Upload
trinhminh
View
225
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trƣờng (iSEE)
BÁO CÁO
ĐÁNH GIÁ TIẾP CẬN VÀ SỬ DỤNG
CÁC DỊCH VỤ PHÁP LÝ
CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ
Hà Nội, tháng 12 năm 2010
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng phát triển châu Á
BĐG Bình đẳng giới
Bộ GD-ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bộ LĐTBXH Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Bộ VHTTDL Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
CLB TGPL Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý
CTV Cộng tác viên
DTTS Dân tộc thiểu số
FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc
Hội LHPNVN Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
ILO Tổ chức Lao động quốc tế
IOM Tổ chức Di cư quốc tế
iSEE Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường
LHQ Liên Hợp Quốc
MCNV Uỷ ban y tế Hà Lan - Việt Nam
PCBLGD Phòng chống bạo lực gia đình
SDC Văn phòng hợp tác phát triển Thuỵ Sĩ
SIDA Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Thụy Điển
TGPL Trợ giúp pháp lý
TNXH Tệ nạn xã hội
TVPL Tư vấn pháp luật
UBND Uỷ Ban nhân dân
UNAIDS Chương trình phòng chống HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc
UNDP Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
UNESCO Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục Liên Hợp Quốc
UNFPA Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc
UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
UNIDO Tổ chức phát triển Công nghiệp của Liên Hợp Quốc
UNIFEM Quỹ phát triển Liên Hợp Quốc cho phụ nữ
UNODC Văn phòng ma tuý và tội phạm Liên Hợp Quốc
WHO Tổ chức Y tế thế giới
XHDS Xã hội dân sự
2
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................................. 1
MỤC LỤC ................................................................................................................................. 2
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................... 4
GIỚI THIỆU CHUNG ............................................................................................................. 5
1. Bối cảnh nghiên cứu ............................................................................................................. 5
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................................. 6
3. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................................... 6
4. Hạn chế của nghiên cứu .................................................................................................... 100
PHẦN 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM VÀ
TÌNH HÌNH BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÁC NHÓM DÂN TỘC THIỂU SỐ ........... 11
1. Phân bố dân cư và phân loại người DTTS ở Việt Nam ...................................................... 11
2. Nghèo đói và các nguyên nhân chính của nghèo đói trong người DTTS ........................... 11
3. Phụ nữ dân tộc miền núi và tình trạng bình đẳng giới trong các cộng đồng DTTS ........... 15
4. Quản lý xã hội và luật tục của người DTTS ....................................................................... 20
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ TIẾP CẬN DỊCH VỤ PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC 23
THIỂU SỐ QUA RÀ SOÁT TÀI LIỆU
1. Các loại hình dịch vụ pháp lý hiện có ở Việt Nam ............................................................. 23
2. Sử dụng dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS ....................................................................... 26
3. Sự phù hợp của các dịch vụ pháp lý và các rào cản cho tiếp cận dịch vụ pháp lý của…..
27 phụ nữ DTTS
PHẦN 3: ĐÁNH GIÁ TIẾP CẬN DỊCH VỤ PHÁP LÝ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC…. 33
THIỂU SỐ - NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG Ở BẮC CẠN VÀ AN GIANG
1. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu ........................................................................................ 33
2. Cung của dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý ...................................................................... 34
3. Nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của phụ nữ và nam giới DTTS ..................................... 36
4. Mức độ tiếp cận đến dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS .................................................... 42
5. Các rào cản cho việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý ................................................. 46
PHẦN 4: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƢỚC VỀ TĂNG CƢỜNG TIẾP CẬN
DỊCH VỤ PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ ............................................ 49
PHẦN 5: CÁC KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .............................................................. 53
Danh mục tài liệu tham khảo 56
Phụ lục 1: Bảng hỏi 58
Phụ lục 2: Tóm tắt các dịch vụ pháp lý 71
3
Danh mục các bảng
Bảng 1: Những người tham gia nghiên cứu
Bảng 2: Tỉ lệ hộ nghèo theo vùng qua các thời kì 2006 – 2008
Bảng 3: Dân số từ 10 tuổi trở lên biết chữ theo vùng và giới tính
Bảng 4: Mức sinh và mức chết theo dân tộc
Bảng 5: Nơi sinh và người chăm sóc khi sinh theo tỉnh
Bảng 6: Một số chỉ tiêu chính có liên quan của các địa bàn nghiên cứu
Bảng 7: Số các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý
cho người dân ở hai tỉnh Bắc Kạn và An Giang (số liệu năm 2009)
Bảng 8: Những vấn đề mà người dân gặp phải trong 12 tháng qua xếp theo mức độ
phổ biến
Bảng 9: Những vấn đề mà người dân gặp phải trong 12 tháng qua xếp theo mức độ bức xúc
cảm nhận của những người gặp phải vấn đề đó
Bảng 10: Tổng hợp những nhóm vấn đề bức xúc của người dân
Bảng 11: So sánh những vấn đề thường gặp giữa nhóm phụ nữ DTTS với nam giới DTTS và
phụ nữ Kinh
Bảng 12: Tỷ lệ người dân báo cáo có làm các thủ tục pháp lý cơ bản
Bảng 13: Tỷ lệ người dân đã được nghe đến những tổ chức, cơ quan có liên quan đến dịch
vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý
Bảng 14: Tỷ lệ người dân giải quyết vấn đề theo những cách cụ thể xếp theo mức độ phổ
biến của vấn đề (%)
Bảng 15: Tỷ lệ cam chịu của nam giới và nữ giới trong những vấn đề cụ thể
Bảng 16: Số người được trợ giúp pháp lý ở Bắc Kạn và An Giang năm 2009
Bảng 17: Tỷ lệ người dân đã từng được tư vấn hoặc trợ giúp pháp lý từ các cơ quan,
tổ chức
Bảng 18: Tỷ lệ người dân đưa ra những lý do khác nhau để giải thích cho việc họ chưa sử
dụng dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý
Bảng 19: Những yếu tố mà người dân coi là quan trọng trong việc sử dụng dịch vụ pháp
lý / trợ giúp pháp lý
Danh mục các hình
Hình 1: Khung phân tích
Hình 2: Tỉ lệ nghèo khác nhau giữa các nhóm dân tộc
Danh mục các khung
Khung 1: Các vấn đề liên quan đến hôn nhân gia đình
Khung 2: Tranh chấp đất đai và cách giải quyết của ở Bắc Kạn
Khung 3: Nhận thức của nam giới và nữ giới về trợ giúp pháp lý
4
LỜI CẢM ƠN
Việt Nam từ lâu đã được đánh giá cao vì những cam kết chính trị trong việc đảm bảo
bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới cũng như giữa các dân tộc. Hiến pháp quy định công dân
nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; các
hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ đều bị nghiêm cấm. Tuy
nhiên, trên thực tế thực trạng bình đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới vẫn còn những khác
biệt. Nhìn chung, phụ nữ vẫn ở vị trí thiệt thòi hơn so với nam giới trong tất cả các lĩnh vực
của cuộc sống, trong đó phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) chịu thiệt thòi nhất, vừa phải gánh
chịu những bất bình đẳng giới cũng như bất bình đẳng về mặt dân tộc.
Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng chống bạo lực gia đình được Quốc hội thông qua
năm 2006 và 2007 là những tiền đề quan trọng, tạo ra các cơ sở pháp lý vững chắc để thực
hiện bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới. Tuy nhiên, ngoài khung pháp lý, để có được bình
đẳng và công bằng thực sự cho phụ nữ và nam giới thì một yếu tố quan trọng khác cũng cần
phải có, đó là người dân cần có hiểu biết về pháp luật và các trình tự thủ tục cũng như được
hướng dẫn và hỗ trợ để thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình. Các dịch vụ
pháp lý là những kênh quan trọng, góp phần mang đến những hiểu biết, hướng dẫn và hỗ trợ
đó cho người dân. Chừng nào phụ nữ nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng còn chưa tiếp cận
bình đẳng tới các dịch vụ pháp lý thì khó có thể đảm bảo các quyền và trách nhiệm của họ
được tôn trọng trên thực tế. Trong bối cảnh này, đẩy mạnh tiếp cận của phụ nữ và nam giới
DTTS tới các dịch vụ pháp lý là một phương thức hiệu quả để thực thi Luật Bình đẳng giới
(BĐG) và Luật Phòng chống bạo lực gia đình (PCBLGĐ), góp phần hướng tới bình đẳng giới
cho phụ nữ và nam giới DTTS.
Ý tưởng về tiến hành một nghiên cứu đánh giá tình hình tiếp cận tới dịch vụ pháp lý
của phụ nữ DTTS được đề xuất trong khuôn khổ Chương trình chung về bình đẳng giới giữa
Chính phủ Việt Nam và các tổ chức Liên hợp quốc. Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi
trường xin trân trọng cảm ơn Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, bà Nguyễn Thị Diệu
Hồng, Phó Giám đốc Chương trình chung về Bình đẳng giới giữa Chính phủ Việt Nam và các
tổ chức LHQ, chị Trần Thị Phương Nhung, Điều phối viên dự án Ô, chị Hà Thị Vân Khánh,
Cán bộ chương trình của UNDP và các đồng nghiệp khác đã đưa ra ý tưởng, đóng góp ý kiến
cũng như hỗ trợ cho Viện trong quá trình tiến hành nghiên cứu này.
Đoàn nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Sở Lao Động - Thương Binh và Xã Hội và
Sở Tư Pháp hai tỉnh Bắc Kạn và An Giang đã điều phối, liên hệ với các cơ quan, địa phương
liên quan để đoàn nghiên cứu có thể tiến hành công việc một cách dễ dàng. Chúng tôi cảm ơn
các cơ quan ban ngành tỉnh, huyện và các xã nghiên cứu đã dành thời gian chia sẻ với chúng
tôi những nhận xét và ý kiến của mình về thực trạng địa phương trong chủ đề nghiên cứu.
Cuối cùng, chúng tôi bày tỏ sự biết ơn đối với nhân dân 4 xã Cao Kỳ, Tân Sơn huyện Chợ
Mới, tỉnh Bắc Kạn và Cô Tô, Núi Tô huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Họ đã chia sẻ với đoàn
nghiên cứu những trải nghiệm, bức xúc trong cuộc sống và nhu cầu của mình. Qua đó, chúng
tôi đã hiểu rõ hơn về vai trò cũng như thực trạng cung cấp dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý
cho từng nhóm nam giới, phụ nữ, người dân tộc, người Kinh trong xã hội.
5
GIỚI THIỆU CHUNG
1. Bối cảnh nghiên cứu
Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có ngôn ngữ riêng, lối sống và văn hoá riêng.
Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 85.7% của tổng dân số1. Người DTTS thường sinh
sống ở khu vực miền núi, ít tiếp cận với các thông tin, cơ sở hạ tầng cũng như các dịch vụ y tế
và giáo dục hơn so với nhóm đa số người Kinh và người Hoa. Tỉ lệ nghèo đói trong các nhóm
DTTS cao hơn nhiều so với các nhóm dân tộc đông dân khác. Theo số liệu Điều tra mức sống
hộ gia đình năm 2008 của Tổng cục thống kê, tỉ lệ nghèo đói trong người DTTS là 49,8%
trong khi đó trong người Kinh và Hoa chỉ là 8,5%. Hai vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có tỉ lệ
hộ nghèo cao nhất cả nước với 35,9% và 21% số hộ là hộ nghèo. Đây cũng là hai vùng có tỉ lệ
người DTTS sinh sống cao nhất. Tình trạng nghèo đói cùng với điều kiện sinh sống xa xôi và
tiếp cận hạn chế đến dịch vụ đang là các yếu tố làm cho người DTTS trở thành một trong
những nhóm dễ tổn thương và thiệt thòi nhất ở Việt Nam.
Đặc biệt, phụ nữ DTTS còn dễ tổn thương hơn so với nam giới DTTS. Phụ nữ DTTS
thường có ít cơ hội tiếp cận nguồn lực hơn, thiếu quyền sở hữu các phương tiện sản xuất, khả
năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cũng hạn chế hơn. Những chuẩn mực văn hóa trong các
nhóm DTTS cộng với việc nhiều phụ nữ DTTS không nói được tiếng Kinh đang là các rào
cản hạn chế việc tiếp cận của phụ nữ DTTS tới các dịch vụ xã hội cũng như tham gia trong
các quá trình ra các quyết định mang tính chính trị2.
Bất bình đẳng giới được coi là nguyên nhân sâu xa của nghèo đói. Thúc đẩy bình đẳng
giới trong các nhóm DTTS và trao quyền cho phụ nữ DTTS từ lâu đã được cho là căn bản để
xóa đói giảm nghèo có hiệu quả và bền vững. Do sự khác biệt trong phân công lao động theo
giới và khác biệt về văn hóa và tập quán, các nhu cầu của phụ nữ trong xóa đói giảm nghèo
thường khác so với nhu cầu của nam giới, đặc biệt của phụ nữ DTTS sẽ khác so với phụ nữ
Kinh. Tăng cường sự tham gia và tiếng nói của phụ nữ DTTS trong thiết kế, thực hiện và
giám sát các nỗ lực xóa đói giảm nghèo là yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo các nỗ lực này
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ. Phụ nữ DTTS khi tiếp cận tốt hơn tới các nguồn lực xóa đói
giảm nghèo, cũng như các dịch vụ giáo dục và y tế sẽ có khả năng tạo thu nhập tốt hơn cũng
như có sức khỏe tốt hơn, dẫn tới nâng cao thu nhập cho hộ gia đình, giảm nghèo đói. Song
song với tăng cường tiếp cận tới các dịch vụ xã hội khác cho phụ nữ DTTS, việc cải thiện tiếp
cận của họ tới các dịch vụ pháp lý là một phần quan trọng để người dân có kiến thức, hiểu biết
và tuân thủ theo pháp luật, ý thức được quyền và trách nhiệm của mình và đặc biệt giúp họ
tiếp cận công bằng tới các nguồn lực và nguồn vốn có thể giúp họ xóa đói giảm nghèo. Hai
chương trình quan trọng của quốc gia về xóa đói giảm nghèo là Chương trình Phát triển kinh
tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010
(Chương trình 135 giai đoạn II) và Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối
với 61 huyện nghèo (Chương trình 30a) đều bao gồm các nội dung về trợ giúp pháp lý.
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật BĐG và ngày 21
tháng 11 năm 2007, Quốc hội cũng đã thông qua Luật PCBLGĐ. Hai luật này tạo một cơ sở
pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trong các lĩnh vực của
cuộc sống. Việc thực hiện tốt hai luật này trong các cộng đồng DTTS ở Việt Nam sẽ góp phần
quan trọng vào việc đạt được mục tiêu bình đẳng giới trong các cộng đồng này.
1 Báo cáo kết quả chính thức Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009
2 Phân tích xã hội quốc gia – Dân tộc và phát triển ở Việt Nam, Ngân hàng thế giới, 2009
6
Chương trình chung giữa Liên hợp quốc (LHQ) và Chính phủ Việt Nam về bình đẳng
giới được phối hợp thực hiện giữa Chính phủ Việt Nam và các tổ chức LHQ3 kéo dài trong
giai đoạn 2009 – 2011. Chương trình bao gồm các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật mang tính chiến
lược, đa ngành và có điều phối để xây dựng năng lực của những cơ quan có trách nhiệm ở cấp
quốc gia và cấp tỉnh, giúp họ thực hiện, giám sát, đánh giá và báo cáo tốt hơn việc thực thi hai
Luật này. Chương trình có 3 kết quả mong đợi chính như sau:
- Nâng cao kiến thức, kỹ năng, và thực hành trong việc thực hiện, giám sát, đánh giá và báo
cáo về Luật BĐG và Luật PCBLGĐ.
- Tăng cường các quan hệ đối tác và sự phối hợp liên quan tới bình đẳng giới trong và ngoài
chính phủ.
- Củng cố được các dữ liệu dựa trên bằng chứng và các hệ thống dữ liệu nhằm đẩy mạnh
bình đẳng giới.
Trong kết quả mong đợi thứ 3, một loạt các hoạt động được tiến hành nhằm thu thập
thông tin và dữ liệu sẽ được sử dụng để vận động và thúc đẩy các chính sách bình đẳng giới
cho các nhóm thiệt thòi và yếu thế trong xã hội. Nghiên cứu về tình hình tiếp cận và sử dụng
các dịch vụ pháp lý hiện hành của phụ nữ DTTS là một hoạt động trong số đó. Viện Nghiên
cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu sau đây:
a. Xem xét đánh giá mức độ tiếp cận với các dịch vụ pháp lý trong 8 lĩnh vực của Luật BĐG
của phụ nữ và nam giới DTTS;
b. Xem xét và đánh giá tình hình bình đẳng giới trong các nhóm DTTS dựa trên 8 lĩnh vực
của Luật BĐG: chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,
thông tin và thể thao, sức khoẻ cộng đồng và gia đình;
c. Xác định được những thiếu hụt về số liệu trong việc đánh giá tiến độ thực hiện Luật BĐG
và Luật PCBLGĐ trong các nhóm DTTS;
d. Xem xét những kinh nghiệm quốc tế về thúc đẩy tiếp cận dịch vụ pháp lý trong các nhóm
DTTS và bản địa;
e. Đưa ra đề xuất tăng cường tiếp cận dịch vụ pháp lý trong các nhóm DTTS.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
3.1.Khung phân tích tiếp cận tới dịch vụ pháp lý
Khái niệm dịch vụ pháp lý
Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa chuẩn cho khái niệm dịch vụ pháp lý. Từ điển
Bách khoa toàn thư Việt Nam có nêu lên định nghĩa dịch vụ như sau:
Dịch vụ là những hoạt động phục vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu sản xuất, kinh
doanh và sinh hoạt. Tuỳ theo trường hợp, dịch vụ bao gồm: một công việc ít nhiều
chuyên môn hoá, việc sử dụng hẳn hay tạm thời một tài sản, việc sử dụng phối hợp
một tài sản lâu bền và sản phẩm của một công việc, cho vay vốn4.
Theo Từ điển Tiếng Việt, dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu
nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công5.
3 Các tổ chức LHQ tham gia chương trình chung này bao gồm FAO, ILO, IOM, UNAIDS, UNDP, UNESCO,
UNFPA, UNICEF, UNIDO, UNIFEM, UNODC và WHO 4 Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, tải về từ địa chỉ
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=1F73aWQ9MzQ3OTcmZ3JvdXBpZD0ma2luZD
1leGFjdCZrZXl3b3JkPUQlZTElYmIlOGFDSCtWJWUxJWJiJWE0&page=1 ngày 5/8/2010 5 Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2010
7
Dựa trên những định nghĩa trên, có thể hiểu là dịch vụ pháp lý là các công việc do
những người có chuyên môn thực hiện trong những bối cảnh có tổ chức và nhằm thỏa mãn
nhu cầu của con người về công lý, cụ thể là được thông tin, hành xử và được đối xử theo lẽ
phải và luật pháp. Dịch vụ pháp lý thường được cung cấp bởi luật sư, thông qua các hình thức
dịch vụ như tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các
dịch vụ pháp lý khác theo như quy định của Luật Luật sư. Tuy nhiên, hành lang pháp lý hiện
nay đã mở rộng hơn và cho phép một số chủ thể khác ngoài luật sư được cung cấp các dịch vụ
pháp lý. Báo cáo này cũng sẽ đánh giá cả các dịch vụ do các chủ thể này cung cấp.
Khung phân tích tiếp cận đến dịch vụ pháp lý
Bertrand và cộng sự định nghĩa tiếp cận là mức độ những gói dịch vụ hợp lý đến được
và được sử dụng bởi các cá nhân ở một địa điểm nhất định nào đó. Tiếp cận có nhiều phương
diện khác nhau bao gồm phương diện vật chất, hành chính, kinh tế, nhận thức và tâm lý6.
Trong cung cấp dịch vụ, khi một bên có phát sinh nhu cầu và một bên có khả năng
cung cấp sẽ có tương tác giữa 2 bên – đó là khi bên có nhu cầu đã tiếp cận được dịch vụ và
nhu cầu được đáp ứng. Tuy nhiên, vẫn có giả định rằng có những trường hợp có cung và có
cầu nhưng vẫn chưa dẫn tới việc sử dụng dịch vụ. Điều này có thể do cung chưa thực sự phù
hợp với cầu hoặc có những rào cản hạn chế việc sử dụng các dịch vụ này của phụ nữ hoặc
nam giới DTTS ngay cả khi họ có nhu cầu có thể là chi phí (giá dịch vụ, chi phí đi lại, các chi
phí khác liên quan, chi phí cơ hội cho thời gian bỏ ra), bất đồng ngôn ngữ, những chuẩn mực
xã hội và định kiến giới...
Nghiên cứu về sự tiếp cận đến dịch vụ pháp lý là việc xem xét cả hai phía cung và cầu
của mối tương tác để đánh giá xem cung phù hợp với cầu ở mức độ nào (hình 1). Cả bên cung
và bên cầu đều sống trong một môi trường bị chi phối bởi các hành lang pháp lý liên quan tới
dịch vụ pháp lý, bởi văn hóa và thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý… Chính vì vậy, nghiên
cứu sẽ xem xét bên cung và bên cầu trong mối quan hệ với môi trường chung này, để tìm hiểu
xem ảnh hưởng của môi trường này lên cung và cầu dịch vụ pháp lý như thế nào.
Tiếp cận đến dịch vụ pháp lý là một điều kiện để đảm bảo công lý và bình đẳng giới.
Khi người phụ nữ tiếp cận được dịch vụ pháp lý, họ sẽ hiểu rõ hơn về các quyền và nghĩa vụ
hợp pháp của bản thân, được tư vấn, hướng dẫn hay hỗ trợ để yêu cầu các quyền hay thực thi
trách nhiệm. Nói cách khác, kết quả của việc tiếp cận đến dịch vụ pháp lý là việc bình đẳng
giới được bảo đảm. Nghiên cứu chính vì vậy cũng sẽ tìm hiểu tác động và ảnh hưởng của việc
tiếp cận dịch vụ pháp lý lên tình trạng bình đẳng giới
Cụ thể, nghiên cứu sẽ trả lời cho các câu hỏi chính sau:
o Nguồn cung của dịch vụ pháp lý: tính sẵn có của dịch vụ pháp lý hiện nay như thế
nào? Nguồn cung này phù hợp thế nào so với nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của
phụ nữ và nam giới DTTS?
o Tình hình sử dụng dịch vụ pháp lý của phụ nữ và nam giới DTTS như thế nào?
Mức độ tiếp cận các dịch vụ pháp lý hiện nay của phụ nữ DTTS đã đáp ứng đến
đâu so với nhu cầu về dịch vụ pháp lý của họ? Các nhu cầu chưa được đáp ứng là
gì? Mức độ tiếp cận này khác thế nào so với mức độ tiếp cận dịch vụ pháp lý của
nam giới DTTS và các nhóm xã hội khác? Tại sao lại có sự khác biệt này?
o Các yếu tố cản trở tiếp cận dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS là gì? Các chiến lược
chính để nâng cao tiếp cận dịch vụ pháp lý của phụ nữ và nam giới DTTS là gì?
6 Bertrand, J., K. Hardee, R Magnani, and M. Angle. 1995. “Tiếp cận, Chất lượng và các Rào cản về y tế với
các chương trình Kế hoạch hóa gia đình.” Tạp chí International Family Planning Perspective 21(2)
8
o Việc tiếp cận tới dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS đã ảnh hưởng như thế nào tới
tình trạng của phụ nữ và thực trạng bình đẳng giới?
Hình 1: Khung phân tích
3.2.Phương pháp nghiên cứu
Hai phương pháp chính được sử dụng cho nghiên cứu:
a. Rà soát tài liệu
Một nghiên cứu rà soát tài liệu được tiến hành khi bắt đầu nghiên cứu nhằm đánh giá
tình hình chung về giới trong các vùng DTTS; tình hình cung cấp các dịch vụ pháp lý, đặc
biệt ở các vùng có đông người DTTS và dịch vụ cho người DTTS; và nhu cầu dịch vụ pháp lý
của người DTTS. Dựa trên kết quả rà soát tài liệu, những thông tin thiếu hụt cần phải tìm
thêm trên thực địa được xác định.
Những tài liệu được nghiên cứu bao gồm các tài liệu của chính phủ, các ấn phẩm và
tài liệu của các tổ chức quốc tế và các tổ chức xã hội dân sự đã được tham khảo để viết báo
cáo nghiên cứu tài liệu này. Các tài liệu sau đã được sử dụng cho nghiên cứu:
Các văn bản pháp luật, chính sách, quyết định mang tính pháp lý có liên quan;
Các báo cáo về người DTTS, giới và đánh giá các chương trình trợ giúp pháp lý;
Các bài viết, tham luận và trình bày về các nội dung bình đẳng giới, người DTTS và dịch
vụ pháp lý;
Các số liệu thống kê từ các cuộc điều tra mức sống hộ gia đình năm 2006 và 2008 và số
liệu từ Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009.
b. Nghiên cứu thực địa
Dựa trên những kết quả rà soát tài liệu, nghiên cứu thực địa đã được tiến hành. Nghiên
cứu thực địa nhằm khẳng định lại các phát hiện từ rà soát tài liệu và tìm kiếm thêm những
thông tin còn thiếu hụt. Cụ thể, nghiên cứu thực địa tập trung vào các sau đây:
- Tìm hiểu nhu cầu dịch vụ pháp của phụ nữ và nam giới DTTS ở vùng nghiên cứu;
- Tìm hiểu việc sử dụng các dịch vụ pháp lý hiện tại của phụ nữ và nam giới DTTS ở vùng
nghiên cứu;
- Đánh giá tác động của việc tiếp cận dịch vụ lên bình đẳng giới (nếu có) tại các vùng
nghiên cứu.
Hai tỉnh Bắc Cạn và An Giang đã được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu thực địa. Hai
tỉnh này có những điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội tương đối khác biệt. Bắc Cạn là một
9
tỉnh miền núi phía bắc với các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh và một số các dân tộc ít
người khác. An Giang là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Cửu Long, có đường biên giới dài
với Cam-pu-chia. Ngoài nhóm người Kinh là nhóm đa số thì ở An Giang có hai nhóm dân tộc
thiểu số chính là Khơ Me và người Chăm. Ở mỗi tỉnh, nhóm nghiên cứu chọn một huyện và ở
mỗi huyện chọn hai xã để nghiên cứu sâu. Do người DTTS sinh sống ở các vùng đặc biệt khó
khăn là đối tượng được hưởng trợ giúp miễn phí, nhóm nghiên cứu lựa chọn ở mỗi huyện một
xã thuộc Chương trình 135 và một xã không thuộc Chương trình 135 để có thể so sánh sự
khác nhau giữa hai nhóm xã này. Từ việc rà soát tài liệu cho thấy, việc sử dụng các dịch vụ
pháp lý của người dân nói chung và người DTTS nói riêng vẫn còn hạn chế, nhóm nghiên cứu
chú trọng chọn trong hai tỉnh những huyện đã có các can thiệp cung cấp dịch vụ pháp lý để
tăng khả năng nghiên cứu được những người đã sử dụng dịch vụ. Huyện Chợ Mới tại Bắc Cạn
hiện đang có dự án LARC II do tổ chức CARE hỗ trợ. Dự án thành lập và duy trì hoạt động
của các câu lạc bộ Pháp luật và đời sống dành cho chị em phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo.
Huyện Tri Tôn ở An Giang là một trong hai huyện của tỉnh có trung tâm trợ giúp pháp lý
đang hoạt động.
Tại các điểm thực địa, nhóm nghiên cứu đã áp dụng cả phương pháp định lượng và
định tính trong việc thu thập và xử lý thông tin. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn thông qua
bảng hỏi với 500 người dân, với phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên trong những xã/thôn
nghiên cứu. Những người tham gia phỏng vấn bao gồm phụ nữ và nam giới DTTS và phụ nữ
Kinh. Để kiểm chứng thông tin và thu thập thêm các thông tin định tính, nhóm nghiên cứu đã
thực hiện khoảng 40 cuộc phỏng vấn sâu với phụ nữ và nam giới DTTS và phụ nữ Kinh, các
cán bộ các Sở Lao động, thương binh và xã hội, Sở Tư Pháp, Trung Tâm Trợ Giúp Pháp Lý
và chi nhánh trung tâm, cán bộ Hội Liên Hiệp Phụ Nữ tỉnh và huyện, Phòng Tư Pháp huyện,
cộng tác viên trợ giúp pháp lý, lãnh đạo xã, cán bộ tư pháp xã, trưởng thôn và một số người
có uy tín trong địa phương. Nhóm nghiên cứu cũng đã tiến hành 21 cuộc thảo luận nhóm với
tổng số là 100 người thuộc các nhóm cộng đồng khác nhau, bao gồm phụ nữ DTTS, nam giới
DTTS, phụ nữ Kinh và tổ hoà giải cấp thôn. Thông tin chi tiết về những người tham gia
nghiên cứu được thể hiện trong Bảng 1.
Bảng 1: Những người tham gia nghiên cứu
Phƣơng pháp Bắc Kạn An Giang
Người nhận dịch vụ
Bảng hỏi 253 255
Phụ nữ DTTS 149 109
Nam giới DTTS 87 93
Phụ nữ Kinh 17 53
Phỏng vấn sâu 5 10
Phụ nữ Kinh 1 1
Phụ nữ DTTS 4 4
Nam giới DTTS 0 5
Thảo luận nhóm 11 (55 người) 6 (32 người)
Phụ nữ Kinh 1 (5 người) 1 (4 người)
Phụ nữ DTTS 6 (35 người) 4 (20 người)
Nam giới DTTS 4 (20 người) 2 (8 người)
Người cung cấp dịch vụ
Phỏng vấn sâu 11 14
Sở và Phòng Lao động thương binh và xã hội 1 2
Trung tâm và chi nhánh Trợ giúp pháp lý 2 2
Sở Tư Pháp 2 2
Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh 1 2
Cán bộ UBND và tư pháp xã 5 4
10
Già làng và người có uy tín trong thôn, sóc 2
Thảo luận nhóm 3 (10 người) 1 (3 người)
4. Hạn chế của nghiên cứu
Một hạn chế rất lớn không chỉ cho nghiên cứu này mà còn cho các nghiên cứu khác về
người DTTS ở Việt Nam là sự hạn chế về thông tin và đặc biệt là các số liệu thống kê chính
thức về người DTTS. Các số liệu thống kê chính thức hiện tại thường không phân tách thành
các nhóm dân tộc mà chỉ tập hợp chung trong một nhóm các dân tộc khác người Kinh và
người Hoa do đó không cho phép phân tích được sự khác biệt giữa các dân tộc. Hơn nữa, các
số liệu hiện có về người DTTS cũng không được phân chia theo giới tính.
Một hạn chế nữa cho việc rà soát tài liệu là sự thiếu vắng các tài liệu, nghiên cứu về
dịch vụ pháp lý, đánh giá tiếp cận dịch vụ pháp lý ở Việt Nam nói chung và trong nhóm
DTTS nói riêng. Các nội dung về giáo dục pháp luật hay trợ giúp pháp lý cho người DTTS
thường chỉ được đề cập sơ sài trong các báo cáo chung về xóa đói giảm nghèo cho người
DTTS. Đối với các báo cáo về dịch vụ pháp lý hay trợ giúp pháp lý thì nội dung tiếp cận và sử
dụng dịch vụ pháp lý của người DTTS cũng không được đề cập thỏa đáng. Hơn nữa, các tài
liệu hiện có vẫn chưa nhìn đến khía cạnh kết quả của việc tiếp cận dịch vụ pháp lý nhằm đạt
được công bằng xã hội, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của người DTTS và bình đẳng giới.
Đối với nghiên cứu thực địa, do hạn chế về thời gian và nguồn lực nên không thể tiến
hành nghiên cứu ở nhiều khu vực khác nhau, với nhiều nhóm dân tộc khác nhau và với số
mẫu lớn hơn. Phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến hai vấn đề lớn còn bỏ ngỏ, nhưng lại rất
đặc thù là bình đẳng giới trong người DTTS và tiếp cận dịch vụ pháp lý nhưng nghiên cứu
thực địa lại chỉ được thực hiện ở hai địa phương có tính đặc thù cao như huyện Chợ Mới (Bắc
Cạn) và nhóm dân tộc Khơ Me ở An Giang do đó chưa thể đảm bảo tính đại diện cho cộng
đồng DTTS đa dạng ở Việt Nam. Việc đánh giá về tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý của
phụ nữ DTTS chính vì thế phải dựa chủ yếu vào các nguồn thông tin thứ cấp, mà các nguồn
này cũng bị hạn chế bởi sự lựa chọn có sẵn về các nhóm dân tộc và các vùng địa lý, trong khi
đó, thực trạng bình đẳng giới và tiếp cận dịch vụ pháp lý sẽ khác nhau giữa các dân tộc và các
vùng. Trong tương lai, sẽ cần có nhiều nghiên cứu tiếp tục đánh giá việc tiếp cận dịch vụ pháp
lý của phụ nữ và nam giới DTTS ở các vùng miền và các nhóm DTTS khác nhau.
Do hạn chế về nguồn lực, nhóm nghiên cứu chỉ có thể phỏng vấn 500 người bằng
bảng hỏi. Con số này không đủ lớn để có đủ số người đã sử dụng dịch vụ cần thiết đảm bảo sự
tin cậy về thống kê để đánh giá mức độ hài lòng với dịch vụ hoặc tác động của tiếp cận dịch
vụ lên cuộc sống của người dân. Do vậy, chúng tôi không có đủ bằng chứng thực tế để viết về
hệ quả của việc tiếp cận hoặc không được tiếp cận đến dịch vụ pháp lý lên bình đẳng giới.
Rào cản về ngôn ngữ khiến cho nhóm nghiên cứu trong nhiều trường hợp đã không
thể thảo luận trực tiếp với người dân. Ở An Giang, phần lớn các phỏng vấn bảng hỏi, phỏng
vấn sâu và thảo luận nhóm đều phải thực hiện thông qua phiên dịch. Những kiến thức và ngôn
ngữ phức tạp liên quan đến dịch vụ pháp lý đòi hỏi người phiên dịch cũng phải có hiểu biết
khá đầy đủ về lĩnh vực này. Tuy nhiên, điều này khó có thể đáp ứng được trong điều kiện ở
thực địa. Quá trình làm việc tại thực địa, đoàn nghiên cứu cũng quan sát thấy những khó khăn
khi chuyển ngữ. Điều này chắc chắn đã ảnh hưởng lên cả số lượng lẫn chất lượng thông tin
thu thập được.
11
PHẦN 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM VÀ
TÌNH HÌNH BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG CÁC NHÓM DÂN TỘC THIỂU SỐ
1. Phân bố dân cƣ và phân loại ngƣời DTTS ở Việt Nam
Việt Nam là một đất nước đa dân tộc với 54 dân tộc cùng sinh sống. Dân tộc Việt
(Kinh) chiếm 87% dân số cả nước. Các nhóm DTTS hiện chiếm khoảng 13% tổng dân số cả
nước, tương đương hơn 10 triệu người thuộc về 53 dân tộc sống tập trung chủ yếu trên các
vùng đồi núi, cao nguyên, chiếm 2/3 diện tích tự nhiện cả nước và trải dài từ Bắc vào Nam.
Các nhóm DTTS rất khác nhau về số dân. Có những nhóm có đông dân cư như Tày, Thái,
Mường, Hoa, Khơ-me, Nùng với dân số của mỗi dân tộc lên đến trên một triệu người, nhưng
cũng có những nhóm người DTTS như Brâu, Romam, O-du…với số dân chỉ hơn 300 người
trên một nhóm. Mỗi nhóm dân tộc đều có nền văn hoá riêng biệt, giàu có và độc đáo. Tín
ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc cũng có điểm khác biệt. Sự khác biệt về văn hóa giữa các
dân tộc cũng tạo nên sự khác biệt trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập trong nền kinh tế
thị trường.
Về phân bố dân cư, người DTTS ở Việt Nam sinh sống chủ yếu ở hai vùng miền núi
phía Bắc và vùng Tây Nguyên, với khoảng 75% tổng số người DTTS sống ở 2 khu vực này.
Hai nhóm DTTS là người Chăm và người Khơ Me sống biệt lập ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long. Do nhiều lý do, hiện nay, các nhóm người DTTS ở Việt Nam thường sống xen kẽ giữa
các dân tộc trên một địa bàn. Có đến hơn một nửa số huyện ở miền núi phía Bắc có mười
hoặc nhiều hơn nhóm dân tộc đang sinh sống hoặc là cạnh nhau hoặc đan xen nhau trong một
thôn bản. Ngay cả một dân tộc cũng không sinh sống cùng nhau ở một vùng mà rải rác ở các
khu vực khác nhau. Đặc điểm này có đã lâu đời ở các vùng người DTTS ở phía Bắc và đang
dần xuất hiện ở các khu vực khác như Tây Nguyên7. Sự phân bố rải rác của một nhóm DTTS
trên nhiều địa phương hay đan xen các nhóm DTTS trong cùng một địa bàn cùng với sự đa
dạng về văn hóa, ngôn ngữ và mức độ phát triển giữa các nhóm DTTS ở Việt Nam đang đặt
ra thách thức cho các chính sách ở các địa phương có đông người dân tộc và các chính sách
đối với người DTTS. Các chính sách không những phải quan tâm đến vấn đề người DTTS mà
còn phải quan tâm đến sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc thì mới tránh không tạo ra những
bất bình đẳng vốn đã có.
2. Nghèo đói và các nguyên nhân chính của nghèo đói trong ngƣời DTTS
Mặc dù Việt Nam đang đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc xóa đói giảm nghèo
nhưng các kết quả giảm nghèo cũng như tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng
địa lý và các nhóm người. Nghèo đói hiện vẫn đang tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn
so với đô thị (tỉ lệ 6,7% ở thành thị so với 16,1% ở nông thôn), trong các nhóm DTTS so với
nhóm người Kinh và người Hoa. Năm 2008 tỷ lệ nghèo ở các hộ gia đình người Kinh và
người Hoa chỉ là 8,5%, trong khi tỷ lệ này ở các nhóm dân tộc khác bình quân là 49,8%8.
Những vùng có đông người DTTS như vùng Tây Bắc, Tây Nguyên hay Bắc Trung Bộ có tỉ lệ
nghèo cao hơn các vùng khác trong cả nước.
Vùng Tỷ lệ hộ nghèo 2006 (%) Tỷ lệ hộ nghèo 2008 (%)
Đồng bằng sông Hồng 10.1 8.7
Đông Bắc 22.2 20.1
Tây Bắc 39.4 35.9
Bắc Trung Bộ 26.6 23.1
Duyên hải Nam Trung Bộ 17.2 14.7
7 Phân tích xã hội quốc gia – Dân tộc và phát triển ở Việt Nam, Ngân hàng thế giới, 2009
8 Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2008, Tổng cục thống kê
12
Tây Nguyên 24.0 21.0
Đông Nam Bộ 4.6 3.7
Đồng bằng sông Cửu Long 13.0 11.4
Bảng 2: Tỉ lệ hộ nghèo theo vùng qua các thời kì 2006 – 2008 (Tổng cục Thống kê, dựa trên
kết quả điều tra mức sống hộ gia đình 2006 và 2008)
Số liệu thống kê về nghèo đói hiện nay thường gộp chung tất cả các nhóm người
DTTS để so sánh và đối chiếu với một nhóm xã hội khác là người Kinh và người Hoa. Trên
thực tế, các nhóm DTTS không đồng nhất cả về văn hóa, mức độ phát triển và nghèo đói.
Ngay cả khi các nhóm người DTTS sống trong cùng một địa bàn thì ảnh hưởng của nghèo đói
lên các nhóm cũng khác nhau. Tại Hà Giang, tỉ lệ nghèo đói trong nhóm người H’mông là
42% thì ở người Tày chỉ là 19%. Số liệu điều tra mức sống hộ gia đình 2006 cho thấy nghèo
đói tập trung nhiều hơn trong các nhóm DTTS ở Tây Nguyên và một số nhóm ở miền Bắc,
trong khi đó các nhóm khác như Tày và Mường có mức sống gần như tương đương với người
Kinh9. Hình 2 cho thấy có sự khác biệt lớn về tỉ lệ nghèo trong các nhóm DTTS khác nhau
qua các thời kì. Cách tính toán nghèo đói không phân tách theo dân tộc đang phổ biến hiên
nay không thể hiện được mức độ khác biệt giữa các dân tộc.
Hình 2: Tỉ lệ nghèo khác nhau giữa các nhóm dân tộc
10
Về khía cạnh giới, cách thức tính toán nghèo đói theo hộ không cho phép nhìn nhận
khía cạnh giới của nghèo đói. Cho dù sống cùng một hộ gia đình nhưng sự khác biệt về giới
tính và tuổi tác của từng thành viên đang ảnh hưởng đến Tài sản; Khả năng và Tiếng nói của
mỗi thành viên. Ba yếu tố này được Báo cáo Phân tích xã hội quốc gia Dân tộc và Phát triển ở
Việt Nam năm 2009 cho rằng ảnh hưởng rất nhiều lên kết quả giảm nghèo. Phụ nữ và nam
giới DTTS với phân công lao động khác nhau theo giới, với những bất bình đẳng giới vốn có
trong gia đình, chắc chắn có tiếp cận đến tài sản, năng lực và tiếng nói khác nhau, trong đó
phụ nữ DTTS thường ở vị trí bất lợi hơn. Sự khác biệt giới này cũng làm cho việc hưởng thụ
kết quả của các chính sách giảm nghèo hiện nay của phụ nữ và nam giới DTTS không giống
9 Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009
10 Hình vẽ được sử dụng từ Báo cáo phát triển Việt Nam 2008 – Bảo trợ xã hội, Ngân hàng thế giới, 2007
13
nhau. Phân phối lợi ích từ các chương trình giảm nghèo tới hộ gia đình không có nghĩa là tất
cả các thành viên trong gia đình đều được hưởng lợi một cách công bằng. Chính vì vậy, đưa
vấn đề giới vào các chương trình giảm nghèo là điều hết sức cần thiết để đảm bảo xóa đói
giảm nghèo hiệu quả, công bằng và bền vững. Tuy nhiên, trên thực tế các chính sách giảm
nghèo hiện nay vẫn chưa đáp ứng nhiều đến vấn đề giới. Ngay cả chương trình 135 giai đoạn
II là một trong các chương trình chính về giảm nghèo cho người DTTS vẫn chưa có các
nguyên tắc lồng ghép giới trong các bước của chương trình, các mục tiêu và các chỉ số vẫn
chưa nhạy cảm giới.
Các nhóm nguyên nhân chính sau đây đã được đưa ra để lý giải về tình trạng nghèo
đói của người DTTS so với người Kinh:
Ít tiếp cận đến giáo dục và dịch vụ xã hội khác: trẻ em DTTS miền núi thường nhập học
ở các cấp học thấp, muộn hơn so với trẻ em người Kinh và người Hoa cũng như có tỉ lệ bỏ
học cao hơn. Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, tỉ lệ dân số trên 15 tuổi trở lên là người
Kinh chưa bao giờ đi học là 3,2% so với các dân tộc khác là 23,3%, đặc biệt với người
Mông và người Khơ Me thì tỉ lệ này cao đến 61,4% và 23,9%11
. Ngôn ngữ là một rào cản
chính đối với người DTTS khi tham gia trong hệ thống giáo dục chủ yếu được thực hiện
bằng tiếng Việt. Trẻ em DTTS đặc biệt các dân tộc không có chữ viết chính thức gặp
nhiều khó khăn khi đi học khi phải sử dụng tiếng Việt như ngôn ngữ chính thức. Một
nghiên cứu của Bộ GDDT tiến hành trong năm học 2007-2008 cho thấy học sinh học lớp
1 tại 40 tỉnh không sử dụng thành thạo tiếng Việt, trong đó có khoảng 70% trẻ em DTTS
không thể hiểu và nói được tiếng Việt trước khi đi học lớp 112
. Việc thiếu vắng các trường
mầm non và và mẫu giáo để trẻ em DTTS làm quen với tiếng Việt trước khi đi học là rất
phổ biến. Hơn nữa, việc thiếu vắng các chương trình học song ngữ càng làm cho sự
chuyển tiếp từ ngôn ngữ dân tộc mình sang tiếng Kinh trong môi trường học càng khó
khăn. Giáo viên chủ yếu là người Kinh, nhiều người không nói được tiếng dân tộc và chỉ
8% tổng số giáo viên của cả nước13
là người DTTS.
Tiếp cận hạn chế của người DTTS đặc biệt phụ nữ DTTS tới giáo dục dẫn tới khả năng
nói, đọc và viết bằng tiếng Việt của họ bị hạn chế. Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009 cho
thấy tỉ lệ biết chữ của phụ nữ ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên thấp nhất trong cả nước
(72,2% và 84,9%) so với các nhóm nam giới trên toàn quốc hay phụ nữ ở các vùng khác.
Trên thực tế, khả năng giao tiếp được bằng tiếng Việt của người DTTS nhất là phụ nữ
DTTS còn thấp hơn. Trong số hơn 3000 hộ tham gia điều tra nông thôn năm 2008, số hộ
dùng tiếng Việt ở những vùng núi phía bắc như Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên rất thấp,
từ 8,3% (Điện Biên) đến 38,3% (Lào Cai). Không nói được tiếng Việt cùng với các điều
kiện địa lý khó khăn đã góp phần làm hạn chế tiếp cận của người DTTS tới các dịch vụ xã
hội khác. Yếu tố ngôn ngữ, do đó, luôn phải được cân nhắc khi thiết kế hay xây dựng các
chương trình truyền thông, tư vấn hay hỗ trợ cho người DTTS. Báo cáo phân tích tình
hình giới ở Việt Nam của ADB đã xác định vấn đề tụt hậu của phụ nữ và trẻ em gái so với
nam giới DTTS và phụ nữ Kinh và Hoa trong tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục và cơ hội
kinh tế là điểm cần chú ý đầu tiên nhằm giúp cho các nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới đi
đúng hướng và đạt hiệu quả14
.
Ít các vốn vật chất hơn so với người Kinh: các nhóm DTTS ở Việt Nam sống chủ yếu
bằng nông nghiệp và lâm nghiệp nên đất đai có ý nghĩa vô cùng to lớn. Một thực tế đối
11
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 – Tổng cục Thống kê, 2009 12
Trích dẫn trong Báo cáo “What education for the ethnic minorities of Vietnam: Pre-shooling as a partern of
social integration”, Nguyen Van Phu, Aide et Action 13
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009 14
Báo cáo Đánh giá tình hình Giới ở Việt Nam, Ngân hàng Phát triển châu Á, 2006
14
với người DTTS là đất đai đang ngày càng thiếu. Những chính sách về đất đai đã làm phai
nhạt hình thức sở hữu cộng đồng đối với đất đai của người DTTS. Thay vào đó, đất đai
được giao cho các hộ gia đình, cá nhân hoặc các tổ chức khác. Việc giao đất này đã làm
phá vỡ mối tương tác truyền thống trong các cộng đồng người DTTS, đất đai từ được
quản lý theo cộng đồng và không được phép mua bán đã trở thành một mặt hàng được
phép mua bán. Với những khó khăn về kinh tế trong khi mua bán đất trở nên hợp pháp,
việc này dẫn tới tình trạng mua bán đất phổ biến nhất là trong các cộng đồng DTTS ở Tây
Nguyên, với khoảng 5% số người DTTS tham gia đánh giá xã hội quốc gia của Ngân hàng
thế giới năm 2009 cho biết đã từng bán đất. Chưa nói đến việc phá vỡ các quan hệ truyền
thống trong quản lý đất, các hình thức quản lý đất đai mới đã tạo ra những xung đột trong
các cộng đồng người DTTS15
. Việc thông tin, hướng dẫn cho người dân trong việc mua
bán đất đai cũng như giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai đang trở thành một
nhu cầu pháp lý lớn trong các công đồng người DTTS.
Điều kiện địa lý xa xôi, khả năng di chuyển hạn chế và khó tiếp cận thị trường: người
DTTS thường sinh sống ở những vùng có điều kiện địa lý khó khăn hơn, khả năng di
chuyển và tiếp cận dịch vụ và thị trường kém hơn. Việc mở rộng hệ thống đường xá, điện
và trường học từ những chương trình giảm nghèo đã làm gia tăng tỉ lệ các hộ gia đình
được tiếp cận hơn với các dịch vụ xã hội, nhưng vẫn còn những nơi đồng bào DTTS sinh
sống vẫn chưa có đường xá và điện đến được. Điều này có tác động đặc biệt lên phụ nữ.
Vừa không nói được tiếng Việt vừa gặp khó khăn về đi lại cộng thêm các quan niệm về
giới, nhiều phụ nữ DTTS sẽ gặp khó khăn khi phải đi khỏi làng bản của mình để đến được
với dịch vụ. Trong hoàn cảnh này, nếu muốn tăng cường tiếp cận dịch vụ xã hội cho phụ
nữ DTTS thì không những chỉ cải thiện hệ thống hạ tầng đường xá để việc đi lại dễ dàng
hơn mà cũng cần phải đưa các dịch vụ đến gần hơn tới phụ nữ DTTS.
Phương thức xây dựng, thực hiện, giám sát và đánh giá các chính sách và chương
trình giảm nghèo chưa hoàn toàn phù hợp với người DTTS: các kết quả và đóng góp
của các chương trình giảm nghèo trong việc cải thiện cuộc sống của người nghèo nói
chung và người DTTS nói riêng là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, trong cách thức
triển khai các chương trình này vẫn còn những điểm chưa hoàn toàn phù hợp với người
DTTS. Sự tham gia của người dân nói chung vẫn còn hạn chế, đặc biệt là của người DTTS
vì các lý do như thiếu thông tin, năng lực của cán bộ còn hạn chế và khả năng nói tiếng
Việt kém của người dân. Do đó dẫn đến tình trạng các hoạt động của dự án không hoàn
toàn phù hợp với mong muốn của người dân, thiếu tính giải trình trong các mục tiêu của
dự án cũng như phân bổ ngân sách16
. Mai Thanh Sơn và cộng sự trong một nghiên cứu đã
đưa ra khuyến nghị cho các chương trình/chính sách hướng tới người DTTS phải được
xây dựng trên cơ sở trân trọng sự đa dạng văn hóa của các tộc người và quan tâm tới tri
thức bản địa của người DTTS; nâng cao dân chủ cơ sở, tiếng nói và quyền của người
DTTS; và tăng cường khả năng thích ứng với quá trình hội nhập và phát triển cho các
nhóm thiểu số17
.
Mặc dù chưa được nghiên cứu nhiều, nhưng vấn đề định kiến và quan niệm rập khuôn về
người DTTS bắt đầu được nói đến như các yếu tố làm giảm đi hiệu quả của các chương
trình giảm nghèo cho người DTTS. Mặc dù pháp luật Việt Nam thừa nhận sự bình đẳng
giữa các dân tộc, tình trạng định kiến đối với người DTTS còn khá phổ biến trong nhiều
nhóm xã hội khác nhau, với các quan niệm phổ biến về người DTTS là lạc hậu, lười
15
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009 16
Nhìn lại quá khứ, đối mặt thách thức – Đánh giá giữa kì Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và
Chương trình 135-II giai đoạn 2006-2008, Bộ LĐTBXH, Ủy ban dân tộc và UN, 2009 17 Bước đầu tổng kết các phương pháp phát triển và tìm kiếm các cơ chế nhằm nâng cao tiếng nói của cộng đồng
dân tộc thiểu số trong quá trình ra quyết định, Mai Thanh Sơn và cộng sự, Nhóm công tác Dân tộc thiểu số, 2007
15
biếng… Chính từ quan niệm đó, các chương trình hỗ trợ giảm nghèo cho người DTTS
nhiều khi thay vì dựa trên những kinh nghiệm và tri thức bản địa của người DTTS lại cố
gắng thay đổi những tập quán của người DTTS. Ví dụ các chương trình khuyến nông dậy
người DTTS canh tác lúa nước – một hình thức canh tác không phải là quen thuộc với
phần đông các nhóm DTTS. Một mặt, điều này dẫn đến hiệu quả thấp cho các chương
trình như vậy, nhưng mặt khác nguy hiểm hơn là nó tạo nên sự phụ thuộc của người
DTTS, làm cho người DTTS thêm thiếu tự tin và thiếu tiếng nói cũng như quyền lực18
.
3. Phụ nữ dân tộc miền núi và tình trạng bình đẳng giới trong các cộng đồng DTTS
Mối quan hệ giới trong các cộng đồng DTTS, mức độ tham gia các hoạt động kinh tế -
xã hội, phân công lao động giữa phụ nữ và nam giới, sự tiếp cận của mỗi giới tới các nguồn
lực và lợi ích, các quan điểm trong mỗi tộc người về các giá trị và chuẩn mực cho phụ nữ và
nam giới đều bắt nguồn từ văn hóa của mỗi dân tộc. Chính vì vậy, mối quan hệ giới này rất đa
dạng và khác biệt giữa các nhóm cộng đồng. Cho dù có sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc,
một điều thể hiện khá rõ là vẫn còn tồn tại tình trạng bất bình đẳng bên trong các cộng đồng
DTTS, giữa phụ nữ và nam giới trong cùng một nhóm dân tộc, giữa phụ nữ của một nhóm
dân tộc với phụ nữ của một nhóm khác. Tiếp cận tới tài sản, năng lực và tiếng nói của phụ nữ
DTTS khác với nam giới DTTS cùng với các rào cản về ngôn ngữ và văn hóa đang là các
nhân tố chính cho tình trạng bất bình đẳng giới đang tồn tại trong các cộng đồng DTTS19
. Sự
thể hiện của bất bình đẳng giới trong các lĩnh vực của Luật BĐG như sau:
a. Bình đẳng giới của người DTTS trong lĩnh vực giáo dục
Như đã nói ở phần trên, hiện trạng giáo dục của trẻ em gái DTTS là tỉ lệ bỏ học cao, đi
học muộn, tỉ lệ trẻ em gái DTTS (tuổi từ 15-17) đến trường thấp hơn nhiều so với trẻ em trai,
và thấp hơn nhiều so với trẻ em gái người Kinh/Hoa. Tỉ lệ bỏ học ở trẻ em DTTS cao gấp đôi
tỉ lệ này trong trẻ em Kinh trong đó các nguyên nhân được nêu ra là hệ thống giáo dục mầm
non kém, chưa chuẩn bị tốt để trẻ em DTTS có thể nói được Việt để theo học chương trình
phổ thông20
. Trẻ em gái DTTS còn dễ tổn thương hơn trẻ em trai do những quan niệm về giới
về việc học hành của con gái. Ở người H’Mông, tục tảo hôn cũng là một ràng buộc khiến các
em gái phải bỏ học sớm21
. Người Cơ-Tu và Hre có tới 30-40% số phụ nữ kết hôn trước tuổi
17 so với 3,5% ở người Kinh và 2,4% ở người Hoa22
. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới thì
ba nhóm Thái, Mông và Dao có tỷ lệ em gái đi học thấp hơn hẳn so với em trai. Chỉ có 31,5%
em gái H’Mông đi học so với 93,4% em gái người Kinh. Ở Dăk Nông, học sinh H’Mông đi
học chỉ toàn là nam23
. Trẻ em gái chiếm 70% tổng số trẻ em bỏ học. Trong hoàn cảnh nghèo
khó, mặc dù đã có chính sách miễn giảm học phí nhưng các chi phí khác cho việc học cũng là
gánh nặng kinh tế và trẻ gái sẽ phải nghỉ học trước tiên.
Điều này đã dẫn đến tỉ lệ cao và không đồng đều về dân số không biết chữ trong các
nhóm DTTS, thể hiện ở Bảng 4. Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2009, tỉ lệ phụ nữ từ
5 tuổi trở lên chưa bao giờ đến trường ở các tỉnh có đông người DTTS đều cao hơn tỉ lệ của
nam và cao hơn nhiều so với tỉ lệ ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh24
.
18
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009 19
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng Thế giới, 2009 20
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009 21
Oxfam Hong Kong. 2010. Tổng hợp và đánh giá dự án VTM-90007-01-0910A. Chương trình sinh kế hợp tác
giữa OHK và OGB tại huyện Đăk Glong, tỉnh Đăk Nông 22
Thực trạng đội ngũ cán bộ nữ DTTS trong công tác quản lý, Tạp chí dân tộc học 2: 1994, Vũ Đình Lợi,1994 23
Oxfam Hong Kong. 2010. Tổng hợp và đánh giá dự án VTM-90007-01-0910A. Chương trình sinh kế hợp tác
giữa OHK và OGB tại huyện Đăk Glong, tỉnh Đăk Nông 24
Kết quả Tổng điều tra dân số 2009, Tổng cục thống kê, 2009
16
Bảng 3: tỉ lệ dân cư trên 10 tuổi biết đọc, viết và tỉ lệ dân cư chưa đi học theo dân tộc25
b. Bình đẳng giới của người DTTS trong lĩnh vực y tế
Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009 cho thấy một số thông tin về sự khác biệt trong
tình trạng sức khỏe hiện tại của phụ nữ DTTS so với phụ nữ Kinh. Tuổi thọ trung bình của
phụ nữ Kinh cao hơn của các nhóm dân tộc khác ngoài Tày, Thái, Mường, Khmer và H’Mông ở
mức 76,7 tuổi so với 70,9 tuổi, và cao hơn đáng kể so với nhóm phụ nữ H’Mông là 67,5 tuổi.
Liên quan đến các nội dung trong sức khỏe sinh sản, phụ nữ DTTS thường sinh nhiều con hơn
so với phụ nữ người Kinh. Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong sơ sinh trong các nhóm DTTS cao hơn rất
nhiều lần so với nhóm người Kinh ở mức 32% so với 12,9% năm 2009. Cá biệt, trong các
nhóm như H’Mông thì tỉ lệ này lên tới 45,5% (Bảng 4).
Bảng 4: Mức sinh và mức chết theo dân tộc26
Mức sinh và mức chết
Kin
h
Tày
Th
ái
Mƣ
ờn
g
Kh
mer
H’M
ôn
g
Các
dân
tộc
khác
Tổng tỷ suất sinh trong 12 tháng qua (con/phụ nữ) 2,0 2,0 2,3 2,0 2,0 4,9 2,7
Tỷ suất sinh thô trong 12 tháng qua
(trẻ sinh sống/1000 dân)
16,9 17,5 22,1 18,4 18,8 37,1 21,5
Tỷ suất chết trẻ em < 1 tuổi trong 12 tháng qua (trẻ
dưới 1 tuổi tử vong/1000 trẻ sinh sống)
12,9 23,4 27,1 22,2 18,0 45,5 32,0
Theo kết quả nghiên cứu về việc cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh
sản tại 11 tỉnh thuộc dự án hỗ trợ của UNFPA tại Việt Nam cho thấy phụ nữ DTTS ở Hà
Giang (thuộc khu vực Miền núi phía Bắc) có tỉ lệ phụ nữ sinh con tại nhà cao nhất với 46,9%
năm 2005 và cũng chỉ có 58,1% phụ nữ sinh con với sự hỗ trợ của nhân viên y tế. Bên cạnh
đó, Hà Giang cũng là nơi có tỉ lệ các bà mẹ đi khám thai trên 3 lần thấp nhất so với các tỉnh
nằm trong địa bàn nghiên cứu của UNFPA, tỉ lệ này chỉ có 45,2% năm 2005 so với một tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ là Thái Bình có tỉ lệ 97,1% hoặc một tỉnh trung du Bắc Bộ là Phú Thọ là
94,3%27
.
Bảng 5: Nơi sinh và người chăm sóc khi sinh theo tỉnh
Tỉnh
Nơi sinh Ngƣời chăm sóc khi sinh con
Tại nhà Tại cơ sở y tế Nhân viên y tế Ngƣời khác
2003 2005 2003 2005 2003 2005 2003 2005
Phú Thọ 11 4.1 89 95.9 91.7 98.8 8.3 1.2
25
Tổng điều tra dân số năm 2009, Tổng cục Thống kê, 2009 26
Tổng điều tra dân số năm 2009, Tổng cục Thống kê, 2009 27 Việc cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản tại 11 tỉnh thuộc dự án hỗ trợ của UNFPA tại
Việt Nam năm 2006, UNFPA
Kinh Tày Thái Mƣờng Khmer H’Môn
g
Các dân
tộc
khác
Tỷ lệ dân số 10 tuổi trở lên biết
đọc biết viết (%)
96,2 94,9 81,9 94,5 75,6 46,0 77,6
Tỷ lệ dân số nam 10 tuổi trở lên
biết đọc biết viết (%)
97,6 96,6 90,9 96,3 80,9 62,5 84,5
Tỷ lệ dân số nữ 10 tuổi trở lên
biết đọc biết viết (%)
94,9 93,2 73,0 92,6 70,7 29,5 70,6
Tỷ trọng dân số 15 tuổi trở lên
chưa đi học (%)
3,2 4,3 17,8 4,2 23,9 61,4 23,3
17
Hà Giang 68 46.9 32 53.1 42.5 58.1 57.5 41.9
Yên Bái 22.6 12.4 77.4 87.6 89.8 92.4 10.2 7.6
Hoà Bình 14.3 3.1 85.7 96.9 93.1 97.4 6.9 2.6
Thái Bình 0 0 100 100 100 100 0 0
Nguồn: Báo cáo: việc cung cấp và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản tại 11 tỉnh
thuộc dự án hỗ trợ của UNFPA tại Việt Nam năm 2006
Tỉ lệ nhiễm HIV ngày càng gia tăng ở các tỉnh miền núi phía Bắc nơi có đông người
DTTS sinh sống. Theo báo cáo của Cục phòng chống AIDS trong năm 2009, 7/10 tỉnh có tỉ
suất hiện nhiễm trên 100.000 dân cao nhất là các tỉnh thuộc miền núi phía Bắc nơi có đông
người DTTS sinh sống là Điện Biên, Thái Nguyên, Sơn La, Yên Bái, Bắc Cạn, Cao Bằng và
Quảng Ninh với tỉ lệ ở Điện Biên cao nhất là 599 người/100.000 dân. Song song với tình
trạng này là tính dễ tổn thương ngày càng cao của phụ nữ DTTS với lây nhiễm HIV. Mặc dù
phần lớn người nhiễm HIV ở các tỉnh này là nam giới và đường lây chủ yếu là qua tiêm chích
ma túy. Bạn tình của những người này thường không có kiến thức và hiểu biết về tình dục an
toàn, tiếp cận kém đến các dịch vụ sức khỏe tình dục và không có đủ tự tin và kĩ năng cũng
như các rào cản văn hóa để thương thuyết tình dục an toàn.
Về hưởng lợi từ các chương trình y tế, Báo cáo đánh giá xã hội quốc gia chỉ ra rằng
trong khi các nhóm xã hội khác thực sự được hưởng lợi từ chương trình cấp thẻ bảo hiểm y tế
thì phụ nữ DTTS lại không thường xuyên khám chữa bệnh tại các cơ sở của nhà nước vì
những e ngại mang tính văn hóa có liên quan tới giới và khả năng không nói được tiếng Việt
của họ28
.
c. Bình đẳng giới của người DTTS trong lao động và việc làm
Người DTTS có ít cơ hội phát triển kinh tế hơn, đặc biệt là phụ nữ. Có 87% phụ nữ
DTTS nông thôn làm nông nghiệp trong gia đình, nhưng họ lại là nhóm ít có khả năng tham
gia vào lao động làm công ăn lương và thường hưởng lương bằng một nửa so với phụ nữ
Kinh và Hoa (15% so với 31%)29
. Hạn chế tiếp cận đến giáo dục là một trong các nguyên
nhân chính dẫn đến việc hạn chế các cơ hội việc làm phi nông nghiệp của phụ nữ DTTS.
Kết quả của Tổng điều tra dân số 2009 cho thấy sự chênh lệch giữa phụ nữ và nam
giới DTTS, ở hầu hết các nhóm dân tộc, tỉ trọng lao động nữ có việc làm vẫn chỉ chiếm dưới
50% trong tổng số lao động đang có việc làm (ở người Kinh là 46,4%, người Tày là 48,3%,
người Thái là 49,1%, người Mường là 48,4% người Khơ Me là 50% và các dân tộc khác
47%)30
.
d. Bình đẳng giới của người DTTS trong gia đình và sở hữu đất đai và tài sản
Phân công lao động trong gia đình trong các nhóm DTTS còn mang tính chất phân
biệt theo giới rõ rệt. Các công việc của nam giới thường là những việc “nặng”, yêu cầu “kĩ
thuật” và đòi hỏi phải giao tiếp với bên ngoài trong khi đó, các công việc phụ nữ là những
công việc “nhẹ” hơn và không quan trọng31
. Sự phân chia lao động theo giới dựa trên không
28
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009 29
Báo cáo Đánh giá tình hình Giới ở Việt Nam, Ngân hàng Phát triển châu Á, 2006 30
Tổng điều tra dân số 2009, Tổng cục thống kê, 2010 31
Báo cáo Theo dõi nghèo phương pháp cùng tham gia tại một số cộng đồng cư dân nông thôn Việt Nam của
Hoàng Xuân Thành và cộng sự năm 2010 và Báo cáo thực địa nghiên cứu trường hợp tại bản Thà Giàng Chải,
xã Tả Ngảo và Bản Pá Bon, xã Chăn Nưa, huyện Sìn Hồ, Tỉnh Lai Châu - Bước đầu tổng kết các phương pháp
phát triển và tìm kiếm các cơ chế nhằm nâng cao tiếng nói của cộng đồng DTTS trong quá trình ra quyết định
do Khúc Thị Thanh Vân và Nguyễn Trung Dũng thực hiện năm 2008 cho Oxfam Hong Kong cho thấy các
công việc của nam giới ví dụ như phát nương, cày cuốc, làm rẫy, cày bừa, phun thuốc sâu, làm nhà, mua bán,
chăn nuôi, các công việc cho phụ nữ như tỉa trồng, cày cáy, chăm sóc mùa vụ sau khi xuống giống, nấu nướng,
chăm sóc con cái và các thành viên trong gia đình hàng ngày và khi ốm đau, lấy củi
18
gian làm cho nam giới là người thường ra ngoài để tiến hành các công việc mua bán và giao
tiếp với người ngoài. Báo cáo Phân tích xã hội quốc gia năm 2009 cho thấy không giống như
người Kinh, đàn ông DTTS đi chợ nhiều hơn phụ nữ DTTS, cho dù việc đi chợ của người
DTTS không nhất thiết phải có mua bán như người Kinh. Một nghiên cứu của Ram bo và
cộng sự về người Kinh, Tày, Thái và H’Mông ở vùng núi phía Bắc cho thấy vai trò vốn có
của nữ giới tại phần lớn các xã hội vùng cao [ở Việt Nam] bị giới hạn và gần như bị gói gọn
trong phạm vi gia đình, hoặc là gia đình nhà mình hoặc nhà chồng sau khi kết hôn với vai trò
chăm sóc gia đình. Danh tiếng xã hội của người phụ nữ trước hết dựa trên thành công mà họ
có được khi đảm đương những vai trò này, đặc biệt là mức độ chăm lo của họ dành cho gia
đình mình32
… Các nhóm dân tộc mẫu hệ ở Tây Nguyên cho thấy, mặc dù phụ nữ người Ede,
Mnong, và J’rai có tiếng nói quyết định hơn trong gia đình, phân công lao động giới ở những
cộng đồng này cũng không khác nhiều so với các dân tộc phụ hệ. Phụ nữ Ede thường có trách
nhiệm lo cơm nước, làm việc nhà và chăm sóc những thành viên trong gia đình trong khi lao
động trên nương rẫy được giao cho nam giới. Việc phân công lao động như thế này đã dẫn
đến việc phụ nữ DTTS phải làm việc nhiều hơn và các công việc của họ làm thường không
được công nhận. Phụ nữ Vân Kiều ở Đakrong, Quảng Trị trung bình làm việc từ 10 đến 12
giờ so với nam giới từ 4 đến 5 giờ33
. Một số các nghiên cứu khác như của Rambo ở vùng núi
phía Bắc cũng cho thấy thời gian làm việc của phụ nữ DTTS thường dài hơn so với nam giới.
Nghiên cứu với người Khơ Mú, Thái đen và người Tày năm 2004 của Isabel Fischer và Tina
Beuchelt ở Sơn La và Bắc Cạn cũng cho thấy khi phụ nữ nấu ăn thì nam giới thường nghỉ
ngơi, trong khi phụ nữ làm việc khoảng 14 tiếng/ngày thì nam giới chỉ làm từ 8-10
tiếng/ngày34
.
Cùng chung với nam giới DTTS đang bị đe dọa trước các vấn đề mua bán và mất đất
đai do ảnh hưởng của các chính sách đất đai như đã nêu ở trên, phụ nữ DTTS còn phải chịu
những khó khăn do quy định khắt khe về sở hữu tài sản đối với con gái và phụ nữ trong xã hội
truyền thống. Đối với các cộng đồng phụ hệ như miền núi phía Bắc, tất cả các tài sản là do
đàn ông sở hữu, quản lý và định đoạt35
. Những quy định truyền thống về vai trò của người
đàn ông trong việc thờ cúng cha mẹ tổ tiên trong xã hội phụ hệ đã tạo ra sự bất bình đẳng đối
với phụ nữ. Ở các nhóm dân tộc phụ hệ như người H’Mông, Dao, Bru-Vân Kiều thì tài sản
trong gia đình thuộc chủ hộ - chủ yếu là người đàn ông. Điều này lý giải việc ưu tiên con trai.
Một nghiên cứu ở Sa Pa cho thấy người Hmong, Dao và Giáy đều coi trọng việc có con trai
bởi con trai mới có quyền thừa kế tài sản và sẽ giữ tài sản cho gia đình. Nếu không có con trai
thì tài sản sẽ bị chuyển sang con của anh chị em trong gia đình. Bởi vậy, nếu không có con
trai, họ có thể đi xin con trai người khác nuôi hoặc nhận con rể làm con trai36
. Phụ nữ Hmong
chỉ có thể sống nhờ đất nhà chồng và chỉ được coi là lao động phụ trong gia đình mặc dù họ
phải làm việc vất vả trong thời gian dài hơn so với nam giới (Tổng hợp và đánh giá dự án
VTM-90007-01-0910A của Oxfam Hong Kong). Đối với các xã hội theo mẫu hệ, đất đai và
thừa kế lại được truyền qua con gái trong gia đình, phụ nữ có địa vị cao hơn, ví dụ như trong
các cộng đồng người Ede hay Mnong ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, các nét văn hóa của các cộng
đồng này đang dần bị thách thức bởi các chính sách hay thói quen và thái độ của cán bộ địa
phương (chủ yếu là người Kinh và theo phụ hệ) trong việc chưa quen thừa nhận vai trò chủ hộ
32
Rambo, Terry. Trần Đức Viên, Phạm Tiến Dũng, Nguyễn Thanh Lâm và Nguyễn Thị Bích Yến, Vùng núi
phía Bắc Việt Nam: Một số vấn đề môi trường và kinh tế - xã hội, Chương 6: Tổ chức xã hội, NXB Chính Trị
Quốc Gia. East-West Center, 2001 33
Lê, Kim Lan, Phân công lao động giới trong sản xuất của người Bru Vân Kiều, huyện D’krong, Quảng Trị.
Khoa Học Về Phụ Nữ, 2005 34
Fischer, I và Beuchelt, T., Make natural resources last by changing women’s access to assets – experiences
from northern Vietnam. Trình bày tại Hội nghị quốc tế về nghiên cứu nông nghiệp cho phát triển, Stuttgart-
Hohenheim, Germany, 10/2005 tải về từ http://www.tropentag.de/2005/abstracts/full/51.pdf 35
Như trên 36
Nguyễn Thị Thanh Tâm, Một số nét về bình đẳng giới ở các DTTS (qua khảo sát một số địa bàn tại Sa Pa).
Tạp chí Nghiên cứu giới và gia đình số 2. 2006. Viện Gia đình và giới, 2006
19
và quyền sở hữu đất đai của phụ nữ37
. Việc sở hữu tài sản có mối liên hệ đặc biệt tới vai trò và
địa vị trong gia đình. Phổ biến là người sở hữu tài sản sẽ là người có quyền quyết định, được
tiếp cận tới vốn và các khóa học về kĩ thuật. Điều này đã được chỉ ra trong báo cáo của Hoàng
Bá Thịnh hay báo cáo của Mai Thanh Sơn và cộng sự và báo cáo của Lê Thị Lý cho thấy nam
giới đi vay vốn hay tham gia các lớp tập huấn khuyến nông nhiều hơn, đặc biệt sau khi có
chính sách giao đất giao rừng cho người dân.
Chính sách đưa cả tên vợ và chồng vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã bắt đầu
được thực hiện nhưng kết quả còn vẫn rất khiêm tốn. Theo báo cáo nghiên cứu Đặc điểm kinh
tế nông thôn Việt Nam – kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2008 tại 12 tỉnh thì thấy
số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đăng ký tên cả vợ và chồng (năm 2006-2008), tại
Lai Châu chỉ có 32%, Lào Cai là 27% và Đắc Lắc là 17%. Đây cũng là 3 tỉnh có số chủ hộ là
người DTTS tham gia nghiên cứu nhiều nhất với Lào Cai là 75,5%, Lai Châu là 85,9%, Đắc
Lắc là 36,4%38
(trong tổng số hơn 3000 hộ tham gia nghiên cứu). Đối với đất nông nghiệp,
trong khi 36% giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người Kinh/Hoa được cả phụ nữ và
nam giới đứng tên, thì con số này ở người dân tộc thiểu số là 21%. Tỉ lệ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với đất ở không có tên cả vợ lẫn chồng trong các nhóm DTTS là 77%.
Tuy nhiên, một số báo cáo cũng ghi nhận việc ngay cả khi có tên trong sổ đỏ, nhiều phụ nữ
DTTS vẫn chưa thể tận dụng được cơ hội này do sự phụ thuộc vào nam giới vốn đã rất lớn
của họ hay tâm lý thiếu tự tin của họ39
.
Tình trạng bạo lực gia đình được nêu lên ở mức độ đáng báo động trên cả nước. Theo
một nghiên cứu của Hội LHPN Việt Nam thực hiện ở 3 tỉnh là Thái Bình, Lạng Sơn và Tiền
Giang thì có đến 40% phụ nữ nói đã từng bị chồng đánh (Hội LHPNVN 2006, trích dẫn trong
Tin tức Việt Nam 13/3/2006 HLHPNVN ngăn chặn bạo lực gia đình)40
. Kết quả cuộc điều tra
về gia đình công bố năm 2008 cũng phản ánh, ở Việt Nam có tới 21,2% các cặp vợ chồng đã
từng trải qua một dạng bạo lực gia đình nào đó như đánh đập, nhục mạ hay cưỡng ép tình dục.
Báo cáo cũng nêu lên say rượu và áp lực kinh tế, ý kiến khác nhau trong làm ăn và sinh hoạt
là các nguyên nhân chính cho bạo lực gia đình. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có các nghiên
cứu đầy đủ về mức độ cũng như hình thức bạo lực gia đình trong các gia đình đồng bào DTTS
cho dù có những ý kiến cho rằng tình trạng bạo lực gia đình cao ở đây do tình trạng nghèo đói
cũng như các quan niệm về giới còn nặng về trọng nam và khinh nữ.
e. Các lĩnh vực khác
Các số liệu thống kê trong các lĩnh vực như văn hóa, thể thao, thông tin, khoa học –
công nghệ chưa được thực hiện đầy đủ và không tách biệt theo giới chứ chưa nói đến việc
phân chia theo dân tộc. Chính vì vậy, khó có thể đưa ra một đánh giá về thực trạng bình đẳng
nam – nữ của người DTTS trong các lĩnh vực này41
. Đây cũng là một thách thức cần phải
vượt qua để có thể đánh giá được thực trạng bình đẳng giới trong các cộng đồng người DTTS.
Trong tương lai, hy vọng thách thức này sẽ được giải quyết nếu Quyết định số 43/2010/QĐ-
TTg ngày 02/06/2010 Về Ban hành hệ thống chỉ tiêu quốc gia yêu cầu thu thập thông tin
thống kê phân chia theo giới tính và dân tộc được triển khai có hiệu quả.
f. Phụ nữ DTTS như những chủ thể phát triển và nhìn nhận vấn đề giới trong các cộng
đồng DTTS
Bên cạnh những phân tích về tình trạng bất bình đẳng so với nam giới trong cùng dân
tộc hay phụ nữ thuộc nhóm dân tộc đa số người Kinh hoặc so với một số dân tộc khác, một số
37
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009 38
Báo cáo phân tích xã hội quốc gia về Dân tộc và Phát triển ở Việt Nam – Ngân hàng thế giới 2009. 39
Các tài liệu dự án của Oxfam Hong Kong hay loạt báo cáo chương trình CASI của CARE. 40
Báo cáo Đánh giá tình hình Giới ở Việt Nam, Ngân hàng Phát triển châu Á, 2006 41
Báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2009
20
nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ DTTS có nội lực, nhiều tiềm năng để tự phát triển và phát
triển cộng đồng và địa phương họ. Nghiên cứu của Lê Kim Lan về người Bru Vân Kiều cho
thấy đóng góp của phụ nữ Bru-Vân Kiều vào thu nhập gia đình cao hơn nam giới phù
hợp với mức độ đóng góp về hạng mục công việc và thời gian của nam và nữ. Phụ nữ
Bru-Vân Kiều phụ trách hầu hết mọi khâu từ chọn giống, chăm bón đến thu hoạch trong
việc trồng cây hoa màu và cây ăn quả, và trong chăn nuôi42
. Nghiên cứu của Dương Bích
Hạnh với nữ thanh niên H’Mông ở Sapa cũng cho thấy những nữ thanh niên này đã tham
gia tích cực vào thị trường du lịch ở Sapa, đóng góp vào kinh tế cho gia đình, thậm chí
trở thành độc lập về kinh tế - điều chưa từng có với phụ nữ Hmong. Những người phụ
nữ Hmong ở Sapa đã trở thành những người đóng góp chủ chốt cho kinh tế. Những nữ
thanh niên này đã thách thức những vai trò giới truyền thống trong cộng đồng của họ
cũng như làm thay đổi quan niệm của người dân địa phương và khách du lịch đến Sapa
về người phụ nữ DTTS. Sự thay đổi trong vai trò giới này đã dẫn theo những sự thay
đổi khác trong xã hội, ví dụ có sự phân khúc trong quy trình sản xuất hàng thủ công, hay
phát triển những lao động làm thuê, làm các công việc gia đình hay đồng áng thay cho
những người phụ nữ Hmong đang tham gia trong thị trường du lịch43
. Do đó, các nỗ lực
hướng tới phụ nữ DTTS không nên chỉ coi họ là những nạn nhân cần hỗ trợ mà ngược
lại cần trân trọng và tạo điều kiện để phát huy kiến thức và tri thức bản địa của họ.
Các tộc người ở Việt Nam rất đa dạng và khác nhau về văn hóa, phong tục tập quán và
các điều kiện kinh tế xã hội và cả mối quan hệ giới. Trong mỗi cộng đồng, cách thức phân
công trách nhiệm giữa phụ nữ và nam giới trong gia đình và xã hội, các giá trị và mong đợi
đối với phụ nữ và nam giới… trong một cộng đồng - tất cả đều có căn nguyên sâu xa từ văn
hóa và là một phần của văn hóa. Để đảm bảo công bằng và bình đẳng giới, cần phải hiểu rõ
mối quan hệ giới và các vai trò giới truyền thống ở mỗi tộc người và để chính cộng đồng xác
định thế nào là bình đẳng giới đối với họ và làm gì để đạt điều đó chứ không thể áp dụng các
hiểu biết về mối quan hệ giới của cộng đồng đa số người Kinh cho các nhóm DTTS. Các
chính sách và chương trình thúc đẩy BĐG đối với người DTTS vì thế cũng cần tính đến sự đa
dạng giữa các dân tộc.
4. Quản lý xã hội và luật tục của ngƣời DTTS
Mặc dù đa dạng và không giống nhau nhưng các cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt
Nam có một nét chung là mỗi cộng đồng đều có hệ thống luật tục điều chỉnh các mối quan hệ
trong cộng đồng. Những người lớn tuổi trong làng hay các già làng là những người nắm vững
các luật tục và có uy tín, thường đóng vai trò dẫn dắt cộng đồng và ra các quyết định trong
cuộc sống kinh tế - xã hội của làng bản, tuy nhiên, cũng không phải ở cộng đồng nào người
già cũng đóng vai trò này.
Luật tục thể hiện các hệ thống giá trị và niềm tin của mỗi cộng đồng và quy định các
hoạt động trong các lĩnh vực của cuộc sống, bao gồm các nghi thức cưới xin, ma chay, các
nghi thức cúng lễ, các cách giải quyết mâu thuẫn hay xung đột… Theo Từ điển Luật học, luật
tục là tập tục, phong tục tập quán của một cộng đồng, được hình thành tự phát và được các
thành viên trong cộng đồng chấp nhận, tuân theo trong quan hệ với nhau. Luật tục thể hiện
bao quát, phong phú các mối quan hệ xã hội truyền thống, ít thay đổi và hiện nay vẫn giữ một
vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, kể cả ở nhiều nước phát triển. PGS, TS. Ngô Đức
Thịnh (Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hoá dân gian) sau nhiều năm nghiên cứu về luật tục
đã khái quát về luật tục như sau: “Luật tục là một hình thức của tri thức bản địa, được hình
thành trong lịch sử lâu dài qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và xã hội, được thể hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau và truyền từ đời này qua đời khác bằng trí nhớ qua thực hành
42 Lê, Kim Lan. 2005. Phân công lao động giới trong sản xuất của người Bru Vân Kiều, huyện D’krong, Quảng
Trị. Khoa Học Về Phụ Nữ 5:2005. 43
The Hmong Girls of Sa Pa: Local Places, Global Trajectories, Hybrid Identities, Dương Bích Hạnh, 2006
21
sản xuất và thực hành xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn quan hệ xã hội, quan hệ con
người với thiên nhiên. Những chuẩn mực ấy của cả cộng đồng thừa nhận và thực hiện, nhờ đó
đã tạo ra sự thống nhất và cân bằng trong mỗi cộng đồng ”44
. Luật tục dựa nhiều trên sự tự
giác, tự nguyện của mỗi thành viên trong cộng đồng và chứa đựng bản sắc văn hoá độc
đáo của mỗi tộc người.
Luật tục, ở một phạm vi nhất định cũng có vai trò, giá trị xã hội quan trọng như pháp
luật: đó là điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì và ổn định một trật tự xã hội của cộng
đồng45
. Trong các cộng đồng người DTTS, nơi các giá trị cộng đồng vẫn được trân trọng thì
vai trò của luật tục trong đời sống xã hội rất cao. Luật tục có tính quy phạm và cưỡng chế cao
nhưng lại mang tính tự nguyện và răn đe nhiều hơn là trừng phạt, nên nó có thể đóng vai trò
bổ sung cho hệ thống pháp luật, đặc biệt khi các quy định của pháp luật đôi khi là phức tạp và
không gần gũi với các cộng đồng DTTS. Ở một khía cạnh nhất định việc áp dụng luật tục sẽ
vừa phần nào đảm bảo thỏa mãn được yêu cầu trân trọng sự đa dạng văn hóa và tri thức bản
địa của từng tộc người. Trên thực tế, luật tục vẫn được sử dụng ở nhiều cộng đồng DTTS.
Một nghiên cứu với 90 phụ nữ Ê Đê cho thấy có đến 55 người hiểu rõ về luật tục, đặc biệt
là các quy định liên quan đến hôn nhân gia đình. Ngay cả ở những nơi mà người Ê Đê và
người Kinh sống xen kẽ nhau thì hầu hết các bất hòa hay phân chia tài sản trong gia đình
đều được giải quyết bằng luật tục. Hầu hết phụ nữ trong nghiên cứu đều cho là người Ê Đê
nên sử dụng luật tục để phân xử46
.
Một điểm khác cũng đáng chú ý là luật tục mang tính phổ biến trong phạm vi một tộc
người nhất định và có thể thay đổi cho phù hợp với bối cảnh. Do đó, khả năng song hành của
luật tục với luật pháp để cùng hướng tới mục đích công bằng và trật tự xã hội đặt ra vấn
đề phải nhìn nhận vai trò của luật tục trong đời sống của người DTTS và tính đến luật tục
trong quá trình ra các chính sách hay xem xét khả năng sử dụng luật tục để quản lý cộng
đồng một cách chính thức.
Tuy nhiên, không phải lúc nào luật tục cũng hoàn toàn thống nhất với luật pháp và
đảm bảo tính bình đẳng. Ví dụ một số dân tộc như người Chăm hoặc người Raglai ở
Khánh Hòa có các hình thức xét xử truyền thống không dựa trên các quy định của luật
pháp. Khi có tranh chấp hay xung đột, nếu không hòa giải được bằng trao đổi thì sẽ sử
dụng các phép thử để phân định người nào mắc tội. Các phép thử như đốt thanh chì xem
thanh chì chảy về phía ai thì người đó là người có tội, hay hai người có mâu thuẫn phải
nhúng tay vào nồi nước sôi, ai bị bỏng tay là người có tội (người Raglai) hay thi lặn và ai
ngoi lên trước là người phạm tôi. Đôi khi, một số tội danh theo luật tục là rất nặng nề và
sẽ bị xử nặng như việc có con trước khi cưới, trong khi đó, việc này theo luật pháp lại
không phải là một tội. Một số nghiên cứu cho thấy luật tục của các dân tộc đều có các quy
định điều chỉnh mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới trong gia đình và ngoài xã hội. Có
những luật tục quy định những ưu tiên cho người nam, ví dụ luật của người Thái Mường
Tấc quy định nếu một người con gái đang yêu một người nam mà muốn bỏ anh ta để yêu
một người khác thì phải đền danh dự cho người yêu cũ, tìm cho anh ta người yêu mới và
phải tạ tội với gia đình anh ta nếu gia đình hai bên đã biết về mối quan hệ của hai người.
Nếu không tạ tội, không chỉ cô gái mà cả gia đình còn bị khinh bỉ, xa lánh (TS Hoàng
Lương, Phong tục trong hôn nhân và gia đình của người Thái Mường tấc Phù Yên, Sơn
44
Luật tục với thi hành pháp luật, Nguyễn Chí Dũng, Bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 52,
tháng 5/2005 tải về từ http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/luat-tuc-voi-thi-hanh-phap-luat-1/#ref1
ngày 5/8/2010 45
Giá trị của Luật tục từ góc nhìn pháp lý, TS Nguyễn Thị Việt Hương, Kỉ yếu Hội thảo Việt Nam học lần thứ 3,
Việt Nam – Hội nhập và phát triển, 2008 46
Thu Nhung Mlô, Luật tục với phụ nữ Ê Đê xưa và nay, tham luận trong Luật tục và phát triển nông thôn
hiện nay ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian, Nhà Xuất bản chính trị quốc gia, 2000
22
La). Ngược lại, đối với dân tộc Ê Đê ở Tây Nguyên thì tiếng nói của phụ nữ lại vô cùng
quan trọng. Trong các tranh chấp, nhất là những vụ kiện không có chứng cứ rõ ràng như
khi phụ nữ bị ruồng bỏ, hay phân chia tài sản thì những gì phụ nữ khai đều được coi là
đúng sự thực (Thu Nhung Mlô, Luật tục với phụ nữ Ê Đê xưa và nay). Những nghiên cứu
về những quy định của luật tục có liên quan đến vai trò, trách nhiệm và quyền của phụ nữ
của các nhóm DTTS xem mức độ khác biệt đến đâu so với pháp luật và liệu duy trì các
luật tục như vậy trong các ứng xử hàng ngày sẽ có thể dẫn đến các hậu quả pháp lý liên
quan tới quyền và nghĩa vụ của phụ nữ DTTS đến đâu hiện vẫn còn thiếu. Những nghiên
cứu như vậy sẽ rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh luật tục vẫn còn được áp
dụng khá phổ biến trong các cộng đồng người DTTS.
23
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ TIẾP CẬN DỊCH VỤ PHÁP LÝ CỦA
PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ QUA RÀ SOÁT TÀI LIỆU
1. Các loại hình dịch vụ pháp lý hiện có ở Việt Nam
Dịch vụ pháp lý là các hoạt động nhằm giúp người dân được thông tin, hướng dẫn và
hỗ trợ để hành xử đúng pháp luật và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của công dân.
Nếu nhìn nhận theo phí dịch vụ thì dịch vụ pháp lý ở Việt Nam được chia làm 2 loại:
- Không thu phí bao gồm các dịch vụ trợ giúp pháp lý cung cấp cho một số nhóm xã
hội trong đó có cả người DTTS thường trú tại các vùng khó khăn. Dịch vụ này
thường do Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước (cấp tỉnh) hay các chi nhánh Trợ
giúp pháp lý (cấp huyện) cung cấp hay các tổ chức quần chúng, chính trị - xã hội
cung cấp miễn phí cho thành viên của mình. Ngoài ra, một số công ty luật và luật
sư cũng cung cấp tư vấn miễn phí hoặc giảm phí cho khách hàng (theo chính sách
riêng của từng công ty hoặc cá nhân). Bên cạnh đó, câu lạc bộ trợ giúp pháp lý,
hoạt động trợ giúp pháp lý của các tổ chức quần chúng (Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh…) cũng đang tham gia tích cực vào
việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý miễn phí cho nhiều nhóm đối tượng (phụ nữ,
người dân tộc thiểu số, người nghèo…).
- Có thu phí bao gồm các dịch vụ do các công ty luật, luật sư, văn phòng luật sư,
trung tâm tư vấn pháp luật… thực hiện
Các hình thức của dịch vụ pháp lý hiện tại đang được sử dụng đó là (a) tư vấn pháp
luật, (b) tham gia tố tụng, (c) đại diện ngoài tố tụng, và (d) các dịch vụ pháp lý khác. Bốn loại
hình dịch vụ này là các loại hình dịch vụ mà luật sư được phép thực hiện theo Luật Luật sư.
Với hình thức tư vấn pháp luật, luật sư hành nghề và cộng tác viên tư vấn pháp luật là những
chủ thể được phép thực hiện.
Nhìn nhận theo chủ thể cung cấp dịch vụ, thì có các loại hình dịch vụ pháp lý như sau:
a. Luật sư (hành nghề với tư cách cá nhân)
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật
sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (khách hàng). Tiêu
chuẩn để có thể hành nghề luật sư là Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo
nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ đảm bảo hành nghề luật
sư thì có thể trở thành luật sư. Người có đủ tiêu chuẩn này muốn được hành nghề luật sư phải
có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư47
.
Theo thông tin của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, tổng số luật sư hiện có là 5.076
người với 1.516 nữ và 3.560 nam. Trong tổng số luật sư thì có 20 luật sư là người DTTS và
16 luật sư không xác định dân tộc48
. Hầu hết các tỉnh đều đã có các đoàn luật sư, tuy nhiên,
hoạt động mạnh nhất vẫn là hai Đoàn luật sư ở hai thành phố lớn là thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh. Các tỉnh chưa có đoàn Luật sư là các tỉnh có điều kiện khó khăn và
có đông đồng bào DTTS như Lai Châu, Điện Biên…
47
Luật Luật sư 2006 -Điều 2,3,4, 10 và 11. 48
http://luatsuvietnam.org.vn/index.php?option=com_lawyer&render=n5684§ion=list tải về ngày 5/8/2010
24
b. Tổ chức hành nghề luật sư (các công ty và chi nhánh luật và văn phòng luật sư)
Hiện có 1.718 công ty và chi nhánh luật và văn phòng luật sư trong cả nước49
, tập
trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Trong khi Hà Nội có 430 công ty luật và văn phòng luật sư
hay thành phố Hồ Chí Minh có 755 văn phòng và công ty thì các tỉnh miền núi phía Bắc có
đông đồng bào DTTS như Lai Châu hay Điện Biên không có công ty luật hay văn phòng luật
sư nào.
c. Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, có tư
cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Biên chế và kinh phí hoạt động của
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương quyết định. Theo số liệu thống kê của Cục TGPL, đến cuối năm 2009, toàn quốc có 117
Chi nhánh, 365 Tổ TGPL và 4.005 Câu lạc bộ TGPL; 63 Trung tâm TGPL có 746 cán bộ
trong đó có 206 người đã được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý.
Trong toàn quốc đã có trên 150 Văn phòng luật sư và 60/85 Trung tâm tư vấn pháp luật đăng
ký tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý.
Về kết quả hoạt động trợ giúp pháp lý, đến ngày 30/11/2009, các Trung tâm TGPL
trong toàn quốc đã thực hiện TGPL được 101.913 vụ việc, tăng 9,4% số vụ việc so với năm
2008; trong đó tư vấn 87.447 vụ, đại diện 1.005 vụ, bào chữa 4.484 vụ, đại diện ngoài tố tụng
1.190 vụ, hình thức khác: 823 vụ. Số người được trợ giúp pháp lý năm 2009 là 92.967 (người
nghèo 25.962 người, chính sách 12.904, dân tộc 25.853, trẻ em 4.495, người già: 1.812; người
tàn tật: 506, đối tượng khác 21.435 người) thuộc các lĩnh vực pháp luật về hình sự, dân sự,
hôn nhân gia đình, hành chính, khiếu nại, tố cáo, đất đai, nhà ở, chế độ chính sách…50
. Nhóm
người DTTS sống ở các vùng đặc biệt khó khăn là một trong những nhóm được hưởng chính
sách trợ giúp pháp lý của Nhà nước.
Ngoài các hoạt động tố tụng, Trợ giúp pháp lý còn được thực hiện qua các hoạt động
khác như Trợ giúp pháp lý lưu động đang trở thành một hình thức ngày càng phổ biến trong
trợ giúp pháp lý, đặc biệt ở các vùng nông thôn và xa xôi, hẻo lánh. Cũng giống như các câu
lạc bộ trợ giúp pháp lý, trợ giúp lưu động kết hợp giữa tư vấn và phổ biến pháp luật. Một hình
thức hoạt động bổ ích trong các đợt trợ giúp lưu động là các buổi nói chuyện pháp luật về
những chủ đề mà người dân địa phương quan tâm. Qua những buổi nói chuyện đó, người dân
có thể được biết về các quyền của mình, nhận thức được những vi phạm đối với quyền của họ
và yêu cầu trợ giúp pháp lý.
Câu lạc bộ (CLB) trợ giúp pháp lý (TGPL): Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã là “những tổ
chức cộng đồng cung cấp trợ giúp pháp lý cho người dân trong xã qua việc phổ biến kiến
thức pháp luật, tư vấn pháp luật và hoà giải. Đây là những tổ chức tự nguyện, bao gồm
những cá nhân có hiểu biết và được tôn trọng ở xã. Trung Tâm TGPL là đơn vị khởi xướng
việc thành lập câu lạc bộ, sau đó Giám đốc Sở Tư Pháp và Chủ tịch UBND xã công nhận một
cách chính thức” (Ralf Otto, 2006). Theo số liệu thống kê của Cục TGPL, đến nay, toàn quốc
có 4.005 Câu lạc bộ TGPL. Chương trình 135 giai đoan II đã xây dựng được 1.570 Câu lạc bộ
trợ giúp pháp lý tại các xã thuộc Chương trình này bằng các nguồn kinh phí hỗ trợ từ Chương
trình và từ Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam.
49
Số liệu lấy từ trang web của Liên đoàn Luật Việt Nam tải ngày 5/8/2010
http://luatsuvietnam.org.vn/index.php?option=com_lawcom&render=n5684§ion=list&local=1&pi=1 50
Năm 2009: Hệ thống trợ giúp pháp lý cả nước tiếp tục được củng cố, kiện toàn,
http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30089&cn_id=380132#KbXsWKTdmmHf
tải về ngày 5/8/2010
25
d. Trung tâm tư vấn pháp luật
Trung tâm tư vấn pháp luật trực thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên
ngành luật và kể từ năm 2003 là cả các tổ chức xã hội dân sự thực hiện cung cấp các dịch vụ
pháp lý cho người dân. Các trung tâm tư vấn pháp luật hoạt động theo quy định của Nghị định
số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008. Một khảo sát do UNDP tổ chức năm 2006 tại 26 tỉnh,
thành cho thấy nhìn chung các hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ chức XHDS được đánh
giá là hiệu quả51
.
Trong số rất nhiều cơ quan tổ chức được phép thành lập trung tâm tư vấn pháp luật,
những tổ chức chính trị xã hội (Hội phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến
binh…) và các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp (Hội Luật gia) là những tổ chức có mạng
lưới cán bộ và tổ chức đến tận cơ sở hoặc có phương pháp tiếp cận bình đẳng hơn đối với
người nghèo và người dân tộc thiểu số. Trong số đó, công tác tư vấn pháp luật của Hội LHPN
Việt Nam có tiềm năng hơn cả trong việc tiếp cận và cung cấp dịch vụ cho phụ nữ DTTS
cũng như có cơ sở pháp lý vững chắc. Cho đến cuối năm 2009, Hội có mạng lưới gồm 35
Trung tâm tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cấp tỉnh, thành được xây dựng và hoạt động52
.
Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có số liệu cụ thể về kết quả của công việc tư vấn pháp luật nói
chung và trợ giúp pháp lý nói riêng của Hội phụ nữ Việt Nam và các tổ chức khác.
e. Tổ hòa giải ở cơ sở
Tổ hòa giải hoặc các tổ chức thích hợp khác của nhân dân ở xã, ấp, tổ dân phố, cụm
dân cư cung cấp các hoạt động hòa giải theo quy định của Pháp lệnh tổ chức và hoạt động hòa
giải ở cơ sở. Hoạt động hòa giải là các hoạt động giải quyết các tranh chấp sau khi phát sinh.
Hoạt động này về tính chất không giống dịch vụ pháp lý nêu trên, hướng tới việc giải quyết
tranh chấp chứ không ngăn ngừa tranh chấp phát sinh hoặc hỗ trợ giải quyết các tranh chấp tại
tòa án. Pháp lệnh Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở có hiệu lực từ ngày 5-1-1999 quy
định: “Hoạt động hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được
thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm
mục đích giữ gìn sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật,
bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư”. Điều 5 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt
động hòa giải cơ sở đã quy định “Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận tổ quốc có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước…củng cố tổ
hòa giải và các tổ chức hòa giải của nhân dân…giúp đỡ tạo điều kiện cho hoạt động hòa giải
cơ sở”.
Điểm mạnh của các tổ hòa giải là đội ngũ hoà giải viên ở cơ sở là những người sống
gần gũi với nhân dân, hiểu được các phong tục, tập quán của địa phương nên rất thuận lợi khi
thực hiện nhiệm vụ hoà giải53
. Đánh giá về hiệu quả hoạt động hòa giải, theo Bộ Tư pháp, từ
năm 1999 đến 2008 đã có hơn 3,8 triệu vụ việc được đưa ra hòa giải với tỷ lệ hòa giải thành
công lên tới 80%54
.
f. Luật tục
Luật tục chưa phải là một dịch vụ pháp lý nhưng nó vẫn được sử dụng để điều chỉnh
các mối quan hệ trong xã hội ở một số cộng đồng DTTS, đặc biệt ở khu vực Tây Nguyên.
Trong việc thực hiện luật pháp liên quan đến bảo vệ rừng, luật tục đã được sử dụng kết hợp
cùng với luật pháp của nhà nước để xây dựng thành những quy ước bảo vệ rừng của cộng
51
Trích từ báo cáo Phát triển Việt Nam 2010 – Các thể chế hiện đại 52
Thông tin trên trang web của Hội LHPN Việt Nam
http://www.hoilhpn.org.vn/newsdetail.asp?newsid=13109&CatID=144 tải về ngày 1/11/2010 53
Quan hệ giữa hoạt động hoà giải cơ sở với trợ giúp pháp lý, Cục trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp. 54
Trích từ báo cáo Phát triển Việt Nam 2010 – Các thể chế hiện đại, Ngân hàng thế giới, 2010
26
đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản, ấp. Bộ Tư pháp - Bộ Văn hóa Thông tin - Uỷ ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-
UBTƯMTTQVN ngày 31/03/2000 hướng dẫn việc xây dựng những quy ước này. Quy ước
bảo vệ rừng đã được đánh giá là đã đóng góp vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bảo vệ
rừng phát sinh trong đời sống ở cộng đồng dân cư, hỗ trợ pháp luật và lấp đầy các khoảng
trống của pháp luật trong việc điều chỉnh các hành vi bảo vệ rừng. Đối với cộng đồng dân cư,
nó góp phần phục hồi và phát huy sự tự hào về văn hóa của các cộng đồng DTTS. Đặc biệt,
nó còn góp phần giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp nảy sinh trong nội bộ cộng đồng và
đóng vai trò cao trong việc bảo vệ rừng ở các cộng đồng DTTS55
.
Trong lĩnh vực BĐG và PC BLGĐ hiện vẫn chưa ghi nhận những mô hình áp dụng
luật tục để thực thi Luật BĐG. Tuy nhiên, từ việc sử dụng luật tục trong các khía cạnh khác
của cuộc sống cũng gợi mở những khả năng sử dụng luật tục trong việc thúc đẩy BĐG và PC
BLGĐ. Để làm được điều đó, trước tiên cần có những nghiên cứu về những quy định của
luật tục có liên quan đến vai trò, trách nhiệm và quyền của phụ nữ của các nhóm DTTS
đến đâu và liệu duy trì các luật tục như vậy trong các ứng xử hàng ngày sẽ có thể dẫn đến
các hậu quả pháp lý liên quan tới quyền và nghĩa vụ của phụ nữ DTTS như thế nào.
2. Sử dụng dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS
Hiện nay, hầu như không có một tài liệu nào nói đến việc sử dụng các dịch vụ pháp lý
có thu phí của người DTTS. Dường như người DTTS chưa phải là các khách hàng của dịch
vụ này và có những giả thuyết cho rằng người DTTS không thể chi trả những chi phí cho dịch
vụ pháp lý. Điều này sẽ cần tìm hiểu thêm trong các nghiên cứu khác trong tương lai. Việc sử
dụng dịch vụ pháp lý của người DTTS hiện nay hầu như mới chỉ được ghi chép trong các báo
cáo về trợ giúp pháp lý.
Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng để nói rằng việc sử dụng dịch vụ pháp lý của người
DTTS là rất hạn chế và kém hơn so với nhóm người Kinh. Khảo sát về tiếp cận công lý của
UNDP thực hiện năm 2003 với 1000 người cho thấy có đến 84% người tham gia khảo sát ở
vùng núi không biết đến các trung tâm trợ giúp pháp lý, tỉ lệ này ở ở vùng nông thôn và 52%
ở thành phố. 6% số người tham gia khảo sát nói rằng đã từng tiếp cận tòa án để giải quyết các
vụ việc của mình, cụ thể cho từng nhóm là 9% - 8% và 1% cho những người trả lời từ khu
vực thành thị, nông thôn và miền núi56
. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ nhìn đến nhóm
người sinh sống tại các vùng miền núi mà không nhất thiết phải là người DTTS. Hơn nữa,
không có sự phân biệt theo giới của các số liệu.
Theo số liệu của Cục Trợ giúp pháp lý, từ năm 1997 đến năm 2008, Cục TGPL và các
Trung tâm đã thực hiện được 1.215.820 vụ việc, trong đó có 25.426 vụ đại diện, 47.374 vụ
bào chữa, còn lại 1.106.439 vụ tư vấn, 14.533 vụ kiến nghị và 22.048 vụ hòa giải. Trong tổng
số có 1.260.680 lượt người được TGPL, trong đó có 545.561 người nghèo và 198.051 người
dân tộc. Số người được trợ giúp pháp lý năm 2009 là 92.967 (người nghèo 25.962 người,
chính sách 12.904, dân tộc 25.853, trẻ em 4.495, người già: 1.812; người tàn tật: 506, đối
tượng khác 21.435 người). Cách thống kê số liệu thế này tuân thủ theo hướng dẫn của Bộ Tư
pháp, tuy nhiên cũng khó có thể phản ánh chính xác mức độ người DTTS đã sử dụng dịch vụ
pháp lý. Một người nghèo hay trẻ em, hay tàn tật cũng có thể là người DTTS. Hơn nữa, các số
liệu không được ghi chép theo giới tính và nhóm dân tộc nên không thể phân tích được sự
khác biệt trong sử dụng giữa phụ nữ và nam giới DTTS cũng như giữa các dân tộc.
55
Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 71 tháng 3 năm 2006, tải về từ địa chỉ http://www.nclp.org.vn/chinh_sach/su-
dung-luat-tuc-huong-uoc-mot-chien-luoc-quan-ly-rung/?searchterm=%22TRANH%20CH%E1%BA%A4P%22
ngày 30/12/2010 56
Khảo sát quan điểm của người dân về tiếp cận công lý ở Việt Nam, UNDP, 2004
27
Vấn đề giới chưa được lồng ghép toàn diện trong cung cấp dịch vụ pháp lý không
những chỉ thể hiện ở cách ghi chép số liệu thống kê mà còn ở trong cả kế hoạch thực hiện
chương trình trợ giúp pháp lý. Thông tư 07/2008/TT-BTP ngày 28/10/2008 hướng dẫn thực
hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt
khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 và Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 nêu lên 2 mục tiêu “Bảo đảm 98% người nghèo,
95% người thuộc diện được trợ giúp pháp lý… có nhu cầu trợ giúp pháp lý được trợ giúp
pháp lý miễn phí” và “Bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền được trợ giúp pháp lý của người
nghèo, hộ nghèo, người cư trú ở các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi
thông qua các hình thức…”. Cả hai mục tiêu này không nêu cụ thể chỉ tiêu sử dụng dịch vụ
pháp lý cho người DTTS nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng. Những nhóm này do nhiều
nguyên nhân, bao gồm cả những nguyên nhân mang tính văn hóa và giới, có thể hạn chế hơn
trong tiếp cận đến các hỗ trợ của trợ giúp pháp lý, do đó nếu không có các chỉ tiêu cụ thể quy
định số người được hưởng lợi và các biện pháp cụ thể đi kèm theo đó thì rất nhiều khả năng
họ sẽ không nằm trong những người được hưởng lợi. Trong toàn bộ Thông tư cũng không
nhấn mạnh đến việc chú ý tìm hiểu nhu cầu pháp lý cụ thể của phụ nữ hay nam giới DTTS mà
chỉ nêu nhu cầu của những người thuộc diện trợ giúp pháp lý chung chung.
Trong khuôn khổ của chương trình 135 giai đoạn II, 1.570 CLB TGPL đã được thành
lập, các Trung tâm TGPL đã đặt gần 12.000 bảng và hộp tin về trợ giúp pháp lý tại trụ sở
UBND xã, các cơ quan tiến hành tố tụng; in ấn và cấp phát trên 2.000.000 tờ gấp pháp luật
bằng tiếng dân tộc cho nhân dân (13 thứ tiếng); in, sao hơn 16.000 băng catset bằng tiếng dân
tộc phát miễn phí cho người nghèo, người dân tộc thiểu số57
. Tuy nhiên, hiệu quả của của các
hoạt động trợ giúp pháp lý vẫn còn chưa được đánh giá và sẽ phải được kiểm chứng thông
qua các nghiên cứu với chính những người sử dụng dịch vụ. Cũng cần phải nhấn mạnh các bài
học kinh nghiệm về truyền thông trong nhiều lĩnh vực đã cho thấy truyền thông hai chiều và
có tương tác bao giờ cũng hiệu quả hơn truyền thông một chiều qua các phương tiện truyền
thông. Hơn nữa, với việc tỉ lệ phụ nữ DTTS có khả năng đọc hiểu thấp cả tiếng Việt lẫn tiếng
dân tộc thì các tài liệu in có thể sẽ không có hiệu quả.
Các tài liệu hiện có không đủ để đánh giá được sự hài lòng của phụ nữ và nam giới
DTTS với các dịch vụ pháp lý họ sử dụng cũng như hiệu quả lên bình đẳng giới qua việc sử
dụng dịch vụ pháp lý và sẽ cần phải có các nghiên cứu sâu với những phụ nữ và nam giới đã
sử dụng dịch vụ pháp lý.
3. Sự phù hợp của các dịch vụ pháp lý và các rào cản cho tiếp cận dịch vụ pháp lý của
phụ nữ DTTS
a. Sự phù hợp của các dịch vụ pháp lý
Phù hợp về đối tượng
Tất cả các dịch vụ pháp lý nêu trên đều phục vụ cho tất cả các nhóm khách hàng bất
kể giới tính hay dân tộc. Tuy nhiên, trên thực tế, một số loại hình dịch vụ có thu phí như luật
sư hành nghề độc lập hay các văn phòng tư vấn luật thì đối tượng khách hàng chủ yếu là
những người có khả năng chi trả. Trong khi hầu hết phụ nữ DTTS là những người nghèo thì
việc họ có khả năng chi trả cho các dịch vụ, đặc biệt cho cả một cả một quy trình tố tụng khi
cần thiết cần phải tiếp tục được nghiên cứu.
Trong số các loại hình dịch vụ pháp lý hiện có thì trợ giúp pháp lý hay các trung tâm
tư vấn pháp luật của một số tổ chức chính trị xã hội hay một số tổ chức XHDS coi nhóm
57
Số liệu từ báo cáo đánh giá chương trình 135-II.
28
người DTTS nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng là một trong các nhóm ưu tiên. Tuy nhiên,
kể từ năm 2006, Luật Trợ giúp Pháp lý đã thu hẹp một số diện được hưởng trợ giúp pháp lý –
trước kia là người dân tộc thiểu số và trẻ em nói chung, còn bây giờ chỉ là người dân tộc thiểu
số thường trú ở các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và trẻ em không
nơi nương tựa. Việc thu hẹp đối tượng được nhận trợ giúp pháp lý miễn phí có thể có ảnh
hưởng tiêu cực lên việc tiếp cận dịch vụ của phụ nữ và nam giới DTTS. Đối với người DTTS,
đặc biệt là phụ nữ DTTS đa phần là nghèo thì việc chi trả cho các dịch vụ pháp lý là ngoài
khả năng của họ và việc không cho họ thuộc diện được hưởng dịch vụ miễn phí cũng có thể
đồng nghĩa với việc họ sẽ không có được tiếp cận nữa.
Phù hợp về địa lý
Các số liệu hiện có cho thấy, hầu hết các luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, các
văn phòng luật sư và các trung tâm tư vấn pháp luật đều có địa điểm tại các thành phố lớn
hoặc khu vực đô thị. Trong khi Hà Nội có 430 công ty luật và văn phòng luật sư hay thành
phố Hồ Chí Minh có 755 văn phòng và công ty thì các tỉnh miền núi phía Bắc có đông đồng
bào DTTS như Lai Châu hay Điện Biên không có công ty luật hay văn phòng luật sư nào.
Ngay cả khi có văn phòng Luật sư hay công ty luật thì các cơ sở này cũng thường đóng ở các
khu vực đô thị, cách xa nơi sinh sống của đa số đồng bào DTTS. Do đó, khả năng tiếp cận đến
các cơ sở này của người DTTS là rất hạn chế, đặc biệt đối với phụ nữ DTTS khi nơi sinh sống
của họ thường cách xa những cơ sở cung cấp dịch vụ cùng với việc đi xa ra khỏi làng bản nơi
họ đang sinh sống không phải là dễ dàng khi họ không nói được tiếng Kinh.
Nếu so sánh với các hình thức dịch vụ pháp lý khác thì trợ giúp pháp lý dường như đã
dễ tiếp cận hơn với người DTTS, đặc biệt với phụ nữ DTTS thông qua việc: 1) mở rộng phạm
vi người được cung cấp dịch vụ; và 2) mở rộng tầm bao phủ hơn xuống tận các địa bàn
xã/phường thông qua các mô hình như trợ giúp pháp lý. Một số tổ chức phi chính phủ thực
hiện các chương trình tại các cộng đồng DTTS cũng kết hợp các hỗ trợ tư pháp cho các nhóm
phụ nữ DTTS, bao gồm việc tuyên truyền giáo dục pháp luật cho phụ nữ DTTS cũng như tổ
chức các CLB pháp luật cho phụ nữ DTTS.
Phù hợp về nguồn lực con người
Có thể thấy được sự mất cân đối giữa số lượng luật sư và số dân. Hiện nay, tổng số
luật sư là 5.076 người trong đó có 1.516 luật sư nữ và 3.560 luật sư nam. Trong tổng số luật
sư thì có 20 luật sư là người DTTS và 16 luật sư không xác định dân tộc 58
. Với số lượng luật
sư như thế này, nhất là luật sư người DTTS (20 luật sư/10 triệu người DTTS) thì khả năng có
sự tham gia của luật sư trong các dịch vụ pháp lý dành cho người DTTS sẽ rất ít. Báo cáo của
Bộ Tư pháp cho thấy chỉ có 20% số vụ án xét xử sơ thẩm có luật sư và trợ giúp viên pháp lý59
.
Một khảo sát đã được thực hiện trong năm 2007 để đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động
luật sư tại các tỉnh khó khăn về kinh tế-xã hội. Khảo sát được tiến hành ở 16 tỉnh, chủ yếu ở
khu vực miền núi. Kết quả khảo sát cho thấy số lượng luật sư tại các tỉnh này rất thấp, chỉ
chiếm có 3,8% tổng số luật sư trên toàn quốc. Khảo sát cũng cho thấy phần lớn luật sư ở khu
vực miền núi là các cán bộ nhà nước đã nghỉ hưu, hầu như trên 60 tuổi. Ở đoàn luật sư của
một số tỉnh được khảo sát, có những luật sư có đăng ký nhưng không hành nghề vì tuổi đã
cao. Hơn thế nữa, một số luật sư không có bằng luật và chưa qua khóa đào tạo luật sư tổ chức
bởi Sở Tư pháp và Đoàn Luật sư địa phương60
.
58
http://luatsuvietnam.org.vn/index.php?option=com_lawyer&render=n5684§ion=list tải về ngày 5/8/2010 59
Số liệu do Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường đưa ra tại hội nghị sơ kết 3 năm triển khai thi hành Luật Trợ
giúp pháp lý tổ chức tại Đà Nẵng ngày 30/11/2009, theo http://vietnamnet.vn/chinhtri/200911/Chi-20-vu-an-xet-
xu-so-tham-co-luat-su-881653/ tải về ngày 5/8/2010 60
Báo cáo Phát triển 2010 – Các thể chế, Ngân hàng thế giới., 2010
29
Không những chỉ thiếu luật sư, nhân lực có đủ điều kiện để cung cấp các dịch vụ pháp
lý như tư vấn pháp luật cũng rất thiếu, đặc biệt ở các vùng DTTS. Các quy định trước kia đã
hạn chế việc phát triển của các trung tâm tư vấn pháp luật qua những yêu cầu về số lượng tối
thiểu cũng như chất lượng phải có của tư vấn viên. Nghị định số 65/2003/NĐ-CP quy định
phải có ít nhất 3 tư vấn viên pháp luật mới được thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật. Tiêu
chuẩn để được công nhận là tư vấn viên pháp luật là phải có bằng đại học luật, có thâm niên
công tác pháp luật từ 3 năm trở lên, và đã qua lớp bồi dưỡng kỹ năng tư vấn pháp luật. Ngoài
ra, còn có những yêu cầu khác về cơ sở vật chất cho trung tâm tư vấn pháp luật. Chính những
quy định này đã dẫn đến tình trạng các địa phương vùng sâu vùng xa không thể thành lập
được Trung tâm tư vấn, hoặc có Trung tâm nhưng không đủ người theo đúng quy định61
.
Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 đã mở ra nhiều cơ hội hơn cho người dân ở các
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng DTTS và miền núi có điều kiện
tiếp cận nhiều hơn đến dịch vụ tư vấn pháp luật thông qua việc cho phép người bằng trung
cấp luật hoặc có thời gian làm công tác pháp luật từ ba năm trở lên hoặc có kiến thức pháp
luật và có uy tín trong cộng đồng có thể là cộng tác viên tư vấn pháp luật.
Đối với trợ giúp pháp lý, những người tham gia trợ giúp pháp lý bao gồm: a) Cộng tác
viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; b) Luật sư; c) Tư vấn viên pháp luật làm việc
trong tổ chức tư vấn pháp luật. Trợ giúp viên pháp lý là công dân Việt Nam thường trú tại
Việt Nam, có đủ tiêu chuẩn sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có phẩm chất đạo
đức tốt; b) Có bằng cử nhân luật; c) Có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; d)
Có thời gian làm công tác pháp luật từ hai năm trở lên; đ) Có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Trong các yêu cầu cho người tham gia trợ giúp pháp lý không thấy đề
cập đến yêu cầu phải nói được tiếng dân tộc nếu người đó làm việc ở những vùng có đông
đồng bào DTTS. Nếu tính đến số đông phụ nữ DTTS không thể nói tiếng Việt thì yêu cầu có
thể nói được tiếng dân tộc là điều quan trọng khi cung cấp dịch vụ cho phụ nữ DTTS. Cho dù
đây có thể là một yêu cầu khó khăn nhưng là cần thiết để đảm bảo hiệu quả cho những hỗ trợ
của trợ giúp pháp lý cho người DTTS nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng khi mà phần nhiều
trong số những phụ nữ này không nói được tiếng Việt như đã phân tích ở các phần trước. Quy
tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý chỉ nêu lên yêu cầu về tác phong và thái độ cho cán bộ làm
trợ giúp pháp lý là “Sử dụng ngôn từ dễ hiểu, đơn giản, ngắn gọn phù hợp với đặc điểm tâm
lý, độ tuổi, phong tục dân tộc của người được trợ giúp pháp lý. Ngôn ngữ giao tiếp phải rõ
ràng, mạch lạc, không nói tiếng lóng, hách dịch hoặc có các hành vi coi thường đối với người
được trợ giúp pháp lý” chứ không đề cập gì tới yêu cầu phải nói được tiếng dân tộc62.
Kỹ
năng làm việc với các nhóm được trợ giúp pháp lý đặc thù bao gồm cả người DTTS là một
trong các nội dung được nêu lên trong Đề án Bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý giai đoạn
2008 - 2010, định hướng đến năm 2015 tuy nhiên đề án cũng không làm rõ nhiệm vụ nâng
cao khả năng giao tiếp bằng tiếng dân tộc như một kỹ năng quan trọng trong khi làm việc với
nhóm đặc thù này. Tuy nhiên, có những dấu hiệu khả quan cho thấy những thay đổi sẽ diễn ra
để tăng cường hơn nữa sự tiếp cận của người DTTS tới trợ giúp pháp lý. Quyết định số
52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ pháp lý
nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại
các huyện nghèo giai đoạn 2011 – 2020 có quy định rõ một loạt các hoạt động trợ giúp pháp
lý thực hiện cho vùng DTTS cũng như các hoạt động nâng cao năng lực cho cán bộ làm công
tác trợ giúp pháp lý ở các khu vực này, bao gồm cả việc dạy tiếng dân tộc cho cán bộ thực
hiện trợ giúp pháp lý ở các huyện nghèo và đào tạo trung cấp luật cho người DTTS thuộc diện
quy hoạch thành cán bộ tư pháp và hộ tịch xã.
61
Tải từ trang web của Bộ Tư pháp
http://vbqppl.moj.gov.vn/ct/tintuc/lists/nghin%20cu%20trao%20i/view_detail.aspx?ItemID=2390 tải về ngày
1/11/2010 62
Quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý ban hành kèm theo Ban hành kèm theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BTP
ngày 08 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
30
Phù hợp về kinh tế
Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/2/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư quy định mức thù lao cho luật sư tham gia
tố tụng do khách hàng trả không được vượt quá 100.000đồng/1 giờ làm việc của luật sư, còn
mức thù lao và chi phí cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu là 120.000đ/1ngày làm việc của luật sư. Mức phí như vậy
so với mức thu nhập bình quân nhân khẩu ở vùng Tây Bắc chỉ là khoảng 550,000 đồng/tháng
là khó có thể chi trả được63
. Nghị định 28/2007/NĐ-CP ngày 26/2/2007 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư khuyến khích văn phòng luật sư, công ty
luật hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân miễn, giảm thù lao luật sư cho những người
nghèo, đối tượng chính sách. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có tài liệu nào để cho thấy việc
khuyến khích này thực sự đang được tiến hành.
Phù hợp về văn hóa
Đối với những phụ nữ DTTS, yếu tố văn hóa của các dân tộc có vai trò quan trọng
trong cách thức giải quyết các xung đột. Một nét chung của các cộng đồng DTTS là sự tồn tại
hệ thống luật tục điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng, với những người lớn tuổi trong
làng hay các già làng là những người nắm vững các luật tục và có uy tín, thường đóng vai trò
dẫn dắt cộng đồng và ra các quyết định trong cuộc sống kinh tế - xã hội của làng bản. Các
dịch vụ pháp lý khác thường dựa trên những quy trình pháp lý phức tạp và có thể xa lạ với số
đông, chưa nói đến người DTTS. Ví dụ, để nhận được hỗ trợ của trợ giúp pháp lý, cần thiết
phải có đơn yêu cầu trợ giúp và đơn phải được nộp đến cơ quan trợ giúp pháp lý.
Xét về hình thức dịch vụ pháp lý thì hoạt động hoà giải ở cơ sở cho thấy khá gẫn gũi
với người dân, đặc biệt là phụ nữ DTTS. Đội ngũ hoà giải viên ở cơ sở là những người sống
gần gũi với nhân dân, hiểu được các phong tục, tập quán của địa phương nên rất thuận lợi khi
thực hiện nhiệm vụ hoà giải64
. Đánh giá về hiệu quả hoạt động hòa giải, theo Bộ Tư pháp, từ
năm 1999 đến 2008 đã có hơn 3,8 triệu vụ việc được đưa ra hòa giải với tỷ lệ hòa giải thành
công lên tới 80%65
.
b. Các rào cản cho việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS
Các rào cản từ phía người cung cấp dịch vụ
Ngân sách ít: Trong những năm gần đây, nhu cầu về trợ giúp pháp lý của nhân dân ngày
càng gia tăng và nội dung các vụ việc cũng ngày càng phức tạp hơn. Do vậy, Nhà nước
không đủ ngân sách cần thiết cho các dịch vụ pháp lý nói chung và hệ thống trợ giúp pháp
lý Nhà nước hoạt động66
. Theo Thông tư số 07/2008/TT-BTP của Bộ Tư pháp ra ngày
21/10/2008 Hướng dẫn thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong Chương trình phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai
đoạn 2006 - 2010 và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010
thì Kinh phí hỗ trợ từ ngân sách trung ương của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm
nghèo giai đoạn 2006 - 2010 để tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý ở các xã
nghèo có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên với với 2 triệu đồng/năm/xã và triển khai các hoạt
động trợ giúp pháp lý. Kinh phí cho Trung tâm để thực hiện trợ giúp pháp lý lưu động và
thực hiện truyền thông, cung cấp tài liệu và thông tin pháp luật cho người nghèo lấy từ
kinh phí địa phương. Các địa phương có đông người DTTS hầu hết là các tỉnh nghèo nên
kinh phí hỗ trợ cho hoạt động này chắc chắn không thể nhiều. Việc thiếu kinh phí chắc
63
Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình, Tổng cục Thống kê 2008 64
Quan hệ giữa hoạt động hoà giải cơ sở với trợ giúp pháp lý, Cục trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp. 65
Trích từ báo cáo Phát triển Việt Nam 2010 – Các thể chế hiện đại, Ngân hàng thế giới, 2010 66
Trích kiến nghị về việc “tăng cường sự tiếp cận công lý của các nhóm dễ bị tổn thương thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý của Hội Luật
gia Việt nam” gửi ASAS – Nguyễn Khắc Hải.
31
chắn có ảnh hưởng đến số lượng cũng như chất lượng dịch vụ TGPL cung cấp cho người
dân.
Thay đổi chính sách: Kể từ năm 2006, Luật Trợ giúp Pháp lý đã thu hẹp một số diện được
hưởng trợ giúp pháp lý – trước kia là người dân tộc thiểu số và trẻ em nói chung, còn bây
giờ chỉ là người dân tộc thiểu số thường trú ở các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn và trẻ em không nơi nương tựa. Việc thu hẹp đối tượng người DTTS được
hưởng lợi sẽ kéo theo việc ít tiếp cận hơn của phụ nữ DTTS tới dịch vụ pháp lý do khả
năng chi trả của họ cho các dịch vụ có phí là khá khó khăn.
Năng lực của cán bộ cung cấp dịch vụ pháp lý về làm việc với người DTTS: những phân
tích ở trên đã cho thấy cán bộ cung cấp dịch vụ pháp lý đặc biệt cho người DTTS đang
hạn chế cả về số lượng (rất ít luật sư người DTTS) lẫn chất lượng (nói được tiếng DTTS
hoặc có hiểu biết tốt về văn hóa và tập quán của người DTTS). Hạn chế này là một cản trở
lớn cho người DTTS nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng trong quyết định tiếp cận và sử
dụng một loại hình dịch vụ còn khá mới mẻ và thường phải sử dụng ngôn ngữ pháp luật
khó hiểu cùng với quy trình phức tạp.
Năng lực thực thi luật, đặc biệt là luật BĐG và luật PCBLGĐ: rất nhiều báo cáo đã nêu
lên vấn đề nhận thức về giới và hai luật của cán bộ và người dân ở nhiều vùng, đặc biệt là
các vùng DTTS còn rất hạn chế, chưa có đủ các chế tài để xử lý các vụ vi phạm luật phức
tạp. Việc thiếu hiểu biết về luật từ phía người dân làm cho họ không nhận thức được
quyền vì vậy cũng sẽ khó tìm đến dịch vụ ngay cả khi quyền của họ bị vi phạm. Về phía
chính quyền và những người cung cấp dịch vụ, kiến thức hạn chế có thể làm họ không đưa
ra được các hỗ trợ làm cho phụ nữ DTTS hài lòng, hạn chế việc họ sẽ quay lại sử dụng
dịch vụ khi cần trong tương lai.
Kì thị và phân biệt đối xử: mặc dù chưa có tài liệu nào nghiên cứu về việc định kiến và kì
thị có phải là rào cản ngăn phụ nữ và nam giới DTTS tiếp cận đến các dịch vụ pháp lý hay
không. Tuy nhiên, một số tài liệu như Báo cáo Phân tích xã hội quốc gia của Ngân hàng
thế giới năm 2009 cũng đã nêu tình trạng định kiến đối với dân tộc thiểu số vẫn khá phổ
biến, đến từ nhiều nhóm xã hội khác nhau như cán bộ nhà nước, người buôn bán, trí thức,
nông dân… Qua lăng kính của họ, người dân tộc thiểu số thường lạc hậu, lười biếng,
không biết làm ăn. Tác động của định kiến này đã và đang có những tác động tiêu cực đối
với người dân tộc thiểu số, khiến họ kém tự tin, thiếu tiếng nói và quyền lực. Qua đó, thấy
được sự cần thiết phải có những nghiên cứu kĩ lưỡng với những nhóm người DTTS khác
nhau để tìm hiểu xem liệu kì thị và phân biệt đối xử có ngăn cản họ tiếp cận đến dịch vụ
pháp lý hay không, đặc biệt với phụ nữ DTTS là nhóm chịu kì thị kép.
Các rào cản từ phía người sử dụng dịch vụ
Chưa có thói quen sử dụng dịch vụ pháp lý và thiếu tin tưởng vào hệ thống công lý: Theo
một cuộc khảo sát gần đây về quyền tiếp cận công lý tại Việt Nam, chỉ có 6% số người
được phỏng vấn đã tiếp cận tòa án, 4% đã từng có liên hệ với các trung tâm tư vấn pháp
luật, và 6% đã sử dụng dịch vụ luật sư. Cuộc điều tra cũng cho thấy, người nghèo và
những người sống ở các vùng nông thôn và miền núi có trình độ nhận thức thấp hơn nhiều
và giới hạn truy cập thông tin pháp lý và cơ sở pháp lý67
và họ thường là nhóm ít có thói
quen sử dụng dịch vụ pháp lý dưới bất kỳ hình thức nào.
Một số tài liệu chỉ ra sự kém hiệu quả của công tác hòa giải, nhất là trong việc bảo vệ
quyền của phụ nữ. Ví dụ, trong các vụ ly hôn liên quan đến bạo lực gia đình, việc bắt
buộc hòa giải giữa hai bên có thể tạo điều kiện cho bạo hành tái diễn. Nhiều thành viên
của tổ Hòa giải, đặc biệt là những người ở vùng sâu vùng xa đôi khi chưa hiểu hết về luật
67
Tiến Sĩ Nguyễn Khắc Hải – vai trò của các tổ chức xã hội hoạt động trợ giúp pháp lý tại Việt Nam.
32
pháp đặc biệt là hai luật BĐG và luật PCBHGĐ rất có thể sẽ tư vấn thiên vị và có xu
hướng phân biệt đối xử với phụ nữ. Một khảo sát tiến hành năm 2008 với những người đã
tham gia hòa giải cho thấy phần lớn cảm thấy có rất ít sự thiên vị về giới trong các quyết
định. Tuy nhiên, cá biệt tại một tỉnh, 24% người được hỏi đã từng tham gia hòa giải trả
lời rằng họ thấy có sự thiên vị về giới. Với việc hai Luật BĐG và PCBLGĐ là những luật
còn mới, các thành viên của tổ hòa giải chủ yếu là nam giới thì xu hướng hòa giải thiên vị
và phân biệt đối xử với phụ nữ có khả năng xảy ra. Sự thiên vị đặc biệt lớn khi có các
tranh chấp với chính quyền địa phương. Cũng trong nghiên cứu nêu trên, khá nhiều người
được hỏi (14%) cho rằng người dân thường bị bất lợi khi tranh chấp với các cơ quan.
Tại một tỉnh, có tới 34% người được hỏi cho rằng có sự thiên vị như vậy68
.
Tỉ lệ mù chữ cao trong người DTTS, đặc biệt là phụ nữ không biết đọc, biết viết và thậm
chí không cả biết nói tiếng Việt nên rất ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận và chia sẻ thông
tin của họ. Tình trạng này cùng với việc thiếu các hình thức thông tin hiệu quả các nội
dung về pháp luật, các hệ thống dịch vụ công và tư, do vậy, việc hiểu biết cụ thể về các
thông tin và dịch vụ pháp lý để sử dụng hiệu quả là rất thấp. Việc không giao tiếp được
bằng tiếng Việt một mặt làm phụ nữ kém tự tin và ít đi ra ngoài hơn, hạn chế khả năng
chủ động đi đến dịch vụ của họ. Mặt khác, điều này cũng gây khó khăn cho họ để có thể
hiểu được ngôn ngữ sử dụng trong dịch vụ pháp lý ngay cả khi các dịch vụ này chủ động
đến với người dân (như trong trường hợp dịch vụ trợ giúp pháp lý lưu động và giáo dục
pháp luật).
Nghèo đói và khả năng chi trả dịch vụ: Đối với người DTTS, việc sử dụng hoàn chỉnh
một quy trình dịch vụ pháp lý có thu phí, có chất lượng và đảm bảo tính minh bạch, công
minh còn là điều xa vời vì họ không thể có ngân sách để trả cho luật sư. Nghị định số
28/2007/NĐ-CP ngày 26/2/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Luật sư quy định mức thù lao cho luật sư tham gia tố tụng do khách
hàng trả không được vượt quá 100.000đồng/1 giờ làm việc của luật sư, còn mức thù lao và
chi phí cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng yêu cầu là 120.000đ/1ngày làm việc của luật sư.
Các quan niệm về giới trong các cộng đồng DTTS: các quy định về vai trò và trách nhiệm
của phụ nữ và nam giới thường thiên vị phụ nữ có thể cản trở đến việc tiếp cận và sử dụng
các dịch vụ pháp lý của phụ nữ DTTS. Các quan niệm văn hóa cho rằng đàn ông hiểu biết
hơn, tạo nên tâm lý chấp nhận, cam chịu ngay cả khi bị bạo lực hay bị tước đoạt các quyền
hợp pháp. Ghi chép ở nhiều địa phương cho thấy không chỉ nam giới mà ngay cả phụ nữ
cũng tin rằng đóng góp của họ thua kém và không có giá trị bằng phần việc của đàn ông,
thừa nhận quyền quyết định chính của người đàn ông trong gia đình và xã hội. Một số
nghiên cứu của Mai Thanh Sơn đã chỉ ra rằng phụ nữ ở nhiều nhóm DTTS tin là đàn ông
là người hiểu biết hơn nên phụ nữ phải phục tùng69
. Gánh nặng công việc và thời gian làm
việc dài có thể làm phụ nữ DTTS không có thời gian để tham gia các hoạt động tuyên
truyền phổ biến pháp luật hay theo đuổi các quy trình pháp lý tốn thời gian.
68
Trích từ báo cáo Phát triển Việt Nam 2010 – Các thể chế hiện đại, Ngân hàng thế giới, 2010 69
Mai Thanh Sơn và cộng sự, “Một số vấn đề về tri thức bản địa, tiếng nói người dân, trạng thái sốc văn hóa và
bối cảnh tổn thương ở các DTTS tỉnh Đăk Nông” và “Một số vấn đề về tri thức bản địa, tiếng nói người dân,
trạng thái sốc văn hóa và bối cảnh tổn thương ở các DTTS tỉnh Sóc Trăng”
33
PHẦN 3: ĐÁNH GIÁ TIẾP CẬN DỊCH VỤ PHÁP LÝ CỦA
PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ
NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG Ở BẮC CẠN VÀ AN GIANG
Dựa trên những phát hiện từ việc rà soát tài liệu, nhóm nghiên cứu đã tiến hành nghiên
cứu thực địa tại hai tỉnh Bắc Cạn và An Giang. Nghiên cứu thực địa nhằm mục tiêu kiểm
chứng lại các phát hiện của rà soát tài liệu và tìm kiếm thêm những thông tin còn thiếu hụt
không tìm được qua quá trình rà soát tài liệu.
1. Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu
Huyện Chợ Mới nằm ở phía Nam tỉnh Bắc Cạn, phía bắc giáp huyện Bạch Thông và
thị xã Bắc Kạn, phía Tây giáp huyện Định Hóa (Thái Nguyên), phía Nam là huyện Võ Nhai
và Phú Lương (Thái Nguyên), phía Đông là huyện Na Rì. Các dân tộc cư trú trên địa bàn
huyện chủ yếu là: Tày, Nùng, Kinh, trong đó người Tày chiếm tỉ lệ cao nhất trong cơ cấu dân
cư. Hai xã được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu là Cao Kỳ và Tân Sơn, trong đó Tân Sơn là
xã thuộc chương trình 135, Cao Kỳ có 2 thôn thuộc chương trình 135. Trên địa bàn xã Tân
Sơn chỉ có người Dao cư trú, ở xã Cao Kỳ, người Kinh chiếm tỉ lệ thấp nhất trong cơ cấu dân
cư. Thu nhập của người dân ở 2 xã chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lâm nghiệp.
Mặc dù là huyện miền núi nhưng giao thông tương đối dễ dàng, thuận tiện, người dân
sống tập trung gần các trục đường liên tỉnh và liên huyện, xã. Hệ thống loa phát thanh có thể
chuyển tải thông tin đến từng hộ gia đình. Phân bố dân cư có sự tách biệt rõ ràng giữa người
Tày và người Dao theo từng thôn. Thu nhập chủ yếu của người dân vẫn dựa vào nông nghiệp
và lâm nghiệp tuy nhiên khoảng cách giữa nơi cư trú đến nương rẫy khá xa cũng là khó khăn
đối với người dân ở đây. Cơ sở vật chất như điện, trường học, trạm y tế được đầu tư đầy đủ.
Tri Tôn là huyện nằm ở phía Tây Nam của tỉnh An Giang, giáp với Campuchia về
phía Tây, hai huyện Châu Thành và Thoại Sơn về phía Đông, huyện Tịnh Biên về phía Bắc và
tỉnh Kiên Giang về phía Tây. Các tộc người chính cư trú trên địa bàn huyện gồm: Kinh,
Khmer và Hoa, trong đó người Kinh chiếm tỉ lệ cao nhất trong cơ cấu dân cư. Hai xã được lựa
chọn nghiên cứu là Cô Tô và Núi Tô, trong đó xã Núi Tô là một xã thuộc chương trình 135.
Nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất trong cơ cấu thu nhập của 2 tộc người chiếm đa số là
Kinh và Khmer ở hai xã này.
Tỉ lệ nghèo ở Cô Tô trong năm 2009 là 12,6%, trong khi đó tỉ lệ này ở Núi Tô cao hơn
khá nhiều là 21%. Trong số các hộ nghèo, người Khmer chiếm tỉ lệ cao hơn so với người
Kinh. Rất tiếc con số cụ thể không được bóc tách trong báo cáo của địa phương.
Điều đáng lưu ý là việc sinh hơn 3 con khá phổ biến ở người Khmer, khá nhiều hộ có
5-6 con. Hôn nhân trước 18 tuổi vẫn khá phổ biến. Theo thống kê của UBND 2 xã, tỉ lệ hộ
chưa tiếp cận được với điện lưới Quốc Gia vẫn ở mức khoảng 10% và hơn 20% chưa được sử
dụng nguồn nước sạch. Là 2 xã vùng đồng bằng, giao thông liện lạc ở hai xã khá thuận tiện.
Trường học, trạm y tế được xây dựng khá khang trang. Người Khmer và người Kinh thường
cư trú trong các Ấp (Sóc) riêng biệt, tỉ lệ hỗn cư vẫn còn ở mức thấp. Ảnh hưởng của quá
trình đô thị hóa chưa rõ rệt, nông nghiệp vẫn là hoạt động kinh tế chính. Cảnh quan sinh thái
vẫn mang đậm dáng nét của vùng nông thôn Tây Nam Bộ. Người Khmer ở cả 2 xã theo Phật
giáo Tiểu Thừa (Nam Tông). Ảnh hưởng của nhà sư đối với cộng đồng còn khá rõ nét trong
đời sống thường nhật.
34
Bảng 6: Một số chỉ tiêu chính có liên quan của các địa bàn nghiên cứu
Địa phương Dân số Tỷ lệ nghèo
2009
Thành phần dân tộc Tham gia trong
Chương trình 135
Tỉnh An Giang 2.144.772
người70
8,5%
(2008)71
Kinh 94,83%, Khơ-me 3,9%,
Chăm 0,62%, Hoa 0,65%
12 xã
Huyện Tri Tôn 3 xã
Xã Cô Tô 12,6% Không
Xã Núi Tô 21% Có
Tỉnh Bắc Kạn 293.826
người
36,8%
(2008)
Tày 54%, Dao 16,8%, Kinh
14%, Nùng 9%, Mông 5,5%,
Hoa 0,4%, Sán Chay 0,3%.
103 xã phường
Huyện Chợ Mới 12 xã
Xã Cao Kỳ Tày, Nùng, Kinh 2 thôn người Dao
Xã Tân Sơn Dao 100% Có
Nguồn: Các tài liệu thứ cấp (các con số sẽ được bổ sung sau), VLHSS 2008, (Tổng Cục
Thống Kê, 2010), Website Uỷ Ban Dân Tộc.
2. Cung của dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý
Tại hai tỉnh Bắc Kạn và An Giang đều có Trung tâm trợ giúp pháp lý. Những trung
tâm này được thành lập từ đầu những năm 2000, với nhiệm vụ chính là cung cấp dịch vụ pháp
lý miễn phí (trợ giúp pháp lý) cho người nghèo và đối tượng chính sách. Dưới Trung tâm có
các chi nhánh ở cấp huyện. Bắc Kạn có 3 chi nhánh ở huyện Ngân Sơn, Chợ Đồn và Ba Bể,
trên tổng số 8 đơn vị hành chính cấp huyện. An Giang có 2 chi nhánh ở thị xã Châu Đốc và
huyện Tịnh Tri Tôn, trên tổng số 11 đơn vị hành chính cấp huyện. Ở cấp xã có các Câu lạc bộ
Trợ giúp pháp lý. Số các câu lạc bộ ở Bắc Kạn là 100, trên tổng số 113 xã, phường, thị trấn.
Số các câu lạc bộ ở An Giang là 58, trên tổng số 156 xã, phường, thị trấn.
Số trợ giúp viên pháp lý ở hai tỉnh Bắc Kạn và An Giang đều là 4 người, với tỷ lệ
nam/nữ khá đồng đều. Tất cả các trợ giúp viên pháp lý đều thuộc nhóm dân tộc đa số72
, và
không nói được tiếng dân tộc thiểu số. Đây là điểm hạn chế mà lãnh đạo các Trung tâm
thường nhắc đến trong việc cung cấp trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số, vì nhiều
người trong số họ không nói được tiếng Kinh.
“Kho khăn lơn nhât khi sư dung trơ giup phap ly cho ngươi DTTS la sư bât đông vê
ngôn ngư. Hiên nay trung tâm co 4 trơ giup viên nhưng không ai noi đươc tiên dân
tôc Mông, Dao. Vì vậy rất khó cho việc tuyên truyền và trợ giúp pháp lý cho 2 dân tôc
thiêu sô nay.”
(Lãnh đạo Trung Tâm TGPL tỉnh Bắc Kạn)
Bảng 7: Số các cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý cho
người dân ở hai tỉnh Bắc Kạn và An Giang (số liệu năm 2009)
Cơ quan, tổ chức, cá nhân Bắc Kạn An Giang
Trung Tâm Trợ Giúp Pháp Lý 01 01
Trợ giúp viên pháp lý, trong đó:
Nam
Nữ
04
02
02
04
Cộng tác viên trợ giúp pháp lý, trong đó:
Nam
Nữ
Luật sư
173
137
36
07
51 (2010)
26
70
Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam, 2009 71
Khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008 72
Ở An Giang, nhóm đa số là người Kinh, còn ở Bắc Cạn là người Tày. Tính trên bình diện cả nước, người Tày
là dân tộc thiểu số, nhưng ở Bắc Cạn đây là nhóm có mức sống cũng như các chỉ số phát triển cao nhất tỉnh. Các
dân tộc thiểu số ở Bắc Cạn là Dao, Mông, Sán Chỉ, Lô Lô và các dân tộc khác.
35
Chi nhánh Trung Tâm Trợ Giúp Pháp Lý 03 02
Câu Lạc Bộ Trợ Giúp Pháp Lý 100 58
Thành viên Câu Lạc Bộ Trợ Giúp Pháp Lý 672
Luật sư 04 46
Văn phòng luật sư 0 29
Công ty luật 0 01
Luật sư hành nghề cá nhân 0 01
Nguồn: Phỏng vấn TTTGPL và các nguồn tài liệu thứ cấp
Ngoài đội ngũ trợ giúp viên pháp lý, các Trung Tâm TGPL còn có đội ngũ các cộng
tác viên trợ giúp pháp lý. Theo quy định của Luật Trợ Giúp Pháp Lý, cộng tác viên là người
không thuộc biên chế của Trung Tâm TGPL và không nhất thiết phải có bằng cử nhân luật.
Nếu họ không phải là luật sư thì họ chỉ có thể tư vấn pháp luật trong những lĩnh vực chuyên
môn của họ, mà không được thực hiện vai trò đại diện. Khi một cộng tác viên thực hiện trợ
giúp pháp lý cho người thuộc diện trợ giúp pháp lý, họ có thể gửi thanh toán về Trung Tâm
cho công việc của họ. Số tiền thường không nhiều và có những cộng tác viên thấy không đáng
để làm tất cả các thủ tục liên quan đến tài chính. Số cộng tác viên TGPL ở Bắc Kạn là 173,
khoảng 25% là nữ, và có 7 luật sư, trong đó 3-4 người vẫn còn hoạt động, số còn lại thì đã
già, yếu. Công tac viên cua trung tâm la cac can bô tư phap xa , cán bộ các phòng ban của
huyện, cán bộ làm bên công an tỉnh , Sơ Lao Đông - Thương Binh và Xa Hôi , cán bộ làm bên
bảo hiểm. Ở An Giang, số cộng tác viên TGPL ít hơn ở Bắc Kạn, chỉ có 51 người. Năm 2008
số lượng cộng tác viên là 120 người, nhưng sau đó Trung Tâm TGPL đã tập trung củng cố
theo hướng nâng cao chất lượng đội ngũ và như vậy số lượng giảm xuống còn 37 năm 2009,
sau đó tăng lên 51 năm 2010. Số lượng luật sư làm cộng tác viên TGPL ở An Giang cao hơn
Bắc Kạn nhiều, 25 so với 7.
Nhóm nghiên cứu quan sát thấy ở các xã nghiên cứu CLB TGPL bao gồm tất cả các
thành viên UBND xã và trưởng thôn. CLB thường đóng vai trò là người tổ chức các hoạt
động TGPL lưu động của Trung Tâm TGPL, hoặc các hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp
luật trên địa bàn xã. Vai trò của các CLB trong việc trực tiếp cung cấp dịch vụ tư vấn pháp
luật cho người dân rất mờ nhạt.
Ngoài hệ thống trợ giúp pháp lý từ tỉnh đến huyện đến xã như đã mô tả ở trên, còn có
các Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc các đoàn thể chính trị xã hội, ví dụ như Hội Phụ Nữ
hoặc Hội Nông Dân tỉnh. Các tổ chức này cũng thực hiện phổ biến và tư vấn pháp luật cho
hội viên của mình về những vấn đề mà họ quan tâm như Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia
đình, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Bình đẳng giới hay Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Ở
An Giang, Trung Tâm tư vấn pháp luật của Hội LHPN tỉnh An Giang tham gia nhiều trong
việc tư vấn cho phụ nữ kết hôn với người nước ngoài. Ngoài ra, Hội LHPN tỉnh An Giang còn
thực hiện hoạt động giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của Hội viên, tuy nhiên, trong cả năm
2009 và 6 tháng đầu năm 2010 thì chỉ có 2 trường hợp đơn thư của phụ nữ dân tộc Khơ Me
gửi lên và không có trường hợp nào từ phụ nữ dân tộc Chăm.
Đặc biệt ở An Giang, những vị chức sắc tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong việc
hòa giải, giải quyết các mâu thuẫn tại địa phương. Những vị này cai quản các chùa thường có
ở mỗi ấp. Họ là người cùng dân tộc và sinh sống gần gũi với người dân. Tuy nhiên, những
người này hầu hết đều là nam giới, đã lớn tuổi và không biết nhiều về luật pháp đặc biệt là
Luật BĐG hay Luật PCBLGĐ. Người dân cũng nhắc đến một số người khác mà họ hay tìm
đến để nhờ vả mỗi khi có việc cần phải liên hệ với chính quyền. Trưởng thôn là những người
cũng được người dân ở Bắc Kạn nhắc đến khi có các vấn đề khúc mắc.
36
Nhờ ông trong ấp viết hộ đơn, ai cần viết đơn xin đi làm hay đơn gửi lên xã cũng nhờ
ông ấy thôi. Ông ấy không lấy công nhưng nếu cho ông ấy bao Zet [bao thuốc lá] thì
đỡ ngại.
(Phỏng vấn phụ nữ Khơ Me, xã Cô Tô, Tri Tôn, An Giang)
3. Nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của phụ nữ và nam giới DTTS
Dịch vụ pháp lý, trong đó bao gồm một loại hình dịch vụ miễn phí được gọi là trợ giúp
pháp lý, đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý cho người dân và xây dựng
một xã hội công bằng, bình đẳng. Công lý, theo từ điển tiếng Việt, được định nghĩa là “lẽ phải
được xã hội thừa nhận, phù hợp với đạo lý và lợi ích chung của xã hội”73
. Bảo vệ công lý cho
người dân bao gồm, nhưng không giới hạn ở, hai điều:
Ngăn chặn để quyền và lợi ích chính đáng74
của người dân không bị xâm hại.
Khi quyền và lợi ích chính đáng bị xâm hại, thì người dân có khả năng tìm
kiếm sự bù đắp tổn thất thoả đáng75
thông qua hệ thống công lý chính thức76
.
Tuy nhiên, dịch vụ pháp lý chỉ phát huy tác dụng khi hai yếu tố khác được thoả mãn.
Thứ nhất, quyền và lợi ích chính đáng của người dân phải được luật pháp bảo vệ, hay nói cách
khác đó là quyền và lợi chính đáng trở thành quyền và lợi ích hợp pháp. Thứ hai, người dân
phải biết quyền và lợi ích của mình được luật pháp thừa nhận và muốn tìm sự bảo vệ của hệ
thống công lý khi họ cảm thấy quyền và lợi ích đó bị xâm hại.
Qua những cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu và phỏng vấn bảng hỏi, nhóm nghiên
cứu có ghi nhận được rất nhiều những bức xúc của người dân. Những lĩnh vực thường xảy ra
những bức xúc đó là hôn nhân gia đình, đất đai, và thụ hưởng các lợi ích từ các chính sách xã
hội. Kết quả phỏng vấn bảng hỏi cũng khẳng định đây là các vấn đề thường xuyên xảy ra và
cũng gây bức xúc mạnh nhất trong người dân.
Kết quả điều tra bảng hỏi cho thấy không có sự khác biệt quá lớn giữa phụ nữ và nam
giới DTTS cũng như phụ nữ người Kinh về các vấn đề họ thường gặp trong cuộc sống. Sự
khác biệt lớn nhất được nhắc tới cả trong các cuộc phỏng vấn sâu lẫn trong điều tra bảng hỏi
là bị đánh đập, chửa bới. Bảng 8 cho thấy bị đánh đập chửi bới là vấn đề ở vị trí số 8 ở mức
độ thường xuyên, nhưng 7 vị trí đầu đều là những bức xúc có liên quan đến chính quyền. Phụ
nữ nêu vấn đề bị đánh đập, chửi bới nhiều hơn hẳn nam giới, 19% so với 11%77
. Nếu xét về
mức độ nghiêm trọng của vấn đề (Bảng 9), thì bị đánh đập, chửi bới là một trong những vấn
đề nghiêm trọng nhất theo cảm nhận của những người gặp phải vấn đề. 87% trong số họ coi
vấn đề là rất bức xúc hoặc bức xúc.
73
Đại Từ Điển Tiếng Việt – Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội 1998 74
Phù hợp với lẽ phải – Đại Từ Điển Tiếng Việt 75
Đúng đắn và phù hợp – Đại Từ Điển Tiếng Việt 76
Các tài liệu về tiếp cận công lý (access to justice) có đề cập đến vai trò của hệ thống công lý phi chính thức
(bao gồm luật tục và các thể chế truyền thống, ví dụ như già làng, trưởng bản) trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
của người dân. Tuy nhiên, do chủ đề của nghiên cứu tập trung vào dịch vụ pháp lý, nên chúng tôi chủ yếu chỉ đề
cập đến hệ thống công lý chính thức (formal justice system) ở đây. Nếu không nêu rõ, thuật ngữ hệ thống công
lý sử dụng trong báo cáo này sẽ hàm lý hệ thống công lý chính thức. 77
Nghiên cứu này không phải là một nghiên cứu về bạo lực gia đình, nên không thể áp dụng tất cả các chuẩn
mực khắt khe của nghiên cứu về bạo lực gia đình khi hỏi về bị đánh đập và chửi bới. Người đọc cần coi những
con số % nêu ra ở đây như là những con số tham khảo, không nên rút ra kết luận ví dụ như 20% phụ nữ bị bạo
hành ở địa bàn nghiên cứu.
37
Bảng 8: Những vấn đề mà người dân gặp phải trong 12 tháng qua xếp theo mức độ phổ biến
STT Những vấn đề mà người dân gặp phải trong 12
tháng qua
Tỷ
lệ
(%)
Phân theo
tỉnh (%)
Phân theo dân tộc
Bắc
Kạn
An
Giang
PN
Kinh
PN
DTTS
NG
DTTS
1 Không được công nhận là hộ nghèo 52 74 30 51.4 51.9 53.7
2 Không được hưởng những chính sách của hộ
nghèo
49 72 26 50.0 51.2 44.6
3 Không được vay tiền từ ngân hàng chính sách 24 17 31 32.9 19.0 27.1
4 Không được học về khuyến nông, khuyến lâm 21 20 21 22.9 20.2 19.8
5 Không được giao rừng hoặc đất nông nghiêp 19 13 25 18.6 19.4 17.5
6 Không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất
18 14 21 24.3 12.0 22.6
7 Không được bàn và quyết định những vấn đề của
thôn/bản
16 11 20 18.8 13.2 16.4
8 Bị đánh đập, chửi bới 16 22 11 14.3 20.2 11.3
9 Người khác vay tiền nhưng không trả 12 12 12 15.7 7.8 17.6
10 Tranh chấp đất đai với người ngoài 11 17 5 10.0 12.0 9.6
11 Không được đền bù thoả đáng khi đất đai (đất ở,
đất nông nghiệp, đất rừng) bị thu hồi
7 4 11 8.6 3.9 12.4
12 Tranh chấp đất đai, tài sản, thừa kế trong gia đình 6 4 8 2.9 6.6 6.8
13 Người khác không làm theo hợp đồng đã cam kết
giữa hai bên
6 2 10 4.3 3.1 11.4
14 Bị đuổi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động 4 0 7 2.9 0.8 7.3
15 Bị kiện cáo 4 3.5 4 1.4 3.9 4.5
16 Không được nhận tài sản sau ly hôn 3 0 6 2.9 2.3 4.0
17 Không được chăm nuôi con cái hoặc nhận được
đóng góp chăm nuôi con cái sau ly hôn
2 0 4 0 1.6 3.5
Nguồn: Phỏng vấn bảng hỏi
Cụ thể trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, vấn đề thường hay được nhắc tới nhất đó là
bạo lực gia đình, chủ yếu là chồng đánh chửi vợ. Nhóm các chị phụ nữ người Khơ-me ở xã
Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang có chia sẻ như thế này:
“Tất cả đều đã từng bị chồng đánh. Chồng có thể đánh vì nhiều lý do, vợ đi
đâu đó mà không cho chồng biết là cũng có thể bị đánh, chồng đi uống rượu về
cũng đánh vợ.”
(Thảo luận nhóm, phụ nữ Khơ Me, xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang)
Tình trạng tương tự cũng xảy ra một cách tương đối phổ biến ở các xã nghiên cứu tỉnh
Bắc Kạn:
“Nam giới sau khi uống rượu về thường đánh chửi vợ con, phá nhà, đập vỡ đồ
đạc. Đã có trường hợp đánh vợ nhiều quá bị gọi ra xã để nhắc nhở, nhưng sau
đó vẫn không có thay đổi.”
(Nhóm phụ nữ người Dao, xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn)
Phụ nữ ở đây thường bị đánh, đánh nhiều lắm, khổ lắm. “Ở đây người ta đánh
vợ như chớp giật ấy”. Có thằng kia nó đánh vợ, nó nói “vợ lắm mồm quá,
đánh chết”.
(Bà T., người Dao xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn)
38
Bây giờ thì không đánh nữa nhưng hay nhiễu lắm, phá tài sản trong nhà, “cứ có ấm
chén, phích, có bát đĩa là đập hết”, chửi bới linh tinh, cầm dao dọa chém, đuổi đi. Có
lúc hòm (rương), quần áo bị đốt hết, “có lúc rình chém cả đêm.”
(Chị T., người Dao xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn)
Có sự khác biệt trong các vấn đề bức xúc mà người dân gặp phải giữa 2 tỉnh. Mặc dù
các vấn đề bức xúc phổ biến trong người dân ở 2 tỉnh là giống nhau nhưng tỉ lệ những người
tham gia nghiên cứu gặp phải các vấn đề này khác nhau rất nhiều. Trong khi có đến hơn 70%
người được hỏi ở Bắc Kạn thấy bức xúc vì không được công nhận hộ nghèo hay hưởng các
chính sách hộ nghèo thì tỉ lệ này chỉ dưới 30% ở An Giang. Chắc chắn có rất nhiều lý do làm
cho người dân coi đây là vấn đề bức xúc, tuy nhiên việc tìm hiểu các lý do này không thuộc
phạm vi nghiên cứu. Điều đáng nói là các nhu cầu pháp lý sẽ rất khác nhau ở mỗi địa phương
và mỗi vùng miền. Do đó, khó có thể có một mô hình chung về nhu cầu pháp lý của các nhóm
DTTS ở Việt Nam mà sẽ cần phải có các đánh giá nhu cầu cụ thể cho mỗi vùng miền.
Bảng 9: Những vấn đề mà người dân gặp phải trong 12 tháng qua xếp theo mức độ bức xúc
cảm nhận của những người gặp phải vấn đề đó
STT Những vấn đề mà người dân gặp phải trong 12 tháng qua Mức độ bức xúc của những
người gặp phải vấn đề này
(%)
Rất
bức
xúc
Bức
xúc
Hơi
bức
xúc
Không
bức xúc
1 Không được chăm nuôi con cái hoặc nhận được đóng góp chăm
nuôi con cái sau ly hôn78
60 10 10 20
2 Tranh chấp đất đai với người ngoài 50 27 19 4
3 Bị đánh đập, chửi bới 47 31 17 5
4 Không được đền bù thoả đáng khi đất đai (đất ở, đất nông
nghiệp, đất rừng) bị thu hồi
40 26 16 18
5 Không được nhận tài sản sau ly hôn
40 40 7 13
6 Bị kiện cáo 37 53 5 5
7 Người khác vay tiền nhưng không trả 36 32 18 14
8 Người khác không làm theo hợp đồng đã cam kết giữa hai bên 29 48 20 3
9 Tranh chấp đất đai, tài sản, thừa kế trong gia đình 26 39 22 13
10 Không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 23 20 13 43
11 Bị đuổi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động 21 42 21 16
12 Không được bàn và quyết định những vấn đề của thôn/bản 17 28 16 39
13 Không được công nhận là hộ nghèo 17 28 6 49
14 Không được giao rừng hoặc đất nông nghiêp 16 15 11 58
15 Không được hưởng những chính sách của hộ nghèo 15 27 13 45
16 Không được vay tiền từ ngân hàng chính sách 10 15 8 67
17 Không được học về khuyến nông, khuyến lâm 10 21 15 54
Nguồn: Phỏng vấn bảng hỏi
Trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, ngoài vấn đề bạo lực gia đình, người dân còn nhắc
đến nhiều bức xúc khác như nam giới lấy nhiều vợ (An Giang), phụ nữ khi lấy chồng không
được bố mẹ chia đất (Bắc Kạn), phụ nữ không được quyền quyết định gì đối với tài sản đất
đai được chia cho cả hai vợ chồng, phụ nữ không được chia tài sản sau ly hôn v.v. Những vấn
đề này không xảy ra trên diện rộng, nhưng ảnh hưởng của chúng lại rất lớn đến cuộc sống của
những người liên quan. Những trường hợp dưới đây là một ví dụ (Khung 1).
Khung 1: Các vấn đề liên quan đến hôn nhân gia đình
78
Số mẫu ở những mục này quá nhỏ để có thể có những con số thống kế có ý nghĩa. Kết quả đưa ra ở những
mục này chỉ để cho đầy đủ và mang tính tham khảo.
39
Chị B. (Bắc Kạn) có chồng bị nghiện : chị lập gia đình năm t ừ giữa những năm 80 và 10 năm
sau hai vơ chông đươc câp 6,4 ha đât rưng va đươc n hà chồng cho 50m2 đât nha ơ măt
đương. Toàn bộ sổ đỏ và sổ xanh đất rừng đều mang tên chồng chị . Đên năm 2005 chông chi
đa ban hêt ca rưng, nhà, trâu, ruông va cac tai san co gia tri trong gia đinh . Chông chi mang đi
bán vào ban đêm chị không hay biết , cho đên khi ngươi mua đên lam thi chi mơi biêt . Chị đã
lên xa bao cao , xã đã gọi người mua đất nhà chị lên hỏi và người ấy về bảo với chồng chị ,
chông chi lai gây gô vơi chi . Vì vậy, chị đã không dám đấu tranh tiêp.
Tư thang 10/2005 chị đã làm đơn ra xã đòi ly hôn , xã đã gọi hai vợ chồng ra hoà giải nhưng
không đươc. Sau đo ho gưi đơn lên huyên giup chi . Đên thang 10/2006 hai vơ chông chi đa ly
hôn, khi ra toa thi không con tai san đê chia va chi đa nhân nuôi hai ngươi con , người con trai
lớn 17 tuổi và người con gái 12 tuổi. Chị về ở với bố mẹ đẻ và đã được bố mẹ xây cho 1 căn
nhà ở tạm. Vì chồng nghiện nên chị cũng không dám kiện tụng đòi hỏi gì cả.
Chị N. (người Khơ Me, An Giang)
“Ngoài ra, cuộc sống vất vả lắm. Chồng không giúp đỡ được gì vì còn bận chăm sóc vợ nhỏ.
Tình trạng đàn ông lấy nhiều vợ phổ biến. Giờ không mong muốn gì hơn, chỉ mong đi làm
mướn có tiền nuôi con thôi. Chồng thì hay say rượu, về đánh chửi vợ con. Khi bị chồng đánh
thì ngại không kêu ai, mà kêu thì còn bị chồng đánh nhiều hơn.”
Trong lĩnh vực đất đai, tranh chấp và những vấn đề khác liên quan đến đất đai, như
đền bù, giao đất giao rừng hoặc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diễn ra ở mức độ
trung bình. Theo kết quả điều tra bảng hỏi, gần 20% người dân có bức xúc về việc không
được giao đất giao rừng và không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong 12
tháng qua. 11% có tranh chấp đất với người ngoài, 6% có tranh chấp đất (hoặc tài sản) thừa kế
trong gia đình, và 7% bức xúc về vấn đề đền bù đất giải phóng mặt bằng (xem bảng 7). Mặc
dù những vấn đề liên quan đến đất đai không xảy ra với nhiều người, nhưng mức độ bức xúc
của chúng là tương đối cao. Phần lớn những người gặp phải những vấn đề này đều trả lời là
họ rất bức xúc hoặc bức xúc. Khi mức độ bức xúc cao mà không có sự giải quyết của pháp
luật thì dễ dẫn đến những hành vi cực đoan. Tại xã Cao Kỳ, nhóm nghiên cứu có ghi nhận
được một câu chuyện anh em đã bắn chết nhau vì tranh chấp đất ruộng.
Ở Bắc Kạn, người dân nói nhiều đến tranh chấp đất đai, còn ở An Giang nói nhiều đến
đền bù giải phóng mặt bằng. Do những yếu tố tự nhiên mà ranh giới giữa các thửa đất, bao
gồm cả đất rừng, đất ở và đất ruộng, ở Bắc Kạn kém rõ ràng hơn nhiều so với An Giang. Khi
hai hộ tranh chấp với nhau một phần đất và không tự giải quyết tranh chấp đó được, thì sự
việc sẽ được đưa lên thôn rồi xã. Với sự giúp đỡ của cán bộ địa chính và bản đồ chia thửa đất,
thường các tranh chấp được giải quyết một cách ổn thoả và bức xúc được giải toả, giống như
trường hợp của chị N. (Khung 2). Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp người dân cam chịu
phần thiệt về mình mà không nhờ đến các cơ quan nhà nước phân giải (Chị A.).
Khung 2: Tranh chấp đất đai và cách giải quyết của ở Bắc Kạn
Chị N., người Dao xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
“Bô me chông chia cho đât lam ăn , lúc bố me còn thì vẫn còn cột mốc nhưng khi bố me chết
nhà bên cạnh chuyển cả cột mốc của nhà mì nh đê lân chiêm đât . Tôi bao thôn nhưng thôn
không giai quyêt đươc sau đo tôi đa hoi nhưng ngươi co hiêu biêt trong thôn đê hoi ho cach
làm đơn gửi lên xã và xã đã xem lại ranh giới trên bản đồ và gia đình kia đã phải trả lại đất
cho nha tôi. Tôi thây hai long vê kêt qua như vây.”
Chị A., người Dao xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
“Đât chia lô nha tôi không co bia đo nên giơ cư bi ngươi ta lân chiêm nhưng tôi cung không
biêt lam sao . Bô tôi mât sơm , me tôi không được minh mẫn tôi thì cũng không biết ro ranh
40
giơi đât nha minh đên đâu nên ho l ấn chiêm tôi cung đanh chiu , còn bao nhiêu thì làm bằng
đây.”
Đền bù giải phóng mặt bằng không thoả đáng là một vấn đề mà chỉ một số ít người
gặp phải (7% số người được phỏng vấn), nhưng nếu xét về mức độ bức xúc thì đứng ở vị trí
cao. Hơn 50% số người gặp vấn đề này đánh giá là họ rất bức xúc hoặc bức xúc (Bảng 8).
“Bức xúc lớn là bị lấy mất đất mà không được đền bù gì. Thường chỉ biết bức xúc
thôi, không làm gì vì trước đây đã có người lên hỏi Ủy Ban nhưng không được gì. Có
gia đình bà A. trước đây bị mất ruộng để làm kênh mà không được đền bù. Hai vợ
chồng lên Ủy Ban hỏi nhưng cũng chả ai trả lời mà cũng không được đền bù lại. Do
đó, mình bị mất thì cũng chịu thôi, không hỏi ai cả.”
(Phỏng vấn nhóm phụ nữ Khơ-me xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang)
Nhóm vấn đề thứ ba đó là không được hưởng các dịch vụ xã hội hoặc các lợi ích từ
các chính sách xã hội, như là không được công nhận là hộ nghèo hay hưởng các chính sách hộ
nghèo hoặc tham gia học khuyến nông, khuyến lâm… Nếu xét về mức độ thường xuyên,
những vấn đề này là những vấn đề mà người dân hay gặp phải nhất (Bảng 7). Hai vấn đề liên
quan đến việc công nhận hộ nghèo và hưởng chính sách của hộ nghèo là những bức xúc của
khoảng 50% số người được phỏng vấn bằng bảng hỏi. Xét theo mức độ bức xúc, nhóm vấn đề
liên quan đến hộ nghèo và hưởng các dịch vụ xã hội có mức độ bức xúc thấp nhất so với
những nhóm vấn đề khác (Bảng 9). Chỉ có khoảng 20-40% số người phỏng vấn có gặp vấn đề
này coi nó là rất bức xúc hoặc bức xúc.
“Khi ma co ngươi khac thăc măc la tai sao gia đinh tôi cung ngheo như gia đinh anh
kia ma không đươc công nhân la hô ngheo thi đươc ho giai thi ch la vi đê đươc công
nhân la thôn văn hoa thi sô lương hô ngheo phai không vươt qua chi tiêu xa đưa
xuông. Khi thôn đưa danh sach cac hô lên xa thi co đưa hêt cac hô ngheo trang thôn
nhưng khi xa xem xet thi đa căt bơt đi môt sô hô . Còn dựa vào đâu mà cắt đi thì tôi
cũng không biết.”
(Nhóm nam giới người Tày xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn)
“Điều bức xúc nhất hiện nay là không được là hộ nghèo. (…) Có nhà trong ấp có 6, 7
công ruộng vẫn được hộ nghèo, được cho đất, rồi còn được bò và heo. Ở trong ấp
nhiều người biết chuyện lắm nhưng không làm gì được.”
(Chị N.N., người Khơ-me xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang)
“Nói chung là hài lòng với cuộc sống, chỉ có một số cảm thấy thiệt thòi vì không được
công nhận là hộ nghèo mặc dù thấy mình cũng nghèo. Trong những trường hợp đó thì
cũng không làm gì vì họ cho mình nghèo thì tốt, không thì thôi.”
(Nhóm nam giới người Khơ-me xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang)
Có thể tổng kết các bức xúc của người dân trong địa bàn nghiên cứu theo như bảng
dưới đây.
Bảng 10: Tổng hợp những nhóm vấn đề bức xúc của người dân
Nhóm vấn đề Mức độ thường
xuyên
Mức độ bức xúc
Vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình (bạo lực gia đình) Trung bình cao Cao
Vấn đề liên quan đến đất đai (tranh chấp, cấp đất cấp rừng,
cấp quyền sử dụng đất, thừa kế đất đai, v.v.)
Thấp Cao
Vấn đề liên quan đến các chính sách và dịch vụ xã hội (bình
xét hộ nghèo, hưởng những hỗ trợ dành cho hộ nghèo, vay
vốn từ Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội, tham gia vào các
Cao Thấp
41
quyết định của thôn / bản v.v.)
Nếu so sánh những vấn đề bức xúc giữa nhóm phụ nữ DTTS và nam giới DTTS, cũng
như giữa phụ nữ DTTS và phụ nữ Kinh, chúng ta có thể quan sát được một số điểm sau:
- Phụ nữ DTTS dường như ít cảm thấy bức xúc hơn so với nam giới DTTS và phụ nữ Kinh
liên quan đến việc không được vay tiền từ Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội. Điều này phù
hợp với các phân tích ở phần trước về phân công lao động theo giới trong các cộng đồng
DTTS. Có thể lý giải việc phụ nữ DTTS cảm thấy ít bức xúc về việc không được vay vốn
ngân hàng theo cách là họ không phải là những người đại diện hộ gia đình để làm việc với
ngân hàng, nên họ cảm thấy ít bức xúc.
- Tỷ lệ phụ nữ DTTS bức xúc về bạo lực gia đình (bị đánh đập, chửi bới) cao hơn hẳn nam
giới DTTS và phụ nữ Kinh. Điều này cũng phù hợp với những quan sát của nhóm nghiên
cứu khi tiến hành phỏng vấn sâu và phỏng vấn nhóm. Với những phụ nữ DTTS, chủ đề
này được nhắc đến sớm hơn và bàn luận dài hơn so với những nhóm khác.
- Phụ nữ DTTS cũng ít gặp phải vấn đề liên quan đến đất đai hơn, ví dụ như không được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không được đền bù thoả đáng khi đất bị thu
hồi. Điều này cũng phù hợp với các nhận định ở các phần trước về sở hữu đất đai của phụ
nữ cũng như khả năng nắm bắt các cơ hội từ sở hữu đất đai của phụ nữ. Nam giới thường
là người đứng tên sổ đỏ và chịu trách nhiệm về những thủ tục, giao dịch có liên quan đến
đất đai, do đó họ thường gặp phải và nêu lên những bức xúc này hơn phụ nữ.
Bảng 11: So sánh những vấn đề thường gặp giữa nhóm phụ nữ DTTS với nam giới DTTS và
phụ nữ Kinh
STT Những vấn đề mà người dân gặp phải trong 12 tháng qua Tỷ lệ
(%)
Dân tộc thiểu
số
Phụ nữ
Kinh
Nam Nữ
1 Không được công nhận là hộ nghèo 52 54 52 51
2 Không được hưởng những chính sách của hộ nghèo 49 45 51 50
3 Không được vay tiền từ ngân hàng chính sách 24 27 19 33
4 Không được học về khuyến nông, khuyến lâm 21 20 20 23
5 Không được giao rừng hoặc đất nông nghiêp 19 18 19 19
6 Không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 18 22 12 24
7 Không được bàn và quyết định những vấn đề của
thôn/bản
16 17 13 19
8 Bị đánh đập, chửi bới 16 11 20 14
9 Người khác vay tiền nhưng không trả 12 18 8 16
10 Tranh chấp đất đai với người ngoài 11 10 12 10
11 Không được đền bù thoả đáng khi đất đai (đất ở, đất
nông nghiệp, đất rừng) bị thu hồi
7 13 4 9
12 Tranh chấp đất đai, tài sản, thừa kế trong gia đình 6 7 7 3
13 Người khác không làm theo hợp đồng đã cam kết giữa
hai bên
6 11 3 4
14 Bị đuổi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động 4 7 1 3
15 Bị kiện cáo 4 5 4 1
16 Không được nhận tài sản sau ly hôn 3 4 2 3
17 Không được chăm nuôi con cái hoặc nhận được đóng
góp chăm nuôi con cái sau ly hôn
2 4 2 0
Nguồn: Phỏng vấn bảng hỏi
4. Mức độ tiếp cận đến dịch vụ pháp lý
Mức độ tiếp cận đến dịch vụ pháp lý trong khuôn khổ nghiên cứu này sẽ được xem xét
ở 3 khía cạnh:
- Hiểu biết của người dân nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng về các dịch vụ pháp lý
- Cách thức giải quyết mà người dân thường sử dụng khi gặp phải các vấn đề pháp lý
42
- Thực tế đã tiếp cận và sử dụng được các dịch vụ pháp lý
a. Nhận thức pháp luật của người dân và hiểu biết về các dịch vụ pháp lý
Tất cả những vấn đề như đã mô tả ở trên đều được quy định trong những văn bản pháp
luật và chính sách của nhà nước, ví dụ Luật PCBLGĐ hay Luật Đất đai 2003, Luật Khiếu nại
tố cáo hay các quy định, hướng dẫn cụ thể về bình xét hộ nghèo, vay vốn từ Ngân hàng Chính
sách xã hội, hay những hỗ trợ khác của nhà nước đối với hộ nghèo. Tuy nhiên, nhận thức của
người dân ở các vùng nghiên cứu về luật pháp nói chung và các luật pháp chính sách có liên
quan tới các vấn đề bức xúc của họ nói riêng, các cơ quan bảo vệ pháp luật và quy trình tìm
kiếm sự bảo vệ của pháp luật nhìn chung rất thấp. Trên thực tế, người dân không nhất thiết
phải biết hết về các Luật này nhưng cần thiết phải biết được những gì là đúng luật, trường hợp
nào là vi phạm luật, nếu họ vi phạm luật thì điều gì sẽ xảy ra hoặc nếu quyền của họ bị vi
phạm thì phải đi đến đâu để xin hỗ trợ. Một số quy định khác thì người dân biết rõ hơn, ví dụ
quy định phải đội mũ bảo hiểm khi đi ra đường, biết nếu có tranh chấp đất đai thì có thể lên
xã để xem bản đồ, khi lấy vợ lấy chồng cần phải đăng ký kết hôn, khi sinh con cần phải làm
giấy khai sinh, nếu muốn lái xe máy cần phải đi học để lấy bằng. Tỷ lệ người dân nói có làm
những thủ tục pháp lý này tương đối cao (Bảng 11). Đây là những luật mà các địa phương tập
trung vào phổ biến trong thời gian qua.
Bảng 12: Tỷ lệ người dân báo cáo có làm các thủ tục pháp lý cơ bản
Loại thủ tục Chung Chia theo tỉnh Chia theo CT 135
Bắc Kạn An Giang Thuộc CT135 Không thuộc
CT135
Khai sinh 94% 99% 90% 94% 94%
Làm thủ tục mua
bán đất đai ở xã
64% 78% 50% 60% 66%
Đăng ký kết hôn 86% 96% 77% 84% 88%
Nguồn: Phỏng vấn bảng hỏi
Nguyên nhân cho sự thiếu hiểu biết có thể do đây là các Luật mới ra đời nên cũng cần
thời gian để người dân và chính quyền hiểu về nó. Một nguyên nhân khác cũng phải nói đến
là công tác giáo dục và phổ biến về các luật này hiện nay vẫn còn rất hạn chế. Xã Cô Tô
huyện Tri Tôn mới chỉ có được một lớp tập huấn về nội dung Luật Bình đẳng giới. Các hoạt
động tuyên truyền phổ biến pháp luật thường là các buổi phát thanh trên xe lưu động đi đến
các xã hay các buổi họp dân ở trụ sở Ủy ban. Ở An Giang, đa phần phụ nữ Khơ Me không
hiểu tiếng Việt nhưng các hoạt động phổ biến pháp luật chủ yếu được thực hiện bằng tiếng
Việt nên khả năng nắm bắt các nội dung của luật vẫn còn hạn chế. Không chỉ riêng ở An
Giang mà ở Chợ Mới (Bắc Cạn) một báo cáo của Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý
cũng nêu lên rằng cách thức giáo dục pháp luật hiện vẫn đang sử dụng không hiệu quả đối với
DTTS hoặc khó lòng mà đến được với phụ nữ DTTS79
.
Trong những cuộc phỏng vấn nhóm và phỏng vấn sâu, chúng tôi thấy gần như 100%
người dân chưa nghe đến Luật Trợ giúp pháp lý và các hỗ trợ của chương trình trợ giúp pháp
lý (xem Khung 3). Ngay cả những người DTTS ở những xã 135, là đối tượng được trợ giúp
pháp lý, cũng không biết về Luật này và những lợi ích đáng lẽ họ được hưởng từ chương trình
này. Sự hiểu biết về những tổ chức, cơ quan có liên quan đến dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp
lý, ví dụ như Trung Tâm Trợ Giúp Pháp Lý, câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, văn phòng luật sư
v.v., cũng rất thấp (Bảng 12). Chưa đến 1/3 số người được hỏi bằng bảng hỏi đã từng nghe về
Trung Tâm Trợ Giúp Pháp Lý tỉnh và các chi nhánh của Trung Tâm. Tỷ lệ này ở các xã 135
có cao hơn một chút so với các xã không thuộc chương trình 135, tuy nhiên sự khác biệt là rất
79
Báo cáo kết quả điều tra khảo sát thu thập thông tin ban đầu về nhận thức của phụ nữ về phát luật và quyền ở
huyện Chợ Mới, Bắc Cạn, LRES, 2007
43
nhỏ. Nam giới được tiếp cận với thông tin về dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý tốt hơn phụ
nữ, bằng chứng là tỷ lệ nam giới đã từng nghe nói về các cơ quan liên quan đến dịch vụ pháp
lý / trợ giúp pháp lý cao hơn hẳn so với nữ, cho dù là nam giới DTTS cũng vẫn cao hơn phụ
nữ Kinh. Giữa các nhóm phụ nữ thì phụ nữ DTTS có hiểu biết thấp nhất về các dịch vụ pháp
lý hiện nay.
“Không e ngại (để tìm các cơ quan giúp giải quyết vấn đề bạo lực gia đình), nhưng
mà vì không biết thông tin về nơi nào có thể giúp mình nên không tìm đến”
(Nhóm phụ nữ người Dao xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn)
Khung 3: Nhận thức của nam giới và nữ giới về trợ giúp pháp lý
Nhóm nam giới người Tày xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
Trong 5 ngươi đươc phong vân thi chi co 1 ngươi đa đươc nghe qua thuât ngư trơ giup phap
lý, nhưng ban chât cua trơ giup phap lý là gì thì hoàn toàn không biết không hiểu trợ giúp
pháp lý để làm gì , giúp ích gì cho bản thân , gia đinh minh; 4 ngươi con lai thi chưa tưng nghe
thuât ngư trơ giup phap ly , họ không biết có những chỗ sẽ giúp đỡ h ọ giải quyết những thắc
măc cua ban thân minh . Họ chỉ biết khi gặp phải những thắc mắc đó thì họ sẽ tìm đến trưởng
thôn đê hoi cach giai quyêt hoăc la cam chiu.
Nhóm phụ nữ người Tày xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
Một chị đa đươc tham gia môt buôi trơ giup pháp lý lưu đông nhưng cung không hiêu nhiêu
vê hoat đông nay , 5 chị còn lại thì rất xa lạ với thuật ngữ trợ giúp pháp lý , trơ giup lưu đông .
Họ rất muốn tìm hiểu về các dịch vụ trợ giúp pháp lý.
Bảng 13: Tỷ lệ người dân đã được nghe đến những tổ chức, cơ quan có liên quan đến dịch vụ
pháp lý / trợ giúp pháp lý (%)
Chung Phân theo dân tộc Phân theo chương
trình 135
PN
Kinh
PN
DTTS
NG
DTTS
Không
thuộc
CT135
Thuộc
CT135
Câu lạc bộ pháp luật 36 37.1 31.4 42,6 35 36
Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý 29 22.9 25.6 36.9 25 34
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà
nước
27 27.1 22.9 34.7 26 29
Chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp
lý nhà nước
18 18.6 14.3 23.3 17 19
Trợ giúp pháp lý lưu động 19 17.1 15.1 26.7 27 16
Văn phòng luật sư 33 34.3 29.1 38.6 39 30
Trung tâm tư vấn pháp luật 30 34.3 25.6 36.4 36 27
Công ty luật 17 17.4 14.8 17.8 19 15
Nguồn: Phỏng vấn bảng hỏi
b. Cách thức giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích hợp pháp
Nhận thức còn thấp về luật pháp cũng như về trợ giúp pháp lý là lý do khiến tỷ lệ
người dân chấp nhận chịu đựng khi cảm thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm hại là tương
đối cao so với những cách giải quyết khác (Bảng 13). Bình thường đối với những việc người
dân cho là rất bức xúc thì họ cũng chỉ phản ánh với trưởng thôn, sau đó nếu không xong thì
lên đến xã là hết. Nếu sự việc không được giải quyết thì họ sẽ chấp nhận. Đối với những vấn
đề ít bức xúc hơn, ví dụ như không được công nhận là hộ nghèo hay không được vay tiền từ
Ngân Hàng Chính sách xã hội, thì chấp nhận không làm gì cả là giải pháp được nhiều người
dân chọn lựa nhất. Tỷ lệ cam chịu của phụ nữ thường cao hơn nam giới trong gần như tất cả
mọi vấn đề (Bảng 14). Đối với những vấn đề có mức độ bức xúc cao, liên quan đến đất đai
44
hay bạo lực gia đình, tỷ lệ nữ giới cam chịu thường cao gấp 2 lần so với nam giới. Đây cũng
là điều dễ hiểu, vì văn hoá của các DTTS, cũng giống như văn hoá người Kinh, thường nhấn
mạnh sự nhẫn nhịn và cam chịu ở phụ nữ, coi đó là đức hạnh của họ. Còn đối với nam giới thì
văn hoá thường nhấn mạnh sức mạnh và đấu tranh. Nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn nhóm và
phỏng vấn sâu với gần 100 phụ nữ, nhưng chỉ ghi nhận được duy nhất 1 trường hợp một phụ
nữ người DTTS chủ động đến với Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Bắc Kạn để nhờ giúp đỡ
trong một vấn đề rất bức xúc liên quan đến bạo lực gia đình và đất đai. Con số này quả thực
quá ít so với những bức xúc của người dân như đã trình bày ở trên. Nếp nghĩ cam chịu ngay
cả khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại đã khiến phụ nữ gặp khó khăn hơn
trong việc tiếp cận công lý và sử dụng dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý. Một số phụ nữ và cả
nam giới Khơ Me ở An Giang có nêu lên việc họ đã thử giải quyết các bức xúc của họ bằng
các cách như đưa ra trưởng ấp hay Ủy ban nhưng kết quả không được như mong muốn và họ
cảm thấy không còn tin tưởng để sử dụng các hình thức giải quyết vấn đề. Mất lòng tin cùng
với việc người dân biết rất ít về các dịch vụ pháp lý nói trên (bảng 12) đang góp phần vào việc
người dân không biết lựa chọn cách giải quyết nào cho vấn đề của họ hơn là im lặng.
“Bức xúc lớn là bị lấy mất đất mà không được đền bù gì. Thường chỉ biết bức xúc
thôi, không làm gì vì trước đây đã có người lên hỏi Ủy Ban nhưng không được gì. Có
gia đình bà A. trước đây bị mất ruộng để làm kênh mà không được đền bù. Hai vợ
chồng lên Ủy Ban hỏi nhưng cũng chả ai trả lời mà cũng không được đền bù lại. Do
đó, mình bị mất thì cũng chịu thôi, không hỏi ai cả.”
(Phỏng vấn nhóm phụ nữ Khơ-me xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang)
Bảng 14: Tỷ lệ người dân giải quyết vấn đề theo những cách cụ thể xếp theo mức độ phổ biến
của vấn đề (%)
Những vấn đề mà người dân gặp phải trong
12 tháng qua
Tự
giải
quyết
trong
nội bộ
2 bên
Đưa ra
già
làng,
trưởng
bản
Nhờ
họ
hàng,
làng
xóm
Đưa
ra Ủy
ban xã
Nhờ
tổ hòa
giải
Nhờ
trưởng
thôn
Chấp
nhận,
không
làm gì
cả
Không được công nhận là hộ nghèo 8 9 4 14 8 35 57
Không được hưởng những chính sách
của hộ nghèo
8 10 4 13 8 26 67
Không được vay tiền từ ngân hàng chính
sách
27 12 17 24 23 29 53
Không được học về khuyến nông,
khuyến lâm
14 14 15 16 10 25 54
Không được giao rừng hoặc đất nông
nghiêp
25 6 7 16 9 20 64
Không được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất
8 11 10 31 17 31 32
Không được bàn và quyết định những
vấn đề của thôn/bản
27 18 21 26 24 36 52
Bị đánh đập, chửi bới 45 5 24 22 23 38 24
Người khác vay tiền nhưng không trả 56 5 9 17 12 20 29
Tranh chấp đất đai với người ngoài 28 17 13 46 35 48 17
Không được đền bù thoả đáng khi đất đai
(đất ở, đất nông nghiệp, đất rừng) bị thu
hồi
15 15 9 50 29 38 21
Tranh chấp đất đai, tài sản, thừa kế trong
gia đình
36 10 7 39 16 39 3
Người khác không làm theo hợp đồng đã
cam kết giữa hai bên
19 16 10 45 36 65 16
Bị đuổi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao
động
26 21 32 39 17 56 17
45
Bị kiện cáo 16 16 5 47 26 47 5
Không được nhận tài sản sau ly hôn80
21 14 14 21 14 57 21
Không được chăm nuôi con cái hoặc
nhận được đóng góp chăm nuôi con cái
sau ly hôn
30 10 20 10 10 50 20
Nguồn: Phỏng vấn bảng hỏi
Bảng 15: Tỷ lệ cam chịu của nam giới và nữ giới trong những vấn đề cụ thể
Những vấn đề mà người dân gặp phải trong 12 tháng qua Nam Nữ
Không được bàn và quyết định những vấn đề của thôn/bản 33 64
Không được vay tiền từ ngân hàng chính sách 37 63
Bị đuổi việc hoặc chấm dứt hợp đồng lao động 100 75
Bị đánh đập, chửi bới 10 28
Tranh chấp đất đai, tài sản, thừa kế trong gia đình 0 5
Bị kiện cáo 13 0
Tranh chấp đất đai với người ngoài 12 19
Người khác vay tiền nhưng không trả 21 37
Không được giao rừng hoặc đất nông nghiêp 50 71
Không được học về khuyến nông, khuyến lâm 41 64
Không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 22 40
Không được đền bù thoả đáng khi đất đai (đất ở, đất nông nghiệp,
đất rừng) bị thu hồi
10 39
Người khác không làm theo hợp đồng đã cam kết giữa hai bên 5 36
Không được công nhận là hộ nghèo 55 59
Không được hưởng những chính sách của hộ nghèo 53 72
Không được chăm nuôi con cái hoặc nhận được đóng góp chăm nuôi
con cái sau ly hôn
0 50
Không được nhận tài sản sau ly hôn 0 43
Nguồn: Phỏng vấn bảng hỏi
c. Tình hình thực tế sử dụng dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý
Theo báo cáo của các Trung Tâm TGPL, năm 2009 có 656 người được trợ giúp pháp
lý ở Bắc Kạn và 2614 người ở An Giang. Con số này bao gồm tất cả các lĩnh vực81
và tất cả
các hình thức trợ giúp pháp lý82
. Phụ nữ chiếm khoảng 45% trong tổng số người được trợ
giúp pháp lý, và người dân tộc chiếm 20% ở Bắc Kạn và 6% ở An Giang (Bảng 16).
Bảng 16: Số người được trợ giúp pháp lý ở Bắc Kạn và An Giang năm 2009
Diện trợ giúp pháp lý Bắc Kạn An Giang
Nam Nữ Nam Nữ
Người nghèo 158 165 877 784
Người có công 23 9 42 7
Người già 1 0 0 1
Trẻ em 4 0 11 40
Người tàn tật 0 2 0 0
Người dân tộc 160 130 262 167
Khác 04 0 277 146
Tổng theo nam nữ 350 306 1469 1145
Tổng chung 656 2614
80
Số mẫu ở những mục này quá nhỏ để có thể có những con số thống kế có ý nghĩa. Kết quả đưa ra ở những
mục này chỉ để cho đầy đủ và mang tính tham khảo. 81
Trong báo cáo có liệt kê những lĩnh vực sau: hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính và khiếu nại hành
chính, ưu đãi người có công và chính sách ưu đãi xã hội khác, và lĩnh vực khác. 82
Bao gồm: tư vấn, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, khác (hoà giải, thực hiện các thủ tục hành chính,
khiếu nại)
46
Nguồn: Báo cáo hoạt động của Trung Tâm TGPL Bắc Kạn và An Giang. Ghi chú: số liệu báo
cáo của tỉnh An Giang là từ ngày 1/10/2008 đến 30/9/2008.
Như vậy, tỷ lệ người dân thuộc diện được trợ giúp pháp lý mà thực tế được trợ giúp
pháp lý là rất thấp. Điều tra bằng bảng hỏi cũng cho thấy chỉ khoảng 10% những người được
hỏi đã từng được tư vấn bởi Trung Tâm TGPL. Không có sự khác biệt nào giữa những người
sống ở xã 135 và không 135. Người DTTS được tư vấn nhiều hơn người Kinh và tỷ lệ nam
giới được tư vấn nhiều hơn 1,5 lần so với nữ. Tiếp cận với dịch vụ pháp lý do văn phòng luật
sư hay cá nhân hành nghề luật sư là không đáng kể.
Bảng 17: Tỷ lệ người dân đã từng được tư vấn hoặc trợ giúp pháp lý từ các cơ quan, tổ chức
Chung Phân theo dân tộc Phân theo chương
trình 135
PN
Kinh
PN
DTTS
NG
DTTS
Thuộc
CT135
Không
thuộc
CT135
Trung tâm Trợ giúp pháp lý 11 8.6 8.9 14.2 11 11
Chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp
lý
5 5.7 3.1 6.3 4 5
Trợ giúp pháp lý lưu động 6 8.6 2.7 10.9 5 7
Văn phòng luật sư 5 5.7 4.7 5.1 5 5
Các buổi tuyên truyền về luật pháp 33 22.9 32.6 38.1 28 39
Cá nhân luật sư 2 5.7 1.6 1.7 2 2
Nguồn: Phỏng vấn bảng hỏi
5. Các rào cản cho việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý
Như đã phân tích ở trên, những lý do khiến việc sử dụng dịch vụ pháp lý / trợ giúp
pháp lý của người dân chưa cao bao gồm:
- Nhận thức của người dân về luật pháp chưa cao nên họ chưa chủ động tìm sự bảo vệ của
pháp luật đối với quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng như chưa chủ động tìm các
cách giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật.
- Người dân còn thiếu hiểu biết về Luật Trợ Giúp Pháp Lý cũng như không biết những
thông tin liên quan đến trợ giúp pháp lý.
- Tâm lý cam chịu, chấp nhận thiệt thòi cao, đặc biệt là ở phụ nữ.
Điều tra bằng bảng hỏi cũng khẳng định thiếu thông tin về dịch vụ (chưa bao giờ nghe
nói đến dịch vụ pháp lý và không biết dịch vụ ở đâu) là những lý do hay được đưa ra nhất để
giải thích việc chưa từng sử dụng dịch vụ. Tiếp đó là không thấy nhu cầu cần thiết phải sử
dụng dịch vụ. Lý do tiếp theo đó là rảo cản về ngôn ngữ: người DTTS không nói được tiếng
Kinh và cán bộ trợ giúp pháp lý không nói được tiếng dân tộc. Yếu tố chi phí, bao gồm cả chi
phí bằng tiền mặt lẫn chi phí không bằng tiền mặt như đường đi xa, mất thời gian, tốn kém
tiền cũng là những trở ngại khiến người dân chưa sử dụng dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý.
Không nhiều nhưng cũng có một số người trả lời thuộc nhóm dân tộc Khơ Me ở An Giang có
nêu lên việc ngại tiếp xúc với cán bộ Kinh vì e ngại bị kì thị như một lý do cho việc chưa sử
dụng các dịch vụ pháp lý.
Bảng 18: Tỷ lệ người dân đưa ra những lý do khác nhau để giải thích cho việc họ chưa sử
dụng dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý
Tỷ lệ Phân theo dân tộc
PN
Kinh
PN
DTTS
NG
DTTS
Không biết dịch vụ ở đâu 64 76.9 61.9 61.5
Chưa bao giờ nghe nói đến dịch vụ pháp lý 48 59.6 45.8 46.2
47
Thấy không cần thiết 41 55.8 34.8 43.3
Không nói được tiếng Kinh 23 3.8 27.1 24.0
Đường đi xa 21 23.1 16.1 26.0
Sợ mất thời gian 20 23.1 14.2 25.0
Ngại tiếp xúc 18 19.2 18.1 16.3
Tự giải quyết được 18 32.7 14.2 17.3
Sợ tốn kém tiền 15 17.3 14.8 13.5
Không chắc có giúp được không 13 19.2 11.6 12.5
Trái với tục ở địa phương 2 3.8 0.6 1.9
Nguồn: Điều tra bằng bảng hỏi
Còn một yếu tố nữa khiến người dân ít sử dụng luật pháp và dịch vụ pháp lý / trợ giúp
pháp lý đó là họ đã nhiều lần đề nghị chính quyền cấp cơ sở83
giúp đỡ nhưng vẫn không mang
lại hiệu quả. Điều này rất hay được nhắc đến khi thảo luận về vấn đề bạo lực gia đình:
“Nói chung, khi bị chồng đánh thì nhịn thôi, không mách ai cả, do phụ nữ cư xử
không khéo nên mới bị đánh thôi. (…) Có nghe nói là nếu đánh nhau mà ban tự quản
biết thì có thể bị bắt nhưng từ trước đến nay chưa thấy ai bị bắt vì đánh vợ cả.”
(Nhóm phụ nữ Khơ-me xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang)
“Vi qua nhiêu lân bi đánh nên tôi có báo cáo với thôn nhưng đâu vẫn vào đấy , sau đo
tôi bao cao lên xa , xã gọi chồng tôi lên lập biên bản rồi nhắc nhở chồng tôi h ứa la
không tai pham nhưng rôi đâu cung vân vao đây.”
(Chị N. xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn)
Chính quyền cơ sở là cấp gần dân nhất, là cấp thực thi trực tiếp những chính sách và
pháp luật. Người dân thường nhìn vào hệ thống chính quyền thông qua “lăng kính cấp xã”, vì
đây chính là cấp mà họ hay giao dịch nhất. Cấp xã hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần củng cố
lòng tin của người dân đối với cả hệ thống chính quyền. Khi cấp xã không biết, hoặc không sử
dụng hết những biện pháp mà pháp luật cho phép84
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân, thì lòng tin bị xói mòn và tâm lý lên trên nữa cũng không giải quyết được gì bắt
đầu xuất hiện. Điều này làm giảm sự mong muốn tìm đến pháp luật và dịch vụ pháp lý của
người dân.
Phỏng vấn bảng hỏi cũng cho chúng ta thấy những mong muốn của người dân đối với
dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý như sau:
- Có những thông tin hướng dẫn về dịch vụ pháp lý / trợ giúp pháp lý dễ hiểu đối với người
dân. 78% số người được hỏi coi yếu tố này là rất quan trọng hoặc quan trọng. Điều này
gợi ý đến việc sử dụng nhiều hơn luật tục để giải quyết các vấn đề tranh chấp dân sự như
những hình thức gần gũi với văn hóa của người DTTS.
- Có cán bộ là nữ. 73% số người được hỏi coi yếu tố này là rất quan trọng hoặc quan trọng.
- Chi phí cho dịch vụ hợp lý, không quá cao. 72% số người được hỏi coi yếu tố này là rất
quan trọng hoặc quan trọng. Điều cần phải nhấn mạnh ở đây là tỷ lệ người dân đòi hỏi
dịch vụ phải miễn phí không cao bằng tỷ lệ sẵn sàng trả mức giá hợp lý.
- Cán bộ là người dân tộc hoặc nói được tiếng dân tộc. 64% số người được hỏi coi yếu tố
này là rất quan trọng hoặc quan trọng.
- Các yếu tố khác như đi lại thuận tiện, thái độ thân thiện của cán bộ, cũng được người dân
coi trọng.
83
Hàm ý trưởng thôn, công an viên thôn, tổ hoà giải thôn, công an xã và Uỷ Ban xã. 84
Luật Phòng chống Bạo lực Gia đình cho phép cấp xã và thôn sử dụng những biện pháp như góp ý, phê bình
trong cộng đồng dân cư, cấm tiếp xúc và xử phạt hành chính để giải quyết vấn đề bạo lực gia đình. Tuy nhiên, ở
những xã nghiên cứu, chúng tôi mới chỉ ghi nhận được một số trường hợp xử phạt hành chính đối với người gây
bạo hành, còn hai biện pháp đầu thì chưa thấy nơi nào áp dụng.
48
Bảng 19: Những yếu tố mà người dân coi là quan trọng trong việc sử dụng dịch vụ pháp lý /
trợ giúp pháp lý
Các yếu tố Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng
Chung PNDTTS Chung PNDTTS Chung PNDTTS
Các thông tin, hướng dẫn không
quá khác so với tục lệ
19 16.7 59 56.0 22 27.2
Có cán bộ là nữ 25 22.1 48 45.0 27 32.9
Chỉ phải trả một khoản phí hợp
lý, không quá cao
18 15.6 54 51.8 28 32.7
Cán bộ là người cùng dân tộc,
biết nói tiếng dân tộc
11 9.4 53 50.4 36 40.2
Đi lại thuận tiện, không mất quá
nhiều thời gian
9 7.8 52 49.8 39 42.4
Các dịch vụ miễn phí, không
phải trả tiền
6 4.3 48 43.8 46 51.9
Cán bộ ở đó thân thiện, tôn trọng 6 4.7 47 45.3 47 50.0
Không mất nhiều thời gian 9 7.8 38 38.4 53 53.9
Không phải đi lại nhiều lần 7 4.7 37 38.4 56 57.0
Có cán bộ đến tận nơi 4 3.1 39 38.8 57 58.1
Nguồn: Phỏng vấn bảng hỏi
49
PHẦN 4: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƢỚC VỀ TĂNG CƢỜNG TIẾP CẬN
DỊCH VỤ PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ
A. CÁC KINH NGHIỆM TĂNG CUNG
a. Tăng cường điều phối các dịch vụ pháp lý – kinh nghiệm của Australia85
:
Australia có hơn 60 tổ chức trợ giúp pháp lý bản địa, bao gồm: Tổ chức dịch vụ pháp
lý cho thổ dân và người sống ở đảo Torres (ATSILS), tổ chức chống bạo lực gia đình, tư vấn
pháp luật cho phụ nữ thổ dân. ATSILS được hình thành từ sự kết hợp giữa các Hiệp hội bảo
vệ thổ dân với các Ủy ban quản lý người bản xứ và thực hiện trợ giúp pháp lý ở những khu
vực nhất định. Nhiều tổ chức đặt tại vùng sâu, vùng xa. Các tổ chức này có từ 3 đến hơn 100
nhân viên bao gồm cả luật sư tư vấn và cán bộ văn phòng. Hầu hết các vụ việc do ATSILS
chịu trách nhiệm thuộc lĩnh vực hình sự. Một số tổ chức trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực gia
đình và dân sự. Một số cung cấp dịch vụ đặc biệt như tư vấn sức khỏe tinh thần, tư vấn về tài
chính, tư vấn cho tù nhân hoặc chương trình ngăn ngừa tự sát. ATSILS kết hợp với các văn
phòng luật sư về lĩnh vực gia đình và dân sự thực hiện tư vấn, chuyển vụ việc trong những
lĩnh vực này. Đa số ATSILS thực hiện vận động thay đổi chính sách về một số vấn đề liên
quan đến khách hàng của họ trực tiếp hoặc thông qua hiệp hội quốc gia. Hiệp hội quốc gia thổ
dân có Ban Thư ký để hỗ trợ về mặt pháp lý và chính sách cho ATSILS. Sự giúp đỡ do
ATSILS thực hiện phụ thuộc vào việc kiểm tra điều kiện kinh tế. Tuy nhiên, phần lớn các đối
tượng đều được hưởng các hình thức trợ giúp của Chính phủ. ATSILS chủ yếu cung cấp dịch
vụ tư vấn trực tiếp cho khách hàng. Các tổ chức khác có dịch vụ tư vấn qua điện thoại cho vụ
việc hình sự. ATSILS chủ yếu được Chính phủ liên bang cấp kinh phí thông qua Văn phòng
tổng chưởng lý. Các dịch vụ trợ giúp pháp lý đều miễn phí, kể cả những trường hợp có sự
tham gia của luật sư tư hoặc công ty luật.
b. Sử dụng các thiết chế phi chính thức sẵn có và quen thuộc ở địa phương
Các thiết chế phi chính thức là các thiết chế không thuộc nhà nước, có thể bao gồm hệ
thống công lý truyền thống đã tồn tại từ lâu đời (ví dụ như các hình thức phân xử truyền thống
với sự tham gia của những người có uy tín hay chức sắc ở cộng đồng hoặc sử dụng các luật
tục…) hay các hệ thống do các tổ chức phi chính phủ thực hiện. Các hệ thống phi chính thức
này thường có những đặc điểm chung sau:
– Dựa trên sự tự giác, tự nguyện và các áp lực xã hội để các bên tranh chấp tuân thủ theo
phán quyết;
– Quy trình mang tính phi chính thức và có sự tham gia;
– Dựa trên nguyên tắc răn đe và giáo dục hơn là trừng phạt;
– Việc ra quyết định dựa trên nhượng bộ hơn là áp dụng các quy định của luật pháp;
– Các bên tranh chấp tham gia và đóng vai trò trung tâm trong quá trình ra quyết định.
Các thiết chế phi chính thức này thường quen thuộc và dễ dàng được chấp nhận ở các
cộng đồng hơn so với hệ thống pháp lý chính thức, tuy nhiên không phải lúc nào các hệ thống
này cũng bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Lý do chính là do những người có uy tín trong địa
phương điều hành các thiết chế này thường là nam giới. Hơn nữa, các thiết chế này có thể bị
ảnh hưởng nhiều bởi các quan niệm coi trọng nam giới hơn nên không phải lúc nào người phụ
nữ cũng được bảo vệ. Một số sáng kiến sau đã được thực hiện nhằm giúp cho các thiết chế
này nhạy cảm giới hơn.
85
Tham khảo trên mạng của Cục trợ giúp pháp lý www.nlaa.gov.vn
50
Nâng cao năng lực cho các thiết chế có sẵn tại địa phương - Kinh nghiệm của Indonesia86
Dự án làm sống lại Trợ giúp pháp lý (Revitalization of Legal Aid - RLA) là một dự án
thí điểm do Chương trình Công lý cho người nghèo Indonesia (Justice for the Poor Indonesia)
thực hiện từ năm 2005 tại các tỉnh Lampung, Tây Java và and Tây Nusa Tenggara. Dự án có
mục tiêu là cải thiện tiếp cận đến công lý của các cộng đồng nghèo, trong đó có cộng đồng
người DTTS tại các tỉnh trên thông qua:
– Nâng cao kỹ năng luật pháp và vận động chính sách của những người làm trợ giúp
pháp lý
– Nâng cao năng lực của các điểm trợ giúp pháp lý (posko) hiện có về giáo dục pháp
luật và cung cấp dịch vụ hòa giải thông qua các hòa giải viên ở cấp làng
– Đưa ra các khuyến nghị về thay đổi chính sách trợ giúp pháp lý cả ở mức độ quốc gia
lẫn địa phương.
Một trong các nguyên tắc của dự án là xây dựng năng lực cho các thể chế đã có sẵn tại
cộng đồng nhằm đảm bảo cho người dân tại cộng đồng, đặc biệt các nhóm thường bị gạt ra
ngoài lề như người DTTS và phụ nữ có thể tiếp cận được. Posko (hay các điểm trợ giúp pháp
lý) là các thể chế đã hiện hành trong xã hội Indonesia từ lâu và được người dân sử dụng. Tuy
nhiên, không phải lúc nào posko cũng đại diện cho quyền lợi của các nhóm bị gạt ra ngoài lề,
nhất là các nhóm phụ nữ. Thành viên của các posko thường là những người tình nguyện, là
người có uy tín trong cộng đồng và thường được người dân hỏi ý kiến khi có các vấn đề
vướng mắc. Họ cũng là những người có quyền lực và đôi khi thực thi trách nhiệm giám sát
hoạt động của chính quyền địa phương. Dự án tập trung vào nâng cao năng lực về luật pháp
và kỹ năng giải quyết các tranh chấp xung đột cho những posko có nguồn gốc từ cộng đồng là
một cách làm hiệu quả đảm bảo dịch vụ được cung cấp bởi chính những người có cùng ngôn
ngữ và văn hóa với các cộng đồng DTTS. Dự án cũng chú trọng đến việc huy động và nâng
cao năng lực cho phụ nữ địa phương tham gia nhiều hơn trong các posko. Việc có đại diện của
các nhóm DTTS, của phụ nữ trong thành phần posko đã góp phần làm tăng việc sử dụng các
posko này trong các giải quyết các tranh chấp. Các posko ở các vùng có đông người DTTS và
phụ nữ được đào tạo nhiều về các vấn đề pháp lý mà phụ nữ hay người DTTS ở địa phương
hay gặp phải cũng như các phương pháp để giao tiếp và cung cấp dịch vụ hiệu quả nhất cho
các nhóm đặc thù này. Dự án chú trọng nhiều đến việc giới thiệu dịch vụ của các posko này
tới cộng đồng để cộng đồng biết nhiều hơn và tăng khả năng lựa chọn sử dụng posko khi có
nhu cầu, thông qua việc giới thiệu hoạt động của các posko trong các dịp tụ tập chính thức hay
không chính thức trong cộng đồng, cho lãnh đạo chính quyền địa phương. Việc giáo dục pháp
luật cho người dân cũng chú trọng đến việc đưa ra các vụ việc cụ thể, gần gũi với người dân
để người dân có thể hiểu khi nào thì nên cần sự trợ giúp của các posko.
Huy động sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ trong các thiết chế phi chính thức - kinh nghiệm
ở Bangladesh và Philippines87
Ở Bangladesh, shalish là một hình thức giải quyết xung đột truyền thống, dựa vào
cộng đồng và khá phổ biến. Theo truyền thống, shalish thường được thực hiện bởi những
người lãnh đạo cộng đồng và có uy tín. Trong xã hội truyền thống ở Bangladesh, shalish thậm
chí còn được sử dụng để thực thi các phán quyết đã được đưa ra cho một vụ việc. Shalish
thường được sử dụng để giải quyết nhiều vấn đề dân sự, thậm chí cả các vụ việc mang tính
hình sự. Các vụ việc phổ biến thường có liên quan đến các vấn đề về giới, gia đình, bạo lực
với phụ nữ, thừa kế, hồi môn hay việc nhiều vợ hoặc chăm nuôi con cái. Tuy nhiên, do
shalish được thực hiện bởi một nhóm người nên không phải lúc nào họ cũng bảo vệ quyền lợi
của các nhóm thiệt thòi, đặc biệt là phụ nữ. Có những báo cáo đã ghi nhận chuyện những
86
Indonesia’s Revitalization of Legal Aid (RLA) Program: Strengthening Legal Services for the Poor, by
Matthew Zurstrassen, Justice for the Poor – Indonesia 87
Non-state Justice Systems in Bangladesh and the Philippines, Stephen Golub, Boalt Hall School of Law,
University of California at Berkeley, January 2003
51
người trong shalish nhận tiền hối lộ để gây ảnh hưởng lên kết quả phán quyết của shalish
hoặc chính các thành viên của shalish đã vi phạm quyền con người nghiêm trọng của một số
phụ nữ khi áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với họ do họ vi phạm các chuẩn mực xã hội.
Trong hoàn cảnh đó, một số tổ chức phi chính phủ tại Bangladesh đã có những hành động
nhằm thay đổi các quan niệm thiên lệch về giới, tầng lớp giai cấp cũng như dân tộc trong các
hoạt động của shalish. Dưới sự hỗ trợ của Quỹ Châu Á, tổ chức Madaripur Legal Aid
Association (MLAA) đã tiến hành một loạt các hoạt động bao gồm: lựa chọn và đào tạo các
thành viên shalish, chú trọng đến các thành viên nữ hoặc các nhóm bị gạt ra ngoài lề, hỗ trợ
các hoạt động của shalish, hướng dẫn về việc ghi chép và lưu trữ hồ sơ về các vụ việc, hướng
dẫn và hỗ trợ phụ nữ địa phương tham gia trong shalish hay phát biểu trong các buổi phán xử
của shalish. MLAA còn hỗ trợ phụ nữ tham gia quá trình tố tụng nếu như họ cảm thấy không
tin tưởng vào shalish. MLAA còn phối hợp với các tổ chức phát triển cộng đồng khác trong
địa phương nhằm cung cấp những hỗ trợ toàn diện cho phụ nữ, từ phát triển kinh tế, xóa mù
đến thành lập tổ nhóm phụ nữ nhằm trao quyền cho phụ nữ, và vì thế sẽ sử dụng hiệu quả các
dịch vụ của shalish trong việc bảo vệ quyền của họ.
Tại Philippines Katurangang Pambarangay là một hệ thống chính thức dựa trên các
cơ chế giải quyết xung đột truyền thống. Katurangang Pambarangay được chính thức thành
lập năm 1978 dựa trên một sắc lệnh của Tổng thống và hiện nay có trên 42,000 Katurangang
Pambarangay hoạt động ở cấp cơ sở trên toàn quốc. Hệ thống này được coi là có nhiều ưu thế
hơn hệ thống công lý chính thức ở Philippines do một số lý do như sau:
- Dựa trên truyền thống của người dân, sử dụng người địa phương để tiến hành giải
quyết mâu thuẫn
- Rẻ tiền hơn hệ thống chính thức
- Thời gian giải quyết nhanh hơn
Để tăng cường sự tự tin và tin tưởng của người dân vào các dịch vụ của Katurangang
Pambarangay, Quỹ Gerry Roxas cùng với một số tổ chức phi chính phủ ở Manila đã thiết lập
nên một hệ thống Barangay Justice Service System (BJSS) bao gồm những người có hiểu biết
và kiến thức pháp luật, và phần đông họ là phụ nữ sẽ tham gia hỗ trợ cho phụ nữ, đặc biệt là
phụ nữ DTTS khi họ tham gia các hoạt động của Katurangang Pambarangay. Những người
này còn đóng vai trò là những người giám sát hoạt động của Katurangang Pambarangay xem
các thể chế này có phục vụ công bằng với phụ nữ hay các nhóm yếu thế khác hay không.
c. Tăng tính thân thiện của các dịch vụ pháp lý – Kinh nghiệm của Australia
Mô hình Các trung tâm luật pháp cộng đồng (Community Legel Centers) ở Australia
đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ pháp lý cho người dân và hiện có hơn
200 trung tâm như vậy ở các thành phố, các khu vực nông thôn cũng như các vùng hẻo lánh.
Các trung tâm này là các tổ chức phi lợi nhuận và là các tổ chức dựa vào cộng đồng, với trọng
tâm là hướng tới các cộng đồng thiệt thòi. Vì là các tổ chức dựa vào cộng đồng, các trung tâm
này đều có sự tham gia của đại diện cộng đồng và dễ dàng đáp ứng các nhu cầu pháp lý của
cộng đồng. Ngoài việc cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp luật cho cá nhân, các trung tâm còn
chú trọng tới cộng đồng thông quá các hình thức giáo dục pháp luật vận động chính sách để
thay đổi luật pháp theo hướng ngăn ngừa cũng như xây dựng tính đoàn kết trong cộng đồng.
Các trung tâm này đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng các nhu cầu pháp lý của
cộng đồng những người bản địa (bao gồm cả những thổ dân ở Úc và các đảo thuộc New
Zealand - Aboriginal and Torres Strait islander) ở đất nước này. Nhiều trung tâm đã có các
chương trình dành riêng cho các cộng đồng này. Phương thức làm việc với các cộng đồng
người thổ dân là chú trọng tới cộng tác và tham vấn cộng đồng, phương thức này đã chứng tỏ
có hiệu quả. Trong các trung tâm này tuyển dụng các nhân viên là người bản địa, trao đổi
thường xuyên với cộng đồng, học hỏi các kinh nghiệm giải quyết các vụ việc của cộng đồng.
52
Đối với phụ nữ thổ dân ở Úc, có khá nhiều trở ngại ngăn cản họ tiếp cận các dịch vụ
pháp lý ở cộng đồng. Những trở ngại đó bao gồm cả tâm lý chung là thiếu tin tưởng vào hệ
thống luật pháp của nhà nước, thiếu hiểu biết về các dịch vụ pháp lý, không tiếp cận đến điện
thoại, khó khăn về kinh tế, không có phương tiện giao thông cũng như các dịch vụ chăm sóc
và trông giữ trẻ em nên khó có thể sử dụng các dịch vụ qua điện thoại hay đến dự các buổi
hẹn gặp. Trung tâm luật pháp dành cho phụ nữ ở Canberra đã được thành lập để giải quyết các
khó khăn nêu trên. Trung tâm tổ chức các buổi tham vấn với những phụ nữ thổ dân địa
phương để tìm hiểu các vấn đề của họ về tiếp cận dịch vụ pháp lý, cùng với họ xây dựng các
chiến lược hoạt động. Các hoạt động của Trung tâm bao gồm các hình thức trợ giúp pháp lý
khác nhau như tư vấn qua điện thoại, hoặc trực tiếp và về các nội dung gần gũi với các vấn đề
của người dân. Trung tâm cũng tổ chức các diễn đàn trao đổi các vấn đề pháp lý của phụ nữ
tại cộng đồng cũng như có các hoạt động tiếp cận cộng đồng và tư vấn pháp luật ngay tại cộng
đồng. Với việc thành lập một Trung tâm dành riêng cho phụ nữ và có sự tham gia tích cực của
phụ nữ bản địa trong việc lập kế hoạch và thực hiện, lượng phụ nữ bản địa tiếp cận các dịch
vụ pháp lý tại trung tâm đã tăng lên đáng kể.
B. CÁC KINH NGHIỆM TĂNG CẦU
Nâng cao nhận thức pháp luật và quyền năng cho phụ nữ bản địa – Kinh nghiệm của
Australia
Trung tâm luật pháp cộng đồng thuộc bang Nam Australia làm việc với các cộng đồng
dân cư bản địa. Những nữ thanh niên bản địa thường bị cưỡng ép tình dục và họ không coi
đây là vấn đề pháp luật nghiêm trọng. Những nữ thanh niên này cũng thường là những người
ít khai báo về tình trạng bị cưỡng bức của mình vì họ không muốn gây khó khăn cho gia đình.
Ngay cả khi họ muốn khai báo, các khó khăn về thông tin liên lạc và giao thông cũng làm họ
khó có thể khai báo được. Trung tâm luật pháp cộng đồng thuộc bang Nam Australia đã tổ
chức một hội trại có tên là “Sống an toàn – trở nên mạnh mẽ” cho các cộng đồng bản địa ở địa
phương nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật cho những nữ thanh niên này cũng như tăng cường
kĩ năng cho họ. Hội trại kết hợp nhiều hình thức vừa vui vẻ giải trí vừa mang tính giáo dục và
kết nối giữa các cộng đồng khác nhau. Hội trại cũng chú trọng tới việc giáo dục pháp luật và
nâng cao kỹ năng cho những nữ thanh niên này để ngăn cản tình trạng lạm dụng tình dục.
Hình thức hội trại được đánh giá là phù hợp với văn hóa của các cộng đồng bản địa.
53
PHẦN 5: CÁC PHÁT HIỆN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Mặc dù dịch vụ pháp lý đang trên đường đổi mới và phát triển, đa dạng hóa ra nhiều
hình thức nhưng việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ này của phụ nữ DTTS còn hạn chế. Mặc
dù có nhiều nhu cầu về dịch vụ pháp lý, khi tình trạng thiếu tiếp cận đến các dịch vụ của phụ
nữ DTTS còn khá phổ biến, thiếu thông tin và kiến thức về các quyền lợi hợp pháp của mình
hoặc là nạn nhân của tình trạng bạo lực gia đình, nhưng ti ếp cận đến các dịch vụ pháp lý của
phụ nữ DTTS lại rất hạn chế và hạn chế hơn so với phụ nữ dân tộc đa số. Việc tiếp cận hạn
chế này thể hiện qua việc phụ nữ DTTS thiếu kiến thức và hiểu biết về các dịch vụ, họ hầu
như không sử dụng các dịch vụ này khi có nhu cầu thay vào đó là cam chịu và chấp nhận khi
các quyền hợp pháp của họ bị xâm phạm.
Về thực chất, các nhu cầu của phụ nữ DTTS và phụ nữ Kinh không khác nhau nhưng
khả năng tiếp cận đến dịch vụ của phụ nữ DTTS hạn chế hơn nhiều so với phụ nữ Kinh do sự
khác biệt về ngôn ngữ, hiểu biết về luật pháp và văn hóa. Tăng cường tiếp cận đến các dịch vụ
pháp lý cho phụ nữ DTTS đòi hỏi những hành động khác so với tăng cường tiếp cận dịch vụ
pháp lý cho các nhóm xã hội khác do điều kiện sinh sống cách xa của phụ nữ, khả năng giao
tiếp bằng ngôn ngữ phổ thông hạn chế cũng như có những khác biệt lớn về văn hóa về cách
thức quản lý xã hội cũng như công lý. Chính vì vậy, đưa dịch vụ xuống gần hơn tới người phụ
nữ DTTS và làm cho dịch vụ thân thiện hơn với họ là những chiến lược chủ yếu để tăng
cường tiếp cận dịch vụ pháp lý cho phụ nữ DTTS.
Các phát hiện sau đã được tìm thấy qua quá trình nghiên cứu
Phát hiện 1: Dịch vụ pháp lý đang trên đường đổi mới và mở rộng các hình thức phục
vụ dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm cả dịch vụ thu phí và miễn phí. Mặc dù vậy, các
dịch vụ pháp lý hiện có vẫn chưa thực sự phù hợp với người DTTS:
- Các dịch vụ vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở các thành phố và các vùng đô thị, do đó
không dễ dàng để phụ nữ DTTS có thể tiếp cận được về mặt địa lý
- Các dịch vụ hiện có mặc dù đang trên đà phát triển nhưng không phát triển đồng đều
giữa các vùng miền. Các vùng nông thôn và miền núi vẫn còn thiếu dịch vụ, chủ yếu
là do thiếu nhân sự có chuyên môn và điều kiện cơ sở vật chất.
- Các dịch vụ pháp lý cung cấp cho người DTTS nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng
hiện vẫn còn chưa thực sự thân thiện với họ, thể hiện qua việc thiếu các cán bộ có thể
hiểu được văn hóa của người DTTS cũng như có khả năng giao tiếp bằng tiếng dân
tộc, các hình thức thực hiện chưa thực sự hiệu quả với người DTTS.
- Chi phí cho dịch vụ pháp lý vẫn là quá cao so với khả năng chi trả của số đông phụ nữ
DTTS, trong khi đó trợ giúp pháp lý miễn phí lại thu hẹp đối tượng hưởng lợi xuống
chỉ còn những người DTTS đang sinh sống ở những vùng có điều kiện đặc biệt khó
khăn. Việc qui định phạm vi điều chỉnh chung trong các chính sách như: vùng đồng
bào DTTS, vùng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn……sẽ có khả năng thu hẹp các
nhóm hưởng lợi vì người DTTS cũng sống ở những vùng không có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn. Vì vậy, khi những vùng này không còn nằm trong danh sách nhận được sự
hỗ trợ của nhà nước thì đương nhiên người DTTS sống ở vùng này không nằm trong
danh sách nhận được sự trợ giúp pháp lý miễn phí
Khuyến nghị 1: Cải thiện các dịch vụ pháp lý cho phù hợp hơn với phụ nữ DTTS ở
các khía cạnh sau:
- Khuyến nghị 1a: Mở rộng mạng lưới dịch vụ xuống cơ sở, tăng cường tiếp cận người
dân. Các trung tâm trợ giúp pháp lý hoặc các tổ chức quần chúng hay các tổ chức phi
chính phủ đang thực hiện trợ giúp pháp lý nên tiến hành nhiều hơn nữa các hoạt động
54
trợ giúp pháp lý lưu động, những hình thức dịch vụ pháp lý cho người DTTS, đặc biệt
là phụ nữ DTTS nên được đa dạng hoá, mà không nên chỉ là tư vấn pháp luật và tuyên
truyền về luật pháp. Một số các dịch vụ pháp lý thông dụng như hướng dẫn và làm thủ
tục đăng kí khai sinh, kết hôn hoặc hướng dẫn làm thủ tục li hôn hay cấp lại sổ đỏ nên
được xem xét giao cho cấp cộng đồng thực hiện, tránh cho người dân phải đi xa lên xã
hay lên huyện – một điều không dễ dàng với phụ nữ DTTS. Các tổ chức này cũng nên
phối hợp với các chương trình khác để lồng ghép cung cấp dịch vụ pháp lý cùng với
các dịch vụ cần thiết khác trong những trường hợp cần thiết.
- Khuyến nghị 1b: Các trung tâm trợ giúp pháp lý, các tổ chức nghiên cứu, các tổ chức
phi chính phủ và những người cung cấp dịch vụ pháp lý tiến hành các nghiên cứu chi
tiết, dựa trên phương pháp nhân học về nhu cầu, thái độ và thói quen của phụ nữ
DTTS về các dịch vụ pháp lý, làm cơ sở để xây dựng các hoạt động tuyên truyền, giáo
dục, phổ biến pháp luật, các câu lạc bộ hay tổ hòa giải để các hoạt động này phù hợp
hơn với người dân về ngôn ngữ và văn hóa.
- Khuyến nghị 1c: Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan nên nghiên cứu và xem xét đề
xuất với Chính phủ bố trí hoặc qui định qui chế hỗ trợ kinh phí khác nhau từ hoàn toàn
đến một phần vì cho dù 72% số người được hỏi cho rằng chi phí hợp lý là yếu tố rất
quan trọng hoặc quan trọng nhưng tỷ lệ người dân đòi hỏi dịch vụ phải miễn phí
không cao bằng tỷ lệ sẵn sàng trả mức giá hợp lý. Trên thực tế hiện nay, chỉ một số
nhóm DTTS sống ở các vùng đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách trợ giúp pháp
lý hoàn toàn miễn phí trong khi nhu cầu về dịch vụ pháp lý có nhiều và không phải tất
cả người DTTS đều cần dịch vụ hoàn toàn miễn phí.
- Khuyến nghị 1d: Cần sử dụng quyết định số 84/2008/QD về việc thành lập Quỹ trợ
giúp pháp lý theo hướng mở rộng đối tượng đối tượng vì phạm vi hỗ trợ kinh phí của
Quỹ trợ giúp pháp lý là những trung tâm, chi nhánh trợ giúp pháp lý.v.v…thuộc nhà
nước trong khi đó có các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực này một cách
có hiệu quả thì lại không được hỗ trợ và khuyến khích tham gia. Các tổ chức phi chính
phủ hiện tham gia tích cực trong các chương trình xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ phát
triển xã hội cho các cộng đồng DTTS và thường tiến hành các hoạt động trực tiếp với
cộng đồng. Sẽ rất thuận lợi nếu các tổ chức này mở rộng thêm phạm vi hoạt động sang
cả các dịch vụ pháp lý. Bộ Tư pháp, Quỹ Trợ giúp pháp lý nên xem xét mở rộng việc
hỗ trợ kinh phí cho cả các tổ chức phi chính phủ nếu họ tham gia trong việc cung cấp
trợ giúp pháp lý cho người DTTS.
Phát hiện 2: Một số hình thức dịch vụ pháp lý phù hợp hơn với người DTTS đang
được thực hiện, ví dụ như sử dụng luật tục để hướng dẫn và thực thi pháp luật liên quan đến
bảo vệ rừng hoặc hình thức hòa giải cơ sở với những người thân thiết trong cộng đồng giải
quyết các mâu thuẫn trong cộng đồng. Những hình thức này đặc biệt có ý nghĩa với người
DTTS nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng vì vừa gần gũi, dễ tiếp cận với phụ nữ DTTS hơn
nữa phát huy được các giá trị văn hóa vốn có của các cộng đồng DTTS. Tuy nhiên, để có thể
sử dụng có hiệu quả các hình thức này thì cần thiết phải có đầy đủ các thông tin và kiến thức
cần thiết về những xung đột hay mâu thuẫn và những điểm bổ xung cho luật pháp của luật tục.
Những người có uy tín trong cộng đồng sử dụng thể chế truyền thống này cũng cần phải có
kiến thức và hiểu biết về BĐG và BLGĐ.
Khuyến nghị 2: Khuyến khích sử dụng luật tục (có thể tạm gọi là các hình thức
dịch vụ pháp lý phi chính thức trong nghiên cứu này)
- Khuyến nghị 2a: Bộ Tư pháp nên phối hợp với Bộ LĐTBXH tiến hành hoặc hỗ trợ các
cơ quan nghiên cứu tiến hành các nghiên cứu về luật tục, những điểm tương đồng và
mâu thuẫn giữa luật tục của các cộng đồng DTTS và khả năng vận dụng luật tục trong
việc thực thi chính sách và pháp luật về BĐG và PCBLGĐ.
55
- Khuyến nghị 2b: Các cơ quan như Hội Phụ nữ, ngành LĐTBXH và ngành Tư pháp
nên phối hợp để thực hiện các hoạt động nâng cao nhận thức về giới, bình đẳng giới,
Luật BĐG và Luật PCBLGĐ cho đội ngũ hòa giải viên cơ sở, các kĩ năng giải
quyết/hòa giải các tình huống cụ thể thường gặp ở mỗi địa phương liên quan đến BĐG
và PCBLGĐ.
- Khuyến nghị 2c: Các cơ sở cung cấp dịch vụ pháp lý và trợ giúp pháp lý có thể huy
động sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ DTTS, vì các kết quả nghiên cứu thực địa đã
chỉ ra đây là 2 yếu tố được phụ nữ DTTS cho là quan trọng. Tùy thuộc vào hoàn cảnh,
những phụ nữ DTTS có thể trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ nếu họ có đủ các điều
kiện hoặc tham gia hỗ trợ trong việc phiên dịch hay hướng dẫn những phụ nữ DTTS
khác. Việc có mặt của phụ nữ DTTS tại các cơ sở cung cấp dịch vụ sẽ có thể làm tăng
sự thân thiện của cơ sở đối với phụ nữ DTTS khi họ đến với dịch vụ. Có thể sử dụng
các cán bộ phụ nữ hoặc những người khác đã sẵn có uy tín trong cộng đồng phụ nữ
DTTS. Việc cần làm là đào tạo thêm kiến thức pháp luật cho những người này. Quyết
định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ
trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào
dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 – 2020 có quy định rõ một loạt
các hoạt động trợ giúp pháp lý thực hiện cho vùng DTTS cũng như các hoạt động
nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác trợ giúp pháp lý ở các khu vực này, bao
gồm cả việc dạy tiếng dân tộc cho cán bộ thực hiện trợ giúp pháp lý ở các huyện
nghèo và đào tạo trung cấp luật cho người DTTS thuộc diện quy hoạch thành cán bộ
tư pháp và hộ tịch xã. Ngành tư pháp cần xây dựng các chỉ tiêu cụ thể cho số cán bộ
nữ sẽ được tham gia hưởng lợi từ chính sách này.
Phát hiện 3: Có nhiều rào cản từ chính phụ nữ DTTS đang hạn chế khả năng tiếp
cận của họ tới các dịch vụ pháp lý, như nghèo đói, nhận thức pháp luật còn hạn chế, tâm lý
cam chịu và chấp nhận, hạn chế trong giao tiếp bằng ngôn ngữ phổ thông. Tăng cường tiếp
cận dịch vụ pháp lý cho phụ nữ DTTS cũng đồng thời với việc xóa bỏ các rào cản này cho
phụ nữ DTTS.
- Khuyến nghị 3a: Hội Phụ nữ hoặc các tổ chức phi chính phủ có thể xây dựng các mô
hình điểm cung cấp dịch vụ pháp lý cho phụ nữ DTTS bao gồm các hoạt động nâng
cao kiến thức, hiểu biết về luật, tư vấn luật và hỗ trợ trao quyền cho phụ nữ để họ có
thể tự tin đi tìm và sử dụng dịch vụ pháp lý. Một số mô hình câu lạc bộ pháp luật của
Hội LHPN các địa phương hay của một số tổ chức phi chính phủ đã thành công trong
việc vừa nâng cao nhận thức và kĩ năng cho người dân
- Khuyến nghị 3b: Công tác tuyên truyền và phổ biến kiến thức pháp luật cần được thực
hiện có hiệu quả hơn, phù hợp và “nhạy cảm văn hóa” hơn với phụ nữ DTTS. Ngành
Tư pháp, Hội Phụ nữ và các ban ngành có liên quan tăng cường việc tuyên truyền phổ
biến kiến thức pháp luật xuống người dân, đặc biệt là phụ nữ DTTS. Rõ ràng, các hình
thức hiện nay như xe tuyên truyền hay loa phát thanh hay tờ rơi không phải là các hình
thức phù hợp với phụ nữ DTTS do hạn chế về thời gian, ngôn ngữ hay khả năng đọc
hiểu của họ.
Phát hiện 4: Trợ giúp pháp lý – một hình thức dịch vụ pháp lý miễn phí cung cấp cho
người DTTS đã chứng tỏ phù hợp hơn so với các hình thức dịch vụ khác vì khả năng bao phủ
lớn hơn ở tất cả các tỉnh, mạng lưới rộng hơn xuống cấp huyện và xuống các cộng đồng thông
qua mô hình lưu động. Tuy nhiên, hiểu biết của người dân về trợ giúp pháp lý vẫn còn hạn
chế
Khuyến nghị 4: Tăng cường hiểu biết của người dân về trợ giúp pháp lý và các quy
trình trợ giúp pháp lý
56
- Khuyến nghị 4: Ngành tư pháp, các trung tâm trợ giúp pháp lý, các chương trình có
liên quan tuyên truyền và lồng ghép việc tuyên truyền về trợ giúp pháp lý như một hỗ
trợ cho người DTTS nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng
57
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm
2009.
2. Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), “Access to justice in Viet Nam”, 2004.
3. Hoàng, Bá Thịnh. Lê Thái Thị Băng Tâm. 2007. Báo Cáo Phân Tích Giới: Nghiên cứu
định tính tại hai xã Xuân Lạc và Bản Thi Huyện Chợ Đồn – Bắc Cạn. Hợp phần nâng cao
năng lực cộng đồng trong quản lý rừng. Chương Trình CASI
4. Hoàng Xuân Thành và cộng sự 2010. Theo doi nghèo phương pháp cùng tham gia tạii
một số cộng đồng cư dân nông thôn Việt Nam. Báo cáo Tổng hợp vòng 3 năm 2009.
5. Hoàng Xuân Thành và cộng sự 2009. Theo doi nghèo phương pháp cùng tham gia tạii
một số cộng đồng cư dân nông thôn Việt Nam. Báo cáo Tổng hợp vòng 2 năm 2008/2009
6. Lê Thị Lý. (NĂM). Vai trò giới trong giao đất giao rừng và quản lý, sử dụng để phát
triển bền vững nguồn tài nguyên rừng: nghiên cứu tại thôn 6, xã Đăk R’tih, huyện Đăk
R’lâp, tỉnh Đăk Lak.
7. Mai Thanh Sơn và cộng sự, Nhóm công tác Dân tộc thiểu số, Bước đầu tổng kết các
phương pháp phát triển và tìm kiếm các cơ chế nhằm nâng cao tiếng nói của cộng đồng
dân tộc thiểu số trong quá trình ra quyết định, 2007.
8. Mai Thanh Sơn, Nguyễn Trung Dũng, Hoàng Hà, Triển vọng tăng cường sự tham gia của
người dân vào các chương trình và chính sách phát triển: Nghiên cứu hai thôn Ma Lâm
và Ma Ty, Huyện Bác Ái, Tỉnh Ninh Thuận. OGB. 2007
9. Năm 2009: Hệ thống trợ giúp pháp lý cả nước tiếp tục được củng cố, kiện toàn,
http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30089&cn_id=38013
2#KbXsWKTdmmHf, tải về ngày 5/8/2010.
10. Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Đánh giá tình hình giới ở Việt Nam, 12/2006.
11. Ngân hàng thế giới, Báo cáo Phát triển 2010 – Các thể chế, 2010.
12. Ngân hàng thế giới, Phân tích xã hội quốc gia – Dân tộc và phát triển ở Việt Nam, 2009.
13. Ngô Đức Thịnh- Cầm Trọng, Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, 1999.
14. Ngô Đức Thịnh, Luật tục Ê- đê, Nxb Văn hoá dân tộc, 2001.
15. Ngọc Khanh, Trợ giúp pháp lý chưa thực sự hiệu quả, đăng trên
http://ww.nguoidaibieu.com.vn/trangchu/vn/tabid/66/catID/7/contentID/98357/Default.as
px, tải ngày 5/8/2010.
16. Nguyễn Chí Dũng, Luật tục với thi hành pháp luật, Bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp số 52, tháng 5/2005 tải về từ
http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/luat-tuc-voi-thi-hanh-phap-luat-1/#ref1
ngày 5/8/2010.
17. Nguyễn Chí Dũng, Luật tục với thi hành pháp luật, Bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp số 52, tháng 5/2005 tải về từ
http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/luat-tuc-voi-thi-hanh-phap-luat-1/#ref1.
ngày 5/8/2010.
18. Nguyễn Khắc Hải, Trích kiến nghị về việc “Tăng cường sự tiếp cận công lý của các nhóm
dễ bị tổn thương thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý của Hội Luật gia Việt Nam” gửi
ASAS.
19. Nguyen Van Phu, “What education for the ethnic minorities of Vietnam: Pre-shooling as
a partern of social integration”, Aide et Action.
20. Novib và Cục trợ giúp pháp lý, Report on the evaluation of the gender component of the
second phase of the pilot legal aid programme), 11- 2003.
21. Nguyễn Hồng Hải, Một số vấn đề về áp dụng phong tục, tập quán trong giải quyết các
tranh chấp về Hôn nhân và Gia đình, Nguồn http://luatviet.net/Home/nghien-cuu-trao-
doi/hon-nhan-gia dinh/2009/7697/Mot-so-van-de-ve-ap-dung-phong-tuc-tap-quan-
trong.aspx, Tải về 18/6/2010 11:26:46am.
58
22. Tổ chức Nghiên cứu Chanel Bỉ và Cục Trợ giúp pháp lý, Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý,
Tháng 12- 2006.
23. Tổng cục Thống kê 2008, Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình.
24. TS Nguyễn Thị Việt Hương, Giá trị của Luật tục từ góc nhìn pháp lý, Kỉ yếu Hội thảo
Việt Nam học lần thứ 3, Việt Nam – Hội nhập và phát triển, 2008.
25. UNDP, Khảo sát quan điểm của người dân về tiếp cận công lý ở Việt Nam, 2004.
26. Ủy ban dân tộc, UNDP, Báo cáo phân tích điều tra cơ bản chương trình 135-II, tháng 12,
2008.
27. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Giảm nghèo ở Việt Nam: Những khoảng
cách phía sau những thành tựu ấn tượng, 2006.
59
Phụ lục 1: Bảng hỏi
Bảng hỏi ngƣời dân
Thưa ông (Bà),
Bộ Lao động Thương Bình và Xã hội, Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc phối hợp với
Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường đang tiến hành một nghiên cứu tìm hiểu việc
sử dụng dịch vụ pháp lý của phụ nữ và nam giới địa phương. Nghiên cứu này có mục tiêu là:
Tìm hiểu nhu cầu về dịch vụ pháp lý của phụ nữ và nam giới địa phương; Tìm hiểu về tình
hình sử dụng dịch vụ pháp lý; và hiểu biết của ông (bà) về các dịch vụ pháp lý tại địa phương.
Để giúp ông (bà) trả lời dễ dàng hơn, tôi xin đưa ra một số ví dụ về dịch vụ pháp lý. Khi ông
(bà) có các vướng mắc về pháp luật, ông bà có thể đến dịch vụ đó để xin tư vấn làm thế nào
để đảm bảo quyền lợi của mình. Hoặc khi ông (bà) phải làm các thủ tục hành chính, ông (bà)
có thể đến đó để nhờ hướng dẫn. Hoặc khi ông (bà) có vấn đề liên quan đến tòa án, dịch vụ đó
có thể có người đi cùng và giúp đỡ ông bà tại tòa.
Chúng tôi có một số câu hỏi muốn hỏi ông (bà). Mọi thông tin của ông bà cung cấp sẽ hoàn
toàn được giữ bí mật. Tên của ông (bà) không được viết vào phiếu hỏi này. Ông (bà) có thể từ
chối trả lời bất cứ câu hỏi nào mà ông bà không muốn. Ông (bà) có thể dừng cuộc phỏng vấn
bất cứ lúc nào. Cuộc phỏng vấn sẽ kéo dài khoảng 20 phút.
Ông(bà) có đồng ý tham gia nghiên cứu này không?
1. Đồng ý tham gia nghiên cứu
2. Không đồng ý tham gia nghiên cứu
Bảng hỏi được thực hiện:
Trực tiếp giữa người phỏng vấn và người trả lời
Thông qua phiên dịch
Họ và tên người phỏng vấn:………………………………………………………………
Thôn:…………………………………………………Xã:…………………………………
Huyện: ………………………………………………Tỉnh:………………………………
Họ và tên người kiểm:……………………………………………………………
60
Phần 1: Nhu cầu về dịch vụ pháp lý
Trong phần này, tôi sẽ hỏi ông/bà một số câu hỏi liên quan đến một số tình huống trong cuộc
sống. Các tình huống này có thể làm nảy sinh các vấn đề pháp lý.
Q1. Khi có cháu bé mới sinh (sinh con) gia đình ông/bà có đến Ủy ban xã hoặc chính
quyền để đăng kí khai sinh cho cháu không?
1. Có 2. Không
Nếu có, tiếp câu Q2, nếu không chuyển sang câu Q3
Q2. Tại sao ông/bà biết thông tin để làm các thủ tục trong tình huống này? Ông/bà có
thể chọn nhiều câu trả lời.
1. Đọc/nghe được thông tin trên đài, báo và vô tuyến
2. Do hàng xóm hoặc người nhà nói cho
3. Đọc được trong các tài liệu tuyên truyền và phổ biến pháp luật ở xã
4. Được cán bộ địa phương nhắc nhở
5. Khác (ghi rõ tại sao biết) …………………………………………………
Q3. Tại sao ông/bà không đến làm các thủ tục tại chính quyền trong tình huống này?
Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời.
1. Không biết là phải làm các thủ tục gì
2. Không biết phải đi đến đâu để làm các thủ tục
3. Ngại đến chỗ chính quyền
4. Mất thời gian
5. Đi lại xa xôi
6. Tốn kém tiền
7. Không biết tiếng Kinh
8. Chỉ cần khai báo với già làng
9. Chẳng thấy ích lợi gì từ việc làm những thủ tục như vậy
10. Nguyên nhân khác………………………………………………..
Q4. Khi mua bán đất đai, gia đình ông/bà có đến Ủy ban xã hoặc chính quyền để làm
các thủ tục không?
1. Có 2. Không
Nếu có, tiếp câu Q5, nếu không chuyển sang câu Q6
Q5. Tại sao ông/bà biết thông tin để làm các thủ tục trong tình huống này? Ông/bà có
thể chọn nhiều câu trả lời.
1. Đọc/nghe được thông tin trên đài, báo và vô tuyến
2. Do hàng xóm hoặc người nhà nói cho
3. Đọc được trong các tài liệu tuyên truyền và phổ biến pháp luật ở xã
4. Được cán bộ địa phương nhắc nhở
5. Khác (ghi rõ tại sao biết) …………………………………………………
Q6. Tại sao ông/bà không đến làm các thủ tục tại chính quyền trong tình huống này?
Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời.
1. Không biết là phải làm các thủ tục gì
2. Không biết phải đi đến đâu để làm các thủ tục
3. Ngại đến chỗ chính quyền
61
4. Mất thời gian
5. Đi lại xa xôi
6. Tốn kém tiền
7. Không biết tiếng Kinh
8. Chỉ cần khai báo với già làng
9. Chẳng thấy ích lợi gì từ việc làm những thủ tục như vậy
10. Nguyên nhân khác………………………………………………..
Q7. Khi lấy vợ lấy chồng, ông/bà có đến Ủy ban xã hoặc chính quyền đăng kí kết hôn
không?
1. Có 2. Không
Nếu có, tiếp câu Q8, nếu không chuyển sang câu Q9
Q8. Tại sao ông/bà biết thông tin để làm các thủ tục trong tình huống này? Ông/bà có
thể chọn nhiều câu trả lời.
1. Đọc/nghe được thông tin trên đài, báo và vô tuyến
2. Do hàng xóm hoặc người nhà nói cho
3. Đọc được trong các tài liệu tuyên truyền và phổ biến pháp luật ở xã
4. Được cán bộ địa phương nhắc nhở
5. Khác (ghi rõ tại sao biết) …………………………………………………
Q9. Tại sao ông/bà không đến làm các thủ tục tại chính quyền trong tình huống này?
Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời.
1. Không biết là phải làm các thủ tục gì
2. Không biết phải đi đến đâu để làm các thủ tục
3. Ngại đến chỗ chính quyền
4. Mất thời gian
5. Đi lại xa xôi
6. Tốn kém tiền
7. Không biết tiếng Kinh
8. Chỉ cần khai báo với già làng
9. Chẳng thấy ích lợi gì từ việc làm những thủ tục như vậy
10. Nguyên nhân khác………………………………………………..
Sau đây tôi sẽ nêu ra một số hoàn cảnh mà ông/bà có thể gặp phải trong cuộc sống. Những
vấn đề nào ông/bà gặp phải khoảng thời gian 12 tháng vừa qua. Nếu ông/bà có gặp những
hoàn cảnh đó, hãy cho chúng tôi biết mức độ bức xúc của anh chị là như thế nào: Rất bức xúc,
bức xúc, hơi bức xúc, hay không bức xúc
Q10. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp phải vấn đề là không đƣợc bàn và quyết
định những vấn đề của thôn/bản không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q11, nếu không chuyển tiếp câu Q13
Q11. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
62
Q12. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
8. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q13. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp phải vấn đề là không đƣợc vay tiền từ
ngân hàng chính sách không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q14, nếu không chuyển tiếp câu Q16
Q14. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q15. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
8. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q16. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp phải vấn đề là bị đuổi việc hoặc chấm
dứt hợp đồng lao động không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q17, nếu không chuyển tiếp câu Q19
Q17. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q18. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
63
7. Chấp nhận, không làm gì cả
9. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q19. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp phải vấn đề là bị đánh đập, chửi bới
không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q20, nếu không chuyển tiếp câu Q22
Q20. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q21. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
10. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q22. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp phải tranh chấp đất đai, tài sản, thừa kế
trong gia đình không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q23, nếu không chuyển tiếp câu Q25
Q23. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q24. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
11. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q25. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp bị kiện cáo không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q26, nếu không chuyển tiếp câu Q28
Q26. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
64
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q27. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
8. Cách cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q28. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp phải tranh chấp đất đai với ngƣời ngoài
không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q29, nếu không chuyển tiếp câu Q31
Q29. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q30. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
12. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q31. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có bị ngƣời khác vay tiền nhƣng không trả
không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q32, nếu không chuyển tiếp câu Q34
Q32. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q33. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
65
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
8. Cách cách giải quyết khác
Q34. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp phải vấn đề là không đƣợc giao rừng
hoặc đất nông nghiệp không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q35, nếu không chuyển tiếp câu Q37
Q35. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q36. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
13. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q37. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp vấn đề là không đƣợc tham gia các lớp
học về khuyến nông, khuyến lâm không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q38, nếu không chuyển tiếp câu Q40
Q38. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q39. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
14. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
66
Q40. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp vấn đề là không đƣợc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q41, nếu không chuyển tiếp câu Q43
Q41. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q42. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
15. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q43. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp vấn đề là không đƣợc đền bù thoả đáng
khi đất đai (đất ở, đất nông nghiệp, đất rừng) bị thu hồi không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q44, nếu không chuyển tiếp câu Q46
Q44. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q45. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
16. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q46. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp vấn đề là ngƣời khác không làm theo
hợp đồng đã cam kết giữa hai bên không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q47, nếu không chuyển tiếp câu Q49
Q47. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
67
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q48. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
8. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q49. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp vấn đề là không đƣợc công nhận là hộ
nghèo không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q50, nếu không chuyển tiếp câu Q51
Q50. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q51. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
8. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q52. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp vấn đề là không đƣợc hƣởng những
chính sách của hộ nghèo không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q53, nếu không chuyển tiếp câu Q55
Q53. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q54. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
68
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
8. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q55. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có ly hôn không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q56, nếu không chuyển tiếp câu Q62
Q56. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp vấn đề là không đƣợc chăm nuôi con cái
hoặc nhận đƣợc đóng góp chăm nuôi con cái sau ly hôn không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q57, nếu không chuyển tiếp câu Q59
Q57. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q58. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
7. Chấp nhận, không làm gì cả
8. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Q59. Trong vòng 12 tháng qua ông/bà có gặp vấn đề là không đƣợc nhận tài sản sau ly
hôn không?
1. Có 2. Không
Nếu có, chuyển tiếp câu Q60, nếu không chuyển tiếp câu Q62
Q60. Ông/bà đánh giá mức độ bức xúc của vấn đề đó là
1. Rất bức xúc
2. Bức xúc
3. Hơi bức xúc
4. Không bức xúc
Q61. Khi gặp vấn đề này, ông/bà thƣờng làm gì? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Tự giải quyết trong nội bộ 2 bên
2. Đưa ra già làng, trưởng bản giải quyết
3. Nhờ họ hàng, làng xóm giải quyết
4. Đưa ra Ủy ban xã giải quyết
5. Nhờ tổ hòa giải giải quyết
6. Nhờ trưởng thôn giải quyết
69
7. Chấp nhận, không làm gì cả
8. Cách giải quyết khác (ghi rõ):
Phần 2: Sử dụng và kinh nghiệm về dịch vụ pháp lý
Bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang phần sử dụng dịch vụ pháp lý của ông/bà.
Để giúp ông (bà) trả lời dễ dàng hơn, tôi xin nhắc lại một số ví dụ về dịch vụ pháp lý. Khi ông
(bà) có các vướng mắc về pháp luật, ông bà có thể đến dịch vụ đó để xin tư vấn làm thế nào
để đảm bảo quyền lợi của mình. Hoặc khi ông (bà) phải làm các thủ tục hành chính, ông (bà)
có thể đến đó để nhờ hướng dẫn. Hoặc khi ông (bà) có vấn đề liên quan đến tòa án, dịch vụ
đó có thể có người đi cùng và giúp đỡ ông bà tại tòa.
Q62. Ông/bà thƣờng tìm kiếm các thông tin có liên quan đến các vấn đề bức xúc của
mình ở đâu? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Đài, báo, các phương tiện thông tin đại chúng
2. Thư viện xã / Tủ sách pháp luật của xã
3. Trao đổi hỏi han với hàng xóm hoặc họ hàng
4. Các tờ rơi/gấp về pháp luật
5. Hộp thông tin pháp luật
6. Các buổi tuyên truyền về pháp luật
7. Xin ý kiến già làng / trưởng bản
8. Không biết tìm kiếm ở đâu
9. Hỏi cộng tác viên pháp luật hoặc trợ giúp viên pháp lý
10. Khác (xin nêu cụ thể)
Q63. Ông/bà đã bao giờ nghe nói đến những cơ quan sau chƣa? Ông/bà có thể chọn
nhiều câu trả lời
1. Câu lạc bộ pháp luật 1. Có 2. Chưa
2. Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý 1. Có 2. Chưa
3 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước 1. Có 2. Chưa
4 Chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước 1. Có 2. Chưa
5 Trợ giúp pháp lý lưu động 1. Có 2. Chưa
6 Văn phòng luật sư 1. Có 2. Chưa
7 Trung tâm tư vấn pháp luật 1. Có 2. Chưa
8 Công ty luật 1. Có 2. Chưa
Q64. Ông/bà đã từng bao giờ nhận đƣợc tƣ vấn hoặc hỗ trợ pháp lý từ các cơ quan/cá
nhân sau chƣa? Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
Nếu tất cả các câu trả lời là chưa, chuyển tiếp câu Q65, nếu có chuyển tiếp câu Q66
1 Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước 1. Có 2. Chưa
2 Chi nhánh Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước 1. Có 2. Chưa
3 Trợ giúp pháp lý lưu động 1. Có 2. Chưa
4 Văn phòng luật sư 1. Có 2. Chưa
5 Các buổi tuyên truyền về luật pháp 1. Có 2. Chưa
6 Cá nhân luật sư 1. Có 2. Chưa
7
Người khác:…………………………………………………………………
70
Q65. Lý do tại sao ông/bà lại chƣa sử dụng dịch vụ pháp lý là gì? Tôi sẽ đọc một số lựa
chọn, Ông/bà có thể chọn nhiều câu trả lời
1. Thấy không cần thiết
2. Không biết dịch vụ ở đâu
3. Ngại tiếp xúc
4. Sợ tốn kém tiền
5. Không chắc có giúp được không
6. Đường đi xa
7. Không nói được tiếng Kinh
8. Sợ mất thời gian
9. Tự giải quyết được
10. Chưa bao giờ nghe nói đến dịch vụ pháp lý
11. Trái với tục ở địa phương
12. Các lý do khác (xin nêu cụ thể)
Q66. Trong tƣơng lai, để ông/bà sẽ sử dụng dịch vụ pháp lý thì yếu tố nào là quan
trọng đối với ông bà. Ông/bà sẽ đánh giá yếu tố nào là Rất quan trọng, Quan
trọng và Không quan trọng
STT Các yếu tố Rất quan
trọng
3
Quan
trọng
2
Không
quan
trọng
1
1 Các dịch vụ miễn phí, không phải trả tiền
2 Đi lại thuận tiện, không mất quá nhiều thời gian
3 Cán bộ ở đó thân thiện, tôn trọng
4 Cán bộ là người cùng dân tộc, biết nói tiếng dân
tộc
5 Chỉ phải trả một khoản phí hợp lý, không quá cao
6 Các thông tin, hướng dẫn không quá khác so với
tục lệ ở địa phương
7 Không mất nhiều thời gian chờ đợi
8 Không phải đi lại nhiều lần
9 Có cán bộ đến tận nơi để phục vụ
10 Có cán bộ là nữ
71
Phần 3: Thông tin chung
Sau đây, tôi xin hỏi ông/bà một số thông tin về ông bà
Q67. Giới tính: (ngƣời phỏng vấn tự ghi) 1. Nam 2. Nữ
Q68. Ông/bà bao nhiêu tuổi: ……………………………………………………………..
Q69. Ông/bà là ngƣời dân tộc nào:
1. Kinh
2. Tày
3. Nùng
4. Dao
5. Khmer
6. Khác (ghi rõ) …………………………………………………………
Q70. Ngôn ngữ sử dụng chính ở nhà của ông/bà là gì: …………………….
Q71. Ông/bà học hết lớp mấy:
1. Không đi học
2. Cấp 1 (lớp 1 – 5)
3. Cấp 2 (Lớp 6 – 9)
4. Cấp 3 (Lớp 9 – 12)
5. Cao đẳng
6. Đại học
7. Sau đại học
Q72. Nghề nghiệp của ông/bà là gì:
1. Nông nghiệp
2. Làm thuê
3. Công nhân
4. Nội trợ
5. Công chức
6. Khác (ghi rõ):
Q73. Thu nhập hàng tháng của ông/bà trong khoảng nào:
1. Dưới 200,000 đồng/tháng
2. Từ 201,000 – 500,000 đồng/tháng
3. Từ 501,000 đồng/tháng – 1 triệu đồng
4. Từ 1 triệu đồng trở lên
Q74. Hộ gia đình của ông/bà có đƣợc xã công nhận hộ nghèo không?
1. Có 2. Không
Xin cảm ơn ông/bà đã trả lời các câu hỏi trên.
72
Phụ lục 2: Tóm tắt các dịch vụ pháp lý
Tính chất
Loại dịch vụ pháp
lý
Miễn phí Thu phí
Tư vấn pháp luật,
bao gồm:
- Hướng dẫn, giải
đáp pháp luật;
- Tư vấn, cung cấp
ý kiến pháp lý;
- Soạn thảo đơn,
hợp đồng, di
chúc và các giấy
tờ khác;
- Cung cấp văn
bản pháp luật,
thông tin pháp
luật.
- Trung tâm TGPL nhà nước và
Chi nhánh của Trung tâm88
- Trung tâm tư vấn pháp luật (miễn
phí cho thành viên, hội viên, đoàn
viên của tổ chức chủ quản; miễn
phí cho đối tượng được TGPL
trong trường hợp Trung tâm đăng
ký tham gia TGPL với Sở Tư
pháp)
- Văn phòng luật sư, Công ty luật,
luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân (có thể giảm hoặc miễn phí
cho một số lọai đối tượng theo
chính sách riêng của từng văn
phòng/công ty/luật sư hoặc trong
trường hợp đăng ký tham gia
TGPL với Sở Tư pháp)
- Trung tâm tư vấn pháp luật
trực thuộc các tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức chính trị xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, cơ sở đào
tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên
ngành luật89
(Hiện có: các
Trung tâm TVPL thuộc hệ
thống Hội luật gia, Hội Phụ
nữ, Tổng liên đoàn lao động
VN, Đoàn thanh niên
CSHCM, Hội Nông dân, Hội
Cựu chiến binh; Trường ĐH
Luật Tp. HCM,...)
- Văn phòng luật sư90
- Công ty luật91
- Luật sư (hành nghề với tư cách
cá nhân)92
Tham gia tố tụng,
bao gồm:
- Bào chữa;
- Đại diện;
- Bảo vệ quyền lợi
hợp pháp
- Trung tâm TGPL nhà nước và
Chi nhánh của Trung tâm
- Trung tâm tư vấn pháp luật (miễn
phí cho thành viên, hội viên, đoàn
viên của tổ chức chủ quản; miễn
phí cho đối tượng được TGPL
trong trường hợp Trung tâm đăng
ký tham gia TGPL với Sở Tư
pháp)
- Văn phòng luật sư, Công ty luật,
luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân (có thể giảm hoặc miễn phí
cho một số lọai đối tượng theo
chính sách riêng của từng văn
phòng/công ty/luật sư hoặc trong
trường hợp đăng ký tham gia
TGPL với Sở Tư pháp)
- Trung tâm tư vấn pháp luật
- Văn phòng luật sư
- Công ty luật
- Luật sư (hành nghề với tư cách
cá nhân)
Đại diện ngoài tố
tụng cho khách
hàng để thực hiện
các công việc có
- Trung tâm TGPL nhà nước và
Chi nhánh của Trung tâm
- Trung tâm tư vấn pháp luật,
(miễn phí cho đối tượng được
- Văn phòng luật sư
- Công ty luật
- Luật sư (hành nghề với tư cách
cá nhân)
88
Thành lập và hoạt động theo Luật TGPL, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL. 89
Thành lập và hoạt động theo Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 về tư vấn pháp luật 90
Thành lập và hoạt động theo Luật Luật sư, Nghị đinh số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư. 91
nt 92
Hoạt động theo Luật Luật sư, Nghị đinh số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Luật sư.
73
Tính chất
Loại dịch vụ pháp
lý
Miễn phí Thu phí
liên quan đến pháp
luật.
TGPL trong trường hợp Trung
tâm đăng ký tham gia TGPL với
Sở Tư pháp)
- Văn phòng luật sư, Công ty luật,
luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân (có thể giảm hoặc miễn phí
cho một số lọai đối tượng theo
chính sách riêng của từng văn
phòng/công ty/luật sư hoặc trong
trường hợp đăng ký tham gia
TGPL với Sở Tư pháp)
Dịch vụ pháp lý
khác (giúp đỡ
khách hàng thực
hiện công việc liên
quan đến thủ tục
hành chính; giúp đỡ
về pháp luật trong
trường hợp giải
quyết khiếu nại;
dịch thuật, xác
nhận giấy tờ, các
giao dịch và giúp
đỡ khách hàng thực
hiện công việc khác
theo quy định của
pháp luật
- Trung tâm TGPL nhà nước và
Chi nhánh của Trung tâm
- Trung tâm tư vấn pháp luật,
(miễn phí cho đối tượng được
TGPL trong trường hợp Trung
tâm đăng ký tham gia TGPL với
Sở Tư pháp)
- Văn phòng luật sư, Công ty luật,
luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân (có thể giảm hoặc miễn phí
cho một số lọai đối tượng theo
chính sách riêng của từng văn
phòng/công ty/luật sư hoặc trong
trường hợp đăng ký tham gia
TGPL với Sở Tư pháp)
- Văn phòng luật sư
- Công ty luật
- Luật sư (hành nghề với tư cách
cá nhân)