Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 1/40
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 9/2018
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Robot đánh trống trường
Robot chống cận thị mini, giúp trẻ ngồi đúng tư thế học bài
Phát triển thành công Hệ thống Robot 6 bậc tự do phù hợp với điều kiện sản xuất tại Việt Nam
“Siêu xe gỗ” chạy điện
Thiết bị báo hiệu cứu nạn cá nhân
MobiFone thử nghiệm thành công chuyển thuê bao về 10 số
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Chế tạo mô hình tàu ngầm Kilo điều khiển từ xa
Máy làm đá tuyết từ nước biển
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Việt Nam phát triển thành công "Lá nhân tạo"
Hệ thiết bị phân tích vết Thủy ngân (Hg) phục vụ quan trắc môi trường và kiểm soát thực
phẩm
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Nghiên cứu quy trình trích ly flavonoid tổng từ lá đỏ ngọn và đánh giá hoạt tính sinh học
của dịch chiết
Y - DƯỢC
Trí tuệ nhân tạo giúp soi gene bắt bệnh cho người Việt
Nghiên cứu đề kháng insulin, giảm tiết insulin và tình trạng rối loạn dung nạp glucose ở
bệnh nhân lớn tuổi
Phương pháp điều trị mới cho trẻ em suy thận mạn giai đoạn cuối
NÔNG NGHIỆP
Hệ thống phân loại xoài tự động
Tạo vật liệu khởi đầu giống ổi bằng phương pháp lai hữu tính
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 2/40
Thử nghiệm sử dụng ong ký sinh để khống chế mọt thuốc lá gây hại thức ăn nuôi cá bảo
quản trong kho
Nghiên cứu chọn lọc một số dòng lan Dendrobium mini mới
Nghiên cứu khí canh cây dừa cạn trong điều kiện bổ sung vi khuẩn Agrobacterium
rhizogenes
Chế phẩm axit béo đa nối đôi (n3-PUFA) từ nguyên liệu tự nhiên bổ sung vào thức ăn
ương nuôi thủy sản
Nghiên cứu phát triển một số giống khoai lang theo hướng sản xuất hàng hóa cho vùng
đất bãi ven sông Hồng
Công nghệ nano - giải pháp cho nông nghiệp sạch
MÔI TRƯỜNG
Hoàn thiện máy vớt rong, cỏ dại và lục bình cỡ nhỏ trên kênh, mương cấp thoát nước khu
vực TP.HCM
LĨNH VỰC KHÁC
Phát hiện loài sóc mới cho khoa học ở Việt Nam
Thí sinh Việt Nam đạt thành tích ấn tượng ở SCPC 2018
Thành lập hai viện nghiên cứu công nghệ cao của tư nhân tại Việt Nam
Vingroup sẽ trở thành tập đoàn công nghệ
Bình Định xây dựng Công viên sáng tạo
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 3/40
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Robot đánh trống trường
Tác giả của nghiên cứu này là anh
Nguyễn Hữu Thọ, giảng viên Khoa Điện -
Điện tử, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật
Vĩnh Long.
Robot đánh trống trường của anh Nguyễn Hữu Thọ
Ý tưởng tạo ra robot đánh trống trường
được anh Thọ nghiên cứu từ năm 2014. Sau
khi có ý tưởng, anh Thọ kết hợp cùng với một
người bạn để sản xuất ra robot này. Sau 2
năm, robot đánh trống trường được ứng dụng
thực tế và hiện tại một số trường học ở Bình
Dương và Đồng Nai sử dụng
Chia sẻ với VietNamNet, anh Nguyễn
Hữu Thọ cho hay, những nghiên cứu có ích
cho xã hội luôn được anh đặt lên hàng đầu, từ
cái nhỏ nhất tới cái lớn nhất. Vì vậy, robot
đánh trống trường là một trong những sản
phẩm như vậy.
“Việc nghe tiếng trống trường sẽ in sâu
trong tâm trí học trò. Tôi làm robot đánh
trường để lưu giữ lại điều này. Hiện nay,
nhiều trường học đã chuyển qua dùng chuông
tự động. Họ bảo với tôi rằng nếu dùng trống
sẽ phải tốn kinh phí và đặc biệt rất phiền phức
khi phải thuê người đánh trống. Tôi muốn học
sinh được nghe tiếng trống trường nhưng các
trường sẽ không phải phiền phức để thực hiện
công việc này”- anh Thọ cho hay.
Anh Thọ nói thêm, “Ai trong chúng ta
trải qua đời học sinh cũng rất muốn nghe
tiếng trống trường. Nghe tiếng trống trường
sẽ nhớ lại tuổi thơ, đấy là một nét văn hóa
của dân tộc. Hiện nay, các trường đã dùng
chuông nhưng không ý nghĩa nào bằng khi
học sinh được nghe tiếng trống”.
Một giáo viên ở TP.HCM cho hay gần
như các trường THPT đều dùng chuông tự
động để cắt tiết học hay chuyển giờ. Robot
đánh trống trường là một ý tưởng thông minh
cho các trường muốn giữ lại tiếng trống quen
thuộc.
Nguồn: Lê Huyền,vietnamnet.vn, 28/08/2018
Trở về đầu trang
**************
7Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 4/40
Robot chống cận thị mini, giúp trẻ ngồi đúng tư thế học bài
Captain Eye là robot hoàn toàn do người Việt tự sản xuất.
Tại Triển lãm quốc tế về Công nghiệp
thông minh - Industry 4.0 Summit 2018,
nhiều sản phẩm, giải pháp đã được các doanh
nghiệp trong và ngoài nước giới thiệu. Một
trong số đó là con robot chống cận thị với tên
gọi Captain Eye.
Captain Eye là sản phẩm hoàn toàn do
người Việt tự sản xuất. Nó được thiết kế để
đặt trên bàn học của trẻ nhỏ.
Công dụng của Captain Eye là tự động
theo dõi khoảng cách từ mắt của trẻ tới bàn
học. Do đó, nó còn được biết đến với cái tên
robot chống cận thị.
Để làm được điều này, Captain Eye sử
dụng công nghệ sóng siêu âm giúp bố mẹ của
trẻ sẽ thiết lập mức khoảng cách từ mắt trẻ tới
bàn học. Trong trường hợp khoảng cách này
vượt quá giới hạn, robot sẽ tự động thông báo
bằng giọng nói tiếng Việt để nhắc nhở trẻ.
Toàn bộ các thông số này sẽ được
truyền về một ứng dụng được cài trên
smartphone. Bố mẹ của trẻ có thể đặt các mốc
giới hạn để uốn nắn khoảng cách từ mắt tới
bàn học.
Bên cạnh khả năng theo dõi khoảng
cách từ mắt đến bàn học, Captain Eye được
trang bị cả tính năng báo thức, nhắc nhở đến
giờ học được thiết lập sẵn bằng giọng nói. Hệ
thống còn có thể đóng vai trò giám sát, đưa ra
thông báo cho biết liệu trẻ có đang ngồi trên
bàn học hay không.
Theo lời nhà nhà sản xuất, vỏ ngoài của
Captain Eye được làm bằng nhựa ABS. Đây là
loại nhựa an toàn và thân thiện với trẻ. Mẫu
robot này có 5 màu bao gồm xanh, hồng, đỏ,
tím và xám.
Giá thành cho một con robot loại này là
2,49 triệu đồng. Nhà sản xuất cho biết, mỗi
năm người dùng sẽ phải đóng thêm 300.000
tiền phí server. Đây là mức giá được nhận xét
là khá cao so với công dụng của chú robot.
Nguồn: Trọng Đạt, vietnamnet.vn, 14/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 5/40
Phát triển thành công Hệ thống Robot 6 bậc tự do phù hợp với điều kiện sản xuất tại Việt Nam
Hệ thống robot khi hoàn thành
Nhóm nghiên cứu phòng Cơ điện tử -
Viện Cơ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam đã phát triển thành
công một mẫu cánh tay máy 6 bậc tự do có
tên là SM6 định hướng ứng dụng trong sản
xuất công nghiệp và nhiều lĩnh vực khác. Hệ
thống Robot SM6 là một sản phẩm chính của
dự án: “Hoàn thiện, làm chủ công nghệ thiết
kế, chế tạo Robot công nghiệp 6 bậc tự do và
ứng dụng sản phẩm vào dây chuyền sản
xuất công nghiệp” do Viện Cơ học chủ trì,
thuộc Chương trình “Phát triển một số ngành
công nghiệp công nghệ cao” được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
347/QĐ-TTg ngày 22/02/2013 giao Bộ Công
Thương quản lý.
Hệ thống Robot SM6 được kế thừa và
phát triển từ sản phẩm eRobot thuộc đề tài
cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam - đã được nghiệm thu đạt kết quả
xuất sắc vào năm 2011.
Các thông số chính của SM6 bao gồm:
Tầm với tối đa của
Robot 850 mm
Tổng số bậc tự do 6
Khả năng lắp đặt
Cố định trên sàn;
treo trên tường, trên
trần theo nhu cầu cụ
thể.
Khối lượng Robot 38 kg
Chức năng dừng và
an toàn tự động Có
Điện áp 200-300 V, 50-60
Hz
Chức năng dạy học
online, offline Có
Độ chính xác định vị tốt hơn ±0.15 mm
Độ chính xác lặp tốt hơn ±0.15 mm
Các ứng dụng
Cấp phôi, làm sạch
chi tiết, đánh bóng
chi tiết, gắp thả di
chuyển vật và nhiều
ứng dụng khác.
Robot SM6 hiện đã được vận hành thử
nghiệm tại Xí nghiệp 197 – Tổng công ty
Kinh tế Kỹ thuật công nghiệp Quốc Phòng.
Robot SM6 sử dụng để vận hành sản xuất
trong gia công cơ khí cụ thể là công đoạn hàn
ghép chi tiết bằng kim loại của quy trình sản
xuất khung giá đỡ.
Ông Cù Đức Thuận, Giám đốc Xí
nghiệp 197 cho biết: “Quá trình cài đặt
Robot trong nhà xưởng được thực hiện khá
đơn giản. Robot có kích thước nhỏ gọn, hoạt
động liên tục 01 ca/ngày với tính ổn định cao.
Điện năng tiêu thụ của cánh tay Robot
khoảng 1,5kW. Đặc biệt, Robot có khả năng
phối hợp với công nhân và các máy móc khác
trong khi thực hiện nhiệm vụ khi đã được lập
trình trước. Chúng tôi hi vọng, nhóm nghiên
cứu tiếp tục phát triển sản phẩm để có thể
thực hiện nhiều chức năng hơn nữa như công
đoạn sơn, hàn, làm sạch nhằm nhân rộng sản
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 6/40
phẩm, tạo nhiều lựa chọn cho các đơn vị sản
xuất cơ khí trong nước”.
Thành công của SM6 mở ra hướng
nghiên cứu tiếp để giảm giá thành sản phẩm so
với nhập ngoại (giá nhập khẩu 1 robot cùng
chủng loại dao động từ 600-700 triệu đồng),
tối ưu hóa chức năng, đặc tính kỹ thuật, chủ
động thiết bị thay thế, quy trình bào trì, bảo
dưỡng, phát triển các ứng dụng phần mềm
thông minh điều khiển, kiểm soát trên thiết bị
di động ứng dụng trên nền Internet.
TS. Đỗ Trần Thắng, chủ nhiệm dự án trình bày kết quả thực hiện trước Hội đồng đánh giá và nghiệm thu
Ngày 23/8/2018, Bộ Công Thương đã
tổ chức phiên họp với các chuyên gia hàng
đầu trong lĩnh vực cơ điện tử, Robittic –
Mechatronis để thực hiện đánh giá, nghiệm
thu kết quả thực hiện Dự án. Hội đồng
nghiệm thu đáng giá Dự án đã đạt được các
mục tiêu chính đề ra; Có thể nói đây là một
trong những Dự án đầu tiên ở Việt Nam tạo
được sản phẩm Robot bao gồm cả phần cứng
và phần mềm, có tính sáng tạo cao, phù hợp
với xu hướng CMCN 4.0. Một trong những
yếu tố quan trọng của sản phẩm là mở rộng
đơn vị ứng dụng để sản phẩm được ứng dụng
nhanh hơn, nhiều hơn trong sản xuất công
nghiệp tại Việt Nam; Góp phần mang lại hiệu
quả cao về mặt kinh tế, thúc đẩy nền sản xuất
công nghệ cao, thông minh, tiên tiến hiện đại.
Nguồn: TS. Đỗ Trần Thắng, Viện Cơ học,
vast.ac.vn, 31/08/2018
Trở về đầu trang
**************
“Siêu xe gỗ” chạy điện
Xe gỗ chạy điện của chàng thanh niên ở Sóc Sơn, Hà Nội.
Xe sử dụng gỗ long não, động cơ điện,
cửa mở kiểu cánh chim, thời gian hoàn thiện
hơn hai tháng với chi phí 20 triệu.
Lên ý tưởng từ mùa trung thu năm
2017, Dương Văn Trung, chàng thanh niên ở
Sóc Sơn, Hà Nội quyết định thực hiện ước
mơ của mình với sản phẩm là một chiếc xe
gỗ. Là con nhà nòi, gia đình có xưởng mộc
nhưng Trung lại theo học ngành cơ khí chế
tạo máy ở một trường đại học tại Hà Nội.
Ngay từ khi bắt tay vào thực hiện, khó
khăn đầu tiên là việc tìm mua đồ. Khi chưa
quyết định nên dùng động cơ gì, Trung nghĩ
phải đi mua đồ trước rồi mới lên ý tưởng,
chàng thanh niên chia sẻ. Xe điện nhiều
người làm, nhưng để tạo điểm nhấn thì phải
chế ra cái vỏ xe thật độc đáo, thu hút cái nhìn
ngay từ lần đầu tiên. Chàng thanh niên ở Sóc
Sơn quyết định chọn chất liệu gỗ ở chính
xưởng mộc của gia đình.
Trung chọn gỗ long não vì loại này
vân đẹp, trọng lượng lại nhẹ nên rất phù hợp
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 7/40
cho chế tạo vỏ xe, ngoài ra còn có mùi thơm,
giá không quá đắt. Sở dĩ chàng thanh niên
chọn phong cách Lamborghini bởi các chi tiết
gỗ dễ ứng dụng trong tạo hình.
Đến khi bắt tay vào làm, lại không có
bản vẽ và cũng chưa chế tạo xe bao giờ nên
chi tiết nào cũng gặp khó khăn. Đặc biệt là
chế tạo cánh cửa với kiểu mở cánh chim, tốn
nhiều thời gian.
Xe dùng động cơ điện loại chuyên cho
xe đạp bán rất nhiều trên thị trường, bình ắc-
quy của ôtô mua mới, bánh lấy từ xe ga SYM
Attila. Vô-lăng bằng gỗ, hệ thống lái giống
ôtô. Giảm xóc cũng lấy từ xe máy, khung
gầm bằng gỗ.
Ban đầu mục đích làm ra chiếc xe chỉ
để đi loanh quanh khu gần nhà, gặp gỡ bạn
bè, vì nhà có xưởng mộc nên muốn tạo ra một
cái gì đó độc đáo mang bản sắc của gia đình.
Bố mẹ không phản đối và cũng không tán
thành lắm. "Vì chưa làm xe bao giờ và không
biết thành công hay không nhưng bố rất ủng
hộ về mặt tài chính", Trung chia sẻ.
Chi phí sản xuất hết gần 20 triệu đồng,
riêng tiền gỗ khoảng từ 3-4 triệu. Đã có người
trả 50 triệu cho chiếc "siêu xe gỗ" nhưng
Trung không bán. Sau này, nếu có điều kiện
chàng thanh niên ở Sóc Sơn, Hà Nội sẽ chế
tạo thêm một mẫu độc đáo hơn nữa, kiểu
giống xe trong phim Người dơi.
Nguồn: Trần Huấn - Lương Dũng,
vnexpress.net, 27/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Thiết bị báo hiệu cứu nạn cá nhân
Việc trang bị thiết bị báo hiệu cứu nạn cá nhân cho ngư dân hoặc các chiến sĩ đóng vai trò
quan trọng trong việc xác định nhanh chóng vị trí bị nạn, góp phần giảm chi phí và thời gian
tìm kiếm cứu nạn.
Trong trường hợp chẳng may gặp sự
cố, thiết bị đặc biệt này sẽ kết nối lên vệ tinh,
từ đó báo tín hiệu cho trung tâm tìm kiếm cứu
nạn gần nhất để hỗ trợ.
Tại Triển lãm quốc tế về Công nghiệp
thông minh - Industry 4.0 Summit 2018, Viện
nghiên cứu Viettel (Tập đoàn Công nghiệp
Viễn thông Quân đội Viettel) đã giới thiệu
thiết bị báo hiệu cứu nạn cá nhân (Personal
Location Beacon - PLB) do chính đơn vị này
phát triển.
Thiết bị này có dạng hình hộp tròn với
kích thước đặt vừa trong lòng bàn tay người
trưởng thành. Vỏ ngoài của thiết bị có màu
cam nổi bật tương tự như màu áo phao cứu
nạn.
Thiết báo hiệu cứu nạn cá nhân sử
dụng trong các tình huống khẩn cấp trên biển
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 8/40
hoặc đất liền. Đây là thiết bị đầu tiên ở Việt
Nam được cấp chứng nhận quốc tế của
Cospas-Sarsat.
Cospas-Sarsat là hệ thống thông tin vệ
tinh toàn cầu. Hệ thống này cung cấp thông
tin báo động cấp cứu và thông tin vị trí trợ
giúp hoạt động tìm kiếm cứu nạn trên vùng
biển, vùng trời hay trên đất liền.
Hệ thống Cospas-Sarsat sử dụng các
thiết bị báo động cấp cứu hoạt động trên tần
số 406 MHz. Nó sử dụng tần số này để cung
cấp dữ liệu định vị vị trí cấp cứu tới các
Trung tâm Phối hợp Tìm kiếm và cứu nạn
(SAR) hoặc tới các cơ quan, tổ chức chịu
trách nhiệm tìm kiếm cứu nạn. Trong trường
hợp bị nạn, người sử dụng cần bình tĩnh mở
nắp ngoài của thiết bị. Sau đó, rút một dây
anten cuộn sẵn bên trong và ấn nút báo động
để phát tín hiệu lên vệ tinh. Tiếp theo, nạn
nhân gắn thiết bị này lên dây áo phao để đảm
bảo không bị thất lạc.
Thiết báo hiệu cứu nạn cá nhân có khả
năng phát tín hiệu liên tục trong 36 tiếng lên
hệ thống vệ tinh quốc tế Cospas-Sarsat. Các
tín hiệu này sau đó được truyền đến các trung
tâm cứu hộ. Thiết bị này còn có khả năng
phát tín hiệu dẫn đường và tín hiệu nháy sáng
SOS để các phương tiện cứu hộ có thể định vị
chính xác vị trí tìm kiếm.
Thiết báo hiệu cứu nạn cá nhân phù
hợp cho các ngư dân đánh bắt cá xa bờ và các
chiến sĩ phòng không không quân khi gặp
phải sự cố cần xác định vị trí.
Nguồn: Trọng Đạt, vietnamnet.vn, 17/07/2018
Trở về đầu trang
**************
MobiFone thử nghiệm thành công chuyển thuê bao về 10 số
Bắt đầu từ 23h00 ngày 8/8/2018,
MobiFone tiến hành thử nghiệm chuyển đổi
thành công thuê bao 11 số về 10 số. Lần thử
nghiệm thực hiện trên 1.000 thuê bao để chuẩn
bị cho phương án chuyển đổi chính thức từ
ngày 15/9 theo lộ trình của Bộ TT&TT.
Đại diện MobiFone cho biết thêm, quá
trình thử nghiệm chuyển đổi đã thành công
tốt đẹp, các chỉ tiêu kỹ thuật đều đảm bảo cả
phần khai báo và thử nghiệm dịch vụ cơ bản
(gọi, nhắn tin, sử dụng data) trên tất cả các hệ
thống. Kế hoạch khai báo, các bước và thứ tự
thực hiện, phối hợp giữa các đơn vị trên toàn
hệ thống của MobiFone toàn quốc đều đảm
bảo phối hợp nhịp nhàng, ăn ý và thành công.
“Trước khi tiến hành thử nghiệm
MobiFone đã chuẩn bị kỹ các phương án kỹ
thuật. Nếu lần chuyển đổi thử nghiệm này
chưa đảm bảo các yếu tố kỹ thuật MobiFone
sẽ phải tiến hành thử nghiệm thêm và dự
phòng những phương án khác. Kết quả
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 9/40
chuyển đổi thử nghiệm thành công lần này rất
quan trọng và có ý nghĩa với MobiFone bởi
đây sẽ sẽ là tiền đề quan trọng và là cơ sở để
MobiFone rút kinh nghiệm và chuẩn bị cho
phương án chuyển đổi chính thức sắp tới” đại
diện MobiFone nói.
Thuê bao 11 số của mạng MobiFone
gồm các đầu số 0120, 0121, 0122, 0126, 0128
sẽ chuyển thành 070, 079, 077, 076, 078.
Theo kế hoạch, MobiFone sẽ tiến hành việc
chuyển đổi thuê bao 11 số về 10 số làm nhiều
đợt với từng tập thuê bao khác nhau và thời
gian bắt đầu chuyển đổi là 00 giờ 00 phút
ngày 15/9/2018.
Trong thời gian diễn ra chuyển đổi, từ
15/9/2018 hết ngày 14/11/2018, MobiFone sẽ
thông báo với khách hàng số thuê bao mới
của khách hàng bằng tin nhắn tại thời điểm
chuyển đổi thành công.
Từ 15/09/2018 - 14/11/2018, MobiFone
sẽ áp dụng quay số song song đối với toàn bộ
các tập thuê bao đã được chuyển đổi đầu số từ
11 số sang 10 số. Kết thúc thời gian quay số
song song, MobiFone sẽ duy trì phát âm thông
báo hướng dẫn quay số theo đầu số mới bắt
đầu từ ngày 14/11/2018.
Cụ thể, MobiFone sẽ hỗ trợ biện pháp
quay số song song trong vòng 60 ngày kể từ
thời điểm chuyển đổi. MobiFone sẽ hỗ trợ
duy trì âm thông báo trong thời gian tối thiểu
90 ngày kể từ thời điểm kết thúc quay số song
song để thông báo cho người gọi biết số điện
thoại mới của người được gọi. Bên cạnh đó,
MobiFone sẽ nhắn tin thông báo số điện thoại
mới của khách hàng ngay sau khi chuyển đổi
thuê bao 11 số về 10 số.
Để đảm bảo quyền lợi cũng như sự
thuận tiện của khách hàng sử dụng dịch vụ,
MobiFone đã đưa ra ứng dụng My MobiFone
để hỗ trợ khách hàng cập nhật lại số thuê bao
trong danh bạ sau khi chuyển đổi. Hiện tại,
MobiFone đã hoàn thiện tính năng này và sẵn
sàng kích hoạt phục vụ khách hàng. Khách
hàng có thể chính thức sử dụng tính năng đổi
đầu số trong danh bạ trên ứng dụng My
MobiFone từ ngày 15/9/2018 - thời điểm bắt
đầu thực hiện chuyển đổi thuê bao 11 số
thành 10 số theo quy định của Bộ TT&TT.
Với tính năng này, thay vì phải tốn
hàng giờ đồng hồ để sửa đổi từng cái tên, con
số trong danh bạ của mình, người dùng có thể
thao tác rất dễ dàng trên ứng dụng My
MobiFone. Danh bạ mới của khách hàng sẽ
được cập nhật chỉ trong vài phút, giúp cho
việc liên lạc không gặp gián đoạn. Tính năng
này sẽ không chỉ áp dụng riêng với các số
điện thoại của MobiFone, mà có thể sử dụng
để chuyển đổi tất cả số điện thoại của các nhà
mạng khác.
MobiFone đang tích cực thử nghiệm
hệ thống, phối hợp với các nhà mạng khác
duy trì kênh liên lạc và sẵn sàng phối hợp
trong việc thử nghiệm kế hoạch trước chuyển
đổi cũng như trong giai đoạn chính thức
nhằm đảm bảo quyền lợi và thông suốt liên
lạc của khách hàng, đảm bảo cho kế hoạch
đầu số diễn ra tốt đẹp vào 15/9 sắp tới.
Nguồn: Vũ Minh, vietnamnet.vn, 14/8/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 10/40
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Chế tạo mô hình tàu ngầm Kilo điều khiển từ xa
Tàu mô hình hoạt động theo nguyên lý
lặn tĩnh (lặn khi tàu đứng yên) và có thể tháo,
lắp để bảo trì.
Kỹ sư công nghệ thông tin Lê Quốc
Tuấn (43 tuổi) trú tại xã An Đồng, huyện An
Dương (Hải Phòng). Vì đam mê tàu, anh tự
học và nghiên cứu công nghệ chế tạo cả trăm
tàu thủy mô hình điều khiển từ xa giống như
thật.
Trước khi chuyển sang chơi và làm tàu
mô hình, anh vốn nghiền tàu lượn. Trong
chuyến công tác vào TP HCM, tình cờ bắt
gặp nhóm người chơi tàu thủy mô hình điều
khiển trên sông, thấy thú vị, anh quay sang
tìm hiểu công nghệ chế tạo tàu.
Cái khó đối với anh Tuấn là phải tích
hợp kiến thức của nhiều ngành với đủ vai, từ
công nhân hàn, tiện, sơn đến cơ khí chính
xác, điện tử, tin học… Đặc biệt, tàu mô hình
điều khiển đòi hỏi các chi tiết quan trọng
giống tàu thật từ: mỏ neo, ống khói, cần cẩu,
vòi rồng... và phải hoạt động được.
Trước yêu cầu ngày một cao của người
chơi, anh Tuấn quyết định chế tạo máy in 3D
và máy tiện cơ khí điều khiển bằng máy tính
(máy CNC) thay vì bỏ tiền ra mua mới. Toàn
bộ vật liệu và thiết bị dùng để chế tạo 2 chiếc
máy này được anh tìm mua ở chợ đồ cũ.
Duy nhất các mũi khoan, cắt lắp trên
máy CNC dùng cho việc chế tạo các vi mạch,
bo mạch anh Tuấn mua mới của Nhật Bản với
giá hơn một triệu đồng/mũi.
Các chi tiết trên tàu thủy mô hình được anh Tuấn tạo ra từ máy in công nghệ 3D với
độ chính xác cao.
Nắm chắc công nghệ, làm chủ trang
thiết bị, giờ đây mỗi sản phẩm tàu có chiều
dài trung bình 1,2-1,5m, nặng 15-20 kg được
anh hoàn thành trong một tháng. Giá trị mỗi
chiếc 15-20 triệu đồng (rẻ bằng 1/4 so với tàu
mô hình nhập từ nước ngoài).
Anh Tuấn cho biết, đã chế tạo thành
công gần trăm chiếc. Trong số Cao đẳng nghề
thủy sản Hải Phòng đặt một tàu cá lưới vây và
Học viện Quân sự Nha Trang đặt một tàu quân
sự làm mô hình dạy học. (Trong ảnh, anh Tuấn
trao sản phẩm tàu mô hình cho một khách hàng
cá nhân là sĩ quan hải quân ở Nha Trang).
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 11/40
Đây là tàu ngầm Kilo 636, mô hình
khó nhất anh Tuấn đã thực hiện theo đơn đặt
hàng của khách ở tỉnh Phú Thọ vào năm
2014. "Họ yêu cầu tôi làm theo nguyên lý lặn
tĩnh (tàu sẽ lặn khi đứng yên). Để nó nổi lên
lặn xuống, tôi phải thiết kế bộ hút, đẩy nước
theo kiểu pit tông. Tàu ngầm này có thể tháo,
lắp để bảo trì. Sau 3 tháng, tôi hoàn thành
tàu, khách rất ưng ý”, anh Tuấn nói và cho
biết đang nghiên cứu, hoàn thiện một thiết bị
đặc biệt ứng dụng trong ngành hàng hải, tìm
kiếm cứu nạn và đánh bắt thủy sản. Khi thử
nghiệm thành công, anh sẽ đăng ký bản
quyền sở hữu trí tuệ.
Nguồn: vnexpress.net, 04/09/2018
Trở về đầu trang
*************
Máy làm đá tuyết từ nước biển
Máy sản xuất đá tuyết từ nước biển do các nhà khoa học thuộc Trung tâm Phát triển công nghệ
cao, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam chế tạo và nghiên cứu.
Để giảm tỷ lệ thất thoát sau khai thác
thủy sản do thiếu trang thiết bị bảo quản của
các tàu cá hiện nay, các nhà khoa học thuộc
Trung tâm Phát triển công nghệ cao, Viện
Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam đã
chế tạo thành công máy làm đá tuyết từ nước
biển.
Đây là sản phẩm đầu tiên được nghiên
cứu và chế tạo phù hợp với điều kiện thực tế
của tàu cá Việt Nam.
Khai thác xa bờ là một trong những
hướng phát triển quan trọng của ngành thủy
sản với sản lượng khai thác hằng năm khoảng
6,56 triệu tấn, trong đó khai thác 3,03 triệu
tấn và nuôi trồng 3,53 triệu tấn. Tuy sản
lượng cao nhưng tỷ lệ thất thoát sau thu
hoạch còn rất lớn, đặc biệt là trong khai thác
thủy sản.
Theo Tổng cục Thuỷ sản, tổn thất sau
khai thác thủy sản ở Việt Nam chiếm khoảng
20-30% sản lượng khai thác, nghĩa là mỗi
năm nước ta mất trên dưới 700.000 tấn hải
sản do bị hư hỏng, với giá trị ít nhất khoảng
14.000 tỷ đồng. Nguyên nhân chính của tình
trạng tổn thất sau thu hoạch cao là do phần
lớn tàu khai thác thủy sản có công suất nhỏ,
thiếu trang thiết bị bảo quản sản phẩm. Sản
phẩm khai thác chủ yếu được bảo quản bằng
nước đá. Đá được làm từ đất liền mang lên
tàu, có thể được xay nhỏ hoặc để nguyên cây
trong khoang lạnh bảo quản trên tàu. Ngoài ra
nhiệt độ làm lạnh bằng đá nước ngọt theo
phương pháp truyền thống thường cao, không
thể điều chỉnh, không đồng đều trong một
khoang lạnh, tốc độ làm lạnh chậm, tinh thể
đá sau khi xay có cạnh rất sắc và thường làm
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 12/40
trầy xước hải sản khi ủ, làm giảm chất lượng
của sản phẩm.
Trước những thách thức đó, các nhà
khoa học thuộc Trung tâm Phát triển công
nghệ cao, Viện Hàn lâm khoa học và công
nghệ Việt Nam, đứng đầu là thạc sỹ Lê Văn
Luân, đã chế tạo thành công máy tạo đá tuyết
từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên
cứu chế tạo máy làm đá tuyết từ nước biển,
phục vụ bảo quản hải sản đánh bắt xa bờ”.
Theo ThS Lê Văn Luân, việc sử dụng
đá tuyết để bảo quản hải sản làm tăng chất
lượng của hải sản, giảm thiểu lượng hải sản bị
hư hỏng; đồng thời việc sản xuất đá tuyết từ
nước biển góp phần làm giảm chi phí nhiên
liệu cần để vận chuyển đá từ đất liền, đồng
nghĩa với việc giảm thải khí thải gây ô nhiễm
môi trường.
Máy làm đá tuyết hoạt động dựa trên
nguyên lý: Nước nguyên liệu để làm đá tuyết
là nước muối 3% hoặc nước biển được bơm
vào bể tuần hoàn từ đầu vào, sau đó được
bơm và phủ đều trên bề mặt của buồng tạo đá
tuyết. Lưu lượng nước bơm phụ thuộc vào độ
đậm đặc hoặc nhiệt độ của sản phẩm đá tuyết
yêu cầu. Khi đó nước nguyên liệu sẽ được
làm lạnh nhanh bởi hệ thống trao đổi nhiệt
qua thành trong của buồng tạo đá xuống tới từ
-3 đến -6oC.
Trên thành trong của buồng tạo đá, các
tinh thể băng liên tục được hình thành và
được tách ra khỏi bề mặt của buồng tạo đá
nhờ dao gạt. Một phần nước làm lạnh nhưng
chưa kịp hình thành tinh thể băng do nhiệt độ
còn cao cùng với đá tuyết sẽ rơi xuống đáy
buồng tạo đá. Giữa đáy buồng tạo đá và bể
tuần hoàn nước lạnh được ngăn cách bởi tấm
sàng đá, tấm này sẽ giữ lại phần đá tuyết và
đẩy ra ngoài bể chứa thành phẩm, phần nước
lạnh chưa hình thành đá sẽ đi qua tấm sàng và
quay trở lại bể nước nguyên liệu.
Toàn bộ hoạt động của máy làm đá
tuyết được điều khiển qua các chương trình
của hệ thống điều khiển trung tâm, có thể
điều chỉnh năng suất của máy, độ đậm đặc
của đá tuyết, các hoạt động cung cấp nguyên
liệu và phân phối đá tuyết.
ThS Lê Văn Luân cho rằng, đây là sản
phẩm đầu tiên được sản xuất trong nước từ
nghiên cứu, chế tạo với các tính năng phù hợp
với điều kiện thực tế của tàu cá Việt Nam. Ưu
điểm của thiết bị là được chế tạo dựa trên các
nguyên vật liệu có khả năng chịu ăn mòn của
nước biển như inox 316, nhựa PVC; máy nén,
bộ phận tách dầu, dàn ngưng… đều sử dụng
loại chuyên dụng cho tàu biển, đảm bảo độ
bền và có giá thành cạnh tranh so với các sản
phẩm nhập ngoại trên thị trường.
Điểm mới của thiết bị này là được tích
hợp bộ điều khiển trung tâm với các chức
năng bảo vệ và giám sát hoạt động của hệ
thống nhằm tăng tính ổn định và kéo dài tuổi
thọ của thiết bị. Ngoài ra người sử dụng có
thể dễ dàng lựa chọn và điều chỉnh độ đậm
đặc của sản phẩm đá tuyết từ 25% tới 95%
hoặc theo nhiệt độ xác định.
Ngoài ra, việc sử dụng máy làm đá
tuyết từ nước biển sẽ giúp tiết kiệm không
gian sử dụng trên tàu do không cần có khoang
chứa đá; giảm thiểu công nhân xử lý trong
quá trình ướp đá vì sau khi thu gom cá có thể
được ngâm ngay trong bể đá lỏng, việc phân
phối và cấp đá tới các khoang bảo quản được
đơn giản hơn nhờ sử dụng máy bơm trực tiếp;
tiết kiệm chi phí trực tiếp như chi phí do hao
hụt đá, chi phí vận chuyển đá từ đất liên trên
suốt chuyến đi và đặc biệt nâng cao chất
lượng hải sản được bảo quản.
“Với việc sử dụng máy làm đá tuyết từ
nước biển giúp khai thác hiệu quả nguồn tài
nguyên nước biển có sẵn, không làm ảnh
hưởng đến nguồn tài nguyên nước ngọt đang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 13/40
dần cạn kiệt trong đất liền, đồng thời tạo tiền
đề quan trọng để ứng dụng công nghệ đá
tuyết vào bảo quản hải sản trong đánh bắt xa
bờ ở Việt Nam” - ThS Luân nói.
Đến nay thiết bị đã được thử nghiệm
tại cảng biển và một số tàu cá tại Hải Phòng
với mức độ chạy ổn định và đáp ứng được các
yêu cầu đặt ra. Tuy nhiên ThS Lê Văn Luân
cho rằng, hiện máy làm đá tuyết từ nước biển
mới có năng suất 1.250kg/24h, trong khi thực
tế mỗi chuyến đi biển cần một lượng đá bảo
quản lên tới 50-60 tấn, nên cần phải có những
máy có năng suất lớn hơn, khoảng
5.000kh/24h.
“Chính vì thế chúng tôi đang tiếp tục
nghiên cứu và sản xuất máy làm đá tuyết với
công suất lên tới 10 tấn/24h. Đồng thời để
tăng thêm tính ổn định, bộ phận cân bằng và
bù dầu khi máy làm việc trong điều kiện dao
động trên biển sẽ được nghiên cứu và tích
hợp vào sản phẩm trong thời gian tới. Cùng
với đó, chúng tôi sẽ phân tích và xây dựng
một quy trình sơ chế và bảo quản cá ngừ đại
dương chất lượng cao bằng đá tuyết nhằm
nâng cao chất lượng cá ngừ, đáp ứng các tiêu
chuẩn xuất khẩu khắt khe vào các thị trường
tiềm năng như Nhật Bản, EU…” - ThS Lê
Văn Luân nói..
Nguồn: vista.gov.vn, 14/08/2018
Trở về đầu trang
**************
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Việt Nam phát triển thành công "Lá nhân tạo"
Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam đã thành công trong việc chế tạo 1 phiên bản
lá nhân tạo
Những chiếc lá nhân tạo rất mỏng, nhẹ
và có công năng giúp phân giải nước thành
khí Hidro và Oxy, từ đó tạo ra một nguồn
nhiên liệu mới.
Lá nhân tạo là một thiết bị có khả năng
chuyển hoá năng lượng mặt trời thành năng
lượng hoá học tích trữ trong nhiên liệu H2
(273 KJ/mol H2) thông qua quá trình quang
phân tách nước biển.
Nhiên liệu H2 sau đó được lưu trữ, vận
chuyển và sử dụng trong pin nhiên liệu. Sản
phẩm của quá trình sử dụng nhiên liệu này chỉ
là H20. Đặc biệt, công nghệ này không hề gây
ô nhiễm môi trường.
Thiết bị này là kết quả nghiên cứu của
GS.TS Nguyễn Quang Liêm (Viện Khoa học
vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ
Việt Nam) và TS. Trần Đình Phong (Trường
Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, Viện
Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam).
Các nhà khoa học của Viện Hàn lâm
Khoa học Công nghệ Việt Nam đã thành công
trong việc chế tạo 1 phiên bản lá nhân tạo với
hiệu suất từ H2 là 3%. Chiếc lá nhân tạo này có
khả năng làm việc ít nhất 10h. Lá được chế tạo
dễ dàng với lượng lớn các vật liệu dễ kiếm
trong tự nhiên như Si, Co, W, Mo.
Một điểm đáng chú ý khá nằm ở việc lá
nhân tạo được tạo thành nhờ quá trình “tự gắn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 14/40
kết xúc tác" đơn giản dưới ánh mặt trời. Do
đó, nó có khả năng mở rộng để chế tạo với
lượng lớn.
Để công nghệ Lá nhân tạo có thể được
thương mại hoá, hiệu suất tạo H2 từ ánh sáng
mặt trời phải đạt trên 10%. Chiếc lá nhân tạo
này phải đảm bảo độ bền với hơn 1.000 giờ
làm việc.
Hiện các nhà khoa học đang tìm cách
nghiên cứu các giải pháp công nghệ nhằm làm
tăng hiệu suất tạo H2 lên 10%, độ bền hơn
1.000 giờ và khả năng tự sửa chữa của chúng.
Bên cạnh đó, các chuyên gia của Viện Hàn
lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam cũng đang
tìm cách tích trữ H2 dưới dạng lỏng hoặc chất
rắn với các “chất mang" phù hợp.
Nguồn: Trọng Đạt, vietnamnet.vn, 16/07/2018
Trở về đầu trang
**************
Hệ thiết bị phân tích vết Thủy ngân (Hg) phục vụ quan trắc môi trường và kiểm soát thực phẩm
Hệ thiết bị phân tích vết thủy ngân Model VAST-HG 01
Với mục tiêu đó, từ 06/2015 đến
12/2017, Viện Hóa học – Viện Hàn lâm Khoa
học và Công nghệ Việt Nam đã thực hiện đề
tài “Nghiên cứu chế tạo hệ thiết bị phân tích
vết Thủy ngân (Hg) phục vụ quan trắc môi
trường và kiểm soát thực phẩm”,mã số
VAST.CTG.04/15-16 do TS. Dương Tuấn
Hưng làm chủ nhiệm. Nhóm nghiên cứu đề
tài đã chế tạo thành công 01 hệ thiết bị phân
tích hàm lượng siêu vết thủy ngân tự động
phục vụ quan trắc môi trường và kiểm soát an
toàn thực phẩm. Thiết bị này có giới hạn phát
hiện thấp hơn 0,1 ppb đáp ứng được các yêu
cầu phân tích hàm lượng siêu vết thủy ngân
trong các mẫu môi trường và thực phẩm,
ngoài ra thiết bị chế tạo được có giá thành
khoảng 300 triệu đồng thấp hơn nhiều so với
giá thành nhập ngoại.
Hệ thiết bị phân tích vết thủy ngân
được thiết kế và chế tạo dựa trên phương pháp
quang phổ hấp thụ nguyên tử kết hợp kỹ thuật
hóa hơi lạnh bao gồm: hệ phản ứng và tạo hơi
thủy ngân cải tiến, hệ ghi đo và thu phổ hấp
thụ nguyên tử của thủy ngân, phần mềm điều
khiển hệ thiết bị, ghi và phân tích dữ liệu. Hệ
thiết bị chế tạo được có những điểm mới và ưu
việt hơn so với các nghiên cứu, sáng chế và
giải pháp hữu ích trước đây. Hệ tạo hơi thủy
ngân tăng cường quá trình làm giàu hơi thủy
ngân nhờ quá trình tuần hoàn trong hệ và hoạt
động của van bốn chiều và loại trừ ảnh hưởng
của hơi nước gây sai số dương sau khi đi qua
bình làm lạnh bẫy hơi nước; loại trừ ảnh
hưởng làm nhiễu tín hiệu của hơi axit khi đi
qua bẫy axit. Hệ ghi đo và thu phổ hấp thụ
nguyên tử của thủy ngân giúp tăng độ nhạy
nhờ sử dụng cuvet hình chữ U. Hệ này chỉ bao
gồm một đèn thuỷ ngân và detector, nhỏ gọn
và không phức tạp như hệ thiết bị quang phổ
hấp thụ nguyên tử truyền thống, có thể đưa ra
phân tích ngoài hiện trường.
Hệ quang học hoạt động theo nguyên
tắc hai chùm tia có ưu việt là loại bỏ ảnh
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 15/40
hưởng của sự trôi nền bằng cách sử dụng hai
tế bào quang điện, một tế bào quang điện
(ống nhân quang điện 1) đặt ở sau cuvet để đo
độ hấp thụ của mẫu. Một tế bào quang điện
(ống nhân quang điện 2) nằm ở phía đối diện
với cuvet để đo độ hấp thụ của nền. Chương
trình phần mềm giúp điều khiển toàn bộ quá
trình phản ứng tạo hơi thủy ngân, quá trình
ghi đo và thu phổ hấp thụ nguyên tử của thủy
ngân hoàn toàn tự động, đồng thời cho phép
ghi và phân tích dữ liệu trên máy tính.
Sơ đồ cấu tạo và nguyên lý hoạt động của hệ thiết bị phân tích vết thủy ngân
Phổ hấp thụ nguyên tử của thủy ngân
Giao diện thực hiện xây dựng đường chuẩn
Thiết bị vận hành ổn định, có độ nhạy
cao, độ lặp lại tốt, độ chính xác cao, đơn giản,
tự động và giá thành thấp. Các thông số kỹ
thuật cơ bản của hệ thiết bị như sau:
• Kích thước: 58,5cm x 37cm x 31cm
• Khối lượng: 23,5 kg
• Nguồn: 220V– 100W
• Độ nhạy: 0,2 ng
• Sai số: 5%
• Độ lặp lại: <1,5%
• Thời gian phân tích: 1 phút
Đề tài đã xây dựng và áp dụng thành
công hai quy trình phân tích thủy ngân tổng
số bao gồm: quy trình phân tích thủy ngân
tổng số trong các mẫu nước và quy trình phân
tích tổng thủy ngân trong các mẫu đất / trầm
tích, thực phẩm. Hai quy trình đều có LOD và
LOQ thấp (LOD = 0,013 μg/L; LOQ = 0,044
μg/L), độ lặp lại tốt (RSD% khi tiến hành
phân tích lặp lại trên các mẫu thực đều nhỏ
hơn giá trị tối đa cho phép theo AOAC) và độ
chính xác cao (hiệu suất thu hồi đạt >90% khi
tiến hành phân tích mẫu chuẩn CRM MESS-
3, DORM-2). Đề tài đã ứng dụng thành công
hệ thiết bị này trong việc phân tích vết thủy
ngân tổng số trong 30 mẫu nước lấy tại khu
vực gần mỏ vàng xã Thần Sa, huyện Võ Nhai,
tỉnh Thái Nguyên; 47 mẫu trầm tích lấy tại
khu vực 4 tỉnh miền Trung bao gồm Hà Tĩnh,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 16/40
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
và 27 mẫu động vật thân mềm hai mảnh vỏ
lấy tại Cẩm Phả, Vân Đồn, và Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh.
Đề tài đã công bố 01 bài báo trên Tạp
chí Phân tích Hóa, Lý và Sinh học, 01 báo
cáo và 01 poster tại Hội nghị khoa học quốc
tế (Vietnam International Water Week VACI
2018) và 01 đăng ký giải pháp hữu ích, đào
tạo 01 thạc sỹ chuyên ngành Hóa phân tích.
Ngày 14/05/2018, đề tài được Hội đồng
nghiệm thu cấp Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam nghiệm thu và xếp loại
Xuất sắc.
Các kết quả của đề tài cho thấy, lần
đầu tiên tại Việt Nam, một giải pháp hoàn
chỉnh đã được nhóm nghiên cứu hoàn thiện
và đưa ra để thiết kế và chế tạo hệ thiết bị
phân tích vết thủy ngân có độ nhạy cao, độ
lặp lại tốt, tin cậy, được điều khiển hoàn toàn
tự động bằng máy tính. Hệ thiết bị có kết cấu
gọn gàng, đảm bảo tính thẩm mỹ và công
năng sử dụng tốt, có giá thành hợp lý. Hệ
thiết bị này hoàn toàn phù hợp để trang bị và
sử dụng trong các phòng thí nghiệm nhằm
phân tích lượng vết thủy ngân, phục vụ công
tác quan trắc môi trường và kiểm soát an toàn
thực phẩm.
Nguồn: TS. Dương Tuấn Hưng, Viện Hóa
học, vast.ac.vn, 01/08/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Nghiên cứu quy trình trích ly flavonoid tổng từ lá đỏ ngọn và đánh giá hoạt tính sinh học của dịch chiết
Nhằm mục đích khai thác và tận dụng
các tác dụng y học quý giá của cây đỏ ngọn,
nhóm tác giả Nguyễn Hoàng Thảo Ly, Lê Sỹ
Ngọc, Phạm Thị Hà Vân (Trung tâm Nghiên
cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ
cao) và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu về
quy trình trích ly flavonoid tổng từ lá đỏ ngọn
(Cratoxylum prunifolium) và đánh giá hoạt
tính sinh học của dịch chiết.
Đỏ ngọn là một cây thảo dược quý
mọc tự nhiên ở vùng đồi núi thấp và trung
du, chứa các nhóm chất có khả năng thúc đẩy,
bổ trợ hệ thần kinh, chống đông máu, chống
oxy hóa, bảo vệ tế bào, cũng như ngăn ngừa
các nguy cơ xơ vữa động mạch, tai biến mạch
máu mão, tổn thương do bức xạ hoặc thoái
hóa gan. Do đó, các nhà nghiên cứu đã thực
hiện đề tài để xác định các thông số thích hợp
cho quá trình trích ly flavonoid tổng từ lá đỏ
ngọn, từ đó hướng tới ứng dụng hợp chất sinh
học của cây dược liệu này vào thực phẩm.
Nghiên cứu sử dụng vật liệu thí
nghiệm là lá đỏ ngọn thu hái vào tháng 7
hằng năm, có màu xanh sẫm và đỏ sẫm tại
tỉnh Quảng Ngãi. Các nhà nghiên cứu đã lần
lượt tiến hành thí nghiệm các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình trích ly như nồng độ
dung môi, tỷ lệ nguyên liệu:dung môi, nhiệt
độ trích ly và thời gian trích ly.
Kết quả thu được hàm lượng flavonoid
tổng đạt 2,792%, đồng thời chọn được các
thông số thích hợp cho quá trình trích ly như
nồng độ dung môi (79%), tỷ lệ nguyên
liệu:dung môi (1:64 w/v), nhiệt độ trích ly
(780C) và thời gian trích ly (68 phút). Qua các
thí nghiệm đánh giá, dịch chiết có năng lực
khử ở nồng độ 120µg/ml (0,1960); hoạt tính
kháng gốc tự do ở nồng độ 140µg/m
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 17/40
(75,679%) và hoạt tính kháng hydroxyl tự do
ở nồng độ 120µg/m (44,138%). Ngoài ra,
dịch chiết còn có khả năng kháng
nấm Aspergillus sp., Botrytis sp., Penicillium
sp., Rhizopus sp lần lượt ở các nồng độ
750ppm, 750ppm, 500ppm và 100ppm.
Nguồn: cesti.gov.vn, 24/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Y - DƯỢC
Trí tuệ nhân tạo giúp soi gene bắt bệnh cho người Việt
Cao Anh Tuấn, cựu chuyên gia Google về dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo.
Chỉ cần một mẩu nước bọt, chờ thêm 4
tuần, kết quả trả về sẽ giúp người kiểm tra y
tế biết được họ nên cần bổ sung thêm những
dưỡng chất nào, hay những bệnh lý có khả
năng gặp phải trong tương lai. Sự kết hợp của
trí tuệ nhân tạo (AI) và y tế đã giúp giải mã
những thông tin di truyền được giấu kín bao
lâu nay trong bộ genecủa loài người. Công
nghệ những tưởng chỉ dành cho các nền kinh
tế phát triển, nay đã xuất hiện ở Việt Nam.
Những bệnh lý của con người, ngoài
tác động bên ngoài còn xuất phát từ thông tin
di truyền, nằm tại bộ mã ADN của từng
người. Có người dễ mắc phải bệnh lý này, có
người dễ mắc phải vấn đề khác, mà dân gian
hay dùng khái niệm là “cơ địa”. Nhiệm vụ
của công ty khởi nghiệp Gene Friend Way là
tìm ra sự khác nhau đó, dựa trên những bằng
chứng khoa học.
Trong nhóm 100 chuyên gia người Việt
trẻ thành công ở nước ngoài về đối thoại với
lãnh đạo quốc gia mới đây, không hiếm những
mô hình khởi nghiệp độc đáo, mới mẻ và ứng
dụng công nghệ tiên tiến trên thế giới. Gene
Friend Way là một trong những ví dụ như thế.
Xuất thân là kỹ sư máy tính nhưng Cao
Anh Tuấn, đồng sáng lập và là CEO của Gene
Friend Way lại chọn con đường rời Google để
khởi nghiệp trong lĩnh vực y sinh. Tham vọng
của Tuấn và cộng sự, đó là giải mã bản đồ
gene cho người Việt nói riêng, người châu Á
nói chung để hiểu rõ hơn về thông tin di truyền
và khả năng gặp phải những bệnh lý trầm kha
như tai biến mạch máu não, tiểu đường hay
ung thư. Nhóm khởi nghiệp cũng kì vọng khi
biết sớm những thông tin liên quan tới bệnh lý
tiềm ẩn, người dùng sẽ tạo ra các tác động tích
cực hơn cho cuộc sống như tăng cường tập thể
thao hay ăn uống giảm cân.
Ban đầu nhóm của Tuấn chỉ tập trung
vào việc xét nghiệm khả năng mắc phải căn
bệnh ung thư. Nhưng sau đó, khi đi vào thực
tế, nhiều người dùng lại thắc mắc những câu
hỏi khác liên quan đến sức khỏe nhiều hơn,
chứ không chỉ đơn thuần là bệnh ung thư.
Hiện nay Gene Friend Way cung cấp 3 kết
quả phân tích về geneđể đáp ứng 3 nhu cầu cơ
bản: hiểu cơ thể để có chế độ luyện tập thể
thao tốt hơn, tìm xem cơ thể thiếu dưỡng chất
nào để lập thực đơn tối ưu và cuối cùng là
khảo nghiệm khả năng mắc căn bệnh nghiêm
trọng như ung thư.
Giải thích lý do khởi nghiệp với mô
hình mới lạ trong ngành y tế dự phòng, vốn lạ
lẫm với chàng trai “đậm” chất kỹ thuật về
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 18/40
công nghệ máy tính, Tuấn kể đó là lý do cá
nhân, khi người thân có tiền sử về tai biến
mạch máu não. Anh muốn phát hiện bệnh lý
từ sớm để phòng bệnh hơn là chữa bệnh, đặc
biệt là với người châu Á.
Trước khi trở thành người đồng sáng
lập và là CEO của Gene Friend Way, chàng
Tiến sĩ về Khoa học Máy tính của Đại học
Cornell đã có quãng thời gian 3 năm làm việc
chính thức cho Google, chưa tính đến thời
gian cộng tác trước đó.
Nhưng vấn đề mà cựu chuyên gia về
dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo của Google gặp
phải lúc đó là không có kiến thức về lĩnh vực
gene và y tế. Dù vậy, may mắn thay, vợ Tuấn
cũng đồng thời là tiến sĩ ở Mỹ về lĩnh vực y
sinh, là người đã hỗ trợ hết mình. Kết hợp
thêm 3 chuyên gia khác trong lĩnh vực y tế
đến từ những đại học danh tiếng hàng đầu ở
Mỹ, Tuấn quyết định theo đuổi đam mê.
Trong nhiều năm gần đây, việc giải mã
bộ gene của con người ngày càng tiến bộ,
những mô hình như Tuấn đang làm trên thế
giới không phải là cá biệt. Tuy nhiên, theo
Tuấn, những nghiên cứu trên thế giới đa phần
đều được thực hiện dựa trên các bộ mẫu là
người da trắng. “Chúng ta hay nói về nhập
khẩu công nghệ, nhưng về vấn đề gene thì
không thể mang về được. Người châu Á cần bộ
giải mã gene riêng”, ông Tuấn khẳng định.
Điều cơ bản là vì cấu trúc gene của các
chủng người có sự khác khau khá nhiều.
Trong khi ông Tuấn nhấn mạnh sản phẩm này
phát triển dành cho người châu Á, thì ở
Hongkong cũng có những dịch vụ kiểm tra
gene báo bệnh lý tương tự, nhưng họ chủ yếu
chỉ dùng lại các kết quả nghiên cứu của người
da trắng và tập trung nguồn lực vào marketing.
“Đối thủ cạnh tranh làm marketing tốt. Việc
marketing tốt sẽ giúp thuyết phục người dùng
sử dụng sản phẩm, nhưng để người dùng hiểu
được công nghệ ở dưới như thế nào thì khó.
Còn mình thì công nghệ là điểm mấu chốt.
Người châu Á, đặc biệt là người Việt Nam
phải có công nghệ phân tích gene riêng,
nghiên cứu và phát triển riêng cho chủng tộc
mình”, ông Tuấn nói.
Thêm nữa, ông Tuấn cũng nêu ra một
hiện tượng đáng lưu ý, đó là các ông lớn khác
chậm cập nhật công nghệ phân tích dữ liệu để
đưa ngay những kết quả nghiên cứu khoa học
mới nhất vào công nghệ y sinh. “Hiện nay, số
lượng gene có liên quan đến đặc tính của
người mà các nhà khoa học tìm ra đã nhiều
hơn gấp 10 lần số lượng gene được công bố 3
năm về trước. Vì vậy, các sản phẩm về phân
tích gene cần phải cập nhật để phân tích các
dữ liệu mới nhất”, Tuấn nhận định.
Kinh nghiệm từ việc thực hành và ứng
dụng trí tuệ nhân tạo từ quãng thời gian làm
việc cho Google đã giúp Tuấn thay đổi vấn đề
này. Việc vận dụng AI giúp đội ngũ của Tuấn
giảm thiểu thời gian nghiên cứu đáng kể. “Trí
tuệ nhân tạo giúp giảm thiểu thời gian nghiên
cứu. Sản phẩm trước đây xây dựng mất 2
năm, nay có thể rút xuống còn 6 tháng”,
Tuấn ví dụ.
"Nhưng không chỉ trong lĩnh vực y tế,
ứng dụng của AI ở ngoài đời còn rất phổ
thông và hữu dụng, có khả năng làm thay các
nhà nghiên cứu rất nhiều và giúp họ tiết kiệm
thời gian", Tuấn nhận xét. Nhiệm vụ của các
nhà nghiên cứu giờ đây là phải theo dõi và
cập nhật những xu hướng mới nhất, đưa vào
ứng dụng ngay lập tức chứ không phải chờ
đợi lâu như trước kia.
Vị chuyên gia đã từng là “cao thủ”
phân tích dữ liệu, giúp Google kiếm bộn tiền
từ hoạt động quảng cáo, vẽ ra viễn cảnh
tương lai trong 10 năm tới mà trong đó sẽ
toàn là ô tô tự lái, gần như mọi việc sẽ do rô-
bốt làm, con người sẽ thoải mái nhiều hơn.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 19/40
“Trí tuệ nhân tạo đã phát triển vượt bậc so
với khoảng thời gian 3 - 4 năm về trước. Trí
tuệ nhân tạo sẽ làm nhiều người mất việc, vì
máy làm thay cho người. Nghĩ một cách tiêu
cực thì con người sẽ lười hơn, nhưng nghĩ
tích cực thì con người đồng thời sẽ có nhiều
thời gian để phát triển những cái mới hơn”,
Tuấn cho biết.
Nguồn: Nguyễn Dũng - Văn Châu,
vietnamnet.vn, 23/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu đề kháng insulin, giảm tiết insulin và tình trạng rối loạn dung nạp glucose ở bệnh nhân lớn tuổi
Với mục tiêu tìm ra phương pháp điều
trị dự phòng từ gian đoạn sớm, từ đó làm
chậm sự xuất hiện của đái tháo đường tuýp 2,
nhóm tác giả Nguyễn Đức Công, Nguyễn
Văn Trí, Nguyễn Văn Thành (Bệnh viện
Thống Nhất) và cộng sự đã thực hiện nghiên
cứu về đề kháng insulin, giảm tiết insulin và
tình trạng rối loạn dung nạp glucose ở bệnh
nhân lớn tuổi có nguy cơ cao bị đái tháo
đường tại bệnh viện Thống Nhất.
Hiện nay nhóm người cao tuổi tại nước
ta đang không ngừng gia tăng về số lượng, kéo
theo nhiều vấn đề về sức khỏe hơn xảy ra ở
nhóm dân số này. Trong đó, đái tháo đường
tuýp 2 là một bệnh thường gặp ở người cao
tuổi và khi bệnh diễn biến nặng có thể gây ra
mù lòa, tàn phế suốt đời hoặc tử vong. Theo
các nhà nghiên cứu, người có nguy cơ mắc
bệnh đái tháo đường có thể áp dụng các biện
pháp can thiệp dự phòng nếu họ còn đang
trong tình trạng tăng đường huyết kéo dài
trước khi xuất hiện đái tháo đường tuýp 2 thực
sự. Vì vậy, nếu xác định được tình trạng này,
chúng ta hoàn toàn có thể làm chậm diễn biến
và sự xuất hiện của đái tháo đường tuýp 2.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là 600
bệnh nhân trên 60 tuổi có ít nhất một yếu tố
nguy cơ đái tháo đường nhưng không mắc
bệnh đái tháo đường đến khám tại phòng
khám, hoặc nhập viện điều trị nội trú tại bệnh
viện Thống Nhất. Các nhà nghiên cứu đã
khảo sát về tỷ lệ kháng insulin, chức năng tiết
insulin của tế bào beta tụy và tỷ lệ rối loạn
dung nạp glucose máu trên đối tượng nghiên
cứu. Đồng thời nghiên cứu thêm về mối liên
quan giữa sự kháng insulin, giảm tiết insulin
và tình trạng rối loạn dung nạp glucose với
các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, bệnh
mạch vành, béo phì,…
Kết quả cho thấy, người cao tuổi có
yếu tố nguy cơ mắc đái tháo đường có tỷ lệ
kháng insulin là 41,5%; tỷ lệ giảm tiết insulin
của tế bào beta tuyến tụy là 28,8%; tỷ lệ rối
loạn dung nạp glucose máu là 45%. Bên cạnh
đó, các mối liên quan giữa sự tăng kháng
insulin, rối loạn tiết insulin và rối loạn dung
nạp glucose với các yếu tố nguy cơ mắc bệnh
đái tháo đường ở người cao tuổi đều có ý
nghĩa về mặt thống kê. Do đó, các nhà nghiên
cứu đề nghị cần tiến hành tầm soát đái tháo
đường và điều trị các yếu tố nguy cơ có thể
thay đổi được như tăng huyết áp, bệnh mạch
vành, chỉ số khối cơ thể (BMI) > 23 và tỷ lệ
vòng eo trên vòng mông (WHR) cao.
Nguồn: cesti.gov.vn, 27/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 07/2018 20/40
Phương pháp điều trị mới cho trẻ em suy thận mạn giai đoạn cuối
Nhóm tác giả Hà Mạnh Tuấn, Hoàng
Thị Diễm Thúy, Nguyễn Huỳnh Trọng Thi
(Bệnh viện Nhi Đồng 2) và cộng sự đã thực
hiện đề tài nghiên cứu về phương pháp thẩm
phân phúc mạc liên tục ngoại trú với mục tiêu
đánh giá các kết quả, biến chứng và chi phí
của phương pháp này lên trẻ em bị suy thận
mạn giai đoạn cuối tại bệnh viện Nhi Đồng 2,
đồng thời tăng cường thêm một phương pháp
điều trị suy thận mạn để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của xã hội.
Ngày nay, với sự phát triển của y học
hiện đại, phương pháp thẩm phân phúc mạc
liên tục ngoại trú (TPPMLTNT) được coi như
một trong những phương pháp điều trị thay thế
thận hiệu quả cho bệnh nhân bị suy thận mạn.
So với phương pháp lọc máu theo chu kỳ,
TPPMLTNT có ưu điểm là người bệnh có thể
tự thực hiện tại nhà và ít bị lệ thuôc vào bệnh
viện, đồng thời cơ sở vật chất và nhân lực cần
dùng cho phương pháp cũng đơn giản hơn lọc
máu theo chu kỳ. Vì vậy, TPPMLTNT được
coi là phương pháp điều trị vừa giúp giải quyết
được bài toán kinh tế cho gia đình bệnh nhân
và vừa có tính nhân văn cao. Mặc dù đã được
triển khai rộng rãi ở người lớn, nhưng
TPPMLTNT ở trẻ em vẫn còn là một kỹ thuật
hoàn toàn mới tại Việt Nam. Do đó, cần có các
nghiên cứu thêm về tính hiệu quả, an toàn, khả
thi và chi phí của phương pháp này đối với trẻ
em bị suy thận mạn.
Đối tượng của nghiên cứu là tất cả các
trẻ em bị suy thận mạn giai đoạn cuối được
điều trị bằng TPPMLTNT tại bệnh viện Nhi
Đồng 2. Các nhà nghiên cứu đã tham khảo và
thu thập số liệu từ bệnh án lưu trữ và hồ sơ theo
dõi ngoại trú của 30 bệnh nhi, sau đó sử dụng
phần mềm SPSS 17.0 để phân tích số liệu.
Sau 12 tháng theo dõi, phương pháp
TPPMLTNT cho thấy có thể áp dụng trên trẻ
em với tỷ lệ sống là 96,8%. Có 83% bệnh
nhân tiếp tục điều trị, 6% chuyển sang lọc
máu theo chu kỳ và 6 bệnh nhân ghép thận.
Về các biến chứng thì có 10% trẻ bị viêm
phúc mạc, 9,3% bị nhiễn trùng lỗ ra, 9,3% bị
chảy máu catheter, 3,1% thoát vị rốn,…
Ngoài ra, chi phí trung bình cho 1 năm điều
trị bằng TPPMLTNT dao động từ 142–170,8
triệu đồng và chi phí cho 1 lần nhập viện vì
biến chứng viêm phúc mạc dao động từ 18,6–
44,4 triệu đồng.
Nguồn: cesti.gov.vn, 30/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 21/40
NÔNG NGHIỆP
Hệ thống phân loại xoài tự động
Vừa qua, Sở KH&CN Đồng Tháp đã tổ
chức Họp hội đồng tư vấn giao trực tiếp thực
hiện đề tài “Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo hệ
thống phân loại xoài tự động” do TS Huỳnh
Minh Tuấn, Giám đốc Sở làm chủ tịch.
Đây là đề tài do Trường Đại học Sư
phạm Kỹ thuật TP Hồ Chí Minh chủ trì và
PGS.TS Nguyễn Trường Thịnh làm chủ
nhiệm được thực hiện với mục tiêu thiết kế và
chế tạo hệ thống phân loại xoài (cát Chu, cát
Hòa Lộc, tượng Da Xanh) tự động, đạt hiệu
quả kinh tế, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu thị
trường trong và ngoài nước.
Qua 1 buổi trao đổi, thảo luận, các
thành viên hội đồng đánh giá đây là đề tài rất
cần thiết để triển khai thực hiện. Tuy nhiên,
hội đồng đề nghị nhóm nghiên cứu điều chỉnh
lại một số nội dung: kỹ thuật sử dụng trong đế
tài; công suất phù hợp với năng lực của các
đơn vị sản xuất; thu thập mẫu xoài; có thể
phân loại các loại trái cây khác dựa trên cơ sở
dữ liệu; gom lại mục tiêu cho phù hợp để
không bị chồng lấn trong nội dung nghiên cứu.
Kết quả, đề tài đã được thông qua với
tổng số điểm là 82,57.
Nguồn: vista.gov.vn, 07/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Tạo vật liệu khởi đầu giống ổi bằng phương pháp lai hữu tính
Với mục tiêu chọn tạo ra các giống ổi
có năng suất cao và chất lượng quả tốt, nhóm
tác giả Bùi Quang Đăng (Viện Khoa học
Nông nghiệp Việt Nam), Nguyễn Thị Tuyết,
Vũ Việt Hưng (Viện Nghiên cứu Rau quả) và
cộng sự đã thực hiện đề tài nghiên cứu tạo vật
liệu khởi đầu giống ổi bằng phương pháp lai
hữu tính, kết hợp các đặc tính nổi trội của
nguồn gien ổi trong nước và nước ngoài.
Ổi là loại cây ăn quả có giá trị dinh
dưỡng cao, được trồng phổ biến tại các nước
nhiệt đới và á nhiệt đới. Ngoài việc dùng để
ăn tươi hoặc chế biến thành các loại đồ hộp,
nước ổi, mứt ổi, thì quả ổi non, búp ổi, vỏ cây
và rễ ổi còn được dùng làm thuốc chữa bệnh.
Tuy nhiên, các vùng trồng ổi tại Việt Nam
hiện nay hầu hết đều sử dụng các giống ổi địa
phương, quả nhỏ, nhiều hạt, năng suất thấp và
chất lượng không ổn định. Vì vậy, công tác
nghiên cứu chọn tạo các giống ổi có năng suất
cao, chất lượng quả tốt, không hoặc có ít hạt
là rất cần thiết tại nước ta.
Nghiên cứu (được đăng trên tạp chí
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tháng
06/2018) sử dụng vật liệu lai tạo (bố, mẹ) là
10 giống ổi trong nước và nhập nội trồng phổ
biến tại miền Bắc Việt Nam như Đài loan, Bo
Trắng, Xù Dài, Thái Lan... Đồng thời, các
nhà nghiên cứu cũng đã thực hiện đánh giá
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 22/40
sức sống và khả năng nảy mầm của hạt phấn
ở một số giống ổi thí nghiệm.
Trong số 80 cá thể lai ưu tú của 18 tổ
hợp lai hữu tính, kết quả đã chọn lọc được 3
dòng lai có chất lượng tốt là TXD91 (Thái Lan
x Xù Dài), ĐLBT3 (Đài Loan x Bo Trắng) và
ĐLT3 (Đài Loan x Thái Lan). Các dòng ổi lai
này cho khối lượng quả lớn (312,42-414,53
g/quả), ít hạt (86-121,11 hạt/ quả); tỷ lệ cùi
cao (trên 90%), cùi dòn, vỏ sáng xanh; các chỉ
tiêu như độ brix, hàm lượng đường tổng số,
hàm lượng chất khô, axit tổng số đều tương
đương với giống ổi Đài Loan đang được trồng
phổ biến trong nước.
Nguồn: cesti.gov.vn, 21/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Thử nghiệm sử dụng ong ký sinh để khống chế mọt thuốc lá gây hại thức ăn nuôi cá bảo quản trong kho
Tác giả Nguyễn Thị Oanh (trường Đại
học Đồng Tháp) thực hiện nghiên cứu thử
nghiệm sử dụng ong Anisopteromalus
calandrae kiểm soát loài sâu mọt thuốc lá
Lasioderma serricorne gây hại thức ăn nuôi
cá (dạng viên) và một số loại nông sản trong
kho bảo quản.
Ong Anisopteromalus calandrae là loài
ong ngoại ký sinh đã được ghi nhận phổ biến
ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, có khả
năng hạn chế số lượng sâu non của nhiều loài
sâu mọt thuộc bộ cánh cứng gây hại cho nông
sản và thức ăn thủy sản trong kho. Nghiên
cứu tiến hành với ong Anisopteromalus
calandrae và mọt thuốc lá Lasioderma
serricorne được thu từ các kho bảo quản nông
sản như lúa, gạo, ngô, đậu và kho chế biến
thức ăn chăn nuôi tại một số tỉnh thuộc vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
Các thí nghiệm (được đăng trên Tạp
chí Bảo vệ thực vật, số 6-2017) được thực
hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của không
gian và khối lượng nông sản/thức ăn được
bảo quản đến khả năng khống chế mọt thuốc
lá Lasioderma serricorne của ong
Anisopteromalus calandrae như sau: 2 túi
thức ăn nuôi cá dạng viên (mỗi túi chứa
2,5kg) được đặt vào thùng giấy carton, thả 50
cặp mọt thuốc lá trưởng thành chia đều vào
các túi thức ăn trong thùng giấy, sau 21 – 22
ngày thả trưởng thành ong ký sinh. Quá trình
theo dõi được tiến hành trong 3 tháng sau khi
thả trưởng thành ong ký sinh. Sau mỗi tháng
kiểm tra mẫu, lấy ra 100g thức ăn từ 2 túi
đựng thức ăn trong thùng giấy và đếm số mọt
trưởng thành, đồng thời thay thay thế vào
thùng giấy một hộp nhựa đựng 100g thức ăn
đã bị nhiễm mọt thuốc lá ở giai đoạn sâu non
tuổi 3, tuổi 4.
Kết quả cho thấy, ở cùng một số lượng
trưởng thành ong ký sinh được thả, đối với
hai trường hợp khác nhau về không gian và
lượng nông sản/thức ăn bảo quản, khả năng
khống chế mọt thuốc lá của ong là khá tốt và
gần như tương đương nhau. Cụ thể, cùng với
nghiệm thức thả 40% cặp trưởng thành ong
ký sinh, tỷ lệ khống chế mọt của ong là
74,83% (ở lượng thức ăn nuôi cá mỗi túi
2,5kg) và 72,22% (ở lượng thức ăn nuôi cá
100g trong hộp nhựa). Các tỷ lệ này là
82,33% và 80,89% khi thả 50 cặp trưởng
thành ong ký sinh. Ong Anisopteromalus
calandrae có thể được sử dụng như là một tác
nhân sinh học kiểm soát mọt thuốc lá
Lasioderma serricorne gây hại thức ăn nuôi cá
trong điều kiện bảo quản ở các hộ kinh doanh
nhỏ lẻ.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 23/40
Tác giả đề xuất bổ sung biện pháp
phòng trừ côn trùng gây hại trong kho nông
sản ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng và cả nước nói chung. Cụ thể, điều tra
kho nông sản định kỳ 2 lần/tháng để theo dõi
biến động mật độ quần thể các loài mọt phổ
biến trong suốt chu kỳ bảo quản; xác định các
đỉnh cao số lượng của các loài mọt đó và thời
điểm mật độ đạt tới ngưỡng thiệt hại (22–25
kg/con) để xem xét, lựa chọn và quyết định
áp dụng biện pháp phòng trừ thích hợp nhất ở
từng thời kỳ bảo quản khác nhau. Đối với một
số kho bảo quản nhỏ lẻ, kho nông hộ, trong
khoảng 3 tháng đầu tiên, mật độ một số quần
thể mọt phổ biến thường chưa cao và ít khi
đạt tới giá trị ngưỡng thiệt hại, có thể sử dụng
ong ký sinh thảo vào kho với số lượng phù
hợp tùy theo khối lượng nông sản..
Nguồn: cesti.gov.vn, 22/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu chọn lọc một số dòng lan Dendrobium mini mới
Nhóm tác giả Nguyễn Văn Vinh, Bùi
Minh Trí, Trần Hồng Anh (Trung tâm Khuyến
nông TP.HCM) đã thực hiện nghiên cứu lai
tạo, đột biến và chọn lọc 3-5 dòng
Dendrobium mini mới có hình dáng, màu sắc
đa dạng nhằm phục vụ cho thị trường hoa
cảnh tại Việt Nam.
Dendrobium mini là giống lan mới
được du nhập vào nước ta thời gian gần đây.
Với đặc điểm như cây nhỏ gọn, siêng cho
hoa, thời gian ra hoa nhanh nên rất phù hợp
cho trang trí nội thất, văn phòng, đám tiệc…
Các giống lan Dendrobium mang nhiều đặc
tính nổi trội về hình thái, cấu trúc hoa, màu
sắc, sự phân bố sắc tố trên cánh hoa… nhưng
những đặc tính ưu việt này thường không tập
trung vào một loại lan Dendrobium cụ thể. Vì
vậy, việc thực hiện nghiên cứu lai tạo để cho
ra đời một số giống Dendrobium mini mới có
nhiều tính trạng tốt, thời gian lai tạo ngắn,
phù hợp với điều kiện sinh thái và thị hiếu tại
nước ta là cần thiết.
Với mục tiêu là tạo ra 3-5 dòng lan có
chiều cao cây từ 15-25 cm, số hoa/phát hoa từ
6-15 hoa, màu sắc hoa mới so với bố mẹ và
mỗi dòng có khoảng 100 cây trong đó có 40%
cây ra hoa, các nhà nghiên cứu đã thực hiện
những nội dung sau: lai tạo, khảo sát sự sinh
trưởng, phát triển và chọn lọc một số dòng
con lai Dendrobium mini có triển vọng; chiếu
xạ gây đột biến in vitro và chọn lọc một số
dòng Dendrobium mini đột biến có triển
vọng; dùng chỉ thị phân tử để khảo sát đa
dạng di truyền của các dòng lan Dendrobium
mini mới chọn lọc; nhân giống in vitro và
khảo sát sự sinh trưởng, phát triển của một số
dòng Dendrobium mini mới.
Kết quả đã tạo ra được 15 tổ hợp lan
lai, trong đó có 12 tổ hợp có tỷ lệ nảy mầm
cao từ 63,67-97,33%. Sau 6 tháng nuôi cấy
hạt lan, có 9 tổ hợp lai đạt tiêu chuẩn đưa ra
nhà lưới huấn luyện và nuôi trồng. Sau 8-10
tháng trồng ngoài nhà lưới, cả 9 tổ hợp lai đều
ra hoa, đồng thời chọn được 3 dòng lai triển
vọng là DM-03-09, DM-05-11 và DM-06-06
với tỷ lệ ra hoa của 100 cây con mỗi dòng là
42,67%, chiều cao cây từ 15-25 cm và số
hoa/phát hoa từ 6-15 hoa. Ngoài ra, kết quả
đánh giá sinh học phân tử bằng kỹ thuật
RAPD cũng đã xác định được các con lai có
kiểu gen khác với cây bố mẹ.
Nguồn: cesti.gov.vn, 25/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 07/2018 24/40
Nghiên cứu khí canh cây dừa cạn trong điều kiện bổ sung vi khuẩn Agrobacterium rhizogenes
Nhóm tác giả Trần Thị Lệ Minh (Đại
học Nông lâm TP.HCM), Bùi Xuân Lượng
(trường Cao đẳng Nghề số 8, TP. Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai) thực hiện nghiên cứu nhằm
xác định chu kỳ phun dung dịch dinh dưỡng,
mật độ vi khuẩn A. rhizogenes trong hệ thống
khí canh thuận lợi cho sinh trưởng của cây
dừa cạn.
Cây dừa cạn được tập trung trồng
trong các vùng dược liệu, nhưng chưa đáp
ứng đủ vì nhu cầu sử dụng ngày càng cao,
trong khi diện tích đất trồng dược liệu ngày
càng bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa. Trước
khó khăn này, biện pháp trồng cây không cần
đất như thủy canh (trồng cây trong dung dịch
dinh dưỡng), khí canh (trồng cây trong điều
kiện rễ cây tiếp xúc với không khí) đã được
nghiên cứu ứng dụng. Ưu điểm của trồng cây
dược liệu trên hệ thống khí canh (đặc biệt là
những cây sử dụng bộ rễ làm dược liệu) là sự
phát triển rất mạnh của bộ rễ trong môi
trường không khí, đồng thời giúp tiết kiệm
nước, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,…
A. rhizogenes là vi khuẩn hình que, có
tính di động, không sinh bào tử. Khi cây bị
nhiễm A. rhizogenes sẽ tạo ra những rễ nhánh
bất thường gọi là rễ tóc. Rễ tóc thường được
sử dụng rộng rãi trong việc sản xuất các hợp
chất thứ cấp. Các phương pháp chủ yếu để
chuyển gen đối với cây dược liệu là chuyển
gen trực tiếp bằng DNA và gián tiếp bằng vi
khuẩn A. rhizogenes. Tuy nhiên phương pháp
A. rhizogenes được hầu hết các nhà khoa học
lựa chọn, vì vậy việc xác định mật độ vi
khuẩn A. rhizogenes thích hợp để cây trồng
sinh trưởng phát triển tốt nhất được các nhà
khoa học quan tâm.
Trong nghiên cứu này (đăng trên tạp
chí KHKT Nông Lâm nghiệp, số 5-2017), cây
dừa cạn được khảo sát trồng trong hệ thống
khí canh với hai chu kỳ (phun dung dịch dinh
dưỡng 15 giây, ngừng phun dung dịch dinh
dưỡng 15 phút; phun 15 giây, ngừng phun 30
phút); đánh giá hàm lượng alkaloid đối với
các mẫu dịch chiết rễ, thân, lá cây dừa cạn;
thí nghiệm ảnh hưởng của mật độ vi khuẩn A.
rhizogenes đến sinh trưởng của cây.
Kết quả cho thấy, cây dừa cạn trồng
trong hệ thống khí canh giúp kiểm soát tốt
điều kiện trồng như dinh dưỡng, chế độ nước,
đồng thời cung cấp nguồn hoạt chất thứ cấp
từ rễ và thân lá. Chu kỳ phun dung dịch dinh
dưỡng 15 giây, ngừng phun 30 phút là tốt
nhất cho sinh trưởng của cây. Bổ sung vi
khuẩn A. rhizogenes với mật độ 109 CFU/mL
tối ưu cho sự sinh trưởng của cây dừa cạn
trong khí canh. Việc nghiên cứu tạo cây dừa
cạn có bộ rễ phát triển tốt nhờ vi khuẩn A.
rhizogenes kết hợp với công nghệ khí canh có
khả năng tăng sinh khối rễ của cây dừa cạn.
Nguồn: cesti.gov.vn, 20/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 25/40
Chế phẩm axit béo đa nối đôi (n3-PUFA) từ nguyên liệu tự nhiên bổ sung vào thức ăn ương nuôi thủy sản
Trong những năm gần đây, ngành nuôi
trồng thủy sản Việt Nam có những bước đột
phá vô cùng lớn cả về chất và lượng. Ban
đầu, từ những mô hình nuôi trồng thủy hải
sản theo kiểu quảng canh, đi dần lên theo
hướng bán thâm canh và hiện nay là mô hình
thâm canh năng suất cao, từ đó đưa Việt Nam
thành một trong 10 nước có sản lượng cá nuôi
lớn nhất thế giới Trung Quốc, Ấn Độ,
Inđônêxia, Việt Nam, Nhật Bản, Thái Lan,
Băngladesh... Để đạt được thành tựu phát
triển của mô hình thâm canh năng suất cao
hiện nay là do sự đóng góp cực kỳ to lớn của
ngành công nghệ sinh học trong thủy sản ở
hầu hết các công đoạn, từ giống, kiểm soát
môi trường nuôi, kiểm soát dịch bệnh, phát
triển các loại thức ăn.
Cùng với sự phát triển của nuôi trồng
thuỷ sản, ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi và
nuôi trồng thuỷ sản có bước phát triển nhảy
vọt. Trong 15 năm gần đây tốc độ tăng trưởng
đạt bình quân 13-15%/năm. Tuy nhiên, ngành
sản xuất thức ăn trong nước cũng gặp phải
không ít khó khăn do có đến 60% nguyên liệu
phải nhập ngoại như: ngô, đậu tương, mỳ,
mạch, bột cá... Trong nước chưa sản xuất
được các loại thức ăn bổ sung như: lyzin,
methionin, vitamin, khoáng vô cơ, hữu cơ,
chất chống oxy hoá, men tiêu hoá, kháng
sinh, chế phẩm sinh học... Vì vậy giá thức ăn
sản xuất ra còn cao, cao hơn các nước trong
khu vực và thế giới từ 15-20%.
Các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra
rằng, việc chỉ bổ sung các axit béo họ ω-3 vào
thức ăn cho cá sẽ không có hiệu quả cao, đôi
khi còn làm rối loạn các quá trình sinh lý
trong cơ thể cá, mà trong quá trình bổ sung
còn cần phải tính đến cả các axit ω-6 để đạt
hiệu quả cao nhất. Tỉ lệ ω-3/ω-6 trong thức ăn
cho cá thay đổi theo từng giai đoạn phát triển
ở từng loài…
Ở Việt Nam, mặc dù có nguồn nguyên
liệu phong phú nhưng công nghệ sản xuất
không đạt yêu cầu, sản phầm này chỉ được
chiết và bán thô cho nước ngoài và một phần
nhỏ làm thức ăn. Hiện nay, đa phần các loại
dầu béo bổ sung cho cá đều phải nhập khẩu từ
một số nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Chi
lê, Thái Lan… Các loại dầu béo này khi được
nhập khẩu, chúng ta mới chỉ kiểm soát được
các thành phần dinh dưỡng là chính, trong khi
đó các thành phần độc tố thì hầu như không
kiểm soát được. Do đó việc tự chủ nghiên cứu
và sản xuất PUFA từ các nguồn nguyên liệu
tự nhiên ở Việt Nam, ngoài yếu tố tiết kiệm
ngoại tệ, nâng cao sức sản xuất trong nước
còn là vấn đề đảm bảo hệ số an toàn cao cho
ngành nuôi trồng thủy hải sản ở nước ta.
Trong các nghiên cứu tạo chế phẩm
giàu hoạt chất ω-3, ω-6 ở Việt Nam hiện nay
đa phần sử dụng các phương pháp hóa học
thông thường hay phương pháp ép nhiệt. Các
phương pháp này có ưu điểm là đơn giản,
thuận tiện, tuy nhiên chúng đòi hỏi phải sử
dụng một lượng lớn các loại dung môi, hóa
chất, đồng thời tốn nhiều thời gian cho mỗi
chu trình sản xuất, chất lượng sản phẩm
không tốt do các axit béo đa nối đôi bị 2 biến
đổi trong quá trình sản xuất. Hiện nay, cùng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 26/40
với sự tiến bộ của ngành công nghệ sinh học,
việc sử dụng kết hợp giữa phương pháp hóa
học hiện đại và công nghệ enzyme sẽ giải
quyết tốt vấn đề này. Đây là hướng triển khai
mới và đầy triển vọng, góp phần nâng cao
hiệu quả kinh tế cũng như tác động tích cực
về mặt xã hội, môi trường.
Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên
phối hợp cùng Chủ nhiệm đề tài TS. Lê Tất
Thành cùng thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
ứng dụng công nghệ sinh học tạo chế phẩm
axit béo đa nối đôi (n3-PUFA) từ nguyên liệu
tự nhiên bổ sung vào thức ăn ương nuôi một
số đối tượng cá biển” với mục tiêu Ứng dụng
công nghệ sinh học để tạo được chế phẩm
giàu axit béo đa nối đôi (PUFA) từ nguyên
liệu tự nhiên và Thử nghiệm bổ sung chế
phẩm PUFA vào thức ăn nuôi giống một số
đối tượng cá biển chủ lực (cá chẽm, cá song,
cá giò).
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
+ Đã hoàn thành 01 bộ cơ sở dữ liệu
nguồn nguyên liệu cung cấp cho quá trình
nghiên cứu và sản xuất của đề tài. Trong đó,
xác định được nguồn nguyên liệu là đầu 3
loài cá ngừ lớn (cá ngừ Vây vàng, Mắt to, Bò)
với hàm lượng lipit 11,7 - 14,8% và hệ số
đánh giá lựa chọn cho việc sản xuất lần lượt
là 341,87 (cá ngừ Bò); 523,18 (cá ngừ Mắt to)
và 558,34 (cá ngừ Vây vàng).
+ Đã sản xuất được 221,5kg chế phẩm
PUFA giàu omega 3 bằng công nghệ enzyme
phục vụ nuôi thử nghiệm các đối tượng cá
chẽm, cá song, cá giò ở giai đoạn cá bột lên
hương và cá hương lên giống.
+ Đã hoàn thiện 02 quy trình có ý
nghĩa khoa học, phù hợp với thiết bị và điều
kiện sản xuất thực tế ở Việt Nam gồm:
- Quy trình công nghệ sản xuất PUFA
giàu omega 3 từ nguồn nguyên liệu tự nhiên
quy mô 80kg nguyên liệu/mẻ.
- Quy trình phối trộn bổ sung PUFA
vào thức ăn giai đoạn nuôi cá chẽm, cá song,
cá giò.
+ Đã hoàn thiện 01 bộ tiêu chuẩn cơ sở
cho sản phẩm PUFA-VN theo công thức tỉ lệ
ω-3/ ω6 là 2/1 và đánh giá hiệu quả sản xuất
sản phẩm. Kết quả tính toán sơ bộ cho thấy
sản phẩm có chất lượng tương đương và giá
thành rẻ hơn khoảng 30-50% so với sản phẩm
ngoại nhập thông dụng hiện nay là DHA
Selco.
+ Đã tiến hành nghiên cứu phối trộn
các dầu ω-3 và ω-6 theo các tỉ lệ khác nhau
và khảo nghiệm trên đối tượng là các loài cá
biển nuôi chủ lực có giá trị kinh tế cao ở giai
đoạn ương nuôi: cá chẽm, cá song, cá giò.
+ Đã công bố 03 bài báo trên các tạp
chí chuyên ngành trong nước có phản biện và
tham gia đào tạo 01 nghiên cứu sinh, 02 thạc
sĩ và 04 cử nhân..
Nguồn: vista.gov.vn, 06/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu phát triển một số giống khoai lang theo hướng sản xuất hàng hóa cho vùng đất bãi ven sông Hồng
Đây là kết quả của nhiệm vụ: “Nghiên
cứu phát triển một số giống khoai lang theo
hướng sản xuất hàng hóa cho vùng đất bãi
ven sông Hồng” do ThS. Nguyễn Minh Tuấn,
Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng làm chủ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 27/40
nhiệm, thực hiện từ tháng 01/2015 đến tháng
6/2017.
Đề tài được triển khai tại các tỉnh Hà
Nội và Vĩnh Phúc với mục tiêu tuyển được
một số giống khoai lang năng suất, chất lượng
cao và hoàn thiện quy trình kỹ thuật để sản
xuất theo hướng hàng hóa ở vùng đất bãi ven
sông Hồng. Qua đó làm cơ sở để chuyển đổi
cơ cấu cây trồng cho vùng đất bãi ven sông,
nâng cao hiệu quả của sản xuất, góp phần
chuyển dịch kinh tế nông nghiệp các tỉnh phụ
cận Hà Nội trong thời gian tới.
Sau hơn hai năm triển khai, đề tài đã
lựa chọn được 01 giống khoai lang phù hợp
cho ăn tươi là giống KLC266, và 01 giống
khoai lang phù hợp chế biến là giống KL20-
209. Cùng với giống khoai lang Hoàng Long
truyền thống, Viện Nghiên cứu và Phát triển
Vùng đã cung cấp bộ giống có ý nghĩa cho
các địa phương.
Đề tài cũng đã hoàn thiện được quy
trình trồng khoai lang cho vùng đất bãi ven
sông Hồng và xây dựng thành công 10 ha mô
hình trồng khoai lang theo hướng sản xuất
hàng hóa tại Vĩnh Phúc và Hà Nội.
Ngoài ra, đề tài bước đầu đánh giá, so
sánh hiệu quả kinh tế giữa các giống được lựa
chọn với các mô hình truyền thống tại địa
phương từ đó làm cơ sở để cho các địa phương
nhân rộng và triển khai mô hình trồng khoai
lang đạt hiệu quả cao góp phần chuyển đổi cơ
cấu cây trồng vùng đất bãi ven sông Hồng theo
hướng hàng hóa trong thời gian tới.
Nguồn: Huyền Minh, vista.gov.vn,
28/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Công nghệ nano - giải pháp cho nông nghiệp sạch
Mới đây, Viện Hàn lâm khoa học và
Công nghệ Việt Nam đã hoàn thành quy trình
nghiên cứu và bước đầu triển khai ứng dụng
công nghệ nano trong trồng trọt, chăn nuôi và
nuôi trồng thủy sản. Các kết quả nghiên cứu
cho thấy, các nhà khoa học Việt Nam đang
tích cực tìm ra những giải pháp bắt kịp xu thế
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông
nghiệp, nhất là nông nghiệp sạch.
Bắt kịp xu thế
Dự án “Nghiên cứu ứng dụng công
nghệ nano trong nông nghiệp” giai đoạn
2015-2019 do Viện Hàn lâm khoa học và
Công nghệ (KH-CN) Việt Nam phối hợp với
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(NN&PTNT) thực hiện. Trong đó, việc
nghiên cứu chế tạo ra các sản phẩm nano sẽ
do Viện Công nghệ môi trường của Viện Hàn
lâm KH-CN Việt Nam thực hiện. Còn việc
đưa công nghệ này ứng dụng trong lĩnh vực
trồng trọt và chăn nuôi do các đơn vị thuộc
Bộ NN&PTNT đảm nhận.
Qua 4 năm, dự án đã cho ra đời một số
sản phẩm nano như nano sắt, nano đồng, nano
ôxít kẽm, nano coban, nano selen, nano
chitosan… Các sản phẩm này được sử dụng
trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm nâng cao
hiệu quả về năng suất, chất lượng cây trồng,
vật nuôi, từ xử lý hạt giống, làm phân bón lá
cho tới sản xuất thức ăn chăn nuôi, phòng và
trị bệnh cho gia súc… Các nhà khoa học đã
nghiên cứu ứng dụng các loại phân vi lượng
nhả chậm trên cơ sở các hạt nano kim loại có
hoạt tính sinh học; các chế phẩm phòng,
chống và diệt một số bệnh nấm trên cơ sở các
nano kẽm, bạc và đồng, phát triển loại kem
bôi nano dùng trong chăn nuôi bò sữa. Việc
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 28/40
nghiên cứu vật liệu mang thuốc kháng sinh đa
chức năng... cũng có nhiều kết quả khả quan.
Chủ nhiệm Dự án, PGS.TS Nguyễn
Hoài Châu cho biết, các kết quả nghiên cứu
thực nghiệm của Dự án đã chứng minh sản
phẩm phân bón lá nano có khả năng kích
thích sinh trưởng và phát triển của cây trong
giai đoạn nảy mầm, giúp tăng năng suất cây
trồng, giảm thiểu phân bón sử dụng, phòng
trừ dịch bệnh từ đất và tăng sức chống chịu
các điều kiện bất lợi của môi trường đối với
hạt nảy mầm. Khi ứng dụng công nghệ nano
trong sản xuất phân bón lá, lượng phân sử
dụng giảm khoảng 30 lần so với phân bón
gốc. Trong điều kiện trồng thâm canh ở nước
ta, dưỡng chất trong đất thiếu nghiêm trọng,
phân hóa học bón đất bị mất hiệu quả đến hơn
50%, thì việc sử dụng phân bón lá là giải
pháp tiện lợi và hiệu quả hơn rất nhiều. Khi
sử dụng phân bón lá nano, năng suất tăng,
đồng thời giảm thiểu tác hại tới môi trường.
Bên cạnh đó, việc xử lý hạt giống bằng nano
sắt trước khi gieo cho năng suất tăng 12,5%.
Hiện các nhà khoa học Việt Nam đã
nghiên cứu ứng dụng công nghệ nano vào sản
xuất các loại phân bón cho các loại cây ngô,
đậu tương, hồ tiêu, cà phê, thanh long…
PGS.TS Nguyễn Hoài Châu mong muốn, sẽ
nhận được những kết nối từ các đơn vị, doanh
nghiệp để Viện Công nghệ môi trường thực
hiện việc chuyển giao các kết quả nghiên cứu,
ứng dụng vào thực tế.
Giải pháp cho nông nghiệp sạch
Hà Nội là địa phương được các nhà
khoa học đưa vào thử nghiệm nhiều kết quả
nghiên cứu. Huyện Phúc Thọ là nơi trồng thử
nghiệm 1ha đậu tương sử dụng phân bón lá
nano. Trong một đợt gieo trồng muộn sau
bão, đất trồng không được chăm sóc kỹ như
mọi lần, cây đậu tương được sử dụng phân
bón lá nano vẫn sinh trưởng tốt, năng suất
cao, chất lượng đậu tốt hơn so với những vụ
mùa trước đó. Thời gian thu hoạch lại được
rút ngắn đáng kể. Người dân tham gia trồng
thử nghiệm cho biết, phân bón lá nano cho
chất lượng cây khỏe, cây phát triển cao hơn
so với cây đối chứng và tiết kiệm được hơn
một nửa các loại phân đạm, kali bón cho cây.
Bên cạnh trồng trọt, các sản phẩm nano cũng
được ứng dụng trong chăn nuôi và nuôi trồng
thủy hải sản. Hạt nano sử dụng làm phụ gia
thức ăn chăn nuôi thay thế một số nguyên tố
vi lượng dạng muối giúp vật nuôi dễ hấp thu,
cũng như hạn chế tác dụng phụ của các muối
kim loại trong thức ăn chăn nuôi. Trang trại
bò sữa của Trung tâm Nghiên cứu bò và
Đồng cỏ Ba Vì là một trong những nơi đã và
đang sử dụng các sản phẩm ứng dụng công
nghệ nano trong phòng và trị bệnh viêm
móng, vú và tử cung ở bò sữa.
Ông Ngô Đình Tân, Phó Giám đốc
Phụ trách kỹ thuật tại Trung tâm cho biết:
Chúng tôi sử dụng một loại kem để phòng
bệnh viêm vú trên đàn bò sữa. Nhờ kích
thước nhỏ, hạt nano có thể thấm sâu nên khả
năng phòng bệnh rất cao. Đối với dung dịch
nano được sử dụng trong phòng và điều trị
bệnh viêm tử cung, kết quả thực nghiệm cho
thấy dung dịch tạo thích ứng với niêm mạc
cao hơn so với các chất sát khuẩn thông
thường. Một kết quả đáng chú ý không kém,
đó là tình trạng tồn dư kháng sinh trong sữa
đã được khắc phục đáng kể.
Với người nông dân, việc sử dụng các
loại thức ăn, thuốc, phân bón ứng dụng từ
công nghệ nano không có gì khó khăn so với
các sản phẩm thông thường bởi công nghệ đã
được thể hiện dưới dạng sản phẩm. Người
dùng chỉ cần theo các hướng dẫn của nhà sản
xuất được in trên bao bì như đối với các sản
phẩm thông thường khác. Công nghệ nano đã
và đang giúp Việt Nam hướng đến một nền
nông nghiệp sạch, tiết kiệm chi phí trong sản
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 29/40
xuất và gia tăng các giá trị cho các mặt hàng
nông, thủy sản.
Nguồn: vista.gov.vn, 20/08/2018
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Hoàn thiện máy vớt rong, cỏ dại và lục bình cỡ nhỏ trên kênh, mương cấp thoát nước khu vực TP.HCM
Vớt rác, lục bình bằng lao động phổ thông.
Là nội dung chính trong đề tài nghiên
cứu của nhóm tác giả Nguyễn Quốc Hưng,
Bùi Trung Thành, Trần Ngọc Vũ (Trung tâm
Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ - Máy
công nghiệp) và cộng sự, với mục tiêu nâng
cao các chức năng, tính cơ động và khả năng
làm việc của máy vớt rong, cỏ dại và lục bình
cỡ nhỏ phù hợp với điều kiện kênh rạch tại
TP.HCM
Rong, rác thải và lục bình là những
nguyên nhân chính làm tắc nghẽn dòng chảy,
cản trở giao thông đường thủy, gây mất mỹ
quan đô thị và vệ sinh môi trường. Tại
TP.HCM hiện nay, công việc vớt rác và lục
bình trên kênh rạch chủ yếu được công nhân
thực hiện thủ công và không có thiết bị hỗ trợ
nên rất nặng nhọc, vất vả mà hiệu quả lại chưa
cao. Bên cạnh đó, các thiết bị cắt - vớt được
chế tạo trước đây thường phải sử dụng nhiều
nhân công, năng suất thấp, đồng thời tính cơ
động, khả năng đồng bộ và cơ giới hóa chưa
cao. Vì vậy, nhóm tác giả đã tiếp tục nghiên
cứu hoàn thiện mẫu thiết kế máy cắt - vớt
rong, cỏ, lục bình đã được nghiệm thu trước
đó để tạo ra thế hệ máy mới có nhiều tính năng
vượt trội và phù hợp hơn với điều kiện kênh
rạch nội và ngoại thành TP.HCM.
Qua quá trình thiết kế và hoàn thiện,
các nhà nghiên cứu đã chế tạo thành công hệ
thống máy cắt - vớt lục bình và cỏ dại với các
thông số: vận tốc di chuyển khi làm việc từ 0-
1 km/giờ, di chuyển không tải là 2-2,5
km/giờ, mức điều chỉnh di chuyển từ 0-3,5
m/phút, năng suất trung bình 200-300 m2/giờ
và nhiên liệu tiêu thụ trung bình từ 7-10
lít/giờ. Hệ dao cắt của máy gồm 2 dao cắt dọc
và 1 dao cắt ngang quay đồng bộ và có thể
điều chỉnh tốc độ quay. Khi hoạt động ở khu
vực có mật độ rong cao (trên 40 kg/m2) máy
cho chất lượng cắt tốt và ổn định, tỷ lệ thu hồi
cao (lên đến trên 80%), chi phí nhiên liệu chỉ
7,5 lít/giờ. Hệ thống di chuyển của máy được
thiết kế kiểu bánh xe nước nên rất phù hợp
với môi trường rong cỏ dày đặc. Vận tốc bánh
xe có thể điều chỉnh để có chất lượng làm
việc tốt nhất.
Nguồn: cesti.gov.vn, 31/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 30/40
LĨNH VỰC KHÁC
Phát hiện loài sóc mới cho khoa học ở Việt Nam
Các nhà khoa học thuộc Viện Sinh thái
Tài nguyên Sinh vật, Bảo tàng Thiên nhiên
Việt Nam, Học viện Khoa học và công nghệ
(Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam), phối hợp cùng các nhà khoa học từ Đại
học Kyoto và Đại học Obihiro (Nhật Bản) đã
phát hiện một loài sóc mới cho khoa học và
công bố trên Journal of Mammalogy (Volume
99, Issue 4, 13 August 2018, Pages 813–825).
Loài mới được đặt tên là Sóc cây hòn khoai
(Hon Khoai squirrel), tên khoa học
Callosciurus honkhoaiensis.
Mẫu chuẩn (Holotype) của loài sóc
mới này được thu tại Đảo Hòn Khoai, thuộc
Tỉnh Cà Mau, miền Nam Việt Nam. Mẫu hiện
đang được lưu giữ tại Phòng động vật học có
xương sống, Viện Sinh thái và Tài nguyên
Sinh vật, với số hiệu IEBR-M-6439. So sánh
với các loài sóc cùng giống khác ở khu vực
bán đảo Đông Dương thì loài Sóc cây hòn
khoai có kích thước nhỏ hơn các loài sóc
thuộc giống Callosciurus, đặc biệt là ở chiều
dài cơ thể và kích thước hộp sọ. Về đặc điểm
hình thái, Loài sóc cây hòn khoai khác với
những loài sóc cây thuộc giống Callosciurus
bởi có lông ở chóp đuôi màu trắng.
Cho đến thời điểm hiện tại, Sóc cây
hòn khoai mới chỉ được ghi nhận tại đảo Hòn
Khoai, và cần tiếp tục điều tra để đánh giá
vùng phân bố của loài ở các đảo khu vực phía
Nam Việt Nam, đồng thời có những đánh giá
tiếp theo về số lượng quần thể của loài trên
đảo để có những giải pháp bảo tồn loài cho
phù hợp với điều kiện của đảo, cũng như loài
có thể trở thành loài đặc hữu mà chỉ ghi nhận
được ở Đảo Hòn Khoai, tỉnh Cà Mau.
Người cung cấp thông tin: Nguyễn
Trường Sơn, Tatsuo Oshida, Đặng Huy
Phương, Bùi Tuấn Hải và Masaharu
Motokawa.
Nguồn: Thanh Hà, cesti.gov.vn, 31/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Thí sinh Việt Nam đạt thành tích ấn tượng ở SCPC 2018
Lễ trao giải cuộc thi lập trình quốc tế Samsung Collegiate Programming Cup 2018
Thành tích ấn tượng của các thí sinh
Việt Nam tại cuộc thi lập trình quốc tế SCPC
2018 (Samsung Collegiate Programming Cup)
đã cho thấy tiềm năng cũng như sự hữu ích từ
việc tổ chức những "sân chơi" công nghệ.
"Quả ngọt" từ sân chơi thời 4.0
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 31/40
Thông tin mới nhất từ vòng chung kết
cuộc thi lập trình quốc tế Samsung Collegiate
Programming Cup 2018 (SCPC 2018) tại Hàn
Quốc cho biết: thí sinh Nguyễn Ngọc Trung,
đến từ Việt Nam, đã giành giải 5.
Đây mới là năm thứ 2 Việt Nam tham
dự cuộc thi quốc tế này. Trước đó, từ 2015,
SCPC đã được Tập đoàn Samsung tổ chức
như một sự kiện thường niên tại Hàn Quốc và
luôn thu hút sự tham gia của những thí sinh
xuất sắc nhất trong ngành công nghệ thông tin
tại đây.
Để có mặt tại vòng chung kết và tranh
tài cùng 116 sinh viên Hàn Quốc, 10 thí sinh
Việt Nam đã phải vượt qua cuộc thi lập trình
quốc tế Samsung Collegiate Programming
Cup 2018 tại Việt Nam. Đây là cuộc thi do
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Điện
thoại Di động Samsung Việt Nam (SVMC) tổ
chức từ cuối tháng 5/2018.
10 sinh viên đi Hàn Quốc dự thi đều là
những cái tên xuất sắc nhất của cuộc thi tại
Việt Nam. Họ phải trải qua 2 vòng thi, với
các bài thi về thuật toán và cấu trúc dữ liệu
(sử dụng ngôn ngữ lập trình C, C++, Java).
Các cuộc thi tương tự cũng đã được
Samsung triển khai tại Hàn Quốc và Ấn Độ.
Tổng cộng, 4.025 thí sinh Hàn Quốc, 717 thí
sinh Việt Nam và 446 thí sinh Ấn Độ cùng có
mặt trong vòng thi đầu tiên.
Riêng tại Việt Nam, so với cuộc thi
năm ngoái (thu hút 560 thí sinh), lượng sinh
viên dự thi tăng cao hơn 30%. Và qua thống
kê, 3 trường Đại học có lượng sinh viên tham
gia SCPC 2018 nhiều nhất đều là những địa
chỉ dẫn đầu về đào tạo CNTT hiện nay: ĐH
Bách khoa Hà Nội, ĐH Công nghệ (ĐH Quốc
gia Hà Nội) và Học viên Bưu chính Viễn
thông.
Để lọt vào vòng chung kết tại Hàn
Quốc, thành tích của các thí sinh Việt Nam
cũng rất thuyết phục: trong số 37 thí sinh đạt
điểm tuyệt đối (1.000 điểm) tại vòng 2 cuộc
thi lập trình quốc tế SCPC 2018 thì có 9 thí
sinh là sinh viên Việt Nam.
Với Nguyễn Ngọc Trung, sinh viên
Đại học FPT, đây là lần thứ 2 anh giành giải 5
tại vòng chung kết SCPC. Năm ngoái (2017),
sau khi giành giải nhất tại Việt Nam, anh
cũng là một trong 10 gương mặt đại diện cho
Việt Nam tới Hàn Quốc dự thi và đoạt giải.
Lê Minh Quang - sinh viên ĐH Bách
Khoa Hà Nội - cũng là một cái tên được nhắc
tới trong 2 năm liên tiếp. Năm 2017, tại vòng
chung kết ở Hàn Quốc, Quang giành giải 4.
Còn năm 2018 này, anh giành giải nhất trong
cuộc thi SCPC tại Việt Nam, với giải thưởng
là 40 triệu đồng, kèm theo 2 sản phẩm công
nghệ cao của Samsung.
Nhưng với Quang, giá trị của cuộc thi
không chỉ nằm ở phần thưởng. Như lời anh,
những trải nghiệm đặc biệt ở một sân chơi về
công nghệ như SCPC mới là điều quan trọng
nhất với một kĩ sư lập trình tương lai.
“Thí sinh tham gia SCPC đều là những
gương mặt xuất sắc. Ngay ở vòng thi đầu tiên,
các bạn cũng đều đến từ những trường thuộc
top đầu của Việt Nam. Vậy nhưng, việc hoàn
thành bài thi cũng không đơn giản. Là một
cuộc thi theo chuẩn quốc tế, chúng tôi phải
làm những dạng đề gần như chưa gặp bao
giờ”, Lê Minh Quang chia sẻ.
Tiềm năng của các sinh viên CNTT
Những gương mặt như Ngọc Trung và
Minh Quang cho thấy: tiềm năng của các sinh
viên CNTT tại Việt Nam là không hề nhỏ.
Vấn đề còn lại, như nhiều chuyên gia đã chỉ
rõ, là việc tổ chức những cuộc thi về kỹ năng
lập trình và thuật toán - những “sân chơi”
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 32/40
công nghệ đủ sức nặng để họ bộc lộ những
khả năng tiềm ẩn của mình.
Thí sinh Việt Nam đạt thành tích ấn
tượng ở SCPC 2018
Xa hơn, những sân chơi ấy cũng là
xuất phát điểm, để các sinh viên tư hoàn thiện
mình bằng việc tiếp cận và trang bị thêm các
kỹ năng xây dựng ý tưởng, tư duy logic, đồng
thời ứng dụng kiến thức lập trình vào cuộc
sống nhằm bắt kịp làn sóng của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0.
Và, nhìn từ thực tế, những cuộc thi như
SCPC của Samsung chính là “sân chơi” cần
thiết và hữu ích cho nhu cầu mà thực tế đặt ra.
“Qua thực tế công việc cũng như
những gì tôi được biết, tôi đặc biệt đánh giá
cao về năng lực của các sinh viên Việt Nam,
với sự thông minh, sáng tạo và kiên nhẫn. Với
tâm niệm đào tạo nhân tài là giá trị số 1 trong
kinh doanh, SVMC trong tương lai vẫn sẽ
tiếp tục sát cánh cùng Việt Nam trong hoạt
động đào tạo nhân tài phần mềm. Tôi mong
có thêm nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp sẽ
trở thành thành viên của SVMC, để chúng tôi
đồng hành và cùng các bạn thực hiện ước mơ,
hoài bão của mình”, ông Kim In Soo - Tổng
Giám đốc SVMC nhận xét.
Cuộc thi Samsung Collegiate Programming
Cup 2018
Với thông điệp - “Enter your Passion” -
“Hãy truyền đam mê của bạn vào từng dòng
code”, SCPC 2018 đã diễn ra từ 23/6 đến
31/7/2018 với sự tham dự của 717 thí sinh
Việt Nam. 10 thí sinh Việt Nam xuất sắc nhất
đã được Samsung Việt Nam tài trợ để tham
dự vòng chung kết ở Hàn Quốc.
Tại vòng chung kết ở Hàn Quốc vào ngày
31/7/2018, thí sinh Nguyễn Ngọc Trung của
Việt Nam đã giành giải 5.
Nguồn: vietnamnet.vn, 08/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Thành lập hai viện nghiên cứu công nghệ cao của tư nhân tại Việt Nam
PGS.TS Đỗ Văn Nam - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tiên tiến Thành Tây (TIAS)
PRATI và TIAS khác biệt với các đơn
vị nghiên cứu khác bởi 2 viện này được thành
lập từ nguồn vốn tư nhân. Sự kiện này đánh
dấu vai trò ngày càng lớn của khối doanh
nghiệp tư nhân trong việc phát triển nghiên
cứu khoa học.
Tối 9/8, tại Hà Nội vừa diễn ra lễ ra mắt
hai viện nghiên cứu gồm Viện Nghiên cứu và
Công nghệ Phenikaa (PRATI - Phenikaa
Research and Technology Institute) và Viện
Nghiên cứu Tiên tiến Thành Tây (TIAS -
Thanh Tay Institute for Andvance study).
Đây là 2 viện nghiên cứu tư nhân do
tập đoàn Phenikaa phối hợp cùng đại học
Thành Tây phát triển. Phenikaa hiện đang sở
hữu Vicostone, thương hiệu đá thạch anh cao
cấp đứng thứ 4 thế giới.
Hai viện nghiên cứu PRATI và TIAS
sẽ tập trung vào các lĩnh vực nghiên cứu nền
tảng, cấp thiết và có tính ứng dụng cao. Các
lĩnh vực này bao gồm khoa học cơ bản, ứng
dụng, công nghệ vật liệu (polymer, nano,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 33/40
gốm), công nghệ in 3D, tự động hóa, cơ điện
tử, điện tử, điện tử hữu cơ, CNTT, nông
nghiệp, công nghệ y sinh, trí tuệ nhân tạo.
PRATI tập trung thực hiện việc nghiên
cứu ứng dụng, sản xuất thử nghiệm, phát
triển, chuyển giao và thương mại hóa công
nghệ. Trong khi đó, TIAS ưu tiên nghiên cứu
lĩnh vực khoa học cơ bản, định hướng ứng
dụng và phát triển các công nghệ nguồn.
TIAS cũng thực hiện chức năng đào tạo ở
trình độ sau đại học.
Nhận định về sự ra đời của 2 viện
nghiên cứu, Thứ trưởng Bộ Khoa học & Công
nghệ Bùi Thế Duy cho rằng, sự ra đời của 2
cơ sở này là một tín hiệu mừng đối với nền
khoa học công nghệ trong nước.
Sự kiện này cũng trùng khớp với quan
điểm chỉ đạo lấy doanh nghiệp làm trung tâm
trong phát triển khoa học kỹ thuật của Đảng
và Nhà nước, phản ánh sự chuyển dịch của
các hoạt động nghiên cứu khoa học, tạo sự
liên kết giữa doanh nghiệp, các trường đại
học và viện nghiên cứu.
Thứ trưởng Bùi Thế Duy khẳng định,
Bộ KH&CN sẽ có những cơ chế, chính sách
hỗ trợ viện nghiên cứu của cả các trường đại
học lẫn các doanh nghiệp tư nhân.
Nguồn: Trọng Đạt, vietnamnet.vn,
11/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Vingroup sẽ trở thành tập đoàn công nghệ
Trong khuôn khổ của Lễ ký kết, ngày 21/8/2018 Tập đoàn Vingroup đã chính thức ra mắt: Công ty Phát triển Công nghệ VinTech, Viện Nghiên cứu
Dữ liệu lớn, Viện Nghiên cứu Công nghệ cao, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Khoa học – Công nghệ
Ứng dụng.
Ngày 21/8/2018 tại Hà Nội, Tập đoàn
Vingroup ký kết thỏa thuận hợp tác với hơn
50 trường Đại học hàng đầu Việt Nam đồng
thời công bố định hướng trở thành Tập đoàn
Công nghệ - Công nghiệp - Dịch vụ đẳng cấp
quốc tế trong tương lai.
Theo thỏa thuận, Vingroup và các
trường đại học sẽ hợp tác 4 nội dung gồm:
Tài trợ các dự án nghiên cứu khoa học - công
nghệ; Trao đổi học hỏi kinh nghiệm giữa các
giáo sư, nhà nghiên cứu, sinh viên; Giảng dạy
và Chia sẻ tri thức; Vingroup cũng đặt các
trường Đại học đào tạo với cam kết sẽ tiếp
nhận khoảng 100.000 sinh viên tốt nghiệp các
ngành công nghệ thông tin trong vòng 10 năm
tới.
Tại lễ ký kết, Tập đoàn Vingroup
chính thức công bố chiến lược đầu tư trọng
điểm vào lĩnh vực Công nghệ - Công nghiệp
với mục tiêu đến năm 2028, Vingroup sẽ trở
thành một Tập đoàn Công nghệ - Công
nghiệp - Dịch vụ đẳng cấp quốc tế, trong đó
Công nghệ chiếm tỷ trọng chính.
Để thực hiện được mục tiêu trên, Tập
đoàn Vingroup đã đưa ra nhiều nhóm giải
pháp, cụ thể:
Với mảng thương mại dịch vụ hiện có
- Tập đoàn tiếp tục đẩy mạnh, hoàn thiện và
nâng cấp chất lượng cũng như hiệu quả hoạt
động. Thương mại dịch vụ không chỉ đóng
vai trò là chỗ dựa tài chính cho hai mảng mới,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 34/40
mà còn là hệ sinh thái quan trọng để hỗ trợ
công tác nghiên cứu và thương mại hóa các
sản phẩm công nghệ - công nghiệp.
Với mảng công nghiệp, Vingroup tiếp
tục đẩy mạnh sản xuất ô tô và sản xuất các
sản phẩm điện thông minh - gia dụng. Dự
kiến ngay cuối năm nay, Vingroup sẽ cho ra
mắt điện thoại và tivi thông minh. Đồng thời
với việc sản xuất, Vingroup sẽ đẩy mạnh xuất
khẩu các sản phẩm công nghiệp ra thị trường
thế giới.
Với mảng công nghệ, Vingroup xác
định nhiều mũi nhọn để có thể thúc đẩy đầu
tư mạnh mẽ, trong đó có ba điểm chính. Đầu
tiên là tập trung đầu tư đội ngũ nhân sự, hạ
tầng để phát triển sản xuất phần mềm với việc
thành lập Công ty VinTech, tách ra từ Công
ty VinSmart. Công ty VinTech sẽ tập trung
nghiên cứu trí tuệ nhân tạo (AI), sản xuất các
phần mềm và nghiên cứu phát triển các
nguyên vật liệu thế hệ mới. Công ty đã thành
lập hai Viện nghiên cứu là Viện Nghiên cứu
Dữ liệu lớn và Viện Nghiên cứu công nghệ
cao Vin Hi-Tech (VHT).
Mũi nhọn thứ hai là tập trung đầu tư
trung tâm nghiên cứu, phát triển, ứng dụng
công nghệ cao VinTech City theo mô hình
của thung lũng Silicon tại Hà Nội. Mục tiêu
của VinTech City là tạo ra hệ sinh thái toàn
diện tương tự như thung lũng Silicon để
phục vụ cho các công ty khởi nghiệp về
công nghệ thông tin, bao gồm từ các khu
văn phòng làm việc tới chỗ ăn ở... và các
công ty dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp đi kèm.
Mũi nhọn thứ ba là lập Quỹ Đầu tư
về công nghệ với nhiệm vụ tìm kiếm các cơ
hội hợp tác, phát triển những dự án công
nghệ - trí tuệ nhân tạo có khả năng ứng
dụng cao trên phạm vi toàn cầu. Ngoài việc
được hỗ trợ về tài chính, các đối tác của
Vingroup sẽ được sử dụng hệ sinh thái của
Tập đoàn để tổ chức thực nghiệm và thương
mại hóa các sản phẩm.
Ngoài ra, VinTech còn lập Quỹ Hỗ
trợ Nghiên cứu Khoa học - Công nghệ ứng
dụng nhằm hỗ trợ các dự án nghiên cứu của
giảng viên và sinh viên trong nước. Quỹ
được kỳ vọng sẽ thúc đẩy phong trào nghiên
cứu và thực nghiệm các nghiên cứu khoa
học công nghệ, góp phần nâng cao năng lực
của các kỹ sư khi tốt nghiệp. Bên cạnh đó,
để góp phần thúc đẩy sự đi lên của nền công
nghệ và công nghiệp Việt Nam - Quỹ cũng
sẽ hỗ trợ cho Trung tâm đổi mới sáng tạo
quốc gia và Mạng lưới đổi mới sáng tạo
Việt Nam.
Phát biểu tại sự kiện, ông Nguyễn Việt
Quang, Phó Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc
Tập đoàn Vingroup khẳng định: “Trải qua 25
năm đầu tư và tích lũy, đến nay, Vingroup đã
hội tụ đủ các điều kiện để gia nhập lĩnh vực
công nghệ - công nghiệp. Việc đầu tư mạnh
mẽ vào hai mảng trên không chỉ giúp
Vingroup phát triển lên một tầm cao mới mà
còn góp phần tạo ra một hệ sinh thái về công
nghệ - công nghiệp, góp phần đưa Việt Nam
lên vị trí xứng đáng trên bản đồ công nghệ -
công nghiệp thế giới. Chúng tôi coi đó là sứ
mệnh của mình và sẽ nỗ lực hết sức để hiện
thực hóa khát vọng này”.
Với lợi thế về tiềm lực tài chính, uy
tín quốc tế, năng lực triển khai hiệu quả và
hệ sinh thái đa dạng, Vingroup đang hội tụ
những điều kiện cần và đủ để trở thành một
Tập đoàn Công nghệ - Công nghiệp - Dịch
vụ trong tương lai.
Trong khuôn khổ của Lễ ký kết Vingroup
đã chính thức ra mắt:
- Công ty Phát triển Công nghệ VinTech:
VinTech được tách từ Công ty VinSmart.
VinTech sẽ chủ động nghiên cứu, mua bản
quyền các sáng chế về tổ chức thực nghiệm
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 35/40
tại Việt Nam nhằm nhanh chóng đưa các
sáng chế, công nghệ này vào sản xuất và
cuộc sống. Đồng thời, VinTech sẽ thành lập
các Trung tâm nghiên cứu, thực nghiệm và
ứng dụng trí tuệ nhân tạo, tự động hóa và
nguyên liệu thế hệ mới.
- Viện Nghiên cứu Dữ liệu lớn: Nghiên cứu
các lĩnh vực mũi nhọn trong ngành Dữ liệu
lớn như học máy, trí tuệ nhân tạo; tập trung
phát triển khoa học ứng dụng. Song song
với đó, Viện kết hợp giảng dạy và đào tạo
trí thức cho ngành nghiên cứu Dữ liệu lớn
còn đang rất sơ khai tại Việt Nam. Viện do
Tiến sĩ Vũ Hà Văn hiện là Giáo sư trường
Đại học Yale, Mỹ làm Giám đốc khoa học.
- Viện Nghiên cứu Công nghệ cao Vin Hi-
Tech (VHT): Viện Công nghệ đa ngành
chuyên về nghiên cứu ứng dụng, chuyển
giao các công nghệ cao thuộc các lĩnh vực
năng lượng mới; vật liệu mới; công nghệ
sinh học, môi trường; cơ điện tử và các
công nghệ liên quan đến Công nghệ - Công
nghiệp cao. Viện do GS.TSKH Nguyễn
Quốc Sỹ làm Viện trưởng.
- Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Khoa học – Công
nghệ Ứng dụng: tài trợ cho các dự án
nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa
học máy tính, trí tuệ nhân tạo, robotics, tự
động hóa, công nghệ nano, năng lượng tái
tạo, nguyên liệu thế hệ mới… với định
hướng đưa ra các sản phẩm, các giải pháp
công nghệ mang lại lợi ích thiết thực cho
cộng đồng. Quỹ cũng sẽ tài trợ học bổng
cho các sinh viên tài năng của Việt Nam
trong lĩnh vực Kĩ thuật Công nghệ để nuôi
dưỡng các nhân tài.
Nguồn: Minh Tuấn, vietnamnet.vn,
22/08/2018
Trở về đầu trang
**************
Bình Định xây dựng Công viên sáng tạo
Công viên sáng tạo TMA được xây dựng bên cạnh ICISE Quy Nhơn.
Ngày 28/8/2018, tại thung lũng Quy
Hòa (TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định), Công
ty TMA (TPHCM) đã khởi công xây dựng
Công viên sáng tạo TMA. Công viên sáng
tạo TMA có tổng vốn đầu tư khoảng 8 triệu
USD, dự kiến đi vào hoạt động sau 3 năm
xây dựng. Sau 15 năm, công viên sẽ có
khoảng 3.000 lao động tri thức, chất lượng
cao. TMA là công ty phần mềm đầu tiên đầu
tư vào thung lũng Quy Hòa - nơi đang được
định hướng trở thành một đô thị khoa học
đầu tiên của Việt Nam.
Công viên sáng tạo TMA là một công
viên phần mềm, được xây dựng trên diện
tích 15 ha trong khu vực thung lũng Quy
Hòa, bên cạnh Trung tâm quốc tế Khoa học
và Giáo dục liên ngành (ICISE) Quy Nhơn,
nằm dọc trục Đại lộ khoa học nối từ Quốc
lộ 1D vào ICISE Quy Nhơn. Công viên sẽ
được đầu tư xây dựng các công trình chính
như: Trung tâm Sản xuất và xuất khẩu phần
mềm, Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng,
Trung tâm Khoa học dữ liệu, Trung tâm Trí
tuệ nhân tạo, Trung tâm Ứng dụng internet
vạn vật… ICISE Quy Nhơn đi vào hoạt
động từ tháng 8/2013 và đến nay đã đón tiếp
hơn 3.500 nhà khoa học đến từ 35 quốc gia
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 36/40
trên thế giới, trong đó có 12 giáo sư từng
nhận giải Nobel, 2 giáo sư nhận giải toán
học Fields. Mỗi năm, trung tâm này tổ chức
nhiều hội nghị, hội thảo khoa học, tạo điều
kiện cho nhiều nhà khoa học Việt Nam và
thế giới đến học tập, nghiên cứu. ICISE Quy
Nhơn đang tiếp tục hoàn thiện Tổ hợp
Không gian khoa học với các công trình mô
hình vũ trụ, đài quan sát thiên văn phổ
thông, nhà khám phá khoa học… góp phần
tạo nên thung lũng khoa học Quy Hòa.
Việc sớm đầu tư vào thung lũng Quy
Hòa của TMA sẽ thúc đẩy nhiều đơn vị
phần mềm khác về với Bình Định. Đây sẽ là
cú huých giúp Bình Định tiến bước vào
cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Đầu tư, sản
xuất và kinh doanh phần mềm, sản phẩm trí
tuệ nhân tạo là hướng đi đúng và cần thiết
của Bình Định trong tương lai.
Nguồn: vista.gov.vn, 29/08/2018
Trở về đầu trang
**************
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
TT Tên đề tài/Dự án Chủ nhiệm/CQ chủ trì
1 Thiết kế chế tạo thiết bị phụ trợ in kỹ thuật số trong
công nghiệp.
TS. Nguyễn Thanh Hải. -
Trường Đại học Sư phạm
Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh
2 Phát triển Web tương tác thông minh cung cấp thông
tin về bệnh thường gặp – giai đoạn 2.
TS. Dương Trọng Hải -
Trường Đại học Nguyễn
Tất Thành
3 Nghiên cứu và ứng dụng khả năng phân hủy thuốc
trừ cỏ glyphosate bởi một số loài nấm mùn trắng.
TS. Lương Bảo Uyên -
Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên thành phố Hồ
Chí Minh.
4
Xây dựng hệ thống thu thập dữ liệu và cảnh báo giao
thông sử dụng điện thoại di động thông minh dựa
trên mô hình crowdsourcing.
PGS. TS. Phạm Trần Vũ -
Trường Đại học Bách Khoa
thành phố Hồ Chí Minh.
5 Nghiên cứu, chế tạo lắp đặt hệ thống cứu hỏa tự động
lên xe tăng thiết giáp.
ThS. Lê Trường An -
Trường Đại học Trần Đại
Nghĩa
6 Giáo sư Tôn Thất Dương Kỳ, bản lĩnh yêu nước và
sự nghiệp khoa học.
PGS. TS. Mạc Đường - TT
NC Đô thị và phát triển
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 37/40
7
Các yếu tố tác động đến sự hài lòng và ý định quay
trở lại của du khách quốc tế với điểm đến du lịch
thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp.
TS. Mai Ngọc Khương -
Trường Đại học Quốc tế
Trở về đầu trang
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
TT Ngày Tên đề tài/ Dự án
Chủ nhiệm/ CQ chủ
trì
Ngành Kinh tế
1 31/07/2018 Một số giải pháp tăng cường giám sát việc kê khai tài
sản của cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý.
Ông Nguyễn Văn
Vinh Ủy ban Kiểm
tra Trung ương
2 15/08/2018 Kế thừa kết quả thanh tra, kiểm toán và những vấn đề
đặt ra.
Ths. Trần Tuấn
Mẫn - Viện Chiến
lược và Khoa học
Thanh tra
3 30/08/2018
Hoàn thiện hoạt động Marketing địa phương nhằm
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh
Quảng Nam và xác định cơ hội với công ty cổ phần
An Khởi Phát.
TS Phạm Hùng
Cường - Trường
Đại học Ngoại
thương - Cơ sở II
tại TP. Hồ Chí
Minh
Ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật
4 03/08/2018 Nghiên cứu và chế tạo máy lọc cặn xăng dầu theo
nguyên lý thủy động lực học.
TS. Nguyễn Hồng
Sơn - Trung tâm Cơ
khí, Trường Đại học
Công nghiệp Hà
Nội
5 03/08/2018
Nghiên cứu xây dựng phần mềm quản lý kho giáo
trình tại Trung tâm Thông tin Thư viện Trường Đại
học Công nghiệp Hà Nội.
ThS. Nguyễn Ngọc
Anh - Trung tâm
Thông tin Thư viện,
Trường Đại học
Công nghiệp Hà
Nội
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 38/40
6 07/08/2018 Xây dựng và khảo nghiệm quy trình quản lý tổng hợp
bệnh héo rũ và thối gốc trên cây mè.
PGS. TS Nguyễn
Thị Thu Nga -
Trường Đại học
Cần Thơ
7 17/08/2018
Nghiên cứu tổng quan và đề xuất nhiệm vụ xây dựng
công trình dân dụng và hạ tầng kỹ thuật ven biển và
trên đảo giai đoạn 2016 – 2025.
TS. Đinh Quốc Dân
- Viện Khoa học
công nghệ xây dựng
(Viện IBST, thuộc
Bộ Xây dựng)
8 21/08/2018
Giải phương trình vi phân đạo hàm riêng của dòng
chảy một chiều khi có xáo trộn ở đáy lòng dẫn bằng
phương pháp số và lập phương trình trên matlab.
Ths. Huỳnh Phúc
Hậu - Trường Cao
đẳng Giao thông
Vận tải II
9 23/08/2018
Nghiên cứu nội địa hóa tủ điều khiển trung tâm, các
thiết bị đo O2, CO2, H2, hạ áp nhiệt độ và tốc độ gió
nhằm thay thế thiết bị nhập ngoại của Ba Lan đang sử
dụng tại các mỏ hầm lò Quảng Ninh.
Tập đoàn Công
nghiệp Than -
Khoáng sản Việt
Nam
10 23/08/2018
Nghiên cứu, đề xuất giải pháp giảm thiểu diện tích
chôn lấp thông qua phát triển công nghệ xử lý rác thải
quy mô nhỏ - ứng dụng cho các khu dân cư ven đô.
GS.TS Nguyễn Thị
Kim Thái - Viện
Khoa học kỹ thuật
và môi trường ,
Ttrường Đại học
Xây dựng Hà Nội
11 24/08/2018
Sự phụ thuộc của các tham số nhiệt động và các
cumulant vào tỷ lệ pha tạp, nhiệt độ và áp suất của
các tinh thể có cấu trúc lập phương.
PGS.TS Nguyễn Bá
Đức - Trường Đại
học Tân Trào
12 28/08/2018
Nghiên cứu công nghệ bảo quản khoai lang tươi và
chế biến đa dạng sản phẩm từ khoai lang ở tỉnh
Vĩnh Long.
PGS. TS. Nhan
Minh Trí- Trường
Đại học Cần Thơ
13 28/08/2018 Xây dựng mô hình trồng nấm bào ngư và nấm linh
chi tại thị trấn Hai Riêng, huyện Sông Hinh.
Ông Nguyễn Khắc
Sự, Phòng NN-
PTNT huyện Sông
Hinh, tỉnh Phú Yên
14 29/08/2018
Nghiên cứu giải pháp tổng hợp để kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước hồ chứa nhằm mục đích cấp nước an toàn
cho đô thị và khu dân cư.
PGS.TS Trần Đức
Hạ - Viện nghiên
cứu cấp thoát nước
Việt Nam (Hội Cấp
thoát nước Việt
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 09/2018 39/40
Nam)
Ngành Giáo dục đào tạo
15 24/08/2018
Ứng dụng các phần mềm Adobe presenter và
crocodile physics vào soạn bài giảng E – Learning
trong dạy học Vật lý đại cương tại Trường Đại học
Công nghiệp Việt Trì.
ThS. Nguyễn Thanh
Hải - Trường Đại
học Công nghiệp
Việt Trì
16 30/08/2018
Xây dựng chương trình đào tạo hệ chính quy tại Học
viện Chính trị Công an nhân dân gắn với thực tiễn xây
dựng lực lượng Công an nhân dân trong tình hình
hiện nay.
Thượng tá, TS Tống
Văn Khuông - Học
viện Chính trị Công
an nhân dân
17 28/08/2018
Các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh lớp 12 tỉnh Thiên Thiên Huế và sự phù hợp
của ngành chọn học với đặc điểm tính cách.
ThS. Nguyễn Xuân
Trung, ThS.
Nguyễn Đăng
Thông - Trường
Cao đẳng Giao
thông Huế
Ngành văn hóa xã hội
18 02/08/2018 Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt
động của đạo Cao Đài.
TS. Đinh Quang
Tiến - Ban Tôn giáo
Chính Phủ
19 15/08/2018
Thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn
chặn tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang.
PGS.TS Nguyễn
Giang Nam - Công
an tỉnh Kiên Giang
20 15/08/2018 Giải pháp giảm nghèo bền vững theo hướng tiếp cận
đa chiều tại tỉnh Thái Nguyên.
TS. Bùi Đình Hòa -
Trường Đại học
Nông Lâm
21 16/08/2018 Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Nông (1930-2015).
Tỉnh ủy Đắk Nông
22 20/08/2018
Nghiên cứu phát triển dịch vụ du lịch và nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngành du lịch huyện Mộc
Châu và Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Ths Lê Thị Ngọc
Lan – Trường Đại
học Ngoại Thương
23 23/08/2018
Nghiên cứu mức độ hài lòng của tổ chức, cá nhân về
chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công của các
cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập tại
tỉnh Cao Bằng.
Sở Nội vụ tỉnh Cao
Bằng