18
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG BÀI THẢO LUẬN Môn: Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam CHỦ ĐỀ: “NHỮNG THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚIGiáo viên hướng dẫn: Trần Thùy Linh Nhóm thực hiện: Nguyễn Kim Anh Nguyễn Đăng Mạnh Lớp: N08. TL2 1

Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

  • Upload
    bao-boi

  • View
    723

  • Download
    3

Embed Size (px)

DESCRIPTION

 

Citation preview

Page 1: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

BÀI THẢO LUẬNMôn: Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam

CHỦ ĐỀ:

“NHỮNG THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI”

Giáo viên hướng dẫn: Trần Thùy Linh

Nhóm thực hiện: Nguyễn Kim Anh

Nguyễn Đăng Mạnh

Lớp: N08. TL2

Thái Nguyên, ngày 21 tháng 10 năm 2012

I- Tóm tắt nội dụng chính:

1

Page 2: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

o Kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa

o Kết quả

o Ý nghĩa

o Hạn chế và nguyên nhân

o Thành tựu đạt được

II- Thành quả đạt được của kinh tế thị trường định hướng

XHCN ở Việt Nam thời kì đổi mới

2.1. Kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó còn tồn tại

khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Vì vậy có thể và cần

thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là

“một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa

dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của

chủ nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được

sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ

sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn

tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt quan hệ sản

xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân

giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ,

nhân ái, có văn hóa, có kỉ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều kiện cho

mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.

2.2. Kết quả

+ Phá thế bị bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi

trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

+ Giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các

nước liên quan

2

Page 3: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

+ Mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá

(thiết lập, mở rộng quan hệ với các nước, tham gia tích cực tại Liên hợp

quốc...)

+ Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế (tham gia AFTA, APEC, WTO)

+ Thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học

công nghệ và kỹ năng quản lý

+ Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào

môi trường cạnh tranh

 2.3. Ý nghĩa

Kết quả đối ngoại đạt được có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng

Việt Nam :

- Đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước

sau chiến tranh.

- Việc Việt Nam trở thành thành viên của các tổ chức đã tranh thủ được

sự ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế; đồng thời, phát huy

được vai trò của nước ta trên trường quốc tế.

- Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước ASEAN đã tạo thuận

lợi để triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau nhằm xây dựng

Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác.    

- Ý nghĩa.

+ Kết hợp nội lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh tổng hợp góp

phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn

+ Giữ vững, củng cố độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa

+ Nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế

2.4. Hạn chế và nguyên nhân

Quan hệ quốc tế gặp khó khăn, trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây, cô lập,

trong đó đặc biệt là từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, lấy cớ sự kiện

Campuchia, các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm

vận Việt Nam.

3

Page 4: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

- Ta chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và chạy đua

kinh tế trên thế giới; do đó, đã không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi

trong quan hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế

sau chiến tranh; không kịp thời đổi mới quan hệ đối ngoại cho phù hợp với

tình hình.

- Nguyên nhân cơ bản là do chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động

giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan.

- Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn chúng ta còn lúng túng, bị

động...

- Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu

mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; luật pháp, chính sách

quản lý kinh tế - thương mại chưa hoàn chỉnh

- Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế

quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết

- Doanh nghiệp nước ta còn yếu cả về sản xuất, quản lý và khả năng cạnh

tranh

- Đội ngũ cán bộ công tác đối ngoại còn thiếu và yếu; công tác tổ chức chỉ

đạo chưa sát và chưa kịp thời.

2.5. Thành tựu

Đổi mới ở Việt Nam là quá trình thử nghiệm, trong quá trình này cái

mới và cái cũ xen kẽ nhau, cái cũ không mất đi ngay mà lùi dần, có lúc, có

nơi còn chiếm ưu thế hơn cái mới, nhưng xu hướng chung là cái mới dần dần

được khẳng định cad đưa tới thành công.

Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là luôn luôn lấy sự ổn

định chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới,

phát triển và chính sự phát triển đó sẽ tạo ra sự ổn định mới vững chắc hơn.

Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và

có ý nghĩa lịch sử.

4

Page 5: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

  - Quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa được

tăng cường, đặc biệt là với Liên Xô. Ngày 29/6/1978, Việt Nam gia nhập Hội

đồng tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn

bán giữa Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối

SEV đều tăng. Ngày 31/11/1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác

toàn diện với Liên Xô.

- Từ năm 1975 đến 1977, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với

23 nước; ngày 15/9/1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ

Tiền tệ quốc tế (IMF); ngày 21/9/1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức

Ngân hàng thế giới (WB); ngày 23/9/1976, gia nhập Ngân hàng phát triển

châu Á (ADB); ngày 20/9/1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc;

tham gia tích cực các hoạt động trong phong trào không liên kết,…Từ năm

1977, một số nước tư bản mở quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.

- Cuối năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ

chức ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam .

Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm,

khắc phục được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm

phát 12% (năm 1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số; khắc

phục được nạn thiếu lương thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên

tục, đặc biệt là sản xuất lương thực, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu

gạo thứ hai, thứ ba trên thế giới.

Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước nhằm mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước

công nghiệp theo hướng hiện đại.

Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú ý

đến việc thực hiện chính sách công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Nhờ đó,

đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể.

Tính riêng trong 5 năm (1993-1998), thu nhập bình quân đầu người của Việt

Nam đã tăng 2,45 lần.

5

Page 6: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

Một đặc điểm khác đáng chú ý nữa là sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã

xác định đổi mới kinh tế là trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh

tế. Nhờ định hướng đúng đắn mà những yêu cầu cấp thiết của nhân dân ta về

sản xuất và đời sống được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của nhân dân đối

với sự nghiệp đổi mới, tự nó trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới

giành nhiều thắng lợi.

Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, xã hội,

văn hóa với mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng

và phát huy đại đoàn kết toàn dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu

tinh hoa văn hóa nhân loại. Khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo

được Nhà nước hết sức chăm lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa học -

công nghệ và giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong những

năm vừa qua, khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo đạt được nhiều thành

tựu quan trọng. Năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu

học, hiện nay chương trình đào tạo sau đại học với hai học vị thạc sĩ và tiến sĩ

đang được thực hiện ở hầu hết các ngành học thuộc khoa học tự nhiên và

công nghệ cũng như khoa học xã hội và nhân văn.

Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng quan

hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán

đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các

quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trên cơ sở

đường lối đó, Việt Nam đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính

sách bao vây cấm vận, cô lập Việt Nam của các thế lực thù địch, tạo được môi

trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất

nước.

Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp

hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)

gồm 10 nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập.

6

Page 7: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

Tháng 10-2004, Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của

Việt Nam.

Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á

- Thái Bình Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ

và châu Đại Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.

Chính trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng mở

rộng xuất khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động,

tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt

Nam đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung bốn năm

từ năm 2001 đến năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc

độ tăng xuất khẩu bình quân bốn năm khoảng 14,6%. Kim ngạch xuất khẩu

bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 305 USD/người.

Đổi mới ở Việt Nam đã kết hợp được nội lực và ngoại lực. Tháng 12-

1987, Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ thời gian

ấy đến nay, đất nước ta đã thu được hàng chục tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài

với hàng nghìn dự án, trong số đó đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD. Có thể nói

rằng, nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữ một vị trí quan trọng trong nền

kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ngoài ra, Việt Nam còn tranh thủ được

nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng cao.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận với

những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh

mẽ trên thế giới. Đồng thời, thông qua các dự án hợp tác với nước ngoài, các doanh

nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý tiên tiến.

Những thành tựu đổi mới trên bắt nguồn từ đổi mới tư duy. Việc đổi

mới tư duy mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) của Đảng

Cộng sản Việt Nam đề ra rất khái quát, nhưng hết sức cơ bản và có ý nghĩa

quan trọng cho việc tiếp tục đổi mới về sau. Khi công cuộc đổi mới được triển

khai và đi vào chiều sâu thì đổi mới tư duy càng được đẩy mạnh. Bất cứ một

sự ngưng trệ nào trong tư duy cũng đều làm ngưng trệ sự đổi mới trên tất cả

7

Page 8: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn đổi mới về kinh tế, chính trị, xã

hội vừa là kết quả đổi mới tư duy, lại vừa đặt ra những yêu cầu mới cho việc

tiếp tục đổi mới tư duy ở trình độ cao hơn.

Thành tựu đổi mới ở Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trên một số vấn

đề sau đây:

Thứ nhất, chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có

hai thành phần kinh tế (nhà nước và tập thể) sang mô hình mới - kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần (nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản

nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ

đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa

dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu

quả kinh tế là chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất. Đây là đổi mới căn

bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp

giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó

đã mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã hội, giải phóng sức sản xuất. Nhân

tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất là con người: Người lao động

làm chủ, được thúc đẩy bởi quy luật lợi ích, trong đó lợi ích cá nhân của

người lao động là động lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện phát triển lợi ích

của tập thể và của toàn xã hội.

Thứ hai, từ mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập

trung chuyển sang mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm

nổi bật trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung

quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường, có sự

quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới có tính

chất đột phá là từ chỗ về cơ bản không sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ,

chuyển sang coi thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch.

Còn kế hoạch mang tính định hướng, điều tiết ở tầm vĩ mô, thị trường có

vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động

và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh.

8

Page 9: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

Cơ chế thị trường thừa nhận cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất phát triển,

nhưng đồng thời dẫn tới sự chênh lệch, sự phân hóa giàu nghèo. Đây là mặt

trái của cơ chế thị trường.

Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế

thị trường đẩy sự phân hóa giàu nghèo vượt qua giới hạn cho phép. Việt Nam

đã giải quyết vấn đề này bằng chính sách xóa đói, giảm nghèo được thực hiện

tương đối hiệu quả.

Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh

nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức

tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, đại diện của nhiều tổ chức và nhà tài trợ

quốc tế đã đánh giá cao những thành tựu của Việt Nam trong công cuộc xóa

đói, giảm nghèo. Việt Nam là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực

Đông Nam Á.

Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với

phương thức quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh

vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp,

kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới trong lĩnh

vực này đã góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với tăng

trưởng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội, nảy sinh ra những nhân tố mới, động

lực mới, thúc đẩy công cuộc đổi mới ở Việt Nam giành được nhiều thành quả.

Hệ thống chính trị ở Việt Nam gồm ba phần cấu thành: Đảng, Nhà

nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Nói đổi mới hệ thống chính trị thực

chất là đổi mới tổ chức, cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ chức

chính trị đó. Cụ thể là:

- Đảng Cộng sản Việt Nam “lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là

một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự

giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư

tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng

9

Page 10: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết

thống nhất trong Đảng... Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh

chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè

phái”1.

- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thể hiện và thực

hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, định ra pháp luật, tổ chức quản lý mọi

mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, kế hoạch và các chính sách cụ thể. Lắng

nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, nhờ vậy đã có cơ

chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và chống tệ nạn quan liêu, tham

nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền và lợi ích của nhân dân.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện

của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá

nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn

giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng

trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam. “Các đoàn thể nhân dân, tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác

định, vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích

thiết thực; vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên,

vừa tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội”2.

Thành tựu đạt được trong việc thực hiện đổi mới hệ thống chính trị là

đáng kể. Đổi mới đã tạo ra bầu không khí dân chủ và cởi mở trong xã hội, đã

thiết lập được các cơ chế và chính sách để thực hiện quyền dân chủ của nhân

dân. Tất cả những điều vừa trình bày trên đây đã góp phần quan trọng vào

việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới

toàn diện đất nước.

10

Page 11: Trường đại học công nghệ thông tin và truyền thông

Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có

quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội

nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

III- Kết luận- Qua hơn 25 năm đổi mới, nước ta chuyển đổi thành công từ nền kinh tế

kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp, sang thể chế kinh tế thị trường định

hướng XHCN, giải quyết khá hài hoà mối quan hệ qua lại giữa ổn định và

phát triển.

Đường lối đổi mưói của Đảng đã được luật hoá, tạo hành lang pháp lý

phù hợp cho sự hình thành và vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN.

- Từ chế độ sở hữu toàn dân một thành phần công hữu với hai hình thức

quốc doanh và tập thể, chuyển sang hình thành đa sở hữu, nhiều thành phần

đan xen, hỗn hợp, trong đó sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất chủ yếu và

kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây chính là quá trình dân chủ hoá kinh

tế, tạo điều kiện cho dân chủ hoá xã hội, tạo ra động lực và điều kiện thuận lợi

cho giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng trong và ngoài nước hướng

vào phát triển kinh tế - xã hội.

- Các loại hình thị trường cơ bản đã ra đời, từng bước phát triển, thống

nhất trong cả nước và gắn với thị trường quốc tế. Thay cho cơ chế kế hoạch

hoá tập trung, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước hình thành.

Doanh nghiệp được tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh.

Nhà nước chuyển sang quản lý kinh tế bằng luật pháp, chính sách, quy hoạch,

kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ đìêu tiết vĩ mô khác.

- Đạt nhiều kết quả tích cực trong việc gắn kết phát triển kinh tế với giải

quyết các vấn đề xã hội.

Sự hình thành và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định

hướng XHCN đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, đưa đất nước

thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH -

HĐH.

11