50
“Để cho con cháu…” là một từ thường thấy trên môi miệng của các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam. Nó rất đa nghĩa. Mới đây nó được nhắc lại bởi vài quan chức chóp bu của đảng và nhà nước. Thành thử chúng ta thử bàn qua vài khía cạnh của cụm từ này: 1- Để cho con cháu tiếp nối. Dĩ nhiên đây là con cháu cật ruột của các lãnh đạo Việt cộng. Tiếp nối sự nghiệp, tiếp nối ngai vàng theo nguyên tắc tối thượng: “Đảng phải muôn năm trường trị”. Về việc này, hầu như ai cũng biết các triều đại phong kiến ở VN (từng bị CS thóa mạ một thời, cụ thể là triều Nguyễn) có những quy định rất nghiêm ngặt về việc tuyển chọn, đào tạo, bổ nhiệm người tài đức ra làm quan. Chẳng hạn nghiêm cấm việc một người được làm quan chức lãnh đạo ở chính địa phương là quê quán, trú quán của mình. Rồi nếu tại địa phương mình được bổ nhiệm có thân thích, họ hàng đang làm quan, thì muốn được bổ nhiệm về đó, họ hàng thân thích kia phải dời đi nơi khác đã nếu người đó không nắm vị trí quá quan trọng. Do đấy không thể có chuyện hai cha con cùng làm quan ở một tỉnh, huyện... Chưa hết, nhà Nguyễn còn cấm thành viên họ ngoại (như đằng vợ, đằng mẹ...) thậm chí của cả nhà vua, nương vào chức vụ đó để được bổ nhiệm ra làm quan; ngoài ra còn nghiêm trị những trường hợp một người làm quan nhận 'bao bọc' cho con cái của một vị quan khác do hai bên có quan hệ cá nhân như thông gia, bằng hữu… và để đổi lại, đến lượt mình, con cái của người này lại được người kia bao bọc, giúp đỡ, tạo điều kiện v.v... Thế nhưng đối với triều đại đảng ta, đảng cầm quyền thì khác. Nhân việc luân chuyển cán bộ và nhân sự đang diễn ra với sự tranh giành rất ráo riết quyết liệt, mở màn cho Đại hội lần thứ 12 của đảng, nhân dân thấy rõ âm mưu đưa con cháu lãnh đạo hoặc công thần của chế độ vào ban Chấp hành Trung ương để chuẩn bị cho việc kế nhiệm. Xin kể vài tên: Con trai Nông Đức Mạnh là Nông Đức Tuấn, con trai Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Nghị, con trai Nguyễn Chí Thanh là Nguyễn Chí Vịnh, con trai Nguyễn Cơ Thạch (Phạm Văn Cương) là Phạm Bình Minh, con trai Lê Thanh Hải là Lê Trương Hải Hiếu, con trai Nguyễn Văn Chi là Nguyễn Xuân Anh, cháu ngoại Nguyễn Sinh Hùng là Trần Sỹ Thanh, cháu ngoại Hà Huy Tập là Nguyễn Thị Kim Tiến v.v… Cho dẫu loại “thái tử đảng” này có tài đức hay không! Hay “tài” và “đức” ngang bằng hàng cha ông đang phá tan đất nước, tàn hại đồng bào! Rồi việc cha con, anh em, chú bác cùng nhau nắm chức vụ lớn tại các địa phương, các cơ quan nhà nước, các công ty quốc doanh là “chuyện thường ngày ở huyện”. Đang khi những tài năng thật sự của đất nước mà không thuộc hàng “con cháu các cụ”, “phi đảng viên phi thân thế”, nghĩa là con cháu dân đen thì đi chỗ khác chơi! 2- Để cho con cháu lãnh đủ. Trong buổi tiếp xúc với cử tri thành Hồ hôm 06-06-2014, chủ tịch nước cs Trương Tấn Sang đã tuyên bố hùng hồn như sau: “Về vấn đề Biển Đông. Những gì là của ta được quốc tế công nhận thì chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ gìn giữ. Kiên trì, đấu tranh, năm này không xong thì năm tới. Mười năm này không xong thì mười năm sau. Đời ta không xong thì đến đời con cháu ta, phải dứt khoát như vậy, trước sau như một. Vấn đề chủ quyền là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Nhưng rõ ràng là cho tới hôm nay, sau sự kiện giàn khoan HD 981 vốn đã khơi dậy vô số lời kêu gọi từ trong nước ra tới ngoài nước, từ người dân Việt tới người ngoại quốc là VN hãy kiện Tàu cộng để đòi lại những gì mình có tại Biển Đông, đảng và nhà cầm quyền VC vẫn bình chân như vại, sau khi đưa ra vài tuyên bố ỏm tỏi, kiểu an dân giả trá, kiểu mỵ dân lường gạt. Việc Tàu cộng rút sớm giàn khoan khỏi lãnh hải Việt càng khiến bộ sậu chóp bu Ba Đình có thêm lý do để im hơi lặng tiếng! “Ta chiến thắng” rồi mà! Hay là việc đòi lại đất liền biển đảo, thậm chí đòi lại cả Tổ quốc (mà Wikileaks hé lộ sẽ mất sau năm 2020, để biến thành một tỉnh tự trị của Tàu cộng, theo thỏa thuận của những tên bán nước như Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh tại Mật nghị Thành Đô?) thì hãy để cho con cháu mươi năm sau, trăm năm sau lo liệu như lời Trương chủ tịch? Còn trước mắt, hãy để đảng yên lành hầu tiếp tục nắm quyền dưới sự bảo trợ của đại đồng chí phương bắc, tiếp tục làm giàu nhờ liên kết kinh doanh với các

€¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

  • Upload
    others

  • View
    6

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

 “Để cho con cháu…” là một từ thường thấy trên môi miệng của các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam. Nó rất đa nghĩa.

Mới đây nó được nhắc lại bởi vài quan chức chóp bu của đảng và nhà nước. Thành thử chúng ta thử bàn qua vài khía cạnh của cụm từ này:

1- Để cho con cháu tiếp nối.Dĩ nhiên đây là con cháu cật ruột của các lãnh đạo Việt cộng. Tiếp nối sự nghiệp, tiếp nối ngai vàng theo nguyên tắc

tối thượng: “Đảng phải muôn năm trường trị”. Về việc này, hầu như ai cũng biết các triều đại phong kiến ở VN (từng bị CS thóa mạ một thời, cụ thể là triều Nguyễn) có những quy định rất nghiêm ngặt về việc tuyển chọn, đào tạo, bổ nhiệm người tài đức ra làm quan. Chẳng hạn nghiêm cấm việc một người được làm quan chức lãnh đạo ở chính địa phương là quê quán, trú quán của mình. Rồi nếu tại địa phương mình được bổ nhiệm có thân thích, họ hàng đang làm quan, thì muốn được bổ nhiệm về đó, họ hàng thân thích kia phải dời đi nơi khác đã nếu người đó không nắm vị trí quá quan trọng. Do đấy không thể có chuyện hai cha con cùng làm quan ở một tỉnh, huyện... Chưa hết, nhà Nguyễn còn cấm thành viên họ ngoại (như đằng vợ, đằng mẹ...) thậm chí của cả nhà vua, nương vào chức vụ đó để được bổ nhiệm ra làm quan; ngoài ra còn nghiêm trị những trường hợp một người làm quan nhận 'bao bọc' cho con cái của một vị quan khác do hai bên có quan hệ cá nhân như thông gia, bằng hữu… và để đổi lại, đến lượt mình, con cái của người này lại được người kia bao bọc, giúp đỡ, tạo điều kiện v.v...

Thế nhưng đối với triều đại đảng ta, đảng cầm quyền thì khác. Nhân việc luân chuyển cán bộ và nhân sự đang diễn ra với sự tranh giành rất ráo riết quyết liệt, mở màn cho Đại hội lần thứ 12 của đảng, nhân dân thấy rõ âm mưu đưa con cháu lãnh đạo hoặc công thần của chế độ vào ban Chấp hành Trung ương để chuẩn bị cho việc kế nhiệm. Xin kể vài tên: Con trai Nông Đức Mạnh là Nông Đức Tuấn, con trai Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Nghị, con trai Nguyễn Chí Thanh là Nguyễn Chí Vịnh, con trai Nguyễn Cơ Thạch (Phạm Văn Cương) là Phạm Bình Minh, con trai Lê Thanh Hải là Lê Trương Hải Hiếu, con trai Nguyễn Văn Chi là Nguyễn Xuân Anh, cháu ngoại Nguyễn Sinh Hùng là Trần Sỹ Thanh, cháu ngoại Hà Huy Tập là Nguyễn Thị Kim Tiến v.v… Cho dẫu loại “thái tử đảng” này có tài đức hay không! Hay “tài” và “đức” ngang bằng hàng cha ông đang phá tan đất nước, tàn hại đồng bào! Rồi việc cha con, anh em, chú bác cùng nhau nắm chức vụ lớn tại các địa phương, các cơ quan nhà nước, các công ty quốc doanh là “chuyện thường ngày ở huyện”. Đang khi những tài năng thật sự của đất nước mà không thuộc hàng “con cháu các cụ”, “phi đảng viên phi thân thế”, nghĩa là con cháu dân đen thì đi chỗ khác chơi!

2- Để cho con cháu lãnh đủ.Trong buổi tiếp xúc với cử tri thành Hồ hôm 06-06-2014, chủ tịch nước cs Trương Tấn Sang đã tuyên bố hùng hồn

như sau: “Về vấn đề Biển Đông. Những gì là của ta được quốc tế công nhận thì chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ gìn giữ. Kiên trì, đấu tranh, năm này không xong thì năm tới. Mười năm này không xong thì mười năm sau. Đời ta không xong thì đến đời con cháu ta, phải dứt khoát như vậy, trước sau như một. Vấn đề chủ quyền là thiêng liêng bất khả xâm phạm”. 

Nhưng rõ ràng là cho tới hôm nay, sau sự kiện giàn khoan HD 981 vốn đã khơi dậy vô số lời kêu gọi từ trong nước ra tới ngoài nước, từ người dân Việt tới người ngoại quốc là VN hãy kiện Tàu cộng để đòi lại những gì mình có tại Biển Đông, đảng và nhà cầm quyền VC vẫn bình chân như vại, sau khi đưa ra vài tuyên bố ỏm tỏi, kiểu an dân giả trá, kiểu mỵ dân lường gạt. Việc Tàu cộng rút sớm giàn khoan khỏi lãnh hải Việt càng khiến bộ sậu chóp bu Ba Đình có thêm lý do để im hơi lặng tiếng! “Ta chiến thắng” rồi mà! Hay là việc đòi lại đất liền biển đảo, thậm chí đòi lại cả Tổ quốc (mà Wikileaks hé lộ sẽ mất sau năm 2020, để biến thành một tỉnh tự trị của Tàu cộng, theo thỏa thuận của những tên bán nước như Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh tại Mật nghị Thành Đô?) thì hãy để cho con cháu mươi năm sau, trăm năm sau lo liệu như lời Trương chủ tịch? Còn trước mắt, hãy để đảng yên lành hầu tiếp tục nắm quyền dưới sự bảo trợ của đại đồng chí phương bắc, tiếp tục làm giàu nhờ liên kết kinh doanh với các công ty bắc phương?

Thái độ vô trách nhiệm đối với đất nước này đã khởi sự từ Hồ Chí Minh, kẻ đầu tiên trong lịch sử dân tộc mở toang mọi cánh cửa của đất nước cho xâm lược Tàu (vì phải chăng đó chính là quê hương của y?), nhận Mao làm thầy, nhận Tàu làm chủ; rồi với Phạm Văn Đồng, kẻ đã gian trá (hay khờ khạo?) viết công hàm 1958 để trực tiếp thừa nhận hải phận 12 hải lý của Tàu và gián tiếp thừa nhận VN vô chủ quyền trên Hoàng Trường Sa; tiếp đó với Cục Đo đạc và Bản đồ phủ Thủ tướng ghi chú quần đảo Hoàng Sa là Tây Sa như tên gọi Trung Quốc, với Nhà xuất bản Giáo dục VN xác định với thế hệ trẻ (y như Tàu cộng hiện nay đang làm với học sinh của họ) là “Các đảo Nam Sa, Tây Sa, đảo Hải Nam, đảo Đài Loan… tạo thành bức 'Trường thành' bảo vệ Trung Quốc đại lục”. Ngoài ra, còn phải kể đến Nông Đức Mạnh rồi Nguyễn Phú Trọng cam kết hợp tác chiến lược toàn diện với Tàu, Nguyễn Tấn Dũng rước Tàu vào Tây Nguyên lấy cớ khai thác bauxite, coi đó như “kế hoạch lớn của đảng”, với Hoàng Trung Hải cho Tàu xây dựng khu tự trị tại Vũng Áng để Tàu dễ cắt VN làm đôi… Và còn vô số vụ việc phản dân hại nước khác của đảng đã, đang và sẽ làm cho con cháu Lạc Hồng lãnh đủ. Lãnh đủ vì không thể mở miệng trước tòa án quốc tế kiện Tàu do cái công hàm khốn khiếp (trừ phi có một chế độ mới phi CS), lãnh đủ vì không thể cạnh tranh nổi với công ty Tàu, hàng hóa Tàu đang thao túng và giết chết nền kinh tế Việt, lãnh đủ vì đang phải bị đầu độc tâm trí mỗi ngày bởi cái loa tuyên truyền “mối liên hệ 16 chữ vàng cao quý”, “tình hữu nghị Việt-Trung ngàn đời bền vững”, bị đầu độc thân xác mỗi ngày bởi cái nạn hàng hóa Tàu (từ thuốc men đến thực phẩm) chứa đầy hóa chất nguy hiểm.

Nhưng phải nói lãnh đủ hơn hết trong lúc này chính là các ngư dân Việt. Đang khi hải quân Tàu cộng (công khai hay ngụy trang dưới dạng ngư chính, hải giám, hải cảnh…) tung hoành lùng sục trên Biển đông, thậm chí đi vào lãnh hải Việt, để hộ tống ngư thuyền nước họ hay đánh đuổi ngư thuyền nước khác; đang khi hải quân Việt cộng (với đủ thứ tàu ngầm, tàu tuần, tàu chiến…) cùng với hải cảnh Việt cộng nằm trong bờ để gọi là bảo toàn lực lượng (cùng lắm là chơi trò bắn súng nước với Tàu trong vụ giàn khoan mới đây), để gọi là không can thiệp vào các vụ “xung đột dân sự” trên biển, thì những ngư dân Việt khốn khổ với thuyền bé, tàu gỗ, tay không, thân cô thế lại tiếp tục được (hay bị) kêu mời bám biển để giữ chủ quyền, làm “cột mốc sống” để xác nhận lãnh hải, tiếp tục được (hay bị) tặng cho vài cái bằng khen, đôi ba nhúm bạc, dăm sáu tủ thuốc… sau khi đã bị “Tàu lạ” ngăn chận, bắn cháy, húc chìm, cướp trắng, hay bắt giữ để đòi tiền chuộc.. trước sự dửng dưng của những con người chỉ quan tâm đến “đại cục” và “tình hữu hảo”.

Page 2: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Số 200 Trang

hộ tống ngư thuyền nước họ hay đánh đuổi ngư thuyền nước khác; đang khi hải quân Việt cộng (với đủ thứ tàu ngầm, tàu tuần, tàu chiến…) cùng với hải cảnh Việt cộng nằm trong bờ để gọi là bảo toàn lực lượng (cùng lắm là chơi trò bắn súng nước với Tàu trong vụ giàn khoan mới đây), để gọi là không can thiệp vào các vụ “xung đột dân sự” trên biển, thì những ngư dân Việt khốn khổ với thuyền bé, tàu gỗ, tay không, thân cô thế lại tiếp tục được (hay bị) kêu mời bám biển để giữ chủ quyền, làm “cột mốc sống” để xác nhận lãnh hải, tiếp tục được (hay bị) tặng cho vài cái bằng khen, đôi ba nhúm bạc, dăm sáu tủ thuốc… sau khi đã bị “Tàu lạ” ngăn chận, bắn cháy, húc chìm, cướp trắng, hay bắt giữ để đòi tiền chuộc.. trước sự dửng dưng của những con người chỉ quan tâm đến “đại cục” và “tình hữu hảo”.

3- Để cho con cháu trả bưa.Mới đây, hôm 15-07-2014, đài Á châu Tự do có đưa lên một phóng sự đầy tính

báo động có nhan đề “Đẩy nợ cho tương lai”. Đó là trong kỳ họp thứ 7 vừa qua, các đại biểu Quốc hội Việt cộng đã thẳng thắn nhìn nhận tình trạng Việt Nam vay nợ để trả nợ đang khiến vấn đề nợ công ngày càng nặng và khó giải quyết đối với đất nước. Tại kỳ họp này, một con số báo động đã được đưa ra là nợ công Việt Nam vượt mức 80 tỉ đôla (tức gần 1000 đôla đè nặng trên lưng mỗi thằng dân) và tổng dư nợ cả năm chiếm hơn một nửa GDP, ở mức 54%. Về vấn đề này, Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng đã vẽ ra một bức tranh hết sức u tối và đáng sợ, mang tên “hiện tượng đẩy nợ cho tương lai”: “Quả thực là hiện trạng nợ nần của Việt Nam hiện nay quá khó để giải quyết, không phải chỉ hiện nay mà từ những năm 2010, 2011 đã nêu ra vấn đề đó rồi. Những khoản nợ công quốc gia, lúc đó 2010–2011 chỉ khoảng 40 đến 45% thôi, còn hiện nay là khoảng 54%. Nhưng thực tế mà nói, theo những phân tích của các chuyên gia thượng thặng như ông Vũ Quang Việt từng đánh giá, là nợ công của VN có thể lên tới 106%, thời điểm đó, không một ai tin. Nhưng đến thời điểm Diễn đàn Kinh tế mùa xuân năm 2013, 2014 vừa rồi thì các chuyên gia phản biện mới phải thừa nhận và đặt lại vấn đề tỉ lệ nợ công của VN lên đến ít nhất là 95%. Nếu tình trạng nợ công tiếp tục tăng như thế này thì quá khó để VN trả nợ cho tương lai, nếu không muốn nói tất cả nợ sẽ đổ lên đầu con cháu chúng ta.”

Có nhiều nguyên nhân tạo nên tình trạng thê thảm này. Trước hết, theo các chuyên gia, đó là đầu tư hoàn toàn vô hiệu quả. Như đầu tư công tràn lan, lãng phí; các dự án ODA đội giá cao (chẳng hạn việc xây dựng đường cao tốc ở VN sử dụng vốn ODA luôn có giá cao gấp 3 lần so với thế giới, theo Gs Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế TW; hoặc việc khai thác bauxite ở Nhân Cơ và Tân Rai tới nay ngày càng lỗ lã nhưng vẫn quyết bám cho kỳ được). Thứ đến, mà có lẽ quan trọng hơn, đó là các quan chức luôn tìm mọi cách vay nợ nước ngoài thật nhiều để có tiền bòn rút, đút túi, đẩy gánh nợ oằn lưng cho con cháu trả. “Sức dân là vô tận” mà! “Con người là vốn quý mà” (định nghĩa của cộng sản về nhân phẩm), dại gì không khai thác! Các vụ Vinashin, Vinalines và hàng chục Vina khác với những số tiền tham nhũng khổng lồ, tính bằng tỷ đôla Mỹ là những bằng chứng, từ đó đẻ ra hàng ngàn cơ ngơi vĩ đại, biệt thự huy hoàng của các “đầy tớ nhân dân”, thậm chí của “Bao Công nhân dân” (nguyên tổng thanh tra nhà nước Trần Văn Truyền vốn đang bị sờ gáy, nhưng có sờ cùm hay không thì hạ hồi phân giải).

Mọi lãnh đạo chính trị trên mọi đất nước (kể cả nhiều lãnh đạo độc tài) luôn tâm niệm phát triển đất nước là để cho con cháu (toàn dân), cho con cháu hưởng. Chỉ riêng các lãnh đạo cộng sản, nhất là lãnh đạo Việt cộng, lại ưu việt hơn người ở chỗ: luôn tìm cách cho con cháu (thân thuộc) tiếp tục giữ ngai vàng túi bạc của mình, luôn giả đò phát triển đất nước để cho con cháu (toàn dân) phải lãnh đủ hậu quả, phải trả bưa nợ nần. Vì đối với chúng, không hề có tổ quốc, không hề có đồng bào, chẳng hề có dân tộc! BAN BIÊN TẬP

Trg 01Để cho con cháu…. !!!Trg 03Thư ngỏ gởi Ban chấp hành

TW và toàn thể đảng viên CSVN-61 đảng viên đảng CSVN.

Trg 04Thư ngỏ gởi Đại sứ Úc, Đại diện EU, Canada, New Zealand..-Hội Cựu Tù nhân LTVN.

Trg 05Tội ác của đảng CSVN đối với Phật giáo Hòa Hảo.-Hội trưởng Trung ương.

Trg 07Đạo nạn của Đạo Cao Đài sau năm 1975 trong chế độ CSVN.-CTS Hứa Phi.

Trg 08Thông bạch Vu Lan 2014. -Tăng đoàn Giáo hội PGVNTN. Trg 09Dân oan Cồn Dầu tuyên bố tự

thiêu trước văn phòng Ch. phủ. -Hoàng Phi.

Trg 10Đừng sống bằng sự dối trá!-Alexander Solzhenitsyn.

Trg 12Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục.-Trần Trung Đạo.

Trg 13Ai xem Tàu là bạn? -Nguyễn Văn Tuấn.

Trg 15Cơ hội ngàn vàng để toàn dân Việt đứng lên làm Cách mạng...

-Chu Tấn.Trg 19Việc thi hành H. định Genève.

-Trần Gia Phụng. Trg 22Bác Hồ là vị „anh hùng lưỡng

quốc“. -Đặng Huy Văn.

Trg 23Xã hội dân sự và đảng chính trị. Nhu cầu phối hợp để xây...

-Trần Diệu Chân.Trg 25Tăng „quyền nhục hình“ cho

công an?-Phạm Chí Dũng.

Trg 26Tàu cộng đứng sau lưng Bitex -co muốn quản lý vịnh Hạ... -Phan Châu Thành.

Trg 28“Đẩy nợ cho tương lai“. -Vũ Hoàng.

Trg 29Công an Đồng Tháp thiệt là bá láp.-Nguyễn Ngọc Già.

Trg 31Mảnh bằng khen cho cột mốc sống. -Nguyệt Quỳnh.

CHÂN THÀNH CẢM ƠN QUÝ ĐỒNG BÀO ĐÃ NUÔI SỐNG BNS TỰ DO NGÔN

LUẬN TỚI SỐ 200.

Chủ trương bám biển của Đảng (Babui - Danchimviet.info)

GIẢI NHÂN QUYỀN VIỆT NAM 2008

GIẢI TRUYỀN THÔNG LIÊN MẠNG 2011TRONG SỐ NÀY

2

Page 3: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.

Trong khi đó, giới lãnh đạo Trung Quốc từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay, Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, Trung Quốc có nhiều hành vi leo thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là mắt xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng Trung Quốc đã đi được những bước quan trọng trong mưu đồ biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ.

Thực trạng đau lòng này phơi bày sự yếu kém cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo đảng và nhà nước trong thời gian qua.

Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên và phải góp phần tích cực khắc

phục những sai lầm đã gây ra; trong đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị.  

Vì vậy chúng tôi, những người ký tên dưới đây, thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung thành với tâm nguyện vì nước vì dân khi vào Đảng với mấy yêu cầu chính dưới đây:

1. Trước tình thế hiểm nghèo của đất nước, với trách nhiệm và vị thế của mình, ĐCSVN tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa. Ngay từ bây giờ, cần thảo luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về tình hình mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi mới rất trắng trợn của Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường được đoàn kết, hòa hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.

Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và thực hiện ngay trong việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII với các đại biểu được bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu chính trị của đại hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của từng đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội sắp tới phải thật sự dân chủ, tạo lập một

QH chuyên nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp chuyển đổi thể chế chính trị.

Việc cần làm ngay để thể hiện sự thực tâm chuyển đổi thể chế chính trị, tạo niềm tin trong dân là các cơ quan công quyền chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân biểu tình yêu nước, đối với các tổ chức xã hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người đã và đang bị kết án hình sự chỉ vì công khai bày tỏ quan điểm chính trị của mình.

2. Lãnh đạo đảng và nhà nước thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa thuận, hợp tác bình đẳng, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.  

Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…

Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, VN cần chủ động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, bãi đá; củng cố sự đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà của mình.

Quan điểm “không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi.

Tổ quốc đang lâm nguy đồng

Số 200 Trang 3

Page 4: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.

Bỏ lỡ cơ hội này là có tội với dân tộc!

Danh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn Tuyến 1946. 5- Lê Duy Mật 1947. 6- Tạ Đình Du 1948. 7- Vũ Quốc Tuấn 1948. 8- Nguyễn Hữu Côn, 1949. 9- Hoàng Hiển 1949. 10- Đỗ Gia Khoa 1949. 11- Hà Tuân Trung 1949. 12- Nguyễn Thị Ngọc Toản 1949. 13- Phạm Xuân Phương 1949. 14- Tô Hòa 1950. 15- Võ Văn Hiếu 1950. 16- Hoàng Tụy 1950. 17- Huỳnh Thúc Tấn 1951. 18- Tạ Đình Thính 1951. 19- Nguyên Ngọc 1956. 20- Tương Lai 1959. 21- Nguyễn Khắc Mai 1959. 22- Đào Công Tiến 1960. 23- Vũ Linh 1962. 24- Nguyễn Kiến Phước 1962. 25- Nguyễn Thị Ngọc Trai 1963. 26- Võ Văn Thôn 1965. 27- Nguyễn Trung 1965. 28- Huỳnh Kim Báu 1965. 29- Hạ Đình Nguyên 1965. 30- Nguyễn Văn Ly 1966. 31- Lê Công Giàu 1966. 32- Kha Lương Ngãi 1966. 33- Tô Nhuận Vỹ 1967. 34- Phạm Đức Nguyên 1968. 35- Bùi Đức Lại 1968. 36- Lữ Phương 1968. 37- Nguyễn Lê Thu An 1969. 38- Nguyễn Đăng Quang 1969. 39- Trần Văn Long 1970. 40- Nguyễn Thị Kim Chi 1971. 41- Huỳnh Tấn Mẫm 1971. 42- Võ Thị Ngọc Lan 1972. 43- Hà Quang Vinh 1972. 44- Nguyễn Đắc Xuân 1973. 45- Lê Đăng Doanh 1974. 46- Chu Hảo 1974. 47- Nguyễn Xuân Hoa 1974. 48- Nguyễn Vi Khải 1974. 49- Cao Lập 1974. 50- Lê Thân 1975. 51- Ngô Minh 1975. 52- Trần Kinh Nghị 1976. 53- Hồ An 1979. 54- Đoàn Văn Phương 1979. 55- Hồ Uy Liêm 1980. 56- Trần Đình Sử 1986. 57- Lê Văn Luyến 1987. 58- Nguyễn Gia Hảo 1988. 59- Phạm Chi Lan 1989. 60- Đào Tiến Thi 1991. 61- Nguyễn Nguyên Bình 1996.

Nhận định của TDNL: Phải hơn nửa thế kỷ, các đảng viên trên đây mới mớ mắt để nhận ra rằng đại huynh, đại đồng chí Tàu cộng chỉ là một bọn cướp nước. Nhưng nếu đi đên cùng đường lý luận và cuối điểm lương tâm, chân thành nhìn vào bản chất, cơ cấu và lịch sử Cộng đảng, họ phải thấy rằng nó là phản dân chủ, phi nhân quyền và vô dân tộc. Thoát Trung đòi hỏi phải thoát Cộng. Và muốn thoát Cộng phải thoát Hồ, tên đại tội đồ đã đưa vào VN cái chủ thuyết, cái chế độ và cái chính đảng vốn đã tàn hại Đất nước và Dân tộc từ hơn nửa thế kỷ nay. Có như thế mới logic với

lương tâm và lương thức của mình.

V/v: Chính quyền VN ngăn cấm CTNLT Phạm Bá Hải

tham dự “Hội thảo : Truyền thông Phi Nhà nước ở Việt

Nam trong thời kỳ hiện nay” tại Hà Nội.

Kính gửi:- Ngài Hugh Borrowman, Đại sứ

Úc cùng các vị Đại diện của EU, Canada, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ tại Hà Nội.

- Ngài Tim Wilson, Đặc ủy viên của Ôxtrâylia về Nhân quyền.

Hội CTNLTVN nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần nội dung hội thảo “Truyền thông phi nhà nước ở VN trong thời kỳ hiện nay” sẽ diễn ra ngày 30-7-2014 tại ĐSQ Úc, Hà Nội, có sự kết hợp tổ chức với CĐ Âu châu, Canada, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ.

Báo chí viết (in và mạng) đóng vai trò như một chiếc cầu quan trọng giữa nhà nước và công dân. Nó có mối liên quan đến chính trị tùy thuộc vào mức độ tự do viết phóng sự điều tra, báo cáo… để đưa ra ánh sáng các khuất tất, lạm quyền

và bất công. Vì để bảo vệ bộ máy cai trị độc tài, xâm phạm nghiêm trọng các quyền căn bản của con người, chính quyền VN thực thi hệ thống kiểm duyệt báo chí gắt gao, toàn diện. Kiểm duyệt trực tiếp như thông qua tòa soạn, trang web và phóng viên phải chịu trách nhiệm những gì họ viết, đưa tin. Kiểm duyệt gián tiếp như sự chỉ đạo, định hướng của các cơ sở đảng; chương trình giáo dục phóng viên viết theo “tính đúng đắn” của chính sách của đảng…

Việc tập trung toàn bộ quyền lực báo chí vào duy nhất đảng CS, đã tạo ra luồng thông tin một chiều

nhằm củng cố cho mục đích chính trị của họ, và phục vụ cho quyền lợi của họ. Những tư tưởng khác “phi nhà nước” đều bị xem là phi pháp, “không khách quan” và “sai sự thật”. Hiện đang có trên 30 người cầm bút đang ngồi tù vì chính sách kiểm duyệt và bịt miệng bất đồng chính kiến, trong đó có Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Paulus Lê Sơn… và mới đây là Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Anh Ba Sàm Ng. Hữu Vinh.

Đã có quá nhiều hy sinh để đòi quyền tự do thông tin tại VN, đã có quá nhiều giấy mực nói lên khốn khó vô bờ của thân nhân gia đình các tù nhân ấy; và với tư cách thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ, đây là thời điểm chính quyền VN cần phải thực hiện và tôn trọng quyền tự do bày tỏ ôn hòa các chính kiến bất đồng của người dân.

Hội thảo “Truyền thông Phi Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay” là dấu hiệu đáng mừng trong tình hình truyền thông phi nhà nước không ngừng bị đàn áp. Anh Phạm Bá Hải, điều phối viên của Hội CTNLT đã vinh dự nhận giấy mời

Số 200 Trang 4

Page 5: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

tham gia hội thảo này.Tuy nhiên, trưa ngày 29-7-2014

khi trên đường từ nhà ra sân bay Tân Sơn Nhất để đi Hà Nội, CTNLT Phạm Bá Hải đã bị lực lượng an ninh công an phối hợp ngăn cấm không cho đi. Họ nói lệnh của BCA là Phạm Bá Hải không được đi tham gia hội thảo này, nếu chấp hành thì quay về nhà, còn nếu phản đối thì sẽ bị cưỡng chế vào đồn công an theo giấy mời mà họ đã tống đạt vào lúc sáng cùng ngày.

Kính thưa quý vị Đại diện ngoại giao. Đây là vụ việc xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do đi lại trong nước của công dân Phạm Bá Hải một cách bất hợp pháp. Can thiệp ngăn cấm mà không hề có giấy lệnh nào ngoại trừ một lực lượng công an an ninh của phòng bảo vệ chính trị (PA67), cơ quan điều tra Phan Đăng Lưu (PA72), an ninh huyện Hốc Môn và công an địa phương.

Cách đó mấy ngày, anh Phạm Bá Hải cũng đã bị cấm ra khỏi nhà khi Ngài Heiner Beiderfeldt, Báo cáo viên LHQ về tự do tôn giáo đến Sài Gòn vào ngày 25-7-2014. Vị Đồng Chủ tịch hội CTNLT, Bs Nguyễn Đan Quế cùng với Phạm Chí Dũng và Dương Thị Tân cũng bị ngăn chặn không cho ra khỏi nhà.

Tiến trình ra đời các tổ chức phi chính phủ của quần chúng và dần dà hình thành xã hội dân sự là một tiến trình tất yếu, và VN cũng đã chấp nhận khuyến nghị tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà hoạt động XHDS có thể tự do hội họp và thể hiện quan điểm. Trái lại tinh thần trên, sau khi nhận được hộ chiếu ngày 9-7-2014, thì ngay ngày hôm sau anh Phạm Bá Hải đã bị Phòng quản lý XNC Tp HCM (PA 72) mời lên làm việc và tịch thu lại. Điều kiện để được có hộ chiếu và được sang Ấn Độ tiếp tục học chương trình tiến sĩ mà Phạm Bá hải đã bị dở dang khi bị bắt năm 2006 là rút tên ra khỏi và chấm dứt hoạt động trong Hội CTNLT và Hội Nhà báo Độc lập (IJAVN).

Trong phạm vi truyền thông phi nhà nước, thông tin đa chiều và

thừa nhận quyền tự do hội họp và lập hội là những dấu mốc không thể tránh khỏi, Hội CTNLT kêu gọi Ngài Đại sứ Úc cùng các Đại diện các đoàn ngoại giao trong ban tổ chức hội thảo tiếp tục mở ra nhiều cuộc hội thảo tương tự, làm sáng tỏ quyền được tiếp cận thông tin đa chiều của người dân.

Qua đó, chính quyền VN phải thả toàn bộ những người đã bị xét xử theo điều 88, điều 258 cùng các điều khoản khác có liên quan trong bộ luật hình sự CHXHCNVN; vô hiệu hóa Nghị định 72 và các văn bản dưới luật khác nhằm hạn chế quyền này.

Việt Nam, ngày 29-7-2014.Thường trực BĐH Hội CTNLT:

- Đồng chủ tịch: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi- Chủ tịch Hội đồng cố vấn: HT. Thích Không Tánh- Điều phối viên: Ths. Phạm Bá Hải, Ls. Nguyễn Văn Đài- Phát ngôn viên: Ts. Phạm Chí

Dũng

NGUYÊN ỦY ĐỐI LẬPPGHH sinh ra từ lòng dân tộc, lớn

lên trong khí thiêng sông núi của Tổ Quốc nên lập trường nhất quán của PGHH là phải sống với Tổ Quốc và Dân Tộc và cũng chết vì Tổ Quốc và Dân Tộc.

Đặc trưng giáo thuyết của PGHH là pháp môn Học Phật Tu Nhân. Học Phật là làm tất cả các điều lành dù là lành nhỏ. Tránh tất cả các điều làm ác dù là ác nhỏ. Tu Nhân là phải làm tròn 4 điều ân lớn: Ân Tổ Tiên Cha Mẹ, Ân Đất Nước, Ân Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), Ân Đồng Bào và Nhân Loại.

Về phần Học Phật, trên phương diện xử thế, người tín đồ PGHH phải lấy Nghĩa, Nhân làm cơ sở... trong lúc chủ thuyết cộng sản thì chủ trương “mọi phương tiện đều tốt... mạnh được yếu thua”.

Về phần Tu Nhân, người tín đồ PGHH đặt Ân Tổ Tiên Cha Mẹ lên hàng đầu... trong lúc chủ thuyết cộng sản thì chủ trương: vô gia đình...

Người tín đồ PGHH đặt Ân Đất Nước vô cùng trọng đại, thì chủ thuyết cs chủ trương: vô Tổ quốc... Người tín đồ PGHH đặt Ân Tam Bảo là một đại trọng ân thì chủ thuyết cs chủ trương: vô tôn giáo.

Bấy nhiêu vừa kể cũng đủ cho thấy tôn chỉ PGHH và chủ thuyết cs đối lập nhau như nước với lửa... và dưới mắt của đảng csVN, PGHH là một chướng ngại đáng quan tâm trên con đường “xích hóa” VN nên phải diệt trừ cho bằng được bất luận ở môi trường nào, tình huống nào, cơ hội nào... có thể được.

Nhất là sau ngày đảo chánh Pháp (1945) Đức Huỳnh Phú Sổ, Giáo Chủ PGHH thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất quy hợp gần như hầu hết các tôn giáo, đảng phái ở Nam Bộ VN làm cho đảng cộng sản VN càng lo sợ phải đẩy mạnh những âm mưu dù thô bạo đê hèn đến đâu để triệt tiêu PGHH cho bằng được.

Trong lúc VN mới thu hồi độc lập, còn ngổn ngang phức tạp, sự đoàn kết toàn dân là một nhu cầu thiết yếu để kiến tạo xứ sở... thì đảng csVN do Trần Văn Giàu cầm đầu ở Nam Bộ lại trắng trợn mở những cuộc trấn áp thô

bạo và đê hèn nhằm triệt hạ các thế lực quốc gia... nhất là đối với PGHH là một cái gai chọc vào mắt mà cs phải đối xử mạnh tay hơn tất cả.

Đêm 9-9-1945, Trần Văn Giàu gọi điện thoại nói chuyện trực tiếp với Đức Huỳnh Giáo Chủ để biết chắc Ngài có mặt tại văn phòng rồi liền sau đó hằng trăm công an của Giàu ào ạt tràn đến bao vây văn phòng của Đức Huỳnh Giáo Chủ ở đường Miche (Saigon) để sát hại Ngài. Nhưng cuối cùng bọn Trần Văn Giàu không thành công.

Giai đoạn này là thời điểm vô cùng nghiêm trọng cho đất nước VN, bên ngoài quân đội Pháp do tướng Leclerc chỉ huy lăm le tái chiếm VN, bên trong thì đảng csVN trắng trợn khai hấn cuộc tương tàn để giành độc quyền lãnh đạo đất nước, nếu VN xảy ra một cuộc tương tàn thật sự thì là một lợi lớn cho quân thù.

Với tấm lòng chân thành yêu nước của một nhà chí sĩ, Đức Huỳnh Giáo Chủ phải đặt quyền lợi Tổ Quốc trên tất cả, Ngài đành lánh mặt để tránh cuộc tương tàn với đảng csVN

Số 200 Trang 5

Page 6: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

trong lúc Ngài có triệu rưỡi tín đồ sẵn sàng hy sinh theo một tiếng lịnh của Ngài trong lúc đảng csVN ở Nam Bộ chưa được 100 ngàn đảng viên.

Sau khi Đức Huỳnh Giáo Chủ lánh mặt, đảng csVN dưới danh nghĩa Việt Minh (VM) thẳng tay tàn sát PGHH không chút tiếc thương bằng những cuộc thảm sát tập thể... bằng những cuộc xử tử công khai... Đại thể như cuộc xử bắn công khai tại chợ Lấp Vò (Đồng Tháp) ngày 10-10-1945, các nạn nhân đều là nhân sĩ, Trị sự viên PGHH có tên tuổi như quý ông: Thi sĩ Việt Châu Nguyễn Xuân Thiếp, Huỳnh Phú Mậu (bào đệ Đức Huỳnh Giáo Chủ), Trần Ngọc Hoành, Võ Tăng Sâm, Nguyễn Văn Hay, Nguyễn Văn Ngàn, Huỳnh Văn Công, Huỳnh Văn Kích v.v...

Cụ Lê Quang Liêm cũng là một tử tội nằm trong nhóm tử tội này, đáng lý bị xử một lượt nhưng vì cụ là một nhân sĩ trụ cột của PGHH nên VM muốn xử bắn vào ngày mồng 4 Tết 1946 để thị oai. Nhưng đến ngày 23-12-1945 thì quân đội Pháp đổ bộ chiếm Lấp Vò, VM bỏ chạy, anh em bảo an PGHH phá khám cứu sống cụ trong gang tấc. Năm nay cụ đã 95 tuổi và sống tại Sài Gòn với cương vị Hội trưởng Trung ương PGHH Thuần Túy (không được nhà cầm quyền csVn thừa nhận).Trong giai đoạn thảm thiết này kể ra có khoảng 50 ngàn nhân sĩ tín đồ PGHH bị VM sát hại. Tại các tỉnh Miền Tây Nam Bộ có hàng chục mồ chôn tập thể do những cuộc thảm sát này, nhưng đến ngày nay thì nhà cầm quyền cs đã tìm cách xóa bỏ mọi dấu tích man rợ này, duy chỉ hiện giờ tại xã Phú Thuận (Đồng Tháp) còn một mồ chôn tập thể với 467 hài cốt cs chưa phi tang được vì nó quá lớn.

Rồi... kể từ năm 1954 đến 30-4-1975, suốt 20 năm dài đằng đẵng này, tại Nam Bộ, vmcs chỉ còn là những toán du kích ẩn núp ở núi rừng, nhưng vmcs vẫn theo đuổi chủ trương triệt tiêu PGHH trong mọi môi trường, trong mọi tình huống, trong mọi cơ hội... có thể được.

Hạ bán niên 1946, quân đội Pháp đã tái chiếm gần hết các điểm xung yếu ở Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh phải lên tiếng kêu gọi toàn dân đoàn kết để chống quân thù chung, đồng thời phái đại diện chánh thức là ông Phạm Thiều, năm lần, bảy lượt đến tiếp xúc với Đức Huỳnh Giáo Chủ để thỉnh cầu Ngài tham chánh.

Cũng vì tấm lòng chứa chan yêu nước, Đức Huỳnh Giáo Chủ chấp nhận tham chánh với chức vụ Ủy viên Đặc biệt để chứng tỏ cho quốc dân

đồng bào nhận thấy rằng Ngài không vì hiềm riêng mà hờ hững với phận sự cứu nước.

Thế mà trước lòng từ bi hải hà của một đấng thiêng liêng, trước lòng yêu nước chân thành của một nhà chí sĩ, vmcs vẫn theo đuổi một chủ trương khát máu đê hèn: ám hại Đức Huỳnh Giáo Chủ lần thứ 2 tại Rạch Đốc Vàng (Đồng Tháp) đêm 16-4-1947... tạo một tội ác trời không dung, đất không tha.

Sau ngày 30-4-1975, cưỡng chiếm được Miền Nam, đảng csVN vẫn tiếp tục theo đuổi chủ trương trảm thảo trừ căn đối với PGHH qua một chính sách tàn bạo đại lược như dưới đây:

A- Đối với Giáo Hội PGHH:a- Triệt để cấm hoạt động giáo sự.b- Toàn bộ tài sản Giáo Hội bị nhà

cầm quyền cs tịch thu sạch sành sanh không chừa một miếng ngói, một viên gạch từ ngôi Hội sở Trung ương đến các Hội sở các cấp tỉnh, huyện, xã, ấp... cả đến trên 10.000 Độc giảng đường cũng bị tịch thu, tổng giá trị lên đến 10.000 tỷ đồng.

B- Đối với nhân sĩ và tín đồ PGHH:

a- Công an âm thầm canh chừng ngày đêm. Tín đồ PGHH không được tụ họp với nhau quá 5 người.

b- Cuộc sinh sống luôn luôn bị hạn chế.

c- Một số tài sản cá nhân bị nhà cầm quyền cs tịch thu, điển hình là tài sản của cụ Lê Quang Liêm bị tịch thu sạch sành sanh tổng giá trị hằng mấy trăm tỷ đồng. Sau 30-4-1975, cụ Lê Quang Liêm, vị Hội trưởng Trung ương PGHH do Đại hội Toàn quốc PGHH bầu ngày 9-8-1970 phải đi ngồi tù 5 năm và bị quản chế 5 năm. Sau khi được tự do cụ Liêm liền cầm đầu một phong trào tranh đấu đòi nhà cầm quyền cs phải chấp nhận tái phục hoạt Giáo Hội PGHH. Cuộc tranh đấu này thật vô cùng truân chuyên nguy hiểm, gần trăm nhân sĩ PGHH phải bị ngồi tù từ 5 năm đến chung thân, bao nhiêu nhà tan cửa nát, đại lược như:

-Tu sĩ Nguyễn Văn Điền 7 năm tù. -Nguyễn Văn Thơ 7 năm tù. -Dương Thị Tròn 9 năm tù.-Mai Thị Dung 11 năm tù. -Võ Văn Bửu 7 năm tù. -Nguyễn Ngọc Hà 4 năm tù. -Nguyễn Thanh Phong 5 năm tù. -Lê văn Sóc 6 năm 6 tháng tù. -Nguyễn Văn Thùy 5 năm tù. -Nguyễn Châu Lang 3 năm tù. -Trương Văn Đức 12 năm tù. -Bùi Thiên Huệ 5 năm tù. -Lê Văn Tính 20 năm tù. -Bùi Tấn Nhã chung thân. -Trần Văn Bé Cao 5 năm tù. -Lê Hữu Hòa 5 năm tù. -Lê

Văn Nhuộm 5 năm tù. -Nguyễn Văn Lía 5 năm tù. -Võ Văn Thanh Liêm 5 năm tù. -Trần Hoài Ân 3 năm tù v.v. và v.v... Cả đến việc cụ bà Nguyễn Thị Thu và Tu sĩ Trần Văn Út phải tự thiêu.

Cuộc tranh đấu đòi tái phục hoạt Giáo Hội PGHH do cụ Lê Quang Liêm lãnh đạo ngày càng quyết liệt kéo dài suốt 15 năm, được Thế giới Tự do quan tâm, làm cho đảng csVN tự thấy không thể dìm PGHH mãi được nên phải thay một sách lược mới: “dùng giáo Tàu đâm các chú” cố nắn ra một Ban Trị sự Trung ương tay sai để trám vào chỗ đòi hỏi của cụ Lê Quang Liêm trước dư luận quốc tế.

Thế là một Ban Trị sự quốc doanh ra đời từ tháng 5-1999 do Nguyễn Văn Tôn cầm đầu và cũng từ đó Giáo Hội PGHH do cụ Lê Quang Liêm lãnh đạo phải thêm 2 chữ Thuần Túy để phân biệt chánh tà.

PGHH có 3 ngày lễ chánh:- Đại Lễ 18-5 âl là lễ kỷ niệm ngày khai sáng PGHH.- Đại Lễ 25-11 âl là lễ kỷ niệm Ngày Đản Sanh Đức Huỳnh Giáo Chủ.- Đại Lễ 25-2 âl là lễ kỷ niệm ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ bị vmcs ám hại.

Từ ngày có Ban Trị sự quốc doanh thì 2 ngày lễ lớn là ngày khai đạo và ngày Đản sanh chỉ có Ban Trị sự quốc doanh được phép tổ chức, còn ngày lễ 25-2 âl thì Ban Trị sự quốc doanh hủy bỏ hẳn, còn Giáo Hội PGHH Thuần Túy vẫn bị nhà cầm quyền cs triệt để cấm tổ chức; và ròng rã 39 năm liên tiếp (1975-2014), năm nào cũng như năm nào, nhà cầm quyền cs phải sử dụng hàng ngàn công an với mọi phương tiện để mở chiến dịch ngăn chận không cho Giáo Hội PGHH Thuần Túy tổ chức 3 ngày lễ này.

Ngoài ra hằng trăm gia đình các Trị Sự viên PGHH Thuần Túy bị công an công khai đóng chốt trước cửa nhà với nghiêm lịnh: “nội bất xuất, ngoại bất nhập” trong những ngày lễ của PGHH, dù trong nhà có ai bị phát bịnh bất thường cũng phải nằm chờ chết, chớ không được ra khỏi nhà; mỗi lần bị phong tỏa như vậy ít nhất là 3 ngày đêm.

Thỉnh nguyệnHội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp

Quốc dùng uy tín khuyến cáo nhà cầm quyền csVN phải:- Tuân thủ các quy điều của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.- Tôn trọng Nhân quyền và Quyền Tự do Tôn giáo tại VN.- Trả tự do không điều kiện cho các tù nhân lương tâm còn giam giữ tại VN.

- Trả lại tài sản cho Giáo Hội

Số 200 Trang 6

Page 7: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

PGHH vì PGHH hiện nay là một trong bốn tôn giáo lớn tại VN, có tư cách pháp nhân hẳn hoi tại sao lại bị tịch thu tài sản?

- Trả lại tài sản cho cụ Lê Quang Liêm, vì hiện nay cụ Lê Quang Liêm là một công dân hợp pháp như bao nhiêu công dân khác, tại sao lại bị tịch thu tài sản ???

- Trả lại đất vườn cho hằng triệu dân oan đang sống lang thang đói rét ở đầu đình xó chợ.

Ngày 22 tháng 7 năm 2014.Giáo Hội PGHH Thuần TúyHội trưởng Trung ương

I- Từ ngày khai sinh Đại Đạo

Tam Kỳ Phổ Độ, gọi tắt là Đạo Cao Đài.

- Đạo Cao Đài thờ Thiên Nhãn.- Cổ Pháp (Xuân Thu, Phất Chủ,

Bát Vu) biểu tượng của tam giáo Phật, Thánh, Tiên.

- Đạo Kỳ: 3 màu Vàng, Xanh, Đỏ.

- Pháp Chánh Truyền, là Hiến Pháp Đạo.

- Tân Luật là luật chung của Đạo.

- Kinh lễ, Thiên Đạo, Thế Đạo, Giáo Lý, Bát Đạo Nghị Định và Luật Lệ của Hội Thánh là nội quy nội luật hành Đạo. - Đạo Cao Đài có 4 cơ quan Chánh Trị Đạo là:

- Hiệp Thiên Đài (cơ quan giữ gìn luật pháp Đạo)

- Cửu Trùng Đài (cơ quan hành chánh của nền Đạo)

- Phổ Tế (cơ quan phổ độ chúng sanh)

- Phước Thiện (cơ quan bảo tồn giúp khó trợ nghèo). Từ năm 1926-1975 Đạo Cao Đài có trên 3 triệu tín đồ ở quốc nội, hải ngoại.

II- Sau năm 1975, Cộng sản chiếm Miền Nam Việt Nam, Đạo Cao Đài là 1 trong những tôn giáo bị CS tiêu diệt nặng nhất. Qua những văn bản của chế độ CS sau đây:

1- Bản án Cao Đài của MTTQT

TN ký ngày 20-9-1978 (lên án Đạo Cao Đài thân Mỹ, Nhật, Pháp, chống cách mạng.)

2- Quyết định số 124/QĐUB của UBNDTTN do ông Đặng Văn Thưởng ký ngày 4-6-1980.

3- Hướng dẫn số 21 của trưởng ban DVTW do ông Phan Minh Tánh ký ngày 29-1-1991 (để đưa đảng viên CS vào nội bộ tôn giáo).

4- Thông báo số 34 của BCHTWĐ do ông Lê Đức Anh ký ngày 14-11-1992 (không khuyến

khích phát triển tôn giáo và chuẩn bị nhân sự được cài vào để điều hướng đại hội của tôn giáo)

5- Thông báo số 10 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ do ông Vũ Gia Thanh ký ngày 30-2-1995 (theo chủ trương của CS để điều hành tôn giáo quốc danh do họ lập nên).

6- Kế hoạnh 01 ứa của Tỉnh ủy TTN do ông Nguyễn Văn Rốp ký ngày 29-5-1996 (ngăn ngừa+ trấn áp không cho phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc Đạo và đời theo chủ trương của đảng).

7- Quyết định 42 của TUTTN do ông Nguyễn Văn Rốp ký ngày 29-5-1996 (thành lập UB chỉ đạo để hướng dẫn Cao Đài quốc doanh đại hội dể CQCSVN công nhận tư cách pháp nhân).

8- Thông tư số 02 của BTGCP do ông Lê Quang Vịnh ký ngày 16-6-1999 (Chức sắc HĐCQ được công cử phải do chính quyền CSVN công nhận theo phẩm cấp).

9- Thông báo 319/TB/DV của DVTW do ông Trịnh Xuân Giới ký ký 30-9-1996 (không cho sử dụng cơ bút và dự thảo hiến chương của HĐCQ Cao Đài quốc doanh)

10- Hướng dẫn 31/HD/DVTW của BDVTW do ông Trịnh Xuân Giới Ký ngày 16-2-1998 (nắm rõ tình hình diễn tiến của từng hệ phái để đảng có hướng chỉ đạo tiếp).

11-Thông báo số 145 Tối mật/ TB/TW của Bộ Chính trị do ông

Phạm Thế Duyệt ký 15-6-1998 (tiến tới lập pháp lệnh tín ngưỡng cho các tôn giáo)

Như vậy qua 11 văn bản mật và tối mật ở trên đã chứng minh CQDCSVN quyết tâm tiêu diệt Đạo Cao Đài do ĐỨC CHÍ TÔN lập thành. Xem chi tiết vào đường link: baotonchanhphap.net/new -> Diễn Đàn -> những tài liệu ĐCS tiêu diệt Đạo Cao Đài.

III-Tiếp đến CQCSVN tịch thu toàn bộ cơ sở của Đạo từ trung ương đến địa phương:

- Giải thể Hội Thánh và tất cả cơ cấu hành chánh của Đạo

- Cấm sử dụng Cơ bút (thần linh học), không cho Hội Thánh Thông Công với quyền năng Thiêng Liêng để hành đạo theo chánh truyền của Đức Chí Tôn.

- CQCSVN buộc những Chức sắc Thiên phong không theo chủ trương của chủ thuyết Vô thần CS phải về Tu tại gia.

IV- Vì vậy các Chức sắc và Tín đồ trung kiên vì Đạo, đấu tranh quyết giữ chơn truyền Chánh Pháp của Đức Chí Tôn đã hướng dẫn lập Đạo từ năm 1926 không cho quyền đời lợi dụng.

* Đã trải qua gần 40 năm, Chức sắc và Ban Đại diện Khối Nhơn sanh đấu tranh bảo vệ Đạo quyền trong tinh thần ôn hoà, nhưng CQCSVN vẫn tiếp tục đàn áp qua nhiều hình thức: đưa giấy triệu tập lên công an, khủng bố tinh thần, cản trở việc đi lại trong công việc đạo sự. Họ còn dùng Cao Đài Quốc Doanh + công an + côn đồ… ban ngành Chánh quyền, cướp một số Thánh thất Chơn truyền như TT. Long Bình ở tỉnh Tiền Giang, TT Định Quán tỉnh Đồng Nai, TT Phú Mỹ tỉnh Bình Định, đánh đập 1 số đồng đạo bị trọng thương. Gần đây CQCSVN liên tục đàn áp, sách nhiễu đồng đạo ở Vĩnh Long, cụ thể ở văn phòng Tộc đạo Châu Thành, nhà của Hiền huynh CTS. Nguyễn Kim Lân. Hiền tỷ CTS. Nguyễn Bạch Phụng bị theo dõi nhiều hơn sau khi điều trần ở Quốc hội Hoa-Kỳ. Hiền Huynh CTS Hứa Phi,

Số 200 Trang 7

Page 8: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

trưởng BĐDKNS, bị khống chế từ thể xác đến tinh thần và bị người giả dạng Cao Đài quốc doanh đánh trọng thương phải nằm viện. Đồng đạo trong nước như ở Quảng Ngãi, An Khê, Tây Ninh bị đàn áp vì không theo Đạo Cao Đài quốc doanh, đứng đầu là ông Cựu Dân biểu Quốc hội Nguyễn Thành Tám và ông HDND tỉnh Tây Ninh Lê Minh Khuyên làm Chưởng Quản và Phó Chưởng Quản Hội thánh Cao Đài Tây Ninh.

Trên đây là dẫn chứng một số việc của Đạo Cao Đài và các tôn giáo khác như : Công Giáo, Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Tin Lành và Phật Giáo Hoà Hảo Thuần Tuý đang bị CQCSVN đàn áp.

Chúng tôi mong muốn thanh bình đến trên tổ quốc Việt Nam, để đạo và đời hưởng được ân huệ của Đấng Thượng Đế tối cao.

Chủ quyền của Đạo phải được tôn trọng; tất cả những cơ sở của Đạo CQCSVN phải trả lại cho Đạo dưới sự giám sát của LHQ. Nay kính :

Việt Nam ngày 16-7-2014.(ÂL ngày 20-6 năm Giáp Ngọ).Thay mặt BĐDNSDCDTrưởng ban: CTS. Hứa Phi.

TĂNG ĐOÀN GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHẤTHỘI ĐỒNG ĐIỀU HÀNH

Chùa Giác Hoa, 15/7 Nơ Trang Long, Phường 7, Q. Bình Thạnh,

TP Sài Gòn. Phật lịch 2558Số: 02/HĐĐH/TB/VT

THÔNG BẠCH VU LAN 2014Kính gửi:

- Chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức, Tăng, Ni,- Chư Thiện hữu Cư sĩ cùng Đồng bào Phật tử các giới trong và ngoài nước,

Kính thưa Liệt quý vị,Nhân mùa Vu Lan báo hiếu,

Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất xin gửi lời chân thành tri ân chư liệt vị đã hết lòng ủng hộ, tham gia sinh hoạt Tăng Đoàn trong hoàn cảnh đầy biến động, phân hóa, không mấy ai mong muốn. Xin tán dương công đức Phật sự nhằm từng bước ổn định sinh hoạt Tăng Đoàn thời gian qua của các cấp điều hành Tăng Đoàn trong và ngoài nước.

Đại lễ Vu Lan nhắc nhở mọi người về lòng hiếu thảo, đức từ bi và phẩm hạnh thanh tịnh.

Báo hiếu chỉ có ý nghĩa khi hạnh nguyện cứu khổ độ sanh được thể hiện đầy đủ. Bởi vì, ở đâu có đau khổ, ở đó cần đến lòng từ bi cứu độ.

Địa ngục không phải chỉ có nơi âm phủ mà địa ngục còn có tại trần gian. Nơi nào có khổ đau, nơi đó có địa ngục. Ở đâu có đàn áp, ngược đãi, nhục hình, ở đó có địa ngục.

Vì vậy, nếu chỉ tế độ oan hồn uổng tử, mà không phát tâm cứu hộ người còn sống đang lâm cảnh đọa đày, cũng chưa trọn tình hiếu hạnh, chưa trọn nghĩa từ bi.

Trong suốt hơn 2000 năm lịch sử hoằng hóa, Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc. Thực hiện giáo pháp từ  bi, Phật tử chúng ta không bao giờ xoay lưng ngoảnh

mặt trước cảnh đau khổ của con người.

Đức Đệ tứ Tăng thống, Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang nhấn mạnh rằng: “Người Phật tử bồi đắp tâm linh bao nhiêu cho tiến trình giải thoát giác ngộ, thì càng bảo vệ lãnh thổ bấy nhiêu cho chủ quyền của nòi giống tự do, thoát ly nô lệ”.

Dù Phật giáo đã và đang trải qua những cơn Pháp nạn hiểm nghèo, nhưng Tăng Đoàn GHPGVNTN không để chướng duyên làm lu mờ bản thể thanh tịnh và hòa hợp của Tăng già vốn là yếu tố làm nên sức

mạnh và sự trường tồn của Phật giáo.

Trước cảnh quê hương bị bất công, lầm than, rách nát, quyền sống của con người bị tước đoạt, nhân phẩm bị chà đạp, đất nước đang đứng trước hiểm nạn ngoại xâm, Tăng Đoàn GHPGVNTN thiết tha kêu gọi chư liệt vị hãy vì tiền đồ của dân tộc và đạo pháp, thể hiện Bồ Tát  hạnh cứu khổ trừ nguy, tích cực dấn thân hơn nữa để khỏi cô phụ bản hoài xuất thế độ sanh của chư Phật.

Muốn giải trừ khổ hoạn cho người khác, bản thân của mỗi tu sĩ cần sống thanh tịnh. Vì bản thể thanh tịnh của Tăng già là sức mạnh vô biên có khả năng giải thoát mọi khổ đau phiền não. Do vậy, chúng ta hãy nỗ lực phát huy nội lực thanh tịnh, sống đời phạm hạnh, thánh thiện, tránh xa các tham vọng, thị phi thế tục, an trú vững chãi trong chánh pháp, nhằm giải thoát tự thân và góp phần cứu khổn phò nguy. Mong quý Cư sĩ Phật tử hãy cùng gia tâm, gắng sức trong sứ mệnh hộ trì chánh pháp, lợi lạc hữu tình.

Xin chân thành đốt nén tâm hương, cầu nguyện Cửu huyền Thất tổ, Phụ mẫu quá vãng được siêu thăng, quyền sống con người được tôn trọng, đất nước thoát nạn ngoại xâm, thế giới thanh bình, chúng sanh an lạc.

Nam Mô Vu Lan thắng hội vô lượng chư Phật, chư đại Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng tác đại chứng minh.

Mùa Vu Lan Báo hiếu năm Giáp Ngọ, 2014.

Thay mặt HĐ Điều HànhTăng Đoàn GHPGVNTNViện trưởng(đã ấn, ký)Tỳ kheo Thích Viên Định

TỰ DO NGÔN LUẬNBán nguyệt san ra ngày 1

và 15 mỗi thángIN VÀ TẶNG TẠI VN

Địa chỉ liên lạc:[email protected]

Số 200 Trang 8

Page 9: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Muốn đọc tờ báo trên mạng, xin mời ghé:

http://www.tdngonluan.comwww.tudodanchuvietnam.net

http://tudongonluan.atspace.comhttp://www.viet.no

http://khoi8406vn.blogspot.comTrong trang mạng thứ 1,

thứ 3 và thứ 5 trên đây, Quý vị có thể tìm thấy nhiều tài liệu đấu tranh cho dân chủ

tại Việt Nam

Xin vui lòng giúp phổ biến bán nguyệt san này

ngược về trong nước, cho Đồng bào quốc nội, để mọi người thấy được bản mặt của Hồ Chí Minh

và đảng Cộng sản VN !Hà Nội – Ông Trần Thanh Cát,

một dân oan Cồn Dầu đang có mặt tại Hà Nội đã tuyên bố trước mặt đoàn thanh tra chính phủ rằng: Nếu không được giải quyết thỏa đáng cho gia đình ông và mọi người tại đây, không bố trí đất tái định cư tại chỗ cho bà con dân oan Cồn Dầu thì ông sẽ tự thiêu ngay trước cổng văn phòng chính phủ.

Dân oan Cồn Dầu đã nhiều lần ra tận Hà Nội để khiếu kiện nhưng chỉ nhận được những lời khuyên vô trách nhiệm của thanh tra chính phủ. Nhiều người dân đã bức xúc đến tột đỉnh. Lời tuyên bố của ông Cát đã được bên thanh tra chính phủ nhắn về cho Tp Đà Nẵng, nhưng dường như vẫn không có dấu hiệu nhà cầm quyền ĐN ngưng việc cưỡng chế nhà cửa.

Cồn Dầu có 85 hộ dân nằm trong diện cưỡng chế của nhà cầm quyền quận Cẩm Lệ, Tp. Đà Nẵng. Cho đến nay đã có hơn 30 hộ gia đình ở giáo xứ Cồn Dầu bị cưỡng chế, còn lại gần 50 hộ gia đình. Nhưng từ giữa tháng 6 đến đầu tháng 7 năm nay, 50 hộ gia đình này đã lần lượt nhận được giấy quyết định cưỡng chế.

Sau cuộc tiếp dân của thanh tra

Tp Đà Nẵng với dân oan Cồn Dầu tại văn phòng chính phủ đợt đầu tháng 6 mới đây và kể từ đầu năm đến nay, đây là lần thứ ba bà con dân oan Cồn Dầu lại cất công ra tận Hà Nội để một lần nữa kêu cứu lên thủ tướng, kêu cứu lên thanh tra chính phủ, các cơ quan cấp cao trong nước giúp đỡ. Trong cuộc tiếp dân lần thứ hai của thanh tra chính phủ, họ nói với dân oan Cồn Dầu rằng đợi cho tới khi Tp Đà Nẵng ra quyết định giải quyết lần cuối cùng, họ sẽ đứng ra xử lý. (Tuy nhiên, đây chỉ là lời nói suông của thanh tra chính phủ).

Không chỉ một lần, nhưng đã nhiều lần Tp Đà Nẵng cử đoàn thanh tra Tp ra Hà Nội để giải quyết cho bà con, nhưng tất cả những lần đó thanh tra Tp luôn cố tình nói láo trước mặt thanh tra chính phủ và bà con dân oan Cồn Dầu. Trong các cuộc họp dân tại văn phòng chính phủ, thanh tra Tp một mặt khuyên bà con về lại quê hương và hứa sẽ giải quyết cho bà con một cách thỏa đáng, mặt khác khi mọi người đã về tới Đà Nẵng thì

họ lại tiếp tục cưỡng chế nhà cửa của dân khiến cho bà con dân oan Cồn Dầu liên tục bị mắc lừa. Như ngày 6-6-2014 vừa rồi, thanh tra Tp Đà Nẵng đã có một buổi họp với dân tại văn phòng chính phủ, họ tha thiết mời bà con Cồn Dầu về và hứa sẽ ngưng cưỡng chế cho đến khi nào có quyết định cuối cùng của Thành phố, bên cạnh đó họ cũng dọa là nếu không về lại Đà Nẵng thì sẽ dùng biện pháp cuối cùng cho công an ra dẫn về.

Mặc dù bà con Cồn Dầu đã tin nghe theo thanh tra Tp, nhưng khi mọi người về đến Đà Nẵng thì ngày 9-6-2014 họ lại gửi thông báo yêu cầu các hộ dân lên nhận tiền đền bù và giao mặt bằng lại cho họ.

Ngày 18-6 nhà cầm quyền quận Cẩm Lệ gửi thông báo về việc thụ lý giải quyết khiếu nại cho hộ gia đình ông Nguyễn Đức Dũng. Đến ngày 27-6, nhà cầm quyền Đà Nẵng đã gửi quyết định giải quyết cho hộ gia đình ông Dũng, theo đơn khiếu nại của ông Dũng về việc: 1) Khiếu nại Quyết định số 1569/QĐ–UBND ngày 18-7-2013 của UBND quận Cẩm Lệ về việc cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Đức Dũng và Thông báo số 51/TB–UBND ngày 17-3-2014 của UBND quận Cẩm Lệ

về việc yêu cầu hộ ông Nguyễn Đức Dũng có mặt tại nhà để thi hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất. 2) Khiếu nại về việc yêu cầu bố trí đất tái định cư tại chỗ.

Quyết định của nhà cầm quyền Đà Nẵng là vẫn giữ nguyên Quyết định số 1569/QĐ–UBND ngày 18-7-2013 của UBND quận Cẩm Lệ, về việc cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Đức Dũng và Thông báo số 51/TB–UBND ngày 17-3-2014 của UBND quận Cẩm Lệ, về việc yêu cầu hộ ông Nguyễn Đức Dũng có mặt tại nhà để thi hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Còn khiếu nại về việc yêu cầu bố trí đất tái định cư tại chỗ của ông Dũng không được nhà cầm quyền Đà Nẵng giải quyết với lý do những căn cứ ông Dũng đưa ra là không có cơ sở để xem xét giải quyết.

Không chỉ riêng gia đình ông Dũng, nhưng tất cả các hộ dân Cồn Dầu nhận được giấy như trên đều không được giải quyết, nhà cầm quyền ĐN vẫn một mực không cho bà con tái định cư tại chỗ bởi vì đất đã được bán cho tập đoàn Sun group.

Đến ngày 25-6, vào khoảng 18 giờ 30, dân oan Cồn Dầu lên xe tiếp tục ra Hà Nội, nhưng vừa rời khỏi bến xe thì công an Đà Nẵng chặn lại, họ làm việc với tài xế xe và không cho xe chở những người dân Cồn Dầu đi. Sau đó mọi người đã chia ra từng nhóm nhỏ để ra Hà Nội, hiện tại có hơn 50 dân oan Cồn Dầu có mặt tại Hà Nội trong đó có gần 10 người là trẻ em đang trong độ tuổi đi học và nhiều người già 70-80 tuổi, hầu hết họ là những người trong gia đình đã bị nhà cầm quyền Đà Nẵng cưỡng chế phá nhà, không còn nhà ở nữa. Như những lần trước, bà con dân oan Cồn Dầu vẫn suốt ngày căng băng rôn, khẩu hiệu trước cổng văn phòng chính phủ để đòi thanh tra chính phủ giải quyết cho họ theo như lời hứa trước đây là sẽ giải quyết cho bà con khi Tp ĐN có quyết định cuối cùng.

Tuy nhiên, ngày 27-6, lúc mọi người nộp đơn cho thanh tra chính phủ thì nhận được câu trả lời là số hộ dân đã nhận quyết định của thành phố thì về kiện ra tòa, họ đã không giữ lời hứa trước đó và cố ý tránh không muốn giải quyết cho bà con dân oan Cồn Dầu.

Kể từ ngày 4-5-2010 tới nay, đã hơn 4 năm từ lúc nhà cầm quyền Đà Nẵng sử dụng vũ lực để đàn áp giáo dân giáo xứ Cồn Dầu trong đám tang của bà Hồ Nhu, máu đã đổ xuống một lần với người dân Cồn Dầu với cái

Số 200 Trang 9

Page 10: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

chết của anh Tôma Ng. Thành Năm, đến giờ nghe được lời tuyên bố của ông Cát thì không ai không khỏi rùng mình nhưng chẳng biết phải làm sao khi bị dồn đến đường cùng như vậy.

Trong khi mọi người đang ở Hà Nội thì ở Đà Nẵng, ngày 26-6 nhà cầm quyền quận Cẩm Lệ tiếp tục gửi quyết định cưỡng chế đối với hộ gia đình anh Huỳnh Ngọc Trung.

Ngày 4-7 họ lại tiếp tục gửi thông báo cho hộ gia đình Huỳnh Thị Thu Khẩn và một số hộ gia đình khác, yêu cầu ngày 11-7 có mặt tại nhà để thi hành quyết định cưỡng chế, nhưng buổi chiều ngày 10-7 các hộ gia đình này lại nhận được thông báo tạm hoãn cưỡng chế với lý do nhà cầm quyền quận Cẩm Lệ bận việc.

Trong 2 ngày 10 và 11-7 vừa qua, nhà cầm quyền Đà Nẵng liên tục rêu rao trên loa yêu cầu bà con Cồn Dầu nên nhận tiền và đất đền bù, không nên nghe theo lời kẻ xấu xúi giục chống phá chủ trương của đảng và nhà nước. Không biết chủ trương của đảng và nhà nước là như thế nào nhưng những việc làm của họ đã khiến người dân Cồn Dầu trở nên mất đất mất cửa và đến bước đường cùng là tuyên bố tự thiêu để đòi lại đất như thế. Mảnh đất Cồn Dầu có lịch sử trên 135 năm: từ những vũng đầm lầy, cha ông họ đã ngày đêm bồi đắp, ngăn nước để được như ngày hôm nay với biết bao mồ hôi và xương máu đổ xuống, thế mà bây giờ nhà cầm quyền CS Đà Nẵng lại muốn cướp đi công lao của cha ông họ.

Mất nhà, mất đất, không còn nơi ở, phải chạy đi cầu cứu các cơ quan cấp cao của nhà nước cộng sản nhưng lại bị mắc lừa nhiều lần. Bị dồn ép đến bước đường cùng và muốn dùng cái chết để thoát khỏi sự áp bức bất công này, liệu còn con đường nào khác để giải thoát cho người dân Cồn Dầu hay chăng?

http://www.chuacuuthe.com

Lãnh đạo Đà Nẵng hất ngã cụ bà Nguyễn Thị Thọ, dân oan

Cồn Dầu.Sáng ngày 17-07, tại văn phòng

Thanh tra Chính phủ (HN), bà con dân oan Cồn Dầu có cuộc họp với Đoàn công tác của Tp. Đà Nẵng và Đoàn Thanh tra của chính phủ về việc khiếu kiện đất đai.

Trong cuộc họp này, Đoàn công tác của Tp. Đà Nẵng với Đoàn Thanh tra chính phủ kết luận, họ không thể giải quyết cho bà con Cồn Dầu về việc bố trí đất tái định cư tại chỗ. Bên phía Đoàn Thanh tra chính phủ đã cố né

tránh vấn đề và khuyên nhủ bà con Cồn Dầu ra về và làm đơn khiếu nại lên Bộ Tài nguyên Môi trường. Còn Đoàn công tác Tp. Đà Nẵng nhất quyết trả lời rằng, không thể bố trí đất tái định cư tại chỗ theo đúng nguyện vọng của bà con.

Những câu trả lời trên đã làm cho nhiều dân oan Cồn Dầu có mặt phẫn nộ và phản đối cách giải quyết thiếu trách nhiệm của nhà cầm quyền. Một số cụ già và phụ nữ quỳ gối van lạy các quan chức lãnh đạo, trong đó có cụ bà Nguyễn Thị Thọ, 80 tuổi. 

Lúc đó, một tay cụ bà nắm lấy tay ông Chủ tịch phường Hòa Xuân là Nguyễn Văn Toàn và tay còn lại thì nắm lấy tay ông Tuyền, Chánh thanh tra Tp. Đà Nẵng, để van xin các ông ấy thương gia cảnh nghèo và vô gia cư như cụ, nhưng hai ông này đã vung tay và hất cụ té xuống đất. Cụ bà Thọ liền ngã ra bất tỉnh nhưng hai ông lãnh đạo vẫn làm ngơ và bỏ đi. Bà con Cồn Dầu hốt hoảng gọi xe cấp cứu đưa cụ bà vào bệnh viện đa khoa Hà Đông. Hiện tại sức khỏe bà cụ Thọ rất yếu.

Được biết, suốt mấy ngày qua, cụ bà Nguyễn Thị Thọ, mặc dù tuổi cao sức yếu, đã cùng với bà con Dân oan Cồn Dầu ra Hà Nội để khiếu kiện đất đai của giáo xứ, vì họ không còn nhà để ở. Bà con giáo dân đã đi kêu oan suốt 7 năm qua nhưng các cấp có thẩm quyền vẫn không đoái hoài gì đến lời kêu cứu của họ và vẫn tiếp tục cướp lất đất nhà của họ.

Theo Pv.VRNsBài này được viết vào chính hôm

nhà văn bị mật vụ Xô-viết bắt giữ nhưng may thay đã được phổ biến 6 ngày sau đó.

Đã có thời thậm chí rỉ tai nhau chúng ta cũng không dám! Bây giờ thì chúng ta viết và đọc sách báo chui, và thỉnh thoảng có tới Viện Khoa Học hút thuốc gặp nhau thì cũng thành thật mà phàn nàn với nhau rằng: Chúng đang giở trò gì đây? Chúng còn xỏ mũi ta tới đâu nữa? Quê hương vừa nghèo vừa điêu tàn mà chúng cứ huyênh hoang khoe nhau những thành tựu trên vũ trụ. Chúng ôm mấy cái chế độ cai trị lạc hậu và dã man, rồi thổi cho lửa nội chiến bùng lên. Chúng rút ruột để nuôi Mao Trạch Đông một cách vô tội vạ rồi tống cổ chúng ta ra chiến trường đánh nhau với hắn, mà chúng ta phải đi. Trốn sao cho thoát? Chúng thích đưa ai ra tòa thì đưa, chúng nhốt

người tỉnh táo vào nhà thương điên. Chúng nó luôn giở những trò đó, còn chúng ta thì bất lực.

Mọi thứ sắp rớt xuống đáy cùng. Tinh thần chúng ta đã chết hết, còn thân xác chúng ta và cả con cái chúng ta nữa, cũng sắp bị ném vào lửa cháy rụi. Thế mà chúng ta vẫn bình chân như vại, cứ nhếch mép cười một cách tiểu nhân, và lưỡi không bị ngọng mà vẫn lúng búng trong miệng. Nhưng chúng ta biết làm gì mà ngăn nó cho được? Hay là chúng ta không đủ sức?

Chúng ta bị tước đoạt nhân tính một cách tàn bạo tới mức chỉ vì miếng cơm manh áo qua ngày thôi mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ mọi nguyên tắc và linh hồn của mình, mọi nỗ lực của tiền nhân và mọi cơ hội của hậu thế – miễn sao đừng đụng tới sự tồn tại mong manh của mình là được. Chúng ta không có khí phách, không có tự trọng, không có nhiệt tình. Vũ khí hạch tâm, thế chiến thứ ba chúng ta không sợ. Chúng ta đã nấp kĩ trong hang rồi. Chúng ta chỉ sợ làm người công dân có dũng khí.

Chúng ta chỉ sợ tụt lại phía sau đàn, phải bước đi một mình và đột nhiên thấy mình không có bánh mì ăn, không có lò sưởi ấm và không có một đăng ký hộ khẩu Moscow. Chúng ta đã được tuyên truyền trong các khóa học chính trị, và theo cùng một cách giống hệt nhau, đã được bồi

dưỡng các ý tưởng sống yên thân, và mọi thứ sẽ tốt đẹp trong phần còn lại của cuộc đời. Bạn không thể thoát khỏi môi trường và điều kiện xã hội. Cuộc sống hàng ngày định hình ý thức. Cái đó có liên quan gì với chúng ta? Chúng ta có thể làm gì với nó?

Được chứ, được tất cả là đàng khác. Nhưng chúng ta dối lòng mình để an thân. Đừng trách bọn chúng, có trách thì trách chúng ta đi. Có người vặn hỏi: thì ông muốn nghĩ gì mà chẳng được. Chúng đã dém miệng chúng ta. Có ai chịu nghe chúng ta, có ai thèm đoái hoài chúng ta? Làm sao mà bắt chúng nghe chúng ta nói được? Không thể nào thay đổi được não trạng của chúng.

Tất nhiên là có thể đầu phiếu để loại bọn chúng, nhưng mà đất nước này làm gì có tuyển cử. Ở phương Tây người ta có bãi công và biểu tình phản đối, còn chúng ta thì bị đàn áp thẳng tay, có những cảnh mới nghĩ

Số 200 Trang 10

Page 11: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

tới đã thấy rùng mình: ai dám thình lình bỏ việc mà xuống đường? Song le, những con đường chết chóc mà dân tộc Nga đã mò mẫm trong đau khổ suốt thế kỉ qua không phải dành cho chúng ta, mà quả thật chúng ta không cần đi lại những con đường như vậy.

Bây giờ cái rìu đã làm xong việc, hạt giống gieo xuống đã nảy mầm, chúng ta có thể thấy là những kẻ còn trẻ tuổi mà cuồng vọng, cho là có thể dùng khủng bố, cách mạng đẫm máu và nội chiến để mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho đất nước chúng ta, chính họ là những kẻ lạc lối. Thế đủ rồi, xin cảm ơn các vị giác ngộ cách mạng tiên phong! Bây giờ chúng ta mới biết phương pháp xú uế tất sinh kết quả xú uế. Hãy để cho tay của chúng ta sạch sẽ.

Cái vòng trói buộc này đã đóng chặt rồi sao? Không còn lối thoát? Và chúng ta chỉ còn một đường duy nhất thôi, là khoanh tay đợi? Đợi cho tới khi có biến? Chừng nào mỗi ngày chúng ta đều thừa nhận, ca ngợi, và nuôi dưỡng –chứ không tự mình chém phăng đi một điều không ai không thấy, là sự dối trá– thì đừng mong có chuyện gì xảy ra.

Bạo động len lỏi vào cuộc sống an bình, cái mặt nó toát ra vẻ ngạo mạn, y như đang khoác một ngọn cờ và hô to: “Bạo động đây! Tránh ra, nhường đường cho tao, không tao nghiến nát tụi bay.” Nhưng mà bạo động mau già. Rồi nó mất hết tự tín, và để giữ cho cái mặt ra vẻ khả kính, nó rước thằng dối trá về làm đồng minh –vì không phải ngày nào nó cũng thò bàn tay thô bạo của nó ra được, mà thò ra được cũng bất tất chụp hết mọi người. Nó chỉ cần chúng ta ngoan ngoãn phục tùng dối trá và hàng ngày thực hành dối trá – đây chính là yếu huyệt của mọi sự trung thành.

Cái chìa khóa đơn giản nhất và dễ làm nhất để mở ra cánh cửa tự do, tự do mà bấy lâu nay chúng ta lãng quên, là: mỗi người cùng tẩy chay dối trá. Mặc dù dối trá che giấu tất cả, mặc dù dối trá phủ lấy tất cả, nhưng tôi tuyệt không nhúng tay.

Làm vậy tức là mở một lối thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn hoang tưởng do chúng ta khoanh tay đứng nhìn mà ra. Cách đó vừa dễ làm nhất vừa tiêu diệt dối trá mau nhất. Vì rũ bỏ dối trá, tức là cắt đứt đường sống của nó. Dối trá giống như bệnh dịch, chỉ có thể sống bám vào một sinh vật.

Chúng ta không cần phải ám thị mình. Chúng ta chưa đủ già dặn để tiến vào các quảng trường mà gào lên sự thật hay biểu hiện tư tưởng

của mình. Chưa tới lúc phải làm thế. Nguy hiểm nữa. Chỉ cần điều gì mình không nghĩ thì chúng ta từ chối đừng nói là được.

Đó là con đường của chúng ta, con đường dễ nhất ai cũng làm được, con đường đã chiếu cố sự hèn nhát thâm căn cố đế của chúng ta. Nó dễ hơn phương pháp công dân bất phục tùng của Gandhi xiển dương – dễ tới mức viết những lời này còn nguy hiểm hơn.

Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, thì chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái gì cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ.

Vì thế, dù có dè dặt, mỗi chúng ta hãy lựa cho mình: hoặc là, cam tâm làm nô lệ cho hư ngụy –tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng con cái mình trong tinh thần dối trá không phải vì đó là bản tính của chúng ta, mà chẳng qua là để kiếm ăn nuôi gia đình– hoặc là rũ sạch mọi sự dối trá làm một người lương thiện xứng đáng được con cái và người đồng thời kính trọng. Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất kì sự dối trá nào. Khi chúng ta đã biết bản chất của hư ngụy ở đâu, thì chúng ta mỗi người sẽ biết cách nhìn ra đâu là dối, đâu là thật.

Và từ đó trở đi chúng ta sẽ:• bằng mọi cách không viết, kí, hay in một lời nào chúng ta cho là bóp méo sự thật;• không nói những lời như thế, dù là nói chuyện riêng hay nói trước đông người, tự ý mình hay theo ý người khác, dù làm công tác cỗ vũ, dạy học, giáo dục hay đóng trò trên sân khấu;• không mô tả, cổ vũ, hay truyền đi một ý tưởng nào chúng ta thấy rõ ràng là sai hay bóp méo sự thật, dù bằng hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc;• không trích lời người khác nói hoặc viết mà không đặt lời trích vào ngữ cảnh, để lấy lòng ai đó, hay để lót đường cho mình, hay để thành công trong công việc nếu mình không hoàn toàn đồng ý với ý tưởng trích dẫn, hoặc nếu ý trích dẫn đó không phản ánh chân thực bản chất vấn đề;• không để cho mình bị ép phải dự những cuộc biểu dương hay hội họp nào trái với sở thích hay ý nguyện mình, không cầm hoặc giương lên những tiêu ngữ hay biểu ngữ nào mình không hoàn toàn chấp nhận;

• không giơ tay biểu đồng tình cho một đề xuất mà ta không thành thật tán đồng, không bầu cho người mình cho không xứng đáng hay đáng ngờ về tài năng, dù bầu công khai hay bí mật;• không để cho mình bị lôi tới những cuộc họp mà mình đoán người ta sẽ bức mình thảo luận hoặc bóp méo một vấn đề;• lập tức bước ra khỏi những cuộc họp, hội nghị, thuyết trình, biểu diễn, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói láo, rêu rao những rác rưởi ý thức hệ, hoặc những lời tuyên truyền lố bịch;• không đóng góp hoặc mua những báo chí bóp méo thông tin hoặc giấu giếm những sự thật hiển nhiên.

Tất nhiên là chúng ta chưa liệt kê hết mọi biến thái hư ngụy cần phải liệt kê. Nhưng người nào thanh luyện mình sẽ nhờ lương tâm trong sạch mà phân biệt được chân ngụy.

Những người chọn con đường này ban đầu cuộc sống sẽ rất thay đổi. Có người bị mất việc. Những người trẻ muốn sống chân thật, thì những việc như thế này sẽ làm cho đời thanh xuân của họ ra phức tạp, vì khóa học bắt buộc nào cũng nhét toàn dối trá, không thể không chọn lọc. Nhưng không có lối đi nào dễ dãi hơn cho ai muốn làm người lương thiện. Ngày nào chúng ta cũng có người phải đối diện ít nhất là một trong những tình huống trên, cho dù là trong những ngành khoa học kĩ thuật vô thưởng vô phạt dễ tìm được chỗ nương náu nhất. Hoặc là chân thật, hoặc là hư ngụy: một đường đi tới tự do tinh thần, một đường đi tới nô lệ tinh thần.

Còn những kẻ không đủ dũng khí bảo vệ linh hồn mình –các người chớ vin vào mấy quan điểm ‘tiến bộ’ của mình mà kiêu ngạo, chớ huyênh hoang mình là hàn lâm học sĩ, là nghệ sĩ nhân dân, là yếu nhân có nhiều công trạng, hay là đại tướng– các người hãy tự nói với mình: Mình thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi.

Lối phản kháng này tuy nhu nhược nhất trong mọi lối phản kháng cũng không phải là dễ. Tất nhiên là dễ hơn tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không dìm thân anh, mắt anh không bị nung cho nổ ra, và gia đình anh sẽ không lúc nào thiếu cơm ăn nước uống.

Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, dân Tiệp Khắc, họ bị chúng ta phản bội và lừa dối, chẳng là họ đã cho chúng ta thấy nếu trong lồng ngực có một trái tim cao thượng thì tấm ngực mỏng

Số 200 Trang 11

Page 12: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

manh kia có thể đứng lên chống lại xe thiết giáp đấy sao?

Anh bảo làm thế không dễ? Nhưng trong mọi cách thì cách đó là dễ nhất. Cách đó có thể nguy tới tánh mạng, nhưng muốn cứu linh hồn thì không còn cách nào khác. Phải, con đường đó không phải là con đường dễ đi. Nhưng mà có nhiều người, rất nhiều nữa là khác, năm này qua năm nọ đã theo đuổi lí tưởng ấy, chỉ vì họ lấy chân thật làm lẽ sống.

Cho nên anh không phải là người đầu tiên chọn đi đường này, anh chỉ gia nhập dòng người đã dấn thân vào đó. Nếu chúng ta nâng đỡ nhau và sát cánh nhau thì con đường này sẽ dễ đi và ngắn bớt lại. Nếu chúng ta đông tới hàng ngàn người thì bọn chúng sẽ không làm gì được chúng ta. Nếu chúng ta lên tới hàng vạn người thì đất nước này sẽ khoác bộ mặt mới đến mức chúng ta không còn nhận ra nữa. Nếu chúng ta khiếp nhược quá, thì đừng trách người ta đàn áp mình mãi.

Chính chúng ta đang tự mình đàn áp mình đấy. Lúc đó thì hãy khom lưng xuống nữa, hãy rên xiết nữa, và đợi tới ngày những người anh em của chúng ta, các nhà sinh học, tìm ra cách đọc được tư tưởng của chúng ta, một thứ tư tưởng vô giá trị và tuyệt vọng. Và nếu thậm chí đã chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, thì chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không còn cách gì cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin: “Đồ súc sinh thì làm gì có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.”

Thái Phục Nhĩ dịch từ báo The

Washington Post Sau khi đọc bài viết “Những Cơ

Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ” của Gs Tương Lai

Trong bài viết mới đây “Vietnam’s Overdue Alliance With America” đăng trong mục Ý kiến của Nytimes.com và bản tiếng Việt “Những cơ hội bị bỏ lỡ cho một Liên minh Việt-Mỹ” do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, giáo sư Tương Lai lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ.

Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào

cuối năm 1944” và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh “bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn”.

Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chính Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ CS và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay.

Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng CSTQ như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ có chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949. Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người Cộng sản và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống Thực dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin.

Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh

Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Mỹ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí

Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại giao Mỹ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17-10-1945 và lá cuối cùng vào ngày 28-02-1946.

Ngày 12-09-1946, George M. Ab-bott, lúc đó là Đệ nhất Tham vụ tòa Đại sứ Mỹ tại Paris đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Mỹ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Mỹ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là Cộng sản. Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là Cộng sản”. Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ

tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân Chủ nắm giữ.

Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối.

Ngày 12-03-1947, TT Harry Tru-man xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu đôla để viện trợ vũ khí cho chính phủ Cộng hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô. Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngã Trung Quốc. Nhưng không. TT Tru-man không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của Đệ tam Quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì.

Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường. Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Từ ngày thành lập cho đến nay, hoạt động dưới nhiều danh xưng (đảng Cộng sản Đông Dương, hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, đảng Lao động Việt Nam, đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục đích cuối cùng là CS hóa toàn cõi Việt Nam như đã khẳng định nhiều lần trong các cương lĩnh đại hội của đảng CSVN. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ Hồ Chí Minh sẽ nhận, và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp Hồ Chí Minh sẽ cám ơn, nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS.

Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương

Số 200 Trang 12

Page 13: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái Quốc gia, Cải cách Ruộng đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngõ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về HCM và đảng CSVN là đúng.

Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN.

Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam:

1- Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị, tư tưởng.

2- Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng.

3- Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.

Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên.

Về mặt kinh tế chính trị. Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25-02-1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục

địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa. 

Về mặt quốc phòng. Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Đây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh.

Trong thế chiến thứ hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn

trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường Thụy Điển hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco.

Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có! Mỹ có

xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có! Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có! Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng.

Nỗi sợ lớn nhất của Trung CộngNhư người viết đã phân tích trong

bài Để thắng được Trung Cộng, chính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm Kilo mà rất lo “sân sau” CSVN

trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ.

Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân

Số 200 Trang

Đến lúc này thì tôi nghĩ bất cứ người dân Việt bình thường nào cũng thấy Tàu không phải và không thể là bạn. Thật ra, đối với rất rất nhiều người Việt, Tàu là một mối đe doạ truyền kiếp đến sự tồn tại của VN. Thế nhưng tôi vẫn nghĩ trong giới cầm quyền, vẫn có người --có thể là số nhiều-- vẫn xem Tàu là bạn. 

Quan điểm “Tàu là bạn” trong giới cầm quyền đã được phát biểu trong vài diễn đàn. Chúng ta còn nhớ trước đây, một ông cựu đại tá Cục trưởng cục Đông Bắc Á (Bộ Công an) phát biểu rằng “Trong trường hợp nhất định nào đó, mình vẫn có thể giữ nguyên giàn khoan Trung Quốc như một đơn vị nước ngoài vào đầu tư, nhưng phải có nguyên tắc và lợi ích của ta là phải thật đảm bảo” (1). Đối với ông, Tàu là bạn, nên chúng đem giàn khoan vào vùng biển VN thì cũng như là một… đầu tư. Nhưng ông quên rằng chúng

13

Page 14: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhảy vọt đầy thảm họa của Mao.

Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, dù ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng, trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi lay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến.

Thay vì tìm cách cứu đảng, hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bỡ ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức, nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước.

danlambaovn.blogspot.comđâu muốn khai thác dầu, chúng muốn hiện thực hoá bản đồ 9 đoạn (hay 10 đ.) và muốn dằn mặt VN. 

Trong Đối thoại Shangri-La, trong khi tình hình rất căng thẳng ngoài Biển Đông, thì một quanchức cao cấp bình thản tuyên bố rằng quan hệ giữa Tàu và VN vẫn tốt đẹp, và những va chạm ngoài Biển Đông được ví von như… chuyện trong gia đình. Phát biểu

này làm không ít người định ủng hộ VN cảm thấy ngạc nhiên và lặng lẽ rút lui. Còn người Việt có điều kiện theo dõi Đối thoại Shangri-La thì phẫn nộ và hoàn toàn thất vọng, vì tuyên bố đó làm vô hiệu hoá tất cả những gì được chuẩn bị để kiện Tàu ra một toà án quốc tế. 

Khi tiếp Dương Khiết Trì tháng qua, ngài TBT cũng khẳng định “chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân VN luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với TQ”. Thật ra, câu này được lặp đi lặp lại rất nhiều lần ở nhiều dịp bởi nhiều nhân vật cao cấp. 

Chẳng những coi trọng mà còn mang ơn. Hầu như trong bất cứ cuộc tiếp xúc đoàn Tàu nào, giới lãnh đạo đều phát biểu đại khái rằng đảng, Nhà nước, quân đội mãi mãi ghi nhớ và biết ơn việc Tàu đã giúp đỡ VN trong thời đánh Pháp và đánh Mĩ Ngụy. Năm ngoái ông đại tá phó giáo sư tiến sĩ nhà giáo ưu tú Trần Đăng Thanh gây sóng gió qua “bài giảng sổ hưu” mà trong đó ông cũng nhắc lại rằng “VN phải mang ơn Trung Quốc” và đồng thời rao giảng sự căm thù Mĩ (“Mĩ là một nước gian ác, sự giúp đỡ trong giáo dục đối với VN là hành động “Diễn biến hòa bình” cần phải cảnh giác”).

Qua những phát biểu trên (và còn rất rất nhiều phát ngôn khác), chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng nhà cầm quyền VN vẫn xem Tàu cộng là bạn, có khi là bạn thân thiết. Đối với nhiều người trong đảng, có lẽ họ theo quan điểm của ông Đỗ Mười, rằng “tuy TQ nó đánh ta nhưng nó cùng là CS” (2). Nó là CS, ta cũng là CS, suy ra ta với nó là bạn.  Nhưng Tàu có xem VN là bạn? Trước mặt các quan chức VN thì phía Tàu lúc nào cũng nói rằng Tàu coi trọng “và luôn mong muốn phát triển quan hệ tốt đẹp, ổn định lâu dài với Việt Nam”. Họ dĩ nhiên lúc nào cũng lặp lại 16 chữ vàng + 4 tốt. Những chữ này dù chẳng có ý nghĩa gì và do chúng sáng chế ra nhưng cũng thuyết phục được khối người nhẹ dạ ở VN. Có những người tin và phát biểu về những chữ này một cách mê sảng. 

Nhưng Tàu cộng nổi tiếng là kẻ sống 2 mặt. Do đó, trong thực tế thì họ làm ngược lại 180 độ so với những gì họ nói. Họ không bao giờ coi trọng VN; ngược lại họ rất khinh VN. Họ cho báo chí tấn công thủ tướng VN và xuyên tạc tổng bí thư VN. Mới hôm nay, họ còn cho báo chí bêu riếu Chủ tịch Nước VN. Họ bật đèn xanh cho vài tướng diều hâu lên báo đài ngông nghênh tuyên bố doạ đánh VN. Dương Khiết Trì khi ở VN thì cười cười, nhưng vừa về đến Tàu là đổi thái độ ngay, y nói y đến VN là để lên lớp chứ không có đàm phán. Khó kể hết những hành động và phát ngôn “mất dạy” của các quan chức Tàu đối với VN. Nói chung, thái độ trịch thượng và khinh bỉ VN của các quan chức cho thấy Tàu cộng xem VN như một loại “thuộc quốc” chứ không phải là bạn. Và, họ có lí do khinh VN, bởi vì họ nói gì VN cũng chẳng có phản ứng. Sự im lặng của giới lãnh đạo VN trước những tấn công của Tàu phải nói là lạ lùng, chưa từng có trong lịch sử bang giao quốc tế. Hiếm thấy một quốc gia nào chịu nhẫn nhục đến độ đó. Càng hiếm thấy một quốc gia nào xem kẻ xâm lược mình là bạn. Có lẽ VN là nước duy nhất trên thế giới gọi kẻ tấn công mình, xâm lấn lãnh hải mình, hành hạ và giết ngư dân mình là bạn. Quả thật, bạn mà như thế thì chắc chả ai cần thêm kẻ thù. 

Điều lạ lùng là lãnh đạo VN không lên tiếng phản đối Tàu, nhưng lại có quan chức yêu cầu nước khác lên tiếng phản đối. Bà Thị Ninh trong một phỏng vấn với báo chí Âu châu cho rằng EU nên can thiệp vụ giàn khoan HD-981! Trước đó, còn có trò kí tên để kiến nghị Mĩ yêu cầu Tàu rút giàn khoan. Cũng lạ, xem Mĩ là kẻ thù mà lại trông chờ vào kẻ thù giúp mình! Toàn những trò chẳng đâu vào đâu. Chuyện của mình, mình không lo, mà suốt ngày cứ trông chờ vào người khác. Mới đây, khi Mĩ ra nghị quyết về Biển Đông, phía VN hí hửng ra tuyên bố ủng hộ, trong khi Quốc hội VN thì không dám ra nghị quyết về Biển

Số 200 Trang 14

Page 15: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Đông. Nhưng Mĩ ra nghị quyết là vì quyền lợi của họ chứ có phải vì VN đâu! Có thể xem đó là một kiểu ăn mày ngoại giao vậy. 

Quan điểm (hay chính sách?) xem Tàu là bạn đã đẩy VN vào một tình thế nguy hiểm. Hiện nay, VN không có đồng minh. Tàu không bao giờ xem VN là đồng minh. VN cũng chẳng có bạn thân. ASEAN hầu như vô dụng vì chẳng giải quyết được vấn đề gì, và vẫn còn nghi ngờ thái độ tiền hậu bất nhất của VN. Cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” và chủ trương theo đuổi chủ nghĩa cộng sản làm cho nhiều nước muốn chơi với VN cũng ngần ngại suy nghĩ lại. (Ở nước ngoài, chỉ cần nghe đến chữ communist là người ta đã nhăn mặt và xem như là một cái gì kinh tởm lắm, nhưng ở VN thì có người tự hào là communist!). Do đó, cho đến nay, có thể nói là VN rất cô đơn trên trường quốc tế. Từ khi sự việc giàn khoan HD981 xảy ra cho đến nay, chưa có nước nào lên tiếng ủng hộ VN, và cũng chẳng có nước nào quan tâm đến VN. Nếu chiến tranh với Tàu xảy ra, VN sẽ chẳng được ai giúp đỡ.

Bất cứ người VN nào nhìn vào tình hình hiện nay cũng thấy lo ngại cho VN. Về lâu dài, việc chọn một kẻ thù nguy hiểm như Tàu là bạn cũng có nghĩa là VN tự biến mình thành một thuộc quốc của Tàu như Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch từng nói: “Một thời kì Bắc thuộc nguy hiểm đã bắt đầu” (từ năm 1990). 

Rồi đây VN sẽ còn chìm đắm trong tăm tối. Sẽ không có ngày “hoá rồng” như nhiều người mong đợi. Đừng bao giờ nghĩ VN sẽ như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore nếu VN vẫn xem Mĩ là kẻ thù. Ông Lý Quang Diệu đã lắc đầu khi đề cập đến VN và nói: “Nên quên đi, tôi đã nói hết với họ rồi! Vô ích!” Và đó chính là thái độ của thế giới: quên VN. Nhưng mình là người VN thì

làm sao quên được VN. Sự kiện ngày 2-5-2014 Trung

Cộng đưa giàn khoan nước sâu HD 981 vào trong vùng đặc quyền kinh tế ngang nhiên xâm phạm lãnh hải Việt Nam… Đứng về mặt dân tộc, đây là một nguy cơ lớn cho Việt Nam, nhưng đồng thời cũng là cơ hội ngàn vàng cho quân dân Việt Nam đứng lên giải thể chế độ cộng sản chống xâm lăng Trung Cộng. Trong bài này chúng tôi xin đề cập đến các chủ điểm sau:

- Tại saoTrung Cộng chọn thời điểm hiện nay để xâm lăng Biển Đông của Việt Nam?

- Tìm hiểu ý đồ bành trướng cực kỳ nguy hiểm của Trung Cộng.

- Đảng CSVN bị bế tắc toàn diện, bắt buộc phải thay đổi chính sách ngoại giao và chế độ độc tài toàn trị.

- Cơ hội ngàn vàng để đảng CSVN trở về với Dân tộc - Cơ hội ngàn vàng để quân dân Việt Nam đứng lên làm cách mạng Dân tộc giải thể chế độ cộng sản, chống xâm lăngTrung Cộng.

I- Tại sao Trung cộng chọn thời điểm hiện nay để xâm lăng Biển đông của Việt Nam?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta thấy có các lý do sau đây:

- Trung Cộng (TC) tuy nắm đầu được Bộ Chính trị Việt Nam, nhưng vẫn chưa nắm đầu được toàn diện. Cụ thể như năm 2012, Quốc hội CSVN đã thông qua Luật biển. Điều này đã khiến Trung Cộng (TC) ra sức ngăn cản (nhưng không được) và hết sức tức tối, khi Quốc hội CSVN tuyên bố luật biển VN có hiệu lực từ ngày 1-01-2013. Do đó TC không những tạo sức ép tối đa mà còn công khai xâm phạm lãnh hải VN để buộc CSVN phải cúi đầu thần phục 100%!

- Hơn ai hết TC biết CSVN đang trên tiến trình đàm phán tham gia “Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương” (TTP) mà chủ động quyết định là Hoa Kỳ. Hiệp định này khi hoàn tất sẽ là một đối lực kinh tế, chính trị, vô cùng đáng ngại đối với Trung Cộng.

- Hiện nay TC đã nắm các yếu huyệt của CSVN từ chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, nếu không nhân dịp này xâm lăng biển Đông thì trong tương lai gần, CSVN sẽ mạnh hơn

trên cả 3 mặt kinh tế quốc phòng và chính trị. Tới lúc lúc đó TC muốn xâm lăng biển Đông của VN không phải là chuyện dễ dàng.

- Cũng cần nói thêm biến cố Nga chiếm Crimée đặt Hoa Kỳ và EU trước “sự đã rồi” càng làm cho TC thêm phấn khích và noi gương khi quyết định xâm lăng biển Đông của VN… và làm tiền để hiện thực hóa “đường lưỡi bò” mà Trung Cộng đã có tham vọng từ hàng chục năm qua.

- Hành động đưa giàn khoan HD 981 vào thềm lục địa Việt Nam, TC muốn làm phép thử khả năng đề kháng của người dân Việt Nam đến mức nào, đồng thời là phép thử các nước ASEAN xem tổ chức này có dám bênh vực một quốc gia hội viên khi bị TC xâm lăng hay không? Sau cùng là phép thử đối với chính quyền Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao? Hoa Kỳ có vì Việt Nam tuyên chiến với hải quân Trung Cộng tại biển Đông? hay khi TC đem quân tiến chiếm nốt tất cả các đảo tại Trường Sa còn lại thuộc chủ quyền của Việt Nam? hay Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao khi TC tuyên bố thiết lập “vùng nhận dạng hàng không” tại Đông Nam Á?

- Theo nhận định của Nelson Report hôm mùng 6 tháng 5 cho rằng: “Khi TC gây hấn với VN là để phô trương thanh thế trong tranh chấp chủ quyền với VN, đồng thời thử thách đối với chủ trương của Mỹ sau chuyến thăm bốn nước tại Á châu mới đây của TT Obama, đồng thời họ đã đánh trúng vào hạn chế của TT Obama trong bối cảnh Mỹ đã không tạo được ảnh hưởng sâu sắc đối với khủng hoảng tại Syria và Ukraina. Chớp thời cơ TC gây ra vụ khủng hoảng tại giàn khoan để chứng tỏ cho thế giới thấy Mỹ chỉ là con cọp giấy.” (*1)

II- Tìm hiểu ý đồ bành trướng cực kỳ nguy hiểm của Trung cộng

- Trước hết chúng ta không thể quan niệm việc TC dặt giàn khoan tại thềm lục địa VN với việc TC xây dựng đường băng trên đảo Gạc Ma thuộc khu vực đảo Trường Sa là hai việc riêng rẽ, không liên hệ gì với nhau, mà trái lại là 2 việc tuy khác nhau nhưng cùng theo đuổi một mục tiêu nhất quán của TC là hiện thực hóa Đường Lưỡi bò (hay con đường 9 khúc, nay tăng lên 10 khúc) chiếm trọn hơn 80% biển Đông Nam Á!

- Theo nhận định của thạc sĩ Hoàng Việt (chuyên gia về Biển Đông của Việt Nam): “Theo tôi thì Trung Quốc làm vậy để củng cố vị thế của Trung Quốc trên đảo. Cái quan trọng là hành động đó của Trung Quốc dẫn đến phá vỡ duy trì nguyên trạng ở

Số 200 Trang 15

Page 16: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Trường Sa. Cái tình hình Hoàng Sa căng thẳng rồi nhưng tình hình Trường Sa còn phức tạp hơn nữa vì nó liên quan đến 5 nuớc 6 bên. Nhưng mà Trung Quốc khuấy động ở Trường Sa bãi Gạc Ma bằng cách xây một cái cái đảo nhân tạo thì nó phá vỡ nguyên trạng và dẫn đến các kịch bản. Kịch bản thứ nhất là tất cả các quốc gia trong tranh chấp sẽ cùng làm tương tự như Trung Quốc! Và hành động giống như sự kiện giàn khoan thì sẽ lập lại trên vùng Trường Sa và sự đụng độ trên Trường Sa sẽ rất căng thẳng, và điều đó dẫn đến đe dọa lớn cho hòa bình an ninh khu vực cũng như của toàn bộ châu Á” (*2)

- Về phương diện kinh tế: Hiện nay Trung Cộng là công xưởng sản xuất hàng hóa tiêu thụ trên thế giới nên TC rất khát dầu và nguyên liệu khoáng sản nằm dưới lòng biển Đông. Do đó TC nhất quyết chiếm Biển Đông Nam Á coi như “ao nhà” của Trung Cộng và coi đây là quyền lợi cốt lõi của T.C bất chấp luật pháp quốc tế!

- Về phương diện ổn định xã hội: Do tình trạng chênh lệch giàu nghèo quá đáng trong xã hội Trung Quốc, lại thêm tình trạng bất ổn, biểu tình, phản đối bạo quyền TC của người Duy Ngô Nhĩ, Tây Tạng, Tân Cương v.v… nên TC tạo chiến tranh bên ngoài để ổn định xã hội bên trong !

- Về phương diện chính trị: Một mặt Trung Cộng đáp ứng phe “chủ chiến” trong hàng ngũ lãnh đạo quân đội luôn chủ trương bành trướng nhằm thực hiện “Quốc gia Đại dương…” Và mặt khác, Trung Cộng nhằm thỏa mãn khối dân có tinh thần “dân tộc” cực đoan ước mơ thành lập “Đại Trung Hoa” bá chủ thiên hạ!

- Từ ngày lên nắm quyền tại Trung Quốc, Tập Cận Bình đã chủ trương phục hưng Dân tộc và theo đuổi “Giấc mơ Trung Hoa”. Mà giấc mơ Trung Hoa thực chất chỉ là mộng bành trướng hiện thực “Đường Lưỡi bò” chiếm trọn Biển Đông của Việt Nam và các nước Đông Nam Á nhằm làm bá chủ khu vực, thực hiện mưu đồ khống chế toàn nhân loại. (*3)

III- Đảng CSVN bị bế tắc toàn diện, bắt buộc phải thay đổi chính sách ngoại giao và chế độ độc tài toàn trị.

A/ Đảng CSVN bị bế tắc toàn diện:Cho tới nay thì mọi người đều rõ:

Đường lối ngoại giao của CSVN chủ trương kết bạn với nhiều quốc gia, nhưng không thân một quốc gia nào, “Việt Nam không liên minh với nước này để chống nước kia”. Hậu quả tai hại của đường lối ngoại giao này là

khi đất nước lâm nguy (Trung Cộng ngang nhiên đưa giàn khoan HD 981 xâm lăng biển Đông của VN) thì Việt Nam hoàn toàn bị cô lập và đường lối, chính sách ngoại giao của CSVN đã hoàn toàn bị phá sản!!!

Chiêu bài: “4 tốt” và “16 chữ vàng” kể như vất vào sọt rác!!! Không những thế, hiện nay CSVN lâm vào thế bế tắc toàn diện: “Chiến” không dám “chiến” mà “cầu hòa” với Trung Cộng cũng không xong! Đảng cộng sản Việt Nam càng nhân nhượng thì Trung Cộng càng lấn tới… Những mâu thuẫn không chỉ gay gắt, mà còn mang tính “hủy hoại lẫn nhau” vô phương “hóa giải”!:

Mâu thuẫn giữa Chủ quyền Quốc gia của Việt Nam và dã tâm xâm lăng chiếm trọn biễn Đông (hay biển Đông Nam Á) của Trung Cộng.

Mâu thuẫn giữa quyền lợi tối cao thiêng liêng của Tổ quốc và chủ trương duy trì chế độ độc tài toàn trị hay chủ trương bám ghế bằng mọi giá, không chịu từ bỏ quyền lực và mọi đặc quyền đặc lợi của tập đoàn lãnh đạo CSVN!

Mâu thuẫn giữa quan niệm “độc đảng”, “độc tôn”, “độc trị” và quan niệm “tự do”, “dân chủ”, “tiến bộ” của thời đại.

Mâu thuẫn giũa “Dân quyền” Việt Nam và “Đảng quyền” Việt Cộng.

Mâu thuẫn ngay trong nội bộ Bộ Chính trị đảng CSVN!

Các mâu thuẫn chính nói trên tất yếu đưa tới tình trạng phân rã và cáo chung của đảng CSVN.

B/ Đảng CSVN bắt buộc phải thayđổi chính sách ngoại giao và chế độ độc tài đảng trị vì các lý do sau đây:

Bao lâu còn duy trì chế độc độc tài toàn trị cộng sản, thì Việt Nam tất yếu phải mất nước về tay Trung Cộng! Số phận của VN khi đó sẽ là một tỉnh của Tầu như Tân Cương Tây Tạng không thể khác!

Muốn chống xâm lăng Trung Cộng, thì Việt Nam không thể không liên minh với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc Châu và Phi Luật Tân… Muốn là thành viên trong Liên minh này, CSVN không thể nào duy trì chế độ độc tài độc đảng như trước!.

Hiện nay nền kinh tế CSVN đang lụn bại, nhất là khi Trung Cộng ra tay trừng phạt VN về kinh tế nên CSVN chỉ còn một con đường thoát là xin gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TTP). Mà muốn gia nhập Hiệp định TTP thì Việt Nam không thể nào không đi tới dân chủ

hóa và thực thi nhân quyền, nhất là các quyền quan trọng và căn bản.

IV- Cơ hội ngàn vàng để đảng CSVN trở về với Dân tộc.

Như trên chúng tôi đã nhận định, biến cố Trung Cộng ngang nhiên đưa giàn khoan HD 981 xâm lăng lãnh hải Việt Nam bắt buộc CSVN phải thay đổi đường lối ngoại giao và thể chế độc tài đảng trị, nhưng thay đổi như thế nào? Có 3 giả thuyết hay 3 trường hợp thay đổi sau đây:

- Trường hợp 1: Thay đổi nhanh chóng lật ngược thế cờ… từ thể chế độc tài sang dân chủ tự do

- Trường hợp 2: CSVN có thay đổi một chút ít về Nhân quyền nhưng vẫn “Cầu hòa” với Trung Cộng và xin được hòa đàm song phương với Trung Cộng.

- Trường hợp 3: Thay đổi tiệm tiến nhưng có quyết tâm và dũng khí thay đổi thực sự.

Về trường hợp 1: Từ ngày Trung Cộng đặt giàn khoan xâm lăng lãnh hải VN tới nay đã trên 2 tháng mà từ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến chủ tịch nước Trương Tấn Sang hay tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ tuyên bố suông chứ không có hành động gì cụ thể mạnh bạo, thì đồng bào Việt Nam cũng như thế giới đều rõ là CSVN hoàn toàn bất lực không có khả năng và bản lãnh lật ngược thế cờ chuyển đổi chế độ từ “độc tài toàn trị” sang chế độ “Dân chủ Tự do”!

Về trường hợp 2: CSVN có thay đổi về nhân quyền: cụ thể là có thả một số tù nhân lương tâm nhưng chưa phải là toàn bộ, mặt khác CSVN tuy tuyên bố bảo toàn chủ quyền lãnh hải Việt Nam, nhưng mặt khác Nguyễn Phú Trọng vẫn xin được tiếp kiến với Tập Cận Bình và xin mở hội nghị song phương với Trung Cộng nhưng đã bị Tập Cận Bình từ chối. Tiếp đến Dương Khiết Trì sang Việt Nam tuyên bố rõ là 4 điều cấm kỵ Việt Nam “không được làm”! Đây không phải là cuộc họp thảo luận bình đẳng giữa đại diện hai nước hai dân dân tộc mà là “mệnh lệnh” của một “Hoàng đế Thiên triều” đối với tên “quan lại thuộc quốc CSVN”. Qua “mệnh lệnh” này chúng ta thấy rõ Trung Cộng đã ép CSVN đến chân tường và bộc lộ rõ dã tâm muốn nuốt trọn Biển Đông. Trong bài “Từ “4 tốt” đến “4 không được””, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung đã viết như sau:

“Để xử lý Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh chiến lược bá chiếm biển Đông, có nhiều khả năng Trung Quốc sẽ đặt các đối sách can thiệp và lũng đoạn nội bộ nước ta là ưu tiên số một, vì nó “rẻ nhất”, “sạch nhất”, “đỡ tốn

Số 200 Trang 16

Page 17: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

kém nhất”, “hiệu quả nhất”- và cũng là môn võ Trung Quốc đang thực thi giỏi nhất đối với ta, nhằm khoét sâu vào chỗ yếu nhất của ta. Về phương diện này, không loại trừ tính toán của Trung Quốc có thể coi Việt Nam là một điểm nhấn cần làm suy yếu hay khuất phục, để qua đó làm lỏng lẻo cho phép sẽ bẻ tiếp cả “bó đũa” ASEAN… Mặt khác, nếu Việt Nam có dấu hiệu chịu khuất phục, ví dụ chịu chấp nhận một thỏa hiệp tay đôi nào đó với Trung Cộng, ngay lập tức Việt Nam trở thành con tin không có đường sống cho mọi bước đi tồi tệ tiếp theo của Trung Quốc (* 4)

Về trường hợp thứ 3: CSVN thay đổi một cách tiệm tiến:

Trước hành động ngang ngược bất chấp đạo lý và luật pháp quốc tế, Trung Cộng vẫn ngày một leo thang xâm lăng biển Đông, đương quyền CSVN buộc phải thay đổi nhưng thay đổi một cách tiệm tiến như :

Từng bước thả tù nhân lương tâm

Soạn luật biểu tình chấp nhận nhân dân được quyền biểu tình chống áp bức bất công cũng như thể hiện lòng yêu nước chống xâm lăng Trung Cộng.

Kiện Trung Cộng ra tòa án quốc tế.

Không trực tiếp liên minh với Hoa Kỳ, nhưng tiến hành liên minh với Nhật Bản, Ấn Độ và Phi Luật Tân… để giữ gìn chủ quyền VN tại Biển Đông

Từng bước cải tiến cơ chế sang hướng dân chủ hóa Việt Nam.

Xin gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TTP)

Xin Hoa Kỳ cho mua vũ khí sát thương để đối phó với hải quân xâm lăng Trung Cộng v.v…

Nếu CSVN thực tâm muốn thay đổi và có can đảm thay đổi cơ chế độc tài, cho dù là thay đổi một cách tiệm tiến thì đây là cơ hội ngàn vàng để đảng Cộng sản trở về với Dân tộc, đồng hành với Dân tộc trong sứ mạng chống xâm lăng Trung Cộng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh hải lãnh thổ của Tổ quốc. Chúng tôi xin nhấn mạnh giải pháp thay đổi tiệm tiến này chỉ có kết quả nếu “CSVN muốn thực tâm và có can đảm thay đổi cơ chế độc tài” vì chủ quyền thiêng liêng của Dân tộc… Đây vừa là lối thoát cho đất nước, đồng thời là lối thoát hay nhất cho đảng CSVN! Cứu nước và cứu nguy cho chính Đảng CSVN. Thực vậy, trước đây cả thập niên, nhiều bậc thức giả đã bình luận về sự chọn lựa khó khăn của đảng CSVN “Đi theo Tầu thì mất nước, còn theo

Mỹ thì mất đảng” Nhưng hôm nay, với biến cố giàn khoan HD 981, nếu đảng CSVN biết “hồi đầu thị ngạn” cũng không phải là quá trễ, và vẫn có cơ hội tham gia vào việc lãnh đạo hay đúng hơn là chia sẻ quyền lãnh đạo đất nước, nếu đảng CSVN thực tâm chuyển đổi từ thể chế độc tài sang thể chế đa nguyên đa đảng với điều kiện đảng CSVN phải “đổi tên đảng” thành “Dân chủ Xã hội” chẳng hạn. Chỉ có con đường thoát hiểm này là cơ hội ngàn vàng để đảng CSVN trở về với Dân tộc, tạ tội với Quốc dân về những tôi ác tầy trời mà đảng đã gây nên trong gần một thế kỷ qua!

Bàn về chủ trương “3 không” (*5) trong chính sách quốc phòng của đảng CSVN, T.S Đinh Hoàng Thắng cho rằng: “Chính sách đối ngoại của VN muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới đã phá sản trong giai đoạn hiện nay, vì thế giới đang có xu hướng trở về lưỡng cực giữa hai nhóm đại diện cho quyền lợi của Mỹ-EU và một nhóm đại diện cho quyền lợi của Nga- Trung”

Luận về chủ trương “Độc đảng” “Độc trị”, L.S Vũ Đức Khanh quan niệm: “Độc đảng thì không có một quốc gia nào trên thế giới ủng hộ VN, cho nên giải cái bài toán VN hiện tại trước hết là giải quyết tận gốc rễ vấn đề của chế độ để giải quyết vấn đề tự do dân chủ hóa đất nước. Nếu giải quyết vấn đề tự do dân chủ hóa đất nước, thì có thể huy động được tổng lực của toàn dân và chúng ta không ngại gì với việc đối phó sức ép của T.Q (*6)

Chúng tôi cũng rất tâm đắc với tác giả Hoàng Mai trong bài viết “Đảng CSVN phải nên làm gì với “4 không được” của Bắc Kinh” trong dó có đoạn nguyên văn như sau:

“Một VN dân chủ, đa đảng theo thể chế tam quyền phân lập đúng nghĩa, là điều mà Bắc Kinh lo sợ nhất hiện nay. Liên minh quân sự với Nhật Bản, Hoa Kỳ và các nước trong khu vực… đang trở thành nhu cầu tất yếu, và chính sự hung hăng của Bắc Kinh đang đưa Việt Nam đến với Liên minh này. Lịch sử đang trao cho VN cơ hội, theo đó nếu VN đa đảng và được hưởng một nền dân chủ thực sự như Hàn Quốc, Nhật Bản thì nhân dân China sẽ nổi dậy, và rất có thể China sẽ tan rã thành nhiều nước như nhận định của nhiều người. Và như vậy, vẫn còn cơ hội cho đảng CSVN phần nào sửa chữa sai lầm đối với Đất nước. Hy vọng thời thế và vận nước sẽ khiến cho các vị Bộ Chính trị hiện nay nắm được cơ hội lịch sử này (*7)

V- Cơ hội ngàn vàng để toàn

dân Việt Nam đứng lên làm cuộc cách mạng dân tộc giải thể chế độ CS, chống Xâm lăng Trung cộng.

A- Toàn dân Việt Nam đang phải đối diện với 3 vấn nạn lớn:

Vấn nạn 1: Nếu vì quá sợ hãi Trung Cộng, hay vì chủ trương bám ghế bằng mọi giá, đảng CSVN không chịu từ bỏ quyền hành, vẫn chủ trương duy trì đến cùng chế độ độc tài đảng trị, chỉ cải cách “Dân chủ Nhân quyền trên bề mặt” có tính hình thức, không chấp nhận những quyền căn bản của con người cũng như không chấp nhận những nguyên tắc dân chủ chủ nền tảng... Trước vấn nạn này, toàn dân Việt trong và ngoài nước phải làm gì? Và phải có đối sách nào?

Vấn nạn 2: Từ công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng 1958 đến mật nghị Thành Đô1990:

Hiện nay CSVN bị mắc kẹt về công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng, khi Trung Cộng đã viện dẫn công hàm này trong hồ sơ đệ trình Liên Hiệp Quốc để chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của chúng! Đứng về mặt luật pháp quốc tế, việc “hóa giải” công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng cho Trung Cộng, không phải là điều dễ dàng! Hơn nữa bí mật “kỷ yếu Thành Đô” đến nay vẫn còn là một câu hỏi lớn. Gần đây nhất, Wikileaks công bố một tài liệu “tuyệt mật” động trời: Năm 2020 Việt Nam sẽ là một tỉnh của Trung Cộng! (*8)

Những tài liệu mật do Wilikeaks tiết lộ ra đều có tầm mức nghiêm trọng không lường được. (Chắc chúng ta đều biết là người sáng lập Wikileak Julian Assange hiện đang bị truy nã vì đã tiết lộ tài liệu có thể làm nguy hại đến an ninh của Mỹ). Tin này đã được phổ biến một cách mập mờ trên mạng từ lâu, bây giờ Wikileaks xác nhận thì có đến 90% là đúng sự thật? Khi Wikileaks đã tiết lộ như trên, mọi người đều ngỡ ngàng hoang mang đau xót và phẫn nộ… Riêng giới trí thức, các bậc thức gỉa lại càng không thể làm ngơ, coi như không biết đến mà phải đặt thành vấn đề… Trước vấn nạn thứ hai này, toàn dân Việt trong và ngoài nước phải làm gì? Và phải có đối sách nào?

Vấn nạn 3: Việc giàn khoan HD 981 rút hay không rút và rút trước hay sau thời hạn 15/8?

Nếu sau thời hạn 15/8 TC không rút giàn khoan về mà còn thực hiện chiến dịch Hải Dương Nam Tiến, chiếm nốt các đảo còn lại của Trường Sa VN thì toàn dân Việt phải làm gì?

Ngược lại vì lý do cơn bão sắp tới,

Số 200 Trang 17

Page 18: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

vì áp lực quốc tế, Trung Cộng nhận ra rằng hành động ngang ngược của họ bị nhiều quốc gia lên án, nhất là Hoa Kỳ và các quốc gia có chủ quyền tại Biển Đông, nếu Trung Cộng ngoan cố, bất chấp tất cả, cứ một mực tiến tới thì sẽ gây ra chiến tranh lớn tại Biển Đông, hoàn toàn bất lợi cho Trung Cộng, ít ra trong thời điểm hiện nay, cho nên Trung Cộng buộc phải rút giàn khoan 981 của chúng về và rút trước 15/8? Nếu giả thuyết này xảy ra, chúng ta cũng không lấy làm lạ; song sau khi Trung Cộng rút giàn khoan về đảo Hải Nam thì hiển nhiên là chế độ CSVN vẫn còn đó, và âm mưu Bá quyền Biển Đông của Trung Cộng “chỉ chậm lại, chờ một thời cơ khác”, chứ nhất định Trung Cộng không chịu từ bỏ giấc mơ “Đại Hán Bá quyền” tại Biển Đông của chúng! Trong tình thế này nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước phải làm gì? Và làm cách nào đễ “Thoát Cộng” và làm cách nào để “Thoát Trung” ?

Tới đây có người sẽ hỏi: muốn “thoát Trung” thì phải “thoát Cộng” hay ngược lại muốn “thoát Cộng” phải “thoát Trung” trước? Để trả lời câu hỏi này, nhà nghiên cứu Chu Chi Nam đã khẳng định rõ ràng dứt khoát: “Muốn thoát Trung phải thoát Cộng trước đã” (Xin xem bài “Tại sao chúng ta phải thay đổi thể chế chính trị trước khi chống giặc ngoại xâm?” (*9 )

Trước 3 vấn nạn lớn nêu trên, toàn dân Việt trong và ngoài nước phải làm gì? Và có đối sách nào?

B- Khai dụng những yếu tố thuận lợi trong Thời cơ vàng:

Toàn dân VN tuy phải đối diện với 3 thử thách hay 3 vấn nạn lớn mà người viết đã nêu ra ở trên, nhưng mặt khác, chúng ta cần quan tâm và đặc biệt khai dụng 5 yếu tố thuận lợi trong Thời cơ vàng mà lịch sử đã đưa đến cho chúng ta:

Yếu tố thuận lợi 1: Qua biến cố giàn khoan HD981, đây là thời cơ vàng cho chúng ta đấu tranh Dân chủ và Nhân quyền cho Việt Nam. (Những cá nhân và các tổ chức đấu tranh trong và ngoài nước cần phối hợp với các tổ chức đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền quốc tế tạo áp lực tối đa đối với CSVN đòi thực thi những quyền căn bản của con người và dân chủ hóa Việt Nam.

Yếu tố thuận lợi 2: Chiếc mặt nạ “giả nhân giả nghĩa” nào “4 tốt” “16 chữ vàng”, nào là “niềm tin chiến lược” cần duy trì bảo vệ “đại cuộc” v.v… của Trung Cộng đã rớt xuống để các tên chóp bu CS vỡ mộng nhận ra từ trước tới nay chúng đã bán nước cho Tầu để đổi lấy “tình hữu

nghị viển vông”! và nhân dân VN cũng như nhân dân thế giới đều đã rõ bộ mặt thật phi nhân, bá quyền diệt chủng của Trung Cộng.

Yếu tố thuận lợi 3: Trước họa ngoại xâm của Trung Cộng, tinh thần bất khuất ngàn đời của Dân tộc VN, tinh thần Hội nghị Diên Hồng lại bừng sáng lên với tất cả hào khí của Hội nghị Diên Hồng thời đại (hải ngoại và quốc nội)

Yếu tố thuận lợi 4: Việc Trung Cộng xâm lăng biển đảo của Việt Nam để mở đầu chiến dịch Hải Dương Nam Tiến, âm mưu chiếm trọn Biển Đông làm “ao nhà” của chúng, không chỉ vi phạm chủ quyền thiêng liêng của các dân tộc đương quyền mà còn xâm phạm quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ đồng thời phá hỏng chính sách xoay trục về Á châu của Hoa Kỳ… Do đó khi Trung Cộng xâm lăng biển Đông, Trung Cộng không chỉ là kẻ thù của dân tộc VN mà còn là kẻ thù của các quốc gia Đông Nam Á và thế giới.

Yếu tố thuận lợi 5: Thế giới ngày nay là thế giới phẳng - rất phẳng theo Thomas L. Friedman (*10) Do đó giấc mộng độc bá biển Đông của Trung Cộng là giấc mộng ngông cuồng xuẩn động và lạc hậu, đi ngược lại chiều hướng tiến hóa của thời đại. Nếu Trung Cộng không kịp thời từ bỏ giấc mộng sai trái lạc hậu này thì Trung Cộng chắc chắn sẽ bị sa lầy và thảm bại, dẫn tới việc chế độ Trung Cộng bị sụp đổ và tương lai nước Tầu sẽ bị chia thành nhiều nước nhỏ là điều tự nhiên như nhiều chiến lược gia quốc tế đã tiên liệu.

Nhằm trả lời 3 vấn nạn trên cũng như nhằm khai dụng 5 yếu tố thuận lợi… nhất là nhằm đối phó với tình huống thập phần nguy hiểm khi Trung Cộng chuyển sang giai đoạn Hải Dương Nam Tiến, Quân đội Nhân dân Việt Nam nói riêng và toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước nói chung đều phải nhất tề vùng dậy tiến hành cuộc CÁCH MẠNG DÂN TỘC lật nhào chế độ độc tài toàn trị cộng sản bằng chiến lược, các sách lược và hình thành các Trận tuyến đấu tranh căn bản như sau:

C/ Chiến lược và các sách lược:C1- Chiến lược: Đại đoàn kết toàn dân (Vận

động thành lập Hội nghị Diên Hồng thời đại hải ngoại và quốc nội)

Giải thể chế độ độc tài toàn trị Cộng sản…

Chống xâm lăng Đại Hán Bắc Kinh

C2- Các sách lược căn bản:1. Sách lược Kết sinh Dân tộc.

2. Sách lược đấu tranh Dân chủ và Nhân quyền đồng bộ khắp nơi và có nền tảng….

3. Sách lược tuyên xưng Đạo sống và Văn hóa Việt, khắc tinh của Chủ nghĩa Mác-Lê

4. Sách lược đề cao lòng yêu nước, trọng danh dự và tinh thần bất khuất của Dân tộc Việt Nam

5. Sách lược xây dựng Liên minh với Hoa Kỳ và các quốc gia bạn như Nhật Bản, Phi Luật Tân, Indonésia, Úc châu và Ấn Độ để bảo vệ Hòa bình tại châu Á và Thái Bình Dương.

6. Sách lược phát huy sức mạnh tập thể, sức mạnh cộng đồng và sức mạnh Dân tộc

7. Sách lược đấu tranh: “Quần chúng Chính trị” và “Quần chúng Văn hóa”

8. Sách lược kết tinh Lực lượng Cách mạng và Quần chúng.

9. Sách lược Tam Toàn: Toàn dân, Toàn diện và Toàn cầu.

10. Sách lược khai dụng vũ khí Truyền thông hiện đại.

11. Sách lược Ngũ Vận: Vận động Quốc tế, Vận động Cộng đồng, Vận động Quốc nội, Vận động các quốc gia Đông Nam Á, Vận động Công an và Quân đội CS.

12. Sách lược Công Tâm kêu gọi đảng CSVN trở về với Dân tộc, đồng hành với Dân tộc.

13. Sách lược Khai dụng 5 yếu tố thuận lợi và đánh vào 24 tử huyệt của chế độ CS

14. Sách lược 5 mũi giáp công: Chính trị, Văn hóa, Kinh tế, Pháp lý và Ngoại giao.

15. Sách lược Phân hóa đảng CSVN (Đẩy mạnh “Thế ly trung tự hoại” bùng vỡ đảng CSVN thành nhiều mảnh)

16. Sách lược tố cáo “Mộng Bành trướng” của Đại Hán Bắc Kinh: (bất chấp đạo lý và công pháp quốc tế, gây bất ổn chiến tranh trong vùng Đông Nam Á và trên toàn thế giới)

17. Sách lược Đoàn kết Đại chủng Bách Việt, chống xâm lăng Đại Hán.

18. Sách lược kêu gọi các quốc gia yêu chuộng tự do dân chủ và nhân dân thế giới chống Đại họa Diệt chủng của Trung Cộng.

C.3 Hình thành các trận tuyến đấu tranh chính:

1) Trận tuyến đấu tranh Dân chủ và Nhân quyền cho Việt Nam.

2) Trận tuyến đấu tranh Pháp lý và Ngoại giao.

3) Trận tuyến đấu tranh tại biên thùy Đông Dương.

4) Trận tuyến đấu tranh Văn hóa, Xã hội và Kinh tế.

5) Trận tuyến đấu tranh Truyền

Số 200 Trang 18

Page 19: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

thông.6) Trận tuyến đấu tranh Tổ chức. 7) Trận tuyến đấu tranh Tình báo

và Phản tình báo8) Trận tuyến Yểm trợ đấu tranh

quốc nội và Vận động đồng bào tổng nổi dậy “thoát Cộng để thoát Trung”…

9) Trận tuyến toàn dân đấu tranh, diệt Việt gian CS, chống xâm lăng Trung Cộng.

D. Toàn dân quật khởi, Hiện xuất một Yeltsin Việt Nam:

Nhiều người trong chúng ta mong ước có một Yeltsin Việt Nam xuất hiện, một số người khác e ngại khó tìm ra một Yeltsin VN! Điều e ngại này chỉ đúng một phần, vì tinh thần yêu nước của nòi giống Tiên Rồng là điều không ai có thể nghi ngờ! Nhân tài tuấn kiệt của Việt Nam trong mỗi thời đại đều không bao giờ thiếu: Vận nước có lúc thịnh suy! Nhưng hào kiệt thời nào cũng có (Chiến lược gia đại tài Nguyễn Trãi).

Vấn đề của chúng ta không phải là ngồi chờ một Yeltsin VN xuất hiện, cũng không phải là vấn đề “tranh cãi suông” là có hay không có một Yeltsin VN! Vấn đề chính yếu là chính mỗi người dân chúng ta cần tham gia HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG THỜI ĐẠI, huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân… Làm được công việc trọng đại bậc nhất này, là chính mỗi người dân chúng ta đã góp phần “tạo môi trường”, “tạo chất xúc tác” cho một Yeltsin Việt Nam xuất hiện để cứu dân cứu nước!

Với hào khí Diên Hồng Thời đại, Hội đồng Quân dân Cách mạng hay Chính phủ Lâm thời Cách mạng Việt Nam sẽ được thành lập trong ngày quật khởi của toàn dân. Chính quyền Cách mạng Lâm thời Việt Nam sẽ giải thể, chấm dứt chế độ độc tài CS, lãnh đạo toàn dân chống xâm lăng Trung Cộng. Tân chính phủ sẽ:

Tuyên bố giải tán đảng Cộng sản Việt Nam

Giải thể chế độ Cộng sản độc tài toàn trị tại Việt Nam (Lưu ý: chúng ta chỉ giải thể cơ chế cầm quyền cấp Trung ương, còn giữ nguyên cơ chế hành chánh tại hạ tầng cơ sở để tránh những xáo trộn nguy hại, đáng tiếc và xét ra có thể tránh được).

Triệu hồi đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh về nước.

Kiện Trung Quốc ra các tòa án quốc tế.

Hủy các hiệp ước song phương ký kết giữa tà quyền CSVN và bạo quyền Trung Cộng.

Hủy hợp đồng khai thác Bauxite tại Tây Nguyên và tất cả các dự án kinh tế khác với Trung Cộng

Thiết lập Liên minh với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Úc châu và Ấn Độ… để gìn giữ An ninh và Hòa bình tại Biển Đông và Thái Bình Dương.

Tuyên bố Trung Cộng là quốc gia thù địch của Việt Nam

Tuyên bố Đại Đoàn Kết Toàn Dân chống xâm lăng Trung Cộng.

Triệu tập Quốc hội để soạn thảo Hiến pháp cho một nước Việt Nam Dân chủ, Tự do, Nhân bản và Pháp trị, mở ra vận hội mới đầy vinh quang cho Dân tộc Việt Nam.

VI- Kết luận:Qua sự kiện giàn khoan HD 981,

mọi người đều thấy rõ chính sách ngoại giao của CSVN hoàn toàn bị phá sản! Bắt buộc CS phải thay đổi cơ chế cầm quyển tiến đến dân chủ hóa Việt Nam. Đây là thời cơ vàng và là cơ hội cuối cùng cho đảng CSVN trở về với Dân tộc, chủ động từng bước thay đổi cơ chế từ chế độ “Độc tài toàn trị” sang “Dân chủ tự do”, mở lối thoát cho Dân tộc và cho chính đảng CSVN. Nếu đảng CSVN vì ngu muội hay đớn hèn vẫn ù lỳ bám ghế tiếp tục thần phục Trung Cộng, cam tâm bán đất dâng biển cho Trung Cộng, hoàn toàn làm theo chỉ thị của quan thày, biến VN thành một Tây Tạng, Tân Cương thứ hai… Trước tình thế lâm nguy này của Tổ Quốc, thì từ giới Trí thức, Văn nghệ sĩ, các nhà Lãnh đạo Tinh thần các tôn giáo đến lực lượng dân oan, lực lượng công nhân nông dân, và giới trẻ cùng quần chúng nhân dân trong và ngoài nước phải nhất tề vùng dậy tham gia HỘI

NGHỊ DIÊN HỒNG THỜI DẠI làm cuộc Cách mạng Dân tộc để “thoát Cộng” và “thoát Trung” Đây là TIẾNG GỌI DIÊN HỒNG VÀ CŨNG LÀ SỨ MỆNH CỨU QUỐC, KIẾN QUỐC, HƯNG QUỐC của toàn dân Việt Nam trước thời cơ mới, thời đại mới mở ra vận hội mới…..

Với hào khí Diên Hồng Thời Đại, toàn dân Việt trong và ngoài nước kết đoàn thành MỘT SỨC MẠNH TỔNG HỢP thì chúng ta dư sức chống xâm lăng Tàu, bẽ gẫy mọi mưu đồ den tối độc chiếm biển Đông của Đại Hán Bắc Kinh! Không những thế, khi Việt Nam trở thành một nước dân chủ tự do, sẽ là gương sáng, là tiền đề và là chất xúc tác vô cùng mạnh mẽ và kỳ diệu để hơn một tỷ 3 nhân dân Trung Quốc vùng dậy thoát ách độc tài toàn trị của Trung Cộng là điều tự nhiên và

tất yếu của lịch sử. Ngày lớn của lịch sử Việt Nam và lịch sử Nhân loại sẽ tới, và đang tới….

San Jose ngày 10-07-2014 Chú thích:(*1) Chiến lược biển Đông của

Hoa Kỳ. Tác giả Lê VănXương. Diễn đàn Người Việt Quốc Gia, phần tài liệu. (*2) Trung Quốc muốn gì từ giàn khoan HD981 đến đường băng từ đảo Gạc Ma (Phóng viên Việt Hà). (*3) Giấc mơ Trung Hoa hay giấc mơ của Tập Cận Bình. Nguồn Wikipedia-Bách khoa toàn thư mở. (*4) Từ 4 tốt đến 4 không được của Nguyễn Trung. Nguồn BauxitVN. (*5) Chính sách quốc phòng 3 không của CSVN. Chính sách “ba không” quốc phòng Việt Nam bao gồm: không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. (*6) Thoát khỏi áp lực Trung Quốc bằng cách nào? Anh Vũ, thông tín viên RFA 2014-06-18. (*7) Đảng CSVN nên làm gì với “4 không được” của Bắc Kinh? của Hoàng Mai. (*8) Bí mật Hội nghị Thành Đô–Nguồn: Wikipedia Bách khoa toàn thư mở. (*9) Tại sao chúng ta phải thay đổi thể chế chính trị trước khi chống giặc ngoại xâm hay sự quan trọng của thể chế chính trị trong đời sống con người, xã hội, văn hóa và văn minh- Tác giả Chu Chi Nam. Nguồn: website Thân Hữu Ánh Dương. (*10) Thế giới phẳng: Tóm lược Lịch sử Thế giới Thế kỷ 21 (bản tiếng Việt) do Nguyễn Quang A,

Nguyễn Hồng Quang, Vũ Duy Thành, Lã Việt Hà, Lê Hồng Vân, Hà Thị Thanh Huyền biên dịch, Nhà xuất bản Trẻ xuất bản tháng 8-2008 dưới hình thức sách bìa mềm dày 820 trang.

Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève (20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Bắc Việt Nam (BVN) dựa vào lý do nào để khởi binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)?

1- Hiệp định Genève.Danh xưng chính thức đầy đủ

của hiệp định Genève về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính

Số 200 Trang 19

Page 20: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

ký vào hiệp định Genève là Henri Delteil, thiếu tướng, thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH, tức Việt Minh cộng sản). Đại diện các nước khác cùng ký vào hiệp định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào, Cambodia. Chính phủ Quốc gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ không ký vào bản hiệp định nầy.

Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève) gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:

Việt Nam được chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải, theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc (tức Bắc Việt Nam) và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam (tức Nam Việt Nam). Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm "khu đệm", có hiệu lực từ ngày 14-8-1954. Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng. Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương. Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới. Tù binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà

Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).

2- Ai vi phạm Hiệp định Genève ?

Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954 chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Panmunjom (Bàn Môn Điếm) ngày 27-7-1953 ở Triều Tiên, hiệp định Genève không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai VN.

Chính phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng theo quy định của hiệp định. Điều nầy chẳng những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu sách vở nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng đắn hiệp định.

Trái lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng sản đưa ra về sau:

Thứ nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), giữa thủ tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève được ký kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương

27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt". Nguồn: Internet).

Thứ hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại miền Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm... (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng. New York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN). Trung ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống cộng sản ở Nam Việt Nam. (Tháng 10-1954, TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam Bộ trở lại thành TƯCMN.)

Hai tài liệu trên đây do phía Cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay khi trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết.

3- Bắc Việt Nam đòi hỏi điều không có

Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp chính trị. Trong khi chính Bắc Việt Nam (BVN) vi phạm hiệp định Genève, thì ngày 19-7-1955, thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day. New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.). Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức NVM không ký các văn kiện Genève nên không bị ràng

Số 200 Trang 20

Page 21: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

buộc phải thi hành.Tuy sau đó chính phủ Việt Nam

Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957 và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước, và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.

Một điều lạ lùng là trong hiệp định Genève, không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm bàn thảo bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương". Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng:

"Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973. Sài Gòn: Trình

Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclarati-on finale de la Conférence de Genève en 1954.)

Chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDC CH, Lào và Cambodge trả lời miệng rằng "đồng ý". (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5. Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký.

Đây chỉ là lời tuyên bố (déclara-tion) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì làm sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì là bản tuyên bố không chữ ký.

Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương" ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của chính phủ mình.

4- Bắc Việt Nam bịa đặt lý do để tấn công miền Nam.

Cộng sản BVN vi phạm hiệp định Genève ngay khi hiệp định nầy chưa được ký kết, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do để tấn công NVN: 1) Nam VN không tôn trọng hiệp định Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam VN là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước.

Về lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève không đề cập đến giải pháp chính trị tương lai cho Việt Nam. Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản "Tuyên bố

cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương". Bản tuyên bố nầy lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ không có tính cách bắt buộc phải thi hành.

Lý do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào VN.

Nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDC-CH với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối Cộng sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.

Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm.

Lúc đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng. Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng.

Hơn nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp mạnh mẽ NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965. Vì vậy, chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn hoang tưởng. Như thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu nước của người Việt Nam vốn có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ Cộng sản quốc tế và thi hành nghĩa

Số 200 Trang 21

Page 22: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

vụ quốc tế, như Lê Duẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)

Kết luậnHiệp định Genève là hiệp định

đình chỉ quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN đã thi hành đúng hiệp định Genève, trong khi VNDCCH tức BVN liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa Cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH tức BVN mở cuộc chiến từ năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà tức NVN dưới chiêu bài thống nhất đất nước và chống Mỹ cứu nước.

Nhân kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève, xin ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân của cuộc chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu người Việt tử vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng Cộng sản Việt Nam điều khiển.

Điều nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của Cộng sản và sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản. Dầu thất bại, chính nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố gắng vươn tới.

Lập trường của Quốc gia Việt Nam tại hội nghị Genève

Ngày 4/6/1954, trước khi Hiệp định Genève được ký kết 6 tuần, Pháp đã ký Hiệp ước Matignon (1954) với Quốc gia Việt Nam công nhận Quốc gia Việt Nam hoàn toàn độc lập.(…)

Ông Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam tuyên bố sẽ không ký vào Hiệp định Genève với lý do hiệp định gây chia cắt Việt Nam và đẩy Quốc gia Việt Nam vào thế nguy hiểm[8]. Đại diện phái đoàn Quốc gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:

"Việc ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những điều khoản gây nguy hại nặng nề cho tương lai chính

trị của Quốc gia Việt Nam. Hiệp định đã nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và tước mất của (Quốc gia) Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ. Bộ Tư lệnh Pháp đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái đoàn quốc gia Việt Nam... chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự

do cho xứ sở." (Wikipedia)Hôm nay là kỷ niệm lần thứ 60

ngày ký Hiệp định Genève, 20-7-1954, ngày lập lại hòa bình trên toàn cõi Đông Dương và cũng là ngày tạm thời chia cắt nước Việt Nam ra làm 2 miền. Nhưng cũng vào ngày này, các nước lớn trên thế giới trong đó có cả Trung Quốc đã công khai ký vào Hiệp định Genève thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Vậy mà không hiểu vì sao, ngày 14-9-1958, thủ tướng Phạm Văn Đồng lại được chính chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó để viết Công hàm gửi chính phủ Trung Quốc “ghi nhận và tán thành” bản Tuyên bố ngày 4-9-1958 của chính phủ Trung Quốc đơn phương coi hai quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là một phần của lãnh thổ Trung Quốc? Vậy, việc chủ tịch Hồ Chí Minh giao thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi bức Công hàm nói trên để “tán thành” hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là một phần của lãnh thổ Trung Quốc xuất phát từ tình cảm “quốc tế vô sản”, hay vì một tình cảm khác?

Như chúng ta đều biết, chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời luôn được Mao Trạch Đông và đảng

cộng sản Trung Quốc yêu mến và kính trọng. Không biết có phải do chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thời gian tham gia cuộc Vạn Lý Trường Chinh với Mao nên Mao ghi ơn? Hay vì sau này đã hết lòng đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng để Mao yên tâm làm cuộc Đại cách mạng Văn hóa Vô sản mà Mao tin tưởng? Hay nhờ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam mà năm 1972, Trung Quốc đã có cơ hội làm thân với Mỹ nên Mao yêu mến? Hay nhờ bức Công hàm 1958 để Mao có cớ xâm lăng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ tay VNCH ngày 19-1-1974 mà Mao

kính trọng?Còn điều ngược lại thì cả dân tộc

Việt Nam cho đến nay vẫn chưa thể nào hiểu nổi! Đó là tại sao chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời lại yêu mến nước Trung Hoa và kính trọng Mao Trạch Đông đến vậy? Hồ Chí Minh đã tận tụy làm bất cứ điều gì mà Mao Trạch Đông muốn, từ CCRĐ để giết hại hàng vạn người có công với cuộc kháng chiến chống Pháp đến mở đường Trường Sơn để đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng… Thậm chí, cho đến lúc nằm hấp hối trên giường bệnh, bác còn nói với các nữ y tá Trung Quốc lúc đó đang chăm sóc bác rằng “Bác muốn nghe một bài hát tiếng Hoa lắm, ở đây có cháu nào hát được không?”

Và oái oăm thay, ngày nay các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang triệt để lợi dụng hình tượng Hồ Chí Minh và bức Công hàm 1958 để xâm lăng các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông của Việt Nam! Đặc biệt nhất là từ ngày 2-5-2014, giặc Tàu đã hạ đặt giàn khoan khổng lồ HD 981 để thăm dò dầu khí trên thềm lục địa của Việt Nam trước sự phản đối quyết liệt của nhân dân Việt Nam và công luận quốc tế. Nhưng giặc Tàu lại lu loa lên rằng “Bức công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng đã thừa nhận Tây

Số 200 Trang 22

Page 23: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Sa và Nam Sa là của Trung Quốc nên vùng lãnh hải 200 hải lý quanh Tây Sa và Nam Sa là vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc!”.

Vậy nay, tôi viết bài này chỉ để mong các nhà sử học và quý vị độc giả gần xa sẽ trả lời cho dân tộc Việt Nam một câu hỏi: “Hồ Chí Minh là ai?”

Bác Hồ là "vị anh hùng lưỡng quốc"

(Cảm tác trước lăng chủ tịch Hồ Chí Minh)

Đứng trước lăng cháu bồi hồi báo bác. Khách Phương Bắc sắp sửa ghé thăm lăng. Họ đi tới Việt Nam bằng đường biển. Có máy bay tàu hộ tống đàng hoàng!

Phải chăng bác năm xưa cùng hoạt động? Nên người ta mến bác, bác Hồ ơi. Nghe nói đều ở Hoa Nam tình báo. Giúp Việt Nam chống giặc Pháp một thời.

Họ ca ngợi Hồ Chí Minh vĩ đạiLuôn tận tâm, tận lực với nước nhàĐã suốt đời hy sinh cho tổ quốc. Để nối liền “tình hữu nghị Việt-Hoa”!

Bác đã dạy dân Việt quên lịch sửMột nghìn năm đô hộ của giặc TàuBởi vô sản “tứ hải giai huynh đệ”. Thì láng giềng biên giới có cần đâu!

Phải chăng bác giúp Trung Quốc có thể. Lấy Hoàng Sa từ quân lực Cộng Hòa? Nhằm góp phần thắm tô tình hữu nghị. Tình giai cấp, tình quốc tế bao la!

Trước cháu tưởng chỉ đảng ta ơn bác. Nhưng hiểu ra bác vĩ đại hơn nhiều. Bác Hồ là “vị anh hùng lưỡng quốc”. Được đảng viên cả hai đảng tin yêu.

Không hiểu bác với Trạch Đông là bạn. Hay còn thêm cả tình nghĩa đồng hương? Mà bác nguyện thề hi sinh dân Việt. Đánh Hoa Kỳ theo nguyện vọng Bắc Phương.

Giờ con cháu Trạch Đông sang xâm lược. Đặt giàn khoan tìm dầu tại Biển Đông. Dân Việt đuổi nhưng giặc Tàu chẳng cút. Bởi còn đây bút tích của ông Đồng! (*)

Nay “vì bão”, giàn khoan Tàu tạm rút. Để sang năm đặt thêm chục giàn khoan. Nằm trong lăng bác Hồ ơi có biết? Triệu ngư dân đang gào

thét căm hờn!Bác ra đi để lại cho dân Việt.

Tình láng giềng “núi liền núi… liền sông”. Mục Nam Quan đã mất cùng Bản Giốc. Mất Trường-Hoàng, mất dần cả Biển Đông!

Bác Hồ là vị anh hùng lưỡng quốc. Được Tàu yêu “vinh dự lắm” bác ơi! Nay lãnh đạo một lòng trung với bác. Nguyện cam tâm theo Tàu cộng suốt đời!

Hà Nội, 20/7/2014Đặng Huy Văndanlambaovn.blogspot.comChú thích:

(*) Công Hàm Bán Nước do Phạm Văn Ðồng ký ngày 14-9-1958

Trong xu hướng dân chủ hóa toàn cầu ngày nay, vai trò của xã hội dân sự (XHDS) được nhắc đến như một “thế trận” cần thiết để chuyển hóa các chế độ độc tài sang dân chủ, đặc biệt là tại Đông Âu cách nay hơn 2 thập niên và mới đây tại Bắc Phi. Tuy nhiên, bên cạnh các chuyển hóa này, vai trò của những lực lượng chính trị, cụ thể là các đảng phái chính trị đã góp phần không nhỏ trong việc thể chế hóa nền tảng dân chủ và ngăn chận sự hồi sinh của các đảng Cộng sản độc tài.

Bài nghiên cứu này muốn nhấn mạnh đến sự phối hợp không thể thiếu giữa XHDS và các đảng chính trị để xây dựng và củng cố dân chủ trong cả 2 hoàn cảnh độc tài và tự do 

Trước hết, XHDS là gì?Theo định nghĩa hẹp, Xã Hội Dân

Sự (XHDS) bao gồm các tổ chức phi chính phủ (non-governmental organi-zation, NGOs), phi lợi nhuận (non-

profit organization, NPOs), phi đảng phái, và thường là các tổ chức thiện nguyện, tranh đấu và bênh vực cho một lý tưởng nào đó trong xã hội.

Trong định nghĩa rộng hơn, XHDS là tất cả các tổ chức nằm ngoài nhà nước và doanh nghiệp (thị trường); và bao gồm cả các nhóm nhắm tới quyền lợi riêng tư như công đoàn, hiệp hội các chuyên gia, phòng thương mại. Cũng có quan niệm cho là XHDS bao gồm các doanh nghiệp đặc biệt như truyền thông, trường tư và các hiệp hội “vì lợi nhuận”.

1. Tầm quan trọng của XHDS trong mọi cơ chế chính trị

XHDS là những tổ chức do người dân tự nguyện lập ra, tự trang trải về tài chính, không hưởng lương hoặc trợ cấp của nhà nước. Các tổ chức xã hội dân sự không chỉ nhằm phục vụ các nhu cầu dân sinh, mà còn can thiệp vào những ảnh hưởng chính trị để bảo vệ quyền con người và các phúc lợi, ổn định chung. 

Trong môi trường độc tài, XHDS giúp khởi sự những thay đổi nhỏ gắn

liền với đời sống của người dân, và từng bước chuyển quyền tự quyết vào tay người dân, và làm giảm dần quyền lực của chế độ độc tài toàn trị. Xã hội dân sự có thể bắt đầu một quá trình chuyển hóa dân chủ; nhưng chỉ có các lực lượng chính trị với sự hỗ trợ của XHDS, mới có thể củng cố một hệ thống dân chủ và thể chế hóa một quá trình chính trị dân chủ.

Đây là lý do tại sao cần phải có một mối quan hệ lành mạnh giữa xã hội dân sự và các đảng chính trị -với sự hợp tác, nhưng ở 1 khoảng cách- để thực hiện được mục tiêu phục vụ cho toàn xã hội mà không bị chính quyền, qua đảng của mình, chi phối.

Trong môi trường dân chủ, XHDS giúp tạo điều kiện để thực hiện các quyền tự do chính trị và sự tham gia của các cá nhân trong tiến trình dân chủ, liên kết các cá nhân với nhau và vận động họ tranh đấu cho những quyền lợi chung một cách hiệu quả. XHDS cũng giúp quân bằng quyền lực của chính phủ để ngăn ngừa độc tài và tha hóa, đồng thời giúp chính phủ hiểu rõ nguyện vọng của người dân mà đáp ứng và làm tròn trách nhiệm phục vụ dân.

Nhiều chuyên gia đã lưu ý rằng XHDS là nơi mà "vốn xã hội (social

Số 200 Trang 23

Page 24: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

capital)" được xây dựng để duy trì nền dân chủ, quân bình lại với quyền lực nhà nước, phát hiện tình trạng lạm quyền nếu có, và buộc nhà nước phải thực hiện đúng Hiến pháp. XHDS cũng là nơi mà các giá trị quan trọng như hợp tác, thỏa hiệp, và sự tin tưởng được phát triển để đưa đến một nền dân chủ ổn định. Do đó, xã hội dân sự là một trong ba "chân kiềng" của chế độ dân chủ: xã hội dân sự, kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền.

2. Tầm quan trọng của Đảng chính trị - không thể thiếu trong các xã hội dân chủ

Đảng chính trị (ĐCT) là một phần quan trọng của xã hội vì giúp hình thành một cơ chế chính trị để thực thi nguyện vọng của người dân trong môi trường dân chủ, và của một thiểu số trong môi trường độc tài. Ảnh hưởng của đảng chính trị rất phổ biến trong tất cả các giai đoạn hình thành của tiến trình dân chủ, và cực kỳ quan trọng giống như các tổ chức xã hội dân sự.

Không có nền dân chủ nào tồn tại mà không cần đến sự hoạt động của các đảng phái chính trị. Đảng chính trị là nhịp cầu nối kết cử tri, nhà nước và cơ cấu. Như Seymour Martin Lipset đã viết: “Đảng chính trị không thể thiếu tới độ không thể nào tưởng tượng ra một nền dân chủ hiện đại mà không có nó”. 

Đảng chính trị đóng một vai trò quan trọng trong việc tuyển dụng và lựa chọn ứng cử viên cho cuộc bầu cử, hình thành và duy trì các chính phủ, và thành lập chính sách. Đảng chính trị cũng có thể đóng một vai trò kết nối trong xã hội bằng cách huy động cử tri, tổng hợp và diễn đạt các lợi ích xã hội, và củng cố tính hợp pháp của hệ thống chính trị.

3. Nhu cầu sinh hoạt độc lập và phối hợp giữa XHDS và ĐCT.

a/ Nhu cầu độc lập giữa XHDS và ĐCT:

Vì ĐCT là phương tiện đưa đến sự hình thành của chính quyền, do đó cần phải có sự độc lập giữa hai thực thể này để các tổ chức của XHDS không bị thao túng hay lệ thuộc vào ĐCT hay chính quyền (thí dụ như lệ thuộc tài chánh, nhân sự...). Tuy nhiên, một cá nhân sinh hoạt trong một đảng phái vẫn có nhu cầu sinh hoạt trong các tổ chức XHDS, và đó là quyền công dân trong một đất nước tự do (thí dụ, một chính trị gia hay một đảng viên của một ĐCT vẫn có thể là hội viên của một hội ái hữu, từ thiện, tôn giáo, văn hóa...).

Mầm mống chia rẽ, phân hóa, tạo

nghi ngờ là từ phía chính quyền độc tài. Báo cáo phát triển con người của Liên Hiệp Quốc năm 2002 đã xem xét đặc biệt đến sức mạnh của các nền dân chủ trên toàn thế giới, và cảnh báo về sự phát triển của “xã hội phi dân sự” (XHPDS), bao gồm các nhóm lợi ích và “XHDS do nhà nước điều hành” (“government operated non-governmental associations”, GON-GOs). Các tổ chức XHPDS này giả danh hoạt động cho dân chủ, nhưng mục đích thực sự là chống dân chủ; tham gia trà trộn vào các tổ chức để tạo nghi ngờ và lấy tin cho chính quyền độc tài.

Cũng có khuynh hướng là các nhà hoạt động trong XHDS, nhất là để chuyển hóa thể chế độc tài sang dân chủ, đã tự thành lập ra ĐCT hoặc tham gia các ĐCT để tham dự vào guồng máy chính quyền thời hậu độc tài khi họ thấy đóng góp được hữu hiệu hơn trong guồng máy trực tiếp điều hành đất nước hoặc thành lập các chính sách.

b/ Nhu cầu phối hợp giữa XHDS và ĐCT:

Nhu cầu độc lập giữa XHDS và ĐCT không có nghĩa là không có sự phối hợp làm việc cho mục tiêu chung, nhất là trong các quốc gia độc tài. Sự đoàn kết giữa các tổ chức XHDS với nhau, với các ĐCT, và giữa các ĐCT với nhau là một nhu cầu tối cần để tạo sức mạnh sinh tồn và chống lại guồng máy bạo lực độc tài. Nếu không có sự phối hợp giữa các đảng phái chính trị và xã hội dân sự, công dân cuối cùng sẽ trở nên vỡ mộng với tiến trình chính trị và có thể bị quy phục bởi các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa mị dân.

Khoảng cách giữa các bên và xã hội dân sự đã dẫn đến một hiện tượng mà một nhà khoa học chính trị Georgia, ông Ghia Nodia, gọi là "XHDS tự mê", đặc trưng bởi một thái độ chống chính trị cực đoan, coi chính trị như một cái gì đó bẩn thỉu, và đối lại, chỉ có các tổ chức XHDS NGOs là trong sạch, lý tưởng. 

Các tổ chức chính trị, theo ông Nodia nhận xét, sẵn sàng đáp trả lại việc tự nhận ưu việt đạo đức của các NGOs bằng cáo buộc chính các NGOs là những kẻ cơ hội chủ nghĩa tham lam đuổi theo tài trợ phương Tây, hoặc là những kẻ lý tưởng hời hợt, nói rất nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, huyên thuyên về các nguyên tắc chung chung nhưng hoàn toàn lạc quẻ đối với thực tế chính trị.

Hai thái cực suy nghĩ xấu cho nhau này dễ bị hai thành phần lợi

dụng để làm lợi cho chính họ: đó chính là chế độ độc tài đương quyền và những thành phần cơ hội chủ nghĩa, mị dân. Chế độ độc tài lạm dụng để chia rẽ khối chống đối, trong khi kẻ mị dân thì muốn lợi dụng danh nghĩa chống độc tài nhưng “phi chính trị” hoặc “phi đảng phái” để chiêu dụ và thu tóm quyền lực.

Lý do chính giúp "cuộc cách mạng hoa hồng" tại Georgia thành công là các đảng dân chủ và các tổ chức xã hội dân sự đã biết cách làm việc chặt chẽ với nhau. Khi các thực thể này không nhìn ra được các lợi ích, kết quả thường xấu cho cả hai phía. Nếu ĐCT yếu hoặc thậm chí sụp đổ, mà thường xảy ra nếu ĐCT bị cô lập từ XHDS, một kẻ mị dân có thể lấp đầy khoảng trống chính trị và tạo ra mối đe dọa cho cả hai. Điều này chính là những gì đã xảy ra ở Venezuela, nơi Hugo Chavez, đã gạt qua một bên các ĐCT truyền thống, sau đó tiếp tục tấn công các công đoàn, cơ quan truyền thông, nhà thờ, cộng đồng doanh nghiệp độc lập, các tổ chức phi chính phủ, và các quy định của pháp luật nói chung.

4.Những bài học từ các xứ vừa thoát khỏi ách độc tài

Quan sát các quốc gia độc tài và vừa thoát độc tài, các nhà nghiên cứu đã rút ra những bài học như sau: Cần phải đoàn kết giữa tất cả các lực lượng chống độc tài. Đây là bài học đầu tiên và quan trọng nhất; không có chỗ cho sự chia rẽ trong phe đối lập; không có chỗ cho một vị cứu tinh dân tộc, không có chỗ cho bất khoan dung, bao gồm cả đối với những người làm việc với chế độ. Đảng chính trị và các tổ chức xã hội dân sự cần phối hợp với nhau để giúp xóa bỏ độc tài và xây dựng 1 chế độ dân chủ. Trong nhiều trường hợp, chế độ độc tài có thể bị sụp đổ trong khi “chủ nghĩa độc tài” vẫn còn tồn tại. Serbia và Georgia là những ví dụ về điều này. Công việc của xã hội dân sự là trung tâm truyền bá văn hóa dân chủ trong mọi lãnh vực xã hội. Một xã hội dân chủ cần một nhà nước dân chủ. Trong đó, vai trò của các đảng chính trị rất quan trọng để đào tạo cán bộ trong guồng máy chính quyền hướng tới mục tiêu dân chủ. Mặt khác, cả đảng chính trị lẫn xã hội dân sự có trách nhiệm thúc đẩy giáo dục công dân để có cử tri tốt hầu đưa tới các cuộc bầu cử tốt. Các đảng chính trị gần gũi hơn với các quá trình ra quyết định chính trị,

Số 200 Trang 24

Page 25: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

đó là lý do mà một số người cho là sự tồn tại của ĐCT là quan trọng hơn sự tồn tại của các tổ chức xã hội dân sự. Đối với những người khác, sự hiện diện của cả hai là cần thiết, như là sự đồng tồn tại của nền “dân chủ đại diện” (Representative democracy = ĐCT) và nền “dân chủ tham gia” (Participatory democracy = XHDS). Nên duy trì tinh thần của sự đồng thuận và hợp tác lâu dài giữa các đảng chính trị và các tổ chức xã hội dân sự, một sự tương tác hỗ trợ, bổ xung cho nhau. Quốc tế nên gia tăng quan tâm đến mối tương quan nên có giữa các tổ chức xã hội dân sự và các đảng chính trị. Theo đó, LHQ cần cải tổ để có một chính sách thích hợp. Nhân quyền là lãnh vực đang được thế giới quan tâm và đề cao ở khắp nơi. Nhưng nhân quyền chỉ có thể phát triển tối hảo khi các tổ chức xã hội dân sự và các đảng phái chính trị có những chương trình hợp tác chặt chẽ để cổ võ và ngăn chận mọi chủ trương bóp chết nhân quyền. Trong các xã hội chuyển tiếp, mà theo định nghĩa là chưa có một mạng lưới mạnh mẽ của các tổ chức xã hội dân sự, hợp tác quốc tế có thể giúp rất nhiều để ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân trong giới lãnh đạo.

5. Kết luận:Nhận thức quan trọng nhất là

đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội dân sự đều cần thiết cho dân chủ; mỗi thực thể có một vai trò đặc biệt và sự hợp tác giữa họ là cách tốt nhất để góp phần gia tăng dân chủ. Họ là đồng minh, không phải kẻ thù, trong việc thúc đẩy sự thay đổi dân chủ.

Các cơ chế quốc tế như European Union (EU) và United Nations (UN) có thể đóng góp vào mục tiêu này bằng cách hỗ trợ các dự án nhằm thúc đẩy sự phát triển liên kết giữa các tổ chức NGO, các đảng phái, và thậm chí cả các tổ chức nhà nước.

Chỉ cần hoạt động trong một nhà nước độc tài thì tự động hầu hết các tổ chức XHDS đã nhuốm màu sắc chính trị. Để tồn tại, một số tổ chức NGO phải dựa vào sự hỗ trợ tài chính từ phương Tây. Hỗ trợ này được thúc đẩy chủ yếu bởi mục tiêu chính trị, chẳng hạn như mang lại dân chủ hay cởi mở hóa không khí chính trị bị đàn áp tại các quốc gia độc tài - ngay cả khi sự hỗ trợ dành cho các nhóm hoàn toàn xa cách với chính trị.

Ngày nay, hỗ trợ của EU hay UN cần được hướng tới thúc đẩy sự hợp tác giữa các tác nhân chính trị và xã hội dân sự. Việc đẩy mạnh xã hội dân

sự trong khi lại coi thường các đảng

chính trị là tạo ra một sự mất cân bằng nguy hiểm bằng cách tăng nhu cầu thay đổi (từ XHDS) mà không tăng cường phương tiện có thể cung cấp nhu cầu thay đổi, đó chính là các đảng phái chính trị.

Trong tình hình đất nước Việt Nam chúng ta ngày nay, những người tham gia đấu tranh –qua hình thức xã hội dân sự (XHDS) hay đảng chính trị (ĐCT)– hầu hết là những người lý tưởng, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc cá nhân cho đại nghĩa. Lãnh đạo Hà Nội sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để triệt tiêu các đoàn thể không nằm trong khuôn khổ của chế độ, nên những người có lòng đối với dân tộc và đất nước càng phải đoàn kết, gắn bó với nhau hơn bất kể phương thức đóng góp cho đại cuộc là XHDS hay ĐCT. Đừng để chế độ độc tài hay một vài kẻ, vì tham vọng quyền lực cá nhân, lợi dụng tâm lý “sợ/ghét chính trị” để bài bác và chia rẽ giữa những người cùng một tấm lòng vì tổ quốc.

Nguồn tham khảo:1. Bozóki, András. Political Parties and the Prospects for Democracy.http://www.unc.edu/depts/europe/conferences/parties/papers/bozoki_constitution2.pdf. 2. Carothers, Thomas. Ci-vil Society. 1999-2000. http://carnegie endowment.org/pdf/CivilSociety.pdf.3. Charnysh, Volha Civil Society and Political Parties: Together While Apart. December 10, 2012. http://bela rusdigest.com/story/civil-society-and-political-parties-together-while-apart-12401. 4. Dippell, Matt. The role of Ci-vil Society and Political Parties in a Democracy. February 18, 2000, Washington, D.C. National Democra-tic Institute for International Affairs.https://www.ndi.org/files/1005_ww_civilsocpolparties.pdf. 5. Gerrits, André – The Netherlands; Herd, Graeme – GermanySekulovic, Vlatko – Serbia, Ungar, Elisabeth – Colombia. Political Parties and Civil Society: How to Build Better Relations? World Move-ment for Democracy. http://www.wmd. org/assemblies/fourth-assembly/repo rts/political-party-building-and-electio ns/political-parties-and-civil. 6. Gersh man, Carl. The Relationship of Politi cal Parties and Civil Society. March 17,2004. The National Endowment for

Democracy.http://www.ned.org/ about

/board/meet-our-president/archi ved-remarks-and-presentations/031704

Công an (CA) phường xã có quyền “tiến hành kiểm tra, xác minh ban đầu” là nội dung quan trọng nhất và cũng khiến gây tranh cãi nhiều nhất trong giới đại biểu Quốc hội và chuyên gia pháp luật chưa đến nỗi hoàn toàn vô cảm.

Nội dung đầy tính “sáng tạo” trên nằm trong khoản 2 Điều 25 của Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, theo đó ngoài quy định CA xã, phường, thị trấn, đồn CA, trạm CA có các quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập hồ sơ, phân loại và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm xác định có dấu hiệu tội phạm…, CA xã, phường còn được tăng quyền tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu.

Tản quyền hóa và nạn “tự tử”Tình hình tội phạm và tệ nạn xã

hội gia tăng đột biến trong những năm gần đây trên khắp các vùng đất nước chắc chắn là một trong những nguồn cơn chính yếu để Bộ Công an và sở CA các tỉnh thành tìm cách “tản quyền”.

Thế nhưng trong một nền hành chính mà nạn “trên bảo dưới không nghe” ngày càng tồi tệ, tình trạng tản quyền hóa đã lan tràn từ lâu, với quyền năng sinh sát nằm trong tay một đội ngũ CA phường xã rất thiếu được đào tạo bài bản nhưng lại thừa thãi tinh thần “kiêu binh”. Hệ lụy quá bất tương xứng như thế đã dẫn tới hậu quả một số CA viên và dân phòng ấu trĩ về kinh nghiệm đến mức không thuần thục ngay cả thủ đoạn… đánh người.

Cái chết của một người đàn ông có tên là Ngô Thanh Kiều trong đồn CA ở Phú Yên vào năm 2012 do bị đánh vào chỗ hiểm là một điển hình của rất nhiều điển hình về điều mà cộng đồng quốc tế lên án cảnh sát VN sử dụng nhục hình.

Nạn nhục hình càng đáng được ghi khắc vào những năm gần đây.

Số 200 Trang 25

Page 26: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Cùng với hiện tượng nổi lên ngày càng nhiều tiêu cực của ngành CA Việt Nam, những cái chết được mô tả là “tự mình giết mình” cũng nối tiếp nhau sinh thành. Hàng loạt vụ việc được CA địa phương báo cáo là “tự treo cổ” đã xảy ra: Nguyễn Công Nhựt ở trụ sở CA thuộc Bình Dương, anh H. cũng ở trụ sở CA thuộc Bình Dương, Bùi Thị Hương ở trụ sở CA thuộc Bình Phước, Đỗ Văn Bình ở trụ sở CA thuộc Đà Nẵng, Đặng Trung Trịnh ở trụ sở CA thuộc Hải Dương…

Đặc biệt từ năm đầu 2013, khi Tổ chức Ân xá Quốc tế lần đầu tiên đặt chân đến Việt Nam tính từ thời điểm năm 1975 và báo chí “lề trái” quật khởi tính phản biện, cho đến nay có ít nhất 15 cái chết do “tự tử” trong đồn CA bị giới truyền thông phát hiện.

Chính bởi thực trạng quá tối tăm như thế, khi Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự được đưa ra thảo luận, các đại biểu quốc hội đã phải đặc tả về một nguyên nhân sâu xa khiến người dân sợ hãi về dự thảo này: tại các trụ sở CA xã, huyện liên tiếp xảy ra các vụ chết người mà nguyên nhân đều “rất khó hiểu, khó tin và khó chấp nhận”.

Cả nước là “cơ quan cảnh sát điều tra”

Nhiều chuyên gia pháp luật cũng cho rằng nếu đưa lực lượng CA xã vào điều tra ban đầu là rất nguy hiểm. Lý do là ngoài việc tìm ra tội phạm, việc bảo mật thông tin ban đầu là vô cùng quan trọng.

Việc này CA xã khó đáp ứng được và sẽ có nhiều tiêu cực phát sinh như tuồn thông tin ra ngoài, bao che tội phạm… gây khó cho cơ quan cảnh sát điều tra điều tra sau này. Một sự thật là khi quyền lực của “quan xã” càng cao bao nhiêu thì việc quản lý càng gặp khó khăn bấy nhiêu.

Vào lần này, điểm bổ sung và đặc biệt khác với Pháp lệnh CA xã năm 2008 chính là việc CA phường xã có quyền “tiến hành kiểm tra, xác minh ban đầu” trong Dự thảo Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự. “Nếu CA phường, xã được tham

gia điều tra, chắc chắn sẽ có thêm nhiều người bị đánh bầm dập lúc xét hỏi” – phần đông dư luận người dân lập tức phản ứng gay gắt khi dự thảo trên còn e ấp phía sau tấm rèm buông nơi tĩnh phòng QH.

Ngay Kiểm sát viên cao cấp Võ Văn Thêm, Phó Viện trưởng Viện Phúc thẩm 3 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cũng phải thừa nhận: “Hiện chưa có nước nào trên thế giới lại đưa CA xã, phường… vào lực lượng điều tra. Mục tiêu của dự luật là tinh gọn đầu mối, song chia nhỏ như thế này đang làm phức tạp, tạo ra nhiều lỗ hổng hơn”. Còn câu hỏi mà người dân phóng ra là cơ chế để quản lý lực lượng tác nghiệp CA phường xã sẽ được thực hiện như thế nào khi chưa có sự chuẩn bị về nhân lực, phương pháp và các biện pháp giám sát cũng như các chế tài cần thiết?

Tuy thế và như thường lệ, cơ quan pháp luật QH vẫn không thể thỏa mãn được những vấn đề vừa ẩn chứa tính quan liêu vừa ngoài tầm kiểm soát của họ. Dù có thể “thông cảm” với tình trạng vừa quá tải vừa muốn né tránh trách nhiệm của các cơ quan CA cấp trung ương và cả cấp tỉnh thành, nhưng mặt bằng văn hóa và nghiệp vụ quá kém cỏi của lớp CA phường xã là không thể biện minh được cho cơ chế đùn đẩy chức trách trong nội bộ.

Một khi đã được tăng quyền và kế thừa truyền thống quá tản quyền về hoạt động giám sát, đương nhiên sẽ xảy ra tình trạng quân hồi vô phèng ở không ít địa phương và đối với không ít CA viên. Thay vì truy bắt tội phạm, sẽ không thiếu trụ sở CA phường xã biến thành cơ quan cảnh sát điều tra giả hiệu.

Một số CA viên có thể lạm dụng và cả lợi dụng quyền điều tra ban đầu của mình để “bắt cóc” công dân nhằm mục đích trả thù riêng tư hoặc làm tiền. Tệ nạn “mãi lộ công đường” trong ngành CA cũng do đó sẽ chỉ có tiến chứ không thể lùi…

Xem thường Công ước chống tra tấn?

14/3/2014, đúng vào ngày tưởng niệm cái chết của đảo Gạc Ma sau

cuộc đánh úp của hải quân Trung Quốc, tại một hội nghị tổng kết việc thi hành Bộ luật hình sự năm 1999, đại diện Bộ CA đã tống đạt một đề nghị hết sức chuyên biệt về chuyên chính vô sản: để đáp ứng toàn diện, đầy đủ hơn yêu cầu trong tình hình hiện nay, bộ luật Hình sự sửa đổi sắp tới cần nghiên cứu hình sự hóa nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội đang xảy ra trong thời gian qua như: tổ chức lập hội trái phép, kêu gọi xóa bỏ hoặc thay đổi Hiến pháp…

Lời tống đạt trên chắc chắn càng làm khó cho danh thể vốn khá úa tàn của Nhà nước VN trước Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Tổng quan, Bộ CA đã tích tụ đến 4 kiến nghị trái ngược và xúc phạm lòng dân chỉ trong vòng một năm qua. 3 kiến nghị trước thuộc về “quyền nổ súng” dành cho cảnh sát cơ động để “trấn áp bạo loạn”, “báo chí phải tiết lộ nguồn tin” dành cho báo giới và “hình sự hóa xử lý hội đoàn” dành cho xã hội dân sự.

Nếu yêu cầu thứ tư về “tản quyền” cho công tác điều tra ban đầu của CA phường xã được Quốc hội lặng gật nhẹ bẫng như đã từng nhất trí tuyệt đối cao về Hiến pháp sửa đổi 2013, tương lai nhục hình nhiều khả năng sẽ đột biến gia vị ở rất nhiều vùng miền, trong đất nước mà một nhà thơ đã mô tả “Thơ tôi khóc lệ rơi hình chữ S”.

Nhiều cái chết “mình tự giết mình” sẽ còn xảy ra vào những tháng ngày tới, trong khi Bộ CA và Bộ Ngoại giao vẫn thản nhiên “tiếp tục triển khai hội nghị về Công ước chống tra tấn của Liên hiệp quốc” như một sự làm vì.

Số 200 Trang 26

Page 27: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

Bão Tàu đã ngầm chuyển mùa?Mấy hôm nay, trên thế giới vụ 7x7

–“bảy số bảy” (chiếc Boing 777 số hiệu MH17 bị hạ từ ngày 17/7/2+0+1+4=7) vẫn chưa rõ do ai bắn, nhưng cái cách kẻ độc tài hống hách lạnh lùng như Putin bù lu bù loa đổ lỗi cho chiến tranh ở Đông Ucraine (do chính hắn tạo ra và hậu thuẫn) làm cả thế giới nhìn vào nước Nga nghi ngại. Trong nước thì “cơn bão/cái gai” HD981 mập mờ “rút ra”/lắng xuống, nhưng nhiều báo nói nó vẫn đang cắm trên biển VN, thậm chí còn gần bờ hơn thêm 30 hải lý nữa, làm dân chẳng biết tin gì nữa. Rồi cơn bão số 2 vào làm chết 7 người ở các tỉnh QN, LS… làm dân ta quên luôn cơn bão giàn khoan…

Bão đã chuyển mùa, đến cơn số 2 số 3 rồi, mong rằng đến cơn bão số 7 sẽ là bão “độc” ngàn năm nhấn chìm các giàn khoan xâm lược của Tàu (chỉ mong vậy thôi, vì tôi biết một giàn khoan như thế phải được thiết kế dễ dàng chịu được những con sóng trăm năm…)

Kẹt giữa những dòng thông tin nội/ngoại ngồn ngộn như thế, có một thông tin kinh tế lẻ loi sẽ chẳng ai để ý, đó là tin Quảng Ninh đang xem xét giao việc quản lý vịnh Hạ Long và Bái Tử Long 50 năm tới cho tư nhân–tập đoàn Bitexco… Tôi lại linh cảm nó là điều tệ hại đang đến, nó mới chính là dấu hiệu một cơn bão khác cực kỳ độc hại với nước ta đang đến, vẫn từ phương Bắc như HD981, nhưng nó chuyển sang dạng mới –bão Tàu ngầm… đến tỉnh biên giới biển Quảng Ninh.

Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long thực sự là gì?

Đầu tiên, hãy xác định rõ vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long thực sự là gì, thì mới biết ai thực sự nên và muốn làm chủ nó nhất hiện nay?

Với người dân Việt bình thường thì vịnh Hạ Long chỉ là điểm du lịch biển, còn vịnh Bái Tử Long thì đa số không biết là gì ngoài “cũng là một điểm du lịch tiếp sau Hạ Long như thế ở Quảng Ninh”, hết.

Nhưng nếu ta nhìn bằng con mắt cảnh giác thì phải/nên nhìn từ góc độ của nhà địa quân sự và địa kinh tế, và mọi chuyện sẽ khác hẳn.

Vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long

là không gian biển đảo rộng lớn khoảng trên dưới 4000 km2 diện tích các đảo, nội hải và lãnh hải (bằng hơn 2 tỉnh Thái Bình, gấp khoảng 10 lần quốc gia Singapore, và gấp trên 20 lần khu KT và vịnh Vũng Áng…) có gần 3,000 đảo đất và đá vôi được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên và Di sản Địa chất của Thế giới, và có gần 300 km biên giới biển phía bắc đầu tiên của nước ta, tiếp xúc với trên 300 km chiều dài của EEZ - vùng đặc quyền kinh tế của VN trong vịnh Bắc Bộ, tiếp giáp trực tiếp với EEZ của TQ…

Từ con mắt nhà địa quân sự, ai quản lý Hạ Long và Bái Tử Long người đó quản lý cổng vào Việt Nam từ phương bắc. Lịch sử vệ quốc của VN cũng chứng tỏ điều đó, nhờ địa hình có gần 3,000 đảo được gọi là rồng biển chắn che cho đất nước ta đó.

Về kinh tế hiện nay, vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long, ngoài tiềm năng du lịch, chính là nơi tập kết hàng năm vài triệu tấn hàng xuất/nhập lậu từ/đến TQ để từ đó các phương tiện thủy nội địa phân bổ đi khắp các tỉnh ven biển VN hay sang TQ. Người ta đã ước tính hàng buôn lậu từ TQ trên biển còn lớn hơn xuất nhập khẩu tiểu ngạch qua biên giới và xuất nhập khẩu chính ngạch cộng lại. Trị giá giao dịch của hàng lậu trên biển VN-TQ hàng năm tại vùng biển này ước khoảng 20-30 tỷ USD (có tài liệu nói khoảng 40-50 tỷ USD), không có sổ sách thống kê, đang và sẽ tiếp tục dễ dàng lũng đoạn toàn bộ nền kinh tế Việt Nam như hiện nay.

Ví dụ: Để được ra đảo Vĩnh Thực làm lính biên phòng vài năm, một người lính biên phòng Quảng Ninh phải đút lót cho cấp trên không dưới 500 triệu đồng, (sĩ quan thì giá ra đảo cao hơn nhiều, hàng vài tỷ vnđ) và sẽ thu lợi sau vài năm “công tác” ở đó, vì đó là điểm kiểm soát và thu tô của biên phòng VN từ các bên buôn lậu trên biển, và từng người lính được chia tiền tô đó từ từng chuyến canh gác cho buôn lậu các bên…

Vấn đề thực sự hiện nay của vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long

Vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long đối với nước Việt, dân tộc chúng ta thực sự là những viên ngọc quí, thậm

chí với cả thế giới, nhưng không phải là những con gà đẻ trứng vàng, chưa phải. Để biết trân trọng và khai thác những viên ngọc quí, các người chủ của nó trước hết cũng phải ở những tầm cao tương xứng về văn hóa, chính trị xã hội, và mức sống kinh tế. Nếu không, chúng ta sẽ chỉ hủy hoại những kho tàng quí báu mà cha ông để lại. Rất tiếc là điều đó đã và đang xảy ra.

Vấn đề thực sự của hai vịnh - tuyệt tác thiên nhiên đó hiện nay là môi trường tự nhiên -cái làm nó là tuyệt tác- đang bị hủy hoại nghiêm trọng nặng nề bởi chế độ quản lý và khai thác vô trách nhiệm và bởi sự phát triển kinh tế ồ ạt ở đó và trên bờ, bất chấp hậu quả giết chết môi trường. Những hoạt động không có kiềm chế và kiểm soát trong khai thác khoáng sản như than, đá vôi, sản xuất gạch ngói xi măng, đóng tàu, vận tải thương mại trên vịnh, san lấp bờ biển làm hàng chục khu đô thị, khu kinh tế và khu du lịch của Quảng Ninh suốt dọc biển QN từ Quảng Yên đến Móng Cái chỉ một hai chục năm qua đã hầu như biến hai vịnh trên thành vùng nước chết độc hại với thủy sản, nhất là ở phần trung tâm của chúng ngay Cửa Lục hay cửa Vạn Hoa… Với tốc độ này, chỉ 10-20 năm tới, hai vịnh trên sẽ thành vùng nước chết và đến các đảo cũng sẽ chết theo.

Vì vậy, không phải doanh thu từ khai thác hai vịnh trên thấp chỉ 200 tỷ vnđ là vấn đề của hai vịnh đó, nếu những nhà lãnh đạo Quảng Ninh thực sự có lương tâm và muốn tìm ra phương giải quyết. Vịnh Hạ long và Bái Tử Long cần bảo vệ về môi trường. 200 tỷ vnđ cách đây 10 năm là 10-20% ngân sách của tỉnh rồi, chứ không phải 2% như hiện nay.

Vấn đề là bảo vệ môi trường hai vịnh Hạ Long và Bái Tử Long để chúng tồn tại bền vững cân bằng, vẫn là những tuyệt tác Thiên nhiên cho cả con cháu chúng ta hưởng, thì nó mới được khai thác hiệu quả và bền vững được.

Ai thực sự nên và muốn quản lý vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long?

Khi đã biết sơ qua vấn đề thực sự và vịnh Hạ Long và Bái Tử Long thực sự là gì về an ninh quốc phòng và an ninh kinh tế đối với nước ta thì câu trả lời cho câu hỏi ai nên quản lý chúng là rất rõ ràng: chỉ có chính quyền minh bạch của VN phải làm và phải đặc biệt chú tâm làm tốt việc đó, vì an ninh quân sự và kinh tế quốc gia.

Thế mà hiện nay, chính quyền Quảng Ninh/VN chẳng những không làm tốt mà còn muốn bàn giao việc

Số 200 Trang 27

Page 28: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

quản lý hai vịnh lớn cực kỳ quan trọng đó của VN cho công ty tư nhân là Bitexco, vì “lý do” việc quản lý và khai thác hai vịnh đó hiện nay chỉ mang lại hàng năm 200 tỷ vnđ hay 2% doanh thu của tỉnh. Rõ ràng, đó là sai lầm cố ý lớn, vì lý do “kinh tế của tỉnh” ở đây không thể đứng trên an ninh kinh tế và an ninh quân sự quốc gia.

Nếu không phải sai lầm chủ ý, mà chắc chắn là không phải vậy, thì lý do nâng cao 2% kinh tế của tỉnh chỉ là để che đậy một âm mưu rất lớn của ai đó mà ngay cả an ninh kinh tế và quân sự quốc gia người ta cũng sẵn sàng bỏ qua. Đó là gì vậy? Và những kẻ đó là ai? Bitexco ư? Vậy Bitexco là ai? Tại sao “bỗng nhiên” họ muốn quản lý vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long?

Bitexco là ai? Đứng sau Bitexco là ai?

Bitexco thoát thai từ công ty tư nhân xuất phát từ một xưởng đóng chai nước uống, rồi vì là con ông cháu cha, là sân sau của quan chức mà chiếm không được rất nhiều đất đai nên đi vào bất động sản, và cứ thế đi lên bằng hai chân điển hình như mọi công ty tư bản đỏ: chiếm đất của nước của dân “làm bất động sản” của mình và rửa tiền cho các quan chức… Đứng sau Bitexco là các quan chức lớn cấp trung ương và nhiều tỉnh thành mà ai quan tâm hay giao tiếp làm ăn đều có thể biết rõ và đều phải biết rõ.

Thành tập đoàn công ty cổ phần tư nhân lớn nổi danh, không làm du lịch hay môi trường, chỉ tiếp tục lấy đất trung tâm Sài Gòn và các đô thị khác xây các cao ốc Bitexco… Nói tóm lại là Bitexco không quan tâm miếng bánh giả con con trị giá có 200 tỷ đồng/năm để lặn lội từ SG ra tận tỉnh cực Bắc là Quảng Ninh, và càng không có kinh nghiệm gì làm du lịch hay bảo vệ môi trường. Cái Bitexco quan tâm phải là những cụm tiền rất lớn chỉ cần chiếm lấy và “rửa qua” bằng thế mạnh quan hệ với chính quyền. Vì vậy, bản chất của vụ “quản lý vịnh trong 50 năm” này là khác, rất quan trọng mà họ bắt buộc phải làm, rất “ngon” vì họ muốn làm… Đó cũng là lý do tại sao Quảng Ninh không làm việc đó trong công khai đấu thầu (nếu thực sự mục đích là minh bạch) mà lại chỉ có chuẩn bị giao trực tiếp trên 4000 km2 biển với gần 3000 đảo cho một “công ty tư nhân” tạm đóng thế vai CSVN và CS Tàu?

Giống như công ty tài chính đảng của tỉnh Đồng Nai là Tín Nghĩa đã đưa Formosa (Đài Loan) ra thuê khu

CN Vũng Áng Hà Tĩnh 70 năm cho chủ thật là TQ bỏ tiền và tạm đứng sau, đứng sau Bitexco và vụ “quản lý vịnh Hạ Long + Bái Tử Long” này chắc chắn cũng là bọn TQ, vì chỉ có TQ là thèm vùng biển phía bắc VN nhất... vì tham vọng điên cuồng chiếm nước Việt của chúng hiện nay.

Nhất là, sau khi cố gắng thuê đặc khu KT Vân Đồn 120 năm cũng của Quảng Ninh không/chưa thành, TQ càng thèm vịnh Hạ long và Bái Tử Long hơn. (Vân Đồn là huyện đảo lớn nhất của Quảng Ninh bên cạnh vịnh Bái Tử Long, diện tích khoảng 600 km2, tức rộng gấp rưỡi Singapore).

Báo động an ninh kinh tế và an ninh lãnh thổ quốc gia!

Nếu chính quyền Quảng Ninh (thực chất là đảng CSVN) giao việc quản lý khai thác trên 4000 km2 biển và gần 3000 đảo cho Bitexco rồi công ty này giao lại cho hay “liên doanh” với các công ty TQ thì coi như TQ sẽ làm chủ hoàn toàn phần biển đảo phía Bắc lãnh thổ vốn là phên dậu an ninh quốc gia VN, tức là cửa ngõ phía Bắc sẽ bị mở toang cho TQ! Biên giới biển VN ở phía Bắc sẽ bị đâỷ lên bờ và lãnh thổ quốc gia thu hẹp lại mất trên 3000 km2 đẹp bậc nhất nữa... Vì thế, phải báo động an ninh lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm!

Về kinh tế, việc buôn lậu trên biển Quảng Ninh hiện nay vốn đã không được kiểm soát đang làm lũng đoạn sản xuất kinh doanh nội địa, thì nay nếu giao TQ quản lý vịnh Hạ Long/Bái Tử Long thì hàng lậu TQ sẽ tràn ngập ngụa toàn lãnh thổ VN, sẽ làm lũng đoạn và chết hẳn nền kinh tế VN và sẽ khiến nó không chỉ phụ thuộc TQ mà phải tự biến thành một cái đuôi vật vờ của kinh tế TQ! Báo động an ninh kinh tế là vì thế!

Tóm lại, không còn nghi ngờ gì nữa, đó sẽ là tiếp diễn mới cho một cuộc xâm lăng không súng đạn của TQ theo chiến lược tằm ăn dâu - nhưng ăn cả mảng lớn, sau khi TQ đã thử cắn một miếng ở biển Đà Nẵng bằng giàn HD981 vừa qua, TQ lại quay về tấn công kinh tế và vẫn chiếm cả lãnh thổ VN...

Lại một chiêu bài bán nước mới rất thâm độc và tội ác của đảng CSVN đang được kín đáo bày ra cho giặc Tàu vào xâm lược! Không cần đến 50 năm, chỉ cần 10-15 năm nữa là cộng sản VN dần bán sạch hết đất nước này cho Tàu rồi. Lúc đó dân Việt muốn vượt biên cũng khó, vì

ngoài Biển Đông CSVN cũng đã chắc tay súng cùng Tàu khai thác rồi...

Dân Việt ta ơi, hãy lên tiếng, hãy

đứng lên trước khi quá muộn!Phan Châu Thànhdanlambaovn.blogspot.com

Trong kỳ họp thứ 7 vừa qua, các

đại biểu Quốc hội đã thẳng thắn nhìn nhận tình trạng Việt Nam vay nợ để trả nợ đang khiến vấn đề nợ công ngày càng nặng và khó giải quyết đối với Việt Nam.

Đi vay để đảo nợ?Nói về những khoản nợ của Việt

Nam thì rõ ràng không có gì là mới mẻ, bởi với một nền kinh tế đang phát triển, cần những khoản nợ để đầu tư, sản xuất… là chuyện hết sức bình thường, thế nhưng khi nền kinh tế được đánh giá là không có đủ năng lực để trả nợ thì lại là một câu chuyện hoàn toàn khác và có thể nói là nguy hiểm.

Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn với báo giới trong nước, Viện trưởng Viện quản lý Kinh tế Trung ương Nguyễn Đình Cung thẳng thắn phân tích: “Việc đi vay để trả nợ, điều đó chứng tỏ khả năng tạo ra vốn để trả nợ là không có. Hay nói cách khác phải đi vay thêm, nghĩa là anh đang không có đủ năng lực để trả nợ.”

Theo T.S Nguyễn Đình Cung, đáng lẽ trong hoàn cảnh khó khăn về nguồn vốn, phải đi vay thì nguồn vốn đó dùng để tạo ra năng lực trả nợ, thế nhưng, trên thực tế những khoản vay mới không được dùng để đầu tư cũng như không tạo ra nguồn lực, mà là vay nợ để trả nợ, từ đó kéo theo khả năng trả nợ tiếp tục giảm đi. Tuy vậy, T.S Cung không quên bình luận trong ngắn hạn thì buộc phải áp dụng biện pháp đi vay về để đảo nợ.

Trao đổi với chúng tôi về các khoản nợ tại Việt Nam, T.S Phạm Chí Dũng cho biết quan điểm của ông dưới cả 2 góc độ vi mô và vĩ mô:

Số 200 Trang 28

Page 29: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

“Ông Đình Cung nhận xét đúng và khá trọn vẹn vấn đề và thậm chí còn mô phỏng vấn đề từ tầm cỡ những doanh nghiệp vi mô cho tới tầm vĩ mô của quốc gia. Đã có rất nhiều doanh nghiệp bất động sản trong giai đoạn từ 2011 đến 2014 đã phải tự giải tỏa các khoản nợ của họ bằng cách được ngân hàng cho vay lại; khi được cho vay lại, họ lấy số tiền cho vay lại đó và họ trả nợ cộng lãi cho ngân hàng và ngân hàng lại trùm thêm một số nợ. Đó là cách nhìn vi mô và từ đó chúng ta nhìn lên cách nhìn vĩ mô, nhà nước Việt Nam cũng như vậy thôi. Mặc dù không công bố minh bạch nhưng tình hình tài chính hiện nay cực kỳ khó khăn và có vẻ như hiện tượng mà chúng ta đang đi đến điểm đích của nó là vẫn phải tiếp tục vay trong các năm tháng tới, vay không phải chỉ để đầu tư mà còn vay để trả nợ cho các khoản vay trước đó. Đó là các khoản nợ cứ gối đầu, chồng chất, hiện giờ người ta dùng cụm từ “đẩy nợ cho tương lai.”

Tại kỳ họp thứ 7 của Quốc hội vừa qua, một con số báo động đã được đưa ra là nợ công Việt Nam vượt mức 80 tỉ đôla và tổng dư nợ cả năm chiếm hơn một nửa GDP, ở mức 53,4%. Nhiều người có thể lập luận rằng những quốc gia như Nhật Bản hay Singapore có tỉ lệ nơ công rất cao thậm chí chạm ngưỡng 200% GDP, nhưng lật lại vấn đề thì thấy rằng những quốc gia như Nhật Bản chẳng hạn lại là nước xuất khẩu và thâm dụng vốn rất lớn, cho nên họ có sự cân đối khác nhau. Trong khi đó, Việt Nam không phải là nước xuất khẩu vốn cũng như không phải là nước dồi dào về tư bản, thế nên tình trạng mất cân đối hiện tại hoàn toàn đáng phải xem xét và cần giải quyết triệt để.

Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, điểm nguy hại hiện tại là vay nợ nhưng không sử dụng hiệu quả đồng vốn vay, vì để đánh giá mức độ an toàn nợ công, người ta không chỉ dựa trên tổng lượng tiền nợ, mà quan trọng hơn là họ dựa trên hiệu quả sử dụng đồng tiền này.

Đầu tư hoàn toàn không hiệu

quả?Đơn vị đo này là ICOR viết tắt

tiếng Anh của “hệ số sử dụng vốn” nhằm đo lường số vốn bỏ ra thêm để sản xuất một mặt hàng nào đó, chỉ số ICOR càng thấp càng tốt, một nền kinh tế phát triển bền vững sẽ có chỉ số là 3. Thế nhưng hiện tại, chỉ số ICOR của Việt Nam lên đến 9 và nhiều chuyên gia đánh giá “đầu tư hoàn toàn không hiệu quả.”

Sự “đầu tư hoàn toàn không hiệu quả” này được GS TS Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế Trung ương phân tích trong một bài phỏng vấn với báo Đất Việt. Khi đề cập đến đầu tư công tràn lan, lãng phí, các dự án ODA đội giá cao, GS Lược khẳng định phần lớn các nước đi vay ODA đều là những nước kém phát triển và có nền quản trị kém, chính vì thế nó giải thích tại sao việc xây dựng đường cao tốc ở VN sử dụng vốn ODA luôn có giá cao hơn gấp 3 lần so với thế giới. Từ đó, G.S Võ Đại Lược đi đến kết luận cần phải xem xét một cách nghiêm túc bắt đầu từ chủ trương đầu tư của nhà nước có đúng không và xem xét lại nền quản trị và quá trình giám sát, thực thi chủ trương đó thế nào.

Quay lại với con số vay nợ, hiện tại, Việt Nam vay nợ nước ngoài dài hạn khoảng 50% và số còn lại 50% là ngắn hạn ở trong nước. Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc hội Bùi Đặng Dũng nêu lên con số “cứ hình dung mỗi ngày ngủ dậy Ngân sách NN thu vào khoảng gần 3.000 tỉ đồng, tuy nhiên, con số chi cũng tương tự như vậy”. Điều này khiến chúng tôi liên tưởng đến con số mà TS Vũ Đình Ánh của Viện tài chính giá cả có lần thừa nhận Việt Nam làm ra 100 đồng thì đã phải trả nợ hết 98 đồng rồi.

Nhắc về số nợ phải trả hàng tháng, TS Lê Đăng Doanh trong một lần trả lời phỏng vấn gần đây với chúng tôi, ông cho biết:

“Theo tôi vấn đề nợ công rất phức tạp, hiện nay cứ mỗi ba tháng ngân sách Nhà nước phải trả nợ nước ngoài khoảng 1 tỷ USD. Đấy là một khoản nợ không phải là nhỏ

và số nợ công trong những năm gần đây đã tăng lên một cách nhanh chóng. Đấy cũng là một yếu tố rất đáng chú ý và rất đáng lo ngại.”

Một yếu tố khác cũng đẩy con số nợ công lên cao, đó là các khoản chi thường xuyên của chính phủ cũng tăng rất nhanh. Theo nhận xét của TS Phạm Đình Cung thì gốc rễ của vấn đề này là vai trò của nhà nước. Ông cho rằng nếu vai trò của nhà nước thu nhỏ lại thì hoạt động sẽ ít đi, còn hiện tại, vai trò của nhà nước vẫn mở ra và càng mở rộng thì càng chi tiêu. Do đó, TS Cung kết luận: muốn thắt chặt ngân sách thì gốc của nó là vai trò của nhà nước và các bộ ngành, cần làm rõ vai trò của từng chủ thể để dễ dàng nhìn thấy các khoản chi cần thiết tới mức nào.Trước khi kết luận về tình trạng nợ nần hiện tại, chúng tôi xin trích ý kiến của TS Phạm Chí Dũng để thấy một bức tranh khá rõ về hiện tượng “đẩy nợ cho tương lai” mà ông nêu lên:

“Quả thực là hiện trạng nợ nần của Việt Nam hiện nay quá khó để giải quyết, không phải chỉ hiện nay mà từ những năm 2010, 2011 đã nêu ra vấn đề đó rồi. Những khoản nợ công quốc gia, lúc đó 2010–2011 chỉ khoảng 40 đến 45% thôi, còn hiện nay là khoảng 54%. Nhưng thực tế mà nói, theo những phân tích của các chuyên gia thượng thặng như ông Vũ Quang Việt từng đánh giá là nợ công của Việt Nam có thể lên tới 106%, thời điểm đó, không một ai tin. Nhưng đến thời điểm diễn đàn mùa xuân năm 2013, 2014 vừa rồi thì các chuyên gia phản biện mới phải thừa nhận và đặt lại vấn đề tỉ lệ nợ công của VN lên đến ít nhất là 95%. Nếu tình trạng nợ công tiếp tục tăng như thế này thì quá khó để VN trả nợ cho tương lai, nếu không muốn nói tất cả nợ sẽ đổ lên đầu con cháu chúng ta.”

“Tiền vào nhà khó, như gió vào nhà trống” là chuyện rõ ràng đang xảy ra ở Việt Nam, nhưng ở một quốc gia “nhà có chủ” đàng hoàng thì câu trả lời về tiền bạc, nợ nần

Số 200 Trang 29

Page 30: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

hẳn dành cho những người “chủ nhà” trả lời sẽ hợp lý hơn cả.

Tất nhiên, CSVN không những dốt mà lì lợm và bướng bỉnh. Bài này chỉ xin nêu ra việc mới nhất của những kẻ phản dân hại nước về điều đó.

Chửi công an là đồ ăn cướp có gì sai?

Đó là bản "kết luận điều tra vụ án" đối với 3 công dân vô tội: Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh.

Trong bản kết luận, điều gây chú ý cho tôi là những câu mà công an Đồng Tháp nói là bà Hằng và những người bạn chửi rằng:

- Công an là đồ ăn cướp!- Công an chặn đường cướp tài

sản!Ở đây, công an cho là bà Hằng

và những người bạn chửi chúng. Một câu hỏi đặt ra: công an có giựt tài sản của bà Hằng và bạn hữu của bà không?

Nếu câu trả lời là không, chứng tỏ công an Đồng Tháp quá dốt về chuyên môn, bởi lẽ ra, phải khởi tố bà Hằng và bạn bè tội vu khống, chứ không phải tội gây rối trật tự công cộng. Trong trường hợp này, phía công an Đồng Tháp buộc phải có căn cứ chứng minh rõ ràng và có nhân chứng cụ thể để làm chứng: công an không cướp và không giựt bất cứ tài sản nào của bà Hằng và

bạn của bà.Nếu câu trả lời là có, sao lại quy

chụp bà Hằng và bạn bè "chửi" công an? Chẳng lẽ khi một thằng ăn cướp giựt đồ của mình, nạn nhân (nhất là phụ nữ) không có quyền: 

- Gào thét lên? Tại đây, nảy sinh ra tình huống người dân tụ tập lại rất đông là logic, không có gì bàn

cãi. Hầu như những vụ cướp táo tợn đều gây chú ý người dân tại địa điểm xảy ra, người dân bu lại là do họ hiếu kỳ (như công an thừa nhận trong bản kết luận), cớ sao chụp mũ bà Hằng là "gây rối trật tự công cộng"? Như thế nào được coi là gây rối? Trong hoàn cảnh cụ thể của bà Hằng và bạn hữu, khi và chỉ khi người bị gọi là gây rối, họ chủ động kêu gọi nhiều người khác cùng tụ tập đến mức nghẽn đường, kẹt xe. Bà Hằng và bạn hữu không hề kêu gọi bất kỳ ai đến coi, sao lại vu cho họ "gây rối"?

- Kêu cứu? Tại đây, lý giải tâm trạng nạn nhân uất ức là hoàn toàn chính đáng. Khi bị cướp giữa ban ngày ban mặt và tên cướp còn đứng sờ sờ ra đó, giữa 700 người (theo kết luận của công an Đồng Tháp) cùng túa ra coi, thì bà Hằng và bạn bè có hét tướng lên thật to cũng quá dễ hiểu. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, phía công an nói rằng bà Hằng chửi "đồ ngu dân". Chỉ khi nào bà Hằng chửi "đồ dân ngu" mới khép tội bà được. Bởi theo tiếng Việt hiện đại, khi chửi "đồ ngu dân" nghĩa là bà Hằng điểm mặt (cho 700 người dân lúc đó thấy rõ) những kẻ làm cho dân bị rơi vào tình trạng ngu dốt. Do đó, công an Đồng Tháp, cố tình bóp méo và vu khống cho bà Hằng và bạn của bà.

Đả đảo cộng sản có gì sai?Theo "kết luận" của công an, hễ

ai chửi dân cũng đều mang tội. Hoàn toàn đúng. Đặc biệt, những kẻ nào đang làm việc trong guồng máy chế độ, đang nhận lương lậu, cần nhớ đó là tiền của dân, do đó,

những kẻ này càng mang tội với dân nhiều nhất khi nhục mạ dân dưới bất cứ hình thức nào.

Giới công an chẳng lẽ không biết người cộng sản và những ông "trí thức XHCN" thường chửi "dân trí thấp"? Bắt ai ư? Bắt ngay Lê Doãn Hợp - tên này đã từng chửi "dân trí thấp" [1]. Lê Doãn Hợp chửi dân một cách công khai. Nếu trường hợp Lê Doãn Hợp chưa đủ thuyết phục, thì hãy xem thêm:

- Dương Đình Sáu - Bí thư Đảng ủy xã Thành Công (huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên) chửi dân ngu và bố láo [2].

- Trần Trí Anh, Phó Chủ tịch UBND phường Ô Chợ Dừa - quận Đống Đa - Hà Nội: “Các bạn nghe phải nghe rất nhiều tai. Các bạn không thể chỉ nghe dân nói được. Vì dân nó là gian. Tôi nói thẳng luôn..." [3].

- Nguyễn Văn Bình - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẳng định [4]: Do dân trí VN chưa cao, nên người dân không biết ngân hàng nào tốt hay xấu. Ông Bình còn tuyên bố thêm: khi nào ‘dân trí cao hơn’ thì Nhà nước sẽ cho phá sản những ngân hàng yếu kém. 

- Người mẫu nổi tiếng kiêm diễn viên điện ảnh Xuân Lan phẫn nộ Nguyễn Thị Kim Tiến sau khi bà Bộ trưởng y tế này chửi dân về vụ dịch sởi, như sau [5]: "Có ai biết bà Nguyễn Thị Kim Tiến đang chui rúc ở cái xó xỉnh nào không vậy? Bà có bị câm không? Bà có bị đui không? Bà có bị điếc không? Bà có mù chữ không? Sao bà dối trá vậy? Gia đình nhà bà có ai bị sởi chưa? Có ai bị biến chứng không? Có ai được tiêm ngừa chưa? Có ai bất an với dịch sởi này không? Bà có trái tim không? Bà có thương trẻ con không? Bà có con không? Bà có cháu không? Hả? Lương tâm bà có bị chó tha không?".

Còn Phạm Quang Nghị nữa, tên này cũng từng chửi dân "ỷ lại" vụ nước lụt Hà thành năm nào. Nguyễn Sinh Hùng cũng từng chửi dân rằng: "dân quyết sai thì dân chịu". Rồi cả tên Nguyễn Thế Thảo - kẻ còn nợ Bùi Thị Minh Hằng vụ bắt người

Số 200 Trang 30

Page 31: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

phi pháp - cũng chửi dân oan [6] mất đất đi khiếu nại, kêu oan làm xấu Thủ đô (của y). Còn rất nhiều tên cộng sản chửi dân, chỉ e dẫn ra không đủ chỗ.

Thế mới hay: Chỉ có dân mới có quyền chửi. Đơn giản vì: dân nuôi bọn công bộc. Bất kỳ một tên nào nhận lương lậu, bổng lộc, nhà xe v.v... đều phải nhớ đó là tiền của dân. Thằng nào, con nào mà chửi dân, nhất định đó đích là bọn phản dân hại nước. 

Hiện nay, tại VN, cộng sản đang cướp quyền dân để đè đầu cỡi cổ và tự chúng đặt để chỗ ngồi với tư cách là cha mẹ dân, như các tên: Tôn Nữ Thị Ninh, Lê Hồng Anh và nhiều tên cộng sản khác. Do đó, bà Bùi Thị Minh Hằng và bạn bè có hô to: “Đả đảo cộng sản! Đả đảo chính quyền địa phương” thì có gì là sai? Điều nào của luật nào cho rằng khi "đả đảo cộng sản" là vi phạm luật? Chỉ ra coi thử, công an Đồng Tháp?

KếtHay cộng sản các người muốn

nói rằng: dù bọn công an Đồng Tháp có giựt đồ trên tay người ta, xông vào lục lọi cả thân thể người khác thì nạn nhân cũng làm thinh? Hay nhỏ nhẹ xin xỏ? Có phải đó là cái thứ "văn hóa" trong đấu tranh bất bạo động mà cộng sản các người cố tình lừa lọc bao năm qua để những ai thích "làm màu", thích chứng tỏ "văn hóa", thích ta đây "lịch lãm" luôn tìm cách né tránh, vì sợ mang tiếng "cực đoan", "vô học" để cuộc đấu tranh giải thể chế độ phản dân hại nước tiếp tục dai dẳng và âm ỉ tồn tại?

Thôi! Dẹp ba cái trò bá láp như công an Đồng Tháp đi! Ngày tận thế của cộng sản đang lừng lững đến rồi đó! 

Ờ quên! Trần Đại Quang coi biểu xấp nhỏ ở Tam Kỳ đem 3.000 đô Mỹ [7] trả lại cho cô Huỳnh Thục Vy đi! Ăn cướp cả 3 năm trời rồi làm thinh luôn! Kỳ thấy mẹ!

danlambaovn.blogspot.comChú thích:

[1] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/06/110628_ledoanhop_inv_us

_visit.shtml[2] http://www.baomoi.com/Bi-thu-xa-chui-dan-ngu-giai-thich-ve-bo-may-gia-dinh-tri/144/11933295.epi[3] http://vietbao.vn/Phong-su/Khong-the-chi-nghe-dan-noi-vi-dan-la-gian/20900952/263/[4] http://danlambaovn.blogspot.com/2012/08/thong-oc-nguyen-van-binh-dan-tri-vn.html[5] http://hoahau.net.vn/nguoi-noi-tieng/xuan-lan-chui-bo-truong-y-te-luong-tam-ba-co-bi-cho-tha-khong#.U9ZME0B57IU[6] http://danlambaovn.blogspot.com/2012/09/nguyen-thao-chui-nguoi-dan-khieu-kien.html[7] http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/blog-on-vn-auth-repeat-crackdw-12072011065934.html

Một số thành viên Mạng Lưới Blogger Việt Nam bị cản trở hay bị khủng bố nhân Hội

thảo “Truyền thông phi nhà nước” tại Hà Nội

Theo tin khẩn báo gửi đến Danlambao vào lúc 13:00 chiều 30-7-2014, cô Phạm Thanh Nghiên, thành viên 8406 và Mạng Lưới Blogger Việt Nam (MLBVN), đã bị nhiều an ninh, mật vụ kéo đến đòi bắt sau khi tham dự buổi hội thảo "Truyền thông phi Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay" tại đại sứ quán Úc ở Hà Nội.

Khoảng 5 viên an ninh bao vây cô Phạm Thanh Nghiên tại khu vực 347 Đội Cấn, phường Cống Vị, quận Ba Đình, Hà Nội. Những người này yêu cầu cô phải theo họ về trụ sở CA phường để "làm việc" mà không nêu rõ lý do.

Trước những hành vi ngang ngược của phía CA, cô Phạm Thanh Nghiên đã dứt khoát bất hợp tác. Tuy nhiên,

nhóm an ninh này vẫn tiếp tục lỳ lợm đeo bám ngày càng hung hãn.

Thông tin về vụ việc đã được các thành viên của MLBVN nhanh chóng thông báo cho đại sứ quán Úc và một nhân viên đã hộ tống cô đến nhà thờ Thái Hà của các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế. Thế nhưng công an vẫn bám theo cô. Tại đây, sau khi hóa trang, cô đã được một người bạn chở ra khỏi thành phố và từ đó cô đã bắt xe về lại quê nhà Hải Phòng.

Được biết, buổi hội thảo đã kết thúc lúc 11:00 sáng, cô Phạm Thanh Nghiên là khách mời với vai trò đại diện Mạng Lưới Blogger Việt Nam.

Trước đó, Blogger Mẹ Nấm, tức Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một thành viên khác của Mạng Lưới Blogger Việt Nam cũng bị CA Nha Trang bắt cóc khi chuẩn bị đến sân bay ra Hà Nội dự hội thảo. Họ đã giam giữ chị suốt 9 tiếng đồng hồ tại đồn rồi còn đòi chị phải đến “làm việc” ngày hôm sau.

Chị Trần Thị Nga và cô Huỳnh Phương Ngọc, cũng là hai thành viên khác của MLBVN, vốn đang trú tại nhà nghỉ Trúc Sơn, đường Láng, Hà Nội và chuẩn bị đi đến cuộc hội thảo thì lúc 8g sáng ngày 30-07 đã bị công an cùng côn đồ kéo đến định bắt cóc đem đi. May có anh em đến giải cứu.

Những hành vi ngăn chặn và quấy phá các khách mời của buổi hội thảo đã làm lộ rõ bộ mặt tráo trở của nhà cầm quyền CSVN sau những cam kết với cộng đồng quốc tế. Cuộc hội thảo

quốc tế này do nước Úc, cùng với Liên minh châu Âu, Nhóm sứ quán đại diện cho 4 quốc gia ở Việt Nam (Canada, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ) và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ chủ trì, thế mà công an côn đồ vẫn cứ khủng bố khách dự một cách thản nhiên.

Ngửa mặt lên trời. Như xác ngư dân trôi ngoài biển khơi. Trôi theo con sóng vỗ. Trôi theo phận nước tôi. (Viết về ngư dân Việt Nam - Tuấn Khanh)

Gần đây lãnh đạo đảng lại vừa cho thực hiện các phong trào cổ động và phát bằng khen cho ngư dân. Từ vụ bà Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến phát động chương trình “Ngành y tế cùng ngư dân bám biển” tại đảo Lý Sơn, đến vụ Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng tặng bằng khen cho các ngư dân tham gia đánh bắt bảo vệ chủ

Số 200 Trang 31

Page 32: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

quyền vùng biển Hoàng Sa. Điều nghịch lý là trong lúc lãnh đạo tiếp tục ra lệnh cho Hải quân nhân dân Việt Nam với súng ống, tàu sắt, tàu ngầm, tên lửa phải tuyệt đối bám chặt bờ, thì ngư dân tay không, nghèo kiết xác, thuyền gỗ mong manh lại được đẩy ra bám biển để bảo vệ chủ quyền đất nước?! Chắc chắn bà Bộ trưởng Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến chưa một ngày phải sống với nỗi lo sợ, nỗi đau của những người vợ, người mẹ của ngư dân. Bà cũng chưa từng phải nặn những hình nhân bằng đất để đắp cho chồng, cho con một ngôi "mộ gió" trên đảo Lý Sơn (vì đã chết mất xác), nên bà mới có thể mạnh miệng phát biểu: “Ngư dân còn, biển còn. Ngư dân khỏe sẽ tiếp tục bám biển, tiếp thêm lực lượng, thêm sức mạnh bảo vệ quyền và chủ quyền về biển, đảo của Việt Nam.”

Thử hỏi ngư dân tay không thì bám biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo bằng cách nào? Gặp tàu Trung Quốc họ đã phải chạy trối chết để thoát thân, chạy không thoát thì bị chúng dùng tàu vỏ thép va đập, thậm chí đâm chìm như tàu cá DNa90152 của vợ chồng bà Huỳnh Thị Như Hoa. Có khi chúng thản nhiên xả đạn bắn vào thuyền ngư dân bất cần có gây thương tích hay thiệt mạng ai không, như trường hợp tàu cá của thuyền trưởng Phạm Quang Thạnh. Có lúc chúng lại xấc xược, trắng trợn như trường hợp mới xảy ra vào sáng ngày 3-7-14. Ngư dân của tàu cá QNg94912TS đang đánh bắt ở vùng biển Việt Nam thì bị tàu Trung Quốc ép sát rồi bắt giữ. Xin ghi lại nguyên văn lời tường thuật của thuyền trưởng Võ Tấn Tèo: “Đang đánh bắt ở biển của mình, Trung Quốc bắt, dìu đi qua biển Trung Quốc, rồi họ dừng lại, bắt ngư dân trên tàu chỉ vô máy định vị lúc đó hiện tọa độ của họ, rồi họ quay phim, chụp hình vu khống mình đánh bắt trái phép biển của họ.” Bị bắt và bị dẫn độ về đảo Hải Nam, tại đây các ngư dân Quảng Ngãi bị buộc phải ký vào những biên bản sai trái trên rồi mới được thả về. Toàn bộ ngư lưới cụ và

gần 3 tấn hải sản đánh bắt được đều bị phía Trung Quốc thu giữ với lý do các ngư dân này đã đánh bắt trên vùng biển của chúng. Có những vụ ngư dân bị "quân nước lạ" giết chết nhiều đến độ cả làng để tang như làng đánh cá Hoà Lộc năm 2005.

Suốt 10 năm trường đối diện với những hành động tàn ác bức hiếp ngư dân ta của Trung Quốc, chẳng thấy nhà nước có bất cứ một động thái, một biện pháp nào nhằm bảo vệ ngư dân ngoài việc phát bằng khen và thúc họ ra bám biển tiếp. Những tấm bằng khen của lãnh đạo đã trở thành hiện thân của sự vô cảm, quá lạnh lùng đối với máu và nỗi thống khổ của ngư dân. Nếu nhà văn Victor Hugo, tác giả cuốn “Những kẻ khốn cùng” (Les Misérables), tái sinh ở Việt Nam, không chừng lại có một tác phẩm vĩ đại về ngư dân Việt. Và những kẻ khốn cùng này thực sự sẽ lấy hết nước mắt của thế giới!

Khốn cùng vì gần như họ không có chọn lựa nào khác. Cuộc sống khó khăn đến nỗi nếu không ra biển thì kiếm sống bằng cách nào? Ra biển gặp tàu Trung Cộng thì một mình, bơ vơ, đối phó làm sao được với tàu sắt và súng ống. Đành để chúng tha hồ làm nhục; tha hồ đánh, cướp, phá, đâm chìm, hay bắt giữ đòi tiền chuộc... Nhưng lết được về đến bờ, thoát chết thì lại trắng tay, tài sản mưu sinh mất sạch. Về đến nhà để phải nhìn cảnh gia đình đối diện với đói rách, với nợ nần chồng chất theo các thiết bị đã mất. Có ai không khỏi mủi lòng khi chứng kiến hình ảnh đen đủi thất thần của 13 ngư dân thuộc hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi vừa được Trung Quốc thả cho về. Tiếng khóc nức nở của những người mẹ, người vợ các ngư dân này đã dậy lên ở cửa sông Loan, huyện Quảng Trạch trong buổi chiều đón họ về bến ngày 16-07 vừa qua.

Khốn khổ cho những người vợ trẻ, những đứa con thơ và cha mẹ già phập phồng trông ngóng tin con từng ngày. Bây giờ một lần đưa chồng, đưa con ra đi, họ biết đây có thể là lần cuối. Khi tàu các anh Võ

Tấn Tèo, Lê Văn Thun bị Trung Quốc bắt, mẹ anh Thun suốt ngày ra cửa biển Sa Huỳnh ngóng tin con. Trong ngôi nhà nhỏ của anh, người mẹ chồng cùng cô con dâu trẻ đang mang thai ngày nào cũng tràn nước mắt. Chị Thuỳ và anh Thun vừa mới cưới nhau đầu năm, nghe tin vợ có thai anh bảo đi biển chuyến này cố gắng kiếm tiền về cho vợ sanh nở. Gia đình bà Trần Thị Mầy, mẹ anh Tèo, cũng không khá hơn, bà thương đứa con dâu suốt ngày núp trong phòng thui thủi khóc một mình. Bà lo lắng cho đứa con trai sợ nó bị Trung Quốc đánh đập, hành hạ. Lo lắng hơn nữa cho con dâu, vợ anh Võ Tấn Tèo, đang bụng mang dạ chửa, sắp đến ngày sinh nở không có chồng bên cạnh!

Khốn quẫn hơn nữa cho một đất nước mà chuyện ngư dân bị "tàu lạ" bắn giết trong hải phận nước mình như vậy lại được người đứng đầu Bộ Quốc phòng xem là chuyện nhỏ, chuyện lục đục trong gia đình. Và vì là chuyện nhỏ nên tàu hải quân VN sẽ chỉ bám bờ, không can thiệp.

Nhưng khốn nạn nhất là những ngư dân tay không ấy lại được khen ngợi là những "cột mốc sống". Từ những phát biểu của ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang như: “Ngư dân hãy yên tâm bám biển giữ chủ quyền” đến các phát biểu của Trung tướng Tô Lâm: “Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh hải”, và sau đó báo đài đồng loạt lặp lại. Nhưng đến khi tàu hải quân Trung Cộng đuổi bắn những “cột mốc sống” này thì sự im lặng gần như tuyệt đối; không còn một quan chức nào đếm xỉa đến họ nữa. Có thể nói, trong những giờ phút đó, Hà Nội đã lạnh lùng xem bà con ngư dân như những "cột bia xi măng" vô tri vô giác. Khi tàu ngư chính Trung Cộng đâm, đánh, bắt họ thì Hà Nội lặng lẽ coi ngư dân như những "cột gỗ mục" vô giá trị.

Và khốn khiếp không kém là khi có ngư dân nào thoát chết, tả tơi vào bờ thì lại có những buổi lễ trao tặng bằng khen kế tiếp cho những "cột mốc sống dở chết dở" ấy để lại đẩy họ và đẩy thêm các "cột mốc

Số 200 Trang 32

Page 33: €¦ · Web viewDanh sách các đảng viên ký thư. 1- Nguyễn Trọng Vĩnh, vào đảng năm 1939. 2- Đào Xuân Sâm 1946. 3- Trần Đức Nguyên 1946. 4- Nguyễn Văn

Tự Do Ngôn Luận * Bán Nguyệt San

còn sống" khác ra khơi trở lại.Những mảnh bằng khen này làm

nhiều người nhớ lại loại bằng khen dành cho các bà mẹ liệt sỹ, các "bà mẹ anh hùng" đã hy sinh tất cả đàn con của mình cho cuộc chiến "chống Mỹ cứu nước". Sau cùng, công trạng "giải phóng miền Nam" là của đảng. Còn cái bằng khen và chỉ cái bằng khen là của mẹ. Và mẹ ôm nó trước ngực, với hai hàng nước mắt ngồi bệt trên mảnh đất duy nhất còn lại đang bị cưỡng chế.

Tôi tự hỏi sau Lý Sơn, Đà Nẵng... sẽ còn bao nhiêu mảnh bằng khen khốn nạn ấy nữa treo rải khắp các tỉnh duyên hải Việt Nam?

Nguyệt Quỳnh

NGƯ DÂN VIỆT VỚ NỢ SAU CÁC VỤ TẤN

CÔNG CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG

Trà Mi-VOA, 28.07.2014Ngư dân trên đảo Lý Sơn, tỉnh

Quảng Ngãi, tả tơi và vỡ nợ sau các cuộc tấn công của tàu Trung Quốc ở Hoàng Sa trong thời gian giàn khoan 981 hiện diện tại khu vực.

Phóng viên đài VOA Poch Reasey vừa thực hiện chuyến thăm Lý Sơn 1 ngày tường thuật rằng dù tình hình trên biển đã lắng dịu sau khi Bắc Kinh rút giàn khoan về nước, nhưng ngư dân Việt vẫn chưa hàn gắn được những nỗi đau đớn, mất mát, thiệt hại vì vì tài sản mất trắng, tàu bè hư hại, nợ nần chồng chất và họ đang khẩn thiết mong chờ sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính quyền địa phương.

Poch Reasey: Tới đảo Lý Sơn, tôi gặp rất nhiều ngư dân trên đó. Hai ngư dân mà tôi có dịp nói chuyện, cả hai đều có tàu bị hư phải sửa chữa lại. Họ lúc này không có tiền, phải đi vay mượn của bà con. Họ nói chưa nhận gì từ chính phủ, chính phủ không có giúp gì. Họ yêu cầu chính phủ giúp vì họ không có tiền lúc này. Trung Quốc bắn nước làm tàu họ hư ngày 6-7-14 trong lúc giàn khoan còn đó. Còn chủ chiếc tàu khác nói năm ngoái tàu ông bị Trung Quốc tấn công 2 lần, tháng 7

năm nay bị lần nữa.  Trà Mi: Khả năng sửa chữa,

phục hồi của họ hiện nay ra sao?Poch Reasey: Bây giờ tàu họ

còn đang sửa vì bị hư nhiều nên cần thời gian rất nhiều. Một chuyện nữa, trong thời gian ở đảo Lý Sơn này, Reasey nghe dân ở đây nói trước đây chưa bao giờ có nhiều khách như vậy từ khắp nơi đến thăm để xem cuộc sống họ ra sao. Họ xem TV thấy hoàn cảnh vậy nên muốn ra đây xem và giúp đỡ.

Trà Mi: Các ngư dân bị Trung Quốc tấn công, họ có cho biết kế hoạch sắp tới ra sao, họ đã cầu cứu những đâu?

Poch Reasey: Họ có nói là đã xin chính quyền giúp đỡ, nhưng chưa nhận được tiền bạc hay sự giúp đỡ gì từ chính phủ. Cho nên, họ tiếp tục yêu cầu chính phủ Việt Nam giúp đỡ họ.

Trà Mi: Về sự bảo vệ, họ có yêu cầu hay nguyện vọng thế nào?

Poch Reasey: Họ cũng có yêu cầu, nhưng không nhận được cái gì từ chính phủ.

Trà Mi: Những nhu cầu thiết yếu chưa được đáp ứng có làm cho họ chùn bước?

Poch Reasey: Họ nói họ vẫn tiếp tục đi vì biển đó là biển của Việt Nam từ lịch sử xa xưa rồi. Họ không sợ, họ vẫn tiếp tục đi như bình thường.

Trà Mi: Ngư dân là lực lượng chính giúp Việt Nam khẳng định chủ quyền trên Biển Đông. Suy nghĩ của chính các ngư dân thế nào?

Poch Reasey: Theo tôi biết họ cũng muốn yêu cầu nhà nước lắm nhưng họ không biết làm sao, nhà nước làm thế nào, họ cũng không có ý kiến về chuyện họ nghĩ sao.

Trà Mi: Kể từ khi giàn khoan Trung Quốc rút đi, công việc đánh bắt của ngư dân ở đó ra sao?

Poch Reasey: Họ vẫn tiếp tục đi, tiếp tục làm ăn như bình thường. Hầu như không có chuyện gì nữa, chỉ sợ thời tiết thôi.

Trà Mi: Anh có suy nghĩ thế nào về những gì mắt thấy tai nghe trong chuyến ra thăm đảo Lý Sơn lần này?

Poch Reasey: Tôi thấy cuộc sống của dân trên đảo không dễ, rất khó khăn. Họ đi biển mỗi chuyến hàng tháng, bỏ vợ con ở nhà, không biết thời tiết ra sao hay sẽ có chuyện gì, rất khó khăn.

Trà Mi: Gia cảnh của họ thế nào? Cuộc sống của các ngư dân trên đảo Lý Sơn có được sung túc?

Poch Reasey: Cũng được, vì trên đảo đồ ăn các thứ đều rẻ hơn ở các thành phố. Họ kiếm tiền ít, họ cũng xài ít. Họ trồng rau cải, bắt cá, đồ ăn cũng rẻ hơn. Lúc này, không đi đánh cá được họ không có tiền, họ phải đi mượn tiền từ bà con vì họ đi bắt cá cả đời rồi, không có nghề gì khác. Cho nên rất là khó khăn.

Trà Mi: Rời Lý Sơn về lại đất liền, ấn tượng nào đọng lại trong tâm trí anh?

Poch Reasey: Tôi rất ấn tượng về sự can đảm của ngư dân Việt Nam, họ bất chấp hiểm nguy và khó khăn.

Nhiều thế kỷ nay, Lý Sơn, hòn đảo cách bờ biển Việt Nam 28 cây số, là nơi sinh sống của hàng ngàn ngư dân Việt gìn giữ nghề truyền thống ở Biển Đông.

Bloomberg dẫn lời giới chức địa phương cho hay trong thời gian giàn khoan Hải Dương 981 hiện diện ở Hoàng Sa từ đầu tháng năm tới giữa tháng bảy, 14 trong tổng số 426 tàu thuyền của đảo Lý Sơn bị thiệt hại nặng nề vì các vụ va đụng, gây hấn từ Trung Quốc. Thiệt hại ước tính lên tới nhiều trăm ngàn đôla.

Số 200 Trang 33