Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
UBND THỊ XÃ VĨNH CHÂU
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
KỶ YẾU
HỘI THẢO CHUYÊN ĐỀ
“NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC
MÔN VẬT LÝ Ở CÁC TRƯỜNG THCS”
Vĩnh Châu, ngày 10 tháng 4 năm 2018
MỤC LỤC
1. Thực trạng dạy và học môn vật lý
THCS.
Ngô Kiều My
Trường THCS Vĩnh Phước 1 1
2.
Vận dụng một số bước của quy trình
dạy học phân môn vật lý thuộc bộ
môn khoa học tự nhiên 8 theo mô
hình trường học mới (vnen) vào
giảng dạy chương trình hiện hành.
Phan Thanh Quân
Trường THCS Lạc Hòa 7
3. Ứng dụng CNTT vào giảng dạy vật
lý ở trường THCS.
Nguyễn Minh Thống
Trường THCS Vĩnh Tân 13
4.
Một số biện pháp giúp học sinh yếu,
kém học tốt môn vật lí ở trường
THCS.
Đặng Gia Lương
Trường THCS Phường 2 19
5.
Thực trạng và giải pháp nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả HĐ DH
TNST trong giảng dạy môn vật lí ở
trường THCS.
Lê Thủy Tiên
Trường THCS Hòa Đông 27
6.
Một số kinh nghiệm dạy học theo
phương pháp nghiên cứu bài học ở
môn vật lý.
Tô Hữu Hạnh
Trường THCS Vĩnh Hiệp 31
7. Dạy học theo hướng tích hợp liên
môn trong vật lí.
Lê Thị Thúy Hằng
Trường THCS Vĩnh Hải 37
8.
Một số giải pháp nâng cao chất
lượng môn vật lý cho học sinh vùng
dân tộc thông qua phương pháp dạy
học “tích hợp giáo dục”.
Nguyễn Thành Thơ
Trường THCS&THPT Dân tộc Nội trú 47
9. Đổi mới kiểm tra đánh giá vật lý
trung học cơ sở.
Phan Thanh Diễm
Trường THCS&THPT Lai Hòa 54
10.
Một số biện pháp giúp học sinh
giải tốt bài tập định lượng phần “cơ
học” môn vật lí 8.
Kiêm Hươl
PHT Trường PTDTNT THCS
Huyện Kế Sách
61
11.
Nâng cao kết quả giải bài tập mạch
điện mắc hỗn hợp cho đội tuyển học
sinh giỏi môn vật lí 9 bằng định luật
về nút và mắc mạng.
Dương Văn Vũ
Trường THCS Mỹ Phước
huyện Mỹ Tú
73
12.
Một số kinh nghiệm giảng dạy môn
vật lý 6 theo định hướng phát triển
năng lực học sinh.
Thạch Phúc
Trường THCS Lạc Hòa 82
13.
Một số kinh nghiệm giảng dạy môn
vật lý theo hướng phát triển năng lực
học sinh.
Tổ Lý – Tin – Công nghệ
Trường THCS&THPT Khánh Hòa 92
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
1
THAM LUẬN
THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC MÔN VẬT LÝ THCS
Ngô Kiều My
Trường THCS Vĩnh Phước 1
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vật lý là một môn khoa học thực nghiệm, là một trong những môn học khó
đối với học sinh nông thôn, vùng sâu, vùng dân tộc. Đặc trưng của môn Vật lý là
nó luôn có sự liên hệ thực tiễn. Do đó chỉ có phương pháp thực nghiệm và liên
hệ thực tế mới giúp học sinh hiểu rõ và sâu vấn đề. Nếu giáo viên không chuẩn
bị bài giảng chu đáo, không có phương pháp giảng dạy phù hợp, không có thiết
bị, dụng cụ thực hành thí nghiệm, không có hình ảnh trực quan sinh động… thì
dễ làm cho học sinh thụ động, khó tiếp thu, không thích học dẫn đến chán nản,
chất lượng không cao. Theo thống kê hàng năm chất lượng môn vật lý thường
rất thấp so với các môn học khác. Đặc biệt, đối với học sinh vùng sâu vùng xa
nơi có đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số như tại thị xã Vĩnh Châu thì việc dạy
và học tốt môn Vật lý còn gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt.
II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
- Cơ sở vật chất ở nhiều trường THCS còn hạn chế, có khoảng 70% trường
còn thiếu phòng thí nghiệm, phương tiện thiết bị, đồ dùng dạy học, một số
trường chưa có, hoặc nếu có thì dụng cụ thí nghiệm cũng không đủ số lượng,
thiếu độ chính xác do cũ kỹ, xuống cấp.
- Môn Vật lý khối lượng kiến thức nhiều (cơ, nhiệt, quang, điện), khô khan,
nặng về lý thuyết, thời gian thực hành ít khiến HS khó tiếp cận và chưa hứng thú
học tập; rất ít tiết bài tập.
- Công tác quản lý các tiết dạy thí nghiệm thực hành chưa được quan tâm
sâu xác, lãnh đạo đơn vị, giáo viên bộ môn còn chấp nhận những khó khăn hiện
có về thiết bị, đồ dùng thí nghiệm nên chưa tăng cường thiết bị, đồ dùng dạy học
có thể tự trang bị hoặc tự làm.
* Về phía giáo viên
- Công việc giáo viên hiện nay ngoài việc giảng dạy chính còn kiêm nhiều
công việc khác như thường xuyên đến gia đình vận động HS nghỉ học vào học
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
2
lại, tổ chức bồi dưỡng HS giỏi, phụ đạo học sinh yếu, kém; điều tra cập nhật đối
tượng HS nhận gạo theo Nghị định 116 của Chính phủ; Giáo viên Vật lý mất
nhiều thời gian để chuẩn bị cho tiết thực hành thí nghiệm… nên chưa có thời
gian đầu tư, nghiên cứu sâu để nâng cao chất lượng.
- Một số GV chưa tích cực đầu tư, nghiên cứu ứng dụng CNTT cho việc
dạy học, chưa thật sự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng
lực HS.
- Một số phụ huynh ít quan tâm việc học của con em, nhiều công việc dồn
dập, áp lực với GV, đôi khi còn phải tự làm đồ dùng dạy học nên dễ sinh tư
tưởng chán nản, những GV thiếu “cái tâm” họ sẽ không tích cực, buông xuôi,
dạy chay… để cho bớt khổ.
* Về phía học sinh
- Đa số là HS dân tộc, nhiều hoản cảnh khó khăn, sĩ số trong một lớp quá
đông (trên 40 học sinh), phòng học cũ, GV khó khăn trong việc bao quát hết tất
cả HS trong lớp; Khả năng tư duy logic của HS vùng sâu, vùng xa đặc biệt là
dân tộc thiểu số rất hạn chế, đa số các em gặp nhiều vấn đề trong việc tính toán
không chỉ riêng môn Vật lý mà còn ở các môn tự nhiên khác.
- Do hoàn cảnh khó khăn phải phụ giúp gia đình kiếm sống hàng ngày nên
một số em phải đi mò cua, lặt rể củ hành theo mùa vụ, các em thường xuyên
nghỉ luân phiên… nên ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy và học môn vật lý.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
3
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Để khơi dậy niềm đam mê của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học
môn vật lý, tôi xin đưa ra một số giải pháp khắc phục các hạn chế trên như sau.
1. Thay đổi nhận thức học tập của học sinh, đổi mới phương pháp dạy
học tích cực của GV:
Thị xã Vĩnh Châu, số học sinh dân tộc chiếm trên 70%, cuộc sống người
dân còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học chưa đáp ứng nhu cầu
dạy-học, chất lượng đầu vào thấp nhất, Vật lý là môn học khó nên các em HS
chưa xác định đúng đắn về động cơ, thái độ học tập. Một khi đã không thích học
thì sẽ thích chơi nên có nhiều trường hợp nghiện game, bỏ học giữa chừng. Bên
cạnh đó, một số GV chưa nhiệt tình trong giảng dạy do nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân lớn là thiếu thiết bị, dụng cụ thí nghiệm, thiếu đầu tư
trong soạn giảng… đa phần dạy chay nên dẫn đến HS không hứng thú học tập,
chất lượng không cao. … Chính vì thế nhà trường phải thường xuyên tăng
cường công tác tuyên truyền ý nghĩa mục đích của việc học tập cho HS cũng
như GV để thay đổi nhận thức học tập của học sinh, đổi mới phương pháp dạy
học tích cực của GV.
Ngoài ra, Nhà trường cần quan tâm hỗ trợ kịp thời những khó khăn về đồ
dùng thí nghiệm, thiết bị dạy học để GV an tâm giảng dạy, bên cạnh đó cần có
cơ chế quản lý chặt chẽ, kiểm tra, đánh giá, uốn nắn kịp thời những GV có nhận
thức chưa đúng đắn, không có tinh thần trách nhiệm cũng như tích cực trong dạy
học; Bản thân GV thì phải tích cực đầu tư, nghiên cứu, đổi mới phương pháp
dạy học phù hợp nhằm thu hút HS hứng thú học tập để nâng cao chất lượng môn
vật lý.
2. Tăng cường sử dụng và làm thêm đồ dùng, thiết bị dạy học:
Vật lý là môn khoa học thực nghiệm, một số bài phải làm thí nghiệm để có
kết quả, phải sử dụng mô hình trực quan để HS dễ thấy, dễ tiếp thu, không thể
dạy chay, hoặc chỉ dạy lý thuyết thì HS sẽ tiếp khó thu, khó hiểu. Để dạy vật lý
có hiểu quả cần phải tạo hứng thú học tập cho HS. Do đó nhà trường cần phải
trang bị đồ dùng thí nghiệm, thiết bị dạy học đầy đủ, nếu những thiết bị, đồ dùng
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
4
dạy học đơn giản không có thì GV cần phải tự làm thêm hoặc cho hướng dẫn
cho HS làm. Ngoài ra có thể cải tiến dụng cụ thí nghiệm hiện có thành bộ thí
nghiệm để phục vụ dạy học. Có như thế thì tiết dạy-học mới sinh động, hiệu
quả, HS mới thích thú trong học vật lý chắc chắn chất lượng sẽ tốt hơn.
3. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học
Trong dạy học Vật lý thì có nhiều nội dung trừu tượng, nhiều thí nghiệm
học sinh khó có thể thấy kết quả khi quan sát thực hành thí nghiệm. Do đó, cần
có những mô hình, hình ảnh cụ thể để minh họa giúp các em quan sát và rút ra
kết luận. Vì vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin như sử dụng thí nghiệm ảo,
soạn giáo án trên các phần mềm Violet, PowerPoint để trình chiếu cũng góp
phần nâng cao hiệu quả giảng dạy (thí nghiệm minh họa).
4. Đổi mới kiểm tra, đánh giá:
Việc kiểm tra đầu giờ học thường làm cho HS ngán ngại, không thích. Vì
vậy cần phải đổi mới hình thức kiểm tra. Không chỉ kiểm tra đầu giờ mà đổi mới
hình thức khác như kiểm tra trong quá trình dạy hoặc cho điểm khi nhóm, cá
nhân hoàn thành sản phẩm học tập… để khích lệ tinh thần học tập, khen thưởng
kịp thời, đúng lúc. Khuyến khích học sinh học tập bằng cách tạo điều kiện cho
học sinh học yếu cũng có cơ hội đạt điểm khá giỏi thông qua các tiết thực hành,
tiết bài tập. Đánh giá học sinh cần xét cả sự cố gắng, ý thức phấn đấu, nỗ lực của
học sinh, khen thưởng, biểu dương kịp thời đối với những HS yếu, kém mà có
tiến bộ cho dù tiến bộ nhỏ. Tuy nhiên cũng cần có những bài kiểm tra để có tính
phân hóa học sinh.
5. Một số giải pháp, kinh nghiệm khác
* Đối với giáo viên:
- Khi được phân công, ngay từ đầu năm học, giáo viên nên điều tra, nắm
chắc số học sinh yếu kém môn vật lý, tìm hiểu nguyên nhân do đâu học yếu?
Sàng lọc, phân loại từng đối tượng HS để xây dựng phương pháp dạy học phù
hợp từng đối tượng, bên cạnh cũng phải sớm có kế hoạch về bồi dưỡng HS yếu
kém.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
5
- GV cần quan tâm đến tính cách sở thích của các em để tổ chức nhiều hoạt
động dạy học vì các em còn ham chơi hơn ham học; dùng từ bình dân, gần gũi
nhưng vẫn đảm bảo mục đích học môn Vật lý; lấy những ví dụ hài hước, dễ
hiểu… Biến buổi học thành một không gian chơi có tính phát triển tư duy (qua
các hoạt động), có nhu cầu lĩnh hội kiến thức (qua cách GV đặt vấn đề, dẫn
dắt…).
- Trong quá trình giảng dạy phải biết vận dụng kết hợp giữa lý thuyết với
ứng dụng thực tiễn trong đời sống hàng ngày của HS; Xây dựng tiết học thân
thiện, học sinh tích cực thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo để thu hút sự
tập trung tích cực xây dựng bài của học sinh.
- Vận dụng kiến thức đã học thường xuyên liên hệ với thực tế, sưu tầm các
tài liệu trên mạng, trong thực tế để ứng dụng CNTT vào các giờ dạy, tổ chức
nhiều trò chơi có liên quan đến vật lý để phục vụ bài dạy nhằm tạo hứng thú học
tập, tạo sự phấn khởi và niềm tin trong học vật lý cho học sinh.
- Chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn thật kĩ các bài tập cho học sinh, dạy từ bài
tập dễ đến khó; từ đơn giản đến phức tạp dựa trên chuẩn kiến thức giúp học sinh
nắm được kiến thức cơ bản trọng tâm, từ đó chắc chắn học sinh sẽ có hứng thú
khi học vật lý.
Khi dạy, hệ thống kiến thức trọng tâm cần tóm tắt giúp học sinh dễ nhớ,
tránh lý thuyết nhiều khô khan, học sinh khó tiếp thu; Giao bài tập về nhà đảm
bảo đủ các mức độ từ đơn giản đến nâng cao (cho học sinh khá, giỏi).
- Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm đề xuất một số giải pháp giúp đở HS
yếu kém như: phụ đạo, thường xuyên phối hợp để giáo viên chủ nhiệm thông
báo kịp thời cho phụ huynh về tình hình học sinh để cùng kết hợp nhắc nhở,
động viên, giáo dục kịp thời.
* Đối với học sinh:
Học tập chăm chỉ, xác định đúng đắn mục đích, ý nghĩa việc học; Phải cố
gắng tự rèn luyện ý thức học tập, luôn phấn đấu vươn lên. Chăm chú lắng nghe
thầy cô giảng bài, tích cực phát biểu và xây dựng bài học.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
6
Thường xuyên làm bài tập ở lớp, ở nhà; trao đổi việc học với bạn bè, với
thầy cô. Nghiên cứu thêm các bài tập tham khảo hoặc trên mạng nếu có điều
kiện…
V. KIẾN NGHỊ
Có thể tạo được làn gió mới trong việc dạy học môn Vật lý được hay
không, thiết nghĩ phần lớn ở cách làm việc của giáo viên đứng lớp. Muốn vậy,
cần có hai điều kiện:
- Thứ nhất, người giáo viên phải thực sự tâm quyết, đầu tư vào bài giảng
bằng cả sự đam mê và lòng nhiệt tình vì trẻ.
- Thứ hai, người giáo viên phải có tinh thần học hỏi, sáng tạo, hội đủ các
năng lực: khả năng quan sát, linh hoạt trong việc phân phối thời gian, kĩ năng ra
đề nhanh, kĩ năng nắm bắt tâm lý học sinh.
Song song với hai điều kiện trên, cần lắm sự quan tâm của nhà trường nói
riêng và các cấp quản lý giáo dục nói chung tạo điều kiện thuận lợi như giảm bớt
số học sinh trong một lớp, tăng cường thiết bị phương tiện dạy học,… nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý trong các trường THCS tại thị xã
Vĩnh Châu./.
“Học từ ngày hôm qua, sống cho ngày hôm nay, hy vọng cho ngày mai.
Điều quan trọng nhất là không ngừng đặt câu hỏi.”
Albert Einstein
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
7
THAM LUẬN
VẬN DỤNG MỘT SỐ BƯỚC CỦA QUY TRÌNH DẠY HỌC
PHÂN MÔN VẬT LÝ THUỘC BỘ MÔN KHOA HỌC TỰ NHIÊN 8
THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI (VNEN)
VÀO GIẢNG DẠY CHƯƠNG TRÌNH HIỆN HÀNH
Phan Thanh Quân
Trường THCS Lạc Hòa
I. Thực trạng
Chất lượng giáo dục luôn luôn là điều trăn trở đối với ngành giáo dục nói
chung cũng như đối với người giáo viên nói riêng. Trong những năm gần đây
qua tìm hiểu từ đồng nghiệp, sự trải nghiệm của bản thân. Tôi nhận thấy đa số
học sinh đều ít tập trung, ít khi chịu học bài, làm bài do giáo viên yêu cầu trên
lớp hay về nhà, các em cũng không xem trước bài mới khi đến lớp; vào lớp các
em lại không tập trung nghe thầy cô giảng bài, đặc biệt hơn là đối với các tiết
học nặng về tư duy.
Dạy học trong các trường THCS hiện nay tuy có nhiều đổi mới so với
cách dạy kiểu đọc chép một chiều, nhưng cũng chỉ dừng lại ở một vài phương
pháp như giáo viên nêu vấn đề thông qua thông tin đầu bài, hay làm thí nghiệm
biểu diễn để vào bài; nói chung kiểu dạy học phổ biến trong nhiều môn học và
môn Vật lý nói riêng hiện nay vẫn là giáo viên truyền thụ những nội dung được
trình bày trong SGK, học sinh nghe và ghi nhớ một cách thụ động. Việc sử dụng
phối hợp các phương pháp, các kỹ thuật dạy học để phát huy tính tích cực, sáng
tạo của học sinh còn hạn chế. Ta thường thiết kế quá trình dạy học môn Vật lý
theo phương pháp: Từ lí thuyết → Công thức → Bài tập mẫu → Bài tập vận
dụng công thức → Bài tập vận dụng nâng cao. Nếu giáo viên sử dụng kiểu cấu
trúc này không sáng tạo sẽ dẫn đến lối dạy học mang tính áp đặt, không lôi cuốn
được học sinh.
Trường THCS Lạc Hòa đã thực hiện giảng dạy theo mô hình trường học
mới từ năm học 2015 – 2016 với 2 lớp 6; tiếp tục thực hiện trong năm học 2016
– 2017 với 4 lớp (2 lớp 6, 2 lớp 7) và đến năm 2017 – 2018 số lớp là 6 (2 lớp 6,
2 lớp 7, 2 lớp 8). Khi được phân công giảng dạy phân môn Vật lý thuộc bộ Môn
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
8
Khoa học tự nhiên theo mô hình này, kết hợp dự giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy
có thể vận dụng được một số bước của quy trình dạy học theo mô hình trường
học mới vào giảng dạy cho các khối lớp học theo chương trình hiện hành nhằm
nâng cao chất lượng dạy học nói chung và dạy môn Vật lý nói riêng.
II. Giải pháp
Để nâng cao chất lượng bộ môn điều cần thiết trước tiên là nâng cao ý
thức học tập cho học sinh, tạo cho học sinh cách tự học, chủ động hơn trong việc
nghiên cứu bài học, tự trải nghiệm, tự phân tích khám phá kiến thức mới, làm
cho tiết học được sôi động hơn, lôi cuốn hơn… Trong mô hình trường học mới,
mỗi bài học trong sách Hướng dẫn môn Khoa học tự nhiên được biên soạn theo
chủ đề tích hợp để có thể tổ chức hoạt động học tích cực, tự lực của học sinh
theo các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực và chia thành 5 hoạt động:
"Khởi động", "Hình thành kiến thức", "Luyện tập", "Vận dụng", "Tìm
tòi, mở rộng". Thông thường khi thiết kế quy trình dạy học môn Khoa học tự
nhiên theo mô hình trường học mới sẽ theo 5 bước (căn cứ các hoạt động trong
sách Hướng dẫn).
Bước 1. Gợi động cơ, tạo hứng thú (A. Hoạt động khởi động);
Bước 2. Trải nghiệm (A. Hoạt động khởi động, B. Hoạt động hình
thành kiến thức);
Bước 3. Thí nghiệm, khám phá, Phân tích, rút ra bài học (B. Hoạt động
hình thành kiến thức);
Bước 4. Trả lời câu hỏi (C. Hoạt động luyện tập);
Bước 5. Vận dụng (D. Hoạt động vận dụng, E. Hoạt động tìm tòi, mở
rộng).
Qua nhiều năm giảng dạy môn Vật lý các khối lớp theo chương trình hiện
hành tôi nhận thấy có thể vận dụng một số bước của quy trình dạy học theo mô
hình trường học mới để áp dụng vào tiết dạy Vật lý đối với các lớp theo chương
trình hiện hành để tổ chức các hoạt động tích cực hơn với mục đích là phát huy
được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, làm cho tiết học sôi nổi
hơn, lôi cuốn hơn.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
9
Một số ví dụ mà tôi đã vận dụng các bước của quy trình dạy học của mô
hình trường học mới vào giảng dạy môn Vật lý 8 như sau:
Bước: Gợi động cơ, tạo hứng thú.
Đây là bước tạo cho học sinh một động cơ, một ham muốn tìm ra con
đường đi tới đích, tìm cách chiếm lĩnh kiến thức mới. Từ đó khêu gợi trí tò mò
khoa học, sự hứng thú khám phá cái mới. Đây chính là một biện pháp quan
trọng để phát huy tính tự giác, chủ động trong học tập của học sinh.
Ví dụ 1: Tổ chức tình huống kết hợp thí nghiệm kiểm chứng nhằm giúp
học sinh tự đưa ra dự đoán và tự kiểm chứng; biện pháp này giúp học sinh tự
chiếm lĩnh tri thức; kết hợp sự trợ giúp của giáo viên học sinh sẽ khắc sâu kiến
thức hơn.
Chẳng hạn khi dạy §12 Sự nổi Vật lý 8, Giáo viên có thể tổ chức tình
huống như sau (giống như Hoạt động khởi động theo mô hình trường học mới):
Hoạt động khởi động
Đố nếu thả một quả trứng Gà tươi vào trong nước thì quả trứng nổi hay
chìm.
Học sinh từng nhóm sẽ đưa ra dự đoán.
Giáo viên: chuẩn bị sẵn cho mỗi nhóm 1 quả trứng và 2 cốc nước (1 cốc
nước thường, 1 cốc nước pha muối đủ cho quả trứng nổi); yêu cầu các nhóm tự
kiểm chứng và đưa ra nhận xét.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
10
Ví dụ 2: Tổ chức các hoạt động trò chơi nhằm tạo ra tâm lý thoải mái và
phát hiện vấn đề ngay trong hoạt động khởi động.
Chẳng hạn thiết kế Hoạt động khởi động: “Cùng chơi” để dạy §21 Nhiệt
năng SGK Vật lý 8/tr74 như sau:.
Hoạt động khởi động: “Cùng chơi”
- Trong thời gian một phút, nêu các cách làm tăng nhiệt năng (nhiệt độ)
của đồng xu.
- Tìm ra trong các cách làm đó về bản chất thì cách làm nào giống nhau.
Từ đây học sinh dễ dàng rút ra kết luận về các cách làm thay đổi nhiệt
năng.
Từ trò chơi trên tạo cho học sinh tâm lý thoải mái và tiếp nhận kiến thức
một cách tự nhiên mà trong tiến trình của tiết dạy lớp hiện hành không có.
Ngoài ra, chúng ta cũng vận dụng những “Hoạt động khởi động” hay, phù
hợp của mô hình trường học mới tạo ra một tình huống có vấn đề về kiến thức
chưa được học, đòi hỏi người học phải tìm cách giải quyết nó.
Bước: Trải nghiệm.
Bước này nhằm giúp học sinh “Để nhận thức được về một đối tượng, một
sự việc hay một vấn đề nào đó, người học phải dựa trên vốn kiến thức, vốn kinh
nghiệm đã có từ trước. Nếu học sinh không có vốn kiến thức cần thiết, hoặc
không có những trải nghiệm nhất định thì không thể hình thành được kiến thức
mới”. Hơn nữa, trong dạy học môn Vật lý, kiến thức hình thành trước thường là
cơ sở để hình thành, phát triển những kiến thức tiếp theo. Do đó, trong dạy học,
người giáo viên cần phải tìm hiểu vốn kinh nghiệm và những hiểu biết sẵn có
của học sinh trước khi học một kiến thức mới và tổ chức cho học sinh trải
nghiệm. Sự định hướng và tổ chức các hoạt động của giáo viên là quan trọng,
nhưng vốn kiến thức của học sinh, những trải nghiệm của học sinh vẫn là yếu tố
quyết định trong việc hình thành kiến thức mới.
Ví dụ 1: Trong §21. (Chủ đề 8 ) Tìm hiểu mối liên hệ giữa chuyển
đông phân tử và nhiệt độ Sách HDH 8/tr182. (Áp dụng dạy bài 20 SGK hiện
hành Vật lý 8/ tr72)
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
11
B. Hoạt động hình thành kiến thức: Giáo viên chuẩn bị cho mỗi nhóm
học sinh một cốc đựng nước lạnh, một cốc đựng nước nóng và một ít thuốc tím.
Yêu cầu mỗi nhóm bỏ một ít thuốc tím đồng thời vào hai cốc nước, quan
sát hiện tượng xảy ra với hai cốc và nêu mối quan hệ giữa chuyển động phân tử
và nhiệt độ. Đến đây học sinh dễ dàng trả lời chính xác và rút ra được kết luận
cần thiết.
Ví dụ 2: Để dạy §10. Lực đẩy Ác-Si-Mét SGK Vật lý 8/tr36, có thể thiết
kế hoạt động như sau:
Hoạt động khởi động. Thực hiện các hoạt động sau:
- Treo một vật nặng vào lực kế, viết ra các cách làm cho số chỉ của lực kế
thay đổi.
- Đại diện mỗi nhóm đứng lên trình bày.
Đây là hoạt động trải nghiệm về tác dụng của chất lỏng lên một vật nhúng
chìm trong nó.
Trên đây, tôi chỉ giới thiệu một số bước của quy trình và một số ví dụ
minh họa. Tuy nhiên, khi giảng dạy tùy từng bài có thể áp dụng đủ 5 bước hoặc
ít hơn, có thể lấy các ví dụ trong sách Hướng dẫn hoặc tự thiết kế lại cho phù
hợp hơn. Ngoài ra, tôi còn vận dụng được nhiều cách tổ chức khác trong mô
hình trường học mới như: Cách tổ chức nhóm nhỏ, cách thiết kế trò chơi,…để
đưa vào chương trình hiện hành.
III. Kết quả
Sau một thời gian áp dụng những giải pháp trên của các lớp trường học
mới vào giảng dạy các lớp học chương trình hiện hành, tôi đã đạt được một số
kết quả như sau:
- Không khí lớp học sôi nổi hơn.
- Bước đầu hình thành được phương pháp và kĩ thuật dạy học theo hướng
tiếp cận nội dung sang hướng tiếp cận năng lực của người học.
- Đa số học sinh mạnh dạn tự tin hơn khi học Vật lý.
- Những em học yếu, dần dần cũng đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến, mạnh dạn
hỏi bài khi không hiểu bài.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
12
- Đa số học sinh hiểu bài và làm tốt bài tập vận dụng.
IV. Bài học kinh nghiệm
Qua một thời gian thực hiện, giáo viên và học sinh từng bước được làm
quen với cách dạy và cách học mới để chuẩn bị cho quá trình đổi mới chương
trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông trong những năm tới. Cá nhân tôi nhận
thấy việc áp dụng một số quy trình dạy học của mô hình trường học mới vào
trong giảng dạy cho các khối lớp học Vật lý theo chương trình hiện hành thật sự
rất hiệu quả. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng hơn, sôi nổi hơn, học sinh tự tin. Đặc
biệt, học sinh yếu giảm là nhờ sự hợp tác, đoàn kết, giúp đỡ giữa học sinh với
học sinh ở việc tổ chức nhóm và thể hiện rất rõ trong từng tiết học. Giáo viên dễ
dàng tiếp cận và phân hóa trình độ học tập của từng học sinh.
Trong quá trình thực hiện trên người giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt
và lựa chọn các phương pháp phù hợp từng hoạt động bài học phù hợp với từng
đối tượng học sinh, để hướng dẫn học sinh tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới,
hướng dẫn học sinh thực hành thí nghiệm và rút ra kết luận, kết hợp việc vận
dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, dạy học dự án, hay trò chơi,
nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học theo hướng tiếp cận năng lực
người học.
Trên đây là một số giải pháp của bản thân tôi với mong muốn góp một
phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng môn Vật lý hiện nay. Rất mong được sự
góp ý của quý thầy cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
“Phương pháp thích đáng nhất để nghiên cứu đặc tính của sự vật
là suy luận xuất phát từ những cuộc thí nghiệm.”
Isaac Newton
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
13
CHUYÊN ĐỀ
ỨNG DỤNG CNTT VÀO GIẢNG DẠY VẬT LÝ Ở TRƯỜNG THCS
Nguyễn Minh Thống
Trường THCS Vĩnh Tân
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, công nghệ thông tin (CNTT) phát triển rất nhanh và ngày càng
có nhiều ứng dụng vào mọi lĩnh vực,
trong đó có lĩnh vực giáo dục.
Vì vậy là một giáo viên đứng lớp
chúng ta phải biết nghiên cứu, vận dụng
chức năng CNTT vào thực tiễn dạy học.
Đây là một công việc cần thiết, góp phần
đổi mới phương pháp dạy học và kiểm
tra, đánh giá theo định hướng phát triển
năng lực học sinh. Nhờ vào sự hỗ trợ của các phần mềm máy tính giáo viên có
thể xây dựng được bài giảng sinh động bằng cách chèn những hình ảnh, âm
thanh hay clip vào bài giảng nhằm làm tăng khả năng quan sát, tạo được sự hứng
thú, sự tương tác và thu hút sự tập trung của người học; Giáo viên dễ dàng thực
hiện các phương pháp, hình thức, tổ chức dạy học theo định hướng phát huy tính
tích cực, chủ động của người học. Từ đó, làm cho tiết học trở nên sinh động, đạt
hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
Ngoài ra, các chức năng CNTT có thể giúp giáo viên cập nhật, khai thác,
tham khảo các thông tin, dữ liệu trên web bằng các công cụ đa phương tiện. Bên
cạnh đó, giáo viên có thể tham gia sinh hoạt chuyên môn trên trang “trường học
kết nối” và gửi, nhận bằng thư điện tử.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CNTT TRONG DẠY
HỌC VẬT LÝ
Trường THCS Vĩnh Tân nằm ở vùng ven biển, hơn 90% là học sinh dân
tộc, có điều kiện kinh tế khó khăn, cách xa thị xã trên 10km. Cuối năm 2015,
trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia nên cơ sở vật chất, phương tiện, thiết
bị đáp ứng được nhu cầu dạy và học.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
14
Trước đây, khi chưa có các thiết bị CNTT hỗ trợ dạy và học, nên việc
truyền thụ kiến thức đa phần theo hướng một chiều, thiếu những hình ảnh minh
họa và chỉ thực hiện được những thí nghiệm đơn giản, làm cho tiết học khô
khan, học sinh rất thụ động và không hứng thú trong học tập, gây ảnh hưởng
đến chất lượng giảng dạy. Nhưng khi có điều kiện nêu trên, qua chỉ đạo của
lãnh đạo đơn vị về việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá
theo định hướng phát triển năng lực học sinh, tôi mạnh dạn đầu tư, nghiên cứu
các phần mềm hỗ trợ dạy học để ứng dụng vào trong giảng dạy như phần mềm
McMiX, Powerpoint, Crocodile Physics, Adobe Presenter, iMindMap…Tuy
bước đầu đã gặp không ít khó khăn trong quá trình ứng dụng, nhưng với lòng
nhiệt quyết và say mê việc cần phải ứng dụng CNTT để phục vụ bài giảng tốt
hơn nên tôi đã quyết tâm thực hiện. Đến nay, kết quả cũng gặt hái được một
vài thành công trong việc “Nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT vào dạy học
Vật lý” giúp cho tiết học trở nên sinh động, học sinh tích cực học tập và yêu
thích môn Vật lý, chất lượng giảng dạy được nâng lên khá rõ nét.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Các yếu tố, kỹ năng cần phải có của giáo viên
Để ứng dụng được CNTT trong dạy học có hiệu quả, theo tôi giáo viên
cần phải có được những kỹ năng cơ bản về tin học như soạn thảo văn bản, trình
diễn điện tử, sử dụng các phần mềm hỗ trợ...Ngoài ra cần phải biết cách tìm tư
liệu trên mạng, chụp, cắt ảnh, quay phim và chuyển tư liệu vào bài giảng.
2. Một số ứng dụng CNTT cụ thể trong dạy học vật lý
2.1. Ứng dụng trong soạn bài trình chiếu trên Powerpoint
Để cho học sinh hứng thú trong học tập, người thầy phải siêng năng đầu tư,
tìm tài liệu phong phú có nhiều hình ảnh, âm thanh, clip để minh họa bài học
nhằm giúp cho tiết học sinh động, thu hút học sinh học tập. Quan trọng ở chỗ
phần mềm nào phục vụ cho bài giảng vật lý mà dễ sử dụng, không tốn chi phí, có
nhiều tính năng để chèn hình ảnh, âm thanh, clip vào bài giảng? Tuy có nhiều
phần mềm phục vụ dạy học nhưng tôi tâm đắc nhất là Microsoft Powerpoint vì
Microsoft PowerPoint là phần mềm đồ họa có giao diện đẹp, hiệu ứng đa dạng,
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
15
âm thanh phong phú, có thể chèn hình ảnh, âm thanh hay video clip vào bài giảng
đáp ứng các yêu tố nêu trên; việc liên kết giữa các slide cũng dễ dàng, giúp giáo
viên giải thích, mở rộng kiến thức trong quá trình giảng dạy. Việc sử dụng bài
trình chiếu để truyền thụ kiến thức cho học sinh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả,
chất lượng giảng dạy, tạo được sự tương tác và kích thích khả năng sáng tạo cho
giáo viên và học sinh. Đồng thời tạo được không khí phấn khởi, hứng thú cho
người học. Để bài trình chiếu thể hiện rõ nội dung và tính mạch lạc giáo viên
nên tạo thêm các slide liên kết (Hyperlink).
Tuy nhiên, khi sử dụng PowerPoint để soạn bài trình chiếu, giáo viên cần
lựa chọn màu nền đơn giản, sáng và phù hợp với bài dạy để thể hiện nội dung một
cách rõ ràng, độ tương phản giữa màu nền với màu chữ, hình ảnh, vùng hiển thị
thông tin quan trọng thích hợp. Giáo viên cần định dạng font chữ, kích cở, màu
sắc cho phù hợp; không lạm dụng các hiệu ứng âm thanh, màu sắc, chuyển động
phức tạp trong một slide vì sẽ làm cho học sinh phân tán, thiếu tập trung, không
chú ý nội dung bài học.
2.2 Ứng dụng trong việc thiết kế thí nghiệm vật lý ảo
Hiện nay, do một số dụng cụ thí nghiệm đã hư hỏng nhiều, độ chính xác
thiếu tin cậy, hoặc những thí nghiệm khó quan sát được kết quả và khó thực hiện
trên lớp, nên nhiều giáo viên đã chủ động ứng dụng các phần mềm tin học để
thiết kế thí nghiệm vật lý ảo, nhằm khắc phục tình trạng “dạy chay”, góp phần
làm tăng khả năng tương tác, khả năng quan sát và thu hút học sinh.
Hiện tại có rất nhiều phần mềm hỗ trợ thiết kế thí nghiệm ảo trong dạy
học vật lý như Crocodile Physics, 3Dpro S 1.0, flash, …Tùy theo kỹ năng sử
dụng mà giáo viên có thể chọn phần mềm phù hợp với năng lực của mình. Ở đây
tôi cũng ưu tiên chọn Microsoft PowerPoint vì có những tiện ích đã nêu trên.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
16
Khi sử dụng Microsoft PowerPoint để thiết kế thí nghiệm vật lý ảo, các đồ
họa phải đảm bảo tính chân thật và thẩm mỹ, giáo viên phải hết sức thận trọng
trong việc sử dụng các hiệu ứng, âm thanh, thời điểm và thời gian xảy ra kết quả
thí nghiệm phải đảm bảo tính đồng nhất và chính xác.
2.3. Ứng dụng trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
Ngày nay, CNTT được sử dụng nhiều trong công tác kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập của học sinh. Thông qua sự hỗ trợ của phần mềm trộn đề trắc
nghiệm như McMIX, tôi đã xây dựng bộ đề kiểm tra dưới dạng câu hỏi trắc
nghiệm riêng cho nhiều đối tượng học sinh để tránh được sự copy trong quá
trình làm bài, từ đó chất lượng của học sinh được đánh giá theo đúng năng lực.
Giáo viên có thể truy cập vào các trang web để sưu tầm các dạng bài tập, các câu
hỏi trắc nghiệm và xây dựng ngân hàng câu hỏi cho từng chương trong trình
giảng dạy.
Trong các giờ dạy trên lớp, tôi thường sử dụng phần mềm Adobe
Presenter, Microsoft PowerPoint soạn các bài tập dạng câu hỏi trắc nghiệm để
kiểm tra kiến thức vào cuối giờ học nhằm đánh giá mức độ hiểu bài của các em
để điều chỉnh phương pháp dạy cho phù hợp. Qua đó, tuyên dương, ghi điểm
cho những học sinh thực hiện tốt nhằm kích thích tính tích cực, chủ động và sự
hứng thú của các em trong học tập.
Trong các tiết ôn tập, củng cố kiến thức, tôi thường sử dụng phần mềm
iMinMap vẽ bản đồ tư duy để hệ thống lại kiến thức từng chương trong chương
trình, giúp học ghi nhớ và sinh nắm vững những kiến thức đã học.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
17
Ngoài những ứng dụng trên, trong quá trình giảng dạy tôi thường đăng
nhập vào các trang web để tham khảo các tài liệu, các bài giảng,…hoặc đăng
nhập vào trang “trường học kết nối” để sinh hoạt chuyên môn về đổi mới
chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp, kỹ thuật dạy học và kiểm tra,
đánh giá, chia sẻ, thảo luận kiến thức về chuyên môn.
3. Những lưu ý khi ứng dụng CNTT vào dạy học vật lý
Giáo viên cần cân nhắc và lựa chọn kỹ các tiết dạy có hoặc không sử dụng
CNTT sao cho phát huy được một cách tối đa hiệu quả và đảm bảo mục tiêu bài
học.
Khi soạn bài trình chiếu giáo viên cần lựa chọn các câu chữ ngắn gọn,
tường minh, thể hiện rõ nội dung, bảo đảm được tính hệ thống, tính mạch lạc,
tính chính xác và hướng đến các hoạt động phát huy tính tích cực của học sinh.
Tránh ôm đồm, lạm dụng các hiệu ứng và tư liệu vào bài giảng, biến tiết học
thành buổi xem tranh ảnh, phim tư liệu, tránh tình trạng “chiếu chép”, nên kết
hợp công cụ trình chiếu với ghi bảng. Thiết kế những thí nghiệm vật lý ảo cần
chú ý đến hiệu ứng, âm thanh, đồ họa, thời điểm, thời gian xảy ra hiện tượng và
kết quả thí nghiệm.
Giáo viên cần nghiên cứu, lựa chọn các hình thức tổ chức kiểm tra, đánh
giá phù hợp với đặc điểm tình hình của tiết học, lớp học. Tránh lập lại các hình
thức trước để tăng tính hấp dẫn, thu hút học sinh.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
18
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
Tóm lại, nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT vào dạy học vật lý không
những tạo ra môi trường tương tác giữa người dạy và người học mà còn góp
phần đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá theo định hướng phát
triển năng lực học sinh, góp phần nâng cao chất lượng của bộ môn. Đây là một
công việc cần thiết, lâu dài, đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất và năng
lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển
CNTT trong dạy học có hiệu quả cần có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất
của các cấp, sự chỉ đạo đồng bộ của ngành, của mỗi nhà trường và đặc biệt là sự
nỗ lực học hỏi, rút kinh nghiệm của bản thân mỗi giáo viên.
2. Đề xuất
Đối với các cấp lãnh đạo: Đầu tư, nâng cấp các thiết bị CNTT như máy
tính, máy chiếu, hệ thống internet để giáo viên có điều kiện thuận lợi trong việc
ứng dụng CNTT vào dạy học; Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên học tập nâng
cao trình độ tin học để phục vụ cho công tác giảng dạy.
Đối với giáo viên: Không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, trình độ tin học, thường xuyên ứng dụng CNTT vào dạy học.
“Sáng tạo chính là để trí thông minh rong chơi”.
Albert Einstein.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
19
THAM LUẬN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH YẾU, KÉM HỌC TỐT
MÔN VẬT LÍ Ở TRƯỜNG THCS
Đặng Gia Lương
Trường THCS Phường 2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ trương, biện
pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học thể hiện qua việc tổ chức thực
hiện các cuộc vận động lớn của ngành như : "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là
một tấm gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực"... Việc thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về
chất lượng giáo dục hiện nay. Tuy nhiên, trong thực tế đối tượng học sinh học
tập yếu, kém vẫn luôn tồn tại trong quá trình giảng dạy ở các môn học. Do đó
chất lượng giáo dục luôn là điều trăn trở đối với các nhà quản lý giáo dục cũng
như đối với người giáo viên. Từ nhận thức trên chúng ta nhận thấy giáo dục là
việc hình thành tri thức, nhân cách con người nên tuyệt đối không thể có sản
phẩm hỏng, sản phẩm thừa. Vì vậy với đối tượng học sinh yếu kém, giáo viên
không thể thờ ơ, vô tư cho học sinh ở lại lớp hoặc ngồi nhầm lớp. Để nâng cao
chất lượng giáo dục trong quá trình giảng ở trường THCS nói chung, môn vật lí
nói riêng thì phải nhìn thẳng vào sự thật một cách khách quan, phải tìm ra
nguyên nhân một cách chính xác. Từ đó lựa chọn đưa ra những giải pháp tích
cực sát với thực tế để từng bước giảm tỉ lệ học sinh yếu kém, giúp đối tượng này
hòa nhập thích nghi với môi trường học tập chung của cả lớp.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng:
Qua quá trình giảng dạy môn vật lí ở trường THCS Phường 2, thị xã Vĩnh
Châu bản thân nhận thấy tuy có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây nhưng
vẫn còn một số tồn tại chưa giải quyết được trong đó có tình trạng tỉ lệ học sinh
yếu kém còn cao so với mục tiêu nhà trường đề ra. Vấn đề học sinh yếu kém
không chỉ là nỗi lo của giáo viên, của ngành giáo dục mà đó còn là sự băn
khoăn, bức xúc của toàn xã hội. Vì vậy, việc tìm ra nguyên nhân và có những
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
20
biện pháp giúp đỡ những đối tượng học sinh này để các em đạt yêu cầu và có kết
quả cao hơn trong học tập là việc làm rất cần thiết.
2. Nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu kém
a. Về phía học sinh
Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì việc học yếu,
kém có thể kể đến là do cá nhân học sinh trong đó có một số nguyên nhân sau:
- Học sinh lười học: Đa số học sinh ở nhóm này là học sinh cá biệt, đến
lớp không tập trung vào việc học, ở nhà không chủ động chuẩn bị bài, không
làm bài tập. Hơn nữa sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng
với Internet, với các dịch vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn đã lôi cuốn làm
các em không chú tâm vào việc học.
- Học sinh chưa có động cơ học tập: Đa số các em không xác định
được mục đích của việc học. Khi lên lớp nghe giáo viên giảng bài một cách thụ
động rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra “ học vẹt” để
đối phó mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.
- Học sinh bị hổng kiến thức từ những lớp dưới: Một số em không hiểu
nghĩa những câu từ trong bài học, không biết biến đổi công thức, làm những
phép tính đơn giản…Đây là nguyên nhân khá phổ biến hiện nay, vì áp lực thành
tích nên việc đánh giá học sinh để được lên lớp chưa thật sự chính xác, khách
quan, do đó việc học sinh mất kiến thức căn bản là điều không thể tránh khỏi.
- Học sinh không có thời gian cho việc tự học: Với một vùng nông thôn
còn rất nghèo như Phường 2 thị xã Vĩnh Châu, đa số là người dân tộc
khmer cuộc sống còn rất khó khăn; vì vậy ngoài thời gian học ở trường về nhà
các em phải phụ giúp thêm gia đình một số việc như đi biển, trồng rẫy, làm
mướn và một số công việc khác… nên đã chiếm hết thời gian học ở nhà. Bên
cạnh đó một số bậc phụ huynh chưa chú ý đến vấn đề tự học ở nhà của học sinh,
đây cũng là một nguyên nhân rất quan trọng tác động trực tiếp đến ý thức của
các em, dẫn đến học ngày càng yếu, chán học rồi bỏ học.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
21
b. Về phía giáo viên
Thực tế một số giáo viên chưa thực sự tích cực trong việc đổi mới
phương pháp dạy học, vẫn tồn tại kiểu dạy học một chiều, chưa thực sự đầu tư
cho tiết dạy trên lớp, chưa quan tâm đúng mực đến các đối tượng học sinh đặc
biệt là học sinh yếu kém. Một số giáo viên còn thiếu nghệ thuật cảm hoá học
sinh yếu kém, không gây hứng thú cho học sinh yêu thích học môn của mình...
c. Về phía cơ sở vật chất
Vật lí là bộ môn khoa học thực nghiệm, đa số các kiến thức đều được
hình thành thông qua hoạt động làm thí nghiệm nhưng hầu hết các trường không
có phòng bộ môn, đồ dùng thí nghiệm bị hư hỏng, không đủ bộ hoặc thiếu tính
chính xác, việc áp dụng công nghệ thông tin trong dạy học còn nhiều hạn chế...
Điều này gây rất nhiều khó khăn cho giáo viên khi lên lớp, giảm sự hứng thú
học tập của học sinh, vì vậy các em thường thờ ơ, vô cảm với môn vật lí.
2. Giải pháp thực hiện
Qua việc phân tích những nguyên nhân trên, bản thân tôi đưa ra một số
biện pháp để giúp đỡ học sinh yếu kém học tốt hơn đối với môn vật lí như sau:
2.1. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh
- Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh ở bộ môn mình,
tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập bộ môn từ đó sẽ giúp cho học sinh có
ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào
thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học vật lí
trong thực tiễn.
- Phải tạo cho không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, tránh để cho tâm
lí học sinh bị ức chế, sợ môn học. Giáo viên không nên xúc phạm đến danh dự
học sinh hoặc dùng các hình thức kỉ luật phản giáo dục khiến học sinh có cảm
giác tự ti, mặc cảm khi học môn của mình.
- Dựa trên sự phân loại học sinh mà giáo viên đặt ra các câu hỏi, các bài
tập phù hợp với khả năng của từng đối tượng tạo cho các em có niềm tin vào bản
thân. Đối với các em yếu, kém chỉ nên đặt những câu hỏi ở mức độ nhận biết,
yêu cầu vận dụng công thức, quy tắc để giải các bài tập đơn giản, có như vậy
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
22
dần dần các em sẽ lấp đầy các kiến thức bị hổng và hình thành cho các em
phương pháp tiếp cận kiến thức mới.
- Kiểm tra việc chuẩn bị bài của các em về số lượng cả về chất lượng
thông qua các hình thức như truy bài 15 phút đầu giờ của ban cán sự lớp, hay
của các thành viên trong lớp, qua hình thức kiểm tra trực tiếp của giáo viên bằng
cách trình bày bài giải lên bảng, sau đó cho cả lớp nhận xét bài làm của bạn,
phát hiện chỗ sai, chỗ thiếu để sữa chữa bổ sung làm cho bài giải hoàn chỉnh,
giúp cho các em học yếu thấy được chỗ mình hay mắc sai lầm để giải các bài
tương tự.
- Động viên đúng mức đối với học sinh chưa hoặc không làm bài tập, cho
các em phải làm dù sai, trên cơ sở đó giáo viên có thể chỉ ra chỗ sai, chỗ thiếu
cho từng học sinh, phải tạo cho các em có thói quen làm bài tập ở nhà. Bên cạnh
đó khen ngợi, khích lệ kịp thời đối với từng tiến các em bộ của các em dù là một
tiến bộ nhỏ, từ đó giáo viên làm cho các em có lòng tin vào bản thân mình.
- Thông qua hoạt động của ban cán sự lớp xây dựng phong trào thi đua theo
bàn học, theo nhóm học hay theo từng tổ, nêu ra cách thưởng phạt công minh để
các thành viên trong tổ thực hiện. Giao trách nhiệm cho tổ trưởng, nhóm trưởng
đưa ra phương pháp học tập của nhóm mình sao cho có hiệu quả, tổ trưởng chỉ
có thể vạch ra phương hướng giải rồi sau đó giao cho các thành viên khác của tổ
giải sau đó kiểm tra chéo kết quả của nhau.
- Bên cạnh đó cần kết hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm vì việc giáo
dục ý thức học tập của học sinh thì cũng phụ thuộc rất lớn vào giáo viên chủ
nhiệm vì đây là người gần gũi với học sinh, hiểu rất rõ từng đối tượng học sinh,
thường xuyên theo dõi các em về cả học lực và hạnh kiểm để kịp thời giáo dục,
uốn nắn học sinh của mình.
2.2. Kèm cặp học sinh yếu kém
- Ngay từ đầu năm GV phải nắm rõ đối tượng học sinh, đặc biệt lưu ý học
sinh yếu ở năm học trước đối với môn phụ trách để có sự chú ý quan tâm đặc
biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết học như đặt câu hỏi, ra bài tập phù
hợp để các em có cơ hội trả lời, khen ngợi động viên khi các em trả lời đúng…
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
23
- Tổ chức các nhóm học tập cho học sinh, trong nhóm có đủ các đối tượng
học sinh khá, giỏi, trung bình, yếu kém. Tạo ra phong trào thi đua học tập giữa
các tổ, phân công học sinh khá, giỏi thường xuyên giúp đỡ các bạn yếu, kém về
cách học tập, về phương pháp vận dụng kiến thức, động viên các bạn học yếu
trong nhóm mình đại diện phát biểu ý kiến nêu kết quả thảo luận để tạo cho các
bạn sự tự tin trước tập thể, mạnh dạn trong học tập từ đó làm cho các bạn học
yếu bị cuốn hút vào việc học .
- Lên kế hoạch cụ thể cho các nhóm học sinh này hoạt động thường xuyên
trên lớp cũng như ở nhà; theo dõi, đôn đốc, và thường xuyên kiểm tra các nhóm
để có thể nắm bắt kịp thời tình hình học tập của học sinh.
2.3 Tổ chức dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém
Lập danh sách học sinh học yếu kém lên kế hoạch dạy phụ đạo cho các
em, một mặt là giúp các em có thể nêu lên những thắc mắc của các em về những
điều các em chưa hiểu trong tiết học chính khóa để giáo viên có thể giải đáp cho
học sinh đồng thời hướng dẫn cho học sinh làm bài tập. Mặt khác, ở buổi học
phụ đạo này, giáo viên từng bước bồi dưỡng cho học sinh lấp đầy những chỗ
hổng kiến thức, giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản nhất về chương
trình học. Rèn cho các em biết cách đặt câu hỏi hoặc biết cụ thể chỗ nào chưa rỏ,
chưa hiểu để nhờ bạn bè, giáo viên giúp đõ. Khi thực hiện việc dạy học, giáo
viên phải thường xuyên theo dõi kiểm tra học sinh để luôn nắm được tình hình
học tập của các em, từ đó giáo viên rút kinh nghiệm cho những giờ học sau.
2.4 . Một số biện pháp đối với học sinh cá biệt
Đối với các học sinh cá biệt thì việc giúp cho các em vươn lên quả là một
điều hết sức khó khăn vì các em không có ý thức học tập, vào lớp thì không chịu
học bài, không chú ý nghe giáo viên giảng bài, về nhà không chuẩn bị bài mà
chỉ lo đi chơi. Đối với đối tượng học sinh này, giáo viên bộ môn cần phải phối
hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm thường xuyên nhắc nhở các em về ý thức
thức học tập, thường xuyên kiểm tra tập của học sinh, khi học sinh vi phạm thì
giáo viên nên kết hợp với phụ huynh để có biện pháp phù hợp, kịp thời giáo dục
các em. Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình giám sát việc học nhóm,
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
24
học phụ đạo của học sinh; với Đoàn Đội tổ chức cho các em tham gia các phong
trào, các mô hình sinh hoạt câu lạc bộ nhằm kích thích các em hứng thú trong
học tập.
Trong quá trình giảng dạy trên lớp, giáo viên quan tâm đến học sinh thường
xuyên, động viên các em và tiếp sức cho các em kịp thời khi gặp khó khăn.
2.5. Rèn luyện về chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên
- Giáo viên cần phải không ngừng tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, tìm ra và vận dụng tốt các phương pháp dạy học mới.
- Thực hiện soạn giáo án phù hợp với các đối tượng học sinh, các câu hỏi
có tính chất tổng quát, gợi mở… Đặc biệt cần tạo cho các em có tinh thần vui
vẻ, chờ đợi chuẩn bị tiết học một cách tích cực, cần động viên các em đúng
lúc và với từng tiến bộ nhỏ của các em.
- Bộ môn vật lí là một bộ môn khoa học thực nghiệm đòi hỏi các em phải
tham gia làm thí nghiệm qua đó tiếp thu kiến thức, ngoài ra giáo viên có thể đặt
những câu hỏi vận dụng kiến thức trong thực tế, hay tổ chức các trò chơi trong
vật lí, tổ chức cho các em làm đồ dùng học tập, tham gia thí nghiệm (thực tế
hoặc mô phỏng trên mạng) qua đó tạo sự vui vẻ giúp các em càng ngày yêu
thích môn học.
- Cần thường xuyên dự giờ trao đổi rút kinh nghiệm một cách thẳng thắn để
cùng bàn bạc tìm ra phương pháp dạy học hay cho từng nội dung giảng dạy.
3. Kết quả:
Trong quá trình giảng dạy, bản thân và đồng nghiệp đã áp dụng các
giải pháp nêu trên để giúp đỡ học sinh yếu kém môn vật lí. Qua khảo sát thực
nghiệm, cho thấy đã có sự chuyển biến tích cực ở các học sinh yếu kém. Các em
nắm vững những kiến thức trọng tâm, những kĩ năng cơ bản theo chuẩn kiến
thức; có thái độ tự giác, tích cực, chủ động trong học tập, yêu thích môn học.
Các em đã mạnh dạn hơn trong việc phát biểu ý kiến, biết vận dụng kiến thức để
giải thích các hiện tượng vật lí cũng như biết cách tính toán các bài tập đơn
giản…Đặc biệt hơn các em đã xóa bỏ được cảm giác tự ti mặc cảm, sẵn sang
trao đổi thảo luận bài học với bạn bè và giáo viên những vấn đề mình chưa hiểu.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
25
Sự tiến bộ của các em còn biểu hiện qua kết quả học tập, qua ý thức tự học ở lớp
cũng như ở nhà.
III. KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm:
Để đạt được kết quả tốt trong giảng dạy người thầy phải có tâm huyết với
nghề, tình yêu thương đối với mọi học trò, tính kiên nhẫn, có niềm tin và không
ngại khó. Là giáo viên đứng lớp, được tiếp xúc với các em hàng ngày cần hiểu
được tâm lí của lứa tuổi học trò, luôn tạo cho các em niềm tin: “ Mỗi ngày đến
trường là một niềm vui”. Khi các em đã yêu thích môn học rồi thì việc hạn chế
được tỉ lệ học sinh yếu kém là không khó.
2. Kiến nghị, đề xuất:
- Về phía nhà trường: Chỉ đạo và theo dõi chặt chẽ công tác phụ đạo học
sinh yếu kém, chỉ đạo cho các bộ phận đoàn thể trong nhà trường thực hiện tốt
vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo dục ý thức học tập cho học sinh.
Thực hiện tốt phong trào xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
- Về phía Đoàn - Đội: Phát động nhiều phong trào thi đua học tập như
“đôi bạn cùng tiến” để học sinh có thể giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, đồng thời
tạo nhiều sân chơi lành mạnh cho học sinh.
- Về phía tổ chuyên môn: Cần chú trọng hơn nữa việc phụ đạo học sinh
yếu kém, tăng cường xây dựng các chuyên đề, tổ chức dự giờ rút kinh nghiệm
- Về phía giáo viên chủ nhiệm: Tăng cường công tác giáo dục ý thức học
tập của học sinh, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để kịp thời uốn nắn
các em.
- Về phía giáo viên bộ môn: Tìm tòi ra những biện pháp giáo dụng có
hiệu quả, thường xuyên theo dõi học lực của học sinh để so sánh và đánh giá
mức độ tiến bộ của học sinh, phải thường xuyên rèn luyện nghiệp vụ sư phạm để
giáo dục tốt học sinh. Đề xuất, đóng góp và tham gia thực hiện các mô hình câu
lạc bộ học tập cùng tổ chuyên môn, tạo sân chơi lành mạnh bổ ích cho học sinh.
Trên đây là những biện pháp mà bản thân và tổ chuyên môn đã
nghiên cứu, áp dụng trong thực tế để giúp đỡ học sinh yếu kém học tốt hơn đối
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
26
với môn vật lí ở trường THCS Phường 2, thị xã Vĩnh Châu. Rất mong nhận
được sự nhận xét, đóng góp ý kiến của quý vị để chuyên đề được hoàn thiện
hơn, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn vật lí./.
“Kẻ nào chưa từng mắc phải lỗi lầm
cũng là kẻ chưa bao giờ thử làm việc gì cả.”
Albert Einstein
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
27
THAM LUẬN
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HĐDH TNST TRONG GIẢNG DẠY
MÔN VẬT LÍ Ở TRƯỜNG THCS
Lê Thủy Tiên
Trường THCS Hòa Đông
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Làm các thí nghiệm Vật lí ở nhà trường là một trong các biện pháp quan
trọng nhất để phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học Vật lí. Điều này quyết
định bởi đặc điểm của khoa học Vật lí vốn là khoa học thực nghiệm và bởi
nguyên tắc dạy học là nguyên tắc trực quan “học đi đôi với hành”.
Làm các thí nghiệm Vật lí có tác dụng to lớn trong việc phát triển nhận
thức của học sinh, giúp các em quen dần với phương pháp nghiên cứu khoa học,
vì qua đó các em được tập quan sát, đo đạc, được rèn luyện tính cẩn thận, kiên
trì, điều đó rất cần cho việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, chuẩn bị cho học sinh
tham gia hoạt động thực tế. Do được tận mắt, tự tay tháo lắp các dụng cụ, thiết
bị và đo lường các đại lượng,..., các em có thể nhanh chóng làm quen với những
dụng cụ và thiết bị dùng trong đời sống và sản xuất sau này.
Đặc biệt, việc thực hiện các thí nghiệm Vật lí là rất phù hợp với đặc điểm
tâm, sinh lí và khả năng nhận thức của học sinh, đồng thời tạo điều kiện rèn
luyện cho học sinh các kỹ năng thực hành và thái độ ứng xử trong thực hành,
cần thiết cho việc học tập Vật lí ở các cấp học trên.
Vì vậy, để góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy học trải nghiệm sáng tạo,
thực hành, thí nghiệm của môn học này ở cấp THCS, với kinh nghiệm bản thân
tôi xin đưa ra một số thực trạng và nguyên nhân cụ thể sau:
II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Thuận lợi
Cơ sở vật chất của các trường cơ bản đáp ứng được nhu cầu dạy học, hiện
nay trường đã có phòng học bộ môn để tổ chức các giờ học vật lí, nên không còn
việc di chuyển thiết bị thí nghiệm từ phòng học của lớp này sang lớp khác như
trước kia.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
28
Học sinh ngoan, có ý thức học tập, tạo điều kiện cho giáo viên truyền thụ
kiến thức trên lớp.
Như vậy, dạy học trải nghiệm sáng tạo, thực hành, thí nghiệm đều là những
phương thức học hiệu quả, gắn với vận động, với thao tác vật chất, với đời sống
thực. Việc học thông qua làm, học đi đôi với hành và học từ trải nghiệm đều
giúp người học đạt được tri thức và kinh nghiệm nhưng theo các hướng tiếp cận
không hoàn toàn như nhau, trong đó trải nghiệm có ý nghĩa giáo dục cao nhất và
có phần bao hàm cả làm và thực hành.
Dạy học từ trải nghiệm giúp người học không những có được năng lực
thực hiện mà còn có những trải nghiệm về cảm xúc, ý chí và nhiều trạng thái
tâm lý khác. Dạy học trải nghiệm sáng tạo giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải
nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn. Từ đó hình thành
năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân.
2. Khó khăn
Dụng cụ dạy học, thí nghiệm bị hỏng hoặc có nhưng không đủ để đáp ứng
theo nhu cầu thực tế đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Dụng cụ tương đối đầy đủ nhưng chất lượng không được cao nên thí
nghiệm cho kết quả thường thiếu chính xác.
Một số đồ dùng dạy học được cấp về lại không khớp hình vẽ sách giáo
khoa làm cho việc lắp ráp thí nghiệm gặp khó khăn.
Kinh nghiệm của giáo viên còn hạn chế trong việc tổ chức một tiết học học
về trải nghiệm sáng tạo.
Nếu chỉ gói gọn trong một tiết học thì không đủ thời gian cho việc học sinh
vừa thực hành trải nghiệm vừa tiếp thu kiến thức, vừa phải uốn nắn các em có
thái độ không nghiêm túc.
Sĩ số một số lớp khá đông (45 em/lớp) nên phải chia nhiều nhóm, không đủ
đồ dùng.
3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong dạy học trải nghiệm
sáng tạo, thực hành, thí nghiệm môn Vật lí
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
29
Một số giáo viên, phụ huynh và học sinh chưa thực sự hiểu rõ phương pháp
dạy học trải nghiệm sáng tạo là gì? Học sinh sẽ được học như thế nào?
Một số giáo viên chưa thật sự đầu tư tiết dạy thực hành cho hoạt động dạy
học trải nghiệm sáng tạo nên chất lượng chưa cao.
Một số dụng cụ thí nghiệm, thực hành không còn chính xác.
Thời gian bố trí dành cho một tiết thực hành, thí nghiệm chưa hợp lý.
Kiểm tra, thi cử còn nặng về lý thuyết, chưa quan tâm đúng mức đến thực
hành.
Thời gian học tập của HS ở nhà còn hạn chế, điều kiện gia đình nhiều em
còn khó khăn nên chuẩn bị đồ dùng học tập theo hoạt động trải nghiệm sáng tạo
chưa hiệu quả.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Để nâng cao hiệu quả việc dạy học trải nghiệm sáng tạo môn Vật lí cần
phải có sự kết hợp giữa Ban giám hiệu, cán bộ phụ trách thiết bị, giáo viên bộ
môn, phụ huynh và học sinh. Do đó, tôi đưa ra một số giải pháp như sau:
1. Đối với Ban giám hiệu
Triển khai, tuyên truyền đến đội ngũ giáo viên, học sinh và phụ huynh hiểu
rõ PPDH trải nghiệm sáng tạo . Đồng thời trao đổi với phụ huynh để hỗ trợ HS
trong việc thực hiện dạy học trải nghiệm sáng tạo.
Trang bị thêm đồ dùng phục vụ cho các tiết thực hành, thí nghiệm.
2. Đối với giáo viên bộ môn
Cần nghiên cứu kỹ PPDH TNST để tiết dạy đạt hiệu quả. Tăng cường kiểm
tra đánh giá khâu thực hành nhằm rèn luyện kĩ năng, phát huy tính sáng tạo của
HS.
Có kế hoạch chi tiết sử dụng đồ dùng dạy học, đăng ký với giáo viên phụ
trách quản lý thiết bị và phòng học bộ môn. Đảm bảo đủ số giờ dạy có đồ dùng
dạy học và các bài thực hành theo qui định.
Tận dụng hết khả năng thiết bị của nhà trường hiện có và tự thiết kế thêm
đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Trong quá trình thực hành GV cần quan sát và hỗ trợ kịp thời cho HS.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
30
Phối hợp tốt với giáo viên phụ trách thiết bị để quản lý đồ dùng dạy học, có
kế hoạch sửa chữa hoặc đề nghị nhà trường để mua sắm bổ sung kịp thời.
Tích cực tham gia các cuộc thi thiết kế đồ dùng dạy học do nhà trường và
ngành giáo dục tổ chức.
3. Đối với học sinh
- Nâng cao ý thức trách nhiệm trong hoạt động học tập trải nghiệm sáng
tạo.
- Tích cực chuẩn bị đồ dùng học tập khi được giáo viên phân công.
- Có ý thức bảo quản tốt dụng cụ thí nghiệm học tập.
IV. KẾT LUẬN
Trong quá trình giảng dạy môn Vật lí ở trường THCS, bản thân được nhà
trường tạo điều kiện học tập, tham khảo PPDH TNST. Thông qua đó, tôi nhận
thấy rằng, để đạt được kết quả tốt hơn thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
GV với nhà trường, với phụ huynh để kịp thời hỗ trợ về cơ sở vật chất nhằm
phục vụ tốt hơn việc dạy học TNST. Bên cạnh đó, GV phải không ngừng học
tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn, học hỏi kinh nghiệm hay của
các đồng nghiệp thông qua các tiết dự giờ, thao giảng,… PPDH TNST còn mới
nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi sai sót, tôi hi vọng sẽ nhận được
những ý kiến góp ý của các đồng nghiệp để nội dung được hoàn thiện hơn, góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Vật lí của thị xã Vĩnh Châu trong
thời gian tới.
“Tôi nghĩ và nghĩ hàng năm hàng tháng.
Chín mươi chín lần tôi đi tới kết luận sai lầm. Lần thứ một trăm tôi đúng.”
Albert Einstein
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
31
THAM LUẬN
MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY HỌC
THEO PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU BÀI HỌC Ở MÔN VẬT LÝ
Tô Hữu Hạnh
Trường THCS Vĩnh Hiệp
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vật lý là bộ môn khoa học thực nghiệm với phương pháp nghiên cứu đi từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Mọi kết luận của nó đều rút ra được
nhờ thực tiễn và kiểm chứng bằng quan sát và thí nghiệm. Chính vì vậy, việc
dạy học theo phương pháp nghiên cứu bài học trong các giờ dạy Vật lý sẽ giúp
khơi dậy và phát triển năng lực tư duy, khả năng tự học, hợp tác và hình thành
cho các em biết các phương pháp học và nghiên cứu bộ môn nói chung và môn
Vật lý nói riêng.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng học tập bộ môn Vật lý hiện nay:
a. Thuận lợi:
* Về giáo viên:
- Nhà trường và tổ chuyên môn luôn tạo điều kiện thuận lợi, chỉ đạo chặt
chẽ, cụ thể và quan tâm sát sao đến công tác giảng dạy của giáo viên.
- Đa số giáo viên được đào tạo trên chuẩn, có chuyên môn vững, có kinh
nghiệm trong công tác giảng dạy. Giáo viên năng nỗ, sáng tạo trong công tác
giảng dạy, có thời gian và điều kiện để tiếp cận tri thức mới, có tinh thần ham
học hỏi, tự tìm tòi trong công tác và các hoạt động khác.
* Về học sinh:
- Đa số học sinh đều chăm ngoan, vâng lời thầy cô, đi học chuyên cần và
đúng giờ. Ngay từ đầu năm các em đã có đủ SGK và vở bài tập. Số học sinh ở
các lớp là vừa phải nên cũng thuận lợi cho việc quản lí và tổ chức hoạt động dạy
học.
- HS được tiếp xúc với nhiều phương pháp học tập mới nên việc tiếp thu
của HS nhanh. Làm bài tập đầy đủ để vận dụng những kiến thức đã học.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
32
b. Khó khăn:
* Về giáo viên:
- Cơ sở vật chất nhà trường còn nhiều khó khăn; thiếu phòng thực hành,
các dụng cụ và hình ảnh để làm thí nghiệm và minh họa. Nếu các bộ thí nghiệm
còn thì hầu như không còn chính xác, chất lượng kém và không đảm bảo an toàn
khi làm thí nghiệm.
- Lượng kiến thức cần truyền đạt nhiều, trình độ học sinh chưa đồng đều
nên cũng rất khó khăn trong công tác giảng dạy.
* Về học sinh:
- Chất lượng, năng lực học sinh không đồng đều, còn một số bộ phận các
em nhận thức còn chậm, lười học bài, chưa chịu khó trong học tập.
- Đa số gia đình các em có thu nhập thấp, còn một số phụ huynh chưa thật
quan tâm, các em phải giúp đỡ gia đình nhiều trong công việc hàng ngày nên
ảnh hưởng tới việc học ở nhà của các em.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên đòi hỏi GV cần lựa chọn những
phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm giúp các em phát huy tính tự học, khắc
phục yếu kém.
2. Giải pháp thực hiện:
Để vận dụng được phương pháp dạy học theo nghiên cứu bài học một cách
có hiệu quả thì GV cần thực hiện các công việc sau:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch bài học.
a. Xác định mục tiêu, chọn bài học nghiên cứu:
* Xác định mục tiêu: Cần xác định mục tiêu kiến thức và kỹ năng mà học
sinh cần đạt được (theo chuẩn kiến thức, kỹ năng ở từng môn học, đặc biệt cần
chú ý xây dựng mục tiêu về thái độ của học sinh), đảm bảo phù hợp với trình độ
và lứa tuổi của HS khi chọn bài học nghiên cứu
* Chọn bài học nghiên cứu: Mỗi GV cùng bộ môn được chọn những bài
phù hợp với yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ mà mục tiêu đã vạch ra sau
đó thống nhất lựa chọn bài học chung nhất để làm bài học nghiên cứu.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
33
- GV trong tổ thảo luận chi tiết về thể loại bài học đã chọn, nội dung bài
học, các phương pháp, phương tiện dạy học đạt hiệu quả cao, cách tổ chức dạy
học, cách rèn kỹ năng, hướng dẫn học sinh cách vận dụng kiến thức đã học để
giải quyết tình huống thực tiễn...
- Dự kiến những thuận lợi, khó khăn của HS khi học tập và các tình huống
xảy ra cùng với cách xử lý tình huống (nếu có)…
b. Xây dựng giáo án (Thiết kế bài dạy minh họa).
- Bài dạy minh họa không phải do một giáo viên thiết kế mà do một nhóm
giáo viên cùng bộ môn thiết kế, thảo luận, thống nhất lựa chọn phương án tối ưu.
- Việc thiết kế bài soạn không nhất thiết phụ thuộc máy móc vào quy trình
bước dạy theo SGK hoặc SGV mà dựa vào mục tiêu bài học để thiết kế cho phù
hợp.
Bước 2: Tiến hành bài học và dự giờ.
- Sau khi hoàn thành giáo án của bài học nghiên cứu chi tiết, nhóm soạn
giáo án chọn GV dạy minh họa bài học nghiên cứu ở một lớp học cụ thể, các GV
còn lại trong nhóm cùng các thành viên trong tổ tiến hành dự giờ và ghi chép thu
thập dữ kiện về bài học.
- GV dự giờ phải đảm bảo nguyên tắc: Không làm ảnh hưởng đến việc
học tập của học sinh; không gây khó khăn cho giáo viên dạy minh họa.
- Khi dự giờ GV tập trung vào việc học của học sinh, theo dõi nét mặt,
hành vi, sự quan tâm đến bài học của học sinh đặc biệt cần ghi chép cụ thể thái
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
34
độ của hs khi tham gia trả lời các câu hỏi của GV, thông qua đó tìm mối liên hệ
giữa việc học của HS với tác động của giáo viên về cách sử dụng các phương
pháp dạy học, cách tổ chức lớp học.
- GV dự giờ có thể đi lại các nhóm HS thảo luận để quan sát và hướng dẫn
thêm trong quá trình thực hiện.
Bước 3: Giáo viên dự giờ có thể hỗ trợ học sinh khi gặp khó khăn, phân
tích và rút kinh nghiệm sau khi đã dạy minh họa.
3.1. Giáo viên dạy minh họa chia sẻ về bài học:
- Những ý tưởng mới.
- Những thay đổi, điều chỉnh về nội dung.
- Phương pháp dạy học.
- Những điều hài lòng và chưa hài lòng trong quá trình dạy minh họa.
3.2. Sau đó người dự suy ngẫm và chia sẻ các ý kiến của GV về bài học
sau khi dự giờ:
- Người dự trao đổi, chia sẻ, lắng nghe mang tính xây dựng.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
35
- Thảo luận xem HS học như thế nào? (mức độ tham gia, hứng thú và kết
quả học tập của từng em).
- Cùng suy nghĩ: Vì sao học sinh chưa tích cực tham gia vào hoạt động
học, học chưa đạt kết quả... và đưa ra các biện pháp thay đổi cách dạy phù hợp.
- Mọi người phải lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau khi thảo luận,
không nên quan tâm đến các tiêu chuẩn truyền thống của một giờ dạy.
- Không nên phê phán đồng nghiệp.
- Không đánh giá xếp loại giờ dạy minh hoạ.
3.3 Nhóm trưởng tổng hợp các ý kiến và đưa ra các nhận định đạt được và
chưa đạt được để rút kinh nghiệm.
Bước 4: Áp dụng cho thực tiễn dạy học hàng ngày.
Thông qua tiết dạy minh họa, thông qua thảo luận tiết dạy của đồng
nghiệp giáo viên tự rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân, kiểm nghiệm
những vấn đề đã được dự giờ và thảo luận, áp dụng vào bài giảng hàng ngày:
Nguyên tắc vận dụng vào dạy học hàng ngày:
- Giảm truyền thụ kiến thức bằng phương pháp thuyết trình.
- Vận dụng các PPDH kỹ thuật mới có sự tham gia của HS.
- Sử dụng thiết bị dạy học “thực tế”.
- Tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ 4 - 6, cân bằng giới tính, năng lực.
- Khuyến khích sự tích cực, sáng tạo của HS.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
36
3. Kết quả:
Trong thời gian qua, việc thực hiện phương pháp dạy học theo hướng
nghiên cứu bài học vào các tiết dạy - học mà mình được giảng dạy, chúng tôi
thấy rằng chất lượng từng giờ dạy và kết quả bộ môn ngày được nâng lên. Các
em cũng ngày càng hợp tác tốt hơn và hứng thú hơn với từng tiết dạy. Chính vì
vậy mà chúng tôi nhận thấy việc thực hiện phương pháp dạy học theo hướng
nghiên cứu bài học vào giảng dạy là hoàn toàn hợp lý.
III. Kết luận:
- Dạy học theo hướng nghiên cứu bài học đòi hỏi nhiều công sức, sự nhiệt
tình tâm huyết của giáo viên và sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của học sinh.
Nhưng đó là một trong những phương pháp gây hứng thú học tập cho học sinh
và góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
- Tạo cho HS có niềm tin vào năng lực bản thân, tự tin học tập.
1. Đối với các cấp:
- Rà soát và trang bị đầy đủ ĐDDH, đồ dùng thí nghiệm kịp thời, có trang
bị bổ sung cho từng năm học.
- Để tạo điều kiện dạy và học môn Vật lý đạt hiệu quả cao cần có phòng
học bộ môn thích hợp theo tiêu chuẩn quy định.
- Nên tổ chức các lớp tập huấn về các phương pháp dạy học Vật lý cho giáo
viên giảng dạy Vật lý và đồng chí quản lí thiết bị trước khi bước vào năm học.
2. Đối với giáo viên:
- Giáo viên phải có đam mê, tinh thần ham học hỏi, tự điều chỉnh thời gian
một cách khoa học để dành thời gian ôn luyện.
- Sử dụng triệt để đồ dùng dạy học sẵn có và sưu tầm thực tiễn, làm
ĐDDH, vận động và giúp đỡ học sinh làm đồ dùng học tập.
Trên đây là một số kinh nghiệm về dạy học theo nghiên cứu bài học, rất
mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, trao đổi của quý đồng nghiệp để bản
thân rút ra nhiều kinh nghiệm hơn. Xin chân thành cảm ơn!
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
37
CHUYÊN ĐỀ
DẠY HỌC THEO HƯỚNG TÍCH HỢP LIÊN MÔN TRONG VẬT LÍ
Lê Thị Thúy Hằng
Trường THCS Vĩnh Hải
I. LÍ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
Các môn khoa học xã hội và các môn khoa học tự nhiên trong nhà trường
phổ thông có vai trò vô cùng quan trọng, nhiệm vụ của nó là góp phần không
nhỏ vào việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Ngày nay với sự
phát triển của đất nước, nền giáo dục Việt Nam có những biến đổi sâu sắc về
mục tiêu, nội dung và cả phương pháp dạy học. Ngành giáo dục đã tiến hành cải
cách sách giáo khoa ở các bậc học. Sách giáo khoa được biên soạn trên hình
thức đổi mới phương thức dạy và học trên cơ sở lấy người học làm trung tâm.
Trong đó việc đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình đổi mới sách
giáo khoa thì học sinh phải chủ động tiếp thu kiến thức, đào sâu kiến thức bài
học thông qua sự hướng dẫn của giáo viên, chủ yếu là thực nghiệm hơn thực
giảng, nhằm giúp các em tự giác, độc lập suy nghĩ và tích cực học tập trên lớp
và ở nhà để giúp học sinh hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức đã được thầy cô giảng dạy
Vật lí học là cơ sở của nhiều ngành kĩ thuật quan trọng. Nó có ứng dụng
hầu hết trong các lĩnh vực của cuộc sống. Sự phát triển của khoa học vật lí gắn
bó chặt chẽ và có tác động qua lại trực tiếp với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật.
Vì vậy những hiểu biết và nhận thức của học sinh về vật lí có giá trị to lớn trong
đời sống và sản xuất.
Vì vậy việc vận dụng phương pháp dạy học theo hướng tích hợp kiến thức
liên môn như thế nào để học sinh học được vật lí, say mê hứng thú với môn học
đươc coi khô khan này. Đó là điều trăn trở đối với giáo viên dạy bộ môn Vật lí
nói chung và GV tổ Lí Hóa Công nghệ trường THCS Vĩnh Hải nói riêng. Cũng
chính vì lí do đó, chúng tôi cố gắng tìm hiểu và trao đổi về chuyên đề với nội
dung thực sự cần thiết để áp dụng trong quá trình dạy học của tổ và để các đồng
nghiệp cùng quan tâm tham khảo, đóng góp ý kiến.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
38
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của dạy học tích hợp liên môn.
1.1. Cơ sở lý luận
- Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy
học nói chung và môn vật lí nói riêng, đây được coi là một quan điểm dạy học
hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất
lượng giáo dục.
- Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các
môn học có liên hệ với môn vật lí. Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới
giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm trong giảng dạy. Vì
vậy việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn còn gặp nhiều
khó khăn lúng túng.
- Trong dạy học, tích hợp liên môn được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội
dung từ các môn học trong các lĩnh vực học tập khác nhau thành một môn tổng
hợp mới hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của
môn học ví như lồng ghép nội dung tác dụng của ánh sáng môn Vật lí vào môn
Sinh học, môn Mĩ thuật, môn Ngữ văn; nội dung năng lượng ánh sáng và điện
năng vào Sinh học, môn Địa lí, môn Công nghệ; nội dung dân số vào môn Sinh
học, môn Địa lí; nội dung giáo dục môi trường môn Sinh học, môn Công dân,
môn Hóa, … Như vậy thông qua dạy học tích hợp liên môn thì những kiến thức,
kỹ năng học được ở môn này có thể sử dụng như những công cụ để nghiên cứu,
học tập các môn học khác: chẳng hạn sử dụng Vật lí như những công cụ đắc lực
để nghiên cứu Sinh học, các ngành khoa học kĩ thuật khác như: Vật liệu điện tử,
bán dẫn, công nghệ nano, công nghệ hạt nhân
*Mục tiêu của dạy học tích hợp liên môn:
- Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa hơn: Hình thành ở người học,
những năng lực rõ ràng.
- Giúp học sinh phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn: Do dự tính
được những điều cần thiết cho học sinh.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
39
- Quan tâm đến việc sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể: Giúp học
sinh hòa nhập vào thực tiễn cuộc sống.
- Giúp người học xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm, các hiện tượng
vật lí đã học.
* Đặc điểm của dạy học tích hợp liên môn:
- Lấy người học làm trung tâm.
- Định hướng, phân hóa năng lực người học.
- Dạy và học các năng lực thực tiễn.
=> Dạy học tích hợp liên môn giúp học sinh trở thành người học tích cực,
người công dân có năng lực giải quyết tốt các tình huống có vấn đề mang tính
tích hợp trong thực tiễn cuộc sống. Dạy học tích hợp liên môn cho phép rút ngắn
được thời gian dạy học đồng thời vẫn tăng được khối lượng và chất lượng thông
tin.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Môn vật lí cũng như các môn học khác có vai trò không chỉ tác động đến trí
tuệ mà còn tư tưởng, tình cảm. Đồng thời còn góp phần hoàn thiện con người
“Đức – trí – thể - mĩ” ở những mức độ khác nhau. Mặc dù có vai trò, nhiệm vụ
quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ nhưng hiện nay việc dạy học môn vật lí
chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ, vai trò của mình và thực tế đáng buồn là học sinh
không thích học môn vật lí, sợ học môn vật lí. Các em tiếp thu kiến thức một
cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống. Vì các em cho rằng học Vật lí phải
ghi nhớ quá nhiều kiến thức khô khan, không chịu vận dụng vào thực tế.
Từ nguyên nhân trên giáo viên dạy vật lí cần phải thay đổi phương pháp
dạy học để phát huy được thế mạnh của bộ môn, chỉ ra cho học sinh nhận thức
được đây là bộ môn khoa học, cần phải nghiên cứu nghiêm túc, có sự so sánh
vận dụng linh hoạt, gắn kết liên môn với bộ môn khác và vận dụng càng nhiều
với thực tế thì học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức, ghi nhớ kiến thức sâu hơn.
Tạo được không khí học tập sinh động giúp cho học sinh thích thú học tập môn
vật lí hơn. Ngoài ra hiện nay việc tích hợp liên môn còn thể hiện ở việc như là:
- Xu hướng tích hợp các môn khoa học tự nhiên trên thế giới.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
40
- Thực tế giáo dục Việt Nam: quan điểm tích hợp đã được thể hiện trong
một số môn học ở bậc tiểu học các năm trước và ngày nay vẫn được định hướng
ở nhiều cấp học.
- Chương trình Vật lí trong nhà trường phổ thông có nhiều tiềm năng, cơ
hội để xác định, xây dựng các nội dung, chủ đề tích hợp trong môn học hoặc với
các môn khoa học liên quan như Hóa, Sinh, Địa, Toán, ...
2. Tìm hiểu về phương pháp và xu hướng dạy học tích hợp liên môn.
2.1. Thế nào là dạy học tích hợp liên môn?
Theo chúng tôi hiểu thì “Dạy học tích hợp liên môn là dạy cho học sinh
biết tổng hợp kiến thức, kĩ năng ở nhiều môn học để giải quyết các nhiệm
vụ học tập và hình thành năng lực giải quyết các tình huống thực tiễn”,
trong đó:
Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan
vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức lối sống, giáo
dục pháp luật, giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới biển đảo, giáo dục sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giáo dục bảo vệ môi trường, an toàn giao
thông…
Dạy học liên môn là phải xác định được các nội dung kiến thức liên quan
đến các môn học khác để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần
cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Đối với những kiến thức
liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương
trình môn học đó và không phải dạy ở các môn khác. Trường hợp nội dung kiến
thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ
chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học
các môn liên quan.
2.2. Ưu điểm của dạy học tích hợp liên môn.
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên có tinh thần tìm tòi sáng tạo ra các giải pháp cho học sinh thí
nghiệm thực hành để các em làm quen dần với khoa học, qua đó rèn luyện thêm
cho học sinh kĩ năng làm thí nghiệm và thao tác trên dụng cụ.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
41
- Giáo viên thường xuyên phải dạy các kiến thức có liên quan đến môn học
khác vì vậy giáo viên có sự am hiểu về các kiến thức liên môn đó.
- Giáo viên các bộ môn liên quan có điều kiện và chủ động hơn trong sự
phối hợp hỗ trợ lẫn nhau trong dạy học.
- Dạy học theo chủ đề liên môn sẽ giảm tải các kiến thức liên môn trong
môn học của mình. Rút ngắn được thời gian trong dạy học bộ môn vừa tăng
cường khối lượng và chất lượng thông tin.
*Đối với học sinh.
- Các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động hấp dẫn tạo
động cơ và hứng thú học tập của học sinh.
- Học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào các tình
huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc.
- Học sinh không phải học lại nội dung kiến thức nhiều lần ở các môn học
khác nhau, vừa gây nhàm chán và không có sự hiểu biết tổng quát cũng như vận
dụng kiến thức tổng quát vào thực tiễn.
2.3. Xu hướng của dạy học tích hợp liên môn
Xuất phát từ những ưu điểm của dạy học tích hợp liên môn, chúng tôi nhận
thấy, dạy học tích hợp liên môn là cần thiết, nó là xu hướng của lý luận dạy học
và đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện.
* Trên thế giới, hiện nay có hai xu hướng dạy học tích hợp:
- Tích hợp trong một môn học gồm có tích hợp đơn môn, tích hợp đa môn,
tích hợp liên môn hoặc tích hợp xuyên môn.
- Tích hợp nhiều môn học, nhiều lĩnh vực thành một môn tổng hợp mới
gồm có tích hợp liên môn và tích hợp xuyên môn.
* Ở Việt Nam, giáo dục với mục tiêu thay đổi “Phương pháp dạy học từ
truyền thụ kiến thức sang tổ chức hướng dẫn định hướng phát triển năng lực
nhận thức học sinh”, đang đặt ra thách thức lớn đối với đội ngũ giáo viên ở
trường phổ thông. Theo đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục thì giáo viên
tổ chức hướng dẫn để học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kỹ năng thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
42
hình thành những kiến thức, kỹ năng mới, phát triển được những năng lực cần
thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và thực tiễn cuộc sống,
nhằm đào tạo những con người có năng lực phát triển và giải quyết các vấn đề
đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế - xã hội thời kỳ hội nhập.
Từ ưu điểm của dạy học tích hợp liên môn, yêu cầu thực tiễn của giáo dục
hiện đại và thực trạng của giáo dục Việt Nam hiện nay, chúng tôi nhận thấy dạy
học tích hợp liên môn là xu thế tất yếu và có tính khả thi.
3. Thực tế của dạy học tích hợp liên môn trong dạy học Vật lí hiện nay.
Trong trường THCS, môn Vật lí giữ vai trò quan trọng, là “chìa khoá” giúp
HS mở những “cánh cửa” đi vào các môn học khác. Nhưng ngược lại chỉ có một
vài môn hỗ trợ cho việc nắm kiến thức ở môn Vật lí. Vì thế trong quá trình tìm
hiểu, nghiên cứu và dạy học thử nghiệm tích hợp liên môn cho môn Vật lí học
chúng tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn nhất định.
3.1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường đến việc đổi mới phương pháp
giáo dục trong nhiều năm.
- Gia đình học sinh phần lớn đã có sự quan tâm đến việc học tập và rèn
luyện ở trường, nên sự phối kết hợp giữa giáo viên với phụ huynh học sinh có
nhiều thuận lợi.
- Nhà trường quan tâm tạo điều kiện cho tổ chuyên môn hoạt động, tổ được
trang bị máy tính được nối mạng, có máy chiếu...
- Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa.
- Vận dụng phương pháp dạy học tích hợp, liên môn hình thành và thúc đẩy
tư duy trong quá trình làm việc nhóm của giáo viên và học sinh.
3.2 Khó khăn:
- Đa số học sinh đều có tâm lí ngại thay đổi tìm tòi, ngại khó khăn, vẫn
mang tư duy lối mòn cũ.
- Thực tế việc dạy học vận dụng kiến thức liên môn phải có sự phối kết hợp
làm việc nhóm giữa nhiều giáo viên các bộ môn nên tốn thời gian.
- Việc sưu tầm, chọn lọc tài liệu gặp phải nhiều khó khăn.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
43
- Nhiều giáo viên trong tổ chưa được tập huấn về dạy học theo chủ đề
tích hợp liên môn.
- Bản thân mỗi giáo viên để soạn giáo án liên môn phải xây dựng bài giảng
điện tử phải tốn nhiều thời gian nghiên cứu, đầu tư công sức cho bài dạy, và gặp
không ít khó khăn khi tìm hình ảnh minh hoạ, tư liệu dẫn chứng phù hợp.
- Học sinh trong trường đa số là học sinh người dân tộc thiểu số chất lượng
đầu vào của trường rất thấp cho nên khả năng tự học, tự tìm tòi, tự tìm ra kiến
thức của các em còn rất yếu.
- Sự hợp tác giữa người học với người học còn nhiều hạn chế đòi hỏi ở
giáo viên rất nhiều sự định hướng và phải phù hợp với đối tượng học sinh.
4. Giải pháp cho dạy học tích hợp liên môn trong dạy học Vật lí
4.1. Lên kế hoạch, chọn bài giảng phù hợp:
Mỗi giáo viên phải tìm hiểu, nghiên cứu cơ sở lý luận của dạy học tích hợp
liên môn, nghiên cứu kỹ nội dung chương trình môn Vật lí ở từng khối lớp để
xác định được các nội dung, bài dạy dễ tích hợp liên môn như: Sử dụng an toàn
và tiết kiệm điện, truyền tải điện năng đi xa và máy biến thế, các tác dụng của
dòng điện, các tác dụng của ánh sáng,… tích hợp kiến thức liên môn Địa, Công
nghệ, Sinh,…
4.2. Soạn giáo án chuẩn bị đồ dùng dạy học.
- Tiến hành soạn giáo án, lồng ghép vào các tiết học cụ thể. Xác định trọng
tâm và xác định nội dung tích hợp sao cho vừa đảm bảo trọng tâm bài học vừa
tự nhiên gần gũi.
+ Soạn giáo án tích hợp, liên môn đó là một bản thiết kế các hoạt động, tình
huống nhằm tổ chức cho người học thực hiện trong giờ lên lớp để giải quyết các
nhiệm vụ học tập.
+ Chuẩn bị hệ thống câu hỏi: Những nội dung khó, mục đích giải quyết ở
lớp, ở nhà chú ý phát triển kiến thức bồi dưỡng học sinh giỏi, khá, năng khiếu bộ
môn. Dự kiến những sai lầm của học sinh (nếu có) và cách khắc phục.
+ Khai thác nội dung giáo dục tư tưởng tình cảm thẩm mĩ, dân số, môi
trường… nhằm liên môn các môn học.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
44
+ Chuẩn bị các tiểu kĩ năng: Việc dùng các tiểu kĩ năng trong tiết dạy nhằm
phát huy tính tích cực của người học. Giúp học sinh làm những gì có thể nhờ sự
giúp đỡ của giáo viên, đó là một cách để các em tự làm được những công việc
khó hơn, tự khẳng định mình.
+ Căn cứ vào những hướng dẫn trong phiếu giao việc, GV tổ chức cho học
sinh làm việc cá nhân với Sách giáo khoa, với phương tiện sẵn có hoặc trao đổi
nhóm hay học tập toàn lớp.
+ Chọn hình thức tổ chức tiết học phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của
trường, phù hợp với nội dung bài dạy và môn dạy.
+ Để tổ chức tốt một tiết dạy phải tùy nội dung và mục đích cụ thể của bài
dạy để xác định cách tổ chức học tập cho học sinh làm thế nào để có kết quả cao
nhất.
+ Chuẩn bị đồ dùng dạy học: Nắm được đặc điểm tâm lí của học sinh
THCS là tư duy còn rất cụ thể do đó trong tiết dạy việc sử dụng đồ dùng dạy học
đã thực sự góp phần nâng cao chất lượng tiết dạy, giúp các em nắm vững kiến
thức một cách kĩ lưỡng hơn cũng như gây hứng thú học tập cho học sinh trong
tiết dạy. Chú ý bố trí bàn ghế phù hợp với hình thức tiết dạy.
+ Chọn phương pháp đặc trưng của bộ môn: Vận dụng và phối hợp các
phương pháp truyền thống với phương pháp “Lấy học sinh làm trung tâm” luôn
phải hết sức linh hoạt, uyển chuyển, nhẹ nhàng để nâng cao chất lượng dạy và
học, nâng cao hiệu quả đào tạo học sinh.
- Các tư liệu về rác thải, ô nhiễm môi trường, nhiệt độ địa phương, đặc
điểm sông ngòi, các nhà máy sản xuất ứng dụng liên quan đến các hiện tượng
vật lí.
Từ việc phân loại học sinh yếu kém theo những nguyên nhân trên, người
giáo viên cần đề ra những phương pháp cho phù hợp để nâng dần chất lượng.
4.3. Kết hợp với các giáo viên bộ môn có liên quan
Tự tìm kiếm tư liệu trong sách vở, trên mạng hoặc kết hợp với đồng nghiệp
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
45
4.4. Tiến hành lồng ghép, phù hợp, hiệu quả
- Giáo viên chọn nội dung tích hợp phù hợp với tiết dạy. Tích hợp với thời
lượng, dung lượng phù hợp, không tham lam, làm mờ nhạt trọng tâm.
- Tích hợp nhẹ nhàng, phù hợp trong các bước lên lớp, phù hợp với tiến
trình bài giảng.
- Nội dung tích hợp phải ngắn gọn, súc tích làm cho bài học sinh động và
làm nổi bật trọng tâm.
5. Khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức liên môn để tìm hiểu bài
học.
- Giáo viên giao việc cho học sinh, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài học
bằng cách sưu tầm tư liệu có liên quan.
- Yêu cầu học sinh tìm hiểu về các tác hại của việc ô nhiễm môi trường: rác
thải, tiếng ồn, khí thải công nghiệp, chặt phá rừng, đặc điểm và điều kiện tự
nhiên của nước ta…
Giáo viên cần thực hiện thêm các công việc sau đây:
+ Tích cực đổi mới phương pháp, sử dụng triệt để và có hiệu quả các thiết
bị dạy học.
+ Đảm bảo liên tục, kiên trì, bồi dưỡng học sinh yếu kém.
+ Xây dựng bầu không khí học tập tích cực.
+ Tổ chức “Đôi bạn cùng tiến” để các em theo dõi, nhắc nhở nhau trong
học tập ở lớp cũng như ở nhà.
+ Đối với các học sinh yếu kém, cần quan tâm nhiều hơn các em khác, giáo
viên thường xuyên kiểm tra vở sách và bài cũ của các em, thường xuyên cho các
em trả lời và động viên khích lệ kịp thời.
+ Có thể xin phép nhà trường tổ chức phụ đạo để nâng cao kiến thức cho
các em.
III. KẾT LUẬN
Việc vận dụng dạy học tích hợp liên môn vào dạy học ở môn Vật lí là có
hiệu quả đã góp phần nâng cao một bước chất lượng dạy và học trong nhà
trường phổ thông. Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp liên môn thực ra
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
46
không phải là nội dung mới trong giáo dục có điều trước đây chúng ta thực hiện
theo cách hiểu, quan điểm cá nhân, riêng lẻ ở những môn học khác nhau chưa có
sự đồng bộ thống nhất.
Khi xây dựng các nội dung, các chủ đề tích hợp liên môn cần đảm bảo các
nguyên tắc sau:
- Đảm bảo tính hệ thống nhưng có sự thống nhất, đồng bộ giữa các môn
liên quan.
- Có tính thực tế (tính khả thi cao): phù hợp với năng lực, thời gian và điều
kiện cơ sở vật chất, các thiết bị dạy học hiện nay.
“Nhiều giáo viên tốn thời gian đặt câu hỏi để xem học sinh của mình còn điều gì
không hiểu, trong khi nghệ thuật đích thực của việc đặt câu hỏi là tìm xem học
sinh đã hiểu hoặc có thể hiểu những gì”.
Albert Einstein
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
47
CHUYÊN ĐỀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN VẬT LÝ
CHO HỌC SINH VÙNG DÂN TỘC THÔNG QUA PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC “TÍCH HỢP GIÁO DỤC”
Nguyễn Thành Thơ
Trường THCS&THPT Dân Tộc Nội trú
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên tinh thần đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay nhằm
nâng cao mặt bằng dân trí, xóa sự chênh lệch về nhận thức giữa thành thị và
nông thôn, vùng sâu ,vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ... Vì vậy việc nâng cao
chất lượng và đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng “ Tích hợp trong
giáo dục” là rất cần thiết.
Hiện nay ngành Giáo dục – Đào tạo đang đổi mới một cách toàn diện
chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, tự
giác của học sinh trong quá trình học tập, giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức một
cách tích cực chủ động, sáng tạo. Bộ môn vật lý là một môn khoa học thực
nghiệm với phương pháp nghiên cứu đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng. Mọi kết luận của nó đều rút ra được nhờ thực tiễn và kiểm chứng bằng
quan sát và thí nghiệm. Chính vì vậy trong các tiết học vật lý cần phải kết hợp
giữa lý thuyết và thực hành nhằm kích thích quá trình học tập của học sinh, khơi
dậy và phát triển năng lực tư duy khả năng tự học, hình thành cho các em biết rõ
phương pháp học và nghiên cứu bộ môn.
Việc vận dụng đúng phương pháp dạy học theo đặc thù của bộ môn sẽ
đem lại hiệu quả cao cho quá trình dạy học.
Để giải quyết vấn đề trên, trong giảng dạy đòi hỏi ở giáo viên phải có
năng lực vững vàng, kết hợp với tích hợp giáo dục để giúp cho học sinh tiếp thu
kiến thức của bài học một cách tốt nhất.
PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Cơ sở lý luận:
Từ mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ thành con người lao động làm chủ đất
nước, có trình độ văn hóa cơ bản, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế xã
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
48
hội. Những con người có trí tuệ năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, tư
tưởng tốt. Những con người như vậy phải được rèn luyện trong quá trình đào tạo
và tự tạo. Để đạt được mục tiêu đó thì trong giảng dạy ở nhà trường phổ thông
điều quan trọng nhất là phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo của học sinh trong
học tập. Hoạt động nhận thức trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm, làm chủ
thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn, giúp đỡ tích cực có hiệu quả của giáo
viên và việc học tập tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh.
Việc dạy học sẽ làm cho học sinh phát triển khác nhau tùy thuộc ở nội
dung và phương pháp dạy học. Vì vậy việc dạy học không chỉ quan tâm đến
nhiệm vụ làm cho học sinh tiếp thu được một số kiến thức nào đó, mà còn phải
quan tâm tới nhiệm vụ phát triển trí tuệ của học sinh. Trong quá trình làm cho
học sinh nắm vững kiến thức, kỹ năng, nhiệm vụ của quá trình dạy học không
phải chỉ giới hạn ở sự tạo thành các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo có tính chất tái
tạo đơn thuần. Mà cần phải làm sao cho quá trình dạy học phát triển được ở học
sinh năng lực áp dụng kiến thức trong tình huống mới. Giải những bài toán vật
lý không phải chỉ là theo khuôn mẫu đã có, thực hiện những bài toán có tính
chất nghiên cứu và thiết kế, mà trước kia chưa biết để giải các bài toán thuộc
loại mới, cũng như nắm được những kỹ năng, kỹ xảo mới hợp yêu cầu thực tiễn.
Tức là phải phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.
Cho học sinh tự tìm tòi, tự hiểu biết để phát triển, khai thác, hưởng thụ
những thành quả lao động vẫn chưa tự bỏ cách giáo dục mang tính thực dụng.
Không ít giáo viên chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức cần thiết để các
em làm bài điểm cao mà không chú ý phát huy trí lực của học sinh, không quan
tâm đến việc rèn luyện trí thông minh, sáng tạo. Điều này đua đến các em lại
không biết vận dụng các hiện tượng, quy luật đó để giải thích một số hiện tượng
về khoa học tự nhiên và không chỉ ra được ứng dụng rãi của nó trong khoa học
kỹ thuật.
Do vậy việc đổi mới phương pháp dạy học là không thể thiếu được trong
nhà trường hiện nay. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm là cốt lõi của việc đổi
mới phương pháp dạy học. Có như vậy thì mới phát huy được năng lực. Năng
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
49
lực đó phải được đào tạo và rèn luyện thành thói quen, phải được hình thành từ
nhà trường phổ thông cũng như của các môn khoa học tự nhiên khác.
2. Thực trạng:
Vận dụng dạy học tích hợp giáo dục là yêu cầu tất yếu của việc thực hiện
nhiệm vụ dạy học ở nhà trường phổ thông, giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo. Mặt khác các tri thức khoa học phát triển như
vũ bảo, nhưng khả năng tiếp thu những kiến thức của học sinh vùng có nhiều
học sinh người dân tộc là có hạn, vì vậy người giáo viên cần phải có nhiệm vụ
trang bị những kĩ năng cũng như tư duy của HS để bắt kịp với sự phát triển đó.
3. Một số giải pháp:
a.Cơ sở đề xuất giải pháp:
Việc dạy học tích hợp giáo dục giúp phát triển năng lực, đặc biệt là trí
tưởng tượng khoa học và năng lực tư duy của học sinh, vì nó luôn vận dụng kiến
thức trong các tình huống gần gũi với cuộc sống.
b.Các giải pháp chủ yếu:
*Vận dụng tốt các phương pháp dạy học tích hợp giáo dục:
Việc vận dụng dạy học tích hợp giáo dục là một yêu cầu tất yếu của việc
thực hiện nhiệm vụ dạy học ở nhà trường phổ thông. “Mục tiêu giáo dục phổ
thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo,
hình thành nhân cách con người”. Việc có nhiều môn học đã được đưa vào nhà
trường phổ thông hiện nay là sự thể hiện quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục
toàn diện. Các môn học đó phải liên kết với nhau để cùng thực hiện mục tiêu
giáo dục nêu trên.
Việc dạy học tích hợp giáo dục sẽ góp phần giảm tải học tập cho học sinh
đồng thời cũng làm giảm sự trùng lập nội dung dạy học giữa các môn học, góp
phần giảm tải nội dung học tập. Tích hợp ở đây là sự kết hợp lồng ghép các mục
tiêu khác nhau thông qua một hoạt động dạy học cụ thể trong nội dung chương
trình và các bài học trong sách giáo khoa.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
50
Để nâng cao hiệu quả của việc tích hợp giáo dục vào môn học vật lý,
nhằm nâng cao chất lượng bộ môn phải cần nghiên cứu vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực đã được đưa vào chương trình học như:
*Dạy học nêu và giải quyết vấn đề:
Dạy học nêu vấn đề và giải quyết vấn đề là một phương pháp dạy học tích
cực đang được khuyến khích vận dụng ở mọi cấp học, bậc học vì nó phát triển
năng lực tự lực, năng lực sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, để vận dụng hiệu
quả phương pháp dạy học này cần phân tích, lựa chọn nội dung dạy học chi tiết,
cụ thể và phát huy cao vai trò tổ chức, cố vấn của giáo viên.
*Thảo luận nhóm:
Đây là phương pháp dạy học có hiệu quả tốt khi tích hợp các nội dung,
cũng là phương pháp dạy học đang được vận dụng rộng rãi hiện nay.
*Dạy học kiến tạo:
Tư tưởng cơ bản của dạy học kiến tạo là nhấn mạnh vai trò kinh nghiệm
đã có của học sinh, sự tương tác giữa học sinh và môi trường học tập. Dạy học
kiến tạo hướng đến việc nghiên cứu kinh nghiệm và các quan niệm vốn có của
học sinh, từ đó tổ chức quá trình dạy học sao cho học sinh tự lực “xây dựng”
kiến thức. Dạy học kiến tạo là một phương pháp dạy học tích cực, phối hợp
nhiều phương pháp và phương tiện dạy học khác nhau để hổ trợ học sinh tự xây
dựng kiến thức, qua đó phát triển năng lực tự lực, sáng tạo.
c. Sử dụng các phương tiện dạy học:
Hiện nay các trường phổ thông đã quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng
các phương tiện dạy học. Ngoài các thiết bị thí nghiệm theo qui định, các trường
đều tích cực trang bị thiết bị nghe nhìn, máy vi tính, kết nối internet,… Đó là
điều kiện rất quan trọng cho việc đổi mới phương pháp dạy học.
Khi tích hợp giáo dục vào môn học thì các phương tiện dạy học có vai trò
rất quan trọng. Với sự hổ trợ của các phương tiện như máy vi tính, đèn chiếu,
máy chiếu giáo viên có thể khai thác nhiều tư liệu và phần mềm dạy học một
cách nhanh chóng và hiệu quả.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
51
d. Chọn lựa hệ thống câu hỏi dẫn dắt kiến thức cho học sinh:
- Đối với học sinh vùng nông thôn, vùng có nhiều học sinh người dân tộc,
điều kiện học tập khó khăn, đa số các em chưa thích ứng với việc thay đổi
phương pháp dạy học bằng phương pháp mới và thực nghiệm. Do đó việc sử
dụng hệ thống câu hỏi để dẫn dắt học sinh tìm tòi, nắm vững kiến thức là rất
quan trọng. Cho nên giáo viên cần đưa ra hệ thống câu hỏi dẫn dắt là rất cần
thiết, đặt câu hỏi không quá khó, nên đặt câu hỏi gợi mở để giúp học sinh dễ
dàng trả lời được. Tạo điều kiện thông qua việc truyền thụ kiến thức mới lấp dần
những kiến thức đã hỏng.
e. Tăng cường kĩ năng tính toán, thực hành:
- Nhìn chung, trong các tiết dạy của giáo viên nặng về lý thuyết bám sát
sách giáo khoa… chính vì thế, thời gian rèn luyện kĩ năng, thực hành quá ít, học
sinh hạn chế về kĩ năng thực nghiệm, không khắc sâu được kiến thức trọng tâm.
- Dạy vật lý theo phương pháp đổi mới rất chú trọng đến thực hành. Thực
hành vật lý không chỉ là thực hành theo các thí nghiệm trong sách giáo khoa mà
quan trọng của thực hành là thông qua đó rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm
thực hành, kĩ năng tính toán, áp dụng tốt các công thức, định luật vật lý được rút
ra từ các thí nghiệm. Vì vậy giáo viên cần kết hợp tốt giữa lý thuyết và thực
hành.
Thực hành vật lý còn kích thích ở học sinh óc tò mò khoa học, lòng say
mê môn học vật lý, ham muốn vận dụng kiến thức vật lí đã học vào đời sống và
rèn luyện cho học sinh ý thức tổ chức, ý thức làm việc có kế hoạch, ý thức bảo
vệ của công.
f. Gợi ý kiểm tra, đánh giá học sinh:
Việc kiểm tra, đánh giá có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình dạy
học nói chung. Trong dạy học tích hợp giáo dục việc kiểm tra đánh giá lại càng
cần thiết. Kiểm tra, đánh giá trong giáo dục học tập bộ môn vật lý trước hết
khẳng định mục tiêu giáo dục tích hợp là rất quan trọng, là một bộ phận của học
vấn phổ thông, đóng góp vào việc hình thành nhân cách học sinh, giúp cho việc
củng cố kiến thức, kĩ năng đã đạt được của học sinh; đồng thời giúp cho giáo
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
52
viên đánh giá kết quả dạy học của mình, đặc biệt là đánh giá hiệu quả của việc
giáo dục tích hợp các nội dung cần thiết vào bài học.
Nội dung kiểm tra, đánh giá được xác định trên cơ sở mục tiêu tích hợp
giáo dục đã được xác định khi xây dựng kế hoạch dạy học và mục tiêu dạy học
của bộ môn. Nó có thể là mục tiêu dạy học chung của môn học, một chương
hoặc một bài học.
Do đặc điểm cấu trúc của chương trình và sách giáo khoa các môn học
cấp THCS nên không nhất thiết phải thực hiện tích hợp giáo dục vào bài học
theo trình tự, việc tích hợp giáo dục vào môn học phải căn cứ vào đặc điểm kiến
thức của bài học cụ thể trong từng môn học. Khi xây dựng kế hoạch dạy học tích
hợp giáo dục, tổ bộ môn cần xây dựng kế hoạch chung để giáo viên khi dạy dễ
phối hợp với nhau. Giáo viên phụ trách bộ môn cần cụ thể cho từng bài học tích
hợp giáo dục phù hợp mức độ tích hợp (toàn phần, bộ phận hay liên hệ), các
phương pháp và phương tiện dạy học. Đảm bảo một qui trình như vậy sẽ làm
cho việc tích hợp nội dung giáo dục có tính hệ thống, không bị trùng lập, đồng
thời giáo viên có điều kiện trao đổi kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau.
Trên đây là những giải pháp của tôi trong phương pháp dạy học tích hợp
giáo dục trong môn học vật lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn.
Tôi đã vận dụng trong quá trình giảng dạy và đã thu hút được học sinh, đồng
thời cũng thu được kết quả là số học sinh khá giỏi tăng lên. Các em đã thấy được
tầm quan trọng của môn vật lý, thấy được những thành tựu của vật lý và kỹ thuật
phục vụ rất nhiều cho cuộc sống của con người trên mọi mặt.
PHẦN 3: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Qua nhiều năm giảng dạy bộ môn vật lý THCS tôi nhận thấy để kích thích
tư duy, hứng thú học tập của học sinh, nhất là đối với học sinh vùng dân tộc thì
giáo viên cần tạo ra nhiều tình huống trong bài giảng, gây ra sự tò mò tìm hiểu
khoa học cho các em. Từ đó các em học sinh đã biết phán đoán, tìm ra các hiện
tượng vật lý và đạt đến mục tiêu của bài học. Đồng thời các em rất hứng thú
khám phá khoa học bộ môn và muốn chiếm lĩnh các kiến thức đó bằng chính
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
53
năng lực của mình, sử dụng hiệu quả các kiến thức vào thực tế cuộc sống của
các em.
Để đáp ứng được sự đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất
lượng dạy học môn vật lý cho học sinh vùng dân tộc nói riêng và học sinh trên
địa bàn Thị xã Vĩnh Châu nói chung là một thách thức với giáo viên, cần phải sử
dụng công nghệ thông tin để kịp thời tích hợp nhiều nội dung vào môn học và có
lòng yêu nghề mến trẻ.
Trên đây là một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học môn vật lý cấp
THCS cho học sinh vùng dân tộc đã được vận dụng trong trường THCS&THPT
Dân tộc Nội trú Vĩnh Châu. Mong các đồng nghiệp tham khảo và đóng góp ý
kiến, để chất lượng của bộ môn Vật lý trên địa bàn ngày càng được nâng lên.
“Mục đích của giáo dục phải là sự đào tạo ra những cá nhân biết hành động và
tư duy một cách độc lập, tuy nhiên lại là những người xem việc phục vụ cộng đồng là vấn đề lớn nhất trong cuộc đời.”
Albert Einstein
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
54
THAM LUẬN
ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ VẬT LÝ
TRUNG HỌC CƠ SỞ
Phan Thanh Diễm
Trường THCS&THPT Lai Hòa
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) và kiểm tra đánh giá (KTĐG)
kết quả học tập của học sinh bậc trung học cơ sở là một vấn đề cần thiết và
không thể thiếu được của đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.
Mục đích của quá trình đổi mới phương pháp dạy học là tích cực hoá hoạt
động học tập của học sinh. Dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh
dựa trên nguyên tắc giáo viên giúp học sinh tự khám phá trên cơ sở tự giác và
được tự do (tự suy nghĩ, tranh luận, đề xuất vấn đề đang giải quyết). Cụ thể hơn,
dạy học tích cực hoá là nhằm tổ chức, hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu, phát hiện
và giải quyết vấn đề trên cơ sở tự giác và được tự do, được tạo khả năng và điều
kiện chủ động trong hoạt động nhận thức.
Như vậy, người giáo viên đồng thời phải là người tổ chức, chuẩn đoán,
người hướng dẫn, học sinh trở thành người khám phá, người thực hiện và giải
quyết vấn đề. Các hình thức đánh giá kết quả học tập của học sinh ảnh hưởng
sâu sắc tới phương pháp dạy học. Đánh giá và thi cử như thế nào sẽ có lối dạy
tương ứng như thế đó. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải tiến hành một
cách đồng bộ đổi mới từ nội dung chương trình sách giáo khoa, phương pháp
dạy học cho đến kiểm tra đánh giá kết quả dạy học. Kiểm tra đánh giá có vai trò
rất to lớn đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả của kiểm tra đánh giá là
cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học và quản lý giáo dục. Nếu kiểm
tra đánh giá sai dẫn đến nhận định sai về mặt chất lượng đào tạo gây tác hại to
lón trong việc sử dụng nguồn nhân lực. Vậy đổi mới kiểm tra đánh giá trở thành
nhu cầu cấp thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội ngày nay. Kiểm tra đánh giá
đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say, nâng
cao năng lực sáng tạo trong học tập.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
55
Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh là một khâu quan
trọng trong đổi mới giáo dục phổ thông. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để không
những kiểm tra được kiến thức của học sinh mà còn kiểm tra được các kỹ năng,
năng lực hành động của học sinh trong môi trường gắn với thực tiễn cuộc sống
xã hội.
II. ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ VẬT LÝ THCS.
1. Thực trạng:
Trong thực tế lâu nay việc kiểm tra đối với môn Vật lý có hiện tượng thiên
về KTĐG mức độ tiếp thu và vận dụng kiến thức của người học thông qua chủ
quan đánh giá của người dạy. Vì vậy việc KTĐG kết quả học tập còn chưa có
tác dụng mạnh mẽ, kích thích, động viên học sinh nỗ lực học tập, hoặc ra đề quá
khó làm cho học sinh có học lực từ trung bình trở xuống dễ chán hoặc ra đề quá
dễ sẽ dẫn đến học sinh có tâm lí thoả mãn, kém nỗ lực phấn đấu.
KTĐG mới chỉ tập trung vào việc GV đánh giá HS, ít tạo điều kiện cho HS
tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau. Nhiều giáo viên ra đề kiểm tra với mục
đích làm sao để chấm dễ, chấm nhanh nên kết quả đánh giá chưa khách quan.
Một bộ phận giáo viên chưa nắm vững yêu cầu đổi mới KTĐG, việc KTĐG chủ
yếu được tiến hành tự phát theo kinh nghiệm của từng giáo viên, một bộ phận
không nhỏ chưa bám sát mục tiêu môn học, chuẩn kiến thức, kỹ năng của
chương trình.
Những năm gần đây, xu thế áp dụng hình thức kiểm tra trắc nghiệm phát
triển khá mạnh trong các trường học, môn học. Hình thức kiểm tra này được
giáo viên và học sinh hưởng ứng và áp dụng khá tích cực. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện đã bộc lộ nhiều bất cập, chưa cân đối giữa hình thức tự luận với
trắc nghiệm, có biểu hiện đơn điệu hoặc lạm dụng hình thức trắc nghiệm làm
giảm hiệu quả KTĐG.
Tình trạng thiếu khách quan trong KTĐG vẫn còn khá phổ biến. Bệnh
thành tích và thói quen dạy học thụ động, nặng đối phó với thi cử còn khá phổ
biến. Kết quả thực hiện cuộc vận động “Hai không” và phong trào “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” của Bộ Giáo dục và Đào tạo một phần
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
56
quan trọng phụ thuộc vào việc bảo đảm khách quan, chính xác công bằng trong
KTĐG, thi cử.
2. Giải pháp thực hiện
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một việc làm cần
thiết trong quá trình dạy và học. Thông qua kiểm tra, GV có thể đánh giá một
cách chính xác kết quả học tập của học sinh.
Để thực hiện tốt việc đổi mới đánh giá kết quả HS của HS, GV cần phải:
- Kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình.
- Ra đề kiểm tra theo ma trận thể hiện ở 3 nội dung: Biết - Hiểu - Vận
dụng. Tốt nhất nên ra theo tỉ lệ 3:3:4.
- Khi ra đề thì phối hợp giữa TNKQ và tự luận (tuỳ theo nôị dung chương,
bài, khối lớp mà có thể ra theo tỉ lệ: 3/7; 4/6; 5/5).
Tuy nhiên việc kiểm tra đánh giá trong thực tế còn gặp những khó khăn:
- Đối với khối 6, 7, 8 do PPTC có 1 tiết/tuần, không có tiết bài tập
nên việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt cũng như kĩ năng tính toán còn hạn
chế.
- Trong một lớp học còn quá đông HS.
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa đồng bộ.
- Học sinh vùng sâu, xa tỉ lệ học sinh người dân tộc Khmer, Hoa rất
cao hơn 50%.
- Ý thực học tập của các em còn thấp.
- Chưa thực sự được sự quan tâm của gia đình.
Từ những khó khăn trên nên dẫn tới việc kiểm tra đánh giá cũng có
những trở ngại nhất định.
2.1. Kiểm tra miệng:
- Không nhất thiết chỉ kiểm tra vấn đáp trong 10-15 phút đầu giờ và chỉ
kiểm tra kiến thức của bài vừa học (như ta quen gọi là kiểm tra bài cũ).
- Hình thức kiểm tra vấn đáp, giáo viên có thể sử dụng ở mọi thời điểm
trong tiết học , cho mọi đối tượng học sinh với nhiều yêu cầu và mục đích khác
nhau: Nhắc lại kiến thức đã học để vận dụng cho bài đang học.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
57
- Trong khi kiểm tra vấn đáp giáo viên có thể hỏi về kiến thức cũ hoặc
những kiến thức khác có liên quan đến bài mới đang học.
- Kiểm tra vấn đáp GV phải xác định rõ: Nội dung, yêu cầu, mục đích hỏi,
xác định rõ từng đối tượng nhằm đến của mỗi câu hỏi, có loại yêu cầu thấp (tái
hiện, nhắc lại kiến thức đã học) cho học sinh yếu, trung bình; có loại đòi hỏi yêu
cầu cao (thông hiểu, giải thích, phân tích, vận dụng) cho học sinh khá, giỏi.
- Trong việc kiểm tra vấn đáp, không chỉ chú trọng đến kiến thức, mà đòi
hỏi phải rèn luyện năng lực nói và kỹ năng trình bày lưu loát cho học sinh. Đặc
biệt phải chú trọng sửa cho học sinh những lỗi về: cách diễn đạt, vẽ hình, tính
toán...
- Cần tận dụng tối đa câu hỏi trong SGK, SGV và có thể xây dựng thêm các
câu hỏi khác cho phù hợp.
2.2. Kiểm tra TN thực hành:
Như đã nói ở trên, dụng cụ TN chưa đồng bộ, phòng lại quá chật, bàn ghế
thì sát nhau. Trong kiểm tra TNTH đòi hỏi mọi HS phải tham gia. Từ đó HS
tranh giành nhau làm việc (để không bị trừ điểm) nên đã dẫn tới có khi kết quả
thực hành chưa xong. Từ thực trạng đó, GV cho HS làm TNTH trước, ghi kết
quả vào vở nháp, sau đó, phát mẫu báo cáo thực hành cho từng HS để mỗi HS tự
trả lời câu hỏi và xử lí số liệu theo kết quả đã ghi. Tránh tình trạng HS làm
chung cả nhóm hoặc vừa làm TN vừa ghi báo cáo, tạo cơ hội cho HS dễ quay
cóp, bài giống nhau.
2.3. Kiểm tra viết:
a) Kiểm tra 15 phút:
- Bài kiểm tra có thể tiến hành vào đầu hoặc cuối tiết học.
- Nội dung: Thường kiểm tra 1 hoặc 2 bài mới học.
- Hình thức: Phối hợp trắc nghiệm khách quan và tự luận. Tuỳ theo
nội dung bài, khối lớp mà GV có thể ra theo tỉ lệ: 7/3; 6/4 hoặc 5/5.
- Có thể cho học sinh làm nhóm, rồi lấy điểm nhóm.
b) Kiểm tra 1 tiết:
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
58
- Bài kiểm tra viết 1 tiết thường được tiến hành sau một chương hoặc một
số bài.
- Để kiểm tra thường phối hợp giữa trắc nghiệm khách quan và tự luận theo
tỉ lệ trên cơ sở xây dựng ma trận của đề.
+ Nhận biết: là trình độ nhận thức thể hiện ở chỗ HS có thể nhận ra một
khái niệm, một đại lượng, một công thức, một sự vật, một hiện tượng (chiếm
30%).
+ Thông hiểu: là trình độ nhận thức cao hơn nhận biết, thể hiện ở chỗ HS
phải nắm ý nghĩa, những mối quan hệ của những nội dung đã biết (chiếm 30%).
+ Vận dụng: Trình độ này đòi hỏi HS phải biết sử dụng kiến thức và kĩ
năng đã “biết’ và ”hiểu” để giải quyết một tình huống mới, nghĩa là phải biết di
chuyển kiến thức và kĩ năng từ tình huống quen thuộc sang tình huống mới. Đây
là trình độ nhận thức đòi hỏi có sự sáng tạo của HS (chiếm 40%).
- Trong trắc nghiệm khách quan thì có thể ra đề dưới nhiều hình thức:
+ TNKQ nhiều lựa chọn.
+ TN điền khuyết
+ TN đúng , sai
+ TN ghép cột, dòng
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS là một việc làm hết sức quan
trong. Nó không chỉ có tác dụng giúp GV biết được tình hình học tập, phấn đấu
của HS, hiệu quả của việc dạy và học, mà nó còn tác dụng điều chỉnh quá trình
dạy học, động viên, khuyến khích HS trong học tập. Vì vậy, GV cần phải đổi
mới các hình thức kiểm tra để đánh giá đúng thực chất của HS.
3. Kết quả đạt được:
- Đánh giá được thực lực của học sinh, để từ đó có hướng giảng dạy phù
hợp với từng đối tượng.
- Giúp học sinh có chú ý hơn trong quá trình học tập.
- Tạo cho học sinh có được những suy luận, lập luận, có được sự tự tin khi
phát biểu trước đám đông.
- Trong tiết học, học sinh hứng thú hơn, sinh động hơn và tích cực hơn.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
59
- Giáo viên cũng tạo cho học sinh phát huy tính tư duy và sáng tạo.
- Học sinh có thể nắm được khối lượng kiến thức khá lớn và có cách học
mới để đạt kết quả cao.
- Giáo viên nhẹ nhàng hơn trong khâu chấm bài.
4. Bài học kinh nghiệm:
- Đối với những câu hỏi ở giữa bài mang tính chất phân tích tổng hợp hay
vận dụng kiến thức trả lời thì giáo viên nên gợi ý và cho điểm khuyến khích.
- Trong một đề kiểm tra nên phân theo thang điểm 4 – 6 hay 7 – 3 để số
lượng câu trắc
nghiệm nhiều, đối với câu tự luận thì ở mức độ phân tích, tổng hợp hoặc
đánh giá để học sinh vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề có thể hạn chế những
câu hỏi tái hiện kiến thức.
- Phải trộn đề trắc nghiệm (theo mã đề) để tránh việc trao đổi của học sinh.
5. Kiến nghị:
- Trong đề kiểm tra học kì có thể có 2 hoặc 3 hình thức (trắc nghiệm tự
luận, trắc nghiệm khách quan hay phương pháp quan sát). Không nên chỉ có một
hình thức là tự luận.
- Nên tổ chức cho kiểm tra học kì với hình thức chung một đề do Phòng
GDĐT ra, áp dụng cho các trường trực thuộc để đảm bảo tính công bằng, khách
quan ở các đơn vị.
- Cần trang bị đồ dùng dạy học và dụng cụ thí nghiệm cho môn Vật lý đủ
số lượng, đảm bảo tính chính xác, đồng bộ để kết quả học tập của bộ môn được
nâng cao hơn.
6. Những việc cần làm ngay để giúp đỡ HS yếu kém và đề xuất:
6.1. Trong trường, trước mắt tăng cường phụ đạo HS yếu kém, nhằm lấp lỗ
hổng của tình trạng ngồi nhầm lớp và bệnh thành tích để lại (vấn đề này không
chỉ giáo viên mà đòi hỏi cả địa phương, phụ huynh cùng nhau bàn bạc tháo gỡ)
6.2. Các biện pháp giúp đỡ HS yếu kém phải nghiên cứu một cách khoa
học phổ biến rộng rãi cho mọi người cùng áp dụng nhằm hạn chế dần tình trạng
học sinh học yếu kém.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
60
6.3. Huy động gia đình, xã hội cùng chia sẻ trách nhiệm với nhà trường
trong việc khắc phục tình trạng học sinh học yếu kém.
6.4. Kết quả giáo dục, sản phẩm của giáo dục được tạo ra từ một quá trình
và do nhiều người, nhiều cấp thực hiện và còn do nhiều nguyên nhân khác từ
bên ngoài tác động vào. Do đó chất lượng HS của mỗi lớp không phải là thành
quả riêng, cũng không phải là tai hoạ riêng của giáo viên phụ trách dạy các bộ
môn của lớp đó, của giáo viên chủ nhiệm lớp đó cho nên nhà trường, ngành giáo
dục phải linh hoạt, sâu sát hơn trong việc đánh giá giáo viên.
6.5. Cần nghiên cứu kĩ để đưa ra chỉ tiêu phù hợp thực tế, không nên đối
chiếu, so sánh với năm trước để tránh tình trạng chạy theo chỉ tiêu. Có như vậy
mới khắc phục dần dần HS yếu kém được.
6.6. Phải tổ chức khảo sát chất lượng đầu năm có nề nếp và nghiêm túc để
giáo viên phân tích, đánh giá kết quả đạt được của học sinh từ đó có chỉ tiêu
phấn đấu cho phù hợp.
Nói chung: Đổi mới kiểm tra đánh giá, phương pháp dạy học phải đi vào
thực tiễn, phải được thực hiện chính xác, không bị ràng buộc bởi một tác nhân
khác, không cắt xén giảm bớt. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện cụ thể mà GV có
thể vận dụng phù hợp với đặc điểm của học sinh và địa phương mình .
“Mỗi con người đều là một thiên tài nhưng nếu bạn đánh giá một con cá bằng khả năng leo cây, nó sẽ sống cả đời trong ý nghĩ rằng mình thật ngu ngốc”.
Albert Einstein
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
61
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
GIẢI TỐT BÀI TẬP ĐỊNH LƯỢNG PHẦN “CƠ HỌC” MÔN VẬT LÍ 8
Kiêm Hươl
PHT Trường PTDTNT THCS
Huyện Kế Sách
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở bậc Trung học cơ sở (THCS), học sinh (HS) mới bắt đầu làm quen với
bộ môn Vật lí với các khái niệm cơ bản để mở đầu cho sự khám phá khoa học.
Chương trình vật lí THCS bước đầu cho các em làm quen với Vật lí cổ điển bao
gồm các lĩnh vực: Cơ, Nhiệt, Điện, Quang cùng những ứng dụng cơ bản của nó
trong đời sống. Chương trình Vật lí 8 có vị trí đặc biệt quan trọng vì lớp 8 là lớp
bắt đầu “vòng hai” của chương trình môn học bậc THCS. Ở lớp 8 có rất nhiều
kỹ năng cần phải được củng cố, rèn luyện cho HS như: thực hành thí nghiệm,
giải bài tập, sử dụng các thuật ngữ vật lí, suy luận, phân tích, tổng hợp,... có như
thế HS mới đủ khả năng để tiếp tục học lên lớp 9 và các lớp cao hơn. Thực tế
giảng dạy cho thấy, HS lớp 8 mới bắt đầu làm quen với các bài tập vật lí
(BTVL), phần lớn các em còn gặp không ít khó khăn khi giải các BTVL, nhất là
các bài tập định lượng, điều này đã dẫn đến chất chất lượng dạy học bộ môn bị
hạn chế. Vậy muốn nâng cao chất lượng dạy học bộ môn thì nhất thiết cần phải
rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho HS. Tuy nhiên, làm thế nào để có thể giúp HS
giải tốt các BTVL, đây lại là một vấn đề nan giải mà nhiều giáo viên (GV) đang
trực tiếp giảng dạy Vật lí phải trăn trở, băn khoăn. Qua nhiều năm trực tiếp
giảng dạy Vật lí 8, bản thân tôi đã đúc kết được một số biện pháp nhằm giúp HS
giải tốt hơn các bài tập định lượng phần “Cơ học” môn Vật lí 8 và đã mang lại
hiệu quả bước đầu hết sức khả quan, góp phần cải thiện chất lượng dạy học.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận
BTVL là phương tiện rèn luyện cho HS khả năng vận dụng kiến thức và
liên hệ lý thuyết với thực tiễn; là pương tiện đặc biệt quan trọng để rèn luyện tư
duy, bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học cho HS; là phương tiện ôn
tập, củng cố kiến thức đã học cho HS một cách sinh động và hiệu quả; là
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
62
phương tiện nghiên cứu tài liệu mới khi trang bị kiến thức mới cho HS nhằm
đảm bảo cho HS lĩnh hội kiến thức mới một cách sâu sắc và vững chắc; là
phương tiện quan trọng nhất để kiểm tra, đánh giá kiến thức, kỹ năng của HS
một cách chính xác nhất.
Giải BTVL là một trong những hoạt động tự lực quan trọng của HS trong
học tập Vật lí, giúp HS hiểu sâu hơn những qui luật vật lí, giúp HS hiểu, khắc
sâu hơn phần lý thuyết đã học. Thông qua việc giải BTVL sẽ rèn luyện cho HS
đức tính tự lực, kiên trì, cẩn thận vượt qua khó khăn.
Chương trình vật lí THCS được phân loại theo hai vòng, ở lớp 6, 7 các em
đã được học qua "vòng một" bao gồm các kiến thức Cơ, Nhiệt, Điện, Quang
nhưng ở mức độ thấp. Đến “vòng hai” (lớp 8, 9), các em tiếp tục được bồi
dưỡng, củng cố lại các kiến thức trên nhưng ở mức độ cao hơn, được tiếp cận
với một lượng kiến thức tương đối đầy đủ và sâu hơn. Các em có thể tiếp thu tốt
trên cơ sở đã có những tích lũy kiến thức nhất định về vật lí ở “vòng một”. Học
xong chương trình vật lí lớp 8, 9, HS sẽ được trang bị đầy đủ kiến thức vật lí căn
bản về Cơ, Nhiệt, Điện, Quang góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng đào tạo, chuẩn bị cho HS tiếp thu được chương trình trung học phổ thông
hoặc có thể tham gia các hoạt động sản xuất của đời sống xã hội. Để đạt được
mục đích trên, hệ thống BTVL giữ vị trí quan trọng trong việc dạy và học ở
trường THCS, thông qua việc giải BTVL, HS được củng cố hoàn thiện kiến thức
vật lí đồng thời rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức đó vào sản xuất. Thực
hiện tốt việc giải BTVL cũng góp phần quan trọng trong việc phát triển tư duy
của HS, thu hút sự chú ý lôi cuốn HS vào mọi quá trình tiếp thu bài giảng.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong hệ thống BTVL ở trường THCS hiện nay, phần lớn chỉ yêu cầu HS
vận dụng những kiến thức đã học để giải thích, dự đoán trường hợp cụ thể.
Nhưng những hiện tượng cụ thể đó thì rất nhiều, HS không thể nhớ hết được,
điều quan trọng là HS phải biết cách lập luận, suy luận một cách chặt chẽ, chính
xác, đúng quy tắc để có thể suy từ những kiến thức khái quát đã thu nhận được
trong bài học lý thuyết để giải quyết các nhiệm vụ đã nêu ra trong bài tập. Đáng
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
63
tiếc rằng hiện nay còn không ít GV nặng về “chữa bài tập” cho HS chứ chưa chú
ý đúng mức đến việc hướng dẫn các em suy nghĩ, lập luận để tự tìm lời giải.
Để giải tốt các BTVL đòi hỏi HS phải có phương pháp tư duy, so sánh,
phân tích phần lý thuyết để chọn ra công thức thích hợp cho mỗi loại bài tập.
Tuy nhiên, do ở các lớp dưới, các em mới chỉ bước đầu làm quen với các bài tập
định tính là chủ yếu nên chưa thể có được kỹ năng giải BTVL. Đến lớp 8, yêu
cầu cao hơn về tư duy trừu tượng, phân tích, so sánh, tổng hợp,... Do chưa có
được kỹ năng giải bài tập nên phần lớn HS còn rất lúng túng khi giải BTVL nhất
là các bài tập định lượng, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của môn học.
Thực tế giảng dạy cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc HS không
giải tốt các BTVL. Qua tìm hiểu thực tế và chấm chữa, phân tích kết quả bài
khảo sát của HS, tôi đã tìm được một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Phần lớn HS chưa có phương pháp học tập bộ môn.
- Một bộ phận không nhỏ HS còn rất yếu kém, lười biếng, mất căn bản,
tiếp thu chậm, không thuộc các công thức vật lí, những HS này chắc chắn sẽ
không giải được các bài tập, dù đó là các bài tập vận dụng đơn giản nhất.
- Phần lớn HS trung bình chưa thực sự nắm vững các công thức vật lí,
không biết vận dụng các công thức vào bài tập.
- Nhiều HS chưa thực sự nắm vững tên gọi, kí hiệu cũng như đơn vị của
các đại lượng vật lí.
- Phần lớn HS chưa biết biến đổi giữa các công thức vật lí dẫn đến việc ghi
nhớ các công thức một cách máy móc dễ gây nhầm lẫn.
- Một số HS còn chưa thành thạo khi tiến hành chuyển đổi giữa các đơn vị
gây ảnh hưởng không nhỏ cho việc giải bài tập.
- Phần lớn HS chưa nắm được phương pháp giải một BTVL.
Do những yếu kém nêu trên cho nên khi giải BTVL, các em thường giải
bằng cách đoán mò, không định hướng rõ ràng, chỉ biết áp dụng công thức một
cách máy móc, từ đó dễ bị “rối” và nhiều khi không giải được bài tập.
3. Một số giải pháp
a) Bồi dưỡng cho HS phương pháp học tập bộ môn
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
64
Trước khi làm bất cứ việc gì, điều quan trọng nhất là tin tưởng vào bản
thân. Việc học cũng vậy, GV cần giúp cho HS biết tin vào chính mình và tìm
cho mình một phương pháp học tập phù hợp thì việc học của các em sẽ trở nên
dễ dàng và thú vị hơn. Ngay từ đầu năm học, GV nên dành một tiết học để
hướng dẫn HS về phương pháp học tập bộ môn, cùng HS thảo luận thống nhất
những quy định, quy ước riêng đối với môn học. Cụ thể là: chuẩn bị đồ dùng
học tập (sách giáo khoa, sách bài tập, vở bài học, vở bài tập, máy tính cầm
tay,…), quy ước sự chuẩn bị bài ở nhà, trong giờ học,… Để gây hứng thú cho
HS đối với môn học, GV cần phải hết sức thân thiện, gần gũi phân tích để các
em thấy được tầm quan trọng và những ứng dụng của môn học trong đời sống
sản xuất.
b) Giúp HS nắm kiến thức vật lí
Thực tế cho thấy muốn giải được các BTVL, yêu cầu đầu tiên là HS phải
nắm được lý thuyết, đây là yêu cầu tối thiểu, là nền tảng cho việc giải BTVL bởi
vì nếu không nắm được lý thuyết thì chắc chắn sẽ không giải được bài tập. Để
giúp HS nắm vững được lý thuyết, tôi đã thực hiện một số biện pháp sau:
- Để giúp HS ghi nhớ các công thức vật lí một cách tốt nhất, ta có thể
yêu cầu HS dành những trang cuối của vở bài học và vở bài tập để lập một số
bảng tóm tắt kiến thức như sau:
STT Đại lượng vật lí Công thức tính Đơn vị
1 Vận tốc v = t
s m/s (mét trên giây)
2 Quãng đường s = v.t m (mét)
3 Thời gian t = v
s s (giây)
4 Lực đẩy Ác-si-mét FA= d.V N (niutơn)
… … … …
Bảng 1. Bảng tóm tắt các công thức vật lí Chương I: Cơ học
- Để giúp HS nắm được tên gọi, đơn vị của các đại lượng vật lí ta có thể
cho HS lập bảng như sau:
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
65
STT Tên đại lượng vật lí Ký hiệu Đơn vị
1 Vận tốc v m/s, km/h
2 Quãng đường s m, km
3 Thời gian t s, h
4 Lực F N
… … … …
Bảng 2. Bảng tóm tắt ký hiệu và đơn vị của một số đại lượng vật lí.
Các bảng 1 và 2 sẽ được HS cập nhật bổ sung liên tục theo lượng bài học
trên lớp và phải được HS kiểm tra chéo lẫn nhau thường xuyên (theo quy ước từ
đầu năm học). Với việc lập các biểu bảng như trên sẽ giúp HS dễ dàng ôn tập và
rất thuận tiện khi các em cần tra cứu một công thức vật lí.
- Giúp HS biết tự kiểm tra kiến thức bằng cách cho HS trong lớp học theo
cặp, theo nhóm, phát động phong trào “Đôi bạn cùng tiến”: 2 HS ngồi cùng bàn
sẽ giúp nhau kiểm tra kiến thức lẫn nhau trong các giờ tự học, giờ truy bài, giờ
giải lao.
- Phân công cán bộ lớp và cán bộ bộ môn phụ trách theo dõi, kiểm tra việc
cập nhật biểu bảng và phong trào “Đôi bạn cùng tiến” của lớp. GV cũng có thể
kiểm tra các kiến thức ở bảng 1 và 2 đối với HS bất cứ lúc nào, nhất là trong lúc
kiểm tra miệng, nếu HS trả lời tốt thì GV sẽ cộng thêm điểm nhằm khuyến khích
HS học tốt hơn. Thực hiện ôn tập, củng cố các kiến thức này một cách thường
xuyên để HS nắm vững kiến thức vật lí.
- Kỹ năng biến đổi các công thức, đổi đơn vị cũng rất cần thiết khi giải
BTVL, GV cần hướng dẫn HS cách biến đổi các công thức, đổi đơn vị. GV có
thể yêu cầu những HS khá, giỏi trong lớp hỗ trợ, hướng dẫn những HS yếu, kém
biến đổi công thức. Đề nghị những HS yếu, kém phải có sự ghi chép cụ thể sau
khi đã được giúp đỡ.
Ví dụ 1: Biến đổi từ công thức: v = t
s s = ?
t = ?
Hướng dẫn HS áp dụng quy tắc chuyển vế thì đổi dấu.
Từ công thức vận tốc v = t
s s = v.t
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
66
t = v
s
Ví dụ 2: Chuyển đổi đơn vị: 54km/h =? m/s ; 10m/s = ? km/h
Hướng dẫn phân tích từng bước:
+ 54km/h = h
km
1
54=
s
m
?
?=
s
m
3600
54000=
3600
54000m/s = 15m/s.
+ 10m/s = s
m
1
10=
h
km
?
?=
h
km
3600
11000
10
=
3600
11000
10
km/h=1000
10.
1
3600km/h=
36km/h.
c) Giúp HS rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức để giải bài tập
Giải bài tập là một trong những hoạt động tự lực của HS trong học tập vật
lí. Phần nhiều, bài tập được làm ở nhà không có sự chỉ đạo, hướng dẫn của GV.
Mặt khác, số tiết bài tập ở trên lớp là quá ít so với số tiết lý thuyết. Cho nên rất
nhiều HS khi gặp khó khăn, lúng túng không biết giải quyết bài tập ở nhà như
thế nào. Tình trạng phổ biến là HS học tập thụ động máy móc, dựa dẫm vào
những cuốn sách tham khảo. Thực tế cho thấy, HS không nắm được các bước
giải bài tập, các em thường giải bằng cách đoán mò, không định hướng rõ ràng,
lập luận không chặt chẽ, cho nên nhằm từng bước rèn luyện kỹ năng giải bài tập
cho HS thì đòi hỏi GV phải đưa ra được những chỉ dẫn rõ ràng và công việc đầu
tiên của người GV là cần phải cung cấp cho HS nắm được và thực hiện đúng
phương pháp giải một BTVL như sau:
+ Bước 1: Đọc kỹ và tóm tắt đề bài.
+ Bước 2: Phân tích đề bài và lập phương án giải.
+ Bước 3: Tiến hành giải bài tập.
+ Bước 4: Nhận xét và biện luận kết quả vừa tìm được.
Các bước giải bài tập trên đây phải được dần dần rèn luyện cho HS,
không thể thực hiện một cách hấp tấp, nóng vội, đặc biệt với đối tượng HS yếu
kém thì đòi hỏi người GV phải có sự kiên nhẫn, chịu khó từng bước rèn luyện
cho các em.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
67
* Hướng dẫn HS tóm tắt đề:
Thông thường khi giải BTVL, HS thường xem nhẹ hoặc bỏ qua bước 1,
không đọc kỹ đề bài không tóm tắt đề, từ đó khó xác định được điều “cho biết”
hay dữ kiện đã cho và điều “phải tìm” hay ẩn số của bài tập. Như vậy, trong
từng bài tập, dù là bài tập đơn giản hay phức tạp, GV cần rèn luyện cho HS thói
quen đọc kỹ và tóm tắt đề bài. Trong khi đọc cần phải động não và có thể dùng
bút đánh dấu hoặc gạch dưới những dữ kiện quan trọng.
Ví dụ 1: Một đoàn tàu trong thời gian 1,5h đi được quãng đường dài
81km. Tính vận tốc của tàu?
Đây là bài tập định lượng đầu tiên của chương trình Vật lí lớp 8, là bài tập
đơn giản, nhưng để rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho HS ngay từ đầu, GV cần
hướng dẫn HS đọc và tóm tắt đề kĩ lưỡng. Có thể để HS tự tóm tắt, đối với HS
yếu, kém thì GV có thể hướng dẫn như sau:
Giáo viên Học sinh
-Yêu cầu HS phải đọc thật kỹ đề bài, ít
nhất là 2 lần, không đọc quá nhanh
hoặc quá chậm.
? Đề bài đã cho biết các đại lượng
nào? (gạch dưới trên đề bài).
? Ký hiệu của thời gian là gì? Giá trị
đề cho bằng bao nhiêu?
? Ký hiệu của quãng đường là gì? Giá
trị đề cho bằng bao nhiêu?
? Đề bài yêu cầu tìm đại lượng nào?
Ký hiệu là gì?
- Nhận xét: v = ?
- Yêu cầu HS ghi hoàn chỉnh tóm tắt
đề.
Đọc kỹ đề bài theo yêu cầu của GV.
Đề bài cho biết thời gian và quãng
đường.
Ký hiệu t = 1,5h
Ký hiệu s = 81km
Tìm vận tốc của tàu, ký hiệu là v.
Phải ghi được phần tóm tắt như
sau:
t = 1,5h
s= 81km
v = ?
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
68
Việc tóm tắt đề bài ở bài tập trên đây không gặp nhiều khó khăn vì đây là
một bài tập đơn giản, chỉ có ba đại lượng vật lí, nhưng nó có ý nghĩa quan trọng,
là cơ sở ban đầu giúp cho HS có thể thực hiện tốt đối với những bài tập phức tạp
hơn.
Ví dụ 2: Một người đi xe đạp trong 40 phút với vận tốc là 12km/h. Hỏi
quãng đường đi được là bao nhiêu km?
Đối với bài này GV có thể hướng dẫn như ví dụ 1, yêu cầu HS gạch dưới
những dữ kiện quan trọng. Tuy nhiên, khi tóm tắt đề bài GV cần lưu ý HS đổi
đơn vị (nếu cần), cụ thể ở bài tập này do vận tốc tính theo km/h, quãng đường
tính theo km nên cần phải đổi thời gian t = 40 phút = 3
2h.
* Hướng dẫn HS phân tích đề bài, lập phương án giải:
Thực tế cho thấy, nhiều khi HS đã nắm được lý thuyết nhưng vẫn chưa
thể giải được bài tập. Nguyên nhân phổ biến là do các em không biết cách lập
luận để vận dụng hết những kiến thức mà mình có. Khi yêu cầu HS vận dụng
các kiến thức vật lí để giải bài tập có nghĩa là yêu cầu các em biết thiết lập mối
quan hệ giữa các kiến thức khái quát mà các em đã thu được vào một trường hợp
cụ thể. Việc rèn luyện cho HS biết phân tích, biết suy luận là rất cần thiết và
phải làm một cách kiên trì, có kế hoạch nhằm tạo thành thói quen, nếp suy nghĩ
của HS, không thể để cho các em hoàn toàn mò mẫm một cách tự phát mà GV
cần phải hướng dẫn HS biết cách suy nghĩ để các em tự tìm lấy lời giải. Để có
thể đưa ra được những câu hỏi hướng dẫn, những gợi ý thích hợp, GV cần phải
giải trước các bài tập đó một cách chi tiết, tỉ mỉ, lường hết những khó khăn có
thể gặp phải, tìm ra những cách giải có thể giải, từ đó có thể chọn lựa được
phương án tốt nhất để hướng dẫn HS. Để giúp HS lập được phương án giải cho
một bài tập, GV cần hướng dẫn các em một số vấn đề cơ bản sau:
+ Suy nghĩ thật cặn kẽ, phân tích thật kỹ dữ kiện đề cho.
+ Phải ghi nhớ chính xác các ký hiệu và các công thức vật lí.
+ Tìm mối liên hệ giữa các đại lượng chưa biết với các đại lượng đã biết,
từ đó tìm ra các công thức liên quan đến các đại lượng cần tìm.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
69
+ Nếu có nhiều công thức liên quan đến đại lượng cần tìm thì phải lựa
chọn công thức nào phù hợp nhất với những dữ kiện đề cho.
+ Nếu dữ kiện đề cho không liên quan trực tiếp đến đại lượng cần tìm thì
phải phân tích đề bài thành những bài toán nhỏ, đơn giản để tìm ra các đại lượng
có liên quan trực tiếp đến đại lượng cần tìm.
+ Cần tránh việc làm tắt, làm vội, không đọc kỹ đề.
Ví dụ: Một thùng cao 1,2m
đựng đầy nước. Tính áp suất của nước
lên đáy thùng và lên một điểm cách
đáy thùng 0,4m. Biết trọng lượng riêng
của nước là 10 000N/m3.
Đối với bài tập này GV cần chép sẵn đề bài lên bảng phụ, có vẽ hình minh
họa và có thể hướng dẫn HS lập phương án giải như sau:
Hướng dẫn của GV Hoạt động của HS
- Treo bảng phụ lên, hướng dẫn HS
tóm tắt đề bài.
- Yêu cầu một vài HS nêu lên phương
án giải của mình.
- Nếu HS không nêu được phương án
giải hoặc nêu không rõ ràng thì GV
hướng dẫn HS phân tích, gợi ý để HS
tìm ra phương án giải.
? Công thức tính áp suất chất lỏng?
? Yêu cầu HS nêu rõ trong công thức
p=d.h thì h là gì?
? pA = ?
? Khi tính pA, thì hA được tính như thế
nào?
Tóm tắt được đề bài:
h = 1,2m
d = 10 000N/m3
p = ?
pA = ?
Lần lượt trình bày phương án giải
của mình.
Tìm phương án giải theo gợi ý của
GV.
+ Công thức: p = d.h
+ h là chiều cao của cột chất lỏng.
+ pA = d.hA
+ hA = h-0,4 = 1,2-0,4 = 0,8m
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
70
* Hướng dẫn HS tiến hành giải bài tập
Nếu thực hiện tốt bước thứ hai thì đến đây HS chỉ việc vận dụng các công
thức, thay giá trị các đại lượng vào công thức để tính toán. Đây là bước nhằm
rèn luyện kỹ năng tính toán, tính cẩn thận, trung thực cũng như rèn luyện cách
trình bày bài giải cho HS. Ở phần này GV cần lưu ý HS cách trình bày bài giải
một cách đầy đủ như sau:
- Tóm tắt.
- Bài giải, gồm:
+ Lời giải cho từng phần.
+ Ghi rõ công thức tính.
+ Thay giá trị của các đại lượng vào công thức và tiến hành tính toán.
+ Ghi rõ đáp số hoặc câu trả lời, cần lưu ý đơn vị của các đại lượng.
Ví dụ: Một người đi xe đạp xuống một cái dốc dài 120m hết 30s. Khi hết
dốc, xe lăn tiếp một quãng đường nằm ngang dài 60m trong 24s rồi dừng lại.
Tính vận tốc trung bình của xe trên quãng đường dốc, trên quãng đường nằm
ngang và trên cả hai quãng đường.
GV phải yêu cầu HS trình bày được bài giải như sau:
Tóm tắt:
s1 = 120m
t1 = 30s
s2 = 60m
t2 = 24s
v1 = ?
v2 = ?
vtb = ?
Bài giải:
Vận tốc trung bình của xe trên quãng đường dốc:
v1 = 1
1
t
s =
30
120 = 4m/s
Vận tốc trung bình của xe trên quãng đường nằm ngang:
v2 = 2
2
t
s =
24
60 = 2,5m/s
Vận tốc trung bình của xe trên cả hai quãng đường:
vtb = 21
21
tt
ss
=
2430
60120
33,33m/s
Đáp số: v1 = 4m/s ; v2 = 2,5m/s ; vtb 33,33m/s
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
71
* Hướng dẫn HS biết kiểm tra kết quả:
Đây là bước khá quan trọng, do không được thể hiện trong bài giải cho
nên HS thường bỏ qua. Như vậy GV cần phải chú ý cung cấp cho HS biết cách
tự kiểm tra kết quả đối với một số bài tập đơn giản. Muốn thế đòi hỏi HS phải
nắm thật chắc lý thuyết và biết liên hệ thực tiễn, sau khi giải xong bài tập thì
kiểm tra xem kết quả thu được có phù hợp với lý thyết và thực tiễn không.
Ví dụ: Đối với bài tập ở ví dụ trên, kết quả hợp lý thì v2 phải nhỏ hơn v1
(vì đoạn đường đầu xe chuyển động trên đoạn đường dốc), đồng thời vận tốc
trung bình vtb phải thỏa mãn điều kiện: v1 > vtb > v2.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm giúp HS yếu, kém cải thiện
được khả năng giải BTVL. Ngoài những giải pháp trên thì tùy đặc điểm và điều
kiện của từng trường có thể thực hiện thêm những giải pháp khác, chẳng hạn
như: Tăng cường phụ đạo thêm cho những HS yếu, kém; phân công HS khá,
giỏi kèm cặp những HS yếu, kém; thực hiện học đến đâu ôn tập đến đó; tổ chức
thi đố vui toàn những kiến thức vật lí,...
d) Kết quả thực hiện
Khi áp dụng những giải pháp nêu trên đối với HS, tôi nhận thấy khả năng
giải BTVL của các em có sự tiến bộ rõ rệt. HS biết tự phân tích đề bài, một số
HS khá, giỏi thì có thể giải tốt các dạng bài tập nâng cao, các em có thể nhìn
nhận vấn đề dễ dàng hơn, nhiều HS yếu đã biết giải những bài tập vận dụng ở
mức độ đơn giản, còn HS trung bình thì giải được các bài tập trong SGK, SBT,
trình bày bài giải tốt hơn. Kết quả mà tôi cảm thấy tâm đắc nhất là đa số HS
không còn “sợ” các BTVL nữa, các em có hứng thú học tập môn Vật lí hơn và
có thể tự mình giải quyết được một số bài tập ở nhà.
III. KẾT LUẬN
Là một bộ môn khoa học thực nghiệm, có nhiều ứng dụng trong thực tiễn,
mặc dù có nhiều kiến thức khó, nhưng phần lớn HS THCS đều thích học Vật lí.
Tình trạng yếu kém ở một bộ phận không nhỏ HS trong khâu giải BTVL là một
hiện tượng phổ biến ở trường THCS hiện nay do nhiều nguyên nhân. Sau khi đã
áp dụng một số biện pháp nêu trên, tôi đã thu được những hiệu quả bước đầu và
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
72
tôi nghĩ rằng nó sẽ đem lại những kết quả tốt hơn nữa nếu ta thực hiện các giải
pháp một cách linh hoạt và đồng bộ. Với các giải pháp này, bản thân tôi nhận
thấy rằng nó không chỉ áp dụng thành công cho phần Cơ học mà có thể áp dụng
được cho những nội dung khác của chương trình Vật lí 8 và 9. Các giải pháp nêu
trên chưa hẳn là những giải pháp tối ưu, cho nên trong quá trình giảng dạy bản
thân tôi sẽ cố gắng nhiều hơn nữa nhằm hoàn thiện và bổ sung được những giải
pháp mới và áp dụng ngày càng hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng dạy học
môn Vật lí./.
“Nếu kế hoạch đề ra không hiệu quả, hãy thay bằng một kế hoạch khác,
đừng bao giờ thay đổi mục tiêu”.
Author Unknown.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
73
THAM LUẬN
NÂNG CAO KẾT QUẢ GIẢI BÀI TẬP MẠCH ĐIỆN MẮC HỖN HỢP
CHO ĐỘI TUYỂN HỌC SINH GIỎI MÔN VẬT LÍ 9
BẰNG ĐỊNH LUẬT VỀ NÚT VÀ MẮC MẠNG
Dương Văn Vũ
Trường THCS Mỹ Phước
Huyện Mỹ Tú
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Hướng dẫn học sinh làm bài tập là một khâu quan trọng trong quá trình
dạy – học Vật lí. Nó sẽ quyết định phần lớn về kết quả học tập và sự yêu thích
môn học của học sinh hơn. Tuy nhiên, việc giải bài tập thì đòi hỏi về nhiều mặt,
là việc còn khó đối với đại đa số các em học sinh đặc biệt là những bài tập phức
tạp, nên các em thường gặp khó và ngại khi phải giải bài tập Vật lí kể cả học
sinh giỏi cũng đôi lúc vấp phải điều này. Để khắc phục tình trạng trên thì giáo
viên phải làm sao, bằng cách nào đó để giúp cho các em đáp ứng tốt yêu cầu đặt
ra của một bài toán Vật lí mà cách thức thực hiện yêu cầu đó lại đơn giản hơn.
Đó cũng là cả một quá trình nghệ thuật nghiên cứu, tìm tòi lâu dài mới có thể
giúp các em thấy say mê trong khâu giải bài tập và dần mang lại kết quả của
việc giải bài tập được cao hơn. Nó là thách thức lớn đối người giáo viên.
Nếu làm được điều vừa đề cập như trên thì học sinh sẽ thoải mái, thích
thú khi tiếp xúc vấn đề giải các bài tập. Có thế thì kết quả giải các bài tập sẽ
được nâng cao và từ đó giúp học sinh yêu thích môn học hơn và học tốt cả ở
những đơn vị kiến thức khác.
Nhưng thực tế giảng dạy Vật lí lớp 9 ở trường THCS Mỹ Phước trong
nhiều năm và qua kết quả thi học sinh giỏi, tôi thấy rằng: Học sinh còn gặp rất
nhiều khó khăn, lúng túng khi giải các bài tập Vật lí trong khi bản thân đã nắm
vững kiến thức lý thuyết. Cụ thể là vấn đề giải các bài tập Vật lí của học sinh về
mạch điện được mắc hỗn hợp có kết quả không cao. Điều này ít hay nhiều cũng
đã ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học của bộ môn và phong trào chung.
Xuất phát từ những vấn đề cơ bản trên, tôi mạnh dạn đưa ra và nghiên cứu
thủ thuật để: “Nâng cao kết quả giải bài tập mạch điện mắc hỗn hợp cho đội
tuyển học sinh giỏi môn Vật lí 9 bằng định luật về nút và mắc mạng” tại đơn
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
74
(1) 0In
1i
i
vị trường THCS Mỹ Phước qua các năm học để phần nào dần cải thiện kết quả
cho đội tuyển học sinh giỏi bộ môn Vật lí.
II. THỰC TRẠNG:
Trước khi thực hiện đề tài này, qua thực tế nhiều năm giảng dạy môn Vật
lí ở trường THCS Mỹ Phước và qua kết quả thi học sinh giỏi Vật lí – phần đoạn
mạch hỗn hợp ở những năm trước 2011 của huyện là rất thấp, trong đó có kết
quả bài toán điện như đề cập trong. Cụ thể:
- Điểm chuẩn phần điện học (dạng bài tập mạch mắc hỗn hợp) là 5;
- Điểm đạt là từ 0 đến 0,5 điểm. Tỉ lệ: 0 – 10%.
Kết quả đó có thể là do:
- Học sinh không phân tích được mạch điện, tức là không nhận ra cách
mắc và dạng mạch như thế nào trong trường hợp mạch mắc theo kiểu hỗn hợp
nên không thể áp dụng định luật Ôm để giải một cách chính xác bài toán Vật lí.
- Học sinh chưa có phương pháp tốt để giải bài toán mạch điện hỗn hợp.
III. GIẢI PHÁP:
Với đề tài này thì học sinh không cần phải nhận ra cách mắc và dạng
mạch mà cũng có thể giải tốt bài toán. Một trong những giải pháp đề ra để có thể
giải quyết tốt thực trạng nêu trên là: “Hướng dẫn học sinh giải bài toán Vật lí
về mạch điện hỗn hợp bằng phương pháp áp dụng định luật nút và mắc
mạng” theo trình tự sau:
1. Bước 1: Đọc, tóm tắt đề, vẽ hình và đặt tên nút, giả định chiều dòng điện
qua các nhánh (tùy ý).
2. Bước 2: Xác định và chọn chiều cho vòng mắc mạng (tùy ý), mỗi vòng mắc
mạng có chứa ít nhất một nhánh mới chưa từng tham gia vào các mắc mạng đã
chọn.
3. Bước 3: Lập các phương trình theo các định luật nút và mắc mạng:
- Định luật về nút mạng: Tổng đại số các dòng điện tại một nút bằng
không.
Với: Ii là dòng điện thứ i tại một nút đang xét.
n là số dòng điện quy tụ tại một nút đang xét.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
75
I1
I2
I3
I4
A
(5) 0Un
1i
i
Quy ước:
+ Dòng điện rời khỏi nút có giá trị âm (–),
dòng điện hướng vào nút có giá trị dương (+)
(hoặc ngược lại). Theo đó, ta có phương trình tại
nút A là:
I1 + I2 – I3 + I4 = 0 (2)
+ Nếu quy ước dấu ngược lại thì ta có:
– I2 + I3 – I4 = 0 (3)
I3 = I1 + I2 + I4 (4)
Và từ phương trình (4), ta có thể phát biểu lại định luật về nút theo cách
khác: Tổng các dòng điện chạy vào một nút bằng tổng các dòng điện chạy ra
khỏi nút đó. Đó là hệ quả của nguyên lý bảo toàn điện tích: Tại một nút điện tích
không được sinh ra cũng không bị mất đi. Dòng điện qua một điểm trong mạch
chính là lượng điện tích đi qua điểm đó trong một đơn vị thời gian và nguyên lý
bảo toàn điện tích cho rằng lượng điện tích đi vào một nút luôn luôn bằng lượng
điện tích đi ra khỏi nút đó.
- Định luật về mắc mạng: Tổng đại số các hiệu điện thế theo một mắc
mạng (vòng – mạng điện kín) bằng không.
Với: Ui là hiệu điện thế thứ i trong mắc mạng đang
xét.
n là số hiệu điện thế qua các điện trở (sụt áp) và
hiệu điện thế nguồn trong mắc mạng đang xét.
Định luật về mắc mạng là hệ quả của nguyên lý bảo toàn năng lượng:
Công trong một đường cong kín bằng không. Vế trái của hệ thức (5) chính là
công trong dịch chuyển điện tích đơn vị (+1) dọc theo một mạch kín.
Quy ước: Khi chọn chiều cho vòng mắc mạng thì:
+ Hiệu điện thế mang dấu âm (–) nếu đi theo vòng mắc mạng theo chiều
tăng của điện thế (tức gặp cực âm trước) và hiệu điện thế sẽ mang dấu dương (+)
khi đi theo vòng mắc mạng theo chiều giảm của điện thế (tức gặp cực dương
trước).
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
76
+ Cường độ dòng điện mang dấu âm (–) nếu chiều đi của dòng điện
ngược với chiều đi của mắc mạng và cường độ dòng điện mang dấu dương (+)
nếu chiều đi của dòng điện cùng với chiều đi của mắc mạng.
Áp dụng định luật về mắc mạng cho một vòng kín ABR2DEFA như hình
vẽ bên dưới khi đóng công tắc, ta có:
U1 + U2 + U4 – U = 0 (6)
I1R1 + I2R2 + I4R4 – U = 0 (7)
I1R1 + I2R2 + I4R4 = U (8)
Từ phương trìn (8), ta có thể phát biểu lại định luật về mắc mạng theo
cách khác: Trong một mắc mạng bất kì, tổng đại số các tích (IR)i của các đoạn
mạch bằng tổng đại số các hiệu điện thế Ui (suất điện động Ei của trường lạ)
trong vòng mắc mạng đó.
Lưu ý:
- Nếu có n ẩn số (các đại lượng cần tìm) thì cần lập n phương trình dựa
trên các định luật về nút và mắc mạng.
- Với mạch có m nút mạng thì ta lập n – (m – 1) phương trình nút độc lập
theo định luật về nút mạng (nhớ cách quy ước về dấu).
- Thành lập (m – 1) phương trình mắc mạng theo định luật về mắc mạng
(nhớ cách quy ước về dấu ở trên).
4. Bước 4: Giải hệ phương trình đã lập để tìm ẩn số.
5. Bước 5: Kiểm tra, biện luận, xác nhận kết quả:
- Kiểm tra:
+ Các phương trình được lập đã đúng chưa?
+ Cách tính toán có đúng không?
I1
I2
R1
R2
R3
R4 C
I3
I4 B A D
E F
I
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
77
+ Kết quả phù hợp chưa?
- Biện luận:
+ Nếu cường độ dòng điện qua nhánh nào đó đã được tính ra giá trị
dương thì chiều như giả định là đúng và đúng với chiều thực của dòng điện
trong nhánh đó.
+ Nếu cường độ dòng điện qua nhánh nào đó đã được tính ra giá trị là âm
thì chiều thực của dòng điện trong nhánh đó ngược với chiều giả định và đổi
chiều ngược lại trên nhánh đó.
- Xác nhận kết quả tìm được và khẳng định độ tin cậy của nó.
Ví dụ minh họa: Cho mạch điện như hình vẽ. Biết rằng: U = 3V, R1 = R3
= R5 = 3Ω, R2 = 4Ω, R4 = 5Ω. Tính cường độ dòng điện qua mỗi điện trở đó?
Giải: Bước1:
- Tóm tắt đề:
R1 = 3Ω
R2 = 4Ω
R3 = 3Ω
R4 = 5Ω
R5 = 3Ω
U = 3V
I1 = ?
I2 = ?
I3 = ?
I4 = ?
I5 = ?
- Vẽ hình và đặt tên nút A, B,
M, N, giả định chiều dòng điện qua
các nhánh như hình vẽ:
Bước 2: Chọn 03 mắc mạng:
AMNA, ANBA, AMBA và đánh
chiều dương cho các vòng mắc
mạng như hình vẽ bên trên.
Bước 3: Lập các phương trình
+
U
R1 R2
R5
R3 R4
–
+ U
R1 R2
R5
R3 R4
–
A B
M
N
+
+
+
I1 I2
I4
I5
I3
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
78
nút và mắc mạng. Vì cần tìm 5 ẩn số nên ta cần lập 5 phương trình dựa trên định
luật về nút và mắc mạng:
- Tại nút M:
I1 – I2 – I5 = 0
I1 = I2 + I5 (1)
- Tại nút N:
– I4 + I3 + I5 = 0
I4 = I3 + I5 (2)
- Mắc AMNA:
I1R1 + I5R5 – I3R3 = 0
3I1 + 3I5 – 3I3 = 0 (3)
- Mắc ANBA:
I3R3 + I4R4 = U
3I3 + 5I4 = 3 (4)
- Mắc AMBA:
I1R1 + I2R2 = U
3I1 + 4I2 = 3 (5)
Bước 4: Giải hệ phương trình:
- Từ (1) suy ra: I5 = I1 – I2 (6)
- Thế (6) vào (3), ta có: 3I1 + 3(I1 – I2) – 3I3 = 0
3I1 + 3I1 – 3I2 – 3I3 = 0
6I1 – 3I2 – 3I3 = 0 (7)
- Từ (2) suy ra: I5 = I4 – I3 (8)
- Từ (6), (8) suy ra: I1 – I2 = I4 – I3
I1 = I2 – I3 + I4 (9)
- Thế (9) vào (5) và (7), ta có :
6(I2 – I3 + I4) – 3I2 – 3I3 = 0 6I2 – 6I3 + 6I4 – 3I2 – 3I3 = 0
3(I2 – I3 + I4) + 4I2 = 3 3I2 – 3I3 + 3I4 + 4I2 = 3
3I2 – 9I3 + 6I4 = 0 (10)
7I2 – 3I3 + 3I4 = 3 (11)
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
79
21I2 – 63I3 + 42I4 = 0
21I2 – 9I3 + 9I4 = 9
54I3 – 33I4 = 9 (12)
- Kết hợp (4) và (12), ta có:
3I3 + 5I4 = 3 54I3 + 90I4 = 54
54I3 – 33I4 = 9 54I3 – 33I4 = 9
123I4 = 45 I4 = 0,37A (13)
- Thế (13) vào (12), ta có: 54I3 – 33.0,37 = 9
54I3 – 12,21 = 9
54I3 = 21,21 I3 = 0,39A (14)
- Thế (13), (14) vào (11), ta được:
7I2 – 3.0,39 + 3.0,37 = 3
7I2 – 1,17 + 1,11 = 3
7I2 = 3,06 I2 = 0,44A (15)
- Thế (13), (14), (15) vào (9), ta có:
I1 = 0,44 – 0,39 + 0,37 I1 = 0,42A (16)
- Thế (15) và (16) vào (6) được:
I5 = 0,42 – 0,44 I5 = –0,02A
(17)
Bước 5: Kiểm tra, biện luận, xác nhận kết quả:
- Kiểm tra:
Các phương trình được lập đã đúng.
Cách tính toán là chính xác.
Kết quả phù hợp.
- Biện luận:
Riêng cường độ dòng điện qua nhánh chứa R5 có giá trị là âm: I5 = –
0,02A nên chiều thực của dòng điện I5 trong nhánh đó có chiều ngược lại với
chiều giả định.
- Kết quả tìm được đáng tin cậy.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
80
IV. KẾT LUẬN
Dùng hai định luật về nút và mắc mạng có thể giúp học sinh giải dễ dàng
hầu hết các bài toán mạch điện hỗn hợp từ đơn giản đến phức tạp. Đây là
phương pháp cơ bản để giải các mạch điện phức tạp gồm nhiều mạch vòng và
nhánh, nếu cần tìm bao nhiêu giá trị của bài toán yêu cầu thì chỉ cần lập bấy
nhiêu phương trình ở nút và mắc mạng theo hai định luật đã đề cập, sau đó chỉ
cần giải hệ phương trình đã lập là tìm ra được ẩn số.
Nếu đề bài có yêu cầu tìm thêm các đại lượng khác nữa trong ba đại
lượng U, I, R thì ta có thể kết hợp hai định luật trên với định luật Ohm là mọi
chuyện sẽ được giải quyết.
Sử dụng giải pháp trong đề tài này sẽ giúp học sinh có cách giải nhanh,
đúng chính xác yêu cầu của bái toán Vật lí dạng mạch hỗn hợp dù học sinh đó
chưa kịp nhận ra cách mắc và dạng mạch nên mang lại kết quả khả quan hơn.
Bên cạnh đó, kiến thức liên môn cũng được vận dụng triệt để khi giáo
viên sử dụng giải pháp này để hướng dẫn học sinh giải bài tập mạch điện hỗn
hợp. Nó sẽ giúp cho giúp học sinh vận dụng và rèn luyện được khả năng tính
toán thành thạo, bổ trợ một cách đắc lực cho môn Vật lí ở nội dung giải bài tập.
Qua kết quả khảo sát nghiên cứu thực trạng với giải pháp đề cập như trên
trong học tập và trong các kì thi học sinh giỏi các cấp ở các năm từ sau 2011, tôi
thấy học sinh dự thi giỏi môn Vật lí – đối tượng nghiên cứu của đề tài đã vận
dụng một cách linh hoạt vào việc giải bài tập dạng mạch điện mắc hỗn hợp và
kết quả được cải thiện hơn. Cụ thể qua kết quả thống kê sau tác động bằng giải
pháp của đề tài như sau:
NĂM HỌC
CẤP
DỰ
THI
GIẢI
ĐIỂM
(Phần bài tập
mạch điện hỗn hợp) TỈ
LỆ
CHUẨN ĐẠT
Trước 2011 Huyện - 5 0 – 0,5 10%
2011-2012 Huyện KK 5 2 40%
2012-2013 Huyện II 5 3 60%
Huyện KK 5 2 40%
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
81
Tỉnh KK 5 5 100%
2015-2016 Huyện II 5 5 100%
Tỉnh III 5 4 80%
2017-2018 Huyện II 4,5 3 67%
Qua tổng hợp, so sánh, đối chứng kết quả với thực trạng, tôi thấy: Tỉ lệ
điểm phần bài toán điện (mạch hỗn hợp) trong đề thi học sinh giỏi qua các năm,
các cấp thi mặc dù chưa ổn định nhưng nhìn chung là có tăng lên. Nó cũng ít
nhiều ảnh hưởng đến giải thưởng mà học sinh đạt được.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Dạy học với mục đích nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài và góp phần quan trọng để hình thành nhân cách con người lao động mới,
biết sáng tạo, liên kết và thích nghi với xã hội ngày càng phát triển. Do vậy,
phương pháp dạy học bộ môn phải thực hiện được các chức năng nhận thức,
phát triển và giáo dục, tức là lựa chọn phương pháp dạy học bộ môn sao cho học
sinh học tập với kết quả cao nhất và có được khả năng vận dụng lí luận vào thực
tiễn tốt với một kế hoạch làm việc chặt chẽ.
Muốn học sinh học tập đạt kết quả cao ở nội dung bài tập về mạch điện
hỗn hợp của Vật lí 9 thì ngoài định luật Ôm, giáo viên cần xem hai định luật về
nút và mắc mạng là cẩm nang trong phương pháp và phải hướng dẫn một cách
thường xuyên cho học sinh khi giải bài tập dạng mạch điện hỗn hợp cả đơn giản
và phức tạp.
“Tôi chưa thất bại. Tôi chỉ là đã tìm ra 10,000 cách không hoạt động.”
Thomas Edison
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
82
CHUYÊN ĐỀ
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY MÔN VẬT LÝ 6
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Thạch Phúc
GV Trường THCS Lạc Hòa
I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
1. Sự cần thiết của chuyên đề
Hoạt động dạy học ở bậc Trung học cơ sở lấy học sinh làm trung tâm,
phát huy năng lực, tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Muốn đạt được
mục tiêu trên thì giáo viên và học sinh phải có sự hợp tác chặt chẽ. Giáo viên
phải nắm rõ cách thức định hướng, dẫn dắt học sinh tự tìm tòi tri thức. Học sinh
phải biến quá trình học thành quá trình tự học. Để quá trình tự học đạt được mục
tiêu học tập, học sinh phải có tính tích cực trong học tập. Tính tích cực trong học
tập biểu hiện ở khát khao chiếm lĩnh tri thức, sự năng động về mặt trí tuệ, hứng
thú đối với môn học, nỗ lực ý chí vượt qua những khó khăn trong quá trình học
tập. Thái độ tích cực học tập của học sinh được thể hiện rõ nhất qua những giờ
học trên lớp, trong đó việc phát biểu ý kiến, làm việc nhóm trong giờ học là một
minh chứng quan trọng. Để trả lời những câu hỏi giáo viên đặt ra đòi hỏi học
sinh phải có sự chuẩn bị bài trước ở nhà, có nhu cầu hiểu biết tri thức, có sự
động não, có sự tự tin ở bản thân, sự tập trung chú ý trong giờ học,... Trong
những giờ lên lớp tôi nhận thấy thái độ học tập của học sinh còn rất thụ động.
Việc học sinh ngồi im lặng khi giáo viên đặt câu hỏi không còn là chuyện lạ.
Giáo viên đặt câu hỏi, thỉnh thoảng vài cánh tay giơ lên. Vẫn những khuôn mặt
cũ, những học sinh hay phát biểu thì giờ nào cũng tích cực phát biểu. Ai ngồi im
thì cứ thói quen đó từ đầu giờ cho đến cuối giờ. Những học sinh còn lại thì chăm
chú lắng nghe, có em nói chuyện riêng với bạn bên cạnh. Kể cả những giờ thảo
luận, thực hành những giờ học đòi hỏi học sinh phải trình bày quan điểm, lập
luận của riêng mình thì tình hình cũng chẳng khác gì. Nếu giáo viên không giao
nhiệm vụ cho nhóm đặt câu hỏi, nhóm trả lời thì không em nào đặt câu hỏi cả.
Tình trạng này cứ tiếp diễn sẽ dẫn đến chất lượng dạy - học có chiều hướng đi
xuống đây là một trong những vấn đề mà toàn xã hội đang quan tâm. Xong làm
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
83
thế nào để chất lượng được đảm bảo trong môn học, từng tiết học? Điều này phụ
thuộc vào việc dạy của Thầy và việc học của các em học sinh.
Để khắc phục tình trạng trên tôi xin đưa ra chuyên đề "Một số kinh
nghiệm giảng dạy môn Vật lý 6 theo định hướng phát triển năng lực học sinh
Trường THCS Lạc Hòa"
2. Mục đích, yêu cầu của chuyên đề
* Về phía giáo viên:
- Tùy từng nội dung bài học, từng đối tượng học sinh có thể sử dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học khác nhau kích thích tính độc lập, sáng tạo của
các em. Tổ chức cho học sinh thường xuyên thuyết trình, thảo luận nhóm. Hệ
thống câu hỏi giáo viên đưa ra trong giờ giảng phải là những “tình huống có vấn
đề”.
- Giáo viên cần khích lệ, khen ngợi, động viên, cộng điểm cho các em trả
lời câu hỏi và đặt ra câu hỏi cho giáo viên. Đối với những em trả lời chưa đúng
câu hỏi thì giáo viên cần khéo léo gợi mở câu hỏi, hướng dẫn trả lời theo hướng
dễ hơn; tránh chê bai, phê bình gay gắt làm các em cảm thấy xấu hổ, thiếu tự tin.
- Giáo viên phải đặt kỳ vọng của mình vào học sinh. Một khi học sinh biết
được sự kỳ vọng của giáo viên thì học sinh sẽ có động lực rất lớn tham gia vào
tiết học.
* Về phía học sinh:
- Học sinh cần tích cực, tự giác thực hiện những nhiệm vụ học tập do giáo
viên đặt ra.
- Hình thành thói quen chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Ý thức tầm quan trọng của việc phát biểu ý kiến đối với bản thân. Mạnh
dạn, tự tin phát biểu ý kiến trong các giờ học. Tập đưa ra ý kiến, quan điểm của
bản thân trong các buổi thảo luận nhóm, thực hành trong giờ học.
- Tập nói trước đám đông rèn luyện tư duy độc lập, tư duy phê phán, không
theo những quan niệm chưa đúng đắn của các bạn trong lớp về việc học tập.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
84
* Về phía nhà trường:
- Nhà trường cung cấp đầy đủ các trang thiết bị dạy học có chất lượng tốt
cũng góp phần làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn hơn.
- Cần tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về cách thức tự học, phương
pháp đọc sách, ý nghĩa của việc phát biểu ý kiến xây dựng bài,…có sự tham dự
của học sinh.
II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC MÔN VẬT LÝ 6 HIỆN NAY
1. Ưu điểm
Giáo viên nắm vững được kiến thức nội dung chương trình giảng dạy.
Giáo viên nắm được hệ thống các phương pháp dạy học và phối hợp được
nhiều phương pháp trong một tiết dạy;
Liên hệ kiến thức thực tế vào nội dung bài học, vận dụng được kiến thức
liên môn vào môn học, giáo dục được học sinh trong việc ý thức học tập của bản
thân.
Sử dụng nhiều tranh ảnh, mô hình, thiết bị vào trong giảng dạy…
Học sinh ở một số trường được học theo mô hình trường học mới
(VNEN).
Trường lớp, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ.
2. Tồn tại
Trong thực tế, do nhiều lý do khác nhau (trình độ chuyên môn, phương
pháp giảng dạy, cơ sở vật chất, trình độ, động cơ đi học của học sinh, số lượng
học sinh trong một lớp học quá đông, …) nên giáo viên vẫn chưa phát huy được
phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm. Giáo viên chủ yếu thuyết
trình, thậm chí “độc diễn” trên bục giảng không cần biết học sinh có tiếp thu
được nội dung bài học không. Học sinh thì cố gắng ghi chép, học theo cách đối
phó mà trong lòng ngổn ngang một mớ kiến thức lộn xộn. Chính điều đó làm
cho khoảng cách giữa giáo viên và học sinh ngày càng lớn.
- Thói quen ngại phát biểu: Các em có tâm lý sợ các bạn cười chê khi phát
biểu sai, sợ bị tập thể chê trách, bạn bè tẩy chay, không chuẩn bị bài trước, thái
độ học tập thiếu tích cực của các em trong giờ học.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
85
- Một số ít học sinh cho rằng không thích học môn Sinh nên học qua loa.
Các em chỉ chú tâm học những môn yêu thích khác .
- Thiết bị dạy học cấp đã lâu, cũ, hư hỏng dẫn đến một số kết quả thí
nghiệm thực hành chưa cao.
- Một số nguyên nhân khác như: Giáo viên quá nghiêm khắc, sự thiếu
nhiệt tình của giáo viên, lớp học quá đông, lớp ồn nên học sinh không thể tập
trung được, không nghe rõ câu hỏi của giáo viên.
III. NỘI DUNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
1. Nội dung
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh là chú trọng các
phương pháp đặc thù theo đó xác định các năng lực chung cốt lõi và năng lực
chuyên biệt các kĩ năng hoạt động nhóm, thực hành của môn học là hướng tới
hoạt động học tập chủ động tích cực sáng tạo và hứng thú của học sinh là cách
dạy mà giáo viên tập trung phân tích, định hướng các vấn đề liên quan đến học
sinh, tạo cơ hội tốt cho học sinh tự xây dựng bài, giáo viên quan tâm đến khả
năng học tập của học sinh;
Giáo viên quan sát được cử chỉ, hành vi của học sinh, biết được học sinh
đang gặp khó khăn để có cách giúp đỡ kịp thời, đồng thời tích lũy được nhiều
kinh nghiệm, mở mang nhiều kiến thức.
Tuy nhiên để dạy học theo cách này, giáo viên chuẩn bị bài dạy mất nhiều
thời gian, giáo viên dạy minh họa không thể quan sát hết thái độ, hành động sai
sót của từng học sinh.
Để dạy học theo hướng phát triển năng lực của học sinh phải đảm bảo cơ
bản các bước sau đây:
- Xác định mục tiêu, xây dựng nội dung kế hoạch bài học.
- Tiến hành bài học và dự giờ.
- Trao đổi, thảo luận về bài học.
- Áp dụng cho dạy học thực tiễn hàng ngày.
Qua kinh nghiệm giảng dạy theo hướng phát triển năng lực, tôi xin chia sẻ
một số kinh nghiệm và giải pháp để khắc phục và hạn chế những tồn tại của thực
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
86
trạng trên với mong muốn giúp học sinh phát huy tính tích cực và tự giác chiếm
lĩnh kiến thức hơn trong học tập và nâng cao hiệu quả giảng dạy đối với môn
Vật lý 6.
2. Các giải pháp thực hiện
2.1. Sử dụng sách giáo khoa nhằm định hướng nội dung kiến thức và
phát triển tư duy, sáng tạo cho học sinh
- Trong soạn giáo án, sách giáo khoa là điểm tựa để giáo viên xác định kiến
thức cơ bản. Vì vậy, trước khi soạn giáo án người giáo viên cần nghiên cứu kỉ
kênh chữ, kênh hình trong sách giáo khoa để xác định phương pháp dễ truyền
thụ, hướng dẫn học sinh hoàn thành mục tiêu bài học, tự tìm ra kiến thức cần
học, cần nghiên cứu và phát huy được tính tích cực của mình.
- Trong giảng dạy ở trên lớp sách giáo khoa là cầu nối quan trọng giữa giáo
viên với học sinh; học sinh vừa nghe giảng vừa quan sát kênh hình, nghiên cứu
kênh chữ và tìm ra kiến thức cần đạt, lúc đó giáo viên chỉ nhận xét và giúp các
em hoàn thiện.
- Ngoài ra sách giáo khoa còn giúp học sinh nghiên cứu và học tập ở nhà;
ôn lại kiến thức đã học, nghiên cứu trước bài mới, làm những bài tập cuối mỗi
bài, tìm hiểu thêm ở mục có thể em chưa biết. Vì vậy, giáo viên phải hướng dẫn
và giao nhiệm vụ cụ thể cho các em.
2.2. Sử dụng phương pháp trong giảng dạy môn Vật lý 6 ở trên lớp là
một điều rất khó áp dụng nên người giáo viên phải biết khai thác bài để
đưa ra phương pháp tích cực
Chẳng hạn phương pháp quan sát tìm tòi được vận dụng để dạy kiến thức
về hình thái, cấu tạo nên giáo viên phải tổ chức cho học sinh quan sát, mô tả đối
tượng, tự thu thập số liệu, tư liệu theo yêu cầu của bài tập. Hướng dẫn xử lý tư
liệu đã thu thập thực bằng các thao tác tư duy như phân tích, so sánh, khái quát
hóa để tìm ra tính chất chung, riêng, bản chất đối tượng. Hoặc phương pháp thí
nghiệm tìm tòi được vận dụng để dạy học tìm hiểu các hiện tượng Vật lý xảy ra
trong thực tế với những điều kiện khác nhau.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
87
Ví dụ:
BÀI 3: ĐO THỂ TÍCH CHẤT LỎNG
1. Mục tiêu
- Kể tên một số dụng cụ thường dùng để đo thể tích chất lỏng.
- Biết xác định thể tích của chất lỏng bằng dụng cụ đo thích hợp.
- Đo thể tích chất lỏng trong một số tình huống thông thường.
- Biết tính giá trị trung bình các kết quả đo.
- Rèn luyện tính cẩn thận, ý thức hợp tác trong nhóm.
2. Chuẩn bị
- Bình chia độ.
- Can nhựa đựng nước 0,5 lít.
- Một vài loại ca đông.
3. Tiến trình lên lớp.
- Giới thiệu các thiết bị sử dụng trong thí nghiệm.
- Đối với bài này giáo viên tiến hành thí nghiệm để học sinh quan sát.
- Học sinh tự rút ra kết luận.
- Học sinh biết đổi đơn vị đo thể tích.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tự làm dụng cụ đo thể tích chất lỏng từ
chai nhựa, ly nhựa...
BÀI 19: SỰ NỞ VÌ NHIỆT CỦA CHẤT LỎNG
1. Mục tiêu
- Tìm được thí dụ thực tế về sự nở vì nhiệt của chất lỏng.
- Các chát lỏng khác nhau nở vì nhiệt khác nhau.
- Giải thích được một số hiện tượng đơn giản.
2. Chuẩn bị
- Một bình cầu, một ống thủy tinh, bảng phụ.
- Nút cao su, chậu đựng nước, nước nóng.
3. Tiến trình lên lớp.
- Giới thiệu các thiết bị sử dụng trong thí nghiệm.
- Đối với bài này giáo viên tiến hành thí nghiệm để học sinh quan sát.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
88
- Học sinh tự rút ra kết luận.
- Học sinh dựa vào phần thí nghiệm, kết luận từ đó giải thích được một số
hiện tượng sự nở vì nhiệt của chất lỏng trong cuộc sống thông qua các câu hỏi
của giáo viên.
2.3. Sự kết hợp của một số phương pháp dạy học Vật lý trong việc phát
huy tính tích cực của học sinh.
- Qua kinh nghiệm cho thấy phương pháp dạy học là một khoa học, đồng
thời cũng là một nghệ thuật nên không có phương pháp nào là vạn năng có thể
thay thế các phương pháp khác. Nên người giáo viên phải biết kết hợp vận dụng
các phương pháp dạy học đặc thù của Vật lý một cách hợp lý như quan sát tìm
tòi, phương pháp thí nghiệm, với phương pháp dạy học khác có tác dụng kích
thích năng lực tư duy tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh, như các phương
pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp kích não, phương pháp dạy học theo
nhóm nhỏ, công tác độc lập, thì mới phát huy được tính tích cực của học sinh.
Sự kết hợp giữa phương pháp thảo luận và công tác độc lập
- Đặc trưng của bộ môn Vật lý là học sinh có thể trực tiếp quan sát và
thường xuyên tiếp xúc với đối tượng nghiên cứu, nên người giáo viên phải là
người hướng dẫn giúp học sinh sử dụng các phương tiện và thiết bị nghiên cứu
để thực hiện thí nghiệm đúng mục đích nghiên cứu. Mục đích làm cho học sinh
đóng vai trò là người nghiên cứu, tìm tòi, chủ động phát hiện ra vấn đề cần giải
quyết và đi đến kết luận chung.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
89
2.4. Dạy học theo chủ đề
Dạy học theo chủ đề là quan điểm dạy học gắn lý thuyết với thực tiễn,
trong đó việc dạy học được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình
huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp. Dạy học theo chủ đề bao gồm dạy
học theo chủ đề đơn môn hoặc dạy học theo chủ đề liên môn.
Dạy học theo chủ đề đơn môn có nghĩa là giáo viên hệ thống kiến thức lại
thành những chủ đề riêng biệt, các chủ đề này có thể nằm trong chương trình
một khối lớp, hai khối lớp hoặc ba khối lớp. Giáo viên chia nhóm và giao nhiệm
vụ cho mỗi nhóm thảo luận và báo cáo các chủ để của mỗi nhóm, giáo viên nhận
xét và bổ sung kiến thức.
Dạy học theo chủ đề liên môn có nghĩa là giáo viên có thể hệ thống kiến
thức lại thành những chủ đề riêng biệt, có nội dung kiến thức liên quan đến
nhiều môn. Các chủ đề này có nội dung kiến thức nằm trong chương trình một
khối lớp, hai khối lớp hoặc ba khối lớp.
Giáo viên có thể chia nhóm và giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm thảo luận và
báo cáo các chủ đề của mỗi nhóm, giáo viên nhận xét và bổ sung kiến thức.
Qua việc dạy học theo chủ đề liên môn, học sinh có thể vận dụng kiến thức
được học ở một môn, hai môn hoặc ba môn để giải quyết những tình huống
trong thực tiễn trong cuộc sống.
2.5. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và CNTT hợp lý hỗ trợ
dạy học
Môn Vật lý là một môn gắn lý thuyết với thực tiễn, vì vậy phương tiện dạy
học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Nhằm tăng
cường tính tích cực và trải nghiệm sáng tạo của học sinh, các phương tiện trực
quan và thí nghiệm, thực hành có ý nghĩa rất quan trọng. Phương tiện dạy học
sinh học rất đa dạng, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh, sơ đồ, biểu đồ, mẫu vật
thật như thước, chai nhựa, bình nhựa... hoặc kết hợp các phương tiện công nghệ
thông tin như video, trình chiếu, E-learning, trường học kết nối,...Bằng cách
riêng, giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi mở giúp học sinh khai thác kiến thức từ
những phương tiện hoặc công nghệ thông tin trong dạy học.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
90
IV. SỨC LAN TỎA CỦA CHUYÊN ĐỀ
- Với bộ môn Vật lý:
Phát huy được năng lực, tính tích cực của học sinh, giúp các em nắm bài
một cách chủ động, phát huy được năng lực học tập của từng học sinh.
Giáo viên phối hợp được nhiều phương pháp tích cực trong tiết dạy, quan
hệ giữa giáo viên với học sinh gần gũi, thân thiện;
Nâng cao được chất lượng giảng dạy bộ môn.
- Với Trường THCS Lạc Hòa:
Hình thành cho các em thói quen học tập cá nhân và học tập theo nhóm;
Giáo viên có mối quan hệ cảm thông, gắn bó, cùng nhau chia sẻ, giải quyết
những khó khăn trong dạy và học, công nhận sự khác biệt của nhau và khiêm
tốn học hỏi lẫn nhau. Nhờ đó, nâng cao được chất lượng giảng dạy của trường;
Ban giám hiệu luôn quan tâm đến công tác đổi mới phương pháp dạy học
của giáo viên, tổ chức được những chuyên đề để giáo viên tìm ra những nguyên
nhân tại sao học sinh chưa đạt kết quả như mong muốn, rồi cùng chia sẻ, thảo
luận, hỗ trợ các biện pháp cụ thể để cải thiện chất lượng học của học sinh, đánh
giá cao sự linh hoạt, sáng tạo của từng giáo viên, từ đó mỗi giáo viên có biện
pháp cải tiến phương pháp dạy để nâng cao chất lượng dạy học.
- Với Thị xã:
Giúp học sinh tiếp thu kiến thức, không phải thụ động từ bài giảng của giáo
viên mà phải độc lập chủ động quan sát và nghiên cứu tranh vẽ, mô hình… Từ
đó rút ra kiến thức hoàn chỉnh dưới sự chỉ dẫn của giáo viên;
Tổ chức lớp học đa dạng và phong phú, lôi cuốn được học sinh;
Giáo viên phối hợp được nhiều phương pháp tích cực trong tiết dạy;
Nâng cao được chất lượng giảng dạy của thị xã;
Tạo điều kiện cho giáo viên trong thị xã được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm
lẫn nhau.
Chuyên đề này dựa trên kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, rất mong sự
đóng góp của đồng nghiệp để tôi hoàn thiện hơn góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học môn Vật lý cho học sinh của trường.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
91
V. KẾT LUẬN
Việc tổ chức dạy theo định hướng phát triển năng lực học sinh trọng tâm là
tìm hiểu về học sinh, quan tâm tới tất cả các học sinh trong lớp, tạo cơ hội phát
triển cho mọi học sinh được tham gia thực sự vào quá trình học tập. Qua đó,
giáo viên luyện tập cách quan sát và suy nghĩ về việc học của học sinh trong giờ
học, có khả năng phán đoán nhanh nhạy, chính xác để điều chỉnh kịp thời việc
dạy, việc học của học sinh giúp cho giáo viên hiểu sâu hơn, rộng hơn về học
sinh, mà còn tạo cơ hội cho tất cả giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ
năng sư phạm, tự tin hơn trong việc giải quyết vấn đề của thực tiễn và phát huy
khả năng sáng tạo trong việc áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học thông
qua việc dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau khi dự giờ, từ đó nâng cao chất
lượng dạy và học của trường.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân với mong muốn góp một
phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng môn Vật lý 6 hiện nay. Rất mong quý
thầy cô, đồng nghiệp góp ý thêm.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
92
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY MÔN VẬT LÍ THEO ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Tổ Lý – Tin – Công nghệ
Trường THCS&THPT Khánh Hòa
I. Đặt vấn đề
Nền giáo dục nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo
dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học, nghĩa là từ chỗ quan
tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng
được cái gì qua việc học. Để đảm bảo điều đó, nhất định phải thực hiện thành
công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang
dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực
và phẩm chất. Trước bối cảnh đó và để chuẩn bị cho quá trình đổi mới chương
trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau 2018, cần thiết phải đổi mới đồng
bộ phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục theo định hướng
phát triển năng lực người học.
II. Thực trạng của việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực của
học sinh ở trường THCS&THPT Khánh Hòa.
1. Ưu điểm
- Các tổ bộ môn đã xây dựng lại kế hoạch dạy học theo dạng chủ để và thiết
kế lại giáo theo hướng tiếp cận năng lực của học sinh.
- Có tổ chức thao giảng – dự giờ rút kinh nghiệm tiết dạy theo định hướng
phát triển năng lực học sinh.
2. Hạn chế
Một bộ phận nhỏ giáo viên chưa vận dụng được các phương pháp dạy học
theo định hướng phát triển năng lực học sinh và kĩ năng sử dụng thiết bị dạy học
trong tổ chức hoạt động dạy học còn hạn chế nên chưa gây được hứng thú cho
học sinh trong quá trình học tập.
III. Một số kinh nghiệm trong dạy học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh
1. Xác định hệ thống năng lực
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
93
Đây là vấn đề được đặt ra ngay từ khi xây mỗi chủ đề. Thiết kế và thực
hiện một chủ đề dạy học theo hướng phát triển năng lực cần phải nhất quán từ hệ
thống năng lực, mục tiêu, chuẩn năng lực, đặc điểm của các năng lực, kết quả
cần đạt về năng lực và tiêu chí đánh giá các năng lực.
Ví dụ: Trong chủ để Đo thể tích các năng lực hướng tới là: Năng lực giải
quyết vấn đề, năng lực thực nghiệm, năng lực dự đoán, thiết kế và thực hiện các
phương án thí nghiệm, đánh giá kết quả và giải quyết vấn đề.
2. Xác định năng lực ở từng hoạt động trong chủ đề dạy học
Khi xây dựng chủ đề, ngoài việc đưa ra mục tiêu (Về kiến thức, Về kỹ năng,
Về thái độ) cần thể hiện rõ mối quan hệ giữa nội dung giảng dạy với năng lực
mà người học cần đạt được.
Ví dụ: Trong chủ để Đo thể tích mục tiêu cần đạt về:
* Kiến thức
- Nhận biết được đơn vị đo thể tích. Và mối liên hệ giữa các đơn vị đo.
- Nhận biết một số dụng cụ đo thể tích với GHĐ và ĐCNN của chúng.
- Biết cách đo thể tích của chất lỏng và vật rắn không thấm nước.
* Kĩ năng
- Xác định GHĐ và ĐCNN của dụng cụ đo thể tích.
- Đo được thể tích một lượng chất lỏng. Xác định được thể tích vật rắn không
thấm nước bằng bình chia độ, bình tràn.
* Thái độ
- Tích cực, tự giác học tập, tham gia xây dựng kiến thức.
- Yêu thích khoa học.
- Nghiêm túc học tập.
3. Thiết kế nội dung theo hướng tiếp cận năng lực người học
Từ kết quả xác định năng lực, dựa vào yêu cầu những khả năng/kỹ năng mà
người học cần đạt được để thiết kế nội dung.
Ví dụ: Trong chủ để Đo thể tích
Nhóm
năng lực Năng lực thành phần
Mô tả mức độ thực hiện
trong chủ đề
Nhóm K1: Trình bày được kiến - HS nhận biết được đơn vị đo thể tích
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
94
NLTP
liên quan
đến sử
dụng
kiến thức
vật lý
thức về các hiện tượng, đại
lượng, định luật, nguyên lý
vật lý cơ bản, các phép đo,
các hằng số vật lý.
là mét khối (m3) và lít (l).
- HS nhận biết biết dụng cụ đo thể
tích.
- HS trình bày được cách đo thể tích
của chất lỏng và vật rắn không thấm
nước .
K2: Trình bày được mối
quan hệ giữa các kiến thức
vật lý.
HS nhận biết được mối liên hệ giữa
các đơn vị đo.
1l= 1dm3; 1ml= 1cm3= 1cc.
K3: Sử dụng được kiến
thức vật lý để thực hiện các
nhiệm vụ học tập.
HS sử dụng được kiến thức vật lý và
thảo luận :
+ Tìm GHĐ và ĐCNN của dụng cụ
đo thể tích có ghi sẵn dung tích.
+ Nhận biết được mối quan hệ giữa
các đơn vị đo.
K4: Vận dụng (giải thích,
dự đoán, tính toán, đề ra
giải pháp, đánh giá giải
pháp …) kiến thức vật lý
vào các tình huống thực
tiễn.
- HS vận dung kiến thức vật lý :
+ Đọc được GHĐ và ĐCNN của dụng
cụ đo thể tích .
- HS: Biết cách đo và xử lí số liệu.
- HS: Vận dụng kiến thức vào thực
tiễn và cuộc sống.
Nhóm
NLTP về
phương
pháp (tập
trung vào
năng lực
thực
nghiệm
và năng
lực mô
hình hóa)
P1: Đặt ra những câu hỏi về
một sự kiện vật lý.
Đặt ra những câu hỏi liên quan đến
P2: Mô tả được các hiện
tượng tự nhiên bằng ngôn
ngữ vật lý và chỉ ra các quy
luật vật lý trong hiện tượng
đó.
Mô tả được cách đo thể tích bằng các
dụng cụ đo khác nhau, nhưng vẫn cho
ra kết quả giống nhau.
P3: Thu thập, đánh giá, lựa
chọn và xử lý thông tin từ
các nguồn khác nhau để
giải quyết vấn đề trong học
tập vật lý.
HS trả lời những câu hỏi liên quan
của các thí nghiệm trong chuyên đề.
P5: Lựa chọn và sử dụng
các công cụ toán học phù
hợp trong học tập vật lý.
Biết cách tính toán để tìm ra kế quả.
P8: Xác định mục đích, đề
xuất phương án, lắp ráp,
tiến hành xử lý kết quả thí
nghiệm và rút ra nhận xét.
HS đề suất được phương án làm thí
nghiệm để đo thể tích của các vật cụ
thể.
Nhóm
NLTP
trao đổi
thông tin
X1: Trao đổi kiến thức và
ứng dụng vật lý bằng ngôn
ngữ vật lý và các cách diễn
tả đặc thù của vật lý.
Học sinh trao đổi cách đo thể tích của
vật.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
95
X3: Lựa chọn, đánh giá
được các nguồn thông tin
khác nhau.
So sánh những nhận xét từ kết quả thí
nghiệm của các nhóm mình với nhóm
khác và kết luận ở sgk
X5: Ghi lại được các kết
quả từ các hoạt động học
tập vật lý của mình (nghe
giảng, tìm kiếm thông tin,
thí nghiệm, làm việc
nhóm…).
Học sinh ghi lại dược các kết quả từ
hoạt động học tập vật lý của mình.
X6: Trình bày các kết quả
từ các hoạt động học tập vật
lý của mình (nghe giảng,
tìm kiếm thông tin, thí
nghiệm, làm việc nhóm…)
một cách phù hợp.
Đại diện nhóm trình bày kết quả hoạt
động nhóm mình trước cả lớp. Cả lớp
thảo luận để đi đến kết quả.
- học sinh trình bày được các kết quả
từ hoạt động học tập vật lý của cá
nhân mình.
X7: Thảo luận được kết quả
công việc của mình và
những vấn đề liên quan
dưới góc nhìn vật lý.
Thảo luận nhóm về kết quả thí
nghiệm, rút ra nhận xét của nhóm
mình.
X8: Tham gia hoạt động
nhóm trong học tập vật lý.
Học sinh tham gia hoạt động nhóm
trong học tập vật lý.
Nhóm
NLTP
liên quan
đến cá
nhân
C1: Xác định được trình độ
hiện có về kiến thức, kĩ
năng, thái độ của cá nhân
trong học tập vật lý.
Xác định được trình độ về kiến thức:
Đo thể tích chất lỏng, đo thể tích vật
rắn không thấm nước và chìm trong
nước qua các bài kiểm tra ngắn , và
việc giải bài tập ở nhà.
C2: Lập kế hoạch và thực
hiện được kế hoạch, điều
chỉnh kế hoạch học tập vật
lý nhằm nâng cao trình độ
bản thân.
Lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch,
điểu chỉnh kế hoạch học tập trên lớp
và ở nhà cho phù hợp với điều kiện
học tập của chuyên đề.
C3: Chỉ ra được vai trò (cơ
hội) và hạn chế của các
quan điểm vật lý trong các
trường hợp cụ thể trong
môn Vật lý và ngoài môn
Vật lý.
C4: So sánh và đánh giá
được dưới khía cạnh vật lý-
các giải pháp kỹ thuật khác
nhau về mặt kinh tế, xã hội
và môi trường.
Dặn dò về an toàn khi làm thí nghiệm.
“Hội nghị chuyên đề “Nâng cao chất lượng dạy và học môn Vật lý ở các trường THCS”
96
C5: Sử dụng được kiến thức
vật lý để đánh giá và cảnh
báo mức độ an toàn của thí
nghiệm, của các vấn đề
trong cuộc sống và của các
công nghệ hiện đại.
Nhận ra được cách đo thể tích đối với
khoa học và đời sống.
4. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận năng lực người học
Khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung
dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập
nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
Có thể sử dụng nhiều phương pháp dạy học để đạt được mục tiêu của chủ
để và phát triển được năng lực người học.
Ví dụ: Trong chủ để Đo thể tích, ở nội dung Đo thể tích chất lỏng:
Hoạt động Phương pháp sử dụng
Tìm hiểu đơn vị đo thể tích Trực quan, đàm thoại.
Tìm hiểu dụng cụ đo thể tích chất lỏng Hoạt động nhóm, trực quan, đàm thoại.
Tìm hiểu cách đo thể tích chất lỏng Trực quan, đàm thoại.
Thực hành Hoạt động nhóm, bàn tay nặn bột.
IV. Kết luận
Trong việc dạy học theo hướng tiếp cận năng lực học sinh đã mang lại
những hiệu quả rất thiết thực:
- Học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu
những tri thức được sắp đặt sẵn.
- Học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách
tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới.
- Giáo viên đánh giá được kết quả học tập của học sinh trong suốt tiến
trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập. Học sinh phát triển kỹ năng tự
đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
Bên cạnh những hiệu quả mang lại, dạy học theo hướng tiếp cận năng lực
học sinh cũng gây không ít khó khăn cho cả giáo viên và học sinh đó là: giáo
viên mất rất nhiều thời gian cho việc thiết kế nội dung và tiêu chí đánh giá; học
sinh chưa quen với phương pháp mới nên còn lúng túng trong quá trình học tập.