16
Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ * * * Đỗ Phủ 杜甫 (sinh năm 712 – mất năm 770), tự Tử Mỹ, hiệu Thảo Đường, là một trong những nhà thơ lớn và có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại lâu đời ở huyện Củng, nay thuộc tỉnh Hà Nam. Thơ Đỗ Phủ còn để lại đến nay lên tới hàng ngàn bài với nhiều hình thức, phong cách sáng tác khác nhau, hệ thống từ vựng phong phú đa dạng, nội dung phản ánh chân thực và đầy tính nhân đạo đối với thời thế loạn lạc đương thời. Ông được người đời tôn vinh là “Thi Sử” và “Thi Thánh” của Trung Quốc. Cuộc đời Đỗ Phủ là những năm tháng đầy gian truân, cay đắng. Ông sinh ra giữa thời kỳ phồn vinh hưng thịnh của triều đại nhà Đường, sáng tác thơ từ lúc bảy tuổi. Thời gian này ông chủ yếu ngao du sơn thủy, thỏa sức trổ tài thi ca, khiến nhiều người thán phục. Ước mơ của ông là đỗ đạt, ra làm quan để giúp vua xây dựng đất nước. Đỗ Phủ thời trẻ đã viết trong bài “Phụng tặng Vi tả thừa trượng nhị thập nhị vận” ( 奉贈韋左丞丈二十二韻 - Hai mươi hai vần dâng tặng quan tả thừa họ Vi) (1) những dòng này: 致君堯舜上, 再使風俗淳 Trí quân Nghiêu, Thuấn thượng Tái sử phong tục thuần (Giúp vua hơn Nghiêu Thuấn Làm cho phong tục trở lại trong lành) Thế nhưng cuộc đời không cho ông như ý muốn. Đường Huyền Tông bỏ bê triều chính, mặc gian thần làm loạn, kết bè đảng phá khoa thi. Đỗ Phủ cùng nhiều nhân tài khác 1

[Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

*

* *

Đỗ Phủ 杜甫 (sinh năm 712 – mất năm 770), tự Tử Mỹ, hiệu Thảo Đường, là một

trong những nhà thơ lớn và có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông

sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại lâu đời ở huyện Củng, nay thuộc tỉnh Hà

Nam. Thơ Đỗ Phủ còn để lại đến nay lên tới hàng ngàn bài với nhiều hình thức, phong cách

sáng tác khác nhau, hệ thống từ vựng phong phú đa dạng, nội dung phản ánh chân thực và

đầy tính nhân đạo đối với thời thế loạn lạc đương thời. Ông được người đời tôn vinh là “Thi

Sử” và “Thi Thánh” của Trung Quốc.

Cuộc đời Đỗ Phủ là những năm tháng đầy gian truân, cay đắng. Ông sinh ra giữa thời

kỳ phồn vinh hưng thịnh của triều đại nhà Đường, sáng tác thơ từ lúc bảy tuổi. Thời gian

này ông chủ yếu ngao du sơn thủy, thỏa sức trổ tài thi ca, khiến nhiều người thán phục. Ước

mơ của ông là đỗ đạt, ra làm quan để giúp vua xây dựng đất nước. Đỗ Phủ thời trẻ đã viết

trong bài “Phụng tặng Vi tả thừa trượng nhị thập nhị vận” ( 奉贈韋左丞丈二十二韻 - Hai

mươi hai vần dâng tặng quan tả thừa họ Vi)(1) những dòng này:

“致君堯舜上,

”再使風俗淳

Trí quân Nghiêu, Thuấn thượng

Tái sử phong tục thuần

(Giúp vua hơn Nghiêu Thuấn

Làm cho phong tục trở lại trong lành)

Thế nhưng cuộc đời không cho ông như ý muốn. Đường Huyền Tông bỏ bê triều

chính, mặc gian thần làm loạn, kết bè đảng phá khoa thi. Đỗ Phủ cùng nhiều nhân tài khác

1

Page 2: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

bị đánh trượt không thương tiếc. Sau đó ông cũng được làm quan nhưng chức nhỏ phận hèn

không thỏa chí. Suốt mười năm (746-755) ông gặp rất nhiều trắc trở trên con đường công

danh, sống cuộc sống gian nan cực khổ. Những bài thơ ông viết trong thời gian này như

Binh xa hành, Lệ nhân hành, Tự kinh phó Phụng Tiên vịnh hoài ngũ bách tự,... phản ánh

hiện thực phũ phàng quanh ông, đánh dấu một khởi điểm về nội dung, phong cách sáng tác

trong đời thơ Đỗ Phủ và đi cùng ông đến trọn cuộc đời đau khổ gian nan.

Đỗ Phủ để lại cho đời hơn 1400 bài thơ, phân thành hai loại lớn: cổ thể thi và cận thể

thi. Cổ thể thi là loại thơ tự do, cận thể thi là loại thơ cách luật. Phần lớn các bài thơ còn lưu

giữ đến ngày nay là những tác phẩm được viết vào khoảng đời sau lưu lạc đau khổ của ông,

được nhiều người đời sau đón nhận và có ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa Trung Quốc

cũng như các nền văn hóa lân cận.

Là người đời sau chỉ biết đọc ngẫm những vần thơ đẫm lệ của tiền bối, với lòng kính

trọng và đồng cảm với thi nhân, chúng tôi đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn và

quyết định thực hiện đề tài “Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ”. Trong phạm vi một

bài tiểu luận, do mặt hạn hẹp về câu chữ và khả năng có hạn, chúng tôi chỉ có thể đưa

ra phân tích một số đặc điểm trong giá trị nội dung của thơ ông cùng với vài ý kiến

chủ quan. Bài nghiên cứu này không mong sẽ đóng góp được gì nhiều vào kho tàng

nghiên cứu thơ Đỗ Phủ mà những người đi trước đã làm, chỉ để thỏa lòng say mê của

hậu bối với những dòng thơ của một thiên tài bạc mệnh, “cả đời chẳng được mấy ngày

vui”.

Hà Nội, tháng 12 năm 2013

Nhóm tác giả

Ma Thành Công - Ngô Gia Thức

2

Page 3: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

1. Sơ lược về giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học

Hiện thực trong tác phẩm văn học là thế giới hiện thực đã được tái tạo qua thế giới

chủ quan của tác giả. Thế giới ấy chính là một hiện thực khác, một hiện thực thứ hai, dù

mang hình bóng của thế giới khách quan ngoài đời. Thế giới hiện thực trong tác phẩm

không phải lúc nào cũng mang một nội dung, ý nghĩa đồng nhất với hiện thực tương tự

trong đời sống thực tại. Đó là thế giới của hình tượng thuộc một trật tự khác, mang ý nghĩa

sáng tạo so với hiện thực khách quan thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ vì

vậy nó cao hơn hiện thực thứ nhất - hiện thực khách quan của cuộc sống con người.

Sở dĩ ta coi hiện thực trong văn học là hiện thực thứ hai là vì nó được khơi nguồn từ

trong hiện thực cuộc sống nhưng hiện thực này đã được người nghệ sĩ quan sát một cách rất

tỉ mỉ và lựa chọn lấy những vấn đề quan trọng nhất để rồi sử dụng nh ững thủ pháp nghệ

thuật làm cho hiện thực ấy đi vào tác phẩm văn học vừa có giá trị khái quát cao, vừa thể

hiện chiều sâu của sự vật, sự việc của con người.

Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là “toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh

trong tác phẩm văn học, tùy vào ý đồ sáng tạo mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực

tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau”(2)

Giá trị hiện thực trong tác phẩm văn học có hai đặc điểm chủ yếu:

− Đặc điểm thứ nhất: Đặc điểm của các hiện thực được nhà văn đưa vào trong

tác phẩm. Tác phẩm đó phản ánh hiện thực đời sống trong một giai đoạn lịch

sử nhất định, với những nét riêng tiêu biểu và có ý nghĩa phản ánh hiện thực

khách quan.

− Đặc điểm thứ hai: Con người điển hình. Đây là nét đặc trưng của tác phẩm

hiện thực. Gắn với mỗi thời kỳ, mỗi xã hội nhất định là mẫu người đại diện

cho toàn xã hội. Mẫu người ấy được nhà văn khái quát và xây dựng lại thành

cách hình tượng điển hình trong tác phẩm của mình. Do vậy, một tác phẩm

văn học có giá trị hiện thực phải khắc họa được ngoại hình, tính cách, hành

3

Page 4: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

động, lời nói,…. của nhân vật điển hình, đại diện cho tầng lớp, giai cấp hay

lớp người nào đó trong xã hội, giúp tác giả thể hiện hiện thực được phản

ánh.

2. Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Như đã đề cập trong phần dẫn nhập đề tài, giá trị hiện thực là một trong những giá trị

nổi bật trong thơ Đỗ Phủ. Hiện thực đó là hiện thực một xã hội rối loạn vì nạn chiến tranh,

cướp bóc, quan lại nhũng nhiễu ăn chơi sa đọa, mặc dân đen lầm than, đói khổ cùng cực.

Hiện thực đó cũng bao gồm đời sống của tác giả, từ một “người thơ” ung dung ngao du sơn

thủy, tài năng “Sách đọc vỡ muôn quyển, hạ bút như có thần ” (讀書破萬捲,下筆如有神)(3), trở thành một kẻ hàn sĩ ăn đói mặc rách, lưu lạc bốn phương, mấy mươi năm trầm mình

trong khổ nạn của thế gian, để rồi nhắm mắt lìa đời trên chiếc thuyền nhỏ rách nát lênh

đênh trên bờ sông Tương. Đỗ Phủ đã hòa nỗi đau khổ của mình với người dân trăm họ,

trong thơ ông dù có khóc than, có đau xót vì nỗi niềm của bản ngã đấy, rồi lại mau chóng so

mình với người khác để mà đau cả nỗi đau của họ. Cả một giai đoạn lịch sử dài và nhiều

biến loạn đã được Đỗ Phủ đưa vào thơ cùng những gửi gắm về nhân tình thế thái của bản

thân ông. Bởi vậy Đỗ Phủ cũng được hậu bối tôn là “Thi Sử”.

Hiện thực biểu hiện trong thơ Đỗ Phủ là một thế giới của lầm than cơ cực, từ con

người đến muông thú cỏ cây đều đau khổ. Hãy chọn nghe thử một bài thơ như “Bạch Đế”

chẳng hạn. Một bức tranh mờ tối và ẩn sau đó những nét họa bi thương:

高江急峽雷霆斗,

古木蒼藤日月昏。

戎馬不如歸馬逸,

千家今有百家存。

哀哀寡婦誅求盡,

慟哭秋原何處村?

4

Page 5: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Cao giang cấp giáp lôi đình đẩu,

Cổ mộc thương đằng nhật nguyệt hôn.

Nhung mã bất như quy mã dật,

Thiên gia kim hữu bách gia tồn.

Ai ai quả phụ tru cầu tận,

Đỗng khốc thu nguyên hà xứ thôn?

(Cây xanh, dây xám, trăng, trời tối

Thác dốc, đèo cao, sấm sét dồn

Phóng ngựa sao bằng về ngựa khỏe

Nghìn nhà chỉ độ chục nhà còn

Vét vơ gái goá cơ đồ hết

Đâu đó đồng thu khóc nỉ non?)(4)

Hiện thực đó bắt đầu từ sự suy vi của triều đình phong kiến nhà Đường. Năm 746,

sau khi chia tay Lý Bạch(5), Đỗ Phủ trở về kinh đô Trường An, kết thúc quãng đời ngao du

đó đây. Lần này ông trở về không ngoài mục đích thực hiện hoài bão từ lâu ấp ủ trong lòng:

"Trí quân Nghiêu Thuấn thượng, Tái sử phong tục thuần" (Phụng tặng Vi tả thừa trượng nhị

thập nhị vận). Đó chính là ước mơ và lý tưởng chính trị của ông. Theo ông thì đó là con

đường duy nhất để thực hiện lý tưởng đó là phải thi đỗ và làm quan. Nhưng tiếc thay, đến

đâu ông cũng vấp phải trở ngại. Lúc này Đường Huyền Tông bỏ bê triều chính, giao phó

mọi việc cho hai tên gian thần là Lý Lâm Phủ và Dương Quốc Trung. Tuy Đường Huyền

Tông hạ chiếu ai có tài thì đi dự thi, nhưng trong khóa thi này Tể tướng Lý Lâm Phủ đánh

hỏng hết tất cả các thí sinh để khoe rằng trong những khóa thi trước y sáng suốt lựa chọn

hết nhân tài, nên bây giờ chẳng còn một ai và đây cũng là dịp để Lý Lâm Phủ chặn đường

tiến cử hiền tài, nhằm củng cố thế lực của phe cánh y. Đỗ Phủ cũng như những thí sinh khác

bị đánh hỏng. Từ đây Đỗ Phủ nhận thức đầy đủ hơn bộ mặt chính trị nhà Đường do bọn

5

Page 6: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

gian quan nịnh thần khống chế. Để tìm lối thoát, nhiều lần ông gặp gỡ, dâng thư cho các

bậc quyền quý mong được tiến cử, nhưng không có kết quả mà cuộc sống thì ngày càng

nghèo khốn.

Năm 751, nhân Đường Huyền Tông cử hành đại lễ, Đỗ Phủ dâng lên "Tam đại lễ

phú", được Đường Huyền tông khen ngợi cho ghi tên vào Tập hiền viện, chờ bổ dụng

nhưng vì bị Lý Lâm Phủ cản trở nên Đỗ Phủ chờ mãi vẫn không có tin gì. Mãi đến năm

755, Đỗ Phủ được bổ làm Hà Tây huyện úy. Mặc dù bao năm sống khổ cực ở đất Trường

An nhưng Đỗ Phủ quyết không nhậm chức vì chức huyện úy này buộc ông phải cúi đầu

vâng lệnh quan trên, đánh đập kẻ dưới. Bị ông cự tuyệt giai cấp thống trị nhà Đường giao

cho ông chức quản lý kho quân giới. Đỗ Phủ nhận chức, ông xin phép về huyện Phụng Tiên

thuộc tỉnh Thiểm Tây thăm gia đình. Có ngờ đâu khi vừa về đến nhà thì đứa con trai đã chết

đói.

Mười năm cực khổ ở Trường An là mười năm khiến Đỗ Phủ thay đổi rất nhiều phong

cách sáng tác thơ so với những năm tháng phiêu du trước đây. Ông viết nhiều bài thơ mang

tính hiện thực phê phán gây xúc động lòng người. Ông tổng kết mười năm đó trong bài “Tự

kinh phó Phụng Tiên vịnh hoài ngũ bách tự” ( 自京赴奉先縣詠懷五百字 - Năm trăm chữ

vịnh nỗi lo nghĩ trên đường từ kinh đô về huyện Phụng Tiên). Những câu thơ ngũ ngôn

không quá nhịp nhàng mà nhiều khi khúc khuỷu trắc trở, tỏ bày những tăm tối đã qua:

杜陵有布衣,

老大意轉拙。

許身一何愚?

竊比稷與契。

居然成獲落,

白手甘契闊。

蓋棺事則已,

6

Page 7: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

此誌常覬豁。

Đỗ Lăng hữu bố y

Lão đại ý chuyển chuyết;

Hứa thân nhất hà ngu,

Thiết tỉ Tắc dữ Tiết!

Cư nhiên thành hoạch lạc,

Bạch thủ cam khế khoát.

(Có người áo vải ở Đỗ Lăng,

Tuổi đã già ý nghĩ trở nên vụng về.

Chí lập thân sao ngu dại đến thế!

Thầm tự ví mình với Tắc Tiết.

Kết cục lại thành sự hão huyền,

Đầu bạc rồi đành chịu kiếp long đong;

Đậy nắp quan tài mới hết chuyện!

Chữ chí ấy vẫn còn ôm ấp mãi.)

Cùng lúc Đỗ Phủ ra làm quan thì thời cuộc cũng có những biến đổi lớn lao. Tháng 11 năm

755, An Lộc Sơn nổi loạn ở Phạm Dương và nhanh chống đánh xuống Lạc Dương, Đồng

Quan, Trường An. Tháng 8 năm 756, nghe tin Lý Hanh con của Đường Minh Hoàng lên

ngôi ở Linh vũ lấy hiệu Đường Túc Tông, Đỗ Phủ tìm Túc Tông. Giữa đường ông bị giặc

bắt giải về Trường An. Nửa năm trời sống trong vùng địch tận mắt thấy cảnh đất nước bị

dày xéo, ông viết khá nhiều bài thơ lâm ly, thống thiết như: Bi Trần Đào, Bi Thanh Bản,

Xuân vọng, Ai giang đầu,...

少陵野老吞聲哭,

春日潛行曲江曲。

7

Page 8: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

江頭宮殿鎖千門,

細柳新蒲為誰綠。

Thiếu Lăng dã lão thôn thanh khốc,

Xuân nhật tiềm hành Khúc giang khúc.

Giang đầu cung điện toả thiên môn,

Tế liễu tân bồ vị thuỳ lục ?

(Ông già nhà quê Thiếu Lăng nén tiếng khóc nghẹn ngào

Ngày xuân, lẻn đi trên khuỷu sông Khúc Giang

Hàng nghìn cửa cung điện ở bên sông đều im ỉm khoá

Cây liễu xinh, khóm bồ non, vì ai mà xanh tươi?)

Có thể nhận thấy, hiện thực đau khổ của đời sống đã được Đỗ Phủ khắc họa chi tiết

và đưa vào thơ như để lột tả lòng mình. Hiện thực đó trở nên sinh động, rõ nét đến mức trở

thành những bài thơ sử được các nhà sử học nghiên cứu để tìm hiểu về thời bấy giờ.

Tháng giêng năm Chí Đức thứ nhất (756), không chịu hợp tác với giặc, Đỗ Phủ

không quản nguy hiểm tìm đường chốn khỏi Trường An tìm về Phụng Tường, nơi chính

quyền mới đóng. Đỗ Phủ được giữ chức Tả thập di. Tháng 9 năm 757, quân nhà Đường lấy

lại được Trường An, Đỗ Phủ bèn đưa gia quyến về Trường An.

Ở Trường An không được bao lâu, vì dâng sớ cứu Phùng Quán thua trận Trần Đào,

nên Đỗ Phủ bị gian thần hãm hại. Tháng 6 năm 758, ông bị biếm ra làm Tư công tham

quân, một chức quan coi việc tế tự nghi lễ ở Hoa Châu. Mùa xuân năm 759, trên đường từ

Lạc Dương đi Hoa Châu, nhìn thấy cảnh đau thương vô hạn của nhân dân ông viết sáu bài

thơ nổi tiếng "Tam biệt"(7) và "Tam lại"(8) được người đời truyền tụng. “Tam biệt” là ba bài

thơ viết về những cuộc chia ly: Tân hôn biệt 新婚別 (Cuộc chia ly của cặp vợ chồng mới

cưới), Thùy lão biệt 垂老別 (Cuộc chia ly lúc về già) và Vô gia biệt 無家別 (Cuộc ly biệt

8

Page 9: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

của kẻ không nhà). “Tam lại” là ba bài thơ viết về quan lại ở các địa phương khác nhau:

Đồng Quan lại 潼關吏 (Tên lại ở Đồng Quan), Thạch Hào lại 石壕吏 (Tên lại ở Thạch

Hào) và Tân An lại 新安吏 (Tên lại huyện Tân An).

“Tam biệt” và “Tam lại” là sáu bài thơ xây dựng rõ nét các hình tượng nhân vật điển hình

đại diện cho nhiều tầng lớp trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là hình tượng kẻ thân già lận đận

trong Thùy lão biệt:

四郊未寧靜,

垂老不得安。

子孫陣亡盡,

焉用身獨完!

投杖出門去,

同行為辛酸。

幸有牙齒存,

所悲骨髓幹。

Tứ giao vị ninh tĩnh

Thuỳ lão bất đắc an

Tử tôn trận vong tận

Yên dụng thân độc hoàn ?

Đầu trượng xuất môn khứ ?

Đồng hành vị tân toan

Hạnh hữu nha xỉ tồn

Sở bi cốt tuỷ can

(Bốn phương chưa ổn định

Thân về già cũng chẳng được yên

9

Page 10: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Con cháu chết trận hết

Một mình sống để làm gì ?

Quẳng gậy ra cửa đi

Bạn đồng hành cũng lấy làm chua xót

May hàm răng vẫn còn

Thương nỗi tuỷ xương đã khô kiệt!)

Hai hình ảnh đối lập giữa viên lại hò hét dữ dằn và bà lão kêu van thảm thiết trong

bài “Thạch Hào lại”(6) là nét gạch đậm thể hiện rõ nhất sự hống hách nhũng nhiễu của quan

lại đối với sự đau khổ bất lực của người dân nghèo khó.

暮頭石壕村,

有吏夜捉人。

老翁逾牆走,

老婦出門看。

吏呼一何怒!

婦啼一何苦!

Mộ đầu Thạch Hào thôn,

Hữu lại dạ tróc nhân.

Lão ông du tường tẩu,

Lão phụ xuất môn khan.

Lại hô nhất hà nộ,

Phụ đề nhất hà khổ!

(Chiều tối chạy vào thôn Thạch Hào,

Có viên lại bắt người ban đêm.

Ông lão vọt tường tẩu thoát

10

Page 11: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Bà già ra cửa nhòm.

Viên lại hò hét sao mà dữ dằn thế!

Bà lão kêu van sao mà khổ thế!)

Tháng 7 năm 759, Đỗ Phủ xin từ quan đưa gia đình từ Hoa Châu đến Đồng Cốc. Tại

đây, ông phải đi lượm hạt dẻ, đào hoàng tinh bao phen trở về tay không, con cái đói meo

kêu khóc. Ông làm bảy bài "Càn Nguyên Đồng Cốc huyện tác ca" than thở cảnh khốn cùng

lưu lạc, xa cách anh em. Chưa đầy hai tháng, ông lại từ Đồng Cốc đến Thành Đô - Tứ

Xuyên. Mùa xuân năm 760, nhờ sự giúp đỡ của bạn bè ông dựng mái nhà tranh bên suối

Hoãn Hoa, đặt tên là Thảo Đường. Lúc này Thành Đô chưa có nạn binh đao. Ông được

sống những ngày thư thái, đánh cờ với vợ, câu cá cùng con, uống rượu với người trong

xóm. Ông sinh sống bằng chính mảnh đất của mình, trồng cây thuốc cây ngô. Thế là trong

sáng tác xuất hiện một khoảng trời nghệ thuật mới với vẻ đẹp đẹp hoà bình, êm ả của thiên

nhiên, xoa dịu những vất vả đắng cay trong cơn loạn lạc. Sáng tác thời kỳ này của ông chủ

yếu là thể loại tuyệt cú, tả cảnh điền viên sơn thuỷ và gửi gắm ước mơ trở về cố hương...

Tuy nhiên cảnh yên bình ấy không kéo dài được lâu. Mùa thu năm ấy, một cơn gió lốc lật

mất mái tranh Thảo Đường, Đỗ Phủ làm bài thơ nổi tiếng "Mao ốc vị thu phong sở phá ca"

( 茅屋為秋風所破歌 - Bài ca nhà tranh bị gió thu phá). Ông mơ ước:

安得廣廈千萬間,

大庇天下寒士俱歡顏,

風雨不動安如山!

嗚呼!何時眼前突兀見此屋,

吾廬獨破受凍死亦足!

An đắc quảng hạ thiên vạn gian,

Ðại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,

11

Page 12: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Phong vũ bất động an như san.

Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc,

Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc.

(Mong sao có được ngàn vạn gian nhà lớn,

Để giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ,

Không bị kinh động vì mưa gió, yên ổn như núi non!

Hỡi ôi, biết bao giờ được trông thấy nhà này đứng cao sững trước mắt,

Dù cho riêng nhà ta bị phá vỡ, mình có chịu rét đến chết, cũng thỏa lòng!)

Đầu năm Bảo Ứng (762) vì loạn ông đưa gia đình chạy loạn khắp nơi, gần hai năm

sau mới trở về lại mái nhà tranh ở Thành Đô. Được Nghiêm Vũ tiến cử, Đỗ Phủ nhận chức

Kiểm hiệu công bộ viên ngoại lang. Nghiêm Vũ mất, ông cũng thôi việc. Lúc này bao bạn

thân của ông như Lý Bạch, Cao Thích lần lượt từ giã cõi đời, để lại cho ông nỗi buồn vô

hạn. Ông lại phiêu bạt tới vùng Quỳ Châu.

Qua bao nhiêu năm lưu lạc gian nan, giờ đây sức yếu, tuổi già, ông thường xuyên bị

bệnh. Quỳ Châu là nơi có nhiều di tích nổi tiếng như thành Bạch Đế, Bát trận đồ của Gia

Cát Võ Hầu, nhà Tống Ngọc, Dữu Tín,... nên ông làm năm bài "Chư tướng", năm bài "Vịnh

hoài cổ tích", tám bài "Thu hứng" nổi tiếng. Trong hai năm ở Quỳ Châu ông sáng tác 437

bài thơ, chiếm ba phần mười toàn bộ thơ ca của ông, thơ luật chiếm đa số. Chất hiện thực

trong thơ ông không thay đổi, vẫn dạt dào tình cảm yêu nước, yêu dân, tuy âm điệu có phần

bi thương hơn trước.

Năm Đại Lịch thứ 3 (768), Đỗ Phủ rời Quỳ Châu, lênh đênh trôi dạt khắp nơi đến

Giang Lăng, Công An (Hồ Bắc), Nhạc Châu (Nhạc Dương, Hồ Bắc), rồi theo sông Tương

ra Đàm Châu (Tương Đàm, Hồ Nam). Ở đây ông gặp lại danh ca Lý Quy Niên và làm bài

tuyệt cú "Giang Nam phùng Lý Quy Niên" nổi tiếng. Đàm Châu có loạn, Đỗ Phủ lại cùng

12

Page 13: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

vợ con xuống thuyền đi Hành Châu (Hành Dương, Hồ Nam), dự định theo sông Hán về

Trường An. Cuộc sống đói rét, bệnh tật, phiêu bạt cứ dày vò nhà thơ mãi. Mùa đông năm

770, bệnh tật nằm trên thuyền nghe gió thổi, Đỗ Phủ làm bài thơ ba mươi sáu vần "Phong

tật chu trung phục chẩm thư hoài". Đó cũng là thiên tuyệt bút của nhà thơ, vì chẳng bao lâu

sau, mùa đông năm Đại Lịch thứ năm (770), Đỗ Phủ nhắm mắt lìa đời trong chiếc thuyền

rách nát lênh đênh trên sông Tương, kết thúc bao sóng gió thăng trầm. Vừa yêu nước vừa

thương dân, vừa ủng hộ chiến tranh yêu nước vừa tố cáo bọn thống trị chồng chất thêm đau

khổ lên đầu nhân dân, tấm bi kịch đó cứ giằng xé tâm hồn ông trong những năm chiến tranh

loạn lạc cho đến lúc tay đã buông xuôi mà lòng nhà thơ vẫn chưa hết những lo âu uất hận.

Ông viết đầy đau khổ trong bài thơ cuối cùng của cuộc đời mình:

家事丹砂訣,

無成洟作霖。

Gia sự đan sa quyết,

Vô thành thế tác lâm.

(Đem lòng son viết về việc nhà,

Chưa xong, nước mắt đã tuôn ướt đầm.)

Hiện thực trong thơ Đỗ Phủ được phản ánh chân thực, sinh động và toàn vẹn như

những trang nhật ký của cuộc đời nhà thơ, một thời đại biến loạn đầy tang thương, con

người chịu những giày vò đau khổ đến cùng cực, xã hội giàu nghèo phân hóa rất mạnh:

“Chu môn tửu nhục xú, Lộ hữu đống tử cốt” ( 朱門酒肉臭,路有凍死骨。 Nơi cửa son

rượu thịt ê hề, Ngoài đường cái có xương người chết rét)(9). Những nhân vật trong thơ

ông được khắc họa tài tình qua ngòi bút tài năng đã qua nhiều thử thách tôi luyện,

giúp Đỗ Phủ phản ảnh hiện thực vô cùng sâu sắc và gây ấn tượng mạnh khó có thể

quên. Sự dụng công khi làm thơ của ông đúng như những gì ông đã nói: "Ngữ bất

kinh nhân tử bất hưu" (Lời lẽ chưa kinh động lòng người thì chết chẳng yên).

13

Page 14: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

*

* *

Theo giáo sư Phan Ngọc - nhà nghiên cứu văn hóa và cũng là người am hiểu thơ Đỗ

Phủ thì: “Hình như trong thơ thế giới chỉ có một nhà thơ mà tác phẩm nói lên toàn bộ lịch

sử giai đoạn mình sống, cụ thể chính xác đến từng sự kiện, một nhà thơ mà cuộc đời diễn ra

như hoạ, một nhà thơ mà thơ có thể làm cơ sở cho dân tộc học, kinh tế học, khảo cổ học, sử

học, văn hoá, triết học … đó là Đỗ Phủ ” và “Đỗ Phủ là người đầu tiên văn học thế giới

tuyên bố mình “vì dân đen đau khổ quanh năm” và nguyện sống đến chết không thay đổi

cái chí của mình”.

Thơ Đỗ Phủ có chứa hiện thực và rất nhiều hiện thực, hiện thực phũ phàng và

bi uất, hiện thực cay đắng và tàn bạo. Cũng bởi ông là một nhà thơ, và cũng bởi cuộc

đời đã khiến ông trầm luân trong những khổ nạn không dứt, thế nên thơ ông quyết

liệt hướng về cuộc đời, về chiến tranh, nạn đói, hướng về những người khốn khổ.

Trong bài tiểu luận này, chúng tôi đã cố gắng hướng tới việc làm rõ giá trị hiện thực

trong thơ Đỗ Phủ, từ những nét đặc trưng của hiện thực ông đã sống đến những nhân

vật điển hình ông đã họa vào thơ. Tuy nhiên, đến cuối cùng chúng tôi vẫn thấy mình

gần như chưa làm được gì, thơ của Đỗ Phủ rõ ràng và chân thực đến thế, nhưng vẫn

khó giải nghĩa. Có thể đó đơn giản chỉ là cái khó lý giải của cuộc đời ông, vì chúng tôi

chưa từng nếm trải những khốn khổ ông đã kinh qua, không từng nhìn thấy những bi

thương tàn nhẫn ông đã thấy. Như nhà thơ Phùng Quán đã viết trong bài “Đêm Nghi

Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”:

14

Page 15: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Thơ ai như thơ ông

Lặng im mà gầm thét

Trang trang đều xé lòng

Câu câu đều đẫm huyết...

Thơ ai như thơ ông

Mỗi chữ đều như róc

Từ xương thịt cuộc đời

Từ bi thương phẫn uất

Thơ ai như thơ ông

Kể chuyện mái nhà tốc

Vác củi làm chuồng gà...

Đọc lên trào nước mắt!

Giữa tuyết trong đò con

Đỗ Phủ nằm chết đói

Đắp mặt áo bông sờn

Kéo hoài không kín gối.

Ngàn năm nay sông Tương

Sóng còn nức nở mãi

Khóc chuyện áo bông sờn

Đắp mặt thơ chết đói!...

15

Page 16: [Tiểu luận] Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

*Chú giải:

(1) Trích dẫn dựa trên bản thơ của website thivien.com - Trang thơ Đỗ Phủ.

(2) Theo thạc sỹ Ngô Viết Hoàn trong bài nghiên cứu “Giá trị hiện thực và giá trị nhân

đạo trong tác phẩm văn chương”.

(3) Trong bài “Phụng tặng Vi tả thừa trượng nhị thập nhị vận” - 奉贈韋左丞丈二十二韻

(4) Bài “Bạch Đế” - 白帝

(5) Lý Bạch 李白 (701-762) là một trong những nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh

Đường nói riêng và Trung Quốc nói chung, được người đời tôn làm “Thi Tiên”.

(6) Tháng hai năm 759, quân đội triều đình nhà Đường đánh bại An Lộc Sơn, thu phục

Trường An. Tháng ba năm 759, bộ tướng của An Lộc Sơn là Sử Tư Minh lại phản

công. Quân triều đình đại bại ở Nghiệp Thành, chết trên mười vạn. Tướng Quách Tử

Nghi phải lui về cố thủ ở Hà Dương. Đường Túc Tông hoảng hốt gấp rút sai bọn nha

lại đi vét lính bắt phu bừa bãi ở các châu huyện đồng thời ra sức bóc lột dân chúng.

Trên đường từ Lạc Dương về Hoa Châu nhậm chức mới, Đỗ Phủ đã thấy tất cả

những thảm trạng nói trên và viết nên 6 bài thơ "Tam lại" và "Tam biệt". "Thạch Hào

lại" thường được xem là bài thơ tiêu biểu nhất trong hai chùm thơ nói trên.

(7) “Tam biệt” bao gồm ba bài thơ Tân hôn biệt新婚別, Thuỳ lão biệt 垂老別 và Vô gia

biệt 無家別.

(8) “Tam lại” bao gồm ba bài thơ Đồng Quan lại 潼關吏 , Tân An lại 新安吏 và

Thạch Hào lại 石壕吏 .

(9) Bài “Tự kinh phó Phụng Tiên huyện vịnh hoài ngũ bách tự” - 自京赴奉先縣詠

懷五百字 Năm trăm chữ vịnh nỗi lo nghĩ trên đường từ kinh đô về huyện

Phụng Tiên.

16