62
Việt Nam và Biến Đổi Khí Hậu: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững Hà Nội, tháng 12 năm 2009

Việt Nam và Biến Đổi Khí Hậu - ngocentre.org.vn · ngay cả các dữ liệu khoa học cũng không thể khẳng định chắc chắn là cần phải tiến hành

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Việt Nam và Biến Đổi Khí Hậu: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững Hà Nội, tháng 12 năm 2009

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

ii

Mục lục

Danh mục viết tắt iii

Lời tựa iv

Tóm tắt v

I. Giới thiệu 1

II. Phát triển bền vững và biến đổi khí hậu 2

III. Những ảnh hưởng biến đổi khí hậu ở Việt Nam 5

IV. Tính dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu 8

V. Phát thải khí nhà kính 12

VI. Chính sách và các thể chế quốc gia 16

VII. Tăng cường khả năng tự phục hồi trước các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu 20

VIII. Giảm thiểu phát thải khí nhà kính 24

IX. Củng cố kiến thức và nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu 28

X. Tài chính và đầu tư dành cho công tác ứng phó với biến đổi khí hậu 31

XI. Tham gia các cuộc thương lượng quốc tế về biến đổi khí hậu 34

XII. Kết luận 40

Phụ lục 1: Ví dụ về các hành động biến đổi khí hậu do

Liên Hợp Quốc ở Việt Nam hỗ trợ 41

Phụ lục 2: Biến đổi khí hậu ở Việt Nam 42

Chú thích 45

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

iii

Danh mục các từ viết tắt BAT Công Nghệ Tốt Nhất Hiện Có BPT Công Nghệ Hữu Dụng Tốt Nhất CCFSC Ban Phòng Chống Lụt Bão Trung Ương (PCLB) CCS Hấp Thụ & Lưu Giữ Các-bon CDM Cơ Chế Phát Triển Sạch (trong khuôn khổ Nghị Định Thư Kyoto) CO2 Các-bon-níc COP15 Hội nghị các Bên tham gia Công ước Khí hậu lần thứ 15, Copenhagen, tháng

12 năm 2009 DRR Giảm nhẹ rủi ro thiên tai GCM Mô hình khí hậu toàn cầu (còn gọi là Mô hình phân bố toàn cầu) GDP Tổng sản phẩm trong nước GEF Quỹ Môi trường toàn cầu (kênh tài trợ chính thức của Công ước Khí hậu) GHGs Các khí nhà kính IHMEN Viện Khí tương-Thuỷ văn và Môi trường (Bộ TN&MT) IPCC Uỷ ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu KP Nghị định thư Kyoto (NĐT) LDCs Các nước kém phát triển LECZ Các vùng ven biển có độ cao thấp MARD Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) MDGs Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ MOC Bộ Xây dựng MOCST Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL) MOET Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) MOF Bộ Tài chính MOFA Bộ Ngoại giao MOH Bộ Y tế MOIT Bộ Công- Thương MOLISA Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐ,TB&XH) MONRE Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) MOST Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) MOT Bộ Giao thông MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) NAMAs các Hành động Giảm thiểu Phù hợp Quốc gia NGO Tổ chức phi Chính phủ NTP-RCC Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu R&D Nghiên cứu và Phát triển REDD Cắt giảm Phát thải từ Phá rừng và Suy thoái rừng SEA Đánh giá Môi trường Chiến lược SEDP Quy hoạch Phát triển Kinh tế-Xã hội (KT-XH) (ví dụ giai đoạn 2011-2015) SEDS Chiến lược Phát triển KT-XH (ví dụ giai đoạn 2011-2020) SRI Hệ SIDS Quốc gia Phát triển Đảo nhỏ UN Liên Hợp Quốc (LHQ) UNFCCC Công ước khung LHQ về Biến đổi Khí hậu (Công ước Khí hậu) V&A (những đánh giá) Tính dễ bị tổn thương và Thích ứng VASS Viện Khoa học Xã hội Việt Nam VAST Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam VUSTA Liên hiệp Hội Khoa học và Công nghệ Việt Nam

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

iv

Lời tựa Liên Hợp Quốc tại Việt Nam giới thiệu báo cáo thảo luận chính sách biến đổi khí hậu này. Chúng tôi hy vọng báo cáo sẽ có ích đối với các nhà hoạch định chính sách và công dân Việt Nam quan tâm đến biến đổi khí hậu, cũng như cộng đồng quốc tế. Trong 2 năm qua, biến đổi khí hậu đã được nói đến nhiều trên toàn thế giới và ở Việt Nam, cũng như trong các cuộc đối thoại giữa Chính phủ Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Điều đó cũng chẳng có gì ngạc nhiên bởi những diễn biến trong năm 2007 và tất cả chúng ta đều trở nên ý thức được sâu sắc những rủi ro đặt ra cho thế giới, trong đó có Việt Nam. Đến nay, chúng ta cũng hiểu rằng chúng ta có khả năng để hành động nhiều hơn

khí hậu và hành động của chúng ta có thể mang lại nhiều cơ hội tiếp tục phát triển đất nước với những lợi ích vượt trội, chứ không phải chỉ để ngăn ngừa các mối nguy hiểm do các ảnh hưởng bất lợi của biến đổi khí hậu gây ra. Báo cáo thảo luận này cho rằng cần phải hiểu biến đổi khí hậu là lời kêu gọi thức tỉnh theo nhiều cách, cũng như cần nhìn nhận những hành động ứng phó cần thiết như một cơ hội để đẩy mạnh phát triển con người. Liên Hợp Quốc đã có vai trò rất tích cực trong các cuộc đối thoại quốc gia về biến đổi khí hậu, và chúng tôi hy vọng sẽ tiếp tục vai trò đó và tăng cường tham gia có tính xây dựng nhiều hơn nữa trong các cuộc đối thoại đó. Báo cáo thảo luận chính sách này là kết quả của những đóng góp về chuyên môn và hiểu biết sâu sắc vấn đề cụ thể này của các tổ chức Liên Hợp Quốc khác nhau. Báo cáo còn là một ví dụ về một gia đình Liên Hợp Quốc cùng công tác với nhau tốt hơn như một phần của quá trình cải cách Liên Hợp Quốc đang diễn ra ở Việt Nam. Kết quả phân tích và các kiến nghị đưa ra trong báo cáo đã được thảo luận sâu giữa những người đứng đầu và nhân viên của nhiều tổ chức Liên Hợp Quốc khác nhau ở Việt Nam. Họ đã sửa cách hành văn. Tác giả chính của báo cáo là Cố vấn chính sách về biến đổi khí hậu cho Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc ở Việt Nam. Nhóm công tác truyền thông của Liên Hợp Quốc đã hỗ trợ việc biên tập cuối cùng và phát hành báo cáo này. Chúng tôi rất biết ơn một số cán bộ và các nhà nghiên cứu Việt Nam đã lưu ý chúng tôi về những chỗ không chính xác và đã cung cấp các thông tin. Chúng tôi cũng xin ghi nhận với lòng biết ơn đối với những đóng góp của một số chuyên gia làm việc với Liên Hợp Quốc, họ đã đảm nhận công tác nghiên cứu và đã có những đóng góp cho báo cáo này. Trong những năm tới, Liên Hợp Quốc sẽ xây dựng các chiến lược và kế hoạch mới để hỗ trợ Việt Nam và chúng tôi sẽ đảm bảo là hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng năng lực và những bài học đúc kết từ công tác ứng phó với biến đổi khí hậu sẽ là những phần cốt lõi trong sứ mệnh của chúng tôi. Tôi trân trọng giới thiệu báo cáo này tới các bạn, và khuyến khích các bạn tham gia thảo luận về nhiều vấn đề được nêu lên trong báo cáo.

Jesper Morch Quyền Điều phối viên thường trú Liên Hợp Quốc.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

v

Tóm tắt Biến đổi khí hậu là mối đe doạ chủ yếu đến phát triển bền vững, song xây dựng chính sách quốc tế cũng như các chính sách và hành động của quốc gia còn tạo ra các cơ hội. Báo cáo này nhằm xác định và phân tích các vấn đề chính sách chính mà Việt Nam đang gặp phải trong việc ứng phó với những ảnh hưởng và nguyên nhân của biến đổi khí hậu, nhằm đảm bảo tiếp tục phát triển con người. Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu Các dữ liệu khoa học chỉ ra rằng Việt Nam „đặc biệt dễ bị tổn thưởng trước những ảnh hưởng bất lợi của biến đổi khí hậu‟, như định nghĩa trong Công ước Khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (Công ước Khí hậu). Các dự báo cho các vùng của Việt Nam theo các kịch bản phát thải khí nhà kính toàn cầu trong tương lai như đã được Uỷ ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) sử dụng cho thấy những ảnh hưởng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu như gia tăng các sự kiện cực đoan nguy hiểm của khí hậu cũng như mất đi khả năng có thể dự đoán chúng, song những áp lực căng thẳng của khí hậu lại tích tụ dần dần và đè nặng lên các nguồn tài nguyên và các cộng đồng. Việc tăng các mức nhiệt độ trung bình và những thay đổi về lượng mưa trung bình theo các mô hình khí hậu không giải thích được đầy đủ mức độ „biến đổi khí hậu nguy hiểm‟, nghĩa là các sự kiện khí hậu trở nên cực đoan hơn. Điều quan trọng là bởi vì „tránh được biến đổi khí hậu nguy hiểm‟ vẫn là một khả năng mặc dù chưa chắc chắn, do vậy cần phải áp dụng „nguyên tắc phòng ngừa‟: bởi vì những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể rất cực đoan, ngay cả các dữ liệu khoa học cũng không thể khẳng định chắc chắn là cần phải tiến hành hành động mang tính đề phòng nào. Chính sách biến đổi khí hậu Việt Nam có các luật, chiến lược, kế hoạch và các chương trình nhất quán với những nguyên tắc phát triển bền vững, trong đó có Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu (Chương trình Mục tiêu quốc gia). Chương trình này tạo cơ sở để quy hoạch hành động ở mọi ngành và địa phương đến năm 2015, hỗ trợ nghiên cứu và nâng cao nhận thức, cũng như giúp công tác điều phối. Chương trình Mục tiêu quốc gia sẽ giúp Việt Nam xây dựng một chiến lược bao trùm về biến đổi khí hậu, với các mục tiêu dài hạn về thích ứng cũng như giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Việt Nam cần cân nhắc đến rủi ro mà mực nước biển dâng và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu về bão, lượng mưa, hạn hán và nhiệt độ có thể tồi tệ hơn cả những mức dự báo ở trường hợp tồi tệ nhất. Do vậy, cần phải áp dụng nguyên tắc phòng ngừa trong quy hoạch và tầm nhìn dài hạn. Các kế hoạch đầu tư dài hạn cũng cần phải xem xét đến những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu dù không thể dự báo tuyệt đối chắc chắn, nhưng chắc sẽ trở nên rõ ràng hơn trong tương lai, và theo các công trình nghiên cứu kinh tế, những khoản đầu tư trước về thích ứng sẽ mang lại lợi nhuận. Hơn nữa, bảo vệ khỏi ngập lụt cần phải tốt hơn trong tương lai so với trước đây cho dù có những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, và điều đó phù hợp với khát vọng của Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển vào năm 2050 trong tương lai trung hạn. Tích hợp và lồng ghép ngay các mối quan ngại về biến đổi khí hậu trong các quy hoạch đầu tư của khu vực nhà nước và tư nhân là cần thiết, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng. Có

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

vi

nhiều việc có thể làm được một cách dễ dàng và nhanh chóng để giảm sử dụng năng lượng, tạo ra lợi ích cho cả các ngành công nghiệp và xã hội. Các quyết định đầu tư hôm nay cũng có thể có tác động dài hạn đến các mức phát thải. Tăng cường quy hoạch đô thị và nông thôn, cũng như xây dựng các kế hoạch tổng hợp tổng thể có ý nghĩa quyết định cho cả thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển một nền kinh tế phát thải ít carbon. Các kế hoạch hành động biến đổi khí hậu (trong Chương trình Mục tiêu quốc gia), các kế hoạch tổng thể (ví dụ, của các vùng như Đồng bằng Sông Cửu Long) và các quy hoạch đầu tư cần phải phản ánh được các kết quả nghiên cứu về các tác động và các hành động thích ứng biến đổi khí hậu, cũng như các hành động giảm thiểu khí nhà kính có bóc tách những sự khác biệt về mặt xã hội. Điều phối tốt giữa các ngành và giám sát hiệu quả việc thực hiện chính sách đòi hỏi có sự giám sát sát sao Thủ tướng, với những cơ cấu giúp việc được cấp kinh phí hợp lý và có số lượng đáng kể nhân viên có chất lượng cao. Văn phòng thường trực của Chương trình Mục tiêu quốc gia cần được tăng cường hơn nữa và cần có sự tham gia tích cực của Bộ KH&ĐT và Bộ Tài chính, đặc biệt bởi vì dự kiến sẽ có những thay đổi về tính chất của nguồn ODA dành cho Việt Nam. Nâng cao nhận thức của công chúng về biến đổi khí hậu là một nhiệm vụ cấp bách, cũng như vậy với công tác xây dựng năng lực cho các cơ quan và tổ chức ngay trong các giai đoạn đầu của công tác triển khai Chương trình Mục tiêu quốc gia. Hoạt động trợ giúp này cần có sự tham gia của các tỉnh và các tổ chức quần chúng. Các tỉnh có nhu cầu phải nhanh chóng xây dựng các kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của chính địa phương mình. Các khả năng dễ bị tổn thương và thích ứng Mục tiêu bao trùm của thích ứng biến đổi khí hậu là tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi của nam giới, phụ nữ và trẻ em, các cộng đồng, các vùng và các ngành, và nâng cao khả năng cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp và các cấp chính quyền khi phải đối mặt với các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Người dân dễ bị tổn thương trước các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu bao gồm những người sống ở dải ven biển (là nơi mực nước biển dâng đang khiến rủi ro ngập lụt và xâm mặn trở nên trầm trọng hơn); người dân sống ở các châu thổ sông của Việt Nam (họ đang phải trải qua các nguy cơ lũ cao hơn); các cộng đồng ven biển miền Trung (chịu rủi ro do bão trầm trọng hơn và hạn hán gay gắt hơn) và người dân ở các khu vực miền núi (những người phải chịu các trận mưa lớn ngày càng gia tăng, sạt lở đất, và hạn hán). Những nhóm người dễ bị tổn thương nhất gồm có phụ nữ, trẻ em và cả người già. Các dân tộc ít người, do tương đối nghèo, cũng rất dễ bị tổn thương trước các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, và cũng giống như vậy trong trường hợp của nhiều người di cư. Cư dân thành thị nghèo hơn dễ bị tổn thương vì họ thường sống và làm việc ở các khu dân cư nằm ở vùng đất thấp, có hệ thống tiêu thoát nước kém và ít được sử dụng nước sạch. Các ngành bị ảnh hưởng đặc biệt là nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản (bao gồm cơ sở hạ tầng của các ngành này). An ninh lương thực của cả quốc gia lẫn toàn cầu gặp rủi ro vì Đồng bằng Sông Cửu Long là nguồn sản xuất và xuất khẩu gạo chủ yếu. Các ngành khác cũng dễ bị tổn thương gồm có hệ thống cấp nước thành thị và nông thôn, cơ sở hạ tầng giao thông, và các dịch vụ xã hội như y tế và giáo dục. Thương mại và ngành công nghiệp chế tạo sản phẩm cũng dễ bị ảnh hưởng, đặc biệt trước thiên tai. Chương trình Mục tiêu quốc gia đã xác định nhu cầu tiến hành các đánh giá về tính dễ bị tổn thương và thích ứng (V&A) ở các cấp ngành, vùng và cộng đồng, cũng như xác định

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

vii

các nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất trước các tác động của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, Chương trình này lại chưa giải thích những vai trò khác nhau giữa nam giới và phụ nữ trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, cũng như chưa xác định rõ các trách nhiệm hoặc các quyền lực ra quyết định. Những khác biệt có tính xã hội và các quan hệ xã hội đó cần được phân tích như một bộ phận không thể tách rời của các đánh giá tính dễ bị tổn thương và thích ứng. Phụ nữ chẳng hạn còn chưa được đại diện đầy đủ trong các quá trình quy hoạch và ra quyết định liên quan đến các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu ở cấp quốc gia và địa phương. Trong khi phụ nữ nông thôn rất tích cực trong nông nghiệp, nhiều chị em không có quyền hợp pháp về đất đai và do vậy, thường không thể được hưởng tín dụng quy mô lớn hơn hoặc giữ đất đai khi ly dị hoặc chồng chết, cũng như các dịch vụ khuyến nông vẫn do nam giới chi phối. Những rào cản đối với sự tham gia của phụ nữ cần được quan tâm giải quyết, bởi vì biến đổi khí hậu sẽ tạo ra các áp lực mới lên các nguồn tài nguyên và sinh kế. Trẻ em cũng cần được tham gia trong đánh giá tính dễ bị tổn thương và thích ứng biến đổi khí hậu bởi vì các em đã chứng tỏ rằng các em có thể là những thông tin viên tốt và là các tác nhân thay đổi trong giảm nhẹ rủi ro thiên tai. Hơn nữa, trong khi các áp lực khí hậu sẽ ảnh hưởng mạnh lên người dân tộc ít người ở các vùng cao, không nên chỉ xem họ như nạn nhân. Kiến thức truyền thống và các phương thức bản địa có thể có giá trị quan trọng trong công tác xây dựng các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu. Để thích ứng thành công trước biến đổi khí hậu cần phải tăng cường các cơ hội sinh kế cho nam giới và phụ nữ kém khả giả hơn trong nông nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và lâm nghiệp. Các cách tiếp cận giới là rất cần thiết trong công tác giảm nhẹ rủi ro thiên tai và cần phải đảm bảo các dịch vụ y tế và giáo dục dưới ánh sáng của các áp lực căng thẳng khí hậu thêm mới. Các chính sách cần tạo thuận lợi cho phụ nữ và nam giới để di cư không bị cản trở và chị em cần phải là đối tượng để được hỗ trợ trong trong các chiến lược sinh kế đô thị. Điều đó có nghĩa là việc đăng ký hộ khẩu cần phải tạo thuận lợi hơn là cản trở các cơ hội hưởng dụng các dịch vụ địa phương, kể cả việc học hành của con em những người di cư. Tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi của người dân các vùng và các ngành bằng cách tạo ra các cơ hội sinh kế cho nam giới và phụ nữ, cũng như bảo vệ tính mạng, sinh kế và tài sản sẽ đòi hỏi cả các biện pháp „mềm‟ và „cứng‟. Các biện pháp „mềm‟ bao gồm các nỗ lực như các sáng kiến nhằm tạo ra thay đổi hành vi cải thiện công tác chuẩn bị trước thiên tai, chia sẻ thông tin tốt hơn, và nghiên cứu và phát triển trong nông nghiệp. Các biện pháp „cứng‟ bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng chắc chắn sẽ phải đòi hỏi các khoản đầu tư rất lớn trong quy hoạch tổng thể và nghiên cứu cơ bản. Chắc chắn là cơ sở hạ tầng lớn là thực sự cần thiết để bảo vệ tính mạng, sinh kế và tài sản. Đê điều cũng như mở rộng rừng ngập mặn là cần thiết để bảo vệ làng xóm, thị trấn và thành phố, trong khi các công trình ngăn nước bão dâng cao là phải có để bảo vệ các thành phố và cảng biển. Các hồ chứa nước lớn là cần thiết để trữ nước ngọt. Đường sá và cầu cống cần phải „chịu được khí hậu‟ để điều chỉnh theo các yêu cầu tiêu thoát nước. Việc xác định vị trí các khu công nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với khả năng dễ bị tác động của các khu công nghiệp trước những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, trong khi sử dụng hay sản xuất hoá chất có thể gây ra tai biến khi xảy ra thiên tai. Cần phải thiết kế hoặc điều chỉnh các hệ thống đường sắt, tiêu thoát nước và nước thải đô thị theo các mức cao hơn của lượng mưa và theo các mức đỉnh xả thải nước. Các cơn bão đòi hỏi gia cố nhà cửa của tư nhân và nhà nước. Cần phải đảm bảo cơ hội sử dụng các dịch vụ trong và sau thiên tai (ví dụ như khả

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

viii

năng tiếp cận các bệnh viện). Vấn đề này có thể đạt được một phần bằng cách điều chỉnh các tiêu chuẩn và phương thức xây dựng. Trong các chương trình đầu tư lớn, áp dụng các cách tiếp cận có tham vấn và có sự tham gia rộng rãi có ý nghĩa quyết định. Một chính sách quan trọng đang được triển khai là di dời dân sống phân tán ở các nhà vườn ở Đồng bằng Sông Cửu Long đến những khu vực đất tôn cao có trường học, cấp nước và các dịch vụ khác quanh năm. Kinh nghiệm này cần được đánh giá nghiêm túc, điều chỉnh nếu có thể và nhân rộng. Giảm thiểu phát thải khí nhà kính: Năng lượng Việt Nam có nền kinh tế tăng trưởng nhanh, góp phần vào giảm đáng kể đói nghèo, mặc dù bất bình đẳng đang gia tăng. Trong tương lai, Việt Nam có khả năng sẽ gia tăng nhanh tốc độ tiêu thụ và các lượng phát thải khí nhà kính có liên quan, đặc biệt tại các trung tâm đô thị. Theo ước tính, tổng mức phát thải của Việt Nam chắc chắn tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn 2000-2020, đặc biệt là phát thải từ ngành năng lượng. Việt Nam đang chứng kiến mức sử dụng nhiên liệu hoá thạch gia tăng trong các ngành giao thông, sản xuất công nghiệp và phát điện. Một trong số đó là than đá, nguồn nhiên liệu hóa thạch có rất nhiều ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc sử dụng năng lượng vẫn còn không hiệu quả ở hộ gia đình và khu vực nhà nước, trong lĩnh vực giao thông và ngành công nghiệp chế tác. Nói cách khác, có rất nhiều „cơ hội dễ hái‟ để cải thiện hiệu suất năng lượng theo các cách chi phí hiệu quả theo các ý kiến của chuyên gia. Hiệu suất năng lượng có thể cải thiện được bằng quá trình chuyển giao công nghệ, xây dựng năng lực và đầu tư. Đồng thời còn có tiềm năng lớn để mở rộng sản xuất năng lượng tái tạo, đặc biệt là từ gió và điện mặt trời. Quy hoạch một nền kinh tế chủ yếu là đô thị và phát thải ít các-bon hiện nay sẽ có khả năng có được những ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế, trong khi vẫn đem lại nhiều lợi ích khác như giảm thiểu ô nhiễm đô thị: giao thông công cộng giúp cải thiện chất lượng không khí đô thị và giảm bớt các bệnh hô hấp. Chuyển giao công nghệ bao gồm việc đưa vào áp dụng và phát triển các công nghệ phát thải thấp khí nhà kính cũng có thể tạo ra các lợi ích trước mắt đối với các hộ gia đình có thu nhập thấp, kể cả các lợi ích xã hội. Hầu hết việc chuyển giao công nghệ sẽ được tiến hành trong ngành công nghiệp chế tạo sản phẩm và cần phải có các định mức và có thể dự báo các dòng lợi nhuận trước khi có thể dự kiến các khoản đầu tư lớn. Các doanh nghiệp cần có các cách cải tiến để cải thiện hiệu suất năng lượng, tiến hành kiểm toán năng lượng và thực hiện các tiêu chuẩn quản lý năng lượng (mới được đề xuất). Các doanh nghiệp này cần có cơ hội sử dụng vốn cũng như có thể được khuyến khích để áp dụng các công nghệ mới bằng các tiêu chuẩn (tự nguyện) cải tiến và được giám sát hợp lý và kiểm toán môi trường. Chính phủ Việt Nam cần có quy định, xây dựng năng lực và tạo ra các biện pháp kích thích để làm cho việc chuyển giao công nghệ này được diễn ra. Thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp Theo các dự báo trong ngành lâm nghiệp và „thay đổi sử dụng đất‟, mức hấp thụ CO2 sẽ vượt mức phát thải CO2. Gia tăng sản xuất lúa nước và chăn nuôi gia súc đang góp phần đáng kể vào phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, những cải thiện về quản lý nước và các phương thức làm đất lúa nước, cũng như sử dụng phân bón hiệu quả hơn là có thể giúp cắt giảm chi phí nông nghiệp trong khi đó lại giảm thiểu phát thải khí mê-tan và NO2. Có thể cắt giảm phát thải khí mê-tan bằng cách điều chỉnh thức ăn gia súc và sản xuất và thu khí sinh học từ chất thải gia súc. Các hành động giảm thiểu đó có thể có các đồng lợi ích đáng kể về an ninh lương thực, giảm đói nghèo, cũng như cải thiện bình đẳng giới. Điều này sẽ đòi hỏi phải có các khoản đầu tư đáng kể của nhà nước cho việc xây dựng năng lực, phát triển thể

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

ix

chế, khuyến nông và tài trợ cho nông nghiệp, để nam và nữ nông dân có thể thực hiện việc chuyển dịch sang các phương thức nông nghiệp bền vững. Việt Nam đã mở rộng độ che phủ rừng nhưng chất lượng đa dạng sinh học đang bị suy giảm ở một vài khu vực và rủi ro cháy rừng cũng tăng lên khi hạn hán gia tăng do biến đổi khí hậu. Các cơ hội cô lập các-bon nhiều hơn cũng sẽ tăng bảo tồn đa dạng sinh học và giảm đói nghèo thông qua các kế hoạch sử dụng đất thích hợp. Các dải rừng ngập mặn dọc theo bờ biển có tầm quan trọng đặc biệt, giúp bảo vệ đê điều và giữ vai trò chủ yếu trong việc duy trì đa dạng sinh học biển và và các nguồn lực sinh kế. Cắt giảm phát thải từ phá rừng và suy thoái rừng (REDD) có thể mang lại nguồn tài trợ (mới, bổ sung) để bảo tồn và bảo vệ rừng theo thoả thuận mới của Công ước Khí hậu. Việt Nam đang được cộng đồng quốc tế hỗ trợ chuẩn bị thực hiện các cơ chế tài trợ mới theo REDD. Sự thành công sẽ tuỳ thuộc vào sự cam kết liên tục và đầy đủ của Việt Nam trong việc xây dựng năng lực ở các cấp khác nhau và đảm bảo sao cho các nguồn tài trợ này mang lại lợi ích cho người dân địa phương, những người đạt được các mức cắt giảm thực tế. Trong khi đổi mới công nghệ và tăng các dòng tài trợ cho các ngành như lâm nghiệp là quan trọng, những hoạt động này cũng có thể làm xói mòn hơn là cải thiện địa vị xã hội của phụ nữ. Do vậy, điều có ý nghĩa quan trọng là đưa phân tích giới vào trong các chiến lược phát triển và chuyển giao công nghệ. Phân tích giới còn có ý nghĩa quan trọng khi triển khai các chiến dịch thay đổi hành vi liên quan đến phát thải khí nhà kính – như nâng cao nhận thức về vết chân các-bon của các sản phẩm tiêu dùng. Cơ chế phát triển sạch (CDM) Cơ chế phát triển sạch (CDM) trong khuôn khổ Nghị định thư Kyoto quy định việc tạo ra và trao đổi các chứng chỉ chứng nhận cắt giảm phát thải là tỷ lệ bù vào các mức cắt giảm phát thải đã thoả thuận của các nước phát triển và từ đó tạo ra các khoản tiền thu. CDM đang phát huy chức năng ở Việt Nam, nhưng vẫn chưa được thực hiện ở quy mô lớn. Những rào cản đối với việc phát triển đầy đủ CDM ở Việt Nam là thiếu nhận thức trong cộng đồng doanh nghiệp, thiếu vốn đầu tư rủi ro cao, thiếu nhận thức về các lợi ích của các dự án CDM trong số các quan chức, cũng như năng lực còn hạn chế. Ngoài ra, quy định hiện tại yêu cầu tất cả các chứng chỉ chứng nhận cắt giảm theo CDM được hỗ trợ bằng nguồn ODA phải bổ sung vào Quỹ Môi trường Việt Nam, chứ không phải dành cho các chủ dự án. Điều có ý nghĩa quan trọng là Việt Nam cần giải quyết các rào cản này và tận dụng đầy đủ các lợi thế do CDM đem lại. Rất nhiều các khoản đầu tư ở Việt Nam có thể có lợi từ cơ chế CDM. Ví dụ, tiềm năng lớn và vẫn chưa được khai thác trong sử dụng khí mê-tan từ các bãi chôn lấp rác thải, từ hoạt động khai khoáng và các nguồn khác được dùng như nguyên liệu để phát điện. Việt Nam chưa bắt đầu tìm kiếm các công nghệ thu và lưu trữ các-bon. Các công nghệ này rất tốn kém, nhưng việc xây dựng năng lực liên quan đến các công nghệ quan trọng này là cần thiết, chẳng hạn bởi vì trong tương lai việc xác định vị trí xây dựng các nhà máy phát điện sẽ quyết định khả năng áp dụng các công nghệ thu và lưu giữ các-bon về lâu dài. Cơ chế CDM cũng có thể đảm bảo thu hút đủ lượng tài chính khả thi đối với các khoản đầu tư vào thủy điện. Hiểu biết và nhận thức Việt Nam cần có nguồn dữ liệu chắc chắn để hỗ trợ quá trình ra quyết định và xây dựng các kế hoạch hành động và quy hoạch đầu tư. Chương trình Mục tiêu quốc gia nhằm hỗ trợ mục tiêu này vì cần tăng cường năng lực nghiên cứu chính sách của Việt Nam về các thách thức

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

x

biến đổi khí hậu. Việt Nam có nhiều tổ chức nghiên cứu, nhưng chỉ có một số rất ít các nhà nghiên cứu có chất lượng cao tập trung vào biến đổi khí hậu, và các nguồn lực tài chính dánh cho nghiên cứu rất mỏng và dàn trải. Cơ sở nghiên cứu bị phân tán và tuy đôi lúc có được sự cộng tác nghiên cứu tốt, nhưng trong nhiều trường hợp sự cộng tác này còn rất hạn chế. Nhu cầu cấp bách hiện nay là tăng đầu tư cho nghiên cứu và tăng cường cộng tác nghiên cứu thông qua việc thành lập Uỷ ban biến đổi khí hậu của Việt Nam (VPCC) chẳng hạn. Nhu cầu về hiểu biết về các tác động xã hội và kinh tế của biến đổi khí hậu cũng như các cơ hội kinh tế có được từ việc kiểm soát phát thải khí nhà kính là rất thực tế. Ví dụ như hiện vẫn còn chưa nghiên cứu các quyết định di cư được tiến hành thế nào và việc di cư có thể tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi của những người di cư cả nam lẫn nữ, cũng như người thân của họ ở lại ra sao. Sự hiểu biết một cách hệ thống những vai trò và các nhu cầu (thực tế và chiến lược) của phụ nữ trong giảm thiểu phát thải khí nhà kính và làm thế nào để có thể tăng cường những vai trò đó, còn rất hạn chế. Hơn nữa, nhiều dữ liệu liên quan của quốc gia thường không bóc tách theo lứa tuổi và giới tính (ví dụ các dữ liệu về tác động của thiên tai). Cần tăng cường cơ sở hiểu biết về các ví dụ khác, như các dự báo về chi phí và lợi ích của việc làm cho cơ sở hạ tầng chống chịu với khí hậu; tạo ra năng lượng tái tạo; cũng như hiệu suất năng lượng trong ngành chế tác. Ngoài ra, cần phải nghiên cứu việc sử dụng các công cụ tài chính, như các thuế các-bon, các quy định về mức trần và buôn bán các-bon, và/hoặc các mức trợ cấp nhằm khuyến khích đổi mới ít các-bon. Trong 2 năm qua, những thách thức về biến đổi khí hậu đã được đưa tin rất nhiều trên các phương tiện truyền thông quốc gia, kể cả các chương trình tập trung vào thanh niên, và nhận thức về các tác động của biến đổi khí hậu đã và đang được nâng cao ở cấp địa phương. Tuy nhiên, công tác truyền thông cộng đồng hiện nay mới chỉ tập trung và những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với thiên tai và nông nghiệp, trong khi các ảnh hưởng và tác động của biến đổi khí hậu đến, ví dụ sức khoẻ, cũng có ý nghĩa quan trọng. Một số các áp lực khí hậu chưa thu hút được nhiều sự chú ý và chưa được đưa tin. Hơn nữa, nhận thức về các cơ hội kiểm soát phát thải khí nhà kính cần được nâng cao trong các quan chức nhà nước và dân chúng. Quan trọng là phải hiểu biến đổi khí hậu như một cơ hội cũng như thách thức cho phát triển con người. Tích hợp và lồng ghép biến đổi khí hậu trong giáo dục chính quy hay không chính quy, bao gồm các chương trình giảng dạy cấp học phổ thông, đại học, đào tạo giáo viên và các chiến dịch tập trung vào trẻ em, thanh thiếu niên và phụ nữ, có ý nghĩa quan trọng. Các hoạt động nâng cao nhận thức cần phải đi đến thay đổi hành vi và hành động của cá nhân và cả ở cấp cộng đồng, cũng như trong Chính phủ và giới doanh nghiệp. Tài trợ và đầu tư Theo một số công trình phân tích quốc tế, các nhu cầu tài trợ cho thích ứng với biến đổi khí hậu cũng như giảm thiểu phát thải khí nhà kính là rất lớn. Nhu cầu hiện nay là xây dựng các kế hoạch đầu tư để làm cho các cơ ở hạ tầng chống chịu được với biến đổi khí hậu. Bước đầu các khoản đầu tư sẽ tập trung vào các biện pháp nhằm đảm bảo các trường học và các cơ sở y tế vẫn có thể tiếp cận được trong và ngay sau xảy ra thiên tai liên quan đến khí hậu. Để bảo vệ các vùng châu thổ và các khu vực ven biển của Việt Nam khỏi mực nước biển dâng và xâm mặn, cần có các khoản đầu tư lớn cho nghiên cứu và thiết kế, tiếp đến là các khoản đầu tư lớn với quy mô chưa từng có.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

xi

Để hạn chế các tác động của biến đổi khí hậu, Việt Nam phải và cần đầu tư vào các hoạt động giảm thiểu phát thải khí nhà kính của khu vực công và tư nhân. Việt Nam thuộc về khối các nước “đặc biệt dễ bị tổn thương trước các ảnh hưởng bất lợi của biến đổi khí hậu‟, do đó, Việt Nam có đầy đủ tư cách hợp lệ để được hưởng tài trợ „mới và bổ sung‟ trong khuôn khổ của Công ước LHQ về Biến đổi Khí hậu. Các nguồn tài trợ sẽ được nhận qua các kênh nhà nước (ODA) cũng như qua thị trường. Do Việt Nam đang trở thành nước có mức thu nhập trung bình, cho nên ODA dưới dạng tiền viện trợ và các khoản tiền vay đang giảm đi, nhưng nguồn ODA cho biến đổi khí hậu bắt đầu tăng lên. Do vậy, nguồn ODA dành cho Việt Nam trong tương lai có thể sẽ tập trung cho biến đổi khí hậu. Nguồn vốn ODA sẽ rất quan trọng đối với thích ứng biến đổi khí hậu và tài trợ qua kênh thị trường sẽ rất quan trọng đối với giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) là cơ chế tài trợ chính thức của Công ước Khí hậu. Nguồn tài trợ của GEF có thể gia tăng, trong khi các cơ chế tài trợ khác như Quỹ thích ứng (gây quỹ bằng tiền thuế thu từ CDM thuộc NĐT Kyoto); các cửa sổ tài trợ cho khí hậu của các ngân hàng phát triển; và nguồn tài trợ mới trong khuôn khổ UNFCCC, trong đó có REDD. Việt Nam cần có nhiều năng lực để có được các nguồn vốn tài trợ này và đòi hỏi phải tập trung các nỗ lực để hiểu được các phương án lựa chọn tài trợ, và hợp tác tốt nhất giữa các bộ khác nhau. Các kế hoạch hành động của các ngành và các tỉnh đang được xây dựng trong khuôn khổ Chương trình Mục tiêu Quốc gia có thể trở thành cơ sở có tính chương trình để lập ra một quỹ uỷ thác biến đổi khí hậu nhằm tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn tài trợ quốc tế theo các quy định phù hợp và hài hoà trong nước và đặc biệt là các nguồn tiền dành cho xây dựng năng lực. Cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính bắt đầu từ năm 2008 đã được giải quyết bằng việc kích thích tài chính trong nước. Chính sách kích thích đó có thể ưu tiên các khoản đầu tư cho cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ „chống chịu được với khí hậu‟. Đầu tư cho công nghệ hiệu suất năng lượng, kể cả trong ngành chế tác là khả dĩ và sẽ tạo ra được các lợi ích về cả kinh tế lẫn môi trường. Trong khi giảm thiểu khí nhà kính chưa thể là nhu cầu tài trợ công trong nước chủ yếu của Việt Nam, nhưng trong tất cả các khả năng, Việt Nam sẽ cần phải nâng vốn đầu tư trong nước nhiều hơn, cho dù có đạt được kết quả thành công trong các cuộc thương lượng khí hậu quốc tế. Vấn đề đầu tư này là cần thiết nhất là đối với các khoản đầu tư quy mô lớn dành cho thích ứng. Việt Nam cần xây dựng các công cụ chính sách tài chính để tạo ra các tín hiệu thị trường hạn chế phát thải khí nhà kính, bao gồm các thuế các-bon hay một hệ thống về mức trần và buôn bán các-bon trong nước. Những công cụ này có thể giúp gây vốn trong nước để đầu tư cho thích ứng. Cũng cần phát triển bảo hiểm ‟dựa vào chỉ số‟ như các kế hoạch bảo hiểm cây trồng dựa trên các mức nước thượng nguồn sông, giúp nhượng lại các rủi ro từ lũ của nông dân sống dọc Sông Cửu Long cho các thị trường quốc tế. Các công cụ chính sách đó đòi hỏi phải tăng cường các năng lực ở nhiều cấp. Chính phủ Việt Nam cần gây ảnh hưởng đến hành vi của các doanh nghiệp bằng việc quy định các tiêu chuẩn (tự nguyện) có cải tiến, và tạo thuận lợi cho việc buôn bán, chuyển nhượng các-bon tự nguyện. Việt Nam có kinh nghiệm nào đó với các nguồn quỹ bảo lãnh tiền vay để cải thiện cơ hội hưởng dụng vốn và giảm nhẹ rủi ro đầu tư cho các công ty đầu tư cho công nghệ hiệu suất năng lượng, phát thải ít khí nhà kính cũng như tạo ra năng lượng tái tạo. Các cơ chế đó cần được nhân rộng.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

xii

Chính sách khí hậu quốc tế Vấn đề quan trọng là „đạt được thoả thuận khí hậu‟ tại Copenhagen vào tháng 12 năm 2009 cho dù chỉ có thể đạt được một „thoả thuận khung‟ và chi tiết của thoả thuận sẽ được vạch ra trong các cuộc họp sau đó. Việt Nam sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi nếu việc tăng cường hợp tác quốc tế không được thoả thuận và triển khai nhanh. Việt Nam có khả năng giúp định hình chính sách khí hậu quốc tế để phục vụ những quan tâm lợi ích của nước mình và của các nước tương tự khác, cũng như đóng vai trò tích cực và có tính xây dựng trong nền ngoại giao khí hậu quốc tế. Việt Nam cần thúc đẩy các cuộc đối thoại; tăng cường các mối liên kết; xây dựng các quan điểm chính sách có tính khả thi; và tích cực tìm kiếm những thoả hiệp quốc tế. Bộ TN&MT và Bộ NN&PTNT đã tích cực tham gia và có những năng lực trong những lĩnh vực này, song một nền ngoại giao khí hậu thành công chắc chắn sẽ đòi hỏi sự tham gia tích cực và năng lực được tăng cường hơn nữa ở nhiều bộ. Thành công trong việc giúp đạt được những thoả thuận quốc tế còn đòi hỏi sự quyết tâm cao của ban lãnh đạo Việt Nam, trong đó có các khoản đầu tư về nguồn lực con người để tham gia các cuộc thương lượng khí hậu, xây dựng năng lực và đi lại. Bằng việc tích luỹ các kinh nghiệm quốc gia của mình, Việt Nam cần đảm bảo phản ánh được các nguyên tắc phát triển bền vững trong mọi thoả thuận, bao gồm xoá đói nghèo (ngắn hạn) và bảo vệ tránh các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; tăng trưởng kinh tế; phát triển công bằng xã hội kể cả bình đẳng giới; và tính bền vững về môi trường dài hạn Những vấn đề thương lượng dưới đây là cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam. Giảm thiểu phát thải khí nhà kính

Nguyên tắc „các trách nhiệm chung nhưng có phân biệt‟ của Công ước Khí hậu có nghĩa là, các nước phát triển chịu trách nhiệm cắt giảm phát thải khí nhà kính và cung cấp hỗ trợ tài chính cho các nước đang phát triển, nhằm giúp thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu phát thải khí nhà kính.

Các nước đang phát triển sẽ tiến hành „các hành động giảm thiểu thích hợp ở cấp quốc gia‟ (NAMAs) với sự hỗ trợ về các nguồn lực tài chính và con người của quốc gia, cũng như nguồn ODA. Việt Nam đã và đang triển khai một số hành động giảm thiểu thích hợp (NAMAs) và qua đó giúp Việt Nam đưa ra luận cứ về nguồn tài chính „mới và bổ sung‟ cho việc thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu phát thải khí nhà kính.

Việt Nam không mong muốn thay đổi việc sử dụng các nguồn vốn cho các nỗ lực giảm đói nghèo và cải thiện các dịch vụ cơ bản cho các mục đích khác, nhưng cần theo đuổi các hành động giảm thiểu phát thải khí nhà kính, để thúc đẩy phát triển KT-XH. Những nỗ lực này ít ra cũng nhận được sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật nào đó của các nước phát triển.

Những hành động giảm thiểu phát thải khí nhà kính của các nước phát triển cũng như sự hỗ trợ cho các nước đang phát triển để giảm thiểu khí nhà kính, cần phải „Đo lường, Báo cáo và Kiểm chứng được‟ (MRV). Việt Nam cũng có thể tuân thủ nguyên tắc „Đo lường, Báo cáo và Kiểm chứng được‟ đối với các sáng kiến giảm thiểu trong nước để qua đó, giúp thuyết phục các nước khác là, Việt Nam đang góp một phần của mình, cho dù quốc tế vẫn chưa thoả thuận được cơ chế „Đo lường, Báo cáo và Kiểm chứng được‟ là gì.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

xiii

Thích ứng với biến đổi khí hậu

Chắc chắn sẽ có rất nhiều người ở Việt Nam bị ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, trừ phi tiến hành hành động có ý nghĩa quyết định. Trong khi Việt Nam có các năng lực tốt và Các Nước Kém Phát Triển (LDCs) và các Quốc Đảo Nhỏ Đang Phát Triển (SIDSSs) được hưởng đối xử đặc biệt theo Công ước Khí hậu, Việt Nam rõ ràng là một nước „đặc biệt dễ bị tổn thương trước những ảnh hưởng bất lợi của biến đổi khí hậu‟ và „cần được xem xét đầy đủ‟ để hỗ trợ cho các hành động thích ứng theo quy định của Công ước Khí hậu.

Các cuộc thương lượng Công ước Khí hậu phải đi đến kết quả thiết lập được các thể chế thích ứng, cũng như các cam kết hỗ trợ các nước đang phát triển trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thích ứng biến đổi khí hậu của Việt Nam cần bao gồm các biện pháp giảm nhẹ rủi ro thiên tai; nâng cao nhận thức; tăng cường các hệ thống bảo vệ xã hội; cải thiện các dịch vụ xã hội; tăng cường bảo hiểm xã hội và thương mại trước những căng thẳng của khí hậu; tăng cường các dịch vụ hỗ trợ sinh kế, như khuyến nông; tăng cường nghiên cứu và phát triển; các khoản đầu tư về cơ sở hạ tầng quy mô lớn và làm cho các cơ sở hạ tầng khác „chống chịu với khí hậu‟; cũng như cải thiện nhiều hơn công tác quy hoạch công nghiệp hoá và đô thị hoá.

Tài trợ và các thể chế tài chính

Không có được một quyết định quan trọng về tài trợ thích ứng quốc tế, thì các Bên tham gia Công ước Khí hậu không có khả năng đạt được một kết quả thành công. Các yêu cầu tài chính cũng như các ước tính về các nhu cầu có thể ít nhất là 0,5% GDP của các nước phát triển.

Việt Nam cần nêu rõ quy mô các nhu cầu của mình dựa trên những đánh giá có chất lượng cao, điều này sẽ tăng cường vai trò của Việt Nam trong các cuộc thương lượng quốc tế.

Việc tài trợ „mới và bổ sung‟ chủ yếu sẽ là tài trợ công, đã và đang được chấp nhận rộng rãi nhưng chưa phải là tất cả. Tuy vậy, vẫn còn bất đồng về tầm quan trọng tương đối và việc thực hiện chức năng của các thị trường các-bon và đầu tư của khu vực tư nhân. Các nước đang phát triển yêu cầu việc quản lý tài trợ biến đổi khí hậu phản ánh được „sự đại diện cân đối và công bằng‟ của các nước đang phát triển, như Công ước Khí hậu đã nêu. Việt Nam cần tham gia tích cực trong các cuộc thương lượng này, bởi vì Việt Nam có nhiều nhu cầu tài trợ cũng như có nhiều kinh nghiệm với các cơ chế tài trợ quốc tế khác nhau.

Xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ

Việc xây dựng năng lực là cần thiết đối với các cán bộ trong các khu vực nhà nước và tư nhân, trong cộng đồng nghiên cứu và ngành giáo dục, để thực hiện có hiệu quả các biện pháp thích ứng biến đổi khí hậu và giảm thiểu phát thải khí nhà kính.

Chuyển giao công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, nhưng các rào cản về thể chế, tài chính, pháp lý và chính trị có thể rất lớn, trong đó có chuyển nhượng các quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp của các nước đang phát triển. Song đến nay vẫn chưa đạt được một thoả thuận giải quyết các rào cản đối với các công nghệ giảm thiểu và thích ứng, và điều có ý nghĩa quyết định đôi với Việt Nam là tham gia các cuộc thương lượng đó, đặc biệt là do nhu cầu về năng lượng tái tạo và ít phát thải của đất nước, cũng như hiện đại hoá các ngành công nghiệp chủ chốt.

Việc thành lập một tổ chức công nghệ trực thuộc Hội nghị các Bên có thể giúp lập kế hoạch, tổ chức, điều phối, giám sát và đánh gía việc phát triển và chuyển giao công

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

xiv

nghệ quốc tế cho các nước đang phát triển. Đã có đề xuất lập một quỹ công nghệ khí hậu (hay một cửa tài trợ trong quỹ khí hậu chung) dưới sự giám sát của Hội nghị các Bên. Đề xuất thành lập các trung tâm ưu tú (khu vực) để đảm bảo hợp tác quốc tế về nghiên cứu và phát triển và chia sẻ thông tin, được ủng hộ rộng rãi.

Cắt giảm phát thải từ phá rừng và suy thoái rừng - REDD

Việt Nam có mối quan tâm lợi ích lớn trong việc ủng hộ ở phạm vi rộng lớn đối với REDD và những đảm bảo về các lợi ích từ tài trợ quốc tế cho người dân địa phương (dân tộc ít người) và các đối tượng quản lý rừng ở những vùng cao và dải ven biển (rừng ngập mặn).

Xây dựng năng lực cũng có ý nghĩa quyết định để Việt Nam có thể tiến hành các hành động tự nguyện trong nước trong việc cắt giảm phát thải. Việt Nam đã xây dựng một dự án thuộc chương trình UN-REDD và do vậy, có thể chia sẻ các kinh nghiệm với các nước khác về cách thức có thể sử dụng các nguồn tiền tài trợ công mới và bổ sung cho nguồn ODA hiện có, nhằm hỗ trợ nhiều mục tiêu phát triển – và do đó đóng vai trò trung tâm trong các cuộc thương lượng REDD.

Kết luận Việt Nam có các yêu cầu lớn nếu ứng phó thành công với thách thức do biến đổi khí hậu đặt ra. Tại giai đoạn này, Việt Nam có Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với BĐKH, năng lực thể chế và về con người đáng kể, và đã bắt đầu hành động với sự hỗ trợ có mức độ của quốc tế. Tuy vậy, Việt Nam cần nhiều trợ giúp quốc tế hơn và sẽ cần phải tiếp cận được với các nguồn tài trợ và hỗ trợ khác của quốc tế mà Việt Nam có đủ điều kiện

của (UNFCCC). Sự hỗ trợ này đang diễn ra từ từ ở Việt Nam để đảm bảo sao cho các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu hạn chế được các tác động đến cuộc sống và sinh kế của người dân Việt Nam và đảm bảo các cơ hội cho tiến bộ công nghệ và việc làm trong sản xuất và tiêu thụ ít các-bon được tạo ra. Biến đổi khí hậu là lời kêu gọi thức tỉnh và yêu cầu nhân rộng các phương thức phát triển hợp lý. Các khát vọng cao cả về phát triển của Việt Nam cần được duy trì, mặc cho các thách thức của biến đổi khí hậu. Hầu hết giải pháp thích ứng hiện có hoặc có thể dễ dàng xây dựng. Nhiều giải pháp giảm thiểu phát thải khí nhà kính hiện có hoặc đang được xây dựng. Cho dù có phải phụ thuộc vào sự hỗ trợ rất nhiều của quốc tế, nhưng bằng hành động biến đổi khí hậu lại có thể trở thành một cơ hội để thực hiện các mục tiêu phát triển con người bền vững. Liên Hợp Quốc cam kết ủng hộ Việt Nam trở thành một tấm gương về cách tiếp cận phát triển toàn diện trong đó có lồng ghép biến đổi khí hậu, cách tiếp cận mà trong đó cả các ảnh hưởng và các nguyên nhân của biến đổi khí hậu đều được quan tâm giải quyết đầy đủ.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

1

I. Giới thiệu

1. Với Đánh giá lần thứ tư của Uỷ ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) vào năm 20071, biến đổi khí hậu rõ ràng là mối đe doạ chính của thế kỷ này đối với phát triển bền vững, cũng như biến đổi khí hậu là do con người gây ra. Ngày nay, biến đổi khí hậu đã chi phối các hội nghị thượng đỉnh quốc tế, nhất là trong gia đoạn nước rút đến Hội nghị các Bên lần thứ 15 (COP15) của Công ước khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (Công ước Khí hậu) ở Copenhagen vào tháng 12 năm 2009. Tổng Thư ký LHQ, Ban Ki-Moon mô tả biến đổi khí hậu như „một thách thức tập thể lớn nhất đối mặt với chúng ta, một gia đình nhân loại‟. Tổng Thư ký còn nói, ở Copenhagen „chúng ta có cơ hội để đưa vào thực hiện một thoả thuận khí hậu mà mọi quốc gia đều có thể nắm lấy một cơ hội công bằng, cân đối và toàn diện’2. Việt Nam đã đáp ứng với vấn đề cấp bách của toàn cầu và của quốc gia này bằng việc phê chuẩn Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu vào cuối năm 2008. Chương trình Mục tiêu quốc gia đã tạo ra cơ sở để quy hoạch phân tích và hành động ở tất cả các ngành và địa phương của Việt Nam, nhất là đến năm 2015.

2. Báo cáo này nhằm xác định và phân tích những vấn đề chính về chính sách mà Việt Nam đang gặp phải trong việc ứng phó với những ảnh hưởng và nguyên nhân của biến đổi khí hậu, nhằm đảm bảo tiếp tục phát triển con người. Báo cáo đưa ra nhiều kiến nghị để các cấp chính quyền, các cơ quan quốc gia, cơ quan phi chính phủ và các doanh nghiệp cũng như các đối tác quốc tế cân nhắc và thảo luận thêm, khi mà Việt Nam đang đối diện với quy mô lớn của các thách thức biến đổi khí hậu, cũng như đang giữ vai trò ngày càng tích cực trong các cuộc thương lượng khí hậu quốc tế. Trong những kiến nghị đưa ra, nhiều kiến nghị quan tâm đến những hành động chính sách mà Liên Hợp Quốc và các tổ chức khác trong cộng đồng quốc tế đang cộng tác, hoặc bắt đầu cộng tác giải quyết với Chính phủ Việt Nam, các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức phi chính phủ (NGOs) và/hoặc cộng đồng các doanh nghiệp (xem thêm Phụ lục 1).

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

2

II. Phát triển bền vững và biến đổi khí hậu

3. Các dữ liệu khoa học về biến đổi khí hậu toàn cầu và các công trình nghiên cứu mô hình hoá đều chứng minh, Vi t Nam là một trong những nước đặc biệt bị ảnh hưởng bởi những tác động bất lợi của biến đổi khí hậu. Ví dụ bao gồm các rủi ro ngày càng tăng về lũ lụt và hạn hán, mực nước biển dâng và xâm mặn, cũng như gia tăng các rủi ro về sức khoẻ do các đợt nắng nóng gay gắt, sốt xuất huyết và sốt rét3. Những rủi ro này đã cảm nhận được ở các vùng ven biển đất thấp và các vùng cao, các khu vực nông thôn và thành thị – nhưng theo các cách khác nhau.

Tính dễ bị tổn thương tương đối của các vùng châu thổ ven biển được thể hiện bằng số dân biểu thị, có khả năng phải di dời theo các xu thế mực nước biển hiện nay cho đến 2050 (Cực đoan = >1 triệu; cao = 50.000 đến 1 triệu; trung bình = 5.000 đến 50.000

4.

4. Mực nước biển dâng và xâm mặn là những ví dụ về các áp lực tăng cường của biến đổi khí hậu, chắc chắn gây ra di dời– con số trên của IPCC (2007) cho thấy, Đồng bằng Sông Cửu Long ở Việt Nam và Campuchia là một trong ba điểm nóng toàn cầu liên quan đến di dân.

5. Biến đổi khí hậu làm tăng thêm các khả năng dễ bị tổn thương của phụ nữ, nam giới và trẻ em, các cộng đồng, các doanh nghiệp, cũng như các ngành kinh tế và các vùng. Biến đổi khí hậu sẽ cản trở phát triển KT-XH, song các loại cơ sở hạ tầng và dịch vụ, và các năng lực khác nhau của khu vực công, các doanh nghiệp và người dân địa phương có thể giúp Việt Nam đối phó với những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, và trong một số trường hợp, lại biến các biện pháp ứng phó thành các cơ hội phát triển KT-XH. Do vậy, đầu tư vào tăng cường năng lực để tăng khả năng chống chịu trước các áp lực căng thẳng của biến đổi khí hậu và phục hồi sau đó của phụ nữ, nam giới và trẻ em, của các cộng đồng, các ngành dịch vụ công và các doanh nghiệp chắc chắn đem lại những lợi ích KT-XH ngắn hạn và dài hạn. Trong thực tế, nghiên cứu ở nhiều nước cho thấy đầu tư cho những năm và các thập kỷ tới đây để tránh các chi phí ngắn hạn và dài hạn chính của biến đổi khí hậu có tính cấp bách về mặt xã hội, khôn ngoan về mặt kinh tế và hoàn toàn có tính khả thi trên phạm vi toàn cầu5.

6. Tính dễ bị tổn thương có thể nắm bắt theo các chỉ số dựa vào các tiêu chí có thể định lượng các áp lực của biến đổi khí hậu và các năng lực của một quốc gia, là đặc biệt có tác đụng đối với các mục đích so sánh. Hình dưới chỉ ra rằng Việt Nam bị ảnh hưởng đặc biệt bởi những tác động bất lợi của biến đổi khí hậu như mực nước biển dâng, gia tăng lũ lụt và

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

3

hạn hán cũng như bão. Tuy vậy, trong khi Đồng bằng Sông Cửu Long là một trong những vùng bị ảnh hưởng nhiều nhất trên thế giới, nhưng các năng lực so sánh của Việt Nam làm cho Việt Nam đỡ bị tổ thương phần nào so với Lào và Campuchia.

Tính dễ bị tổn thương trước những ảnh hưởng bất lợi của biến đổi khí hậu ở khu vực Đông Nam Á

6

Lưu ý: chỉ số được dùng trong hình là những ảnh hưởng khác nhau của biến đổi khí hậu (như lũ lụt, hạn hán, bão và mực nước biển dâng) và các năng lực so sánh giải quyết những căng thẳng đó.

7. Sự ấm lên toàn cầu tính trung bình và biến đổi khí hậu là hệ quả „của hiệu ứng nhà kính‟ do con người gây ra. Đặc biệt do sử dụng các nhiên liệu hoá thạch với số lượng tăng chưa từng thấy, cũng như do suy thoái rừng. Sự tích luỹ các khí nhà kính khí quyển trước đây và hiện nay chủ yếu đều do các quốc gia công nghiệp gây nên. Tuy nhiên, các nước đang phát triển như Việt Nam cũng đang đóng góp ngày càng nhiều các mức phát thải khí nhà kính. Trong bối cảnh này, ứng phó với những nguyên nhân biến đổi khí hậu cũng còn tạo ra các cơ hội, đặc biệt nếu các công nghệ sản xuất và chế tạo năng lượng hiện đại được chuyển giao cho các nước đang phát triển sao cho các nước này nhanh chóng đạt được tiến bộ, hướng tới một „nền kinh tế thấp các-bon‟7 (mà không ảnh hưởng đến chi tiêu cho việc giảm đói nghèo, phát triển xã hội và đồng thời duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế).

8. Phát triển bền vững được định nghĩa rất nổi tiếng là „phát triển để đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tai, mà không làm phương hại đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng các như cầu của riêng họ‟ – bổ sung một triển vọng dài hạn cho các chính sách phát triển thường ngắn hạn.8 Hầu hết các chính sách và luật pháp hiện có của Việt Nam đều nhất quán với các nguyên tắc phát triển bền vững. Việt Nam có nhiều luật, chiến lược, kế hoạch và chương trình được đưa vào thực hiện, có liên quan đến biến đổi khí hậu, như Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) (2005), Luật Năng lượng (2005), Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2005), Luật Tài nguyên nước và Luật Đa dạng sinh học (ĐDSH) (2008). Việt Nam có Chiến lược chung về Phát triển KT-XH (2001-2010), cũng như các chiến lược, kế hoạch và chương trình hành động ngành về BVMT, trồng rừng, và quản lý nguồn nước, phát triển

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

4

ven biển, giảm đói nghèo, quản lý thiên tai, hiệu suất năng lượng, sản xuất sạch hơn, v.v… Việt Nam còn có Agenda 21 quốc gia, Định hướng chiến lược về Phát triển bền vững ở Việt Nam, được phê duyệt năm 2004. Các nguyên tắc cốt lõi của Agenda 21 Việt Nam đã được đưa vào áp dụng trong Kế hoạch Phát triển KT-XH quốc gia (SEDP 2006–2010), gồm 3 trụ cột - tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.

9. Việc kết hợp các tầm nhìn ngắn hạn và dài hạn như chúng ta thấy trong định nghĩa về phát triển bền vững là thích đáng, bởi lẽ biến đổi khí hậu đã và đang xảy ra và chắc chắn sẽ còn tiếp tục xảy ra trong những thập kỷ và thế kỷ tới, ngay cả khi có tiến hành hành động mạnh mẽ toàn cầu để giảm bớt các nguyên nhân gây ra9. Biến đổi khí hậu ít được đề cập đến trong các chính sách nói trên, cho dù những biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu có ý nghĩa quyết định để đạt được phát triển bền vững. Tuy nhiên, Việt Nam đã tham gia cùng các quá trình biến đổi khí hậu quốc tế và bắt đầu xây dựng các chính sách về cả những nguyên nhân lẫn những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Khí hậu năm 1994 và NĐT Kyoto năm 2002. Việt Nam đã trình Thông báo quốc gia số 1 cho Công ước Khí hậu10 và đang soạn thảo Thông báo quốc gia thứ hai với sự hỗ trợ của Liên Hợp Quốc11. Quan trọng nhất là, Việt Nam đã nhanh chóng xây dựng và phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia như đã nói ở trên.

10. Việt Nam có các năng lực để ứng phó với biến đổi khí hậu vì Việt Nam có ngành nông nghiệp mạnh và có truyền thống lâu đời giải quyết thiên tai – trong khi đây chỉ là hai trong số nhiều lý do khác. Chỉ yếu hơn các nước công nghiệp, các năng lực của Việt Nam vẫn cao hơn đáng kể so với hầu hết các nước kém phát triển (LDCs). Chương trình Mục tiêu Quốc gia và một số dự án và chương trình độc lập nhưng có liên quan, đang nhận được sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của Liên Hợp Quốc, các quỹ đa phương12, các nhà tài trợ song phương, cũng như các tổ chức phi chính phủ để tăng cường các năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu. Điều đó có nghĩa là, sự hỗ trợ đang dần dần hướng về một điểm, để đảm bảo những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (mà Việt Nam phải chịu đựng nhiều hơn hầu hết các nước) có những tác động hạn chế đối với cuộc sống và sinh kế của người Việt Nam. Sự hỗ trợ này cũng sẽ đảm bảo rằng đầu tư vào các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu chắc chắn tạo ra các cơ hội về tiến bộ công nghệ và việc làm trong sản xuất và tiêu thụ ít phát thải, cũng như đem lại các lợi ích khác về xã hội, kinh tế và môi trường.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

5

III. Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ở Việt Nam

11. Các nhà khoa học Việt Nam đã áp dụng „các mô hình khí hậu toàn cầu’ (GCM) cho các vùng của Việt Nam theo 3 kịch bản toàn cầu về phát triển KT-XH và các mức phát thải khí nhà kính có liên quan cho một tương lai dài hạn, được IPCC sử dụng (2007)13. Bộ TN&MT công bố các mức khí hậu và mực nước biển dâng tính trung bình rất có khả năng biến đổi ở những vùng khác nhau của đất nước vào các năm 2050 và 2100. Các nhà khoa học nhấn mạnh đến những bất định trong các dự báo và áp dụng cách tiếp cận thận trọng trong việc lựa chọn các kịch bản biến đổi khí hậu có khả năng xảy ra nhiều nhất và các ảnh hưởng của nó14. Cách tiếp cận này là thận trọng bởi vì áp dụng kịch bản „mức phát thải trung bình toàn cầu‟, giả định thế giới sẽ hạn chế phát thải khí nhà kính và tránh được „biến đổi khí hậu nguy hiểm‟ – nghĩa là một kết quả thành công của các cuộc thương lượng khí hậu quốc tế và tiếp đến là các hành động rất quan trọng về cắt giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu. Tuy nhiên, những biến đổi về các mức phát thải, các nhiệt độ trung bình quan sát được gần đây, và ví dụ mực nước biển dâng cho thấy thế giới hiện đang trong một quá trình có các mức phát thải cao và biến đổi khí hậu nguy hiểm – và các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu dễ có khả năng tồi tệ hơn so với đánh giá của IPCC năm 2007, không khá hơn. Những dự báo biến đổi khí hậu của Việt Nam cần phải được cập nhật trong những năm tới đây, với việc tăng cường phân tích toàn cầu và thu thập các dữ liệu trong nước, cũng như áp dụng các mô hình, như đã được quyết định trong Chương trình Mục tiêu quốc gia.

Các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long với diện tích đất bị ảnh hưởng bởi mực nước biển dâng cao 1 m, theo kịch bản phát thải cao A2

15

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

6

12. Biến đổi khí hậu chắc chắn gây ra tổng lượng mưa hàng năm cao hơn ở mọi nơi ở Việt Nam, ước tính trung bình cho cả nước là 5% trong thế kỷ 21, theo „kịch bản phát thải trung bình‟ và lượng mưa hàng năm sẽ dễ biến đổi hơn16. Lượng mưa trung bình đang giảm đi vào những tháng khô hơn (tháng 12 đến tháng 5), đặc biệt ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Tây Nguyên và các vùng ven biển Nam Trung Bộ; và đang tăng lên trong các tháng ẩm hơn (tháng 6 đến tháng 11), đặc biệt ở các vùng miền Bắc (xem thêm Phụ lục 2 về các dự đoán chính thức của Việt Nam). Ví dụ, lượng mưa vào mùa mưa của toàn bộ lưu vực Sông Cửu Long đang tăng lên, có nghĩa là mức xả nước đỉnh điểm cũng sẽ tăng, và lũ như năm 2000 và 2001 sẽ có thể lặp lại trừ phi các biện pháp giảm thiểu được triển khai17. Do đó, các trận lũ lụt và các vụ hạn hán trở nên dễ xảy ra hơn, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp, cấp nước và sản xuất thủy điện, cũng như thương mại và sản xuất công nghiệp ở các khu vực đô thị. Lũ lụt và hạn hạn ảnh hưởng đặc biệt đến phụ nữ và nam giới nghèo nhất, những người có khả năng chống chịu và phục hồi kém nhất khi đối mặt với các áp lực căng thẳng của khí hậu. Những căng thẳng này đặc biệt đã cảm nhận được ở các vùng nông thôn và tạo ra các yếu tố kích thích bổ sung cho tình trạng di cư.

13. Việt Nam là một trong những nước gặp rủi ro nhiều nhất trước mực nước biển dâng và xâm mặn tăng cường, về các mặt như tổng diện tích đất, số lượng người dân bị ảnh hưởng, dự báo tổn thất GDP và tác động đến nông nghiệp chẳng hạn18. Mực nước biển dâng tính trung bình, đang tác động đến nhiều ngành kinh tế, đặc biệt là ở Đồng bằng Sông Cửu Long (như minh hoạ ở trên), thành phố Hồ Chí Minh, và các khu vực của Đồng bằng Sông Hồng, cũng như một phần quan trọng ven biển miền Trung. Mực nước biển dâng toàn cầu tính trung bình, chắc chắn sẽ tới 0,59 m vào năm 2100, theo kịch bản phát thải khí nhà kính cao nhất được sử dụng trong Đánh giá lần thứ 4 của Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC, 2007)19. Các dự báo chính thức của Việt Nam về mực nước biển dâng cao hơn kịch bản với trường hợp tồi tệ nhất này mà IPCC đưa ra bởi vì các nhà khoa học Việt Nam đã tính đến mức tan chảy nào đó của băng trên đất liền dựa trên các dữ liệu khoa học đã công bố sau báo cáo năm 2007 của IPCC. Ước tính của Bộ TN&MT theo kịch bản phát thải khí nhà kính trung bình toàn cầu là mực nước biển dâng dọc theo bờ biển của Việt Nam trung bình là 75 cm vào năm 210020. Chương trình Mục tiêu Quốc gia của Việt Nam đưa ra ước số mực nước biển dâng tính trung bình là một mét vào năm 2100 là phù hợp với các tính toán của Bộ TN&MT đối với kịch bản phát thải cao21.

14. Những dự báo của IPCC (2007) coi sự nở nhiệt của nước biển là nguyên nhân chính của mực nước biển dâng, nhưng sự nở nhiệt này là khác biệt ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Các dự báo đó loại trừ các ảnh hưởng của sự tan chảy và sụp đổ xuống biển của các vùng băng trên đất liền thuộc Băng Đảo Greenland, Nam cực và các vùng khác. Nghiên cứu gần đây cho rằng tan băng có khả năng nghiêm trọng có thể gây ra mực nước biển dâng từ 1-1,5 mét vào năm 2100, hoặc có khả năng cao hơn tới mức dự đoán 4-6 mét trong các thế kỷ trong tương lai. Do vậy, mức nước biển dâng 1 mét vào năm 2100 trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia của Việt Nam là ước số hợp lý để các bộ ngành và các tỉnh „quy hoạch hành động‟ theo Chương trình Mục tiêu Quốc gia. Lượng nước biển dâng vào năm 2100 có thể ngập một diện tích đất của quốc gia là 30.945 km2 nếu không có các biện pháp như gia cố đê điều và các hệ thống tiêu thoát nước. Diện tích ngập này bằng 9,3% diện tích đất bề mặt của Việt Nam và tương đương tổng diện tích nước Bỉ22. Ngập nước là mối đe dọa lớn nhất đối với vùng Đồng bằng Sông cửu Long, nhưng cũng là rất cao cho lưu vực Sông Đồng Nai trong đó có cả Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng bằng Sông Hồng, cũng như dọc tất cả các vùng ven biển. Dải ven biển Việt Nam là nơi sinh sống của rất nhiều người dân nông thôn nghèo và phụ nữ, trẻ em và người già đặc biệt dễ bị tổn thương trước ngập lụt. Song các thành phố và các khu công nghiệp cũng bị ảnh hưởng, và cư dân thành thị nghèo hơn nói chung sống ở các khu dân cư có hạ tầng cơ sở tiêu thoát nước và chống ngập lụt chất lượng thấp. Việt Nam xếp thứ sáu thế giới trong số các nước có tỷ lệ dân số cao nhất sống ở các Vùng ven biển có độ cao thấp (LECZ).23 Ngập lụt và các ảnh hưởng khác của biến đổi khí hậu là các nguồn áp lực thêm lên cuộc

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

7

sống và sinh kế có thể đẩy những người dễ bị tổn thương di cư tạm thời hoặc vĩnh viễn để tìm cuộc sống an toàn hơn và ổn định.

15. Biến đổi khí hậu sẽ dẫn đến việc tăng lên của nhiệt độ mặt nước biển ở các vĩ độ cao hơn của Thái Bình Dương và chắc chắn dẫn đến nhiều bão hơn ở tây bắc Thái Bình Dương. Cường độ bão cũng sẽ mạnh hơn, đặc biệt vào những năm „El Niño‟, và có những dấu hiệu rõ ràng về giai đoạn này đang phát triển từ giữa năm 200924. Trước đây, các trận bão thường xảy ra vào tháng 8 ở miền bắc Việt Nam, vào tháng 10 ở miền trung và vào tháng 11 ở miền Nam. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, mùa bão đang diễn ra chậm hơn và sự đổ bộ của bão đã chuyển dịch xuống phía Nam, và cường độ bão cho thấy đã gia tăng. Những thay đổi đó ngụ ý rằng, các rủi ro đã gia tăng đối với người dân ven biển, đặc biệt là nước dâng do bão, sau đến mưa to do các cơn bảo đổ bộ, gây ra các vụ sạt lở lớn ở các vùng cao. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa các năng lực giảm nhẹ rủi ro thiên tai và các biện pháp ở mọi cấp và ở cả các vùng ven biển lẫn các vùng cao.

16. So vói năm 1990, nhiệt độ trung bình theo kịch bản phát thải trung bình, cho rằng sẽ tăng gần 2°C ở các vùng miền nam Việt Nam và tăng tới 2,8°C ở các vùng miền Bắc vào năm 2100. Tuy nhiên, với kịch bản phát thải cao thì nhiệt độ trung bình có thể tăng tới 3,6°C ở vùng ven biển miền Trung25. Các nhiệt độ tối thiểu chắc chắn sẽ tăng và số ngày với các nhiệt độ cao hơn 25°C chắc chắn sẽ tăng. Các đợt nắng nóng gay gắt được cho rằng cũng sẽ tăng và ảnh hưởng xấu nhất tới người già. Các nhiệt độ cao hơn được cho rằng sẽ làm lan tràn các vật chủ mang các bệnh ở người như sốt xuất huyết và sốt rét. Nhiệt độ tăng và những thay đổi về lượng mưa và mẫu hình hạn hán có thể lan tràn sâu, vật hại và các bệnh cây trồng, cũng như ảnh hưởng xấu đến các hệ sinh thái và các mùa trồng trọt. Nước biển ấm hơn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến một số hệ sinh thái biển.

17. Các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu bao gồm sự gia tăng các sự kiện khí hậu cực đoan nguy hiểm và cũng ít khả năng có thể dự đoán hơn, song lại tích tụ dần dần gây ra những

áp lực căng thẳng khí hậu đối với các nguồn tài nguyên và cộng đồng. Các mô hình đưa ra các nhiệt độ trung bình và lượng mưa vào các tháng và/hoặc các quý nhất định trong năm

trong các thập kỷ tới, và tuy có hàm ý về những hiện tượng cực đoan hơn như mưa và hạn

hán, các giá trị trung bình không cho thấy đầy đủ mức độ của „biến đổi khí hậu nguy hiểm‟. Những thất thường năm này qua năm khác và khả năng xảy ra và tần xuất của các sự kiện cực đoan trong các năm và các mùa – tức là các sự kiện khí hậu khác xa hơn xu thế và giá trị trung bình – là rất khó để đảm bảo chắc chắn bất kỳ độ chính xác nào. Các mô

hình không thể chỉ rõ tất cả „tính dễ biến đổi của khí hậu‟ tăng lên và các rủi ro liên quan, nhưng các dữ liệu khác nhau đã đưa IPCC đi đến kết luận rằng, sự ấm lên tàn cầu với nhiệt

độ trung bình tăng hơn 2°C, thì chắc chắn sẽ tăng mạnh tính dễ biến đổi của khí hậu. Tuy

nhiên, vẫn chưa có được sự đảm bảo rằng thế giới sẽ sẵn sàng trong một quá trình hành

động phát thải thấp để thế giới có thể hạn chế được sự ấm lên toàn cầu tới 2°C. Hơn nữa,

ngay cả khi nếu có đạt được mục tiêu dài hạn được chấp nhận rộng rãi này, thì việc „tránh được biến đổi khí hậu nguy hiểm‟ là có thể nhưng vẫn không chắc chắn. Tuy Việt Nam chọn

quá trình phát thải trung bình với mức ấm lên toàn cầu cao hơn một chút có tính thực tế

nhất đối với mọi kịch bản, nhưng cần phải đưa vào thực hiện „nguyên tắc đề phòng‟ khi xây

dựng các thông số quy hoạch và thiết kế để ứng phó với biến đổi khí hậu. Điều này có nghĩa là phải tiến hành hành động phòng ngừa bởi vì những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể rất cực đoan, ngay cả khi các dữ liệu khoa học chưa thể đưa ra được các bằng

chứng chắc chắn cho điều đó26.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

8

IV. Tính dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu

18. Những ảnh hưởng biến đổi khí hậu ở Việt Nam gồm các tai biến khí hậu nghiêm trọng cũng như các thay đổi dần dần các biến số khí hậu, như nhiệt độ và lượng mưa – nói cách khác, biến đổi khí hậu gây ra các mức độ căng thẳng bổ sung khác nhau, ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh kế. Tính dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu được định nghĩa ở đây là „mức độ mà một người, hộ gia đình, nhóm xã hội, doanh nghiệp, tổ chức, địa phương hay một ngành, không có khả năng đối phó, chống chịu được những ảnh hưởng bất lợi của các rối loạn và căng thẳng, kể cả tính dễ biến đổi của khí hậu và các cực đoan của khí hậu gia tăng bởi biến đối khí hậu, hoặc khả năng phục hồi sau đó’.27 Các nhóm xã hội, các ngành khác nhau, v.v…, đều dễ bị tổn thương ít hay nhiều trước các căng thẳng và rối loạn cụ thể – như nguời già đặc biệt dễ bị tổn thương trước các đợt nắng nóng gay gắt, cũng như nông nghiệp là đặc biệt dễ bị tổn thương trước các đợt hạn hán và rét. Khả năng chống chịu và phục hồi trước những rối loạn khí hậu khốc liệt (các tai biến nghiêm trọng) và các áp lực căng thẳng (tức là các tai biến từ từ tăng dần hoặc „diễn biến chậm‟) là năng lực để phục hồi của cá nhân, cũng như cấp xã hội hay tập thể, nhưng không chắc phục hồi lại như „trạng thái ban đầu‟. Mục tiêu tổng thể của thích ứng biến đổi khí hậu như được đưa ra là tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi của nam, nữ và trẻ em, các cộng đồng, các vùng và các ngành, cũng như doanh nghiệp và khả năng của các cấp chính quyền trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội.28

Cầu nối xã Đak Tram và các xã khác (tỉnh Kontum) bị bão Ketsana phá hỏng (2009)29

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

9

Đa số người chết trong các trận lũ năm 2000 và 2001 ở đồng bằng Sông Cửu Long là trẻ em. Thay vì để con ở nhà, nhiều phụ nữ đem con đến gửi ở các trung tâm giữ trẻ vào ban ngày, nơi các em có thể chơi đùa và ngủ trong an toàn. Nhiều trung tâm như thế này được dựng lên vào năm 2001, và nhiều trong số đó do các tình nguyện viên của Hội Phụ nữ làm.

19. Dựa trên các kịch bản biến đổi khí hậu, cần phải tiến hành tất cả các loại đánh giá tính dễ bị tổn thương và thích ứng. Những đánh giá này có nhiều những yếu tố bất định bởi lẽ có nhiều giả định về phát triển KT-XH trong tương lai (mặc dù đã hiểu biết khá nhiều về những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu). Tuy nhiên, cần phải tiến hành đánh giá, bởi vì không thể chấp nhận được nếu không hành động trong khi đang phải đối mặt với những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu chắc chắn xảy ra (thậm chí khi mà quy mô và tính chất của các ảnh hưởng biến đổi khí hậu vẫn còn chưa chắc chắn lắm). Một số khả năng dễ bị tổn thương trước những rối loạn và căng thẳng khí hậu cụ thể đã rất hiển nhiên rồi, nhất là đối với phụ nữ, trẻ em và người già, và nói chung là những người nghèo nhất gồm quá nhiều người dân tộc ít người. Những đánh giá về tính dễ bị tổn thương và thích ứng cần phải tiếp tục tiến hành trong nhiều năm tới, với quá trình tìm hiểu và đầu tư lâu dài. Nói cách khác, các kế hoạch và các hành động thích ứng sẽ cần được chỉnh sửa liên tục trong tương lai trung và dài hạn.

Trẻ em trong các trận lũ năm 2000 và 2001 ở đồng bằng Sông Cửu Long30

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

10

20. Trẻ em bị ảnh hưởng nhiều hơn trước từ cả các thiên tai tăng mạnh do biến đổi khí hậu cũng như bởi các căng thẳng khí hậu ít hơn. Các căng thẳng có những tác động trực tiếp và gián tiếp đến an ninh lương thực, các sinh kế của các gia đình, giáo dục, sức khoẻ, và tỷ lệ tử vong. Điều đó đòi hỏi phải có hành động thích ứng có mục tiêu, ví dụ đảm bảo các trường học „chống chịu với thiên tai‟, có nghĩa là, các trường học sẽ có khả năng thực hiện chức năng ngay cả ở các thời điểm có lũ lụt và không bị bão hay các sự kiện khí hậu khác gây hư hỏng một cách dễ dàng. Có rất nhiều kinh nghiệm chỉ ra rằng trẻ em vừa là các thông tin viên tốt vừa là các tác nhân thay đổi trong giảm nhẹ rủi ro thiên tai. Liên Hợp Quốc ở Việt Nam với một số đối tác cũng đã có kinh nghiệm trong tham vấn với các bạn trẻ về tương lai của các em dưới ánh sáng của biến đổi khí hậu, cũng như các biện pháp cần có trong các giai đoạn ngắn và trung hạn để đảm bảo tương lai đó31. Kinh nghiệm này cho thấy mức độ phong phú và tầm quan trọng của các ý tưởng của các bạn trẻ, cũng như có thể cần thực sự chuẩn hoá quá trình tham vấn với các em nam và nữ trong các đánh giá tính dễ bị tổn thương và thích ứng. Các em còn đưa ra nhiều đề xuất về nâng cao nhận thức và giảm thiểu phát thải khí nhà kính (giải pháp công nghệ và kinh tế), như „cây cho nước‟, sử dụng năng lượng tái tạo,v.v…Tuy vậy, các cuộc tham vấn còn cho thấy, các em gái nhất là ở các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh hơn, cho đến nay tụt hậu so với các em trai về các thành tích học tập vì một vài lý do, cũng như nhu cầu hỗ trợ có mục tiêu để đảm bảo các em có các cơ hội công bằng sống trong một tương lai mà trong đó biến đổi khí hậu chắc sẽ là một thực tế của cuộc sống.

21. Phụ nữ nông thôn có các vai trò „tái sản xuất‟ như cung cấp nước, và nhiều người trong số họ đang phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng từ các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Phụ nữ đặc biệt tích cực trong nông nghiệp, nhất là khi đàn ông di cư (đa số là theo mùa) hoặc gánh vác các công việc phi nông nghiệp ở địa phương. Tuy vậy, phụ nữ gánh vác tất cả các trách nhiệm đó của nam giới nhưng không có được cơ hội hưởng dụng công bằng các nguồn lực (như đất đai và tín dụng quy mô lớn hơn), và các dịch vụ khuyến nông vẫn do nam giới chi phối. Phụ nữ di cư ra các thành phố và thị trấn (theo mùa hay lâu dài) thường kiếm ít hơn đàn ông, nhưng vẫn phải đảm nhận trách nhiệm công việc tái sản xuất. Trong các trường hợp thiên tai, phụ nữ đặc biệt mẫn cảm với các bệnh liên quan đến nước. Phụ nữ có các năng lực và có các vai trò chủ chốt trong thích ứng biến đổi khí hậu và quản lý thiên tai ở cấp địa phương, song lại không có địa vị bình đẳng và phụ nữ thường có ít tiếng nói trong các quyết định ở gia đình và cộng đồng có liên quan các vấn đề này. Phụ nữ không được đại diện hợp lý trong các quá trình quy hoạch và ra quyết định ở cấp quốc gia và địa phương về ứng phó với biến đổi khí hậu ngoại trừ về các vấn đề liên quan trực tiếp đến các vai trò của chị em như chăm sóc con trẻ. Vấn đề này ảnh hưởng đến khả năng của quốc gia để lập kế hoạch và quan tâm giải quyết các nhu cầu và các mối quan tâm của cả phụ nữ lẫn nam giới. Điều đó cũng hạn chế cơ hội khai thác năng lực và kinh nghiệm của phụ nữ để thích ứng và giảm thiểu phát thải khí nhà kính ở địa phương.32

22. Chắc chắn, người nghèo sẽ cảm nhận được các căng thẳng khí hậu, trong đó nhiều người thuộc dân tộc ít nguời trên các vùng cao, nơi đã và đang cảm nhận được hạn hán, sạt lở đất có liên quan đến các trận mưa to, cũng như những thay đổi về nhiệt độ. Các dân tộc ít người thường sống ở các vùng sâu, vùng xa, trong khi đó mức đói nghèo tương đối và hạn chế cơ hội hưởng dụng thị trường và các dịch vụ của họ làm tăng tính dễ bị tổn thương của họ. Các căng thẳng về an ninh lương thực và thu nhập đối với những người có khả năng chống chịu và phục hồi tương đối thấp, có nghĩa là có thêm những thách thức trong việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển con người đã được Chính phủ và các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ được nhất trí toàn cầu, đề ra. Điều đó còn có nghĩa là, tri thức và tính đa dạng văn hoá bản địa đang bị đe doạ. Các dân tộc ít người dù có dễ bị tổn thương thế nào đi nữa, cũng không nên nhìn nhận chỉ là các nạn nhân, mà tri thức, các thông lệ và những nét tiêu biểu truyền thống về môi trường thiên nhiên của họ có thể mang trong nó các giá trị quan trọng đối với việc phát triển các biện pháp ứng phó thoả đáng đối với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, các ưu tiên được phụ nữ và nam giới các dân tộc ít người bày tỏ trong bối cảnh

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

11

các căng thẳng của biến đổi khí hậu, chủ yếu là quan tâm giải quyết „khoảng cách phát triển‟, tức là các nhu cầu cơ bản đã có từ trước khi nhận thức được tầm quan trọng của biến đổi khí hậu, nhưng cần phải được quan tâm giải quyết, thậm chí cấp bách hơn vì chính biến đổi khí hậu.

Hà Nội ngày 31 tháng 10 năm 2008: Mưa lớn và trái mùa gây ngập lụt khắp nơi, như có thể thấy trong ảnh chụp từ văn phòng của Liên Hợp Quốc

33

23. Các ngành dễ bị tổn thương đặc biệt là nông nghiệp và thủy sản vì số lượng tương đối lớn các hộ nghèo và gần nghèo kiếm sống từ các ngành này. Cũng dễ bị tổn thương là du lịch (ven biển) và ngành công nghiệp chế tác ở nhiều khu vực. Nguy cơ lũ lụt và nước bão dâng cao sẽ phát tán các chất ô nhiễm từ các ngành công nghiệp sản xuất và sử dụng hóa chất, hay từ các khu tập trung rác thải không được bảo vệ là đặc biệt cao. Nhiều khu vực đô thị đặc biệt dễ bị tổn thương do ngập lụt. Bao gồm thành phố Hồ Chí Minh và tất cả các thành phố và thị trấn lớn ven biển và nằm ở vùng đất thấp như các thành phố và thị trấn ở Đồng bằng Sông Cửu Long (Cần Thơ, Long Xuyên, v.v…), các thành phố dọc theo ven biển (ví dụ, Huế đã trải qua ngập lụt năm trong năm 2009 liên quan đến trận bão Ketsana) cũng như các thành phố bị ảnh hưởng do mưa cục bộ cực đoan (ví dụ, Hà Nội hứng chịu các trận mưa trái mùa và cực đoan cuối năm 2008 hoàn toàn vượt quá sức các hệ thống tiêu thoát nước của thành phố). Trong các thành phố và thị trấn này, những khu dân cư và các gia đình nghèo hơn nói chung, bị ảnh hưởng do tiêu thoát nước tồi và khó khăn trong sử dụng nước sạch vào các thời điểm ngập lụt, trong khi đó an ninh thu nhập có thể bị giảm sút do mất ngày công lao động. Tính dễ bị tổn thương của nông thôn và thành thị trước biến đổi khí hậu sẽ trở nên trầm trọng hơn do thực tế là toàn bộ dân số tiếp tục tăng (đã đạt tới con số 85,8 triệu người vào tháng 4 năm 2009) và nhất là các trung tâm đô thị đang tăng trưởng rất nhanh cả về quy mô lẫn mật độ dân số.

24. Biến đổi khí hậu đe doạ nghiêm trọng đến việc bảo tồn các di sản thiên nhiên và văn hoá của Việt Nam. Mối đe doạ về ngập lụt gia tăng, các điều kiện khí hậu mùa bất thường, mực nước biển dâng và nhiều trận bão mạnh hơn, cũng như sự ấm lên của nước biển là những

đe doạ trực tiếp đến đa dạng sinh vật và các hệ sinh thái. Các mối đe doạ tương tự có thể

trực tiếp ảnh hưởng đến của cải, bao gồm cả các cấu trúc vật thể cổ lẫn hiện đại. Các địa điểm khảo cổ gặp rủi ro xuống cấp nếu xét về nhiệt độ trong đất tăng lên, những thay đổi về độ ẩm và cường độ mưa. Những địa điểm này được thiết kết và xây dựng, sử dụng vật liệu

địa phương đối với khí hậu cụ thể của địa phương và những thay đổi về mẫu hình thời tiết có

thể làm suy yếu các địa điểm này. Hơn nữa, những ảnh hưởng đối với các cấu trúc xã hội

và các nơi cư trú có thể dẫn đến di cư và những thay đổi về các nhóm văn hoá, từ đó đe doạ

di sản văn hoá phi vật thể.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

12

V. Phát thải khí nhà kính

25. Việt Nam có nền kinh tế tăng trưởng nhanh góp phần giảm đói nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho hầu hết người dân Việt Nam, mặc dù tăng trưởng kinh tế bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay và một số yếu kém về cơ cấu kinh tế trong nước, cũng như các khoảng cách đói nghèo tăng lên. Dân số Việt Nam tiếp tục tăng trong khi mức tiêu thụ tính theo đầu người cũng tăng nhanh theo tăng trưởng kinh tế. Điều tra dân số năm 2009 ước tính tổng dân số là 85,8 triệu. Hiện tại tỷ lệ người ở tuổi lao động trên người ăn theo là cao, và theo ước tính tình trạng này sẽ kéo dài trong 30 năm tới và sau đó gảm đi. Do vậy, Việt Nam dễ có khả năng phải trải qua tăng trưởng tiêu thụ nhanh và tăng trưởng phát thải khí nhà kính liên quan trong những năm và thập kỷ tới. Hơn nữa, theo ước tính, hầu hết tăng dân số sẽ diễn ra ở các trung tâm đô thị, dẫn đến việc mở rộng các thành phố và gia tăng mật độ dân số đô thị. Do vậy, quy hoạch và đầu tư hướng tới một nền kinh tế thấp các bon và chủ yếu đô thị dễ có khả năng có những tác động nghiêm trọng đối với „cường độ các-bon‟ của nền kinh tế trong giai đoạn từ trung hạn đến dài hạn.

26. Các nguồn tài nguyên môi trường đang bị đe doạ, cũng như ô nhiễm ở các thành phố và các con sông, tăng nhanh. Việt Nam không đóng góp nhiều vào việc tích luỹ khí nhà kính trong khí quyển trước đây, gây ra biến đổi khí hậu toàn cầu, cũng như tính theo đầu người chưa thể so sánh với tỷ lệ phát thải của các nước giàu, song Việt Nam hiện đang đóng góp thêm vào nguyên nhân của biến đổi khí hậu toàn cầu với các mức phát thải tăng đều. Theo ước tính, tổng các mức phát thải của Việt Nam chắc chắn tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn 2000-2020 chủ yếu lượng phát thải là từ ngành năng lượng (do tiêu thụ năng lượng và sản xuất điện thể hiện dưới đây). Tới năm 2010, khu vực năng lượng sẽ thay thế nông nghiệp chiếm vị trí ngành phát thải khí CO2 cao nhất. Ước tính sau năm 2005, trong ngành lâm nghiệp và “thay đổi sử dụng đất”34, hấp thu CO2 sẽ vượt mức phát thải CO2. Tuy nhiên, sự cô lập các-bon trong ngành lâm nghiệp và sử dụng đất, tóm tắt ở dưới, có thể là quá lạc quan.

Ước tính phát thải khí nhà kính năm 1994 và 2000, với ước tính đến năm 2030 Đơn vị: triệu tấn CO2 quy đổi

Năm Ngành

1994 2000 2010 2020 2030

Năng lượng 25.64 52,74 135,95 255,33 480,61

Lâm nghiệp & chuyển đổi sử dụng đất

19.38 15,14 -9,66 -20,1 -27,88

Nông nghiệp 52.45 65,09 51,86 55,98

59,64

Tổng 97.47 132,96 178,15 311,21 512,37

Nguồn: ALGAS, 1997; Bộ TN-MT, 2000. Các dữ liệu này không đưa vào các phát thải của các quá trình công nghiệp và chất thải, ước tính khoảng 6.2% tổng lượng phát thải (6.4 triệu tấn) năm 1994

35.

27. Phát thải khí nhà kính đang gia tăng đặc biệt là do tăng sử dụng nhiên liệu hoá thạch trong giao thông, sản xuất công nghiệp và phát điện. Nhu cầu năng lượng tăng rất nhanh – và hầu hết năng lượng sản xuất ra là được tạo ra bằng nhiên liệu hoá thạch, như than có rất nhiều ở Việt Nam. Người tiêu dùng, các doanh nghiệp và các cơ quan đang mua các thiết bị sử dụng điện nhiều và cũng như vậy với các thiết bị sản xuất sử dụng tốn điện. Bảng dưới minh họa về sản xuất điện và sử dụng năng lượng.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

13

Ước tính các mức phát thải khí nhà kính đối với phát điện và sử dụng năng lượng Đơn vị: triệu tấn CO2 qui đổi

Năm Ngành

2000 2005 2010

2020

2030

1. Phát điện 10,459 27,836 27,984 100,134 293,648

2. Sử dụng năng lượng

37,233 61,821 81,167 139,813 232,235

Công nghiệp 14,049 23,980 31,340 52,992 76,544

Giao thông 11,601 21,760 28,123 48,352 85,525

Nông nghiệp 1,127 1,782 2,066 2,444 2,901

Sử dụng gia đình

7,193 10,145 13,994 25,313 49,373

Thương mại & Dịch vụ

3,263 4,154 5,644 10,712 17,893

Tổng (1+2) 47,692 89,657 109,151 239,947 525,883

Nguồn: Uỷ ban năng lượng nguyên tử Việt Nam Ghi chú: Các số tổng trong bảng này khác với các số liệu „ngành năng lượng‟ trình bày ở bảng „Ước tính phát thải khí nhà kính đến 2020…‟ nhưng các số tổng ở đây gồm sử dụng năng lượng trong ngành nông nghiệp và tính toán có một số ít vênh nhau

28. Đồng thời, việc sử dụng năng lượng ở hộ gia đình và khu vực công không có hiệu suất cao (ví dụ, cách nhiệt chất lượng kém trong nhà ở và công sở), cũng như trong ngành công nghiệp chế tác (như nhiều cơ sở công nghiệp nhà nước và quy mô nhỏ sử dụng các công nghệ lạc hậu và không đạt hiệu suất cao về sử dụng năng lượng, với mức tổn hao năng lượng gấp hai hoặc ba lần so với các công nghệ khác để sản xuất ra cùng một khối lượng sản phẩm). Theo các chuyên gia, có rất nhiều cơ hội „trong tầm tay” về việc cải thiện hiệu suất năng lượng theo cách hiệu quả về mặt chi phí. Có thể làm được điều này qua quá trình chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực và đầu tư theo từng giai đoạn trong vòng năm năm tới và sau đó. Trước tiên, bằng việc áp dụng ngay Công nghệ Hữu dụng Tốt nhất (BPT) (thực sự chi phí hiệu quả, phổ biến và có thể chỉ cần hỗ trợ ít từ bên ngoài), sau đó bằng việc áp dụng Công nghệ Tốt nhất Hiện có (BAT; sẽ cần nhiều hỗ trợ từ bên ngoài hơn) và tiếp đến là phát triển và sử dụng đầy đủ công nghệ mới (việc này sẽ đòi hỏi nâng cao năng lực đáng kể và có thể cả về vấn đề bản quyền). Một trong những ngành sản xuất có thể đạt được nhiều kết quả theo quá trình này là công nghiệp xi măng. Đồng thời, có nhiều tiềm năng để mở rộng việc tạo ra năng lượng tái tạo, nhất là các năng lượng gió và mặt trời.

29. Nông nghiệp là một nguồn phát thải lớn các khí nhà kính, đóng góp 14% tổng mức phát thải toàn cầu. Khi kết hợp với những chuyển đổi sử dụng đất liên quan, như phá rừng (mà động cơ chính là nông nghiệp), tỷ trọng này chiếm khoảng 1/3 tổng mức phát thải khí nhà kính. Ở Việt Nam, sản xuất lúa nước và chăn nuôi đang gia tăng, góp phần đáng kể vào việc phát sinh khí nhà kính. Chăn nuôi lợn và gia cầm được ưa thích hơn ở Việt Nam vì hiệu quả hơn và tạo ra khí mê-tan ít hơn nhiều trâu bò (mê-tan là khí nhà kính rất mạnh). Tuy nhiên, sản xuất lương thực các loại, đang tiếp tục tăng lên để đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng, liên quan đến tăng dân số và giàu có lên. Diện tích đất canh tác lúa đang thu hẹp ở nhiều địa phương để mở đường cho việc mở rộng công nghiệp và đô thị, cũng như để giảm rủi ro liên quan đến ngập lụt và hạn hán, một số nông dân đã giảm thâm canh từ 3 xuống còn 2 vụ năm. Việc giảm diện tích đất canh tác lúa sẽ giảm tiềm năng phát sinh khí nhà kính từ ruộng lúa, nhưng để đảm bảo cung cấp đủ lương thực, tăng thâm canh và năng suất nông nghiệp cũng đang diễn ra. Thâm canh trong nông nghiệp thường đồng

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

14

nghĩa với sử dụng phân bón nhiều hơn, và việc sản xuất, phân phối và sử dụng phân bón thải ra chất nitơ-ôxít (N20), cũng là một khí nhà kính. Tuy nhiên, những cải thiện trong quản lý nước và các phương pháp làm đất trong trồng lúa và việc sử dụng hiệu quả hơn phân bón là có thể, góp phần giảm chi phí nông nghiệp trong khi giảm phát thải khí Mê-tan và Nitơ-ôxít. Có thể cắt giảm các mức phát thải khí Mê-tan từ chăn nuôi bằng việc điều chỉnh thức ăn chăn nuôi gia súc và bằng việc sản xuất và lưu giữ khí sinh học (biogas) từ chất thải động vật., trong khi năng lượng sản xuất là tái tạo và giảm nhu cầu sử dụng các nhiên liệu hóa thạch. Một số các phương thức này đã được áp dụng ở quy mô nhỏ ở Việt Nam.

36

30. Việt Nam đã tăng thêm độ che phủ rừng từ 27,2% năm 1990 lên 38,2% năm 2007 thông qua chương trình tái trồng rừng. Mặc dù tăng độ che phủ rừng, chất lượng đa dạng sinh vật đang suy giảm ở các vùng của Việt Nam, cũng như rủi ro cháy rừng tăng lên do hạn hán tăng cường bởi biến đổi khí hậu. Nói cách khác, việc cô lập các-bon là không thể diễn ra ở các quy mô đó và rủi ro của những thay đổi hoàn toàn đang gia tăng. Hơn nữa, có nhiều cơ hội để cô lập các-bon nhiều hơn mà vẫn đáp ứng được các mục tiêu khác, là bảo tồn đa dạng sinh vật và giảm đói nghèo, thông qua các kế hoạch sử dụng đất phù hợp. Có tầm quan trọng đặc biệt là các dải rừng ngập mặn dọc theo bờ biển ở các miền Bắc, Trung và Nam, phục vụ cho nhiều mục đích, kể cả các chức năng sinh thái có tầm quan trọng đặc biệt về thuỷ sản, cô lập các-bon và bảo vệ khỏi tác động của nước bão dâng cao.

31. Các nguồn khí nhà kính khác gồm việc phát sinh mê-tan từ các bãi chôn lấp và các bãi rác và từ khai khoáng. Các nguồn này mới chỉ được giảm thiểu một phần và do vậy, có trữ lượng mê-tan chưa khai thác rất lớn để sử dụng (ví dụ làm nhiên liệu phát điện, phát thải CO2, một loại khí có hiệu ứng khí nhà kính thấp hơn nhiều). Việt Nam chưa bắt đầu tìm kiếm các công nghệ để thu và lưu trữ CO2 vì các công nghệ về thu và lưu giữ các bon (CCS) còn đắt. Tuy nhiên, đã bắt đầu có một số nghiên cứu và hoạt động xây dựng năng lực về khía cạnh này37. Điều đó là quan trọng vì việc xác định vị trí các nhà máy điện sẽ xây

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

15

dựng trong tương lai chẳng hạn sẽ quyết định mức độ áp dụng các kỹ thuật thu và lưu giữ các-bon trong trung hạn đến dài hạn, khi có được công nghệ thích hợp và tài trợ.

32. Các mức phát thải các-bon nói chung, chưa được giám sát một cách chi tiết hoặc được tất cả các ngành chức năng, như „giao thông đường bộ‟, „sản xuất thép‟, hoặc như „sản xuất vật nuôi‟, báo cáo – để giúp có thể xây dựng các chính sách có mục tiêu nâng cao các hiệu suất. Những sáng kiến về vấn đề này đang được Bộ TN&MT triển khai cùng một số bộ ngành trong bối cảnh soạn thảo Thông báo quốc gia lần thứ hai gửi cho Công ước Khí hậu, cũng do Liên Hợp Quốc hỗ trợ. Song việc triển khai phương thức tốt nhất của quốc tế trong giám sát và báo cáo sẽ đòi hỏi xây dựng năng lực bổ sung đáng kể với sự hỗ trợ của quốc tế.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

16

VI. Chính sách và các thể chế quốc gia 33. Chính sách biến đổi khí hậu quốc tế và quốc gia có thể chia thành 2 nhóm chung: (a) thích

ứng với những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; và (b) giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Việt Nam đã xây dựng các cơ cấu quốc gia theo yêu cầu của Công ước Khí hậu và NĐT Kyoto, cũng như quy định liên quan. Việt Nam đã tôn trọng các cam kết báo cáo cho Công ước, cụ thể là Thông báo quốc gia thứ nhất, quan tâm giải quyết cả phát thải khí nhà kính lẫn thích ứng38. Việc tham gia quốc tế này đã giúp xây dựng các năng lực quốc gia. Tiếp theo việc nâng cao nhận thức về những thách thức biến đổi khí hậu cả quốc tế lẫn trong nước, Việt Nam đã xây dựng một Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu rất hoàn hảo, với các hành động tập trung vào giai đoạn 2009-2015, được Thủ tướng phê duyệt tháng 12 năm 200839. Chương trình này đề cập mọi ảnh hưởng, tác động và thích ứng biến đổi khí hậu, đặc biệt là mực nước biển dâng, cũng như giảm thiểu khí nhà kính. Chương trình có liên quan đến hầu hết các ngành và sẽ giúp giải quyết nhiều thách thức, và là một phương tiện để đảm bảo thông tin và cộng tác liên bộ. Nhiệm vụ cuối cùng này thuộc trách nhiệm của Ban Chỉ đạo Chương trình do Thủ tướng làm trưởng ban và một Ban Chủ nhiệm với các thành viên là đại diện của một số bộ.

34. Chương trình Mục tiêu quốc gia được xây dựng để tích hợp lồng ghép các mối quan tâm biến đổi khí hậu vào Chiến lược Phát triển KT-XH (SEDS 2011-2020) và Quy hoạch Phát triển KT-XH (SEDP 2011-2015), cũng như vào các chính sách về giảm nhẹ rủi ro thiên tai, quản lý vùng ven biển và cung cấp và sử dụng năng lượng40. Các kế hoạch hành động để giải quyết biến đổi khí hậu sẽ được xây dựng theo Chương trình Mục tiêu quốc gia ở hầu hết các ngành và tất cả các tỉnh liên quan. Kế hoạch hành động sẽ bao gồm nghiên cứu và lập kế hoạch ngắn hạn, cũng như xây dựng và thực hiện các quy hoạch đầu tư trong các giai đoạn sau, sẽ đòi hỏi sự hỗ trợ kỹ thuật đáng kể. Vấn đề quan trọng là, Chương trình Mục tiêu quốc gia cần giúp Việt Nam xây dựng một chiến lược tổng thể về biến đổi khí hậu, trong đó đưa ra được các mục tiêu dài hạn về thích ứng cũng như giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Vấn đề cũng có ý nghĩa quan trọng, nhưng không được đề cập rõ trong Chương trình Mục tiêu quốc gia là việc lồng ghép biến đổi khí hậu với các quy hoạch đầu tư của khu vực công và khu vực tư nhân. Điều này bao gồm thích ứng cơ sở bảo vệ ven biển và „xanh hoá‟ sản xuất và chế tạo năng lượng chẳng hạn.

35. Việc lồng ghép những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và giảm thiểu phát thải khí nhà kính trong các khoản đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn, bởi vì có nhiều cơ hội „có nhiều lợi thế ngay trước mắt’ trong các khu vực như bảo toàn năng lượng, do có nhiều khả năng để có được đồng lợi ích. Nhiều khoản đầu tư cũng đáng giá để tránh bị lệ thuộc vào các ảnh hưởng thực sự của biến đổi khí hậu. Ví dụ, tiếp tục tăng cường quản lý thiên tai, nghiên cứu nông nghiệp và khuyến nông, và hỗ trợ sinh kế nông thôn trong khi vẫn duy trì các tỷ lệ giảm đói nghèo cao có ý nghĩa quan trọng41. Lồng ghép biến đổi khí hậu trong các khoản đầu tư sẽ còn có ý nghĩa „phòng ngừa’, nghĩa là các quy hoạch đầu tư dài hạn cần thừa nhận biến đổi khí hậu ngay từ bây giờ, ngay cả khi những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu sẽ diễn biến phức tạp hơn sau này. Ví dụ cơ sở hạ tầng có „tuổi thọ‟ vài thập kỷ, như các nhà máy phát điện, các cơ sở chế tác, hoặc hệ thống đê điều. Một số công việc lồng ghép đã bắt đầu thực hiện. Ví dụ, thành phố Hồ Chí Minh nằm ở vùng đất thấp và dễ bị tổn thương trước mực nước biển dâng và các ảnh hưởng biến đổi khí hậu khác; thực tế này hiện đang được cân nhắc trong công tác quy hoạch xây mới và gia cố đê điều và các hệ thống tiêu thoát nước. Tuy nhiên, ngay cả dưới ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, cái chưa được cân nhắc là mức độ an toàn trước lụt lội trong tương lai phải cao hơn so với trước đây và ngay cả hiện tại. Điều này là phù hợp với tham vọng trở thành quốc gia phát triển ví dụ vào năm 2050, và nâng cao các lợi ích một cách đáng kể.

36. Quy mô để làm cho các công trình đầu tư cơ sở hạ tầng hiện có và „thông thường‟ có „sức chống chịu với khí hậu‟ dự kiến là rất lớn và cần thiết ở thành phố Hồ Chí Minh, Đồng bằng Sông Cửu Long và các nơi khác ở Việt Nam do các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như được dự báo, và cần phải tiến hành công việc phân tích để làm được việc này. Quy mô đó

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

17

kêu gọi xây dựng các mối cộng tác quan trọng nhằm xây dựng năng lực ở nhiều địa phương. Đặc biệt quan trọng là phải tăng cường năng lực và quy trình quy hoạch không gian ở cả đô thị và nông thôn và xây dựng các quy hoạch tổng thể chi tiết, quy mô lớn có lồng ghép dưới ánh sáng của cả những ảnh hưởng biến đổi khí hậu lẫn nhu cầu tạo ra các điều kiện phát triển kinh tế ít các-bon (nhất là đối với Đồng bằng Sông Cửu Long, thành phố Hồ Chí Minh mở rộng, cũng như Đồng bằng Sông Hồng).

37. Thoạt nhìn, một số chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu, chính sách phát triển xã hội và bình đẳng giới không có bất kỳ mối quan hệ rõ ràng nào. Tuy nhiên, điều quan trọng là xây dựng các khung phân tích và chính sách tạo ra các cộng năng giữa ứng phó với biến đổi khí hậu và theo đuổi các mục tiêu xã hội, như tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi trước các áp lực của biến đổi khí hậu cũng như cải thiện bình đẳng giới. Đặc biệt quan trọng là các quy hoạch (ngành) và các quy hoạch đầu tư cho biến đổi khí hậu, cho dù có liên quan đến giảm nhẹ tính dễ bị tổn thương hay giảm thiểu phát thải khí nhà kính, đều phản ánh được phép phân tích phân biệt về mặt xã hội của các tác động biến đổi khí hậu và các hành động thích ứng, cũng như có các cơ hội giảm thiểu khí nhà kính để tạo ra các đồng lợi ích khác nhau. Phép phân tích như vậy bao gồm ví dụ như những khác biệt do giới, dân tộc, tuổi tác, nghề nghiệp và địa điểm, từ đó sẽ đưa đến các chỉ tiêu và các hành động có sực bóc tách về mặt xã hội. Cần có hành động cấp bách trong các lĩnh vực về đảm bảo sinh kế, sức khoẻ, nhân phẩm đối với phụ nữ, nam giới và trẻ em, và đặc biệt là những người nghèo nhất – bao gồm người dân thuộc các nhóm dân tộc ít người ở vùng xa, vùng sâu. Điều đó có nghĩa là cần tăng cường các cơ hội sinh kế đối với nam giới và phụ nữ kém khá giả hơn hoạt động trong các ngành nông nghiệp, chăn nuôi, nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản, cũng như lâm nghiệp. Cũng cần có các hành động định hướng giới để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, người lao động làm thuê, cũng như các chiến lược sinh kế thành thị. Đặc biệt quan trọng là có các chính sách giúp phụ nữ và nam giới có khả năng di cư mà không bị trở ngại. Cũng rất cần phải có các cách tiếp cận có yếu tố giới trong hoạt động quản lý thiên tai (DRR) nhằm đảm bảo việc ứng phó với các thiên tai khốc liệt hơn do biến đổi khí hậu tạo ra các cơ hội để đạt được các mục tiêu xã hội thay vì tạo thêm các nguyên nhân gây bất bình đẳng42.

43

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

18

38. Xây dựng chính sách, nghiên cứu và nâng cao nhận thức biến đổi khí hậu, tất cả đều đối mặt với những thách thức điều phối, bởi lẽ biến đổi khí hậu liên quan đến rất nhiều ngành và các chiến lược, các kế hoạch hành động và các chương trình mục tiêu quốc gia khác. Sự lãnh đạo toàn bộ việc xây dựng và thực hiện chính sách biến đổi khí hậu đối với Chương trình Mục tiêu Quốc gia là thuộc Ban chỉ đạo chương trình do Thủ tướng đứng đầu và Ban điều hành được thành lập có đại diện của các bộ khác nhau. Văn phòng thường trực Chương trình đặt tại Bộ TN&MT có nhiệm vụ điều phối việc thực hiện chương trình, song năng lực điều phối của văn phòng này còn hạn chế và sự tham gia của các bộ khác còn “pha trộn”. Kinh nghiệm về công tác điều phối có tính thường trực lâu dài và có tính đặc trách đối với các hoạt động ứng phó với các thách thức của quốc gia như Ban Phòng chống Lụt bão Trung ương cho thấy chỉ có thể điều phối tốt giữa các ngành và giám sát thực sự (ví dụ như các dự án đầu tư) nếu một ban chỉ đạo quốc gia được Thủ tướng hay Phó Thủ tướng giám sát trực tiếp và thường xuyên. Điều phối còn đòi hỏi có các cơ cấu hỗ trợ mạnh và được cung cấp các nguồn lực thật hợp lý về các mặt tài chính và số lượng đáng kể nhân viên có chất lượng cao và có nhiều kỹ năng. Cộng đồng quốc tế đang hỗ trợ Văn phòng thường trực của Chương trình Mục tiêu quốc gia, nhưng vẫn cần có sự tăng cường và đóng góp tích cực hơn của các bộ khác nhau. Sự tham gia rất tích cực đặc biệt từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính cũng rất quan trọng bởi lẽ dự kiến sẽ có những thay đổi về tính chất ODA dành cho Việt Nam. So với trước đây, các nhà tài trợ sẽ có quan tâm tương đối nhiều hơn cho việc lồng ghép biến đổi khí hậu với ODA và rất có thể sẽ tạo ra các cơ hội mới về tài trợ quốc tế dành cho các hành động biến đổi khí hậu theo các quyền và trách nhiệm được định nghĩa theo Công ước Khung của LHQ về BĐKH và theo các cuộc thương lượng đang diễn ra. Với các kết quả thành công của các cuộc đàm phán biến đổi khí hậu, Việt Nam sẽ có đủ điều kiện để được nhận các khoản tài trợ “mới và bổ sung” và các khoản vay lãi suất thấp cho công tác ứng phó với biến đổi khí hậu vì Việt Nam là một nước “đặc biệt tổn thương trước các ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”44. Tuy nhiên, trong khi Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang địa vị một nước có mức thu nhập trung bình, điều đó có nghĩa là Việt Nam đang dần trở nên ít hợp lệ hơn đối với các khoản vay lãi suất thấp và tài trợ không hoàn lại từ các ngân hàng đa phương và các nhà tài trợ song phương. Hay nói theo cách khác là tương lai ODA của Việt Nam sẽ có khả năng đổ dồn cho biến đổi khí hậu.

39. Trong các tổ chức khác nhau phải có nhận thức về tầm quan trọng của biến đổi khí hậu và cán bộ chuyên viên phải có kiến thức kỹ thuật liên quan có ý nghĩa quyết định. Do đó, xây dựng năng lực trên nhiều mặt trận là cấp bách. Để triển khai Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với BĐKH, hầu hết các bộ đang được huy động, và hầu hết đều đối mặt với các thách thức quan trọng liên quan đến các vấn đề trên. Một số bộ có các năng lực hơn các bộ khác, trong khi tất cả các bộ đều có các trách nhiệm. Mặc dù nhiều bộ bày tỏ mối quan tâm, nhưng ở hầu hết các bộ (việc lồng ghép) biến đổi khí hậu chưa được nhìn nhận thật quan trọng, ngay cả một vài bộ hiện đang được hỗ trợ trong quy hoạch hành động về các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu (trong ngành mình). Vấn đề hết sức quan trọng là tăng cường nâng cao nhận thức hơn nữa, để cung cấp hướng dẫn kỹ thuật về lồng ghép biến đổi khí hậu, cũng như để xây dựng các năng lực ngay trong các giai đoạn đầu triển khai việc thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia. Dưới đây là các ví dụ về các năng lực và các trách nhiệm:

Bộ NN&PTNT đã coi biến đổi khí hậu như một vấn đề lớn bằng cách thành lập một cơ quan chuyên trách về biến đổi khí hậu, đặc biệt là về quản lý thiên tai và hành động liên quan đến lâm nghiệp đang được tiến hành nhưng trong cả hai lĩnh vực của ngành và các lĩnh vực khác vẫn còn thiếu nhận thức và năng lực.

Bộ KH&ĐT tham gia vào vấn đề biến đổi khí hậu vì bộ có chức năng thống nhất điều phối và quản lý ODA, nhưng số nhân viên có hiểu biết toàn diện về biến đổi khí hậu còn hạn chế.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

19

Bộ Tài chính sẽ trở thành trung tâm đối với bất kỳ nỗ lực nào tài trợ cho thích ứng biến đổi khí hậu và thay đổi hành vi của các doanh nghiệp và người tiêu dùng tư nhân thông qua các nguyên tắc tài chính nhằm giúp phát triển một nền kinh tế ít các-bon.

Bộ Công-Thương có vai trò chủ chốt trong việc tạo thuận lợi cho ngành công nghiệp tìm kiếm các cơ hội đầu tư công nghiệp ít các-bon, sản xuất năng lượng tái tạo, cũng như thông qua điều tiết thị trường.

Chuyển giao và phát triển công nghệ ít các-bon cần phải là mối quan tâm chủ yếu của Bộ KH&CN.

Số nhân viên là chuyên gia ở Bộ Ngoại giao có hiểu biết sâu về các cuộc thảo luận biến đổi khí hậu toàn cầu và các quan điểm chính sách quốc tế vẫn còn hạn chế, nhưng rõ ràng là bộ này có vai trò quan trọng trong các cuộc thương lượng quốc tế về biến đổi khí hậu đang diễn ra.

Bộ Xây dựng và Bộ Giao thông có các vai trò quyết định trong đầu tư cơ sở hạ tầng và quy định, ví dụ phát triển đô thị, có nhiều liên can đến thích ứng biến đổi khí hậu (như sự chống chịu khí hậu của các cơ sở hạ tầng) và giảm thiểu khí nhà kính (như hiệu suất năng lượng).

Bộ GD&ĐT và Bộ VH,TT&DL có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tích hợp biến đổi khí hậu vào các chương trình giảng dạy và đào tạo, với các chiến dịch nâng cao nhận thức rộng rãi trong công chúng - thu thập các dữ liệu về tác động của biến đổi khí hậu đối với các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, và trong các quy hoạch phát triển du lịch, vì các địa điểm du lịch và di sản đang bị ảnh hưởng đáng kể bởi biến đổi khí hậu.

Bộ Y tế và Bộ LĐ, TB&XH có các vai trò quan trọng trong việc giảm nhẹ tính dễ bị tổn thương trước những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Ví dụ, nhiệt độ tăng và các thay đổi về quy luật mưa và lượng mưa làm tăng các sinh vật mang dịch bệnh. Để giải quyết vấn đề này, đòi hỏi tăng cường các hệ thống bảo trợ xã hội và chăm sóc sức khoẻ, cũng như nâng cao nhận thức. Một số bộ cũng có các trách nhiệm về việc khuyến khích đầu tư vào các dịch vụ xã hội để đảm bảo các dịch vụ xã hội vẫn hoạt động và có thể sử dụng vào các thời điểm xảy ra thiên tai như lũ lụt.

40. Tuy nhiên, có nhiều biện pháp ứng phó biên đổi khí hậu lại thuộc trách nhiệm chung giữa các bộ khác nhau và các cấp chính quyền địa phương. Các tỉnh và chính quyền cấp dưới cũng cần phải nhanh chónh xây dựng các kế hoạch hành động của địa phương để ứng phó với biến đổi khí hậu và việc này cũng đòi hỏi phải có các nỗ lực nâng cao nhận thức và xây dựng năng lực quy mô rộng lớn. Các bộ và các trường đại học và cao đẳng đào tạo có các vai trò quan trọng quảng bá về vấn đề này. Chẳng hạn như các cán bộ của Bộ TN&MT đã đến nhiều địa phương và tổ chức các cuộc họp vùng, để giải thích và thảo luận chi tiết Chương trình Mục tiêu quốc gia và các kịch bản chính thức về biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng. Quy hoạch và hành động cũng cần thu hút sự tham gia của một số tổ chức quần chúng như Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, song kiến thức về các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu vẫn còn hạn chế ở một số trong số các tổ chức này, như Hội Phụ nữ và Hội Nông dân. Điều đó có nghĩa là điều phối và hợp tác có ý nghĩa quyết định sự thành công.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

20

VII. Tăng cường khả năng phục hồi trước các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu

41. Sự thống nhất mang tính toàn cầu của IPCC năm 2007 thể hiện rằng trong trường hợp xấu nhất về kịch bản phát thải khí nhà kính, mực nước biển sẽ dâng cao trên 0,59 mét vào năm 2100. Tuy nhiên, bằng chứng mới cho thấy mức nước dâng có thể là 1 hoặc 1,5 mét vào năm 2100, hoặc thậm chí còn cao hơn. Những sự thay đổi như vậy theo dự đoán sẽ có ảnh hưởng lớn, trong rất nhiều thứ khác, đến công tác quy hoạch đê điều để bảo vệ cánh đồng, thôn xóm và thành thị, đến việc mở rộng thành phố ở miền đồng bằng; xây dựng và mở rộng các khu công nghiệp và việc xây dựng hệ thống đường hầm đang được chuẩn bị ở các thành phố chính của Việt Nam. Việt Nam đã đưa vào Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với BĐKH thông số quy hoạch mực nước biển dâng 1 mét vào năm 2100. Đây là con số cao hơn mức dự đoán chính thức của IPCC hoặc Việt Nam (dựa trên kịch bản các mức phát thải trung bình toàn cầu), có xem xét đến nguy cơ là tình hình sẽ có thể trở nên tồi tệ hơn. Việt Nam cũng có kế hoạch sẽ điều chỉnh các dự đoán của mình trong các năm tới trên cơ sở các thông tin mới của quốc gia và quốc tế45. Việt Nam nên xem xét đến nguy cơ có thể sẽ tồi tệ hơn các dự đoán trong trường hợp xấu nhất do các nhà khoa học đưa ra thậm chí ngay cả khi chưa có thêm bằng chứng mới. Điều này có nghĩa là mức dâng cao hơn của nước biển và các ảnh hưởng lớn hơn của bão, mưa, hạn hán và nhiệt độ nên được cân nhắc trong quá trình lập quy hoạch46, gồm cả việc hoạch định lâu dài và việc này cần phải làm ngay bây giờ. Các chương trình này và các hành động cả cho trung hạn và dài hạn đang được tiến hành nên phải được điều chỉnh dựa trên các thông tin mới bổ sung dần theo thời gian.

47

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

21

42. Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến các chiến lược sinh kế của người dân, bao gồm di dân, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Một số người đang đối mặt với việc giảm khả năng tiếp cận với các nguồn tài nguyên, như nhiên liệu đốt và nước. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến nam giới và phụ nữ, và các bé trai và bé gái theo nhiều hướng khác nhau. Phụ nữ sẽ có nhiều nguy cơ bị mất các công cụ sản xuất cũng như quyền thừa kế tài sản (ví dụ như đất đai), và thậm chí phải gánh một khối lượng công việc nặng hơn. Vị thế cũng như quyền thương lượng của người phụ nữ cũng bị ảnh hưởng tiêu cực. Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với BĐKH xác định sự cần thiết phải tiến hành các cuộc đánh giá về mức độ dễ bị tổn thương và khả năng thích ứng (V&A) ở các cấp ngành, khu vực, và cộng đồng, và xác định người nghèo, phụ nữ, và trẻ em là các nhóm dễ bị tổn thương nhất với các tác động của biến đổi khí hậu. Chương trình Mục tiêu Quốc gia không giải thích các vai trò khác nhau giữa nam giới và phụ nữ trong công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, hay các trách nhiệm hoặc quyền đưa ra quyết định của họ, mà các khác biệt về mặt xã hội và các quan hệ xã hội cần phải được phân tích như một phần trọn vẹn trong bản đánh giá tính dễ bị tổn thương và khả năng thích ứng.

43. Về mặt thích ứng với biến đổi khí hậu, do tương lai lâu dài không có tính chắc chắn, việc tạo ra các cơ hội về sinh kế là quan trọng và nên là trọng tâm trong xây dựng chính sách và đầu tư. Ví dụ, việc cải thiện hơn nữa về hành chính đất đai là cần nhiết nhằm đảm bảo quyền lợi về đất đai của phụ nữ không chỉ được công nhận về mặt luật pháp mà còn được công nhận trên thực tế trong trường hợp ly hôn hoặc goá bụa48. Di cư có thể gây ra nhiều căng thẳng và rủi ro hơn nữa cho phụ nữ và trẻ em. Ví dụ như trong các trường hợp di cư mà phụ nữ phải ở lại, họ thường phải gánh vác nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm khác mà chưa hẳn đã được ích lợi gì. Đây là một nguyên nhân của hiện tượng “phụ nữ hóa” trong ngành nông nghiệp có quy mô nhỏ ở nhiều nơi. Mặt khác, khả năng chống chịu và khôi phục sinh kế ở nông thôn cũng đang được củng cố tại những nơi mà thành viên các hộ gia đình quyết định di cư và gửi tiền trợ cấp về quê nhà để đầu tư vào nhà cửa, giáo dục, đất đai và/hoặc thiết bị sản xuất. Sự khác biệt trong các kết quả khác nhau của hiện tượng di cư dường như phụ thuộc một phần vào các cơ hội việc làm và chất lượng công việc ở các khu vực thành thị, vào các chính sách đăng ký hộ khẩu, và vào các dịch vụ hỗ trợ sinh kế ở cấp địa phương (ví dụ như nước tưới, và các dịch vụ mở rộng dễ tiếp cận đối với phụ nữ). Việc di rời thành công và gửi tiền trợ cấp cũng có ảnh hưởng và quyết định đến thành công về mặt giáo dục đối với các em học sinh nam và nữ, trong khi khả năng được đi học của trẻ em di cư phụ thuộc vào việc đăng ký hộ khẩu ở nơi tiếp nhận dân di cư (thường là thành thị). Việc thực sự tạo nên các cơ hội đối với vấn đề thích ứng với biến đổi khí hậu và việc tăng cường ổn định lại sinh kế của nam giới và phụ nữ do đó phụ thuộc mạnh mẽ vào các quyết định chính sách và các khoản đầu tư ở cả cấp quốc gia và địa phương, bao gồm các chính sách di cư và đầu tư vào giáo dục chất lượng cao. Vì vậy, ảnh hưởng của các chính sách di cư về mặt tạo các quyền bình đằng về sử dụng dịch vụ và các cơ hội sinh kế nên được đánh giá liên tục, và các chính sách có thể cần phải được điều chỉnh.

44. Nhu cầu về xây dựng năng lực tự phục hồi trong các ngành nông nghiệp, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản là rất quan trọng, do các căng thẳng về khí hậu ảnh hưởng đến các hoạt động sinh kế này và một tỷ lệ cao những gia đình tương đối nghèo và cá nhân dễ bị tổn thương phụ thuộc mạnh mẽ vào các hoạt động này, đặc biệt là các nông dân nữ và nhiều nhóm nhiều người dân tộc thiểu số. Người nông dân đã phải đối mặt với nhiều rủi ro về hạn hán, mưa lớn và lũ lụt, gió lớn và và nhiệt độ khắc nghiệt, hiện tượng xâm thực ờ đồng bằng và sạt lở đất ở cao nguyên- tất cả các hiện tượng này đang diễn biến xấu đi. Tuy vậy, cả các đầu tư ở nước ngoài và ở Việt Nam đối với Nghiên cứu và Phát triển (R&D) trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn ở mức tương đối thấp, thậm chí cò thiếu các xem xét về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Do đó, các "hành động không hối tiếc" quan trọng là nhằm nâng mức đầu tư vổn nghiên cứu và phát triển đa dạng cây trồng và các khía cạnh khác trong hệ thống nông nghiệp (quy mô nhỏ) cũng như trong việc mở rộng có mục

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

22

tiêu tốt hơn mà các nông dân nữ có thể tiếp cận. Những khoản đầu tư này sẽ giúp đảm bảo đem lại sản lượng cao trong hoàn cảnh khí hậu trở nên khắc nghiệt hơn.

45. Việt Nam có truyền thống lâu năm trong việc đối phó với các thiên tai liên quan đến nước ở các khu vực ven biển và đồng bằng (ví dụ như bão to và lụt sông). Việt Nam cũng có nhiều kinh nghiệm về các cách tiếp cận mang tính tham gia đối với việc đánh giá mức độ dễ bị tổn thương, năng lực và phục hồi, và nhiều giải pháp đang được tìm kiếm thông qua các sáng kiến nâng cao nhận thức ở địa phương, thay đổi hành vi và các biện pháp có quy mô nhỏ như việc xây dựng "các gác phụ" nhằm bảo vệ các nguồn thực phẩm dự trữ khỏi nước lũ. Việt Nam có một số định hướng chính sách rất rõ ràng, bao gồm một cam kết áp dụng "giảm thiểu rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng" (CBDRM, cách tiếp cận này thực tế thường có sự tham gia của người dân) đối với 6.000 xã dễ bị tổn thương nhất (chiếm khoảng một nửa đất nước).

49

46. Cũng cần phải có các cách tiếp cận có sự tham gia của người dân trong các chương trình đầu tư lớn và không chỉ hướng tới việc đạt được các thay đổi về hành vi cũng như trong các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng ở quy mô nhỏ. Ví dụ, theo nhất trí rộng rãi, người dân sống ở Đồng bằng Sông Cửu Long phải lưu tâm về tình trạng "sống chung với lũ" như một khác biệt với việc xây dựng đồng bằng này sao cho tất cả nước sông nằm xa đất liền, và giao thông đường bộ được tập trung sử dụng thay vì giao thông đường thuỷ50. Các hoạt động phá rừng ở đầu nguồn và mưa lớn hơn trong mùa mưa, kết quả của biến đổi khí hậu, đang gây ra việc lượng nước sông tràn về cao hơn trước và thỉnh thoảng gây ra lũ lụt, mặc dù đập được xây dựng có thể giúp giảm đỉnh lũ – nhưng các ảnh hưởng rốt cuộc trên Sông Cửu Long vẫn chưa được phân tích đầy đủ cho chính con sông này51. Lụt sông là có lợi cho đất đai màu mỡ và cho ngành thuỷ sản do "lũ thường xuyên" xảy ra hàng năm. Nhưng các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể khiến lũ sông (đôi khi) trở nên khốc liệt hơn và do vậy làm tăng các thách thức trong việc sống chung với lũ. Một chính sách về định cư đã lưu tâm đến vấn đề này, đó là chính sách hiện hành về việc xây dựng và cải thiện các khu

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

23

nhà ở. Theo chính sách này, người dân sống trong nhà vười rải rác được tập trung lại ở những khu vực có nền tôn cao và nơi người dân tiếp cận được với trường học, nguồn nước sinh hoạt và các dịch vụ khác quanh năm. Trong các trường hợp thành công nhất, người dân giữ lại được những cánh đồng của mình (thường là giao thông đường thủy) và họ tăng cường tiếp cận các dịch vụ và thị trường (thông qua cả giao thường đường bộ và đường thuỷ). Đứng trước biến đổi khí hậu, các công việc này phải được đánh giá một cách nghiêm túc, có thể cần phải được điều chỉnh cho phù hợp và nhân rộng hơn nữa.

47. Cũng cần phải có các loại khác của cơ sở hạ tầng với quy mô lớn để bảo vệ cuộc sống, sinh kế và tài sản, đảm bảo sự phát triển nhân loại không ngừng, và nhằm mang lại các cơ hội về việc làm. Hiện tượng xâm thực và bão lớn không đem lại nhiều lợi ích như phù sa của Sông Cửu Long. Hơn nữa, Đồng bằng sông Cửu Long và các khu vực khác của Việt Nam cũng gánh chịu sự gia tăng hạn hán trong nhiều tháng trong năm, điều đó có nghĩa rằng cần phải có cơ sở hạ tầng để lưu giữ nước ngọt, như đường hầm và các bể chứa. Quan trọng để nhận ra các chức năng khác nhau của cơ sở hạ tầng cần phải được thiết kế và xây dựng một cách thống nhất. Dọc theo toàn bờ biển Việt nam, tại các đồng bằng và những nơi khác các ảnh hưởng khác từ sự biến đổi khí hậu là khác nhau và đòi hỏi các giải pháp khắc phục khác nhau. Ví dụ như việc gia cố đê kè là cần thiết để bảo vệ các làng, xã, và thành phố trong đó có thành phố Hồ Chí Minh khỏi bão to. Các hiện tượng này sẽ diễn biến theo chiều hướng xấu đi khi có biến đổi khí hậu. Có thể giảm thiểu sóng bão bằng cách mở rộng và bảo vệ các khu rừng ngập mặn dọc bờ biển, thậm chí cần phải xây dựng và gia cố đê kè nhằm đảm bảo tăng cường mức an toàn. Có thể phải cần đến các hàng rào để chống ngập lụt nhằm bảo vệ các cảng lớn. Đường xá, cầu, và các khu công nghiệp cần phải được "che chắn khỏi các tác động của khí hậu", có nghĩa là các thiết kế phải được điều chỉnh để vẫn phù hợp khi mực nước biển (trung bình cũng như đỉnh điểm) dâng cao, đảm bảo các yêu cầu về tháo rút nước, chú ý đến vấn đề cấp nước. Hệ thống tàu điện ngầm ở thành thị, các hệ thống thoát nước và nước thải cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với các trường hợp lượng mưa cực cao và nước xả thải lên đến đỉnh điểm. Cần phải kiên cố các toà nhà công cộng cũng như tư nhân để chánh các nguy hại từ bão to. Điều này có thể phần nào đạt được thông qua việc điều chỉnh các tiêu chuẩn và hoạt động xây dựng của các toà nhà.

48. Tăng cường khả năng tự phục hồi của người dân, các khu vực địa lý và các ngành thông qua việc tạo ra các cơ hội sinh kế cho nam giới và phụ nữ, và bảo vệ cuộc sống, sinh kế và tài sản với các biện pháp "mềm" và cơ sở hạ tầng "cứng" sẽ đòi hỏi phải có các nguồn đầu tư rất lớn từ công tác lập quy hoạch tổng thể và từ xây dựng năng lực nghiên cứu cần thiết cũng như cơ sở hạ tầng. Có nhu cầu đầu tư cho đánh giá mức độ dễ bị tổn thương và thích ứng; R&D trong các ngành như nông nghiệp; xây dựng năng lực nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau; thiết kế các biện pháp và cơ sở hạ tầng giảm rủi ro-giảm thiểu; thiết kế tính chất “chống chịu được với biến đổi khí hậu” cho cơ sở hạ tầng hiện tại – trước khi các khoản đầu tư thực tế được triển khai. Việc chia sẻ thông tin và hợp tác là đặc biệt cần thiết, nhằm đảm bảo sự tham gia đầy đủ của cả cộng đồng khoa học Việt Nam với các mối liên hệ chặt chẽ với các trung tâm quốc tế xuất sắc, cũng như các doanh nghiệp trong nước và quốc tế có các nghiên cứu, R&D, và/hoặc khả năng thiết kế lớn.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

24

VIII. Giảm thiểu phát thải khí nhà kính 49. Một nguyên tắc cốt lõi của UNFCCC cũng được trích dẫn trong Chương trình Mục tiêu

Quốc gia Ứng phó với BĐKH của Việt Nam là "các trách nhiệm chung nhưng khác biệt", nhất là về việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính (GHG). Các vấn đề đang được tranh cãi xoay quanh việc các quốc gia công nghiệp có thể giảm thiểu phát thải với khối lượng và tốc độ là bao nhiêu, và liệu các quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình có nên đồng tình với "các mục tiêu ràng buộc" về phát thải khí nhà kính hay không. Tuy nhiên, tại Bali (trong COP 13, năm 2007) các bên đã nhất trí rằng các quốc gia đang phát triển cần thực hiện "các hành động giảm thiểu một cách hợp lý phù hợp với từng quốc gia" (NAMAs). Theo nhiều bên, NAMAs cần phải "đo lường được, báo cáo được, và xác minh được" (MRV). Điều đó có nghĩa là Việt Nam cần hạn chế sự gia tăng về phát thải khí nhà kính trong khi vẫn phải đảm bảo rằng người nghèo và các ngành công nghiệp vẫn tiếp cận được với nguồn năng lượng sạch và không đắt đỏ. Trên thực tế, Việt Nam có nhiều cơ hội để bắt đầu chuẩn bị cho một nền kinh tế phát triển, ít phát thải trong tương lai, bằng cách sử dụng các công nghệ hiện đại và gây dựng vốn đầu tư để giúp giảm chi phí và làm cho việc đầu tư trở nên lôi cuốn về mặt xã hội và kinh tế, trong khi cùng lúc giảm thiểu phát thải khí nhà kính.

50. Hướng tới "một nền kinh tế ít phát thải" và sử dụng các diễn biến chính sách quốc tế về biến đổi khí hậu như một cơ hội phát triển là rất quan trọng, đặc biệt khi mà nguồn tài chính “mới và bổ sung” sẽ có dành cho các nước đang phát triển và các nỗ lực xây dựng năng lực được thúc đẩy mạnh hơn. Điều này không nên là một đòi hỏi lớn đối với tài chính công nội hạt của Việt Nam. Ví dụ như việc chuyển giao công nghệ là một trong các vấn đề cốt lõi trong các thương lượng quốc tế, đặc biệt là các công nghệ có mức phát thải khí nhà kính thấp, mặc dù chuyển giao công nghệ phục vụ cho việc thích ứng cũng rất quan trọng. Điều này có liên hệ mật thiết với các thương lượng liên quan đến hỗ trợ thêm tài chính và các cơ chế tài chính. Điều đó sẽ có sự hỗ trợ đối với các quốc gia đang phát triển trong việc giúp nhóm có thu nhập thấp có thể tiếp cận với các nguồn năng lượng, phát triển việc sản xuất tiết kiệm năng lượng, xây dựng nguồn năng lượng có thể tái tạo, cải thiện sử dụng năng lượng hiệu quả trong giao thông và xây dựng, và (cùng với thời gian) áp dụng thâu tóm và lưu trữ carbon. Chuyển giao công nghệ, như áp dụng và phát triển các công nghệ ít phát thải khí nhà kính là khả thi và có thể đem lại các lợi ích nhanh chóng đối với các hộ gia đình có thu nhập thấp, và đem lại cả các phúc lợi xã hội. Ví dụ bao gồm khí sinh học với quy mô nhỏ và các hệ thống pin sử dụng năng lượng mặt trời, mà có thể trở nên sẵn có về mặt thương mại và hấp dẫn đối với nhiều người sử dụng thông qua các nỗ lực phát triển có phối hợp52.

51. Tuy nhiên, việc chuyển giao công nghệ hầu như diễn ra ở ngành công nghiệp sản xuất, nơi cần có các điểm chuẩn, quy trình rõ ràng, các chuỗi thu nhập ổn định trước khi việc đầu tư được tiến hành. Các doanh nghiệp cần có các cách thức tiên tiến để tăng cường tiết kiệm năng lượng; tiến hành kiểm tra năng lượng và thực hiện các tiêu chuẩn quản lý năng lượng (mới được đề xuất). Chính phủ có thể giúp thực hiện tất cả các công việc trên thông qua các chương trình hỗ trợ. Các doanh nghiệp cần phải có vốn, và việc này có thể được hỗ trợ thông qua các phương thức đảm bảo cho vay (như đã áp dụng trong một dự án về bảo tồn năng lượng tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa - xem hình dưới). Cũng cần phải có các tiêu chuẩn mới mẻ, sáng tạo, và được giám sát cẩn thận (về mặt môi trường) mà các doanh nghiệp có thể áp dụng một cách tự nguyện. Thêm vào đó, cần phải có các cơ quan lớn mạnh và độc lập, có thể thực hiện kiểm tra môi trường dưới nhiều hình thức. Hơn nữa, cũng cần phải có sự xem xét dài hạn về vị trí các khu công nghiệp để tránh lũ lụt đồng thời bảo vệ các vùng đất nông nghiệp năng suất nhất. Vị trí của các nhà máy điện chạy than phải là ở khu vực có triển vọng về thâu tóm và tích trữ carbon53. Vai trò cơ bản của Chính phủ trong vấn đề chuyển giao công nghệ là điều tiết và xây dựng năng lực, cũng như tạo ra một số động lực.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

25

Lò nung hiệu quả năng lượng, được hỗ trợ bởi Dự án Bảo tồn Năng lượng trong các Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ (PECSME; Bộ Khoa học và Công nghệ / Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) / UNDP)

52. Có một chứng cứ lịch sử chứng minh cho quan điểm là đổi mới về kỹ thuật và các nguồn hỗ trợ tài chính gia tăng đổ vào các ngành ví dụ như lâm nghiệp có thể làm tổn hại thay vì củng cố địa vị xã hội của người phụ nữ. Điều này xảy ra đặc biệt khi các vai trò giới là không rõ ràng và các biện pháp chính sách không quan tâm đến các khía cạnh giới. Điều này bao gồm các đổi mới ở cấp các hộ gia đình mà có thể đem lại các lợi ích kinh tế ngay lập tức bên cạnh các lợi ích về mặt môi trường, như lắp đặt các khí sinh học quy mô nhỏ. Vì thế, việc phân tích khía cạnh giới là rất cần thiết và cần phải được đưa vào trong các chiến lược về phát triển và chuyển giao công nghệ. Phân tích các khía cạnh giới cũng là quan trọng khi tiến hành các chiến dịch nhằm thay đổi hành vi phát thải – ví dụ như xây dựng nhận thức về dấu chân carbon của các sản phẩm tiêu dùng. Khả năng và vai trò khác nhau của nam giới và phụ nữ trong gia đình và cộng đồng ảnh hưởng đến các quyết định tiêu thụ, và vì thế đóng góp của họ đối với hành động giảm thiểu phát thải khí nhà kính cũng khác nhau. Ví dụ như phụ nữ có thể là các tác nhân chính trong việc giải quyết các nguyên nhân của biến đổi khí hậu do vai trò của phụ nữ trong việc đưa ra các lựa chọn hàng ngày về tiêu thụ trong gia đình.

53. Cơ chế phát triển sạch (CDM), trong khuôn khổ Nghị định thư Kyoto, về sản xuất và trao đổi các tín chỉ giảm thiểu phát thải, đang hoạt động tại Việt Nam nhưng chưa ở quy mô lớn. CDM có thể đảm bảo tính khả thi về mặt tài chính đối với bãi chôn lấp rác thải có giá trị cao và hỗ trợ đầu tư vào thuỷ điện. Việt Nam có một bộ quy định về việc triển khai CDM. Bộ này bao gồm Chỉ thị của Thủ tướng 35/2005/CT-TTG ngày 17 tháng 10 năm 2005 về tổ chức và thực hiện Nghị định thư Kyoto; Quyết định 47/2007/QD-TTg ngày 6 tháng 4 năm

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

26

2007 về lập kế hoạch và thực hiện Nghị định thư Kyoto cho giai đoạn 2007-2010; và Quyết định 130/2007/QD-TTg ngày 2 tháng 8 năm 2007 về các cơ chế và chính sách đối với việc đầu tư vào các dự án CDM). Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại cản trở đối với việc phát triển đầy đủ CDM tại Việt Nam. Gồm sự thiếu nhận thức tại cộng đồng doanh nghiệp, thiếu đầu tư vốn mang tính rủi ro cao, thiếu sự đánh giá cao của các cơ quan về lợi ích của các dự án CDM, và năng lực còn hạn chế ở nhiều cấp của Chính phủ và trong khu vực doanh nghiệp (bao gồm các cấp được yêu cầu giám sát carbon được tích trữ trên cơ sở các số liệu cơ sở có thể xác minh được). Ngoài ra, quy định hiện hành yêu cầu rằng tất cả tín dụng về tài chính liên quan đến giảm thiểu phát thải được hỗ trợ bởi ODA trong phạm vi CDM được đưa vào Quỹ Môi trường của VIệt Nam chứ không phải chủ dự án. Điều đó làm giảm động lực cho các nhà đầu tư. Để đảm bảo việc áp dụng CDM với quy mô lớn, cần phải có sự phân tích các rào cản một cách kỹ lưỡng và một đối thoại chính sách giữa Chính phủ, doanh nghiệp, và các bên quốc tế có liên quan, cũng như sự thống nhất về các hành động thích hợp, đặc biệt về mặt điều tiết và xây dựng năng lực.

54

54. Vấn đề đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam, cả trong nước và cả với tư cách là một thành viên của các đàm phán quốc tế về khí hậu, là việc Giảm thiểu Phát thải từ phá rừng và Suy thoái rừng (REDD). Việc này có thể liên quan đến hỗ trợ tài chính (bổ sung và mới) từ ODA (khu vực công) đối với việc bảo tồn và bảo vệ rừng, và/hoặc hỗ trợ tài chính từ tiền thu được từ việc buôn bán carbon, nếu được chấp thuận theo một thoả thuận mới của Công ước. Hỗ trợ tài chính từ ODA có nhiều khả năng sẽ đóng vai trò chủ đạo trong thời gian đầu. Việc đưa rừng vào các thị trường carbon là được mong đợi, và điều này sẽ cho phép các quốc gia công nghiệp cắt giảm các mục tiêu giảm thiểu phát thải đã được nhất trí. Tuy nhiên, điều này vẫn đang gây tranh cãi bởi vì nếu các mục tiêu giảm thiểu phát thải khí

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

27

nhà kính ở các quốc gia phát triển không mạnh mẽ hơn với các mức cắt giảm cao hơn thì tổng lượng khí nhà kính phát thải trên toàn cầu sẽ không thể giảm, và động lực đầu tư vào các công nghệ mang tính thân thiện với môi trường cho (các công ty tại) các quốc gia phát triển có thể suy giảm. Hiện chưa có thoả thuận quốc tế nào về các nguyên tắc và cơ chế đối với REDD, nhưng một thoả thuận rộng đang được mong đợi tại Copenhagen. Việt Nam đang được hỗ trợ bởi cộng đồng quốc tế để chuẩn bị cho việc thực hiện các cơ chế tài chính mới về REDD, hay nói cách khác là xây dựng "sự sẵn sàng cho REDD". Sự sẵn sàng cho REDD bao gồm (a) việc xây dựng một chiến lược giảm thiểu phát thải từ ngành lâm nghiệp; (b) xây dựng năng lực để thực hiện các biện pháp đo đạc và báo cáo mức giảm phát thải từ nạn phá rừng và tình trạng suy thoái rừng; (c) xây dựng một đường cơ sở, hoặc "mức phát thải tham chiếu"; (d) thiết kế một hệ thống phân bổ các lợi nhuận từ REDD một cách bình đẳng và minh bạch; và (e) xây dựng năng lực để giảm sát các hành động trên55. Thành công sẽ phụ thuộc vào sự cam kết đầy đủ không ngừng của Việt Nam nhằm xây dựng năng lực ở các cấp khác nhau và đảm bảo rằng các nguồn tài chính bổ sung vào ngành lâm nghiệp thực sự mang lại lợi nhuận cho các nhà quản lý rừng, là những người thực đạt được giảm thiểu phát thải. Quy trình xây dựng sự sẵn sàng cho REDD vì vậy đã bắt đầu và mặc dù người ta không mong đợi nhiều quốc gia sẽ sẵn sàng cho REDD trong vài năm tới, nhưng Việt Nam ở vị trí sẵn sàng cho REDD ngay từ giai đoạn đầu kể từ khi tồn tại một công cụ hiệu lực theo Nghị định thư Kyoto. Hiện tại, người ta dự tính ràng các chi trả sẽ bắt đầu vào 2013 hoặc ngay sau đó.

55. Các hành động giảm thiểu thích đáng mang tính quốc gia (NAMAs) trong ngành nông nghiệp phải phù hợp với các điều kiện và năng lực quốc gia. Ví dụ, các hành động giảm thiểu mà có nhiều đồng-lợi ích đối với an toàn thực phẩm, giảm nghèo, tăng cường bình đẳng (giới) và đẩy mạnh việc phục hồi ở các hệ thống sản xuất nông nghiệp sẽ đóng vai trò quan trọng bởi vì một bộ phận lớn người dân Việt Nam có cuộc sống phụ thuộc vào nông nghiệp. Các ví dụ về kỹ thuật có tiềm năng giảm thiểu hoặc xoá bỏ phát thải và đã được áp dụng tại Việt Nam gồm có việc sản xuất và sử dụng khí sinh học từ phế thải động vật, Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI)56 và nông nghiệp hữu cơ57. NAMAs trong nông nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu phát thải nông nghiệp và ô nhiễm môi trường trong các hệ thông sản xuất có vốn đầu tư lớn, trong khi cũng kích thích việc thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, đầu tư quan trọng từ phía ngành công cộng trong việc xây dựng năng lực, phát triển thể chế, mở rộng hỗ trợ tài chính trong nông nghiệp là cần thiết để phụ nữ và các nông dân là nam giới có thể truyển đổi sang thực hành nghề nông một cách ổn định.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

28

IX. Củng cố kiến thức và nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu

56. Trong hai năm trở lại đây, các phương tiện truyền thông đã tập trung mạnh vào việc đưa tin tức liên quan đến các thách thức của biến đổi khí hậu, như các chương trình dành cho thanh niên, và nhận thức về các tác động của biến đổi thời tiết ngày càng đươc nâng cao tại địa phương. Ví dụ như công việc của Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam và các tổ chức phi chính phủ đã có đóng góp cho việc tăng nhận thức này. Cũng có các sáng kiến mới về việc xây dựng các bộ phim tài liệu trên truyền hình và xuất bản các tài liệu viết về biến đổi khí hậu, bao gồm các sáng kiến được hỗ trợ bởi LHQ. Và cũng có một số nỗ lực nhằm đào tạo và giới thiệu các nhà báo viết về biến đổi khí hậu. Trong khuôn khổ Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với BĐKH, có các kế hoạch sử dụng các nguồn tài chính và nhân lực đáng kể để đạt được các tầng cao về nhận thức trong cộng đồng về biến đổi khí hậu. Trên tực tế, cần phải nâng cao hơn nữa nhận thức từ cộng đồng về các tác động của biến đổi khí hậu cũng như các nguyên nhân của nó vì chúng liên quan đến phát triển kinh tế và xã hội: biến đổi khí hậu phải được hiểu như một thách thức đối với phát triển con người.

57. Các cuộc đàm luận công cộng hiện thời được tập trung vào các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu về thiên tai và sản xuất nông nghiệp (chủ yếu là gạo), tuy nhiên, các ảnh hưởng và tác động của biến đổi khí hậu đối với sức khoẻ/ngành y tế là cũng quan trọng. Hơn nữa, cũng cần phải nâng cao nhận thức về sự cần thiết và các cơ hội đối với việc kiểm soát các phát thải khí nhà kính cho các nhà chức trách và quần chúng nói chung, do hành động mang tính công cộng về vấn đề này vẫn chỉ có quy mô nhỏ mặc dù đã có một số sáng kiến, bao gồm các nỗ lực của các tổ chức sinh viên. Ngoài ra, rất cần phải có sự nhận thức từ quần chúng về tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản văn hoá và tự nhiên vì những di sản đó có tầm quan trọng lớn đối với các cộng đồng dân địa phương và đối với Việt Nam nói chung đối với các hành động giảm thiểu phát thải khí nhà kính và thích ứng (bao gồm bảo vệ và phát triển rừng). Việc đạt được sự nâng cao nhận thức đòi hỏi sự phối hợp nỗ lực thậm chí ở quy mô lớn hơn từ nhiều bộ, nhiều tổ chức và các tổ chức phi chính phủ trong nước cũng như quốc tế, và sẽ đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên có liên quan hơn so với các bên được xác định trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với BĐKH. Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức phải dẫn đến thay đổi hành vi và hành động, ở cấp cá nhân và cộng đồng, ở Chính phủ cũng như các cơ quan, tập đoàn ở mọi cấp, đây có lẽ là “vấn đề khó khăn nhất”.

58. Các chiến dịch về biến đổi khí hậu có thể được xây dựng một cách hữu ích và củng cố trên nền tảng các thông điệp trước đây thúc đẩy ổn định bền vững môi trường, như các chiến dịch về “ba R” (giảm sử dụng, tái sử dụng, và tái sản xuất) trong tiêu thụ cũng như trong sản xuất. Trong phạm vi Chương trình Mục tiêu Quốc gia và các hành động liên quan, cần phải có các nguồn tài chính và nhân lực quan trọng để đạt được mức yêu cầu về giáo dục và nhận thức của công chúng về biến đổi khí hậu. Đặc biệt quan trọng là phải đưa (các cách ứng phó) với biến đổi khí hậu vào giáo dục chính quy và không chính quy, ví dụ như trong các giáo trình ở trường phổ thông, đại học, các khoá đào tạo giáo viên và các chiến dịch tập trung vào học sinh và lôi cuốn các em nhỏ cũng như nam, nữ thanh niên: Kinh nghiệm trong giảm thiểu rủi ro về thiên tai đã chỉ ra rằng trẻ em có thể là ‘các đối tượng tạo nên sự thay đổi’. LHQ cùng với một số đối tác ở địa phương và quốc gia đã bắt đầu gây dựng kinh nghiệm về khía cạnh này và các chiến dịch tiên phong đặt trọng tâm vào thanh niên - bởi vì biến đổi khí hậu rõ ràng là thách thức của ngày hôm này và cả ngày mai.

59. Việt Nam cần có rất nhiều dữ liệu tốt nhằm hỗ trợ cho quá trình xây dựng chính sách và hình thành các kế hoạch hành động và các kế hoạch đầu tư. Chương trình Mục tiêu Quốc

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

29

gia Ứng phó với BĐKH có mục tiêu là hỗ trợ việc này vì Việt Nam cần phải nâng cao năng lực nghiên cứu chính sách đối với các thách thức từ biến đổi khí hậu, đặc biệt là liên quan đến các tác động về kinh tế và xã hội của biến đổi khí hậu và các cơ hội kinh tế để đưa ra hành động kiểm soát phát thải khí nhà kính (như đã đề cập ngắn gọn ở trên). Nhìn chung, có ít nghiên cứu về các chiều cạnh giới tính liên quan đến mức độ dễ bị tổn thương đối với biến đổi khí hậu, và về các cơ hội để tăng khả năng khôi phục đời sống sau các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu cũng như bình đẳng giới (ví dụ như trong các loại hình sinh kế dựa vào nông nghiệp). Vẫn còn thiếu nghiên cứu về việc các quyết định di cư được thực hiện như thế nào và việc di cư tăng khả năng khôi phục đời sống của dân di cư cũng như những người thân ở lại như thế nào. Nhiều tập dữ liệu vẫn chưa được phân tích về mặt lứa tuổi và giới tính (như dữ liệu về tác động của thiên tai). Điều đó có nghĩa là các nhà phân tích và xây dựng chính sách thiếu thông tin cơ sở cho việc thiết lập các chính sách mà phục vụ các mục tiêu xã hội, kinh tế và môi trường cùng một lúc. Cũng tồn tại việc hiểu biết có hệ thống nhưng còn hạn chế về các vai trò và sự cần thiết (mang tính thực tiễn và chiến lược) của phụ nữ trong việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính và cách thức để đẩy mạnh các vai trò đó, mặc dù đã tồn tại những kinh nghiệm như sản xuất điện với quy mô nhỏ và các sáng kiến tiết kiệm năng lượng với phụ nữ đóng vai trò chủ đạo trong các hộ gia đình (trong việc sử dụng khí sinh học và bếp tiết kiệm chất đốt). Các ví dụ khác mà trong đó nền tảng kiến thức cần phải được củng cố là việc nêu lên các tính toán dự toán về chi phí và lợi ích cho các cơ sở hạ tầng có sức chống lại biếu đổi khí hậu; sản xuất năng lượng có khả năng làm mới; và tiết kiệm năng lượng trong sản xuất. Bên cạnh đó, việc sử dụng các công cụ tài chính nhằm thúc đẩy các phát minh đảm bảo phát thải thấp cần phải được nghiên cứu, ví dụ như đánh thuế phát thải carbon, các quy định về mức giới hạn phát thải và buôn bán carbon, hay trợ cấp).

60. Việt Nam có nhiều tổ chức nghiên cứu nhưng ít nhà nghiên cứu chất lượng cao tập trung nghiên cứu các chủ đề liên quan đến biến đổi khí hậu và các nguồn tài chính của đất nước vì công tác nghiên cứu hiện nay được dàn mỏng. Cơ sở nghiên cứu phân tán và trong khi việc hợp tác nghiên cứu đôi khi là tốt, thì việc đó lại có nhiều hạn chế trong nhiều trường hợp. Ví dụ, tất cả mỗi bộ đều có một viện nghiên cứu chính sách và chiến lược, vài viện nghiên cứu (về các chủ đề cụ thể), các trung tâm, cũng như các Cục có thể thực hiện một số dự án nghiên cứu. Trung tâm Khí tượng Thuỷ văn (dự báo thời tiết) và Viện (nghiên cứu) Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Môi trường (IHMEN) đều thuộc Bộ TN&MT, cũng như Cục xây dựng chính sách về chủ đề-- các cơ quan này hợp tác tốt và có một số cán bộ chất lượng cao, tuy nhiên, nguồn nhân lực là vẫn còn hạn chế để đối phó với các thách thức trước mắt. Các trường đại học có chức năng nghiên cứu nhưng nguồn nghiên cứu lại hạn chế, và nhiều cán bộ (phải) tập trung vào giảng dạy. Bộ Khoa học và Công nghệ có nhiệm vụ hướng dẫn nghiên cứu và Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) bao gồm các học viện có chuyên môn về các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS) có thể đưa các khía cạnh về địa lý, xã hội, và kinh tế vào vấn đề biến đổi khí hậu, nhưng Viện này cũng không có đủ hỗ trợ tài chính. Cũng có một số các tổ chức phi chính phủ thiên về nghiên cứu tại Việt Nam thâu tóm được một số quỹ nghiên cứu quốc tế, ví dụ như thuộc Liên hiệp Hội Khoa học và Công nghệ (VUSTA).

61. Có một nhu cầu cấp bách về nâng cao phối hợp trong nghiên cứu, và huy động các nhà khoa học Việt Nam thực hiện đánh giá khoa học thống nhất và hoàn chỉnh về biến đổi khí hậu ở mức độ lớn hơn các nỗ lực hiện tại đang dành cho việc xây dựng Thông báo Quốc gia lần thứ hai cho Công ước. Điều này cũng được nhấn mạnh như hành động ưu tiên trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với BĐKH. Nhằm đối phó với các thách thức, cần phải huy động cộng đồng nghiên cứu và phát triển thực hiện nghiên cứu lớn về việc thích ứng với biến đổi khí hậu và về các cơ hội phát triển đối với việc phát thải ít khí nhà kính. Tài liệu nghiên cứu mang tính địa lý và chủ đề cần phải được tập hợp lại thông qua sự hợp tác của các trung tâm tri thức, với sự ủng hộ từ các tổ chức quốc tế cũng như các trung tâm quốc tế xuất sắc. Với sự hỗ trợ từ LHQ, một số nhà nghiên cứu đầu ngành đã bắt đầu thảo luận không chính thức về việc thành lập Uỷ Ban của Việt Nam về biến đổi

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

30

khí hậu (VPCC) cùng với mô hình IPCC. Mục tiêu của VPCC có thể là để tăng cường nghiên cứu về tất cả các khía cạnh của biến đổi khí hậu và cung cấp các đầu vào cho quá trình đánh giá IPCC. VPCC có thể tụ tổ chức tương tự như IPCC, với các nhóm làm việc để đánh giá (a) cơ sở khoa học của biến đổi khí hậu tại Việt Nam; (b) tính dễ bị tổn thương và tác động của biến đổi khí hậu, và các lựa chọn đối với việc thích nghi với biến đổi khí hậu và (c) các lựa chọn đối với việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính phù hợp với Việt Nam. VPCC có thể tổ chức các cuộc hội thảo để đi đến một thoả thuận khoa học về bản tóm tắt các kết quả nghiên cứu gần đây nhất liên quan đến các tác động biến đổi khí hậu đối với Việt Nam cũng như các cơ hội đối với sự phát triển ít phát thải. VPCC thống nhất lựa chọn Chủ toạ và một nhóm cốt lõi hoặc một Ban, gồm các nhà khoa học đại diện cho các lĩnh vực hàn lâm kác nhau. Các thành viên của Uỷ ban sẽ tham dự với tư cách cá nhân, nhưng các lãnh đạo của họ được mong đợi sẽ ủng hộ các nhà khoa học này trong việc tham dự vào VPCC. Ban thư ký của VPCC sẽ được thành lập, với mục đích chính là điều phối hoạt động.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

31

X. Tài chính và đầu tư dành cho công tác ứng phó với biến đổi khí hậu

62. Theo một số phân tích quốc tế, các nhu cầu về tài chính đối với việc thích nghi với biến đổi khí hậu cũng như giảm thiểu phát thải khí nhà kính là rất lớn58. Việt Nam phải hỗ trợ tài chính cho việc làm giảm nhẹ các khả năng dễ bị tổn thương để giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu và cũng có các nhu cầu đầu tư vào ngành công cộng và tư nhân để giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Một số việc về „các cơ hội có nhiều lợi thế ngay trước mắt‟ hoặc “đầu tư không nuối tiếc” trong việc tăng cường tiết kiệm năng lượng được biết đến rộng rãi: đầu tư vào nghiên cứu và phát triển đa dạng vụ mùa cũng như cải thiện các dịch vụ y tế và giáo dục được xem là đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao các tiêu chuẩn hiện tại thay vì đợi chờ các tụt hậu trong sự phát triển của nhân loại như một kết quả của biến đổi khí hậu. Các đàm phán quốc tế về khí hậu hướng tới các cuộc thảo luận về cách thức tăng hỗ trợ tài chính ở các quốc gia giàu hơn và tiêu thụ nhiều carbon, và cách thức cũng như mức độ tài chính nên được chuyển đến các quốc gia dễ bị tổn thương đối với biến đổi khí hậu và các quốc gia bị yêu cầu hạn chế việc tăng phát thải khí nhà kính. Hỗ trợ tài chính có thể sẽ thông qua cả các kênh thị trường và công cộng (ODA). Nhiều quốc gia đang phát triển và nhóm các quốc gia đang chờ đợi các khoản chuyển giao hỗ trợ tài chính lớn nhằm giúp họ ứng phó với các thách thức do biến đổi khí hậu đặt ra, trên cơ sở phần công việc phân tích thể hiện các chi phí đối với biến đổi khí hậu và cả các chi phí dùng cho công tác ứng phó với hiện tượng đó.

63. Việt Nam được mong đợi sẽ sớm trở thành Quốc gia có mức thu nhâp trung bình (MIC), điều đó có nghĩa là ODA thông thường sẽ phải giảm. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn sẽ đủ điều kiện để được nhận các hỗ trợ “mới và bổ sung” và các khoản vay lãi suất thấp trong khuôn khổ của Công ước khung LHQ về BĐKH (UNFCCC) để phục vụ cho mục đích thích ứng và giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Kết quả về tài chính quan trọng đối với các đàm bán về khí nậu quốc tế sẽ diễn ra như thế nào vẫn là điều chưa rõ ràng, tuy nhiên, đã có một xu hướng ưu tiên trở lại đối với ODA cho mục đích ứng phó với biến đổi khí hậu và tích hợp vấn đề biến đổi khí hậu vào các nỗ lực phát triển rộng hơn. Rõ ràng là ODA cho Việt Nam trong tương lai có thể sẽ tập trung chính vào vấn đề biến đổi khí hậu. ODA sẽ trở nên quan trọng trong giai đoạn ngắn, bởi vì theo trông đợi, các hành động giảm thiểu phát thải sớm sẽ hạn chế được các chi phí đới với hành động thích ứng sau này, trong rất nhiều các lý do khác nữa.

64. Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) là cơ chế tài chính chính thức của UNFCCC, và được trông đợi sẽ nhận được nhiều hỗ trợ tài chính hơn nếu như việc quản lý của GEF được cải thiện. Việt Nam cũng có thể nhận được các nguồn tài từ Quỹ Thích ứng (cung cấp từ việc đánh thuế CDM theo Nghị định thư Kyoto); từ các cánh cửa tài chính về khí hậu của các ngân hàng phát triển59, và từ REDD hoặc các cửa khổ tài chính mới (khác)60 mà được mong đợi sẽ được thành lập theo UNFCCC. Cộng với các nguồn ODA song phương mang tính tập trung61. Các cơ hội về tài chính được mong đợi sẽ tuân theo các hình thức ODA và sẽ đem lại các quan hệ đối tác với nhiều bên liên quan khác nhau của Việt Nam, bao gồm các bộ ngành và các cơ quan cấp tỉnh. Việt Nam sẽ cần năng lực rất lớn để tiếp cận những nguồn tài chính được hỗ trợ như vậy. Điều đó đòi hỏi các nỗ lực tập thể để tìm hiểu về các lựa chọn cũng như hợp tác xuất sắc giữa Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, Bộ Công Thương, và các bộ ngành khác. Việt Nam cũng có thể theo mô hình của các nước khác và áp dụng cách tiếp cận theo chương trình liên quan đến các khía cạnh nghiên cứu, xây dựng kỹ thuật và năng lực của Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với BĐKH cũng như các hành động hiện đang được xây dựng trong các kế hoạch hành động cấp bộ ngành và cấp tỉnh. Từ đó có cơ sở theo chương trình cho việc thiết lập một Quỹ Ủy thác biến đổi khí hậu để tiếp nhận và quản lý các hỗ trợ tài chính quốc

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

32

tế theo các quy tắc quốc tế phù hợp với quốc gia và hài hòa, đặc biệt là các hỗ trợ tài chính nhằm trợ giúp kỹ thuật và xây dựng năng lực.62

65. Để Việt Nam có thể có được nguồn tài chính hàng triệu đô la cần để ứng phó với hiện tượng mực nước biển dâng và các hậu quả khác của biến đổi khí hậu trong thế kỷ tới, không thể chỉ dựa vào ODA nhưng cũng phải nâng vốn đầu tư trong nước. Điều này có liên quan tới chẳng hạn như việc bảo vệ bờ biển và thoát nước trong thành phố, những khoản nhận được từ hỗ trợ tài chính rộng rãi của khu vực công. Cũng cần phải kích thích việc hỗ trợ tài chính thông qua các thị trường trong nước cho các hoạt động ứng phó với biển đổi khí hậu, đặc biệt nhằm hạn chế sự gia tăng phát thải khí nhà kính (các hành động giảm thiểu trong khuôn khổ cơ chế CDM của các tổ chức của các quốc gia phát triển thông qua các hành động tiến hành ở các nước đang phát triển, được đề cập trong Phần VIII). Tuy nhiên, Việt Nam có kinh nghiệm vẫn còn hạn chế đối với các công cụ chính sách tài chính có khả năng mang lại các dấu hiệu thị trường rõ ràng cho người dân và các doanh nghiệp để giảm thiểu tính dễ bị tổn thương với biến đổi khí hậu và để kiểm soát phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ phải quyết định, hoặc thử nghiệm đối với nhiều dạng đánh thuế phát thải carbon hoặc một hệ thống giới hạn và trao đổi carbon trong nước, nhằm ảnh hưởng đến việc tiêu thụ và sản xuất khí nhà kính. Vẫn rất cần phải học hỏi thêm về các vấn đề này và xây dựng năng lực thực hiện các hệ thống đó. Tiền thu lại được từ việc tăng thuế carbon trong nước có thể đươc sử dụng một phần vào hỗ trợ tài chính cho việc thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, vốn đầu tư từ cả ngành tư nhân trong nước lẫn nước ngoài có thể được huy động cho việc ứng phó với biến đổi khí hậu. Để làm được điều này, Việt Nam sẽ cần phải đảm bảo rằng quy định chung về kinh doanh là hoàn chỉnh và minh bạch, dẫn đến việc có được nguồn tiền thu lại mang tính ổn định từ các đầu tư tài chính (trong và ngoài nước). Ví dụ, đã tồn tại kinh nghiệm liên quan đến việc lập kế hoạch bảo hiểm “dựa vào chỉ số”, ví dụ như các biện pháp bảo hiểm cho cây trồng nhằm chuyển giao các rủi ro về bão lụt của Sông Cửu Long đến các thị trường quốc tế dựa vào mực nước sông ở thượng nguồn. Tuy nhiên, Việt Nam có năng lực điều phối và thể chế còn hạn chế trong lĩnh vực này. Do đó, rất cần phải nâng cao năng lực ở nhiều cấp để phát triển và áp dụng các công cụ chính sách tài chính và bảo hiểm dựa vào chỉ số để giảm thiểu các khả năng dễ bị tổn thương với biến đổi khí hậu.

66. Chính phủ cũng có thể khuyến khích hành vi tự nguyện của các doanh nghiệp và các tổ chức khác thông qua việc quy định các tiêu chuẩn (tự nguyện) mới mẻ, trong nhiều cách khác, và điều đó có thể kích thích trao đổi carbon một cách tự nguyện ở trong nước. Ngày càng có nhiều thu hút đối với các doanh nghiệp trong nước và quốc tế trong việc gánh vác “trách nhiệm xã hội” cho chính các hành động của họ vì cả các lý do đạo đức và cả để đáp ứng với yêu cầu từ người tiêu dùng về sản xuất và các thực hành thương mại “xanh” và có thể chấp nhận được về mặt xã hội. Điều này dẫn đến tự nguyện giảm phát thải carbon của các doanh nghiệp và cả cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức phi chính phủ bằng cách mua tín dụng carbon. Nói cách khác, các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước và các tổ chức phi chính phủ gián tiếp đầu tư vào các phương thức xây dựng rừng, thâu tóm mê-tan, và các sáng kiến khác đem lại sự cắt giảm trong phát thải khí nhà kính. Hơn nữa, Việt Nam có kinh nghiêm với các quỹ đảm bảo tiền vay nhằm nâng cao khả năng tiếp cận vốn và giảm rủi ro đầu tư cho các công ty đầu tư vào tiết kiệm năng lượng, công nghệ phát thải khí nhà kính thấp, và sản xuất năng lượng tái tạo được. Tuy nhiên, quy mô của các nỗ lực này vẫn còn nhỏ và nhiều doanh nghiệp và ngân hàng vẫn còn chưa tin tưởng vào việc này.63

67. Cần phải xây dựng các kế hoạch đầu tư vào cơ sở hạ tầng chịu được biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có quy định về vấn đề chịu được khí hậu và chưa có năng lực để thực hiện phân tích lợi nhuận-chi phí phức tạp trước khi quyết định các khoản đầu tư như vậy64. Các đầu tư mới đầu sẽ nhằm vào „các cơ hội có nhiều lợi thế ngay trước mắt‟ và “các đầu tư không hối tiếc” vào cơ sở hạ tầng chẳng hạn để đảm bảo cơ sở y tế và giáo dục vẫn hoạt động mà những đối tượng dễ bị tổn thương nhất vẫn có thể tiếp cận được trong giai đoạn trong và ngay sau khi các thiên tai liên quan đến khí hậu xảy ra. Sau

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

33

đó, các đầu tư mang tính mạo hiểm hơn về mặt tài chính có thể được áp dụng, trên cơ sở kiến thức đã được nâng cao về các tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu và các chi phí thêm phát sinh. Đối với các vấn đề chính về mực nước biển tăng và hiện tượng xâm thực mặn, và nhu cầu phải bảo vệ đồng bằng và các vùng ven biển, phải định ra mức đầu tư lớn vào nghiên cứu và thiết kế. Quy mô và tuổi thọ của các dự án cơ sở hạ tầng này là chưa từng có tiền lệ.

68. Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế bắt đầu vào năm 2008 đã đi kèm với một số vấn đề về cơ cấu trong nền kinh tế tại Việt Nam. Các quốc gia phát triển phản ứng với khủng hoảng này bằng cách mua lại với quy mô lớn các ngân hàng, cũng như các nước khác hỗ trợ cho ngân hàng của họ, trong khi đó nhiều người kêu gọi chính phủ các quốc gia giàu và các quốc gia đang phát triển có nền kinh tế lớn sử dụng các nguồn tài chính dành cho việc tạo ra động lực cho nền kinh tế đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ để ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu và để giảm thiểu khí nhà kính. Chính phủ Việt Nam cũng áp dụng một chuỗi các biện pháp để bảo vệ các doanh nghiệp và tạo việc làm. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính cũng nên được xem là cơ hội để bắt đầu ứng phó với một số thách thức về khí hậu. Các nguồn trong nước để kích thích tài chính là hạn chế, tuy nhiên các nguồn ngân sách này dùng để thúc đẩy nền kinh tế có thể được ưu tiên cho các hoạt động như phát triển cơ sở hạ tầng với quy mô nhỏ mà “chịu được khí hậu”, do đó giúp bảo vệ Việt Nam tránh khỏi các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (như bão lớn, lụt lội và hạn hán), bên cạnh việc tạo ra việc làm. Đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng, bao gồm ngành sản xuất, cũng là khả thi, và sẽ mang lại các lợi ích về mặt kinh tế cũng như cho môi trường,

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

34

XI. Tham gia các cuộc thương lượng quốc tế về biến đổi khí hậu

69. Vấn đề quan trọng là „đạt được thoả thuận khí hậu‟ tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước khung LHQ về biến đổi khí hậu lần thứ 15 (COP15) sẽ tổ chức ở Copenhagen vào tháng 12 năm 2009. Điều đó có nghĩa là, „Lộ trình Bali‟ được nhất trí tại COP13 cuối năm 2007, sẽ được phát triển thành một thoả thuận „hành động hợp tác dài hạn‟ công bằng và thiết thực. Các Bên tham gia NĐT Kyoto cũng đang thương lượng các chỉ tiêu phát thải cho „giai đoạn cam kết thứ hai‟ (dự kiến từ 2012 đến 2016). Các cuộc thương lượng này là rất thách thức và chỉ có một „thoả thuận khung‟ có thể đạt được ở Copenhagen là cần phải được vạch ra ở các cuộc họp sau. Các cuộc thương lượng đó có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam. Việt Nam sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi nếu việc tăng cường hợp tác quốc tế không được thoả thuận và triển khai nhanh để giải quyết các nguyên nhân cũng như hậu quả của biến đổi khí hậu. Việt Nam có khả năng giúp định hình chính sách khí hậu quốc tế để phục vụ những quan tâm lợi ích của nước mình và của các nước tương tự khác, cũng như đóng vai trò tích cực và có tính xây dựng trong nền ngoại giao khí hậu quốc tế. Một kết quả thành công ở Copenhagen (và sau đó) chỉ có thể có được thông qua: tăng cường các cuộc đối thoại (chính thức và không chính thức) giữa các nước đang phát triển, các nước tài trợ, và các tổ chức quốc tế; tăng cường các mối liên kết (ví dụ giữa các nước ASEAN với các đối tác gần gũi); xây dựng các quan điểm chính sách quốc tế có tính khả thi; và tích cực tìm kiếm những thoả thuận và thoả hiệp. Bộ TN&MT và Bộ NN&PTNT đã tích cực tham gia và có những năng lực trong những lĩnh vực này, song một nền ngoại giao khí hậu thành công chắc chắn sẽ đòi hỏi tham gia tích cực và tăng cường hơn nữa năng lực, đặc biệt là ở các bộ khác. Liên Hợp Quốc và các đối tác khác đã cộng tác với Bộ TN&MT tiến hành một số nỗ lực xây dựng năng lực về chính sách và nền ngoại giao khí hậu, nhưng việc cam kết tham gia của một số bộ chủ chốt – qua việc cử nhân viên có các kỹ năng tốt về ngoại ngữ, am hiểu biến đổi khí hậu và có chức năng – vẫn còn thiếu. Thành công trong việc đạt được những thoả thuận quốc tế, đòi hỏi sự lãnh đạo có quyết tâm cao của Việt Nam, trong đó có đầu tư về nguồn lực con người để tham gia các cuộc thương lượng khí hậu, xây dựng năng lực và cả việc đi lại, cũng như cần có sự hỗ trợ quốc tế.

70. Công ước khung LHQ về biến đổi khí hậu và NĐT Kyoto là cơ sở pháp lý cho các cuộc thương lượng quốc tế. Điều quan trọng là, tất cả các Bên, trong đó có Việt Nam, đảm bảo sao cho các thoả thuận ở Copenhagen (và sau đó) thực hiện được đầy đủ và có hiệu lực Công ước Khí hậu. Cần đạt được sự thoả thuận về những vấn đề chủ yếu, gồm: (a) các chỉ tiêu cắt giảm khí nhà kính của các nước phát triển; (b) các hành động thích ứng, đặc biệt ở các nước đang phát triển, như Việt Nam; (c) tài trợ „mới và bổ sung‟ cho các hành động ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua các cơ chế thiết thực và được quản lý „công bằng‟; (d) có những cam kết chắc chắn về xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ; và (e) cắt giảm phát thải từ phá rừng và suy thoái rừng (REDD). Tất cả những vấn đề thương lượng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam.

71. Do biến đổi khí hậu là một thách thức đối với phát triển con người, cho nên trong các thoả thuận về mọi vấn đề trên, cần phản ánh được các nguyên tắc phát triển bền vững, bao gồm xoá đói nghèo (ngắn hạn) và bảo vệ tránh các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; tăng trưởng kinh tế; cải thiện công bằng xã hội, kể cả bình đẳng giới; và tính bền vững về môi trường dài hạn (có cân nhắc đến „các thế hệ tương lai‟). Việt Nam có khả năng tạo thuận lợi cho quá trình này ở quy mô quốc tế bằng việc phát huy các kinh nghiệm của mình trong việc thực hiện Agenda21 Việt Nam và lồng ghép các nguyên tắc phát triển bền vững trong Quy hoạch Phát triển KT-XH (2006-2010) và các cách thực hiện khác.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

35

Giảm thiểu phát thải khí nhà kính

72. Công ước Khung LHQ về biến đổi khí hậu nêu rõ nguyên tắc „các trách nhiệm chung nhưng có phân biệt)65. Nguyên tắc này có nghĩa là, các nước phát triển ngoài những vấn đề khác, chịu trách nhiệm chính cắt giảm phát thải khí nhà kính và cung cấp hỗ trợ tài chính cho các nước đang phát triển nhằm giúp các hành động thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Tuỳ theo năng lực liên quan của mình, các nước đang phát triển sẽ tiến hành „các hành động giảm thiểu thích hợp ở cấp quốc gia‟ (NAMAs) theo thoả thuận Bali. Những hành động đó đang được triển khai ở Việt Nam với sự hỗ trợ về các nguồn lực tài chính và con người của quốc gia cũng như nguồn ODA. Tính nhất quán với các thoả thuận quốc tế, cũng như thực tế Việt Nam đang chủ động hành động (có thể chứng minh trong Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu) đang tạo ra những lợi thế cho đất nước trong việc đưa ra luận cứ đối với việc tài trợ quốc tế „mới và bổ sung‟66 đối với các hành động thích ứng biến đổi khí hậu và giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Các năng lực của Việt Nam cao hơn đáng kể so với hầu hết các nước kém phát triển và các Nhà nước đảo nhỏ đang phát triển. Theo Công ước Khí hậu, các nước này được đối xử đặc biệt như những nước đáng được nhận hỗ trợ quốc tế. Điều đó có nghĩa là, Việt Nam được kỳ vọng tiếp tục có những đóng góp đáng kể ở trong nước đối với các hành động biến đổi khí hậu.

73. Nguyên tắc „những trách nhiệm chung nhưng có phân biệt‟ chủ yếu liên quan đến trách nhiệm lịch sử và hiện nay về phát thải khí nhà kính và các chỉ tiêu giảm thiêu liên quan của các nước phát triển. Nguyên tắc này cũng liên quan đến các trách nhiệm không bị rằng buộc về giảm thiểu khí nhà kính của các nước đang phát triển (NAMAs). Những trách nhiệm trên vẫn có thể là những vấn đề trung tâm trong các thoả thuận khí hậu tới đây. Việt Nam không mong muốn thay đổi việc sử dụng các nguồn vốn cho các nỗ lực giảm đói nghèo, cải thiện các dịch vụ cơ bản, nâng cao bảo vệ xã hội và tạo việc làm, cho các mục đích khác. Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần theo đuổi các hành động giảm thiểu phát thải khí nhà kính theo cách tiếp cận ‘được-được’ ở những nơi có thể, có nghĩa là vừa thúc đẩy phát triển KT-XH vừa giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Những nỗ lực này ít ra cũng nhận được sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật nào đó của các nước phát triển. Các nước đang phát triển có nhiều cơ hội để có những đóng góp đáng kể cho các nỗ lực giảm thiểu khí nhà kính quốc tế bằng những công nghệ hiện có, cũng như các công nghệ mới. Những ví dụ gồm có các công nghệ cải thiện hiệu suất năng lượng các toà nhà và công nghiệp chế tác, sản xuất biogas và các phương thức nông nghiệp để hạn chế phát sinh khí mê-tan. Những hành động giảm thiểu phát thải khí nhà kính của các nước phát triển cũng như sự hỗ trợ của các nước này cho các nước đang phát triển để giảm thiểu khí nhà kính cần phải „Đo lường, Báo cáo và Kiểm chứng được‟ (MRV), theo các trách nhiệm của các nước phát triển được Công ước Khí hậu quy định. Nếu các nước đang phát triển, như Việt Nam thực hiện các sáng kiến giảm thiểu khí nhà kính bằng sự hỗ trợ trong nước, thì các nước đang phát triển có thể cũng tuân thủ nguyên tắc ‘Đo lường, Báo cáo và Kiểm chứng’ để giúp thuyết phục các nước khác là, Việt Nam đang góp phần giải quyết các nguyên nhân của biến đổi khí hậu, cho dù Việt Nam không có trách nhiệm về lịch sử hoặc pháp lý. Tuy nhiên, „Đo lường, Báo cáo và Kiểm chứng‟ dự kiến cho những hành động khác nhau ra sao, vẫn chưa được quốc tế thoả thuận và có thể, sẽ có nhiều nước đang phát triển cần hỗ trợ của quốc tế để thực hiện.

Thích ứng biến đổi khí hậu

74. Một số nhà nước đảo nhỏ đang phát triển sẽ biến mất do mực nước biển dâng, cũng như ở các nước có các châu thổ lộng lớn như Việt Nam, chắc chắn sẽ có rất nhiều người bị ảnh hưởng, trừ phi tiến hành hành động có ý nghĩa quyết định. Một số nước có đất khô hạn có thể phải đối mặt với lượng mưa giảm (nhiều hơn), cũng như các nước khác sẽ phải hứng chịu các cơn lũ vào mùa mưa và chắc chắn sẽ phải chịu các trận lũ lụt thậm chí tồi tệ hơn

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

36

khi mưa to, tập trung vào mùa mưa ngắn hơn.67 Chắc chắn, Việt Nam sẽ đối mặt với lũ lụt và sạt lở đất nhiều hơn, hạn hán nhiều hơn, mực nước biển dâng và xâm mặn nhiều hơn ở các châu thổ, cũng như nhiều trận bão hơn, có cường độ mạnh hơn. Tất cả những ảnh hưởng biến đổi khí hậu đó có nghĩa sẽ chồng thêm những áp lực tiêu cực đối với sinh kế, công việc, cũng như các cơ sở vật chất và hạ tầng xã hội. Các nước có khả năng chống chịu và phục hồi khác nhau và năng lực khác nhau để giải quyết những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Khả năng chống chịu và phục hồi và năng lực sẽ quyết định những tác động của các ảnh hưởng biến đổi khí hậu đối với người dân, các cộng đồng, các ngành và toàn bộ nền kinh tế. Năng lực của các nước còn quyết định các nhu cầu tương đối và các yêu cầu về tài trợ khí hậu quốc tế. Việt Nam có năng lực tốt so với nhiều nước đang phát triển. Tuy các nước kém phát triển và các nhà nước đảo nhỏ đang phát triển được hưởng đối xử đặc biệt theo Công ước Khí hậu, Việt Nam rõ ràng là một nước „đặc biệt dễ bị tổn thương trước những ảnh hưởng bất lợi của biến đổi khí hậu‟ và „nếu được xem xét đầy đủ‟ sẽ được hỗ trợ cho các hành động thích ứng theo quy định của Công ước Khí hậu.68

75. Những nhu cầu thích ứng biến đổi khí hậu của Việt Nam bao gồm các biện pháp tăng cường giảm nhẹ rủi ro thiên tai; nâng cao nhận thức và thay đổi ứng xử trong các lĩnh vực sẵn sàng ứng phó; tăng cường các hệ thống bảo vệ xã hội tập trung vào những người dễ bị tổn thương nhất; cải thiện cơ hội hưởng dụng cũng như tiếp tục cung cấp các dịch vụ xã hội; tăng cường bảo hiểm xã hội và thương mại trước những căng thẳng của khí hậu; tăng cường các dịch vụ hỗ trợ sinh kế, như khuyến nông; tăng cường các nỗ lực nghiên cứu và phát triển, nhất là trong nông nghiệp; các khoản đầu tư về cơ sở hạ tầng quy mô lớn và làm cho các cơ sở hạ tầng khác „chống chịu với khí hậu‟; cũng như cải thiện nhiều hơn công tác quy hoạch công nghiệp hoá và đô thị hoá. Các cuộc thương lượng Công ước Khí hậu phải đi đến kết quả thiết lập được các thể chế thích ứng toàn diện, cũng như các cam kết hỗ trợ các nước đang phát triển trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu. Điều đó có thể bao gồm (a) một Nghị định thư thích ứng hoặc một quyết định của Hội nghị các Bên chi tiết hơn về các cam kết thích ứng; (b) một Tổ chức trực thuộc mới về thích ứng, như lập kế hoạch và giám sát các hành động thích ứng; (c) Thành lập các trung tâm ưu tú khu vực để phát triển và phổ biến các kiến thức kỹ thuật; và/ hoặc (d) Thiết lập một cửa tài trợ thích ứng chung dưới sự giám sát của Hội nghị các Bên (ngoài Quỹ thích ứng của NĐT Kyoto và sử dụng tiền thu thuế theo các thủ tục cơ chế phát triển sạch), tập trung tài trợ cho xây dựng năng lực, đánh giá tính dễ bị tổn thương và thích ứng (V&A), soạn thảo các chiến lược thích ứng và các kế hoạch hành động quốc gia, triển khai các hành động thích ứng khác nhau kể cả việc làm cho các cơ sở hạ tầng chống chịu được với khí hậu, cũng như giáo dục, đào tạo và nâng cao nhận thức về những rủi ro khí hậu và giảm thiểu các tác động.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

37

Các nhà đàm phán Việt Nam tại COP13 (tháng 12/2007, Bali), do Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên (ở giữa) của Bộ Tài nguyên và Môi trường dẫn đầu

Tài trợ và các thể chế tài chính.

76. Các nước đang phát triển đang gặp phải thách thức trong việc tìm kiếm các nguồn tài chính cho những thách thức to lớn do thích ứng biến đổi khí hậu và giảm thiểu khí nhà kính đặt ra. Không có được một quyết định quan trọng về tài trợ thích ứng quốc tế, thì các nước cả phát triển lẫn đang phát triển không có khả năng để đạt được một kết quả thành công ở Copenhagen (và sau đó). Những yêu cầu tài trợ của các nước đang phát triển về các nguồn quỹ „mới và bổ sung‟ (UNFCCC, 1992), cũng như các khái toán về chi phí đáp ứng các nhu cầu thích ứng và giảm thiểu phát thải khí nhà kính, thường được diễn đạt bằng tỷ lệ phần trăm GDP hàng năm của các nước phát triển, bắt đầu bằng tỷ lệ 0,5%. Vấn đề này gây ra nhiều tranh cãi về cả trách nhiệm lịch sử của các nước phát triển lẫn tính khả thi của các khoản chuyển giao tài chính khổng lồ đó (tương ứng hoặc nhiều hơn tổng ODA hiện nay). Hiện còn có nhu cầu về các nguồn tài trợ mới có cải tiến, như các khoản tiền thu thuế đi lại quốc tế. Việt Nam cần nêu rõ số lượng các nhu cầu của mình theo các lĩnh vực chủ đề để yêu cầu tài trợ. Điều này sẽ tăng cường vai trò của Việt Nam trong các cuộc thương lượng quốc tế, đặc biệt nếu đưa ra được những đánh giá có chất lượng cao và đáng tin cậy. Ngân hàng thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á đã bắt đầu công việc này với các đối tác Việt Nam, mặc dù còn nhiều việc phải làm, nhất là cách thức xây dựng các năng lực của Việt Nam để tiến hành những đánh giá đó.

77. Việc tài trợ „mới và bổ sung‟ chủ yếu sẽ là tài trợ công, đã và đang được chấp nhận rộng rãi nhưng chưa phải là tất cả. Tuy vậy, vẫn còn bất đồng về các thị trường các-bon và

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

38

đầu tư của khu vực tư nhân có đóng các vai trò nòng cốt hay chỉ đơn giản là tài trợ bổ sung. Hầu hết các nước tán thành tách riêng các nguồn quỹ (công) hoặc các cửa tài trợ đặc biệt của bất kỳ nguồn quỹ nào, tài trợ cho các nhu cầu biến đổi khí hậu chủ yếu: thích ứng, giảm thiểu, chuyển giao công nghệ, xây dựng năng lực và REDD, cho dù cung cách quản lý (các) nguồn quỹ này vẫn chưa được nhất trí. Quỹ thích ứng đã được thành lập và nhận được các khoản tiền thu thuế theo CDM (theo quy định của NĐT Kyoto), nhưng nguồn quỹ này còn hạn chế về các nguồn tài trợ và mặc dù hầu hết các nước đang phát triển coi việc tổ chức quản lý quỹ là khá công bằng, nhưng vẫn chưa thoả thuận được các tiêu chí chi tiết về tư cách hợp lệ. Hiện nay, Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) là một cơ chế tài trợ chính thức theo Hội nghị các Bên, nhưng việc bổ sung vốn, cơ cấu quản lý GEF và cơ hội hưởng dụng của các nước kém phát triển chẳng hạn, đã và đang bị chỉ trích. Các nước đang phát triển yêu cầu việc quản lý tài trợ biến đổi khí hậu (của GEF và/hoặc một quỹ khí hậu mới) phải phản ánh được „sự đại diện cân đối và công bằng‟ của các nước đang phát triển, như Công ước Khí hậu kêu gọi. Các quỹ còn cần phải có khả năng dễ dàng tiếp cận hơn, cũng như phải có phương án lựa chọn để các nước đang phát triển quản lý trực tiếp thay vì thông qua các tổ chức đa phương. Một số nước phát triển nhấn mạnh đến nhu cầu quản lý tài trợ minh bạch và cho rằng, các ngân hàng đa phương cũng như Liên Hợp Quốc trong đó có GEF là cơ chế tài trợ chính và sẽ có vai trò chủ chốt. Những cuộc thảo luận về GEF và các cửa tài trợ mới còn để ngỏ vấn đề giám sát, báo cáo và kiểm chứng việc tài trợ khí hậu song phương và các cửa tài trợ khí hậu thuộc các ngân hàng phát triển đa phương (như CTF) sẽ được thực hiện đến mức độ nào như các nguồn quỹ „mới và bổ sung‟ theo yêu cầu của Hội nghị các Bên.69 Một số bên đề xuất một cấu trúc tài trợ mới trực thuộc Hội nghị các Bên để giám sát và điều phối mọi nguồn và phương thức tài trợ, mặc dù Công ước Khí hậu có bàn thảo về một „cơ chế’. Việt Nam cần tham gia tích cực trong các cuộc thương lượng này bởi vì Việt Nam có nhiều nhu cầu tài trợ cũng như có nhiều kinh nghiệm với các cơ chế tài trợ quốc tế, như GEF; hỗ trợ ngân sách chung (vay hỗ trợ chính sách dựa vào „ma trận chính sách‟ thay vì các dự án riêng lẻ, tức là mô hình „hưởng dụng trực tiếp‟); tài trợ theo chương trình; tài trợ các dự án lớn từ một số quỹ đa phương; „Quỹ một kế hoạch‟ của các tổ chức LHQ ở Việt Nam; các phương thức tài trợ ODA song phương và đa phương khác; và kinh nghiệm với CDM.

Xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ.

78. Các nước đang phát triển cần những năng lực để thực hiện có hiệu quả các biện pháp thich ứng biến đổi khí hậu và giảm thiểu phát thải khí nhà kính, và điều đó đòi hỏi phải áp dụng công nghệ phù hợp, kể cả cấp giấy phép về các công nghệ có bằng sáng chế. Do đó việc xây dựng năng lực là cần thiết đối với các nhân viên trong khu vực nhà nước và tư nhân, trong cộng đồng nghiên cứu và ngành giáo dục. Chuyển giao công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, nhưng các rào cản về thể chế, tài chính, pháp lý và chính trị có thể rất lớn. Nhiều công việc của nước đang phát triển, như các cơ sở công nghiệp chế tác đang gập phải những vấn đề nan giải chung, là khó tiếp cận được các công nghệ mà không có sự hỗ trợ của khu vực nhà nước – đặc biệt là về đào tạo và tài trợ. Đã có những đề xuất được đưa ra để cung cấp tài trợ và hỗ trợ xây dựng năng lực, nghiên cứu, phát triển và các vấn đề quyền sở hữu trí tuệ (IPRs) nhằm giúp có thể phát triển và chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển. Song đến nay vẫn chưa đạt được một thoả thuận thoả đáng giải quyết các rào cản mà các nước đang gặp phải trong nỗ lực tiếp cận các công nghệ giảm thiểu và thích ứng. Do vậy, điều có ý nghĩa quyết định đôi với Việt Nam là tham gia tích cực trong các cuộc thương lượng phát triển và chuyển giao công nghệ, đặc biệt là do nhu cầu rất lớn về sản xuất năng lượng tái tạo và ít phát thải của đất nước, cũng như hiện đại hoá các ngành công nghiệp chủ chốt như xi măng.

79. Đã có đề xuất thành lập một Tổ chức công nghệ trực thuộc Hội nghị các Bên, nhằm giúp lập kế hoạch, tổ chức, điều phối, giám sát và đánh gía việc phát triển và chuyển giao công nghệ quốc tế cho các nước đang phát triển. Tổ chức trực thuộc này có thể thành lập các

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

39

ban kỹ thuật để hỗ trợ xây dựng năng lực và các hợp tác khác, như chia sẻ các quyền sở hữu trí tuệ, cũng như hỗ trợ giám sát, lập báo cáo và kiểm chứng. Đã có đề xuất lập một Quỹ công nghệ khí hậu (hay một cửa sổ tài trợ trong quỹ khí hậu chung, dưới sự giám sát của COP) để hỗ trợ các nước đang phát triển tiến hành giảm thiểu và thích ứng. Hơn nữa, đề xuất thành lập các trung tâm ưu tú (cấp khu vực) để đảm bảo hợp tác quốc tế về nghiên cứu và phát triển và chia sẻ thông tin được ủng hộ rộng rãi. Tham gia đầy đủ vào các cuộc đối thoại về các lựa chọn này là đặc biệt quan trọng cho Việt Nam, khi Việt Nam có mối quan tâm lớn, đặc biệt do Việt Nam có một nền công nghiệp sản xuất hàng hóa phát triển rất nhanh. Liên quan đến đề xuất này, nhất là ở cấp quốc gia và vùng, là nhu cầu của các nước được sử dụng hỗ trợ kỹ thuật của Liên Hợp Quốc về các lĩnh vực liên quan từ các tổ chức LHQ khác nhau. Để các nước đang phát triển để xây dựng năng lực nhằm giải quyết biến đổi khí hậu trong khi vẫn thúc đẩy phát triển con người với sự hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức LHQ, đòi hỏi phải có tài trợ riêng và có cơ quan quản lý nguồn quỹ phù hợp. Liên Hợp Quốc cần phải định hình sự hỗ trợ của mình nhằm đáp ứng các yêu cầu và nhu cầu cụ thể – trong trường hợp này là của Việt Nam – và cần phải cung cấp kiến thức và các kỹ năng cần có cho các hành động thích ứng biến đổi khí hậu và giảm thiểu khí nhà kính.

REDD+

80. Dựa trên chương đoạn 1(b)(iii) của Kế hoạch hành động Bali, REDD+ đang được thương lượng – REDD là cụm từ viết tắt của „cắt giảm phát thải từ phá rừng và suy thoái rừng‟ ở các nước đang phát triển, và bao gồm suy thoái rừng, vai trò của bảo tồn, quản lý bền vững các cánh rừng, cũng như tăng cường các kho lưu giữ các-bon ở các cánh rừng ở các nước đang phát triển. Các vấn đề thương lượng chủ yếu là:

Phạm vi của REDD+ (có bao gồm rừng tự nhiên và/ hoặc rừng trồng không)

Việc tham gia của các dân tộc bản địa và các cộng đồng địa phương

mối quan hệ giữa các hành động REDD+ và NAMAs

các nước phát triển và các tỷ lệ bù các-bon (có sử dụng REDD+ để đáp ứng các chỉ tiêu cắt giảm phát thải của các nước phát triển hay không, hay chỉ chú trọng đến các hành động trong nước ở các nước đang phát triển và phục vụ cho các nước này)

tài trợ (dựa vào nguồn quỹ, dựa vào thị trường, hoặc theo cách tiếp cận phân đoạn và kết hợp)

Việt Nam có mối quan tâm lợi ích lớn trong các vấn đề này, và đặc biệt quan tâm đến sự hỗ trợ ở phạm vi rộng lớn của REDD+. Điều này còn có cả những đảm bảo về việc tài trợ quốc tế sẽ đem lại những lợi ích cho người dân địa phương (dân tộc ít người) và các đối tượng quản lý rừng ở những vùng cao và dải ven biển (rừng ngập mặn); cũng như quan tâm đến việc tài trợ „mới và bổ sung‟ cho nguồn ODA và đầu tư tư nhân hiện có trong ngành lâm nghiệp. Xây dựng năng lực cũng có ý nghĩa quyết định để Việt Nam có thể tiến hành các hành động tự nguyện trong nước trong việc cắt giảm phát thải từ phá rừng và suy thoái rừng.

81. Chương trình UN-REDD và Quỹ đối tác các-bon rừng của Ngân hàng thế giới là các phương tiện hiện có để tài trợ cho việc chuẩn bị sẵn sàng, các cơ cấu quản lý và các thủ tục liên quan đến REDD đã được xây dựng gần đây. Dường như rất nhiều Bên ủng hộ việc giám sát các phương tiện tài trợ hiện có có thể giao cho Hội nghị các Bên, hoặc có thể thiết lập một cửa tài trợ REDD trong một quỹ (giảm thiểu) đa phương mới. Việt Nam là nước đầu tiên đã xây dựng một dự án thuộc chương trình UN-REDD và do vậy, Việt Nam có thể chia sẻ các kinh nghiệm với các nước khác về cách thức có thể sử dụng các nguồn tiền tài trợ công mới và bổ sung cho nguồn ODA hiện có, nhằm hỗ trợ nhiều mục tiêu phát triển, bao gồm phát triển KT-XH của các dân tộc ít người, cũng như giảm thiểu khí nhà kính.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

40

XII. luận 82. Biến đổi khí hậu đang diễn ra và Việt Nam đặc biệt bị ảnh hưởng bởi những tác động bất

lợi của biến đổi khí hậu. May thay, Việt Nam còn có các năng lực đáng kể để ứng phó và cộng đồng quốc tế sẵn sàng hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho hoạt động thích ứng biến đổi khí hậu. Việt Nam có lịch sử lâu dài và năng lực giảm nhẹ thiên tai nổi bật so với nhiều nước đang phát triển khác. Việt Nam cũng có các năng lực nghiên cứu và phát triển trong ngành nông nghiệp, cũng như năng lực trí tuệ quan trọng và nguồn lực con người trong lĩnh vực quản lý nước. Việt Nam có những năng lực xây dựng và đã đúc kết các kinh nghiệm quan trọng với cách tiếp cận có sự tham gia rộng rãi của cộng đồng, như giảm nhẹ rủi ro thiên tai và phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ. Việt Nam đang phát triển các hệ thống bảo vệ xã hội, cũng như chất lượng và cơ hội hưởng dụng các dịch vụ xã hội cơ bản (cấp nước, chăm sóc sức khoẻ và giáo dục). Tất cả những năng lực đó cùng với hợp tác quốc tế (hy vọng) sẽ được tăng cường trong các lĩnh vực nghiên cứu, xây dựng năng lực, quy hoạch và đầu tư, có nghĩa là, thích ứng với biến đổi khí hậu không cần thiết chỉ hạn chế trong việc tránh các tác hại của biến đổi khí hậu. Với những chính sách đúng đắn và các năng lực được thực hiện, thích ứng với những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu có thể tạo ra các cơ hội để tăng cường phát triển con người. Công bằng xã hội, tạo ra của cải, các mức độ an toàn (ví dụ an toàn trong lũ lụt) và chất lượng môi trường, tất cả có thể cải thiện đáng kể trong các thập kỷ tới. Do đó vẫn có thể có những khát vọng phát triển mạnh hơn bất chấp biến đổi khí hậu.

83. Việt Nam còn có nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cần nhiều năng lượng và có các nguồn nhiên liệu hoá thạch. Sử dụng nhiên liệu hoá thạch và tăng phát thải khí nhà kính là quyền của Việt Nam xét về mặt lịch sử, song Việt Nam vừa có trách nhiệm vừa có năng lực để sử dụng theo các cách rất khôn ngoan trong khi không cần tăng phát thải đến các mức của các quốc gia phát triển đã làm. Hơn nữa, Việt Nam còn có các phương án lựa chọn khác để cung cấp năng lượng, kể cả mở rộng sản xuất thuỷ điện. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, cũng như tài trợ quốc tế và chuyển giao công nghệ (hy vọng) sẽ tăng trong thời gian tới, sẽ tạo ra nhiều khả năng để cải thiện hiệu suất năng lượng và đổi mới công nghệ ở cả khu vực công lẫn khu vực tư nhân. Hướng tới một nền kinh tế ít các-bon, ngoài việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính, còn có các lợi ích khác, nhát là sẽ cải thiện được chất lượng không khí ở các thành phố và giảm nhẹ được các nguy cơ về những bệnh đường hô hấp. Việt Nam còn có tiềm năng và các năng lực để cải thiện các cánh rừng ở vùng cao và ven biển với nguồn tài trợ quốc tế bổ sung từ REDD (để đảm bảo cô lập các-bon), đồng thời còn có thể tạo ra các lợi ích cho người dân địa phương phụ thuộc vào rừng, cũng như tăng cường bảo vệ đê điều thông qua việc cải thiện rừng ngập mặn. Với những chính sách trong nước đúng đắn, với các mối quan hệ quốc tế tốt, cũng như thiện chí chính trị của tất cả các bên, các nỗ lực toàn cầu và quốc gia để giảm thiểu phát thải khí nhà kính có thể trở thành một cơ hội phát triển cho Việt Nam, bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức quản lý rừng và các công dân.

84. Để đạt được những khát vọng đó và tạo ra các cơ hội, vấn đề hết sức quan trọng là Chính phủ Việt Nam tiếp tục thể hiện được cam kết của mình trong việc giải quyết biến đổi khí hậu ở cả trong nước lẫn trên trường quốc tế. Liên Hợp Quốc cần phải giữ vững sứ mệnh toàn cầu của mình bằng cách đảm bảo để Việt Nam và các nước thành viên khác tuân thủ các nghĩa vụ mà các nước đã thoả thuận về biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, quyền con người và bảo vệ văn hoá. Liên Hợp Quốc và các đối tác khác cần phải giúp Việt Nam, cũng như tạo thuận lợi để Việt Nam có thể trở thành một tấm gương về cách tiếp cận phát triển đặc biệt và toàn diện, trong đó có lồng ghép các hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, chứng minh được cả những nguyên nhân lẫn các hậu quả của biến đổi khí hậu đều được quan tâm giải quyết đầy đủ. Liên Hợp Quốc cần phải tiếp tục triệu tập các bên liên quan trong các cuộc đối thoại chính sách ở các cấp quốc tế và quốc gia và giúp các bên liên quan đạt được những thoả thuận, trong khi vẫn hỗ trợ phát triển năng lực quốc gia và huy động nguồn lực cho Việt Nam và với các đối tác quốc tế.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

41

Phụ lục 1: Ví dụ về các hành động biế Việt Nam hỗ trợ

Dự án chính sách về biến đổi khí hậu với Bộ TN&MT cùng với Bộ NN&PTNT. Dự án này

giúp xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với Biến đổi Khí hậu (NTP), hỗ trợ áp dụng „các mô hình khí hậu toàn cầu‟ ở Việt Nam, triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia và hỗ trợ công tác quản trị thông tin và nâng cao nhận thức.

Hỗ trợ các nhà thương lượng Việt Nam của Bộ TN&MT và các bộ khác. Hỗ trợ xây dựng Thông báo quốc gia lần thứ hai theo Công ước (UNFCCC).

Liên Hợp Quốc cũng đang giúp các bạn trẻ làm quen với việc tham gia các cuộc thương lượng và nâng cao nhận thức quốc gia về biến đổi khí hậu, kể cả các vấn đề thương lượng.

Liên Hợp Quốc đang cộng tác với Bộ KH&ĐT tăng cường thể chế cho công tác quy hoạch phát triển bền vững và biến đổi khí hậu của Chính phủ. Dự án này nhằm giúp tích hợp các hành động ứng phó với biến đổi khí hậu vào các chiến lược và quy hoạch phát triển KT-XH (SEDS và SEDP), cũng như các công cụ quy hoạch, như đánh giá môi trường chiến lược.

Liên Hợp Quốc đã và đang hỗ trợ công tác quản lý rủi ro thiên tai, bao gồm việc cải thiện các hệ thống cảnh báo sớm và hỗ trợ chương trình của Chính phủ về các vùng định cư an toàn ở Đồng bằng Sông Cửu Long: cơ sở hạ tầng quản lý nước ở quy mô nhỏ nhưng phù hợp, xây dựng nhà chống bão cũng như trường học chống lũ lụt. Hỗ trợ hiện tại của Liên Hợp Quốc đang tập trung vào việc tăng cường thể chế, ví dụ như cho công tác phân tích và xây dựng (chương trình) đào tạo (với Bộ NN&PTNT).

Liên Hợp Quốc đang triển khai nghiên cứu về các khả năng dễ bị tổn thương và các phương án lựa chọn thích ứng, có cộng tác với một số đối tác quốc gia và quốc tế. Chương trình này bao gồm nghiên cứu các loại hình sinh kế nông thôn ven biển và các mối gắn kết giữa giới và biến đổi khí hậu. Liên Hợp Quốc cũng có kế hoạch triển khai tiếp công việc nghiên cứu về di cư và định cư trong các điều kiện biến đổi khí hậu, về phát triển đô thị và về các tác động của biến đổi khí hậu lên người lao động và người nghèo ở Đồng bằng Sông Cửu Long.

Các dự án thích ứng dựa vào cộng đồng đã đạt được một số kết quả và đang có kế hoạch thực hiện các dự án bổ sung về các vấn đề như cải thiện công tác quản lý đất đai đang đối mặt với hoang mạc hoá, hiện diễn ra rất tồi tệ ở một số tỉnh và địa phương do hạn hán khí hậu.

Đã bắt đầu dự án UN-REDD để tăng cường hành động giảm thiểu khí nhà kính bằng cách tăng cường công tác lâm nghiệp, dự kiến tạo ra các đồng lợi ích cho những người dân quản lý rừng tại địa phương. REDD cũng có thể có những lợi thế về sinh kế địa phương và giảm nhẹ rủi ro thiên tai (rừng ngập mặn ven biển giảm nhẹ các tác động của nước bão dâng cao). Dự án này cộng tác với Bộ NN&PTNT và các cấp chính quyền địa phương.

Các tổ chức LHQ và các đối tác quốc gia đang thực hiện một số dự án về hiệu suất năng lượng và sản xuất sạch, tạo ra các lợi ích giảm thiểu phát thải khí nhà kính, tập trung vào việc đưa vào sử dụng các công nghệ và các phương thức mới và tạo thuận lợi cho việc áp dụng ở quy mô lớn hơn.

Báo cáo tình trạng dân số thế giới về biến đổi khí hậu và phụ nữ đã được chia sẻ và phát triển cơ sở hạ tầng „có sức chống chịu với khí hậu‟ sẽ được quan tâm giải quyết trong một dự án mới.

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

42

Phụ lục 2: Biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Thay đổi nhiệt độ trung bình hàng năm (°C) và lượng mưa trung bình hàng năm (%) ở các vùng khí hậu của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2100, so sánh với trung bình năm trong giai đoạn 1980-1999, theo các kịch bản phát thải thấp (B1), trung bình (B2) và cao (A2)

70

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

43

Thay đổi nhiệt độ trung bình (°C) và lượng mưa trung bình (%) trong giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 5 ở các vùng khí hậu của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2100, so sánh với thay đổi trung bình trong giai đoạn 1980-1999, theo các kịch bản phát thải thấp (B1), trung bình (B2) và cao (A2)

71

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

44

Thay đổi nhiệt độ trung bình (°C) và lượng mưa trung bình (%) trong giai đoạn từ tháng 9 đến

tháng 11 ở các vùng khí hậu của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2100, so sánh với thay đổi trung bình trong giai đoạn 1980-1999, theo các kịch bản phát thải thấp (B1), trung bình (B2) và cao (A2)

72

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

45

Chú thích 1 IPCC (2007) Báo cáo Đánh giá Lần thứ Tư của Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu, Nhà xuất

bản trường Đại học Cambridge, Cambridge, Vương quốc Anh và New York, NY, Mỹ. 2 Tổng thư ký LHQ Ban Ki-Moon – gửi tới Liên hiệp các Hiệp hội LHQ thế giới, 10 tháng 8 năm 2009

3 IPCC (2007); UNDP (2007) Báo cáo Phát triển Con người 2007/2008. Chống lại biến đổi khí hậu: đoàn

kết nhân loại trong một thế giới phân cách, New York: Palgrave Macmillan; Dasgupta, Susmita, Benoit Laplante, Craig Meisner, David Wheeler, và Jianping Yan (2007) Tác động của Mực nước biển dâng ở các nước đang phát triển: Nghiên cứu So sánh, Báo cáo Nghiên cứu Chính sách Ngân hàng Thế giới 4136 4 Đây là hình 6.6 trong Nicholls, R.J., P.P. Wong, V.R. Burkett, J.O. Codignotto, J.E. Hay, R.F. McLean,

S. Ragoonaden và C.D. Woodroffe (2007) Hệ thống ven biển và các khu vực đất thấp: Biến đổi khí hậu 2007: Tác động, Thích ứng và Tính dễ bị tổn thương. Đóng góp cho Nhóm Làm việc II cho Báo cáo Đánh giá lần thứ Tư của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu, M.L. Parry, O.F. Canziani, J.P. Palutikof, P.J. van der Linden và C.E. Hanson, Eds., Nhà xuất bản trường Đại học Cambridge, Cambridge, Vương quốc Anh, 315-356 5 Stern, Nicholas (2007) Kinh tế học Biến đổi khí hậu – Báo cáo Stern, báo cáo cho HM Treasury, Nhà

xuất bản trường Đại học Cambridge; UNDP (2007); Parry, Martin, Nigel Arnell, Pam Berry, David Dodman, Samuel Fankhauser, Chris Hope, Sari Kovats, Robert Nicholls, David Satterthwaite, Richard Tiffin, Tim Wheeler (2009) Đánh giá các Chi phí của Thích ứng với Biến đổi Khí hậu: Rà soát UNFCCC và các Dự tính khác gần đây nhất, Viện Môi trường và Phát triển Quốc tế và Viện Grantham về Biến đổi Khí hậu, London. 6 Đây là hình 6 trong Yusuf, Arief Anshory, và Herminia A. Francisco (2009) Lập bản đồ Tính dễ bị tổn

thương do Biến đổi khí hậu của Đông Nam Á, Singapore: Kinh tế và Chương trình Môi trường cho Đông Nam Á (EEPSEA) / IDRC / CIDA / SIDA 7 “Nền kinh tế thấp carbon” chỉ một nền kinh tế thấp về lượng phát thải thực khí nhà kính, trong đó phải

hiểu là không phải tất cả các loại khí nhà kính đều chứa carbon nhưng tổng lượng phát thải thường được nói bằng lượng carbon dioxide tương đương (CO2E) và rằng quốc gia nào cũng có các „bể chứa‟ khí nhà kính. 8 WCED (1987) Tương lai Chung của Chúng ta (Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển, cũng được

biết đến như là Ủy ban Brundtland) 9 Hành động mạnh mẽ có ý nghĩa là một mục tiêu toàn cầu sẽ được nhất trí và đạt được nhất quán với

các đề xuất của IPCC (2007) và UNDP (2007), có nghĩa là „biến đổi khí hậu nguy hiểm‟ sẽ được tránh và nóng lên toàn cầu sẽ không vượt quá 2

oC so với các mức trước thời kỳ công nghiệp; điều này là có thể

(tuy không chắc chắn) nếu mức đỉnh điểm của nồng độ các khí nhà kính trong không khí là 450 phần triệu (ppm) CO2 tương đương. 10

CHXHCN Việt Nam (2003) Thông báo Quốc gia lần thứ Nhất của Việt Nam trong khuôn khổ Công ước Khung LHQ về Biến đổi Khí hậu, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ TN&MT 11

Chương trình Môi trường của LHQ (UNEP) cung cấp trợ giúp về kỹ thuật cho Bộ TN&MT từ một khoản trợ cấp từ Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) 12

Bao gồm Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) (cung cấp các khoản trợ cấp, chẳng hạn cho một vài dự án về hiệu suất năng lượng tại Việt Nam thong qua các tổ chức LHQ), và các Quỹ Đầu tư Khí hậu (CIF), đặc biệt Quỹ Công nghệ Sạch (CTF) và Quỹ Khí hậu Chiến lược (SCF), với Ngân hàng Thế giới là Ủy viên quản trị và hợp tác với các Ngân hàng Phát triển Đa phương, gồm cả Ngân hàng Phát triển châu Á. Ngân hàng Thế giới và ADB đã bắt đầu phát triển các khoản vay cho Việt Nam. 13

Các mô hình khí hậu toàn cầu bao gồm „các mô hình tuần hoàn chung‟ (GCMs) của khí quyển toàn cầu và các đại dương, các mô hình băng biển và băng trên đất liền, và các mô hình bốc hơi – thoát hơi nước trên mặt đất. 14

Bộ TN&MT (2009) Biến đổi Khí hậu, các kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hà Nội, tháng 6/2009. Họ đề xuất sử dụng kịch bản B2 và các hệ quả ảnh hưởng của biến đổi khí hậu cho sử dụng trong công tác lập kế hoạch hành động ở Việt Nam. 15

Bộ TN&MT (2009), Phụ lục 17 16

Dữ liệu về các thay đổi khí hậu và nước biển, từ Bộ TN&MT (2009) trừ khi nói khác 17

Các ảnh hưởng của việc tăng lượng mưa trong mùa mưa đối với lượng nước xả đổ trên sông có thể giảm thiểu được thông qua trồng rừng và xây dựng và quản lý tốt các hồ chứa nước (cho thủy lợi và sản xuất thủy điện) 18

Điều này được thể hiện qua một nghiên cứu mô hình trong đó 84 nước đang phát triển được lựa chọn để so sánh về các mức dâng khác nhau của mực nước biển dâng trung bình, trong khi giữ cho các biến

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

46

số khác giữ nguyên và giả định rằng sẽ không có biện pháp nào được thực hiện (hay nói cách khác: nghiên cứu đó đã không so sánh các năng lực ứng phó với các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu): Dasgupta và cộng sự (2007) 19

Đây là kịch bản „A1F1‟, cùng với kịch bản A2 được gọi là các kịch bản có mức phát thải cao trong IPCC (2007). A2 có các đặc trưng như dân số tăng liên tục, phát triển kinh tế có định hướng cấp quốc gia/khu vực, thay đổi công nghệ diễn ra chậm và rời rạc; thu nhập đầu người tăng chậm. Các nhà khoa học Việt Nam trong Bộ TN&MT (2009) đã tính toán các dự đoán tương lai của biến đổi khí hậu cho A2, B2 (các kịch bản phát thải trung bình), và kịch bản B1 (các mức phát thải thấp). 20

Bộ TN&MT (2009), theo kịch bản B2, sử dụng các mô hình thu nhỏ cho khu vực ven biển Việt Nam, và cân nhắc sự tan chảy nhất định của lượng băng trên đất cho đánh giá mực nước biển dâng dự kiến. 21

Bộ TN&MT (2009), theo kịch bản A1F1, sử dụng các mô hình thu nhỏ cho khu vực ven biển Việt Nam, và cân nhắc sự tan chảy nhất định của lượng băng trên đất cho đánh giá mực nước biển dâng dự kiến. 22

Đây chỉ là dự đoán sơ thảo; không phải từ Bộ TN&MT (2009) 23

Hugo, G. (2008). Di cư, Phát triển và Môi trường, Loạt Nghiên cứu về Di cư của tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), Số 35, Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), Geneva. Việt Nam đứng thứ 7 trong số các nước có quy mô dân cư thành thị cao nhất sống ở các Khu vực Ven Biển Đất Thấp (LECZs). 24

Hiện tượng ENSO góp phần gây ra các sự dao động của khí hậu theo mùa. Đây là hệ thống tương tác giữa Biển Thái Bình Dương gần đường xích đạo và khối khí quyển trên nó. El Niño và La Niña là các sự kiện có các trạng thái đối lập của hệ thống ENSO: El Niño xảy ra khi biển Thái Bình Dương gần đường xích đạo trở nên ấm hơn trung bình, còn La Niña lại diễn ra khi biển mát hơn trung bình.Các sự kiện ENSO có xu hướng xảy ra giữa khoảng 9 tháng đến 2 năm, và chúng thường ảnh hưởng khí hậu theo một cách nhất quán. Tùy vào từng vùng và mùa mà các điều kiện khí hậu có khả năng diễn ra nhiều hơn trong giai đoạn các sự kiện El Niño xuất hiện hay các sự kiện La Niña nhiều hơn các lần khác, do vậy thông tin ENSO được dùng trong dự báo thời tiết khí hậu. Có ý kiến gợi ý rằng tần suất và mức độ thường xuyên của ENSO có thể bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, nhưng hiện chưa có sự nhất trí chung về vấn đề này. Cả El Niño và La Niña đều ảnh hưởng thời tiết ở Đông Nam Á, ví dụ về nhiệt độ, lượng mưa và chẳng hạn như tần suất các cơn bão nhiệt đới. Vào giữa và cuối năm 2009, các dấu hiệu là một giai đoạn El Niño (yếu) đang phát triển, sẽ có thể làm trầm trọng thêm các ảnh hưởng của hiện tượng nóng lên toàn cầu, với nhiệt độ (tạm thời) cao hơn và nhiều hạn hán hơn, và cũng có nhiều bão lụt hơn. El Niño được đánh giá là sẽ gây ra tác động tiêu cực lên sản xuất nông nghiệp, một phần dựa trên kinh nghiệm đã có trước đây về El Niño trong các năm 1991-92 khi sự kiện này đã gây ra nạn đói ở Nam châu Phi, và vào năm 1998 gây thiệt hại hàng tỷ đôla do hạn hán đối với vụ mùa và do gây ra cháy rừng, và lụt lội ở Châu Á và các nơi khác (1998 là năm nóng nhất được ghi nhận trên toàn cầu). El Niño hiện tại có lẽ sẽ tiếp tục ít nhất đến đầu năm 2010, và thường thì đỉnh điểm của sức mạnh của El Niño là ở giai đoạn từ tháng 12 đến tháng 2. Năm 2009 đã được đánh dấu với các biểu hiện thời tiết bất thường ở châu Á gồm các trận lũ lớn, các trận bão cực mạnh (đổ vào Philipin, Việt Nam và các nước khác) và các đợt hạn hán. 25

Bộ TN&MT (2009) 26

Một trong các khái niệm được toàn cầu chấp nhận được thống nhất và thể hiện trong Nguyên tắc số 15 của “Tuyên bố Rio” năm 1992: „Để bảo vệ môi trường, cách tiếp cận mang tính phòng ngừa phải được áp dụng rộng rãi bởi các Quốc gia theo năng lực của mình. Khi có các mối đe dọa về thiệt hại nghiêm trọng hoặc không thể đảo ngược được, việc thiếu tính chắc chắn đầy đủ của khoa học sẽ không được dùng như một lý do cho việc trì hoãn các biện pháp mang tính hiệu quả về chi phí nhằm bảo vệ tránh khỏi suy thoái môi trường.‟ 27

Từ: LHQ & Oxfam (2009) (sắp ấn hành) Ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Các cơ hội cải thiện bình đẳng giới. Công ước Khí hậu (UNFCCC) định nghĩa tính dễ bị tổn thương là một thuộc tính của các hệ thống: Mức độ mà theo đó một hệ thống dễ bị ảnh hưởng, hoặc không thể đối phó với các ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu, bao gồm cả các sự dao động khí hậu và các sự kiện cực đoan. Tính dễ bị tổn thương là một hàm số của các biến số gồm đặc tính, quy mô, và tỷ lệ dao động khí hậu mà ở đó một hệ thống bị phơi bày, tính nhạy cảm của hệ thống, và khả năng thích ứng của hệ thống. 28

UNFCCC định nghĩa thích ứng là: Sự điều chỉnh của các hệ thống tự nhiên hoặc con người nhằm ứng phó với các tác nhân kích thích khí hậu thực tại hoặc sẽ xảy ra, hoặc các ảnh hưởng của các tác nhân kích thích đó, và điều đó điều hòa tác hại hoặc tận dụng các cơ hội có lợi. 29

Ảnh do Nguyễn Thị Hoàng Yến (Oxfam Anh tại Việt Nam), Tu Mo Rong, ngày 12 tháng 10 năm 2009 30

Koos Neefjes (2002). Bài học từ lũ, tiếng nói từ người dân: chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý thiên tai ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Việt Nam. Nghiên cứu của Hội chữ thập đỏ Việt Nam (VNRC) và Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ Quốc tế (IFRC).

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

47

31

Điều này được ghi chép trong LHQ & Oxfam (2009) (sắp ấn hành). Thêm vào đó, UNICEF và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MOLISA) và các tỉnh đã tiến hành các cuộc tham vấn với trẻ em và tập huấn cho các em về biến đổi khí hậu trong năm 2009. 32

UN-Việt Nam (2009) Giới và Biến đổi Khí hậu ở Việt Nam – Nghiên cứu Tài liệu, Tác giả chính: Trần Thị Vân Anh, Hà Nội 33

Ảnh do Phan Đức Thắng, UNDP-Việt Nam 34

Thay đổi sử dụng đất bao gồm chuyển đổi các loại rừng sang nông nghiệp hoặc thành khu vực thành thị, v.v. 35

CHXHCN Việt Nam (2003) Thông báo Quốc gia lần thứ Nhất của Việt Nam theo Công ước Khung LHQ về BĐKH, Bảng 2.28. Thông báo Quốc gia lần thứ hai chuẩn bị ấn hành sẽ cập nhật về các dự báo dữ liệu này. 36

Bản quyền ảnh UN Việt Nam\2006\Diễn Đàm 37

Ví dụ với sự hỗ trợ của các chính phủ Nauy và Pháp cho Vụ Địa chất và Khoáng sản của Bộ TN&MT (trao đổi riêng với cán bộ, 2009) 38

CHXHCN Việt Nam (2003) 39

CHXHCN Việt Nam (2008) Quyết định 158/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với Biến đổi Khí hậu, Nước CHXHCN Việt Nam, của Thủ tướng Chính phủ ngày 2/12/2008 40

Việt Nam có Chương trình Mục tiêu Quốc gia về tiết kiệm năng lượng và hiệu suất năng lượng, và Thủ tướng Chính phủ đã thông qua chiến lược giảm nhẹ thiên tai quốc gia năm 2007. Một Chương trình Mục tiêu Quốc gia về nguồn nước đang được xây dựng và Việt Nam cũng đã có một vài các chương trình mục tiêu quốc gia khác, đặc biệt như chương trình về cung cấp nước và vệ sinh và về giảm nghèo. Tất cả các chương trình này đều có liên quan trực tiếp đến các ảnh hưởng và nguyên nhân của biến đổi khí hậu. 41

Cũng được biết đến như các khoản đầu tư “không hối tiếc” – dù cho các ảnh hưởng trung và dài hạn của biến đổi khí hậu sẽ là gì đi chăng nữa, đánh giá trong tương lai sẽ xác nhận những hành động này là đáng làm, một phần vì các lý do biến đổi khí hậu khác nữa. 42

Xem: UN-Việt Nam (2009) và UN & Oxfam (2009) (sắp ấn hành) 43

Ảnh UNDP Việt Nam\2009\Trần Tiến Thành 44

Trích từ Công ước Khung của LHQ về BĐKH (UNFCCC) (1992) 45

Bộ TN&MT (2009) 46

Như giải thích trước, Việt Nam và các nước khác cần tuân thủ nguyên tắc hay phương pháp phòng ngừa, theo Tuyên Bố Rio 47

Ảnh UN Việt Nam\2009\Đoàn Bảo Châu 48

UN-Việt Nam (2009) và UN & Oxfam (2009) (sắp ấn hành) 49

Ảnh UNICEF Việt Nam\2008\Trương Việt Hùng 50

Xem: Hội chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ Quốc tế (IFRC) và Hội chữ thập đỏ Việt Nam (VNRC) (2002) Bài học từ lũ, tiếng nói từ người dân: chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý thiên tai ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Việt Nam. Tác giả chính: Koos Neefjes 51

Bài trình bày của Jeremy Bird, Ban Thư ký Ủy ban Sông Mekong: (12 tháng 11 năm 2009, Cần Thơ) Biến đổi khí hậu ở Mekong và Sáng kiến Thích ứng và Ủy ban sông Mekong 52

LHQ & Oxfam tại Việt Nam (2009) Ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Các cơ hội cải thiện bình đẳng giới – Báo cáo thảo luận chính sách. 53

Các điểm tương tự đã được đưa ra trong một bài thuyết trình của Kandeh Yumkella, Tổng Giám đốc UNIDO, ngày 7 tháng 9 năm 2009 tại Hà Nội. 54

55

Chính phủ Nauy đang hỗ trợ hoạt động này thông qua dự án UN-REDD, là dự án hợp tác giữa Bộ NN&PTNT và UNDP, FAO và UNEP – triển khai năm 2009 56

Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI) hướng tới việc giảm phát thải khí mê-tan từ các cánh đồng lúa thông qua các thay đổi trong phương thức làm đất và quản lý nước. Xem UN & Oxfam (2009), sắp ấn hành. 57

Các lợi ích đặc biệt mạnh mẽ của sản xuất nông nghiệp hữu cơ đặt trong bối cảnh phát thải bao gồm việc tránh sử dụng phân bón có liên hệ với việc thải ra chất Nitơ ôxít, một khí nhà kính mạnh, và tăng các hợp chất hữu cơ có trong đất – có nghĩa là giúp lưu giữ “carbon”. Tuy nhiên, lợi ích thứ hai cũng quan trọng trong các cách tiếp cận khác với “nông nghiệp bền vững”. 58

Xem vd: Stern (2007), UNDP (2007); Parry và cộng sự (2009). 59

Bao gồm CTF và SCF, đã được nhắc đến ở trên. 60

Thông tin nhiều hơn trong phần về tài chính dành cho REDD ở Phần VIII 61

Chẳng hạn, Đan Mạch đang hỗ trợ cho Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với BĐKH (NTP-RCC), và Chính phủ Nhật Bản (JICA) và Pháp (AFD) hiện đang chuẩn bị hỗ trợ ngân sách chung cho

VIỆT NAM VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: Báo cáo thảo luận các chính sách phát triển con người bền vững

48

Việt Nam với trọng tâm tập trung vào biến đổi khí hậu thông qua Chương trình Hỗ trợ Ứng phó với Biến đổi khí hậu (SP-RCC). 62

Một ví dụ quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu về tiếp nhận tài trợ quốc tế thông qua một Quỹ Ủy thác là Bangladesh, do LHQ hỗ trợ. Nói chung, thông qua các Quỹ Ủy thác nhiều Nhà tài trợ (MDTFs), LHQ có thể chuyển tiếp cận trực tiếp tới các nguồn hỗ trợ cho các nước đang phát triển thông qua một khung đơn giản và duy nhất. Bản chất đa phương của công cụ này cũng cho phép đưa ra một hệ thống quản trị công bằng, minh bạch và hiệu quả. Vì điều này có thể tập trung vào hỗ trợ kỹ thuật và tài trợ, có thể giúp các nước thu hút các khoản đầu tư quy mô lớn mà quốc gia đó cần – do đó bổ sung và tăng cường tính hiệu quả của tài trợ và chủ yếu được hỗ trợ do các Ngân hàng Đa phương cung cấp. 63

Chẳng hạn có kinh nghiệm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành sản xuất gạch ngói thông qua dự án UNDP-GEF với Bộ Khoa học và Công nghệ, và với Ngân hàng Công Thương Việt Nam. 64

UNDP và ADB hiện đang chuẩn bị một dự án GEF về chống chịu với khí hậu cho cơ sở hạ tầng quy mô trung bình, với Bộ NN&PTNT và các bộ khác. 65

Công ước UNFCCC (1992) 66

Công ước UNFCCC (1992) 67

Trừ phi lượng nước đỉnh xả cao hơn từ các trận mưa lớn trong mùa mưa được giảm thiểu, chẳng hạn như thông qua trồng rừng ở các khu vực thượng nguồn và xây dựng đập. Các hành động này cũng điều tiết dòng chảy nhưng hệ thống các đập cũng có các bất lợi về mặt xã hội và môi trường. 68

Trích từ UNFCCC (1992), Điều 3.2: „Cần phải xem xét những nhu cầu riêng và những hoàn cảnh đặc thù của các Bên là các quốc gia đang phát triển, nhất là những nước đặc biệt dễ bị ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu, và của các Bên, nhất là các Bên là các nước đang phát triển sẽ phải chịu gánh nặng bất thường hoặc không cân xứng theo Công ước ...‟. Cũng xem thêm Điều 4.4 của Công ước. 69

Khoản 11.5 của Công ước Khung LHQ về BĐKH (UNFCCC) vẫn để chỗ cho tài trợ song phương và đa phương dành cho biến đổi khí hậu ngoài cơ chế tài chính của Công ước „liên quan đến việc thực thi Công ước‟. 70

Phụ lục 5 trong Bộ TN&MT (2009) 71

Phụ lục 2 trong Bộ TN&MT (2009) 72

Phụ lục 4 trong Bộ TN&MT (2009)