn gần đây, mang tính chất cấp tính do những
vấn đề sức khoẻ và ăn uống của trẻ em. Qua nghiên cứu này chúng tôi cho
rằng việc tuyên truyền dinh dưỡng cho các bà mẹ về lựa chọn, chế biến thức
ăn cho trẻ phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng theo lứa tuổi của trẻ là hết sức cần
thiết và đặc biệt phải có những biện pháp can thiệp để nâng cao chất lượng
khẩu phần cho trẻ không phải chỉ để phục hồi dinh dưỡng mà phải phòng
SDD cho trẻ em ở cộng đồng..
4.3.3. Liên quan giữa tình trạng mắc bệnh tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp
cấp tính và tình trạng dinh dưỡng
Ở những trẻ SDD thì hệ miễn dịch tế bào giảm sút do vậy trẻ dễ bị mắc
các bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa, hô hấp và hậu quả là trẻ bị SDD ngày
một nặng thêm. Từ kết quả nghiên cứu ở cho thấy nhóm trẻ bị tiêu chảy trong
2 tuần qua có tỷ lệ SDD thể gầy còm cao gấp 1,98 lần so với những trẻ không
bị tiêu chảy, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,98; p<0,05). Kết
quả nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Hải
Anh năm 2005 tiến hành ở Lào Cai [1].
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn hô
hấp trong hai tuần qua rất cao (52,8%) nhưng chưa thấy mối liên quan có ý
nghĩa giữa tình trạng mắc nhiễm trùng đường hô hấp với tình trạng dinh
dưỡng của trẻ tại vùng điều tra (p>0,05). Nghiên cứu của tác giả Vũ Phương
Hà tại hai huyện Hướng Hóa và Đakrông cũng cho kết quả tương tự [15].
Nguyên nhân của SDD là phối hợp của nguyên nhân trực tiếp là ǎn
uống, bệnh tật đến các yếu tố về chǎm súc và nguyên nhân gốc rễ là sự nghèo
đói. Tuy vậy, mức độ tác động của các yếu tố khác nhau theo vùng: ở thành
64
thị vấn đề thiếu ǎn không còn phổ biến và chất lượng chǎm sóc trẻ tốt hơn,
trong khi nhiều địa phương ở khu vực nông thôn, miền núi thì vấn đề chǎm
sóc, bệnh tật và nuôi dưỡng trẻ còn nhiều hạn chế. Điều này đòi hỏi các chiến
lược tác động tập trung hơn vào hoạt động chăm sóc trẻ cùng với việc cải
thiện, nâng cao thực hành dinh dưỡng và phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn.
4.2 Tình trạng nhiễm giun của trẻ em từ 12-36 tháng vùng dân tộc thiểu
số tại huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị
4.2.1. Tình trạng nhiễm giun của trẻ
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam Á, có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Vì
vậy có đầy đủ các yếu tố về: khí hậu, thổ nhưỡng cho các bệnh giun truyền
qua đất phát triển. Mặt khác nền kinh tế chưa phát triển, văn hóa xã hội còn
nhiều phong tục tập quán như ăn rau sống, dùng phân tươi trong canh tác...
Tất cả các yếu tố trên đã tạo điều kiện cho mầm bệnh giun sán tồn tại và phát
triển, vì vậy tỷ lệ nhiễm giun truyền quá đất ở Việt Nam rất cao.
Tiến hành lấy mẫu và xét nghiệm phân 692 trẻ từ 12-36 tháng tuổi tại 4
xã của huyện Đakrông bằng phương pháp Kato-Katz, chúng tôi nhận thấy tỷ
lệ trẻ nhiễm giun chung khá cao (31,6%), đặc biệt là nhiễm giun đũa (24.6%),
tiếp theo là giun móc (6,5%) và giun tóc (6,2%). So sánh với kết quả nghiên
cứu của tác giả Châu Văn Hiền, Nguyễn Đức Thỏa tại 5 xã của huyện
Đakrông tỉnh Quảng Trị năm 2006 thì kết quả nhiễm giun chung và giun đũa
có thấp hơn nhiều (nhiễm giun đường ruột chung là 52,5%; 35,0% nhiễm giun
đũa; 20,1% nhiễm giun móc và không có trường hợp nào nhiễm giun tóc
[19]). Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm giun tóc trong nghiên cứu của chúng tôi lại cao
hơn của tác giả Đỗ Dương Thái và CS khi nghiên cứu trên 1472 trẻ em dưới
3 tuổi tại Hà Nội (trong nội thành, tỷ lệ nhiễm giun tóc 3,22%; ở ngoại thành,
tỷ lệ nhiễm giun tóc 3,08% [36]).
65
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng tỷ lệ trẻ bị nhiễm giun tăng
theo lứa tuổi, nhóm trẻ trên 24 tháng có tỷ lệ nhiễm giun là 36,3%, cao hơn
trẻ trong độ tuổi từ 12-23 tháng (26%), sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giun và độ
tuổi của trẻ có ý nghĩa thống kê (OR=0,6; p<0,05). Trong đó, tỷ lệ nhiễm giun
đũa giữa 2 nhóm tuổi cũng khác biệt có ý nghĩa thống kê (OR=0,7; p<0,05).
Sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giun tóc, giun móc giữa 2 nhóm trẻ là không có ý
nghĩa thống kê. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với của tác giả Hoàng
Tân Dân [4], Phạm Trung Kiên [25], không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm
giun tóc giữa các nhóm tuổi. Với lứa tuổi dưới 2 tuổi, trong khi các vùng
thành thị và nông thôn khác trẻ ở lứa tuổi này được coi là rất ít nguy cơ nhiễm
giun nhưng địa bàn nghiên cứu là một huyện miền núi, môi trường vệ sinh và
nước sạch còn nhiều hạn chế nên tỷ lệ nhiễm giun của trẻ 12 đến 23 tháng
tuổi cũng cao đến 26%. Trẻ càng lớn tuổi hơn nguy cơ nhiễm giun càng cao
hơn, có lẽ do gia đình đã không thể giám sát trẻ tiếp cận với các nguồn lây
nhiễm hoặc vệ sinh ăn uống nên tỷ lệ mắc ở trẻ nhóm tuổi lớn sẽ cao hơn.
Theo tiêu chuẩn phân loại mức độ nhiễm giun của tổ chức Y tế thế giới
(WHO), kết quả của chúng tôi cho thấy mức độ nhiễm các loại giun đũa, tóc,
móc ở trẻ em 12-36 tháng tuổi tại địa bàn nghiên cứu hầu hết là mức độ nhẹ
(Biểu đồ 3.9). Trong số trẻ nhiễm giun, hầu hết trẻ trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ đơn nhiễm một loại giun, trong đó nhiễm đơn thuần giun đũa là
74,0%, giun móc (16,9%) và giun tóc (9,0%). Có 5,6% trẻ bị nhiễm 2 loại
giun, trong đó nhiễm giun đũa và móc (11,2%), còn giun đũa+tóc (5,6%),
tóc+móc (0,01%) và không có trẻ nào nhiễm cả 3 loại giun (bảng 3.8). Kết
quả này của chúng tôi có khác biệt so với nghiên cứu của một số tác giả như
Phạm Trung Kiên ở Kim Bảng - Hà Nam, tỷ lệ đa nhiễm (nhiễm phối hợp) rất
cao, từ 60,3 %- 67,8% [25], và kết quả của Lê Thị Tuyết nghiên cứu tại vùng
66
Thái Bình cũng cho kết quả tương tự (đa nhiễm 86,5%, đơn nhiễm rất thấp chỉ
chiếm 13,5%) [41].
4.2.2. Thực hành chăm sóc vệ sinh cho trẻ của bà bà mẹ và gia đình
Thực hành của bà mẹ để chăm sóc vệ sinh cho trẻ cũng rất hạn chế:
38,7% bà mẹ không thường xuyên rửa tay cho trẻ, 41,6% trẻ không thường
xuyên được mặc quần, đặc biệt có tới 65,4% trẻ em không thường xuyên đi
dép. Nguyên nhân chủ yếu của các thái độ thực hành này là do các bà mẹ
không có thói quen hoặc thấy chưa cần thiết (Bảng 3.9).
4.2.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm giun trẻ em tại huyện
Đakrông tỉnh Quảng Trị
Điều tra của chúng tôi cho thấy nguồn nước chính của người dân địa
phương sử dụng cho ăn uống chủ yếu là từ sông suối, trong đó lấy nước từ hệ
thống nước tự chảy dẫn về từ sông suối là 46,4%; người dân tự lấy từ suối là
42,8%. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước giếng/nước máy thấp (10,8%). Biểu
đồ 3.2 chỉ ra hầu hết các gia đình không có hố xí (68.9%), trẻ con thường đi
cầu quanh nhà và phân của trẻ cũng không được xử lý mà để vương
vãi.…Trong số các gia đình có hố xí, loại hố xí mà các gia đình hay sử dụng
nhất là hố xí đào không có nắp đậy, chiếm tỷ lệ 14.6%, là một loại nhà xí
không hợp vệ sinh. Các loại nhà xí được coi là hợp vệ sinh như hố xí tự hoại,
hố xí thấm dội nước có tỷ lệ rất thấp lần lượt là 1,9% và 4,1%. Tuy nhiên
trong khuôn khổ nghiên cứu này chưa tìm ra mối liên quan giữa tình trạng
nhiễm giun của trẻ với các yếu tố nguồn nước và nhà vệ sinh mà người dân sử
dụng (p>0,05). Kết quả này không phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả
khác [24], [25] cho rằng có sự liên quan giữa tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất
với sử dụng hố xí không hợp vệ sinh hoặc phóng uế ra xung quanh nhà. Hố xí
không hợp vệ sinh chính là nguồn phát tán trứng giun ra môi trường nhiều
nhất bởi các loài vật trung gian khác như các loài vật nuôi, ruồi nhặng... Trẻ
67
em sống ở những gia đình sử dụng hố xí không hợp vệ sinh thì dễ tiếp xúc với
các yếu tố lây nhiễm như các vật dụng hàng ngày, thức ăn nên trẻ này dễ bị
nhiễm giun.
Kết quả của chúng tôi cho thấy 33 % trẻ bị nhiễm giun không rửa tay
thường xuyên sau khi đi cầu và 29,5% trẻ bị nhiễm giun có rửa tay thường
xuyên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). So sánh với
nghiên cứu của Khúc Thị Tuyết Hường tại Thái Nguyên [24] không cho kết
quả tương đồng, không rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh là những yếu
tố nguy cơ chính ảnh hưởng đến mức độ nhiễm giun tại khu vực nghiên cứu..
Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm giun của nhóm trẻ không có thói quen lau/rửa đít sau
khi đi cầu cao hơn 2,4 lần so với nhóm trẻ được bà mẹ thường xuyên rửa/lau
đít sau khi đi cầu (51% so với 30,2%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(OR=2,4; p <0,05).
Mặc dù nghiên cứu chưa tìm ra các yếu tố liên quan giữa nguồn nước,
nhà vệ sinh hay thói quen rửa tay sau khi đi cầu, thói quen không mặc quần,
không đi dép cho trẻ với tình trạng nhiễm giun nhưng thực tế cho thấy vấn đề
vệ sinh môi trường tại gia đình và vệ sinh cá nhân còn quá nhiều hạn chế và là
môi trường tạo thuận lợi cho nhiễm giun sán và các bệnh lây truyền qua
đường tiêu hóa. Đây là một trong những điểm lưu ý cần được nghiên cứu sâu
hơn sau này vì hạn chế của nghiên cứu hiện tại chưa tập trung vào nghiên cứu
các vấn đề vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường.
68
KẾT LUẬN
1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 12-36 tháng tuổi tại huyện
Đakrông tỉnh Quảng Trị
Tỷ lệ SDD trẻ em tại khu vực nghiên cứu là rất cao: SDD thể nhẹ cân là
53,9% (CN/T); thể thấp còi 67,1% (CC/T) và thể gầy còm 14,5%(CN/CC).
Tỷ lệ SDD ở tất cả các thể đều có xu hướng tăng lên theo độ tuổi.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng SDD của trẻ
trai và trẻ gái ở cả 3 thể.
2. Thực hành chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ
Hầu hết trẻ được cho ăn bổ sung sau 6 tháng (75,3%), 54,3% trẻ sử dụng
bột rồng vàng là loại thức ăn bổ sung đầu tiên và không cho thêm bất kỳ một
loại thực phẩm nào.
Thời gian bắt đầu cho trẻ ăn chế độ ăn như người lớn rất sớm: từ lúc trẻ
dưới 1 năm tuổi (27,2%); lúc 12 đến 24 tháng tuổi (65,7%); trên 24 tháng tuổi
(7,1%). Chỉ có 13,8% gia đình biết chế biến thức ăn riêng cho trẻ.
3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ
Tình trạng kinh tế hộ gia đình ảnh hưởng tới tình trạng SDD thể nhẹ cân
của trẻ.
Thực hành chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ của bà mẹ và tình trạng mắc
bệnh tiêu chảy cấp của trẻ là yếu tố nguy cơ gây SDD thể gầy còm ở trẻ em
trong nghiên cứu này.
Chưa thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa tình trạng mắc nhiễm trùng
đường hô hấp với tình trạng dinh dưỡng của trẻ tại địa bàn nghiên cứu.
69
4. Tình trạng nhiễm giun của trẻ em từ 12-36 tháng vùng dân tộc thiểu số
tại huyện Đakrông tỉnh Quảng Trị
Tỷ lệ trẻ nhiễm giun chung khá cao (31,6%), đặc biệt là nhiễm giun đũa
(24.6%), tiếp theo là giun móc (6,5%) và giun tóc (6,2%).
Mức độ nhiễm cả 3 loại giun ở trẻ em 12-36 tháng tuổi tại địa bàn
nghiên cứu đều ở mức độ nhẹ.
Hầu hết trẻ đơn nhiễm một loại giun (26%), chỉ có 5,6% trẻ bị nhiễm 2
loại giun và không có trẻ nào nhiễm cả 3 loại giun.
4.2.2. Thực hành chăm sóc vệ sinh cho trẻ của bà bà mẹ và gia đình
Thực hành của bà mẹ để chăm sóc vệ sinh cho trẻ rất hạn chế: 38,7%
bà mẹ không thường xuyên rửa tay cho trẻ; 41,6% trẻ không thường xuyên
được mặc quần (ở truồng), 65,4% trẻ em không thường xuyên đi dép.
4.2.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm giun trẻ em tại huyện
Đakrông tỉnh Quảng Trị
Có mối liên quan giữa tuổi và tình trạng nhiễm giun (p<0,05).
Có sự liên quan rõ rệt giữa không có thói quen lau/rửa đít cho trẻ sau khi
đi đại tiện với tình trạng nhiễm giun ở trẻ em (p<0,05).
70
KIẾN NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi có những kiến nghị sau:
1. Cần tăng cường truyền thông, phổ biến kiến thức giúp thay đổi hành vi cho
các bà mẹ để giảm tỷ lệ SDD, tỷ lệ nhiễm giun trong cộng đồng. Nội dung
truyền thông tập trung vào:
− Thực hành ăn bổ sung hợp lý cho trẻ
− Kiến thức chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ khi bị bệnh
− Nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành chăm sóc vệ sinh cho trẻ của bà
mẹ và gia đình.
2. Các cấp/ngành cần có những can thiệp dinh dưỡng cho trẻ từ 12-36 tháng
tuổi tại đây: hỗ trợ bổ sung thực phẩm và đa vi chất dinh dưỡng cho trẻ
nhằm giúp giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em vùng dân tộc thiểu
số khó khăn này.
3. Cần có chương trình tẩy giun cho trẻ từ 12-36 tháng tuổi tại huyện
Đakrông.
4. Cần có những biện pháp can thiệp cải thiện vấn đề vệ sinh môi trường và
vệ sinh hộ gia đình cũng như vệ sinh cá nhân tại địa phương. Nước sạch là
vấn đề cần quan tâm trong lĩnh vực này.
5. Cần thực hiện những chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế
hộ gia đình.
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Hải Anh (2005), “Mô tả tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan
của trẻ em dưới 5 tuổi tỉnh Lào Cai”. Luận văn Thạc sỹ y tế công cộng, Trường Đại học
Y tế công cộng.
2. Lê Đình Công (1998), “Tình hình bệnh giun sán hiện nay ở Việt Nam. Phương hướng, kế
hoạch phòng chống các bệnh giun sán1998-2000 và đến năm 2005”. Hội thảo Quốc gia
phòng chống các bệnh giun sán 1998-2000 và đến năm 2005, Hà Nội 7-8/1998, tr.1-4.
3. Hoàng Tân Dân (1998), “Một số ý kiến về công tác phòng chống bệnh giun sán ở nước
ta hiện nay”. Hội thảo Quốc Gia phòng chống các bệnh giun sán 1998-2000 và đến
2005, Hà Nội 7-8/1998, tr.14.
4. Hoàng Tân Dân, Phạm Hoàng Thế, Phạm Thị Tâm và CS (1999), “Tình hình nhiễm ký
sinh trùng đường ruột của trẻ em lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo tại trường mầm non thực
hành Hoa Sen Hà Nội và hiệu quả điều trị của Helmintox trong điều trị giun đường
ruột”. Công trình nghiên cứu Y học Quân sự, tr.19 - 24.
5. Đỗ Thị Đáng (1995),“Đánh giá hiệu quả ứng dụng biện pháp vệ sinh môi trường thử
nghiệm điều trị chọn lọc chống bệnh giun truyền qua đất tại Thái Bình”. Luận văn Bác
sỹ chuyên khoa cấp II, Đại học Y Hà Nội.
6. Viện Dinh Dưỡng (1998), "Hướng dẫn đánh giá tình hình dinh dưỡng và thực phẩm ở
một cộng đồng", NXB Y học, Hà Nội, tr.68-71.
7. Viện Dinh Dưỡng (2005), “Số liệu giám sát dinh dưỡng hàng năm”
8. Viện Dinh Dưỡng (2000), “Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2000”, tr.38.
9. Viện Dinh Dưỡng (2001), “Diễn tiến tình hình dinh dưỡng trong 5 năm 1995-2000”.
Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch hành động Quốc Gia về dinh dưỡng giai đoạn 1995-
2000, Hà Nội (4/2000), tr.51-53.
10. Viện Dinh Dưỡng (2001), “Tình trạng dinh dưỡng trong 5 năm 1995-2000”. Báo cáo
tổng kết thực hiện kế hoạch hành động Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 1995-2000. Hà
Nội, 4/2000, tr.51-53
72
11. Viện Dinh Dưỡng (2009), “Số liệu thống kê tình trạng SDD trẻ em các tỉnh năm 2009”,
http://viendinhduong.vn
12. Viện Dinh Dưỡng (2010), “Số liệu giám sát dinh dưỡng toàn quốc”, Báo cáo tổng kết tại
Hội nghị tổng kết chương trình Phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em năm 2009.
13. Viện Dinh Dưỡng (2010), “Số liệu thống kê về tình trạng dinh dưỡng trẻ em qua các
năm 1999-2010”, http://viendinhduong.vn/news/vi/106/61/a/so-lieu-thong-ke-ve-tinh-
trang-dinh-duong-tre-em-qua-cac-nam.aspx . Cập nhật ngày 23/2/2011.
14. Bộ môn Dinh Dưỡng và an toàn thực phẩm (2004), “Dinh dưỡng và An toàn thực
phẩm”. Trường Đại Học Y Hà Nội, Nhà xuất bản Y học 2004, tr.37,47-48, 148-153, 247.
15. Vũ Phương Hà (2010), “Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 2 tuổi và các yếu tố liên
quan tại huyện Hướng Hóa và Đakrong tỉnh Quảng Trị năm 2010”. Luận án thạc sỹ Y
học Dự Phòng, Đại học Y Hà Nội.
16. Lương Thị Thu Hà (2008), “Nghiên cứu thực trạng SDD thiếu protein năng lượng ở trẻ
em dưới 5 tuổi tại hai xã của huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên”. Luận văn Thạc sỹ y
học dự phòng, trường Đại học Y khoa Thái Nguyên, tr.57.
17. Phan Lê Thu Hằng, Lê Thanh Sơn (2004), “Thực trạng một số yếu tố liên quan tới tình
trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi tại 4 xã tỉnh Hà Tây”. Tạp chí Y học thực
hành, số 4 (478), tr. 39.
18. Trần Minh Hậu (1994), “Nhận xét về tình trạng thiếu máu và nhiễm giun ở trẻ em dưới 5
tuổi ở một số xã huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình”.Tập san NCKH, Đại học Y Thái
Bình, Tập 1, tr. 46 - 49.
19. Châu Văn Hiền, Nguyễn Đức Thỏa (2006), “Tình hình nhiễm giun đường ruột ở trẻ em
từ 12-36 tháng tuổi tại huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị, năm 2006”. Báo cáo khoa học
Trung tâm y tế huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị.
20. Nguyễn Võ Hinh, Phan Trung Tiến và CS (1997), “Nhiễm giun đường ruột ở trẻ em và
hiệu quả điều trị hàng loạt bằng Mebendazol tại Thừa Thiên Huế”. Kỷ yếu công trình
nghiên cứu khoa học (1991 - 1996), NXB Y học, Hà Nội, tr. 52 - 55.
21. Trần Thị Hồng (1997), “Giun sán”. Bài giảng Kí sinh trùng Y học, Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh, tr.119-156.
73
22. Lê Thị Hương (2007), “Kiến thức và thực hành dinh dưỡng của bà mẹ và tình trạng dinh
dưỡng của trẻ dưới hai tuổi tại Huyện Hải Lăng tỉnh Quảng trị”. Tạp chí Dinh dưỡng và
thực phẩm. Số 4(2), tr.2-4; 40-48.
23. Lê Thị Hương, Trần Thị Lan (2010), “Điều tra ban đầu về tình trạng dinh dưỡng của trẻ
em dưới 2 tuổi vùng dân tộc thiểu số huyện Hướng Hóa và Đakrông, tỉnh Quảng
Trị”.Save children 2/2010
24. Khúc Thị Tuyết Hường (2009), “Nghiên cứu thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học
sinh hai trường mầm non tại Thái Nguyên và kết quả tẩy giun bằng Albendazol ”. Luận
văn Thạc sỹ y học, Đại hoc Y Thái Nguyên.
25. Phạm Trung Kiên (2003), “Đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp cộng đồng đến
bệnh tiêu chảy và nhiễm giun truyền qua đất ở trẻ dưới 5 tuổi tại xã Hoàng Tây, Kim
Bảng Hà Nam”. Luận án Tiến sỹ y học, Đại học Y Hà Nội.
26. Hoàng Thị Kim (1998), “Những kết quả nghiên cứu của Viện Sốt rét- Kí sinh trùng- Côn
trùng về đặc điểm dịch tễ, chẩn đoán, điều trị, phòng chống các bệnh giun sán truyền
qua đất ở Việt Nam”.Hội thảo Quốc gia phòng chống các bệnh giun sán 1998-2000 và
đến 2005, Hà Nội 7-8/7/1998, tr.26-28.
27. Hoàng Thị Kim (1998), “Nghiên cứu hiệu quả của các biện pháp điều trị chọn lọc trong
phòng chống các bệnh giun truyền qua đất”. Kỷ yếu CTNCKH (1991 - 1996), tr. 30 -
36.
28. Đỗ Thị Lan, Cao Thị Hồng Hà, Nguyễn Hạnh Nguyên và cộng sự (2002), “Tìm hiểu một
số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng trẻ em ở Sơn La”. Tạp chí y học dự phòng.
Số 8 (2), tr.113.
29. Trần Chí Liêm (2007), “Đánh giá thực hiện chiến lược Quốc Gia về dinh dưỡng giai
đoạn 2001-2005 và định hướng kế hoạch đến năm 2010”. Tạp chí Thông tin Y Dược, số
4/2007, tr.2-3.
30. Bộ môn Nhi (2009), “Bài giảng Nhi khoa tập 1”.Trường Đại học Y Hà Nội- NXB Y học,
Hà Nội, tr 7,8, 216-224. 31. Bộ môn Kí sinh trùng trường Đại học Y Hà Nội (2007), “Kí sinh trùng y học”. NXB Y
học Hà Nội, tr.139-172.
74
32. Trường Đại học Y Hà Nội (1997), “ Giun sán kí sinh trùng”, Kí sinh trùng ứng dụng
trong y học. NXB Y học, Hà Nội, tr.130-173.
33. Đặng Oanh, Vũ Đức Bảo, Nguyễn Thanh Quế, Phạm Quốc Bảo, Phạm Thanh Hải
(1997),“Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi tại 2 tình Gia Rai,Kon Tum 1996-
1997”. Viện VSDT Tây Nguyên, tr.262.
34. Hà Xuân Sơn (2005), “Đánh giá hiệu quả phục hồi dinh dưỡng trẻ em bằng giáo dục
dinh dưỡng cộng đồng cho các bà mẹ ở Nga My và Tân Kim, Phú Bình, Thái Nguyên”.
Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Thái Nguyên.
35. Trương Thị Sương, Nguyễn Tấn Thương và cộng sự (2000), “Một vài nhận xét về tình
hình bệnh tật trẻ em vùng nông thôn tỉnh Quảng Nam”. Tạp chí Y học thực hành (391),
tr.52-56.
36. Đỗ Dương Thái (1975), “Những nhận định về tình hình nhiễm giun sán ở miền Bắc Việt
Nam”. Kỷ yếu CTNCKH, tr. 185 - 188.
37. Phạm Hoàng Thế (1998), “ Bệnh giun Đũa”. Bài giảng trong chương trình cao học, Bộ
môn Kí sinh trùng, Đại học Y Hà Nội.
38. Đinh Văn Thức, Nguyễn Thế Hường (2000), “Tỷ lệ suy dinh dưõng và một số yếu tố liên
quan tại hai xã Đặng Cương và Quốc Tuấn, huyện An Hải, Hải Phòng năm 2000”. Kỷ
yếu công trình nghiên cứu khoa học Nhi khoa, NXB Y học, Hà Nội, tr.51-56.
39. Sở Y tế tỉnh Quảng Trị (2008), “Báo cáo tổng kết hoạt động Y tế dự phòng tỉnh Quảng
Trị năm 2008”. Sở Y tế tỉnh Quảng Trị, tr.7-8.
40. Nguyễn Trần Tuấn (2003), “Nghiên cứu thực trạng dinh dưỡng, bệnh tật và một số yếu
tố liên quan ở bà mẹ và trẻ em dưới 2 tuổi tại xã Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
Giang”. Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học y khoa Thái Nguyên, tr.46.
41. Lê Thị Tuyết (2000),“ Tình trạng nhiễm giun đũa, giun tóc móc/mỏ và hiệu quả một số
biện pháp can thiệp trong phòng chống ở một số xã tỉnh Thái Bình”. Luận án Tiến sỹ y
học, Đại học Y Hà Nội.
42. WHO (2000), “ Hướng dẫn công tác phòng chống các bệnh giun truyền qua đất và thiếu
máu do giun”. NXB Y học, Hà Nội, tr 13, 32-33, 49-69, 133-134, 150.
Tài liệu tiếng nước ngoài
75
43. Pande V. K. Awashi (1997), “Prevalence of malnutrion and intestinal parasites in
preschool slum children in Lucknow”, Indian - Pediatre, tr599-605.
44. Robert E. Balck et al (2008), “Materna land child under nutrition :
global and regional exposes and health consequences”, The Lancet,
Maternal and Child under nutrition serrie, pp. 5- 11.
45. Lisa. C. (2000), “Overcoming child malnution in developing countries: Past
achievement and future choices”. International Foot Policy Research Institule,
Washington DC, pp46, 50.
46. Mascie Taylor C. G., Alam M., Montanari R. M. et al. (1999), “A study of the cost
effetiveness of selective health interventions for the control of intestinal parasites in
rural Bangladesh”, J - parasitol, 85, pp. 6 - 11.
47. Tripathy K., Duque E., Bolanos O., et al.(1972) “ Malabsorption syndrom in
Ascariasis”.Am.J.Clin.Nutr, pp.25,1276-1281.
48. WHO, (1983) “Measuring change in nutritional status”,Geneva
49. WHO (1993), “Breastfeeding- The technical basis and recommendation for action”.
Geneva 1993, pp.1-5,6,9 -12, 14, 113.
50. WHO (1994),“Report of the WHO informal Consultation on Hookworm
infection anh Anemia in girls and women”. WHO/CTD/Sip/96.1. Geneva 5-7 December
1994.
51. WHO (2006), “WHO Child Growth Standard”, World Health Oganization, Geneva.
76
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----***----
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi:
- Phòng đào tạo trường Đại học Y Hà Nội
- Khoa Y tế công cộng trường Đại học Y Hà Nội
- Bộ môn Dinh dưỡng trường Đại học Y Hà Nội
- Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp
Tôi xin cam đoan đã thực hiện luận văn một cách khoa học, chính xác, trung thực. Các
số liệu, kết quả trong luận văn đều có thật và chưa được đăng tải trên tài liệu khoa học nào
khác.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Nguyễn Hoàng Linh Chi