195
KHUNG GIÁO DỤC QUỐC GIA ĐÌNH HÌNH TƯƠNG LAI CỦA BHUTAN - 2012

thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

  • Upload
    vumien

  • View
    219

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

KHUNG GIÁO DỤC QUỐC GIAĐÌNH HÌNH TƯƠNG LAI CỦA BHUTAN - 2012

Page 2: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta
Page 3: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Hoàn thành bởi:

Viện giáo dục trường học và đơn vị nghiên cứu

Hội đồng Giáo dục Royal, Bhutan

Với sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ hoàng gia Bhutan

© Hội đồng Giáo dục Hoàng gia

 

Page 4: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Thư của Vua Bhutan

“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta - giáo viên của chúng tôi luôn cam kết và cống hiến – học sinh luôn là những học sinh chăm chỉ và trung thành – tuy nhiên đó lại là nhiệm cụ của cha mẹ, của các nhà hoạt định chính sách và của chính phủ để đưa ra các công cụ thích hợp cho học sinh và giáo viên. Đó là những cuốn sách đúng, những chương trình giảng dạy đúng và định hướng đúng.

Đối với những điều này trước hết chúng ta phải tự hỏi mình chúng ta sẽ đi về đâu: nền kinh tế, nền dân chủ, một quốc gia. Nói cách khác: Tầm nhìn của Bhutan là gì? Sau đó chúng ta cần xây dựng một hệ thống giáo dục mà nuôi dưỡng những người có kỹ năng, kiến thức phù hợp và đào tạo để thực hiện điều này: Tầm nhìn. Chúng ta càng nhận thức sớm được điều này bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu.

TẦM NHÌN là một từ rất sâu sắc nhưng thường được sử dụng sai. Tôi cảm thấy cách sử dụng từ này tốt nhất là mô tả tầm quan trọng của giáo dục. Vì nếu tầm nhìn của chúng ta cho một đất nước mà không chứa đựng trong các trang sách của trẻ con cầm mỗi ngày, theo lời của giáo viên chúng ta mỗi khi đến lớp, trong chính sách giáo dục của chính phủ thì có thể nói: chúng ta không có tầm nhìn.

Chúng tôi có thể mơ về một bộ máy nhà nước mạnh nhất với tiêu chuẩn cao nhất, nhưng chúng tôi không quên rằng những tiêu chuẩn này phải được mang vào trong trường học nơi có những lãnh đạo tương lai của đất nước đang lớn lên.

Chúng tôi có quyền mơ về những công viên phần mềm đẳng cấp quốc tế, các trung tâm tài chính quốc tế, mức độ cạnh tranh cấp quốc tế; nhưng chúng ta không thể quên rằng chúng ta không thể có nguồn nhân lực nếu trong các trường học và đại học của chúng ta hiện tại không ban cho học sinh tài năng và kỹ năng như vậy.

Chúng tôi có thể mơ về một quốc gia bảo vệ môi trường, GNH, một nền kinh tế mạnh, một nền dân chủ; nhưng mọi điều đó sẽ không thể hoặc không thể bền vững nếu chúng ta không cật lực và đổ mồ hôi để xây dựng nên một nền giáo dục đủ mạnh.

Tương lai của đất nước chúng ta nằm trong một thế giới hẹp. Mục tiêu của chính phủ và kế hoạch 10 đã phản ánh thực tế này. Nếu chúng ta có một cái nhìn về mục tiêu trước mắt của đất nước: như mục tiêu phát triển thủy điện, mìn, y tế, du lịch, ngân hàng, công nghệ thông tin, đường giao thông, sân bay nội địa và quốc tế và những thứ tương tự như vậy. Bạn nghe thuật ngữ như "kiến thức dựa ',' thích hợp ',' băng thông rộng "," đổi mới ", ‘trung tâm dữ liệu ',' bền vững 'và những thứ tương tự như vậy.

Những mục tiêu và khái niệm trên rất đỗi bình thường, và phản ảnh thực tế đang thay đổi. Nhưng nếu việc thay đổi thực tế mang lại nhiều tham vọng và mục tiêu mới, chúng cũng cần có kế hoạch và sự chuẩn bị mới. Phần lớn chúng ta thường tự hỏi mình làm thế nào để xây dựng

Page 5: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

à bồi dưỡng người thực hiện kế hoạch và mục tiêu của chúng ta. Câu trả lời nằm trong giáo dục. Thống kê cho thấy khi chúng ta mơ quá nhiều, những giấc mở chồng chất như các tầng của tòa nhà chọc trời, thì những nền tảng cũng cần được tăng cường.

Hãy để tôi đưa ra một quan sát tổng quan và đơn giản để so sánh. Trong tất cả các nước tiến bộ mạnh mẽ trong các lĩnh vực chúng ta đang phấn đấu để phát triển, sức mạnh của hệ thống giáo dục là Toán và Khoa học. Trong thực tế, ở Ấn Độ, chủ đề ưa thích của hầu hết học sinh là Toán. Vậy mà ở Bhutan, Toán học là một trong những điểm yếu của chúng ta – hầu hết học sinh không thích Toán và điểm thấp hơn 50%. Chúng ta cũng có điểm yếu tương tự trong Khoa học và thật ngạc nhiên, thậm chí cả tiếng Anh.

Tôi đã nghiên cứu số liệu thống kê của chính chúng ta, có rất nhiều chi tiết đáng quan tâm – bạn cũng nên tự nghiên cứu. Nhưng ngày hôm nay chúng ta cần phải tự hỏi mình: - “hệ thống giáo dục của chúng ta đã phản ánh được các cơ hội và thách thức thay đổi chưa?” Hãy chiêm nghiệm câu hỏi này.

Hãy chiêm nghiệm đối với những sai lầm của những người đi trước và được xem là khó khăn, những thành công trong quá khứ, những ngưỡng mộ và tôn trọng bên ngoài trong thế giới ngày nay. Và không thể nhìn thấy rồi ngày mai sẽ biến mất, nếu chúng ta để mất cái nhìn về sự thành công của mình.

Chiêm nghiệm! đối với những sai lầm nghiêm trọng sẽ là một giấc mơ của sự lạc quan lớn, với dân tộc ta từ thành công này trong quá trình chuyển đổi dân chủ vào một tương lai thành công hơn và không nhận ra rằng, không phải chúng ta mà là con em chúng ta phải đảm bảo sự thành công của dân tộc.

Tôi lại nói về thời gian một lần nữa: “tương lai của một quốc gia sẽ phản ánh qua chất lượng lớp trẻ của quốc gia đó – một quốc gia không thể đánh lừa về một tương lai tươi sáng nếu không có sự đầu tư một cách khôn ngoan vào thế hệ trẻ”

Chúng tôi luôn muốn nhắc lại lời của HM, Vua thứ tư, đã từng nói: “tương lai của đất nước nằm trong tay con em chúng ta.” Chúng tôi biết rằng Hoàng thượng, cha tôi, có nghĩa là chất lượng giáo dục cho thế hệ trẻ của Bhutan là tối quan trọng. Rằng đó là nhiệm vụ của chúng ta, những cha mẹ, những nhà lãnh đạo và công dân của cả nước cần được cung cấp một nền giáo dục tốt. Chúng ta đảm bảo trẻ nhỏ được phát triển để trở thanh mạnh mẽ và sững đáng với quốc gia vươn tới tầm cao mới.

Tôi không thể đi vào chi tiết của giáo dục ngành - có những chuyên gia trong chúng ta

có thể làm điều này. Tất cả tôi biết là, đơn giản như âm tiết, mà hy vọng và nguyện vọng của chúng tôi là một quốc gia phải được phản ánh trong những gì là dạy cho các thế hệ tương lai của chúng ta trong phòng học. Đây là quan điểm của tôi. tôi kêu gọi cha mẹ, các nhà hoạch định chính sách và toàn thể công chúng để phản ánh về vấn đề này. Ghi nhớ:

Đó là văn hóa của chúng ta, truyền thống và di sản là nền tảng của chúng tôi Dân tộc và nhân dân của chúng tôi là Tài sản lớn nhất.

Page 6: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Đó là chúng ta có một dân số nhỏ - nhưng mọi người chúng tôi yêu đất nước - với các công cụ thích hợp, chúng tôi có thể đạt được bất cứ điều gì.

Đó là giáo dục dân chúng tôi là Bước đầu tiên để thực hiện nguyện vọng của chúng tôi trong một quốc gia.

Đó là không đủ để cung cấp miễn phí giáo dục - chúng tôi phải cung cấp giáo dục có chất lượng như vậy mà nó sẽ đảm bảo một vị trí phân biệt cho trẻ của chúng ta bất cứ nơi nào trên thế giới.

Và rằng cửa sổ của chúng ta về cơ hội là nhỏ - hôm nay phần lớn nhất dân số của chúng tôi là thanh niên - làm thế nào chúng tôi giải quyết chất lượng giáo dục bây giờ sẽ xác định xem chúng ta sẽ xây dựng các công dân trẻ mạnh mẽ, những người sẽ đảm bảo một tương lai tươi sáng lâu dài cho quốc gia - hoặc thất bại và nhốt như một số lượng lớn các trẻ em của chúng tôi và con cái của họ để trở thành thế hệ gian khổ và đấu tranh.

Khi mặt trời lặn vào mỗi tối và sáng hôm sau lại mọc lên, mọi việc cũng cần được như vậy. tuy nhiên đừng bao giờ để ánh sáng giáo dục tắt đi dù chỉ một chút. Vì nếu giáo dục chỉ cần đen tối trong một phút, các thế hệ con em chúng ta sẽ bị ảnh hưởng và chúng ta sẽ mất nhiều thập kỷ để thắp sáng trở lại.

Hỡi phụ huynh và giáo viên, tôi muốn các bạn biết rằng niềm đam mê của tôi là luôn luôn được nuôi dưỡng thế hệ trẻ của chúng ta mỗi ngày, mỗi năm – cho họ kỹ năng lao động và cam kết của họ là xây dựng quốc gia tương lai. Không có con đường nào khác – không có công cụ nào khác – cho sự thành công trong tương lai của Bhutan.

Tôi kết thúc với câu nhắn nhủ: “Tầm nhìn quốc gia của chúng ta chỉ có thể thực hiện nếu phạm vi của những ước mơ và khát vọng của chúng tôi là kết hợp bởi thực tế, chúng tôi cam kết nuôi dưỡng công dân tương lai của chúng ta.”

Địa chỉ của Hoàng thượng tại 3rd Đại học Hoàng gia Bhutan cho Samtse và Paro Cao đẳng Giáo dục,

17 Tháng hai 2009.

(BBSC)

Page 7: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Lời tựa

Bhutan khát khao trở thành tự cấp tự túc, kinh tế thịnh vượng, môi trường bền vững, dân chủ âm thanh và văn hóa sôi động quốc gia, các công dân trong đó có sáng tạo, có tay nghề cao và có khả năng đáp ứng cho toàn cầu mới nổi thách thức và góp phần vào sự xã hội công bằng và bền vững phát triển kinh tế và phúc lợi của cộng đồng và quốc gia.

Khung Giáo dục Quốc gia (NEF) phục vụ như là một nền tảng chính sách tài liệu cho sự phát triển của Bhutan dựa trên tầm nhìn thống nhất và mục tiêu, như xuất phát từ tầm nhìn của Nhà Vua, Hiến pháp, các chính sách của chính phủ, các nhu cầu của các ngành công nghiệp, quan điểm của giáo dục của chúng tôi các chuyên gia và công chúng nói chung.

Tài liệu này trình bày tổng quan trạng thái hiện tại của giáo dục ở Bhutan và thiết lập kiến nghị nêu rõ ràng cho một hệ thống giáo dục chuyển đổi. Trong khung mục tiêu giáo dục phù hợp với mục tiêu quốc gia của chúng tôi và đề nghị học tập tiêu chuẩn để đáp ứng được các mục tiêu giáo dục, NEF 2012 là một bản đồ xuất sắc và đổi mới.

Bhutan vạch ra một hệ thống của Tổng Giáo dục mà phát triển kiến thức, kỹ năng, sự hiểu biết và chất lượng của trẻ em để làm cho chúng phát triển thịnh vượng trong trường học và trang bị đầy đủ cho thế giới

của công việc. qua tập trung vào các kỹ năng quan trọng và cho tư duy độc lập, giải quyết vấn đề, thông tin liên lạc và hợp tác, nhằm trang bị cho các công dân trẻ của chúng tôi với các phẩm chất kiên cường, tính linh hoạt, niềm tin và thái độ tích cực. Phù hợp với tầm nhìn và mục tiêu của quốc gia, hệ thống của Tổng Giáo dục, như đã nêu trong bài này, là một hợp nhất hướng cho chính sách giáo dục trong tương lai, thực hành và các nguồn tài nguyên. Các mục tiêu và kỳ vọng được dự định để hướng dẫn các bên liên quan ở tất cả các cấp, bao gồm các chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp, phụ huynh, giáo viên và sinh viên, về phía phổ biến mục tiêu và hướng đến một mục tiêu chung. Thông qua quá trình giáo dục biến đổi mà Bhutan sẽ có thể khắc phục tầm nhìn và mục tiêu riêng của mình, phát huy tính độc đáo của văn hóa xã hội cho thách thức tương lai, và có hiệu quả tham gia sự phát triển của dân tộc.

Với giáo dục mới được cải thiện hệ thống Tôi tin tưởng rằng con em chúng ta sẽ được trao quyền để đối mặt và vượt qua bất kỳ thách thức nào trong cuộc sống của họ, để nổi trội trong sự nghiệp mình đã chọn, và đi trên con đường dẫn đến một tương lai tươi sáng.

Lyonchen Jigme Y Thinley

Thủ tướng Danh dự Bhutan

Page 8: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Lời cảm ơn

Công việc này đã được rút ra từ những ý tưởng, những lý thuyết và kinh nghiệm của nhiều người có cung cấp hướng tới việc tạo ra các khung Giáo dục Quốc gia (NEF). chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn và sự cảm ơn đến tất cả các cá nhân và các nhóm người đã đưa ra một khung vững chắc cho Giáo dục Quốc gia năm 2012:

 Chủ tịch danh dự và các thành viên danh dự của Hoàng gia Giáo dục

Hội đồng chỉ đạo và hỗ trợ

 Bộ trưởng danh dự, Bí thư, Dashos, và người tham gia trong tầm nhìn

Hội thảo đã khắc họa một tầm nhìn cho công dân Bhutan

 các thành viên nhóm nòng cốt của Giáo dục khám phá và Hội đồng Hoàng gia Giáo dục cho đóng góp lớn và lãnh đạo, từ khái niệm hóa để cuối cùng chuẩn bị cuối cùng để ban hành khung giáo dục này

 những người tham gia của giáo dục Khung giá Retreats quốc gia và hội thảo cho các đầu vào có giá trị

 các giáo viên và hiệu trưởng của các trường SEED GNH phản hồi mang tính xây dựng của họ và các thông tin có liên quan

 đối tác dự án REC từ nhiều nước khác nhau cho thông tin phản hồi thẳng thắn và mang tính xây dựng

và cuối cùng

 đội ngũ thiết kế đã giúp cho tài liệu này một hình thức có thể đọc được.

Page 9: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Mục lục

Phần 1: Mục đích của khung giáo dục quốc gia...........................................................................15

Phần 2: Tầm nhìn và mục tiêu......................................................................................................17

2.1 Tầm nhìn quốc gia..............................................................................................................17

2.2 Mục tiêu tổng quát..............................................................................................................18

2.3 Các mục tiêu quốc gia của Bhutan.....................................................................................20

2.4 Hồ sơ công dân Bhutan lý tưởng........................................................................................23

1. Mindful – tỉnh thức................................................................................................................23

2. Caring – quan tâm................................................................................................................23

3. Reflective – phản tư..............................................................................................................23

4. Disciplined – kỷ luật..............................................................................................................24

5. Active and informed – chủ động và thông tin........................................................................24

6. Knowledgeable – có kiến thức..............................................................................................24

7. Creative – sáng tạo...............................................................................................................24

8. Industrious – công nghiệp hóa..............................................................................................24

9. Communicative – giao tiếp...................................................................................................24

10.Skilful and productive – lành nghề và hiệu quả...................................................................25

11.Confident individual – tự tin.................................................................................................25

12.Self-directed life-long learner – tự chủ học tập suốt đời......................................................25

2.5 Tầm nhìn giáo dục ở Bhutan..............................................................................................26

2.6 Tầm nhìn cho giáo dục trường học....................................................................................26

2.7 Các mục tiêu giáo dục........................................................................................................26

Phần 3:..........................................................................................................................................27

Đổi mới chương trình giáo dục ở Bhutan......................................................................................27

3.1.1 Tu viện Giáo dục........................................................................................................28

3.1.2 Hệ thống giáo dục chính quy.....................................................................................30

Chương trình Chăm sóc và phát triển trẻ thơ (ECCD).............................................................32

Hệ thống trường tiểu học..........................................................................................................32

Hệ thống trường trung học.......................................................................................................33

Giáo dục hòa nhập trẻ em gái..................................................................................................34

Page 10: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Giáo dục và Đào tạo nghề........................................................................................................35

Giáo dục trẻ có nhu cầu đặc biệt..............................................................................................35

3.1.3 Giáo dục không chính quy.........................................................................................36

Chương trình Giáo dục thường xuyên.....................................................................................36

3.2.1 Mối quan tâm toàn cầu, những nhu cầu học tập thay đổi mang tính cấp bách.........37

Phần 4: Cấu trúc giáo dục mới......................................................................................................62

4.5.1 Hướng dẫn cho việc chăm sóc và phát triển những năm đầu đời của trẻ................73

4.5.2 Vị trí............................................................................................................................74

4.5.3 Chương trình.............................................................................................................74

4.5.4 Đối tác cộng đồng......................................................................................................75

4.5.5 Đào tạo và phát triển..................................................................................................75

4.6.1 Giáo dục tiểu học: Tiếp cận và hoàn thành toàn bộ..................................................76

4.6.2 Giáo dục tiểu học: Chương trình...............................................................................76

4.6.3 Giáo dục trung học: Sự mở rộng ra...........................................................................77

4.6.4 Giáo dục trung học: Chương trình.............................................................................77

4.6.5 Chuẩn bị cho việc làm................................................................................................77

4.7.1 Lối rẽ..........................................................................................................................79

4.7.2 Tính linh động............................................................................................................79

4.7.3 Vị trí............................................................................................................................80

4.7.4 Chương trình.............................................................................................................80

4.7.5 Đào tạo và phát triển..................................................................................................80

4.8.1 Tiếp cận.....................................................................................................................81

4.8.2 Tính linh hoạt.............................................................................................................81

4.8.3 Chương trình.............................................................................................................................................................................................................................................................81

4.8.4 Nghiên cứu................................................................................................................82

4.9.1 Vị trí............................................................................................................................83

4.9.2 Chương trình.............................................................................................................84

4.9.3 Đào tạo và phát triển..................................................................................................84

4.10.1 Mở rộng...................................................................................................................86

4.10.2 Chương trình...........................................................................................................86

4.10.3 Đào tạo và phát triển................................................................................................86

Phần 5: Chương trình giảng dạy quốc gia....................................................................................87

Page 11: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

5.1. Cấu trúc chương trình............................................................................................................91

5.3.1 Dzongkha và những ngôn ngữ tại nhà khác..............................................................97

5.3.2 Tiếng Anh...................................................................................................................99

Phần 6: Điều kiện Cho phép: khối kiến tạo để hỗ trợ học tập.....................................................101

6.1 Giới thiệu..........................................................................................................................101

6.2 Lãnh Đạo Trường.............................................................................................................103

6.3 Môi trường học tập...........................................................................................................106

6.4 Giáo dục và Phát triển Giáo viên......................................................................................107

6.5 Khung đánh giá.........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................109

6.7 Giáo dục hòa nhập...........................................................................................................110

6.8 ICT như một công cụ........................................................................................................110

6.9 Quan hệ đối tác.................................................................................................................110

6.10 Kết luận...........................................................................................................................112

Tài liệu tham khảo.......................................................................................................................113

Danh sách các từ viết tắt.............................................................................................................113

Danh sách đóng góp...................................................................................................................113

Page 12: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta
Page 13: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Khung Giáo dục Quốc gia: Định hình tương lai của BhutanTổng quan

Quá trình phát triển hiện đại ở Bhutan bắt đầu vào năm 1961, khi Hoàng thượng, thứ ba Druk Gyalpo, Jigme Dorji Wangchuck, mở nước với phần còn lại của thế giới như vậy, kết thúc thời đại của cách ly tự áp đặt. Trải rộng trên 38.394 km vuông, đất nước nằm ở khu vực Nam Á, với Ấn Độ ở phía nam và phía đông, phía tây Nepal và Trung Quốc phía Bắc. Bhutan là gần như hoàn toàn miền núi, với tăng đất từ khoảng 200m trên mực nước biển ở phía nam và cao chót vót trên 7,500m ở dãy Himalaya cao hơn ở phía bắc. Kết thúc 70% của Bhutan được bao phủ bởi rừng. Nước chia thành 20 dzongkhag (tỉnh) được chia thành 205 Gewogs (làng), để tạo điều kiện phát triển kinh tế công bằng và cho mục đích chính. Ngôn ngữ quốc gia của Bhutan là Dzongkha, đó cũng là ngôn ngữ chính thức, trong khi tiếng Anh đang ngày càng được sử dụng như là ngôn ngữ giao tiếp. Các bản chất tinh thần của Bhutan là bắt nguồn từ Phật giáo.

Bhutan đã phát triển và tiến bộ dưới sự trị vì của năm vua Wangchuck triều đại. Trong năm 2006, tầm nhìn xa rất được yêu thích và được tôn trọng, thứ tư Druk Gyalpo, Jigme Singye Wangchuk thoái vị ngai vàng, có lợi cho người thứ năm Druk Gyalpo, Jigme Khesar Namgyel Wangchuck. Druk Gyalpo thứ tư đã bắt đầu phát triển của nền dân chủ nghị viện ở Bhutan và việc soạn thảo Hiến pháp, để cuối cùng bàn giao quyền quản trị để chính người dân quyết

Page 14: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

định. Hành động này đã đánh dấu một trăm năm của chế độ quân chủ thành công ở Bhutan mà báo trước thành tựu to lớn trong xã hội kinh tế phát triển và đời sống tinh thần của người dân Bhutan. Trong năm 2008, Bhutan đầu tiên chính phủ dân chủ được thành lập.

Các khái niệm Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia (GNH), tiến bộ nhờ Druk Gyalpo thứ tư,

Jigme Singye Wangchuck, là nguyên tắc hướng dẫn cho sự phát triển của Bhutan. Được thừa nhận rằng sự phát triển tinh thần và tình cảm cũng quan trọng như tài liệu tích lũy và tiện nghi vật chất. Hoàng thượng tin rằng, "Gross National Happiness là quan trọng hơn tổng sản phẩm quốc gia, và mục đích cuối cùng của chính phủ là để thúc đẩy hạnh phúc của con người. "

Nông nghiệp là xương sống của nền kinh tế của Bhutan. Góp phần khoảng 33% của GDP và khoảng 70% dân số phụ thuộc vào nó cho một sinh kế. Ngày nay, sản xuất các ngành công nghiệp, thuỷ điện và các ngành dịch vụ cũng đang nổi lên và phát triển trong nước. Tiến bộ chính sách đã được kích hoạt Bhutan để thực hiện tiến bộ đáng kể trong việc mở rộng cơ sở giáo dục ở tất cả các cấp, tăng tiến tuyển sinh và cung cấp tiếp cận giáo dục tại các vùng xa xôi của đất nước.

Page 15: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Phần 1: Mục đích của khung giáo dục quốc gia

Đời sống chính trị và xã hội của Bhutan là đi qua một giai đoạn đòi hỏi mạnh mẽ và hướng tới tương lai hệ thống giáo dục. Khung Giáo dục Quốc gia (NEF) phục vụ như là một tài liệu chính sách nền tảng xác định tầm nhìn và mục tiêu quốc gia cho sự phát triển của Bhutan, xuất phát từ Tầm nhìn của Hoàng thượng, Hiến pháp Bhutan, các chính sách của chính phủ và các quan điểm của chung công cộng, như thu thập từ các nguồn chính thức, phương tiện truyền thông báo cáo và nghiên cứu. Điều này tài liệu trình bày một cái nhìn tổng quan của hệ thống giáo dục hiện tại và Bhutan khuyến nghị cho việc tái cấu trúc giáo dục. Biểu hiện một lộ trình cho đổi mới và sự xuất sắc của khung mục tiêu giáo dục được liên kết với các mục tiêu quốc gia; tạo ra các tiêu chuẩn học tập được dựa trên các mục tiêu giáo dục; và đưa ra khuyến cáo rõ ràng cho thực hiện được các mục tiêu giáo dục.

NEF là một điểm tham chiếu quan trọng cho phát triển chương trình giảng dạy quốc gia (NCF) khu vực học tập cần thiết và lộ trình khác nhau. Cung cấp cơ sở để phát triển các dự kiến chất lượng giáo dục ở Bhutan và cung cấp các hướng dẫn về điều kiện được thuận lợi cho việc giảng dạy và các quá trình học tập. Các độc giả của tài liệu này bao gồm một mặt cắt ngang rộng các bên liên quan, cụ thể là:

• Các nhà hoạch định chính sách, những người sẽ sử dụng NEF để xây dựng tương lai chính sách giáo dục mà hỗ trợ tầm nhìn quốc gia và quốc gia mục tiêu giáo dục,

• Phát triển chương trình giảng dạy và nhà viết sách giáo khoa, những người sẽ

dịch các chính sách vào giảng dạy và tài liệu học tập,

• Lãnh đạo trường và giáo viên người sẽ hiểu và đóng góp với tầm nhìn quốc gia về giáo dục cho mỗi đứa trẻ. Tài liệu này đưa nền móng cho việc lập kế hoạch chương trình và các hoạt động đáp ứng nhu cầu của trẻ em và kiến thức truyền đạt, giá trị, kỹ năng và thẩm quyền đạt được các mục tiêu quốc gia của Bhutan,

• Sinh viên, những người sẽ có ý thức tầm nhìn và mục tiêu cho riêng mình giáo dục cùng với một phạm vi cho hưởng thụ nhiều hơn trong học tập thông qua sự quen thuộc của họ với hướng dẫn các nguyên tắc của NEF,

• Phụ huynh và cộng đồng các thành viên, những người sẽ sử dụng NEF tới hiểu rõ hơn về các quốc gia tầm nhìn và mục tiêu của giáo dục Bhutan, và làm thế nào đây là những dịch sang chính sách và chương trình giáo dục. Cha mẹ và các thành viên cộng đồng sẽ đánh giá cao như thế nào họ có thể hỗ trợ học tập của con em mình và được tham gia nhiều hơn trong việc giáo dục dân tộc.

Trẻ em cần được trang bị những kỹ năng để giải quyết vấn đề, dẫn dắt người khác, làm việc cộng tác, giao tiếp hiệu quả, tư duy phê phán và độc lập. Phẩm chất của trẻ em được phát triển theo kiểu đàn hồi, linh hoạt, khả năng thích ứng cũng như sự tự tin và

Page 16: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

thái độ tích cực với cuộc sống. Hệ thống giáo dục được xây dựng trên nguyên tắc

thử thách cao, hỗ trợ hiệu quả và phát triển văn hóa – xã hội mạnh mẽ.

Phần 2: Tầm nhìn và mục tiêu

2.1 Tầm nhìn quốc gia

Bhutan:

Tự lập Kinh tế thịnh vượng Môi trường bền vững Dân chủ Văn hóa mang bản sắc Công dân: sáng tạo, có tay nghề cao, đáp ứng thách thức toàn

cầu hóa, đóng góp vào sự công bằng và phát triển kinh tế-xã hội bền vững

Page 17: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

2.2 Mục tiêu tổng quát

Tổng Hạnh Phúc Quốc gia (GNH) - hạnh phúc đến từ phục vụ người khác, sống hài hòa với thiên nhiên và nhận ra trí tuệ bẩm sinh và tiềm năng của một con người.

Mỗi người dân đều được nhắc nhở để duy trì hạnh phúc của thế giới sinh vật sống, bảo vệ hệ sinh thái hữu cơ và môi trường phi sinh vật.

Hệ thống giáo dục chung sẽ tập trung:

Sự hiểu biết sâu sắc và đúng đắn; chăm sóc người khác và tôn trọng thiên nhiên và văn hóa

Có khả năng hiểu và quan sát thực tế rõ ràng

Phát triển kinh tế bền vững và có trách nhiệm xã hội, là công dân tốt và hoạt động hiệu quả để cải thiện sức khỏe.

Page 18: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta
Page 19: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

2.3 Các mục tiêu quốc gia của Bhutan

Mục tiêu phát triển quốc gia và các ưu tiên để định hình tương lai của Bhutan gồm:

1. Xây dựng nền tảng vững chắc cho giáo dục2. Bảo vệ chủ quyền và an ninh của đất nước3. Thúc đẩy khả năng tự lực4. Thúc đẩy và bảo tồn môi trường tự nhiên5. Đảm bảo phát triển kinh tế cân bằng, công bằng và bền vững6. Xậy dựng quản trị và lãnh đạo tốt ở mọi cấp độ7. Thúc đẩy và bảo tồn văn hóa độc đáo Bhutan8. Phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo và khởi nghiệp9. Đảm bảo sự bình yên và hạnh phúc của nhân dân

Page 20: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

1

2

Mục tiêu quốc gia 1: xây dựng nền tảng vững chắc cho giáo dục

Một người Bhutan giàu có thự sự thì tài sản của họ là sức khỏe và hạnh phúc. Hệ thống của Bhutan được điều hành như sau: (i) mệnh lệnh là từ Hiến pháp, bản chất và định hướng mục tiêu và các ưu tiên quốc gia; (ii) nội dung và quy trình giáo dục các cấp; (iii) kết quả nghiên cứu cần thiết để cải cách hệ thông giáo dục ngày nay.

Vai trò của giáo dục là để trang bị cho thế hệ trẻ những kiến thức, kỹ năng, thái độ và giá trị thích hợp để đạt được mục tiêu của Tổng Hạnh Phúc Quốc gia (GNH). Giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong biến đổi xã hội và thực hiện các mục tiêu và ưu tiên quốc gia. Vai trò nổi bật của giáo dục:

Cá nhân được nuôi dưỡng khả năng cân bằng và hài hòa giữa vật chất, tinh thần, tình cảm và văn hóa; giữa nhu cầu của cá nhân và xã hội nói chung.

Kiến tạo nhận thức và cam kết một phần về bảo vệ, bảo tồn và cải thiện môi trường; bảo vệ đa dạng sinh học của đất nước.

Bảo tồn di sản văn hóa và giá trị quốc gia

Thúc đẩy quản lý tốt sẽ làm tăng trình độ nhân viên, những người có trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và cam kết với các nguyên tắc đạo đức của trong chính phủ và hành vi đạo đức trong vấn đề công cộng.

Đảm bảo các công dân phát triển các đức tính của hòa bình, bồi dưỡng lòng khoan dung và tôn trọng sự đa dạng.

Trang bị kiến thức, kỹ năng, giá trị và thái độ đáp ứng nhu câu để thúc đẩy một Bhutan đặc biệt về danh tính, duy trì sự hiệp nhất, hài hòa và đảm bảo ổn định chính trị.

Cơ hội cho cá nhân tham gia vào xây dựng nền dân chủ. Nâng cao năng lực ra quyết định từ hộ gia đình, cộng đồng và quốc gia.

Tăng cường truyền thống mạnh mẽ, tự chủ, tự túc, tự giúp đỡ. Tăng cường nghiên cứu và phát triển cấp quốc gia.

Mục tiêu quốc gia 2: Bảo vệ chủ quyền và an ninh của quốc gia

Hiến pháp chỉ thị cho mọi công dân trách nhiệm, "giữ gìn, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn, bảo mật và tính thống nhất của Bhutan và phục vụ quốc gia khi được kêu gọi.” "Việc tăng cường bản sắc dân tộc và đoàn

"Tương lai của Bhutan là một quốc gia tôn trọng độc đáo của nó giá trị và truyền thống và có người cũng nắm lấy các giá trị của sự đổi mới, sáng tạo và doanh nghiệp."

Vua King Jigme Khesar Namgyel Wangchuck (2008)

Page 21: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

3

4

5

6

7

8

kết mật thiết kết hợp với việc nghiên cứu và thực hành văn hóa và truyền thống Bhutan, bao gồm các di sản tinh thần của Phật giáo nhằm thúc đẩy các giá trị của hòa bình, bất bạo động, lòng từ bi và khoan dung.  Công dân Bhutan nên tăng cường sự tôn trọng bản thân và những người khác, cờ Tổ quốc và Quốc ca. Hơn nữa, mỗi công dân sẽ duy trì công lý, hành động chống lại tham nhũng và tuân thủ tất cả các quy định của hiến pháp.

Mục tiêu quốc gia 3: Thúc đẩy tính tự lực

Đạt được kinh tế-xã hội và trí tuệ tự lực đòi hỏi thách thức cuộc họp, thay đổi tâm-bộ và cách thức làm việc, để cạnh tranh bình đẳng với các quốc gia khác và thành công thông qua công việc khó khăn và công đức.

Mục tiêu quốc gia 4: Thúc đẩy bảo vệ môi trường và thiên nhiên

Hiến pháp chỉ thị rằng, "Công dân phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học của Bhutan và phòng chống tất cả các hình thức gây suy thoái môi trường sinh thái ... Chính phủ quản lý tài nguyên thiên nhiên và ngăn chặn sự suy thoái của hệ sinh thái, ít nhất 60% tổng diện tích đất của Bhutan phải được duy trì theo bìa rừng”. Trong khi thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, môi trường vật chất và động thực vật phụ thuộc lẫn nhau để tồn tại, tăng trưởng và phát triển cũng là mối quan tâm của quốc gia.

Mục tiêu quốc gia 5: Đảm bảo phát triển kinh tế cân bằng, công bằng và bền vững.

Các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội công bằng phải mang lại lợi ích như nhau cho các nhóm thu nhập và khu vực khác nhau, thông qua việc thúc đẩy xã hội hài hòa, ổn định và thống nhất, và góp phần vào việc tạo ra một xã hội công bằng bác ái.

Mục tiêu quốc gia 6: Xây dựng lãnh đạo và quản trị tốt ở mọi cấp độ.

Quản trị tốt đòi hỏi sự phát triển của các tổ chức trong nước và nguồn nhân lực, tăng cường cơ hội cho mọi người ở tất cả các cấp độ để tham gia hiệu quả trong các quyết định có ảnh hưởng đến đời sống và sinh kế của họ, và tương lai của gia đình, cộng đồng và quốc gia.

Mục tiêu quốc gia 7: Xây dựng một nền văn hóa dân chủ năng động.

Xây dựng một nền dân chủ năng động đòi hỏi phải củng cố từ gốc, hiểu biết giáo lý và thực hiện các quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, theo những cách có lợi cho quốc gia.

Page 22: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

9

10

"Các nguyên tắc cơ bản của Tổng hạnh phúc Quốc gia (GNH) bao hàm hạnh phúc của người dân với các giá trị vốn có và nền văn hóa hài hòa với môi trường tự nhiên cùng sự phát triển kinh tế-xã hội bền vững và công bằng."Thủ tướng Lyonchoen Jigmi Y. Thinley, Gặp gỡ Hiệu trưởng trường ', tháng Hai năm 2010

Mục tiêu quốc gia 8: Thúc đẩy và bảo tồn nền văn hóa độc đáo của Bhutan. 

Hiến pháp chỉ thị rằng " Ra sức giữ gìn, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa của đất nước, bao gồm các di tích, địa điểm, hiện vật thể hiện tính chất lịch sử và bản sắc nghệ thuật độc đáo của Bhutan.

Mục tiêu quốc gia 9: Thúc đẩy tinh thần đổi mới, sáng tạo và không ngại thử thách

Hình thành trong mỗi cá nhân tư tưởng về sự đổi mới và không ngại thử thách , không ngừng học hỏi và sẵn sàng để suy nghĩ ban đầu và giới phê bình. Những nguyên tắc này bao gồm một tinh thần chủ động và sẵn sàng để làm một cái gì đó khác nhau, thậm chí nếu có nguy cơ thất bại. Cùng với điều này cần được bồi dưỡng khả năng phản ánh và thử lại, và sự sẵn sàng để làm việc và phấn đấu với các đội bóng.

Mục tiêu quốc gia 10: Bảo đảm sự bình yên và hạnh phúc của nhân dân.

Động lực chính trong nỗ lực phát triển của Bhutan là để duy trì hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc của mọi người dân,có cơ hội phát huy hết khả năng của mình. Giáo dục tạo là bệ đỡ giúp con người hướng tới những khả năng sống hạnh phúc về sức khỏe thể chất và tinh thần, sức sống cộng đồng, cân bằng công việc-cuộc sống, một tiêu chuẩn sống nề nếp, công dân có nghĩa vụ tham gia bảo vệ tính toàn vẹn và chân thực của sinh thái.

Page 23: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

2.4 Hồ sơ công dân Bhutan lý tưởng

1. Mindful – tỉnh thức

Có ý thức với bản thân và với những người khác, có sự tỉnh thức về văn hóa và tự kỷ luật; và tin vào chính bản thân; khám phá ra thế giới và ý tưởng của riêng bản thân; tôn trọng những giá trị của đạo Phật; thể hiện sự tôn trọng đối với những nền văn hóa khác; tôn trọng sự đa dạng; để trở thành công dân toàn cầu với những giá trị đạo đức và văn hóa mạnh mẽ; hợp tác và khoan dung; và có ý nghĩa cá nhân, tự tỉnh thức và khẳng định cá nhân, điều đó dẫn đến cảm xúc, tinh thần, tâm linh và sức khỏe cơ thể.

2. Caring – quan tâm

Tôn trọng, chăm sóc và yêu thương gia đình, người thân và cộng đồng; quan tâm đến phát triển hệ sinh thái bền vững; đánh giá làm việc nhóm và hợp tác;

3. Reflective – phản tư

Trở thành một người học tập suốt đời và người có khả năng phát triển, sử dụng kiến thức để kiến tạo nên một cộng đồng và một đất nước khác biệt; thích nghi, linh hoạt và quy nạp; thiết lập mục tiêu

Page 24: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

cụ thể liên quan trực tiếp đến bản thân và giá trị nhân quả cho bản thân và cho người khác; tư duy sâu và logic; và đánh giá các dữ kiện có nguyên tắc; đó là kết quả của việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản.

4. Disciplined – kỷ luật

Có trách nhiệm với bản thân và với người khác, thấu hiểu quy luật của cuộc sống; có mối liên hệ về tinh thần với sự tự hào của doanh nghiệp và của quốc gia; thích nghi, chấp nhận và linh hoạt; đánh giá tình huongs và kiến tạo nên giá trị đạo đức của bản thân; nội hóa giá trị đạo đức; duy trì sự công bằng và đa dạng trong cuộc sống; phát triển giá trị bản thân và đóng góp cho cộng đồng từ sự trung thực, tha thứ; thông cảm và tôn trọng người khác.

5. Active and informed – chủ động và thông tin

Trung thành với vua – quốc gia – con người (Tsa-Wa-Sum) và trở thành công dân có trách nhiệm và hiệu quả, yêu đất nước; quan tâm đến nguồn thiên nhiên và môi trường, tham gia vào cuộc sống cộng đồng, có ý thức bản thân là một thành viên của cộng đồng để có trách nhiệm với mọi người và với môi trường; chủ động tham gia vào các dự án phát triển bền vững; tôn trọng văn hóa xã hội, ngôn ngữ và đa dạng về tôn giáo của Bhutan; hiểu biết về hệ thống chính phủ và lịch sử của quốc gia; hiểu và tôn trọng giá trị văn hóa lâu đời; cam kết với nền dân chủ, công bằng và bình đẳng; hòa nhập vào cuộc sống của Bhutan, đóng góp cho những điều tốt đẹp chung; phát triển bền vững và tăng trưởng thiên nhiên và xã hội; và có trách nhiệm với công dân địa phương và toàn cầu.

6. Knowledgeable – có kiến thức

Khơi dậy tính tìm tòi và tìm kiếm tri thức nhân loại; kiến tạo tri thức và kiến tạo thế giới; có tầm nhìn toàn cầu về những vấn đề của Bhutan và liên kết với những phần còn lại của thế giới.

7. Creative – sáng tạo

Khả năng tìm tòi tri thức với tư duy mở rộng; sáng tạo và đam mê tìm hiểu những điều tốt đẹp, hướng tới sự hoàn hảo; tôn trọng vẻ đẹp của Bhutan và thế giới; tư duy về sáng tạo; tư duy khác biệt và phân tích phản biện; sáng tạo và mạnh mẽ, có khả năng giải quyết vấn đề có phương pháp liên kết các lĩnh vực và các nguyên tắc đã học.

8. Industrious – công nghiệp hóa

Thoải mái trong việc chia sẻ và hợp tác; tràn đầy năng lượng; thông thạo và hiệu quả trong những kỹ năng cụ thể liên quan đến công việc; có tư duy lạc quan về cuộc sống và tương lai – có năng lực lãnh đạo, đi đầu và sử dụng khả năng sáng tạo

9. Communicative – giao tiếp

Page 25: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Kết nối gia đình và trường học; an toàn và đánh giá mang tính xã hội, ý thức tương tác và hợp tác toàn cầu; xây dựng các mối quan hệ trong cộng đồng; có khả năng giao tiếp tốt bằng tiếng Dzongkha, tiếng Anh và tiếng địa phương; hòa hợp về văn hóa và truyền thống (bao gồm các giá trị của đạo Phật) trong quốc gia; và tôn trọng những điều trên; có năng lực liên kết và giao tiếp liên văn hóa đặc biệt là văn hóa của các nước Châu Á.

10.Skilful and productive – lành nghề và hiệu quả

Có năng lực triển khai các khái niệm học thuật của thế giới vào công việc; tham gia, đóng góp và hiểu biết các giá trị của làm việc chăm chỉ; áp dụng nhân quả trong tư duy và hành động; thiết lập và duy trì cuộc sống khỏe mạnh và hạnh phúc; có các kỹ năng cơ bản về ngôn ngữ, toán học và có khả năng sáng tạo, hiệu quả trong sử dụng công nghệ; như một nền tảng thành công trong mọi lĩnh vực học tập; ra quyết định có sự xem xét đến các lĩnh vực liên quan; cam kết với phát triển bền vững và bảo vệ môi trường; làm việc để giải quyết các vấn đề Bhutan đang gặp phải; kết nối kiến thức với các lĩnh vực liên quan để thúc đẩy sự hiểu biết về thế giới; bộc lộ năng lực lãnh đạo và quản lý xung đột.

11.Confident individual – tự tin

Tự tin và có năng lực đạt được tiêu chí vào đại học hoặc dạy nghề, dẫn đầu trong đội ngũ nhân sự; tiếp cận cơ hội; ra những quyết định phù hợp và thông minh trong cuộc sống, chấp nhận trách nhiệm với các hành động bản thân; luôn dẫn dắt bản thân trong việc cân bằng

cuộc sống; sống khỏe mạnh, cơ thể khỏe manh và có khả năng đối mặt, thích nghi với tình huống thay đổi trong cuộc sống; luôn vui vẻ, khỏe mạnh và hạnh phúc trong cuộc sống, thúc đẩy môi trường sống khỏe mạnh.

12.Self-directed life-long learner – tự chủ học tập suốt đời

Phát triển năng lực học và phát hiện tiềm năng của mỗi cá nhân; chủ động trong việc học; có năng lực lên kế hoạch độc lập, hợp tác, làm việc nhóm và giao tiếp về ý tưởng; giúp thế giới trở nên có ý nghĩa và tư duy về mọi sự việc theo cách mà sự việc đó tồn tại; luôn trên con đường tiếp tục đến thành công trong việc liên tục học tập, đào tạo và làm việc; đáp ứng các yêu cầu về kỹ năng để học tập và ra quyết định trong suốt cuộc đời; luôn có động lực để đạt đến tiềm năng toàn diện của cá nhân.

Page 26: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Hồ sơ của một công dân Bhutan lý tưởng

1. Mindful – tỉnh thức

2. Caring – quan tâm

3. Reflective – phản tư

4. Disciplined – kỷ luật

5. Active and informed – chủ động và thông tin

6. Knowledgeable – có kiến thức

7. Creative – sáng tạo

8. Industrious – công nghiệp hóa

9. Communicative – giao tiếp

10.Skilful and productive – lành nghề và hiệu quả

11.Confident individual – tự tin

12.Self-directed life-long learner – tự chủ học tập suốt đời

Page 27: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

2.5 Tầm nhìn giáo dục ở Bhutan

Một hệ thống nuôi dưỡng những người xuất sắc và trao quyền cho người dân Bhutan trở thành những công dân có trách nhiệm và học tập suốt đời là chìa khóa của mọi thành công, được thúc đẩy bởi một tinh thần đổi mới, sáng tạo và không ngại thử thách, để duy trì hạnh phúc của cuộc sống và bảo vệ các hệ sinh thái hữu cơ và vô cơ.

Page 28: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

2.6 Tầm nhìn cho giáo dục trường học

Giáo dục trường học hình dung ra một Bhutan mà mọi vấn đề về trẻ em và có khởi đầu tốt nhất trong cuộc sống. Đây là tầm nhìn có hướng đi mới đầy táo bạo cho các trường học trên cả nước. Các trường học này tạo một môi trường kích thích trí tuệ cho sinh viên, giáo viên và những người chăm sóc một cách như nhau.

Cộng đồng, phụ huynh, người lao động, các trường cao đẳng và đại học sẽ tự hào chào đón học sinh tốt nghiệp thế kỷ 21 như một thế hệ tốt nhất trong lịch sử Bhutan.

Nhận thấy tầm nhìn này là quan trọng và có khả năng đạt được thông qua các nhà hoạch định chính sách và trường học hiện nay. Tầm nhìn này đưa ra một hướng đi hay đường mòn để tạo ra một nơi có:

• Tất cả trẻ em có thể nắm bắt nội dung, kỹ năng và giá trị cốt lõi.

• Giảng dạy và học tập phải có tính ứng dụng cao.

• Nhu cầu cá nhân được đáp ứng và trẻ em có cơ hội để khám phá điểm mạnh của bản thân, phát triển tiềm năng và xây dựng năng lực để học tập suốt đời.

• Tất cả trẻ em phát triển và sử dụng các kỹ năng học tập, kỹ năng thông tin và truyền thông, kỹ năng tư duy, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp và giác ngộ được tư tưởng tự học để đạt thành tích cao trong học tập và trong cuộc sống.

• Các chiến lược giảng dạy và phát triển chuyên nghiệp cho phép các nhà giáo dục giúp sinh viên lĩnh hội được những kiến thức, kỹ năng và giá trị mà họ cần trong thế kỷ 21.

•Mỗi học sinh, giáo viên và người chăm sóc trẻ có quyền truy cập vào các công cụ và công nghệ thế kỷ 21, sử dụng chúng để làm việc hiệu quả hơn.

• Các công cụ và bối cảnh thế kỷ 21 gắn liền với các lĩnh vực học tập và đánh giá học tập.

Page 29: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

2.7 Các mục tiêu giáo dục

Nâng cao trình độ văn hóa cho toàn dân được xem là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện tầm nhìn giáo dục, đạt được các mục tiêu quốc gia bao quát của Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia (GNH) và xây dựng một Bhutan hòa bình, dân chủ, có chủ quyền, an toàn, ổn định và tự túc, đầy sáng tạo và sức sống. Để xây dựng một môi trường trí tuệ kích thích khả năng phát triển mạnh, trong đó mỗi đứa trẻ có thể nhận tiềm năng của mình và là nơi người lớn được trao cơ hội và được hỗ trợ cho mục tiêu học tập của mình. Hiến pháp chỉ thị , "Nhà nước sẽ nỗ lực để cung cấp giáo dục với mục đích cải thiện và tăng cường kiến thức, giá trị và kỹ năng của toàn dân với nền giáo dục hướng tới sự phát triển toàn diện nhân cách con người." Đáp ứng các chỉ thị của hiến pháp về giáo dục cung cấp cho toàn bộ dân số đòi hỏi các biện pháp bổ sung để đảm bảo tiếp cận bình đẳng, nâng cao chất lượng và tính phù hợp của giáo dục. Mục tiêu cụ thể trong vấn đề này sẽ bao gồm những điều sau đây:

Mục tiêu giáo dục 1

Các chỉ tiêu đề ra:

• Cùng độ tuổi, tất cả trẻ em được tiêm chủng BCG, bại liệt, DPT, MMR và viêm gan B.

• Trẻ em đạt được cân nặng theo tuổi / chiều cao theo các chỉ số của  Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ trên (MDG)

• Các chương trình kích thích ban đầu đượ cung cấp tại gia, cộng đồng và các trung tâm giáo dục sớm.

• Cộng đồng đang quan tâm đến vấn đề can thiệp sớm.

Mục tiêu giáo dục 2

Các chỉ tiêu đề ra:

• Học sinh hoàn thành giáo dục cơ bản cho đến lớp 10 

Trẻ em 0-4 tuổi được hỗ trợ, được bảo đảm phát triển lành mạnh, phát triển đầy đủ tiềm năng và nhận được sự chăm sóc và sự khuyến khích để đạt được sự khởi đầu tốt nhất trong cuộc sống; Trẻ từ 4 đến 6 tuổi được trang bị đầy đủ kiến thức bước tiếp vào tiểu học, và được hỗ trợ học tập để ổn định trong những năm đầu của giáo dục tiểu học. Trẻ em (6-16 tuổi) đang đi học phải hoàn

thành giáo dục phổ cập có chất lượng, người học làm trung tâm và bình đẳng giới trong giáo dục; chúng phải đạt được các tiêu chuẩn học tập chung trên toàn quốc.

Page 30: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

• Tốc độ lưu ban giảm.

• Cơ hội và hỗ trợ bình đẳng cho tất cả học sinh

• Dịch vụ Tư vấn được cung cấp theo yêu cầu trong tất cả các trường.

Mục tiêu giáo dục 3

Các chỉ tiêu đề ra:

• Cơ hội bình đẳng và hỗ trợ học sinh hoàn thành giáo dục bậc trung học phổ thông..

• Đa dạng hóa các chương trình giảng dạy để sinh viên có cơ hội theo đuổi các khóa học theo sự lựa chọn, khả năng và sở thích của riêng mình.

• Cơ hội để hoàn thành lớp trang bị đại học (Pre-U) cung cấp cho 60-70% số học sinh hoàn thành giáo dục phổ cập.

• Cơ hội để hoàn thành Giáo và đào tạo nghề (VET) cung cấp khoảng 30-40% số học sinh hoàn thành giáo dục phổ cập.

• Các trung tâm thiết lập thông tin nghề nghiệp cho phép sinh viên lựa chọn đúng đắn quyết định của họ.

 • Trang bị đại học hay lực lượng lao động bằng cách tiếp tục nâng cao tiêu

chuẩn giáo dục của Bhutan và cải thiện đánh giá học tập

Mục tiêu giáo dục 4

Các chỉ tiêu đề ra:

• Mở rộng các trường giáo dục kỹ thuật, nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho các ngành công nghiệp và dịch vụ, bao gồm cả giáo dục tư nhân. Với nội dung học tập tương đương.

• Cải thiện nguồn nhân lực trong giáo dục: đào tạo tốt hơn và trình độ chuyên môn.

• Đa dạng hóa các chương trình học dành cho sinh viên với một loạt các lựa chọn chủ đề và con đường sự nghiệp trong tương lai

Mục tiêu giáo dục 5

Các chỉ tiêu đề ra:

• Các nhóm khác nhau (trẻ em ở vùng sâu vùng xa, các bộ lạc du mục, các cộng đồng khác nhau, trẻ em có nhu cầu

Học sinh hoàn thành phổ cập giáo dục được cung cấp cơ hội để học tiếp bậc giáo dục trung học và cao hơn, từ đó đạt được năng lực cần thiết về kiến thức, kỹ năng, thái độ và giá trị sống.

Trẻ em và thanh niên, không phân biệt nền kinh tế-xã hội, khả năng của họ và nhu cầu đặc biệt được cung cấp với các cơ hội nhận ra tiềm năng của mình.

Học sinh hoàn thành trung học phổ thông phải được tiếp cận giáo dục đại học với trên cơ sở năng lực, sở thích và kỹ năng.

Page 31: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

đặc biệt) cần được hỗ trợ xác định nhu cầu của bản thân.

• Nhu cầu của học sinh được giải quyết thông qua hỗ trợ toàn diện, tạo động lực để nhận ra tiềm năng của mình và đáp ứng kỳ vọng cao trong học tập.

• Một chính sách giáo dục thông qua kết hợp các nội dung, phương pháp tiếp cận, cơ cấu và chiến lược giáo dục hòa nhập.

• Hỗ trợ từ gia đình, cộng đồng và các tổ chức công cộng được huy động; nhận thức được tạo ra trong nhân dân; gia tăng trẻ em trong chương trình Chăm sóc và phát triển trẻ thơ (ECCD) và đào tạo giáo viên chuyên nghiệp trong các chiến lược bình đẳng và hòa nhập.

Mục tiêu giáo dục 6

Các chỉ tiêu đề ra:

• Chương trình giảng dạy chuẩn dựa trên tất cả các môn học trong giáo dục phổ cập.

• Mức độ học sinh đạt thành tích trong giáo dục phổ cập phù hợp với mong đợi của cấp lớp.

• Đa dạng hóa chương trình cung cấp nhiều con đường cho học sinh cấp trung học phổ thông.

• Thành thạo Khoa học, Toán học và Ngôn ngữ, theo tiêu chuẩn đánh giá quốc tế.

• Hệ thống đánh giá được thiết kế chặt chẽ hỗ trợ chương trình giảng dạy và theo dõi sự tiến bộ của học sinh ở tất cả các cấp.

• Kiểm tra mặt bằng chung ở cuối lớp 10 và lớp 12

• Đánh giá giáo dục quốc gia 4 năm/ lần, ở lớp 4, lớp 6 và lớp 8.

• Tham gia vào các nghiên cứu quốc tế đạt chuẩn Bhutan để cạnh trạnh các quốc gia khác.

Mục tiêu giáo dục 7

Các chỉ tiêu đề ra:

• Hệ thống tiêu chí dựa trên việc tuyển dụng, duy trì và cấp bậc.

• Khái niệm nhà lãnh đạo, giáo viên phải luôn được định nghĩa theo con đường sự nghiệp nghề giáo

• Liên tục tham gia các khóa học bồi dưỡng về phát triển chuyên môn và lãnh đạo.

• Đánh giá tiêu chuẩn quốc gia cho giáo viên và lãnh đạo nhà trường.

• Cung cấp cơ sở hạ tầng, môi trường làm việc hỗ trợ và nguồn lực thích đáng để lãnh đạo nhà trường và giáo viên phát huy hết khả năng của họ.

Các nội dung và quá trình giáo dục phải phù hợp với nhu cầu đa dạng của người học và thúc đẩy phát triển thể chất, trí tuệ, tình cảm, xã hội, đạo đức để phát triển tiềm năng bẩm sinh.

Lãnh đạo nhà trường và giáo viên có năng lực và trình độ.

Page 32: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Mục tiêu giáo dục 8

Các chỉ tiêu đề ra:

• Mọi công dân phải biết đọc, viết và nói tiếng Dzongkha và tiếng Anh.

• Mỗi công dân đều phải trang bị cho mình những kỹ năng sống cơ bản.

Mục tiêu giáo dục 9

Các chỉ tiêu đề ra:

• Tăng lượng tuyển sinh tại các trường giáo dục thường xuyên và các chương trình giáo dục không chính quy (NFE).

• Tăng cường khả năng tiếp cận với các cơ hội giáo dục hướng nghiệp

Mục tiêu giáo dục 10

Các chỉ tiêu đề ra:

• Nhà hoạch định giáo dục và quản lý các cấp được đào tạo và có trình độ để hỗ trợ quản lý một cách hiệu quả.

• Tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ ở tất cả các cấp.

• Giám sát cơ chế đánh giá, đảm bảo chất lượng dịch vụ và hoạt động giáo dục ở tất cả các cấp.

• Cải thiện truyền thông và kết nối mạng trên toàn hệ thống.

• Quản lý phi tập trung và trao quyền ở cấp địa phương.

Mục tiêu giáo dục 11

Các chỉ tiêu đề ra:

• Thiết lập từ 5-6 trường học kiểu mẫu (bao gồm các trường trung học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông) ở mỗi quận.

• Mỗi cộng đồng có một Hội Phụ Huynh và Giáo viên, ra quyết định và hỗ trợ giáo dục trong cộng đồng.

• Cung cấp một môi trường thân thiện cho trẻ tại trường học.

• Tiếp cận tài liệu học tập và giảng dạy, không gian học tập và vui chơi có chất lượng

Lãnh đạo nhà trường và giáo viên có năng lực và trình độ.

Nâng cao kiến thức, kỹ năng và năng lực cho thanh niên và người lớn bằng cách tiếp cận các chương trình mở rộng để tiếp tục học tập, đào tạo kỹ năng và kỹ năng sống.

Lập kế hoạch và quản lý hiệu quả ngành giáo dục ở tất cả các cấp.

Thiết lập mạng lưới giữa các tổ chức giáo dục, các bậc cha mẹ, cộng đồng, người lao động và các nhà cung cấp tư nhân.

Page 33: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

• Duy trì tốt các nguồn lực và trường học để cung ứng kịp thời các nguồn lực cần thiết cho các trường học.

• Phân bổ hợp lý nguồn tài trợ theo nghĩa vụ và trách nhiệm.

Mục tiêu giáo dục 12

• Giáo viên có thể truy cập và đào tạo để tích hợp công nghệ thông tin trong quá trình học tập teaching- và sử dụng các công cụ công nghệ thông tin phù hợp.

• Học sinh nắm bắt kỹ năng đọc thông tin cơ bản, truy cập nội dung học qua mạng và các dịch vụ mạng để đạt được mục tiêu học tập của mình.

• Tăng cường tính hiệu quả của việc dạy và học, đào tạo và phát triển của giáo

viên và lãnh đạo nhà trường, thông qua sự hỗ trợ của công nghệ.

 • Sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong công tác quản lý trường học.

Mục tiêu giáo dục 13

• Tất cả trẻ em có cơ hội bình đẳng để học tập tại trường học chất lượng cao.

• Cân bằng giới tất ở cả các lĩnh vực trong trường học, bao gồm cả nhập học và duy trì học sinh, nội dung giảng dạy, cơ sở hạ tầng và hoạch định.

Hệ thống giáo dục đã đạt được một số mục tiêu nêu trên. Tại các khu vực khác, Bhutan cần áp dụng chiến lược rõ ràng. Việc đề ra các mục tiêu là để hướng tới nâng cao chất lượng giáo dục, tạo ra một sự hỗ trợ mạnh mẽ cho việc đổi mới giáo dục, cung cấp các dữ liệu so sánh cho việc thông báo công khai, và giúp các quận huyện chủ động hơn nữa.

Tất cả các cơ sở giáo dục có quyền truy cập vào công nghệ thông tin và truyền thông.

Trẻ em được tiếp cận nền giáo dục chất lượng cao, không phân biệt hoàn cảnh gia đình

Page 34: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Phần 3:

Đổi mới chương trình giáo dục ở Bhutan

3.1 Tổng quan về hệ thống giáo dục

Giáo dục luôn đóng một vai trò chính yếu trong sự chuyển đổi của Bhutan từ một xã hội truyền thống - ràng buộc thành một tham dự viên tự tin năng động trong các sự kiện vùng và toàn cầu (Giáo dục không thỏa hiệp, 2008). Là một phần của chiến lược phát triển rộng hơn do chính phủ đề ra nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của tất cả người dân Bhutan, lĩnh vực giáo dục vẫn luôn chiếm ưu thế cao trong tất cả các kế hoạch phát triển Năm năm. Điều đặc biệt nhấn mạnh ở đây tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận giáo dục ở tất cả các cấp, đạt chuẩn phổ cập giáo dục, cải thiện tiêu chuẩn và chất lượng giáo dục, thay đổi nhận thức, nâng cao trình độ văn hoá dân số trưởng thành, và tạo mối tương quan giữa giáo dục với môi trường làm việc. Việc mở rộng giáo dục trung học, giáo dục đại học và xúc tiến khẩu hiệu “Học, học nữa, học mãi” luôn gắn liền với sự ưu tiên vì những đóng góp đáng kể vào sự tiến bộ về chất lượng và mức độ phát triển nguồn nhân lực .

Một trong những thế mạnh của Bhutan là hệ thống trường học mặt bằng chung . Hầu hết tất cả trẻ em đều được đến trường dựa trên định hướng giáo dục và vận hành bởi chính phủ theo một cách nhất định. Không có sự phân tầng trường học đối với người nghèo, bậc trung lưu và người giàu. Điều này đảm

bảo rằng các trường học rất sự đa dạng, phong phú và là cộng đồng triển vọng có sức ép lên hệ thống để đạt được kết quả. Các trường học và giáo viên được cung cấp theo yêu cầu môn học. Hệ thống đang tiến hóa và mọi nỗ lực đều hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện (ASSL, 2008).

Việc cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục đang gia tăng đáng kể về số lượng giáo viên ở tất cả các cấp. Tính đến tháng 3 năm

Page 35: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

2008, đã có 7321 giáo viên1 Hầu hết phụ thuộc vào giáo viên người nước ngoài trong những năm 1960, hệ thống giáo dục Bhutan đã chuyển hướng tự cung tự cấp. Một so sánh giữa năm 1997 và 2011 cho thấy sự

gia tăng ấn tượng về con số tuyệt đối và tỷ lệ giáo viên bản ngữ Bhutan. Lượng nhu cầu đối với giáo viên là rất lớn, có thể nói nhu cầu nâng cao chất lượng dạy và học hiện tại cần thiết hơn trước đây.

 Có ba hệ thống giáo dục chính ở Bhutan.

1. Tu viện Giáo dục2. Chính quy , Giáo dục dựa trên nền tảng tổ chức3. Không chính quy, và giáo dục thường xuyên

Hình 1: Ba hệ thống giáo dục chính ở Bhutan

3.1.1 Tu viện Giáo dục

Phật giáo được truyền đến Bhutan vào thế kỷ thứ 8, đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình sự phát triển xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa của đất nước. Cho đến khi giai đoạn đầu của nền giáo dục hiện đại những năm 1960, nền giáo dục duy nhất chỉ có ở Bhutan là các trường học tu viện. Qua nhiều thế kỷ, rất nhiều vị lạt ma và tầng lớp quý tộc địa phương đã thiết lập các lĩnh vực mang bản sắc riêng đất nước con người Bhutan.

Zhabdrung Ngawang Namgyal (1594-1652) vào thế kỷ 17, đã giới thiệu một hệ thống kép về sự cai trị, trong đó các cơ quan chức năng tạm thời và tôn giáo đã được tách ra và trao cho các

1

Page 36: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Druk Desi và Je Khenpo tương ứng. Đức Đạt Lai Lạt Ma, Je Khenpo, là người đứng đầu về mặt tâm linh của đất nước và quản lý Dratshangs hoặc các tổ chức tu viện.

Đức Đạt Lai Lạt Ma được hỗ trợ bởi năm Lopens, người tương đương với Bộ trưởng, theo nghi thức ngoại giao. Dorji Lopen - Vajra Master hay Mật tông tiến hành nghi lễ Jekhenpo trong việc thực hiện các nghi lễ lễ hội hàng năm và các hoạt động nghi lễ khác trong Dragshang. Drapi Lopen – Grammar và Vocal teacher có trách nhiệm dịch thuật và đảm nhận các tác phẩm văn học. Ông cũng là bậc thầy về ngữ pháp và giám sát các hoạt động triết học Phật giáo trong Dratshang. Tshenyid Lopen - Giáo viên Phật Siêu hình học chịu trách nhiệm mảng lý luận và giảm thiểu bất kỳ tranh cãi nảy sinh giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Yangpi Lopen - Giáo viên Ritual Hymns chịu trách nhiệm cho tất cả các thủ tục nghi lễ tôn giáo và thánh ca trong Dratshang. Tsuglag Lopen - giáo viên đứng đầu Học viện Phật giáo phụ trách tất cả trường Đại học Phật giáo, các Viện, Trung tâm Thiền và Tu viện trường học. Ông giám sát việc thành lập và điều hành quản lý của tất cả các tổ chức này.

Có hai loại trường học tu viện – được chính phủ hỗ trợ và dưới quyền hạn của vua Je Khenpo, các trường tu viện tư nhân được thành lập, quản lý bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo khác.

• Shedras, các tu viện đại học, giảng dạy nghiên cứu Phật giáo và triết học, chiêm tinh học, ngôn ngữ (Choekay, Dzongkha và Phạn), thực hành tôn giáo… Các trường đại học chứng nhận trình độ tương đương với bằng Cử nhân và Thạc sĩ. Việc hoàn thành các nghiên cứu trong Shedras thường mất đến chín năm. Sinh viên tốt nghiệp từ Shedras có thể làm việc như giáo viên bản ngữ trong các trường học và tìm kiếm việc làm trong hệ thống chính phủ ngày càng gia tăng.

• Dratsangs, các trường tu viện, thường được đặt trong các pháo đài. Các học viên thường là tu sĩ. Chương trình giảng dạy tập trung vào thực hành tôn giáo, nghi lễ và cầu nguyện. Họ tìm hiểu về đọc lời cầu nguyện, bằng các vật tôn giáo, và chuẩn bị tormas (cúng bánh). Sau khi hoàn thành việc học sơ bộ của họ tại các tu viện, tu sĩ người mới có thể đi đến các trường đại học Phật giáo để theo đuổi việc học cao hơn trong khoa học và triết học Phật giáo. Họ cũng đi đến Dratsangs để được tiếp xúc với thực hành nghi lễ. Các tu sĩ trong Dratsangs cũng phục vụ cho cộng đồng địa phương bằng cách truy cập nhà để thực hiện lời cầu nguyện và trì tụng.

• Gomdeys là các trung tâm thiền định nơi các học viên thiền định dành nhiều thời gian để suy ngẫm về kiến thức và trí tuệ đã đạt được trong quá trình học tập của họ. Gomchens thường được hiểu theo nghĩa đen là "thiền sư", các giáo dân là những người được đào tạo về khoa học và thực hành Phật giáo, nhưng không được phong chức linh mục. Gomdeys thường vận hành bởi người đứng đầu tôn giáo tại địa phương và được tài trợ bởi các cộng đồng cũng như các cá nhân.

Page 37: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

3.1.2 Hệ thống giáo dục chính quy

Hệ thống giáo dục chính quy bao gồm cả Giáo dục dựa trên nền tảng tổ chức từ mầm non đến đại học. Bhutan hiện đang có một chu trình giáo dục tiểu học 7 năm, bao gồm cả một năm của giáo dục mầm non, tiếp đó là 6 năm trung học và hướng tới Đại học. Chương trình giáo dục bậc trung học bao gồm hai năm của trường trung học cơ sở, hai năm trung học và hai năm học trung học phổ thông. Trẻ em bắt đầu đi học lúc 6 tuổi tương đương với lớp mẫu giáo. Giáo dục cơ bản miễn phí tại Bhutan kéo dài từ lớp mẫu giáo đến lớp X (lớp 10).

Sau khi hoàn thành xong lớp X (lớp 10), học sinh tiếp tục học chuyên ngành của mình khi học lớp XI (lớp 11) và XII (lớp 12) tại các trường trung học phổ thông, tham gia các trường đào tạo nghề, hoặc gia nhập vào thị trường lao động. Đầu vào lớp XI (lớp 11) tại các trường công lập phụ thuộc vào thành tích của học sinh trong Giấy chứng nhận Bhutan cho Giáo dục Trung học (BCSE) ở cuối lớp X (lớp 10). Những sinh viên đủ tiêu chuẩn theo quy định của Hội đồng quản trị đồng thời được tuyển chọn tại vùng, sẽ được chính phủ tài trợ giáo dục hoặc nhận học bổng du học nước ngoài.

Page 38: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Lớp 7- Lớp 10Mẫu giáo - Lớp 6

Lớp 6

Trung cấp nghề

Lực lượng lao động

Cử nhân hoặc Chứng chỉ Lớp 11 – Lớp 12

Những học sinh không được chọn theo tiêu chuẩn có thể theo học các trường dân lập cấp cao ở Bhutan hoặc nước ngoài, theo diện tự túc. Những người còn lại có tham gia các khóa học nghề được nhà nước tài trợ hoặc của do tư nhân tổ chức. Thời gian đào tạo nghề của trường công lập cũng như trường dân lập khá đa dạng, tùy thuộc vào khóa học. Các ngành đào tạo nghề trình độ trung cấp nghề bao gồm kỹ thuật, các khóa học nông nghiệp, khoa học sức khỏe và các dịch vụ hỗ trợ văn phòng.

Hình 2: Cơ cấu hệ thống giáo dục ở Bhutan, 2008

Tiểu học

Độ tuổi: 6-12

Trung học cơ sở

Độ tuổi: 13-16

Trung học phổ thông

Độ tuổi: 17-18

Đại học

Độ tuổi: 19-22

Trung cấp nghề

Độ tuổi: 17+ (VTI)

Sau khi tốt nghiệp lớp 12 (BHSEC), học sinh ghi danh vào các trường đại học hoặc gia nhập thị trường việc làm. Một số sinh viên tốt nghiệp từ các trường kỹ thuật, chẳng hạn như Jigme Namgyel Polytechnic, cũng được lựa chọn để tiếp tục việc học ở bậc đại học. Học sinh phải tham gia một trong những viện nghiên cứu của trường Đại học Hoàng gia Bhutan (RUB) để sở hữu cho mình tấm bằng tốt nghiệp hay bằng cử nhân hoặc tiếp tục các nghiên cứu của mình ở nước ngoài. Đại học Hoàng gia Bhutan cung cấp các khóa học dựa trên kết quả của kỳ thi lớp 12. Bên cạnh đó, một số ít sinh viên được học bổng từ chính phủ cho các nghiên cứu chuyên

Page 39: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

nghiệp ở nước ngoài, họ là những người có thể tự túc thông qua các tổ chức giáo dục đại học trong và ngoài nước.

Mặc dù có nhiều bất lợi trong việc thiết lập các cơ sở giáo dục với tình hình dân số phân bố không tập trung dạng địa hình đồi núi, Bhutan đã có những tiến bộ đáng kể trong việc mở rộng hệ thống giáo dục của mình. Hiện đã có sự tăng trưởng đáng chú ý trong các cơ sở giáo dục và học ở tất cả các cấp học, đặc biệt là cấp tiểu học và trung học. Năm 1960 chỉ có 11 trường ở Bhutan với khoảng 400 sinh viên. Trong năm 2008, số trường học đã tăng lên đến 523 với khoảng 157.112 sinh viên (Tổng cục thống kê, 2008) 3. Một yếu tố quan trọng góp phần vào sự gia tăng số lượng trường học cũng như tuyển sinh đầu vào chính là việc nâng cao nhận thức về giá trị của giáo dục cho tất cả người dân Bhutan.

Chương trình Chăm sóc và phát triển trẻ thơ (ECCD)

Hiện nay, các chương trình Chăm sóc và phát triển trẻ thơ (ECCD) ở Bhutan vẫn bị giới hạn trong một vài trung tâm cung cấp dịch vụ y tế và dinh dưỡng. Thiếu sự lồng ghép, chưa tiếp cận toàn diện và thiếu các dịch vụ chăm sóc lâu dài. Tuy nhiên, các bậc cha mẹ cũng đang dần nhận thấy tầm quan trọng của dinh dưỡng đối với sự phát triển, tăng trưởng ở trẻ nhỏ. Bên cạnh đó, một số chính sách về chương trình Chăm sóc và phát triển trẻ thơ vẫn đang được phát triển, một số khu vực tư nhân sáng kiến chương trình Chăm sóc và phát triển trẻ thơ thông qua việc thành lập các trường mẫu giáo ở các trung tâm đô thị lớn của Thimphu, Phuntsholing và một vài bộ phận khác của quốc gia này 4.

Hệ thống trường tiểu học

Bậc học 2000 2008 2010 2011

Mẫu giáo 13178 15242 16035 14670

Lớp 1- Lớp 6 71919 90858 94334 96503

Lớp 7- Lớp 10 23301 40855 46722 48834

Lớp 1- Lớp 12 1940 10157 13314 13940

Bảng 1: Số liệu nhập học cho mỗi lớp

Trên chặng đường tiến tới các Mục tiên Thiên niên kỷ (MDG), Bhutahn đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2015. Tiến bộ to lớn này đánh dấu thời kỳ mà con người đều được tiếp cận giáo dục tiểu học trong vài năm gần đây. Số lượng các trường tiểu học tăng từ 92 trong năm 1977 lên đến 355 trong năm 2008, bao gồm 261 trường tiểu học công

Page 40: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

cộng 5. Việc tuyển sinh (bậc mầm non) tăng từ 13.491 năm 2002 lên 106.100 vào năm 2008 (Tổng cục thống kê năm 2008) 6. Vẫn tồn đọng một sự suy giảm trong khâu tuyển sinh mầm non, có thể nói việc thành lập các cở sở phòng học mở rộng ở vùng sâu vùng xa và tốc độ tăng trưởng giảm cũng như tỷ lệ sinh giảm trong cả nước ảnh hưởng không nhỏ đến khâu tuyển sinh này.

Nội dung giáo trình và sách giáo khoa cho giáo dục tiểu học đã được đổi mới nhằm tăng cường mối tương quan giữa nhu cầu và bối cảnh của Bhutan. Tỷ lệ duy trì trường học (có nghĩa là, tỷ lệ học sinh bắt đầu từ mẫu giáo và bước vào năm cuối cùng của cấp tiểu học) tăng hơn gấp đôi từ 35 phần trăm trong năm 1990 xuống còn 78,8 phần trăm trong năm 2000, khoảng 87 phần trăm trong năm 2008 (Tổng cục thống kê năm 2008) 7.

Nhận thức về giá trị giáo dục ngày càng tăng, các bậc cha mẹ ủng hộ con em họ đến trường đông thời tích cực tham gia xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo trẻ em có trường học trong phạm vi đi bộ, xe đạp thuận tiện. Hộ gia đình nông thôn cũng góp sức vào việc xây dựng và duy trì "các trường tiểu học cộng đồng”, tăng cường các dịch vụ giáo dục tiểu học ở vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng ra sức hỗ trợ nguồn lao động có tay nghề, vật liệu xây dựng không có sẵn tại địa phương, giáo viên, sách giáo khoa, và các mặt hàng văn phòng phẩm cho học sinh.

Hệ thống trường trung học

Sự thành công của việc mở rộng giáo dục tiểu học là bước khởi sắc mở đường cho học sinh nhập học vào trường trung học. Số lượng học sinh nhập học từ lớp 7 đến lớp 10 tăng từ 28.883 năm 2003 lên 40.855 trong năm 2008 8.

Với nền giáo dục cơ bản được nâng lên từ lớp 8 đến lớp 10, ngày nay đa phần học sinh học đến lớp 10 và xa hơn nữa. Trong năm 2008, đã có 32 trường trung học phổ thông. Trong những năm gần đây, số lượng thí sinh đăng kí thi/ xét tuyển vào lớp 11-lớp 12 ngày càng tăng từ 5.804 năm 2003 lên 10.157 trong 2008 9. Khuyến khích phát triển các loại hình trường học ngoài công lập nhằm giảm áp lực lên hệ thống trường công lập. Trong năm nay, cả nước có 27 trường tư nhân.

Năm Lớp Số lượng học sinh

Tỷ lệ trúng tuyển (%)

2000 10 3159 80%

2007 10 7924 96%

2000 12 529 89%

2007 12 5027 85%

Bảng 2: Kết quả Ban Khảo thí Bhutan (BBE) cho học sinh lớp 10 và lớp 12

Page 41: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Tổng số sinh viên tham gia dự thi hai khối lớp 10 và 12 được tăng lên đều đặn trong vài năm qua. Số lượng học sinh tham dự tuyển sinh lớp 10 tăng từ 3159 trong năm 2000 lên 7924 trong năm 2007 trong khi số lượng học sinh tham dự tuyển sinh lớp 12, tăng 529 lên 5 027 cùng thời điểm. Trong năm 2007, tỷ lệ trúng tuyển vào lớp 10 và lớp 12 tương đương là 96 và 85. Tuy nhiên, tỷ lệ hoàn thành phổ cập giáo dục cơ bản là 54% so với tỷ lệ hoàn thành bậc tiểu học là 87%, bao gồm tỷ lệ học sinh lưu ban trước khi lên lớp 10 (Tổng cục thống kê, 2008) 10.

Năm 2006, Hội đồng thi Bhutan đảm nhận việc tiến hành kỳ thi tuyển sinh các lớp 12 cùng Hội đồng Giáo dục Trung học Ấn Độ (ICSE). Quan hệ hợp tác này mang lại nhiều kết quả tốt đẹp cho nền Giáo dục Trung học của Bhutan.

Hình 3: Tỷ học sinh lưu ban và học sinh quay lại lớp

Học sinh lưu ban và học sinh quay lại lớp chiếm tỷ lệ rất cao, được chỉ ra trong các thống kê gần đây (thống kê chung năm 2008). Tỷ lệ lưu ban cao nhất vẫn là học sinh lớp 4 và tỷ lệ học sinh lưu ban cao nhất là lớp 9 .12

 

Giáo dục hòa nhập trẻ em gái

Bhutan đã có những tiến bộ đáng kể trong việc bảo đảm việc tiếp cận giáo dục chất lượng cho trẻ em gái. Tỷ lệ nữ sinh bậc tiểu học, trung học cơ sở và trung cấp tăng đều đặn trong suốt thập kỷ qua. Nữ chiếm 49,5 phần trăm tổng số học sinh ở cấp tiểu học trong năm 2008, so với 44 % trong năm 1996. Hơn nữa, tỷ lệ nhập học trung học phổ thông đối với trẻ em gái là bước

Page 42: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

khởi đầu vững chắc giúp các em thành công ở bậc đại học sau này. Tỷ lệ nữ sinh gia nhập bậc trung học tăng từ 45 phần trăm trong năm 2002 lên 50 phần trăm trong năm 2008, tăng 5% trong sáu năm qua 13. Tỷ lệ nam nữ tại trường học tăng lên đều đặn, cứ 69 bé gái thì có 100 bé trai vào năm 1990, tỷ lệ tăng nhanh ở mức 100 bé gái/100 bé trai ở cấp tiểu học trong năm 2008. Cân bằng giới ở trung học cơ sở là 96 bé gái/100 bé trai. Với tỷ lệ nữ sinh bậc tiểu học hiện nay, đây sẽ là bước nhảy tiến tới cân bằng giới ở cấp trung học.

Tỷ lệ trẻ nữ đang học lớp cuối tiểu học cao hơn so với trẻ nam. Trong năm 2007, tỷ lệ học sinh nữ lên lớp 6 so với nam là 92,2 %/ 79 % 14. Tỷ lệ nữ đang theo học lớp 10 so với nam là 76%/64,5% .

Chỉ có 37% sinh viên học tập tại các trường cao đẳng và các trường Đại học Hoàng gia Bhutan (RUB) là nữ. Chiếm khoảng 45% số sinh viên nhận học bổng du học ở nước ngoài, và khoảng 58% số sinh viên theo học ở nước ngoài theo diện tự túc. Việc tuyển sinh mặc bằng chung bậc đại học cửa nữ là ít hơn so với nam, chỉ có 6 nữ/ 7nam ở cấp độ này. Mặt khác, ‘Chênh lệch giới tính’ trong giáo dục tiểu học đã thu hẹp trong những năm qua, yếu tố kinh tế-xã hội không tác động đến sự tham gia của nữ so với nam trong giáo dục trung học và đại học.

Giáo dục và Đào tạo nghề

Để cung cấp việc làm cho số lượng sinh viên tốt nghiệp ngày càng tăng gia nhập lực lượng lao động, chính phủ các cấp dành ưu tiên cao cho giáo dục và đào tạo nghề. Chương trình giáo dục và đào tạo nghề hiện nay chỉ được cung cấp tại Viện đào tạo nghề (VTI). Đây là một bước ngoặt quan trọng liên quan đến sự hình thành của Chương trình Phát triển Kỹ năng cơ bản phạm vi hạn chế của các trường trung cấp từ năm 1999, trên cơ sở thí điểm. Mục tiêu của sự khởi đầu này nhằm thúc đẩy học sinh quan tâm đến sự đa dạng hóa ngành nghề cũng như nâng cao giá trị thị trường lao động. Các ứng viên xuất sắc nhất từ Viện đào tạo nghề (VTI) sẽ được tuyển dụng làm giảng viên dạy nghề trong các trường trung học phổ thông. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên dạy nghề tại các trường học thường xuyên được bồi dưỡng đào tạo, cải tiến để thích nghi với sự thay đổi của kỹ năng nghề nghiêp.

Các Viện đào tạo nghề (VTI) đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt các kỹ năng tuyển dụng cho những học sinh hoàn thành lớp 10 và lớp 12, mặt khác tham gia sản xuất lực lượng lao động tay nghề cao cho đất nước. Trong năm 2008, đã có bảy Viện đào tạo nghề (VTI), đạt mức tuyển sinh là 1.284 sinh viên. Cung cấp các chương trình giáo dục và đào tạo nghề như nghệ thuật truyền thống và hàng thủ công cho học sinh bỏ học sớm (bốn đến sáu năm), giấy chứng nhận 3 năm hành nghề cho ngành kỹ thuật cấp cao, khóa học lái xe 6 tháng cho học sinh vừa hoàn thành lớp 8, bằng chứng nhận 3 năm kỹ thuật cho học sinh tốt nghiệp lớp 10, khóa học đào tạo nông nghiệp 3 năm cho các sinh viên tốt nghiệp lớp 10, khóa đào tạo cán bộ y tế và điều dưỡng, thư ký, và khóa học lập trình máy tính cho học sinh hoàn thành lớp 8, 10 và 12.

Page 43: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Giáo dục trẻ có nhu cầu đặc biệt

Giáo dục hòa nhập cung cấp cho trẻ có nhu cầu đặc biệt tiếp cận giáo dục trong các trường học đặc biệt có cơ hội học tập tại các trường học hòa nhập là một mục tiêu giáo dục quan trọng. Viện Quốc gia về người tàn tật (NID) tại Khaling đã được mở rộng dành cho sinh viên khiếm thị. Viện Quốc gia về người tàn tật ( NID) hướng dẫn cho trẻ đọc, viết chữ nổi Braille, tạo điều kiện cho các em đến trường học hòa nhập. Theo thống kê chung năm 2008, viện đã có 50 học sinh và 13 giáo viên. Ngoài các viện nghiên cứu đặc biệt, có hai trường trung học cơ sở có khả năng cung cấp các dịch vụ cho trẻ em với nhu cầu giáo dục đặc biệt. Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập giúp trẻ có nhu cầu đặc biệt (trẻ khuyết tật về mặt thể chất và tinh thần) được thành lập tại trường trung học cơ sở Changakha tại thủ đô Thimphu. Ngôn ngữ ký hiệu của Bhutan tiếp tục được phát triển và thêm một Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập dành cho trẻ khiếm thính được thành lập tại trường trung học cơ sở Drugyel tỉnh Paro.

 

3.1.3 Giáo dục không chính quy

Chương trình giáo dục không chính quy (NFE) hoạt động từ năm 1992, nhằm truyền đạt kiến thức cơ bản, kỹ năng tính toán và chức năng cơ bản cho những người không theo học hệ chính quy, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái ở nông thôn. Chương trình bao gồm 12 tháng học biết chữ cơ bản (BLC) nhằm phát triển khả năng đọc và viết ngôn ngữ quốc ngữ. Chương trình giáo dục không chính quy (NFE) đồng thời bao gồm khóa học 9 tháng sau biết chữ (PLC), nhằm hỗ trợ những người hoàn thành khóa học biết chữ cơ bản, duy trì kỹ năng đọc thông qua việc bám sát tài liệu đọc và hỗ trợ giảng dạy. Khóa học sau biết chữ (PLC) nhằm nâng cao nhận thức về một cuộc sống lành mạnh, môi trường sống an toàn cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống.

Số lượng các trung tâm giáo dục không chính quy (NFE) tăng lên đáng kế, cụ thể năm 1992 có 6 trung tâm với 300 học viên, năm 2008 có 747 trung tâm với 13.829 học viên và 737 giảng viên (Tổng cục thống kê năm 2008) 15 . Học viên tham dự khóa học học biết chữ cơ bản 12 tháng (BLC) tiếp tục khóa học sau biết chữ 9 tháng (PLC). Chương trình giáo dục không chính quy (NFE) góp phần rất lớn vào việc gia tăng tỷ lệ biết chữ của người dân Bhutan . Phát xuất từ một mức độ thấp người lớn biết chữ vào năm 1961, Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Bhutan (PHCB, 2005) báo cáo tỷ lệ người lớn biết chữ là 53%. Tuy nhiên, theo cả hai tiêu chuẩn quốc tế và Nam Á thì con số trên vẫn còn thấp.

Chương trình Giáo dục thường xuyên

Chương trình Giáo dục thường xuyên (CE) chủ yếu dành cho người lớn, những người không thể hoàn thành bậc trung học, là một cơ hội để nâng cao trình độ học vấn của họ. Năm 2006, một chương trình thí điểm Giáo dục thường xuyên (CE) được khởi xướng cho người lớn. Chương trình cung cấp các khóa học 2 năm để hoàn thành lớp 10 và 12. Số lượng sinh viên và

Page 44: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

nhân viên tăng đều từ khoảng 148 năm 2006 vượt lên 577 trong 2008 16. Các lớp học được tổ chức vào buổi tối và cuối tuần.

3.2 Bối cảnh của đổi mới

3.2.1 Mối quan tâm toàn cầu, những nhu cầu học tập thay đổi mang tính cấp bách

3.2.1.1 Đối phó với toàn cầu hóa

Không thể phủ nhận toàn cầu hóa tác động một cách sâu rộng tới hệ thống giáo dục mang đậm tính khép kín này. Hoàng thượng nhắc nhở các sinh viên tốt nghiệp của quốc gia, "Chúng ta không còn sống trong một vương quốc nhỏ bí ẩn nưã ... chúng ta là một phần trong thế giới toàn cầu mới này. Suy cho cùng, sự tồn vong của đất nước này phụ thuộc vào chính con dân Bhutan ? Làm thế nào để có một cuộc sống tốt đẹp? Bhutan có thể bán những gì mà thế giới muốn mua? Làm thế nào để Bhutan có thể cạnh tranh ngang bằng với các quốc gia khác?" . Sự hội nhập kinh tế và tài chính quốc tế làm tăng sự cạnh tranh giữa các cường quốc năm châu để bảo đảm chỗ đứng mạnh hơn trên đấu trường quốc tế. Điều này đòi hỏi nguồn nhân lực phải có kỹ năng sản xuất vượt trội, tiếp thị và truyền thông. Một vai trò quan trọng của hệ thống giáo dục là tạo khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng và không ngừng tăng cao của bối cảnh toàn cầu hóa; tạo ra nguồn lao động lành nghề và chuyên nghiệp có khả năng góp phần cải thiện năng suất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ.

3.2.1.2 Tác động của nâng cao kiến thức

Một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp của ngành giáo dục là sự phát triển vượt bậc về mặt nâng cao kiến thức, đặc biệt là trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ đang chiếm ưu thế ngày nay. Tác động này trong cuộc sống hiện đại về mặt xã hội, kinh tế và văn hóa, ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển quốc gia và các ưu tiên về mảng giáo dục. Các chương trình giáo dục phải cập nhật cho người học kiến thức cải cách, khiến việc áp dụng công nghệ là một phần mấu chốt trong nền giáo dục chung của tất cả những người trẻ tuổi vì vậy mà tất cả các học viên hoàn thành giáo dục trung học lĩnh hội đầy đủ kiến thức lâm sàng cũng như chuyên sâu. Trong bối cảnh này, giáo dục chính là kim chỉ nan tiếp thu kiến thức mới trên mọi lĩnh vực bao gồm những nguyên tắc, phương pháp luận và các hướng dẫn cho việc áp dụng các kiến thức tạo ra lợi ích xã hội.

3.2.1.3 Đáp ứng Nhu cầu của các nền kinh tế mới nổi

Page 45: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

‘Cầu tạo cung’, phổ biến và sử dụng kiến thức mới để tăng cường phát triển kinh tế. Việc khai thác và sử dụng kiến thức mới rất cần thiết để nâng cao năng suất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Chính sách phát triển con người của Bhutan, đặc biệt là những người hoạt động trong ngành giáo dục, đào tạo và việc làm, được liệt vào danh sách các nhu cầu thiết yếu cho việc phát triển và sử dụng các kỹ năng của con người, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế mới nổi. Các nền kinh tế đòi hỏi mỗi cá nhân, những người có khả năng học hỏi và thích ứng với nhu cầu thay đổi, tiếp thu kiến thức mới và kỹ năng, để đối phó với những bất ổn và thay đổi liên tục của nền kinh tế thị trường toàn cầu đang nổi và phải trang bị các kỹ năng mềm cho bản thân như phương pháp học tập, đánh giá và giải quyết vấn đề.

Các tiến trình giáo dục, đào tạo và giảng dạy-học tập cần phải duy trì tính năng động cho phép người học thích ứng với nhiều thay đổi về kiến thức và kỹ năng cần thiết cho việc phát triển cơ hội kinh tế và làm mới khả năng làm việc của mình. Quá trình xúc tiến mạnh mẽ của các chương trình đào tạo nhằm nâng cao ‘năng lực thích ứng’ và khả năng làm cá nhân, nhóm thích nghi trước mọi biến động của thời cuộc.

3.2.1.4 Tận dụng công nghệ thông tin và truyền thông đại chúng

Việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông tân tiến, ICT, (có nghĩa là, việc sử dụng kết hợp viễn thông, máy tính và công nghệ nghe nhìn), đặc biệt là Internet, lượng sử dụng nhảy vọt trong thập kỷ qua. Các công nghệ mới ngày càng được tích hợp vào các chương trình giáo dục. ICT có khả năng giao tiếp bất kể khoảng cách địa lý một cách dễ dàng, để truy cập vào hồ mới của thông tin và các nguồn lực và tham gia mạng lưới học tập trong chương trình đổi mới. Chương trình giáo dục cần phải thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy và học. Vai trò của giáo dục là để phát triển năng lực của cá nhân, sàng lọc và đánh giá thông tin, đến những kết luận hợp lý và đưa ra quyết định phù hợp với động xà hội ngày càng phức tạp hiện nay.

Để giải quyết những thách thức liên quan đến việc học công nghệ, các trang thiết bị sử dụng trong giáo dục phải tạo cơ hội cho sinh viên tiếp cận ở cấp trường hình thành khả năng làm việc trong cuộc sống. Việc áp dụng các công nghệ học tập làm trung gian phải tích hợp vào chương trình giảng dạy. Khi áp dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, phải đảm bào rằng nông thôn và vùng sâu vừng xa không bị tước đoạt quyền lợi mà công nghệ mang lại. Phương pháp cần được điều chỉnh để sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong các hình thức thích hợp, bao gồm cả sự phát triển của công nghệ chi phí thấp sử dụng vật liệu địa phương và các nguồn tài nguyên, việc sử dụng các công nghệ khác nhau phối hợp trở thành một phần không thể thiếu của chương trình giảng dạy, sử dụng các hình thức công nghệ phù hợp với quy mô nền kinh tế đất nước. Là một mối quan tâm giáo dục quan trọng, nên công nghệ thông tin liên quan đến các ưu tiên phát triển xã hội chung, có khả năng áp dụng kiến thức và kỹ năng công nghệ thông tin đến rất nhiều các tình huống công việc và các lĩnh vực khác nhau của việc làm.

3.2.1.5 Giúp học sinh vùng cao đến trường

Sự quan tâm đến việc học của trẻ vùng cao là công việc không chỉ của riêng các nhà trường, của đội ngũ các thầy cô giáo mà còn là sự chung tay, góp sức của toàn xã hội, hạn chế nhất

Page 46: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

định về trình độ học vấn, cơ sở hạ tầng và điều kiện kinh tế thấp. Nội dung và chương trình giảng phải dạy phù hợp với các đối tượng khác nhau; giáo trình và tài liệu giảng dạy cải cách linh hoạt và mang tính cá nhân hóa hơn nữa . Đặc biệt nhấn mạnh việc tạo điều kiện học tập hòa nhập cho nhóm cộng đồng có hoàn cảnh đặc biệt được đo lường bởi việc tiếp cận về cơ sở vật chất và điều kiện học tập như nhau cho tất cả mọi người. Chương trình giảng dạy cập nhật phương pháp mới trong bối canh giáo dục ngày một cải cách, phù hợp với nhu cầu của những người có hoàn cảnh khó khăn để họ sớm hòa nhập với xã hội

3.2.1.6 Vận động châm ngôn “Học, học nữa, học mãi”

Giáo dục chính quy trở thành một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của việc hình thành nguồn nhân lực, nâng cao kiến thức đòi hỏi mỗi cá nhân phải không ngừng học tập và rèn luyện kỹ năng trên cơ sở lâu dài. Môi trường toàn cầu hóa và liên tục phát triển đòi hỏi từ lực lượng lao động mức độ cao hơn. Học để học được xem như là một kỹ năng thiết yếu mà mỗi cá nhân cần trang bị để giúp ích cho xã hội tri thức. Học tập suốt đời là một khía cạnh đáng chú ý, có tiềm năng rất lớn để làm giàu cho cá nhân và xã hội nói chung. Hoạt động ngoại khóa chính là con đường trau dồi việc học để học (khả năng học hỏi), thông qua tất cả các quá trình giáo dục chính quy và không chính quy.

Phương pháp giáo dục sáng tạo phải linh hoạt cung cấp cho học viên những cải tiến giáo dục cũng như hướng đi cho tương lai. Xây dựng xã hội học tập tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người học tâp suốt đời là một chủ trương lớn. Thách thức đặt ra là các chương trình giáo dục mang tính thường xuyên như vậy cần đạt chất lượng cao để phù hợp với nhu cầu của người học và các kỹ năng làm việc thiết yếu. Một nền văn hóa tri thức là một xã hội mà mọi người đều được học, cần phải học và tự giác học thường xuyên, học suốt đời; mọi người được tiếp cận những cơ hội học tập thuận lợi và lấy tự học cùng với ý chí, nghị lực phấn đấu kiên trì của mỗi người là chính để đem lại lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

3.2.1.7 Thúc đẩy quan điểm toàn cầu

Bhutan là một thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế và một quốc gia được công nhận vai trò của nó trong việc thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực. Giáo dục, đồng thời thúc đẩy bản sắc dân tộc và khẳng định tầm vóc, mỗi thành phần dân tộc ý thức được tầm quan trọng của việc thúc đẩy hòa bình, tình hữu nghị giữa các dân tộc hướng tới một nhân loại thịnh vượng. Chương trình giảng dạy nên phản ánh một số vấn đề lớn đối với thế giới ngày nay, khiến học sinh nhận thức được khái niệm thế giới như một đại đình mà trong đó các nền văn hóa riêng biệt của mỗi quốc gia tương tác, hỗ trợ lẫn nhau trên mọi lĩnh vực phát triển. Phương pháp giáo dục phải duy trì một Bhutan đậm đà bản sắc dân tộc đầy tôn kính, học sinh tự giác hòa mình vào những giá trị tốt đẹp ấy; mặt khác, giúp họ học hỏi và trân trọng sự phong phú của các quốc gia khác và nhìn nhận bản thân như một thành viên mới đầy triển vọng trên cường quốc năm châu.

3.2.2 Nhu cầu quốc gia, thực trạng và thách thức

Page 47: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Những biến đổi và tiến bộ trong giáo dục đang song hành cùng với các chuẩn mục tiêu xã hội, văn hóa và kinh tế được đề ra cho đất nước. Dù đạt được nhiều tiến bộ to lớn trong những năm qua, hệ thống giáo dục ở Bhutan vẫn còn phải đối mặt với một số thách thức như tăng cường hơn nữa tiếp cận giáo dục và chất lượng ở tất cả các cấp giáo dục bậc trung học. Những con số đáng báo động của hệ thống giáo dục, chẳng hạn như, tỷ lệ hoàn thành giáo dục cơ bản tương đối thấp, lệch tuyến đầu vào,còn đặt nặng vấn đề thành tích, tỷ lệ người lớn biết chữ thấp, sự khác biệt về điểm số và thực tế tiếp tục gây lo ngại. Dữ liệu cho thấy việc thực hiện các mục tiêu giáo dục bị hạn chế bởi khó khăn trong việc tiếp cận trường học, cung cấp không đầy đủ nguồn lực và không gian học tập, những lỗ hổng trong khâu tuyển sinh và quy trình được yêu cầu để đảm bảo chất lượng giáo dục.

Con người Nhiệm vụ Chương trình

Thiếu bộ phận nòng cốt

Giáo viên không đạt chuẩn

Phương pháp học tập còn mang tính phiến diện

Tỷ lệ hoàn thành giáo dục cơ bản thấp

Người học không đạt chuẩn đầu ra

Thiếu quy hoạch Chương trình chăm sóc và phát triển trẻ thơ

Những rào cản khấu tiếp cận

Không gian, nguồn lực và cơ sở vật chất không đạt chuẩn

Chương trình phát triển chưa chuyên nghiệp

Bảng 4: Những thách thức hiện tại trong hệ thống giáo dục

Phần trên làm rõ một số thách thức chính phải đối mặt của Bhutan,từ đó đề ra một sự cấp thiết phải chỉ đạo đổi mới hoạt động giáo dục.

3.2.2.1 Chính sách Chăm sóc và phát triển trẻ mầm non - ECCD

Đề án Chăm sóc và phát triển trẻ mầm non (ECCD) đang được đề xuất tại Bhutan. Trong thời gian đề án đợi sự chấp thuận, "chính phủ đã tiếp nhận những sáng kiến thông qua xây dựng

Page 48: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

trường mẫu giáo tư thục ở các trung tâm đô thị lớn. Các trường tư thục có học phí cao, do đó, nhắm vào những bậc ca mẹ kì vọng cao vào con em mình "(Chiến lược ngành giáo dục năm 2008). Một vài vấn đề liên quan đến các chương trình chăm sóc ban ngày, bao gồm cả đào tạo nhân viên, hiện trạng môi trường vật lý của trung tâm, các thiết bị trò chơi phù hợp và thiết bị giáo dục; và đề rõ mục tiêu hoạt động rõ ràng.

Kế hoạch giáo dục mầm non và chăm sóc trẻ bước đầu thành công ở Bhutan, được thể hiện bằng những con số thấp mang tầm quốc gia. Hiện không có chương trình can thiệp sớm nào cho trẻ em tuổi từ 0-3 và cha mẹ của chúng. Điều này đặc biệt không may cho trẻ em từ các hộ gia đình không có cha mẹ biết chữ và là nhu cầu lớn nhất của giáo dục mầm non. Chương trình giáo dục can thiệp sớm, sát nhập vào chương trình giảng dạy giáo dục không chính quy chỉ chiếm phần nhỏ dân số. Vì vậy, nhiều trẻ em chính quy mà không được trang bị khả năng sẵn sàng đi học, trong đó, lần lượt, tạo ra sự chênh lệch giữa trẻ em thành thị và nông thôn trong khả năng sẵn sàng đi học, động lực, thành tích và thành công trong cuộc sống.

Một số rào cản hiện hành trong khâu tuyển sinh bậc Tiểu học đúng thời hạn có thể là gia đình cần con em phụ giúp công việc nhà hoặc là do khoảng cách từ nhà đến trường. Rào cản này thuyên giảm nhờ việc xây dựng thêm các trường tiểu học cộng đồng. Một thách thức khác trong khu vực đô thị cho các trường học là họ không thể xử lý các áp lực tuyển sinh bậc Tiểu học do tuyển sinh chưa đủ tuổi; trong nhiều trường hợp, các lớp học quá tải, với 40 hoặc nhiều hơn trẻ em ở mỗi lớp.

Khái niệm, hệ thống giáo dục quốc gia phải phân luồng theo Phân loại giáo dục theo Tiêu chuẩn quốc tế (ISCED). Cấp 0 khái niệm “giáo dục mầm non” và khái niệm nhiều hiểu lầm về từ ‘PP’ của người Bhutan. Trong thực tế, nhằm chuẩn bị cho trẻ lên lớp 1, nhìn chung, giáo dục mầm non dưới hình thức Chương trình Chăm sóc và phát triển trẻ thơ (ECCD) được thiết kế để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ em (Ủy ban Giáo dục Report 2008).

3.2.2.2 Tuyển sinh và Hoàn thành phổ cập giáo dục

Một thách thức cơ bản trong bối cảnh Bhutan nỗ lực đạt được các mục tiêu phổ cập giáo dục để cải thiện tỷ lệ hoàn thành giáo dục cơ bản. Một mục tiêu giáo dục quan trọng ở Bhutan là mọi trẻ em phải có cơ hội học tập và hoàn thành giáo dục cơ bản đủchất lượng .

Bên cạnh đó, thách thức đề ra trong quá trình tuyển sinh và duy trì trẻ đi học, vì nhiều lý do khác nhau, trẻ em đã không thể nhập học hoặc bỏ học giữa chừng. Bao gồm các trẻ em sống ở các vùng xa xôi hẻo lánh của đất nước, trẻ khuyết tật, trẻ khó học hoặc nhu cầu chăm sóc đặc biệt. Thêm vào đó là vấn đề quá tải học sinh trong một lớp 17 . Một giả định được đề ra rằng tỷ lệ lớp 4 lên lớp 5 thấp có thể là do số lượng học sinh tuổi vị thành niên (3%) và tình trạng quá tải (24%) trong lớp mẫu giáo 3. Học sinh bắt đầu đi học ở độ tuổi dưới 5 hoặc muộn hơn 12 tuổi, có nhiều khả năng đi học lại hoặc lưu ban.

Page 49: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Lớp Độ tuổi

Đúng tuổi (%)

Tuổi trung bình (%) Không đúng tuổi (%)

6-12 tuổi >12

Bảng 3: Đổ tuổi đầu vào

Tỷ lệ lưu ban, trung bình ở mức 8,5 phần trăm mỗi lớp hàng năm, cho thấy tỷ lệ học sinh không thể thích ứng chương trình học tập. Đi học lại chiếm mức độ cao là một dấu hiệu về khủng hoảng của hệ thống giáo dục, làm tăng nguy cơ tỷ lệ học sinh bỏ học và dẫn đến tình trạng quá tải. Tình trạng này có thể được giải thích vì mức độ thấp học sinh chưa hoàn thành hết bậc tiểu học. (Ủy ban Giáo dục Report 2008).

Tỷ lệ học sinh bỏ học ở Lớp 4 và 7 chỉ ra rằng học sinh tiểu học gặp khó khăn trong việc đương đầu với áp lực học tập, trọng trách chúng phải gánh vác khi chương trình giảng dạy ngày càng phức tạp. Sau khi hoàn thành bậc tiểu học, học sinh tiếp tục học trường trung học cơ sở ở gần hoặc thậm chí xa nhà, hoặc ở nội trú, và điều này có thể là một yếu tố góp phần gia tăng tỷ lệ lưu bạn và bỏ học. Thêm nột lí do nữa là các môn học mới được bổ sung ở lớp 4 và lớp 7. Hai lý do hơn hết so với những lí do khác có thể là nguyên nhân chính cho sự tăng đột biến về tỷ lệ đi học lại và bỏ học ở hai lớp này.

Page 50: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Những quyền lợi học tập giảm sút rất nhiều nếu một đứa trẻ không đến lớp một thời gian dài, và không hoàn thành giáo dục cơ bản. Hiệu quả của hệ thống giáo dục cần phải được tăng cường bằng cách giảm tình trạng lưu ban và bỏ học, đặc biệt ở lớp 4 và lớp 7.

Ngoài những thách thức trên, hơn 13 % trẻ em (từ 6-12 tuổi) ở Bhutan vẫn không được đi học năm 2008. Lực lượng đông đảo trẻ thất học làm giảm đi triển vọng phát triển của đất nước, so với các nước láng giềng. Hiện nay, Bộ Giáo dục đã áp dụng khái niệm lớp học mở rộng (ECR), hướng đến đối tượng chưa được tiếp cận giáo dục, và nhanh chóng theo tiến triển của trẻ quá tuổi so với lớp hiện tại để giảm ùn tắc lớp học và không để tình trạng học sinh bỏ học nhân rộng thêm. Những sáng kiến này đã góp phần làm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học và lưu ban trong vài năm qua.

Giảm thiểu và mục đích cuối cùng là loại bỏ sự bất bình đẳng trong khu vực, trong đó sự chênh lệch về mức độ hưởng thụ văn hóa giữa nông thôn-thành thị vẫn còn là một thách thức lớn. Tồn tại một sự phân tầng rõ rệt trong khâu tuyển sinh vào trường Tiểu học giữa các trường nông thôn và thành thị, những người trong các nhóm thu nhập khác nhau.

3.2.2.3 Chất lượng học tập học sinh

Thách thức chính của ngành giáo dục nói chung là làm thế nào để nâng cao tỷ lệ học sinh đạt kết quả học tập chuẩn đầu ra cho các cấp học. Những con số cho thấy rằng thành tựu giáo dục đến từ các trường không đề cao thành tích, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa.

Mặc dù tỷ lệ học sinh học hết lớp 10 và lớp 12 kỳ thi năm 2007 tương ứng là 96% và 85%, nội dung đề thi phải đảm bảo rằng dưới 50% học sinh vượt qua được. Điều này chỉ ra năng lực học tập của học sinh thấp hơn mặt bằng chung.

Các chỉ số sau đây cho thấy những thiếu sót đáng kể về chất lượng hiện tại của quy trình và kết quả đầu ra

Trẻ có nền tảng kiến thức khá tốt nhưng mất gốc khi học lớp cao hơn. Học sinh có thể tiếp thu được một số kiến thức chính hơn hai hoặc ba lớp (hoặc nhiều hơn) mình cần . Nhiều sinh viên không đạt điểm tối thiểu trong các môn chính ở cấp lớp của mình (ASSL, 2008). Khảo sát chất lượng học tập Bhutan của Ngân hàng Thế giới nói rằng khả năng học tập trung bình ở lớp 4 là cao hơn so với năng lực học tập dự kiến lớp 2 thông qua chỉ một nửa độ lệch chuẩn và điều đó sẽ đưa bình quân học sinh lớp 2 thêm một năm nữa để hoàn thành bậc học của mình. Điều này dẫn đến tình trạng mất gốc khi trẻ học lớp cao hơn. Có thể phỏng đoán rằng trẻ em được hoàn thành giáo dục cơ bản chiếm tỷ lệ cao nhưng chưa nắm được các kỹ năng cơ bản về đọc, viết và làm toán, và rằng “phải thêm một năm cho mỗi lớp để bình quân học sinh hoàn thành bậc học đó" (Báo cáo Ủy ban Giáo dục năm 2008).

Đa phần học sinh không thể hiểu khái niệm cốt lõi và áp dụng kiến thức vào các tình huống thực tế, trên lớp và môn học, cho thấy một khoảng cách lớn trong khả

Page 51: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

năng tiếp thu. Nếu trẻ không có được năng lực ở cấp tiểu học, đặc biệt là tiếng Anh và Toán học, trẻ sẽ gặp phải những thách thức học tập trầm trọng sau này. Ngay cả những trẻ em học hết lớp 4, một số lượng đáng kể hoặc sẽ đi học lại hoặc bỏ học ở lớp 5 hoặc lớp 6. Điều này được minh chứng bằng số liệu cho thấy rằng lớp 7 có tỷ lệ học sinh lưu ban cao nhất (10,9 %) và tỷ lệ học sinh bỏ học (7,15 %) trong vào 6 năm. Điều này ngụ ý rằng trẻ em không nắm bắt hết kiến thức trong thời gian quy định, kết quả lưu ban lớp cuối bậc tiểu học (Báo cáo Ủy ban Giáo dục năm 2008).

• Thành tích thấp điển hình môn Toán và tiếng Anh. Lý do điểm Toán thấp nằm ở nỗi sợ hãi môn Toán và phương pháp giảng dạy (phương pháp rập khuôn thiếu thực hành). Thách thức trong việc học tiếng Anh do phổ cập đồng thời hai ngôn ngữ là tiếng Anh và Dzongkha. Việc sử dụng tối thiểu ngôn ngữ mẹ đẻ trong những năm đầu và làm quen không đầy đủ với tiếng Anh trước khi nhận biết nó là một ngôn ngữ khác là hai trở ngại chính (ASSL, 2008, Báo cáo Ủy ban Giáo dục 2008).

• Học sinh hoàn thành bậc học nhưng thiếu kỹ năng phân tích, giao tiếp cơ bản và thái độ cần thiết chuẩn đầu vào. Trong khi đó, tỷ lệ phần trăm học hết lớp 10 rất cao, chất lượng thực tế của việc học tập của học sinh tốt nghiệp đang ở mức rất thấp, mất nhiều thời gian cho việc học thuật. Điều này khiến họ có nguy cơ thất bại khi học tiếp, không đủ tự tin, không có khả năng bảo đảm được tuyển vào đại học và gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm tốt trong công ty cuat Bhutan (Chất lượng của giáo dục trường học ở Bhutan 2008).

• Cha mẹ kì vọng vào con cái không tương thích với khả năng của chúng . Thành tích khi quay trở lại trường cũng góp phần quyết định rằng đứa trẻ đó có được tiếp tục học hay không. Cho đến vài năm trước đây, những người hoàn thành bậc trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông luôn được nhận vào làm cho chính phủ. Trên thực tế, lượng sinh viên tốt nghiệp tìm kiếm việc làm không tương thích với lượng việc làm có sẵn trong cơ quan chính phủ. trong. Sinh viên tốt nghiệp cũng không thể bảo đảm rằng họ sẽ có việc làm ngay với tấm bằng trên tay.

• Sự khác biệt đầu ra giữa các trường học ở Bhutan. Học sinh trường tư có xu hướng thực hành tốt hơn học sinh trường tiểu học cộng đồng. Điều đáng lo ngại hơn là sinh viên đô thị thực hành tốt hơn tất cả nơi khác theo Đánh giá Giáo dục Quốc gia (NEA). Có nghĩa rằng hệ thống giáo dục không hiệu quả, không mang lại cơ hội bình đẳng cho các vùng miền. Phải khẳng định rằng, "Trình độ học vấn phải được ưu tiên số một, là yếu tố quyết định cơ hội sống và cơ hội để thoát khỏi đói nghèo" (Ngân hàng Thế giới năm 2005 và Báo cáo Phát triển Con người Quốc gia, UNDP, 2005).

• Tốt nghiệp phổ thông chuẩn bị vào đại học hoặc đi làm đại diện cho một cơ hội của dân tộc, cho khát vọng của Bhutan với sự cạnh tranh gay gắt giữa các tài năng trong nền kinh tế toàn cầu. Do đó, phần lớn lực lượng lao động tương lai, cụ thể là 53% nằm ở đáy của kim tự tháp giáo dục, với những hậu quả trực tiếp từ các kỹ năng thấp của dân số trong độ tuổi lao động. Thêm vào đó, những rủi ro được công nhận bởi các thành viên

Page 52: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

cộng đồng là lòng tự trọng thấp, thiếu tự tin và tình trạng nghiện ngập đáng lo ngại của một bộ phận giới trẻ (Báo cáo Ủy ban Giáo dục năm 2008, chất lượng giáo dục trường học ở Bhutan 2008).

• Chất lượng học tập không bắt kịp với hệ thống giáo dục mở rộng hoặc các xu hướng hiện đại. Chương trình học hiện nay đặc biệt yếu trong việc cung cấp các định nghĩa rõ ràng / thông số kỹ thuật cho các tiêu chuẩn về thành tích giáo dục, kết quả được giám sát bằng một cái nhìn tổng quát để sửa đổi và nâng cấp. Chương trình giảng dạy tại trường khác xa soi với nhu cầu của người học cũng như thực tiễn văn hóa- xã hội của cộng đồng. Nội dung khóa học là thường lý thuyết hơn là thực tế, do đó, thường không truyền đạt kiến thức và kỹ năng áp dụng ngoài trường học (Chất lượng của giáo dục trường học ở Bhutan 2008).

Hiệu quả giáo dục của các trường học vẫn còn là một vấn đề quan tâm . Phương pháp giáo dục thụ động lấy người dạy làm trung tâm tạo cho học sinh ít cơ hội tham gia tích cực trong quá trình học tập. Quy trình giảng dạy trên mô hình chung khiến học sinh học kiểu đối phó để vượt qua kỳ thi chứ không bồi dưỡng các kỹ năng mềm cần thiết như học đúng cách, giải quyết vấn đề hiệu quả… Hệ thống theo dõi hiệu suất giáo dục học tập cần được cải tạo, vì hệ thống chỉ chú trọng vào kiểm tra kiến thức chứ không phải những kiến thức có tính ứng dụng cao. Thêm vào đó là chất lượng kém của quá trình giáo dục trong nhà trường, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, hiệu suất học tập thấp của học sinh (Các chất lượng giáo dục trường học ở Bhutan 2008). Văn hóa trường học gần như là "một nền văn hóa của sự thụ động", nơi các sinh viên chỉ đơn giản là những người nhận kiến thức (Báo cáo Ủy ban Giáo dục 2008).

Các chỉ số trên cho thấy mô hình bền vững của hiệu suất giáo dục thấp kém về cả hai kỹ năng học tập cơ bản lẫn nâng cao và ‘hành tranh’ cho cuộc sống phía trước. Do đó, không gì cấp thiết hơn việc đảo ngược tình trạng thiếu hụt kỹ năng và trang bị cho trẻ những ứng dụng cần thiết trong tương lai.

3.2.2.4 Những rào cản tiếp cận giáo dục

Một thách thức quan trọng để cải thiện tỷ lệ nhập học và duy trì học sinh là khả năng đáp ứng của các trường học nằm trong phạm vi tiếp cận dễn dàng của trẻ. Những nỗ lực mang tính dân tộc trong việc mở rộng tiếp cận giáo dục bị hạn chế đáng kể bởi địa hình khó khăn và dân cư phân bố không tập trung. Cơ sở vật chất, đặc biệt là đối với giáo dục trung học phổ thông và đại học, là quá ít để đáp ứng cho tất cả trẻ tuổi đi học. Mặc dù tổng số học sinh các trường ở Bhutan đã tăng lên trong vài năm qua, những vẫn tồn tại sự khác biệt đáng kể về mặt cơ sở hạ tầng (trường học, lớp học) giữa thành thị và nông thôn. Trường học cần phải nằm trong phạm vi tiếp cận dễ dàng hơn trong khu vực đô thị và bán đô thị.

Page 53: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Mặc dù đã có những chính sách cho phép học sinh học tập và học nghề, nhưng hiện nay thể chế hỗ trọ vẫn không đầy đủ . Những học sinh không theo học chính quy có thể tìm kiếm việc làm trực tiếp hoặc ghi danh vào một chương trình giáo dục và đào tạo nghề. Đảm bảo cung cấp đủ các cơ sở đào tạo nghề (VTIs) tương ứng với học sinh hoàn thành bậc học được xem như là một thách thức đáng kể trong bối cảnh này.

Một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tiêu cực và mạnh mẽ đến nhu cầu học tập là học phí trực tiếp. Khả năng chi trả và các rào cản tài chính là lí do trọng tâm trong việc giải thích tại sao nhiều trẻ em không tiếp tục giáo dục sau bậc tiểu học / cơ bản. Mặc dù giáo dục cơ bản là miễn phí, các chi phí nhỏ do gia đình đóng góp (200 Nu mỗi năm) và các chi phí phụ như quần áo, đồ dùng học tập và phương tiện đi lại khuyến khích con em thuộc hộ nghèo và dễ bị tổn thương được đến trường. Trong một chiều hướng tương tự, ‘áp lực kinh tế’ được tìm thấy bởi các báo cáo Chiến lược hướng tới phát triển hộ nghèo Bhutan, năm 2005, như một lý do quan trọng cho Bhutan là "vẫn chưa đạt được mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học." Báo cáo này cho biết thêm, "nghèo dai dẳng ngăn cản các hộ gia đình tiếp cập đến các cơ sở trường học, luôn là trở ngại lớn trong việc đạt được mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học."

Một nghiên cứu được tiến hành năm 2004 cho thấy trẻ em từ các hộ gia đình nghèo ở Bhutan có tỷ lệ nhập học thấp hơn (57,7 %) so với trẻ thuộc gia đình khá giả (76,8 %). Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, "Trẻ em sinh ra trong hộ gia đình nghèo thì luôn không thể tiếp cận giáo dục trừ khi những cơ hội đến với chúng... Sự thiếu hụt về giáo dục phản ánh cuộc sống nghèo của chính họ và con cái trong tương lai" (Chiến lược Hướng tới phát triển hộ nghèo Bhutan, 2005).

Một trong những hạn chế lớn là tiếp cận với bậc cao hơn sau khi hoàn thành lớp 10. Bậc cao hơn được xác định bởi việc chiếm được một chỗ ngồi lên lớp 11. Với tình trạng thiếu chỗ ngồi, nhiều học sinh phải ghi danh vào các trường tư thục ở Bhutan và phải trả tối thiểu 45.000 Nu đến 120.000 Nu mỗi năm hoặc kết thúc việc gia nhập các trường tư ở Ấn Độ, và không đòi hỏi một nền giáo dục chất lượng.

3.2.2.5 Cơ sở vật chất, nguồn lực và không gian học tập

Số lượng đầu vào tăng ở bậc tiểu học đang đặt áp lực rất lớn cho các trường trung học, dẫn đến tình trạng quá tải. Là nguyên nhân gây nên sức ép cho nguồn lực có hạn về giáo viên, cơ sở vật chất và tài chính, điều này thử thách năng lực và trách nhiệm của Bhutan trong việc cung cấp một nền giáo dục chất lượng cho tất cả mọi người. Đồng thời nằm trong việc duy trì nguồn lực hỗ trợ cả trong việc mở rộng và phát triển chất lượng của các chương trình giáo dục tiểu học.

Một số lượng đáng kể các trường học tiếp tục bị thiếu thốn về mặt cơ sở vật chất như kết nối điện, cấp nước và kết nối điện thoại. Nhiều trường trung học không có đầy đủ thiết bị giáo dục hoặc các phòng thí nghiệm khoa học cần thiết để hoạt động dạy-học tập có hiệu quả hơn. Nhiều học sinh không có sách giáo khoa do nguồn cung cấp không đủ đến các trường học. Với

Page 54: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

sự khó khăn trong việc tiếp cận giáo trình, dễ hiểu rằng không phải tất cả trẻ em sẵn sàng chia sẻ những cuốn sách của chúng cho người khác. Ngoài ra, chất lượng in ấn nghèo nàn. Nếu không được tiếp cận với các nguồn tài liệu cơ bản, kết quả học tập sẽ ở con số rất thất vọng.

Thách thức lớn khác đối với ngành giáo dục là: duy trì nhu cầu cao đối với giáo dục tiểu học và tăng nhu cầu đối với trung học cở sở, trung học phổ thông, giáo dục và đào tạo nghề. Như đã thảo luận, số lượng trường học, lớp học ở một số nơi của Bhutan không đầy đủ; số lượng đáng kể trẻ em vẫn không được đi học lí do có thể chúng không được nhập học hoặc bỏ học trước khi hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học.

Hiện nay chính phủ vẫn đang tiếp tục mở rộng hệ thống giáo dục nói chung và gia tăng nhanh chóng số lượng học sinh hoàn thành giáo dục trung học cơ sở và cao hơn. Điều này dẫn đến tình trạng không phải tất cả học sinh hoàn thành bậc học được hỗ trợ từ phía chính phủ. Nhiều người không tìm được cơ hội việc làm trong khu vực tư nhân hoặc các ngành công nghiệp bởi vì họ thiếu kỹ năng chuyên ngành. Nhu cầu đối với các chương trình giáo dục và đào tạo nghề vẫn còn tương đối yếu. Đây được xem là những mảng yếu kém do tình trạng nhận thức thấp và điều kiện làm việc nghèo nàn liên quan đến việc làm cho sinh viên tốt nghiệp trường đào tạo nghề.

3.2.2.6 Quy mô lớp học và Tỷ lệ giáo viên- học sinh

Quy mô lớp học đề cập đến số lượng học sinh mà một giáo viên chịu trách nhiệm chính trong năm học. Sự khác biệt giữa các vùng và các loại trường là rất lớn. Quy mô các lớp học lớn thuộc quận năm ngoái đều đã được cải thiện một chút, mặc dù số lượng đầu vào tăng. Quy mô lớp học trung bình ở tất cả các quận là 40 hoặc ít hơn. Trung bình một lớp học của Bhutan là 28 học sinh, điều này chỉ ra rằng hệ thống trường học đã có thể đáp ứng lượng tuyển sinh ngày càng tăng. Tình trạng thiếu giáo viên trởi thành một trở ngại lớn trong việc cải thiện tiếp cận giáo dục. Một thách thức quan trọng liên quan đến việc mở rộng năng lực đào tạo giáo viên, triển khai giáo viên có năng lực đến vùng sâu vùng xa, bảo đảm cải thiện điều kiện làm việc cho giáo viên ở các khu vực này, chẳng hạn như cải thiện nhà ở và cơ hội để tiếp tục phát triển chuyên nghiệp.

Tỷ lệ học sinh-giáo viên (PTR) - là số lượng học sinh trong một trường học hoặc quận so với số lượng giáo viên giảng dạy. Ở một số nơi tất cả những người hoạt động trong ngành giáo dục bao gồm chuyên viên tư vấn, giáo viên khiêu vũ… Trên toàn quốc, tỷ lệ học sinh giáo viên, tính đến năm 2008, mỗi giáo viên phụ trách 28 học sinh. Một xu hướng mong đợi khác là tỷ lệ giáo viên-học sinh trong trường tiểu học cộng đồng (CPS) đã giảm kể từ năm ngoái. Điều này là do nhiều giáo viên đã được vận động tới hầu hết các trường tiểu học cộng đồng là ở vùng sâu vùng xa. Tính trung bình, các lớp học có ít hơn 40 sinh viên. Mặc dù tỷ lệ giáo viên học sinh quốc gia là đặc biệt thấp, nhưng nó kèm theo sự phân bố không đồng đều giữa các trường học, các khu vực và các quận với một số có tỷ lệ rất cao và một số rất thấp. Ví dụ tỷ lệ giáo viên-

Page 55: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

học sinh ở Trongsa là 17 (khác xa so với Gasa, tỷ lệ thấp nhất) trong khi Samte là 34 (tỷ lệ cao nhất).

Với nhiều cộng đồng đã phải đối mặt với tình trạng thiếu giáo viên có trình độ, một trong những lo ngại rằng nhu cầu về số lượng sẽ làm giảm đi chất lượng, buộc trường học và quận phải thuê giáo viên thiếu trình độ hoặc chưa qua đào tạo. Điều này khiến chúng ta phải quan tâm đến việc đào tạo, phát triển giáo viên và giảng viên.

3.2.2.7 Giáo viên

Tính đến tháng ba năm 2008, tổng số giáo viên là 7,32118. Điều này bao gồm giáo viên trong các trường công lập, trường tư thục, các viện và trung tâm không chính quy. Số lượng giáo viên ở các trường chính phủ là 5.357. Hầu hết các giáo viên, khoảng 41 %, có ít nhất một bằng cử nhân. Ngoài ra, khoảng 7 % giáo viên có thêm một văn bằng 2. Các giáo viên không có chứng chỉ lớp 10, chiếm ít hơn 1%. Một vài giáo viên có bằng Thạc sỹ, chủ yếu là người nước ngoài có bằng cử nhân sư phạm và không có giấy chứng nhận giảng dạy.

Theo quan sát cho thấy giáo viên không hài lòng với công việc giảng dạy và chưa sẵn sàng dạy hết mình. Nhưng những cảm xúc tích cực của giáo viên ở Bhutan được xem là thứ tốt nhất để chống lại những bất lợi nhất định, ví dụ, việc thiếu nguồn lực giảng dạy và thái độ đối với giáo viên trong cả nước đã thay đổi khi việc giảng dạy ngày một khó khăn hơn và thiếu cảm hứng. Điều này ảnh hưởng đến văn hóa làm việc phổ biến trong cộng đồng giảng dạy.

Chương trình đào tạo giáo viên bị thách thức bởi nhu cầu khắt khe đối với giáo viên và đồng thời chỉ trích chất lượng học sinh tốt nghiệp. Kế hoạch chiến lược RUB (2006) và Báo cáo Giáo dục không thỏa hiệp (2008) của Giáo dục Ủy ban Đánh giá ngành cả xác nhận rằng sự thiếu hụt ngày càng tăng của giáo viên và thiếu sót nghiêm trọng trong chất lượng giáo viên. Tỷ lệ thấp giảng viên-sinh viên và khối lượng công việc cao ở cấp đại học làm suy yếu chất lượng đào tạo giáo viên. Những kỳ vọng cao về giảng viên, khối lượng công việc nặng nề, tiêu chuẩn tương đối thấp của cuộc sống và thực trạng “con ông cháu cha” là một số trong những lý do gây ra sự căng thẳng cao cho giảng viên. "Tỷ lệ giảng viên-sinh viên cao của Viện này làm suy yếu chất lượng đầu ra, đồng thời gây ra một mô hình chung cho sự chảy máy chất xám" (RUB 2006, p. 83).

Một chuyên gia giáo dục cho biết, khóa học cử nhân sư phạm được cắt giảm thành "một chương trình khắc phục hậu quả". So với các chương trình Cử nhân khác, các tiêu chí lựa chọn cử nhân sư phạm thì không nghiêm ngặt. Nó được xếp hạng thấp hơn so với các chương trình khác về tuyển chọn sinh viên. Việc lựa chọn ứng cử viên được tiến hành trực tuyến, không có quá trình phỏng vấn tại chỗ, và học sinh được chấp nhận với điều kiện đã hoàn thành lớp 12, vì không có tỷ lệ phần trăm tối thiểu được yêu cầu. Sự vắng mặt của một quá trình phỏng vấn có nghĩa rằng việc đánh giá các ứng cử viên tiềm năng cho sự cam kết và quan tâm của họ trong nghề dạy học là không thể. Quá trình lựa chọn ứng cử viên tập trung ở Bộ Giáo dục (MoE),

Page 56: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

khiến các nhà giáo dục tại các trường cao đẳng không kiểm soát được chất lượng đầu vào của sinh viên (Chất lượng của giáo dục trường học ở Bhutan, 2008).

Lý thuyết không đi đôi với thực hành. Điều này ảnh hưởng đến việc thực hành giảng dạy ở mức độ lớn. Việc nhớ những kiến thức ấy đã khó, vận dụng nó vào cuộc sống lại còn khó hơn vì nhiều lý do khác nhau, bao gồm thời lượng ngắn của các buổi học, sự không tương thích các môn tự chọn và thiếu thách thức, sự huấn luyện và cố vấn không nhiệt huyết từ một giáo viên được đào tạo bài bản, và thiếu thông tin phản hồi mang tính xây dựng cho bài học trong suốt quá trình giảng dạy.

Quan sát cho thấy phương pháp giảng dạy là chủ yếu. Giảng dạy trong các trường cao đẳng có thời gian biểu nặng nề, không có cơ hội cho sinh viên phản xạ hoặc chịu trách nhiệm nghề nghiệp cho việc học tập của mình. Kết quả là hệ thống đào tạo giáo viên cũng bị bao trùm bởi một nền văn hóa của sự thụ động, phá hoại sự phát triển của tính chuyên nghiệp. Cơ chế kiểm soát chặt chẽ và ngôn ngữ của các hình phạt thay thế cho việc xây dựng phát triển lãnh đạo một cách chuyên nghiệp (Phân tích thực trạng của hiện tại nhà nước về giáo viên Chuẩn bị ở Bhutan, 2009).

Giáo viên chuyển thường xuyên cũng là một thách thức. Giáo viên từ trường học tốt sẵn sàng tư vấn cho sinh viên được cung cấp đào tạo cố vấn chuyên nghiệp. Tuy nhiên, việc giáo viên chuyển thường xuyên mang tính liên tục của chương trình bị gián đoạn. Một vấn đề phức tạp là giáo viên không có động cơ hoặc động lực để tiếp thêm nỗ lực công việc giảng dạy.

Lực lượng giảng dạy được lan truyền giữa các trường khác nhau tùy theo loại, cấp lớp và địa điểm. Một mối quan tâm chính là giáo viên được phân bố không đồng đều về trình độ và kinh nghiệm giữa các trường. Vấn đề này xuất phát từ việc lựa chọn vị trí của giáo viên, một trong những biến số ảnh hưởng đến việc cung cấp giáo viên cho một cụm trường. Vấn đề của cung cấp giáo viên phụ thuộc vào số lượng cá nhân đủ điều kiện sẵn sàng dạy tại các địa điểm khác nhau, phụ thuộc vào các ưu đãi và điều kiện làm việc. Việc cung cấp giáo viên cho các cụm đô thị có xu hướng cao hơn so với những người ở vùng sâu vùng xa.

Phân tích thực trạng giáo viên ở Bhutan cho thấy sinh viên tốt nghiệp được trang bị kém, góp phần vào vấn đề chất lượng ở cấp trung học. Theo số liệu thống kê quốc gia (PPD GD 2007) có tổng cộng 5372 giáo viên tại các trường ở Bhutan. Trong đó có 2763 giáo viên có trình độ học vấn lớp 12, lớp 10 hoặc ít hơn trong khi 2609 giáo viên có bằng thạc sĩ hoặc cử nhân. Nói cách khác, ít hơn một nửa số giáo viên của Bhutan là sinh viên tốt nghiệp đại học. Tiêu chuẩn học thuật và chuyên nghiệp thấp vào nghề dạy học là hạn chế lớn trong hệ thống hiện tại. Còn một thứ bệnh hình thức tồn đọng đó là giáo viên có giấy chứng nhận kiểm định chất lượng giáo dục (PTC) chờ đợi để được nâng cấp chuyên nghiệp thông qua các chương trình giáo dục từ xa (DE). Số lượng ứng viên đủ điều kiện cho chương trình giáo dục từ xa (DE) trong năm 2011 giảm đến 19 do thiếu kinh phí; giáo viên thiếu kỹ năng thích hợp để quá trình dạy và học có hiệu quả. Điều này dẫn đến các thế hệ tiếp theo của giáo viên đạt chuẩn, lặp đi lặp lại một vòng lẩn quẩn. Việc thiếu chất lượng giảng dạy ở Bhutan duy trì tình trạng chuyên môn thấp bền vững. Khi điều này kết hợp với một khối lượng công việc dày đặc

Page 57: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

nhưng mức thù lao thấp, giảng dạy là một nghề không thể thu hút các ứng cử viên sáng giá, kéo dài mãi những điều kiện học tập kém.

Mặc dù số lượng trường học tư nhân đã tăng lên trong những năm qua, chất lượng giáo viên vẫn là một mối quan tâm lớn của cha mẹ, những người gửi con đến các trường tư vì nền giáo dục tân tiến hơn. Các trường tư nhân tiếp tục thuê giáo viên chưa qua đào tạo và không đủ tiêu chuẩn. Đặc biệt là tại các trung tâm chăm sóc ban ngày và các trường tiểu học, trong đó sinh viên tốt nghiệp lớp 10 và 12 được thuê để dạy cho trẻ em. Việc thiếu cơ chế thích hợp để giám sát và đánh giá chất lượng giáo viên và chất lượng học tập của học sinh có thể làm trầm trọng thêm tình trạng này. Do đó, chất lượng của giáo viên cũng như chất lượng của học sinh học các trường tư giảm sút trừ khi lương giáo viên được nâng lên, đủ để thu hút giáo viên có trình độ và các quy định của chính phủ nên giảm bớt, cho phép giáo viên được đào tạo nhiều hơn để tiếp tục giảng dạy tại các trường học khác.

Thiếu kiến thức môn học và hỗ trợ phát triển chuyên môn cho giáo viên là một vấn đáng lưu ý. Báo cáo thường niên TNA (2008) khẳng định rằng trong các lớp tiểu học, nội dung kiến thức cốt lõi của giáo viên còn non yếu; thiếu hiểu biết sâu sắc hơn về lĩnh vực chuyên môn và quan niệm sai lầm làm mầm mống cho việc truyền đạt kiến thức sai lệch đến học sinh. Các cơ hội để phát triển nghề nghiệp liên tục và hỗ trợ cho giáo viên tại chức vẫn còn thiếu về mặt đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh.

Trong khi các chương trình đào tạo tại chức đang được tiến hành, khoảng cách về tần số, hiệu quả có và chất lượng của các chương trình này ngày một xa . Trong chương trình đào tạo giáo viên tại chức được thực hiện ở ba cấp: cấp quốc gia (NBIP), cấp quận (DBIP) và ở cấp trường (SBIP). Mặc dù 80% giáo viên nói rằng họ đã theo học một số chương trình đào tạo giáo viên tại chức, khoảng cách giữa các chương trình có thể là một vài năm, và chính những chương trình đó đôi khi không liên quan đến các ứng dụng trong lớp học, và nhu cầu cải tiến trong phương pháp đào tạo. Hơn nữa, nội dung bị loãng khi giáo viên tiến hành tập huấn cho học sinh sau khi tham dự các chương trình cấp quốc gia (Chất lượng giáo dục trường học ở Bhutan 2008).

Thiếu phương pháp dạy học tích hợp để trang bị cho giáo viên phát triển chuyên môn và thiếu sự liên kết / liên tục các chương trình đào tạo tiền công vụ và đào tạo tại chức. Do đó, chất lượng của các chương trình đào tạo giáo viên của Bhutan, cả hai chương trình đào tạo tiền công vụ và đào tạo tại chức, cần được hiểu có mối quan hệ gắn liền với các sáng kiến cải cách giáo dục khác. Đây vẫn là một yếu tố quan trọng trong các cuộc thảo luận đang diễn ra về hệ thống giáo dục của Bhutan.

Các chính sách phân bổ giáo viên khá phức tạp . Sinh viên tốt nghiệp bắt buộc phải công tác ở một nơi xa xôi ít nhất ba năm trong giai đoạn đầu. Những giáo viên sống và làm việc ở đô thị hơn 18 năm bị chuyển đến vùng sâu vùng xa. Những yếu tố trên cản trở sinh viên tốt nghiệp hành nghề giảng dạy. Giáo viên được khuyến khích đảm nhận khu vực xa mà không phải di chuyển đến nên đó, hoặc được hưởng lợi từ việc thăng chức sau khi hoàn thành công tác tại một vùng suốt ba năm.

Page 58: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Hiện nay giáo viên và giảng viên được điều chỉnh và quản lý bởi Ủy ban dịch vụ dân sự Hoàng gia (RCSC), Ủy ban dịch vụ dân sự Hoàng gia quyết định mức lương, vị trí trong các trường học, chuyển giao và triển khai, điều kiện làm việc… Việc triển khai này phát xuất từ bộ máy thiếu tổ chức. Sự bổ nhiệm liên tục khiến giáo viên phải di chuyển từ trường này sang trường khác mà không nghĩ đến sự phân công phù hợp. Bài tập giảng dạy phức tạp và không phù hợp được truyền đạt. Ví dụ, một giáo viên được đào tạo chương trình giảng dạy tiếng Anh mới cho lớp mẫu giáo đến lớp 4 được bổ nhiệm tới một trường tiểu học cộng đồng (CPS) nơi cô đang dạy tiếng Anh cho lớp mẫu giáo, lớp 1 và lớp 4 và môn Toán vào lớp 4. Đây là một sự lãng phí nguồn lực và khiến giáo viên bất mãn, không ngừng làm xấu thêm hình ảnh kém đẹp của nghề giáo liên quan đến triển vọng nghề nghiệp, tiền lương và địa vị. (Chất lượng của giáo dục trường học ở Bhutan 2008).

Sau khi tốt nghiệp các trường đào tạo cử nhân sư phạm. Sinh viên tốt nghiệp ngành giáo viên phải vượt qua phần thi tuyển chọn cử nhân sư phạm của Ủy ban dịch vụ dân sự Hoàng gia (RCSC) để trở thành một giáo viên. Điều này chỉ khiến giáo viên thêm căng thẳng một cách không cần thiết khi phải kiểm tra lại kiến thức cử nhân sư phạm của mình (Phân tích thực trạng của nhà nước hiện nay về việc trang bị cho giáo viên ở Bhutan, 2009).

3.2.2.8 Ban Quản Trị nhà trường

Những luật lệ mà hiệu trưởng đề ra có thể là lý do duy nhất khiến nhiều trường học phải thực hiện, bất chấp những thách thức nghiêm ngặt. Tuy nhiên, các thầy hiệu trưởng lại thiếu tính chủ động, nguồn lực và kỹ năng thu phục nhân tâm. Một số thách thức mà các thầy hiệu trưởng phải đối mặt đó là các trách nhiệm hành chính trở nên quá tải, thiếu chính kiến trong việc ra quyết định, thiếu thời gian để tham gia quan sát các buổi học, thiếu nguồn lợi tức thích hợp cho các phòng học, và quan trọng nhất, thiếu kỹ năng  tác động và gây ảnh hưởng tích cực đến người nghe.

Hiệu trưởng phát xuất từ giáo viên có chuyên môn giỏi, có phẩm chất nghề nghiệp và không trải qua những tiêu chuẩn khắt khe để lựa chọn. Việc đào tạo các ứng viên thành công không đạt chuẩn là do thiếu năng lực trong các cơ sở đào tạo. Kết quả là, họ có thể xếp ngang hàng với giáo viên. Thiếu kỹ năng lãnh đạo chỉ huy đồng nghĩa rằng họ chỉ đơn giản là chuyển giao kiến thức riêng của họ như một cựu giáo viên cho những người khác. Nếu không có khả năng chuyên môn để quan sát và thu phục giáo viên, cải thiện chương trình đào tạo và thực hành mô hình hiệu quả, hầu hết các hiệu trưởng sẽ không có khả năng đứng đầu một trường học (Chất lượng của giáo dục trường học ở Bhutan năm 2008).

Từ số lượng hiện tại của các trường tại Bhutan, một quốc gia tối thiểu 502 hiệu trưởng / quản trị viên được yêu cầu. Cho đến năm 2003 không có chương trình đại học về lãnh đạo giáo dục có hiệu lực trong nước. Thế hệ đầu tiên có 17 thạc sĩ tốt nghiệp ngành giáo dục năm 2006; đến năm 2008 con số tổng tích lũy là 57. Hiện vẫn tồn tại một lỗ hổng lớn trọng việc đào tạo ban quản trị. Tuy nhiên, bằng cấp lãnh đạo được cung cấp bởi trường Đại học Giáo dục tỉnh Paro, và các khóa học khác như Thu phục giáo viên ở tỉnh Samtse và Bằng tốt nghiệp chuyên nghiệp

Page 59: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

ngành giáo dục (PGDE) ở tỉnh Sherubtse không được công nhận bởi Đại học hoàng gia Bhutan (RUB). Điều này chứng tỏ các bộ phận khác nhau của bộ máy chính quyền không làm việc cùng nhau.

Trong khi đó, một số hiệu trưởng đã từng tham dự những chương trình quốc tế, hầu hết các hiệu trưởng này đã không trải qua khóa đào tạo lãnh đạo giảng dạy và quản lý chính thức. Việc thiếu kỹ năng quản lý hiệu quả có xu hướng nâng cao gánh nặng hành chính cho họ. Nghị lực bị tiêu tan vì tham dự vào các vấn đề quản lý nhà trường; do đó, việc học tập và giảng dạy không được đề cao vào công việc của họ. Không có khả năng đưa ra quyết định quy chế và tài chính cơ bản làm giảm giá trị của họ trong việc đưa ra sáng kiến và làm cho chúng phù hợp với các quy tắc và thủ tục.

3.2.2.9 Sách giáo khoa

Chất lượng và sự khả dụng của sách giáo khoa có sự tác động rất lớn đến việc học tập của học sinh. Với sự chuẩn bị kém của giáo viên, thiếu sách giáo khoa và các nguồn lực tốt là một trở ngại nghiêm trọng đến việc truyền đạt kiến thức. Sách giáo khoa nặng kiến thức, học sinh cố gắng học thuộc lòng mà không thực sự hiểu những kiến thức đó. Kết quả là cả giáo viên và học sinh, bị phụ thuộc vào nội dung sách giáo khoa, rập khuôn vào mô hình bị ‘bao trùm’ bởi lương lớn nội dung đó.

Một nghiên cứu gần đây được tiến hành bởi Trung tâm nghiên cứu Bhutan (CBS) năm 2008 về giá trị của sách giáo khoa đã tiết lộ một số thật hiển nhiên khó lòng làm ngơ. Không có tiến triển trong việc phát triển các khái niệm, không có mối quan hệ rõ ràng giữa các khái niệm, các vấn đề không theo sát thực tế cuộc sống, kiến thức nặng, thực hành thấp. Kết quả là học sinh không thể áp dụng kiến thức trong sách giáo khoa áp dụng với thực tế.

Sách giáo khoa đại diện cho các tổ chức xã hội như lễ hội Tsechu và các trò chơi truyền thống, nhưng vai trò của chúng trong việc truyền giá trị không được đề cao. Thay vào đó, sách giáo khoa tập trung quá mức và không cần thiết khi mô tả về chức danh và trang phục chế độ quan liêu và người cầm quyền.

Không có khái niệm đầy đủ hướng tới nguy cơ và tình trạng vị thành niên dính líu đến: ma túy và rượu (tham khảo quận Dzongkha Lớp 8 và lớp 9; Nghiên cứu Xã hội lớp 4 về thuốc lá và rượu), mang thai ngoài ý muốn, chống đối xã hội, nhóm đồng đẳng và lan tỏa bạo lực trên các phương tiện truyền thông (tham khảo quận Dzongkha Lớp7; tiếng Anh lớp 10). Vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân được an toàn, nhưng không báo trước được các vấn đề của suy thoái môi trường và ô nhiễm sẽ ra sao.

Hành vi đạo đức được mô phỏng theo chuẩn mực của Đức Phật, Ashoka, Peling, Zhabdrung, và các vị vua, đây là những người có phẩm hạnh mà người phàm khó có thể đạt được, họ đại diện cho những phẩm chất đạo đức và tinh thần của các vị thánh mẫu mực. Họ cũng được lồng ghép vào giáo lý và giá trị triết lý nhân sinh, cách tiếp cận mang tính lịch sử và trường tồn theo thời gian.

Page 60: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Lòng vị tha và từ bi được nhấn mạnh như là cách để giúp đỡ người khác và giá trị của bản thân. Nhưng không có kỹ thuật tạo động lực và tân tiến [Lojong (nhân tâm học) và Tong-len (tự trao đổi bản thân khác hơn…)] được trình bày sau. Về vấn đề giá trị, sách giáo khoa được thiết kế để ghi nhớ chứ không phải là lý luận và hoạt động trí óc. Sách giáo khoa nhấn mạnh 'khi' và 'những gì' tại các chi phí của "tại sao" và "như thế nào". Những quy ước xã hội được chú trọng, nhưng lập luận về luân lý đạo đức không được khuyến khích một cách hệ thống. Không có tình huống đạo đức khó xử được thể hiện trong câu chuyện mà các học sinh có thể áp dụng lý luận của chúng. Không có khái niệm tiến bộ của giáo dục đạo đức, phát triển nhân vật, chỉ có câu chuyện dường như ngẫu nhiên trong các môn học và lớp học. Vì vậy không có sự áp dụng cơ bản nào của bất kỳ khái niệm phát triển đạo đức như các lý thuyết phát triển đạo đức của Phật giáo, Kohlbergian, Piagetian.

Trong khi đó, sách giáo khoa thiếu tính hệ thống và diễn tiến của các khái niệm giá trị qua các lớp học, có những tiêu chuẩn biến đổi đột ngột giữa các môn học trong cùng một lớp, và ngay cả trong chính các môn học đó. Ví dụ, những kỳ vọng học tập đặt ra cho tiếng Dzongkha (quốc ngữ của Bhutan) và tiếng Anh từ lớp 3 đến lớp 4 là quá cao; tiếng Dzongkha lớp 9 thì khó hơn so tiếng Dzongkha lớp 10; và những lý luận trong sách Lịch sử và Giáo dục công dân là không hợp lý.

Sách giáo khoa thường được in lại (Địa lý cho lớp 8 in lại 3 lần, sách Nghiên cứu Xã hội lớp 4 in lại 11 lần) không có cải tiến đáng kể hoặc loại bỏ các lỗi. Rất cần thiết việc thay thế thông tin lỗi trong sách Địa lý, Lịch sử (thế kỷ XIX và XX), Kinh tế và trong Giáo dục công dân, với nội dung không có sự phân biệt giữa các quyền pháp lý và đạo đức, hoặc quy ước và đạo đức; chỉ việc tuân thủ luật pháp là được nhấn mạnh.

3.2.2.10 Người lớn biết chữ

Giáo dục không chính quy

Phòng Giáo dục thường xuyên không chính quy (NFCED) tại Bộ Giáo dục có trách nhiệm theo dõi và đánh giá chương trình Giáo dục không chính quy (NFE) chung của đất nước. Hiện nay những gì giám sát được là do giải quyết về mặt định lượng; Giáo dục không chính quy tại các trung tâm, quận huyện… Tất cả những con số báo cáo dưới sựu quản lý của Phòng Giáo dục thường xuyên không chính quy (NFCED).

Giáo dục không chính quy ở Bhutan được hình thành như một mô hình giáo dục thay thế, giúp mọi người có được kỹ năng đọc viết. Những học sinh bỏ học sớm, người đàn ông và phụ nữ trẻ tuổi mù chữ , đặc biệt là phụ nữ, là các nhóm đối tượng của chương trình. Mặc dù có những tiến bộ đáng kể, tỷ lệ mù chữ của người lớn vẫn tiếp tục là một thách thức lớn, ngang bằng với các thách thức của việc đảm bảo tiếp cận giáo dục cơ bản cho tất cả các trẻ em tuổi đi học. Thật vậy, hai vấn đề đan xen nhau vì bộ phận dân số biết chữ có khả năng giáo dục lớp trẻ sau này. Chính điều này sẽ giúp ngăn chặn nạn mù chữ ngay từ xuất điểm ban đầu.

Page 61: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Tổng điều tra Dân số và gia dụng (năm 2005) cho thấy tỷ lệ dân số biết chữ sẽ đạt được 60 % trong năm 2008 trong khi tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên là 53 %. Phụ nữ biết chữ đạt 39 % thấp hơn nhiều so với dân số nam giới, với tỷ lệ biết đọc viết được báo cáo là 65 %. Tỷ lệ người lớn biết chữ ở ở các khu vực nông thôn (44 %) thấp hơn nhiều so với những người trưởng thành ở các khu đô thị (72 %).

Có nhiều yếu tố góp phần vào việc hạn chế tiếp cận và thành công của chương trình giáo dục không chính quy. Tiêu chí lựa chọn giảng viên để tham dự các cuộc hội thảo ở mỗi cấp là không minh bạch, vì vậy một số giảng viên nhận được 2 hoặc 3 cơ hội được đào tạo, trong khi những người khác thì không. Những hướng dẫn của chương trình giáo dục không chính quy mang tính tạm thời và được bổ nhiệm vào chương trình sau khi tham dự một hội thảo. Kết quả là, hầu hết các giảng viên không ở lại để xem việc thực hiện của toàn bộ chương trình. Những người ở lại không được trang bị để thực hiện chương trình có hiệu quả, và không có sự hỗ trợ hoặc giám sát thường xuyên để đánh giá hiệu quả của chương trình. Chương trình giáo dục không chính quy cần dựa trên Kế hoạch thực hiện (NBIP) để phổ biến kiến thức đến tất cả những người đã bỏ lỡ cơ hội đào tạo tại chức.

Nguồn lực và cơ sở hạ tầng của các trung tâm giáo dục không chính quy là không đầy đủ. Câu hỏi đặt ra ở đây liệu rằng các chương trình trên đã phù hợp với nhu cầu của người dân, trong việc tạo nên những công dân có ích cho đất nước. Do đó, phơi bày ra liên kết giữa các chính sách và chiến lược thực hiện, thực hành giao dịch và các kết quả của chương trình là yếu.

Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng một trong những phương thức truyền đạt giáo dục không chính quy được sử dụng trên cả nước. Điều này cần phải được điều chỉnh cục bộ. Các quận cần phải được trao quyền để thiết kế phương pháp phân bổ riêng biệt nhằm hướng tới những người không biết chữ trong quận, phù hợp với từng cá nhân. Để đảm bảo tiêu chuẩn này, cần nhận định lại cơ sở được đặt ra bởi Phòng Giáo dục thường xuyên không chính quy (NFCED). Nếu không linh hoạt như vậy, số lượng rất lớn người không biết chữ sẽ không thể tiếp cận chương trình giáo dục không chính quy (Đánh giá tác động Một trong những chương trình giáo dục không chính thức ở Bhutan, 2008).

Nhu cầu sử dụng tiếng Anh để giao tiếp hàng ngày và cho thương mại ngày càng cao. Theo dòng cuốn của quá trình hội nhập thế giới, sự giao thoa văn hóa xã hội của dân tộc không làm mờ nhạt đi giá trị của việc học bằng tiếng mẹ đẻ, và sau khi thảo luận với các bên liên quan, nghiên cứu trên đã rút ra một giá trị và nhu cầu lớn hơn trong việc phát triển chữ quốc ngữ Dzongkha và tiếng Anh. Hầu hết các bên liên quan đều nhất trí rằng tiếng Anh không chỉ khuyến khích nhiều mặt phát triển bền vững mà còn thu hút rất nhiều người dân không biết chữ theo học.

Một nhóm mục tiêu quan trọng đó là khó khăn để tiếp cận là người chăn nuôi nhập cư. Cộng đồng người tại khu vực như thị trấn Sengor (tỉnh Mongar) hoặc thị trấn Ura (tỉnh Bumthang) thường xuyên di cư xuống đồng bằng thấp trong 6 tháng đầu năm. Ở các thị trấn khác, các công nhân sẽ đi đến đồng cỏ cao hơn trong mùa hè. Tất cả cho thấy thêm một dấu hiệu rằng

Page 62: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

người dân nông thôn không có khả năng tiếp cận chương trình giáo dục không chính quy (NFE) vì : chương trình không đủ linh hoạt để đáp ứng nhu cầu của họ (Đánh giá tác động của Chương trình giáo dục không chính thức ở Bhutan, 2008).

Những điều này và các yếu tố khác đã dẫn đến tỷ lệ người lớn biết chữ thấp trên dân số trưởng thành. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ mù chữ có liên quan với thiếu thốn và kém phát triển kinh tế-xã hội. Biết chữ là chìa khóa cho năng suất; để sức khỏe tốt hơn, nhận thức về dinh dưỡng và cuộc sống gia đình; để giáo dục trẻ em và tăng cường đáp ứng với các dịch vụ xã hội công đồng và đổi mới. Các nhiệm vụ xoá mù cho người lớn trong một khoảng thời gian thực tế là bắt buộc, trong bối cảnh Bhutan đang nỗ lực để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.

Giáo dục thường xuyên

Trước năm 2006, các cơ sở giáo dục thường xuyên cung cấp chỉ dành cho giáo viên để nâng cấp trình độ học vấn của họ bằng cách cho phép họ ghi danh vào Hội đồng thi lớp 10 hoặc lớp 12 tùy thuộc vào năng lực học tập. Năm 2006, một chương trình giáo dục thường xuyên lần đầu tiên được thử nghiệm tại một trong những trường trung học phổ thông tư nhân ở thủ đô Thimphu cho tất cả mọi người đều quan tâm đến việc nâng cao trình độ của mình. Sự ra đời của chương trình này là do Bộ Giáo dục thiết lập một hệ thống tiếp tục bồi dưỡng kiến thức mang đến cơ hội cho học sinh tốt nghiệp sớm nâng cấp trình độ của mình. Chương trình được mở rộng đến tỉnh Paro và tỉnh Chukha năm 2009 và đến chín quận khác trong năm 2010. Có 11 trường học cộng đồng và 4 trường trung học phổ thông tư nhân cung cấp các Chương trình Giáo dục thường xuyên (CE). Nhập học tại các chương trình Giáo dục thường xuyên (CE) tăng từ 300 năm 2007 lên 1600 trong năm 2011. (Giáo dục Thống kê, 2011).

Ngoài các chương trình Giáo dục thường xuyên (CE) nói chung, một chương trình giáo dục thường xuyên của quận đã được bắt đầu tại Viện Ngôn ngữ Dzongkha ở thủ đô Thimphu vào năm 2008, nơi 29 ứng cử viên ghi danh cho lớp 11 và 36 ứng cử viên cho lớp 9 để nâng cấp trình độ tiếng Dzongkha của họ. (Giáo dục Thống kê, 2009)

 Một số thách thức đáng chú ý mà chương trình Giáo dục thường xuyên (CE) phải đối mặt là sự bất khả tiếp cận của cơ sở này, các vùng sâu vùng xa đồng thời thiếu giáo viên có trình độ và chủ yếu là giáo viên dạy các khóa học Giáo dục thường xuyên (CE) sau giờ làm việc chính của họ.

Các chương trình Giáo dục thường xuyên (CE) cần phải được tiếp tục tăng cường, củng cố và tiện nghi ở cấp đại học.

3.2.2.11 Năng lực quản lý và lập kế hoạch

Thiếu năng lực trong việc lập kế hoạch, thực hiện / quản lý và giám sát các chương trình giáo dục gây ra những thách thức lớn đối với việc mở rộng giáo dục. Mặc dù đã có tiến bộ nhưng việc lập kế hoạch và quản lý hệ thống giáo dục cần cải thiện hơn nữa về việc thu thập và phân tích các dữ liệu. Yếu tố lãnh đạo, kiểm soát và tuân thủ là ba tư duy chính có vai trò quan trọng

Page 63: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

góp phần thay đổi toàn hệ thống, bao gồm các bước: lệnh từ trên xuống để bắt đầu chính sách, hạn chế quyền kiểm soát, và tuân thủ các thủ tục hành chính. (Chất lượng của giáo dục trường học ở Bhutan 2008)

Ở cấp địa phương, điều này khá phức tạp do thiếu cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia trong việc lập kế hoạch và quản lý giáo dục tiểu học. Mặc dù sự hình thành của các Ban quản lý trường và hội phụ huynh-giáo viên được khuyến khích nhưng họ chủ yếu tham gia vào quá trình tạo ra hỗ trợ trong xây dựng trường học hơn trong quy hoạch và quản lý nhà trường. Các bên tham gia như thực hiện thủ tục hành chính chứ chưa thực sự hợp tác.

Muốn tăng cường năng lực quản lý hệ thống giáo dục có thể thực hiện bằng cách mở các khoá huấn luyện cho các nhà hoạch định giáo dục và quản lý đào tạo, hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý giáo dục và phát triển một cơ cấu tổ chức. Như vậy, cộng đồng sẽ được tham gia vào việc quản trị trường. Mỗi cộng đồng có những thuận lợi và thách thức riêng. Tại các khu vực nông thôn, những thách thức có thể bao gồmít học sinh, đi đường dài đến trường, thiếu nguồn lực, thiếu chất lượng, thiếu giáo viên, và giảng dạy lớp ghép. Tuy nhiên lớp học trong khu vực thành thị thì rất đông đúc và không có đủ không gian cho việc giảng dạy và quá trình học tập. Như vậy, bên cạnh nỗ lực tăng cường hệ thống bằng cách mở các khoá huấn luyện cho các nhà hoạch định giáo dục và quản lí đào tạo, cần phải ghi nhớ rằng nên nhạy cảm với nhu cầu địa phương và có sự linh hoạt đưa ra quyết định và thực hiện các chiến lược phù hợp nhất cho từng cộng đồng.

3.2.2.12 Phần kết luận

Những phát hiện và thách thức ở trên là bằng chứng rằng tất cả không phải là tốt với hệ thống giáo dục của Bhutan. Trong khi hệ thống giáo dục của Bhutan đã có những cải tiến đáng kể trong việc tiếp cận và tuyển sinh ở các giai đoạn khác nhau của giáo dục, các báo cáo, kết quả nghiên cứu và các phản ứng đã đưa ra bằng chứng phong phú của rằng có học sinh trình độ yếu kém ở tất cả các cấp, quản lý chưa hiệu quả, không trực tiếp đưa ra quyết định, sự bất lực và lòng tự trọng thấp trong số lãnh đạo nhà trường và giáo viên, và một nền văn hóa chung của sự thụ động cố thủ trong hệ thống giáo dục.

Page 64: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

3.3 Thiết kế cho chuyển đổi giáo dục ở Bhutan

Trong vài thập kỷ qua, cải cách giáo dục đã từng là trung tâm của chương trình nghị sự quốc gia của nhiều nước. Các nghiên cứu về biến đổi giáo dục ở các nước như Singapore, Hàn Quốc và Anh chứng minh rằng sự hội tụ xung quanh một tập hợp các nguyên tắc hướng dẫn chung và chiến lược cải cách tập trung vào sự thành công và một quá trình triển khai thực hiện tốt kế hoạch. Mô hình này có ý nghĩa quan trọng đối với Bhutan, đặc biệt là đối với con đường mà đất nước này muốncải thiện chất lượng giáo dục. Các tác động của cải cách có thể nâng cao chất lượng của hệ thống trường học trong một thập kỉ hoặc ít hơn. Cải cách thành công luôn giữ một chương trình đơn giản và tập trung - cho thấy sự khác biệt có thể nhìn thấy trong lớp học bằng cách nâng cao kết quả học tập cho sinh viên và cải tiến phương pháp giảng dạy. Để nâng cao chất lượng học tập, các hệ thống trường học thông qua các lựa chọn khắt khe, chuẩn bị và phát triển nghề nghiệp bền vững, đã có giúp nâng cao chất lượng sinh viên ngành sư phạm – nhứng ngừoi sẽ trở thành giáo viên. Hầu như tất cả thành công của nhà trường nói riêng và của toàn bộ hệ thống giáo dục nói chung được thực hiện dưới sự chỉ huy của các nhà lãnh đạo tài. Mục tiêu giáo dục rõ ràng và tham vọng liên quan đến nguyện vọng của quốc gia đã đảm bảo rằng những cải cách có tính hợp pháp và mục đích.Là một thành viên của nhóm SAARC, Bhutan nhận thức được rằng sự phát triển kinh tế và xã hội không thể được bảo đảm mà không cần sử dụng tối ưu các nguồn lực con người, mà giáo dục là điều kiện thiết yếu. Giống như bất kỳ quốc gia Nam Á khác, Bhutan gặp vấn thiếu tiếp cận và thiếu sự xuất sắc. Giáo dục cho GNH mong muốn cải thiện chất lượng giáo dục cùng với việc nâng cao chất lượng của các cơ sở hạ tầng. Nó tiếp tục mong muốn nuôi dưỡng người có học thức, có lương tâm và sáng tạo, những người chứng minh hành động và thực hành dẫn đến việc mua lại các giá trị của GNH.Các kết luận từ những phân tích trên chỉ ra lỗ hổng và những thách thức. đây là những thứ cần thay đổi để góp phần nâng cao chất lượng đầu ra. Dựa trên tiền đề này, một lý thuyết về sự thay đổi đã ra đời, để thu hẹp khoảng cách giữa các thiết lập hiện tại của những thách thức và những khát vọng cao cả mà Bhutan duy trì cho bản thân. Đó là giá trị trích Michael Fullan về việc chuyển giáo dục có ý nghĩa: "từ trên xuống thay đổi không làm việc và từ dưới lên thay đổi này không làm việc, hoặc. Nó chỉ là khi từ trên xuống và từ dưới lên làm việc với nhau mà thay đổi lâu dài xảy ra. "(Fullan, thay đổi lực lượng, 1993). Chuyển thành hành động,lý thuyết thay đổi này bao gồm các chiến lược và các sáng kiến như trong phần sau.

Để thành công trong thế kỷ 21, sinh viên sẽ cần phải nắm vững kiến thức và các kỹ năng nhận thức và xã hội cho phép họ để đối phó với các vấn đề phức tạp của thời đại . Giáo dục trong thế kỷ 21 tập trung vào:

Các lĩnh vực học tập thiết yếu trong các chủ đề của thế kỷ 21 (nhận thức toàn cầu, học chữ, sức khỏe, kiến thức , tài chính và kinh doanh).

Học tập và kỹ năng mới (sự sáng tạo và đổi mới, suy luận vấn đề kỹ năng, giao tiếp và kỹ năng hợp tác giải quyết).

Học tập suốt đời và sinh kế (khả năng thích ứng và linh hoạt, tự quy định và lãnh đạo, xã hội và kỹ năng qua văn hóa, năng suất và trách nhiệm).

Biết đọc biết viết thông tin, truyền thông và công nghệ thông tin.

Page 65: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Những điều cần cung cấp cho bối cảnh để thực hiện các kỹ năng và khái niệm, một cam kết sâu hơn với các lĩnh vực học tập cần thiết thông qua phân tích và tổng hợp, và nắm vững luật pháp của thế kỉ 21. Trong bối cảnh các hướng dẫn kiến thức cốt lõi, học sinh phải học các kỹ năng cần thiết để thành công trong thế giới ngày nay: giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, giao tiếp và hợp tác. Như tiêu chuẩn hàng đầu các học giả Resnik và Hall đặt nó (1998), "Những gì chúng ta biết là bây giờ mà chỉ như những sự kiện một mình không tạo kiến thức thật sự và sức mạnh suy nghĩ, vì vậy quá trình tư duy không thể tiến hành mà không có một cái gì đó để suy nghĩ về."

Page 66: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

1. Tiếp cận giáo dục ở tất cả các cấp

a) Liên kết ngay ban đầu (PP), từ bậc mẫu giáo với chương trình Chăm sóc và

phát triển trẻ thơ (ECCD) như một phương tiện để giải quyết cả việc chăm sóc và

nhu cầu giáo dục của trẻ em 2-8 năm.

b) Đưa chương trình ECCD chất lượng (mầm non 2-4 năm) đến tất cả mọi nơi

trên đất nước.

c) Mở rộng diện bao phủ của chương trình Chăm sóc và phát triển trẻ thơ (ECCD)

chất lượng (mầm non cho 4-6 năm) cho tất cả các bộ phận của đất nước.

d) Thiết lập khuôn khổ cho các chương trình Chăm sóc và phát triển trẻ thơ

(ECCD) hướng tới sự phát triển của nhóm tuổi này.

e) Bảo đảm rằng tất cả các trẻ em tuổi đi học, đặc biệt là trẻ em ở vùng sâu, vùng

xa, được tiếp cận với giáo dục tiểu học và trung học, cũng như các chương trình

giáo dục và đào tạo nghề phù hợp.

f) Duy trì các nhu cầu cao và việc sử dụng các dịch vụ giáo dục, đặc biệt tập trung

vào việc giáo dục cho trẻ em có hoàn canh đặc biệt và dân tộc thiểu số.

g) Học phí hợp lý, đặc biệt là ở các cấp trung học phổ thông và đại học.

3.4 Một số đề xuất góp phần đổi mới nền giáo dục

Từ những kết luận trên và một lý thuyết về sự thay đổi, các khuyến nghị sau đây được đề xuất nhằm giải quyết những thách thức của hệ thống giáo dục của Bhutan. Các đề xuất này không nhằm mục đích đề ra quy tắc, mà là để đưa ra sự lựa chọn, hướng tới các bên liên quan khác nhau để tham gia vào quá trình đổi mới. Việc thực hiện các mục tiêu phát triển giáo dục của Bhutan đòi hỏi các biện pháp bổ sung như sau:

Page 67: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

3. Tăng cường năng lực thể chế:

a) Tăng cường năng lực các trường học để tập trung vào giảng dạy và học tập

thông qua các chính sách và biện pháp can thiệp nhằm thúc đẩy quyền tự chủ,

trách nhiệm và một nền văn hóa của sự đổi mới và tư nhân.

b) Tạo môi trường học thân thiện, với các mô hình thích hợp, công cụ và hỗ trợ

công nghệ để nâng cao học tập.

c) Khuyến khích giáo dục kết hợp ba chiều gia đình – nhà trương – xã hội, và tinh

thần tự học.

d) Xây dựng chính sách dựa vào trường học để tự đánh giá, cơ chế quản lý, đảm

bảo chất lượng và kế hoạch phát triển trường học.

2. Nâng cao chất lượng học tập:

a) Thiết lập các tiêu chuẩn thành tích theo tiêu chuẩn đánh giá quốc tế.

b) Tái cấu trúc các chương trình giảng dạy, hướng dẫn và đánh giá ở tất cả các

cấp học hướng tới một hệ thống toàn bộ giáo dục.

c)Tạo điều kiện cho học sinh được đến trường, dựa theo nhu cầu, lợi ích cá nhân

và quốc gia.

d) Nâng cao chất lượng và tính phù hợp của giáo dục, tất cả học sinh đạt được

các tiêu chuẩn học tập theo quy định.

Page 68: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4. Phát triển nguồn nhân lực

a) Liên kết giáo viên từ các dịch vụ dân sự và hướng tới việc hình thành một cơ

quan độc lập, thu hút nhân tài vào giảng dạy bằng cách tuyển dụng các ứng viên

có năng lực, cung cấp mức lương thỏa đáng, đảm bảo sẵn sàng cho các hoạt

động lớp học có hiệu quả, và hỗ trợ giáo viên với một chương trình phát triển

chuyên môn liên tục .

b) Hiệu trưởng phải không ngừng phấn đấu để trở thành nhà lãnh đạo thông qua

đào tạo lãnh đạo và hỗ trợ chuyên nghiệp. Bảo đảm quyền tự chủ lớn hơn cho

các hiệu trưởng và hỗ trợ hành chính hơn (bao gồm ICT) trong quá trình thực

hiện.

c) Thiết lập hiệu quả thẩm định, đánh giá và hệ thống báo cáo cùng với chiến

lược thực hiện mà sẽ nâng cao thành tích học sinh và năng lực giáo viên.

Page 69: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Phần 4: Cấu trúc giáo dục mới

“Xin vui lòng cho tôi biết con đường mà tôi phải đi từ nơi này?” – Alice2 hỏi. Điều đó tùy thuộc vào nơi cô muốn đến.” – chú mèo Cheshire đáp.

Khái niệm về một hệ thống trường học KG-12 đã được phát triển từ nhu cầu đảm bảo sự gắn kết hơn và tính liên tục và sự liên hệ giữa các chương trình giảng dạy từ KG 1 đến lớp 12 và hướng đến giáo dục bậc Đại học. Việc điều chỉnh cấu trúc để hệ thống trường học này là cần thiết để phản ánh việc thay đổi tầm nhìn và mục tiêu giáo dục là kết quả của sự phát triển kinh tế, xã hội và thể chế chính trị.

Việc tái cơ cấu này sẽ không chỉ cung cấp môt định hướng cho việc tổ chức chương trình đào tạo mà còn là cơ sở hình thành sự kết nối chặt chẽ giữa các phạm vi học tập cần thiết, những dự định trong học tập và những tiến trình được chấp thuận. Chương trình giảng dạy quốc gia Framework (NCF) sẽ phản ánh nhu cầu học tập của học sinh và hình thành nền tảng của sự truyền dạy trong lớp học và việc thẩm định, đánh giá chất lượng. Điều này dự đoán sự thay đổi trong giáo dục – sự thay đổi đến từ các giáo viên cho đến nội dung giảng dạy để tạo điều kiện cho học sinh phát triển kiến thức, kỹ năng và các giá trị - từ những sinh viên đang học tập các môn học trở thành người học suốt đời.

2 “Alice lạc vào xứ thần tiên” (Lewis Carroll)

Page 70: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta
Page 71: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4.1 Lời giới thiệu:

Trường học được tổ chức thành các giai đoạn dựa vào các giai đoạn phát triển của trẻ, quan sát cách trẻ con học hỏi, những tồn tại trong việc giảng dạy, và các tiêu chuẩn học tập mà trẻ con dự kiến sẽ đạt được ở từng bậc học. Cơ cấu giáo dục bao gồm toàn bộ hệ thống trường học từ mầm non đến các bậc trung học. Một số điểm nổi bậc của cấu trúc này là:

Chương trình mầm non: (2-4 tuổi) sẽ tập trung vào việc cung cấp những thuận lợi cho sự kích thích sớm và chăm sóc trẻ.

Dự bị tiểu học: (KG 1 và KG 2) được định nghĩa trong một sự phát triển trong một khung chương trình đào tạo phù hợp.

Giáo dục tiểu học sẽ được thực hiện vào cuối lớp 6. Hệ thống phân loại quốc tế thường định nghĩa giáo dục tiểu học từ lớp 1 đến lớp 6. Trong việc đề xuất cơ cấu giáo dục, nhằm

tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi được trôi chảy, KG 1 và 2 đã được nhóm thành các lớp 1 và 2, vì những lớp này đòi hỏi một phương pháp giảng dạy tương đồng.

Học sinh hoàn thành kì kiểm tra quốc gia vào lớp 10 sẽ được coi là hoàn thành phần giáo dục nền tảng.

Việc học về những nghiên cứu đa dạng hóa sẽ được giới thiệu tại các bậc trung học cao hơn. Dự bị đại học hoặc các trường dạy nghề, sinh viên sẽ tùy chọn từ một loạt các sự rèn luyện kỷ luật. Tính rõ nét đặc trưng của giai đoạn này là tất cả các khóa học tự chọn đều ở sự công bằng, và mỗi sinh viên phải hoàn tất một môn học đại cương của khóa học nền tảng.

Sự liên kết được thiết lập giữa các hệ thống trường học, các trường đại học và các tổ chức khác của việc học cao học và nơi làm việc.

Page 72: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4.2 Cấu trúc trường học:

Toàn bộ quá trình học đến lớp 10 được chia thành 2 giai đoạn chính với những quy tắc cho từng giai đoạn. Điều này được tiếp nối ở 2 năm trung học sau đó. Các giai đoạn chính được xác định và xây dựng dưới đây xem xét các giai đoạn phát triển của trẻ con.

Giai đoạn này từ KG 1 đến lớp 2. Trong những năm đầu từ 4-8 tuổi, trẻ con học hỏi thông qua khám phá và trải nghiệm cụ thể và sự tiến bộ của chúng được phát triển ở những mức độ khác nhau. Trong khi việc tăng trưởng và phát triền ngôn ngữ nhanh chóng thông qua những năm học mầm non, suy nghĩ của các bé vẫn dựa trên những dấu hiệu tri giác và không thể lấy quản điểm của người khác thành phản ứng của mình. Giai đoạn này được cho là thời gian có giới hạn tốt nhất của “giai đoạn làm chủ tượng trưng”. Điều gì quan trọng nhất trong giai đoạn này là cơ hội để khám phá và làm việc mật thiết với các tư liệu vật chất nhằm nuôi dưỡng trí thông minh con người và kết hợp của trí tuệ. Các nhiệm vụ phát triển dự kiến của trẻ con được tổ chức một cách phù hợp. Ở thời điểm trẻ được 8 tuổi, bé sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu của trường học.

Giai đoạn này từ lớp 3 đến lớp 6, tương đương 8-12 tuổi. Khi trẻ tiến dần đến 8

tuổi, có một sự xuất hiện mới trong tư duy. Các bé có một góc nhìn tư duy 2 mặt cho toàn cảnh và dung lượng bộ nhớ cũng tăng lên đáng kể. Theo đó, định hướng học tập cũng thay đổi và chương trình cũng sắp xếp phù hợp dựa trên cách trẻ học. 8-12 là độ tuổi có khả năng thực hiện những hoạt động thuộc về tinh thần, tư duy logic và sẵn sàng cho một sự hiểu biết sâu sắc hơn về những lĩnh vực chuyên môn khác nhau.

Khi trẻ con chuyển dịch quá độ giữa thời niên thiếu và thơ ấu. trẻ được tiếp xúc một loạt các ngành một cách có hệ thống. Cho chính bản thân trẻ, trẻ nhằm mục đích đạt được một cách xuất sắc những kỹ năng khác nhau. Vào cuối giai đoạn này, học sinh sẽ hoàn tất bậc giáo dục tiểu học.

Giai đoạn này từ lớp 6 đến lớp 10, tương ứng với độ tuổi 12-16. Trong những năm vị thành niên, có những phát triển rất đáng lưu ý, cụ thể là các phong trào hướng đến tư duy trừu tượng, giải quyết hợp lý một tình huống đa diện và phát triển khả năng siêu nhận thức. Đối với giáo dục học sinh lớn hơn là để hiểu biết, nắm vững kiến thức các môn học và học nghề. Giai đoạn này học sinh hoàn thành việc giáo dục cơ bản và đưa ra quyết định về con đường cho bản thân phía trước.

Trung học phổ thông:

Giai đoạn 1

Giai đoạn 2

Giai đoạn 3

Page 73: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Ở giai đoạn này, lớp 11 và 12, giai đoạn đang trưởng thành cả thể chất lẫn tâm hồn và chuyển dịch theo hướng khó đoán và có những được thông báo về những quyết định về nghề nghiệp, trở thành một cá thể lao động của xã hội.

Việc đa dạng hóa chương trình giảng dạy ở giai đoạn này là quan trọng và cần thiết để chuẩn bị cho học sinh cả thể chất lẫn nhận thức để bước vào mội trường làm việc sau khi hoàn thành lớp 12.

Việc thực hành sư phạm cần thiết ở mỗi giai đoạn được sắp xếp cho những nhu cầu phát triển của học sinh, và cách các em học trong mỗi giai đoạn. Một số thuận lợi để tổ chức cấu trúc trường học ở những giai đoạn quan trọng, ví dụ như:

Tổ chức học vào những giai đoạn quan trọng có thể đạt được

mục tiêu ở từng giai đoạn. Việc phục vụ này như điểm kiểm tra để thấy cách học sinh tiến triển cũng như chuyển dịch ở những tốc độ khác nhau và đạt mức độ mong đợi khác nhau ở từng thời điểm. Để đạt được các tiêu chuẩn dự kiến, học sinh cần có thời gian và không gian để phát triển. Giai đoạn chủ yếu cung cấp cho học sinh với một khoảng thời gian trong đó để đạt mục tiêu học tập của mình.

Giai đoạn chính có thể phục vụ như một cách kiểm tra để giáo viên, người quản lý và những người lớn có liên quan khác có thể đánh giá tiến trình phát triển của học sinh và bất cứ sự trì hoãn, phát triển chậm nào. Việc khắc phục hay hành động sửa chữa có thể trì hoãn trong việc phát triển được xác định.

-

Page 74: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4.3 Việc thiết kế chương trình giảng dạy tại những giai đoạn khác nhau ở trường

Các chương trình đào tạo có mục tiêu cụ thể và thiết kế ở các cấp độ học khác nhau và được phân chia cụ thể như sau:

Chăm sóc và Phát triển những năm đầu của trẻ (ECCD)

Mỗi đứa trẻ có quyền được an toàn và một môi trường nuôi dưỡng – một nơi các em không chỉ được chăm sóc mà còn được công nhận và khuyến khích những điểm mạnh bản thân. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong nuôi dưỡng các em. Thời thơ ấu là sự bổ sung và cho trẻ sự chăm sóc tại nhà, nhằm tạo ra một môi trường kích thích, nơi đứa trẻ có thể lớn lên trong hạnh phúc tự tin. Các thời kỳ nền tảng của giai đoạn 1 – từ KG 1 đến lớp 2 – là rất quan trọng có ý nghĩa trong tiến trình phát triển của trẻ. Nhu cầu trọng tâm cần được cung cấp:

Một chương trình chất lượng cao kích thích các lĩnh vực phát triển khác nhau.

Một gói toàn diện bao gồm dinh dưỡng, sức khỏe và giáo dục cho tất cả trẻ em.

Sự sẵn sàng cho việc thành công trong việc học sắp tới.

Các trường học và các trung tâm khác nhau như địa điểm học tâp cộng đồng và tạo điều kiện kết nối cộng đồng.

Việc cung cấp các dịch vụ làm việc tích hợp làm cho toàn bộ hệ thống đến mỗi đứa trẻ, như mục tiêu nhằm đến trẻ em và những gia đình.

Các chương trình được thiết kế để tìm kiếm sự tham gia tích cực từ các gia đình.

Trong những năm đầu, các nguyên tắc tổ chức của chương trình là môi trường khoa học tự nhiên của chương trình. Những bảo mẫu/ giáo viên tạo ra sự ấm áp, môi trường tạo sự lôi cuốn, đảm bảo trẻ được an toàn, và việc thực hành theo sau đó thúc đẩy thể chất và tinh thần của các em vào việc học tập. Ví dụ, trong giai đoạn 1, giáo viên cung cấp những điều lệ, cấu trúc và xem xét những gì trẻ con đã biết về 1 chủ đề nhất định và làm thế nào để giúp trẻ xây dựng nhận thức dựa trên những kiến thức đó.

Giáo dục nền tảng: (Tiểu học và Trung học cơ sở)

Theo phân loại ISCED, giáo dục nền tảng bắt đầu từ tiểu học và trở thành cầu nối cho bậc học trung học cơ sở. Bhutan đã đề ra một thách thức và cũng là cơ hội để cung cấp một nền giáo dục cơ bản từ lớp 1 đến lớp 10. Điều này bao gồm 2 năm cuối của Giai đoạn 1 và toàn bộ giai đoạn 2 và 3. Chương trình học được thiết kế để cho tất cả trẻ em có thể hoàn thành phần giáo dục cơ bản như một việc quy nạp kiến thức định hướng xã hội; vì thế tất cả trẻ em đều có điều kiện thuận lợi từ nguồn học rộng rãi và phong phú, làm có nhiều sự lựa chọn hơn cho sự nghiệp và cuộc sống của trẻ.

Page 75: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Một nền tẳng giáo dục cơ bản có nghĩa là:

Mọi trẻ em đều nhận được kiến thức, kỹ năng và được phát triển thiên hướng bản thân cho đến lớp 10.

Những tiết ngoại khóa sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản và cần thiết tối thiểu cho việc tồn tại và thích ứng.

Trẻ phát triển những phẩm chất như sáng tạo, tự tin và kiên trì – những kỹ năng cần thiết để bước những bước xa vào thế giới.

Trẻ hoàn tất việc học trong các môn chính quy, điều này là bắt buộc cho việc được học tiếp theo của trẻ, cũng như công việc trong tương lai.

Trường học là nơi cho trẻ những trải nghiệm phong phú và phát triển toàn diện, bao gồm cả âm nhạc, nghệ thuật, phong trào và thể thảo.

Những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho việc học cần phải được nắm vững.

Trường học chuẩn bị hành trang cho công việc tương lai của các em bằng cách phát triển kiến thức và kỹ năng làm việc dựa trên nhóm ngành thương mại và dịch vụ như Chăm sóc tóc và Chăm sóc sắc đẹp, nghề hàn chì, thợ mộc thông qua chương trình hướng nghiệp.

Những giá trị của công dân Bhutan, sự tôn trọng môi trường, gia đình và cộng đồng; các khái niệm đúng và sai, hay cả hai

hoặc khác, đều được khắc sâu qua từng môn học khác nhau.

Sự cân bằng trong trải nghiệm học tập, các giá trị và kỹ năng sống cung cấp thông qua một được dẫn đến nghiên cứu học thuật hoặc học nghề.

Dự bị đại học và đào tạo nghề

Trong những năm gần đây đã có sự tăng trưởng và gia tăng nhu cầu về việc tham gia giáo dục bậc trung học cơ sở. Ở giai đoạn này của sự phát triển, một số học viên thể hiện sự ưa thích của mình để theo đuổi một chương trình học mà nó được định hướng cho giai đoạn giáo dục tiếp sau đó. Một số khác có khuynh hướng học nghề hay nghiên cứu, học thuật. Các chương trình thiết kế với thành phần và cấu trúc ở cấp độ cao hơn để cung cấp cho người trẻ những cơ hội để lựa chọn đúng đắn về nghề nghiệp và cuộc sống phía trước. Học sinh được cung cấp một loạt các môn học tự chọn để theo đuổi chuyên môn của mình, và được hỗ trợ với những kỹ năng nền tảng để chuẩn bị bước vào thế giới công việc. Con đường dự bị đại học sẽ giúp họ hoàn thành những khóa học cần thiết để bước vào trường đại học. Trung tâm đào tạo và hướng nghiệp (VET) cho phép học viên chọn con đường theo sở thích, nhu cầu và khả năng của mình. Học sinh có khuynh hướng tham gia trong những hội chợ việc làm sau lớp 12 sẽ không chọn các chương trình VET. Mục tiêu của chương trình VET sẽ phù hợp với khả năng và sở thích của học sinh và phản ánh nhu cầu thị trường lao động của Bhutan.

Page 76: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Tóm tắt:

Toàn bộ hệ thống của trường, bao gồm cả giáo dục mầm non, được tổng hợp như sau:

Các giai đoạn chính

Năm học Độ tuổi của trẻ Mục tiêu đạt được

2-4 Mầm non: Chăm sóc và phát triển cho trẻ

1 KG1

KG2

4-5

5-6

Mầm non: Chăm sóc và phát triển cho trẻ

Lớp 1

Lớp 2

6-7

7-8

Tiểu học: Giáo dục cơ bản

2 Lớp 3

Lớp 4

Lớp 5

8-9

9-10

10-11

Lớp 6 11-12 Kết thúc bậc tiểu học

3 Lớp 7

Lớp 8

Lớp 9

Lớp 10

12-13

13-14

14-15

15-16

Bắt đầu giai đoạn giáo dục trung học

Kết thúc giáo dục trung học: hoàn thành phần giáo dục cơ bản

HS Lớp 11

Lớp 12

16-17

17-18

Dự bị đại học hoặc dạy nghề

Page 77: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4.4 Những nguyên tắc chỉ dẫn hệ thống giáo dục

Tầm nhìn của chính phủ Bhutan được ghi nhận trong chín phạm vi phụ thuộc lẫn nhau của GNH, cụ thể là phúc lợi tâm lý, y tế, văn hóa, sức mạnh cộng đồng, mức sống, sử dụng thời gian, quản trị, giáo dục và sự đa dạng môi trường.

Việc khắc sâu tầm nhìn này trong thế hệ thanh niên và trẻ em Bhutan là mục đích cốt lõi dẫn đến các nguyên tắc của toàn bộ hệ thống giáo dục được mường tượng cho đất nước. Những học sinh đánh giá cao yếu tố đa chiều của GNH và học để sống sao cho phù hợp với cuộc đời mình. Những nguyên tắc nền tảng rõ ràng và ngày càng hoàn thiện hơn sẽ giúp người học hiểu được những mối quan hệ phi tuyến tính vào những lĩnh vực hay ứng dụng vào đời sống. Ví dụ: giáo dục, tâm lý, văn hóa và y tế… mặc dù chúng có thể được liệt kê theo những lĩnh vực riêng biệt, trong thực tế lại có sự liên đới, liên quan lẫn nhau.

Tương tự vậy, sức sống cộng đồng có liên quan đến những phạm vi khác và sự đa dạng môi trường được gắn kết chặt chẽ với văn hóa, y tế, quản trị, giáo dục và mức sống. Những nguyên tắc sau đây của hệ thống giáo dục được thông qua, và được phản hồi trong chương trình nghị sự của GNH.

1. Toàn diện

Sự phát triển của trẻ cần phải toàn diện, tất cả các lĩnh vực phát triển có sự phụ

thuộc lẫn nhau và không nên tách rời riêng biệt. Sức khỏe, dinh dưỡng, xã hội, cảm xúc và những giá trị tinh thần có sự liên đới với nhau. Việc phát triển trong lĩnh vực này sẽ tác động đến những lĩnh vực còn lại. Các giá trị cốt lõi của việc tự kỷ luật, mối liên hệ với thiên nhiên và con người trong xã hội sẽ được phản ánh qua lớp học, chương trình học triết lý giảng dạy của trường.

2. Mục tiêu học tập rõ ràng

Khung chương trình giảng dạy phản ánh những gì học sinh Bhutan nên biết, hiểu và có thể làm ở mỗi cấp lớp. Nó dựa trên tiền đề tất cả học sinh đều có khả năng phát huy việc học của mình ở mức độ tốt nhất có thể. Có một sự thay đổi mô hình từ tập trung hoàn toàn vào đầu vào – làm bật thành tích học sinh và những giá trị, kiến thức và kỹ năng. Trường học sẽ sử dụng những chuẩn mực học tập để phát triển việc học tập, giảng dạy và đánh giá những khuôn mẫu, theo nhu cầu của học sinh. Tiêu chuẩn học tập phải được biểu hiện theo chiều ngang lẩn cột dọc hiển thị tất cả những môn học.

3. Tính toàn bộ

Giáo dục hòa nhập được định nghĩa là một quá trình giải quyết những nhu cầu đa dạng của người học bằng cách giảm rào cản đối với môi trường học tập. Việc giáo dục dành cho tất cả những trẻ em Bhutan, và tập trung đặc biệt cho nhóm có hoàn cảnh khó khăn. Nó có nghĩa là sẽ chấp nhận những khởi điểm khác nhau, tốc độ học khác nhau và đảm bảo

Page 78: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

rằng học sinh được thử thách để đạt được những tiêu chuẩn cao trong những cách bổ sung những gì đã biết để học sinh đã biết, những gì học sinh có thể làm và làm thể nào để học tập tốt nhất.

4. Năng động

Nội dung và quá trình giáo dục có thể dễ dàng được đáp ứng và gây thiện cảm với nhiều đối tượng người học đa dạng, các trường học lẫn cộng đồng. Nó được đáp ứng từ sự thay đổi xã hội và công nghệ và cả nhu cầu của học sinh. Và vì vậy, đó là sự cân bằng giữa những gì bắt buộc đối với học sinh với sự cởi mở và linh hoạt để đáp ứng những thử thách của thế kỷ 21. Các vấn đề như tính bền vững, toàn cầu hóa, bảo tồn và y tế sẽ được giải quyết.

5. Chương trình tích hợp, mở rộng và cân bằng

Chương trình sẽ cung cấp cho học sinh tiếp xúc với những trải nghiệm rộng trong một phạm vi phù hợp. Nó được tổ chức để học sinh học hỏi và phát triền thông qua một loạt ngữ cảnh, làm kết nối những khái niệm, con người và sự việc có liên quan đến địa phương, quốc gia và hiện tượng toàn cầu. Chủ đề của hội chữ thập ở địa phương, quốc gia hay các vấn đề toàn cầu sẽ được giới thiệu ở một cấp độ phát triển phù hợp. Khi người học đã đạt được những kỹ năng thích hợp trên một phạm vi rộng các lĩnh vực học tập, học sinh sẽ được trình bày về những lựa chọn đúng đắn dẫn đến kết quả thành công.

6. Phát triển thích hợp

Mỗi đứa trẻ là khác biệt và tỉ lệ phát triển cá nhân và các giai đoạn phát triển cũng khác nhau, mặc dù mô hình và trình tự tăng trưởng và phát triển là tương tự cho tất cả. Những trải nghiệm của trẻ em trong việc học tập tiến triển liên tục từ độ tuổi 2 – 18, trong một chương trình khuôn khổ duy nhất. Các em có thể tiến bộ với tốc độ phù hợp với nhu cầu và năng khiếu. Một cách tiếp cận tiên tiến cho học sinh một định hướng học tập và đồng thời cho phép đánh giá sự tiến bộ của học sinh.

7. Hợp tác

Môi trường học tập sẽ được tạo ra và nuôi dưỡng với sự tham gia tích cực từ học sinh, giáo viên, PHHS, giáo dục đại học và công đồng. Giáo dục sẽ trở thành một quyền sở hữu được chia sẻ của tất cả những người có liên quan, thực hiện thành công các khuôn khổ đòi hỏi một cách tiếp cận hợp tác để quy hoạch được tất cả những ai có liên quan và trách nhiệm tập thể cho thành tích cho các tiêu chuẩn dự kiến.

8. Việc học tâp lâu dài / suốt đời

Học cách học là một kỹ năng cần thiết. Nó là một thuộc tính yêu cầu mỗi cá nhân để tham gia vào một xã hội giữa trên nền tảng tri thức. Trong đó, giáo dục chính thống là là một giai đoạn quan trọng của việc hình thành và phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích phát triển tri thức cá nhân để có kiến thức và kỹ năng trên cơ sở lâu dài. Các chương trình đào tạo tạo sức đẩy, do đó, tất cả sinh viên sẽ phản ánh chính họ qua quá trình học tập, phát triển học cách học cũng như hợp tác về những kỹ năng học.

Page 79: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

9. Sự ưu tú

Chương trình giảng dạy khuyến khích những khát vọng và hoài bão lớn của tuổi trẻ. Sự hỗ trợ sẽ được cung cấp để cho phép mỗi cá nhân duy trì sự nỗ lực, sáng tạo, đổi mới, và dám thực hiện chúng. Ở tất cả các giai đoạn, người học nên trải nghiệm một mức thử thách phù hợp, và đạt được những thành tích cho bản thân bất kể điều kiện hiện tại.

10. Sự biến chuyển sư phạm

Một khuôn mẫu chung cho nhiều phương pháp tiếp cận trong quá trình

giảng dạy/ học tập và một loạt các nghiên cứu kỹ thuật sẽ được giới thiệu. Giáo viên và học viên cần phải có hợp nhất những suy nghĩ, hành động, cảm nhận và ý thức với sự thay đổi của mỗi cá nhân và xã hội.

Những chỉ dẫn cho ECCD, giáo dục nền tảng, giáo dục trung học, giáo dục đại học chính thức hoặc giáo dục không chính thống, sẽ làm theo, đã được chuẩn bị phù hợp với những nguyên tắc trên.

Page 80: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4.5 Chăm sóc và phát triển trẻ ở những năm đầu đời

Sự cần thiết cho ECCD được công nhận trên toàn thế giới. Đây là trường hợp vì sự phát triển sớm của bộ não xảy ra chủ yếu trong những năm đầu đời.

Trẻ em tham gia vào chương trình phát triển sớm cho trẻ có nhiều khả năng bắt đầu chương trình giáo dục tiểu học và thực hiện tốt hơn, cũng như ít khả năng rời bỏ trường hay học lại lớp. Kết quả là trẻ có nhiều khả năng đạt được mức cao hơn trong việc học và hướng đến chất lượng cuộc sống cũng tốt hơn.

Sự đầu tư trong ECCD mang lại kết quả cao trong lợi nhuận kinh tế, chống hoặc trung hòa bớt những bất lợi và bất bình đẳng, đặc biệt là đối với trẻ em xuất thân từ các gia đình có điều kiện kinh tế - xã hội thấp. ECCD góp phần vào mục tiêu EFA khác (ví dụ: nó cải thiện hiệu suất trong những năm đầu ở trường tiểu học), cho đến mục tiêu của phát triển Thiên niên kỷ, đặc biệt là các mục tiêu chung như giảm nghèo, mục tiêu giáo dục và y tế. (EFA, 2007)

Tuổi thơ là một giai đoạn xây dựng sâu sắc sự kết nối với xã hội cũng như những chuẩn mực giá trị. Sự phát triển trong những năm đầu đời không chỉ là sự chuẩn bị và là nền tảng cho việc học sau này mà còn là những trải nghiệm cho chính bản thân cá nhân đó. Học tập từ khi vừa chào đời. Trong suốt quá trình của ECCD (từ mới sinh đến 8 tuổi), có một hành vi được bộc lộ liên tục từ lúc chưa trưởng thành đến khi trưởng thành, từ đơn giản đến phức tạp và đi từ tính chất phong trào đến từng cá thể độc lập. Nói cách khác, trong giai đoạn này, trẻ học cách xử lý những mức độ

phức tạp của suy nghĩ, cảm xúc, di chuyển, hành động, và tương tác với môi trường. ECCD là một phần không thể thiếu của đời sống học tập. Nó phục vụ 4 nhu cầu cơ bản của trẻ em: sự sống còn, an ninh, phát triển và tham gia vào xã hội. ECCD sẽ là một sáng kiến đa ngành đòi hỏi sự tham gia của các thành phần giáo dục, y tế, dinh dưỡng và những tổ chức chính phủ về phát triển bà mẹ và trẻ em. Đó là một khuyến nghị một cơ quan đầu mối sẽ được thiết lập cho việc xây dựng, lập kế hoạch, điều phối, giám sát và hỗ trỡ chương trình và dịch vụ ECCD tại Bhutan.

4.5.1 Hướng dẫn cho việc chăm sóc và phát triển những năm đầu đời của trẻ.

Chương trình ECCD ở Bhutan bao gồm những điều sau đây:

Chương trình chăm sóc trẻ mầm non cho tất cả trẻ em từ 2-4 tuổi, đặc biệt là trẻ em thuộc thành phần người học thế hệ người học đầu tiên chiếm ưu thế và những trẻ em đến từ những vùng sâu vùng xa của đất nước. Việc khuyến khích cho trẻ sớm được cung cấp từ các trung tâm cộng đồng, xa hơn là các trung tâm y tế, nhà trẻ và các phương tiện có liên quan khác. Điều này bao gồm sức khỏe, vệ sinh và dịch dinh dưỡng, kích cầu ban đầu cho trẻ và sự hỗ trợ của cha mẹ trong chăm sóc và tăng trưởng, phát triền trẻ em.

Page 81: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Việc trải nghiệm học tập cho trẻ trong giai đoạn này tập trung vào sự sắp xếp cách học, khuyến khích sự tò mò và hướng đến những cột mốc quan trọng. Sẽ thật quan trọng khi nhận thấy được gia đình là một đơn vị độc lập.

Những chương trình dự bị tiểu học cho trẻ từ 4-6 tuổi. Có một sự nhấn mạnh tầm quan trọng trong 2 năm của việc trải nghiệm này trước khi chính thức vào chương trình học. Nó có vai trò nuôi dưỡng và bố trí tích cực thái độ học tập để hỗ trợ những thành tựu giáo dục, giảm số lượng học sinh bỏ học, giảm việc khắc phục hậu quả và nâng cao hiệu quả giáo dục tiểu học. Để đạt được điều này, trẻ sẽ được cung cấp về giáo dục mầm non cũng như sự can thiệp của các trung tâm cộng đồng, trường mầm non và hệ thống các trường tiểu học. Điều này đảm bảo quyền được vào các lớp dự bị tiểu học (mầm non) cho tất cả các nhóm tuổi.

Lớp 1 và 2 vẫn tiếp tục duy trì với KG 1 và 2. Trẻ nhỏ sẽ phát triển tốt khi có một sự thiết lập giữa trường tiểu học và những cơ sở dựa vào cộng đồng giáo dục. Trong khi trường học (tư thục hay của chính phủ) 2 năm đầu tiên của tiểu học thông qua phương pháp sư phạm và giáo cụ của ECCD, để tạo sự thuận lợi cho quá trình chuyển đổi và cho trường tiểu học thêm hoan nghênh trẻ. Điều này đảm bảo sự phát triển toàn diện cho trẻ, việc lấy trẻ làm trung tâm của việc giảng dạy, chú ý đến quá trình học tập và kết hợp với yếu tố văn hóa và phi văn hóa trong học tập.

4.5.2 Vị trí

Chương trình ECCD cơ sở trung tâm: Những chương trình này sẽ có một bộ khung toàn diện và thống nhất về mục tiêu và tổ chức, nội dung và phương pháp tiếp cận, đào tạo, sự hợp tác và tài trợ của cộng đồng, chính phủ. Bộ khung sẽ được làm cho tất cả những người cung cấp. Đây là một giai đoạn quan trọng trong đó mục tiêu tập trung vào sự hòa nhập xã hội của trẻ em trong sự ảnh hưởng văn hóa, và đồng thời, cho phép trẻ biểu hiện bản thân.

Các trường tiểu học và cộng đồng: Trong khi các trung tâm cộng đồng sẽ tạo cơ hội để đường đến những trải nghiệm của ECCD dễ dàng hơn, hiện tại các trường tiểu học sẽ cung cấp chương trình dự bị tiểu học. Ngoài ra, nhà trường có thể cung cấp không gian để gắn kết cộng đồng hơn thông qua chương trình.

Những nơi như trường mầm non, nhà trẻ, các trung tâm chăm sóc sức khỏe trẻ em, dịch vụ y tế và giáo dục lưu động… là những dịch vụ cơ bản để tìm ra những cách tìm ra đối tượng mục tiêu. (bé và mẹ).

4.5.3 Chương trình

Chương trình không chỉ hỗ trợ sẵn sàng cho trẻ em đến trường sẵn sáng cho trường và giáo viên đón trẻ với nhu cầu và tình trạng đa đạng. Vai trò của ECCD trong việc thúc đẩy và phát triển trẻ, cũng như bớt áp lực tâm lý khi đến trường là để trẻ thực hành và thích nghi với môi trường tiểu học. Trường học sẵn sàng đặt trọng tâm vào nhu cầu thích ứng và phát triển của trẻ. Trong

Page 82: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

tâm là khả năng tiếp cận của các trường tiểu học cũng như đặc điểm môi trường có thể khuyến khích hay cản trở việc học tập.

Trẻ vào lớp 1 khi chưa qua trường lớp mầm non thường xuyên bị tụt lại phía sau hoặc không đủ khả năng tham gia học tập chính thức. Một biện pháp tạm thời sẽ được cung cấp: cho trẻ trải qua chương trình dự bị tiểu học từ 6 tuần đến 2 tháng, vào đầu lớp 1. Trẻ sẽ được hướng dẫn từ cá nhân, xã hội và các bước để sẵn sàng cho việc học tập.

4.5.4 Đối tác cộng đồng

Trường học và các trung tâm cộng đồng sẽ có trách nhiệm và chú ý đến các khía cạnh như: lãnh đạo trường học và môi trường, chương trình giảng dạy, đào tạo và hỗ trợ giáo viên, sự tham gia của các bậc phụ huynh và cộng đồng. Những điều này sẽ được cha mẹ và cộng đồng thực hiện để tăng cường kiến thức và kỹ năng liên quan đến sự phát triển của trẻ, giáo dục và những quyền phát triển, nhằm thực

hiện và giám sát chương trình ECCD một cách tốt nhất cho trẻ.

Những tổ chức phi chính phủ, chính phủ và tổ chức cá nhân sẽ có trách nhiệm chăm sóc và hỗ trợ trẻ em, gia đình và cộng đồng trong khu vực. Mỗi tổ chức đều đóng một vai trò quan trọng trong việc sử dụng nguồn lực có sẵn để đáp ứng về y tế, phúc lợi xã hội và nhu cầu giáo dục của trẻ và gia đình. Điều đó có nghĩa là huy động các chính phủ địa phương (tại Dzongkhang và Gewogs), cộng đồng và các tổ chức thiện nguyện trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ nhỏ.

4.5.5 Đào tạo và phát triển

Mỗi trung tâm ECCD sẽ có nguồn lực được đào và có trình độ của một nhà giáo dục ECCD. Những trung tâm này sẽ duy trì một tỉ lệ giáo viên – học sinh ở mức thấp, dễ quản lý quy mô lớp học, và đủ cơ sở vật chất cho các hoạt động cùa ECCD.

Trong khi đội ngũ nhân viên của ECCD được tạo ra, ở thời điểm hiện tại, tất cả các giáo viên tại trường tiểu học sẽ được định hướng lại theo nguyên tắc và phương pháp sư phạm, quy hoạch và tổ chức các hoạt động của ECCD.

Page 83: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4.6 Giáo dục nền tảng

Giai đoạn giáo dục nền tảng là những năm học vô cùng quan trọng, bao gồm cả tiểu học và trung học, ở đó học sinh được trang bị những kỹ năng cơ bản cần thiết cho cuộc sống. Những chỉ dẫn hỗ trợ giáo dục nền tẳng cho tất cả các tổ chức trong lĩnh vực giáo dục tiểu học và trung học.

4.6.1 Giáo dục tiểu học: Tiếp cận và hoàn thành toàn bộ

- Tiếp cận với giáo dục tiểu học sẽ được mở rộng vào cộng đồng – nơi mà hiện tại vẫn chưa thực hiện. Vị trí của các trường sẽ được hoạch định để cung cấp cho học sinh trong khoảng cách 1 giờ đi bộ từ nhà mình.

- Các trường nội trú sẽ tiếp tục trở thành chiến lược để mở rộng cơ hội giáo dục cho trẻ em vùng sâu vùng xa và cộng đồng dân cư; cho những nhóm tiếp cận giáo dục bằng cách thiết lập những vị trí chiến lược những trường lớp nhỏ hơn / vệ tinh hay mở rộng phạm vi lớp học để phục vụ cộng đồng.

Để chắc chắn mọi trẻ em đều có quyền được đi học mầm non và bậc tiểu học, những trung tâm cộng đồng sẽ hoạt động như một lớp học mở và kéo dài ít nhất đến lớp 3 ở các vùng xa xôi. Khi trẻ sẵn sàng, trẻ có thể tham quan các trường tiểu học cộng đồng. Các lớp học như trên sẽ có chức năng như nhà trường. Nó là nguồn lực hữu ích cho các cộng đồng du cư và để trẻ có thể tiếp tục việc học của mình bên cạnh cuộc sống đặt thù của mình.

Các trường học vệ tinh cũng như các trường hiện có lớp ghép, những trường này sẽ đươc cung cấp giáo viên, người được

đào tạo để giới thiệu phương pháp giảng dạy liên quan đến tình huống lớp học.

Cơ chế hỗ trợ hiệu quả được cung cấp cho học sinh để làm việc hướng tới hạn chế tối đa việc học sinh bỏ học và ngồi lại lớp. Những đứa trẻ bị mất căn bản kiến thức sẽ được hỗ trợ kịp thời đảm bảo kết quả và chuyển sang các lớp tiếp theo. Khi ECCD và trường tiểu học được liên kết trong bối cảnh chương trình giảng dạy, chăm sóc mùa vụ và phương pháp dạy học, tỉ lệ học sinh lưu ban và bỏ học dự kiến sẽ được giảm đáng kể, điều đó sẽ làm quá trình chuyển đổi ở giai đoạn kế tiếp sẽ trở nên mượt mà hơn.

Phát triển một hệ thống dõi theo trẻ và một cơ sở dữ liệu cho việc phân tích tỉ lệ bỏ học, duy trì, tồn tại và hoàn thành.

4.6.2 Giáo dục tiểu học: Chương trình

- Những trường nhỏ nhiều lớp được thành lập để ‘mang trường học đến mọi trẻ em’ ở vùng xa xôi, khu vực nông thôn của Bhutan, nơi có mật độ dân cư thưa thớt. Ở Bhutan, việc trường có lớp ghép là phổ biến và vẫn tồn tại. Một chương trình chiến lược tích hợp sẽ được phát triển, trong đó bao gồm cải thiện chất lượng giáo viên, giáo dục, đào tạo và hỗ trợ, phát triển và đánh giá hệ thống chương trình đào tạo, phục vụ nhu cầu đa dạng của người học, các trung tâm tài nguyên và nhiều tài liệu học tập, sinh hoạt.

- Giáo viên có thể dùng những quy chuẩn học tập để thích ứng với nhu cầu và hoàn cảnh của địa phương. Quá trình giảng dạy,

Page 84: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

các khái niệm và kỹ năng có được sẽ liên quan đến học sinh. Học sinh sẽ xử lý thông tin mới tương tự theo cách đó thông qua những nguồn tài liệu của riêng mình (trong trải nghiệm, trí nhớ và phản ứng), và những gì người học đạt được sẽ áp dụng lại vào cuộc sống của mình.

4.6.3 Giáo dục trung học: Sự mở rộng ra

- Các cơ sở trường trung học sẽ được mở rộng đến những vùng sâu vùng xa của đất nước để năng cao trình độ dân trí và giảm quá trình di cư giữa thành thị và nông thôn. Quá trình xây dựng trường học mới và nâng cấp các trường tiểu học hiện có sẽ đựa trên một nghiên cứu toàn bộ khu vực, lập bản đồ trường học, để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu về dân số và tỉ lệ người đi học.

4.6.4 Giáo dục trung học: Chương trình

Mọi đứa trẻ đều sẽ nhận được kiến thức, kỹ năng và được định hướng trong chương trình học đến lớp 10. Những hoạt động ngoại khóa cung cấp các nhu cầu tối thiểu về kiến thức cơ bản và kỹ năng thành thạo để tồn tại và thích ứng. Trẻ sẽ hoàn thành phần giáo dục nền tảng theo quy định và sẽ được hỗ trợ để định hướng lựa chọn con đường học tập / nghiên cứu trong tương lai cũng như việc làm của mình.

Chương trình giảng dạy đến cấp độ này là trải khắp và mang đến một trải nghiệm phong phú, đa dạng cho việc phát triển toàn diện học sinh. Học sinh tiếp thu kiến thức và kỹ năng cần thiết cho việc học tập, và điều

đó cũng quan trọng đối với việc học âm nhạc, nghệ thuật, phong trào, thể thao và những giá trị.

4.6.5 Chuẩn bị cho việc làm

Có hai cách chính để các trường trung học trang bị cho hoc sinh về nghề nghiệp tương lai

Thông qua việc truyền đạt kiến thức và kỹ năng trong lĩnh vực học tập cần thiết đến lớp 10, bao gồm hình thức tài liệu, nói hoặc viết, các văn bản truyền thông, toán, hợp tác, lãnh đạo…

Thông qua chương trình hướng nghiệp ở mức độ trường học – Việc định hướng nghề nghiệp được thực hiện cho lớp 9 và 10 sẽ cung cấp cho sinh viên những kinh nghiệm hữu ích và phù hợp với địa phương.

Cung cấp một góc nhìn sâu sát về công việc.

Thúc đẩy giá trị của lao động, nhóm hàng thủ công và dịch vụ.

Trang bị cho sinh viên kỹ năng thực hành và giải quyết vấn đề.

Thúc đẩy sự đôc lập, tự tin, làm việc nhóm, khoan dung, đúng giờ, lòng tự trọng…

Khuyến khích học sinh dựa vào học tập và hợp tác với một dự án cộng đồng địa phương, từ đó sẽ dẫn đến phát triển cá nhân.

Các hình thức định hướng nghề nghiệp sẽ điều chỉnh theo nhu cầu và khả năng của mỗi địa phương, với nguồn lực và nguyên liệu sẵn có, truyền thống và kiến thức, kỹ năng vùng miền. Định hướng sẽ được nói cụ thể hơn ở phần cuối của tài liệu này.

Page 85: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4.7 Giai đoạn trung học phổ thông và dự bị đại học / Trường dạy nghề

Giáo dục THPT dựa trên nền tảng của THCS để làm cho những hiểu biết của học sinh chuyên sâu hơn, cũng như tiến triển thêm. Ở giai đoạn này, học sinh bộc lộ điểm mạnh, điểm yếu – những sở thích cũng như khả năng của mình. Chúng đóng vai trò xác định và quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống và định hình hình thức học tâp. Giáo dục giai đoạn này cần cung cấp nhiều đường hướng, cơ hội để tăng khả năng lựa chọn và chương trình học để những học sinh có đường hướng khác nhau có thể học cùng nhau. Nó phải ở cấp độ cao hơn năng lực của học sinh.

Trong thời gian gần đây, có một sự tăng trưởng về nhu cầu tham gia vào trung học phổ thông hơn là giáo dục phổ cập. ở giai đoạn phát triển này, một số sinh viên đã quan tâm trong việc học sâu một chương trình để vào đại học. Bên cạnh đó là nhóm thiên về các lĩnh vực nghề. Học sinh trong độ tuổi này đang trưởng thành và đủ thông tin để quyết định sự nghiệp và cuộc sống của mình, có cơ hội tiếp xúc với giáo dục nền tảng cũng như trên diện rộng. Trên thế

giới, kỳ tuyển sinh VET nổi bậc và được đánh giá cao hơn so với cấp độ trung học.

Càng ngày, nhu cầu tái tổ chức cấu trúc và thành phần chương trình trung học. Mục tiêu của Kế hoạch thứ 10 là đạt được đạt được trình độ kỹ năng cao, định hướng học tập, kinh doanh, định hướng nghề nghiệp, sức trẻ cho lực lượng lao động, căn cứ vào kỹ năng và kiến thức phù hợp.

Nghiên cứu thị trường lao động Bhutan (2009) đề nghị ngành công nghiệp tham gia trong việc phát triển và cung cấp các môn học nghê, tập trung vào chương trình đào tạo nghề, cung cấp kỹ năng kỹ thuật ở cấp độ chuyên môn và kế hoạch xây dựng năng lực cốt lõi cho sinh viên trong tư duy phản biện và kỹ năng giải quyết vấn đề ở cấp giáo dục cơ bản. Sư phù hợp của giáo dục phổ thông sẽ được đánh giá dựa trên việc kết nối sinh viên với việc làm và những kỹ năng lao động cần thiết, hoặc sẽ học lên cao hơn nữa. Những nghiên cứu thị trường lao động xác định nhu cầu cần những công nhân có tay nghề cao để duy trì các ngành công nghiệp trọng điểm:

Cơ sở hạ tầng Dịch vụ Sản xuất Chính phủ

Thủy điện Truyền tải và

phân phối nguồn năng lượng

Xây dựng

Du lịch Chăm sóc sức

khỏe Giáo dục CNTT Viễn thông Dịch vụ tài chính Truyền thông

Xi măng Các sản phẩm từ

thảo dược Ủy ban nhân dân

Page 86: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Giáo dục trung học sẽ đáp ứng được nhu cầu của dự bị đại học và khóa học VET hướng đến ưu tiên những vùng có quyền ưu tiên hơn. Ví dụ, khóa VET trong Kỹ thuật xây dựng, Du lịch và Khách sạn, Chăm sóc và quản lý nhà trẻ được định hướng làm việc trong các lĩnh vực xây dựng dân sự, du lịch, giáo dục… trong khi khóa dự bị đại học sẽ hướng đến kinh tế và dẫn đến nghề nghiệp thuộc lĩnh vực hoặc các dịch vụ tài chính. Nhu cầu đa ngành của chính phủ và các ngành công nghiệp để phát triển, thích nghi và duy trì các khóa học liên quan. Đó là một đề nghị đến cơ quan trung ương, chịu trách nhiệm xây dựng, quy hoạch, điều phối, giám sát và hỗ trợ những chương trình và dịch vụ được thiết lập ở Bhutan.

4.7.1 Lối rẽ

Ở cấp độ này, học sinh có sự đa dạng hóa tùy theo sở thích, nhu cầu và khả năng của họ. Các khóa học ở bậc sẽ tách thành hai dòng suối lớn: Dự bị đại học và VET – cung cấp đầy đủ thông tin lưu động cho sinh viên từ dòng chảy này đến dòng chảy khác, đặc biệt trong suốt vài tháng đầu tiên trên cơ sở của thành tựu và lợi ích của sinh viên ấy. Một sinh viên có nguyện vọng thay đổi hướng của mình thì sẽ được tạo điều kiện, tùy vào những tư vấn cần thiết.

4.7.2 Tính linh động

Cơ hội cho việc linh động theo chiều ngang được cung cấp nhằm giúp cho sinh viên có thể dịch chuyển giữa các chương trình sau khi đã đáp ứng những yêu cầu đặt ra. Cơ hội cho việc linh động theo chiều dọc của sinh viên tốt nghiệp VET đến các trình độ đào tạo cao hơn cần được cung cấp, từ đó nâng cao năng lực làm việc của các em.

Một hệ thống đánh giá thông qua thẻ cho giai đoạn này sẽ được thực hiện, để tạo điều kiện dịch chuyển ngang hoặc chéo của các sinh viên giữa các chương trình, cơ hội cho dịch chuyển chiều dọc trong đó sinh viên có thể trở lại trường học sau khi làm việc một thời gian, hoặc đủ điều kiện để học cao hơn trong những lĩnh vực khác nhau.

Chương trình giảng dạy theo Mô-đun đòi hỏi cao về trách nhiệm cá nhân và việc tự nghiên cứu chuyên sâu, lựa chọn chủ đề, lựa chọn cơ hội đánh giá cho việc xem xét các danh mục đầu tư phản ánh mục tiêu phát triển của mỗi cá nhân. Phương pháp này nhằm hỗ trợ sinh viên phát triển kỹ năng trong việc tổ chức và lập kế hoạch cho việc học tập dài hạn của chính mình.

4.7.3 Vị trí

Một không gian học chung sẽ được thiết kế để cho cả VET và các khóa học để sử dụng hiệu quả vật chất và nguồn nhân lực.

Các tổ chức VET hiện tại có thể nâng cấp chất lượng của mình, và những tổ chức mới khi được thành lập sẽ theo nhu cầu của nhóm công nghiệp và nhóm lao động ngành nghề khác.

4.7.4 Chương trình

Học viên sẽ được học phân loại thành từng nhóm dựa vào chương trình học đã lựa chọn. Trường học có thể cung cấp cơ hội cho việc dạy nghề cà học trong cùng một tổ chức. Cả 2 chương trình sẽ kết hợp những kỹ năng nền tảng phổ biến như Tiếng Anh, Dzongkha, lý luận định lượng, tin học, kỹ năng tư duy bậc cao với lịch sử, môi trường, các vấn đề xã hội.

Page 87: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Sự lựa chọn ngày càng cao của chương trình VET sẽ được làm sẵn, để những sinh viên tốt nghiệp khi rời khỏi trường học sẽ được cải thiện năng lực nghề nghiệp và việc làm, và có thể tìm cơ hội phù hợp với khả năng và sở thích cá nhân.

Các khóa học mới phát triển ở giai đoạn này thu hút những cơ hội việc làm cũng như phù hợp với việc học cao học và nghiên cứu.

Chương trình sẽ nhấn mạnh việc nhận lại được những chuyển giao kỹ năng nền tảng cung cấp cho sinh viên tốt nghiệp khả năng thích ứng cao hơn, cho phép phát triển cũng như chuyển đổi nghề nghiệp, và hạn chế / bảo vệ cho người thất nghiệp.

Nội dung chương trình giảng dạy, thủ tục đánh giá, học nghề và những tiêu chuẩn chứng nhận sẽ được hợp tác phát triển với nguồn lực lao động tiềm năng và những tổ chức đào tạo chất lượng cao.

4.7.5 Đào tạo và phát triển

Việc đào tạo và phân cấp kỹ năng và năng lực của giảng viên sẽ được thực hiện thường xuyên, cũng như thêm vào đó những khóa học hỗ trợ. Những giảng viên khách được mời từ ngành công nghiệp sẽ mang đến sự đa dạng trong nội dung phương pháp giảng dạy ở giai đoạn này.

Page 88: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4.8 Giáo dục đại học

Sự phát triển của hệ thống trường học và kế hoạch 5 năm phát triển trọng tâm dẫn đến việc thành lập các trường cao đẳng và học viện trong nước, sau cùng là dẫn đến việc thành lập Đại học Hoàng gia Bhutan vào năm 2003. Tuy nhiên, việc việc phát triển kinh tế, xã hội nhanh chóng, trong những ngôi nhà và trên thế giới, nhu cầu tăng trưởng của việc thực hành giáo dục đúng đắn trong cả nước.

Giáo dục đại học ở Bhutan được hướng dẫn bởi triết lý phát triển của GNH. Điều này yêu cầu tất cả các hình thức giáo dục đại học tạo cơ hội cho bất kỳ công dân Bhutan nào mong muốn và có thể theo đuổi giáo dục đại học tại bất kỳ thời điểm nào trong cuộc sống của mình. Nó nhằm mục đích tiếp tục tạo nền tảng cho một xã hội được khai sáng, đặc trưng bởi việc dùng nguồn lực quốc gia.

Giáo dục đại học trao quyền tự chủ có mỗi cá nhân và sự phát triển chuyên nghiệp, với những mục tiêu của việc tăng cường sự tham gia hữu ích của họ trong xã hôi Bhutan. Nó khuyến khích việc tăng cường đổi mới, sáng tạo và dám nghĩ dám làm trong bối cảnh trong bối cảnh xã hội và giá trị con người trong nguyên tắc GNH.

Để đáp ứng sự kỳ vọng của những nguyên tắc hướng dẫn GNH, giáo dục đại học ở Bhutan phải tạo điều kiện và thúc đẩy sự xuất hiện một thế hệ mới có vững và giỏi chuyên môn, dù bất kể là trong lĩnh vực nào. Họ phải có các khả năng phân tích và sáng tạo, kỹ năng tư duy để hiểu được tự nhiên, xã hội và văn hóa thế giới nơi họ sống; và suy nghĩ nghiêm túc về việc tiếp nhận kiến thức mới một cách khôn ngoan. Đồng thời, họ phải có năng lực cần thiết để

tham gia vào quá trình sản xuất kinh tế-xã hội của đất nước và toàn cầu.

4.8.1 Tiếp cận

Tiếp cận với giáo dục đại học được duy trì dựa trên việc đánh giá tổng thể thành tích, sở trường và các mối quan tâm của sinh viên, cũng như kỹ năng cảm xúc xã hội, để mỗi sinh viên đều được tiếp cận nền giáo dục phù hợp với khả năng mình.

Bhutan sẽ khai thác những tiềm lực của mình để sử dụng những vị trí độc đáo để phát triển khu vực giáo dục đại học có thể đáp ứng nhu cầu thị trường lao động quốc tế, thu hút du học sinh và làm phong phú đời sống sinh viên cũng như đóng góp cho nền kinh tế.

Mối quan hệ hợp tác dài hạn giữa những tổ chức giáo dục khác nhau nhằm phát triển nguồn nhân lực, xây dựng thương hiệu, ứng dụng vào thực tiễn hiệu quả nhất, thúc đẩy việc trao đổi giữa giảng viên và sinh viên, phát triển cơ sở vật chất và giữ mối đầu nối với các cuộc hội thảo, hội nghị.

4.8.2 Tính linh hoạt

Được linh hoạt trong thời điểm tham gia vào các chương trình khác nhau cho phép sinh viên linh động trong việc tự nâng cao trình độ giáo dục, từ đó nâng cao năng lực làm việc bản thân.

4.8.3 Chương trình

Mối liên kết giữa các trường trung học và việc lựa chọn chương trình đào tạo, hướng dẫn và đánh giá hệ thống và thực tiễn. Thêm vào đó, các mô-đun khóa học đại học

Page 89: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

và hệ thống tín chỉ sẽ thiết lập tính liên tục giữa các giai đoạn.

Những khóa học mới đã phát triển ở giai đoạn này sẽ thu hút cơ hội việc làm và phù hợp với việc học cao hơn hoặc nghiên cứu chuyên sâu.

Một bộ khung đảm bảo về chất lượng, bao gồm nền giáo dục được công nhận và chương trình chuyên nghiệp từ một hội đồng độc lập, sẽ được năng các tiêu chuẩn về giáo dục đại học ở Bhutan.

4.8.4 Nghiên cứu

Các nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở kế thừa để xác định những nhu cầu các lĩnh vực lao động khác nhau, cho sinh viên đã tốt nghiệp từ những tổ chức và cho những

chương trình thuộc giáo dục đại học. Điều này cho phép sinh viên và giảng viên đưa ra quyết định liên quan đến tuyển sinh, nhưng không ngăn chặn việc nhập học trên cơ sở dự bị.

Một mối quan hệ hợp tác hiệu quả sẽ được tạo ra giữa chính phủ, tư nhân, và các cơ sở giáo dục đại học cả trong nước và quốc tế. Chương trình sẽ được phát triển để tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động, qua đó góp phần tạo ra một trung tâm tri thức.

Sự lớn mạnh của những tổ chức tri thức và thị trường việc làm được tạo điều kiện thông qua sự phát triển của các tổ chức giáo dục đại học, điều này có thể khiến Bhutan tham gia hợp tác đối nội lẫn trên trường quốc tế.

Page 90: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4.9 Giáo dục không chính quy

Các nhà nghiên cứu đã sớm biết rằng một người mẹ có hiểu biết sẽ có xu hướng mang con mình đến trường nơi có điều kiện giáo dục lành mạnh cho trẻ. Theo báo cáo của quỹ nhi đồng liên hiệp quốc năm 2007 cũng đã nhấn mạnh sự tương quan giữa sự hiểu biết của người mẹ và đứa trẻ. Một nền tảng giáo dục và kỹ năng tốt ở phần đông dân số sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần vào nền kinh tế quốc gia. Điều này là một sự tranh luận mạnh mẽ về việc nâng cao chất lượng chương trình giáo dục không chính thức (NFE) ở Bhutan, nhằm mục tiêu những nỗ lực đặc biệt của các bà mẹ trẻ.

Do đó, bộ giáo dục đã thành lập một chương trình giáo dục không chính thức và tiếp tục giáo dục, cung cấp kiến thức cơ bản cho phần dân số có nhiều điều kiện không thuận lợi.

Tại Bhutan, một chương trình NFE đã được thực hiện từ 1992 cho việc xóa mù chữ và những kỹ năng số và toán học cho nhóm người ngoài hệ thống giáo dục chính quy, đặc biệt là con gái và phụ nữ ở nông thôn. Nó tạo cơ hội, đặc biệt là với những người bỏ học, để biết đọc viết cơ bản thông qua chương trình xóa mù chữ. Nó cũng thúc đẩy hệ thống phát triển việc học tập suốt đời. Mặc dù những tiến bộ giáo dục sau khi triển khai kế hoạch trong 4 thập kỷ qua vẫn còn sơ khai, nhiều người ở vùng sâu vùng xa của đất nước vẫn không được đến trường. Chương trình đặc biệt đáp ứng nhu cầu của những gia đình không nói được tiếng Anh, thông qua việc cung cấp những bài dạy Anh ngữ cho các bậc cha mẹ và

khắc phục chương trình tiếng Anh dành cho trẻ.

Bhutan cơ bản là một xã hội song ngữ, người học tự nhận thức được rằng nó cho họ chức năng đọc viết – nghĩa là không chỉ dùng nó như một ngôn ngữ quốc tế, mà còn là phương tiện để giao tiếp hàng ngày trong thương mại và xã hội. NFE có 3 mục tiêu cụ thể: Trước tiên, nâng cao trình độ đọc viết của dân số mà trên thống kê hiện hành là 53%, thứ 2, phát triển tiếng mẹ đẻ: Dzongkha với mục tiêu “một ngôn ngữ, một bản sắc dân tộc” (NFRD, p1) và cuối cùng, trao quyền cho người dân thông qua việc tăng cường các hoạt động cải thiện thu nhập, kiến thức cá nhân, và giữ gìn phát huy bản sắc dân tộc. Chương trình NFE sẽ nhắm vào những nhóm cộng đồng khác nhau.

4.9.1 Vị trí

Trung tâm NFE và những trung tâm cộng đồng sẽ thu hút đối tượng không biết chữ và vận động họ để làm gia tăng cho chương trình. Những chương trình này được tiến hành theo kiến thức và kinh nghiệm của những người chưa biết chữ và dựa trên vốn sống của họ về địa lý, văn hóa, ngữ cảnh xã hội. Những trung tâm này sẽ đào tạo kỹ năng cho chương trình.

Sư tương đương hay “cơ hội học tập thứ 2” sẽ được cung cấp cho trẻ hay thanh thiếu niên ngoài nhà trường bằng hình thức trường học mở hay những chương trình dạy nghề / kỹ thuật. Các trung tâm NFE có thể tự điều chỉnh phù hợp khung chương trình từ lớp 1 – lớp 3 cho những trẻ em

Page 91: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

không có điều kiện học tập vì lý do khoảng cách hay tài chính. Những đứa trẻ này được dạy theo những kỹ thuật giáo dục không chính thống dựa theo giáo trình giảng dạy và sách giáo khoa GD tiểu học. Điều này giúp cho trẻ em vùng sâu vùng xa cho thể được tham gia học tập.

Các lớp học có cơ hội học tập thứ 2 sẽ được tiến hành theo các nhu cầu phát sinh từ cộng đồng. Người dân sẽ quyết định thời gian và địa điểm tổ chức các lớp học, có tính đến nhu cầu và lợi ích của người dân địa phương. Sau khi hoàn thành khóa học 1-3 năm, trẻ sẽ đủ điều kiện nhập học lớp 4 ở một trường tiểu học lân cận. Những đứa trẻ lớn hơn, sẽ được hỗ trợ việc làm để phụ giúp kinh tế gia đình, và những ai trong gia đình phải nghỉ học vì trông nom đỡ đần anh chị em, thì sẽ được tạo điều kiện để tiếp tục đến trường. Sau khi hoàn thành khóa học, học viên sẽ đủ điều kiện ghi danh vào một trường lớp chính thức.

4.9.2 Chương trình

Chương trình, tài liệu học tập, các gói đào tạo và phương thức hoạt động xóa mù chữ phải được phát triển tại địa phương và gắn kết với cộng đồng. Nội dung sẽ bắt nguồn từ cuộc sống hàng ngày, sách giáo khoa sẽ thúc đẩy việc đối thoại và thảo luận xung quanh các vấn đề đương đại của xã hội Bhutan. Ví dụ, bảng chữ cái sẽ được dạy theo phương pháp tiếp cận. Người học sẽ tham gia thảo luận hình ảnh, tạo thêm cuộc đối thoại, và quen với chúng bằng cách mở rộng, phát triển từ đã học vào trong chính cuộc sống xung quanh.

Khóa học chữ viết cơ bản: (BLC) Chương trình học chữ có lợi cho người lớn sẽ được phát triển tích hợp với những nhóm cộng đồng có liên quan khác. Chương trình sẽ được tiến hành cho tầng lớp nam nữ thanh

niên từ 14 – 45 tuổi, những người vì những lý do khác nhau mà không thể tham dự trường lớp chính quy. Người lớn sẽ tham gia vào các lớp học ở một vị trí thuận tiện về mặt thời gian. Mục tiêu trọng tâm là làm cho người dân biết chữ Dzongkha, con số, các kỹ năng tiếng anh, để giúp họ nhận thức được những vấn đề của họ và có ý thức về giá trị và các chỉ tiêu về dân chủ và phát triển. Theo đó, chương trình cũng sẽ tích hợp những nhận thức về phát triển kinh tế xã hội, các giá trị văn hóa và bảo tồn môi trường. Chương trình giảng dạy và sách giáo khoa sẽ dựa trên lý thuyết học tập của người lớn.

Khóa học chữ nâng cao (PLC) Đây là khóa tăng tốc sau khi học viên đã có kiến thức cơ bản về chữ-số từ khóa trước. Trọng tâm khóa này sẽ làm mọi người nhận thức được các vấn đề của cuộc sống và tiến bộ hơn trong việc học của mình. Chương trình PLC sẽ thúc đẩy việc trao đổi kiến thức liên quan đến sức khỏe, dinh dưỡng, vệ sinh, HIV / AIDS, cải thiện việc thực hành nuôi dạy trẻ.

Các chương trình giảng dạy tiếng Anh được triển khai và giới thiệu sẽ tập trung vào các lĩnh vực mà người học có nhu cầu cần sử dụng tiếng Anh thường xuyên nhất, có thể trong suốt quá trình du lịch, bằng điện thoại của họ.

4.9.3 Đào tạo và phát triển

Chính quyền địa phương sẽ được đào tạo thông qua mô hình phân tầng để giám sát hiệu quả.

Page 92: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Gups và Tshogpas sẽ thu nhập và định lượng dữ liệu hàng quý, đảm bảo lượng truy cập vào các trung tâm NFE thường xuyên. NFCED sẽ phát triển hình thức tham quan, định lượng về những chỉ dẫn, hỗ trợ DEO, ADEO và lượng khách thăm chính để quản lý chất lượng giảng dạy hiệu quả.

Giảng viên nên quen thuộc với phương pháp giảng dạy đa cấp độ để có thể xử lý tình huống về những độ tuổi khác nhau của người học. Họ nên biết các nguyên tắc và chiến lược dạy người lớn, cũng như có thể tạo ra những giáo cụ.

Con đường nghề nghiệp và những đãi ngộ nên được cung cấp cho giáo viên để tăng động lực, ý thức và trách nhiệm cho họ. Một gói ưu đãi khác cần được phát triển để công nhận giáo viên tận tâm, nhằm khuyến khích sự tham gia của họ. Điều này bao gồm (a) quyền lựa chọn việc lựa việc học tiếp tục cho học sinh lớp 10 tốt nghiệp để nâng kỹ năng mình đến lớp 12 sau 2 năm phục vụ NFE; (b) quyền tham dự trường cao đẳng sư phạm paro hoặc cao đẳng sư phạm Samtse đối với giảng viên đã phục vụ 5 năm trở lên tại NFE.

Page 93: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

4.10 Giáo dục thường xuyên

Việc giáo dục thường xuyên hiện nay là mục tiêu vào những đối tượng người trưởng thành nhưng chưa thể hoàn thành giáo dục trung học.

4.10.1 Mở rộng

Chương trình thí điểm CE cần được mở rộng về phạm vi và sự bảo trợ. Đặc biệt, chương trình cần hướng sự quan tâm đến tỉ lệ nhóm đối tượng người lớn để đạt được những tiêu chuẩn về giáo dục đề ra.

4.10.2 Chương trình

Việc thiết kế và hệ thống chương trình cần phải được cập nhật để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong tương lai, cần mở

rộng phạm vi phủ sóng, để làm việc cùng nhóm người trưởng thành. Điều này có nghĩa là tiêu chuẩn nghề nghề nghiệp quốc gia và chương trình nên được thiết kế theo dạng mô-đun để mọi người có thể tích lũy mô-đun khi cần thiết, để đạt được mục tiêu nghề nghiệp, hoặc điều chỉnh những thay đổi trong công việc.

Chương trình nên được thiết kế có tính linh hoạt về thời gian cho các học viên lựa chọn tín chỉ và thời gian hoàn thành để đạt được trình độ mong muốn của mình.

4.10.3 Đào tạo và phát triển

Việc đào tạo năng lực bao gồm các khía cạnh của việc học tập và giảng dạy của người trưởng thành.

Page 94: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Phần 5: Chương trình giảng dạy quốc gia

“Khi chúng ta nói về chất lượng giáo dục, tôi nghĩ chúng ta đang nói về, điều cần thiết nhất, chất lượng của chương trình giảng dạy và nội dung giáo dục của chúng ta.”

(Lyonchhoen Jigme Y. Thinley

Hội nghị giáo dục lần thứ 13, 10/01/2010, Kuensel)

Chương trình giáo dục quốc gia Bhutan lấy cảm hứng từ Tầm nhìn quốc gia, cụ thể là, “Bhutan khao khát vươn tới một quốc gia tự lực tự chủ, môi trường bền vững, thể chế dân chủ và một quốc gia có nền văn hóa sôi động, ở đó người dân có tay nghề cao, có khả năng ứng phó với các thách thức toàn cầu và đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội công bằng và một cộng đồng bền vững nơi họ sinh sống và trên cả nước nói chung.”

Tầm nhìn cho thấy tổng Hạnh phúc Quốc gia (GNH) là mục tiêu bao trùm sẽ định hướng Bhutan đạt được mốc phát triển của nó. GNH là nền tảng đại diện cho nguyên tắc tiếp cận của Bhutan để phát triển phù hợp với văn hóa, các tổ chức và những giá trị tinh thần.

Mục tiêu phát triển quan trọng và được ưu tiên hàng đầu là: “Tạo dựng được một nền tảng giáo dục”, trong đó hàm chứa mục tiêu quốc gia mang dáng dấp hướng đi tương lai của Bhutan. Chúng bao gồm, trong số đó, đảm bảo hòa bình, chủ quyền và an ninh, hạnh phúc của người dân; xây dựng nền dân chủ linh động và tự lực tự cường.

Việc đạt được mục tiêu phát triển quốc gia một cách cân bằng và bền vững có nghĩa là có được giá trị Hạnh phúc quốc gia. Những khái niệm đa chiều về GNH bao hàm việc đạt được sự phát triển kinh tế cân bằng và bền vững, đảm bảo sự bảo tồn thiên nhiên và môi trường, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa phong phú của Bhutan, đảm bảo sự quản lý tốt của chính phủ.

Page 95: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Giáo dục là công cụ mạnh mẽ và bền vững của việc phát triển nguồn nhân lực. Nó đóng vai trò quan trọng trong tiến trình chuyển đổi xã hội, những thành tựu GNH và mục tiêu ưu tiên phát triển quốc gia. Tầm nhìn của giáo dục Bhutan là “Một hệ thống nuôi dưỡng xuất sắc và trao quyền cho người dân Bhutan trở thành những người công dân có trách nhiệm, những người chăm sóc và duy trì thành công việc học tập suốt đời, nhờ một tinh thần đổi mới, sáng tạo và dám nghĩ dám làm để duy trì hạnh phúc cho dân tộc ở mọi thời điểm (GNH).” Tầm nhìn này đã dẫn đến việc thúc đẩy mục tiêu giáo dục ở Bhutan, đặc biệt là giáo dục học đường, và được chuyển thành chương trình giáo dục quốc gia. Chương trình giảng dạy quốc gia cung cấp một khuôn khổ toàn diện cho trường học, bao gồm tất cả các tiêu chuẩn và kinh nghiệm học tập cho

GNH là mục tiêu bao trùm của Bhutan

National Vision: tầm nhìn quốc gia National Goal: Mục tiêu quốc gia Vision for school Education: Tầm nhìn cho giáo dục học

đường Ideal Bhutanese Citizen: Ý tưởng cho công dân Bhutan Education goals: Mục tiêu giáo dục Vision for education: Tầm nhìn giáo dục

Page 96: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

mỗi học sinh cho mỗi học sinh ở từng cấp độ từ mẫu giáo đến lớp 10. Việc này đòi hỏi sự tham gia tích cực của cộng đồng giảng dạy, phụ huynh và môi trường học sinh sống và học tập.

Để đạt được sự phát triển xã hội, văn hóa, tôn giáo, đạo đức, thể chất, tinh thần của nhân dân Bhutan, giáo dục cần có liên hệ đến cuộc sống của họ và đáp ứng được những nguyện vọng của thế kỷ 21.

Để hoàn thành những nỗ lực chương trình giáo dục quốc gia, khắc sâu khả năng ngôn ngữ và toán học, kỹ năng giao tiếp, khí chất khoa học và sự tôn trọng sâu xa với môi trường. Giá trị tinh thần và đạo đức đánh giá cao nền văn hóa đa dạng, tôn trọng sự khác biệt và cảnh báo về sự cân bằng giữa thay đổi và tiếp nối được kết hợp với kinh nghiệm học tập thể hiện ở mỗi cấp lớp. Ngoài ra, chương trình còn đặt áp lực trong khả năng có thể chịu được cho sự tự quyết, độc lập và tự học suốt đời. Những kỹ năng lành mạnh và tích cực , năng lực vận động và nghệ thuật trình diễn thị giác tạo thành một phần không thể thiếu của chương trình, cho sự phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Cuối cùng, chương trình tăng cường cho sinh viên những khả năng thông dụng, tích lũy và xử lý thông tin theo những cách khác nhau nhằm đạt được kết luận hợp lý. Những người trẻ Bhutan, được trang bị công cụ công nghệ thông tin hiện đại, kỹ năng và công nghệ, để có thể nắm vững nội dung khóa học một cách nghiêm ngặt, vun đắp những tiềm năng và khám phá kiến thức mới.

Để hoàn thành các định hướng của chương trình giáo dục quốc gia, tiến trình giáo viên và người học thông qua khu vực học tập cần thiết theo từng cấp bậc. nó thiết lập những tiêu chuẩn trong tất cả các môn học và các lớp học có thể sử dụng để so sánh trong nước giữa các trường và giữa các học sinh. Bộ khung tạo điều kiện dễ dàng chuyển nhượng, liên tục và minh bạch trong hệ thống trường học dành cho giáo viên, học sinh và các bậc phụ huynh. Nó phục vụ như một nền tảng cho mọi người hểu nguyện vọng của Bhutan dành cho trẻ em và thanh niên thông qua hệ thống giáo dục. Đối với học sinh, chương trình giảng dạy quốc gia là một quyền để giáo dục, không phân biệt giới tính, thành phần xã hội, sự khác biệt về kinh tế hoạch khả năng.

Chương trình được tổ chức xoay quanh các yếu tố cần thiết yếu của khái niệm, kỹ năng, giá trị, thái độ và hành động. Mỗi yếu tố được phản ánh trong phạm vi và trình tự những gì các em nên tìm hiểu trong trong từng chủ đề, nghĩa là, các lĩnh vực học tập thiết yếu (ELAs). Ở mỗi cấp lớp, chương trình đảm bảo việc học là mặt phát triển thích hợp, phù hợp và có ý nghĩa, trí tuệ và tình cảm, hấp dẫn và đủ thử thách đối với học sinh.

Trẻ con học tốt nhất khi chúng có thể kết nối với trải nghiệm, tìm kiếm ý nghĩa và làm cho thế giới xung quanh mình trở nên ý nghĩa. Để hiệu ứng này cấu trúc chương trình bao gồm các kinh nghiệm học tập thuân tiện cho việc dùng làm bối cảnh học tập cho học sinh. Sự phát triển các khả năng cần thiết cho người học, như được nêu trong tầm nhìn của Bhutan, là thúc đẩy và hỗ trợ chương trình giáo dục quốc gia. Chúng bao gồm:

Nhận biết ngôn ngữ: Kiến thức, kiến năng và sự thấu hiểu về ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) và kỹ năng thông tin liên lạc cần thiết cho đời sống xã hội và việc học tiếp theo.

Page 97: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Con số / Toán: Kiến thức và hiểu biết về khả năng toán học để phát triển tư duy logic và thực hiện các hoạt động của nó trong cuộc sống hàng ngày.

Công nghệ thông tin và kỹ thuật (ICT) Kỹ năng và sự hiểu biết, năng lực ICT , quản lý thông tin, sử dụng công nghệ (trong các hoạt động sáng tạo và theo đuổi nghệ thuật, các hoạt động cộng đồng), khả năng đánh giá các nguồn, độ tin cậy, chính xác và hợp lệ của thông tin.

Tư duy: kỹ năng áp dụng để giải quyết các vấn đề và nhiệm vụ phức tạp. Sáng tạo: Có khả năng phát triển ý tưởng mới và áp dụng trong trường hợp cụ thể để

đạt được sự đổi mới và tinh thần kinh doanh. Tự quản lý: Kỹ năng chịu trách nhiệm với công việc và học tập của bản thân. Làm việc nhóm: Có khả năng làm việc hiệu quả với những người khác. Hiểu văn hóa nội bộ: Tôn trọng, làm việc và đánh giá cao mình và văn hóa khác biệt. Hành vi đạo đức: Khả năng hiểu và hành động phù hợp với chuẩn mực và các nguyên

tắc đạo đức. Thẩm quyền xã hội: kỹ năng tương tác hiệu quả với người khác qua việc đánh giá và

những hoạt động thành công trong một loạt các thay đổi, những tình huống mơ hồ giữa con người.

Thông minh cảm xúc: khả năng thấu hiểu, nhận biết, biểu đạt và quản lý cảm xúc của mình và người khác. Trí thông minh cảm xúc, cùng với năng lực xã hội và trí thông minh nhận thức sẽ cho phép học sinh phát triển các tiềm năng để thành công trong đời sống.

Những giá trị tinh thần: để hỏi, và là một công dân khoan dung, từ bi, tự lực thông qua chánh tư duy và hành động.

Rèn luyện thể chất: Theo đuổi lối sống tích cực và lành mạnh thông qua tập thể dục thường xuyên, ăn uống lành mạnh, và nuôi dưỡng các thái độ, giá trị và kỹ năng cần thiết.

Page 98: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

5.1. Cấu trúc chương trình

Cấu trúc của chương trình giảng dạy quốc gia cung cấp, cho các công dân đa dạng của Bhutan đến trường, cơ hội để đảm bảo một nền giáo dục cơ bản trong tám khu vực học tập thiết yếu (ELAs) thông qua sự phát triển kiến thức, kỹ năng và thái độ. Các ELAs gồm ngôn ngữ, toán, khoa học, khoa học xã hội, y tế và giáo dục thể chất, nghệ thuật trình diễn, ICT… trong 10 năm giáo dục nền tảng của Bhutan. ở cấp trường, những ELAs này được chuyển thể vào những môn học, thơ ca, hay các đơn vị mục tiêu nghiên cứu, tổ chức theo cấp lớp được dạy.

Chức năng của các ELAs gồm 2 phần: 1/ Để cung cấp một nền tảng giáo dục bao quát và toàn diện trên diện rộng, và 2/ chuẩn bị cho học sinh về chuyên môn ở bậc học trung học, đại học hay cao học, khi học viên có thể lựa chọn nhiều con đường khác nhau để theo đuổi.

Mỗi ELA được chia thành nhiều nhánh, trong đó nêu rõ các thành phần đặc tính của nó. Đó là sợi chỉ xuyên suốt từ Kg đến 10 năm giáo dục cơ bản. Trong 2 năm cuối của giáo dục phổ thông, một phạm vi rộng hơn sẽ được cung cấp để học viên có thể tập trung vào việc học tập chuyên môn hơn.

Tiêu chuẩn học tập chủ đạo cho mỗi nhánh là mô tả tóm tắt các tiêu chuẩn học tập để đạt được mục tiêu cuối cùng ở mỗi giai đoạn. Việc học tập tiếp nối từ KG đến lớp 10 được chia làm 3 giai đoạn chính, cụ thể là KS1 vào cuối lớp 2, KS2 vào cuối lớp 6 và KS3 vào cuối lớp 10.

Chương trình giảng dạy quốc gia giới thiệu những tiêu chuẩn học tập để đạt được ở mỗi cấp bậc từ Kg đến lớp 10. Tiêu chuẩn đó bao gồm kiến thức, kỹ năng và thuộc tính được dựa trên nội dung và hoạt động nền tảng hoặc cả hai. Chúng được thành lập trên tiền đề rằng tất cả học sinh đều có khả năng học tập tốt và đạt mức độ cao. Tiêu chuẩn học tập là một mô tả tóm tắt những gì người học nên biết và/hay có thể làm được tại một cấp độ cụ thể. Điều này chủ yếu phục vụ cho một tổ chức một phạm vi chuyên ngành hay một nhánh trong các hạng mục trung tâm thông qua một cơ số quản lý của các mục tiêu chung nêu cho học sinh học tập. Những phát biểu sẽ làm rõ kỳ vọng chung và cung cấp một phương tiện cho độc giả để điều hướng các nguồn tư liệu khi tìm kiếm những nội dung cụ thể. Những tiêu chuẩn học tập càng được định nghĩa mở rộng, sẽ càng nhiều nội dung được tổ chức bên trong.

Các tiêu chuẩn học tập cho mỗi nhánh là hiệu suất học tập chứng minh cho việc thông tin đã được truyền đạt lại tốt như thế nào. Chúng miêu tả những mong đợi cụ thể hoặc mức độ hoạt động của sinh viên đối với những kiến thức hay kỹ năng nền tảng.

Trải nghiệm học tập là những hoạt động hoặc bài tập ví dụ mà nó thể hiện cho giáo viên các chuẩn mực biểu hiện có thể được giải quyết trong tiến trình dạy / học. Những trải nghiệm này mang tính gợi ý và không có những quy tắc. giáo viên có thể dùng chúng để phát triển thành một loạt trải nghiệm khác, phù hợp với từng ngữ cảnh trường học hay môi trường của người học. Dưới đây là một ví dụ của cấu trúc được mô tả:

Page 99: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Qua ELAs, chương trình giảng dạy được xây dựng ngôn ngữ, toán học và kỹ thuật cho học sinh. Nó được xây dựng để giúp học viên có thể áp dụng những gì đã học vào trong cuộc sống hàng ngày và đạt được kết quả mong muốn. Các tiêu chuẩn hiệu suất, với những trải nghiệm học tập được gợi ý, khuyến khích sáng tạo, tự quản lý cũng như làm việc theo nhóm. Giá trị và kỹ năng sống được tích hợp trong việc giảng dạy của mỗi ELAs, và nghệ thuật trình diễn được dạy lồng ghép khéo léo ELA. Học sinh trở nên nhạy cảm về văn hóa, tình cảm và và sự trưởng thành, vững vàng về mặt xã hội trong các tiêu chuẩn đạo đức và luân lý mạnh mẽ. Bề rộng của chương trình giảng dạy tại mỗi giai đoạn chính rất quan trọng, và chiều sâu ở những giai đoạn

Vùng học tập cần thiết: Khoa học xã hội, lớp 3

(GG) Địa lý

Tiêu chuẩn học tập:

GG1 hiểu những đặc điểm thể chất nhân lực của địa phương và sự khác biệt giữa chúng.

Tiêu chuẩn thực hiện:

GG1.1 Xác định của khu vực địa phương.

Sử dụng hình ảnh hiện tại và quá khứ của địa phương: ví dụ như đồi núi, rừng, sông, suối, để xác định các đặc điểm tự nhiên.

Sử dụng bản đồ khu vực địa phương để xác định các đặc điểm tự nhiên nổi bật của khu vực.

GG1.2 Xác định các đặc trưng của con người của mỗi địa phương (đường xá, công viên, tòa nhà, nhà cửa…).

Tiến hành một cuộc khỏa sát môi trường xây dựng tồn tại xung quanh trường học. Ví dụ, học sinh khảo sát các cửa hàng và số lượng cao ốc công cộng và ghi lại thông tin này trên một bảng ghi chú.

Giữ một quyển nhật ký ghi lại những thay đổi trong xây dựng môi trường trong một khoảng thời gian (vd: 1 tháng).

Page 100: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

cao hơn, với những buổi nghiên cứu ngoại khóa chéo và những liên kết liên ngành xuyên suốt, đảm bảo tính toàn diện của chương trình giảng dạy quốc gia mới, đáp ứng như cầu giáo dục và mục tiêu của Bhutan.

Page 101: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

5.2 Cơ sở hợp lý cho những vùng học tập

“Chúng ta không được đánh giá dựa trên bao nhiêu lần chúng ta tham gia lớp học hay những gì chúng ta được học trong trường đại học. Chúng ta được đánh giá nhiều hơn khi ghi nhớ những kiến thức ở sách vở và trả lời được những câu hỏi.”

(Một học sinh lớp 10, GNH, Kuensel, 12/12/2009)

Những chương trình giảng dạy mới cho người trẻ trong tất cả môi trường giáo dục, hỗ trợ bằng nhiều cách khác nhau để tối đa hóa tiềm năng của họ. Tâm điểm ở đây là nguyện vọng tất cả trẻ em và người trẻ được phát triển những khả năng cần thiết trong khả năng họ có và đóng góp hiệu quả cho sự tăng trưởng của Bhutan.

Để kết thúc ELAs toàn diện và năng động, và được tham gia tích cực từ học viên, trường học và cộng đồng. Đối với mỗi ELA ở từng cấp độ, kết quả học tập dự kiến sẽ được nêu rõ. Giáo viên được linh hoạt hỗ trợ cho học sinh bằng nhiều cách khác nhau, một trong số đó là đề nghị những trải nghiệm. vì thế giáo viên có thể lồng ghép ngữ cảnh và đặc điểm của ELAs. Mỗi ELAs gồm có các thành phần trải rộng và cân bằng các nhánh được giới thiệu trong một giai đoạn phát triển thích hợp. Do đó, những ELA khoa học xã hội bao gồm chiều kích lịch sử, dịa lý, giáo dục công dân và kinh tế. ở giai đoạn thứ 2, chiều sâu về các chi tiết sẽ tăng lên. Những thành phần ELA yêu cầu sự hợp tác, phương pháp tiếp cận việc dạy và học. Phạm vi của các nội dung ELA thay đổi từ địa phương đến phạm vi toàn cầu. Trong khi ELAs phục vụ cho nhu cầu đa dạng của người học, cho phép

những cá nhân xuất sắc và thấm nhuần cảm giác học tập suốt đời.

Với những kim chỉ nam như trên, chương trình học tập cung cấp những cơ hội tạo kiến tạo tri thức có liên quan đến kinh nghiệm, hình thành khái niệm, cách điều tra và phát hiện chứng thực. từ góc nhìn của Bhutan vào tổng thể sự phát triển của trẻ em đất nước, chương trình giảng dạy quốc gia phản ánh được sự thống nhất về chất lượng. Để trở thành những con người có ý thức, người trẻ phải có một nền tảng kiến thức toàn diện và quá trình học hỏi tiếp thu và hệ thống hiểu biết. Trong chương trình giảng dạy quốc gia, kiến thức này sẽ được tổ chức trong những ngành khác nhau hoặc ELAs.

Một chương trình được quy hoạch như một bản thiết kế toàn diện cho việc học tập là cơ sở cho sự phát triển của cộng đồng Bhutan khi bảo tồn những giá trị nội tại trong nền văn hóa.Các chương trình giảng dạy quốc gia đã mường tượng một người hoàn thiện có kỹ năng tốt trong việc diễn thuyết, biểu tượng và cử chỉ, điệu bộ… và trong đời thực cũng biết sản xuất, khéo léo, giao tiếp và là một công dân có hiểu biết. Bề rộng và chiều sâu của chương trình đào tạo quốc gia là tạo điều kiện thuận lợi cho người học trở thành những người có thẩm mỹ và tính sáng tạo cao. Những giá trị của Bhutan được tích hợp trong dạy và học của chương trình để học viên được ưu đãi phong phú và cuộc sống có kỷ luật trong các mối quan hệ với bản thân và người khác với những quyết định khôn ngoan và hợp lý. Những cá nhân này được mô tả với những đặc điểm: tự tin, biết chăm sóc, chánh niệm, phản xạ, cần cù, kỷ luật, có một tầm nhìn bao quát.

Page 102: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Một chương trình nuôi dưỡng những phẩm chất để làm hài lòng hay có ý nghĩa với những người khác. Cốt lõi trong nền văn hóa Bhutan là những triết lý phật pháp ứng dụng, ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần, văn hóa, các truyền thống. Những giá trị của Bhutan không chỉ ở việc tự ý thức kỷ luật bản thân mà còn phân định trách nhiệm của toàn thể mọi người. Những giá trị được mô tả như một tập hợp các ý tưởng và niềm tin từ đó ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành động của một người, và được tổ chức ở 3 cấp độ, cụ thể là cá nhân, trong mối liên hệ với tự nhiên và những người khác trong xã hội.

Văn hóa và những giá trị nền tảng của bản sắc dân tộc Bhutan, vì thế chúng sẽ giúp người trẻ Bhutan đủ độ chín về trách nhiệm, năng suất và là những công dân có lòng từ bi. Các giá trị được biểu hiện trong triết lý tất cả trường học, các mối quan hệ cá nhân, chương trình học tập và các lớp học. Những giá trị này phóng chiếu và truyền tới người học và khắc sâu trong họ qua chương trình giảng dạy / học tập. Họ đã tuyên bố trước ELA trong chi tiết khung chương trình giảng dạy quốc gia. Với những giá trị kết nối mạnh mẽ trong chương trình, người học có thể chứng tỏ mình trong các hoạt động hàng ngày của họ và những tương tác tại nhà, trường và cộng đồng.

Cộng đồng là một kho tàng kiến thức về các khía cạnh khác nhau của môi trường Bhutan, những tri thức truyền thống được truyền lại qua từng thế hệ và người dân kiến thức hiểu biết về sinh thái. Cộng đồng và môi trường địa phương tạo điều kiện học tập và xây dựng tri thức. Trong trường học, học sinh có thể đọc về sự đa nguyên các dân tộc, cách sống và làm việc của họ hoặc cách tham gia vào một nhóm chức năng xã hội đặc thù. Khi đạt được những tri thức này về những khái niệm khác nhau của các

mối quan hệ, điều quan trọng là những kết nối tri thức này đến với môi trường xung quanh họ, để họ thấy được sự liên quan của nó với thế giới bên ngoài và từ đó rút ra ý nghĩa – nếu không nó sẽ trở thành một sự tích lũy sự kiện hoặc thông tin. Điều cần thiết phải liên tục nhấn mạnh trong ngữ cảnh tri thức có nghĩa để có sự thông thuận giữa khoảng cách học đường và thế giới bên ngoài. Môi trường bản địa là điểm đến của việc học, thông qua đó, trẻ có thể tạo nên những kết nối ý nghĩa và phát triển tri thức lẫn kỹ năng thực tế.

Các môi trường bản địa là một nguồn tài nguyên học tập tự nhiên được xem xét khi là lựa chọn bao gồm chương trình bài giảng ở mỗi cấp độ. Ví dụ cụ thể từ môi trường nên đặc trưng trong từng môn học. Môi trường ở đây không chỉ bao gồm thiên nhiên xung quanh mà còn là bối cảnh văn hóa của nó, với một nguồn phong phú về những bài hát, câu chuyện dân gian và nghệ thuật để làm giàu thêm chương trình giảng dạy. Khi trẻ được làm quen với môi trường, chúng có thể so sánh nó với những môi trường từ xa khác và đánh giá sự giống và khác nhau. Để làm được điều này thì chương trình phải linh hoạt, thích ứng và rõ ràng tuần tự cùng một lúc. Nó cũng đòi hỏi sự nhận thức và tham gia sâu sắc của giáo viên và lãnh đạo nhà trường khi bàn giao các chương trình giáo dục.

Chương trình giảng dạy quốc gia mới với những cấu trúc rõ ràng, chuẩn mực đề nghị việc học tập trải nghiệm cho phép hỗ trợ môi trường sinh viên học tập và làm nó trở nên sống động. Các chương trình giảng dạy cung cấp cơ hội phát ngôn cho cộng đồng địa phương để có tiếng nói trong sự lựa chọn các hoạt động ngoại khóa hay trong trường học để tham gia với cộng đồng. Nói cách khác, cộng đồng trở thành nơi kết nối tin cậy trong việc chuyển đổi các chương

Page 103: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

trình giảng dạy trong các trường học. Khi đưa ra sự lựa chọn ngoại khóa, việc chuyển dịch từ sự kiện đến hiểu biết là rất quan trọng và khác xa văn hóa sách giáo khoa, nhấn mạnh cách tiếp cận liên ngành, bao

gồm những lĩnh vực chuyên môn của xã hội hiện đại và những lưu ý phát triển cân nhắc, do đó sẽ làm cho kinh nghiệm học tập của học sinh có ý nghĩa, hấp dẫn và có liên quan.

Page 104: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

5.3 Các lĩnh vực học tập thiết yếu

 

Ngôn ngữ là tài nguyên quốc gia. Học những ngôn ngữ khác nhau cho phép trẻ em tham gia có ý nghĩa với mọi người từ các nền văn hóa khác và ngôn ngữ, và điều này, lần lượt tăng cường sự hiểu biết về ngôn ngữ riêng của họ.

Trẻ em phải hiểu ngôn ngữ đó là một hệ thống thông tin liên lạc có ý nghĩa và là nền tảng gốc rễ trong một nền văn hóa. Nó cung cấp cơ hội để tham gia vào các tình huống thực tế và kết nối với thế giới rộng lớn hơn. Quan trọng nhất, ngôn ngữ phát triển của tư duy phê phán và lý luận của mỗi cá nhân, và kết quả là, cho phép người đó để trở thành một người học suốt đời.

Trẻ em được sinh ra với một khả năng bẩm sinh có thể tiếp nhận các ngôn ngữ khác nhau. Như Aurorin (1977) chỉ ra, "Ngôn ngữ không thể tồn tại và phát triển bên ngoài xã hội. Sự phát triển của ngôn ngữ cuối cùng được kích thích bởi di sản văn hóa của chúng ta và nhu cầu của sự phát triển xã hội, nhưng chúng ta không nên bỏ qua sự tương tác ngược lại. Nhân loại không thể làm nếu không có ngôn ngữ vì nó là quan trọng nhất, hoàn hảo nhất và là phương tiện phổ quát của truyền thông, hình thành của tư tưởng và tích lũy và truyền tải các biểu thức." Các mô hình nhận thức, xã hội và văn hóa chi phối nhận thức của thế giới là phần lớn hình thành, xây dựng và thậm chí quyết định bởi cấu trúc của ngôn ngữ nói.

Trong khi học sinh có được ngôn ngữ ở nhà, Dzongkha và tiếng Anh trong nhà trường, thật quan trọng để cung cấp một phạm vi cho học tập ngoại ngữ để tăng thuận lợi. Học sinh có thể học ngôn ngữ mới trong vào giữa hay giai đoạn học cao hơn. Mục tiêu để đạt trình độ cơ bản ở một ngoại ngữ, nơi học sinh sẽ có thể giao tiếp rất cụ thể và tình huống cá nhân, lúc đầu bằng ngôn ngữ nói và sau đó cao hơn là ở ngôn ngữ viết. Kết quả là họ nâng cao kỹ năng ngôn ngữ của họ, phát triển năng lực kết nối văn hóa và nhận ra rằng giữa ngôn ngữ và văn hóa có thể có những giá trị khác nhau.

Tại sao chúng ta muốn nghiên cứu?

Đó là trong suốt triều đại của vị vua thứ ba, Ông Majesty Jigme Dorji Wangchuck (1952-1972), lần đầu tiên nhận ra tầm quan trọng của một ngôn ngữ quốc gia là rất cần thiết. Vua nhận ra khả năng thống nhất và hội nhập của người dân và đất nước của mình, nơi mà rất nhiều tiếng mẹ đẻ khác nhau được sử dụng ở các miền đất nước, thông qua việc áp dụng một ngôn ngữ thông dụng. Việc thành thạo ngôn ngữ này có nghĩa rằng người dân Bhutan là thể xác định với Dzongkha và văn hóa, với tất cả các sắc thái của lịch sử, văn học và truyền thống mà đi cùng với nó.

Dzongkha, ngôn ngữ quốc gia và danh xưng của Bhutan, biểu tượng của thống

Ngôn ngữ

5.3.1 Dzongkha và những ngôn ngữ khác

Page 105: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

nhất và chủ quyền của Bhutan, được dạy như một ngôn ngữ chính ELA trong các trường học trên cả nước. Dzongkha cũng là coi là kho lưu trữ của tinh thần và di sản văn hóa Bhutan cũng như triết lý Phật giáo và sự hiểu biết dân bản địa. Nó phục vụ như một phương tiện qua đó tất cả người dân Bhutan tìm hiểu về di sản của họ. Các nghiên cứu về Phật giáo, triết học, văn bản chính thức, bài phát biểu cộng đồng, các cuộc họp công cộng và phiên họp Quốc hội được tiến hành trong Dzongkha. chính quyền lập hiến và đại biểu Quốc hội phải thông thạo Dzongkha.

Kế hoạch ngôn ngữ trong giáo dục cho thấy quá trình chuyển đổi từ ngôn ngữ tại nhà đến Dzongkha rồi đến tiếng Anh như một sự cân bằng vàng giữa các mục tiêu của một bản sắc đa văn hóa, đa ngôn ngữ thẩm quyền và chất lượng học tập của Tiếng Anh cùng với mức độ cao của thành tích học tập. Điều này sẽ cung cấp động lực cho sự phát triển của Dzongkha như một ngôn ngữ quốc gia, tạo điều kiện cho trẻ em cho các trường học có thẩm quyền học tập và chất lượng học tập của tiếng Anh như một cơ hội hội ngôn ngữ toàn cầu.

Những gì chúng ta nghiên cứu?

Có bằng chứng cho rằng Bhutan có hơn hơn 19 cộng đồng khác nhau người nói 19 phương ngữ khác nhau. Tuy vậy, Dzongkha đã trở thành ngôn ngữ quốc gia và môi trường của quốc gia giao tiếp nuôi dưỡng xã hội và phát triển kinh tế của đất nước. Nó là ngôn ngữ chung của đất nước. Nó thống nhất và tiên tiến nhất trong các ngôn ngữ được nói bởi hầu hết các dân số.

Trong khi Dzongkha là ngôn ngữ nhà số lượng lớn nhất của Bhutan, có rất nhiều cộng đồng nói tiếng khác nhau tiếng địa phương. Nhiều ngôn ngữ khác của Bhutan

và tiếng địa phương có một sự tương đồng về từ vựng và ngữ pháp với Dzongkha đảm bảo tính dễ hiểu giữa các người dùng ngôn ngữ Dzongkha và nhiều ngôn ngữ khác. Kết quả là, mặc dù khác nhau hình thức và tập quán, Dzongkha là duy nhất và được phát triển như là một ngôn ngữ chính thống hiệu quả cho Bhutan.

Các nghiên cứu của một phiên bản tiêu chuẩn của Dzongkha nuôi dưỡng liên kết tích cực với các ngôn ngữ khác được khuyến khích để giống và khác nhau ngôn ngữ tại nhà mình để có thể được phát triển trong khi tăng cường Dzongkha tại cùng một thời điểm.

Cách thức tổ chức?

Cộng đồng Bhutan mong muốn trở nên thành thạo tiếng Anh, và tại đồng thời, duy trì việc học tập của Dzongkha cho đến lớp cao hơn. Về phía mục tiêu này, một khung ngôn ngữ thêm và từ mẫu giáo đến lớp X được đề xuất. Nó được khuyến khích mạnh mẽ rằng những năm mẫu giáo đi học được dùng để phát triển chữ viết Dzongkha.

Kết thúc vấn đề này, ngôn ngữ của đầu năm chính của giảng dạy và học tập sẽ là Dzongkha. Các Dzongkha ELA được tổ chức thành những nhánh:

• Nghe và nói

• Đọc hiểu

• Viết

• Ngôn ngữ và ngữ pháp

Ở lớp mẫu giáo, học sinh chuyển từ nhà kỹ năng ngôn ngữ Dzongkha để hướng dẫn học chữ từ nhỏ. Vì Dzongkha đã là một ngôn ngữ ở nhà (L1). Đồng thời là một ngôn ngữ thứ 2 (L2) nên ít nhất nó quen

Page 106: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

thuộc về mặt văn hóa và có phần trùng lặp với các ngôn ngữ tại nhà khác. Cách tiếp cận Dzongkha như một ngôn ngữ thứ nhất (L1) và như một ngôn ngữ thứ hai (L2) sẽ khác nhau. Đối với ngôn ngữ thứ hai (L2) của người học Dzongkha, điểm nhấn trong trường mẫu giáo sẽ thể kết nối nó với ngôn ngữ nhà bằng làm cho trẻ nhận thức được cấu trúc và tương đồng văn hóa trên ngôn ngữ và bởi một phát triển tập trung của thẩm quyền song ngữ.

Có một giới thiệu đồng thời cả hai ngôn ngữ ở cấp mẫu giáo và chuyển đổi từ các cá nhân cơ bản kỹ năng giao tiếp (BIC) trong lớp mẫu giáo đến nhận thức học thành thạo ngôn ngữ (CALP) trong các lớp tiểu học và cao hơn. Một trong những mục tiêu chính của chương trình giảng dạy song ngữ là để đạt được trình độ thông thạo trong cả hai ngôn ngữ (Dzongkha và tiếng Anh); do đó, nó được đề xuất rằng các đối tượng cốt lõi được giảng dạy bằng cả hai ngôn ngữ. từ Lớp IV, Dzongkha và tiếng Anh tiếp tục như ngôn ngữ kép của việc học nhưng việc sử dụng Dzongkha như ngôn ngữ giảng dạy sẽ được thay thế bằng tiếng Anh.

Tại sao chúng ta muốn nghiên cứu nó?

Tiếng Anh được xem là ngôn ngữ thuận lợi nhất để hỗ trợ Bhutan trong việc kết nối bản sắc của mình, hiện đại hóa triển vọng của nó và tương tác với cộng đồng quốc tế. Tiếng Anh sẽ tăng cường năng lực Bhutan để tham gia hiệu quả hơn và có mục tiêu trong cộng đồng toàn cầu. Tiếng Anh như một cơ hội ngôn ngữ quốc tế là sự lựa chọn ưu tiên để đáp ứng yêu cầu của toàn cầu

hóa của Bhutan bằng cách cho phép người trẻ học tập thế để phát triển đầy đủ thẩm quyền trong một ngôn ngữ có tầm ảnh hưởng truyền thông quốc tế.

Bằng cách tham gia vào các quá trình của chuyển nhượng và phát triển ngôn ngữ, sinh viên trở thành:

• Người nói tự tin và lưu loát.

• Người nghe tốt.

• Khán giả và độc giả quan trọng

• Nhà văn sáng tạo và thiết kế.

• Truyền thông hiệu quả với khả năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt.

Các khả năng cần thiết được nêu trong tầm nhìn giáo dục của Bhutan sẽ đạt được chỉ khi một tiêu chí quan trọng, cụ thể là sự chuyển nhượng ngôn ngữ và, đặc biệt là ngôn ngữ tiếng Anh, sẽ đạt được.

Những gì chúng ta muốn nghiên cứu?

Ngôn ngữ, theo nghĩa rộng nhất của nó, bao gồm lời nói, bằng văn bản và phương thức hình ảnh truyền thông. Kỹ năng giao tiếp phát triển trong một môi trường xã hội khuyến khích trẻ giao tiếp tự nhiên, một cách có ý nghĩa. Việc thành thạo trong một ngôn ngữ làm cho giao tiếp này hiệu quả.

Thông qua việc nghiên cứu tiếng Anh và văn học của mình, học sinh phát triển kỹ năng giao tiếp cần thiết, một hiểu biết sâu sắc hơn về ngôn ngữ là xây dựng và diễn giải. Học sinh có được một cảm giác của sự đánh giá cao cho ngôn ngữ, sự sáng tạo và trí tưởng tượng trong văn bản. Khi trẻ nghe, nói, đọc, viết hoặc hiện bằng tiếng Anh, trẻ xây dựng nhữn khái niệm có nghĩa thông qua ngôn ngữ. Để việc nói hoặc viết có ý

5.3.2 Tiếng Anh

Page 107: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

nghĩa, học sinh tích cực tìm kiếm và mang lại những trải nghiệm cho mình.

Các nghiên cứu về tiếng Anh không chỉ để học mà còn sử dụng để làm cho tinh thần của thế giới xung quanh và tương tác với nó trong cách có ý nghĩa - trực quan nói và viết. Cốt lõi của nó là khả năng suy nghĩ và xử lý thông tin bằng tiếng Anh và sau đó để

tạo ra văn bản mới ở các cấp lớp khác nhau. Như học sinh tiến bộ với tiến trình cấp lớp cao hơn, họ sử dụng các kỹ năng ngôn ngữ của mình để tham gia với các công việc khác nhau và văn bản được thử thách trong tự nhiên và tăng chiều sâu. Họ có thể đánh giá cao văn học Anh cũng như các tài liệu của Bhutan và thế giới.

Tại sao chúng ta muốn nghiên cứu ?

Các nghiên cứu của toán học trang bị cho học sinh bộ công cụ hữu ích. Nó cho phép tư duy logic, hợp lý, trừu tượng và chiến lược. Học sinh phát triển khả năng suy nghĩ một cách rõ ràng, có cấu trúc, áp dụng lý luận, xây dựng các vấn đề và tìm ra giải pháp hợp lý. Trau dồi khả năng giải quyết vấn đề, kỹ năng phân tích và khả năng suy nghĩ một cách sáng tạo, vượt qua những rào cản thông thường. Thống kê tập trung vào việc sử dụng các mô hình và các mối quan hệ có trong dữ liệu. Cả hai hỗ trợ trong việc giải thích hợp lý về thế giới xung quanh, trong các tình huống hàng ngày, nơi làm việc và bối cảnh sống. Một chủ đề phổ quát, toán học vượt ranh giới của nền văn hóa và ngôn ngữ, thúc đẩy phát triển trí tuệ của học sinh và, hoàn thiện hơn. Ở cấp độ chuyên nghiệp, kỹ năng toán học cơ bản với các liên kết chặt chẽ với công nghệ thông tin trang bị cho các cá nhân có khả năng tập trung vào vấn đề, đề ra quy luật tồn tại và chiếm ưu thế trong các công việc thường nhật mang tính chiến lược . Toán học giúp khắc sâu những khả năng cơ bản quan trọng đối với công dân Bhutan.

 Những gì chúng tôi muốn nghiên cứu?

Toán học là một sự khám phá các mô hình và các mối quan hệ về số lượng, không gian và thời gian. Học sinh xây dựng sự chặt chẽ để suy nghĩ và làm việc một cách toán học; sử dụng đồ thị, mô hình, sơ đồ, và biểu tượng; học các khái niệm toán học và phát triển trực giác để áp dụng vào việc khám phá và giải quyết các tình huống vấn đề hàng ngày; tìm ra được mối quan hệ giữa thực tế và thế giới ảo. Các nghiên cứu của toán học được thực hiện phù hợp hơn khi nó được liên kết với tất cả các ELA khác, do đó tăng cường nghiên cứu và sự hiểu biết của mình.

Cách thức tổ chức?

Toán học được tổ chức thành các lĩnh vực:

• Hình học

• Số

• Đo lường

• Thống kê và dữ liệu

• Đại số học

Bằng cách trau dồi kinh nghiệm học tập toán học, học sinh sẽ:

• Xây dựng các khái niệm có liên quan, kỹ năng và khuynh hướng để hoạt động một

5.3.3 Toán

Page 108: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

cách tự tin trong các lĩnh vực số, đại số, đo lường, hình học và xử lý dữ liệu.

• Phát triển khả năng tư duy phê phán, chiến lược và hợp lý trong những bối cảnh khác nhau.

• Phát triển các kỹ năng để cấu trúc và tổ chức, có quy trình và truyền đạt thông tin một cách hiệu quả.

• Đặt giả thuyết, dự đoán kết quả lý luận và biện minh, tìm kiếm các mô hình và khái quát chúng.

• Đưa ra dẫn chứng, lập luận, tính toán với độ chính xác và sử dụng từng bước để đưa ra kết luận.

Tại sao chúng ta muốn nghiên cứu?

Khoa học là một cách để điều tra và trả lời các hiện tượng, khám phá thế giới tự nhiên và vật lý, thử nghiệm với các đối tượng để chứng minh giả thuyết. Nó bao hàm việc đưa ra ý tưởng, thử nghiệm và chứng minh ý tưởng, thu thập dẫn chứng, lập luận để phát triển kiến thức khoa học và hiểu biết về thế giới trước mắt và vũ trụ bao la. Khoa học liên quan đến việc điều tra chính xác và hợp lý, ngoài sự tò mò và trực giác, bị chìm sâu vào những bí ẩn của thiên nhiên, và kiểm tra, xác nhận, đưa ra quyết định về các vấn đề thế giới thực. Trong quá trình này, các học sinh thực hiện các chuẩn mực về đạo đức, phép tắc xã hội, và vai trò của khoa học công nghệ ngày nay.

Những gì chúng ta nghiên cứu?

Bằng cách tham gia vào việc nghiên cứu khoa học, các học sinh sẽ:

• Đánh giá cao môi trường sống của sinh vật và mối quan hệ, sự tương tác của chúng.

• Nâng cao hiểu biết về cấu trúc và tính chất của vật liệu và cách sử dụng chúng.

• Sử dụng kiến thức khoa học và kỹ năng để lựa chọn đúng đắn về ý nghĩa của khoa học trong chất lượng cuộc sống và văn hóa.

• Phát triển quan điểm khoa học, vận dụng khoa học vào xã hội, tính bền vững của môi trường.

Trong những năm đầu của bậc tiểu học, khoa học được nghiên cứu, cùng với khoa học xã hội, thông qua các khu vực học tập rộng lớn của nghiên cứu môi trường (EVS). Các học sinh học hỏi để đánh giá cao môi trường sống và không gian sống xung quanh họ, phát triển ý thức và sự tò mò.

Cách thức tổ chức?

Khoa học được tổ chức thành các lĩnh vực:

• Kỹ năng tìm tòi, điều tra

• Quỹ đạo sống

• Vật liệu và tính chất

• Các quá trình vật lý

5.3.4 Khoa học

Page 109: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Lý do cơ bản cho các nhóm nghiên cứu môi trường (EVS) tích hợp là học sinh trong những năm đầu của tiểu học có nhận biết các khái niệm sơ đẳng về khoa học cũng như khoa học xã hội khi chúng liên kết môi trường và nhu cầu trước mắt. Hiểu biết về các khái niệm khoa học, các vấn đề xã hội và môi trường có tác dụng khi một đứa có thể ứng dụng chúng vào thế giới xung quanh.

Nghiên cứu môi trường (EVS) lớp 3 lan rộng sang các lĩnh vực học tập riêng biệt, cụ thể là khoa học và khoa học xã hội. Học sinh được cung cấp nhiều cơ hội bằng cách khuyến khích tham gia vào các quá trình học tập khoa học, bao gồm quan sát, thực nghiệm, dự đoán, ghi âm, suy luận, lập luận và trình bày. Độ khó ngày càng tăng theo bậc học.

Tại sao chúng ta muốn học?

Lĩnh vực học tập khoa học xã hội trong chương trình giúp học sinh hiểu thế nào là kinh nghiệm sống, kết quả của mối quan hệ xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị và môi trường cụ thể đặc trưng cho cộng đồng tại một thời gian và địa điểm cụ thể. Học sinh xác định các đặc điểm vật lý của vùng, các quá trình hình thành trái đất, sự tương tác giữa các hệ thống con người và vật chất trong môi trường. Các bối cảnh vị trí của nghiên cứu trong, gần và vượt ngoài Bhutan với bối cảnh thời gian là quá khứ, tương lai và hiện tại.

Những gì chúng ta nghiên cứu?

Trong những năm đầu bậc tiểu học, khoa học xã hội được nghiên cứu, cùng với khoa học, thông qua các khu vực học tập rộng lớn hơn, Nghiên cứu môi trường (EVS). phạm vi của nó nằm trong môi trường trước mắt và quen thuộc của học sinh.

Khi học sinh tiến bộ trong nghiên cứu khoa học xã hội từ lớp 3, chúng phát triển ý thức về bản sắc văn hóa và di sản quốc gia, đối đầu với các vấn đề đương đại và hiểu xã hội được tổ chức như thế nào, làm thế nào để phát triển và cách con người phản ứng với chúng. Các sinh viên tham gia thế giới xung quanh, đưa ra quyết định và lựa chọn, đóng góp và đánh giá những hành động tích cực cho xã hội.

Cách thức tổ chức?

Trong giai đoạn chăm sóc và phát triển trẻ thơ (ECCD) (từ lớp 1 đến lớp 2), các chương trình giảng dạy EVS là cách thức hội nhập của các khu vực:

• Kỹ năng tìm tòi, khám phá

• Sinh hoạt thường ngày

• Vật liệu và tính chất

• Các quá trình vật lý

• Lịch sử

• Giáo dục công dân

• Địa lý

Từ lớp 3 trở đi, khoa học xã hội ELA được tổ chức thành các lĩnh vực:

• Kỹ năng tìm tòi, khám phá

• Địa lý

• Lịch sử

5.3.5 Khoa học xã hội

Page 110: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

• Giáo dục công dân

• Kinh tế học

Lý do của việc Nghiên cứu môi trường (EVS) trong những năm học đầu là học sinh ở giai đoạn này hiểu biếy khái niệm sơ đẳng về khoa học và khoa học xã hội, thấy được mối tương quan giữa môi trường, như cầu trước mắt và quen thuộc của chúng. Học sinh biết cách ứng dụng kiến thức vào môi trường sống. Nghiên cứu môi trường (EVS) lớp 3 lan rộng các lĩnh vực học tập riêng biệt, cụ thể là khoa học xã hội và khoa học. Học sinh nắm bắt cơ hội thông qua việc tham gia vào quá trình học tập xã hội khoa học, bao gồm quan sát, dự đoán, lĩnh vực làm việc, ghi âm, suy luận, lập luận và trình bày.

Học sinh nâng cao kiến thức về lịch sử của Bhutan, văn hóa, xã hội, môi trường tự nhiên và xây dựng, và các hệ thống chính trị và kinh tế. Hơn nữa, họ đi xa hơn Bhutan và đánh giá cao và hiểu được vật lý, con người, xã hội hệ thống chính trị, văn hóa và kinh tế của thế giới rộng lớn hơn. Phạm vi nghiên cứu di chuyển từ ngay tới các khu vực rộng lớn hơn và trên thế giới.

Thông qua nghĩa vụ học tập liên quan đến khoa học xã hội, học sinh sẽ:

• Hiểu được tầm ảnh hưởng của những tư tưởng quá khứ, sự kiện và sự đóng góp của người dân đối với cộng đồng; Bhutan hiện đại, các nước láng giềng và cộng đồng quốc tế.

• Khám phá và hiểu được quan điểm, giá trị của con người, cách thức mọi người đưa ra quyết định và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội.

 • Câu hỏi, thu thập thông tin, phát triển những quan điểm về các vấn đề liên quan

đến địa lý, mối quan tâm toàn cầu và đưa ra những lựa chọn và quyết định khi cần.

• Đánh giá cao bối cảnh lịch sử và địa lý của Bhutan và vị trí của nó trong bối cảnh khu vực và toàn cầu.

• Đánh giá cao di sản văn hóa của Bhutan và mối liên quan đến các nền văn hóa khác nhau trên toàn thế giới.

• Hiểu được hệ thống pháp luật, chính trị và kinh tế, bao gồm cả các tổ chức hiện đại và thực tiễn trong bối cảnh địa phương, quốc gia, khu vực và toàn cầu, để đảm bảo một tương lai bền vững.

Tại sao chúng ta muốn nghiên cứu?

Thông qua giáo dục thể chất, học sinh tiếp thu kiến thức, kỹ năng và giá trị đối với việc theo đuổi một lối sống lành mạnh. Học sinh có cơ hội tham gia vào các môn thể thao và các trò chơi và nắm bắt khái niệm và kỹ năng để tham gia cả khi nghỉ ngơi và thi đấu. Phát triển khả năng phục hồi và kỷ luật trong cách sống, ý thức được hành động của bản thân có ảnh hưởng đến xã hội, ý thức được trách nhiệm đạo đức, sự trưởng thành xã hội với môi trường và xã hội rộng lớn hơn.

Những gì chúng ta nghiên cứu?

Trọng tâm của ELA này là để thúc đẩy năng lực của học sinh, nhận thức về sức khỏe, an toàn, và thể chất và tâm lý xã hội phúc lợi của trẻ em, cộng đồng và xã hội; để phát triển thái độ, giá trị và các khuynh hướng là rất cần thiết để trở thành một người khỏe

5.3.6 Giáo dục thể chất và sức khỏe

Page 111: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

mạnh và có trách nhiệm, có khả năng đánh giá và đối mặt với các tình huống trong cuộc sống hàng ngày.

Cách thức tổ chức?

Giáo dục thể chất và sức khỏe được tổ chức thành các lĩnh vực:

• Sống tích cực

• Phong trào thi đấu thể chất bao gồm các bài tập vật lý, yoga, thái cực quyền

• Lối sống lành mạnh

• Kỹ năng sống

Tham gia vào các hoạt động trên, học sinh sẽ:

• Xây dựng và duy trì sức khoẻ thể lực, độ bền và sức mạnh cơ bắp, phối hợp vận động, linh hoạt, cân bằng và sự nhanh nhẹn.

• Thể hiện tính chất tích cực như công bằng, làm việc theo nhóm, tinh thần cộng đồng và tinh thần thể thao.

• Phát triển kỹ năng, theo đuổi thế mạnh cá nhân liên quan đến thể thao

• Phát triển sự hiểu biết, kỹ năng, thái độ, nâng cao khả năng tương tác với người khác.

• Phát triển kỹ năng tư duy phê phán và sáng tạo.

• Phát triển cộng đồng, môi trường lành mạnh và an toàn bằng cách hoạt động thể thao

Tại sao chúng ta muốn nghiên cứu?

Nghệ thuật trực quan hay còn gọi là nghệ thuật thị giác kích thích trí tưởng tượng, kích hoạt các giác quan và cảm xúc, và phát triển nhận thức thẩm mỹ, nghệ thuật và đạo đức. Học sinh trở nên nhạy cảm với cái đẹp và biết làm thế nào để tìm thấy nó trong các hình thức khác nhau; giác quan được đánh thức với môi trường xung quanh và biết làm thế nào để thể hiện cảm xúc, suy nghĩ thông qua các phương tiện truyền thông. Khi nghiên cứu và sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật, học sinh sử dụng tiềm thức nhìn nhận sự độc đáo của nó. Mục tiêu của nghiên cứu về nghệ thuật trực quan là học sinh nâng cao mối quan hệ cá nhân với nghệ thuật, giải quyết vấn đề một cách sáng tạo và có nhiều sáng kiến trong học tập.

Những gì chúng ta nghiên cứu?

Nghệ thuật trực quan tồn tại trong tất cả các nền văn hóa để tôn vinh những nghệ thuật độc đáo của một cá nhân, cộng đồng và xã hội rộng lớn. Học sinh học cách đánh giá truyền thống lâu đời của Bhutan của nghệ thuật và hàng thủ công vào được dệt văn hóa của nó, đồng thời đánh giá cao nền văn hóa nước ngoài đối với họ. Họ học cách nhận cách nghệ thuật có thể giúp mọi người thể hiện ý tưởng sáng tạo của mình thông qua các vật liệu khác nhau như vải , đồ thủ công mỹ nghệ.

Cách thức tổ chức?

Nghệ thuật trực quan được tổ chức thành các lĩnh vực:

• Vẽ và Tranh

• Đất sét, gốm, và đồ gỗ

5.3.7 Nghệ thuật trực quan

Page 112: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

• Phương tiện tích hợp

Trong quá trình học tập, học sinh sẽ:

• Quy trình, phân tích và phản ứng với các giác quan thông qua các kỹ năng cụ thể ở các lĩnh vực khác nhau của nghệ thuật.

• Hiểu được bề dày lịch sử và văn hóa của nghệ thuật trực quan.

• Phản ánh các hình thức nghệ thuật và mối tương quan của chúng.

• Phân tích đánh giá và đưa ra cái nhìn khách quan về nghệ thuật thị giác.

• Học cách làm việc độc lập và hợp tác để xây dựng môi trường làm việc ý nghĩa, tôn trọng giá trị công việc của người khác.

Học sinh nhận được đầy đủ cơ hội để trau dồi các kỹ năng thông qua quá trình thực hành và ý chí không ngừng học hỏi.

Tại sao chúng ta muốn nghiên cứu?

Nghệ thuật biểu diễn truyền đạt kiến thức và ý nghĩa một cách độc đáo. Phổ quát nhất của tất cả các loại hình nghệ thuật, nó là một hình thức độc đáo mạnh mẽ của truyền thông có thể thay đổi cách cảm nhận, suy nghĩ và hành động của học sinh. Nó tập hợp trí tuệ và các giác quan, cho phép cá nhân bộc lộ cảm xúc, phản ánh và phát triển tình cảm. Nó là một phần của văn hóa, giúp các học sinh hiểu bản thân và những người xung quanh, nâng cao ý thức cộng đồng về bản sắc dân tộc. Tăng khả năng nhạy cảm với môi trường sống. Đưa con

người ta vào một khuôn phép của sự sáng tạo, nhận thức thẩm mỹ và thực hiện hóa. Học sinh tưởng tượng và sáng tạo, cộng tác, áp dụng khuôn khổ, theo đuổi mục tiêu độc lập và suy nghĩ sáng tạo, vượt qua những rào cản thông thường. Khi nghiên cứu và sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật, học sinh sử dụng tiềm năng để cảm thụ sự độc đáo một cách toàn diện. Để đạt được những thành công đó, giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển các khả năng đó.

Những gì chúng ta nghiên cứu?

Nhảy múa, âm nhạc và sân khấu là nền tảng trong tất cả các nền văn hóa, vì vậy nó được gắn liền với thời gian và bối cảnh sống. Tùy thuộc vào những thời điểm, nền văn hóa và xã hội khác nhau, mà nghệ thuật biểu diễn mang ý nghĩa khác nhau đối với mỗi cá nhân. Học sinh học cách trân trọng truyền thống lâu đời của các loại hình khác nhau thuộc vũ điệu và âm nhạc liên quan đến văn hóa Bhutan của và các nền văn hóa khác. Học cách nhảy múa theo âm nhạc giúp mọi người thể hiện ý tưởng sáng tạo, phát triển kỹ năng xã hội như trách nhiệm, phê bình xây dựng, chấp nhận sự đa dạng về kỹ năng, con người và văn hóa của họ.

Cách thức tổ chức?

Nghệ thuật biểu diễn được tổ chức thành các dải này:

• Âm nhạc

• Nhảy múa

• Kịch

Khi tham gia học tập, học sinh sẽ:

5.3.8 Nghệ thuật biểu diễn

Page 113: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

• Quy trình, phân tích và phản ứng với các giác quan thông qua ngôn ngữ và kỹ năng riêng biệt ở các lĩnh vực khác nhau của nghệ thuật biểu diễn.

• Sáng tạo, biểu diễn và hòa mình vào âm nhạc, chuyển động và diễn xuất.

• Hiểu được bề dày lịch sử và văn hóa của các điệu nhảy, âm nhạc và kịch.

• Phản ánh các hình thức nghệ thuật và mối tương quan của chúng..

• Phân tích đánh giá và đưa ra cái nhìn khách quan về âm nhạc và vũ đạo, liên kết với các lĩnh vực học tập khác.

• Học cách làm việc độc lập và hợp tác để xây dựng môi trường làm việc ý nghĩa, tôn trọng giá trị công việc của người khác.

Tại sao chúng ta muốn nghiên cứu?

Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trang bị cho học sinh sẵn sàng thích ứng với một thế giới đầy biến động. Ngoài ra, việc nâng cao mức độ quen thuộc và thoải mái với công nghệ thông tin làm cho sinh viên giỏi hơn trong việc sử dụng công cụ này để đẩy mạnh thăm dò và thông tin liên lạc của họ trong các lĩnh vực học tập khác của chương trình. ICT là cửa ngõ cho học tập độc lập, mở con đường mới cho động cơ và cũng là người học không có động lực.

Những gì chúng ta nghiên cứu?

Các nghiên cứu về công nghệ thông tin là hai lần: như là một kỷ luật trong chính nó và như một công cụ cho việc nghiên cứu các môn học khác. Nó có khả năng độc đáo để tăng cường và linh hoạt tất cả các lĩnh vực học tập. Ngày càng có nhiều học sinh sử dụng công nghệ để khám phá, điều tra, phân tích, giao tiếp và trình bày thông tin. Học sinh sử dụng các công cụ công nghệ thông tin để truy cập thông tin trên toàn cầu, trình bày nó theo những cách khác nhau để khán giả đa dạng. Do đó, làm chủ việc sử dụng những công cụ này là rất quan trọng trong thế giới phát triển nhanh chóng của công nghệ. Các nghiên cứu về công nghệ thông tin có tác động đối với các trường học, gia đình và nơi làm việc.

Cách thức tổ chức?

Trong giai đoạn đầu của việc học, công nghệ thông tin được sử dụng như một công cụ để phát triển các ý tưởng và công việc thu âm, trao đổi và chia sẻ thông tin. Khi học sinh tiến bộ, họ sử dụng một loạt các công cụ để hỗ trợ công việc của họ trong lĩnh vực chuyên môn khác. Trong giai đoạn sau của việc học, các học sinh phát triển một sự hiểu biết tốt hơn về các công cụ như thế nào công việc khác nhau ICT, làm thế nào để lựa chọn và sử dụng chúng một cách hiệu quả và các hạn chế của họ. Các sinh viên học công nghệ thông tin kín đáo, để nắm bắt được kiến thức cần thiết và kỹ năng và rộng rãi như một công cụ để nâng cao việc học trên tất cả các lĩnh vực.

Họ có thể thực hiện một phạm vi ngày càng tăng của các nhiệm vụ phức tạp. Trong các lớp cao hơn, các sinh viên học công nghệ thông tin, lựa chọn và thiết kế hệ thống công nghệ thông tin cho một mục đích cụ thể và đánh giá việc thực hiện nó.

5.3.9 Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)

Page 114: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Khi tham gia vào việc sử dụng các công nghệ thông tin, các sinh viên sẽ:

• Khám phá một loạt các công cụ công nghệ thông tin để thu thập thông tin, điều tra và trình bày.

• Sử dụng công nghệ thông tin để chia sẻ và trao đổi thông tin trong các hình thức khác nhau.

• Sử dụng các công cụ khác nhau để đo, ghi âm và diễn giải dữ liệu liên quan đến chủ đề khu vực, dự đoán xét nghiệm và khám phá các mô hình và các mối quan hệ.

• Sử dụng một phạm vi khác nhau của các công cụ cho hiệu quả và khả năng phát triển, so sánh việc sử dụng các công cụ với cách chúng được sử dụng trong thế giới rộng lớn hơn.

Tinh hoa thực sự của giáo dục không chỉ là về cung cấp cho trẻ em các kỹ năng đọc, viết và làm toán mà còn về việc xây dựng luân lý đạo đức, trách nhiệm và nhận thức Ley Judrey (Luật nhân quả) và Tha Damtshig (Lòng tin yêu con người).

Trong một dòng chảy tương tự như các kỹ năng sống được định nghĩa là khả năng cho hành vi thích ứng và tích cực cho phép cá nhân đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày. Nền tảng cốt lõi để thiết lập nên các kỹ năng này là sự phát triển của thanh niên. Trong khi các giá trị của triết học Phật giáo nuôi dưỡng tâm trí, kỹ năng sống cho phép các cá nhân áp dụng các kiến thức, kỹ năng và giá trị vào đời sống thực tế với châm ngôn "Phải làm gì và làm thế nào để làm".

Tại sao chúng ta muốn nghiên cứu?

Giáo dục tinh thần hình thành bộ máy giúp thanh niên Bhutan trở thành những công dân có trách nhiệm, hiệu quả và có lòng bác ái. Giáo dục tinh thần ở Bhutan tương tự với Sam- choed Sheyoen. Trong đó, Sampa (suy nghĩ) và Choed (pa) (hành động), như vậy Shey-Yoen có nghĩa là giáo dục liên quan đến sự phát triển của tư duy và hành động đúng đắn. Giáo dục tinh thần trong khuôn khổ Bhutan chủ yếu tập trung vào việc nuôi dưỡng Sem (tâm) vì nó là nguồn gốc của tất cả mọi thứ, là cái tốt hay cái xấu. Nếu được nuôi dưỡng tốt, suy nghĩ và hành động sau này thay đổi theo chiều hướng tích cực. Sự nổi bật của sem (tâm) như là một khối xây dựng không thể tách rời suy nghĩ tốt và hành động đúng, được gói goj trong danh ngôn Bhutan: "Tâm là chủ của tất cả. Cơ thể và lời nói chỉ là nô lệ thực hiện những việc làm tốt và xấu ".

Các mục tiêu tổng quát của giáo dục tinh thần là:

• Giúp học sinh nắm bắt kiến thức chung về giá trị tinh thần và tịnh tâm thông qua thiền định dựa trên cả hai nền văn hóa phổ quát và Phật giáo.

5.3.10 Giáo dục tinh thần

Page 115: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

• Phát triển các kỹ năng lý luận và yêu cầu nghiêm ngặt đảm bảo thành tích học tập và sự sáng tạo tối ưu, cũng như để nuôi dưỡng một ý thức trách nhiệm chung.

• Giúp học sinh khắc sâu các giá trị đạo đức và phẩm chất trách nhiệm xã hội, cũng như sự trưởng thành về tâm lý, tất cả đều sẽ góp phần cho công dân hoàn thiện bản thân.

• Thúc đẩy sự tôn trọng lẫn nhau giữa giáo viên và học sinh.

• Thúc đẩy giá trị của việc hợp tác, trách nhiệm, sự sáng tạo, trí tuệ xã hội, kỷ luật và tích cực.

Vào năm cuối của các cấp học, tất cả các học sinh viên tốt nghiệp nên được ghi nhận đầy đủ thông tin, trí tuệ bẩm sinh, tham gia, chu đáo, và các thành viên có trách nhiệm của cộng đồng, tham gia vào đời sống đúng, mô hình vai trò truyền cảm hứng, tác nhân thay đổi có lợi và có khả năng để thực hiện đầy đủ tiềm năng của mình trong cuộc sống.

Những gì chúng ta nghiên cứu?

Trong trường học, giáo dục tinh thần hoặc giá trị, dựa trên triết lý Phật giáo, luôn luôn là một phần của chương trình học. Như một cách sống, Phật giáo nhằm dạy mọi người cách phát triển để trưởng thành khôn ngoan, hiểu bản thân hơn và tìm hiểu thêm về thế giới mà họ đang sống. Họ dạy về cuộc sống hàng ngày và cách đối phó với các sự kiện và tình huống chung cho tất cả mọi người. Từ cấp độ cơ bản này, học sinh sẽ phát triển thái độ đối với cuộc sống và cải thiện mối quan hệ của họ với gia đình, bạn bè và những người xung quanh. Học sinh được thực hành để phát triển trí tuệ, trải nghiệm cuộc sống một cách thật sự, chứ không phải chỉ là trong tưởng tượng.

Những giá trị :

• Tinh thần tự do học hỏi

Tinh thần tự do học hỏi là một tính năng quan trọng của giáo dục tinh thần. Đức Phật mọi người được khuyến khích để khám phá sự thật của giáo lý trước khi chấp nhận ý tưởng của Ngài. Ngài không bao giờ mong đợi mọi người thực hành Giáo Pháp của mình ra khỏi 'niềm tin mù quáng và mê tín dị đoan, nhưng thay vì khuyến khích một tinh thần tự do của câu hỏi và chiêm niệm. Phật tử tin rằng mọi người nên chấp nhận và thực hành giáo lý và lối sống họ tìm thấy, thông qua kinh nghiệm của riêng mình, những điều có lợi cho thể chất và tinh thần.

• Tự lực cánh sinh

Đạo Phật cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tự lực và nỗ lực cá nhân. Có hai cách chính mà Phật tử tập trung vào tự lực. Thứ nhất, mỗi người phải tìm ra con đường chấm dứt khổ đau của họ và đạt được hạnh phúc. Thứ hai, tùy thuộc vào mỗi người nhận ra rằng đó là hành động của riêng mình mà quyết định tương lai của họ. Phật

Page 116: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

tử suy nghĩ, mỗi con người phải chịu trách nhiệm cho hành động của chính mình. Có thể tiến triển hoặc phát triển hay không đều phụ thuộc nỗ lực của bản thân.

Phật tử biết rằng sự cống hiến, tự giác và phán đoán khôn ngoan là chìa khóa để đạt được các mục tiêu cao nhất trong cuộc sống.

• Lòng khoan dung

Bởi vì Phật giáo tôn trọng quyền của tất cả mọi người , quyền tự do và sự lựa chọn của riêng mình, khoan dung đối với các tôn giáo và lối sống khác.

Học sinh được học để sống hòa hợp với tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc hay tôn giáo.

• Yêu thương và lòng từ bi

Tất cả các sinh vật sống đều bình đẳng. Phổ loving- lòng tốt, (một cách tiếp cận nhẹ nhàng và ấm áp cho cuộc sống) cùng với một thái độ từ bi, là những cách chính mà Phật tử chấp nhận không chỉ con người mà còn tất cả các sinh vật khác. Tất cả các sinh vật sống, con người và động vật như nhau, chia sẻ cùng một môi trường - chúng ta đều là một phần của thế giới. Phật giáo dạy rằng nếu muốn sống hạnh phúc, chúng ta phải quan tâm đến hạnh phúc của các sinh vật khác.

• Phật giáo và Khoa học

Không có mâu thuẫn giữa những khám phá của khoa học, ngay cả trong thế giới công nghệ hiện đại ngày nay, và những giáo lý cổ xưa của Phật pháp.

Phật tử đồng ý rằng nhiều điều Ngài dạy về 2.500 năm trước thực sự được chứng minh bằng khoa học! Tầm quan trọng của sức

mạnh tâm trí, sự vô thường của sự vật - thậm chí đột phá mà dường như không thể tin vào khoa học như tính chia sẻ của các nguyên tử, tính tương đối của vật chất và năng lượng và cấu trúc của vũ trụ đều được giảng dạy bởi Đức Phật, ngay cả trước khi khoa học ra đời. Phật tử không bỏ qua các sự kiện mà khoa học dạy về nhân loại và vũ trụ, biết rằng suy nghĩ hiện đại thường có nguồn gốc cổ xưa.

Cách thức nghiên cứu ?

Các học sinh thiền sau giờ học văn hóa, nâng cao ý thức chánh niệm, cảm xúc tích cực, và nhận thức rõ ràng về các sự vật.

Thiền có nghĩa là phát triển chánh niệm, hay "tâm niệm." Tâm niệm biết về nơi chúng ta (trong thời khắc này), duy trì nhận thức về nơi mà chúng ta đã có (phản ánh) và chúng ta đang hướng tới (có mục tiêu ).

Chánh niệm có thể được xem như là việc thực hành "trong thời khắc này", chánh niệm nhận thức được những gì đang xảy ra tại thời gian và không gian hiện tại, trong hiểu biết của chúng ta, và điều này bao gồm bất kỳ suy nghĩ chúng ta làm gì về quá khứ hay tương lai. Phần lớn thời gian trải nghiệm của chúng ta không có khái niệm của nhận thức hay chánh niệm.

Thiền không phải là một hình thức cầu nguyện, trong đó chúng ta kêu gọi một cơ quan bên ngoài, nhưng một hình thức đào tạo bên trong, trong đó chúng ta tu luyện cách thức mới của sự sống. Trong thiền định chúng ta có ý thức trau dồi thói quen tinh thần tích cực.

Thiền hạn bao gồm nhiều kỹ thuật khác nhau để tạo điều kiện tương tác, trong số những thứ khác, trầm tĩnh, thư giãn, tập trung, yêu thương nhân ái, từ bi, tích cực,

Page 117: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

và cái nhìn sâu sắc vào bản chất vô thường và mối quan hệ củ chúng trong thực tại.

Trong thiền định, chúng ta sử dụng một số đối tượng gây chú ý từ bản thân. Chúng ta có thể sử dụng cảm giác của hơi thở, kết nối cảm xúc với chính mình và những người khác, cảm giác vật lý của cơ thể, âm thanh, hình dung trực quan.

Thiền Phật giáo được phân chia thành Shamatha và Vipashyana. Shamatha (Pali: Samatha) làm dịu tâm trí và giúp phát triển

sự tập trung và cảm xúc tích cực. Vipashyana (Pali: Vipassana) dựa trên sự bình tĩnh, tập trung, và cảm xúc tích cực được tạo ra trong Shamatha, giúp phát triển nhận thức về vô thường, tương tác lẫn nhau.

Đưa phương pháp thiền tĩnh lặng Shamatha vào khuôn khổ trường học trong đó nhấn mạnh việc học để an tâm, có cái nhìn sâu sắc, nhận thức đúng đắn về cuộc sống xung quanh.

5.4 Những công trình nghiên cứu liên ngành

Những lĩnh vực học tập cần thiết được nghiên cứu riêng rẽ hoặc theo một cách có liên kết. Phương pháp kết nối giúp sinh viên nhìn nhận các hiện tượng tương tự theo một cái nhìn đa chiều,

Từ phần này

Chương trình giảng dạy quốc gia công nhận tầm quan trọng của phương pháp kết nối trong quy hoạch và giao dịch các tiêu chuẩn học tập của mỗi lĩnh vực. Để hiệu ứng này, nó xác định và chỉ ra liên kết quan trọng giữa các tiêu chuẩn học tập của các sợi khác nhau. kết nối như vậy có nghĩa là để hỗ trợ giáo viên và các nhà quy hoạch trong các trường học để xem làm thế nào các khái niệm và kiến thức thu được trong việc đạt được một tiêu chuẩn học tập trong một sợi có thể xây dựng trên những gì là cần thiết để được giảng dạy trong một. Cách tiếp cận này có liên quan đến giảng dạy cũng hỗ trợ trong việc thực hiện các nghiên cứu cắt ngang chương trình đào tạo có ý

nghĩa ở mỗi cấp lớp về các chủ đề được lựa chọn. Mối liên kết liên ngành và nghiên cứu ngoại khóa chéo giúp quá trình dạy và học tập và tương tác bằng nhiều cách, bằng cách giúp:

• Để xây dựng một nền tảng vững chắc của việc học bằng cách nhìn vào kiến thức và liên quan theo những cách khác nhau.

• Cung cấp các cơ hội cho việc sử dụng các công cụ khác nhau, dụng cụ và các thí nghiệm và phân tích dữ liệu. Các sinh viên, do đó, sử dụng và thực hành các kỹ năng của họ qua các môn học.

• Để cho phép duy trì tốt hơn về kiến thức như các thông tin tương tự được xem trong nhiều cách khác nhau và trong những bối cảnh khác nhau.

• Để phục vụ cho sinh viên các khả năng khác nhau, vì họ có cơ hội để làm cho các kết nối theo cách phù hợp với họ.

Page 118: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

• Để cung cấp một cơ hội để tham gia vào các kỹ năng tư duy bậc cao hơn (giải quyết vấn đề, lý luận, tổng hợp và đánh giá) như các sinh viên áp dụng kiến thức đã học được trong một kỷ luật để giàn giáo học tập của mình trong một khu vực khác bằng cách làm cho các kết nối, việc tìm kiếm các mối quan hệ và xác định mô hình.

Các nghiên cứu cắt ngang chương trình đào tạo bắt buộc ở mỗi cấp lớp suốt chương trình học là một chiều hướng mới và thú vị trong chương trình giảng dạy quốc gia và sẽ hình thành tư tưởng cốt lõi trong hoạt động, hoạt động và tổ chức của nhà trường. Nó liên quan đến các ứng dụng của quá khứ và kiến thức hiện tại và sự hiểu biết của Elas và khắc sâu những giá trị và thái độ đối với việc nghiên cứu các chủ đề có liên quan đến lĩnh vực, bao gồm, nhưng không giới hạn, cuộc sống hiện đại và đương đại, môi trường địa phương, đời sống quốc gia và toàn cầu vấn đề. Các chủ đề được lựa chọn cho mỗi lớp được thực hiện thông qua các quan điểm khác nhau ELA ở một mức độ phát triển thích hợp.

Như một chiều kích của nghiên cứu sẽ giúp:

• Củng cố và tăng cường khả năng thiết yếu hình dung cho một công dân Bhutan.

• Rèn luyện các kỹ năng chéo khóa đó cũng được phát triển trong nghiên cứu của Elas như các kỹ năng cụ thể đối tượng.

• Tăng cường các giá trị và kỹ năng sống quan trọng đối với bản sắc và văn hóa của Bhutan.

• lồng bối cảnh kiến thức và sự hiểu biết của các sợi ELA.

• Tích hợp giảng dạy và giáo dục.

Khi nhóm sinh viên nghiên cứu một chủ đề từ nhiều góc độ khác nhau, họ phát triển các khía cạnh quan trọng của việc học của mình, đưa nó chặt chẽ hơn, như các khía cạnh bổ sung của Elas đến với nhau. Kỹ năng như làm việc theo nhóm, quản lý thời gian, công việc nghiên cứu, đổi mới, năng lực công nghệ được đưa đến mũi như là những giá trị như đạo đức, tôn trọng, đa văn hóa, trách nhiệm và thẩm mỹ. Dạy chương trình giảng dạy với sự nhấn mạnh về mối liên kết liên ngành chuẩn bị các sinh viên cho loại nghiên cứu này. Trường chọn chủ đề thích hợp với triết lý của nhà trường, chương trình giảng dạy và các địa điểm trường học và các loại. Khi lập kế hoạch lịch trình của trường, các chủ đề được đưa vào kế hoạch học tập và các giáo viên môn học tạo ra kế hoạch bài học, các hoạt động và học tập kinh nghiệm xung quanh các chủ đề. Một thời gian riêng biệt trong lịch trình hàng tuần của một trường dành cho sinh viên để phát triển công việc và tài liệu về chủ đề xuyên ngoại khóa được xác định cho từng cấp lớp.

Đề nghị chủ đề lớn để nghiên cứu ngoại khóa chéo, cùng với các ví dụ của các tiểu khái niệm nhúng trong họ, là:

• Y tế và Giáo dục an toàn sức khỏe; biết chữ y tế; thực phẩm và dinh dưỡng; giáo dục người tiêu dùng; an toàn và quản lý thiên tai; sức khỏe cộng đồng.

5.4.1

Page 119: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

• Quốc tịch-văn hóa và tôn giáo; kiến thức bản địa và văn hóa cho một tương lai bền vững; công dân và tỷ lệ cho công dân; quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng.

• Tính bền vững-phụ nữ và phát triển bền vững; nông nghiệp bền vững; du lịch bền vững; cộng đồng bền vững; tiêu thụ tài nguyên.

• nâng cao nhận thức hiểu biết đói trên thế giới toàn cầu; dân số và phát triển; khí hậu thay đổi; sa mạc hóa; cạn kiệt nước ngọt; bình đẳng, sự đa dạng và hòa nhập.

• Doanh nhân-tài chính, kinh tế, kinh doanh và văn hóa kinh doanh; tiếp thị; năng suất.

• Media chữ-in; phát thanh truyền hình; quyền được thông tin; đạo đức và báo chí; quảng cáo.

Truyền thông Literacy

Phương tiện truyền thông biết chữ có thể được định nghĩa là, "... khả năng truy cập, phân tích, đánh giá và tạo ra phương tiện truyền thông trong một loạt các hình thức." (Medialit.org) Media Literacy là một nỗ lực để cung cấp một nền tảng hiệu quả cho việc kiểm tra phương tiện truyền thông đại chúng. Nó đề với các khái niệm quan trọng của phương tiện truyền thông và các kỹ năng hoạt động như bộ lọc cho bất kỳ văn bản truyền thông, để cho phản ứng thông minh. Phương tiện truyền thông biết chữ trao quyền cho một xã hội biết chữ để kiểm soát nội dung truyền thông cũng như đóng góp vào sự phát triển của ngành công nghiệp truyền thông.

Tại sao dạy cho truyền thông biết chữ?

Bhutan là một trong những nước đang phát triển nhanh nhất trên thế giới. Với sự phát triển, ảnh hưởng toàn cầu là không thể

tránh khỏi. affluences hiện đại tại các nước phát triển đang ngày càng sẵn ở Bhutan. Truyền thông đại chúng là một nguồn thông tin từ mà khán giả biết chữ có thể học được rất nhiều. Điều quan trọng đối với tất cả Bhutan là, do đó, để đánh giá các loại khác nhau của các phương tiện truyền thông và lấy được lợi ích đầy đủ từ họ.

Truyền thông Literacy chuẩn bị mọi người được người sử dụng tốt hơn các phương tiện truyền thông cả trong đồng hóa truyền thông và tham gia vào nó. Những lý do cho Media Literacy ở nước ta là không có khác nhau từ những người khác và một số trong số đó là:

• Chúng ta đang sống trong một xã hội dựa trên thông tin.

• Media Literacy nhấn mạnh tư duy phê phán.

• phương tiện truyền thông Là biết chữ là một phần của là một công dân giáo dục.

• Media Literacy thúc đẩy sự tham gia tích cực trong một môi trường truyền thông bão hòa.

• Media Literacy giúp sự hiểu biết về công nghệ thông tin liên lạc.

Mục tiêu

Truyền thông giáo trình Literacy trang bị cho sinh viên:

tôi. Hiểu phương tiện truyền thông và cách truyền thông Literacy chuẩn bị cho họ vào sống trong một xã hội thông tin dựa.

ii. Xác định các nguồn phương tiện truyền thông khác nhau, phê bình phân tích và phản ánh văn bản phương tiện truyền thông khác nhau.

Page 120: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

iii. Hiểu được các kỹ thuật và công nghệ được sử dụng trong phương tiện truyền thông, các cách thức hoạt động, và có được các kỹ năng sử dụng các phương tiện truyền thông để giao tiếp với người khác.

iv. Giải thích các thông điệp và các giá trị được cung cấp bởi phương tiện truyền thông và chọn phương tiện truyền thông thích hợp để truyền đạt thông điệp của họ dựa trên bối cảnh chính trị, xã hội, thương mại và văn hóa của họ.

v. Trở thành người tiêu dùng quan trọng của phương tiện truyền thông và các phương tiện truyền thông các sản phẩm công nghiệp liên quan.

Nâng cao, thông qua nghiên cứu cắt ngang chương trình đào tạo như vậy, là:

• kỹ năng tư duy và giải quyết các vấn đề quan trọng và chức năng cho phép chủ động điều tra, ra quyết định, và áp dụng các phương pháp khoa học và kỹ thuật để xác định và mô tả các vấn đề và tìm ra giải pháp và đánh giá chúng.

• Kỹ năng thông tin, truyền thông và năng lực công nghệ để có thể quản lý, đánh giá, phân tích và truy cập thông tin và truyền thông.

• Sáng tạo và đổi mới kỹ năng mà có cái nhìn dài hạn về phát triển, với những ý tưởng và sản phẩm của các quan điểm đa dạng, độc đáo và sáng tạo mới.

• Kỹ năng giao tiếp và cộng tác thông qua khớp nối rõ ràng, lắng nghe hiệu quả, chia sẻ trách nhiệm và tinh thần đồng đội.

• Cuộc đời và sự nghiệp của kỹ năng, bao gồm cả khả năng thích ứng, chủ động, tự định hướng, lãnh đạo, trách nhiệm giải trình, trách nhiệm, năng suất và kỹ năng xã hội và giao lưu văn hóa.

liên kết liên ngành trong những năm học đầu đạt được thông qua các nghiên cứu chuyên đề cho phép kết nối và liên quan hiểu biết để phát triển. Ví dụ, những chủ đề 'Nước', 'Air' và 'Gia đình' liên kết với hầu hết nếu không phải tất cả các sợi ELA và nghiên cứu về những dựa trên rất nhiều các kỹ năng ngoại khóa chéo. những hiểu biết quan trọng của các ngành khác nhau được kết hợp lại dưới một chủ đề trung tâm phản ánh mục tiêu giáo dục rộng lớn và thách thức. Phương pháp này làm cho việc học có liên quan và áp dụng, như các sinh viên nhận hiện tượng trong môi trường mà người đó nhìn thấy nó.

Điều tương tự cũng có thể đạt được ở các lớp cao hơn bằng cách nghiên cứu độc lập của các lĩnh vực học tập khác nhau và những hiểu biết liên quan của họ cùng với tạo ra các kết nối thông qua chương trình. Điều này đòi hỏi kế hoạch của chương trình giảng dạy của nhà trường để tạo điều kiện liên connectedness khi chương trình đang được giao dịch. Ví dụ, việc nghiên cứu quy mô lớn trong toán học và bản đồ về địa lý phải đi tay trong tay để sự hiểu biết của một giúp trong việc tìm hiểu các khác. điều phối viên chủ đề và các giáo viên có trách nhiệm để đảm bảo tiến độ trong và giữa các đối

5.4.2 Cụm liên kết Liên ngành

Page 121: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

tượng trong việc đưa ra các mối liên kết liên ngành.

Khi học sinh tiến đến lớp cao hơn, họ kết nối mới học tập những kinh nghiệm trước đó và việc học để tạo điều kiện áp dụng, duy trì và chuyển giao kiến thức thông qua các mối liên kết liên ngành của nghiên cứu. Những mối liên kết tạo thành nền tảng cho các nghiên cứu chéo khóa, ví dụ, trong các vấn đề địa phương và toàn cầu. Các sinh viên được giúp đỡ để hiểu các mảng của các hiện tượng đó có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp về vấn đề này đang được nghiên cứu. Một ví dụ có thể là các tác động môi trường, xã hội và kinh tế của một phát triển nhà ở mới trong một khu vực nông nghiệp nghèo và trong một khu vực canh tác hiệu quả.

Thông qua liên kết liên ngành và nghiên cứu ngoại khóa chéo, các sinh viên vẽ trên cách tiếp cận và lĩnh vực khác nhau để có được kiến thức, đạt được động lực để tự học và phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn và lâu dài hơn của khái niệm mà họ có thể áp dụng trong các tình huống thực tế cuộc sống.

Các tiêu chuẩn học tập của các lĩnh vực học tập thiết yếu mô tả các kiến thức cụ thể, kỹ năng và mô hình hành vi học sinh nên mua và sử dụng trong quá trình học tập của mình. Những kỹ năng mà tập trung vào làm cho sinh viên học hỏi suốt đời và phải đưa vào chương trình giảng dạy và thực hành trong chương trình hoạt động thường xuyên của mỗi trường. Ngoài ra, 21

sinh viên thế kỷ cần phải được trang bị những kỹ năng để đối phó với một thế giới toàn cầu hóa mở rộng bao giờ mang lại cho họ mặt đối mặt với những cơ hội mới và đầy thử thách. Các tiêu chuẩn học tập trong NCF cung cấp phạm vi cho chủ của khu vực thu nhập cần thiết cũng như có được những kỹ năng này góp phần vào sự thành công trong cuộc sống hiện đại như: kỹ năng sống, học tập và kỹ năng sáng tạo, thông tin, truyền thông và kỹ năng kỹ thuật. Nó tập hợp các nội dung liên quan chặt chẽ và thế giới thực.

Trong bối cảnh của khu vực học tập thiết yếu, học sinh tìm hiểu và tiếp thu các kỹ năng thế kỷ 21 để thành công trong thế giới ngày nay, chẳng hạn như tư duy phê phán, giải quyết vấn đề, giao tiếp và hợp tác. Nó tập trung vào các kỹ năng nhận thức cũng như những người trong lĩnh vực tình cảm và thẩm mỹ. Nó đáp ứng nhu cầu của con người và của xã hội như một toàn thể.

Sau khuôn khổ các kỹ năng thế kỷ 21 21 nhấn mạnh rằng các kỹ năng được tích hợp trong các môn học với một mức độ lớn và cụ thể hơn giải quyết trong khi thiết kế chủ đề xuyên ngoại khóa ở độ tuổi mức độ phù hợp trong các trường học. hệ thống quan trọng phải được đưa ra để đảm bảo sinh viên nắm vững các kỹ năng thế kỷ 21. Các tiêu chuẩn học tập, chương trình giảng dạy và hướng dẫn, đánh giá, phát triển nghề nghiệp và môi trường học tập phải phù hợp để sản xuất một hệ thống hỗ trợ sản xuất kết quả thế kỷ 21 cho sinh viên ngày nay.

Các tiêu chuẩn học tập nên tập trung vào các kỹ năng cụ thể, đảm bảo rằng các sinh viên biết lý do tại sao một chủ đề cụ thể có liên quan và thúc đẩy sự tham gia sâu hơn với những môn cơ thông qua phân tích và tổng hợp, không chỉ đơn thuần mô tả hoặc ghi nhớ sự kiện.

5.4.3 Những kỹ năng của thế kỷ 21

Page 122: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Các chương trình đào tạo phải cung cấp cơ hội cho học sinh tham gia với các dữ liệu thực tế, các công cụ, và các chuyên gia họ sẽ gặp phải ở trường đại học, trong công việc và trong cuộc sống. Phải xây dựng sự hiểu biết giữa các ngành thông qua các chủ đề của thế kỷ 21.

Đánh giá nên cho phép nhiều biện pháp chủ khác nhau, từ các bài kiểm tra tiêu chuẩn hóa để technology- nâng cao, lớp học và hiệu suất 21 Được chuyển thể từ tác cho 21 kỹ năng thế kỷ, năm 2009.

đánh giá dựa. Nó phải chẩn đoán nơi các sinh viên cần sự can thiệp về kỹ năng thế kỷ 21, đo lường hiệu quả của hệ thống trong giảng dạy các kỹ năng, và tạo cơ hội cho học sinh để chứng minh kỹ năng của mình cho các tổ chức giáo dục và nhà tuyển dụng tiềm năng. Điều quan trọng là sử dụng trách nhiệm như một chỉ số tiến bộ, chứ không phải là một hệ thống các biện pháp trừng phạt, để hướng dẫn cải thiện hệ thống của các sinh viên, giáo viên và các trường học.

Mạnh mẽ các cơ hội phát triển nghề nghiệp là rất cần thiết cho một hệ thống giáo dục thế kỷ 21. lập kế hoạch giáo dục của Bhutan phải bao gồm các cộng đồng chuyên nghiệp học tập giữa các giáo viên, lãnh đạo nhà trường, gia đình và các bên liên quan khác để thúc đẩy quá trình thay đổi và cung cấp một môi trường cho người lớn để trải nghiệm học tập thế kỷ 21 tận

mắt. Hệ thống sẽ phải hỗ trợ các cộng đồng học tập chuyên nghiệp cho phép các nhà giáo dục cộng tác, chia sẻ kinh nghiệm, và tích hợp các kỹ năng thế kỷ 21 vào thực hành trong lớp. Một vai trò quan trọng đối với các nhà lãnh đạo thế kỷ 21, được thiết lập một văn hoá lãnh đạo chia sẻ, mối quan hệ cao đẳng, và hỗ trợ cho sự thay đổi mang tính xây dựng và đa dạng. một khí hậu như khuyến khích sự phát triển chuyên nghiệp của các nhà giáo dục, từ đó nâng cao thành tích học sinh.

môi trường học tập thế kỷ 21 là hệ thống hỗ trợ mà tổ chức các điều kiện trong đó con người học tốt nhất - hệ thống đáp ứng nhu cầu học tập độc đáo của mỗi người học và hỗ trợ các mối quan hệ con người tích cực cần thiết cho việc học tập hiệu quả. môi trường học tập là các cấu trúc, các công cụ, và các cộng đồng truyền cảm hứng cho sinh viên và các nhà giáo dục để đạt được những kiến thức và kỹ năng ứng nhu cầu thế kỷ 21 của tất cả chúng ta.

Một môi trường học tập hỗ trợ cần cung cấp tiếp cận công bằng các công cụ học tập chất lượng, công nghệ và nguồn lực, và thiết kế kiến trúc và nội thất cho nhóm, đội, và học tập cá nhân. Nó sẽ hỗ trợ cộng đồng trương nở và sự tham gia quốc tế trong học tập, cả hai mặt-đối-mặt và trên đường dây.

Các kỹ năng thế kỷ 21 được tổ chức như sau:

Page 123: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Các kỹ năng học tập và đổi mối tư duySáng tạo và đổi mới tư duy, có cái nhìn khách quan trong việc nhìn nhận và giải quyết vấn đềTruyền thông và hợp tác

Các kỹ năng công nghệ thông tin và truyền thông đại chúngPhổ cập thông tinPhổ cập truyền thông đại chúngPhổ cập công nghệ thông tin và truyền thông đại chúng (ICT)

Kỹ năng sống và nghề nghiệpSự linh hoạt và khả năng thích ứngSự sáng tạo và khả năng tự định hướngCác kỹ năng xã hội và xuyên văn hóaNăng suất và nghĩa vụLãnh đạo và tinh thần trách nhiệm

T hế kỷ 21

Sáng tạo và đổi mớiCá nhân sáng tạo là những người có những kỹ năng để hình dung thế giới như là một nơi tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người; có kỹ năng trí tuệ phân tích để

đánh giá tầm nhìn của họ và của những người khác; có kỹ năng trí tuệ thực tế để thực hiện tầm nhìn của họ và thuyết phục mọi người về giá trị của nó; và đã phát triển trí tuệ để đảm bảo rằng tầm nhìn của họ không phải là một người ích kỷ. tư duy sáng tạo có khả năng châm ngòi cho những ý tưởng mới và đạt được những triển vọng mới.

5.4.3.1 Các kỹ năng học tập và đổi mới tư duy

Page 124: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Đổi mới giữ cho tia lửa sáng tạo sống và làm cho nó hữu ích cho thế giới rộng lớn hơn bằng cách vẽ trên thực hành chuyên môn, chẳng hạn như sao chép và phân phối, và phổ biến thông tin về các đối tượng của sáng tạo. Sáng tạo đòi hỏi kiến thức, kỹ năng, và kỷ luật. Nhưng đổi mới đòi hỏi phải có khả năng thích ứng, lãnh đạo, làm việc nhóm và kỹ năng giao tiếp.

Tư duy phê phán và giải quyết vấn đề

Tư duy phê phán là một kỹ năng cần thiết bên ngoài lớp học, quá. Trong một đất nước dân chủ, dân phải là hoạt động quan trọng nhà tư tưởng để "so sánh chứng cứ, đánh giá tuyên bố chủ quyền, và đưa ra quyết định hợp lý." Hai mươi thế kỷ đầu tiên công dân đang phải đối mặt với những thách thức của việc lựa chọn các thông tin có liên quan về sức khỏe, ngay cả hoạt động giải trí tài chính, dân sự để xây dựng kế hoạch thực tế của hành động. Tư duy phê phán xây dựng từ bi, người dân vùng sâu, suy nghĩ, đảm bảo các quyết định được thực hiện chánh niệm.

Giải quyết vấn đề là quá trình áp dụng phương pháp xác định và mô tả một vấn đề, tạo ra các giải pháp tiềm năng, và thực hiện, giám sát và đánh giá hiệu quả của các can thiệp được chọn.

Truyền thông và hợp tác

Khi một cá nhân có được khả năng để bày tỏ suy nghĩ rõ ràng, ý kiến rõ, giao tiếp mạch lạc, nắm bắt được sự chú ý và tạo động lực cho người khác thông qua / bài phát biểu của mình, người đó sẽ được đánh giá cao tại nơi làm việc và trong đời sống công cộng.

Kỹ năng giao tiếp là đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế dịch vụ đang mở rộng

- Nơi các mối quan hệ với khách hàng và đồng nghiệp có tầm quan trọng sống còn.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những sinh viên có khả năng hợp tác với nhau cho thấy sự gia tăng đáng kể trong thành tích học tập, lòng tự trọng, và các kỹ năng xã hội tích cực.

Thế kỷ 21 đòi hỏi kỹ năng và khả năng mà sẽ cho phép công dân hoạt động trong một thế giới ngày càng công nghệ.

Thế giới mới đòi hỏi khả năng 1) truy cập thông tin một cách hiệu quả và hiệu quả, 2) đánh giá thông tin cực kỳ quan và thành thạo, và 3) sử dụng thông tin một cách chính xác và sáng tạo.

Phổ cập công nghệ thông tin cho phép người học hiểu và đánh giá dữ liệu, và dịch nó thành kiến thức và thông tin có ý nghĩa và hữu ích.

Đó là một thực tế là phương tiện truyền thông định hình cách thức con người suy nghĩ và hành động dựa trên một cơ sở hàng ngày. Do đó, Bhutan cần nhận thức truyền thông, khả năng "truy cập, phân tích, đánh giá và tạo ra các thông điệp trong một loạt các hình thức, sự hiểu biết về vai trò của truyền thông trong xã hội, cũng như các kỹ năng cần thiết của cuộc điều tra và tự thể hiện cần thiết cho công dân của một nền dân chủ. "

5.4.3.2 Kỹ năng công nghệ tin và truyền thông đại chúng

Page 125: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Do đó điều quan trọng là tất cả các công dân Bhutan là phương tiện truyền thông biết chữ và có khả năng phân tích, phản ánh, tạo tin nhắn để tự thể hiện và gây ảnh hưởng và thông báo cho những người khác.

thông tin truyền thông và công nghệ (ICT) biết chữ gắn liền với việc sử dụng khéo léo các nguồn tài nguyên thông tin, do một người ICT biết chữ trôi chảy có thể làm chủ công nghệ mới để nâng cao công việc của mình và cuộc sống cá nhân. Câu hỏi đặt ra là, làm thế nào để học sinh biết sử dụng công nghệ để giải quyết vấn đề, phân tích, giao tiếp và cộng tác hiệu quả?

Những tiến bộ trong công nghệ thông tin và truyền thông đòi hỏi một hình thức mới của kiến thức và kỹ năng - "khả năng sử dụng không chỉ công nghệ hiện nay, nhưng có đủ khéo léo để tìm hiểu và thích ứng với công nghệ của ngày mai, nói cách khác, là công nghệ thông tin biết chữ."

Nếu thanh niên Bhutan phải sống một cuộc sống thành công, sau đó bên cạnh các kỹ năng học tập và nhận thức, họ cũng cần những kỹ năng sau:

• Tính linh hoạt và khả năng thích ứng

• Sáng kiến và tự định hướng

• kỹ năng xã hội và Cross-văn hóa

• Năng suất và trách nhiệm

• Lãnh đạo và trách nhiệm

Trong thế giới toàn cầu hóa này, người trẻ tuổi sẽ bị buộc phải "làm việc và học hỏi từ các nhóm đa dạng, linh hoạt trong một loạt các công việc xã hội và cài đặt, và có khả năng thích nghi với sự thay đổi thời gian. Họ cần chứng tỏ sự lãnh đạo và chịu trách nhiệm về kết quả, sáng kiến chương trình và tháo vát, và được sản xuất và chịu trách nhiệm cho hành động của họ "Howard Gardner về nó như là" tâm tôn trọng. "- Một trong đó là thẩm quyền về văn hóa - và" tâm đạo đức "- một trong đó là trách nhiệm và đáng tin cậy - trong năm tâm trí của mình cho tương lai.

Theo một cuộc khảo sát nghiên cứu các kỹ năng áp dụng của tính chuyên nghiệp nguyên tắc làm việc và làm việc theo nhóm /cộng tác là một trong số bốn kỹ năng đánh giá quan trọng nhất của nhà tuyển dụng. Daniel Goleman gọi đó là trí tuệ cảm xúc và nghiên cứu về các chương trình xóa mù chữ tình cảm tác động chương trình "tác động tích cực của nó đối với sinh viên, chẳng hạn như giảm hành vi bạo lực và gây rối, tự kiểm soát tốt hơn, năng suất nâng cao, và tương tác hài hòa hơn giữa các học sinh và giáo viên." Như vậy, tính chuyên nghiệp, đạo đức làm việc, và làm việc theo nhóm / hợp tác thúc đẩy hành vi dẫn đến việc học sâu hơn và thành tựu lớn hơn.

5.4.3.2 Kỹ năng sống và nghề nghiệp

Page 126: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

5.5 Ngôn ngữ giảng dạy

Bhutan được cam kết vào việc bảo tồn và phát triển của khảm đa văn hóa và đa ngôn ngữ của nó, dựa trên các cấu trúc xã hội bình đẳng và tôn trọng sự đa dạng. Đây là trọn vẹn liên quan đến mục tiêu được thừa nhận của mình trong việc thúc đẩy hạnh phúc của con người. Trong xã hội nào, việc duy trì diversity- văn hóa và ngôn ngữ, phụ thuộc phần lớn vào cách hệ thống giáo dục được tổ chức. Vì vậy, một chính sách rõ ràng ngôn ngữ trong giáo dục là điều cần thiết cho Bhutan.

Có một nhu cầu về tiêu chuẩn của Dzongkha qua sử dụng rộng rãi của nó trong giáo dục và bồi dưỡng thông qua các liên kết tích cực với các ngôn ngữ khác để giống ngôn ngữ và ngôn ngữ khác nhau nhà mình có thể được phát triển trong khi tăng cường Dzongkha. Tuy nhiên, bên cạnh việc tìm cách phát triển Dzongkha dựa trên ngôn ngữ nhà, các chính sách quốc gia cho

Page 127: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

các ngôn ngữ trong giáo dục ở Bhutan cũng phải đáp ứng các yêu cầu của một thế giới toàn cầu hóa bằng cách giúp các thế hệ trẻ được giáo dục phát triển năng lực đầy đủ trong một ngôn ngữ giao tiếp quốc tế rộng lớn hơn như vậy như tiếng Anh. Như vậy, giáo dục ở Bhutan phải là đa ngôn ngữ, tìm cách phát triển năng lực trong Dzongkha, dựa trên nền tảng của ngôn ngữ nhà và tiếng Anh. Các chính sách và thực hành ngôn ngữ trong giáo dục ở Bhutan phải công nhận xoắn ốc quan trọng của kỹ năng ngôn ngữ để đa ngôn ngữ của nó vẫn còn phụ.

Trong một mô hình phụ của giáo dục đa ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ để học tập và giảng dạy được đặt trong một cách để họ làm giàu cho nhau hơn là có một ngôn ngữ chính được học tại các chi phí của các ngôn ngữ nhà. Do đó, gia đình và cộng đồng ngôn ngữ (trong tất cả các trường hợp là khác nhau từ Dzongkha), Dzongkha như một ngôn ngữ và văn hóa quốc gia và tiếng Anh như một ngôn ngữ quốc tế về cơ hội cần phải được thực hiện như là thành phần tối thiểu của việc lập kế hoạch ngôn ngữ cho giáo dục.

Tóm lại, mục tiêu ngôn ngữ trong giáo dục của Bhutan là một mức độ cao của chữ và năng lực học thuật (nói, sự hiểu biết / nghe, đọc và viết) trong Dzongkha và tiếng Anh vào cuối của giáo dục tiểu học (dựa trên một nền tảng vững chắc của sự phát triển sớm của mức cao năng lực giao tiếp trong gia đình và cộng đồng ngôn ngữ) và năng lực mạnh mẽ trong tiếng Anh theo lớp 10.

Một phụ và xoắn ốc cách tiếp cận ngôn ngữ cho học tập và giảng dạy

Việc giáo dục và phát triển khái niệm của trẻ em cần phải được xem như là một sự tương tác hiệu quả giữa các khái niệm hàng ngày tự phát bắt nguồn từ kinh nghiệm văn hóa của họ và hệ thống có cấu trúc của các khái niệm khoa học, mà trường tìm kiếm để thúc đẩy.

Xây dựng liên kết hiệu quả giữa kinh nghiệm hàng ngày của trẻ em và học tập lớp học là một thách thức lớn đối với chất lượng giáo dục. Bởi vì trải nghiệm văn hóa của trẻ em được ngôn ngữ mã hóa, ngôn ngữ của họ vẫn còn liên kết trung gian quan trọng đối với nhà hiệu quả để chuyển trường.

Sơ sinh đến 4 tuổi: kỹ năng cho trẻ em cơ bản giữa các cá nhân giao tiếp (BIC) hoặc thẩm quyền của mình trong giao tiếp xã hội trong ngôn ngữ của họ phải được xem như là một nền tảng cho sự phát triển của ngôn ngữ cho mục đích lớp học và cho các cấp cao hơn của hoạt động học thuật phức tạp và nhận thức đòi hỏi khắt khe. năm học sớm sẽ được thực hiện như là một quá trình vận động từ các kỹ năng giao tiếp xã hội (BIC) để nhận thức học thuật thành thạo ngôn ngữ (CALP). phong trào như vậy từ các kỹ năng ngôn ngữ tự phát sớm để ngôn ngữ chính thức cho việc học tập trên lớp đòi hỏi phải kích thích bằng ngôn ngữ nhà trong những năm trước khi đến trường. Đối với trẻ em mà ngôn ngữ không phải là nhà Dzongkha, nó là cần thiết để phát triển năng lực giao tiếp đàm thoại và truyền miệng trong Dzongkha. Điều này đòi hỏi các chương trình chính thức và cấu trúc như là một phần của sáng kiến ECCD để cung cấp đầu vào tiếng Dzongkha có hệ thống và đặt con trẻ vào những câu chuyện, giai điệu và bài hát trong Dzongkha mỗi ngày cho sự phát triển của lưu loát và kỹ năng đọc trước. Các chương trình của Dzongkha phát triển trôi chảy đàm thoại có thể tiếp tục, cùng với việc chú trọng vào phát triển năng lực miệng bằng ngôn ngữ nhà, để phát triển tài năng song ngữ ở trẻ em.

Page 128: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

KG 1 và 2: Trọng tâm phải là một phong trào dần dần từ các kỹ năng ngôn ngữ nhà để Dzongkha như một ngôn ngữ để hướng dẫn học chữ từ nhỏ. Các phương pháp tiếp cận cho Dzongkha như một ngôn ngữ thứ nhất và như một ngôn ngữ thứ hai sẽ khác nhau. Đối với người học Dzongkha như một ngôn ngữ thứ hai, điểm nhấn trong KG I và II KG sẽ là liên kết các ngôn ngữ nhà để Dzongkha bằng cách nhấn mạnh những điểm tương đồng về cấu trúc và văn hóa của mỗi người và của một kế hoạch phát triển năng lực song ngữ. Điều này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của CALP trong cả hai ngôn ngữ, dựa trên sự phát triển sớm về kỹ năng giao tiếp xã hội hoặc BIC. Đối với việc mua lại của Dzongkha như một ngôn ngữ thứ nhất (L1), phong trào từ BIC để CALP được hỗ trợ bởi việc sử dụng chính thức của các kỹ năng ngôn ngữ nói cho các hoạt động trong lớp học, khuyến khích trẻ em sử dụng thành thạo ngôn ngữ của họ để suy nghĩ, giải quyết vấn đề- và hoạt động sáng tạo. Đối với cả hai nhóm, đó là, cho các học viên của Dzongkha như một đầu và một ngôn ngữ thứ hai, hoạt động ngôn ngữ lớp học có thể nhắm mục tiêu phát triển một nhận thức tỉnh táo của sự đa dạng về ngôn ngữ và các mối quan hệ và tương đồng trong và giữa các ngôn ngữ. Điều này có lợi bởi vì phát triển meta-ngôn ngữ được biết để tạo điều kiện mua lại của các ngôn ngữ khác như tiếng Anh và để thúc đẩy phát triển nhận thức. Kinh nghiệm học mức kindergarten- của trẻ em cũng có thể được sử dụng để phát triển lưu loát bằng tiếng Anh đàm thoại, đặt sang một bên ít nhất một giờ thời gian học cho sự phát triển của lực bằng miệng. Do đó, nó được khuyến khích là KG I và II năm học được sử dụng để phát triển Dzongkha biết chữ và thúc đẩy mức độ phù hợp đầy đủ và grade- về trình độ nhận thức và học tập ở trẻ em, cùng với sự phát triển của một số tiếng Anh cơ bản.

Cấp tiểu học (lớp 1- Iớp 3) sẽ tập trung vào việc phát triển sự hiểu biết về khái niệm cơ bản, dựa trên kinh nghiệm văn hóa của trẻ em và nhận thức hàng ngày. Phong trào từ những kỹ năng giao tiếp xã hội để tập trung phát triển và lớp học hoạt động nhận thức học tập tốt nhất là đẩy mạnh trong Dzongkha như một ngôn ngữ quen thuộc của văn hóa và ngôn ngữ mà CALP đã được phát triển thông qua các sáng kiến và các chương trình ECCD KG cấp. sự hiểu biết ban đầu của trẻ em của

môi trường văn hóa-xã hội và các khái niệm khoa học, toán học và môi trường hiện nay trong kinh nghiệm hàng ngày của họ là nền tảng cho việc học tập học trong toán học, ngôn ngữ và nghiên cứu môi trường. Một nền tảng vững chắc trong Elas được phát huy tốt nhất thông qua một ngôn ngữ quen thuộc của văn hóa sớm. Do đó, nó được khuyến khích rằng ngôn ngữ của năm tiểu học đầu giảng dạy và học tập sẽ Dzongkha, với tiếng Anh như một môn học cho sự phát triển của lưu loát đàm thoại, trình độ nhận thức và học thuật, và các kỹ năng đọc và viết trong ngôn ngữ.

Từ Lớp 4, Dzongkha và tiếng Anh có thể được tiếp tục như ngôn ngữ kép của việc học tập và giảng dạy, trong đó việc sử dụng các Dzongkha như ngôn ngữ giảng dạy sẽ được thay thế bằng tiếng Anh.

Kế hoạch này của quá trình chuyển đổi từ ngôn ngữ nhà để Dzongkha để tiếng Anh có thể được xem như là một sự cân bằng vàng giữa các mục tiêu của bản sắc đa văn hóa, đa ngôn ngữ thẩm quyền và chất lượng học tập tiếng Anh cùng với mức độ cao thành tích học tập. Điều này sẽ cung cấp động lực cho sự phát triển của Dzongkha như một ngôn ngữ quốc gia và cho

Page 129: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

phép trẻ em để học tập học và chất lượng học tập có thẩm quyền của tiếng Anh như một ngôn ngữ toàn cầu của cơ hội. Dzongkha tiếp tục là một chủ đề học lên đến lớp XII. Các nghiên cứu về ngôn ngữ Dzongkha và văn học có thể được thúc đẩy hơn nữa trong giáo dục đại học cấp.

Page 130: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Phần 6: Điều kiện Cho phép: khối kiến tạo để hỗ trợ học tập

6.1 Giới thiệu

Điều kiện cho phép là các tính năng của nhà trường tạo điều kiện cho giảng dạy và học tập có hiệu quả. Những điều kiện hỗ trợ các yếu tố thiết kế để giúp một trường học chuyển đổi phát triển các cách tiếp cận toàn diện và hiệu quả học. Điều kiện thuận lợi cho phép cung cấp một bối cảnh trong đó yếu tố đầu vào dẫn đến hiệu quả giảng dạy và học tập; điều kiện bất lợi làm giảm hiệu quả của việc dạy và học. Hiệu quả quản lý, tổ chức và lãnh đạo là cân nhắc quan trọng, như là lực lượng giảng dạy, tổ chức giảng dạy, chương trình đào tạo và phân bổ thời gian. Ngoài những yếu tố này có môi trường vật lý của trường, mức độ mà nhà trường đã tạo ra hoàn cảnh  nuôi dưỡng và đánh giá thành tích học tập, cũng như sự phát triển của trẻ em.

Một hướng dẫn sử dụng bao gồm các yếu tố này nên được thiết kế để cho phép các trường học để đạt được các tiêu chuẩn cao về hiệu suất. Các yếu tố cụ thể để xem xét là :

Lãnh đạo nhà trường: Nâng cao kỹ năng chuyên môn và quản lý của lãnh đạo nhà trường, để tăng cường quy hoạch và quản lý giao dịch chương trình giảng dạy tại trường.

Môi trường học tập: Tạo ra một môi trường học tập chất lượng cao mà được hỗ trợ học tập, lành mạnh và hợp vệ sinh, có chính sách đảm bảo an toàn và bảo mật và chính sách phái tính.

Phát triển giáo viên: Việc tuyển dụng giáo viên có năng lực, thái độ và giá trị cần thiết để nâng cao thành tích học tập học sinh của mình, và cung cấp hỗ trợ cho giáo viên thông qua việc chuẩn bị một cách chuyên nghiệp ở giai đoạn đầu, tiếp tục các cơ hội phát triển nghề nghiệp cho nâng cấp định kỳ các kỹ năng và hiệu suất, và giữ cho sự phát triển mới ngang nhau trong lĩnh vực chuyên môn cụ thể cũng như trong phương pháp sư phạm.

Đánh giá và thẩm định: phát triển một khuôn khổ của đánh giá toàn diện mà qua đó có sự kết hợp áp dụng đánh giá chẩn đoán, đánh giá kết quả và quá trình.

Multi-lớp giảng dạy: Bố trí tốt, trường học đa lớp với lớp học "chương trình", giáo viên được đào tạo tốt, những người có thái độ tích cực để giảng dạy ở các trường lớp đa, và cơ sở hạ tầng cũng có nguồn lực và hỗ trợ.

Học bao gồm: Tạo ra một môi trường văn hóa toàn diện, với các chính sách và thực tiễn sẽ đáp ứng đầy đủ sự đa dạng các nhu cầu của người học.

Công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục: giới thiệu về việc sử dụng các công nghệ giáo dục, bao gồm ITC, là một phần của chương trình giảng dạy, nâng cao quá trình giảng dạy/học tập.

Quan hệ đối tác: Thiết lập hoặc củng cố các cơ chế cần thiết để thúc đẩyquan hệ hợp tác và phối hợp hiệu quả giữa tất cả các bên liên quan, bao gồm cả các cấp chính quyền, cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân.

o Đảm bảo huy động các nguồn lực và phương pháp phối hợp với sự phát triển và thực hiện các biện pháp can thiệp và mở rộng tiếp cận với các cơ hội học tập

Page 131: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

chất lượng cho tất cả trẻ em.o Thúc đẩy cách tiếp cận liên ngành để đảm bảo rằng các can thiệp trong các lĩnh

vực khác giúp đạt được kết quả giáo dục quan trọng.o Sự tham gia của các bậc cha mẹ và cộng đồng trong các quyết định ảnh hưởng

đến hành vi của đời sống học đường.o Bảo đảm quan hệ đối tác cộng đồng trường có hỗ trợ cải thiện môi trường học

tập tại các trường học Quản lý và lập kế hoạch giáo dục

o Làm cho có sẵn đủ điều kiện và huấn luyện các nhà lập kế hoạch giáo dục và quản trị viên ở các cấp độ quan trọng của hệ thống giáo dục, để tạo thuận lợi cho sự phát triển, thực hiện và giám sát các kế hoạch và chương trình để mở rộng tiếp cận giáo dục và chất lượng.

o Việc áp dụng mô hình quản lý hiệu suất cao để xem xét lại vai trò và hoạt động thực tiễn của các nhà quản lý và quy hoạch. Theo các mô hình này trường mình có được quyền tự chủ nhiều hơn, kết hợp với các trách nhiệm nhiều hơn cho kết quả, nhiều phần thưởng lớn hơn cho sự thành công, và các hậu quả có ý nghĩa nhiều hơn cho sự thất bại.

o Việc áp dụng một cách tiếp cận có sự tham gia của các hiệu trưởng, giáo viên, phụ huynh và sinh viên đang tham gia vào các quyết định và thực hiện trong trường học.

Lãnh đạo sinh viêno Cung cấp một nền tảng của sự phát triển lãnh đạo của sinh viên như một đại lộ

của sự phát triển nhân vật và một cầu nối giữa các quản lý trường học và học sinh.

o Xác định và phát triển các nhà lãnh đạo trẻ thông qua trại, hội thảo và các hoạt động làm giàu và cung cấp cơ hội để lãnh đạo.

o Thành lập hội đồng sinh viên và gán vai trò cũng như  trách nhiệm để chăm sóc cho phúc lợi chung của sinh viên

6.2 Lãnh Đạo Trường

Khuôn khổ lãnh đạo trường học là một phương tiện mà qua đó các nhà lãnh đạo trường có thể khám phá và hiểu bản chất của lãnh đạo và những tác động mà nó có cho công việc của họ. Nếu không có cá nhân, có là không có cải thiện trường. Ở Bhutan, điều quan trọng là để có một hình thức phân phối của lãnh đạo, trong đó trọng tâm là những người chỉ kích hoạt các hành động hợp tác hướng tới mục tiêu chung, và cho phép lãnh đạo để phát sinh tự nhiên, và để vượt qua giữa một người và khác như tình hình thay đổi. Tập trung chủ yếu không phải chỉ là về kế hoạch chiến lược nhưng, thay vào đó, lựa chọn những người tốt nhất và cung cấp về các điều kiện cho những đóng góp của họ. Một lãnh đạo mạnh mẽ ở Bhutan phải đảm bảo nhận được đúng người để trở thành hiệu trưởng, phát triển kỹ năng lãnh đạo giảng dạy của họ và họ được đào tạo chuyên sâu để làm công việc của họ tốt. Trong bối cảnh này, đó là cần phải phát triển một khuôn khổ toàn diện sẽ đào tạo những người đứng đầu trường cho vai trò lãnh đạo và quản lý. Hệ thống Bhutan giáo dục sẽ có thay đổi ở cấp độ khác nhau và trong các lĩnh vực khác nhau như đã đề cập dưới đây.

Page 132: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Hồ sơ của một Hiệu trưởng Bhutan

• Dành riêng cho tsa-wa-sum [Vua, đất nước và con người].

• Cam kết mục tiêu địa phương và quốc gia trong việc bảo tồn và bảo vệ môi trường.

• Có tác động và sự hiện diện, là đáng tin cậy, sáng tạo và có tầm nhìn, là tiếp cận và nhạy cảm, thể chất phù hợp và lành mạnh.

• Là tự tin, nhân đạo và từ bi.

• Có tổng vẹn đạo đức và trí tuệ minh bạch.

• Có thể nhận ra, đánh giá và đáp ứng chuyên nghiệp cho nhu cầu phát triển chuyên môn trường, sẵn sàng học hỏi và thích ứng với thay đổi.

• Có được sự tự tin của các cơ quan quản lý, trường học của SLT / SMT, giáo viên và học sinh.

• Tư duy phê phán và toàn diện, thái độ cân bằng tốt.

Page 133: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Khung đánh giá nhà Lãnh đạo

Chiều hướng thay đổi Chiến lược cho việc thực hiện

Thúc đẩy các lãnh đạo nhà trường như là một sự lựa chọn nghề nghiệp chuyên môn

Đó là khuyến cáo rằng đang là một nhà lãnh đạo trường được coi là một nghề nghiệp chuyên môn. Nhấn mạnh phải thúc đẩy nó như là một sự lựa chọn nghề nghiệp, cải thiện điều kiện làm việc, và do đó mở rộng nhóm người lãnh đạo nhà trường có tiềm năng

Một bậc thang sự nghiệp nên được tạo ra để lãnh đạo trường học có thể hình dung đường đi của họ và có cơ hội để lựa chọn từ các tùy chọn có sẵn cho họ-hoặc là để di chuyển vào vị trí lãnh đạo cao hơn hoặc để theo dõi hành chính nếu có yêu cầu bằng cấp, đào tạo và năng khiếu.

Khai thác đúng người vào vị trí lãnh đạo trường học nên là ưu

Hồ sơ của một Hiệu trưởng Bhutan

• Dành riêng cho tsa-wa-sum [Vua, đất nước và con người].

• Cam kết mục tiêu địa phương và quốc gia trong việc bảo tồn và bảo vệ môi trường.

• Có tác động và sự hiện diện, là đáng tin cậy, sáng tạo và có tầm nhìn, là tiếp cận và nhạy cảm, thể chất phù hợp và lành mạnh.

• Là tự tin, nhân đạo và từ bi.

• Có tổng vẹn đạo đức và trí tuệ minh bạch.

• Có thể nhận ra, đánh giá và đáp ứng chuyên nghiệp cho nhu cầu phát triển chuyên môn trường, sẵn sàng học hỏi và thích ứng với thay đổi.

• Có được sự tự tin của các cơ quan quản lý, trường học của SLT / SMT, giáo viên và học sinh.

• Tư duy phê phán và toàn diện, thái độ cân bằng tốt.

Page 134: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Tuyển dụng, lựa chọn và sử dụng các nhà lãnh đạo

tiên. Tuyển dụng và lựa chọn sẽ được thực hiện theo tiểu sử lãnh đạo đã được khai thác và thiết lập tiêu chí lựa chọn.

Trong 'sự nghiệp dựa trên hệ thống', Bhutan có thể có thể lựa chọn một số yếu tố của một ' vị trí ' hệ thống, trong đó các ứng cử viên phù hợp nhất được lựa chọn cho từng vị trí, cho dù bằng cách tuyển dụng bên ngoài hoặc thông qua xúc tiến nội bộ, tạo cho nhiều lộ trình vào nghề.Nó sẽ cung cấp một cơ hội cho một chuyển đổi giữa sự nghiệp từ các ngành nghề khác hoặc dịch chuyển từ việc giảng dạy sang các ngành nghề khác.

Tiêu chuẩn nghiệp vụ cho lãnh đạo trường học

Một chuyển đổi dựa trên tiêu chuẩn của lãnh đạo nhà trường, tương tự như chuyển đổi dựa trên tiêu chuẩn của trường học có thể được lên kế hoạch. Cần có tiêu chuẩn rõ ràng và súc tích và chỉ ra rằng những chế định mà các nhà lãnh đạo trường học dự kiến sẽ biết và làm.

Mô hình học tập liên tục cho các nhà lãnh đạo

Các giai đoạn của một nhà lãnh đạo trường giáo dục, sự bước đầu làm quen nghề và phát triển chuyên môn nên liên kết với nhau để tạo ra một hệ thống mạch lạc học tập và phát triển.

Liên tục phát triển lãnh đạo cần phải được hòa nhập vào cuộc sống của giáo viên, giảng viên và các nhà lãnh đạo (quản trị và hướng dẫn) như nhau. Trường cao đẳng và các cơ quan bên ngoài sẽ có một cơ hội để đóng một vai trò lãnh đạo như là nhà cung cấp của chương trình phát triển liên tục cho các hệ thống.

Các trường Cao đẳng và các cơ quan bên ngoài sẽ có cơ hội để đóng một vai trò lãnh đạo như là nhà cung cấp các chương trình phát triển liên tục cho hệ thống.

Một chương trình kèm cặp giữa hiệu trưởng mới bắt đầu học với hiệu trưởng giàu kinh nghiệm có thể được thể chế hóa vì vậy mà có thể truyền đạt đào tạo thực hành các kỹ năng các kỹ năng thực tế trong quản lý trường học.

Page 135: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Retaining  effective school leaders in schools

Trường học có thể cung cấp thêm nhiều cơ hội và đa dạng hóa nghề nghiệp. Một hệ thống đánh giá liên tục có thể được thiết lập để giám sát, đánh giá và khen thưởng các nhà lãnh đạo hiệu quả, cải thiện sự lãnh đạo và môi trường trường học cũng như cải thiện điều kiện làm việc của lãnh đạo trường.

Một hệ thống đánh giá cho các nhà lãnh đạo nên được thiết lập để cung cấp thông tin phản hồi về làm thế nào họ đang đạt được các tiêu chuẩn về hiệu suất; nó sẽ bao gồm các quá trình tự đánh giá ngang nhau và hành động thực hiện quyết định trên con đường phía trước.

Khuôn khổ toàn diện cho vai trò lãnh đạo trong trường học

Một khuôn khổ lãnh đạo trường sẽ được phát triển để cung cấp một phương tiện qua trường học mà các nhà lãnh đạo có thể khám phá và hiểu đầy đủ hơn bản chất của lãnh đạo và các tác động này có cho công việc của họ.

Mô hình học tập liên tục cho các nhà lãnh đạo

Các giai đoạn của một nhà lãnh đạo trường giáo dục, sự bước đầu làm quen nghề và phát triển chuyên môn nên liên kết với nhau để tạo ra một hệ thống mạch lạc học tập và phát triển.

Liên tục phát triển lãnh đạo cần phải được hòa nhập vào cuộc sống của giáo viên, giảng viên và các nhà lãnh đạo (quản trị và hướng dẫn) như nhau. Trường cao đẳng và các cơ quan bên ngoài sẽ có một cơ hội để đóng một vai trò lãnh đạo như là nhà cung cấp của chương trình phát triển liên tục cho các hệ thống.

Các trường Cao đẳng và các cơ quan bên ngoài sẽ có cơ hội để đóng một vai trò lãnh đạo như là nhà cung cấp các chương trình phát triển liên tục cho hệ thống.

Một chương trình kèm cặp giữa hiệu trưởng mới bắt đầu học với hiệu trưởng giàu kinh nghiệm có thể được thể chế hóa vì vậy mà có thể truyền đạt đào tạo thực hành các kỹ năng các kỹ năng thực tế trong quản lý trường học.

Page 136: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

6.3 Môi trường học tập

Ở Bhutan, điều quan trọng là phải có một hình thức phân phối của lãnh đạo, trong đó trọng tâm là trên người, những người cho phép hành động hợp tác hướng tới mục tiêu chung, và cho phép lãnh đạo để phát sinh tự nhiên, và để vượt qua giữa một người và một khi tình hình thay đổi . Trọng tâm chính nên không chỉ là về các kế hoạch chiến lược nhưng hơn vào việc lựa chọn những người tốt nhất và cung cấp các điều kiện thích hợp cho những đóng góp của họ. Một lãnh đạo mạnh mẽ ở Bhutan phải đảm bảo nhận được đúng người để trở thành hiệu trưởng, phát triển kỹ năng lãnh đạo giảng dạy của họ và họ đã được đào tạo chuyên sâu để làm công việc của họ tốt. Trong bối cảnh này, có cần phải phát triển một khuôn khổ toàn diện mà sẽ đào tạo Thủ trưởng trường cho vai trò lãnh đạo và quản lý. Hệ thống Bhutan của giáo dục sẽ phải thực hiện những thay đổi ở các cấp độ khác nhau và trong các lĩnh vực khác nhau như đã đề cập dưới đây.

Trường học, do đó, phải giải quyết tổng nhu cầu của trẻ như một người học, có nghĩa là họ nên r học. Biết rằng trẻ em đến từ những hoàn cảnh khác nhau và có những nhu cầu khác nhau, nhà trường nên xây dựng dựa trên các tài sản mà trẻ em mang từ nhà và cộng đồng của họ và cũng bù đắp cho những thiếu sót trong gia đình và cộng đồng môi trường. Nó sẽ cho phép trẻ em để đạt được các kiến thức, kỹ năng và khuynh hướng đặt ra trong chương trình giảng dạy, giúp các em phát triển khả năng suy nghĩ và lý trí, xây dựng lòng tự trọng và tôn trọng người khác, và đạt được đầy đủ tiềm năng của các cá nhân, các thành viên của các cộng đồng của họ và công dân của thế giới.

Các trường học và hệ thống giáo dục phải cung cấp các điều kiện và nguồn lực cần thiết để đạt được các tiêu chuẩn chất lượng mà Bhutan hình dung cho con của nó. Trong bối cảnh này, nguyên tắc quan trọng của việc tạo ra một trường học thân thiện với trẻ sẽ được phát triển có

Page 137: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

thể được áp dụng trong các bối cảnh khác nhau và hoàn cảnh. Một số tính năng chính của một trường học thân thiện với trẻ được đề nghị là:

Neo trong thực tế của vị trí của họ, về văn hóa, môi trường và liên kết với các gia đình và cộng đồng.

Bao gồm ba yếu tố an toàn, sức khỏe và phát triển dinh dưỡng trẻ em, trong đó là rất cần thiết cho một thiết kế trường học thân thiện với trẻ. Có cần phải tạo ra một môi trường lành mạnh, an toàn và bảo vệ thông qua việc cung cấp sức khỏe trường học, dinh dưỡng, dịch vụ nước và vệ sinh môi trường, và quy tắc ứng xử chống lại bạo lực.

Cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc được trợ cấp trong những năm đầu đầu và khiến các phụ huynh với các giá trị dinh dưỡng của các thực phẩm khác nhau cho trẻ em.

Dễ dàng và linh hoạt sử dụng không gian cho các mục đích khác nhau như lớp học, không gian cá nhân, nguồn lực phòng và không gian mở.

Lớp học nên được thiết kế theo nhu cầu phát triển của trẻ em và các giai đoạn quan trọng của việc học.

Có các liên kết cộng đồng trường học mạnh mẽ dựa trên sự kết hợp sư phạm, khía cạnh kinh tế và kinh tế xã hội.

Liên quan đến tất cả các bên liên quan trong các trường học và cộng đồng, các quyết định về địa điểm trường học, thiết kế và chức năng.

Page 138: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

6.4 Giáo dục và Phát triển Giáo viên

Bhutan tìm cách cải thiện các trường học của mình và đáp ứng tốt hơn với những kỳ vọng cao xã hội và kinh tế. "Như là nguồn lực quan trọng và tốn kém nhất trong các trường học, giáo viên là trung tâm của tất cả các nỗ lực cải tiến trường học. Chất lượng giáo viên là giá trị quan trọng nhất, nó gây ảnh hưởng tới thành tích của học sinh. Cải thiện hiệu quả và công bằng của học phụ thuộc, trong đo lớn, về việc đảm bảo rằng những người có thẩm quyền muốn làm việc như giáo viên, giảng dạy của họ là chất lượng cao và sinh viên có quyền truy cập cao chất lượng giảng dạy." (OECD, 2005). Giáo viên cần phải có khả năng chuẩn bị học sinh cho một xã hội và kinh tế mà họ sẽ tự-hướng dẫn học viên, khả năng và động lực để tiếp tục học tập suốt đời.

Hồ sơ của giáo viên Bhutan

Page 139: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Vì vậy, nó là bắt buộc để có một giáo viên tốt khớp nối và chấp nhận rộng rãi để chuẩn bị và hỗ trợ hệ thống trong đó bao gồm toàn bộ quang phổ của giảng dạy, từ tuyển dụng để nghỉ hưu.

Tất cả các khía cạnh của phát triển liên tục, tiêu chí lựa chọn và chương trình giảng dạy trong các giáo viên chuẩn bị chương trình chứng nhận, cảm ứng và liên tục phát triển chuyên môn và cơ hội phát triển phải align với các tiêu chuẩn thiết lập và phải bổ sung cho nhau. Hệ thống này phải bao gồm toàn bộ giảng dạy liên tục, từ tuyển dụng thông qua và chuẩn bị, cấp giấy chứng nhận, cảm ứng toàn bộ sự nghiệp của giáo viên.

Tập trung vào danh tính chuyên nghiệp và tính chuyên nghiệp trong số các giáo viên tham vọng, với trọng tâm về phát triển lãnh đạo, quyết định thay đổi quản lý và giáo viên là rất quan trọng. Tính chuyên nghiệp phải trở thành một nguyên tắc nền tảng cho tất cả giáo viên giáo dục chương trình, thông qua các cuộc thảo luận, thực tế và phản ánh.

Hồ sơ của giáo viên Bhutan

Page 140: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

6.5 Khung đánh giá

Đánh giá bắt nguồn từ từ tiếng Latin 'ads sedere', có nghĩa là ngồi xuống bên cạnh. Vì vậy, đánh giá chủ yếu liên quan với việc cung cấp thông tin phản hồi và hướng dẫn cho người học. Đánh giá và thẩm định cùng nhau hoàn thành chu trình giảng dạy/ học tập và là bộ phận không thể tách rời của chương trình giáo dục của mỗi trường. Chúng là công cụ đo lường tiêu chuẩn học tập của học sinh, giúp nâng cao các tiêu chuẩn của thành tích thông qua phân tích chi tiết, có mục đích kết quả, trong đó tiết lộ những gì các em học sinh có thể làm tốt và những gì họ đã không làm tốt trong lĩnh vực cụ thể chương trình giảng dạy, và năng lực của họ trong các loại tư duy khác nhau, đặc biệt là giải quyết vấn đề. Thông tin này sẽ hình thành cơ sở cho tất cả trường học cải thiện quy hoạch, đào tạo nhân viên, sửa đổi hệ thống và bất kỳ yêu cầu phát triển khác.

Do đó, mỗi đánh giá và chương trình ước lượng của nhà trường cần phải có các thành phần sau đây.

Hình thành, tổng kết và chẩn đoán các khía cạnh trong đánh giá và định giá. Đánh giá quá trình liên tục và chu kỳ thường xuyên tổng kết các bài kiểm tra/kỳ thi một

cách định kỳ theo cách phù hợp với độ tuổi. Đánh giá liên tục và toàn diện từ mẫu giáo đến lớp VI nên được thiết kế không có kỳ thi

cuối năm chính thức. Hệ thống kiểm tra cuối năm sẽ được giới thiệu từ lớp VII cùng với đánh giá liên tục kéo dài một năm. Tiêu chuẩn-tham khảo đánh giá sẽ được sử dụng để kiểm tra mức độ đạt được tiêu chuẩn.

Cần xem xét tái cấu trúc kỳ thi và quy trình đánh giá năng lực học tập của học sinh, nó bao gồm cả đánh giá về tư duy cũng như khả năng áp dụng kiến thức và kỹ năng để giải quyết vấn đề

Thành lập cơ quan kiểm tra độc lập để tiến hành các kỳ thi cuối cấp của bậc giáo dục cơ bản và giáo dục trung học. Nên đưa ra phương pháp đánh dấu và chuyển đổi sang điểm trung bình để liên kết với giáo dục trung học và giáo dục đại học.

Một cơ quan độc lập kiểm tra sẽ được tạo ra để tiến hành các kỳ thi cuối cùng của giáo dục cơ bản và ở cấp độ cao thứ hai. Một hệ thống đánh dấu và chuyển đổi nó để hệ thống GPA nên được giới thiệu liên kết nó với giáo dục trung học và đại học cao hơn.

Điểm chuẩn có thể được thực hiện với các tiêu chuẩn đánh giá quốc tế, để giúp thiết lập mục tiêu học tập cao hơn để liên tục nâng cao tiêu chuẩn.

Kiểm tra dữ liệu phân tích hiệu suất có thể được thực hiện để theo dõi đạt được để ra quyết định định hướng dữ liệu sẽ được thực hiện để thúc đẩy, hỗ trợ và cải thiện việc của các sinh viên.

6.6 Giảng dạy lớp ghép

Multi-lớp học là một chiến lược quan trọng đối với Bhutan để đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên cho giáo dục và mục tiêu hoàn thành trường tiểu học vào năm 2015. Bằng cách sử dụng giảng dạy đa cấp, để "lấy trường với con 'ở vùng sâu vùng xa, các GD đã có nhiều tiến bộ

Page 141: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

trong việc đạt được MDGs và mục tiêu GDCMN. Ở Bhutan, đa lớp học là rất phổ biến và nó sẽ vẫn như vậy trong tương lai gần.

giảng dạy nhiều lớp (MGT) được sử dụng trong 58% của tất cả các trường tiểu học và CPS; hơn 16.815 trẻ em hiện đang học ở các trường đa cấp, trong đó có hơn 1.000 sinh viên trong 33 phòng học mở rộng đã được thành lập vào năm 2000. Trong những trường học, có bằng chứng về mức độ cao của giáo viên và học sinh đi học, cung cấp đủ teaching- học tập vật chất, lớp hiển thị các áp phích và học sinh làm việc, thái độ tích cực đối với khả năng của học sinh để tìm hiểu, mức độ vừa phải trong thời gian sinh viên về nhiệm vụ, đánh giá liên tục, và mức độ tốt giáo viên của động cơ (Pridmore, 2009)

Tuy nhiên, các trường không được tối đa hóa lợi ích của việc giảng dạy và học tập trong các trường lớp đa nhỏ. Hiện nay có rất ít sử dụng đa lớp hoặc chương trình giảng dạy đa cấp chiến lược, và sinh viên thường có liên quan đến học tập thụ động. Không có giáo viên giáo dục thường xuyên hoặc toàn diện hoặc PDP cung cấp cho giáo viên về phương pháp giảng dạy đa lớp. Những khoảng cách chất lượng là gợi ý về sự cần thiết phải tăng cường đào tạo giáo viên, đào tạo và hỗ trợ.

Có bằng chứng phù hợp là tốt giáo dục đa cấp có thể sản xuất các mức tương tự như thành tích học sinh như trường mono-lớp, về học tập nhận thức, và nó có thể sản xuất thậm chí còn tốt hơn việc học xã hội. Tuy nhiên, tốt, nhu cầu giảng dạy đa cấp nhiều chiến lược của các lớp học 'tiến bộ và giáo viên cần phải được đào tạo tốt, cũng có nguồn lực và được hỗ trợ và có một thái độ tích cực. Điều này đòi hỏi những thay đổi trong thực hành giáo truyền thống và trong các niềm tin và thái độ của giáo viên, hiệu trưởng và giám sát, cũng như những thay đổi trong tổ chức lớp học và trình tự chương trình giảng dạy (Pridmore, 2009). Một số trong những phương pháp có thể được xem xét ở mức độ khác nhau của kế hoạch là:

• Phát triển một gói các chiến lược tích hợp, trong đó bao gồm cải thiện giáo dục giáo viên, đào tạo và hỗ trợ, phát triển chương trình giảng dạy và tài liệu học tập linh hoạt hơn.

• Phát triển giáo viên / lãnh đạo, người dạy cho một nửa thời gian trong trường học của mình và dành một nửa thời gian của họ đến thăm các trường học để cố vấn giáo viên đa cấp, người chưa được sử dụng các phương pháp tiếp cận mới.

• Trung tâm tài nguyên giáo viên có thể được tạo ra để hỗ trợ cộng đồng thực hành chuyên nghiệp trên toàn tốt, đa lớp học. Những phục vụ như một cơ sở để có được các cộng đồng tham gia vào quá trình này.

• đào tạo tiền công vụ để cung cấp bất kỳ 'tay trên' thực hành giảng dạy trong lớp học đa cấp để phát triển kỹ năng và sự tự tin. Tất cả các giáo viên cần phải nhận ra sự đa dạng của sinh viên và có thể quản lý nó thông qua sự khác biệt của các đầu vào / hoạt động cho từng học sinh và cho các nhóm và phân biệt các kết quả mong đợi.

• Sự thay đổi mô hình để tạo dựng cần phải được làm rõ hơn. Học viên cần được giúp đỡ để hiểu làm thế nào sự thay đổi trong suy nghĩ sẽ ảnh hưởng đến việc giảng dạy cũng như học tập. Mục đích là các trường đa cấp nên trở thành một phần tích hợp của thế giới học sinh và cung cấp các cơ hội tăng lên. Học viên cần được khuyến khích để trở thành cam kết sử dụng các phương pháp tiếp cận kiến tạo và cảm hứng để giảng dạy trong các trường học từ xa đa lớp.

Page 142: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

• Một mô hình của phương pháp giảng dạy và học tập cần được phát triển mà các giáo viên được dự kiến sẽ sử dụng trong các trường học.

• Một chương trình dựa vào cộng đồng có thể được phát triển để được dạy bởi thanh niên làng, những người đã được đào tạo về quản lý lớp học và phương pháp đa lớp, dựa trên tài liệu giáo dục được thiết kế cho các phòng học đa lớp.

• Việc đánh giá và thực hành quảng cáo cần được phù hợp với cấp độ tiếp theo hoặc lớp tiếp theo, như trường hợp có thể được.

• Học sinh cần học theo tốc độ của riêng họ. các quy trình trong lớp tạo thành một phần thiết yếu trong phương pháp này. Các em được chia theo mức độ vai trò của giáo viên và tự chủ của đứa trẻ trong một nhiệm vụ cụ thể.

• Quan sát, huấn luyện và hỗ trợ giám sát có thể được cung cấp bởi người tiêu cự hoặc ADEOs. Một cấu trúc tự giám sát cần phải được thiết lập ở cấp trường và dzongkhag, để phản hồi cho các cấp trung ương về việc sử dụng đa cấp danh sách kiểm tra giảng dạy quan sát.

• Một sự kết hợp của hai lớp cho MGT có thể được xem xét để nhóm và tương tác giữa trẻ em có liên quan.

6.7 Giáo dục hòa nhập

Hòa nhập đòi hỏi phải đáp ứng sự đa dạng của nhu cầu của người học thông qua việc tăng sự tham gia trong nền văn hóa học tập của cộng đồng, và giảm trừ từ và trong giáo dục. Một trong những khía cạnh quan trọng của việc này là đáp ứng các nhu cầu của tất cả các sinh viên thông qua học tập và giảng dạy hiệu quả. Trong một nỗ lực để bao gồm các nhu cầu giáo dục của các cách khác nhau, có năng lực như là một phần của NEF, Chính phủ Bhutan đã xác định được những vấn đề mà đóng góp cho trẻ em có nhu cầu đặc biệt không ghi danh vào trường học. Niềm tin là điều này là do khoảng cách xa và thiếu cơ sở ở các vùng nông thôn của đất nước. Để tạo ra một môi trường giáo dục toàn diện, nhà trường cần có một cách tiếp cận đa dạng.

• Tạo ra một nền văn hóa bao gồm đòi hỏi rằng các giá trị và niềm tin của nhà trường cung cấp, chấp nhận, cộng đồng hợp tác và thúc đẩy an toàn cho tất cả học sinh.

• Tạo ra các chính sách và thực hành toàn diện để thực hiện giáo dục toàn diện và duy trì nó bằng cách tạo ra các hướng dẫn thực hành trong quản lý, giảng dạy và học tập ở trường mà phục vụ cho sinh viên có nhu cầu khác nhau bằng cách duy trì sự linh hoạt trong chương trình giảng dạy, hướng dẫn, đánh giá tài nguyên.

• Xác định các nhóm khác nhau (trẻ em ở vùng sâu vùng xa, các bộ lạc du mục, các cộng đồng khác nhau, trẻ em có nhu cầu đặc biệt) mà cần sự hỗ trợ.

• Các trường học cần áp dụng một chính sách giáo dục hoà nhập với sự thay đổi trong mức độ của tính toàn diện, tùy thuộc vào tính khả thi của nó trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng học tập

Page 143: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

đầy đủ, nguồn lực, hỗ trợ giáo viên và đào tạo.

• Thúc đẩy hòa nhập, gia đình, cộng đồng và các tổ chức công cộng cần được huy động để tạo ra nhận thức trong nhân dân, tăng số lượng trẻ em trong ECCD, cung cấp đào tạo đầy đủ trong vốn chủ sở hữu và hòa nhập cho giáo viên và tham gia vào quá trình thực hiện.

• Hướng dẫn dạy nghề cho các khác-không khuyết tật có thể được cung cấp để họ trở thành những thành viên của xã hội.

6.8 ICT như một công cụ

Trong thập kỷ qua chúng ta đã mở rộng đáng kể việc sử dụng ICT-đó là, kết hợp sử dụng viễn thông, máy tính và công nghệ nghe nhìn - đặc biệt là internet. Công nghệ mới ngày càng được được tích hợp vào môi trường giáo dục. Những điều này đã mang lại những cơ hội học tập mới cho học sinh. ICT cung cấp khả năng cho giao tiếp qua những khoảng cách địa lý một cách dễ dàng, để truy cập vào thông tin mới của hồ sơ và các nguồn lực cũng như tham gia vào mạng học tập. Trong bối cảnh này, điều quan trọng là các chương trình giảng dạy được thiết kế như vậy để thúc đẩy sự hội nhập của công nghệ thông tin mới vào quá trình giảng dạy / học tập.

ICT bây giờ là trở thành một phần của xã hội Bhutan và đời sống nhân dân. Cơ quan, doanh nghiệp và các ngành công nghiệp đang bắt đầu dựa trên máy tính và công nghệ thông tin cho năng suất của họ. Các tổ chức này đang áp dụng phương pháp tiếp cận mới bằng cách sử dụng ICT: mạng máy tính văn phòng với văn hóa điện toán, điện thoại di động cho việc liên lạc tốt hơn, thương mại điện tử và email v..v.... Tuy nhiên, hệ thống giáo dục đã không thể để bắt kịp với sự tiến bộ này. Máy vi tính và ICT đã không được tìm thấy một vị trí thích hợp trong các chương trình quốc gia hoặc trường học. Khoảng cách giữa việc sử dụng máy tính trong xã hội và thiếu giáo dục máy tính trong trường học cần phải được giải quyết. Tỷ lệ, đối với thế hệ hiện nay và năm tới, cũng có nghĩa là biết làm thế nào để sử dụng và thao tác những công cụ để xác định vị trí và truy cập vào nhiều hình thức thông tin, bồi dưỡng kỹ năng học tập độc lập và lâu dài qua việc sử dụng ICT. Ngoài ra, nó là quan trọng để thúc đẩy hiệu quả sử dụng ICT trong quản lý và quản lý, và tạo liên kết giữa các trường và cơ sở giáo dục ở Bhutan và thế giới bên ngoài (Báo cáo đề xuất CNTT, Bộ GD năm 2003).

6.9 Quan hệ đối tác

Giáo dục tiểu học và trung học tại Bhutan được cung cấp chủ yếu của các trường công lập được tài trợ bởi chính phủ. Tuy nhiên, những hạn chế tài chính có khả năng hạn chế khả năng của các khu vực mở rộng cung cấp giáo dục, đặc biệt là trung học và cao học, tạo ra một vấn đề nghiêm trọng ở khu vực nông thôn và từ xa nơi nhu cầu về giáo dục trung học dự kiến sẽ tăng lên đáng kể trong vài năm tiếp theo. Quản lý nhà nước và quản lý hệ thống giáo dục có thể được cải thiện bởi một cấu trúc tổ chức hiệu quả và cải thiện năng lực quản lý ở mọi cấp của hệ thống giáo dục. Với việc mở rộng trường học vùng sâu vùng xa, có một nhu cầu ngày càng

Page 144: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

tăng cho các tài liệu và nguồn nhân lực cho việc thực hiện có hiệu quả, Bhutan sẽ cần để tiếp cận với nguồn nhân lực ngoài chính phủ, chia sẻ tài nguyên, phát triển các mối liên kết với trường học và phát triển các liên kết nhiều hơn với giáo viên cao đẳng và học viên giáo viên.

Để cải thiện hiệu quả và công bằng của giáo dục cơ bản, chịu trách nhiệm lập kế hoạch và thực hiện được chuyển giao cho chính quyền địa phương. Khi phân cấp thẩm quyền ra quyết định, hoạch định chính sách có thể muốn cân bằng quyền tự chủ của các cơ quan địa phương với một số kiểm soát của cơ quan Trung ương hoặc tư pháp. Sự cân bằng cẩn thận phải được dò đúng giữa sự cần thiết để cung cấp các biện pháp bảo vệ đối với cơ quan địa phương thực hiện bất kỳ hành động và nhu cầu của họ để duy trì quyền tự trị. Bhutan là một quốc gia nhỏ bé với dân số phân bố rộng; quốc gia này rất mong muốn cơ quan địa phương đóng vai trò tích cực trong việc ra quyết định, và do đó, trong quá trình thực hiện cho kết quả tốt hơn và có trách nhiệm. Trong bối cảnh này, các tùy chọn chính sách sau đây có thể được khảo sát:

Trường Công và Trường Tư: Các trường tư nhân đã mở rộng việc dạy học. Các trường tư ở nông thôn cũng có thể giúp giảm bớt áp lực quá tải tại  trường công. Tuy nhiên, nó cần phải đảm bảo rằng quá trình mở rộng trường tư sẽ không ảnh hướng đến các gia đình khá giả không cho con em học tại trường công vì họ nghỉ rằng ở trường tư sẽ có chất lượng giáo dục tốt hơn.

Mối liên kết cộng đồng: tăng cường năng lực của các cấu trúc địa phương, với trọng tâm đặc biệt là PTA và các cơ quan giáo dục địa phương. Điều quan trọng đào tạo thành viên của các cấu trúc này để tăng cường lập kế hoạch và giám sát các chương trình giáo dục theo vùng địa phương, tạo điều kiện xây dựng cộng đồng dựa trên cơ sở giáo dục và huy động các nguồn lực địa phương để tăng cường tiếp cận giáo dục và chất lượng giáo dục.

Huy động hỗ trợ của cha mẹ và cộng đồng: cải thiện sự liên quan của giáo dục bằng cách trải nghiệm học tập của học sinh và cộng đồng sao cho phù hợp hơn với nhu cầu cá nhân, xã hội và nghề nghiệp/dạy nghề , và nâng cao về nhận thức của học sẽ tạo thành một chiến lược quan trọng để tăng cường các nhu cầu về giáo dục. Thay đổi cách hoạt động truyền thông, bằng cách sử dụng các đài phát thanh, các kênh thông tin giữa cá nhân với cá nhân, v..v...,  nhắm vào các bậc cha mẹ và cộng đồng nói chung, để tạo ra một nhận thức về giá trị của giáo dục, để tạo ra nhu cầu giữa các gia đình trong giáo dục con cái của họ và tạo điều kiện sử dụng tối ưu các cơ sở giáo dục của có sẵn sẽ được thực hiện, với sự tham gia tích cực của Hội phụ huynh

Mô hình trường học: Thiết lập mô hình trường học để phục vụ như là các mô hình và sự thay đổi có sức hấp dẫn và là chất xúc tác trong các chương trình cải tiến chất lượng.

Ngành công nghiệp: Cộng tác với ngành công nghiệp để tích cực tham gia trong thiết kế chương trình giảng dạy, thực hiện các khóa học và tạo ra một mô hình học nghề cho các học viên mới vào hệ thống của họ.

Các tổ chức: Thành lập cấu trúc cơ quan/kỹ thuật hỗ trợ trong các lĩnh vực mới như phát triển chương trình giảng dạy và quản lý giáo dục để theo kịp với sự mở rộng hệ thống. Phối hợp với các cơ quan quốc tế và các trường đại học hỗ trợ kỹ thuật.

Phát triển các mối liên kết với phi chính phủ và xã hội dân sự, để tham gia vào việc tiếp cận các khu vực xa của Bhutan và huy động cộng đồng tham gia trong quá trình thực

Page 145: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

hiện. Phát triển một cách tiếp cận phối hợp để phát triển và thực hiện các biện pháp can thiệp để mở rộng tiếp cận đến cơ hội học tập chất lượng  cho tất cả trẻ em và để thúc đẩy cách tiếp cận liên ngành, để đảm bảo rằng sự can thiệp trong các lĩnh vực khác giúp đạt được kết quả quan trọng của giáo dục.

6.10 Kết luận

Chuyển đổi giáo dục ở cấp địa phương và quốc gia đòi hỏi sự nỗ lực và tập trung vào các phần của tất cả các bên liên quan. Vì lý do này, một cách toàn diện, theo thỏa thuận kế hoạch là điều cần thiết, để đảm bảo rằng tất cả mọi người, từ giáo viên cho đến học sinh, lãnh đạo nhà trường và phụ huynh- được hướng đi đúng hướng. Các tài liệu mà làm theo, khung chương trình giảng dạy quốc gia và các quy định có thể lập kế hoạch từng bước và hướng dẫn cụ thể để chuyển đổi giáo dục ở Bhutan, do đó các nỗ lực của mọi công dân có thể được chuyển hướng tới việc tạo ra một GNH hệ thống toàn bộ trường học giáo dục cho thế kỷ 21.

Page 146: thuvien.pathway.edu.vnthuvien.pathway.edu.vn/.../Bhutan-KHUNG-GIAO-DUC_FULL.docx · Web view“Hôm nay tôi thay mặt cho toàn thể giáo viên và học sinh của chúng ta

Tài liệu tham khảo

Danh sách các từ viết tắt

Danh sách đóng góp