Kể về trưởng
VÕ THANH MINH
Hồng Sơn Dã Mã
Nhân dịp 100 năm của
Trưởng VÕ THANH MINH
(1906 - 2006)
Tư liệu riêng
Sóc Trầm Tĩnh
2
Nội dung
* Nội dung ................................................................ 2
* Đôi điều xin thưa .................................................. 3
1. Người Huynh trưởng Hướng đạo ............................. 8
2. Tổ chức và huấn luyện ........................................... 13
3. Hình thành trại trường Bạch Mã ............................ 16
4. Liên hội Hướng đạo Đông Dương (FIAS) .............. 20
5. Thời cuộc biến động .............................................. 26
6. Xuất dương ............................................................. 33
7. Bị trục xuất khỏi Thụy Sĩ ....................................... 41
8. Những địa chỉ danh giá .......................................... 46
9. Cuộc sống tự lập .................................................... 50
10. Huyền thoại Hồng Sơn Dã Mã ............................... 55
11. Về nước .................................................................. 62
12. Những năm tháng cuối đời ở Huế .......................... 71
13. Chiêu hồn nhập mộ ................................................ 86
* Phần phụ lục ........................................................ 90
3
Đôi điều xin thưa...
Kính thưa Quý Trưởng
Và anh chị em HĐS.
Tôi chưa được hân hạnh "diện kiến" Trưởng Võ
Thanh Minh, mặc dù tôi đã sinh hoạt Hướng Đạo ngay tại
đất thần kinh (Huế) vào những năm 1965-1970, những
năm mà Trưởng Võ Thanh Minh đang sống những ngày
cuối đời ở Huế.
Nhưng cơ duyên lại đến hơi muộn : sau năm 1975,
khi về sinh hoạt với anh em Hướng Đạo tại Đà Nẵng, thì
tôi lại được quen biết với Trưởng Võ Thanh Khiết, người
em trai của Trưởng Minh, nhờ đó mà tôi biết về Trưởng
Minh nhiều hơn qua những câu chuyện kể của Trưởng
Khiết.
Kể từ đó, tôi rất ngưỡng mộ tính khí và nhân cách
sống của Trưởng Võ Thanh Minh, hễ gặp bài viết nào, tư
liệu gì về Trưởng (Võ Thanh Minh) là tôi xin photocopie
để lưu giữ. Tôi cũng hỏi xin tư liệu về Trưởng qua các
Trưởng quen biết, trong đó có Trưởng quá cố LT. Phạm
Quang Lộc - Chồn Từ Tốn - là người đã gởi cho tôi nhiều
bài báo quý hiếm.
(Ở đây xin phép được dừng một phút để nhớ đến
Trưởng Andrê Phạm Quang Lộc - người đã đóng góp rất
nhiều cho câu chuyện kể này).
Trong những lúc rảnh rỗi, tôi thường hay đem những
trang tư liệu về Trưởng ra đọc.
Và càng đọc, tôi càng thấy Trưởng Võ Thanh Minh
của chúng ta quả thật là một Huynh trưởng tuyệt vời, sống
4
can trường và dũng khí, rất mực yêu quê hương đất nước,
yêu đồng bào ruột thịt, yêu phong trào Hướng Đạo.
Là một Huynh trưởng có công đầu trong việc "khai
sinh" ra phong trào HĐVN của chúng ta. Cách riêng là tại
khu vực miền Trung, Trưởng là Tổng Bí thư đầu tiên của
Hội Hướng đạo Đông Dương.
Ngoài ra, Trưởng Võ Thanh Minh còn là một siêu
nhân, một nhà "cách mạng" chân chính rất thiết tha đến
nền Hòa bình cho dân tộc, cho đất nước.
Vào khoảng cuối năm 2006, nhân dịp 100 năm ngày
sinh của Trưởng, tôi lại nảy ra ý định "kể về Trưởng" cho
các em HĐS Việt Nam chúng ta, hiện tại cũng như tương
lai, được biết về Trưởng và cũng để các em tự hào về một
người "Trưởng Hướng Đạo huyền thoại", "Một nhân vật
Hướng Đạo cao cả", "Một thánh nhân", "Một nhà trí thức
yêu nước chân chính".
Và cũng xem như một "nén hương lòng" đốt lên giữa
mùa thu, để nhớ đến Trưởng, để sưởi ấm chút tình Hướng
Đạo, để Trưởng thấy bớt cô độc, lạnh lẽo nơi núi rừng
thâm u xa xăm nào đó...
Chúng tôi cũng xin quý tác giả, có những bài viết
được trích dẫn nơi đây, cho phép chúng tôi được thực
hiện công việc gom góp này nhằm "kể lại" cho anh chị em
Hướng Đạo của chúng ta, và làm ấm lòng Trưởng tiền bối
Võ Thanh Minh.
Các tác giả mà chúng tôi gom góp là :
5
- Đạo Gia Lai (Vài nét phác họa của Hồng Sơn Dã
Mã Võ Thanh Minh).
- Nguyễn Hoàng Lãng Du.
- Hoàng Liên (Nguyễn Văn Đãi)
- Mai Liệu
- Thi Vũ.
- Sói mỏng tai (Nguyễn Thị Xuân Lan)
- Ngựa chịu khó Nguyễn Trung Thoại
- Sáo dễ thương Phạm Văn Nhơn
- Liên Trình.
- Lê Chân Mây
- Báo nghiêm chỉnh Nguyễn Thúc Toản
- Nguyễn Đăng Ngọc
- Beo tận tâm Tôn Thất Hàn
- Báo khiêm tốn Lê Ngọc Bưu
- v.v...
Xin cám ơn Quý Trưởng, quý tác giả và các HĐS
Việt Nam thân yêu.
Mạnh Thu Bính Tuất (2006)
Sóc Trầm Tĩnh
Phạm Cảnh Đáng R.S
8
MỘT.
NGƯỜI HUYNH TRƯỞNG HƯỚNG ĐẠO
VÕ THANH MINH (chứ không phải Võ Thành
Minh) còn có tên là VÕ SONG THIẾT (ghi trong tác
phẩm thơ "Tiếng Thương Tâm") sinh năm 1906 - năm
Bính Ngọ - tại làng Tân Mỹ (gần cạnh chợ Si), xã Hòa
Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Thuở nhỏ, Võ Thanh Minh theo học chữ Hán với thân
phụ mình. Những năm sau đó, chữ Hán bắt đầu mất giá,
Nhà nước đã chính thức bãi bỏ các khoa thi bằng chữ Hán
(Bắc kỳ năm 1915, Trung kỳ năm 1919) nên Võ Thanh
Minh quay sang "Tây học" và đã đỗ bằng Thành Chung.
Bên cạnh việc học chữ, Võ Thanh Minh còn học các
môn nghệ thuật như đàn, sáo và võ đạo, kiếm thuật. Bài
võ rất nổi tiếng của Võ Thanh Minh được nhiều người
biết đến, là bài "Dã Mã đơn kiếm".
Sau khi đỗ bằng Thành Chung, Võ Thanh Minh được
nhà cầm quyền lúc bấy giờ bổ nhiệm làm "giáo học" tại
trường Chính Hóa ở Vinh.
Năm Võ Thanh Minh được 24 tuổi (1930), một biến
cố hết sức đặc biệt, đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống
của ông, đó chính là Phong trào Hướng Đạo.
Tháng 10 năm 1930, tại Hà Nội, đoàn Hướng Đạo
Lam Sơn của Trưởng Trần Văn Khắc và đoàn Vạn Kiếp
của Trưởng Hoàng Đạo Thúy, đã chính thức ra đời. Buổi
lễ "Thượng kỳ" đầu tiên của phong trào HĐVN đã được
9
hai đơn vị tổ chức trang trọng tại trụ sở Trường Thể Dục
Hà Nội.
Lá cờ Hướng Đạo đầu tiên này là màu xanh có hoa
Bách hợp trắng (theo hoa Huệ của Pháp). Còn quốc kỳ
Việt Nam lúc đó là một màu vàng, chung quanh có tua
kim tuyến và trên góc quốc kỳ phải đính cái nơ (noeud)
tam tài (3 màu : đỏ, trắng, xanh) tượng trưng cho quốc kỳ
Pháp, vì lúc đó Việt Nam đặt dưới quyền thống trị của
thực dân Pháp. Như vậy bộ đồng phục Hướng Đạo chính
thức trình làng tại Hà Nội vào cuối năm 1930.
Cũng trong năm đó, tại Vinh, thầy giáo Võ Thanh
Minh cũng đọc được một cuốn sách nói về Hướng Đạo.
Thích quá, thầy Minh may cho mình một bộ đồng phục
Hướng Đạo và mặc đi đây đi đó. Đó là bộ đồng phục
Hướng Đạo đầu tiên được xuất hiện ở miền Trung, thành
phố Vinh, năm 1930.
Năm 1931, tình hình "nhân tình thế thái" ở Vinh rối
ren, nên thầy Võ Thanh Minh với bộ đồng phục Hướng
Đạo, lội bộ từ Vinh vào Huế, rồi dùng xe đạp (course) đi
một vòng các nước Đông Dương (Việt - Miên - Lào),
cùng với bộ đồng phục Hướng Đạo ấy.
Đến năm 1932, khi biết Trưởng Trần Văn Khắc đã
vào Sài Gòn, thầy Minh liền vào Sài Gòn để liên lạc với
Trưởng sáng lập HĐVN tại Hà Nội (Trưởng Trần Văn
Khắc), để tìm hiểu, học hỏi thêm về tổ chức Hướng Đạo.
Khi trở về Huế, thầy Võ Thanh Minh đã thành lập
đơn vị Hướng Đạo đầu tiên tại đất thần kinh - đó là
"Thiếu đoàn Bình Dân". Các em thiếu sinh hầu hết là học
10
sinh trường Tiểu học tư thục nhỏ do chính thầy làm Hiệu
trưởng, đó là trường Tiểu học Lạc Hồng, mà người ta
quen gọi là trường Bình Dân, vì đa phần học sinh là con
em gia đình bình dân, nghèo khó trong khu phố.
Từ đó, Hướng Đạo tại Huế bắt đầu phát triển mạnh và
thầy Võ Thanh Minh đã trở thành Huynh trưởng Hướng
Đạo đầu tiên ở miền Trung (Huế), Trưởng Võ Thanh
Minh.
Nhiều đơn vị Hướng Đạo tại Huế lần lượt được thành
lập. Hai Thiếu đoàn Gia Long và Triệu Tổ do ông Trần
Bá Vỵ, viên ngoại triều Nguyễn, và Cao Minh Phú (ở Hải
Phòng vào) lập nên, có các Trưởng Hòe, Dĩ, Tráng Cử và
Nguyễn Hy Đơn phụ tá. Sau đó, Trưởng tu sĩ Nguyễn
Nhiều cũng lập ra một Thiếu đoàn. Các Trưởng Nguyễn
Trình và Lê Văn Ngoạn cũng lập ra một Ấu đoàn lấy tên
là Ấu đoàn Lê Lai.
Đến năm 1934, tình hình Hướng Đạo ở Huế phát triển
mạnh và nhanh, nên các Trưởng đã họp bàn để hình thành
Đạo đầu tiên ở Huế và Trưởng Võ Thanh Minh được tín
nhiệm bầu vào trách vụ "Đạo trưởng" tiên khởi.
Qua năm 1935, sinh hoạt Hướng Đạo ở Việt Nam nói
chung, tại Huế nói riêng, đã thực sự sôi nổi và có những
bước tiến mạnh mẽ. Trước hết phong trào HĐVN được
gia nhập phong trào HĐTG qua Tổng Hội Hướng Đạo
Pháp (Éclaireurs de France).
Tại Huế, Trưởng Võ Thanh Minh đã thành lập Tráng
đoàn đầu tiên - Tráng đoàn Bạch Mã, và Trưởng Võ
Thanh Minh cũng được "mang cái vinh dự quá sức
11
mình"..., "mở đường cho ngành Tráng", đó là vinh dự
được "Lên Đường", được làm "Tráng sinh lên đường"
(RS) đầu tiên.
Ngay dưới chân núi Ngự Bình, do Trưởng Nga Nam
Tào (Cygne de la Croix du Sud) DCC Raymond
Schlemmer chủ lễ, Trưởng Võ Thanh Minh được chính
thức lên đường.
Khi siết tay trái để tiễn Trưởng Võ Thanh Minh "lên
đường", chủ lễ Raymond Schlemmer đã nói với Trưởng
Võ Thanh Minh :
"Sois un grand exemple" (Hãy nên gương sáng)
Cũng trong năm đó có Trưởng Tổng Ủy viên Hướng
Đạo Pháp - André Lefèbre (tên rừng là Vieux Castor =
Lão Hải Ly) qua thăm HĐVN đầu tiên tại Sài Gòn, rồi ra
Hà Nội và đến Huế. Tiếp sau đó có Trưởng Sơn Dương
(Izard) Niédrist qua nhận công tác tại nhà máy đèn
(Sipea) Huế.
Ở đây cũng xin được nói sơ qua về ngôi trường tiểu
học Bình Dân, do thầy Minh làm Hiệu trưởng.
Không biết ngôi trường này do ai sáng lập và có từ
năm nào, nhưng biết chắc một điều là sau khi đi một vòng
các nước Đông Dương và Sài Gòn, thầy Minh không về
lại trường Chính Hóa ở Vinh, mà ở lại Huế và làm Hiệu
trưởng trường Hồng Lạc này. Trường Hồng Lạc tọa lạc tại
khu phố Gia Hội, giữa đoạn đường từ phủ thờ Thọ Xuân
Vương đến bến đò Cồn. Đây là một ngôi trường nhỏ, cũ
kỹ, rêu phong, chỉ có vài ba lớp học, và được ngăn cách
nhau bằng những vật liệu tạm bợ, vừa dùng làm phòng
12
học, vừa dùng làm nơi trú ngụ. Cổng trường là hai trụ
gạch cao to, trông xa giống như cổng một ngôi chùa hay
đền gì đó. Người ta thấy trước cổng có một tấm bảng
bằng gỗ sơn màu xanh lục (màu của Thiếu) với dòng chữ
: "Trường HỒNG LẠC". Nhưng ở đây dân chúng quen
gọi là trường "Bình Dân" vì học sinh đa phần là con em
nhà nghèo, bình dân, lao động ở trong khu phố Gia Hội.
Trường chỉ có khoảng bảy, tám chục học sinh, và một số
em vào sinh hoạt Thiếu đoàn Bình Dân, do thầy Minh,
thầy Phát làm huynh trưởng.
Ngoài việc dạy chữ nghĩa cho các em, thầy Minh còn
dạy cho các em hát những bài hát ngắn, dễ hát, dễ nhớ,
hoặc dẫn các em ra bến sông gần đó để dạy cho các em
bơi lội. Thầy Minh và các em còn làm công tác từ thiện
như phát thuốc ho, thuốc cảm hoặc viết giúp đơn, thư,
giấy tờ hay chỉ dẫn thủ tục hành chánh, v.v... cho những ai
cần giúp đỡ...
13
HAI.
TỔ CHỨC VÀ HUẤN LUYỆN
Khi Trưởng Kỹ sư điện Niédrist qua nhận công tác tại
nhà máy đèn (nhà máy phát điện) Huế, thì sinh hoạt
Hướng Đạo tại Huế lại có thêm một bước phát triển mới,
đó là công tác Huấn luyện Trưởng đơn vị.
Để giúp các đơn vị phát triển đúng hướng, đúng
nguyên lý, phương pháp và mục đích của Hướng Đạo, thì
cần phải có những khóa Huấn luyện Trưởng đơn vị. Do
đó mà cuối năm 1935, Trưởng Hồng Sơn Dã Mã Võ
Thanh Minh cùng với Sơn Dương Niédrist đã quyết định
mở khóa Huấn luyện Dự bị Thiếu đầu tiên ở Huế cho 20
khóa sinh, tại trường Nữ công Học Hiệu Huế.
Khóa Dự bị này có một khóa sinh hết sức đặc biệt, mà
sau này đã trở thành Trại trưởng Huấn luyện Quốc gia đầu
tiên của Việt Nam (DCC = Deputy Camp Chief), rồi sau
làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Khoa trưởng Trường Đại
học Bách Khoa Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Đại học và
THCN..., đó chính là Trưởng Chồn Fennec Tạ Quang
Bửu.
Trưởng Võ Thanh Minh kể rằng :
"Trong cái lớp Huấn luyện Trưởng Dự bị tại Nữ Công
Học Hiệu nói trên, vì huấn luyện cấp tốc và không tổ chức
chu đáo, nên cả Sơn Dương lẫn Dã Mã là hai huấn luyện
viên không kịp biết tên biết mặt hết các trại sinh. Mỗi lần
đến phiên Dã Mã phụ trách (chỉ khoảng 1 giờ) thì Dã Mã
chỉ đủ thời giờ giảng một nhóm chuyên môn và nhìn qua
14
mặt mũi tất cả anh em ngồi trước mặt. Trong số ấy có một
người rất ít nói, ít hỏi, có vẻ kém thông minh và tuấn tú
thua mọi người kia. Hôm khảo thí để hoàn tất lớp Huấn
luyện, hai phụ trách viên chia nhau mỗi người khảo sát
một nửa số học viên, và anh chàng đen đen lừ khừ ấy lại
được chia về nhóm Dã Mã. Chỉ đủ thì giờ hỏi mỗi người
một câu hỏi, và tôi còn nhớ rõ đã hỏi anh chàng ấy về
cách xem phương hướng với chiếc đồng đeo tay của anh
ta. Thí sinh đứng thẳng tắp, chào nghiêm chỉnh rồi với
một giọng ngoại ngữ (tiếng Pháp hồi đó) tôi chưa bao giờ
được nghe ở miệng một đồng bào, trả lời rất thông suốt,
rất hào hứng vượt hẳn các thí sinh khác. Sau đấy mấy lời
trao đổi ngay lúc đó giữa giám khảo và thí sinh :
- Tên anh là gì ?
- Tạ Quang Bửu.
- Tạ Quang Bửu du học ở Anh vừa về !
(Lời thêm : Tạ Quang Bửu du học ở Pháp - Sorbonne rồi
sau đó tiếp tục sang học ở Oxford (Anh Quốc).
- Vâng - chính là nó.
- Nếu anh cho biết trước thì tôi đã không mất thì giờ
hỏi anh những chuyện thô sơ...
- Nhưng thưa Trưởng, hiện nay tôi chỉ là một học viên
dự bị.
Một nắm tay trái rất chặt, rồi tôi không ngừng chú ý
đến con người ấy từ đó về sau"...
15
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy các huynh trưởng
của chúng ta (Võ Thanh Minh và Tạ Quang Bửu) rất "trí
thức" và cũng rất "quân tử".
Qua năm 1936 - Trưởng Võ Thanh Minh và Trưởng
Niédrist lại tổ chức một khóa huấn luyện khác tại Đà Lạt,
do Trưởng Niédrist làm Khóa trưởng. Đây là khóa huấn
luyện đầu tiên được tổ chức ở Đà Lạt sương mờ.
Đến năm 1937 thì trại trường Bạch Mã chính thức đi
vào hoạt động.
16
BA.
HÌNH THÀNH TRẠI TRƯỜNG BẠCH MÃ
(Camp école de Bạch Mã)
ăn cứ vào tư liệu của Tế Xuyên, Trưởng Beo
Tận Tâm Tôn Thất Hàn ghi nhận rằng :
Trưởng Võ Thanh Minh là người có công lớn
trong việc khám phá ra khu đất trại trường Bạch Mã.
Còn Trưởng Báo Nghiêm Chỉnh Nguyễn Thúc Toản
thì người có công đầu trong việc tạo dựng trại trường
Bạch Mã chính là Nga Nam Tào (Cygne de la Croix du
sud) Ray mond Schlemmer. Trưởng Toản đã viết :
"Với chủ định trước, Nga Nam Tào đến Huế vào mùa
hè 1936 và xin yết kiến vua Bảo Đại. Đức vua đã từng du
học nhiều năm ở Pháp, đã hiểu biết về sinh hoạt hướng
đạo, nên khi nghe Nga Nam Tào tự giới thiệu là Trưởng
hướng đạo Pháp và cũng là thành viên của hướng đạo
thủy đoàn, nhà vua lưu ý ngay. Nga Nam Tào lái câu
chuyện vào đề tài thú chơi thuyền buồm. Thật là đúng lúc.
Hôm ấy khí trời nóng bức, giờ ấy là giờ có gió nhiều trên
sông Hương, nên nhà vua rủ Trưởng Schlemmer đến đình
thủy tạ Phú Văn Lâu được xây cất trên mé sông Hương,
thì chiếc ngự thuyền đã được neo sẵn nơi bến. Nga Nam
Tào trổ hết tài hướng đạo thủy đoàn lái thuyền lên phía
cầu Bạch Hổ rồi quay về cầu Tràng Tiền trong nhiều
vòng, nhưng dù xuôi gió hay ngược gió du thuyền vẫn bon
bon rẽ sóng một cách êm ái nhẹ nhàng. Trong khi điều
khiển thuyền, Nga Nam Tào lưu ý nhà vua đến gút căn
bản mà hướng đạo thủy đoàn thường dùng trong kỹ thuật
lái thuyền. Nhà vua rất đẹp ý. Câu chuyện trao đổi trên
thuyền chính là dịp tốt để Nga Nam Tào trình bày về tình
C
17
hình hướng đạo trong nước. Phong trào đang thời kỳ phát
triển, nên ngoài trại trường Đà Lạt thuận tiện cho Hướng
đạo miền Nam còn cần một trại trường cho hướng đạo 2
miền Trung và Bắc.
Gặp lúc nhà vua đang có chương trình lập một trung
tâm nghỉ mát tại núi Bạch Mã, Nga Nam Tào xin nhà vua
cấp cho Hội Hướng Đạo một khu đất tại núi Bạch Mã để
xây cất trại huấn luyện. Lời tâu xin được chuẩn y một
cách dễ dàng".
Còn chính Trưởng Võ Thanh Minh thì ghi rằng :
"Năm 1937 trại trường Bạch Mã được khai phá và thiết
lập nhờ công lớn của các anh Sơn Dương và Schlemmer".
Chính Trưởng Schlemmer đích thân điều khiển công
việc khai phá và xây dựng trại trường Bạch Mã theo
khuôn mẫu của Trại trường Quốc tế Gilwell Park (Anh
quốc) và trại trường Chamarande (Pháp quốc) với sự tài
trợ của Hoàng đế Bảo Đại và Quốc vương Monivong của
Cao Miên.
Song song với công tác xây dựng, các trưởng đã
chuẩn bị công cuộc huấn luyện, để một khi trại trường khả
dĩ thu nhận được, thì sẽ tổ chức huấn luyện ngay. Chính
vì thế mà có một vài tư liệu ghi lại rằng : "Việc tạo tác
tạm hoàn tất vào giữa tháng 7, năm 1938 và khóa huấn
luyện "Bạch mã Thiếu I" khai mạc khoảng hạ tuần tháng
7/1938, tiếp đến là khóa "Bạch mã Tráng I" và khóa
"Bạch Mã Thiếu II" vào đầu và giữa tháng 8/1938".
Tuy nhiên theo các Trưởng Lê Văn Ngoạn, Phạm
Lương... thì cuối năm 1937 mặc dù trại trường Bạch Mã
18
chưa hoàn tất, nhưng đã đón 2 khóa huấn luyện đầu tiên
tại Trại Trường Bạch Mã đó là :
- Khóa Bạch Mã I ngành Ấu do Trưởng Langrand làm
khóa trưởng.
- Khóa tuyên úy hướng đạo (Aumoniers Scout) do
Trưởng Lm George Lefas làm Khóa trưởng.
Trưởng Võ Thanh Minh cũng đã ghi nhận như sau:
"1937 trại trường Bạch Mã được khai phá và thiết lập
nhờ công lớn của các anh Sơn Dương và Schlemmer. Trại
huấn luyện cho huynh trưởng cả 3 ngành và Bằng Rừng
được cấp từ năm ấy. Trại lập chung cho cả Cao Miên - Ai
Lao và Dã Mã chưa quên được cái hôm tiếp đón trại sinh.
Dã Mã được bắt tay và dìu anh Touc Sao, Tổng ủy
viên Cao Miên béo mập và nặng chừng tám chín chục
cân, từ trên chiếc kiệu 4 người vác".
Trưởng LT. Lê Văn Ngoạn (Báo Vui) đã ghi lại như
sau :
"Báo Vui là khóa sinh Bạch Mã I (1937) khóa đầu
tiên của trại trường Liên hội Hướng Đạo Đông Dương"
khóa này do Trưởng Langrand làm Khóa trưởng (Chef de
camp) và Dã Mã Võ Thanh Minh là HLV.
Còn theo khóa sinh khóa tuyên úy P. Lượng thì ghi :
"Khóa tuyên úy hướng đạo (Aumoniers Scout) được tổ
chức từ ngày 26-7-1937 đến 30-7-1937, gồm 6 đêm 4
20
BỐN.
LIÊN HỘI HƯỚNG ĐẠO ĐÔNG DƯƠNG
(FIAS)
Năm 1937 cũng là năm thành lập "Liên Hội hướng
đạo Đông Dương" (Fédération Indochinoise des
Associations de Scoutisme = F.I.A.S) gồm Bắc - Trung -
Nam (Việt Nam) và Ailao - Cao Miên.
Ban thường trực được đặt tại Huế, số 46 đường
Forcant với thành phần như sau :
BAN THƯỜNG TRỰC
Đại diện thường trực :
- Tổng Bí thư : Võ Thanh Minh
- Tổng UV Miền Bắc : Bernard và Hoàng Đạo Thúy
- Tổng UV Miền Trung : Niédrist và Tạ Quang Bửu
- Tổng UV Miền Nam : Sérène và Trần Văn Khắc
- Tổng UV Lào : Tieo Suk và Lê Văn Lương
- Tổng UV Cao Miên : Touc Sao và Tep Im
- UV. Ngành Ấu : Bà Chenevier
- Tuyên úy Công giáo : LM. Lefas
(Do nghị định số 1365 của toàn quyền Đông Dương ký
ngày 22/9/1937)
Trong thời kỳ này, với tư cách là tổng bí thư liên hội -
Trưởng Võ Thanh Minh đã có 2 sự đóng góp rất quan
trọng cho phong trào HĐVN chúng ta đó là "Quốc kỳ" và
"Phù hiệu".
21
Khi Ban thường trực họp bàn về việc thực hiện "tập
nghi thức" cho hội HĐVN (Cérémonial) thì có 2 vấn đề
rất khó khăn được đặt ra là : Quốc kỳ Việt Nam và huy
hiệu HĐVN.
Trước hết nói về lá QUỐC KỲ VIỆT NAM.
Ngày trước lá "Quốc kỳ" chỉ được tôn kính ở những
nơi đặc biệt như Hoàng cung, công sở, cơ quan, chứ không
phổ biến rộng rãi khắp nơi như ngày nay, cho nên ít ai biết
lá quốc kỳ của nước mình như thế nào. Thật ra thì quốc kỳ
Việt Nam ta là một màu vàng, vì màu vàng là màu rất tôn
quý ở Á Đông; nhưng khi Pháp đô hộ thì lá cờ vàng đó
phải đính thêm một cái noeud Tam Tài (cờ Pháp) (như ta
thấy trong lần Hướng đạo thượng kỳ đầu tiên ở Hà Nội).
Trưởng Minh không chấp nhận lá cờ vàng có đính cờ Pháp,
vì theo Trưởng đó là "cờ bảo hộ", "Một lá cờ nhục nhã mà
không một HĐS nào có thể chào một cách kính cẩn được".
Trưởng Minh kiên quyết đề nghị cờ Việt Nam là "Một lá cờ
toàn màu vàng". Nhưng 2 Trưởng Niedrist và Schlemmer
thì cho rằng cờ vàng là cờ quốc tế đã chọn làm cờ hiệu cho
dịch bệnh, chỉ dành riêng cho những tàu bè bị bệnh truyền
nhiễm không cập bến được.
Trưởng Võ Thanh Minh biện bác rằng : Cờ vàng của
Việt Nam đã có từ lâu đời, còn cờ bệnh chỉ mới được đặt
ra gần đây, nên quốc tế phải kính trọng quốc kỳ Việt Nam
mà đổi màu cờ bệnh thôi.
Hai Trưởng người Pháp mới đặt vấn đề : Có gì chứng
minh rằng cờ vàng là quốc kỳ Việt Nam trước thời kỳ
Pháp thuộc ?
22
Trưởng Võ Thanh Minh hết sức lanh trí, thông minh,
đáp ngay : "Dễ lắm, tôi xin điện thoại ngay cho cụ
Thượng Bộ lễ nghi".
Và cụ Thượng Tôn Thất Quảng hỏi : "Alô - Ai hỏi
đó?" Võ Thanh Minh nói ngay : "Thưa chúng tôi là Võ
Thanh Minh, Niédrist và Schlemmer của Ban thường trực
Hội Hướng đạo Đông Dương, xin cụ vui lòng xác nhận
cho chúng tôi biết : Màu cờ Việt Nam thời độc lập có phải
là màu vàng hay không ?"
- "Phải đó" Cụ thượng Bộ lễ đáp lại.
Thế là quốc kỳ Việt Nam được ghi vào "Tập Nghi
thức" là màu vàng, với một điều kiện là phải ghi thêm:
"Khi chào cờ, Hướng đạo phải chào cả cờ tam tài của
Pháp được kéo lên đồng thời ngang bằng với cờ vàng Việt
Nam". (Như vậy cái nơ tam tài bị gỡ bỏ khỏi lá cờ Việt
Nam).
Một thể hiện yêu nước thật nồng nàn.
Một kỳ công khác là chiếc PHÙ HIỆU HĐVN
Khi Ban thường trực bàn đến vấn đề phù hiệu, Dã Mã
Võ Thanh Minh đề nghị ngay là "Hoa Sen", với giải trình
: Hoa Sen là dấu hiệu của người quân tử Á Đông. "Gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Ban thường trực đồng ý
và giao cho Trưởng Võ Thanh Minh thực hiện.
Bấy giờ Trưởng Võ Thanh Minh mới ra một thông
báo cho cả 5 Hội trong Liên hội Đông Dương, yêu cầu
mỗi Hội tự sáng tác và gởi về Phòng Bí thư một vài kiểu
mẫu phù hiệu HĐVN, hình hoa sen cách điệu. Ít lâu sau,
23
văn phòng Bí thư nhận được chừng 40 mẫu và mẫu số 14
hay 16 gì đó, được Ban Thường trực chọn làm phù hiệu
chính thức cho Hướng đạo Đông Dương. Trưởng Võ
Thanh Minh cũng đã xác nhận rằng : "Phù hiệu anh chị
em đang mang hiện nay được truyền lại từ Bộ Tổng
Hướng Đạo Đông Dương, thì chính Hoa Sen chứ không
phải Hoa Bách Hợp". Còn như sau khi Dã Mã xuất
dương, có Hội đồng Huynh trưởng Toàn quốc nào đó đã
công khai thay đổi cái tên nó đi (vì cái hình vẫn y như cũ)
thì lại là một chuyện khác.
Trưởng Võ Thanh Minh còn nói thêm : "Lúc Hoa Sen
được chọn làm phù hiệu ấy là lúc chưa có một đoàn
Hướng đạo Phật tử nào ra đời" để minh định là chọn
Hoa Sen không phải vì là biểu tượng của Phật giáo.
Xin nói thêm một chút về chiếc phù hiệu Hoa Sen
này. Theo cố lão Trưởng Tôn Thất Đông thì "tháng 4 năm
1992, nhân dịp gặp Trưởng Vĩnh Bang, một Trưởng kỳ
cựu, từ Thụy Sĩ về thăm xứ Huế. Trưởng Đông và Trưởng
Bang có trao đổi về "lịch sử phù hiệu HĐVN", thì chính
Trưởng Vĩnh Bang đã xác nhận rằng : Phù hiệu HĐVN
mà chúng ta dùng mấy lâu nay chính là Hoa Sen chế
thành kiểu (stylisée) gần giống như Hoa Bách Hợp, và
cũng chính Trưởng Vĩnh Bang là tác giả họa đồ phù hiệu
đó .
Đến năm 1938 vì Sơn Dương Niedrist nhường chức
vụ Đại diện thường trực Liên hội Hướng Đạo Đông
Dương cho Trưởng Hạc (Marabout) Consiguy; và Trưởng
Consiguy có ý định dời trụ sở Tổng Bộ vào Sài Gòn, vả
24
lại cũng vì có vài sự lủng củng nội bộ, cho nên Trưởng
Võ Thanh Minh đã từ chức Tổng Bí thư Hướng Đạo
Đông Dương.
Sau khi từ chức Tổng Bí thư Hướng Đạo Đông
Dương và bàn giao trách vụ Đạo trưởng thần kinh cho
Bạch Nga Phan Tây, Trưởng Võ Thanh Minh quay trở về
đất Hồng Lam (Hồng Lĩnh Lam Giang), và tại đây,
Trưởng lại lập nên một Tráng đoàn rất hùng mạnh trong
đạo An Tịnh đó là Tráng đoàn Hồng Lam. Tráng đoàn
Hồng Lam có nhiều tráng sinh rất giỏi, như những kiện
tướng, tráng sinh Nguyễn Đình Hòe, Phan Đăng Tài,
Nguyễn Trung Lục, Nguyễn Địch, Nguyễn Đình Phúc...
Khi trở về Hồng Lam, Trưởng Võ Thanh Minh không
còn tham gia vào Toán huấn luyện tại trại trường Bạch
Mã nữa (trong hai năm 1938-1939), nhưng đến năm 1940
thì Trưởng quay về làm Huấn luyện viên cho trại trường
Bạch Mã, và đó cũng là những khóa huấn luyện Bạch Mã
cuối cùng mà Trưởng Minh tham dự huấn luyện.
Năm 1941, Trưởng Võ Thanh Minh đã về Huế để
tham dự trại Họp bạn toàn quốc tại Quảng Tế. Trại này
quy tụ trên 3000 HĐS và do Trưởng DCC Tạ Quang Bửu
làm trại trưởng, Sơn Dương Niedrist trại phó với các
trưởng phụ tá: Trưởng Hoàng Đạo Thúy (trại trưởng
ngành Tráng), Trưởng Võ Thanh Minh (trại trưởng ngành
Thiếu), Trưởng Chenevier (trại trưởng ngành Ấu).
Năm 1942, Trưởng và HĐS đạo An Tịnh cũng rất tích
cực tham gia cuộc chơi lớn toàn quốc : "Chạy Hỏa Bài"
nhằm mục đích "phô trương lực lượng" (nơi nào cũng có
25
Hướng Đạo) và liên kết anh em ba miền (Bắc - Trung -
Nam) là một nước Việt Nam thống nhất.
Ngọn đuốc được khởi đầu tại số 86 Hàng Trống (trụ sở
Hội) rồi chuyển cho mỗi HĐS (Thiếu, Tráng) cầm chạy hai
cây số, chạy kiểu Hướng Đạo (au pas scout) (tức là chạy 10
bước, đi 10 bước, rồi chạy 10 bước...). HĐS mỗi địa
phương (tỉnh) có trách nhiệm nhận đuốc tại phía Bắc tỉnh
mình, rồi chia nhau chạy mỗi người hai cây số, cho đến địa
giới phía Nam tỉnh mình và chuyển cho đơn vị bạn ở tỉnh
kế tiếp. Cuộc chạy hỏa bài bắt đầu từ lúc 7g4' ngày
14/7/1942 và đến Sài Gòn lúc 2g30' ngày 18/7/1942 (trễ
4g30' so với dự kiến).
Riêng Trưởng Võ Thanh Minh và Đạo An Tịnh đã
đảm nhận trách nhiệm một quãng đường dài trên 200 cây
số, và trong lúc thực hiện cuộc chơi có một em tráng sinh
Tráng đoàn Hồng Lam suýt chết, đó là tráng sinh Cảnh.
26
NĂM.
THỜI CUỘC BIẾN ĐỘNG
hững năm 1944-1945 tình hình đất nước có
nhiều biến động. Cuộc chiến thế giới lần thứ
hai đến hồi quyết liệt. Phe Trục (Đức - Ý - Nhật) ào ạt tấn
công và đã dành nhiều thắng lợi. Tại Việt Nam ngày
09/3/1945 quân Nhật "đảo chánh" Pháp. Ngày 11/3/1945
vua Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ các hòa ước đã ký với Pháp
và tham dự vào khối Đại Đông Á của Nhật.
Ngày 19/3/1945 nội các Phạm Quỳnh từ chức.
Ngày 17/4/1945 nội các thân Nhật của Trần Trọng
Kim ra đời.
Nhưng đến ngày 15/8/1945, sau hai quả bom nguyên
tử của Mỹ được thả xuống Hiroshima và Nagazaki thì
Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Thời cơ đã đến, ngày 19/8/1945 bộ đội Việt Minh tiến
quân vào Hà Nội, làm nên cuộc "CÁCH MẠNG THÁNG
TÁM".
Cùng với vận nước, Liên hội Hướng Đạo Đông
Dương đã tổ chức Hội nghị Huynh trưởng và tráng sinh
toàn quốc tại số 86 Hàng Trống (từ ngày 11 đến 16 tháng
11 năm 1945, từ Chúa Nhật đến thứ Sáu) để hợp nhất ba
Hội Hướng Đạo Bắc Kỳ - Trung Kỳ và Nam Kỳ vào
thành một Hội HĐVN duy nhất, và được đề nghị đổi tên
là "Hướng Đạo cứu quốc", theo như trào lưu lúc bấy giờ.
Hội nghị có khoảng 300 tham dự viên. Từ Vinh, Trưởng
N
27
Võ Thanh Minh được tin trễ, nhưng cũng kịp ra dự Hội
nghị. Việc sát nhập ba Hội Bắc - Trung - Nam thành một
Hội HĐVN thống nhất, đều được các trưởng tán thành,
nhưng việc đổi tên HĐVN thành Hướng Đạo cứu quốc
(HĐCQ) thì có nhiều ý kiến phản đối, mà Trưởng Võ
Thanh Minh là người phản đối quyết liệt nhất, và có các
trưởng như Phạm Biểu Tâm, Bạch Văn Quế, Vĩnh Bang,
Hồ Liễn... đều ủng hộ ý kiến của Trưởng Võ Thanh Minh.
Theo Trưởng Võ Thanh Minh thì Phong trào Hướng
Đạo không làm chính trị (nopolitic) nên không thể biến
HĐVN thành HĐCQ được. Vì thế mà Hội nghị chia thành
hai phe : phe ủng hộ và phe phản đối.
Cuộc họp diễn ra trong bầu khí rất căng thẳng,
Trưởng chủ tọa Hoàng Văn Quí tỏ ra bất lực, không giữ
được trật tự và bình tĩnh. Nhiều cuộc cãi vã, tranh luận
bùng nổ quyết liệt, hỗn loạn. Hội nghị đề nghị thay chủ
tọa, và đa số Trưởng đã tín nhiệm bầu Trưởng Võ Thanh
Minh lên làm chủ tọa Hội nghị thay cho Trưởng Hoàng
Văn Quí.
Tuy Trưởng Võ Thanh Minh đã lập lại trật tự cho Hội
nghị, nhưng tình hình chính trị đã làm phân hóa chia rẽ
anh em HĐVN.
Trưởng Võ Thanh Minh kêu gọi hãy giữ tên HĐVN,
và tiếp tục sinh hoạt theo đúng đường lối Hướng Đạo của
B.P. Đoàn viên Hướng Đạo có bổn phận tham gia các
hoạt động "yêu nước" và "giành độc lập", nhưng với tư
cách cá nhân của người Hướng Đạo ấy, tránh tất cả những
hành động gây chia rẽ, xung đột giữa anh em Hướng Đạo.
28
Ngày họp thứ ba, Hội nghị nghỉ để đi đưa tang anh Lê
Trác (có chỗ ghi Lê Văn Trác) vừa mới từ trần ngày hôm
qua. Lê Trác cũng là một tráng sinh tham dự Hội nghị và
cũng là "người chất vấn Trưởng Võ Thanh Minh nhiều
nhất, nào là hướng đạo thiếu dân chủ, thiếu đại chúng, sản
phẩm của thực dân Anh v.v... nhưng anh bị loại ra vòng
đầu khi Dã Mã giải thích những thắc mắc kia, dựa theo
những cuốn sách căn bản của BP, và khi anh ta nhận rằng
chưa hề đọc những cuốn sách ấy. Tướng đã bị loại thì
quân còn làm gì nên chuyện nữa. Hội nghị vì thế mà
không chấp nhận nội quy mới cũng như cái tên mới
hướng đạo cứu quốc.
Sau đám tang Lê Trác, Trưởng Võ Thanh Minh trở về
Vinh. Tình hình sinh hoạt hướng đạo lúc này cực kỳ khó
khăn. Các đơn vị hướng đạo các nơi phần thì giải tán,
phần thì tự tan rã, phần thì tham gia vào phong trào thanh
niên dân chủ thế giới (Mouvement Mondial de la jeunesse
démocratique).
Nhưng riêng đạo An Tịnh, do Trưởng Võ Thanh
Minh thủ lĩnh thì vẫn tiếp tục sinh hoạt và phát triển.
"Nhiều đơn vị còn sống sót ở các đạo lân bang lục tục xin
nhận quyền điều khiển của Ngựa Rừng, đến nỗi đạo An
Tĩnh đã phải đổi ra thành "Thanh-Nghệ-Tĩnh-Bình".
Nhưng 2 năm sau - năm 1947 khi thành phố Vinh
thực hiện chính sách "tiêu thổ kháng chiến" thì anh quay
trở về sống tại quê nhà (làng Tân Mỹ, xã Hòa Thành).
Anh sống tại đây chẳng được bao lâu thì bị Ủy ban hành
chánh huyện Yên Thành bắt đem về giam tại huyện.
29
Theo Trưởng Tôn Thất Dương Vân, lý do Dã Mã bị
bắt là vì bài thơ châm chọc của Dã Mã. Trong một bài thơ
thất ngôn bát cú, Trưởng Võ Thanh Minh có viết hai câu
thực như sau :
"Yên Thành cách mạng đi đâu hết
Chính quyền để lại một bầy ngu"
Chuyện bắt giam này đã được Trưởng Võ Thanh
Minh kể lại với Trưởng Nguyễn Đăng Ngọc (Thiếu đoàn
Nguyễn Xí ngày xưa) khi hai người gặp lại nhau ở Quảng
Trị, sau 20 năm biệt tích (1947-1967).
Nguyễn Đăng Ngọc ghi lại theo lời kể của Trưởng
Minh :
"Một sáng sớm, mấy tên du kích phụ trách canh tù đã
thì thầm lúc đi qua phòng anh : "Đêm nay cho thằng này
tắm".
Linh tính cho anh biết sẽ có chuyện chẳng lành. Anh
suy nghĩ thật lung và tìm cách đào thoát.
Nhà cửa ở Yên Thành phần lớn xây bằng đá ong,
không có gì chắc chắn, đặc biệt lúc bị ngấm nước. Anh
Minh hiểu rõ tính chất của đá ong nên từ sáng hôm ấy, sau
khi nghe hai tên du kích nói, anh đã nhịn không dùng
khẩu phần nước được cấp hàng ngày. Ngay nước tiểu anh
cũng tìm cách giữ lại trong cái gáo dùng cho phạm nhân
làm vệ sinh về đêm. Anh kín đáo cho nước dần dần thấm
vào vữa quanh một viên đá để cạy viên đá long ra, tuy vẫn
để nằm nguyên tại chỗ. Tối hôm đó, chờ khi du kích đi
khám xét lần cuối xong, anh lấy gối chăn và quần áo xếp
30
lại thành hình người như đang ngủ. Nghe ngóng thật kỹ
anh nhẹ nhàng tháo viên đá ong đã long, rồi tháo tiếp
thêm ít viên nữa vừa đủ chỗ để chui ra".
"Thoát khỏi nhà giam, nhặt được cái "oi" (giỏ) cá bên
đường, anh cải trang thành người đi bắt ếch rồi nương
theo đồng ruộng chạy ngược về Đô Lương. Yên Thành
cách Đô Lương non 30 cây số, nên lúc gần đến Đô Lương
thì trời rạng sáng, anh quyết định đến thẳng nhà ông chủ
tịch Ủy ban hành chính Đô Lương để trình diện, hy vọng
Đô Lương sẽ giải giao anh cho Ủy ban hành chánh tỉnh và
như vậy việc bắt giam anh được công khai hóa và phải
được đem ra xét xử rõ ràng. Và đúng như vậy. UBHC Đô
Lương giải giao anh cho UBHC tỉnh. Vốn được nhiều giới
trong tỉnh biết tiếng anh và cũng không có bằng cớ gì để
kết tội, nên UBHC tỉnh cấp giấy cho anh về quê sinh
sống.
Biết không thể kéo dài cuộc sống ở quê nhà, nên nhân
có cuộc họp bạn tráng sinh ở rừng thông Hoàng Mai (giữa
Nghệ An và Thanh Hóa) vào năm 1948, anh xin phép đi
dự họp, rồi tìm cách rời khỏi quê nhà. Cũng cần nói thêm
là cuộc họp bạn tráng sinh ở rừng thông Hoàng Mai là do
Trưởng Bạch Văn Quế, lúc đó là ủy viên thanh niên trong
Ủy ban hành chính liên khu 4, đứng ra triệu tập nhằm mục
đích giải tán phong trào hướng đạo và kêu gọi các tráng
sinh tham gia vào công tác cách mạng.
Sau khi rời bỏ quê nhà, Trưởng có trở lại Huế sống
một thời gian, rồi năm 1949 trưởng tìm cách ra Hà Nội để
nắm bắt tình hình. Trên đường ra Hà Nội, Trưởng có ghé
31
vào Phát Diệm và gặp trưởng Phan Như Ngân (nguyên
TUV Hội hướng đạo miền Trung) để tìm hiểu tình hình
sau đó anh đi Hải Phòng bằng đường biển qua ngõ Đồ
Sơn. Theo lời một người bạn đồng hành thì chuyến đi
biển này đã làm cho ngựa rừng say sóng, nằm dài trong
khoang cho đến lúc thuyền cập bến Đồ Sơn. Sau đó
thuyền theo sông cửa Cấm đến Hải Phòng, rồi đi Hà Nội
và lưu trú tại chùa Quán Sứ - Trung tâm Phật giáo miền
Bắc. Anh lưu lại Hà Nội 3 tháng để tìm hiểu tình hình.
Nhưng điều làm anh thất vọng nhất là sự "chia rẽ" trầm
trọng, năm bè bảy mối đang xâu xé nhau, tranh giành
nhau, loại trừ nhau. Vì thế mà anh bỏ ý định ra khu kháng
chiến để yết kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xin mọi
người vì tình huynh đệ hướng đạo, vì tình nghĩa đồng bào,
gạt hết mọi tỵ hiềm, đố kỵ đang tạo ra chia rẽ xung đột.
Vì thế anh quyết định tìm lối khác, hầu có thể đem lại hòa
bình cho dân tộc cho đất nước. Lối khác mà anh định là
phải ra nước ngoài, qua Thụy Sĩ, một đất nước trung lập,
hòa bình, phồn thịnh, để vận động các nước trung lập
đứng ra trung gian hòa giải cho Việt Nam khỏi một cuộc
huynh đệ tương tàn.
Tinh thần yêu nước, yêu đồng bào của Trưởng Võ
Thanh Minh rất trong sáng, không ý đồ, không phe phái.
Ông chỉ ước mong dân tộc, đất nước được hòa bình, trung
lập, không có chiến tranh tàn phá, chết chóc.
Trưởng đã viết tập thơ "Tiếng thương tâm" với bút
hiệu Võ Song Thiết để gởi cho Quốc trưởng Bảo Đại và
chủ tịch Hồ Chí Minh, kêu gào cho dân tộc được sống
32
sum vầy bình an, thoát ly khỏi 2 thứ chủ nghĩa tư bản và
CS. Tập thơ này gồm có 70 đoạn thơ 4 câu.
33
SÁU.
XUẤT DƯƠNG
hi biết ý định "xuất dương" của anh, một số
thân hữu đã âm thầm giúp đỡ cho anh một ít
lộ phí để lên đường; đồng thời anh cũng bán
bản quyền tập thơ "Tiếng thương tâm" vào khoảng
10.000đ để tăng thêm lộ phí.
Đầu năm 1950 anh rời Hà Nội trở về Huế để tìm cách
xuất ngoại. Việc đi Pháp (xuất ngoại) lúc bấy giờ cũng hết
sức khó khăn, phải nhờ Trưởng Niedrist - Giám đốc nhà
đèn Huế can thiệp giúp đỡ, anh mới sang Pháp được vào
đầu năm 1951.
Trưởng Võ Thanh Minh đã ghi lại :
"Về việc đi Pháp phải nhờ anh Niedrist can thiệp,
nhưng sau khi sang Pháp anh đã đi Thụy Sĩ ngay và ở bên
ấy. Anh không nhận tiền bạc của bất cứ người nào hay
một tổ chức nào. Sống nhờ vào chính sức mình bằng cách
đổi công như cắt cỏ cho các tư gia, hái trái cây ở các nông
trại, và cũng có lúc nhờ dịch một số tài liệu Hán Văn cho
một vài trường đại học... Lúc đau ốm thì tự chữa lấy là
chính, bằng cách tĩnh dưỡng và tập trung nghị lực"
Khi Trưởng Minh đến Thụy Sĩ (1951) thì được tin
hướng đạo sẽ tổ chức họp bạn (Jamborèe) HĐTG lần thứ
7 tại Bad-Ichid (Autriche = Áo). Họp bạn HĐTG lần thứ
7 có 34 quốc gia tham dự với 12.884 HĐS. Trưởng liền rủ
3 cựu HĐSVN là các du học sinh Nguyễn Thiện Tích,
Phạm Bá Thương và Tạ Trung Quốc cùng đi tham dự trại
họp bạn.
K
34
Phái đoàn HĐVN đi dự trại chỉ có 4 thành viên,
nhưng Trưởng Võ Thanh Minh cũng tổ chức thành một
đoàn HĐVN riêng biệt.
Đoàn đã hiên ngang mang lá quốc kỳ Việt Nam (màu
vàng có 2 chữ Việt-Nam ở giữa) đến dự trại họp bạn.
Phái đoàn hướng đạo Pháp thấy thế, liền bắt buộc
đoàn HĐVN phải nhập vào hàng ngũ của hướng đạo
Pháp. Nhưng Trưởng Võ Thanh Minh với tinh thần yêu
nước cao độ, không chịu khuất phục, không chịu nép
mình vào nước Pháp bảo hộ, trái lại đã hiên ngang tự chủ,
gương cao ngọn cờ Việt Nam trước năm châu bốn bể và
đã được các nước bạn bè hoan hô nhiệt liệt. (đúng là tinh
thần yêu nước của một HĐS).
Vì thế phái đoàn Việt Nam (Trưởng Võ Thanh Minh)
được chính thức mời tham dự buổi tiệc trà danh dự, dành
cho đại diện các nước, tại Hoàng cung Áo, do chính phủ
Áo chiêu đãi. Mặc dù phái đoàn Hướng đạo Pháp phản
đối việc mời này, và dọa tẩy chay không đến dự, nhưng
phái đoàn HĐVN vẫn được mời và Trưởng Võ Thanh
Minh đã hân hạnh và tự hào đến dự buổi tiệc trà này.
Hãy nghe Trưởng Võ Thanh Minh sung sướng kể lại :
"Đây là lần thứ nhất, một nhóm HĐVN được dự trại
họp bạn HĐTG. Phái đoàn người ta đông hàng trăm hàng
nghìn, phái đoàn Việt Nam vỏn vẹn có 4 anh em mà lại
còn bị mấy ông Hướng đạo thực dân Pháp kèn cựa, lôi
kéo, không cho biệt lập ra ngoài lá cờ tam tài... Nhưng rốt
cuộc phái đoàn tí hon này đã thắng lợi trên mọi lĩnh vực,
hình thức lẫn tinh thần. Phái đoàn được hoan hô nhiệt liệt
với lá cờ vàng có đề hai chữ Việt Nam và người đại diện
nó vẫn được mời dự tiệc trà danh dự của Chính phủ Áo
35
thết đãi ở Hoàng cung, dầu rằng phái đoàn Pháp đã tẩy
chay không đến".
Dịp này Trưởng Võ Thanh Minh cũng vô cùng mãn
nguyện vì được "tiếp xúc với rất nhiều vị lãnh tụ Hướng
đạo thế giới, kể cả Trại trưởng Gilwell, Vilson, người đã
tặng cho Dã Mã một cái Bằng Rừng thay thế cái đã mất
đi, và bà cụ B.P đã đứng chụp chung một tấm ảnh kỷ
niệm".
Những năm sống ở Thụy Sĩ, ông đã đi lại nhiều nơi
như Genève, Nam Tư, Paris, Roma, Hà Lan, Bỉ... để bày
tỏ lập trường xin trung lập Việt Nam, làm sao đưa Việt
Nam thoát khỏi hai hấp lực đang tranh chấp : TB và CS,
để tránh cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Có lần ông đến
Nam Tư xin yết kiến Tito, nhưng bị từ chối. Ông không
nản, dòng máu xứ Nghệ kiên cường và cứng đầu đã thôi
thúc, ông kiên quyết xin gặp cho bằng được. Một tuần
sau, Tito đồng ý tiếp kiến ông. Dù ý chí kiên cường, bất
khuất, nhưng cũng chỉ là ý kiến cá nhân, đơn độc, sau
lưng không có hậu thuẫn, không có thực lực, cho nên ước
vọng của ông cũng thành vô vọng.
Người ta đã không nhìn thấy ở ông một nhà chính trị
đa mưu hay một chính khách lỗi lạc, mà họ chỉ nhìn thấy
ông qua hình ảnh của một nho gia chân chất, một nhà hòa
bình tâm huyết, hay nói như Thi Vũ: "Con đường chính
trị của ông là con đường văn hóa trong nghĩa rộng, thực
và linh động".
36
Và đúng vậy, với chiếc áo dài đen bạc màu, chiếc
quần trắng cũ kỹ... Trưởng đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm
ở Âu Châu để tìm kẻ đồng tâm, hoặc lui tới trụ sở Tổng
hội Sinh viên Việt Nam tại số 80 đường Monge, Paris để
làm quen, nói chuyện, đánh cờ tướng và ăn cơm rẻ tiền.
Năm 1954, tình hình chiến sự ở Việt Nam đang đến
hồi khốc liệt, đại diện hai chánh thể Việt Nam (Q.G và
C.S) do sự sắp đặt của các cường quốc như Pháp, Mỹ,
Anh, Nga, Trung Quốc... đã được nhóm họp ở Paris để
tìm cách chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Một giải pháp
tạm thời được đồng thuận là chia đôi đất nước, lấy vĩ
tuyến 17 (sông Bến Hải) làm mốc phân ranh : Lịch sử
phân chia một lần nữa lại được lặp lại. Trưởng Võ Thanh
Minh đang nhìn thấy một viễn ảnh mờ mịt đau thương
bao trùm trên quê hương đất Việt. "Gương lịch sử còn đó,
một cuộc chiến tương tàn giữa Bắc - Nam rồi sẽ không
tránh khỏi".
Nhưng lực bất tòng tâm. Trưởng thấy không thể làm
gì được, hoàn toàn bất lực, đành ngậm ngùi theo gương
người xưa (Trương Lương) tìm cách đánh động lòng
người, mong hai bên tìm được những phương thế tốt đẹp
nhất cho dân tộc.
Vì thế Trưởng đến bên hồ Léman, gần nơi lưu trú của
các phái đoàn đàm phán, căng lều tuyệt thực. Ban ngày
diễn thuyết, vận động hòa bình, phản đối chia cắt, với tinh
thần bất bạo động. Ban đêm dùng sáo trúc thổi những ca
37
khúc buồn Việt Nam mong sao đánh thức được tình đồng
bào ruột thịt trong lòng những người Việt Nam đại diện
hai chế độ.
Nhưng tiếng sáo Trương Lương ngày xưa đã làm cho
quân Sở xao xuyến nhớ nhung quê hương, còn tiếng sáo
của Ngựa hoang hình như vô cảm.
Nhưng có lẽ niềm đau sâu thẳm nhất, là định mệnh
quá trớ trêu, khắc nghiệt đến độ tàn nhẫn, để khiến ba
Huynh trưởng HĐVN, đã từng sinh hoạt thân thương với
nhau, coi nhau như anh em ruột thịt, trên chính mảnh đất
quê hương miền Trung thân yêu (Huế), giờ đây lại gặp
nhau nơi đất khách quê người (Genève) (Tha hương ngộ
cố tri), nhưng lại đứng trên ba trận tuyến khác nhau và
xem nhau như kẻ thù.
Trưởng Dã Mã Võ Thanh Minh với lý tưởng Trung
lập.
Trưởng Chồn Tạ Quang Bửu với lý tưởng C.S.
Trưởng Ngỗng Trắng Trần Văn Tuyên với lý tưởng
Quốc gia.
Trong phòng họp, phía bên này là Chồn Tạ Quang
Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, trong phái đoàn miền
Bắc. Phía bên kia là Ngỗng Trắng Trần Văn Tuyên trong
phái đoàn miền Nam, sẽ chia đôi đất nước 20/7/1954. Còn
ngoài kia, bên hồ Léman, Dã Mã Võ Thanh Minh với
chiếc lều con và tiếng sáo trúc phản đối chia cắt.
38
Sau đó Trần Văn Tuyên có tìm đến lều thăm Trưởng
Võ Thanh Minh, còn Tạ Quang Bửu, có lẽ hoàn cảnh
không cho phép, đành âm thầm vĩnh biệt người anh em.
Ôi bởi vì đâu mà những người "Bạn đường" cùng
nhau gắn bó một thời sinh hoạt sôi động, với biết bao kỷ
niệm Hướng Đạo êm đềm tha thiết, mà giờ đây đành
ngậm ngùi mỗi người một lối, như chưa hề quen biết
nhau.
Kể từ ngày 20/7 năm đó, Trưởng Võ Thanh Minh đã
quyết định cứ đến ngày lịch sử đau thương này (20/7) thì
Trưởng sẽ tuyệt thực suốt một tháng, để biểu lộ niềm đau
xót cho dân tộc. Và trong tháng đó, Trưởng sẽ viết thư gửi
đến tất cả các
nhà lãnh đạo
đất nước, các
vị lãnh đạo các
cường quốc,
các vị lãnh đạo
39
tinh thần... để bày tỏ nỗi niềm và cầu mong mọi người
hãy hành động để đưa đất nước Việt Nam sớm được hòa
bình, thống nhất. Chỉ có một ít thư trả lời, như Nữ hoàng
Elizabeth đệ Nhị của Vương quốc Anh, và Đức Giáo
hoàng... nhưng Trưởng vẫn cứ viết, vẫn cứ tuyệt thực cho
đến ngày trở về nơi lòng đất mẹ.
Trưởng Võ Thanh Minh đã kể lại với Thi Vũ rằng :
"Mỗi năm tới ngày 20-7, tui đều viết 2 bức thư gởi cho 2
vị đồng chủ tịch hội nghị Genève 1954, yêu sách họ về
vấn đề Việt Nam. Tui cũng viết 2 bức thư khác gởi ông Hồ
Chí Minh và ông Ngô Đình Diệm kêu gọi thống nhất và
phải nghĩ đến tiền đồ dân tộc. Tôi biết "người ta sẽ vứt
thư vào sọt rác", nhưng lương tâm và bổn phận con người
Việt là phải lên tiếng. Tiếng nói còn, ngưỡng vọng còn,
con người còn. Nên cứ làm cứ phải làm" . Cái ước vọng
lớn nhất của Trưởng là muốn cho đất nước thanh bình,
không có chia rẽ hận thù, không có nồi da xáo thịt, không
có huynh đệ tương tàn : "Sự ước mong tha thiết của tôi và
có lẽ của tất cả chúng ta là làm sao dung hòa được những
tư tưởng tuy có vẻ tương phản, nhưng cùng theo đuổi một
mục đích cứu thế, để quang cảnh đại đồng được mau mau
thực hiện giữa thế gian này" (Võ Thanh Minh).
40
BẢY.
BỊ TRỤC XUẤT KHỎI THỤY SĨ
hi ở Genève (Thụy Sĩ) Trưởng Võ Thanh
Minh thường lẻn vào trụ sở Liên hiệp quốc để
ngồi lì tuyệt thực, và viết thư gởi cho các vị lãnh tụ.
Những hoạt động không bình thường ấy làm phiền đến
LHQ. Họ năm lần bảy lượt khuyên, can, Trưởng vẫn
không nghe, cuối cùng phải dùng nhân viên an ninh yêu
cầu Trưởng chấm dứt tuyệt thực và rời khỏi trụ sở LHQ
ngay nhưng Trưởng nhất định không chịu rời tòa nhà
LHQ.
LHQ yêu cầu cảnh sát Thụy Sĩ vào khênh Trưởng ra,
rồi trát lệnh trục xuất khỏi lãnh thổ.
Trưởng Võ Thanh Minh hỏi :
- Các ông trục xuất tôi đi nước nào ?
- Về nước ông.
- Tôi không có nước, nước tôi bị các ông cắt làm hai
rồi làm sao tôi về !
Không thèm đếm xỉa đến cái lý sự của người học trò
Khổng Tử, cảnh sát bèn chở Trưởng thẳng ra biên giới thả
ở đấy như thả một con chim què".
K
41
Trong lá thư gởi cho người bạn đề ngày 7/7/1961
Trưởng Võ Thanh Minh có nhắc đến việc trục xuất này.
"Tôi vừa ở Genève về, thất bại trong việc gây một luồng
dư luận đề cập đến vấn đề "Trung lập hóa Việt Nam". Tất
cả phái đoàn, kể cả
2 Việt Nam nữa
đều muốn quên cái
hàng rào đã chắn
ngang nơi sông
Bến Hải của nước
ta. Riêng cá nhân
tôi lại còn bị trục
xuất khỏi Thụy Sĩ,
phải trở về VÔ
MÔN và định cư
mặc nguyện cho
đến ngày quốc sĩ
20.7 này".
Bị Thụy Sĩ trục
xuất, không cho ở,
Trưởng Võ Thanh
Minh đã quay trở
lại Pháp và về cư
trú tại "Biệt thự
Vômôn" - bãi tha ma xe hơi ở ngoại ô Paris.
42
BIỆT THỰ VÔ MÔN
Khi Trưởng Võ Thanh Minh đến Pháp, chưa có nơi
ăn ở, trưởng liền đến bên bờ sông Seine, cạnh tòa thị
chính, dựng lều cắm trại. Trưởng Võ Thanh Minh còn viết
mấy biểu ngữ : kêu gọi độc lập cho Việt Nam, và treo
ngay ở trên cột lều. Được ít ngày, cảnh sát Paris đến đuổi
đi chỗ khác. Trưởng hỏi : đi đâu ?
Cảnh sát thật tình bảo rằng :
- Nơi đây không phải là chỗ cắm trại, hãy đến những
nơi được phép cắm trại.
Rồi cảnh sát bỏ đi.
Vài ngày sau cảnh sát lại đến và đuổi đi. Trưởng vẫn
không chịu đi và nói rằng :
- Nước Pháp các ông chiếm nước tôi 80 năm ròng,
nay tôi chỉ lấy có 2 thước vùng đất mà không được ư ?
Nói xong, ông rút phong thư và nhờ cảnh sát chuyển
cho tổng thống De Gaulle (Tổng thống Pháp lúc bấy giờ).
Trong thư Trưởng cũng viết những điều "lý sự" tương tự.
Cảnh sát tức giận, quát tháo và dọa bắt giam. Trưởng vẫn
tỉnh bơ và cười khinh khỉnh. Tức quá cảnh sát bắt thật, và
đưa về giam tại post cảnh sát quận 4 ở Paris.
Trong những ngày bị giam giữ, ông vẫn bình thản tự
nhiên, không phản đối chi, coi như đang ở nhà mình vậy.
Thấy việc giam giữ không hiệu quả, nên cảnh sát mới mở
cửa đuổi ông về. Ông hỏi : Về đâu ?
- Thì về nhà ông chứ về đâu ?
43
- Tôi không có nhà, tôi sẽ ra lại sông Seine cắm lều.
Cảnh sát cũng hết đường đối đáp, "khi con người bỏ
hết mọi đối kháng, lì tới độ không sợ hãi chi, thì đối
phương lại thấy bối rối". Họ nghĩ có lẽ đây là một người
gàn dở, vô gia cư, nên cảnh sát chỉ cho ông ra phía nam
ngoại ô Paris, có một khu đất trống, ở đó tha hồ mà cắm
trại.
Trưởng Võ Thanh Minh nói :
- Tôi không biết chỗ ấy. Các ông chở giùm tôi ra đó.
- Chúng tôi không có xe đưa đi xa. Ông lấy tàu hầm
(metro) mà đi.
- Tôi không có vé.
Cảnh sát mới tặng cho Trưởng một vé metro...
Nơi Trưởng đến là một ngọn đồi ở mạn Nam ngoại ô
Paris. Nơi đây người ta vứt bỏ những chiếc xe cũ kỹ,
giống như nghĩa địa xe hơi.
Trưởng Võ Thanh Minh tận dụng xác một chiếc xe
van cũ màu gạch, không còn bánh, nằm sụm trên mặt đất
trông như một chú voi sắt phủ phục, làm chỗ che nắng che
mưa. Chiếc xe van này dài chừng 4 mét, rộng gần 2m,
được Trưởng biến thành một chiếc phòng con, rộng
khoảng 6, 7 mét, để làm nơi trú ngụ cho những ngày sống
ở Paris. Trưởng đã đặt tên cho nơi cư ngụ của mình là :
"Biệt thư Vô môn số 7
Khu phố Do Thái
44
Vùng Seine"
(Villa Vômôn 7, Ville Juif (Seine))
Và cũng chính nơi đây, Trưởng đã đón tiếp bạn bè,
khách khứa cả Việt lẫn Tây.
Ngay tại biệt thự Vô môn này, Trưởng đã thu xếp xe
cộ để có một khoảng vườn trồng rau xanh, xà lách, nuôi
ong, để thêm phần dinh dưỡng. Người ta thấy những cây
cải, xà lách Trưởng trồng sao mà cao ngồng đến 7, 8 tấc,
mới hỏi. Trưởng giải thích : Cây cỏ nó cũng đau đớn như
mình, nên cắt đọt nhổ gốc thì nó cũng đau lắm, cho nên
tôi chỉ ngắt lá mà ăn dần, nên nó lên cao như vậy đó.
Phía trước lối vào Trưởng dựng một trang thờ lộ
thiên, mà ảnh thờ là "Bản đồ Việt Nam" do chính Trưởng
vẽ. Ôi, một người yêu nước thiết tha "suốt đời dâng trọn
tim mình cho Tổ quốc".
Ngoài ra, Trưởng Võ Thanh Minh còn săn nhặt, gom
góp phụ tùng để phục hồi một chiếc xe con, vừa cũ kỹ,
vừa cọc cạch, để làm phương tiện đi lại. Nhiều lần Trưởng
bị cảnh sát rượt đuổi và bắt phạt tiền. Không có tiền, liền
bị cảnh sát kéo xe về bãi tha ma và xì lốp hết.
45
TÁM.
NHỮNG ĐỊA CHỈ DANH GIÁ
ể có thể liên lạc thư từ với bạn bè, người
thân... mỗi người đều phải có một địa chỉ rõ
ràng. Nói cách khác, địa chỉ chính nơi cư trú,
sinh sống hay làm việc của một người nào đó.
Với cuộc sống long đong vô định, không nhà không
cửa, thì làm sao có địa chỉ để liên lạc thư từ được. Thế
nhưng trong suốt những năm tháng sống long đong nay
đây mai đó của Trưởng, Trưởng vẫn thông minh tìm cho
mình những cái địa chỉ để liên lạc thư từ với mọi người.
Và tất cả những địa chỉ liên lạc của Trưởng đều ghi ở
những nơi danh giá cả.
1. Địa chỉ đầu tiên là : "Vô Môn - Văn phòng Báo chí
Liên Hiệp Quốc - Genève - Thụy Sĩ".
Thấy địa chỉ này, nhiều người cứ lầm tưởng là
Trưởng hiện đang làm việc tại Văn phòng Báo chí Liên
Hiệp Quốc, OUN.
Nhưng thực ra văn phòng Liên Hiệp Quốc là nơi
Trưởng thường lẻn vào đó để ngồi tuyệt thực, và viết đơn
thư, lâu rồi người ta cũng quen mặt, cho nên Trưởng mới
dặn nhân viên Phòng báo chí là hễ thấy có thư đề tên Vô
Môn thì giữ lại giúp. Vài ngày tôi ghé lấy một lượt. Nhờ
vậy mà những năm sống ở Genève, Trưởng vẫn có thể
liên lạc bằng thư từ với bạn bè người thân khắp nơi.
2. Địa chỉ thứ hai là : "Võ Thanh Minh - Collège de
France - Paris 5".
Đ
46
Collège de France là Viện Pháp học, nơi quy tụ những
bậc trí thức hàng đầu của Pháp, nằm ngay bên trường Đại
học Sorbonne. Có một thời Trưởng phụ giúp cho nhà Hán
học Pháp nổi danh, Paul Demiéville ở Viện, trong công
việc sao chép các bản văn chữ Hán, hoặc dịch các tài liệu
Hán văn ra Pháp ngữ, nên có đôi lần ra vô Viện Pháp học.
Sau đó, ông thường lái chiếc xe cọc cạch cũ kỹ đến đậu
phía trước Viện Pháp học, rồi ung dung ngồi trong xe
đánh máy chữ. Trong chiếc xe con này ông có trang bị
một cái máy đánh chữ, có dấu chữ Việt, và được đặt trên
một cái kệ bằng gỗ do ông tự đóng lấy. Chiếc xe này cũng
còn được dùng để tiếp khách, bạn bè. Và cũng vậy, ông
dặn người phát thư là hễ thấy tên Võ Thanh Minh là thư
của tôi đấy, tôi ngồi trong xe ngay trước Viện, đừng tìm
đâu xa trong Viện. Trưởng còn dặn thêm, khi nào không
thấy tôi ở đây thì cứ giữ lại lần sau đưa cũng được.
Cứ thế mà thư từ đi về giữa ông và bạn bè vẫn diễn ra
thường xuyên.
Nói về chiếc xe con của Trưởng, Thi Vũ đã kể lại
rằng : "Nói tới chiếc xe con cọc cạch, màu đen ấy là phải
nói tới cách lái xe. Tôi có đi mấy lần với ông. Ngồi trong
xe cảm tưởng như ngồi loại chiến xa thời Tam Hoàng
Ngũ Đế. Xe rung như sắp rã. May là ông lái rất chậm,
không để cho ai có ý nghĩ gì. Ông luôn đón trước, tay rờ
rờ nút bấm này, nút bấm kia. Đi với tôi ông Vũ chớ lo, tôi
không lái nhanh, lái nhanh gây tai nạn. Tôi lái rất chậm,
mình đi chậm thì còn ai đụng vào mình nữa ? Ông ung
dung lái cỡ 40 cây số giờ.
47
Không hiểu chiếc xe con như con ngựa già của Chúa
Trịnh này, có phải là chiếc xe đã đưa ông đi khắp Âu
Châu?
3. Còn Địa chỉ danh giá thứ ba là : "Biệt thự Vô Môn
số 7, trấn Do Thái, vùng sông Seine".
Tức là nơi chiếc xe van cũ kỹ tại bãi tha ma xe hơi mà
Trưởng dùng trú ngụ.
Và để thư từ không thất lạc, Trưởng tìm gặp người
đưa thư vùng đó và dặn : Hễ thấy biệt thự Vô Môn, thì
mang đến chỗ chiếc xe van ở nghĩa trang xe hơi cho
Trưởng, Trưởng sẽ bồi dưỡng.
Nhờ vậy mà thư từ liên lạc với Trưởng không trở ngại
gì. Có một dạo người ta thấy Trưởng dùng chiếc xe van
này để làm "nhà in" kiếm tiền.
Ngay trong chiếc xe van này, ngoài chỗ dành để ngủ,
Trưởng kê mấy kệ sách, vài hộc chữ in bằng chì có dấu
Việt và một chiếc máy in typo quay tay nhỏ bé. Đó chính
là "nhà in bé nhỏ, lưu động và tốc hành", theo như giấy
quảng cáo của Trưởng :
Vô Môn Nhà in nhỏ - lưu động - tốc hành
In : Tín chỉ
Danh thiếp
Thiệp mời
Các loại giấy tờ khác.
Giá hạ
Nhằm giúp cho những trẻ em nghèo nơi vùng đất xa.
48
Nhờ vậy mà Trưởng đã nhận in truyền đơn, thi phú,
đơn từ, thiệp các loại, v.v...
Công việc in ấn này tự mình Trưởng làm lấy, từ khâu
sắp chữ, in ấn, chuyển giao...
Đó cũng là nguồn thu khả dĩ giúp cho Trưởng trang
trải những khoản chi tiêu hết sức khiêm tốn của mình.
49
CHÍN.
CUỘC SỐNG TỰ LẬP
hư Trưởng đã nói : "Anh không nhận tiền
bạc của bất cứ người nào hay tổ chức nào.
Sống nhờ chính vào sức mình bằng cách đổi
công, cắt cỏ cho các tư gia. Hái trái cây ở các nông trại
và cũng có lúc nhờ dịch một số tài liệu Hán văn cho một
vài trường Đại học".
Đúng vậy, Trưởng hoàn toàn sống nhờ vào bàn tay
khéo léo, khối óc thông minh của chính mình.
Với tinh thần tháo vát, tự lập, danh dự của một người
HĐS, Trưởng đã tự tạo dựng lấy cho mình một cuộc sống
"tương đối bình thường" giữa một xã hội văn minh hiện
đại, nơi đất khách quê người, gần 15 năm trời.
Không tiền bạc, không nhà cửa, không nghề nghiệp
ổn định, không bà con thân thuộc, nhưng Trưởng đã biết
cách xoay xở để có thể đi lại khắp Âu Châu qua cả Mỹ
quốc.
Người Việt Nam chúng ta thường nghĩ "Ăn hết nhiều
chứ ở chẳng bao nhiêu". Ăn là mối lo, là vấn đề khó khăn
cho con người. Nhưng với Trưởng Võ Thanh Minh thì
vấn đề ăn uống lại là một chuyện khá đơn giản.
Trước hết Trưởng sống rất đạm bạc, ăn uống cũng
kham khổ, chay tịnh như một nhà tu hành. Thực ra
Trưởng ăn chay trường, không phải vì tu hành khổ hạnh
mà chính vì hoàn cảnh sống, vì đỡ rắc rối mất thì giờ lo
chuyện nấu nướng.
Trong những ngày sống ở nước ngoài, bữa ăn của
Trưởng rất đơn giản, thường dùng bánh mì khô (đen) với
N
50
bắp su hay xà lách chấm xì dầu trộn với dầu phụng. Bánh
mì đen là một loại thực phẩm rất rẻ, người Pháp thường
mua về dằm với sữa tươi cho mèo ăn. Trưởng Minh còn
cho biết thêm là bánh mì này chỉ vài chục xu 1 kg. Còn su
cũng chỉ từ 50 - 80 xu/kg. Và "ăn như vậy đủ bổ, lại rẻ,
chất tươi là su, chất béo là dầu, thay cơm là bánh mì" (Võ
Thanh Minh).
Chỉ có những dịp có khách Việt Nam đến thăm chơi
thì Trưởng mới nấu cơm Việt Nam để đãi khách. Nói cơm
Việt Nam cho ngon vậy, chứ thực ra cũng chỉ đơn giản
thôi. Khi soong cơm còn nghi ngút, Trưởng xào hành,
thêm chút muối, dầu, rồi đổ vào soong cơm trộn đều. Thế
là có một bữa cơm Việt Nam mà theo Trưởng là "thịnh
soạn" lắm đó, vừa thơm lại vừa ngon.
Trưởng Sáo Dễ Thương Phạm Văn Nhơn cũng có ghi
lại theo lời kể của Trưởng Dã Mã :
"Ở bên xứ Tây này, thức ăn thừa mứa nhiều lắm. Dư
thừa là họ đổ bỏ chứ không chịu để dành như ta, nên
thùng rác nhà nào cũng đầy thức ăn thừa. Thường thì cứ
10 ngày một, anh xuống phố nhặt nhạnh những thức ăn
đó. Rác họ bỏ trong bao gọn gàng lắm, chứ không hề bề
bộn như rác Mỹ ở Phú Bài đâu. Trưởng chỉ cần đi vài
chục nhà là ba lô, túi xách đã đầy ắp và đồ hộp.
Ban đầu các ông tây bà đầm thấy bới thùng rác nhặt
nhạnh thức ăn, họ lấy làm lạ lắm. Sau hiểu ra họ gói ghém
cẩn thận, để vào hộp giấy sẵn, khi thấy bóng dáng anh là
họ đem ra, cũng có người đem đến tận bãi xe. Phong lưu
quá đi chứ. Mì cả đống chất đầy hai thùng. Ở cái xứ lạnh
này mì để lâu không sao cả. Chỉ không có chỗ để mà thôi.
Còn đồ hộp thì khỏi nói, đầy một góc xe, đủ cả sữa, đậu,
thịt, trái cây, Cocacola, bia..."
51
Thỉnh thoảng ông cũng ghé lại quán cơm sinh viên
Việt Nam số 80 đường Monge ở Paris quận 5 để ăn cơm
rẻ tiền. Người ta thấy một người cao tuổi, mặc áo dài đen
(quốc phục), cương nghị và quắc thước, đến mua một xuất
cơm trưa, rồi lần trong bọc áo lấy ra một gói muối mè,
ngồi chấm ăn ngon lành.
Khi sống trong nước, cung cách ăn uống của Trưởng
cũng rất bình dân, giản dị. Có khi lấy một hay hai lá xà
lách trải vào bàn tay, xắn một cục cơm bỏ trên lá xà lách,
gắp tí chao bỏ trên cục cơm, lấy hai hột đậu phụng bỏ trên
miếng chao, rồi cuốn lá xà lách gói toàn bộ lại, ăn. Một
ngày chỉ cần nấu một nồi cơm rồi ăn cả ngày.
Nhưng món mà Võ Thanh Minh thích nhất là món
"Mít non lụt".
Quả mít non được gọt bỏ vỏ, rồi bổ dọc, bổ ngang
thành 8 miếng cho vào nồi nước sôi, thêm chút muối, chút
chanh... Khi mít chín rồi (lấy chiếc đũa tre thọc vào miếng
mít mà thấy đũa xuyên qua nhẹ nhàng là mít đã chín) thì
vớt ra, và rửa sơ qua nước lạnh cho nguội. Xong rồi một
nửa thì xắt lát như xắt thịt phay, vừa miệng ăn, để chấm
với nước tương, xì dầu. Còn một nửa thì xắt nhỏ và mỏng
hơn để trộn với các loại rau mùi, đậu phụng, mè và dầu
phụng, v.v...
Đây là món ăn dân dã, nhưng có hương vị rất đặc
trưng, ngon và lạ.
Ở vùng Quảng Nam, người ta cũng thích ăn mít non
trộn xúc bánh tráng nướng, nên có câu ca dao :
"Ai về nhắn với bậu nguồn
Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên"
52
Mặc dù chủ trương "ăn để sống", ăn một cách đơn
giản, đủ chất bổ, như kiểu ăn chay trường vậy, nhưng nếu
gặp trường hợp được mời ăn mặn, tiệc tùng thì Trưởng
Võ Thanh Minh vẫn ăn ngon lành như thường. Không luật
lệ khắt khe gì. Ngày Trưởng trở về Quảng Trị, Trưởng
Ngựa Chịu Khó Nguyễn Trung Thoại có "thết đãi"
Trưởng một bữa cơm. Tuy nhiên vì đã biết Trưởng Võ
Thanh Minh thường ăn chay, nên bữa cơm đó cũng được
thực hiện theo cách ăn chay. Khi dự bữa cơm đó, Trưởng
Minh đã nói :
"Vì anh Thoại biết nên cho ăn cơm chay, chứ nếu
trong trường hợp đặc biệt bất khả kháng, cho ăn mặn tôi
cũng ăn ngon lành như thường, và tuy miệng nhai đồ ăn
mặn mà trong tâm cứ tưởng là món ăn chay thì nó vẫn là
chay có khác gì đâu"
Hoặc lần khác :
"... Đến nhà ai không có đồ ăn chay thì mình ăn mặn
như thường không sao cả. Anh không phải là một nhà tu
sĩ cần chay tịnh mà anh ăn chay trước hết là vì hoàn cảnh
sống. Sống một mình lo cái chuyện ăn uống mất thì giờ và
rắc rối lắm. Ăn chay là tiện nhất. À mà mỗi năm anh chỉ
ăn 11 tháng thôi (tháng 7 tuyệt thực, vì tháng chia đôi đất
nước) (LNV).
54
MƯỜI.
HUYỀN THOẠI HỒNG SƠN DÃ MÃ
uộc đời của Trưởng Võ Thanh Minh giống
như một chuỗi những chuyện huyền thoại,
không tưởng. Hay nói đúng hơn Trưởng có
một cung cách sống thật khác thường, mà người ta có thể
nói "không giống ai", nhưng chính xác phải là "không ai
giống Trưởng".
Trong thời buổi loạn ly, một mình đạp xe rong ruổi
khắp ba nước Đông Dương, rồi không tiền không bạc mà
cũng tìm được cách ra ở nước ngoài. Độc đáo nhất là đến
cắm lều bên hồ Léman để tuyệt thực, thổi sáo, diễn thuyết,
bày tỏ lập trường phản đối chia cắt đất nước theo hiệp
định Genève 20/07/1954. Không danh tiếng, không khoa
trương mà đã tiếp kiến nhiều nhà lãnh đạo, viết thư cho
những nguyên thủ quốc gia, các nhà lãnh đạo, các tôn
giáo.
Con người tứ cố vô thân, sống đơn độc, không nhà
cửa, không tiền bạc, mà dấu chân anh đã in khắp trời Âu
trên 20.000 cây số với gần 15 năm trời.
Cung cách ăn mặc cũng thật dị thường, dù theo Tây
học nhưng luôn quý trọng cách ăn mặc quốc hồn quốc túy
: áo dài, quần trắng (ngay giữa trời Tây), lại thêm cái áo
choàng giống như các hiệp sĩ, mà nhiều người gọi là
batman (người dơi). Nhưng Trưởng nói : "Anh mặc theo
kiểu này lâu rồi, từ khi đạp xe đi khắp năm xứ Đông
Dương cho tới giờ, nó tiện lắm : che mưa cản nắng, chống
C
55
lạnh (là tấm đắp), là cái võng và có thể biến thành lều cá
nhân" .
Còn cung cách yêu nước tha thiết cũng không ai
giống Trưởng.
Dưới đây chúng ta kể lại một vài chuyện "không ai
giống Trưởng".
Trước hết hãy nghe Trưởng A.G.Legrand nói về
Ngựa Rừng với tất cả kính phục.
"Dã Mã (Ngựa rừng) là một hạng người siêu phàm
khi ngủ chỉ nhắm một mắt.
Anh có thể đi bộ hàng chục cây số để đuổi theo kịp
một Thiếu đoàn, hay đến dự một cuộc trại.
Tôi đã trông thấy anh trèo lên một cây cao trên 15
mét, đang lúc anh có một cái nhọt ở vùng háng (thận), và
anh đã làm giảm đau bằng cách buộc hai khúc gỗ hai
bên, sao cho dây thắt lưng của anh không làm cho nhọt bị
vỡ ra.
Con người (phi thường) đặc biệt thay.
Vâng, anh Dã Mã ơi ! Anh thật là một trong những
tráng sinh chân chính" .
(Yama (cheval sauvage) une espèce de surhomme qui
ne donmait jamais que l'un oeil, et qui pouvait parcourir
à pied des dizaines de kilometres pour rejoindre une
troupe ou un camp.
Je l'ai vue grimper à une arbre de plus de quinze
métres avec un abcès, au niveau des reins dont il
neutralisait les effet douloureux par deux bouts de bois
qui empêchaient que sa ceinture n'écrasât la tumeur.
56
Quel homme ! Oui, vous êtes un des vrais pionniers,
Yama" (A.G. Legrand).
Câu chuyện thứ hai do Liên Trình, con trai của
Trưởng Tráng Cử, kể lại.
"Câu chuyện mạo hiểm này được ba tôi (Tráng Cử)
thuật lại trong đêm lửa trại tại rừng Quảng Tế (Huế).
Một lần cắm trại ở trại học Bạch Mã, Ngựa Rừng bị
rắn cắn ở bắp chân. Anh em Hướng Đạo đuổi đập được
con rắn và xác định đúng là loại rắn hổ rất độc. Ngựa
Rừng vẫn bình thản, làm garô, lấy dao lam xẻ chữ thập ở
chỗ rắn cắn, nặn hết máu độc, xong lấy một loại thuốc bột
(?) rắc vào vết thương, rồi băng lại, không thấy Ngựa tỏ
ra đau đớn, tỉnh bơ như không có gì xảy ra. Hôm sau,
Ngựa Rừng vẫn hoạt động bình thường" .
Quả là phi thường, tự tin, bản lĩnh và kỹ năng Hướng
Đạo rất tuyệt vời.
Chuyện thứ ba là chuyện nuôi rệp và nuôi chuột.
Thi Vũ có kể rằng : Thi Vũ có đến thăm Trưởng Võ
Thanh Minh ở tại "Biệt thự Vô Môn" (bãi tha ma xe hơi ở
Paris) và tối đó ngủ lại để tâm sự. Thi Vũ chưa kịp ngủ thì
"rệp đã bò đầy người và cắn một cách tàn nhẫn", nhưng
Thi Vũ không dám bắt mà chỉ lấy tay phủi đi vì sợ phiền
lòng ông. Nhưng có lẽ như biết trước, Trưởng Võ Thanh
Minh mới hỏi :
- Ông Vũ bị rệp cắn hả ? Có lẽ vì thấy hơi lạ, ông cứ
để yên cho nó bò là nó không cắn. Hắn quen hơi tui nên
nó không cắn nữa.
57
Lần đó, Thi Vũ thất kinh không dám ở lại biệt thự của
Trưởng nữa.
Nên có lần Trưởng muốn mời Thi Vũ đến chơi, đã
bảo đảm là không còn rệp, chuột nữa.
"Thi cử xong xuôi rồi, nếu không đi hè đâu thì mời về
Vô Môn chơi ít hôm. Độ này tôi đã dọn lại ít bừa bãi hơn
và cũng bớt rệp nữa... Bầy chuột cũng bỏ đi hết trong lúc
tôi ở Genève..."
Chuyện nuôi rệp, nuôi chuột là do báo chí, một thời
đã "phóng đại" lên, làm nhiều người không hiểu sao cả.
Khi Trưởng Sáo Huế Phạm Văn Nhơn có dịp đàm đạo
với Trưởng Minh, thì đã hỏi Trưởng Minh về chuyện báo
chí đã đăng tải, câu chuyện như sau :
"Thưa Trưởng, năm 1959 tờ báo Cách mạng Quốc gia
xuất bản ở Sài Gòn có viết phóng sự đăng nhiều kỳ nói về
anh từ thuở thiếu thời cho đến khi ngồi tuyệt thực thổi sáo
ở Genève. Nhưng câu chuyện này anh đã kể cho em nghe
rồi. Duy có cái chuyện kỳ kỳ nên em không dám hỏi".
Anh cười hiền từ :
- Cái chuyện gì mà kỳ ? Sao lại không dám hỏi ?
- Họ nói anh nuôi rận nuôi rệp và ở chung với chuột ?
Anh bật cười :
- Làm gì có cái chuyện nuôi kỳ lạ đó. Chuyện xảy ra
thế này :
Sau khi rời Thụy Sĩ anh sang sống ở Pháp, để khỏi
làm phiền ai, anh ra sống ở bãi tha ma xe hơi...
Rồi, một thời gian anh khóa thùng xe để đi một vòng
các nước Châu Âu gần Pháp. Mãi 5 tháng sau mới trở lại
nhà xe. Trong lúc ngồi thiền anh thấy ngứa ngáy nhiều
chỗ, không chịu được anh dùng tay xoa mạnh cho đỡ
58
ngứa thì ngửi thấy mùi hôi của rệp. Mở mắt nhìn anh thấy
vô số rệp đang bò lúc nhúc. Cái kẽ sàn xe đầy cả xác rệp
chết. Những con còn sống thì xơ xác, xếp ve, trắng bạch,
vì không có máu. Hóa ra mấy tháng nay vắng bóng anh
chúng không có máu để hút nên mới ra nông nổi này.
Nhìn cảnh này anh nhớ đến trận đói năm 1945, người chết
không kịp chôn, xác nằm ngổn ngang khắp các ngõ, chính
tay anh đã nhặt nhiều xác chết đem đi chôn. Mà nếu có
luân hồi tiền kiếp thì những con rệp này cũng là một kiếp
trong bể trầm luân. Nếu chúng khéo tu thì kiếp sau cũng
có thể hóa kiếp làm người. Bình thường ta bị đứt tay mất
bao nhiêu máu chẳng sao cả, nay chỉ cần 1cc máu là cứu
được bao nhiêu sinh mạng rệp. Nghĩ thế nên anh dùng
ngón tay út xúc những chú rệp sắp chết ấy để vào chỗ da
non kẽ bàn tay cho chúng tha hồ...
Từng đợt, từng đợt, con nào no rồi thì gạt xuống cho
con khác thế chỗ. Anh mải mê việc cứu nạn này đâu có
ngờ đám phóng viên của các báo bình dân (báo lá cải) đã
theo dõi chực chờ sẵn, chụp ảnh, viết tin lạ...
Còn cái chuyện nuôi chuột, sống với chuột... Chuyện
thế này :
Trên xe anh ở nhiều chuột lắm, không làm sao đuổi
chúng đi được, mà đuổi làm gì chứ. Trong cái cảnh hoang
phế này thì chuột và người sống chung có sao đâu. Cho
nên không những không xua đuổi chúng mà anh còn cung
cấp thức ăn cho chúng nữa. Mà thật ra không phải anh
cung cấp, mà chính là dân Pháp đấy. Anh chỉ là người
trung chuyển mà thôi. Này nhé, ở xứ trời Tây này thức ăn
thừa mứa nhiều lắm. Dư thừa là họ đổ, bỏ chứ không chịu
để dành như ta, nên những thùng rác nhà nào cũng đầy
thức ăn thừa.
59
Cứ mười ngày anh xuống phố tìm thức ăn và đem về
chất đầy một góc xe. "Ngày ba bữa no nê bơ sữa". Mà khi
mình đã có dư dả rồi thường nghĩ đến kẻ khác, giúp đỡ
tha nhân. Mỗi khi anh ăn, đưa mắt nhìn quanh, thấy trong
các ngõ ngách của nhà xe, các chú chuột thau tháu nhìn
anh. Chuột phá hoại mùa màng, gây tang tóc cho người
dân đâu chẳng thấy, chỉ thấy chúng nhìn anh ăn không
chớp mắt, thèm thuồng ra mặt. Quỷ quái cái lũ này, sao
không về thành phố mà sống, lại chui rúc ở chốn này tìm
đâu ra cái ăn. Lại nghĩ, hay chúng cũng như mình, cũng là
nạn nhân của sự kiện nào đó, đưa đẩy chúng đến đây sống
lưu linh lạc địa.
Thôi thì cùng một phương trời lận đận nên chia sẻ
ngọt bùi với nhau.
Và rồi cứ đến bữa ăn là anh chia phần đầy đủ cho
chúng. Vui lắm, linh động lắm. Cứ vỗ tay 3 cái là từ hang
hóc xó xỉnh nào đó chúng lục tục kéo bầu đoàn thê tử đến
dùng bữa. Người và chuột sống chung hòa bình và các
phóng viên lại có ảnh lạ, tin lạ "Ông Võ Việt Nam sống
với chuột"...
60
MƯỜI MỘT.
VỀ NƯỚC
uối năm 1963, miền Nam Việt Nam có chính
biến (đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963),
tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm bị lật đổ và bị thủ tiêu.
Cũng như nhiều người khác hy vọng đất nước có
chiều hướng thay đổi, cho nên Võ Thanh Minh dự định
quay về nước, để đến cắm lều tuyệt thực ngay bên bờ
sông Bến Hải, kêu gọi 2 bên Nam - Bắc từ bỏ ý thức hệ,
trở về một quốc gia trung lập, tránh cho dân tộc Việt cảnh
chiến tranh tàn khốc đau thương.
Trước khi rời đất Pháp, Trưởng đến từ biệt những
người bạn thân quen và đem mấy hộc chữ chì có dấu Việt
và cái máy in tay Typo tặng cho ông Thi Vũ. Trưởng có
làm bài thơ "Bán quốc qui Hồ bán quốc Ngô" để tặng bạn
bè lúc lên đường về nước.
Tuy nhiên sau khi từ biệt bạn bè Trưởng chưa vội về
nước mà còn tìm cách sang Nữu Ước (New York) đến
Liên Hiệp Quốc để vận động cho Việt Nam trung lập.
Nhưng "LHQ mênh mông vô vọng, trống không tình
người. Đất đai đâu cho ông in dấu bàn chân trần mang vết
một đồng quê xa lắc miền Trung" (VN)
Rời Nữu Ước, ông qua Canada rồi về Cambốt và
nhập cảnh Việt Nam.
Ngày về của Trưởng được nhiều tác giả ghi lại một
cách khác nhau.
C
61
Nguyễn Đăng Ngọc (thiếu đoàn Nguyễn Xí) ghi :
"Năm 1963, sau ngày chính phủ của Tổng thống Ngô
Đình Diệm bị lật đổ, với hy vọng làm được một việc gì có
ích cho đất nước, anh đã trở lại Việt Nam. Nhưng ngoài
mọi dự tính vừa bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất thì
anh bị một lực lượng nào đó đón rồi đưa thẳng lên Pleiku.
Sau một tuần lễ gần như bị giam lỏng ở Pleiku. Người
ta hỏi anh muốn về đâu thì được đưa về đó. Suy tính kỹ
anh thấy trở lại Huế là thuận tiện nhất vì anh đã từng sinh
sống ở đó. Anh lại nhớ tới nhà thờ cụ Phan Bội Châu, một
người đồng hương, một người yêu nước anh vô cùng kính
mến. Không làm được gì thì sớm tối hương khói cho cụ
gọi là bày tỏ lòng hiếu đối với cụ và cũng vơi được lòng
yêu nước lúc tuổi già" .
Còn Bầy trưởng An Tiêm, Huế - Nguyễn Thị Xuân
Lan - Sói mỏng tai thì viết :
"Cuộc sống của anh khắc khổ, đơn độc, âm thầm, ấp ủ
những ý nguyện tuyệt vời cho đất nước. Nhưng rồi ngày
tháng dần qua, thấy đời sống ở Pháp không hợp với chủ
trương trung lập của anh, nên anh tìm cách trở về Việt
Nam đầu năm 1965.
Anh về lại nguyên quán Quảng Trị thăm người em là
Võ Thành Khiết, cũng một huynh trưởng hướng đạo, rồi
vào Huế cư ngụ tại nhà thờ cụ Phan Bội Châu ở Bến
Ngự .
Trong bài "Tưởng niệm Võ Thanh Minh" nhà văn
Hoàng Liên (Nguyễn Văn Đãi) thì ghi :
"Năm 1965 ông nhờ Cambốt can thiệp và thu xếp để
được trở về Việt Nam. Tại Sài Gòn ông bị giữ lại một
tháng tại Tổng Nha cảnh sát để điều tra. Ông xác nhận
trong thời gian ấy ông được chính quyền miền Nam đối
62
xử rất đàng hoàng, ông được phép về nguyên quán
(Quảng Trị) tạm trú tại nhà người em cùng cha khác mẹ
là ông Võ Thành Khiết, cũng là một huynh trưởng hướng
đạo. Sau đó ông trở về Huế để trông nom từ đường của
chí sĩ Phan Bội Châu và dạy học tư" .
Ngoài những ghi nhận ở trên, chúng tôi còn thấy có
bài viết của Trưởng Nguyễn Trung Thoại - Ngựa chịu
khó là một chứng nhân trực tiếp, sống động, trong vụ việc
trở về nước của Trưởng Võ Thanh Minh.
Nhưng điều chúng tôi băn khoăn là không làm sao lý
giải được sự khác biệt giữa ghi nhận của Trưởng Thoại
với các ghi nhận ở trên.
Theo Trưởng Nguyễn Trung Thoại - lúc bấy giờ là
Phó tỉnh trưởng Nội An tỉnh Quảng Trị, là người trực tiếp
đón nhận Trưởng Võ Thanh Minh về quê quán tạm trú, đã
xác quyết như sau :
"Tôi còn nhớ rất rõ, hơn 20 năm về trước, vào ngày
23 tháng Chạp, cận ngày Tết Đinh Mùi (1967) tôi tiếp
nhận một công điện mật, khẩn của Tư lệnh Quân đoàn II,
kiêm đại biểu Chính phủ vùng II, nội dung hỏi ý kiến về ý
nguyện của ông Võ Thanh Minh xin về quê nhà ăn tết ở
thị xã Quảng Trị, tại nhà người em là Võ Thành Khiết.
Thật tình tôi có suy nghĩ mất nửa ngày, trước khi
đánh điện trả lời : "thuận"...
Nhưng tôi có suy nghĩ vì 2 lý do :
1. Trong công điện nói quá vắn tắt. Tại sao đánh đi từ
Pleiku (Quân đoàn II) mà không là Sài Gòn (chính phủ
trung ương) ?
2. Lập trường hòa bình của anh Minh ra sao...
Thế rồi ngày 26 tháng Chạp, anh Võ Thanh Minh đến
Quảng Trị trong một buổi chiều mưa lạnh, do quân cảnh
63
dẫn giao cho Ty cảnh sát Quảng Trị. Thông thường các
trường hợp như vậy thì cơ quan an ninh cứ thi hành phận
sự, chỉ tường trình tỉnh trưởng biết để nếu cần bổ túc các
biện pháp cần thiết.
Nhưng đây là một ngoại lệ, tôi dặn Ty cảnh sát hễ khi
ông Võ Thanh Minh đến thì đưa thẳng đến gặp tôi...
Khi anh Minh đến, thì anh Bé (lái xe của Nguyễn
Trung Thoại) dẫn vào : dáng người gầy cao quắc thước,
đầu đội mũ bêrê đem, chòm râu lưa thưa, áo da đen
không có tay, mang kính trắng gọng bạc, tay chống batôn
bộ đi chậm rãi.
Có lẽ Bé có nói trước với anh Minh, tôi cũng là một
Trưởng Hướng đạo, nên trong khi từ cửa chính vào phòng
khách, vừa gặp, anh Minh đã chìa bàn tay trái ra bắt,
tươi cười chào tôi, và nói : "Vừa được biết anh là một
Trưởng Hướng đạo, không biết giờ này tôi là người bị
quản thúc đứng trước chính quyền hay là đang vào bàn
diễn tiến một trò chơi với một Trưởng".
Tôi đáp :
- Cả hai, và kéo anh Minh cùng ngồi chung ghế
xalông dài với tôi để nói chuyện...
Đến đây anh Minh tỏ ý xin cáo biệt để về nhà anh
Khiết nghỉ ngơi... Tôi dặn Bé lái xe đưa anh về nghỉ vì
suốt cả ngày, với tuổi tác khá cao như anh Minh đi máy
bay quân sự từ Pleiku về Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng đi xe
Jeep nhà binh ra Quảng Trị, tôi chắc là mệt lắm.
Trưởng Nguyễn Trung Thoại cũng còn cho biết là :
"Một thời gian sau đó, anh Minh kể cho tôi nghe là
anh vừa qua mắt chính quyền" đi Đà Nẵng chơi không xin
phép một tuần lễ mới về, đi bằng xe đạp, đoạn nào hầm
hố hay cầu bị gãy thì vác xe đạp lên vai, theo cầu sắt hoặc
64
đường rây xe lửa mà đi, rứa mà cũng tới nơi, cần chi phải
xe hơi, xe đò cho cực. Cũng nên biết đoạn đường Quảng
Trị - Đà Nẵng khứ hồi là 360km, phải vượt qua đèo Hải
Vân phía bắc Đà Nẵng, rất cao và hiểm trở" .
Việc anh vào thăm Đà Nẵng là có thực. Anh đã đến
thăm các Trưởng Đà Nẵng tại đạo quán An Hải, số 144
đường Hoàng Diệu (nay là cơ quan của Đoàn TNCSHCM
quận Hải Châu). Anh em Đà Nẵng có chụp hình Trưởng
và còn lưu giữ đến ngày nay.
Như thế, theo Trưởng Thoại - một nhân chứng trong
cuộc thì Trưởng Võ Thanh Minh về Quảng Trị năm 1967.
Trong lúc đó chính Trưởng Võ Thanh Minh trong tập
"Vài nét phác họa..." cũng ghi là viết tại Từ đường Sào
Nam tiên sinh ngày mồng 1 tháng 7 năm Bính Ngọ
(1966).
Bên cạnh đó, chính Trưởng Phạm Văn Nhơn - Sáo
Huế cũng xác nhận là năm 1965 Trưởng Võ Thanh Minh
đang ở Huế.
"8h00 sáng ngày ..... tháng ..... năm 1965 Trưởng (Võ
Thanh Minh) ghé nhà tôi tại thành nội Huế. Thật là một
con người hoàn toàn khác lạ, vẫn chiếc mobylette cũ kỹ,
nhưng ăn mặc thì hoàn toàn khác lạ : quần dài vải trắng,
áo lá mặc trong cũng trắng, áo dài đen mặc ngoài, giày
đen láng, đội nón găng... một ông đồ nho chính hiệu" .
Như vậy thì Trưởng Võ Thanh Minh đã có mặt tại
Huế trước hay về Quảng Trị trước rồi sau đó mới vào ở
tại Huế?
Theo một số tác giả thì Trưởng Minh về Quảng Trị
trước rồi sau đó vào Huế và thỉnh thoảng ra Quảng Trị
thăm người kế mẫu và người em trai.
65
Trưởng Nguyễn Đăng Ngọc có ghi : "Anh còn người
kế mẫu và một người em trai ở Quảng Trị. Quảng Trị -
Huế - Quảng Trị không xa lắm, anh có thể đi lại thăm
viếng dễ dàng. Theo chỗ tôi biết thì anh phụng sự bà kế
mẫu rất chí hiếu, theo kiểu một nhà nho xưa. Với chiếc
mobylette cũ kỹ, tuần nào anh cũng ra vào Huế - Quảng
Trị. Có lần đi quá sớm lúc trời còn mờ tối, các cổng gác
chưa mở nên anh đã đâm sầm vào các vọng kẽm gai vắt
qua đường. Mấy anh lính nghe động vội vàng lấy súng và
lên đạn, nhưng lúc thấy một cụ già đang lúng túng gỡ
chiếc xe ra khỏi giây kẽm, họ vội vàng đến giúp đỡ và mời
vào trạm gác uống nước trà chờ sáng. Với thái độ thân
mật và tài nói chuyện sẵn có, anh đã làm cho các anh lính
gác vui vẻ và có nhiều thiện cảm. Có lần lại mang theo
cây đờn cò (nhị) hay cái sáo trúc, anh đàn và thổi đủ mọi
điệu Nam - Trung - Bắc. Từ đó các anh lính ở các trạm
gác trên đoạn đường Huế - Quảng Trị thường mong chờ
ông già với chiếc mobylette lộc cộc" .
Liên Trình (con trai Tráng Cử) cũng ghi rằng : "Năm
1965, Yama nhập biên từ Cao Miên bị chính quyền bắt an
trí tại Pleiku... Rời Tây Nguyên ra Quảng Trị một thời
gian, Yama phớt lờ chuyện chỉ định nơi cư trú, vào Huế
sống một mình tại Từ đường cụ Phan Bội Châu, sớm hôm
hương khói...".
Ngay cả nhà văn Hoàng Liên cũng ghi là : "Năm 1965
anh về nước, bị giữ lại Tổng nha Cảnh sát Sài gòn một
tháng, rồi bị quản thúc tại Pleiku, sau đó anh về Quảng
66
Trị một thời gian, rồi quay về Huế sống tại nhà Từ đường
cụ Phan cho đến ngày biệt tích".
Cũng xin được ghi thêm một vài chi tiết về thời gian
mà Trưởng Phạm Văn Nhơn (Sáo Huế) đã ghi rất tỉ mỉ.
"Đầu xuân 1967, Thiếu đoàn tôi đi trại tại chùa Quý
Thiên. Lên dốc Bến Ngự tôi sực nhớ nên ghé mời anh
tham dự. Anh vui vẻ nhận lời, hứa trưa mai lên trại".
Chỗ khác :
"Đầu năm 1967, khi dự lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng
(mồng 6 tháng 2) và xem triển lãm tại trường Nữ Trung
học Đồng Khánh, gặp tôi, anh (Võ Thanh Minh) hỏi :
- Chúa nhật này anh nhờ em tí việc, lên anh khoảng
11g00, ăn cơm với anh luôn".
Cuối cùng thì xin quay trở lại với cái mốc thời gian
được ghi trong tập : "Vài nét phác họa về lịch sử HĐVN
lúc khởi thủy".
Trong lời mở đầu Đạo Gia Lai có ghi : "Trưởng Hồng
Sơn Dã Mã Võ Thanh Minh năm 1965 bị quản thúc ở
Pleiku, thời gian này Trưởng thường đến với anh em Gia
Lai. Gia đình anh Đạo trưởng Gia Lai là thân tộc của
Hồng Sơn Dã Mã tại số 21 đường Yersin, Pleiku, cũng là
nơi trú thân trong thời gian lưu đày".
Và chắc là trong năm 1965 Trưởng đã về Quảng Trị,
về Huế, vì theo bút tích Trưởng ghi ở tập "Vài nét..." do
Trưởng viết là ngày "Mồng 1 tháng 7 Bính Ngọ" (1966)
tại Từ đường Sào Nam tiên sinh.
68
MƯỜI HAI.
NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI Ở HUẾ
au khi về nước, Trưởng đã trở về sống với Huế
chỉ vỏn vẹn có 3 năm (1965-1968). Trưởng đã
để lại trong lòng nhiều người, hình ảnh một
con người vô cùng khả kính.
Cuộc sống của Trưởng tuy "khó khăn khổ hạnh",
nhưng Trưởng vẫn luôn luôn làm việc, thích hoạt động và
sẵn sàng giúp ích cho bất kỳ ai, bất cứ lúc nào, kể cả trong
tháng 7 là tháng Trưởng tuyệt thực, Trưởng vẫn hoạt
động, vẫn dùng máy chữ viết thư gởi cho nhiều nhà lãnh
đạo.
Ngoài việc lo quét dọn, hương khói cho cụ Phan,
Trưởng còn mở lớp dạy miễn phí môn Pháp văn cho các
sinh viên học sinh, hoặc lớp dạy võ, múa kiếm, không
quan tâm đến chuyện tiền bạc. Nhưng học sinh của
Trưởng rất kính phục và yêu mến Trưởng, thường đem
biếu thầy những thứ cần thiết như thức ăn, đồ dùng cá
nhân.
"Các con lớn của tôi cũng được anh dạy cho bài "Dã
Mã đơn kiếm". Các cháu yêu mến bác lắm, và rất mê
đánh kiếm. Đạp xe từ An Cựu lên Bến Ngự để học với bác
rất chuyên cần" .
Thỉnh thoảng Trưởng cũng đến "Di Luân Đường" ở
trường Quốc Tử Giám (nay là trường Trung học Hàm
Nghi) để gặp gỡ các quan lại cũ của triều đình Huế, các
nhân sĩ trí thức, ông nghè, ông cử, để cùng "trà đàm" và
ngâm vịnh thi phú.
S
69
Lúc này, Trưởng không còn giữ trách vụ gì trong
phong trào Hướng Đạo, thế nhưng Trưởng vẫn thường
xuyên lui tới vui chơi và sinh hoạt với anh em như Thiếu
đoàn Trần Quốc Toản.
Khi biết có trại dự bị do Trưởng Lê Gia Mô làm Khóa
trưởng, Võ Thanh Minh đã tự nguyện đến như một tráng
sinh giúp việc. Và đúng như vậy, Trưởng đã phục vụ,
công tác vệ sinh trại như một tráng sinh thực thụ, chứ
không phải đến tham quan với tư cách một Trưởng
nguyên Tổng Bí thư Hội Hướng Đạo Đông Dương. Một
điều hiếm thấy thật.
Và ai cũng nghì rằng : bên dòng sông Bến Ngự của cố
đô trầm lặng, Trưởng sẽ được tiếp tục sống những ngày
thanh đạm cuối đời để lo hương khói cho nhà chí sĩ yêu
nước Phan Bội Châu và giúp ích cho những ai cần đến.
Nhưng rồi sóng gió nổi lên, chiến tranh bom đạn đã
không trừ một ai. Biến cố Mậu Thân - năm 1968 - đã bao
trùm cố đô của Trưởng.
Lập trường cố hữu của Trưởng là : "Trung lập - Trung
lập thôi". Trưởng không muốn hai khối thế giới tự do và
khối CS làm cho dân tộc Việt Nam phải chịu cảnh phân
ly, đất nước bị tàn phá, gia đình bị tang tóc điêu linh.
Trưởng là một người yêu nước chân chính, rất yêu thương
quê hương đất nước, rất yêu thương đồng bào ruột thịt
cho dù bất cứ người đó là ai, nếu cần giúp đỡ thì Trưởng
sẵn lòng giúp.
Ngay trong biến cố Mậu Thân, mặc cho súng ống
bom đạn, mặc cho nguy hiểm, Trưởng đã chạy đi chạy lại
70
khắp nơi, để giúp đỡ cho những ai cần đến. Khi thì dẫn
đưa những người già tìm nơi tránh đạn; hoặc giúp em bé
tìm lại gia đình. Khi thì băng bó chăm sóc ban đầu cho
người bị thương, không phân biệt quốc gia hay C.S. Một
nhân chứng kể :
"Suốt thời gian đó (Mậu Thân), ông Minh đạp xe đạp
đi tải thương, đi cứu đói, băng bó các nạn nhân, đào hố
chôn xác dân bị hành quyết hay bị lạc đạn dọc đường.
Thấp thoáng bóng ông khắp vùng Bến Ngự, Từ Đàm, An
Cựu... Chỗ này ông đem chia vài lon gạo, chỗ kia vài trái
su, vài thức ăn khô. Ông đi tập họp anh em sinh viên y
khoa để cứu thương. Một anh lính bộ đội được ông băng
bó nói :
- Cám ơn cụ... sẽ nhớ công.
- Tao hả, tao không cần... Tao chỉ biết hắn là người.
Hắn đau thì tao cứu. Mả cha nó bắn nhau, giết nhau, chỉ
có dân khổ.
Anh lính giải phóng e dè :
- Trong khu này có nhiều cán bộ, cụ không nên ra
ngoài nhiều lỡ họ hiểu lầm thì phiền lắm.
Ông cười gằn :
- Tao hả ? Tao người quốc tế mà. Ông Hồ cũng phải
nể tao. Tổng thống Mỹ cũng nể tao, vì tao có chính nghĩa.
Vẫn tính khí can trường, không hề sợ sệt, mặc cho
bom đạn, hiểu lầm, ông vẫn ung dung ngồi đánh máy thư
gửi Tổng thống Mỹ, gởi Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu
ngưng chiến...
71
Khi thấy chiến tranh quá thảm khốc, với tư cách là
một trí thức Nho Giáo, ông đã cùng với một nhà sư Phật
giáo và một Linh mục Công giáo đến gặp đại diện Bộ Tư
lệnh lực lượng quân sự Mỹ ở Huế, để yêu cầu quân đội
Mỹ ngưng bắn trong một thời gian ngắn hầu cho thân
nhân những người tử nạn vì bom đạn trên chiến trường có
thể lượm xác về chôn cất. Trên đường đi, để cho an toàn,
ông và hai vị - Nhà sư và Linh mục - có cầm "Cờ trắng"
để nói rằng : Mình không phải là kẻ thù. Thế nhưng chính
lá cờ trắng này lại buộc ông tội "đầu hàng địch". Và cũng
theo nhân chứng trên thì:
"Khi bộ đội vào lục soát nhà thờ cụ Phan, bộ đội nhìn
xuống hầm ra lệnh cho mọi người lên mau rồi nói: "Đàn
bà con nít hết hả ? Bà ni răng khóc dữ rứa ?
- Dạ tui bị lạc mất chồng tui.
- Đi họp hả ?
- Dạ chồng tui là ông giáo sư Hảo (Lê Văn Hảo).
Giọng Võ Thanh Minh :
- Chồng chị ni đi lập Mặt trận Liên minh Dân tộc hay
hòa bình chi đó, mà không chịu đi đón vợ con. Các đồng
chí có gặp thì nhắn ông ta về rước vợ con để vinh nhục
cùng chịu chứ".
Giáo sư tiến sĩ Lê Văn Hảo nguyên là giáo sư Đại học
Văn khoa Huế. Năm Mậu Thân đã tham gia cách mạng và
được tướng Lê Minh (Tư lệnh chiến dịch) lập nên làm
Chủ tịch Tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau năm 1975, ông trở về
Đà Nẵng và rồi xin qua sống ở bên Pháp.
Sau khi hỏi mấy người phụ nữ xong, anh bộ đội mới
nói với Trưởng Võ Thanh Minh :
72
- À còn cụ, xin mời cụ đi gặp cấp chỉ huy của chúng
tôi.
- Cấp chỉ huy mô ?
- Cấp chỉ huy vùng này. Tôi chỉ là tổ trưởng của
nhóm, ba anh em chúng tôi canh gác quanh khu nhà này.
- Rứa hỉ ?
- Cụ đi theo với chúng tôi, xin cụ mang theo 15 lon
gạo.
- Đem gạo mần chi rứa ?
- Đem gạo để ăn. Học tập 3 hôm rồi về.
- Cái chi mà phải học tập ?
- Lấy cái bị hay cái túi mà đựng gạo. Đem theo dư ra
càng tốt.
- Họp chi mới được chứ ?
- Họp tập. Đã nói là học tập mà. Mời ông đi theo.
- Tao không đi...
Giọng chắc nịch, bất ngờ của ông Minh làm tôi
chưng hửng. Chắc từ hôm qua, quân giải phóng đến Huế,
tới giờ chưa ai dám nói một câunhư thế. Tôi thầm lo cho
tính mệnh của ông...
(Đúng là tính cách khẳng khái của Võ Thanh Minh).
Tôi không nhìn rõ mặt tên tổ trưởng nhưng tôi nghe
tiếng hắn cười gằn :
- Ông làm chi cho địch ?
- Địch nào ?
- Mỹ Ngụy.
73
Giọng ông Minh ngạo nghễ :
- Nói gì tầm bậy vậy. Tao mà theo Mỹ... Tao không đi
nghe không ! Muốn mời tao phải có giấy Hồ Chủ Tịch.
Tụi bay biết tao là ai không ?
Có lẽ tên tổ trưởng nể ông già gân thật, tôi không
nghe hắn nói thêm gì hết. Một giọng khác đỡ lời :
- Bác đi theo chúng cháu tới gặp cấp chỉ huy, gần đây
là Bộ chỉ huy mà bác.
- Không đi. Muốn nói gì thì kêu cấp chỉ huy của tụi
bay lại. Tao ở đây. Đây là nhà thờ cụ Phan, tụi bay lạ chi
mà không biết.
Tao sẽ tuyệt thực, xuống ngồi dưới chân cầu Bến Ngự
phản đối lối giải phóng của tụi bay...
Tôi đợi một lúc mới nghe ông nói tiếp :
- Còn bà Hảo có nhắn chi cho chồng thì nhắn, nên
nhắn hắn về mang đi mà hưởng vinh quang nghe.
Tiếng người đàn bà khóc sụt sùi, tiếng mấy người giải
phóng chào và tiếng chân đi ra".
Khi bị bắt lên rừng núi Thừa Thiên, Võ Thanh Minh
kể lại với ông Nguyễn Văn Đãi : Hôm mồng 5 Tết (Mậu
Thân) chính quyền CM liên lạc với ông và mời ông lên
vùng "giải phóng" để thảo luận một vấn đề quan trọng với
một cán bộ cao cấp. Ông nghe theo và được đưa lên vùng
rừng núi tỉnh Thừa Thiên. Nhưng ở đây ông không gặp
cán bộ cao cấp nào và cũng chẳng có thảo luận về một
vấn đề quan trọng nào cả như lời hứa. Mà trái lại, ông bị
74
giam giữ như một tù nhân với lý do buộc tội là kéo cờ
trắng đầu hàng Mỹ.
Khi nhà văn Hoàng Liên Nguyễn Văn Đãi bị bắt đưa
lên trại giam, thì đã thấy Võ Thanh Minh ở đó từ vài ngày
trước. Ông Minh ngồi đan rổ trong sân, "đã ngoài 60 tuổi,
cao gầy, ông có phong thái của một nhà Nho trong chiếc
áo dài đen, cái quần trắng, với khuôn mặt dài, dưới cằm
lưa thưa chòm râu muối tiêu. Đặc biệt ông mang đôi ủng
cao su cao cổ rất tiện lợi cho việc đi lại trên những con
đường mòn trong rừng, dưới những cơn mưa tầm tã mùa
này" .
Sau đó hai tuần, Hoàng Liên và Võ Thanh Minh được
chuyển đến một trại giam khác, tương đối quy củ và to
lớn hơn, có chừng 50 tù nhân.
"Trại được cất trên một ngọn núi thấp. Một con suối
nhỏ lượn quanh co dưới chân núi. Mấy cây cổ thụ cành lá
xum xuê che kín hai dãy nhà dài dùng làm nơi cư trú cho
tù nhân. Một căn nhà bếp nằm ở một góc, trên con đường
đi xuống suối một căn nhà nhỏ dành cho nữ tù nhân phía
sau. Bệnh xá và hội trường bao quanh một mảnh sân rộng
dùng làm nơi tập họp tù nhân mỗi buổi sáng để các tổ
nhận công tác trong ngày và cũng là nơi đan lát của những
tù nhân già yếu.
Một buổi chiều, trong lúc tôi đang viết khai báo ở hội
trường, ông Võ tạt vô chỗ tôi và nói nhỏ một câu bằng
tiếng Pháp :
- Tôi dự định trốn. Ông nghĩ sao ?
- Tôi sẽ theo ông.
75
Tôi trả lời ngay không do dự, vì ở trại giam trước ông
đã có lần bàn với tôi về chuyện vượt ngục. Nhưng chúng
tôi chưa kịp sắp đặt kế hoạch thì phải chuyển đến trại
này".
Chắc chắn Trưởng Võ Thanh Minh có dự định trốn
trại là tại vì Trưởng được tin cuộc hòa đàm ở Paris sắp
diễn ra và Trưởng rất muốn đến đó. Năm ngoái, đầu năm
1967, khi Trưởng Phạm Văn Nhơn được Trưởng Minh
mời đến nhà chơi và dùng cơm trưa, thì Trưởng Nhơn có
trao đổi với Trưởng Minh như sau :
"Năm 1954, khi hội nghị Genève nhóm họp, anh tham
dự ngoài lề. Nay nếu có hội nghị tương tự, anh có đến dự
không ?
Mắt anh sáng lên, khuôn mặt tươi hẳn lên :
- Đi ngay. Anh đi ngay sau 24 giờ biết rõ địa điểm
hòa hội.
- Đi thế nào ?
- Dễ lắm, dễ lắm. - Vừa nói anh vừa vươn vai như
sảng khoái lắm.
- Hôm nay anh cần gặp em cũng vì chuyện đó.
Nói xong anh đến mở cánh tủ khép hờ lôi ra một ba lô
căng phồng. Từ tốn lấy ra từng thứ, không thiếu một thứ
gì. Chuẩn bị còn kỹ hơn đi dự trại trường. Có cả bình vôi
trộn thuốc lào để chống đĩa, vắt rừng. Tôi kinh ngạc khi
thấy anh rút ra một lô gương soi, lược và một nắm dây
chuyền vàng.
Thấy tôi nhìn đăm đăm anh hỏi :
76
- Em đã qua trại trường chưa ?
- Dạ rồi.
- Có khóa mưu sinh và thoát hiểm không ?
Tôi đờ người, anh cười.
- Hướng Đạo không có cái khóa "ba trợn" này. Nay
khi biết có hội nghị là anh đi ngay, nhắm hướng Tây mà
đi, dễ ẹc, băng qua dãy Trường Sơn là đến đất Lào. Băng
qua Lào, vượt qua sông sẽ đến Thái Lan. Đoạn hành trình
tiếp theo thì quá dễ rồi. Khó khăn nhất là vượt Trường
Sơn. Đâu có đi lối mòn thông thường, gặp trở ngại ngay.
Phải phát quang dọn đường mới mà đi. Mất nhiều ngày
lắm, mà lương khô đâu có mang đi được. Thế thì phải vào
làng bản của "khách" (Thượng, Mọi, dân tộc) để kiếm
lương thực. Trước đây anh đã nhiều lần thám du miền cao
rồi. Con gái Thượng thích gương lược lắm, nhất là các
loại vòng vàng".
Anh cười.
"Dây chuyền vàng giả này bán đầy ở chợ Đông Ba, rẻ
lắm mà lên trên ấy thì đổi gà qué cơm gạo gì cũng được,
và cũng nhờ cái thứ này mà họ giúp làm hướng đạo chỉ
mình sang Lào".
Tôi phục sát đất và thầm nghĩ : Cái lão nho sinh này
bụng chứa đầy kinh luân, lắm mưu nhiều mẹo. Hèn gì
trước đây dám một mình đi khắp ba nước Đông Dương.
Vừa xếp các thứ vào ba lô, anh vừa hỏi tôi :
- Theo em, anh thiếu thứ gì nữa ?
- La bàn.
77
- Trật lất, cứ nhắm hướng mặt trời lặn mà đi, cần gì la
bàn.
Tôi nghĩ mãi vẫn không tìm ra : thuốc lọc nước, khử
trùng, băng cá nhân, diêm quẹt... đủ cả.
- Em chịu.
- Cái rựa. Thông thường quá phải không em. Thế mà
trong trường hợp này lại rất cần cho anh. Em ở làng
Nông, vậy có biết ông thợ rèn nổi tiếng ở đấy không ?
Ông tên là Quát.
- Dạ biết.
- Thế thì tốt quá. Em nhờ ông ta rèn cho anh một cái
rựa với loại thép tốt nhất, không cần mài vẫn sắc (bén).
Cán rựa bằng cây hóp già đặc ruột hoặc cây lụi. Cần phải
dài độ 8-9 tấc. Cả lưỡi và cán độ 1,20m là được.
Anh dùng rựa để phát quang lấy lối mà băng rừng.
Lên đèo xuống dốc thì làm gậy chống đỡ mà đi. Gặp thú
dữ thì có vũ khí để chống cự" .
Như thế, chúng ta đã thấy được cái quyết tâm đến dự
hòa hội của Trưởng Võ Thanh Minh như thế nào; và sự
chuẩn bị cho cuộc hành trình này cũng đã đầy đủ và khôn
khéo ra sao, vì anh biết rằng ngày đó sẽ xảy ra :
"Cuộc chiến này rồi cũng kết thúc, có điều cuộc
chiến này không kết thúc ở chiến trường, mà ở, đúng rồi,
hòa hội".
Và chính tại cuộc hòa hội này, anh mới có dịp để kêu
gọi một nền hòa bình bền vững cho đất nước, cho dân tộc
là : "Trung lập thôi". Không QG cũng không CS, không
hận thù, không chia rẽ.
78
Cho nên, trong những ngày bị giam giữ, khi nghe tin
cuộc hòa hội sắp xảy ra ở Paris, càng thôi thúc anh phải
trốn trại để kịp đến đó, để nói lên khát vọng cháy bỏng
của anh : Trung lập thôi !
Tuy nhiên, số phận anh nhiều rủi ro hơn may mắn và
đúng như vậy.
"Một buổi sáng, đang ngồi viết ở hội trường, tôi bỗng
thấy ông Võ hiện ra ngoài khung cửa sổ. Ông ghé sát vào
bàn thì thầm :
- Nếu tôi được về sớm, ông có nhắn gì cho gia đình
không ?
Tôi hiểu là ông sắp vượt ngục. Sau câu trả lời ngắn
gọn của tôi, ông tiến về phía hàng rào, một cái rựa trên
tay. Đó là nơi vắng vẻ, khuất sau hội trường và gần mấy
cái hố xí. Kéo hai thanh tre đan chéo của hàng rào cho
rộng ra, ông đặt chân vào thân cây tre buộc theo chiều
ngang của hàng rào và nhẹ nhàng nhảy ra ngoài. Thế là
ông cương quyết vượt ngục không thể chờ đợi được nữa.
Tại sao ông hành động gấp rút như vậy ?... Ông muốn trở
về sớm để tiếp tục tranh đấu cho chủ trương "Trung lập
hóa" của ông, khi tình hình chính trị đang biến chuyển.
Nhưng dù động lực nào thúc đẩy ông tìm lại tự do, tinh
thần dũng cảm và tính tháo vát của ông cũng đáng khâm
phục. Tôi cầu mong ông vượt ngục thành công.
Ánh nắng sớm bỗng tắt hẳn. Những đám mây xám
dày đặc đùn lên, che kín bầu trời thấp. Rồi một cơn gió
lốc hung bạo thổi lên, xoáy mạnh vào mấy cây cổ thụ. Chỉ
một lát sau, cơn mưa ập đến, đổ nước rào rào xuống mái
79
tranh hội trường. Tôi giật mình lo sợ, không biết người
bạn già của tôi sẽ trú ẩn nơi đâu và có gặp trở ngại trên
đường về Huế không ?
Vì mưa lớn, những tù nhân lao động ở ngoài rừng lục
tục trở về. Họ cất dụng cụ và nghỉ ngơi trong khi chờ đợi
ăn trưa. Không ai để ý đến sự vắng mặt của ông Võ. Mãi
đến lúc ăn trưa xong, người cán bộ phụ trách các tổ tù
nhân mới hớt hải chạy vào phòng hỏi chúng tôi :
- Các anh có thấy anh Minh ở đâu không ?
- Không, chúng tôi không thấy anh ấy ở đâu cả.
Ngoài tôi ra, không ai biết ông Võ đã ra đi từ sáng
sớm. Người cán bộ vội vã bước ra sân, nhớn nhác tìm
quanh, chạy qua bệnh xá, xuống nhà bếp, rồi tất tả đi
thẳng ra bờ suối.
Cơn mưa rào đã chấm dứt, các toán tù nhân đã bắt
đầu đi làm. Tôi lấy giấy bút bước ra hội trường, lòng vẫn
bâng khuâng về chuyến ra đi của người bạn tù. Tôi cố ý
ngồi chăm chú dịch mấy trang khai báo của hai người tù
nhân Mỹ, làm như không chú ý đến biến cố vừa xảy ra,
nhưng sự thật vừa lắng tai nghe ngóng, thỉnh thoảng nhìn
ra sân để theo dõi động tĩnh bên ngoài. Mấy tù nhân gầy
yếu đang đan lát ở bên kia sân, cúi mình trên mấy tấm cót
hay mấy cái rổ rá. Chốc chốc họ ngẩng đầu lên, nhìn
quanh dò xét và thì thầm trao đổi ý kiến.
Vẫn chưa có tin tức gì về cuộc truy lùng. Trời càng về
chiều, tôi càng hy vọng. Có lẽ ông Võ đã đi xa rồi, cán bộ,
bộ đội không tìm ra được. Về sau, tôi được biết một số
80
đông bộ đội đã được phân tán ra trên những con đường
mòn trong rừng đuổi theo kẻ đào thoát.
Bỗng mấy người đan lát ngoài sân đồng loạt đứng lên
và chạy về phía nhà bếp. Tôi cũng vội vàng bước ra khỏi
hội trường. Người cán bộ và hai người bộ đội áp giải ông
Võ từ con đường dưới suối đi lên. Trong chiếc áo mưa
bằng cao su đen bóng và đôi ủng cao cổ, ông có vẻ mệt
nhọc, nhưng vẫn bình tĩnh bước đi.
Ông được đưa vào phòng kỷ luật chật hẹp là nơi ông
vẫn thường ở. Tôi xót xa nghe vọng lại tiếng dùi cui dồn
dập đóng mạnh vào chiếc cùm sắt để cùm chân những tù
nhân vi phạm nội quy và bị giam vào phòng kỷ luật".
Hai tuần sau, ông Võ hết hạn thi hành kỷ luật. Trong
thời gian kỷ luật ông không được ra khỏi phòng giam,
không được liên lạc với bất cứ ai. Phòng tôi nằm sát
phòng kỷ luật, nhưng tôi ở chung với hai người khác, mà
một người là tổ trưởng và được cán bộ tin cậy, nên tôi
không thể nói chuyện với ông Võ. Khi trở lại lao động với
tổ đan lát, ông cho tôi biết rằng : ông đã khai với cán bộ
rằng ông đã trốn trại bằng con đường mòn dọc theo con
suối nhỏ chứ không vượt qua hàng rào để cho trại tăng
cường canh gác ở phía ấy và ông có thể dùng lại địa điểm
ấy cho một lần vượt ngục khác. Hôm ra đi, vì mưa lớn,
ông phải vào trú trong nhà một đồng bào Thượng. Gia
đình này được tổ chức để làm tình báo cho trại, đã báo
cho trại biết, và cán bộ, bộ đội đã tìm thấy ông ở ngôi nhà
này. Lúc từ Huế ra đi, ông có đem theo một ít tiền. Để
chuẩn bị lương thực cho vụ vượt ngục, ông đề nghị cán bộ
81
giúp ông mua một con gà và một ít nếp nấu xôi để cúng
giỗ vị hôn thê đã mất, một vị hôn thê không bao giờ cưới,
nhưng ông vẫn xem như vợ của mình. Câu chuyện tình đó
không biết có thực hay không, nhưng lời đề nghị của ông
được chấp thuận. Ngoài ra, viện cớ đau răng, ông xin
muối của nhà bếp để ngậm và dần dần tích trữ được một
ít" .
Đúng là "mưu sự tại nhân mà thành sự tại thiên", "bôn
ba chẳng qua thời vận".
Một tháng sau ngày Trưởng Võ Thanh Minh bị bắt
lại, thì nhà văn Hoàng Liên được chuyển ra Bắc, còn
Trưởng Võ Thanh Minh thì ở lại Nam, cho nên kể từ đó,
không còn ai biết về Trưởng nữa. Trưởng chết ở đâu và
chết năm nào, thì không ai biết. Thân nhân, bạn bè đã cất
công tìm kiếm, nhưng đành vô vọng.
Không biết có mấy người cô độc như anh. Tuổi trẻ
một mình rong ruổi khắp nơi, rồi cô độc thổi sáo, tuyệt
thực ở hồ Léman. Sống cô độc ở bãi tha ma xe hơi ở
Pháp, về quê cũng vò võ một mình nơi nhà thờ cụ Phan
Bội Châu. Cuối cùng cô độc lên núi, để cô độc bỏ lại tấm
thân xác hay hư nát nơi núi lạnh rừng hoang.
Trường Sơn kỳ bí, bao la
Ngựa Rừng lạc vó, nẻo xa khó về.
Đìu hiu lau lạc sơn khê
Hồn thiêng Dã Mã quay về Hồng Sơn. (Phạm Văn Nhơn)
82
MƯỜI BA.
CHIÊU HỒN NHẬP MỘ
ột người suốt đời lo cho sự an nguy của
dân tộc, không nghĩ đến cuộc sống riêng
cho mình. Đã hy sinh gian khổ, bôn ba
khắp nơi để kêu gào "trung lập cho Việt Nam" tránh cảnh
nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn...
Cuộc sống mẫu mực, nho phong cốt cách, tấm lòng
nhân hậu cao cả, sẵn sàng giúp ích bất cứ lúc nào.
Trưởng là một hoàn hảo của : cốt cách ung dung
thanh thản của một nho sĩ - duy lý trung kiên của một tây
học - và thực tiễn, sắp sẵn, tháo vát của một HĐS.
Không ai phủ nhận tinh thần yêu nước, yêu đồng bào
nồng nàn, mãnh liệt của một người trí thức đầy cương
nghị, khẳng khái, bất khuất và kiên tâm của dân "Cá gỗ"
(xứ Nghệ).
Những ai gặp Trưởng, biết Trưởng đều tỏ lòng khâm
phục và quý mến. Họ đã gọi Trưởng bằng những cụm từ
rất trân trọng :
- "Người Huynh Trưởng huyền thoại".
- "Nhân vật HĐ cao cả"
- "Thánh sống Võ Thanh Minh".
- "Liệt sĩ Võ Thanh Minh".
- "Chiến sĩ Hòa bình thế giới"
- "Người yêu nước chân chính"
- "Nhà cách mạng Võ Thanh Minh"
- "Hiệp sĩ hạ sơn"
- "Người hùng cô đơn"
- "Người siêu nhân" (une espèce de surhomme)
M
83
- "Anh mãi mãi hiện hữu với thời gian"
- "Môn đệ của Sào Nam tiên sinh".
Và còn biết bao mỹ từ cao đẹp khác mà mọi người đã
trìu mến, ngậm ngùi, chua xót và cảm kích réo gọi tên
anh.
Thế nhưng "sống vô gia cư, chết vô địa táng" chính là
Trưởng.
Kể từ biến cố Mậu Thân, người ta thường dùng từ
"Võ Thanh Minh đã mất tích".
Nhưng nhiều nguồn tin không phối kiểm được, thì
cho biết Trưởng đã chết tại Ba Lạch, gần biên giới Việt -
Lào.
Sau 18 năm, gia đình, người thân đã cố công tìm kiếm
dò la tin tức, nhưng hoàn toàn bặt vô âm tín. Ai cũng tin
là Trưởng đã chết.
Để bớt phần hẩm hiu cô độc và nhẹ đi sự đau xót cho
thân nhân, bằng hữu, năm 1996, Trưởng Võ Thanh Khiết
cùng gia đình, bạn bè quyết định lấy rơm bó thành hình
nhân để làm lễ chiêu hồn nhập mộ và "đem an táng
Trưởng tại nghĩa trang cụ Phan Bội Châu", người thầy
quý trọng của Trưởng.
Bia mộ Trưởng có đề :
Mộ phần
Cụ
VÕ THANH MINH Hồng Sơn Dã Mã
Chánh quán : Hòa Thành, Yên Thành, Nghệ An.
Sinh năm : 1906 - Tạ thế : 1968 - Hưởng thọ : 62 tuổi
Gia tộc phụng lập ngày 10/12 Ất Hợi (1996)
84
Phần mộ Trưởng hiện được gia đình giao cho người
cháu là Phan Thạnh có trách nhiệm thường xuyên hương
khói cho Trưởng.
Vợ chồng Trưởng Võ Thanh Khiết (quỳ) bên ngôi mộ mới
85
Cháu Phan Thạnh
được giao nhiệm vụ hương khói thường xuyên
Xin đốt nén hương lòng kính viếng Trưởng.
Xin Trưởng hãy an nghỉ nghìn thu nơi núi rừng quê
hương.
"Ngựa Hoang mỏi vó chết trên đồi quê hương" (Trịnh Công Sơn)
86
PHẦN PHỤ LỤC
Con Ngựa Hoang
TRÊN NGỌN NÚI HỒNG
Nguyễn Hoàng Lãng Du
1. Người đã đến
Chợt đi
Sông Núi lạ
Đỉnh non Hồng dấu ngựa bỗng mù sương
Con chim hót bơ vơ trên mái rạ
Bóng ai còn trên vạn nẻo tang thương.
2. Tay vốn trắng không mang hồn phú quý
Làm tên tù giam lỏng giữa nhân gian
Từng sợi tóc yêu người trong ý nghĩ.
Từng tình nồng thương nước vẫn miên man.
3. Tiếng sáo đó
Bên hồ xanh
Heo hắt
Nức nở buồn giọt lệ khóc mai sau.
Manh áo vá che đời không hối tiếc
Quê hương nghèo vai nặng gánh cho nhau.
4. Giòng sông nối biển sầu ngây ngất bến
Nước dâng cao cuồn cuộn sóng căm thù.
Mẹ chết ngất bên mồ khi quốc biến
87
Hạnh phúc còn trong cổ tích thôi ư !
5. Người lên đường hành trang thơm nghĩa lớn
Tà áo dài tung gió vẫy tin yêu
Tráng sĩ ơi, rừng xa muôn lá rụng
Một lần đi ta nhớ đến trăm chiều.
6. Hãy còn đó những người nung ý chí
Theo gương xưa vui bước dưới trăng mờ
Bóng ngựa cũ bên đồi vang tiếng hí
Đỉnh non Hồng sương khói đẹp như mơ.
Nguyễn Hoàng Lãng Du
88
Tưởng nhớ Trưởng Hồng Sơn Dã Mã
VÕ THANH MINH
Đất Việt trời Nam tỏa khí thiêng
Hồng Lam un đúc bậc cao hiền
Thanh Minh mở lối tâm minh chính
Dã Mã kêu gào Hội Quốc Liên
Nước Tổ phân ly tiếng sáo khóc
Rừng thiêng còn lại giấc mơ thiền.
Ngựa Hoang từ thuở chơi non nước
Tưởng mấy niên mà hóa vạn niên.
Nguyễn Kỳ Nam
Cheo Sốt Sắng
89
TƯỞNG NIỆM TRƯỞNG HỒNG SƠN DÃ
MÃ
VÕ THANH MINH
Hồng Lĩnh sơn cao mang khí thiêng
Địa linh un đúc bậc cao hiền
Sào Nam tiền bối tâm khuê tảo
Dã Mã tôn sinh trí bạch liên
Tiếng sáo Lê-Măn khơi tỉnh thức
Suối đàn Ba lạch đáo vô thiền
Anh hoa phảng phất cùng sông núi
Nhật nguyệt chiêu hồn cõi vạn niên.
Trần Đông Giang
Sói Đắn Đo
90
J'aime les gens de ma famille
Tout proches et assistants
Dont les regards toujours pétillent
Et le visage brille
Du bonheur.
J'aime les gens de ma patrie
Ceux du Sud, ceux du Nord
Que le même genre de la vie
Et la même autarcie
Sont liés dans le même sort.
J'aime les gens de ce bas monde
Blancs, jaunes, noirs et bruns
Peuple "super", race seconde
Ou tribu vagabonde
Leur devoirs et droits sont communs.
J'aime enfin toute vie ardente
Dans l'univers sans fin
Espèce animale géante
Ou brin d'herbe ondoyante
Tout est né de "l'Amour Divin"
Vitimi - Genève - 1954
91
TÌNH YÊU MUÔN LOÀI
Tôi yêu những người trong gia đình
Bà con xa gần
Mà tia nhìn luôn ánh lên niềm vui
Và khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc.
Tôi yêu đồng bào tôi
Ở hai miền Nam Bắc
Cùng chung lối sống
Cùng theo một chính sách kinh tế tự cung tự cấp.
Và cùng gắn bó trong thân phận giống nhau.
Tôi yêu mọi người trên cõi đời này
Dù da trắng, da vàng, đen hay nâu
Hay những bộ lạc du mục
Có cùng chung bổn phận và quyền lợi.
Sau hết tôi yêu những cuộc đời đầy nhiệt tình
Trong vũ trụ vô biên
Loài thú khổng lồ
Hay một nhánh cỏ đong đưa
Tất cả đều được sinh ra từ tình yêu của Đấng Chí Tôn.
Do Tráng huynh T.V.T dịch