Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ GIÁO HỌ KẺ TÙNG
“Deus, auribus nostris audivimus, Patres notri narraverunt nobis:
Opus qoud operatus es in diebus eorum, et in diebus antiquis.”
“Lạy Chúa, tai chúng con đã từng được nghe truyện cha ông vẫn thường kể lại về công trình
Chúa đã làm nên thời các cụ thuở xa xưa ấy”. (Tv 42:2)
I. LỜI MỞ
Như “Cây có cội, suối có nguồn”, mọi sự đều có tính lịch sử, và con người, khi bước qua
thời gian, luôn có xu hướng lần tìm lại những giá trị đã đi qua. Ngược dòng thời gian nhìn về
lịch sử của Giáo hội Việt Nam, mỗi Kitô hữu dân Việt chúng ta cần luôn xướng lên muôn lời
ca tụng, tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân Đức tin đến với quê hương. Vào cuối thế kỉ XVI, Tin
Mừng được manh nha loan truyền vào đất Việt qua một số vị thưa sai phương Tây, nhưng
đến giữa thế kỉ XVII, Tòa Thánh mới chính thức thiết lập Giáo phận Đàng trong và Đàng
ngoài vào năm 1659. Đó là dấu mốc đáng ghi nhớ của Giáo hội Việt Nam, đồng thời bắt đầu
một hành trình đón nhận Đức tin đầy gian nan mà gặt hái được dồi dào thành quả. Tin Mừng
đã được làm chứng và tỏa lan dần khắp các vùng miền trong đất Việt và số Kitô hữu không
ngừng gia tăng để rồi các Giáo phận, Giáo xứ, Giáo họ…ngày càng thêm lên. Vì thế, một dịp
nào đó ở phạm vi Giáo phận, giáo xứ hay giáo họ, chúng ta có cơ hội nhìn lại hành trình đón
nhận Đức tin của mình thì mỗi nơi sẽ có những dấu ấn lịch sử đặc trưng về thời gian, biến cố.
Thiết tưởng, tìm hiểu về cội nguồn hồng ân đón nhận Đức tin tại chính nơi Giáo hội địa
phương, có thể là ở phạm vi xứ đạo, họ đạo của mình là việc mà mỗi Kitô hữu chúng ta cần
làm. Vì không chỉ nhờ vậy mà cho chúng ta hiểu tường tận về gốc tích và những đổi thay qua
thời gian tại nơi mình được đón Đức tin, mà qua đó, ngỏ hầu để ta biết hướng tâm tình tạ ơn
Thiên Chúa và tri ân các bậc tiền nhân. Như một sự thao thức lần tìm về cội nguồn Đức tin,
chúng tôi tìm hiểu về một xứ đạo tọa lạc nơi miền quê bình dị, yên ắng, thanh bình, cũng là
xứ đạo của chúng tôi, thuộc thôn 4 - xã Đức La - huyện Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh, thuộc Giáo
hạt Nghĩa Yên - Giáo phận Vinh: Đó là Giáo xứ Kẻ Tùng.
Giáo xứ Kẻ Tùng, từng thế hệ qua đi, tiếp nối nhau nơi xứ đạo này và cho tới bây giờ,
khi nói về hành trình đón nhận Đức tin ra sao, bắt đầu từ thời gian nào có lẽ khó có ai hiểu
biết tường tận. Thế nhưng, nhờ vào tinh thần truyền khẩu qua các thế hệ trong Giáo xứ và
một số nguồn tài liệu ít ỏi khác cho phép chúng ta tìm hiểu và ghi chép lại vài nét sơ lược. Và
dưới đây là vài nét sơ lược về nguồn gốc, sự hình thành, quá trình phát triển và những chuyển
biến được ghi nhận của Giáo xứ Kẻ Tùng nói chung, Giáo họ Kẻ Tùng nói riêng.
II. NGUỒN GỐC VÀ DANH XƯNG
Tương truyền, từ thời Tây Sơn, mảnh đất Kẻ Tùng đã được diễm phúc đón nhận Đức
tin. Mầm Đức tin được gieo vào đầu tiên ở một chi họ Bùi thời vua Lê Chúa Trịnh. Vùng đất
này được gọi với tên Xích Tùng, tục hiệu thường gọi là Láng Tùng, ngày nay là xứ đạo Kẻ
2
Tùng. Như vậy, manh nha từ chi họ Bùi, Đức tin bắt đầu
được nhen nhóm và phát triển. Đàng khác, có một chi
nhánh Cố Lung có 5 người con theo đạo, và chi nhánh họ
Bùi Tuấn có 3 người con theo đạo ở tại Thôn Làng Thọ 1
sát cạnh dòng Sông La giáp dưới ngã ba Sông Cả.2 Lúc
những người này trưởng thành, họ lập nên 5 chi cả và 3 chi
nhỏ của làng Kẻ Tùng. Thời điểm này, họ bắt đầu lập nên
nhà nguyện để nhóm họp kinh nguyện ở trong Thôn Làng
Thọ và sinh sống ở thôn này một thời gian. Về sau, vì
không hợp với công việc làm ăn và mọi sinh hoạt, khi
người không có đạo tỏ ra quyền thế, phân biệt trong các
việc làng, xã… nhất là từ đó mà việc giữ đạo xem ra trở nên khó khăn. Bởi vậy, cha ông ta đã
chuyển chổ ra phía phần đất bại để ở và lập nghiệp từ đó.
III. THỜI KỲ THỬ THÁCH
Dưới thời vua Tự Đức, nổi lên phong trào Văn Thân 1864 gây nên tình cảnh Đạo
Công Giáo Việt Nam bị bách hại, cấm cách đầy gắt gao, tàn ác. Thế nhưng đây là lúc các
Kitô hữu thể hiện niềm tin sắt son của mình. Thật vậy, khắp nơi bị quan quyền bắt bớ, bách
hại bằng nhiều hình thức dã tâm, tuy nhiên các Kitô hữu luôn một lòng sắt son, kiên trung với
Đức tin của mình. Tại Láng Tùng (Kẻ Tùng), người ta biết đến cố Nhặt, một tín hữu nhiệt
thành với công việc họ đạo, đã bị quân lính bắt bớ, tra khảo và đánh đập. Chúng đưa cố Nhặt
vào thôn Làng Thọ để tra tấn và sau đó giết chết rồi bỏ rọ vứt xuống sông. Xác của cố đã trôi
dạt về sau bến nhà thờ, gọi là bến Cố Chắt Đồng.3 Linh cữu cố Nhặt đã được cố Tin cùng dân
làng chôn cất và lập mộ. Trên mộ viết dòng chữ xác quyết tinh thần Đức tin: “Gio-an
Baotixita Bùi Đình Nhặt chết vì đạo Chúa”4. Một thời gian sau, quan quyền tiếp tục bắt hai
mẹ con Cố Quặm Dụm, tức là em dâu cố Nhặt, bách hại và xử chém .
Nói về phong trào Văn Thân. Trước cảnh nước nhà bị xâm lăng, một số người trí thức,
sĩ phu có lòng ái quốc quá khích, bảo thủ không hiểu thời thế, đã tự động khởi xướng một
phong trào chống ngoại xâm và chống người Công Giáo, trước khi nghĩ đến cuộc phục hưng
quốc gia. Ðó là Phong Trào Văn Thân. Phong trào này chiêu dụ những thành phần bất hảo,
trộm cướp và các thí sinh dự khóa thi thời bấy giờ cùng đứng lên với phương châm “Bình
Tây, sát Tả”. Họ quy kết việc mất nước là do người Công giáo và chỉ trích Triều đình cử sứ
giả đi thương thuyết với Pháp. Đỉnh điểm của sự phẫn nộ là hòa ước năm 1862, Triều đình
1 Tức là thôn 3 ngày nay.
2 Lúc đó chưa có thôn 4.
3 Bến ông Thất ngày nay.
4 Hiện tại phần mộ của cố Bùi Đình Nhặt đang ở nghĩa trang xã Đức La.
Bản đồ địa lý Giáo họ Kẻ Tùng
3
nhu nhược cắt ba tỉnh cho Pháp và chấp nhận điều kiện tự do thương mại và buôn bán với
Pháp. Với sự lệch của cái gọi là lòng yêu nước, phong trào này một mặt yêu cầu Tự Đức giết
hết giáo dân và người Âu Tây, và doạ sẽ tẩy chay các kỳ thi, mặt khác vu cáo, xách động
người Công giáo với nhiều thủ đoạn như: người Công giáo có võ trang súng đạn, nhà Đức
Cha có nhiều vang bạc, đạo Công giáo không cho thờ cúng ông bà tổ tiên,…. Còn đối với
người Pháp, việc chiếm đóng ba tỉnh miền Tây Nam kỳ, cũng gây sự phẫn nộ lớn. Họ muốn
giết hết hoặc, bằng mọi mọi cách, tống khứ người Pháp và giáo dân, theo châm ngôn: Kiến
nghĩa bất vi vô dũng dã (Thấy việc nghĩa mà không làm là kẻ hèn nhát vậy). Mặt khác, còn có
nguyên nhân sâu xa khác là sự hiện diện của người Pháp trở thành nguy cơ đe dọa lâu dài về
các lợi ích kinh tế và địa vị xã hội của tầng lớp nhân sĩ. Nếu Việt nam trở nên một quốc gia
Thiên Chúa giáo, các nhân sĩ sẽ là nạn nhân hàng đầu vì họ có thể sẽ bị đuổi khỏi chính
quyền và bao nhiêu công lao họ tự đào tạo, thi cử sẽ tiêu tan. Họ chắc chắn lo sợ hơn các
quan chức bởi vì họ chưa có được một vị thế xã hội vững chắc, họ mới chỉ là người dự bị vào
quan trường. Kết quả của sự ích kỉ, bảo thủ, bất nhân trên là người Công giáo khắp nơi bị kì
thị, bắt bớ, giết hại một cách dã man, oan khiên.
Hậu quả của sự bách hại được thống kê từ nhiều nguồn sử sách khác nhau. Theo văn
thư ngày 7-12-1874 của Đức Cha Ngô Gia Hậu ghi nhận: ở Nghệ Tĩnh có 23.190 giáo hữu có
nhà cửa bị đốt, 2.058 người bị tàn sát và 1.343 người bị chết
đói. Ngày 5-11-1885 thừa sai Thanh (Frichot) quyền Đại
diện Tông Toà ở Xã Đoài viết: “Hiện nay, giáo phận Vinh
chúng tôi hoàn toàn nằm trong khói lửa, các Văn Thân từ
một tháng nay nổi lên khắp nơi, một số làng công giáo bị
hoả thiêu…”. Còn trong thư của Đức Cha Trị viết cuối năm
1886, nói rằng: “Máu của các tín hữu chúng ta đổ lan tràn
từ một năm nay đã làm cho vùng đất thấm máu này trở nên
trù phú. Hai làng ngoại, Hòa Luật và Đông Di, lúc xáo trộn,
đã cắt cổ ít nhất 1.100 giáo hữu…”.5 Nhưng đến năm 1887,
tình hình bách hại giảm dần khi người Công giáo dần được minh oan và phong trào Văn Thân
bị Triều đình đưa ra ánh sáng. Việc giữ đạo bắt đầu phục hồi, nhiều người đứng lên kêu gọi
khơi dậy tinh thần sống đạo công khai. Trong giáo xứ Kẻ Tùng có cố Đạt6 cũng hăng say kêu
gọi mọi người phục hồi đời sống đạo. Từ đó việc giữ đạo được tự do, yên ổn, công việc làm
ăn cũng đã hướng tới phát triển. Lúc này có cụ Gia Hoàng7 làm việc ở triều đình Huế, có
chức quyền nên cụ về làng đề nghị các cụ xin một trong hai điều; một là biệt triện8, hai là biệt
5 Nguồn từ Lịch sử Giáo phận Vinh.
6 Cố Đạt còn gọi là cố cụ Yên thân sinh cha Đề, cha Thể, và cố Sung.
7 Cụ Gia Hoàng là một linh mục, có chức quyền quan trọng trong triều đình Huế thời bấy giờ.
8 Biệt triện là tách riêng một xã.
4
xứ9. Thời đó, cụ Yên làm Thủ chỉ họ
10 đã tập hợp ý kiến mọi người trong họ và đề nghị xin
trên cho biệt xứ dưới thời cha Dược kế cận cha Nguyên là quản xứ Thọ Ninh cùng hợp ý xin
triều đình và bề trên cho tách ra từ Giáo xứ Thọ Ninh. (Cần nói thêm về vấn đề tách từ xứ
Thọ Ninh)
IV. KẺ TÙNG – QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUA CÁC ĐỜI
LINH MỤC QUẢN XỨ VÀ PHỤ TRÁCH.
Cùng với Giáo hội Việt Nam trải qua bao khó khăn, thăng trầm và cùng chịu muôn sự
bách hại, cấm cách, Kẻ Tùng trở về sự bình yên và chính thức được thành lập vào năm 1889.
Một xứ đạo ban đầu với số giáo dân còn ít, bao gồm 8 họ nằm phân bố rải rác:
1. Họ nhà xứ Kẻ Tùng (xã Đức la bây giờ)
2. Họ Hạ Tứ (xã Đức Xá)
3. Họ Nam Ngạn (xã Đức Quang)
4. Họ Yên Lạc (xã Đức Thuận)
5. Họ Yên Thọ (xã Đức Nhân)
6. Họ Yên Thịnh (xã Đức Thuận)
7. Họ Yên Cư (xã Hưng Phú, Huyện Hưng Nguyên, Nghệ An)
8. Họ Tường Vân (xã Đức Thủy)
Dù khi thành lập Kẻ Tùng có tám họ nhưng hiện nay chỉ còn lại 3, gồm: họ nhà xứ
Kẻ Tùng, họ Hạ Tứ và họ Nam Ngạn. Lí do của sự thu gọn sẽ được chúng tôi đề cập phía sau.
Năm 1892, tức 3 năm sau khi thành lập xứ, Đấng Chủ chăn Giáo phận là Đức Cha
Louis Pineau (1866-1914), còn gọi là Đức Cha Trị đã bổ nhiệm cha Già Phê-rô Phan về làm
Cha quản xứ đầu tiên. Ngài là coi sóc giáo xứ được 8 năm. Năm 1898, Cha cho xây nhà thờ
lợp ngói phục vụ cho việc thờ phượng của giáo dân. Khi ngôi nhà thờ được xây dựng, các bậc
cao niên như: cố Đồng, cố Lương, cố Thống, cố Núi, cố Khiêm, cố Lý, cố Thanh, cố Thưởng,
cố Kỉ, cố Sáng, cố Cán và một số cố thuộc dòng họ khác, mỗi cố đã đóng góp mỗi cây cột lim
to. Sau khi làm xong nhà thờ, cụ Yên cúng một cái Hào Quang11
, cố Đội Nội và ông Chương
cúng 14 đàng thánh giá.12
Tinh thần góp phần mình xây dựng giáo xứ thể hiện lòng nhiệt
thành, sốt sắng của giáo dân...". Cha già Phêrô Phan coi sóc giáo xứ trong 8 năm. Ngài đã
hưu dưỡng tại Giáo xứ cho tới khi qua đời năm 1919.13
(chi tiết này đang cần được kiểm 9 Biệt xứ là tách riêng một xứ.
10 Thủ Chỉ là người cao niên và là người có kinh nghiệm được giáo họ đề cử. cố cụ đã được Chúa gọi về và hiện tại phần mộ ở phía trước nhà ông Giáo.
11 Hòa Quang mà Cố Cụ Yên dâng cúng hiện giờ vẫn còn.
12 Mười bốn Đàng Thánh giá mới hiện nay trong Nhà thờ là do ông Gio-an Bùi Đình Hồng, chủ tịch hội đồng mục vụ Giáo xứ dâng cúng nhân dịp tuần chầu đền tạ năm 2011.
13 Trên phần mộ và theo truyền miệng thì cha Già Phan tạ thế vào năm 1900. Nhưng theo niên giám sử liệu
của Giáo phận Vinh, Ngài sinh 1830 tại xứ Đông Tràng. Linh mục năm 1873. Tạ thế 1919 tại giáo xứ Kẻ
Tùng.
5
chứng, vì năm tử của Ngài theo nguồn của giáo phận thì Ngài qua đời năm 1919 tại Kẻ Tùng,
nhưng năm quản xứ của ngài tại Kẻ tùng là 1892-1900. Vậy từ năm 1900-1919 thì Ngài ở
đâu? Chẳng lẽ Ngài đi xứ khác, đến lúc chết thì đem chôn ở Kẻ Tùng chăng? Hay là Ngài
hưu dưỡng tại đây?). Dưới thời Cha Già Phan, cụ Yên được đề cử làm Thủ chỉ họ,14
còn con
số giáo dân bấy giờ là 278 người. Hầu hết giáo dân thuộc họ Bùi nhưng dần dần các dòng họ
như: họ Nguyễn, Hoàng, Phạm và các họ khác lần lượt về đây chung sống.
Sau khi cha Già Phê-rô Phan về hưu vì lý do sức khỏe thì có các Linh mục kế tiếp
nhau về quản xứ như: Cha Paul Tính (1910 - 1911), Cha Paul Năng (1911 - 1913), phần mộ
của Ngài tại giáo xứ Kẻ Tùng, Cha Vĩnh (1913 - 1920), Cha Bình (1920 - 1924), Cha Pet
Trần Văn Hanh (1924 - 1928), và Cha Thới (1928 - 1937).
Thời Đức Cha Ely Bắc, Giáo phận đã bổ nhiệm Cha Giu-se Quy là người xứ Cầu
Rầm về quản xứ từ năm (1937 - 1939). Ngoài công việc quản xứ, lo cho các linh hồn, xây
dựng và kiến thiết, trong phụng vụ Cha Giu-se đã lập ra nguyện ngắm mùa Chay. Việc làm
đạo đức này đang được giữ gìn trong phụng vụ cho tới ngày nay. Sau hai năm phục vụ, Ngài
đã vào Dòng Phước sơn tiếp tục tu. Trong thời gian giáo xứ vắng chủ chăn mới, Cha quản hạt
là người Pháp đã sai Thầy Điền là kẻ giảng Giáo xứ Nghĩa Yên xuống giúp Giáo xứ về mặt
thiêng liêng.
Không lâu sau, cha Già Phê-rô Hiên (1940 - 1974) về tiếp
quản giáo xứ. Đây là giai đoạn thăng trầm nhất, vì cuộc Cách mạng
Mùa Thu 1945, rồi 9 năm kháng chiến, do đó việc hành đạo của tín
hữu Giáo hội Việt nam nói chung, và Giáo xứ ta nói riêng trở nên
khó khăn. Bên cạnh đó, khi hiệp định Genève được ký kết ngày
20.7.1954, đã diễn phong trào di dân gây xáo trộn trong giáo xứ.
Không ai nghĩ rằng có khoảng 1 triệu người bỏ miền Bắc di cư vào
Nam tìm nơi an cư lạc nghiệp mới, bởi chiến tranh bom đạn gây
hoang tàn, li tán và cũng vì họ không muốn còn sống dưới chế độ
cộng sản. Giáo họ Kẻ Tùng có 54 hộ di cư vào miền Nam ở giai đoạn này. Không chỉ thế,
đến thời chiến tranh bom đạn Mỹ tàn phá nhiều nơi, cũng làm nhiều người phải xa cách.
Trong thời gian Cha Già Hiên quản xứ, vì hoàn cảnh khó khăn, nhà trường Lý Đoán15
phải
đóng cửa năm 1943. Do đó có Thầy Phêrô Trần Xuân Hạp 16
về ở và giúp xứ. Giáo dân ta
còn nhớ rất rõ bài hát “Lạy Nữ Vương rất thánh mân côi” do Thầy Hạp tập. Bài hát vẫn được
cất lên vào tháng mân côi hằng năm.
14
Thủ chỉ là người cao niên và là người có kinh nghiệm được giáo họ đề cử. Cố Cụ đã được Chúa gọi về và
hiện tại mộ ở phía trước nhà ông Giáo.
15 Trường Lý Đoán tức là Tiểu Chủng viện ngay nay.
16 Thầy Phêrô Trần Xuân Hạp (1920-2005) nguyên là Đức Giám mục Giáo phận Vinh.
6
Sau khi cha Già Hiên tạ thế 1974, Đức Cha Phê-rô Nguyễn Năng (1971-1978) bổ
nhiệm Cha Giu-se Ngô Xuân Luyện về tiếp quản giáo xứ. Năm
1978 tiếp tục phong trào đi kinh tế mới vào nam, Kẻ Tùng có tổng
số trên 40 hộ di cư, vì thế mà số giáo dân lúc này lại càng giảm
sút, thưa thớt, như lời nói đầy tâm trạng mà dân ta hay nói: “đi chi
mà đi khiếp, họ đua nhau đi cho trắng làng cả”. Phong trào di dân
lần thứ hai là nguyên nhân chính khiến Giáo xứ chỉ còn lại 3 giáo
họ: Giáo họ Kẻ Tùng, Giáo họ Hạ Tứ, và Giáo họ Nam Ngạn.
Riêng hai Giáo họ Yên Lạc và Yên Thịnh chuyển về Giáo xứ Tiếp
Võ sinh hoạt. Ba Giáo họ còn lại mai một dần theo thời gian và số
giáo dân ở đây cũng di cư khỏi địa phương hay dần mất tinh thần
sống đạo.
Năm 1994, bề trên Giáo Phận bổ nhiệm cha Phêrô Nguyễn Huy Hoàng quản xứ Thọ
Ninh và kiêm phụ trách Kẻ Tùng. Ngay từ năm đầu tiên về
phụ trách giáo xứ, cha Phê-rô đã thành lập 4 tổ chia sẽ lời
Chúa, mục đích để con chiên học hỏi đào sâu và sống Lời
Chúa cũng như phục vụ các công việc chung trong giáo xứ.
Vài năm sau, Ngài đã cùng với giáo dân huy động các nguồn
lực, nhất là những người con xa quê hương với ý định sẽ xây
dựng ngôi Thánh đường mới khá khang trang và rộng lớn. Để
chuẩn bị cho việc thi công, từ những tháng đầu năm 2006, lợi
dụng lúc nước rút cạn, cha xứ và Ban điều hành giáo xứ huy
động bà con giáo dân trong các tổ chia sẻ lời Chúa đi gom cát
ở ngoài Sông La, vùng con lạch nhỏ giữa Bãi Cát và Hóc.
Từng gia đình thi nhau dùng xe kiến an, xe bò lốp. Nếu không có trâu bò chở thì cứ 4 đến 5
người chung nhau một xe, rồi một thanh niên hay tráng niên
thay trâu, bò để lái, những người còn lại đẩy phía sau. Tất cả
làm việc trong tiếng vui cười vì vật liệu này là của ‘trời cho’,
không mất tiền của. Chỉ sau một thời gian ngắn, bà con giáo
dân tập kết được hàng trăm khối cát. Địa điểm tập kết cát được
phủ kín toàn bộ ở vùng đất thuộc Tháp chuông, Đài Đức Mẹ
ngày nay. Rồi việc tập kết gạch từ lò gạch tại địa phương cũng
diễn ra tương tự.
Một điều đáng nhớ trước, trong và sau thời gian xây
dựng Thánh đường: cha Phêrô rất có kinh nghiệm về việc
trông cậy, phó thác vào Mẹ Maria, chính Ngài đã sáng tác bài
hát “Lạy Mẹ nhân ái. Lạy Mẹ từ bi” để cho con cái giáo xứ cầu xin sự trợ giúp, dẫn đường
chỉ lối của Mẹ Maria sau mỗi giờ kinh và thánh lễ. Quả thật, nhờ Mẹ Maria bầu cử, mọi việc
Lm. Pet Nguyễn Huy Hoàng
7
chuẩn bị đã diễn ra rất xuôi chảy. Khi đã huy động được nhiều vật tư cùng những tiên liệu
khác, năm 1997, Cha Phêrô và giáo xứ đã quyết định tiến hành xây dựng thánh đường mới.
Vì thế ngày 2.3.1998, thánh lễ đặt viên đá tượng trưng cho việc bắt đầu khởi công
nhà thờ đã được Đức Cha M. Phao-lô Cao Đình Thuyên Phụ tá
chủ sự. Đáng lẽ ra thì thánh lễ này do Đức Cha Chánh M. Phê-
rô Trần Xuân Hạp chủ sự, nhưng đến giờ chót thì Ngài ủy
quyền cho Đức Cha Phụ tá. Vì thế, viên đá lưu niệm đã khắc
tên của Đức Cha Phê-rô Trần
Xuân Hạp. Sau hai năm xây
dựng và kiến thiết, ngày
19.08.1999 tức nhằm ngày Thứ
5 Tuần Chầu lượt, thánh đường
mới đã được khánh thành. Cùng
những năm đó, cha quê hương
Gio-an Baotixita Bùi Đình Thể dâng cúng cho giáo xứ quả
chuông và tháp chuông hiện tại đang sử dụng. Đây là món quà
của ngài trước khi về nhà hưu dưỡng ở Nha Trang.
Cha Phêrô Nguyễn Huy Hoàng quản xứ Thọ Ninh và Kẻ Tùng được 10 năm thì tới
năm 2004 Giáo Phận thuyên chuyển Ngài về quản xứ Tiếp Võ và bổ nhiệm cha Giu-se Trần
Văn Lợi về coi sóc hai giáo xứ. Với sự hy sinh của cha Quản xứ và sự cộng tác của ban mục
vụ giáo xứ, Giáo họ, trong giai đoạn này, đời sống đạo được nâng lên, kinh tế được cải thiện
và phát triển. Dầu vậy, vì lý do sức khỏe và công tác mục vụ của cha Giuse cho cả hai Giáo
xứ nên Giáo xứ Kẻ Tùng nhìn chung nhiều mặt chưa được cải thiện.
Sau 4 năm cha Lợi quản xứ, đến năm 2008, Giáo Phận tiếp tục thuyên chuyển linh
mục và bổ nhiệm cha Tôma Aqino Nguyễn Bá Lộc về coi sóc hai giáo xứ thay cha Lợi. Giai
đoạn này là một bước ngoặt lớn cả về đời sống thiêng liêng cũng như đời sống kinh tế. Với
sự nhiệt huyết của sức trẻ và lòng đạo đức thánh thiện của Ngài, đời sống giáo dân hai bề
phát triển không ngừng. Ngài quan tâm vực dậy tinh thần giáo xứ cả bề trong lẫn bề ngoài.
Phải nói rằng, một giáo xứ trong nhiều thập niên không có cha chính xứ trực tiếp coi sóc cho
giáo dân quả là một sự khuyết thiếu. Vì vậy, hiểu được mong mỏi của giáo dân, mặc dù là
cha kiêm quản xứ, nhưng Cha Tôma Aqunô vẫn cố gắng cân bằng việc chăm lo cả hai Giáo
xứ. Về công trình thờ phượng, Ngài cho tôn tạo, sơn trần lại ngôi Thánh đường qua nhiều
năm đã rêu phong, xuống cấp. Đồng thời Ngài cho kiến thiết khuôn viên thánh đường, tượng
đài Đức Mẹ, phòng học giáo lý, khắc phục các trang thiết bị âm thanh và ánh sáng trong nhà
thờ. Về hội đoàn, Ngài đặc biệt quan tâm tới giới trẻ, cổ vũ tinh thần học hỏi giáo lý và văn
hóa; ân cần khích lệ các bàn ngành như giới trẻ, phụ nữ và ca đoàn… nhằm khởi tạo lại tinh
thần hoạt động, phục vụ. Ban giáo lý đã thành lập được một đội trống lớn mang tầm cỡ trong
8
giáo phận. Còn phong trào học Giáo lý vẫn luôn được khích lệ chuyên cần và đạt nhiều thành
quả đáng kể.
Dưới đây là các linh mục do Đức Giám mục Giáo phận chỉ định và bổ nhiệm về coi
sóc Giáo xứ qua các thời kỳ:
1. Cha Pet Phan (1892 – 1900 hay 1919?)
2. Cha Paul Tính (1910 - 1911)
3. Cha Paul Năng (1911 - 1913)
4. Cha Vĩnh (1913 - 1920)
5. Cha Bình (1920 - 1924)
6. Cha Pet Trần Văn Hanh (1924 - 1928)
7. Cha Thới (1928 - 1937)
8. Cha Jos Quy (1937 - 1939)
9. Cha Pet Hiên (1939 - 1974)
10. Cha os Ngô Xuân Luyện (1974 - 1994)
11. Cha Pet Nguyễn Huy Hoàng (1994 - 2004)
12. Cha Jos Trần Văn Lợi (2004 - 2008)
13. Cha Tôma Aquino Nguyễn Bá Lộc (2008 – 08/2012)
V. KẺ TÙNG NGÀY HÔM NAY
Kế thừa thành quả Đức tin mà các bậc tiền nhân đã để lại, giáo dân Kẻ Tùng đang
từng ngày cố gắng thăng tiến đời sống đạo và phát triển cuộc sống mưu sinh. Về đời sống vật
chất, người dân Kẻ Tùng bao đời gắn bó với nghề chính là nông nghiệp và chăn nuôi. Ngoài
ra, nhiều người xoay xở thêm các nghề phụ như nghề thợ xây, thợ mộc…hoặc ra nước ngoài
tha phương cầu thực, một số khác vào Sài Gòn lập nghiệp. Cố gắng “bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời” nơi ruộng vườn, đồng thời chấp nhận tha phương cầu thực để có thêm thu nhập,
đã giúp cải thiện đời sống vật chất của Giáo xứ. Kẻ Tùng nay đã trở nên “sáng-sạch-đẹp” hơn
với đường xá được bê tông hóa, nhà cửa kiên cố khang trang, hầu hết các gia đình đã đủ điều
kiện để chăm lo con cái được ăn học đầy đủ. Về mặt thiêng liêng, mọi sinh hoạt trong giáo xứ
vẫn được duy trì phát triển. Tháng 08/2012 vừa qua, Cha kiêm quản xứ vừa nhận bài sai mới
của Giáo phận cho một công tác mới nên giáo xứ đang trống Mục tử coi sóc, song hàng tuần
vẫn có Thánh lễ do cha quản hạt cử hành. Mặc dù trống thiếu Đấng chủ chăn nhưng Hội đồng
mục vụ Giáo xứ vẫn duy trì tốt mọi sinh hoạt của giáo xứ, đặc biệt đang cùng với giáo dân
đang tích cực kiến thiết, nâng cấp lại nhà phòng và trường giáo lý phục vụ cho các sinh hoạt
của giáo xứ. Với tinh thần đang đi lên về mọi mặt và đời sống vật chất được cải thiện đáng kể,
9
hy vọng trong một tương lai gần, Kẻ Tùng sẽ đủ điều kiện có cha quản xứ chính thức chăm lo
phần linh hồn, đáp ứng lòng ước mong bao năm của giáo dân.
Về ơn gọi Giáo sĩ và tu sĩ là con cái của Giáo họ Kẻ Tùng. So với nhiều Giáo xứ khác
thì ơn gọi dâng hiến còn khiêm tốn. Nhưng nhiều năm trở lại đây, đã có nhiều tâm hồn quảng
đại dấn thân cho Giáo hội.
Cha Hậu (đã qua đời), cha Gio-an Bùi Trọng Đề (đã qua đời), cha Thể (đã qua đời),
Cha Thân (mục vụ ở Canada), cha Bùi Đình Cao (ĐCV Vinh -Thanh), thầy Thân (Phó tế
Phan Thiết), thầy Phạm Văn Hiệu (tu và học tập ở Mỹ), thầy Bùi Khiêm Cường (Đại chủng
viện Vinh - Thanh), thầy Phạm Văn Cường (Tiểu chủng viện năm 2, trực thuộc Giáo phận
Ban Mê Thuột), chị Quang (tu dòng Cát Minh), chị Lý và Chị Tin (tu dòng MTG), chị An
(Tập sinh dòng Đa-minh), chị Liên (nhà thử dòng Phao-lô Đà Nẵng), ngoài ra còn có 2 em
Đệ tử dòng Đa-minh, 2 em là Đệ tử dòng Phao-lô Đà Nẵng. Và rất nhiều sinh viên Đại học,
Cao đẳng, Trung cấp đang tích cực học tập để xây dựng Giáo xứ, Giáo hội cũng như Xã hội.
Chúng ta cần nỗ lực cầu nguyện và cộng tác ủng hộ bằng cách này cách khác hơn nữa
để tinh thần học tập của con em trong Giáo xứ ngày càng tiến tới, và qua đó manh nha thêm
nhiều ơn gọi Thiên triệu, nhiều tâm hồn quảng đại dâng hiến cho Chúa, phục vụ Giáo hội và
tha nhân.
Có một Kẻ Tùng như bây giờ, người Kẻ Tùng hôm nay không khỏi cúi mình tạ ơn
Thiên Chúa và hết lòng kính cẩn tri ân các bậc tiền nhân. Bởi như hạt lúc chấp nhận hủy mục
cho cây trổ bông trĩu hạt chín vàng, các bậc tiền nhân đã kiên cường bảo vệ, giữ vững đức tin
cho dẫu bao gian nan, thử thách và dù phải minh chứng niềm tin bằng giá máu vẫn một lòng
kiên trung. Đồng thời, bằng chính mồ hôi nước mắt lao công nhọc nhằn, cha ông đã gầy dựng
nên và cải tạo vùng đất Kẻ Tùng ngày càng thịnh đạt, an ninh. Đặt biệt, Giáo hội luôn ưu ái
để Kẻ Tùng luôn được chăm lo về đời sống thiêng liêng, để đến bây giờ Giáo xứ ngày càng
phát triển cả bề trong lẫn bề ngoài. Chúng ta là bậc con cháu đang được thừa hưởng thành
quả, hoa trái của cha ông ta để lại, chúng ta phải là thế hệ tiếp nối xây dựng Kẻ Tùng có
những bước đi vững mạnh hơn nữa. Những bước tiến mới phải song hành, cân bằng giữa các
mặt tốt đẹp về vật chất, tinh thần, và đức tin.
Tin tưởng rằng, những người con của Giáo xứ Kẻ Tùng, người gắn bó với ruộng đồng,
người viễn xứ tha phương, đi Nam về Bắc để an cư lạc nghiệp, học tập, tu trì ở khắp miền tứ
xứ vẫn luôn hướng tâm hồn mình về quê hương thân thương. Giáo xứ đang tự hào gọi tên
từng người chúng ta để đặt niềm hy vọng, chờ đón chính chúng ta sẽ góp phần xây dựng quê
hương mình. Chắc rằng mỗi người đều có cách thế tốt nhất thể hiện lòng yêu mến, khắc khoải
cho gia đình và quê hương. Dám nghĩ, chính khi chúng ta hoàn thành tốt ở vai trò, vị thế, bậc
sống, bổn phận của mình là lúc đang góp phần vào xây dựng Giáo xứ. Hi vọng rằng Kẻ Tùng
và từng con dân của Giáo xứ sẽ can trường vượt qua những khó khăn đang tồn tại để ngày
càng thăng tiến hơn. Nguyện xin Mẹ Maria, quan thầy của Giáo xứ, phủ bóng mát yêu
10
thương, đưa tay dẫn dắt, gìn giữ từng thành viên trong Giáo xứ chúng ta. Xin Mẹ cầu bầu
cùng Chúa cho Giáo xứ chúng ta thêm lòng giữ đạo sốt sắng, thánh thiện, một cuộc sống
hưng thịnh, bình an và đoàn kết với nhau trong tình con một Chúa là Cha. Xin được mượn
tâm tình của thi sĩ Đỗ Trung Quân làm lời mời gọi, nhắc nhớ cho chúng ta về miền quê Kẻ
Tùng dấu yêu, rằng: “Quê hương mỗi người chỉ một / Như là chỉ một mẹ thôi / Quê hương có
ai không nhớ???”
Nguồn thông tin chính từ và sự đóng góp tham khảo:
Em Bùi Tuân
Em Bùi Tường.
Em Phạm Văn Cường.
Website Giáo Phận Vinh.
Internet.
Xin lưu ý: Những gì viết ra đây thì dựa trên thông tin lấy từ các Cụ hiện còn sống trong giáo
xứ và những nguồn lược sử từ giáo phận Vinh. Đây chưa phải là bản hoàn chỉnh mà chỉ là
bản nháp. Ý Mình post lên là để các bạn tham khảo và cho ý kiến. Mình biết là đã post lên
mấy lần, mà mỗi lần thì khác nhau. Đúng như vậy, lời văn, câu cú thì có khác nhưng các mốc
thời gian và ý chính của bài vẫn giữ nguyên. Hy vọng bài này sẽ không thay đổi nhiều mà chỉ
thêm và đính chính những thông tin sau khi kiểm chứng cho xác thực nữa mà thôi. Thanks.
Francis Hiệu.