Upload
dai-viet-dan-quoc
View
671
Download
0
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Thư Liên Bang là 1 tập hợp gồm 85 bài luận của Alexander Hamilton, James Madison, và John Jay viết để cổ vũ cho việc thông qua bản Hiến Pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. 85 bài luận này đã nêu lên những lý do thành lập Liên Bang Hoa Kỳ và phản bác các ý tưởng chống đối lại việc này. Đây là nền tảng của Chính phủ Hoa Kỳ ngày nay. Các bài luận này còn chưa được dịch hoàn chỉnh sang tiếng Việt. Nếu còn có điều gì thiếu sót, mong bạn đọc thông cảm.
Citation preview
ĐANG IN,và sẽ được xuất bản mau chóng
THƯ LIÊN BANGMột Bộ Sưu tập các Bài Luận Ủng hộ Tân Hiến Pháp
Bởi một Công dân Tiểu bang Nữu Ước
Được hiệu đính bởi Tác giả, được Viết thêm và Sửa chữa
Tác phẩm này sẽ được in ra trên Giấy tốt và Đánh máy đẹp,
trong một Quyển, và giao tận tay cho các người đặt mua trước với
giá phải chăng là một đô la. Vài bản copy sẽ được in trên giấy
đặc biệt tốt giành cho giới hoàng gia, giá nửa Bảng Anh.
Không cần trả tiền cho đến khi giao hàng.
Để công trình này thêm hoàn thiện, sẽ được cộng thêm,
không tính thêm tiền,
PHILO-PUBLIUSVà
Các Điều khoản của Đại hội [Hiến pháp]
được thông qua tại Philadelphia, ngày 17 tháng 9, 1787
II
MỤC LỤC
Tầm quan trọng của Liên Bang (1-14)Thư Liên bang số 1: Lời Giới ThiệuThư Liên bang số 2: Các mối hiểm nguy từ ảnh hưởng và quân đội nước ngoàiThư Liên bang số 3: Các mối hiểm nguy từ ảnh hưởng và quân đội nước ngoàiThư Liên bang số 4: Các mối hiểm nguy từ ảnh hưởng và quân đội nước ngoàiThư Liên bang số 5: Các mối hiểm nguy từ ảnh hưởng và quân đội nước ngoàiThư Liên bang số 6: Nguy hiểm từ các điều bất đồng ý giữa các tiểu bangThư Liên bang số 7: Nguy hiểm từ các điều bất đồng ý giữa các tiểu bangThư Liên bang số 8: Hậu quả của các sự thù nghịch giữa các tiểu bangThư Liên bang số 9: Liên bang như một vệ sĩ chống lại bè phái và nổi loạn nội địaThư Liên bang số 10: Liên bang như một vệ sĩ chống lại bè phái và nổi loạn nội địaThư Liên bang số 11: Ích lợi của Liên bang trong các mối liên hệ thương mại và hải quânThư Liên bang số 12: Ích lợi của Liên bang trong việc thu ngân sáchThư Liên bang số 13: Lợi thế của Liên bang trong việc tiết kiệm ngân sách chính phủThư Liên bang số 14: Trả lời các lời phản đối bản dự thảo hiến pháp từ các vùng đất đang mở rộng
Các thiếu sót trong các điều khoản của văn kiện thành lập Confederation (15-22)Thư Liên bang số 15: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 16: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 17: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 18: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 19: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 20: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 21: Các khuyết điểm khác của Liên bangThư Liên bang số 22: Các khuyết điểm khác của Liên bang
Các lời tranh luận về thể loại chính phủ được bao gồm trong Hiến pháp (23-36)Thư Liên bang số 23: Sự cần thiết của một Chinh phủ đầy sinh lựcThư Liên bang số 24: Quyền lực cần thiết của quốc phòngThư Liên bang số 25: Quyền lực cần thiết của quốc phòngThư Liên bang số 26: Ý tưởng về việc giới hạn quyền Lập pháp trong vấn đề Quốc phòngThư Liên bang số 27: Ý tưởng về việc giới hạn quyền Lập pháp trong vấn đề Quốc phòngThư Liên bang số 28: Ý tưởng về việc giới hạn quyền Lập pháp trong vấn đề Quốc phòngThư Liên bang số 29: Vấn đề Dân quân Thư Liên bang số 30: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 31: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 32: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 33: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 34: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 35: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 36: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụ
III
Hình thái Cộng hòa của Chính phủ (37-51)Thư Liên Bang số 37: Các vấn đề khó khăn của Đại hội Hiến pháp trong việc kiến tạo một hình thái chính
phủ thích hợpThư Liên Bang số 38: Đề tài trên, cùng với sự tiền hậu bất nhất của các lời phản đối Tân Hiến pháp Thư Liên Bang số 39: Sự tương quan của Tân Hiến pháp đối với các nguyên tắc của Đảng Cộng hòaThư Liên Bang số 40: Quyền lực của Đại hội Lập Hiến trong việc thành lập một chính phủ đa phươngThư Liên Bang số 41: Tổng quan về các quyền lực được Hiến pháp hợp thức hóaThư Liên Bang số 42: Xem xét cặn kẽ hơn về các quyền lực được Hiến pháp hợp thức hóaThư Liên Bang số 43: Xem xét cặn kẽ hơn về các quyền lực được Hiến pháp hợp thức hóaThư Liên Bang số 44: Hạn chế quyền lực của vài Tiểu bangThư Liên Bang số 45: Các mối hiểm nguy có thể có từ quyền lực của Liên bang đối với các chính quyền
tiểu bangThư Liên Bang số 46: So sánh ảnh hưởng của chinh phủ Liên bang và chính quyền Tiểu bangThư Liên Bang số 47: Cấu trúc đặc thù của chính phủ mới và phân chia quyền lực giữa các thành phần khác
nhauThư Liên Bang số 48: Các bộ này không nên bị chia cách đến mức không thể kiểm soát nhau theo Hiến
địnhThư Liên Bang số 49: Phương cách phòng chống các sự vi phạm của bất cứ bộ nào trong chính phủ bằng
cách kêu gọi dân chúng ủng hộ trong Đại hội Lập Hiến Thư Liên Bang số 50: Bàn luận về các lời thỉnh cầu dân chúng thỉnh thoảng được đưa raThư Liên bang số 51: Cấu trúc của chính phủ phải cung cấp việc kiểm soát và cân bằng giữa các bộ khác
nhau
Ngành Lập pháp (52-66)Thư Liên bang số 52: Hạ việnThư Liên bang số 53: Hạ việnThư Liên bang số 54: Việc bổ nhiệm các Dân biểu giữa các tiểu bangThư Liên bang số 55: Tổng số Dân biểuThư Liên bang số 56: Tổng số Dân biểuThư Liên bang số 57: Khuynh hướng bị nghi ngờ của kế hoạch mới trong việc nâng cao vị thế một nhóm
nhỏ trong khi số đông phải trả giá, liên quan đến vấn đề đại diệnThư Liên bang số 58: Sự phản đối rằng con số thành viên sẽ không được tăng lên, một khi các nhu cầu của
dân chúng tăng caoThư Liên bang số 59: Quyền lực của Quốc hội trong việc điều hành bầu cử của các thành viênThư Liên bang số 60: Quyền lực của Quốc hội trong việc điều hành bầu cử của các thành viênThư Liên bang số 61: Quyền lực của Quốc hội trong việc điều hành bầu cử của các thành viênThư Liên bang số 62: Thượng việnThư Liên bang số 63: Thượng việnThư Liên bang số 64: Quyền lực của Thượng việnThư Liên bang số 65: Quyền lực của Thượng việnThư Liên bang số 66: Các sự phản đối Quyền lực của Quốc hội như là một Tòa án xét xử việc Truất nhiệm
Tổng thống
Ngành Hành pháp (67-77)Thư Liên bang số 67: Ngành Hành phápThư Liên bang số 68: Phương cách Bầu Tổng thốngThư Liên bang số 69: Đặc tính thực thể của Ngành Hành phápThư Liên bang số 70: Ngành Hành pháp, được xem xét cận ảnh hơnThư Liên bang số 71: Nhiệm kỳ của Ngành Hành phápThư Liên bang số 72: Tiếp theo cùng chủ đề, cùng sự tái hợp lệ ứng cử của Ngành Hành phápThư Liên bang số 73: Điều khoản về sự ủng hộ của Ngành Hành pháp, và Quyền Phủ quyết
IV
Thư Liên bang số 74: Việc điều khiển Quân đội và Hải quân, cùng Quyền Ân xá của Ngành Hành phápThư Liên bang số 75: Quyền thành lập Hiệp ước của Ngành Hành phápThư Liên bang số 76: Quyền Bổ nhiệm của Ngành Hành pháThư Liên bang số 77: Tiếp theo Quyền Bổ nhiệm, cùng các Quyền khác của Ngành Hành pháp
Ngành Tư Pháp (78-83)Thư Liên Bang số 78: Bộ Tư phápThư Liên Bang số 79: Bộ Tư pháp (tiếp theo)Thư Liên Bang số 80: Quyền lực của Ngành Tư phápThư Liên Bang số 81: Quyền lực của Ngành Tư pháp, và sự phân bổ quyền lực của Ngành Tư phápThư Liên Bang số 82: Ngành Tư pháp (tiếp theo)Thư Liên Bang số 83: Ngành Tư pháp, liên quan đến các phiên tòa được quyết định bởi Bồi thẩm đoàn
Kết luận và vài điều khác (84-85)Thư Liên Bang số 84: Xem xét và trả lời các điều phản đối chung chung và linh tinh đến Bản Hiến phápThư Liên Bang số 85: Lời Kết Luận
V
Thư Liên Bang Số 1
Lời Mở Đầu
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Sau một kinh nghiệm hy hữu về sự cục mịch của chính quyền liên bang, các bạn được
mời gọi để suy nghĩ về một bản hiến pháp mới cho đất nước chúng ta, nước cộng hòa liên
bang Hoa Kỳ. Đề tài này nói lên tầm mức quan trọng của chính nó: sự sống còn của
chính quyền liên bang, sự an toàn của những tiểu bang, và số phận của một siêu cường
quốc trong tương lai mà thế giới chưa biết đến. Như đã nói nhiều lần, nhân dân của đất
nước chúng ta sẽ phải trả lời những câu hỏi quan trọng trong việc lập nên một chính
quyền từ suy nghĩ và lựa chọn hay là từ sự tình cờ và đàn áp. Nếu kết luận trên có lý, sự
khủng hoảng trong chính quyền liên bang bây giờ sẽ cần một quyết định đầy sáng suốt.
Nếu không, ảnh hưởng lâu dài sẽ không lường trước được.
Ý niệm này sẽ tạo nên những lời chào mời đóng góp của những thành phần yêu nước; nó
cũng tăng cường thêm mối lo ngại mà những công dân tốt sẽ thấy trong sự kiện này.
Hạnh phúc thay nếu sự chọn lựa này được dẫn dắt bởi một đánh giá khôn ngoan về mối
quan tâm thực sự của chúng ta, không rắc rối và không thiên vị bởi những yếu tố khác
dính đến lợi ích trước công chúng. Nhưng đây là một việc có vẻ dễ mong ước hơn là hiện
thực. Kế hoạch soạn thảo hiến pháp ảnh hưởng tới quá nhiều quyền lợi của nhiều thành
phần trong xã hội, sẽ thay đổi rất nhiều cơ quan địa phương, hơn thế nữa, những quan
điểm, cảm xúc mạnh và thành kiến sẽ tạo ra nhiều bất lợi cho công cuộc khám phá sự thật
này.
Trong những trở ngại vật lớn nhất mà hiến pháp mới của chúng ta sẽ gặp là những quyền
lợi của một giai cấp trong mỗi tiểu bang, giai cấp này sẽ cản trở, bằng mọi giá, sự thành
VI
lập hiến pháp mới này bởi vì nó không có lợi cho quyền hành, lương bổng, và chức vụ
của họ dưới chính phủ tiểu bang. Chướng ngại kế tiếp là tham vọng sai trái của một số
người muốn nâng cao địa vị của mình trong tình trạng hỗn loạn của đất nước, hoặc hy
vọng hão huyền về lợi lộc tương lai trong sự chia rẽ của quốc gia.
Tuy nhiên, tôi không muốn dừng lại ở vấn đề này quá nhiều. Tôi thừa biết rằng giải quyết
tất cả mọi chống đối của mọi thành phần trong xã hội là không thực tế tại vì hoàn cảnh
của họ có lẽ đẩy họ vào quan điểm đó. Nếu chúng ta suy nghĩ một cách vô tư, chúng ta
phải chấp nhận rằng những người đó có thể hành động bởi những ý định chính trực. Hơn
thế nữa, nhiều quan điểm chống đối đã và sẽ xuất hiện từ những thành phần vô tội, nếu
không nói là đáng trọng. Sự hiểu lầm này được gầy dựng bởi định kiến ganh ghét và sợ
hãi. Quá nhiều nguyên nhân quan trọng đã ảnh hưởng không tốt đến sức phán đoán của
những người hiểu biết ở cả hai bên, bên đúng và bên sai, về những câu hỏi quan trọng của
xã hội. Trường hợp này, nếu tìm hiểu kỹ, sẽ cho chúng ta một bài học về sự điều độ, kiên
nhẫn trước những ai quá thuyết phục bởi lập trường của họ trong cuộc tranh luận. Điểm
kế tiếp trong bài học này là chúng ta sẽ không bao giờ chắc chắn rằng những người ủng
hộ sự thật được ảnh hưởng bởi những chính nghĩa trong sạch hơn thành phần bất đồng ý
kiến. Thật vậy, tham vọng, tính hám lợi, thù địch cá nhân, đảng đối lập, và nhiều động cơ
khác sẽ tiếp tục ảnh hưởng cả hai bên, bên ủng hộ và chống đối của một vấn đề. Nếu
không điều độ và nhẫn nại, sẽ không có sự thỏa hiệp xảy ra như các đảng chính trị hiện
thời. Trong chính trị cũng như tôn giáo, thật là nực cười nếu chúng ta thu nhập thành viên
mới bằng dàn thiêu hoặc dao búa. Dị giáo ở trong hai trường hợp này sẽ không chữa bằng
khủng bố hoặc đàn áp được.
Tuy vậy, cho dù những cảm nghĩ này sẽ cho phép được bày tỏ cho đúng lẽ phải, chúng ta
đã có đầy đủ bằng chứng để biết rằng nó sẽ xảy ra trong cuộc đối thoại này cũng như tất
cả những cuộc tranh luận quốc gia trong quá khứ. Một làn sóng phẫn nộ và những cảm
xúc mạnh sẽ được thoát ra. Nếu phán xét từ khía cạnh của đảng đối lập, chúng ta sẽ kết
luận rằng họ muốn được nói lên sự chính đáng về quan điểm của họ cũng như những sai
VII
trái của bên kia, để rồi họ có thể thu phục nhiều ủng hộ viên. Lòng nhiệt huyết để tìm
kiếm một sinh lực và hiệu quả cho chính phủ sẽ bị dán cho một nhãn hiệu như thể là một
đứa con bạo ngược và chống lại những yếu tố cơ bản của tự do. Một sự ghen tuông nguy
hiểm cho quyền công dân thường bắt đầu từ trí óc chứ không phải trái tim, vì thế nó
tượng trưng cho sự giả vờ, mưu mẹo, và một chiếc bẫy cũ rích để được nổi tiếng để trả
giá bằng những việc tốt cho công chúng. Đừng quên rằng sự ghen tuông thường đi đôi
với tình yêu, và những sư nhiệt tình cao quý cho tự do thường bị lây nhiễm với một tinh
thần hẹp hòi và những nghi ngờ tầm thường. Cũng đừng quên rằng khí lực của chính phủ
là yếu tố cần thiết để cho sự an toàn của tự do. Và với một suy nghĩ đúng đắn và một
phán quyết đầy đủ thông tin,quyền lợi của quyền tự do và chính phủ thường dính liền với
nhau. Hơn thế nữa, những tham vọng nguy hiểm luôn ẩn náu đằng sau cái mặt nạ của sự
sốt sắng giả tạo với quyền tự do công dân hơn là nhiệt tình cho một chính phủ cứng rắn
và hiệu quả. Lịch sử đã dạy cho chúng ta rằng những tham vọng đó sẽ dễ dàng dẫn đến
một chế độ độc tài hơn là những nhiệt tình kia. Nên nhớ rằng, trong những người lật đổ tự
do của thể chế cộng hòa, một số nhiều đã bắt đầu sự nghiệp của họ bằng sự xum xoe với
dân chúng, mị dân, và giả bộ muốn chấm dứt những bạo chúa.
Trong quá trình quan sát trên, tôi đã có một con mắt, đồng bào yêu quý của tôi ơi, để thúc
đẩy các bạn canh trừng tất cả mọi mưu toan từ bất cứ những ai muốn ảnh hưởng đến
những quyết định của bạn trong một vấn đề liên quan đến phúc lợi của chính bản thân
bạn, ngoại trừ những người muốn mang đến cho các bạn chứng cớ của sự thật. Bạn sẽ
thấy rằng những kẻ mưu lợi trên sẽ không thân thiện với bản hiến pháp mới này. Vâng,
đồng bào của tôi ơi, tôi không dấu các bạn là sau khi suy nghĩ rất kỹ, tôi ủng hộ việc các
bạn chấp nhận bản hiến pháp này. Tôi tin rằng con đường này là an toàn nhất cho quyền
tự do, cho phẩm giá, và cho hạnh phúc của bạn. Tôi không giả bộ những chần chừ mà tôi
thật sự không có. Tôi sẽ cũng không giả bộ làm ra vẻ cân nhắc khi tôi đã quyết định rồi.
Tôi thẳng thắn thú nhận với các bạn về niềm tin của tôi và tôi sẽ tự động bày ra trước mặt
các bạn những nguyên nhân tại sao của những niềm tin đó. Sự hiểu biết về lý tưởng tốt
đẹp sẽ đánh chết những sự mơ hồ không rõ ràng. Tuy nhiên, tôi sẽ không bao giờ nói
VIII
thêm về những lời công bố này. Động lực thúc đẩy tôi sẽ giữ ở trong lòng và những tranh
luận của tôi sẽ bày ra cho mọi người để tất cả các bạn sẽ phán xét nó. Các tranh luận này
sẽ được bỏ ra với một tinh thần không bao giờ ruồng bỏ căn nguyên của sự thật.
Tôi đề nghị trong một loạt bài viết để thảo luận những điều sau đây:
* Ích lợi của Liên Bang cho sự thịnh vượng chính trị của bạn
* Bất khả năng của các tiểu bang hiện tại cho việc thành lập Liên Bang
* Sự cần thiết của một chính phủ ít nhất phải mạnh mẽ bằng chính phủ sắp đưa ra
* Sự phù hợp của hiến pháp sắp đưa ra với những nguyên tắc trung thực của chính phủ
cộng hòa
* Sự tương tự của nó với hiến pháp của tiểu bang
* Và cuối cùng, những phần bảo vệ thêm để có đủ điều kiện mà giữ gìn thể chế chính phủ
đó cũng như tự do và thịnh vượng.
Trong công cuộc bàn thảo này, tôi sẽ cố gắng trả lời thỏa đáng cho tất cả mọi tranh luận
hoặc phản đối mà các bạn quan tâm.
Có lẽ, nó là một điều không cần thiết để đưa ra những tranh luận chứng minh cho lợi ích
của việc thành lập một Liên Bang Hoa Kỳ. Điều này dĩ nhiên là một điều nhạy cảm đến
tất cả chúng ta mọi người trong mỗi tiểu bang. Sự thật là chúng ta đã nghe những tiếng xì
xào bàn tán trong những giới chống lại hiến pháp mới rồi, và họ nói rằng 13 tiểu bang
quá lớn cho bất cứ hệ thống nào. Và từ đó, họ muốn giữ sự riêng lẻ của các tiểu bang qua
những liên kết nhỏ trong một liên kết lớn hơn giữa các tiểu bang. Học thuyết này có lẽ sẽ
từ từ lan truyền cho tới khi nó đủ mạnh để lên tiếng chính thức. Một điều không tranh cãi
cho thời cuộc bây giờ là chấp nhận soạn thảo hiến pháp mới hoặc giải tán Liên Bang của
chúng ta. Vì vậy, trong bài kế tiếp tôi sẽ bắt đầu xem xét những thế lợi của việc thành lập
chính phủ Liên Bang, những tai hại và nguy hiểm mà những tiểu bang sẽ gặp phải nếu
chúng ta giải tán chính phủ Liên Bang.
IX
PUBLIUS
X
Thư Liên bang số 2
Các mối hiểm nguy liên quan đến Ảnh hưởng và Lực lượng
quân sự ngoại bang
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Khi người dân Mỹ nghĩ rằng giờ đây họ đã được triệu tập để quyết định một vấn đề mà
kết quả của nó phải chứng tỏ được một trong những điều quan trọng nhất đã luôn thu hút
sự chú ý của họ, thì tính chính đáng của vấn đề rất toàn diện và rất nghiêm túc đó sẽ được
sáng tỏ.
Không có gì chắc chắn hơn sự cần thiết không thể thiếu được của chính quyền, và hơn
nữa điều không thể tranh cãi là bất cứ khi nào và dù sao thì chính quyền đã được thiết lập,
người dân cần phải chuyển nhượng một số quyền tự nhiên của họ để giao phó cho nó
những quyền lực thiết yếu. Do vậy, thật đáng xem xét phải chăng việc làm đó sẽ đem đến
nhiều lợi ích hơn cho người dân Mỹ mà họ nên hành động vì mọi mục đích chung, là một
cường quốc, dưới sự lãnh đạo của một chính quyền Liên bang, hay họ nên phân chia
chính họ thành các tiểu quốc tách rời, và cử người đứng đầu cho mỗi một chính quyền
giống như họ đã được khuyến cáo bổ nhiệm vào một chính quyền quốc gia.
Mãi đến gần đây, một ý kiến được thừa nhận và không thể phản bác rằng sự hưng thịnh
của người dân Mỹ phụ thuộc vào sự kéo dài liên minh vững chắc của họ, vào những ước
vọng, những lời nguyện cầu và những nỗ lực của các công dân thông thái và tốt bụng
nhất đã liên tục theo đuổi mục tiêu đó. Nhưng giờ đây xuất hiện các nhà chính trị, những
người khẳng định rằng ý kiến này là sai lầm, rằng thay vì tìm kiếm sự an toàn và hạnh
phúc trong một thể chế Liên bang, chúng ta cần tìm kiếm nó bằng việc chia các tiểu bang
thành các tiểu liên bang hay các vùng chủ quyền riêng biệt. Dù học thuyết mới này có thể
xuất hiện một cách bất thường, nhưng nó đã được khá nhiều người ủng hộ, kể cả những
XI
nhân vật trước đây chống đối nó mà hiện nay đã đồng tình. Điều gì có thể là luận cứ hay
lý lẽ thuyết phục tạo nên thay đổi về tình cảm và những tuyên bố của các quý ông này,
chắc chắn điều đó sẽ không khôn ngoan cho người dân nói chung khi chấp nhận các
nguyên lý chính trị mới này mà không được thuyết phục đầy đủ rằng chúng được căn cứ
trên những chính sách đúng đắn và lành mạnh.
Điều thường làm tôi vui mừng là nước Mỹ độc lập không bao gồm những vùng lãnh thổ
xa xôi và tách rời, mà một đất nước rộng mở, màu mỡ và không bị chia cắt là định mệnh
của chúng ta, những người con tự do của phương tây. Thượng đế bằng cách của riêng
mình đã ban phước cho đất nước này với hàng loạt đất đai và sản vật, ban cho nó nguồn
nước với vô số những dòng suối, làm hài lòng và cung cấp nơi cư ngụ cho những con dân
của nó. Sự liên tục của các luồng nước phù hợp cho tàu thuyền tạo nên một hàng rào bao
quanh biên giới của nó, như thể để liên kết nó với nhau; trong khi những con sông hùng
vĩ nhất thế giới, chảy theo những dòng chảy thuận tiện, đã ban cho cư dân của nó những
tuyến đường biển thuận tiện để liên lạc, dễ dàng tìm kiếm những giúp đỡ thân thiện, và
giao thương trao đổi các hàng hóa khác nhau của họ với nhau.
Điều thích thú tương tự mà tôi thường xuyên lưu ý là Thượng đế đã dễ dãi ban cho đất
nước không bị chia cắt này một dân tộc thống nhất – một dân tộc sinh ra từ cùng một tổ
tiên, nói cùng một ngôn ngữ, tự nhận theo cùng một tôn giáo, cùng gắn liền với những
nguyên tắc chính quyền, rất giống nhau về phong tục tập quán, và những con người bằng
những dự định, trang bị, những nỗ lực liên kết của họ để chiến đấu bên nhau trong suốt
một cuộc chiến lâu dài và đẫm máu, đã thiết lập được sự tự do và độc lập toàn thể một
cách huy hoàng.
Đất nước này và dân tộc này dường như đã được sinh ra cho nhau, và như thể được
Thượng đế tạo dựng, là tài sản thừa kế rất xứng đáng và thích hợp cho một nhóm đồng
đạo, gắn bó với nhau bởi các mối liên kết chặt chẽ nhất, không bao giờ bị tách chia thành
một số vùng chủ quyền xa lạ, đố kỵ và không hài hòa.
XII
Những tình cảm tương tự đến nay đã chiếm ưu thế trong tất cả các tầng lớp và đảng phái
của người dân chúng ta. Với mọi mục tiêu chung, chúng ta đã đồng nhất thành một dân
tộc mà mỗi công dân riêng lẻ dù ở bất cứ đâu đều được hưởng các quyền lợi, những đặc
ân của quốc gia và được bảo vệ như nhau. Như là một quốc gia, chúng ta đã tạo ra chiến
tranh và hòa bình; như một quốc gia chúng ta đã chế ngự các kẻ thù chung; như một quốc
gia chúng ta đã tạo ra các khối đồng minh, thiết lập các hiệp ước, và bắt đầu thực hiện các
qui ước và thỏa thuận khác nhau với các quốc gia nước ngoài.
Ngay từ một giai đoạn rất sớm, cảm giác mạnh mẽ về giá trị và phước lành của Liên bang
đã giúp cho người dân xây dựng một chính quyền Liên bang để bảo đảm và duy trì nó.
Gần như họ đã tạo nên chính quyền đó ngay khi họ có được một sự bảo đảm về chính trị;
hay nói cho đúng hơn là ngay sau khi nhà cửa của họ bị cháy, khi nhiều con dân họ đang
đổ máu, và ngay khi mà sự tiến triển của thù địch và tàn phá chỉ để lại chút không gian để
bình tâm suy ngẫm và tìm hiểu một cách chín chắn về những điều luôn phải làm trước khi
hình thành một chính quyền đúng mực và sáng suốt cho một dân tộc tự do. Không có gì
ngạc nhiên là một chính quyền đã được thiết lập vào thời điểm bất hạnh như vậy qua thực
tiễn đã nhìn ra những điều không thích hợp và khiếm khuyết to lớn đối với các mục đích
mà nó dự tính phải giải quyết.
Dân tộc thông minh này đã hiểu ra và hối tiếc về những khiếm khuyết như vậy. Vẫn tiếp
tục gắn bó với Liên bang không kém hơn là say mê tự do, họ đã thấy được mối nguy
hiểm trước mắt đã đe dọa chính quyền trước đây và xa hơn là về sau; và bị thuyết phục
rằng nền an ninh rộng lớn cho cả hai chỉ có thể được tìm thấy trong một chính quyền
quốc gia được dựng nên một cách khôn ngoan hơn, như cùng đồng tâm nhất trí, họ đã tập
trung tại Hội nghị tại Philadelphia vừa qua, để xem xét vấn đề hệ trọng đó.
Hội nghị này bao gồm những người có được sự tin tưởng của nhân dân, và nhiều người
trong họ đã trở thành biểu tượng vì lòng ái quốc, đức hạnh và sự thông thái của họ, đã
XIII
đảm trách các nhiệm vụ khó khăn trong các thời điểm thử thách trí tuệ và tình cảm của
những con người. Trong thời khắc êm dịu của hòa bình, với tâm trí không bị ràng buộc
bởi các vấn đề khác, họ đã vượt qua nhiều tháng nhạt nhẽo, bàn cãi liên tục hàng ngày; và
cuối cùng, không sợ hãi quyền lực, hay bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tình cảm mạnh mẽ nào
khác ngoài tình yêu đất nước, họ đã đưa ra và khuyến cáo cho người dân thực hiện một
kế hoạch được thảo ra bởi các hội đồng chung mà rất đồng lòng của họ.
Hãy thừa nhận thực tế rằng kế hoạch này chỉ là KHUYẾN CÁO, không áp đặt, nhưng
cũng nhớ rằng nó không khuyến cáo việc chấp thuận MÙ QUÁNG, hay bài xích MÙ
QUÁNG; mà hãy xem xét điều đó một cách ngay thẳng và bình tĩnh trong chừng mức và
tầm quan trọng mà vấn đề đòi hỏi, và nó chắc chắn phải nhận được. Song điều này (như
đã được nhận ra trong phần trước của bài viết này) được mong ước hơn là đòi hỏi, rằng
nó có thể rất đáng được xem xét và nghiên cứu. Kinh nghiệm từ những sự kiện trước đây
dạy chúng ta không được quá lạc quan với những mong ước như vậy. Người ta vẫn chưa
quên việc nắm bắt một cách chắc chắn các mối nguy hiểm sắp xảy ra cho người dân Mỹ
đã tạo ra một Quốc hội đáng nhớ vào năm 1774. Quốc hội đó đã khuyến cáo các biện
pháp thích đáng cho cử tri, và sự kiện này đã chứng tỏ sự khôn ngoan của họ; điều dường
như còn mới nguyên trong tâm trí chúng ta, là các nhà xuất bản đã rất nhanh chóng tung
ra các loại sách giới thiệu và các báo hàng ngày chống lại chính những biện pháp đó.
Không chỉ nhiều quan chức chính quyền, những kẻ chỉ tuân theo tiếng gọi của quyền lợi
cá nhân, mà cả những người khác do đã đánh giá sai các kết quả, ảnh hưởng thái quá các
lề lối trước đây, hay tham vọng của ai đó nhắm vào các mục tiêu không phù hợp với lợi
ích công chúng, đã không mệt mỏi với những nỗ lực để thuyết phục người dân từ bỏ
khuyến cáo của Quốc hội yêu nước đó. Quả thật, nhiều người đã bị lừa gạt, nhưng phần
lớn dân chúng đã suy luận và quyết định một cách sáng suốt; và hạnh phúc mà họ đang
có phản ánh họ đã làm vậy.
Họ đã cân nhắc rằng Quốc hội gồm nhiều người từng trải và khôn ngoan, đã được tập hợp
lại từ các vùng khác nhau của đất nước, đưa họ lại gần nhau và cùng luận bàn với nhau về
XIV
hàng loạt thông tin hữu ích. Rằng trong khoảng thời gian họ đã cùng trải qua việc tìm
hiểu và bàn thảo về những quyền lợi thực sự của đất nước, họ cần phải có được kiến thức
thật chính xác về lĩnh vực đó. Rằng họ đã có sẵn những mối quan tâm khác biệt về tự do
và sự thịnh vượng của cộng đồng, do đó đã làm thiên lệch không ít nhiệm vụ của họ để
chỉ khuyến cáo những biện pháp này, sau khi đã cân nhắc hết mức, mà họ thực sự cho là
cẩn trọng và đáng theo.
Những suy xét như vậy và tương tự sau đó đã làm cho người dân rất tin tưởng vào những
ý kiến và tính thống nhất của Quốc hội; và họ đã làm theo những lời khuyên của các nhà
lập pháp, bất chấp những thủ đoạn và nỗ lực khác nhau được đưa ra để ngăn cản họ.
Nhưng nếu như người dân tự do có lý do để tin tưởng vào những con người của Quốc hội
đó, một vài người đã kiểm chứng hay hoàn toàn nhận ra vẫn có lý do lớn hơn mà giờ đây
họ phải lưu tâm đến ý kiến và lời khuyên của hội nghị, vì họ biết rằng một số thành viên
nổi bật nhất của Quốc hội đó đã được thử thách và chỉ được phê chuẩn do năng lực và
lòng yêu nước, rằng những con người từng trải có được những thông tin nhạy bén về
chính trị, cũng là thành viên của hội nghị này, và đã đưa vào hội nghĩ những kiến thức và
kinh nghiệm mà họ đã tích lũy được.
Điều đáng lưu ý là không chỉ Quốc hội đầu tiên mà tất cả những quốc hội tiếp theo, cũng
như hội nghị vừa qua lúc nào cũng phải gắn chặt với người dân trong niềm tin rằng sự
thịnh vượng của nước Mỹ phụ thuộc vào việc Liên minh của nó. Bảo đảm và duy trì điều
này là mục đích cao cả của mọi người trong việc định hình hội nghị đó, và nó cũng là
mục đích cao cả của kế hoạch mà hội nghị đã tư vấn cho người dân thực hiện. Do vậy,
những nỗ lực được một số người tạo ra làm suy giảm tầm quan trọng của Liên bang trong
các giai đoạn riêng biệt có tính chính đáng gì, hay vì những mục đích cao đẹp ra sao?
Hay tại sao người ta đã gợi ý 3 hoặc 4 liên bang sẽ tốt hơn một? Tôi bị ý nghĩ của chính
mình thuyết phục rằng người dân luôn nghĩ đúng về chủ đề này, rằng sự gắn bó chung và
không thay đổi của người dân với tính chính đáng của Liên bang dựa trên những suy
ngẫm lớn lao và vững chắc, mà tôi phải nỗ lực để phát triển và giải thích trong một số bài
XV
viết kế tiếp. Dân chúng, người thúc đẩy những ý tưởng về việc thay thế một số liên bang
khác nhau bằng kế hoạch của hội nghị, hẳn như thấy trước rằng việc phản đối nó sẽ đặt
sự tồn tại của Liên bang vào một tình thế vô cùng hiểm nghèo. Điều đó chắc hẳn sẽ đúng,
và tôi chân thành mong muốn nó có thể được thấy trước một cách rõ ràng bởi tất cả
những công dân nghiêm túc, rằng khi nào sự tan rã của Liên bang diễn ra, người Mỹ sẽ có
lý do để thét lên như lời của bài thơ “TẠM BIỆT, VĨNH BIỆT SỰ CAO CẢ CỦA TÔI”.
PUBLIUS
XVI
Thư Liên bang số 3
Tiếp cùng chủ đề (Các mối hiểm nguy liên quan đến Ảnh hưởng và Lực
lượng quân sự ngoại bang)
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Một nhận xét không phải mới rằng người dân của bất kỳ quốc gia nào (nếu khôn ngoan
và có đủ thông tin, giống như người dân Mỹ) hiếm khi chấp nhận và kiên trì nhiều năm
chỉ để theo đuổi một ý kiến sai lầm liên quan đến các quyền lợi của họ. Một cách tự
nhiên, sự suy xét đó có xu hướng tạo nên sự tôn trọng cao đối với ý kiến tốt đẹp mà
người dân Mỹ đã xem xét lâu dài và giống như nhau về tầm quan trọng của việc duy trì
sự thống nhất vững chắc dưới một chính quyền Liên bang, được giao phó đủ quyền lực
đối với mọi mục đích của nhân dân và quốc gia của họ.
Càng chăm chú xem xét và khảo cứu các lý do dường như đã tạo nên quan điểm này, tôi
càng tin tưởng rằng chúng vững chắc và thuyết phục.
Trong nhiều mục đích mà một người dân tự do và khôn ngoan thấy cần phải hướng sự
chú ý của họ vào, thì việc lo liệu cho sự AN TOÀN của họ dường như là việc làm đầu
tiên. SỰ AN TOÀN của người dân không còn nghi ngờ gì liên quan đến hàng loạt tình
huống và những suy xét, mà kết quả tạo ra quyền rộng rãi cho những con người đó,
những người muốn định nghĩa nó một cách chính xác và toàn diện.
Bây giờ tôi dự định chỉ xem xét nó vì điều đó tôn trọng an ninh để bảo đảm sự yên ổn và
thái bình, cũng như chống lại những mối hiểm nguy từ ẢNH HƯỞNG VÀ LỰC LƯỢNG
QUÂN SỰ NGOẠI BANG, cũng như từ các HIỂM NGUY CÙNG LOẠI bắt nguồn từ
những nguyên nhân trong nước. Theo thứ tự đến trước, sẽ là phù hợp để thảo luận những
XVII
hiểm nguy từ ngoại bang trước tiên. Do đó chúng ta hãy bắt đầu kiểm tra, phải chăng
người dân không đúng trong ý kiến của họ rằng một liên bang thân ái, dưới sư lãnh đạo
của một chính quyền quốc gia hiệu quả, tạo cho họ nền an ninh tốt nhất có thể chống lại
NHỮNG THÙ ĐỊCH từ nước ngoài.
Số lượng những cuộc chiến tranh đã xảy ra hay sẽ xảy ra trên thế giới sẽ luôn tỷ lệ thuận
với số lượng và trọng lượng các nguyên nhân, dù THẬT SỰ hay NGỤY TẠO để KHIÊU
KHÍCH hoặc KÍCH ĐỘNG chúng. Nếu nhận xét này là đúng đắn, sẽ là hữu ích để điều
tra xem liệu có bao nhiêu nguyên nhân chiến tranh CHÍNH ĐÁNG như vậy có thể đưa ra
bởi NƯỚC MỸ HỢP NHẤT thay cho nước Mỹ KHÔNG HỢP NHẤT; vì nếu điều đó
gợi ra rằng nước Mỹ hợp nhất có thể sẽ đưa ra ít nguyên nhân nhất, thì về khía cạnh này
sẽ dẫn đến Liên bang có xu hướng bảo đảm cho nhân dân được sống trong một đất nước
hòa bình với các quốc gia khác hơn cả.
Các nguyên nhân chiến tranh CHÍNH ĐÁNG, đa phần đều bắt nguồn từ hoặc sự vi phạm
các hiệp ước, hoặc do xung đột trực tiếp. Người Mỹ đã tạo ra các hiệp ước với không
dưới 6 quốc gia nước ngoài, ngoại trừ với đế quốc Phổ, tất cả chúng đều liên quan đến
hàng hải, và do vậy có thể gây khó chịu hoặc làm tổn thương chúng ta. Nước Mỹ cũng đã
giao thương rộng rãi với Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Anh quốc. Hơn nữa, đối với hai
nước phía sau, phải lưu tâm đến tình trạng lân bang.
Điều tối quan trọng cho hòa bình của nước Mỹ là nó phải quan sát các luật lệ của các
quốc gia hướng tới tất cả các cường quốc này, và với tôi dường như rõ ràng rằng điều này
sẽ đạt được một cách hoàn hảo và không chậm trễ bởi một chính quyền quốc gia hơn nó
có thể làm bởi 13 tiểu bang tách rời hoặc bởi 3 hay 4 tiểu quốc riêng biệt.
Vì một khi chính quyền quốc gia hiệu quả được thiết lập, những người con ưu tú nhất của
đất nước sẽ không chỉ sẵn lòng phụng sự, mà sẽ còn được hầu hết dân chúng đề nghị để
quản lý nó; vì dẫu thành phố, nông thôn, hay thế lực khác có thể cử người vào quốc hội,
XVIII
thượng viện, hay tòa án công lý, hoặc các ban ngành hành pháp của tiểu bang, nhưng
danh tiếng rộng rãi trong dân chúng đối với những nhân tài và những người có năng lực
khác mới là cần thiết để cử người vào các chức vụ lãnh đạo chính quyền quốc gia, nhất là
khi đó nó sẽ có phạm vi lựa chọn rộng nhất, và điều chưa từng trải qua là sự thiếu những
con người phù hợp là không phải không phổ biến trong một số tiểu bang. Vì vậy, sẽ dẫn
tới các đảng phái chính trị, quyền lực, và các quyết định pháp luật của chính quyền quốc
gia sẽ đúng đắn, hệ thống và khôn ngoan hơn của các tiểu bang riêng rẽ, kết quả làm thỏa
mãn hơn đối với các quốc gia khác, cũng như AN TOÀN hơn cho người dân chúng ta.
Vì dưới một chính quyền quốc gia, các hiệp ước và điều khoản của hiệp ước, cũng như
các điều luật của các quốc gia, sẽ luôn luôn được giải thích theo một ý và thể hiện theo
cùng một phương thức, trong khi những phán xét về cùng các luận điểm, vấn đề giống
nhau trong 13 tiểu bang, hoặc 3 hay 4 tiểu quốc, sẽ không luôn phù hợp hay nhất quán; và
cũng như được đưa ra từ hàng loạt các tòa án và thẩm phán độc lập được các chính quyền
độc lập khác nhau bổ nhiệm, dựa trên các bộ luật và quyền lợi địa phương khác nhau có
thể tác động và ảnh hưởng đến chúng. Sự sáng suốt của hội nghị, thông qua việc cam kết
những vấn đề này với quyền thực thi pháp lý và quyền phán quyết của tòa án được bổ
nhiệm bởi và chỉ chịu trách nhiệm với duy nhất chính quyền quốc gia, không thể bị quá
nhiều chỉ trích.
Vì viễn cảnh của sự thua thiệt hay có lợi thường có thể xúi giục đảng cầm quyền trong
một vài tiểu bang đi chệch khỏi công lý và những cam kết tốt đẹp; nhưng những lệch lạc
đó, không lan được đến các bang khác, kết quả là sẽ có rất ít hoặc không ảnh hưởng đến
chính quyền quốc gia, sự cám dỗ này sẽ không có kết quả, các cam kết và công lý tốt đẹp
sẽ được duy trì. Trường hợp hiệp ước hòa bình với Anh quốc đã bổ sung tính vững chắc
to lớn cho lập luận này.
Vì, ngay cả đảng cầm quyền trong một tiểu bang cần được sắp xếp để chống lại những
cám dỗ, nhưng những cám dỗ loại này vẫn có thể, thường là do những điều kiện khác biệt
XIX
của tiểu bang, và có thể ảnh hưởng đến một số lượng lớn cư dân. Đảng đương quyền có
thể không luôn luôn đủ năng lực, mặc dù sẵn lòng ngăn chặn hành động bất công được
trù tính, hay trừng phạt những kẻ xâm lược. Nhưng chính quyền quốc gia không bị ảnh
hưởng bởi các điều kiện của địa phương đó, hoặc sẽ không đưa ra những cam kết có lỗi
với chính họ, hoặc không thiếu quyền lực, hoặc lệch lạc khi ngăn cản hay trừng phạt
những sai phạm đó của các quốc gia nước ngoài.
Như vậy, những vi phạm các hiệp ước và các điều luật của các nước một cách ngẫu nhiên
hoặc có tính toán tới chừng mực gây ra các nguyên nhân chiến tranh CHÍNH ĐÁNG, họ
vẫn chưa phải e sợ dưới một chính quyền Liên bang hơn là dưới một vài chính quyền nhỏ
hơn, và về khía cạnh đó, chính quyền liên bang giúp cho sự AN TOÀN của người dân
hơn cả.
Khi những nguyên nhân chiến tranh rõ ràng đó khởi phát từ những xung đột trực tiếp và
bất chính, điều có vẻ rõ ràng với tôi là một chính quyền quốc gia tin cậy tạo ra an ninh to
lớn chống lại các hiểm nguy thuộc loại đó hơn là có thể nhận được từ bất kỳ 4 tiểu quốc
khác.
Vì những xung đột này thường gây ra bởi những cảm xúc giận dữ và quyền lợi của một
bộ phận hơn là toàn bộ; của một vài bang hơn là Liên bang. Không chỉ duy nhất cuộc
chiến tranh với người da đỏ yếu kém vì nó chưa gây ra những cuộc tấn công của chính
quyền Liên bang hiện nay; mà có một vài trường hợp những kẻ thù địch người da đỏ đã
bị kích động bởi sự quản lý không hợp lý của các tiểu bang riêng rẽ, các chính quyền
hoặc không thể hoặc không sẵn sàng ngăn chặn và trừng phạt những kẻ tấn công, là
nguyên nhân của sự tàn sát nhiều người dân vô tội.
Lân bang với các vùng lãnh thổ của Anh quốc và Tây Ban Nha, tiếp giáp với một số nước
và không tiếp giáp với nước khác, được tự nhiên giới hạn khỏi các nguyên nhân tranh
chấp đến sớm hơn với người dân biên giới. Các quốc gia biên giới nếu có, sẽ là những
XX
nơi bị sự thúc đẩy của sự kích động đột ngột đó, và một cảm nhận nhanh chóng những lợi
ích và tổn thương rõ rệt, sẽ là nguyên nhân có thể nhất kích động chiến tranh với các
nước này bởi xung đột trực tiếp; và không gì có thể ngăn ngừa một cách hiệu quả mối
hiểm nguy đó như một chính quyền quốc gia, mà sự thông thái và cẩn trọng của nó không
hề bị giảm bớt vì những cảm xúc tức giận, sẽ thúc đẩy các bên đối phó ngay lập tức.
Không chỉ ít nguyên nhân chiến tranh chính đáng hơn được chính quyền quốc gia đưa ra,
mà chính quyền cũng sẽ có nhiều quyền lực hơn để xem xét và làm lắng dịu chúng một
cách chân tình. Ở khía cạnh đó cũng như các khía cạnh khác, họ sẽ trở nên ấm nóng hơn,
và Liên bang sẽ có nhiều khả năng để hành động một cách thận trọng hơn tiểu bang đang
có tranh chấp. Lòng tự trọng của các tiểu bang, cũng như của người dân một cách tự
nhiên đã cho phép họ biện minh cho mọi hành động của họ, và phản đối việc chấp nhận
sự thật, hành động đúng và sửa chữa những sai lầm và vi phạm của họ. Trong các trường
hợp như vậy, chính quyền quốc gia sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự kiêu hãnh này, mà sẽ
bắt đầu kiềm chế và không thiên vị khi cân nhắc và quyết định đưa ra những biện pháp
phù hợp nhất để gỡ ra khỏi các khó khăn đã đe dọa họ.
Hơn nữa, người ta biết rằng những hành động đền đáp, lời giải thích và bồi thường được
thỏa mãn bởi một nhà nước liên bang mạnh dễ được chấp nhận hơn, trong khi sẽ bị từ
chối vì không vừa ý nếu nó được đưa ra bởi một tiểu bang hoặc tiểu quốc ít được quan
tâm và ít quyền lực hơn.
Vào năm 1685, bang Genoa đã xúc phạm vua Louis XIV, đã phải cố gắng để nhượng bộ
ông ta. Ông ta đã yêu cầu họ phải cử ngài Tổng trấn, hay người đứng đầu địa phương
cùng với 4 thượng nghị sỹ của họ sang Pháp để xin được tha thứ và chấp nhận sự xét xử
của ông ta. Họ đã bị bắt buộc phục tùng vì hòa bình. Liệu vào dịp nào khác, bang này sẽ
bị yêu cầu hay nhận được điều sỉ nhục tương tự từ Tây Ban Nha, Anh quốc, hay bất kỳ
cường quốc nào khác?
XXI
PUBLIUS
XXII
Thư Liên bang số 4
Tiếp cùng chủ đề (Các mối hiểm nguy liên quan đến Ảnh hưởng và
Lực lượng quân sự ngoại bang)
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Bài viết VỪA RỒI của tôi đã ấn định một vài lý do tại sao sự an toàn của dân chúng
chống lại những hiểm nguy có thể bị rơi vào bởi những nguyên nhân chiến tranh CHÍNH
ĐÁNG đưa ra sẽ được bảo đảm tốt nhất bởi chính quyền Liên bang hơn là các tiểu quốc
khác; và những lý do đó chỉ ra rằng các nguyên nhân như vậy sẽ không chỉ hiếm khi được
đưa ra hơn, mà sẽ cũng được xem xét bởi chính quyền quốc gia dễ dàng hơn hoặc bởi
chính quyền tiểu bang hoặc các tiểu quốc đã đề nghị.
Nhưng sự an toàn của người dân Mỹ chống lại những hiểm nguy do thế lực NGOẠI
BANG không chỉ phụ thuộc vào sự kiên nhẫn của họ không đưa ra các nguyên nhân
chiến tranh CHÍNH ĐÁNG với các nước khác, mà còn phụ thuộc vào việc sắp đặt và sự
tiếp nối của chính họ trong một tình huống như vậy để không KÍCH ĐỘNG sự thù địch
hay lăng mạ; vì nó cần không được kéo theo có các nguyên nhân chiến tranh chính đáng
cũng như NGỤY TẠO.
Điều đó là quá đúng, tuy đáng hổ thẹn nhưng có thể là do bản chất của con người, rằng
các quốc gia nhìn chung sẵn sàng gây chiến bất cứ khi nào mà họ có hy vọng kiếm được
gì đó từ cuộc chiến; nói cho đúng hơn, các quốc vương độc tài thường sẽ vẫn gây chiến
khi đất nước họ không thu được lợi ích gì từ cuộc chiến tranh, mà chỉ đơn thuần vì mục
tiêu và mục đích cá nhân, tỷ như thèm khát danh tiếng về quân sự, trả thù cho những lăng
mạ cá nhân, tham vọng hay những thỏa thuận riêng tư nhằm mở rộng quyền lợi cho gia
XXIII
đình riêng và cho những đảng viên của họ. Những điều đó cộng với hàng loạt các lý do
khác chỉ ảnh hưởng đến suy nghĩ về sự toàn quyền, thường kéo ông ta vào các cuộc chiến
tranh không hợp đạo lý hay không phù hợp với tiếng nói và quyền lợi của nhân dân. Tuy
nhiên, độc lập với những lý do gây chiến tranh thường nhận thấy nhiều hơn ở các vương
quốc độc tài này, điều đáng được chúng ta chú ý còn có những nguyên nhân khác, ảnh
hưởng đến các quốc gia như các vị vua chúa; mà một số họ được xem là sinh ra từ tình
trạng và hoàn cảnh liên quan với chúng ta.
Chúng ta đã là đối thủ của Pháp và Anh quốc về ngư trường, và có thể cung cấp cho các
thị trường của họ với giá rẻ hơn chính họ có thể làm, bất chấp các nổ lực nhằm ngăn chặn
điều đó bởi những trợ giúp của chính họ hay các khoản thuế đối với cá nhập khẩu từ nước
ngoài.
Chúng ta cũng đã trở thành đối thủ về hàng hải và vận tải biển với họ và hầu hết các nước
Âu châu khác; và chúng ta sẽ làm thất vọng chính chúng ta nếu chúng ta tin rằng bất cứ ai
trong số họ sẽ vui mừng khi thấy nó hưng thịnh; vì vận tải thủy của chúng ta không thể
tăng lên mà không làm giảm khả năng của họ trong chúng mực nào đó, họ sẽ quan tâm
hơn, và có nhiều chính sách để hạn chế hơn là thúc đẩy điều đó.
Trong việc buôn bán với Ấn Độ và Trung quốc, chúng ta nhảy vào với nhiều hơn một
quốc gia, bởi vì điều đó giúp cho chúng ta chia sẻ những thuận lợi mà họ có được bằng
các phương thức độc quyền, vì bằng cách ấy chúng ta cung cấp cho chính chúng ta những
hàng hóa mà chúng ta thường phải mua của họ.
Sự mở rộng thương mại của chúng ta bằng chính các đội tàu của chúng ta không thể làm
hài lòng bất kỳ quốc gia nào có lãnh thổ trên hoặc gần lục địa bắc Mỹ này, vì giá rẻ và
chất lượng tuyệt vời của hàng hóa chúng ta, cộng thêm tình trạng kém cỏi của các vùng
lân cận, hoạt động kinh doanh và giao dịch của các thương gia và nhà hàng hải của chúng
ta, sẽ tạo cho chúng ta nhiều thuận lợi hơn các lãnh thổ đó có thể có được, phù hợp với
XXIV
ước muốn hay chính sách của các vùng chủ quyền tương ứng của họ.
Tây Ban Nha cho rằng nó dễ dàng đóng cửa sông Mississippi chống lại chúng ta ở một
phía, và Anh quốc ngăn chặn chúng ta vào Saint Lawrence phía bên kia; cũng không ai
trong họ sẽ cho phép các luồng nước khác giữa họ và chúng ta trở thành phương tiện để
đi lại và giao thương với nhau.
Từ những luận điểm này và các suy xét tương tự như vậy, mà nếu thận trọng có thể được
mở rộng và chi tiết hơn, dễ thấy rằng những đố kỵ và không thỏa mãn có thể trượt dần
vào những dự tính và các thành viên nội các của các quốc gia khác, và rằng chúng ta
không hy vọng họ sẽ lưu ý sự tiến bộ của chúng ta về sự hợp nhất, về sức mạnh và tầm
quan trọng bởi đất và biển, với con mắt bình tâm và không phân biệt.
Người dân Mỹ nhận thức rằng các việc gây ra chiến tranh có thể xuất phát từ các tình
trạng này, cũng như do tình trạng khác hiện không quá rõ ràng, và rằng bất cứ khi nào
những lý lẽ như vậy có thể tìm được cơ hội và thời điểm thích hợp cho hành động, những
ngụy tạo để tô vẽ và thanh minh cho chúng sẽ không thiếu. Do đó, một cách khôn ngoan
họ xem xét sự liên hợp và một chính phủ quốc gia tin cậy như cần có phải đặt ra và giữ
họ trong TÌNH TRẠNG NHƯ VẬY, thay cho việc KÍCH ĐỘNG chiến tranh, sẽ có xu
hướng ngăn chặn và không khuyến khích việc đó. Tình trạng đó là trạng thái phòng vệ tốt
nhất có thể và tất yếu phụ thuộc vào chính quyền, các lực lượng quân sự và tài nguyên
của quốc gia.
Vì sự an toàn của tổng thể là mối quan tâm của tất cả mọi người, và không thể được lo
liệu mà không cần chính quyền, hoặc một, một vài hay nhiều, cho phép chúng ta xem xét
liệu một chính quyền tin cậy là không có khả năng hơn bất kỳ số lượng chính quyền nào
khác đã đưa ra liên quan đến mục đích đang bàn.
Một chính quyền có thể lựa chọn và sử dụng chính các tài năng và kinh nghiệm của
XXV
những người có năng lực nhất của chính nó, ở bất cứ nơi nào của Liên bang mà nó có thể
nhận ra. Điều đó có thể phát triển thành những nguyên tắc chính sách đồng nhất. Chính
sách đó có thể làm hài lòng, đồng thuận và bảo vệ một vài vùng và các thành viên, mở
rộng lợi ích của việc lo trước của nó và những phòng ngừa cho mỗi vùng. Trong việc
hình thành các hiệp ước, nó sẽ xem xét mối quan tâm của toàn thể, và các quyền lợi riêng
của các vùng được gắn liền với quyền lợi đó của toàn thể. Nó có thể sử dụng các tài
nguyên và sức mạnh của toàn thể để bảo vệ cho bất kỳ vùng riêng rẽ nào, và việc đó dễ
dàng và mau lẹ hơn các chính quyền tiểu bang hoặc tiểu quốc tách rời có thể làm, vì thiếu
sự phối hợp và thống nhất của hệ thống. Có thể đặt lực lượng quân đội tuân thủ một kế
hoạch quy củ, bằng việc sắp xếp các sỹ quan của họ theo sự phụ thuộc với người đứng
đầu địa phương như nó đã dự tính, thống nhất họ thành một quân đoàn và bằng cách đó
làm cho họ hoạt động hiệu quả hơn khi bị chia nhỏ thành 13 hay 3 hoặc 4 bộ phận độc lập
khác nhau.
Quân đội của vương quốc Anh sẽ thế nào nếu như quân đội Anh tuân theo chính quyền
Anh, quân đội Scotland tuân theo chính quyền Scotland và quân đội xứ Wales tuân theo
chính quyền xứ Wales? Giả sử một cuộc xâm chiếm xảy ra; 3 chính quyền đó sẽ làm
được gì (ngay cả khi họ đồng ý hoàn toàn), với tất cả các lực lượng tương ứng của họ để
hoạt động chống lại kẻ thù hiệu quả như là một chính quyền duy nhất của Vương quốc
Anh sẽ đạt được?
Chúng ta đã nghe nói nhiều về các hạm đội của Anh quốc, và nếu chúng ta khôn ngoan sẽ
có thể đến thời điểm khi mà các hạm đội của Hoa kỳ có thể lôi kéo sự chú ý. Thế nhưng
nếu một chính quyền quốc gia đã không được chỉnh đốn hải quân Anh quốc đến mức tạo
cho nó một nơi đào tạo thủy thủ, nếu một chính quyền quốc gia không phát huy hết mọi
phương tiện và tài lực quốc gia để hình thành các hạm đội, thì sự cam đảm và sức mạnh
của họ sẽ không bao giờ được tôn vinh. Hãy để cho nước Anh có hải quân và hạm đội
của chính nó, cho Scotland có hải quân và hạm đội của nó, cho xứ Wales có hải quân và
hạm đội của nó, cho Ireland có hải quân và hạm đội của nó. Để cho 4 vùng lập thành nên
XXVI
đế chế Anh được lãnh đạo bởi 4 chính quyền độc lập, và dễ nhận thấy sớm làm sao mỗi
một trong họ sẽ suy yếu dần thành các đội quân tương đối tầm thường.
Áp dụng những thực tế này vào trường hợp của chính chúng ta. Để Hoa Kỳ bị phân chia
thành 13, hoặc nếu bạn thích thành 3 hay 4 chính quyền độc lập, những đội quân nào mà
họ có thể xây dựng và trả lương, hạm đội nào họ luôn muốn có? Nếu một tiểu quốc bị tấn
công, liệu các nước khác có chạy đến cứu giúp, dùng xương máu và tiền bạc của họ để
bảo vệ cho nó? Sẽ không có gì nguy hiểm cho họ khi được tôn thành trung lập bởi những
hứa hẹn bên ngoài, hay bị quyến rũ bởi ham muốn hòa bình quá lớn để cúi đầu mạo hiểm
với sự bình yên và sự an toàn hiện có của họ vì lân bang, của những người có lẽ bị họ
ghen ghét, và họ thích thú khi thấy tầm quan trọng của lân bang đó bị thu nhỏ lại? Mặc
dù cách xử lý như vậy là không khôn ngoan, song điều đó sẽ là lẽ tự nhiên. Lịch sử của
những nhà nước như Hy Lạp, và của các quốc gia khác đầy rẫy những trường hợp như
vậy, và không phải là không chắc xảy ra điều đã thường xuyên xảy ra như thế trong quá
khứ, sẽ lại xảy ra dưới những tình trạng tương tự.
Nhưng phải thừa nhận rằng họ cũng có thể sẵn sàng giúp các tiểu bang hoặc tiểu quốc bị
tấn công. Như thế nào, khi nào và mức độ trợ giúp thế nào về nhân lực và tài lực sẽ được
đưa ra? Ai sẽ chỉ huy liên quân, và người nào trong số đó sẽ nhận lệnh của ông ta? Ai sẽ
thiết lập các điều khoản hòa bình, và trong trường hợp có tranh chấp, người trung gian
nào sẽ quyết định cho họ và buộc họ phải ưng thuận? Những khó khăn và bất lợi khác
nhau sẽ không thể tách rời khỏi tình huống như vậy; trong khi một chính quyền duy nhất
trông nom các quyền lợi chung và phổ quát, cũng như kết hợp và quản lý sức mạnh và tài
nguyên của toàn thể, sẽ thoát được tất cả những rắc rối đó, và xa hơn nữa là mang lại sự
an toàn cho người dân.
Nhưng tình trạng của chúng ta có thể là gì, phải chăng liên minh vững chắc dưới một
chính quyền quốc gia, hay tách ra thành một số tiểu liên bang, điều đó chắc chắn các
quốc gia nước ngoài sẽ biết và xem xét nó một cách chính xác như nó làm; và họ sẽ hành
XXVII
động hướng tới chúng ta một cách phù hợp. Nếu họ thấy rằng chính quyền quốc gia của
chúng ta được điều hành một cách tin cậy và hiệu quả, hoạt động thương mại của chúng
ta được điều chỉnh một cách khôn ngoan, quân đội chúng ta được tổ chức đúng đắn và có
kỷ luật, các nguồn tài nguyên và tài chính của chúng ta được quản lý một cách thận trọng,
sự tin cậy chúng ta được lập lại, nhân dân ta được tự do, hài lòng và đoàn kết, họ sẽ tự
nguyện nuôi dưỡng tình bạn với chúng ta hơn là gây ra sự oán giận của chúng ta. Nói một
cách khác, nếu họ thấy chúng ta hoặc không có một chính quyền hiệu quả (mỗi tiểu bang
làm đúng hay sai, vì có thể là phù hợp với quy tắc của nó), hoặc bị chia tách thành 3 hay
4 tiểu quốc, hoặc nước cộng hòa độc lập và có thể bất hòa, một nghiêng về Anh quốc,
một theo Pháp quốc và nước thứ 3 theo Tây Ban Nha, và có lẽ đã chống đối lẫn nhau bởi
3 nước kia, trong mắt họ người Mỹ sẽ là những kẻ nghèo hèn, nhỏ mọn làm sao! Nước
Mỹ sẽ có thể trở nên thế nào không chỉ với sự khinh miệt mà cả với sự xúc phạm của họ,
và nhanh chóng làm sao để nhận ra kinh nghiệm đắt giá rằng khi một dân tộc hay gia
đình bị phân chia như vậy, nó không bao giờ thôi bị chống lại bởi chính nó.
PUBLIUS
XXVIII
Thư Liên bang số 5
Tiếp cùng chủ đề (Các mối hiểm nguy liên quan đến Ảnh hưởng và Lực
lượng quân sự ngoại bang)
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Trong lá thư ngày 1 tháng 7 năm 1706 gửi cho quốc hội xứ Scotland, nữ hoàng ANNE đã
đưa ra một số quan sát về tầm quan trọng của LIÊN HIỆP hình thành sau đó giữa Anh và
Scotland, đáng được chúng ta chú ý. Tôi sẽ công bố ở đây một hoặc hai điều rút ra từ đó:
“Một liên hiệp thành khối hoàn hảo sẽ là nền tảng vững chắc cho hòa bình dài lâu: Tôi sẽ
bảo đảm cho tôn giáo, sự tự do và tài sản của bạn; loại bỏ những thù hận trong chính bản
thân các bạn, những sự ghen ghét và sự khác biệt tồn tại giữa hai vương quốc chúng ta.
Cần phải gia tăng sức mạnh, sự giàu có và hoạt động thương mại; và với liên minh này,
toàn bộ hòn đảo sẽ được liên hiệp với nhau một cách thân thiện thoát khỏi tất cả những e
ngại do lợi ích khác nhau, sẽ CÓ KHẢ NĂNG CHỐNG LẠI MỌI KẺ THÙ CHUNG
CỦA NÓ.” “Chúng tôi khuyến cáo một cách nghiêm túc nhất với các bạn hãy bình tĩnh
và nhất trí về vấn đề quan trọng và lớn lao này, rằng liên hiệp có thể đưa đến một kết quả
hạnh phúc, là cách thúc duy nhất HIỆU QUẢ để bảo đảm niềm hạnh phúc trong hiện tại
và tương lai cho chúng ta, và làm thất vọng những mưu đồ của các kẻ thù của các bạn và
chúng tôi, những kẻ không còn nghi ngờ gì sẽ nhân cơ hội này, DÙNG NHỮNG NỖ
LỰC CUỐI CÙNG CỦA HỌ ĐỂ NGĂN CẢN HOẶC LÀM CHẬM TIẾN TRÌNH
LIÊN HIỆP NÀY.”
Hãy nhớ lại bài báo trước rằng sự yếu kém và phân chia trong nước sẽ kéo theo những
nguy hiểm từ ngoại quốc; và rằng không gì sẽ có khả năng bảo vệ chúng ta khỏi chúng
hơn là một chính quyền liên bang, mạnh mẽ và tin cậy bởi chính chúng ta. Chủ đề này đã
XXIX
được viết nhiều và không thể dễ dàng nói hết được.
Lịch sử của Vương quốc Anh là một trong đó mà chúng ta nhìn chung đã quen thuộc
nhất, và điều đó cho chúng ta nhiều bài học giá trị. Chúng ta có thể hưởng lợi từ kinh
nghiệm của họ mà không phải trả cái giá mà họ đã phải trả. Mặc dù cảm giác chung có vẻ
như rõ ràng rằng dân chúng hòn đảo này chỉ nên thuộc một quốc gia, song cho đến bây
giờ chúng ta vẫn thấy rằng họ đã đồng ý chia thành 3 nước từ rất xa xưa, và rằng 3 nước
đó hầu như liên tục bị lôi kéo vào những tranh chấp và chiến tranh với nhau. Mặc dù lợi
ích thực sự của họ tương ứng với các nước Âu châu lục địa là hoàn toàn giống nhau, ngay
cả trên cơ sở các mưu đồ, chính sách và thực tiễn của những nước đó, những đố kỵ lẫn
nhau giữa họ vẫn mãi mãi tồn tại trong giận dữ, và trong nhiều năm dài họ đã cảm thấy
phiền phức và khó chịu nhiều hơn là thấy hữu ích và giúp đỡ nhau.
Người dân Mỹ có nên chia tách chính họ thành 3 hay 4 tiểu quốc, mà những điều tương
tự sẽ không xảy ra? Những đố kỵ giống như thế sẽ không xuất hiện, và được ấp ủ theo
cùng cách thức? Thay vì được “liên kết thân thiện” và thoát khỏi tất cả những e dè vì
“quyền lợi” khác nhau, ghen tỵ và đố kỵ sẽ sớm dập tắt sự tự tin và thân thiện, và các
quyền lợi cục bộ của mỗi tiểu quốc sẽ thay cho quyền lợi chung của toàn thể dân Mỹ, sẽ
là mục đích duy nhất trong chính sách và hành động của họ. Vì vậy, giống như hầu hết
các quốc gia TIẾP GIÁP, họ sẽ luôn luôn hoặc gắn với tranh chấp và chiến tranh, hoặc
liên tục sống trong sự nghi kỵ nhau.
Những người chủ trương cho 3 hay 4 tiểu quốc lạc quan nhất không thể chứng minh một
cách hợp lý rằng họ sẽ duy trì lâu dài vị trí tương đương một cách chính xác về sức mạnh,
ngay cả khi điều đó là để hình thành nên chúng lúc ban đầu, nhưng phải thừa nhận một
thực tiễn là, vào lúc này những người trù tính còn có thể bảo đảm kéo dài sự bình đẳng
như vậy? Không phụ thuộc vào những điều kiện địa phương thường sẽ có xu hướng gây
ra và làm tăng quyền lực ở một vùng và cản trở sự tiến triển của nó ở những vùng khác,
chúng ta cần phải khuyếch trương những hiệu quả của chính sách tốt hơn và sự quản lý
XXX
tin cậy đó sẽ có thể chỉ ra chính quyền của một vùng sẽ vượt lên trên phần còn lại, và bởi
vậy tính bình đẳng tương đối về sức mạnh và công lao của họ sẽ bị phá hủy. Vì không thể
giả thiết rằng mức độ giống nhau về chính sách lành mạnh, sự thận trọng, và nhìn xa
trông rộng sẽ được tuân thủ một cách đồng nhất trong mỗi một tiểu quốc này trong những
năm dài tiếp theo.
Bất kỳ lúc nào, và do nguyên nhân gì, điều đó cũng có thể xảy ra, và sẽ xảy ra rằng chỉ
một trong những tiểu bang hoặc tiểu quốc này sẽ vượt lên trên về tầm quan trọng chính trị
cao hơn nhiều so với mức độ của các nước lân bang, lúc đó các lân bang sẽ nhìn nó với
con mắt đố kỵ và e sợ. Cả hai cảm xúc mạnh mẽ đó sẽ làm cho các lân bang hướng tới
khuyến khích, nếu không phải là thúc đẩy bất kỳ việc gì có tiềm năng làm giảm bớt mức
quan trọng của nó; và cũng sẽ ngăn cản họ tiến hành các biện pháp được tính toán để tiến
bộ hay thậm chí để duy trì sự thịnh vượng của nó. Sẽ không mất nhiều thời gian để cho
nước đó nhận ra các khuynh hướng không thân thiện này. Nó sẽ bắt đầu ngay, không chỉ
mất niền tin vào các nước lân bang, mà còn cảm thấy cách sắp xếp không có lợi ích tương
đương của họ với nó. Một cách tự nhiên nghi ngờ sinh ra nghi ngờ, và bởi không còn gì
là thiện ý và cách xử sự tốt đẹp sẽ nhanh chóng mất đi hơn do sự ghen ghét đến mức ác
cảm và sự đổ lỗi theo thành kiến, hoặc biểu hiện hoặc ngụ ý.
Miền Bắc thường là vùng có tiềm lực, và nhiều điều kiện địa phương có thể làm cho phần
lớn miền bắc của các tiểu quốc đề nghị, không còn nghi ngờ sẽ mạnh hơn bất kỳ vùng
nào khác trong một giai đoạn không xa lắm. Ngay khi việc này sẽ trở nên rõ ràng,
NHÓM MIỀN NAM sẽ kích động bởi những ý tưởng và tình cảm tương tự như đã hình
thành trước đó ở các vùng miền Nam Âu châu, ngay ở các vùng phía Nam hơn của bắc
Mỹ. Dường như cũng không phải là một sự phỏng đoán vội vàng rằng những nhóm người
trẻ tuổi thường dễ bị xúi giục để tìm kiếm của cải trên những cách đồng tươi đẹp và
không khí êm dịu hơn của những người láng giềng sang trọng và tinh tế hơn.
Những người xem xét kỹ lịch sử những sự phân chia và những tiểu quốc tương tự sẽ thấy
XXXI
vô số lý do để e ngại rằng những việc suy tính đó sẽ không có ý nghĩa khác hơn với
những người dân láng giềng vì họ sẽ là người dân biên giới; rằng họ hoặc sẽ yêu thích
hoặc tin cậy nhau, nhưng ngược lại sẽ là nạn nhân của mối bất hòa, đố kỵ, và làm tổn
thương nhau; tóm lại chính xác là họ sẽ đặt chúng ta vào tình trạng mà không còn nghi
ngờ gì một số quốc gia muốn thấy, có nghĩa là, CHỈ MẠNH MỒM VỚI NHAU.
Trên cơ sở những suy xét này, dường như các quý ông đó, những người cho rằng các liên
minh tấn công và phòng thủ có thể hình thành giữa các tiểu quốc đã sai lầm lớn, và có thể
dẫn đến việc kết hợp hoặc liên minh dựa trên ý muốn của các thế lực quân sự và tài
nguyên, sẽ cần thiết để thiết lập và duy trì chính họ trong trạng thái mạnh về quốc phòng
chống lại những kẻ thù địch từ ngoại bang.
Khi nào các tiểu bang độc lập, bị chia tách thành tiểu quốc như Anh quốc và Tây Ban
Nha đã từng bị chia cắt trước đây, sẽ kết hợp lại trong liên minh như vậy hay thống nhất
các lực lượng của họ chống lại cùng một kẻ thù nước ngoài? Các tiểu liên bang đề nghị sẽ
là CÁC QUỐC GIA KHÁC NHAU. Mỗi quốc gia sẽ có trao đổi thương mại với các đối
tác nước ngoài của nó để điều chỉnh theo các hiệp ước khác nhau; và vì sản phẩm và hàng
hóa của họ là không giống nhau và thích hợp cho những thị trường khác nhau, như vậy
những hiệp ước đó sẽ khác nhau về bản chất. Những mối lo về thương mại khác nhau
chắc chắn sẽ tạo ra những lợi ích khác nhau, dĩ nhiên cả mức độ liên kết chính trị khác
nhau và giao thiệp với các quốc gia nước ngài khác nhau. Vì điều có thể và có lẽ sẽ xảy
ra là một quốc gia nước ngoài có thể đang có chiến tranh với người thuộc bang MIỀN
NAM sẽ là nước khát khao duy trì hòa bình và hữu nghị với người thuộc bang MIỀN
BẮC nhất. Do đó, một liên minh trái ngược với quyền lợi trước mắt của họ như vậy sẽ
không dễ dàng hình thành, và nếu hình thành được cũng sẽ không được tôn trọng và thực
hiện với sự tin tưởng hoàn toàn.
Nói cho đúng hơn, còn quá xa để cho Mỹ, giống như ở Ân châu, các quốc gia lân bang,
hành động theo sự thôi thúc của các quyền lợi đối kháng và cảm xúc không thân thiện, sẽ
XXXII
thường thấy tham gia vào các bên khác nhau. Hãy xem xét sự xa cách của chúng ta với
Âu châu, sẽ là tự nhiên hơn để các tiểu quốc này e sợ những mối hiểm nguy từ nhau hơn
là từ các nước xa xôi, và do vậy nên mỗi một trong chúng sẽ khao khát để bảo vệ chống
lại nhau với sự trợ giúp của các liên minh ngoại quốc, hơn là để chống lại những hiểm
nguy từ chính ngoại quốc bằng các liên minh giữa chính các tiểu liên bang với nhau. Và ở
đây chúng ta cũng đừng quên nó sẽ chấp nhận các chiến hạm nước ngoài vào cảng, cũng
như quân đội ngoại quốc vào đất nước của chúng ta dễ dàng hơn bao nhiêu so với việc
thuyết phục hay bắt buộc họ rời khỏi. Bao nhiêu vùng đất mà đế chế La Mã và các cường
quốc khác đã xâm chiếm được theo những phương thức liên minh trong quá khứ, và
những điều cách tân mà họ đã làm theo cùng phương thức đã đưa vào trong những chính
quyền của những nước mà họ giả vờ bảo vệ đó.
Vậy thì, hãy để cho những người ngay thẳng phán xét, liệu sự phân chia nước Mỹ thành
bất kỳ số vùng lãnh thổ có chủ quyền đã đề nghị nào sẽ có khuynh hướng bảo đảm cho
chúng ta chống lại những kẻ thù địch và sự can thiệp không hợp lý của các quốc gia nước
ngoài.
PUBLIUS
XXXIII
Thư Liên bang số 6
Mối nguy hại từ những bất đồng giữa các tiểu bang
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Ba số cuối của bài viết này được đề cập tới một loạt những mối nguy hại mà chúng ta có
thể bị đặt vào, trong một đất nước của sự chia rẽ, bởi những bàn tay và thủ đoạn của nước
ngoài. Bây giờ, tôi sẽ vạch ra những mối hiểm họa khác, tất nhiên, đáng báo động hơn,
những mối hiểm họa sẽ có thể xảy ra từ sự bất đồng giữa bản thân các tiểu bang và từ nạn
bè phái, mất ổn định trong nước. Những điều này đã được đoán trước ở mức độ đáng kể
trong một số trường hợp, nhưng chúng xứng đáng có một bản nghiên cứu cụ thể và đầy
đủ hơn.
Con người phải được thoát ra khỏi tư tưởng duy tâm có thể đặt câu hỏi rằng: liệu những
tiểu bang này có nên hoặc là hoàn toàn tách ra hoặc là chỉ liên minh trong liên bang
không hoàn chỉnh, những liên minh mà họ bị đẩy vào sẽ có những cuộc chiến thường
xuyên và bạo lực nhằm vào nhau. Cho rằng động lực cho các cuộc chiến, như là cuộc
tranh cãi chống lại sự tồn tại của họ, chính là để quên đi rằng con người là những kẻ đầy
tham vọng, hận thù và tham lam. Tìm kiếm sự hòa hợp giữa các vùng có chủ quyền và
không quan hệ với nhau là thiếu quan tâm đến quá trình diễn biến các sự kiện của loài
người và coi thường kinh nghiệm đã được tích lũy của các thế hệ.
Những nguyên nhân của sự thù địch giữa các dân tộc thì không thể đếm xuể. Có một số
nguyên nhân phổ biến trong các thực thể của xã hội. Ở đây chính là sự đam mê quyền lực
hay tham vọng đứng trên những người khác và quyền thống trị - sự ghen tị về quyền lực
hay khát vọng về sự bình đẳng và sự toàn vẹn. Còn có những nguyên nhân khác có ảnh
hưởng ít hơn mặc dù có tác dụng tương tự trong phạm vi ảnh hưởng của chúng. Đó là đối
thủ và là sự cạnh tranh trong việc buôn bán giữa các quốc gia hoạt động thương mại. Và
XXXIV
cũng có những cái khác nữa, cũng không ít hơn cái đã nói, chúng hoàn toàn có nguồn gốc
riêng: trong sự gắn bó, sự thù hằn, tầm quan trọng, niềm hi vọng và sự sợ hãi của các cá
nhân lãnh đạo các cộng đồng mà họ là thành viên trong đó. Lớp người này, dù là những
nhân vật được yêu mến bởi một ông vua hay bởi nhân dân, hãy nhớ là, có quá nhiều
trường hợp đã lạm dụng những thông tin riêng tư mà họ có, và giả sử rằng lý do là vì một
động cơ nào đó, đã không cân nhắc để hi sinh sự yên bình của quốc gia cho lợi ích cá
nhân hay sự hài lòng cá nhân.
Pericles trứ danh, chỉ vì sự oán giận của cô gái làng chơi, trả giá bằng máu và của cải của
những người đồng bào của ông ta, đã tấn công, đánh bại và hủy diệt thành phố của người
SAMNIANS. Cũng con người này, bị kích động bởi thù oán cá nhân đối với người
MEGARENSIANS, một dân tộc khác của Hi Lạp, hay để tránh sự truy tố về việc ông ta
đã bị coi là một kẻ tòng phạm trong việc trộm cắp liên quan đến tượng của Phidias, hay
để thoát khỏi sự kết tội đã được chuẩn bị để đưa ra chống lại ông ta trong việc phung phí
ngân quỹ nhà nước để mua chuộc dân chúng, hay là sự kết hợp của tất cả những nguyên
nhân trên, là người đã khơi mào cuộc chiến nổi tiếng và tai hại đó, được đặt tên trong lịch
sử Hi Lạp với cái tên cuộc chiến PELOPONNESIAN, cuộc chiến mà sau nhiều sự thăng
trầm, tạm dừng rồi lại tiếp tục, đã kết thúc bằng sự hủy diệt của cả Đế chế Athena.
Hồng y giáo chủ đầy tham vọng, người đã là Thủ tướng chính phủ của vua Henry VIII,
đã để cho ảo tưởng của ông ta thèm khát chiếc vương miện, ấp ủ niềm hi vọng thành
công trong việc tranh giành phần thưởng lộng lẫy kia bằng sự ảnh hưởng của Hoàng đế
Charles V. Để đảm bảo địa vị và quyền lợi của nền quân chủ hùng mạnh này, ông ta đẩy
nước Anh vào cuộc chiến tranh với nước Pháp, trái ngược với những trật tự đơn giản nhất
của cách hành động, và ở sự rủi ro đối với sự an nguy và nền độc lập, cũng như của
vương quốc mà ông ta chịu trách nhiệm với những toan tính của ông ta, cũng như của
Châu âu nói chung. Đối với việc liệu đã bao giờ có một ông hoàng có triển vọng thực
hiện kế hoạch của nền quân chủ toàn trị, đó là Hoàng đế Charles V, những mưu đồ
Wolsey của ông ta đồng thời vừa là công cụ, vừa là kẻ bị lừa.
XXXV
Sự ảnh hưởng mà sự cả tin của người đàn bà, tính hay hờn dỗi của một người khác và âm
mưu của một kẻ thứ ba, có trong chính phủ hiện hành, sự lộn xộn và sự yên bình của một
phần đáng kể của Châu âu, là những chủ đề rất hay được bàn dài dòng mà nói chung là
không được biết đến.
Để tăng thêm các ví dụ về tác dụng của những toan tính cá nhân trong việc hình thành
những sự kiện vĩ đại mang tầm quốc gia, hoặc ở nước ngoài hoặc ở trong nước, theo
chiều hướng của chúng, là sự lãng phí thời gian không cần thiết. Những người có sự hiểu
biết không sâu sắc về nguồn gốc hình thành của chúng, sẽ tự nhớ ra đủ các loại ví dụ
khác nhau, và những người có kiến thức khá tốt về bản năng con người sẽ không nấp sau
những cái bóng để đưa ra ý kiến dù là sự thực hay mức độ của khía cạnh đó. Tuy nhiên,
có lẽ, sự tham khảo, có xu hướng minh họa nguyên tắc chung, có thể, với sự đúng đắn,
được tạo ra một tình huống mà cuối cùng xảy đến với chúng ta. Nếu Shays không phải là
một CON NỢ TUYỆT VỌNG, thì không biết rằng liệu Massachusetts có bị ném vào
cuộc nội chiến hay không.
Mặc dù có bằng chứng được công nhận về sự từng trải, trong trường hợp này, vẫn thấy
người có tầm nhìn hoặc những người đầy tính toán, người mà sẵn sàng đứng ra để biện
hộ cho sự nghịch lý của nền hòa bình vĩnh viễn giữa các tiểu bang, mặc dù bị tách rời và
không thân thiện với nhau. Thiên tài của các nền cộng hòa (họ nói) đều yêu hòa bình; tinh
thần của sự biến đổi xã hội có xu hướng làm yếu đi cách xử sự của con người, và để dập
tắt tính khí dễ bị kích động mà rất thường hay gây nên những cuộc chiến tranh. Những
nền cộng hòa có tính thị trường, như của chúng ta, sẽ không bao giờ muốn lãng phí bản
thân chúng trong những cuộc chiến hủy diệt lẫn nhau. Chúng sẽ bị khống chế bởi sự quan
tâm lẫn nhau và sẽ nuôi dưỡng trên tinh thần của tình hữu nghị và sự hòa hợp với nhau.
Có phải điều đó (ta có thể hỏi những người vạch kế hoạch về quan điểm chính trị) không
phải là tầm quan trọng thực sự của tất cả các dân tộc để nuôi dưỡng tâm hồn rộng lượng
và có tính triết học? Nếu điều này là lợi ích thực sự của họ, liệu họ có theo đuổi nó
không? Liệu, trái lại, có đúng là không phải lúc nào cũng được nhận thấy rằng sự đam mê
XXXVI
nhất thời và lợi ích trước mắt có quyền điều khiển tư cách con người tích cực và thiết
thực hơn các đề xuất chung hoặc riêng biệt của chính sách, tiện ích hay luật pháp không?
Có phải các nền cộng hòa trong thực tế thì ít tham gia chiến tranh hơn các nền quân chủ
không? Có phải trước kia không được điều hành bởi CON NGƯỜI cũng như sau này
không? Có phải là không có những sự ác cảm, sự ưa thích, sự ganh đua và tham vọng của
sự giành được không công bằng tác động đến các dân tộc cũng như các vương quốc
không? Có phải những nhóm người được ái mộ không phải chịu sự thúc đẩy của sự giận
dữ, sự oán thán, ghen tị, sự tham lam và những xu hướng mạnh mẽ và không bình thường
khác? Có phải đã không được hiểu thấu đáo rằng những quyết định của họ thường bị chi
phối bởi một số cá nhân mà trong số đó họ đặt sự riêng tư vào và, tất nhiên, rất có thể
được tô vẽ bởi sự đam mê và quan điểm của những cá nhân đó? Liệu sự thay đổi trong xã
hội cho đến nay có làm được gì hơn là thay đổi các mục tiêu chiến tranh không? Có phải
sự ham thích giàu có không giống như sự đam mê độc đoán và mạnh mẽ như là đối với
quyền lực và danh vọng? Có phải là không có nhiều cuộc chiến được phát động với động
cơ thương mại từ khi nó trở thành hệ thống phổ biến của các quốc gia như là đã xảy ra
trước đây bởi sự tham lam của các vùng hay của lãnh địa? Có phải tinh thần của sự thay
đổi xã hội, trong nhiều trường hợp, đã không nuôi dưỡng những động lực mới cho lòng
tham, cho cả bên này và bên kia? Hãy để kinh nghiệm, những bài học ít sai lầm nhất của
con người, được nêu ra để có câu trả lời cho những câu hỏi này.
Sparta, Athens, Rome và Carthage đều là những nền cộng hòa, hai trong số đó, Athens và
Carthage là kiểu thị trường. Nhưng họ thường xuyên tham gia vào các cuộc chiến tranh,
gây chiến hoặc tự vệ, cũng như các nền quân chủ láng giềng trong thời gian đó. Sparta thì
tốt hơn một chút so với một phe được điều hòa tốt, và Rome thì chưa bao giờ thỏa mãn sự
chém giết và đi xâm chiếm.
Carthage, mặc dù là nền cộng hòa kiểu thị trường, lại là kẻ gây chiến trong cuộc chiến
khốc liệt và đã kết thúc bằng chính sự hủy diệt của nó. Hannibal đã mang quân tiến tới
thủ đô của Italy và các cửa ngõ của Rome, trước khi tới Scipio, mang lại cho ông ta sự
chinh phục hoàn toàn trên các vùng lãnh thổ của Carthage, và xâm chiếm toàn bộ Đế chế.
XXXVII
Venice, về sau này, được nhắc đến hơn một lần trong các cuộc chiến của sự tham vọng,
cho đến khi, trở thành một trong các vùng của Italy, giáo hoàng Julius II đã tìm ra cách để
thực hiện cái khối liên minh ghê gớm đó, cái mà đã đem lại tai họa chết người cho quyền
lực và sự kiêu hãnh của nền cộng hòa ngạo mạn này.
Các tỉnh của Hà Lan, cho đến khi chúng bị ngập trong những nợ nần và thuế má, đã đóng
vai trò chính và quan trọng trong các cuộc chiến ở Châu âu. Họ có những cuộc chiến đẫm
máu với người Anh để giành quyền thống trị trên biển, và là một trong số những kẻ thù
bền bỉ nhất và khó đánh bại nhất của vua Louis XIV.
Trong Chính phủ của Vương quốc Anh, những người đại diện cho nhân dân tạo nên một
nhánh của cơ quan lập pháp quốc gia. Mối quan hệ có từ hàng bao nhiêu năm là sự theo
đuổi dễ nhận thấy nhất của đất nước này. Tuy nhiên, một số nước lại rất hay tham gia vào
chiến tranh, và các cuộc chiến mà nước đó nhảy vào, trong nhiều trường hợp, lại bắt
nguồn từ nhân dân.
Hầu như rất phổ biến là các cuộc chiến có tính chất hoàng gia, nếu tôi có thể diễn đạt như
vậy. Lời kêu gọi của dân tộc và sự thúc bách của những người đại diện của họ, trong
nhiều trường hợp khác nhau, đã lôi kéo các nền quân chủ của họ vào cuộc chiến, hoặc giữ
họ trong đó, ngược lại khuynh hướng của họ, và đôi khi còn ngược lại những lợi ích thực
sự của đất nước. Trong cuộc chiến để chứng tỏ sức mạnh không thể nào quên giữa hai
dòng họ thù địch AUSTRIA và BOURBON, đã giữ Châu âu ở trong lò lửa chiến tranh
quá lâu, rất rõ là sự ác cảm của người Anh chống lại người Pháp, tiếp đến là tham vọng,
hay đúng hơn là sự tham lam, của người lãnh đạo được lòng dân chúng, đã kéo dài cuộc
chiến quá giới hạn được vạch ra bởi chính sách hợp lí, và với một quãng thời gian đáng
kể của sự chống đối đối với các ý kiến của triều đình.
Các cuộc chiến của hai quốc gia được nói đến cuối cùng này, theo cách tính toán thú vị,
gia tăng ngoài các tính toán thương mại, mong muốn hất cẳng và nỗi sợ bị hất cẳng, hoặc
XXXVIII
là ở những nhánh cụ thể của việc buôn bán hoặc là đối với sự thuận lợi nói chung của
thương mại và hàng hải.
Từ những tổng kết về những gì đã xảy ra ở những quốc gia khác mà những hoàn cảnh của
nó mang những nét rất giống với chúng ta, lí do nào chúng ta có thể phải đưa ra để lý giải
những ảo tưởng sẽ lôi kéo chúng ta vào sự trông đợi nền hòa bình và lòng nhân ái giữa
những thành viên của liên bang hiện tại, trong một đất nước của sự chia cắt? Có phải
chúng ta chưa thấy rõ sự sai lầm và quá đề cao những thuyết vô căn cứ làm cho chúng ta
buồn cười với những lời hứa hẹn về việc bỏ qua những sự không hoàn chỉnh, sự yếu kém
và những việc xấu xa vốn gắn liền với xã hội dưới mọi hình thức? Có phải không phải lúc
để đánh thức giấc mơ dối trá về một thời đại vàng son và để chọn một phương ngôn thực
tế cho con đường về tư cách chính trị của chúng ta mà chúng ta, cũng như những cư dân
khác của Trái đất, vẫn chưa cách xa cái đất nước hạnh phúc của sự hiểu biết hoàn hảo và
đức hạnh hoàn hảo?
Hãy để cho tình trạng trì trệ của phẩm giá và lòng tin dân tộc mà chúng ta có bị chìm
nghỉm đi, hãy để cho những sự phiền phức được cảm thấy ở khắp mọi nơi từ sự quản lí
lỏng lẻo và ốm yếu của chính phủ, hãy để cho cuộc nổi loạn ở một bộ phận của bang Bắc
Carolina, sự lộn xộn có tính đe dọa cuối cùng ở Pennsylvania, và những cuộc khởi nghĩa,
những cuộc nổi loạn thực sự ở Massachusetts công khai đi.
Giờ là sự hiểu biết thông thường của loài người từ phù hợp với những giáo lý của những
người đã nỗ lực tới sự ngủ yên của những nỗi khiếp sợ của chúng ta đối với mối bất hòa
và thù địch giữa các tiểu bang, trong trường hợp của sự chia rẽ mà xuất phát từ việc quan
sát lâu dài của tiến trình xã hội trở thành một loại chân lý trong đời sống chính trị, tình
trạng tương tự như thế, tạo thành những kẻ thù tự nhiên của các dân tộc. Một tác giả xuất
chúng phát biểu về chủ đề này: “CÁC QUỐC GIA LÁNG GIỀNG (anh ta nói) là những
kẻ thù tự nhiên của nhau trừ khi yếu điểm chung của chúng bắt buộc chúng liên kết với
nhau trong một CỘNG HÒA LIÊN BANG, và hiến pháp của chúng ngăn ngừa những
mối bất đồng, dập tắt sự đố kị thầm kín mà sẽ đưa tất cả các bang vào việc nâng cao bản
XXXIX
thân họ và không có lợi cho các bang láng giềng của họ”. Cùng lúc, đoạn này chỉ ra
THẢM HỌA và gợi ý CÁCH CỨU CHỮA.
PUBLIUS
XL
Thư Liên bang số 7
Mối nguy hại từ những bất đồng giữa các tiểu bang (tiếp theo)
Gởi cư dân Tiểu Bang Nữu Ước:
Đôi khi có người được hỏi rằng, trong một bầu không khí có vẻ thắng lợi, sự khích lệ nào
liên bang có thể có, nếu bị làm cho mất đoàn kết, và gây chiến với nhau? Câu trả lời đầy
đủ cho câu hỏi này là: chính những sự khích lệ đã dìm các dân tộc trên thế giới trong bể
máu, trong các giai đoạn khác nhau. Nhưng, không may cho chúng ta, câu hỏi đã nhường
chỗ cho một câu trả lời cụ thể hơn. Có nhiều nguyên nhân cho những sự khác biệt ngay
trong tư duy có tính nhất thời của chúng ta, của xu hướng mà trong đó, thậm chí dưới sự
ràng buộc của hiến pháp liên bang, chúng ta có đủ kinh nghiệm để cho phép chúng ta
hình thành nên một phán quyết có thể được trông đợi nếu những ràng buộc này bị dỡ bỏ.
Lúc nào cũng thế, những tranh cãi về lãnh thổ luôn được coi là một trong những nguyên
nhân phổ biến nhất của sự thù địch giữa các dân tộc. Có lẽ phần lớn các cuộc chiến đã tàn
phá Trái đất bắt nguồn từ động cơ này. Động cơ này tồn tại trong chúng ta rất mãnh liệt.
Chúng ta có cả một vùng đất rộng lớn chưa có người định cư ngay trong lòng nước Mỹ.
Vẫn còn có những đòi hỏi trái ngược và lằng nhằng giữa các tiểu bang, và sự tan rã của
khối liên hiệp sẽ tạo nên một nền tảng cho những yêu sách tương tự giữa các tiểu bang.
Thật rõ ràng rằng, cho đến nay, họ đang có những thảo luận nghiêm túc và sôi nổi liên
quan đến quyền lực đối với các vùng đất mà đã không được cấp trong thời gian của cuộc
cách mạng, và thường là mất tên tuổi của các vùng đất hoàng gia. Các bang với những
hạn chế của những chính phủ trực thuộc nó đã tuyên bố rằng đó là tài sản của họ, các
bang khác thì cho rằng quyền của hoàng gia về khoản này đã chuyển giao cho liên minh;
đặc biệt như là vùng lãnh thổ miền Tây mà, hoặc bằng sự chiếm hữu trên thực tế hoặc
thông qua sự đệ trình của những người da đỏ làm chủ, đã phải chịu sự cai trị của Vương
XLI
quốc Anh, cho đến giờ nó đã bị tước bỏ hiệp ước hòa bình. Có người nói rằng, trong tất
cả các sự kiện, đây là thành quả của liên bang thông qua sự thỏa hiệp với một thế lực
ngoại bang. Đó là một chính sách khôn ngoan của Quốc hội để nhượng bộ cuộc chiến
này, bằng việc thuyết phục các bang gộp đất đai thành liêng bang để tất cả các bên cùng
có lợi. Việc này đã làm xong xuôi, dưới sự tiếp nối của liên minh, để tạo ra một tầm nhìn
rõ rệt cho một cái kết có hậu cho cuộc tranh cãi. Tuy nhiên, sự chia cắt của liên bang, sẽ
làm sống lại cuộc tranh cãi này, và sẽ tạo ra những cuộc cãi vã khác cũng về vấn đề này.
Hiện tại, một diện tích lớn của miền Tây bỏ không, ít nhất là bằng việc chuyển giao, nếu
không bởi bất cứ quyền nào trước đây, là tài sản chung của liên bang. Nếu việc đó đã đi
đến hồi kết, các bang đã đưa ra việc chuyển giao, trên nguyên tắc của thỏa thuận liên
bang, sẽ là thông minh khi động cơ của việc chuyển giao đã hết, để khai hoang các vùng
đất như một sự thừa kế. Các bang khác thì không còn nghi ngờ gì là họ sẽ khăng khăng
đòi sự cân bằng, về quyền đại diện. Lý lẽ của họ đưa ra sẽ là, việc bàn giao, một khi đã
được thiết lập, sẽ không thể hủy bỏ được, và tính pháp lý trong việc tham gia vào vấn đề
lãnh thổ đạt được hoặc bị ràng buộc bởi bằng những cố gắng chung của liên bang, vẫn
không giảm. Trái với khả năng có thể xảy ra, nếu được thừa nhận bởi tất cả các bang, mà
mỗi bang có quyền chia sẻ tài sản chung này, vẫn sẽ có một khó khăn để vượt qua, liên
quan đến một nguyên tắc phù hợp cho việc phân chia. Các nguyên tắc khác nhau sẽ được
xây dựng bởi các bang khác nhau để phục vụ cho mục đích này, và nếu chúng ảnh hưởng
đến những lợi ích trái ngược nhau của các bên, chúng có thể không dễ làm tổn hại đến
một sự điều chỉnh có tính ôn hòa.
Trên những cánh đồng của miền Tây, chúng ta nhận thấy một chiến trường của những sự
đòi hỏi đầy sự thù địch, không hề có bất cứ một trọng tài nào hay quan tòa chung nào để
đứng giữa các bên đang tranh giành nhau. Suy luận từ quá khứ cho đến tương lai, chúng
ta sẽ có một nền tảng tốt để hiểu rõ, rằng đôi khi một thanh kiếm sẽ được dùng đến với
vai trò của một quan tòa đối với những khác biệt. Những tình huống của cuộc tranh cãi
giữa bang Connecticut và Pennsylvania, liên quan đến vấn đề đất đai ở Wyoming, khuyên
chúng ta đừng có lạc quan trong việc mong chờ một thỏa hiệp dễ dàng cho những ý kiến
khác biệt kiểu như thế. Các điều khoản của liên bang bắt buộc các bên đệ trình những vấn
XLII
đề lên tòa án liêng bang. Bản đệ trình được đưa ra, và tòa án quyết định ủng hộ bang
Pennsylvania. Nhưng Connecticut cho thấy những dấu hiệu mạnh mẽ về sự không hài
lòng đối với phán quyết đó, họ cũng không tỏ ra hoàn toàn chấp nhận điều đó, cho đến
khi, bằng đàm phán và sự khôn khéo, một cái gì đó như kiểu một sự tương đương đã
được tìm ra cho sự mất mát mà họ vẫn cho là bản thân họ đã duy trì. Ở đây không hề có ý
định đưa ra sự chỉ trích nhẹ nhàng đối với cách chỉ đạo của bang đó cả. Bang Connecticut
chắc chắn rằng họ bị tổn thương bởi phán quyết, và các bang, cũng như những cá nhân,
đồng ý một cách rất miễn cưỡng đối với những phán quyết không có lợi cho họ.
Những người có cơ hội xem xét những văn kiện có liên quan đến cuộc tranh cãi giữa
bang này và hạt Vermont, có thể xác nhận sự chống đối mà chúng tôi đã trải qua, từ
những bang không quan tâm cũng như từ những bang quan tâm đến các yêu sách, và có
thể chứng thực sự nguy hại mà nền hòa bình của liên bang có thể bị đẩy vào, bang này đã
cố gắng để khẳng định quyền của họ bằng vũ lực. Hai động cơ nghiêng về ý kiến đối lập
đó: thứ nhất là sự ghen tị được ấp ủ đối với sức mạnh tương lai của chúng ta, và thứ hai là
mối quan tâm của những cá nhân nào đó đối với thế lực của các bang láng giềng, những
bang đã được cấp đất đai bởi chính quyền thực sự của hạt đó. Thậm chí những bang đã
đưa ra những yêu sách trước, trái ngược với chúng ta, dường như quan tâm hơn đến chia
cắt bang này hơn là việc tạo lập những kỳ vọng của riêng họ. Đây là các bang New
Hampshire, Massachusetts và Connecticut. New Jersey và Rhode Island, trong mọi
trường hợp, đã cho thấy một sự hăng hái nhiệt tình đối với sự độc lập của Vermont, và
Maryland, vẫn bị lo lắng bởi sự xuất hiện mối liên kết giữa Canada và bang đó, đã đi sâu
vào cùng những quan điểm. Những bang nhỏ này đã nhìn viễn cảnh về sự vĩ đại đang lớn
lên của chúng ta với một ánh mắt không thân thiện. Nhìn qua những văn kiện này chúng
ta có thể lần ra một số nguyên nhân có thể lôi kéo lẫn nhau giữa các bang, nếu đó là số
phận không may mắn của họ để trở nên bị chia rẽ.
Sự cạnh tranh về thương mại sẽ là một mảnh đất màu mỡ của sự bất đồng. Các bang có
hoàn cảnh ít thuận lợi sẽ khát khao thoát khỏi những bất lợi về địa lý, và chia sẻ những
thuận lợi của những láng giềng may mắn hơn. Mỗi bang, hoặc những liên minh riêng rẽ,
XLIII
sẽ theo đuổi một hệ thống chính sách thương mại riêng biệt cho bản thân nó. Điều này sẽ
gây ra sự tương phản, sự thiên vị và sự loại trừ mà sẽ gây ra sự bất mãn. Những tập quán
buôn bán, dựa trên quyền bình đẳng, mà chúng ta đã quen từ những ngày đầu lập quốc, sẽ
đem đến tình trạng nguy khốn cho những nguyên nhân của sự bất mãn hơn là chúng sẽ có
sự độc lập trong hoàn cảnh này. CHÚNG TA NÊN SẴN SÀNG ĐỂ GỌI TÊN NHỮNG
TỔN THƯƠNG THẬT RA LÀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG CHÍNH ĐÁNG CỦA NHỮNG
QUYỀN ĐỘC LẬP CÓ THAM KHẢO ĐẾN QUYỀN LỢI RIÊNG BIỆT. Tinh thần của
hoạt động kinh doanh mà tiêu biểu cho nền thương mại của nước Mỹ đã không để lại một
cơ hội nào cho việc thể hiện bản thân nó không được cải thiện. Không thể nào xảy ra
chuyện cái tinh thần không bị kiểm soát này sẽ tôn trọng nhiều đến những quy định
thương mại mà các bang cụ thể có thể nỗ lực để siết chặt những lợi ích riêng biệt đối với
dân chúng của họ. Sự vi phạm của những quy định này, một mặt, là những nỗ lực để ngăn
chặn và đẩy lùi chúng, mặt khác, dẫn tới những sự vi phạm trắng trợn một cách tự nhiên,
và những điều này sẽ dẫn tới sự trả đũa và cả những cuộc chiến tranh.
Những cơ hội mà một số bang đáp lại cho những chư hầu khác của nó bằng những sự
điều chỉnh thương mại sẽ được đưa ngay cho những bang chư hầu. Mối quan hệ của New
York, Connecticut và New Jersey sẽ là một ví dụ cho việc này. New York, xuất phát từ
những sự cần thiết của ngân khố, phải đặt ra những loại thuế cho các mặt hàng nhập khẩu
của nó. Phần lớn những loại thuế này phải trả bởi dân cư của hai bang khác trong khả
năng của những người tiêu dùng của những thứ chúng ta nhập khẩu. New York sẽ không
sẵn sàng mà cũng không thể bỏ lợi thế này. Nhân dân của bang sẽ không ưng thuận một
loại thuế mà họ phải trả đáng lẽ ra phải đánh lên cư dân của những bang láng giềng; và
cũng không khả thi, nếu không có trở ngại này, để phân biệt những khách hàng trong
những thị trường của riêng chúng ta. Liệu Connecticut và New Jersey có chịu bị đánh
thuế bởi New York cho lợi ích riêng của nó một cách lâu dài không? Chúng ta có nên
chấp nhận một cách lâu dài để duy trì trong im lặng và không bị làm phiền sự đạt được
của một thủ phủ, từ sự chiếm hữu mà ở đó chúng ta đã lấy được một lợi thế quá ghê tởm
từ những láng giềng của chúng ta, và theo ý kiến họ, là áp bức quá đáng? Chúng ta có nên
duy trì nó chống lại gánh nặng hiện tại của Connecticut về mặt này, và áp lực có tính chất
XLIV
hợp tác của New Jersey về mặt khác không? Đây là những câu hỏi mà sự táo bạo sẽ trả
lời “được”.
Khoản nợ chung của liên bang sẽ là một nguyên nhân nữa cho sự xung đột giữa các bang
riêng rẽ hay các liên minh. Sự phân chia, trong ví dụ thứ nhất, và sự thanh toán không
ngừng tăng lên sau đó, sẽ tương tự như dẫn đến sự bực tức và sự thù địch. Làm thế nào để
có thể đồng ý một nguyên tắc phân chia thỏa đáng cho tất cả các bên? Chắc chắn là
không có cái nào được đưa ra mà hoàn toàn tránh được những chống đối thực sự. Thông
thường, việc này sẽ bị phóng đại bởi lợi ích trái ngược của các bên. Thậm chí còn có
những cách nhìn không giống nhau giữa các bang đối với nguyên tắc chung của việc
thanh toán món nợ chung này. Một vài trong số họ, hoặc là ít bị ấn tượng đối với tầm
quan trọng của tín dụng nhà nước hơn hoặc là vì dân cư của họ có ít lợi ích trước mắt,
nếu có, cảm nhận một sự thờ ơ, nếu không phải là sự ác cảm, đối với việc thanh toán nợ
nần trong nước với bất cứ lãi suất nào. Những điều này bị khuynh hướng thổi phồng
những khó khăn của sự phân bổ. Đối với những bang khác, nhiều nơi mà cư dân của nó là
chủ nợ đối với quần chúng ngoại trừ sự cân bằng của bang đối với tổng số nợ nần của
quốc gia, sẽ vất vả đối với một dự liệu công bằng và hiệu quả nào đó. Những sự trì hoãn
trước đây sẽ kích thích sự oán giận sau này. Trong khi chờ đợi, việc dàn xếp một nguyên
tắc sẽ bị hoãn lại bởi những khác biệt thật sự về quan điểm và những chậm trễ giả tạo.
Những cư dân của các bang có liên quan sẽ phản đối ầm ĩ, các thế lực ngoại bang sẽ dẫn
chứng cho sự hài lòng đối với những nhu cầu nhất thời của họ, và nền hòa bình của liên
bang sẽ bị đặt vào tình trạng nguy hiểm của sự xâm lăng từ bên ngoài và sự đấu đá từ bên
trong.
Giả sử những khó khăn của việc đồng thuận một nguyên tắc đã được vượt qua, và sự
phân chia đã được thực hiện. Vẫn còn một khả năng lớn để giả sử rằng nguyên tắc đã
được chấp thuận, trong lúc thử nghiệm, sẽ được thấy là chỉ phục vụ một số bang hơn là
các bang khác. Những bang bị thiệt hại bởi nguyên tắc đó tự nhiên sẽ tìm ra một giải
pháp làm nhẹ đi gánh nặng. Các bang khác sẽ đương nhiên không thích sự xét lại, cái mà
có khả năng chấm dứt một chu kỳ tăng của những gánh nặng riêng của họ. Sự từ chối của
XLV
họ sẽ là một lý do rất khéo đối với những bang lên tiếng phàn nàn để ngăn cản những
đóng góp của họ, không để bị ghì chặt bởi sự tham lam, và sự từ chối của những bang
này đối với những cam kết của họ sẽ là nền tảng của cho những cuộc thảo luận và tranh
cãi quyết liệt. Thậm chí nếu nguyên tắc được chấp nhận, sự bình đẳng của nguyên tắc nên
được kiểm chứng bằng thực tế, những món nợ quá hạn trong việc thanh toán ở một số
bang sẽ vẫn xảy ra như một kết quả của tính đa dạng của các nguyên nhân khác – sự thiếu
sót thực sự của các nguồn lực; sự quản lý tồi về vốn liếng của họ; sự rối loạn bất ngờ
trong cách quản lý của chính phủ; và, bổ sung thêm là sự miễn cưỡng đối với ai mà nhiều
khi cho đi tiền bạc với mục đích vượt qua những tình trạng cấp bách đã tạo ra chúng, và
cản trở nguồn cung cấp của những mong muốn nhất thời. Những món nợ quá hạn, từ bất
kể nguyên nhân nào, sẽ dẫn đến những lời phàn nàn, tố cáo và đổ lỗi cho nhau. Tuy
nhiên, không có gì gây phiền hà đến sự yên bình của các quốc gia bằng việc bị gắn với
những đóng góp chung cho bất cứ mục tiêu chung nào mà không mang lại lợi ích công
bằng và phù hợp. Có một lời nhận xét, được lặp đi lặp lại, rằng chẳng có ai khác nhau về
việc sẵn sàng trả tiền cả.
Các điều luật về việc vi phạm những thỏa thuận cá nhân, khi chúng chẳng khác gì sự xâm
hại về quyền của những bang mà cư dân bị tổn thương bởi chính các điều luật, có thể
được coi như một nguồn gốc khác của sự thù địch. Chúng ta không được quyền nghĩ rằng
một tinh thần tự do hơn hoặc công bằng hơn sẽ điều khiển pháp luật của các bang riêng lẻ
trong tương lai, nếu không bị kiềm chế bởi bất cứ sự kiểm tra bổ sung nào, hơn là chúng
ta thấy quá nhiều ví dụ ruồng bỏ một số điều luật của họ cho đến nay. Chúng ta đã thấy
khuynh hướng trả đũa bị kích động ở Connecticut là hậu quả của tội ác mà cơ quan lập
pháp của Rhode Island phạm phải, và chúng ta suy luận một cách hợp lý rằng, trong
những trường hợp tương tự như vậy, dưới các hình thức khác nhau, một cuộc chiến,
không phải TRÊN GIẤY DA, mà là bằng gươm, sẽ trừng phạt những sự vi phạm tồi tệ về
những chuẩn mực đạo đức và luật pháp xã hội.
Khả năng của những liên minh không hợp nhau giữa các bang khác nhau hoặc các liên
minh và các quốc gia nước ngoài khác nhau, và những tác động của tình trạng này lên
XLVI
nền hòa bình của tất cả các bên, đã được trình bày đầy đủ trong một số bức thư trước đây.
Từ quan điểm mà họ đã đưa ra về chủ đề này, một kết luận được rút ra rằng, nước Mỹ,
nếu hoàn toàn không được liên kết lại, hoặc chỉ bằng mối quan hệ mờ nhạt của một liên
minh đơn điệu, tấn công hay phòng ngự, bằng cách hoạt động của những liên minh đầy
mâu thuẫn như thế, sẽ dần dần bị làm cho rối tung lên trong những mê cung tai hại của
những hoạt động chính trị và chiến tranh theo kiểu Châu âu, và bằng những cuộc đấu đá
mang tính hủy diệt của các bên đã bị chia cắt ra, sẽ có khả năng trở thành con mồi của
những thủ đoạn và mưu đồ của các thế lực đóng vai trò như những kẻ thù của tất cả các
bên. Chia cắt và kiềm chế - là phương châm của mọi quốc gia mà hoặc là họ ghét chúng
ta hoặc là sợ chúng ta.
PUBLIUS
XLVII
Thư Liên bang số 8
Những hậu quả của sự thù địch giữa các tiểu bang
Gởi cư dân Tiểu Bang Nữu Ước:
Một chân lý đã được chứng minh cho rằng một số tiểu bang, trong trường hợp bị chia rẽ,
hoặc mối liên kết giữa họ đã được hình thành không dính líu đến sự sụp đổ của liên bang
chung, sẽ khó tránh khỏi những thăng trầm của hòa bình và chiến tranh, của tình hữu nghị
và sự thù hằn lẫn nhau mà đã rơi vào nhiều quốc gia láng giềng không được đoàn kết
dưới một chính quyền, chúng ta hãy cùng bắt đầu giải quyết một chi tiết ngắn gọn của
một số hậu quả sẽ hiện diện trong hoàn cảnh như vậy.
Chiến tranh giữa các tiểu bang, trong giai đoạn đầu của sự tồn tại riêng rẽ của chúng, sẽ
đồng hành cùng với những hiểm họa lớn hơn nhiều so với khi nó ở trong những quốc gia
mà ở đó lực lượng quân đội chính quy đã tồn tại lâu dài. Những quân đội có kỷ luật luôn
luôn có mặt trên lục địa Châu âu, mặc dù chúng đã sinh ra những cái làm tổn hại đến
quyền tự do và kinh tế, tuy nhiên, chúng đem lại thuận lợi đáng kể cho việc đáp trả những
cuộc xâm lược bất ngờ không thể thực hiện được, và cho việc ngăn chặn sự tàn phá
nhanh chóng thường đánh dấu tiến trình của cuộc chiến trước khi có sự hiện diện của
chúng. Nghệ thuật xây dựng công sự cũng góp phần vào mục đích tương tự. Các quốc gia
Châu âu được bao quanh bởi một loạt những nơi đã được củng cố để ngăn chặn sự xâm
lược lẫn nhau. Các chiến dịch phải từ bỏ hai hoặc ba đơn vị đồn trú tiền tiêu, để đạt được
việc xâm nhập vào bên trong lãnh thổ của kẻ thù. Những sự cản bước tương tự xảy ra ở
mọi bước tiến quân, để làm cạn kiệt sức mạnh và trì hoãn tiến trình của kẻ xâm lược.
Trước kia, một đội quân xâm lược sẽ lọt được vào trung tâm của một nước láng giềng
gần như ngay khi nó nhận được tin tức tình báo phục vụ cho việc tiếp cận, nhưng giờ đây
một lực lượng tương đối nhỏ của một quân đội có kỷ luật, làm nhiệm vụ phòng thủ, với
XLVIII
sự hỗ trợ của những vị trí canh gác, là có thể cản bước, và cuối cùng là làm thất bại
những cuộc tấn công một cách rất đáng kể. Lịch sử chiến tranh, ở nơi chiếm một phần tư
Trái đất đó, không còn là lịch sử của các dân tộc bị đánh bại và các đế chế bị lật đổ nữa,
mà là của những thành phố bị chiếm đóng và được chiếm lại, của những trận chiến mà
chẳng giải quyết được vấn đề gì, của những sự rút lui mà có lợi ích nhiều hơn những
chiến thắng, của nhiều nỗ lực nhưng thu được chẳng bao nhiêu.
Ở đất nước này, tình cảnh sẽ hoàn toàn bị đảo ngược. Sự đố kỵ của lực lượng quân đội sẽ
kéo lùi họ càng lâu càng tốt. Việc thiếu hệ thống công sự, để cho các đường biên giới mở
toang, sẽ tạo điều kiện cho sự xâm nhập. Chỉ với chút ít khó khăn, những bang đông dân
cư sẽ tràn sang những bang láng giềng ít dân hơn họ. Sự xâm lược sẽ dễ dàng được thực
hiện cũng như khó mà ngăn chặn được. Do đó, chiến tranh sẽ nổ ra lung tung và nhằm
mục đích cướp bóc. SỰ CƯỚP BÓC và sự tàn phá bao giờ cũng theo bước chân của
những đội quân ô hợp. Những tai họa của những cá nhân sẽ tạo nên những nhân vật chính
trong nhiều trường hợp mà sẽ tiêu biểu cho những thành tích chói lọi của quân đội chúng
ta.
Bức tranh này không phải bị tô vẽ quá mức; mặc dù, tôi thú thật rằng, nó đã chẳng còn gì.
Tính an toàn từ hiểm họa bên ngoài là người chỉ huy mạnh mẽ nhất của cách chỉ đạo
quốc gia. Thậm chí tình yêu cháy bỏng của sự tự do, sau một thời gian, sẽ nhường đường
cho tiếng gọi của nó. Sự tàn phá khủng khiếp đối với cuộc sống và tài sản vốn gắn liền
với chiến tranh, nỗ lực không nghỉ và sự sợ hãi kèm theo trong hoàn cảnh hiểm họa luôn
rình rập, sẽ bắt buộc các quốc gia phải gắn chặt với quyền tự do để đi đến sự yên bình và
an toàn cho những thể chế mà có xu hướng phá bỏ quyền công dân và quyền chính trị của
họ. Để an toàn hơn, rốt cuộc, họ trở nên sẵn sàng liều với việc ít tự do hơn.
Những thể chế được nói đến chủ yếu là NHỮNG QUÂN ĐỘI THƯỜNG TRỰC và
những lực lượng bổ sung của lực lượng quân đội. Quân đội thường trực, nó được nói như
vậy, không được chuẩn bị đầy đủ trong hiến pháp mới; và do đó suy ra là chúng có thể
tồn tại theo các điều khoản của hiến pháp đó. Tuy nhiên, sự hiện diện của chúng, từ chính
XLIX
những điều khoản của lời tuyên bố, không hơn, thì còn phải bàn và không chắc chắn.
Những lực lượng quân đội thường trực, nó có thể được phản hồi, chắc hẳn phải xảy ra
như là hậu quả của sự tan rã của liên bang. Chiến tranh liên miên và sự sợ hãi thường
trực, cần đến trạng thái luôn luôn sẵn sàng, sẽ sinh ra quân đội. Các bang yếu hơn hoặc
các liên minh trước tiên sẽ trông cậy vào quân đội, để đặt bản thân họ vào một thế quân
bình với những người láng giềng có uy lực hơn. Họ sẽ cố gắng để bổ khuyết sự ít ỏi về
dân số và tài nguyên bằng một hệ thống quốc phòng hiệu quả và chính quy hơn, bằng một
quân đội có kỷ luật, và bằng hệ thống công sự. Trong thời gian đó, họ buộc phải củng cố
quyền hành pháp của chính phủ, trong đó hiến pháp của họ sẽ cần đến một định hướng
tiến tới nền quân chủ. Đó là quy luật của chiến tranh để tăng thêm quyền hành pháp bằng
cách hi sinh quyền lập pháp.
Những thủ đoạn đã được nói đến sẽ mau chóng đặt liên bang hoặc các liên minh đã sử
dụng chúng vào lợi thế hơn so với những láng giềng của họ. Các bang nhỏ, hoặc những
bang có ít lợi thế tự nhiên, dưới sự điều hành của những chính phủ mạnh mẽ, và với sự hỗ
trợ của lực lượng quân đội có kỷ luật, thường chiến thắng các bang lớn, hoặc các bang có
nhiều thuận lợi tự nhiên hơn, nhưng lại thiếu những lợi thế này. Không phải niềm kiêu
hãnh mà cũng chẳng phải sự an toàn của các bang có thế lực hơn hoặc các liên minh buộc
họ chấp nhận sự ưu việt mất thể diện và bất định này một cách lâu dài. Họ sẽ nhanh
chóng phải sử dụng đến những tiềm lực giống như những thứ mà nó bị ảnh hưởng, để lấy
lại sự vượt trội đã bị đánh mất. Do đó, trong một thời gian ngắn, chúng ta nên thấy trong
mọi miền của đất nước này những cơ cấu giống nhau của chế độ chuyên quyền đã được
thiết lập, những cái đã là tai họa cho Cựu thế giới. Ít nhất, đây là diễn biến tự nhiên của
sự vật; và lý trí của chúng ta sẽ có khả năng đúng như là chúng bị điều chỉnh theo trình
độ này một cách tương xứng.
Đây không phải là những kết luận mơ hồ được rút ra từ những khuyết điểm được cho là
và có tính chất suy đoán trong hiến pháp, toàn bộ sức mạnh được trao vào tay một dân
tộc, hoặc những người đại diện và đại biểu của họ, mà chúng là những kết luận đáng tin
L
cậy, được rút ra từ sự phát triển tự nhiên và thiết yếu của những vấn đề mang tính con
người.
Có lẽ, có người được hỏi, bằng cách phản đối ý kiến này, rằng tại sao quân đội thường
trực lại không nhảy ra khỏi những tranh chấp điên cuồng của nền Cộng hòa Hi Lạp cổ
đại? Những câu trả lời khác nhau, thỏa đáng như nhau, có thể được đưa ra cho câu hỏi
này. Những đức tính cần cù của con người ngày nay, miệt mài trong việc theo đuổi lợi
ích, và nhiệt tình với sự cải thiện của nền nông nghiệp và thương mại, không còn phù hợp
với hoàn cảnh của một đất nước toàn lính, là hoàn cảnh thực sự của nhân dân của những
nền cộng hòa đó. Của cải trong ngân khố quốc gia, được nhân lên rất nhanh chóng bởi
vàng, bạc và những thủ đoạn làm ăn, khoa học tài chính, là kết quả của thời kỳ hiện đại,
phù hợp với những tập quán của các nước, đã sản sinh ra một cuộc cách mạng toàn diện
về phương thức của chiến tranh, và trao lại một đội quân có kỷ luật, khác biệt với thể xác
của những cư dân, những người bạn không thể tách rời của sự thù địch thường xuyên.
Có sự khác nhau xa giữa lực lượng quân đội ở một đất nước ít khi bị bộc lộ bởi hoàn cảnh
của nó đối với những sự xâm lăng từ bên trong, và ở một nước mà thường bị nhòm ngó
và sợ hãi những sự xâm lăng này. Những người cầm quyền trước đây có thể có một lý do
hợp lý, thậm chí nếu họ thích, để duy trì một lực lượng quân đội hùng hậu cả về sau này.
Trường hợp thứ nhất, lực lượng quân đội này hiếm khi bị đưa vào những hoạt động của
việc phòng thủ nội địa, nhân dân không bị nguy hiểm bởi việc tách khỏi sự phụ thuộc vào
quân sự. Các điều luật không quen với những sự giảm nhẹ, ủng hộ tình trạng khẩn cấp về
mặt quân sự; nhà nước dân sự vẫn đầy sức mạnh, không bị sụp đổ mà cũng không bị chết
bởi những nguyên tắc hay những xu hướng của nước khác. Sự ít ỏi của quân đội trao lại
sức mạnh tự nhiên của cộng đồng một người chiến thắng, và những công dân, không
quen với việc tìm kiếm sự bảo vệ bởi sức mạnh quân sự, hoặc phải chịu sự đàn áp, không
thích mà cũng không sợ quân lính; họ nhìn chúng với tinh thần của sự phục tùng ghen
ghét như một điều không muốn nhưng phải chấp nhận, và sẵn sàng đứng lên để chống lại
thế lực mà họ tin rằng có thể được đưa ra làm thiệt hại quyền lợi của họ. Lực lượng quân
đội dưới những hoàn cảnh như thế có thể hỗ trợ đắc lực cho cơ quan hành chính địa
LI
phương để ngăn chặn nạn bè phái, hoặc dân chúng tự phát, hoặc sự nổi dậy; nhưng nó sẽ
không có khả năng buộc sự xâm phạm chống lại những nỗ lực đoàn kết của những con
người vĩ đại của một dân tộc.
Ở một đất nước có tình thế khó khăn vừa được nói đến ở trên, điều trái ngược đã xảy ra.
Những mối đe dọa liên tục của sự hiểm nghèo buộc chính phủ luôn phải được chuẩn bị để
đẩy lùi nó; lực lượng quân đội của họ phải đủ lớn cho việc phòng thủ ngay lập tức. Sự
cần thiết liên tục đối với sự phục vụ của họ đã nâng vai trò của người lính, và làm giảm
địa vị của thường dân một cách tương ứng. Một chính quyền quân sự trở nên mạnh hơn
chính quyền dân sự. Cư dân của các vùng lãnh thổ, thường là chiến trường, không thể
tránh khỏi phải chịu đựng những sự xâm phạm thường xuyên đến quyền hạn của họ, làm
yếu đi ý thức của họ về những quyền đó; và nhân dân bị mua chuộc bằng địa vị để coi
quân lính không chỉ là những người bảo vệ họ, mà còn như bề trên của họ nữa. Việc
chuyển trạng thái từ khuynh hướng này sang việc coi họ như những ông chủ, cũng không
xa và cũng không khó; nhưng rất khó để thuyết phục một dân tộc với những ấn tượng như
vậy, để tạo ra một sự kháng cự rõ rệt và có hiệu quả đối với sự chiếm đoạt được hỗ trợ
bởi sức mạnh quân sự.
Vương quốc Anh đã rơi vào tình huống thứ nhất. Một đảo quốc, và một lực lượng hải
quân hùng mạnh, bảo vệ nó trong một cuộc đọ sức chống lại những khả năng có thể của
sự xâm lược của nước ngoài, không cần đến một lực lượng quân sự đông đảo ở bên trong
Vương quốc. Một lực lượng vừa đủ để chống lại một cuộc tấn công bất ngờ, cho đến khi
lực lượng dân quân có thời gian để tập hợp và có mặt, là tất cả những gì được cho là cần
thiết. Chính sách quốc gia chẳng có lý do để yêu cầu , mà cũng không phải chịu ý kiến
của công luận, một số lượng lớn quân lính cho lực lượng phòng thủ bên trong. Một thời
gian dài trước đây, không có nhiều chỗ cho sự hoạt động của những động cơ khác, được
liệt kê ra như là những hậu quả của cuộc chiến bên trong. Sự diễn đạt thích hợp kỳ lạ của
hoàn cảnh, ở trình độ cao, đã đóng góp cho việc giữ gìn sự tự do mà đất nước đó tận
hưởng cho đến nay, thay vì những sự mua chuộc và tham nhũng đang thịnh hành. Ngược
lại, nếu nước Anh nằm trên lục địa, và bị buộc, như là nó chắc hẳn sẽ bị, trong trường
LII
hợp đó, thiết lập lực lượng quân sự tại chỗ được mở rộng giống như những nước lớn khác
ở Châu âu, nước Anh, cũng giống như họ, bằng nhiều khả năng, cho đến hôm nay, sẽ là
nạn nhân của quyền lực tuyệt đối thuộc về một người. Có thể, mặc dù không dễ, rằng
nhân dân của hòn đảo đó đã bị biến thành nô lệ bởi các thế lực khác; nhưng nó không bị
như thế bởi năng lực của một lực lượng quân đội không đáng kể luôn được duy trì bên
trong Vương quốc.
Nếu chúng ta đủ sáng suốt để giữ gìn liên minh, qua nhiều thế hệ, chúng ta có thể tận
hưởng lợi thế giống như vậy trong hoàn cảnh được bảo vệ trong tình trạng được cách ly.
Châu âu thì rất xa chúng ta. Những vùng đất thuộc địa của họ trong vùng lân cận của
chúng ta sẽ có khả năng tiếp tục rất mất cân đối về sức mạnh để có thể gây ra cho chúng
ta bất cứ sự phiền toái nguy hiểm nào. Ở điểm này, việc mở rộng lực lượng quân đội sẽ
không cần thiết cho nền an ninh của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta bị mất đoàn kết, và
những bang chủ chốt hoặc là vẫn bị chia rẽ, hoặc, cái dễ xảy ra nhất, là bị co cụm lại với
nhau trong hai hoặc ba liên minh, thì trong một thời gian ngắn, chúng ta sẽ ở trong tình
thế của những thế lực như ở Châu âu – sự tự do của chúng ta sẽ là nạn nhân của những
cách thức bảo vệ bản thân chúng ta chống lại tham vọng và sự đố kỵ của nhau.
Đây là một ý tưởng không hề hời hợt và viển vông, mà chắc chắn và có sức thuyết phục.
Nó xứng đáng là sự suy xét nghiêm túc và chín chắn nhất của bất cứ người nào khôn
ngoan và chân thật của bất cứ đảng phái nào. Nếu những con người như thế có sự ngập
ngừng nhất định, và suy ngẫm một cách bình thản về tầm quan trọng của ý tưởng thú vị
này; nếu họ nhìn vào và suy ngẫm tất cả những quan điểm của nó, và lần theo tất cả
những hậu quả của nó, họ sẽ không do dự từ bỏ những phản đối tầm thường đối với hiến
pháp, sự từ bỏ sẽ có thể xảy ra đặt dấu chấm hết cho liên minh. Những bóng ma vô hình
vụt qua trước những trí tưởng tượng hoảng loạn của một vài kẻ thù của nó sẽ nhanh
chóng nhường chỗ cho những hình thức có thật hơn của những nguy cơ, thực tế, chắc
chắn và ghê gớm.
PUBLIUS
LIII
Thư Liên Bang Số 15
Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn
Khối Liên hiệp
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Trong các bài trước đây, tôi đã dốc sức đặt ra trước các bạn quốc dân, bằng những lý lẽ rõ
ràng, thuyết phục, sự quan trọng của một Liên Hiệp đối cho sự an toàn chính trị và hạnh
phúc. Tôi đã vạch ra cho các bạn diễn biến phức tạp của các mối hiểm họa sẽ vây quanh
các bạn nếu như các bạn để cho mối liên kết thiêng liêng kết nối người Mỹ với nhau bị
cắt đứt hoặc hủy diệt chỉ vì sự tham vọng, vì lòng tham lam, vì sự ganh tị, hay vì sự thiếu
trung thực. Trong bài kế tiếp tôi gửi đến các bạn, sự thật sẽ được diễn giải một cách rõ
ràng cùng với các bằng chứng và lý lẽ mà trước giờ chưa được để ý đến. Nếu đoạn đường
mà các bạn sẽ phải vượt qua có những nơi có vẻ tạo ra sự nhàm chán hay mệt mỏi, các
bạn hay nhớ rằng các bạn đang trong hành trình tìm kiếm thông tin làm cho một đề tài có
sức cuốn hút sự quan tâm của một dân tộc tự do, và lĩnh vực mà các bạn khảo sát khá bao
la, và những khó khăn của công việc tăng lên một cách vô ích vì các ma trận của những
lý luận sai lầm bủa vây tứ phía. Mục đích của tôi là loại bỏ những trở ngại cho sự tiến
triển của các bạn một cách ngắn nhất mà không phải cắt bỏ nội dung.
Trong quá trình theo đuổi kế hoạch tôi đã đặt ra cho sự thảo luận của đề tài, vấn đề kế
tiếp cần khảo sát là "sự khiếm khuyết của Liên Bang trong hiên tại trong việc bảo toàn
Liên Hiệp." Có lẽ câu hỏi được đặt ra là tại sao cần lý lẽ hay bằng chứng thuyết phục cho
một lập trường không có gì đáng tranh cãi hay nghi ngờ, lập trường mà sự hiểu biết và
tình cảm của các tầng lớp người dân là đồng thuận, và sự thực là người ủng hộ cũng
nhưng chống đối bản Hiến Pháp mới đều thừa nhận. Phải nhìn nhận một cách trung thực
là, bất kể những người này có khác biệt trong các khía cạnh khác, nhìn chung, họ có vẻ
LIV
như đồng quan điểm trong cùng nhận thức là, ít nhất, có sự khiếm khuyết về bản chất
trong hệ thống chính quyền quốc gia chúng ta, và cần phải làm điều gì đó để cứu chúng ta
ra khỏi bờ vực của hỗn loạn. Những dữ kiện hổ trợ cho ý kiến trên không còn nằm trong
phạm vi suy đoán nữa. Chúng được phơi bày ra trước nhận thức của mọi người, và đôi
khi đi xa đến mức buộc những ai có chính sách sai lầm góp phần lớn trong việc nhanh
chóng đưa chúng ta đến thái cực này, một sự thừa nhận lưỡng lự về thực trạng của những
khiếm khuyết trong bản dự thảo của hệ thống chính quyền liên bang, mà đã được những
người bạn sáng suốt của Liên Hiệp vạch ra và lưu tâm từ lâu.
Chúng ta thực sự có thể nói là đã ở vào giai đoạn cuối của mối quốc nhục. Hầu như
không có gì có thể làm tổn thương niềm kiêu hãnh, hay chà đạp tư cách của một quốc gia
độc lập mà chúng ta chưa hề có. Có hiệp ước nào mà chúng ta được tôn trọng một cách
bình đẳng? Đây là các vấn đề thường xuyên bị phạm một cách trắng trợn. Liệu chúng ta
sẽ thiếu ngoại quốc và các công dân các món nợ được thòa thuận vào thời điểm nguy cấp
cho sự sinh tồn của hệ thống chính trị của chúng ta? Các món nợ này chưa có điều khoản
thỏa đáng để giải nợ. Liệu chúng ta vẫn còn có những lãnh thổ quý giá, và đồn lũy quan
trọng nằm trong sự kiểm soát của thế lực nước ngoài mà, bằng một vài điều khoảng trong
hiệp ước, đã bị mất từ lâu? Các lãnh thổ vẫn bị chiếm giữ một cách bất công đối với lợi
ích, và hơn nữa là quyền cơ bản của chúng ta. Liệu chúng ta có vị thế để phản ứng mạnh
mẽ hay đẩy lui sự xâm lấn? Chúng ta không có quân đội, không có ngân khố, không có
chính quyền. Liệu chúng ta có ở vị thế có thể phản đối trong danh dự? Những nghi ngờ
chính đáng của chúng ta đối với các hiệp ước này phải được giải quyết trước hết. Liệu
chúng ta có được đặc quyền tự nhiên hay do thỏa ước để tự do giao thông trên sông
Mississippi? Tây Ban Nha ngăn cản chúng ta sử dụng nó. Có phải tín dụng công là tài
nguyên quý giá nhất khi có mối hiểm nguy chung. Dường như chúng ta đã bỏ rơi nguyên
tắc đó vì vô vọng. Liệu thương mại có tầm quan trọng thế nào đối với sự giàu mạnh của
quốc gia? Thương mại của chúng ta đang ở điểm thấp nhất của thoái trào. Có phải sự nể
trọng của các thế lực ngoại quốc là sự bảo vệ chống lại ngoại xâm? Sự bạc nhược của
chính quyền chúng ta khiến họ không tôn trọng chúng ta. Các sứ quán của chúng ta ở
LV
nước ngoài chỉ là chủ quyền giả tạo mặc những bộ đồ cải lương. Có phải bạo động hay sự
giảm giá trị của đất đai một cách không bình thường là biểu hiện của tình trạng khẩn cấp
của quốc gia? Giá trị đất cải thiện ở nhiều nơi trong nước quá thấp để có thể lý giải bằng
con số diện tích đất bỏ hoang trên thị trường, và chỉ có thể lý giải bằng sự thiếu tín nhiệm
của cá nhân lẫn công chúng, lan tràn rộng rãi trong mọi tầng lớp dân chúng đến một mức
đáng báo động, và trực tiếp có khuynh hướng làm giảm giá trị cái loại tài sản. Có phải tín
dụng cá nhân là bạn và là khách hàng của công nghiệp? Thứ hữu ích nhất đó có liên quan
đến vay và cho vay bị suy giảm đến phạm vi hẹp nhất, và điều nay vẫn xuất phát từ quan
niệm thiếu an toàn hơn là thiếu tiền. Để giảm thiểu những dãy tính của các yếu tố rời rạc,
không mấy lý thú và cũng không có hướng dẫn, mà thông thường phải có, những biểu
hiện nào của tình trạng đất nước hỗn loạn, nghèo đói và mất ảnh hưởng có thể giáng
xuống một cộng đồng được đặc biệt ưu đãi với nhiều thiên thời địa lợi như chúng ta, mà
lại không kết thành một phần trong chuỗi những rủi ro đen đủi cho dân chúng?
Đây là tình trạng bi quan mà chúng ta rơi vào, cũng do chính các nguyên tắc và trợ lý đó
giờ đây ngăn cản chúng ta thông qua bản dự thảo Hiến Pháp; và không những dẫn chúng
ta đến bờ vực của hiểm họa, mà còn quyết tâm đẩy chúng ta xuống vực thẩm đó. Và đây,
hỡi quốc dân đồng bào, các bạn được thôi thúc bởi mọi động lực phải tạo nên ảnh hưởng
và khai sáng cho mọi người, chúng ta hãy khẳng định lòng quyết tâm cho sự an toàn của
chúng ta, cho sự an bình của chúng ta, cho danh dự và tiếng tăm của chúng ta. Sau cùng
chúng ta hãy bẻ gãy lá bùa chết người mà từ lâu nay lôi cuốn chúng ta ra khỏi con đường
hạnh phúc và thịnh vượng.
Đúng như trước giờ vẫn được nhận thấy qua các bằng chứng không thể chối cãi, đã tạo ra
một quan điểm thống nhất cho rằng có khiếm khuyết về bản chất của hệ thống chính trị
quốc gia; nhưng lợi ích của sự nhìn nhận đó, về phần các thành phần trước nay vẫn bất
đồng với các phương thức liên bang, bị hủy bỏ bằng sự chống đối mạnh mẽ đối với một
giải pháp, trên những nguyên tắc duy nhất có thể mang lại một cơ hội thành công. Trong
khi họ công nhận rằng chính quyền Liên Bang đang cạn kiệt nguồn năng lượng, họ chống
LVI
lại việc trang bị cho Liên Bang những quyền hành cần thiết để cung cấp năng lượng đó.
Dường như họ vẫn hướng tới các chống đối và bất đồng; ở sự gia tăng quyền lực của Liên
Bang, mà không giảm đi quyền lực Tiểu Bang; ở chủ quyền và hoàn toàn độc lập của các
thành viên trong Liên Bang. Nói một cách ngắn gọn là họ vẫn có vẻ ủng hộ một cách mù
quáng một thứ quái vật chính trị của hình thức "một quốc gia có chủ quyền trong một
quốc gia có chủ quyền." Điều này đã để lộ ra những khiếm khuyết cơ bản của Liên Bang
rất cần để cho thấy những thứ xấu xa chúng ta đang trải nghiệm không bắt nguồn từ
những sai lầm nhỏ hay chỉ một phần, mà từ những sai lầm căn bản trong cấu trúc của toàn
khối, không thể chắp vá mà phải thay đổi những nguyên tắc căn bản và cấu tạo chính của
vật liệu.
Điều tệ hại lớn nhất và cơ bản nhất trong cấu trúc của Liên Bang hiện tại là nguyên tắc
LẬP PHÁP cho CÁC TIỂU BANG hay CÁC CHÍNH QUYỀN, dưới dạng TỔ CHỨC
thống nhất hay TẬP HỢP CÁC QUYỀN LỰC, và như sự tách biệt đối kháng giữa các
CÁ NHÂN trong tập hợp với nhau. Mặc dù nguyên tắc này không chi phối tất cả các
quyền lực được giao cho Liên Hiệp, tuy nhiên nó khá phổ biến và điều khiển các các
quyền hạn có hiệu năng khác. Ngoại trừ luật bổ nhiệm, chính quyền Liên Bang có thẩm
quyền vô hạn trong việc đòi hỏi nhân lực và tiền bạc; nhưng họ cũng không có quyền làm
vậy vì các điều luật bảo vệ quyền công dân Mỹ. Hậu quả là mặc dù về lý thuyết, các nghị
quyết liên quan đến vấn đề đó là các đạo luật, có giá trị bắt buộc theo hiến định đối với
tất cả các thành viên của Liên Hiệp, nhưng trong thực tế, chúng chỉ là những gợi ý mà các
Tiểu Bang có thể làm theo hoặc gạt bỏ tùy ý.
Sự quái gở của bộ não con người, là sau tất cả những kinh nghiệm chúng ta có được từ
thể chế hiện tại, vẫn còn có người chống đối Hiến Pháp mới, chỉ vì nó khác hẳn với
nguyên tắc xào nấu lại những thứ cũ rích, mà tự nó hiển nhiên không phù hợp với ý
tưởng CHÍNH QUYỀN; một nguyên tắc, cách ngắn gọn là, nếu được thực thi, phải thay
thế bạo lực và chém giết đẫm máu bằng sự thuyết phục của lý lẽ và luật pháp.
LVII
Không có gì tầm thường hay không tưởng về khái niệm một liên minh giữa các quốc gia
độc lập cho cùng những mục tiêu xác định trước đã được nêu ra rõ ràng trong hiệp ước
điều hành các chi tiết về thời gian, vị trí, hoàn cảnh và số lượng; không để sót vấn đề gì
để phải tùy tiện xử lý trong tương lai; và lệ thuộc vào sự thành thật của các thành phần
tham gia để vận hành. Các hiệp ước như vậy tồn tại trong hầu hết các quốc gia tiến bộ,
phụ thuộc vào các biến chuyển của hòa bình và chiến tranh, được tuân thủ hay không
tuân thủ, chi phối bởi quyền lợi và sự nhiệt tình của các cường quốc tham gia thỏa ước.
Hồi đầu thế kỷ này, có một sự bùng nỗ lan rộng ở Châu Âu của các loại hiệp ước này, các
chính trị gia của thời kỳ này háo hức kỳ vọng vào các lợi ích không bao giờ có được từ
các hiệp ước này. Với quan điểm xây dựng sự cân bằng quyền lực và hòa bình ở Châu
Âu, tất cả mọi nỗ lực thương thuyết đã được vận dụng và liên minh ba thành phần, hay
bốn thành phần đã được thành lập; những liên minh như vậy hiếm khi được thành lập
trước khi chúng bị phá vỡ, để lại những bài học đau thương cho hậu thế, cho thấy không
thể nào tin tưởng vào các hiệp ước không có ràng buộc nào ngoài sự tín nhiệm, và các
hiệp ước đó chỉ chọn những quyền lợi hay quan tâm nhất thời thay vì suy tính đến các giá
trị hòa bình và công lý.
Nếu những Tiểu Bang nào đó trong quốc gia này được tách ra, đứng độc lập với nhau và
bỏ đi kế hoạch GIÁM SÁT CÂN NHẮC chung, thì toan tính đó thực sự độc địa, và sẽ
mang lại cho chúng ta tất cả những tai họa như đã xảy ra hàng loạt trước đây; nhưng ít
nhất nó cũng chứng tỏ khả năng nhất quán và hoàn toàn loại bỏ các quan điểm hướng về
một chính quyền liên bang, và đem lại cho chúng ta một liên minh thuần túy tấn công và
phòng thủ; và sẽ đặt chúng ta vào vị thế khi là các đồng minh, khi là các kẻ thù của nhau,
vì các thế lực ngoại quốc sẽ thúc đẩy sự tranh giành ganh ghét lẫn nhau giữa chúng ta.
Nhưng nếu chúng ta không chấp nhận để rơi vào tình trạng nguy hiểm này; nếu chúng ta
tiếp tục theo đuổi kiến trúc của chính quyền quốc gia, hay nói một cách khác, một quyền
lực giám sát tối cao, được đặt dưới sự chỉ đạo của một hội đồng cố vấn chung, chúng ta
phải quyết tâm gom lại các yếu tố được xem như là tạo ra sự khác biệt về bản chất của
LVIII
một tập đoàn và chính quyền; chúng ta phải mở rộng quyền lực của Liên Bang đến những
người là công dân - mục đích chính đáng duy nhất của chính quyền.
Chính quyền có quyền tạo ra các sắc luật. Ý tường cơ bản của luật là nó phải kèm theo
một thứ quyền lực thực thi; hay nói cách khác, là một thứ hình phạt cho sự bất tuân thủ.
Nếu không có hình phạt gắn liền vào sự bất tuân thủ, các nghị quyết hay mệnh lệnh tưởng
chừng như là luật pháp sẽ thực sự không khác gì một lời khuyên, hay sự yêu cầu. Hình
phạt này, bất kể là gì, chỉ có thể áp đặt lên bằng hai cách: bằng các tòa án và các bộ
trưởng tư pháp, hay bằng quân đội; bằng ÁP LỰC của pháp lý, hay bằng ÁP LỰC của
quân đội. Thứ đầu tiên rõ ràng chỉ có thể áp dụng cho con người; thứ sau cùng, khi cần
thiết, phải được sử dụng chống lại các tổ chức chính trị, các cộng đồng, hay các Tiểu
Bang. Rõ ràng là không có phiên tòa nào mà sự tuân thủ luật pháp có thể thực hiện như là
giải pháp sau cùng. Các bản án có thể được giáng xuống cho kẻ phạm tội, nhưng những
bản án này chỉ có thể được thực thi bằng thanh gươm. Trong một tổ chức mà quyền hành
chung nằm trong tay của một tập hợp các cá nhân trong cộng đồng, hình thành tổ chứ đó,
mọi thứ vi phạm luật pháp phải liên quan đến tình trạng chiến tranh; và giải pháp quân sự
phải là phương tiện duy nhất duy trì trật tự dân sự. Một tình trạng như vậy thực sự không
đáng gọi là chính quyền, và cũng không có người khôn ngoan nào lại giao cuộc sống
hạnh phúc của mình cho chính quyền đó.
Trong quá khứ khi chúng ta đã được nghe nói rằng sẽ không có vấn đề các Tiểu Bang vi
phạm luật lệ của chính quyền Liên Bang; rằng tinh thần lợi ích chung sẽ điều khiển hành
động của các thành viên, và sẽ tạo ra một sự tuân thủ hoàn toàn đối với các điều kiện quy
định trong hiến pháp của Liên Bang. Ngày nay, cách nói như vậy sẽ có vẻ như khó tin
như phần lớn những gì chúng ta nghe từ trường phái đó, khi chúng ta có thêm nhiều bài
học từ các sự tiên tri khôn ngoan nhất chính là kinh nghiệm. Kinh nghiệm lúc nào cũng
phản bội sự ngờ nghệch về động lực thực sự của các hành vi của con người và mâu thuẫn
với những động cơ ban đầu trong việc xây dựng sức mạnh hành chính. Tại sao cần tạo ra
chính quyền? Bởi vì ước muốn của con người không tuân thủ lý lẽ và công lý nếu không
LIX
có sự kiềm chế. Có bao giờ một nhóm người thì hành xử đúng đắn và vô tư hơn từng cá
nhân? Cách hành xử của con người đã chứng minh ngược lại với những lý do khá rõ
ràng. Sự tôn trọng tiếng tăm không có một động lực gây ảnh hưởng khi tiếng tăm xấu bị
chia ra giữa mọi người thay vì rơi vào một cá nhân. Tinh thần bè phái, chắc chắn xảy ra
trong các cuộc thảo luật tập thể, thường làm các cá nhân trong phe phái có hành động
thiếu tư cách và thái quá mà nếu là cá nhân đơn lẽ họ sẽ thấy xấu hổ.
Hơn nữa, trong bản chất của chủ quyền quốc gia, một sự thiếu kiên nhẫn trong kiểm soát,
qua việc loại bỏ những ai được trao quyền sử dụng nó, có cái nhìn hằn học với các nỗ lực
bên ngoài nhằm hạn chế hay điều khiển những hoạt động đó. Từ tin thần này, nảy sinh
vấn đề là mọi tổ chức chính trị được thành lập dựa trên nguyên tắc tập hợp các chủ quyền
nhỏ hơn dưới một lợi ích chung, một khuynh hướng kỳ dị sẽ phát sinh từ các vệ tinh con
này, bằng các hoạt động sẽ tạo ra các nổ lực không ngừng để thoát khỏi mục tiêu chung.
Khuynh hướng này không khó kiểm chứng. Bởi vì chúng có cùng nguồn gốc từ lòng ham
muốn quyền lực. Sự kiểm soát hay thu hẹp quyền lực hầu như luôn luôn là kẻ thù của
quyền lực bị kiểm soát hay hạn chế. Cái lý lẽ đơn giản này dạy chúng ta không có lý do
gì để trông mong rằng những người được giao phó các việc hành chính của các tiểu bang
thành viên trong một liên bang lúc nào cũng sẽ sẵn sàng, với thái độ vui vẽ, không thành
kiến đối với quyền lợi của công chúng, để thực thi các nghị quyết và sắc lệnh trong phạm
vi quyền hạn. Trái lại, mọi thứ kết quả đều phụ thuộc vào bản chất của con người.
Cho nên, nếu những quyền hạn của Liên Bang không được thi hành nếu không có sự can
thiệp của các chính quyền tiểu bang, thì các quyền hạn đó không có mấy triển vọng được
thực hiện. Lãnh đạo của các tiểu bang, dù có quyền hiến định để thực thi hay không, đều
phải tự họ phán đoán xem những quyền hạn đó có phù hợp hay không. Họ sẽ lượng định
sự phù hợp của các điều khoản đề nghị hoặc bắt buộc đối với quyền lợi hay mục tiêu của
họ; thuận lợi hay bất lợi về tiền bạc sẽ dẫn đến việc có thông qua hay không. Tất cả sẽ
được thực hiện; và trên tinh thần quan tâm, và nghi vấn khảo sát vấn đề, mà không có sự
hiểu biết về tình huống của quốc gia, và nguyên nhân của tiểu bang, là yếu tố cơ bản để
LX
có phán quyết đúng, và với khuynh hướng thiên vị các đối tượng mang tính địa phương,
dẫn đến quyết định lúc nào cũng sai lệch. Quá trình đó được lập lại trong mỗi thành viên
của tổ chức; và kế hoạch thực hiện, theo khuôn khổ được vạch ra bởi các cố vấn sẽ luôn
thay đổi theo những ý kiến thiếu thông tin và đầy thành kiến của mọi thành phần. Những
ai từng tham gia các quá trình thảo luận của các nghị trường nổi tiếng; từng chứng kiến
nó khó khăn như thế nào, khi không có áp lực từ bên ngoài của các tình huống, để đem
chúng lại với nhau dưới các nghị quyết đồng nhất về những điểm quan trọng, sẽ dễ dàng
hiểu không thể nào đem các vấn đề vào trong quá nhiều nghị trường như vậy, để thảo
luận từ cách xa nhau, tại khác thời điểm và dưới các ấn tượng khác nhau, cùng ước muốn
hợp tác trong cùng quan điểm và mục tiêu.
Trong trường hợp của chúng ta, sự đồng thuận của cả mười ba ý chí chủ quyền riêng biệt
là điều kiện phải có, trong Liên Bang, để có thể hoàn toàn thi hành các điều luật từ Liên
Hiệp. Nó xảy ra như thể đã được tiên đoán trước. Các điều luật từ Liên Hiệp chưa được
thực thi; sự chậm trễ của các Tiểu Bang đã từng bước lên đến cao điểm, có lúc đến mức
ngăn trở các hoạt động của chính quyền liên bang đến mức dừng lại hoàn toàn. Quốc hội
lúc này hiếm khi nắm giữ phương tiện theo kịp với các hình thức hành chính, đến khi các
Tiểu Bang có thể có thời gian để đồng ý về một hình thức hoàn thiện hơn thay thế cho
chính quyền liên bang khiếm khuyết trong hiện tại. Mọi sự không đi đến điểm đỉnh của
tuyệt vọng này cùng lúc. Các nguyên nhân đã được nêu ra lúc đầu chỉ được hình thành
không đồng đều và dưới mức độ tuân thủ các điều kiện của Liên Hiệp không cân đối. Các
tiểu bang có nhiều khuyết điểm được đưa ra làm ví dụ và cuốn hút sự quan tâm của các
tiểu bang tuân thủ hay ít chậm trễ nhất. Tại sao chúng ta phải làm phần lớn công việc so
với những nơi cùng tham gia vào cùng hành trình chính trị này? Tại sao chúng ta chấp
nhận lãnh phần công việc chung nhiều hơn? Đây là những gợi ý mà tính ích kỷ của con
người không thể nào chấp nhận được, và ngay cả những người chờ thời, hướng vào
những kết quả trong tương lai, không thể không phản đối. Mỗi tiểu bang, nghe theo tiếng
nói thuyết phục của quyền lợi trước mắt hay tiện lợi, đã liên tiếp rút lui sự ủng hộ, cho
LXI
đến khi hệ thống non yếu dường như sắp ngã xuống đầu chúng ta và nghiền nát chúng ta
dưới các mảnh vụng của nó.
PUBLIUS
LXII
Thư Liên bang số 16
Tiếp tục đề tài (Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn
Khối Liên hiệp)
Gửi cư dân Tiểu bang New York:
Khuynh hướng của nguyên tắc lập pháp của các Tiểu Bang, hay các cộng đồng, trong khả
năng chính trị của chúng, như đã được biểu hiện qua các thử nghiệm chúng ta đã làm,
đồng thời được chứng minh qua các sự kiện đã xẩy ra với tất cả các chính quyền dưới
hình thức liên bang, mà chúng ta được biết, cũng phổ biến như các chính thể này. Các
khẳng định của dữ kiện này đáng để phân tích cặn kẽ. Ở đây, tôi chỉ có thể đóng vai trò
quan sát, có thể thấy rằng trong các liên bang thời xưa, qua các chứng cớ lịch sử, liên
bang Lycian và Achaean dường như không bị hạn chế bở nguyên tắc sai lầm đó, và vì thế
các liên bang đó xứng đáng được sự đón nhận, và khen ngợi của các tác giả chính trị.
Nguyên tắc ngoại lệ này có thể, vừa đúng vừa nổi bật, được xem như là cha đẻ của sự vô
chính phủ: Có thể thấy các chậm trễ của các tiểu bang thành viên trong Liên Hiệp là sản
phẩm tự nhiên và cần thiết của nguyên tắc này; và khi nào chúng xảy ra, giải pháp duy
nhất trong khuôn khổ hiến pháp là vũ lực, và hậu quả lập tức là nội chiến.
Câu hỏi đặt ra là bộ máy chính quyền trở nên đáng ghét đến mức nào, trong sự áp đặt lên
chúng ta, để còn có thể chịu tránh nhiệm của nó. Nếu không có một quân đội hùng hậu
luôn thường trực theo lệnh của chính quyền quốc gia thì không thể nào triển khai quân
đội được, hoặc khi triển khai, nó sẽ đồng nghĩa với một cuộc chiến tranh giữa các thành
phần của Liên Bang liên quan đến các vi phạm trong liên minh, trong đó những nhóm
mạnh nhất sẽ thắng cho dù nó gồm các thành phần ủng hộ hay chống quyền lực của chính
quyền liên bang. Hiếm khi sự chậm trễ cần được sửa đổi chỉ hạn chế trong một thành
LXIII
viên, và nếu có nhiều thành viên sao lãng nhiệm vụ, các thành viên trong cùng tình huống
sẽ có khuynh hướng liên kết để bảo vệ lẫn nhau. Độc lập với động lực đồng cảm, nếu một
tiểu bang lớn và có ảnh hưởng, đồng thời là một thành viên hiếu chiến, thường sẽ có đủ
trọng lực để lôi kéo các thành viên khác ủng hộ cho mục tiêu của nó. Các lý lẽ ngụy biện
về mối nguy đối với các tự do căn bản có thể dễ dàng được nhào nặn ra; các biện cớ
tưởng như có thể tin được cho sự khiếm khuyết của thành viên có thể, không mấy khó
khăn, được tạo ra để đánh lạc hướng, châm ngòi phản ứng thái quá, giành cảm tình ngay
cả của các Tiểu Bang không vi phạm hay lơ là nhiệm vụ. Điều này càng dễ xảy ra, vì
trong các chậm trễ của các thành viên lớn có thể phải mất một thời gian để thoát ra khỏi
những tính toán đầy tham vọng của các nhà lãnh đạo của họ, với quan niệm loại bỏ các
kiểm soát từ bên ngoài nhằm làm tăng ảnh hưởng cá nhân họ; càng có ảnh hưởng nhiều
đến các tiểu bang kế cận qua các nhà lãnh đạo của các tiểu bang này. Nếu không thể tìm
thấy đồng minh trong nước, sẽ nảy sinh vấn đề cầu viện nước ngoài, những kẻ có khuynh
hướng khuyến khích chia rẽ trong Liên Bang mà một liên minh chặt chẽ là điều họ lo sợ.
Khi lưỡi gươm đã tuốt ra, tính bồng bột của con người sẽ không có giới hạn trung dung.
Sự kiêu hãnh bị tổn thương, sự oán hận bị khơi dậy, sẽ khiến các Tiểu Bang bằng mọi giá
chống lại quân đội Liên Hiệp để tránh sự đầu hàng nhục nhã. Cuộc chiến tranh đầu tiên
dưới hình thức này sẽ làm tan rã Liên Hiệp.
Đây có thể được xem như sự giãy chết của Liên Bang. Cái chết tự nhiên hơn có lẽ là thứ
chúng ta đang trãi qua, nếu hệ thống chính quyền liên bang không được nhanh chóng sửa
đổi dưới một hình thức tiến bộ hơn. Xét theo sự xuất chúng của quốc gia này, không thể
nào, có chuyện các Tiểu Bang tuân thủ nguyên tắc lại thường có khuynh hướng ủng hộ
quyền lực Liên Hiệp bằng cách gây chiến với các Tiểu Bang không tuân thủ. Các Tiểu
Bang tuân thủ sẽ luôn sẵn sàng theo đuổi một đường lối ôn hòa để trở nên gần gũi hơn
với các tiểu bang chậm trễ bằng cách làm theo gương các tiểu bang này. Và sai lầm của
tất cả các tiểu bang thành viên sẽ là an toàn cho tất cả. Kinh nghiệm trong quá khứ của
chúng ta đã phơi bày hoạt động trên tinh thần này một cách trọn vẹn. Thực sự, sẽ có khó
khăn không thể vượt qua liên quan đến vấn đề thời điểm thích hợp để sử dụng vũ lực.
LXIV
Trong điều luật gây quỹ, cũng chính là nguyên nhân thường nhất dẫn đến việc chậm trễ,
không thể nào khẳng định nó xuất phát từ sự không quyết đoán hay sự bất tài. Sự giả vờ
bất tài cũng luôn xảy ra. Và trường hợp phải rất tệ hại qua đó sự sai lầm có thể được phát
hiện một cách chắc chắn để biện minh cho hành động vũ lực. Có thể dễ dàng thấy vấn đề
này thôi, dù chỉ xảy ra theo cách đó, cũng tạo ra một sân chơi cho cho các quan điểm phe
nhóm, cho sự thiên vị và áp bức, trong đa số tình cờ chiếm ưu thế trong hội đồng quốc
gia.
Dường như không mấy khó khăn để chứng minh các Tiểu Bang muốn có một Hiến Pháp
hoạt động được nhờ phương tiện của một quân đội hùng hậu sẵn sàng ra trận để thực thi
những yêu cầu bình thường hay sắc lệnh của chính quyền. Và vậy mà đây là giải pháp
thay thế đơn giản được đề ra bởi những người muốn hạn chế quyền lực hoạt động của
chính quyền Liên Bang lên các cá nhân. Một hiến pháp như vậy, nếu có chút nào khả thi,
sẽ ngay lập tức biến thành một chế độ quân phiệt; tuy nhiên nó hoàn toàn không thực
tiễn. Các nguồn tài nguyên của Liên Hiệp sẽ không đủ để trang bị cho một quân đội đủ
lớn để kiểm soát một Tiểu Bang lớn; cũng như không có phương tiện để thành lập một
quân đội như vậy ngay từ đầu. Ai cho rằng dân cư đông đúc và sức mạnh của vài trong số
các Tiểu Bang trong thời điểm hiện tại, và hướng đến tương lai của các Tiểu Bang này,
ngay cả trong khoảng thời gian nữa thế kỷ, sẽ ngay lập tức gạt qua hiến pháp nào nhằm
hạn chế hoạt động của họ bằng luật pháp áp dụng trên vai trò chung của các tiểu bang, và
được sử dụng bằng áp lực trong cùng những vai trò đó vì cho rằng nó không có ích lợi,
hay viễn vong. Một dự án theo cách này thì hơi ít màu sắc cổ tích một chút so với tinh
thần chinh phục quái vật của các anh hùng, và thần nhân trong các huyền thoại cổ xưa.
Ngay cả các liên bang bao gồm các thành viên nhỏ hơn nhiều quận hạt của chúng ta,
nguyên tắc lập pháp cho các Tiểu Bang có chủ quyền, được hậu thuẫn bởi áp lực quân
đội, chưa bao giờ tỏ ra có hiệu quả. Hiếm khi nó được sử dụng, ngoại trừ cho các thành
viên yếu hơn; và hầu hết các trường hợp các nổ lực dùng áp lực trên các thành viên cứng
LXV
đầu, không tuân thủ là những tín hiệu của các cuộc chiến tranh đẫm máu khi mà một nữa
liên bang đối đầu với phân nửa còn lại.
Kết quả của những quan sát trên đối với một bộ óc sáng suốt rõ ràng là nếu có thể, bằng
mọi giá, phải xây dựng một chính quyền liên bang có khả năng điều tiết các mối quan
tâm chung và bảo vệ nền hòa bình chung, nó phải được xây dựng, như các thành viên
nằm trong sự bảo vệ của nó, trái ngược với nguyên tắc ủng hộ bởi những người chống lại
bản dự thảo Hiến Pháp. Nó phải mang lại các tổ chức công ích cho các công dân. Nó phải
đứng độc lập không cần các điều khoản luật trung gian; nhưng tự nó phải có sức mạnh sử
dụng cánh tay của tòa án thông thường để thực thi các nghị quyết của nó. Sự hùng mạnh
của quyền lực quốc gia phải thể hiện qua các tòa án. Chính quyền của Liên Hiệp, giống
như chính quyền mỗi tiểu bang, phải có khả năng ngay lập tức tự diễn giải trước những lo
âu và hy vọng của các cá nhân; và thu hút sự nhiệt tình ủng hộ có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nhân tâm. Một cách ngắn gọn là nó phải sở hữu tất cả các phương tiện và có quyền
sử dụng tất cả các biện pháp để thực thi các quyền lực đã được giao phó, cũng như các
Tiểu Bang có thể thực hiện các quyền đó. Đối với cách lý luận này, nó có thể bị phản đối,
rằng nếu có Tiểu Bang nào không chấp nhận quyền lực của Liên Hiệp, nó có thể ngăn cản
thực thi luật pháp của liên bang bất cứ lúc nào và đem vấn đề đến chỗ sử dụng vũ lực như
đã nói, với sự cần thiết trong dự thảo hiến pháp bị chỉ trích.
Các chống đối sẽ biến mất khi chúng ta hướng đến sự khác biệt cơ bản giữa một sự
KHÔNG TUÂN THỦ và một sự TRỰC TIẾP và MẠNH MẼ CHỐNG ĐỐI. Nếu quyền
phản đối Liên Bang của các lập pháp Tiểu Bang là cần thiết để một điều luật của Liên
Bang có hiệu quả, các tiểu bang có thể chỉ cần KHÔNG HÀNH ĐỘNG, hay TRỐN
TRÁNH, và điều luật sẽ bị thất bại. Sự sao lãng tránh nhiệm có thể được hóa trang dưới
các điều khoảng có hiệu lực nhưng không có giá trị, để không tỏ ra và dĩ nhiên là không
gây ra sự hoảng sợ cho mọi người về sự toàn vẹn của Hiến Pháp. Các lãnh đạo tiểu bang
thậm chí xuất sắc trong việc lén lút vi phạm hiến pháp dưới hình thức tiện nghi tạm thời,
tạm miễn, hay lợi thế.
LXVI
Nhưng nếu việc thi hành các đạo luật của chính quyền quốc gia không đòi hỏi sự can
thiệp của các lập pháp tiểu bang, nếu chúng được chuyển qua các hoạt động trung gian
cho các công dân, các chính quyền tiểu bang không thể can thiệp vào tiến triển công việc
của họ ngoại trừ khi các chính quyền này công khai và sử dụng bạo lực bằng phương
cách vi hiến. Không thể đổ thừa bằng cách lấp lửng hay bỏ sót. Họ sẽ bắt buộc phải hành
động, và theo cách mà có thể dễ dàng nhận thấy họ vi phạm quyền lực thuộc về liên bang.
Một thử nghiệm theo cách này sẽ luôn nguy hiểm đối với một hiến pháp mà trong một
mức độ nào đó có khả năng tự vệ, và đối với một dân tộc đủ tri thức để phân biệt giữa
một hoạt động pháp luật bình thường và một sự tiếm quyền phi pháp. Sự thành công của
nó không chỉ đòi hỏi một phe nhóm đa số trong lập pháp, mà còn sự đồng thuận của các
tòa án và của dân chúng. Nếu các quan tòa không tham gia vào các âm mưu cùng với lập
pháp, họ sẽ tuyên bố các nghị quyết với một đa số như vậy là trái với luật tối cao của đất
nước, vi hiến và không có hiệu lực. Nếu người dân không bị tiêm nhiễm bởi tư tưởng của
các dân biểu tiểu bang, họ, những người hiển nhiên bảo vệ Hiến Pháp, sẽ gia nhập vào
lực lượng chung và tạo ra một tiếng nói có trọng lượng trong cuộc đọ sức. Các nỗ lực như
vậy thường không được quyết định vội vàng, thiếu cân nhắc, bởi vì những người đưa ra
quyết định như vậy thường bị nguy hiểm, trừ phi trong các trường hợp hành động độc
đoán của chính quyền liên bang.
Nếu các hành vi gây rối loạn chống lại chính quyền liên bang của các thành phần phản
đối xảy ra, có thể sử dụng cùng các biện pháp được sử dụng hằng ngày dưới chính quyền
tiểu bang chống lại các hành động quỷ quái này. Phòng công tố, tương đương các bộ
trưởng theo hiến pháp quy định, bất kể được đề xuất từ đâu, cũng sẵn sàng bảo vệ luật
pháp quốc gia cũng như địa phương chống lại vi phạm của các hành động vô luật lệ riêng
lẽ. Đối với các hành vi bạo động và phản loạn, đôi khi làm quấy nhiễu xã hội, từ âm mưu
của một nhóm nhỏ, hay từ những chống đối đột xuất, đôi khi xảy ra mà không ảnh hưởng
toàn cộng đồng, chính quyền có thể phối hợp nhiều tài nguyên cho việc trấn áp các vụ
gây rối kiểu đó hơn là các thành viên riêng lẽ. Và đối với các tranh chấp chết người, trong
LXVII
vài trường hợp khẩn cấp, ngọn lửa hủy diệt lan tỏa ra toàn đất nước, hay ra một phần rất
lớn của nó, diễn ra hoặc từ các nguyên nhân chính của sự bất đồng mang lại bởi chính
quyền hoặc từ sự lây lan từ các đợt sóng bạo động phổ biến, chúng không rơi vào các
phép tính thông thường. Khi chúng xảy ra, chúng thường tương đương với các cuộc cách
mạng và các tan rã của đế quốc. Không có hình thức chính quyền nào có thể luôn luôn
tránh khỏi hay điều khiển chúng. Không có hy vọng phòng chóng lại các sự kiện quá
mạnh mẽ đối với tầm viễn kiến hay sự thận trọng của con người, và phản đối chính quyền
bởi vì nó không thể làm những việc ngoài khả năng là hành động vô nghĩa.
PUBLIUS
LXVIII
Thư Liên Bang số 30
Bàn Về Quyền Lực Tổng Quan của Thuế vụ
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Ai cũng biết rằng, Chính quyền Liên bang cần phải nắm quyền hổ trợ cho quân đội quốc
gia, với nhiều dự án phải triển khai như: chi phí tuyển quân, đóng và trang bị đội tàu
chiến, và các chi phí khác liên quan đến việc bố trí quân đội và các hoạt động quân
sự.Tuy nhiên, chưa dừng lại ở đó, Chính phủ Liên bang còn phải lo toan cho cả những dự
án dân sự, cho việc trả nợ quốc gia, và cho những vấn đề chi tiêu khác cần sử dụng đến
ngân sách quốc gia. Do vậy, bằng cách này hay cách khác, chính phủ cần phải có quyền
quyết định, về thuế chẳng hạn, để bù trừ cho các nguồn chi nói trên.
Tiền tệ, trong một chừng mực nào đó, được xem là yếu tố quan trọng cho một chính thể,
vì đồng tiền giúp duy trì nguồn sống và hoạt động của chính thể đó, giúp cho một chính
thể thực hiện các chức năng cơ bản nhất của mình. Cho nên, một quyền lực trọn vẹn, để
có thể xoay sở đủ tiền cho các hoạt động trong một chừng mực cho phép của cộng đồng,
là cấu thành quan trọng của mọi Hiến pháp của một quốc gia.
Trước sự thiếu hụt ngân khoản cho các khoản chi nói trên, một trong hai điều tồi tệ có thể
xảy ra: hoặc là người dân sẽ bị bóc lột để bù vào sự thiếu hụt, hoặc là nhà nước sẽ teo tóp
dần và sẽ bị diệt vong trong thời gian ngắn. Vào thời Ottoman hay đế chế Thổ Nhĩ Kỳ,
quốc vương không có quyền ban hành sắc thế mới mặc dù ông ta tuyệt đối tôn trọng
quyền sống và tài sản của thần dân. Kết quả là vị quốc vương cho phép các viên Toàn
quyền và Tổng trấn cướp bóc và ăn chặn tài sản của người dân đúng bằng số tiền mà ông
ta cần để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của ông ta và của đế chế. Ở Hoa Kỳ, với lý do tương
tự, chính phủ Liên bang dần dần suy yếu và sắp bị triệt tiêu. Có ai đó có thể nghi ngờ
LXIX
rằng đời sống hạnh phúc của nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ và Hoa Kỳ sẽ được giới chức chính
quyền đảm bảo, trong khi vẫn đảm bảo thu nhập để đáp ứng các nhu cầu của xã hội?
Liên minh các tiểu bang hiện nay, yếu ớt như thể rất cần được nghĩ ngơi, có quyền lực
hạn chế để có thể cung cấp tiền bạc cho các nhu cầu của Liên bang, nhưng lại hoạt động
theo một nguyên tắc sai lầm, khiến cho mọi nổ lực trở thành sự thất vọng. Dựa trên
những điều khoản của khế ước đã được công bố, Quốc hội, bằng các quyết định của
mình, có quyền xác lập và đề xuất các khoản tiền cần thiết để phục vụ cho đất nước Hoa
Kỳ. Yêu cầu của Quốc hội, nếu đúng luật, sẽ được các Tiểu bang tuân theo. Sẽ không ai
có quyền nghi vấn tính đúng đắn từ các yêu cầu của Quốc hội; không ai được tự ý bày
mưu tính kế vẽ ra số tiền cần thiết. Tuy nhiên, mặc dù rất nghiêm khắc với những trường
hợp này; mặc dù rất hiếm khi hoặc không bao giờ được cho phép chất vấn Quốc hội,
nhưng trong thực tế những chất vấn nói trên vẫn xảy ra và sẽ tiếp tục như thế cho đến khi
nào nguồn thu của Liên bang còn phụ thuộc vào các Tiểu bang. Hậu quả của cách làm
của hệ thống này là, như mọi người đều biết, việc công bị đình trệ, và những kiểu cách
truy vấn này đã và đang mở rộng sang các bộ phận khác của chính phủ liên bang. Chính
điều đó đã góp phần làm Hoa Kỳ bị mất thể diện và tạo điều kiện cho kẻ thù giành thắng
lợi.
Liệu có phương cách điều trị nào cho tình huống này, nhưng trong một hệ thống đã được
thay đổi với những hạn ngạch, định mức dối trá và bịp bợm? Có cách nào để thay thế
niềm hy vọng hão huyền về tài chính này, nhưng cho phép chính phủ có được nguồn thu
bằng các sắc thuế thông thường của chính quyền dân sự? Các nhà thông thái có thể sẽ
hùng hồn diễn thuyết tính hợp lý của mọi vấn đề; nhưng không một ai có thể chỉ ra một
cách nào khác để giải thoát chúng ta khỏi những bất tiện và lúng túng do nhược điểm của
hệ thống công về cung ứng tiền tệ.
Với quan điểm lý luận này, nếu càng có nhiều đối tượng xuất sắc, những người chấp
thuận sự khác biệt của cái gọi là thuế nhập khẩu và thuế tiêu dùng, đối lập đối với chính
LXX
sách thuế của Hiến pháp mới, thì các chính quyền của các Tiểu bang càng sớm bảo lưu
quyền tự quyết của mình chừng đó, và càng chậm chấp thuận các cải cách của chình phủ
Liên bang bằng cách nêu các lý do liên quan đến việc đánh thuế thương mại và hàng nhập
khẩu. Tuy nhiên, sự khác biệt này sẽ xâm phạm các chủ ý tốt đẹp và những chính sách
thuế đầy hứa hẹn vốn có thể giúp cho mọi QUYỀN LỰC luôn cân xứng với MỤC TIÊU;
sẽ làm cho quyền giám hộ của chính phủ Liên Bang đối với Tiểu bang không theo đúng
như các ý tưởng hay ho và hiệu quả hằng mong muốn. Ai có thể giả vờ như là các sắc
thuế thương mại hoàn toàn có thể cân bằng với các nhu cầu ngân sách cấp thiết của Liên
bang trong hiện tại và tương lai? Chỉ cần xem xét các khoản nợ trong nước và nước ngoài
hiện nay, đối chiếu với các kế hoạch chi tiêu công dễ được công chúng và các Đảng phái
đồng tình và chấp thuận nhất, chúng ta không cần phải tự "nâng" mình lên để thấy rằng
nguồn thu hoàn toàn không đủ đáp ứng ngay cả những nhu cầu cần thiết trong hiện tại. Sẽ
cần có quyền tự do được lập các dư toán cho các nhu cầu của tương lại, không cần dựa
theo sự tính toán hay giới hạn, mà chỉ là dựa trên nguyên tắc hoạt động cơ bản đã từng
hơn một lần được đề cập đến. Tôi tin rằng quyền tự do đó có lẽ sẽ được bảo đảm trong
lịch sử của nhân loại, rằng TRONG MỘT TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN BÌNH THƯỜNG
CỦA SỰ VẬT, NHỮNG VẤN ĐỀ THIẾT YẾU TRONG MỖI GIAI ĐOẠN TỒN TẠI
CỦA MỘT QUỐC GIA, ÍT NHẤT SẼ LUÔN TƯƠNG ĐƯƠNG VỚI CÁC NGUỒN
LỰC CỦA QUỐC GIA ĐÓ.
Nếu nói rằng các sự khác biệt là do sự khác nhau giữa các tiêu chuẩn của mỗi Tiểu bang,
có nghĩa là, một mặt , chấp nhận hệ thống Liên bang này không thể phụ thuộc lẫn nhau;
mặt khác lại chấp nhận hệ thống phụ thuộc vào nhau khi sự việc vượt quá một chuẩn mực
nào đó. Những người đã từng tham gia và trãi nghiệm những đắng cay khi soạn thảo
những bức Thư Liên bang này chắc hẳn sẽ cảm thấy vô cùng chán ngán đối với việc tin
tưởng vào vào các lợi ích của quốc gia trong mọi hoạt động của quốc gia đó. Những căng
thẳng không thể tránh khỏi mỗi khi Hiến pháp Liên Bang được đưa vào áp dụng trong
thực tế chắc chắn sẽ làm suy yếu Liên Bang và gieo mầm bất hòa và tranh chấp giữa
Lãnh đạo Liên bang và các Tiểu bang, và giữa các Tiểu bang với nhau. Liệu những thiếu
LXXI
hụt về ngân sách của Liên bang sẽ được đáp ứng tốt hơn bằng cách luôn áp dụng phương
cách thực hiện cũ? Cần nên nhớ rằng nếu nhu cầu của các Tiểu bang giảm đi, họ sẽ tương
ứng cắt giảm các phương tiện cần thiết để đáp ứng nhu cầu. Nếu có ai đó xem ý kiến của
những người theo xu hướng "có sự khác biệt giữa các Tiểu bang" là bằng chứng đáng tin,
người đó sẽ kết luận rằng: Ở một vài thời điểm của nền kinh tế quốc gia, sẽ an toàn hơn
khi dừng lại và phát biểu: Do đó, niềm hạnh phúc tột cùng của công chúng là đáp ứng
những nhu cầu của chính phủ", và hơn hết điều này không xứng đáng để chúng ta quan
tâm hay cảm thấy bực bội. Làm thế nào để một chính phủ, vốn luôn thiếu hụt, có thể đáp
ứng những nhu cầu chi tiêu của các cơ quan chính quyền, đảm bảo an ninh, vươn tới giàu
có, và duy trì tiếng thơm của một nhà nước thịnh vượng? Làm thế nào để một quốc gia có
thể có được năng lượng hoặc ổn định, sự tự trọng hoặc uy tín, sự tự tin hay ngưỡng mộ từ
nước ngoài? Làm thế nào để chính phủ của quốc gia đó chỉ thừa kế tính cơ hội và luồn
lách, không có quyền lực, và nhục nhã? Làm sao để một quốc gia có thể tránh được
những hy sinh thường xuyên khi đáp ứng các nhu cầu cấp thiết? Làm sao để quốc gia có
thể thực thi quyền tự do hay các kế hoạch mang lại những điều tốt đẹp cho công chúng?
Hãy xem những hiệu ứng của tình huống hiện nay sẽ ra sao nếu chúng ta tham gia vào
cuộc chiến tranh. Với mục đích tranh luận, chúng ta hãy giả định rằng doanh thu tăng lên
từ nguồn thuế sẽ dùng để chi tiêu cho các dự án công ích, trả nợ, và nền hòa bình của
Liên bang. Như vậy, trong trường hợp chiến tranh bùng nổ, nguồn thu nhập nào sẽ cung
cấp cho chính phủ trong tình huống khẩn cấp như thế? Kinh nghiệm cho thấy rằng các
tiêu chuẩn do mỗi Tiểu bang đặt ra sẽ không thể nào đáp ứng được trong trường hợp Liên
bang hoàn toàn lệ thuộc các Tiểu bang về tài chính; và Liên bang không thể tự tìm các
nguồn ngân khoản mới trong tình thế nguy hiểm của quốc gia.Liệu có thể thúc đẩy việc
đa dạng hóa các nguồn ngân quỹ từ những nguồn phù hợp của các Tiểu bang để bảo vệ
quốc gia? Sẽ không dễ dàng gì nếu không dùng đến biện pháp này, và nếu phương án này
được thực hiện, đó sẽ là bằng chứng cho thấy sự xuống cấp về lòng tin của công chúng
đối với mỗi khoảnh khắc thiết yếu đối với sự an toàn của họ. hãy tưởng tượng rằng trong
tình huống khẩn cấp như thế việc không cần dùng đến lòng tin có thể là một điều rồ dại.
LXXII
Trong chiến tranh hiện đại, những quốc gia giàu có nhất sẽ được biết ơn nhờ vào các
khoản cho vay lớn. Quốc gia kém giàu có như đất nước chúng ta phải cảm nhận điều cần
thiết đối với các khoản vay như thế này ở mức độ mạnh hơn. Nhưng có quốc gia nào sẽ
cho một chính phủ như chúng ta vay khi chúng ta mở lời xin vay mà không có được sự
tín nhiệm về khả năng chi trả? Những khoản vay mà chúng ta có thể kiếm được sẽ bị giới
hạn cùng với những điều kiện ngặt nghèo. Các khoản vay sẽ được thực hiện dựa trên
nguyên tắc nhỏ giọt dành cho những quốc gia phá sản hoặc hay giựt nợ, với lãi suất cao
ngất.
Có thể tưởng tượng rằng do nguồn tài nguyên quốc gia thiếu thốn, nhu cầu xử dụng trệch
hướng nguồn ngân quỹ sẽ nảy sinh mặc dù chính phủ Liên bang có quyền không hạn chế
về vấn đề thuế khóa. Nhưng có hai vấn đề cần xem xét để xoa dịu các mối lo sợ của giới
lãnh đạo: Một là chúng ta cần bảo đảm các nguồn tài nguyên của xã hội, ở mức độ tối đa,
sẽ mang lại lợi ích cho Liên bang; và hai là khi xảy ra những thiếu hụt thì nguồn vay nợ
sẽ không bị hạn chế.
Chính quyền lực tạo nên nguồn ngân quỹ mới dựa trên những mục tiêu mới về thuế sẽ
khiến cho chính phủ Liên bang có thể vay được số tiền mong muốn khi cần. Người nước
ngoài cũng như công dân Hoa kỳ sẽ yên tâm cho chính phủ vay, nhưng sẽ tùy thuộc vào
chính phủ Liên bang, và chính phủ Liên bang lại phụ thuộc vào 13 Tiểu bang trong việc
đảm bảo việc trả nợ vay; một khi đã thông hiểu lẫn nhau, người vay và cho vay sẽ đạt
được sự tin tưởng, vốn không phổ biến trong giao dịch tiền bạc của loài người, ở mức độ
nào đó, và khả năng dàn xếp các vấn đề nảy sinh trong giao dịch do lòng tham.
Những suy nghĩ vế vấn đề thuế khóa sẽ là chuyện vặt đối với những người nào hy vọng
được nhìn thấy một xứ xở Hoa kỳ trong quang cảnh thanh bình của thơ ca hay trong thần
thoại, nhưng đối với những người cho rằng chúng ta sẽ có thể trãi qua những thăng trầm
và tai họa như các quốc gia khác, những người này chắc chắn thường quan tâm đến
những điều đáng sợ. Những người như thế phải được chứng kiến những tình huống thật
LXXIII
sự ở đất nước họ với những điều đau thương, chống chọi với cái xấu, và lòng nung nấu
trả thù.
PUBLIUS
LXXIV
Thư Liên bang số 37
Về những khó khăn của hội nghị Lập hiến trong việc định hình một thể
chế phù hợp cho chính quyền
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Bằng VIỆC RÀ SOÁT các khiếm khuyết của Liên bang hiện nay, thấy rằng chúng không
thể được thay thế bởi một chính quyền kém hiệu quả cộng đồng hơn chính quyền trước
đây, dĩ nhiên một vài nguyên tắc quan trọng nhất của chính quyền về sau đã được đưa
vào tiến trình xem xét. Song vì mục đích tối hậu của các bài viết này là để xác định các
phẩm chất của bản Hiến pháp đề nghị này một cách rõ ràng và đầy đủ, và xem xét tính
thiết thực của việc chấp nhận nó. Kế hoạch của chúng tôi không thể hoàn thành được mà
không thực hiện việc điều tra công việc của hội nghị một cách kỹ lưỡng và tối ưu, mà
không xem xét nó về mọi mặt, so sánh nó về tất cả mọi phần và tính toán các ảnh hưởng
mà nó có thể gây ra.
Để nhiệm vụ còn lại này có thể được thực hiện với những cảm xúc có lợi cho một kết quả
đúng đắn và công bằng, một số điều suy ngẫm, không thiên vị theo những gợi ý trước đây
phải được chiều theo ở chỗ này.
Điều không may, không thể tách rời khỏi các việc làm của con người, là các cách hành
xử chung hiếm khi được khảo sát với tinh thần tiết chế cần thiết để đánh giá đúng đắn xu
hướng thực sự đó của chúng nhằm thúc đẩy hay cản trở lợi ích cộng đồng; tinh thần này
là thích hợp để làm suy giảm hơn là thúc đẩy việc đó, bởi những cơ hội như thế đòi hỏi
phải vận dụng nó một cách khác thường. Để những con người được hướng dẫn bằng kinh
nghiệm như vậy chú tâm vào việc xem xét này, dường như không có vẻ ngạc nhiên rằng
hành động của hội nghị khuyến cáo nhiều thay đổi và cách tân quan trọng như vậy, có thể
LXXV
được cân nhắc kỹ với rất nhiều hiểu biết và mối tương quan, liên quan đến các căn
nguyên của rất nhiều quyền lợi và cảm xúc mạnh, sẽ tìm thấy hay kích thích những
khuynh hướng không thân thiện cả phía bên này và bên kia, tiến tới thảo luận ngay thẳng
và đánh giá chính xác các phẩm chất của nó. Trong một số trường hợp, việc đó đã quá rõ
ràng trên những ấn phẩm của họ, rằng họ đã xem xét tỷ mỉ bản Hiến pháp đề nghị, không
chỉ với khuynh hướng thiên về chỉ trích, mà với khuynh hướng thiên về kết án; vì ngôn
ngữ của những người khác lộ ra khuynh hướng hay thành kiến ngược lại, cần phải làm
cho các ý kiến của họ cũng trở nên ít quan trọng trong tranh luận. Tuy nhiên, thay vào đó
những đặc tích khác nhau này ở cùng một cấp độ về tầm quan trọng với những ý kiến của
họ, tôi không thích ám chỉ rằng điều đó có thể không phải là khác biệt quan trọng về sự
trong sạch trong những dự định của họ. Nhưng đó chỉ là dấu hiệu có lợi cho sự diễn tả về
sau, vì rằng tình huống của chúng ta được thừa nhận phổ biến là đặc biệt tối ưu, và đòi
hỏi cấp thiết là việc gì đó cần phải thực hiện để trợ giúp chúng ta, người bảo trợ được chỉ
định trước cho cái việc đã được làm trong thực tế, có thể vì thành kiến của mình đi chệch
khỏi tầm quan trọng của những xem xét này, cũng như khỏi chính những việc xem xét
với một động cơ xấu xa. Mặt khác, đối thủ định trước có thể được chỉ đạo không phải bởi
bất kỳ động cơ không đáng kể nào. Các dự định của nhóm đầu tiên có thể là đứng đắn, vì
ngược lại họ có thể bị khiển trách. Các quan điểm của nhóm sau có thể không ngay thẳng,
và phải bị chỉ trích. Nhưng sự thật là những bài báo này không được viết cho những
người thuộc nhóm nào thuộc các đặc điểm này. Họ chỉ cố thu hút sự chú ý của những
người đó, người với nhiệt huyết chân thành vì sự hạnh phúc của đất nước họ, với tâm tình
có lợi cho việc đánh giá đúng đắn phương thức thúc đẩy việc đó.
Những con người với đặc tính này sẽ tiến tới kiểm tra chặt chẽ kế hoạch đã được hội nghị
đệ trình, không chỉ không có khuynh hướng tìm kiếm và thổi phồng những sai lầm; mà sẽ
xem xét tính đúng đắn bằng việc suy ngẫm rằng không thể hy vọng có một kế hoạch hoàn
hảo. Và chọ cũng sẽ không xem xét một cách qua quýt các lỗi có thể tính đến như sự sai
lầm của hội nghị, như một nhóm gồm những người có trách nhiệm; mà phải suy nghĩ
rằng chính họ cũng là con người, và chắc hẳn không được xem là không thể sai lầm trong
LXXVI
việc đánh giá lại những ý kiến có thể sai của người khác.
Điều sẽ được nhận thấy với sự sẵn sàng như nhau, là ngoài những điều thuyết phục này
đối với tính vô tư của hội nghị, nhiều sự đánh giá hẳn được thực hiện vì những khó khăn
vốn có trong chính động cơ cam kết liên quan đến hội nghị.
Tính mới mẻ của việc cam kết ngay lập tức gây ấn tượng cho chúng tôi. Điều đã chỉ ra
trong suốt diễn trình của những bài viết này là, Liên bang hiện nay được thiết lập trên các
nguyên tắc sai lầm; mà vì thế chúng ta phải thay đổi nền tảng đầu tiên này, và cùng với
nó là siêu cấu trúc dựa trên đó. Điều đã được chỉ ra là các liên bang khác có thể đã được
tham khảo như những hình mẫu cho liên bang này đã bị suy yếu bởi cùng những nguyên
tắc sai lầm tương tự, và do đó không thể cung cấp chân lý nào khác hơn là ánh đèn hiệu
cảnh báo cho tiến trình phải tránh xa, mà không chỉ ra là cái gì cần phải theo đuổi. Điều
mà hội nghị có thể làm hơn cả trong tình huống đó là tránh những sai lầm đã được thừa
nhận bởi kinh nghiệm quá khứ của các nước khác, cũng như của chính chúng ta; và đưa
ra một mô hình thích hợp để sửa chữa những sai lầm của chính họ, khi các kinh nghiệm
trong tương lai có thể lộ ra cho họ.
Trong số những khó khăn đã được hội nghị chỉ ra, một điều rất quan trọng cần phải đặt
vào việc kết hợp giữa quyền lực và sự ổn định thiết yếu trong chính quyền, với sự lưu ý
bất khả xâm phạm đối với quyền tự do và thể chế cộng hòa. Không hoàn thành phần cam
kết này của họ về căn bản, họ sẽ thực hiện mục đích đã được đặt vào hay đáp lại trông
mong của dân chúng một cách rất dở dang; nhưng điều đó không dễ dàng hoàn thành, nó
sẽ bị từ chối bởi không ai sẵn lòng phơi bày sự kém hiểu biết của mình về vấn đề này.
Năng lực chính quyền là quan trọng giúp cho nó bảo đảm an ninh chống lại các hiểm họa
từ bên trong cũng như bên ngoài, và để cho nó thúc đẩy và thi hành luật pháp một cách có
lợi như trong chính định nghĩa về một chính quyền tin cậy. Tính ổn định của chính quyền
là điều kiện thiết yếu cho đặc trưng của một quốc gia và những thuận lợi thêm vào đó,
cũng như để đặt niềm tin và sự tin cậy vào suy nghĩ của người dân, trong số những phước
LXXVII
lành quan trọng nhất của xã hội dân sự. Một nền pháp luật khác lạ và có thể thay đổi tự
nó không phải là thảm họa hơn là khi nó bị ghê tởm bởi dân chúng; và điều đó có thể
được cảm nhận với sự tin chắc rằng người dân của đất nước này đã khai sáng vì họ gắn
liền với tự nhiên, và quan tâm đến những ảnh hưởng của chính quyền tốt, vì đa số họ sẽ
không bao giờ được thỏa mãn cho tới khi một số biện pháp được áp dụng cho những
thăng trầm và những việc không chắc chắn đặc trưng của các chính quyền tiểu bang. Tuy
nhiên, bằng việc so sánh những thành tố giá trị này với các nguyên lý sống còn của tự do,
chúng ta cần ngay lập tức nhận rõ khó khăn lẫn cùng với chúng theo những tỷ lệ tương
xứng của chúng. Tinh thần tự do cộng hòa dường như đòi hỏi về một phía, không chỉ là
toàn bộ quyền lực cần phải bắt nguồn từ nhân dân, mà là những quyền lực được giao phó
cho chính quyền đó phải được duy trì trong sự phụ thuộc vào nhân dân, bởi một nhiệm kỳ
ngắn của những người được nhân dân bầu lên; và thậm chí trong giai đoạn ngắn ngủi này
sự tin cậy cần phải không được đặt vào một vài, mà là một số người. Ngược lại, ổn định
đòi hỏi rằng những người nắm giữ quyền lực được nhân dân giao phó cần tiếp tục làm
việc trong một khoảng thời gian dài như nhau. Sự thay đổi người cầm quyền định kỳ sẽ
xảy ra như kết quả một cuộc bầu cử theo chu kỳ; và sự thay đổi các biện pháp định kỳ do
việc thay đổi người lãnh đạo định kỳ: trong khi năng lực của chính quyền đòi hỏi không
chỉ một giai đoạn quyền lực nhất định, mà nó phải được thực thi bởi một quyền lực duy
nhất.
Bao xa mà hội nghị có thể phải kéo dài phần việc này của họ, sẽ là tốt hơn bấy nhiêu để
đưa ra một quan điểm chỉnh xác hơn về việc đó. Từ cái nhìn thoáng qua đã thấy ở đây,
dường như rõ ràng rằng nó hẳn đã là một phần việc cam go.
Không ít khó khăn hơn phải vượt qua để thực hiện việc đưa ra đường ranh giới phù hợp
giữa quyền lực của các chính quyền trung ương và các tiểu bang. Tất cả mọi người sẽ
phải nhận ra khó khăn này, theo tỷ lệ mà anh ta đã quen với ngẫm nghĩ và phân biệt các
mục đích rộng lớn và phức tạp về bản chất. Khả năng trí tuệ tự nó chưa bao giờ được
phân biệt và định nghĩa với sự chính xác thỏa đáng, bởi tất cả những nỗ lực của các triết
LXXVIII
gia sắc sảo và siêu hình nhất. Cảm giác, nhận thức, phán đoán, khát khao, ý chí, trí nhớ,
tưởng tượng đều chỉ được tách bạch bởi những sắc thái mong manh và những thay đổi
nhỏ dần mà biên giới của chúng đã vượt quá những khảo cứu tinh vi nhất, và vẫn còn là
một nguồn rất phong phú cho các nghiên cứu công phu và tranh luận tài tình. Biên giới
giữa các giới tự nhiên rộng lớn và, vẫn lớn hơn giữa các ngành sinh vật khác nhau, và các
bộ phận nhỏ hơn thành cái mà chúng bị phân chia nhỏ, trao cho sự minh họa khác của
cùng một sự thật quan trọng. Các nhà tự nhiên học miệt mài và minh mẫn nhất chưa bao
giờ thành công một cách chắc chắn trong việc lần ra biên giới tách lãnh địa của đời sống
thực vật khỏi vùng lân cận của vật chất không có tổ chức, hay nơi đánh dấu sự tách bạch
của thế giới thực vật và sự bắt đầu của kỷ nguyên động vật. Vẫn còn một trở ngại lớn hơn
nằm trong các đặc tính để phân biệt mà với nó các đối tượng trong mỗi ngành to lớn này
của thế giới tự nhiên đã được sắp xếp và phân loại.
Khi chúng ta vượt qua các công việc của thiên nhiên, trong đó tất cả những sự mô tả đều
hoàn toàn chính xác, và dường như trong tình trạng khác chỉ là do sự không hoàn hảo của
mắt người quan sát chúng, đối với những thể chế của con người, trong đó sự khó hiểu
phát sinh từ chính mục đích cũng như từ tổ chức mà nó dự tính, chúng ta cần phải nhận
thấy tính thiết yếu của việc tiết chế từ những nỗ lực khôn ngoan của con người vẫn còn
xa những mong đợi và hy vọng của chúng ta. Kinh nghiệm đã dạy cho chúng ta rằng
không có kỹ năng khoa học nào về chính quyền còn có thể phân biệt và định nghĩa được
ba lĩnh vực lớn của nó là luật pháp, hành pháp và tư pháp với đầy đủ tính chắc chắn; hay
thậm chí các đặc quyền và quyền lực của những nhánh hành pháp khác nhau. Các vấn đề
xuất hiện hàng ngày trong quá trình thực hành, chứng tỏ sự khó hiểu ngự trị trong các chủ
đề này, làm bối rối những người thông thạo nhất về khoa học chính trị.
Kinh nghiệm của tuổi tác, với những công việc kết hợp liên tục của hầu hết các luật gia
và các nhà lập pháp khai sáng đã không thành công như nhau trong việc mô tả một vài
đối tượng và những hạn chế của các bộ luật khác nhau và các tòa án công lý khác nhau.
Mức độ chính xác của các điều luật chung, đạo luật, luật biển, luật giáo hội, luật hợp tác,
LXXIX
luật lệ và phong tục địa phương khác, vẫn còn được thiết lập rõ ràng và dứt khoát ở
vương quốc Anh, nơi tính chính xác trong các vấn đề này đã được theo đuổi nhiều hơn
bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Quyền thực thi pháp lý ở một vài tòa án Anh quốc,
trung ương và địa phương thuộc thuộc về luật pháp, về tính công bằng và về chủ quyền
trên biển..., là đề tài thảo luận không kém thường xuyên và phức tạp, biểu hiện một cách
đầy đủ các giới hạn mơ hồ mà chúng đã được định nghĩa tương ứng. Tất cả những luật
mới, dù được viết ra bởi người có kỹ năng nhất, và vượt qua cuộc bàn thảo chín chắn và
đầy đủ nhất, được xem xét là ít nhiều khó hiểu và mập mờ, cho đến khi ý nghĩa của
chúng được loại trừ và được xác định chắc chắn bởi một loạt những thảo luận và phán xử
cụ thể. Bên cạnh những sự khó hiểu xuất phát từ tính phức tạp của các đối tượng, và sự
không hoàn hảo của năng lực con người, môi trường mà qua đó các quan niệm của con
người lan truyền với nhau tạo thêm sự lúng túng mới.
Việc sử dụng các ngôn từ là để biểu đạt các ý tưởng khác nhau. Do đó, sự minh bạch
không chỉ đòi hỏi rằng các ý tưởng cần phải được hình thành riêng biệt, mà rằng chúng
phải được thể hiện bởi những ngôn từ khác biệt và duy nhất phù hợp với chúng. Song
không có ngôn ngữ nào là dồi dào đến mức cung cấp đủ các ngôn từ và mệnh đề cho mọi
ý tưởng phức tạp, hay chính xác đến mức không bao gồm nhiều ý tưởng khác nhau được
biểu hiện không rõ rệt. Vì vậy điều phải xảy ra là các đối tượng có thể được phân biệt với
nhau chính xác đến đâu, và sự phân biệt này có thể được xem xét chính xác đến đâu, định
nghĩa về chúng vẫn có thể đã được làm không đúng bởi sự thiếu chính xác của các thuật
ngữ mà nó đưa ra. Và sự thiếu chính xác không thể tránh khỏi này nhiều hay ít phải tùy
theo tính phức tạp và tính mới mẻ của các đối tượng định nghĩa. Khi chính Thượng đế hạ
cố nói chuyện với loài người bằng ngôn ngữ của chính họ, ngôn từ của ông ta là rõ ràng
như nó cần phải, bị làm cho mập mờ là khó hiểu bởi môi trường u ám mà nó được truyền
qua.
Vật thì, ở đây có 3 nguồn định nghĩa không chính xác và mơ hồ; sự không rõ ràng của đối
tượng, sự không hoàn hảo của cơ quan nhận thức, sự thiếu phương tiện biểu đạt các ý
LXXX
tưởng. Bất kỳ một trong những nguồn này phải tạo ra một mức độ khó hiểu nhất định.
Hội nghị, bằng việc mô tả ranh giới gữa các quyền thực thi pháp lý của Liên bang và tiểu
bang, đã phải trải qua toàn bộ các ảnh hưởng của chúng.
Những khó khăn đã đề cập có thể gộp thêm vào với những đòi hỏi gây cản trở của các
tiểu bang lớn nhỏ. Chúng ta không thể sai lầm khi cho rằng các bang lớn hơn sẽ tranh đấu
cho việc tham gia vào chính quyền, hoàn toàn tỷ lệ với sự phồn thịnh và tầm quan trọng
hơn của họ: và rằng các bang nhỏ hơn sẽ không kém kiên trì theo đuổi tính bình đẳng
hiện đang làm vui lòng họ. Chúng ta có thể giả thiết một cách hợp lý rằng không bên nào
sẽ chịu lép vế hoàn toàn bên kia, và vì thế cuộc tranh giành chỉ có thể chấm dứt bằng thỏa
hiệp. Cũng rất có thể là sau đó tỷ lệ người đại diện phải được điều chỉnh, chính thỏa hiệp
này chắc hẳn sẽ tạo ra một cuộc tranh đấu mới giữa các đảng phái giống nhau, để đưa
việc thay đổi như vậy vào việc tổ chức chính quyền, và để phân phối các quyền hạn của
nó, như sẽ tăng tầm quan trọng của các ngành theo thể thức họ đã đạt được phần ảnh
hưởng lớn nhất tương ứng. Có những đặc điểm trong hiến pháp bảo đảm mỗi một điều
giả định này; và cho đến khi hoặc một trong chúng được xây dựng một cách hợp lý, điều
đó chỉ ra rằng hội nghị phải bắt buộc hy sinh tính đúng đắn lý thuyết cho hiệu lực của
những tính toán xa lạ.
Cũng không chỉ có thể là các tiểu bang lớn nhỏ, sẽ sắp xếp chính chúng theo thứ tự đối
lập với nhau trong các quan điểm khác nhau. Những sự kết hợp khác xuất phát từ sự khác
biệt về vị trí và chính sách địa phương, hẳn đã tạo ra những khó khăn thêm vào. Vì tất cả
các tiểu bang có thể được chia thành các khu vực khác nhau, và cư dân của nó thành các
tầng lớp khác nhau, sinh ra những quyền lợi ganh nhau và tính kỳ thị địa phương, nên các
vùng khác nhau của Hợp chủng quốc Hoa kỳ được phân biệt với nhau bởi một loạt các
điều kiện, tạo ra một hiệu quả giống như nhau trong một phạm vi lớn hơn. Và mặc dầu có
các quyền lợi khác nhau này, vì những lý do đã được giải thích đầy đủ trong bài báo
trước, có thể có ảnh hưởng có lợi tới việc điều hành chính quyền khi hình thành, tất cả
mọi người vẫn phải nhận ra ảnh hưởng ngược lại chắc hẳn đã trải qua trong việc hình
LXXXI
thành chính quyền.
Sẽ là tuyệt vời nếu như dưới áp lực của tất cả những khó khăn này, hội nghị sẽ buộc một
cấu trúc cân đối hợp lý và nhân tạo mà quan điểm trừu tượng về vấn đề đó có thể dẫn dắt
một lý luận gia tài tình đặt ra một bản Hiến pháp được trù tính trong phòng kín hay trong
trí tưởng tượng của ông ta thành một số biến thể? Điều thực sự kinh ngạc là quá nhiều
khó khăn cần phải vượt qua, và vượt qua bằng một sự nhất trí gần như chưa từng có tiền
lệ như nó hẳn đã được mong đợi. Điều không thể đối với bất kỳ ai vô tư khi ngẫm nghĩ về
tình huống này mà không cùng chia sẻ sự ngạc nhiên. Đối với những con người sùng đạo
không thể không nhận thấy một ngón tay trong bàn tay đó của Thượng đế đã mở rộng
đáng kể và thường xuyên đến thế để cứu giúp chúng ta trong những giai đoạn khủng
hoảng của cuộc cách mạng.
Trong một bài viết trước đây, chúng ta đã có cơ hội quan tâm đến các thử nghiệm lặp đi
lặp lại mà đã được thực hiện không thành công ở Vương quốc Hà Lan để cải cách những
thiếu sót xấu xa và tai hại trong hiến pháp của họ. Lịch sử của hầu hết mọi hội đồng và
cuộc hội đàm lớn được tổ chức bởi loài người để làm cho nhất trí các ý kiến bất hòa của
họ, làm dịu bớt tính đố kỵ nhau, và điều chỉnh các quyền lợi tương ứng của họ là lịch sử
của những bè phái, những bất đồng và những thất vọng, và có thể được phân loại vào
những bức tranh bị tan rã và đen tối nhất thể hiện tích chất yếu đuối và đồi bại trong tích
cách của con người. Nếu trong một vài trường hợp lẻ tẻ, một diện mạo sáng sủa hơn được
hình thành, chúng chỉ phụng sự như những ngọai lệ để răn bảo chúng ta về sự thật phổ
biến; và bởi vẻ lộng lẫy của chúng làm u ám thêm sự tăm tối của viễn cảnh đối nghịch
với cái mà chúng được lấy làm tương phản. Bằng việc suy đi xét lại các nguyên nhân từ
đó những ngọai lệ này hình thành, và áp dụng chúng cho các trường hợp riêng biệt có
trước chúng ta, chúng ta tất yếu được dẫn đến hai kết luận quan trọng. Thứ nhất là, trong
một mức độ rất khác thường, hội nghị chắc hẳn đã có được sự miễn nhiễm khỏi ảnh
hưởng độc hại của những hận thù đảng phái, một tệ nạn hầu như gắn liền với các hội nghị
thảo luận, và dễ làm nhiễm bẩn những biên bản hội nghị hơn cả. Kết luận thứ hai là tất cả
LXXXII
các đại biểu tham dự hội nghị đã được cung cấp ăn ở một cách thỏa đáng theo điều luật
cuối cùng, hay đã được thuyết phục để tham gia hội nghị bởi một niềm tin sâu sắc vào
tính cần thiết phải việc hy sinh những ý kiến cá nhân và quyền lợi đảng phái cho lợi ích
cộng đồng, và bởi sự thất vọng khi thấy tính thiết yếu này bị giảm nhẹ do những trì hoãn
hay các thực tiễn mới.
PUBLIUS
LXXXIII
Thư Liên bang số 38
Tiếp cùng chủ đề, và sự không mạch lạc của những phản bác đã đưa ra
chống kế hoạch mới
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Điều không kém phần đáng chú ý trong tất cả các trường hợp được ghi nhận trong giai
đoạn lịch sử cổ đại, nơi mà chính quyền đã được thiết lập thông qua tranh luận và đồng
thuận, là nhiệm vụ định hình chính quyền đã không được giao phó cho một hội đồng, mà
được thực hiện bởi một số công dân riêng rẽ với khả năng khôn ngoan hơn hẳn và tính
liêm chính được thừa nhận.
Chúng ta được biết, Minos là người sáng lập chính quyền nguyên thủy của đảo Crete,
cũng như Zaleucus là người sáng lập chính quyền vùng Locri. Đầu tiên là Theseus, và sau
ông ta là Draco và Solon, đã thành lập nên chính quyền Athens. Lycurgus là nhà lập pháp
của vùng Sparta. Nền tảng cho chính quyền nguyên thủy của Rome được đặt ra bởi
Romulus, và công việc được hoàn tất bởi hai người kế tục ông thông qua bầu cử, Numa
và Tillius Hostilius. Bằng việc bãi bỏ hoàng tộc để thay vào đó chính quyền chấp chính
bởi Brutus, người đã tiến dài về phía trước bằng một dự án cho việc cải cách mà ông ta đã
thừa nhận được Tullius Hostilius chuẩn bị, và với bài diễn văn đó, ông ta đã nhận được
sự tán thành và thông qua bởi thượng viện và nhân dân. Lời bình luận này cũng có thể áp
dụng được cho các chính quyền liên bang. Người ta đã dạy chúng ta rằng, Amphictyon là
tác giả của việc đó và nó được mang tên ông. Liên minh Achaean đã được sinh ra lần đầu
tiên bởi Achaeus, và lần thứ hai bởi Aratus. (Đoạn này nói về các vị thần trong thần thoại
Hy lạp, cũng như những nhà lập pháp và các địa danh trong lịch sử Hy-La cổ đại).
Mức độ ảnh hưởng nào mà các nhà lập pháp nổi tiếng này có thể có được từ các văn bản
LXXXIV
lập pháp tương ứng của họ, hay chúng có thể được phủ bằng quyền lực hợp pháp của
nhân dân bao lâu, trong mọi trường hợp là không thể xác định. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, văn bản đó đã được hợp thức một cách chính xác. Draco dường như đã được
dân chúng Athens trao cho các quyền không hạn chế để cải cách chính quyền và các bộ
luật của nó. Và theo Plutarch, Solon, theo một phương thức bắt buộc ông ta đảm trách
quyền lực duy nhất và tuyệt đối trong việc lập mới hiến pháp thông qua quyền bầu cử phổ
thông của đồng bào ông. Các văn bản dưới thời Lycurgus là ít chuẩn mực hơn, phải cho
đến khi những người chủ trương ủng hộ cho việc cải cách thông lệ có thể thắng thế, tất cả
họ sẽ hướng mắt vào những nỗ lực đơn độc của con người yêu nước và là nhà hiền triết
đó, thay cho việc tìm kiếm để đưa ra một cuộc cách mạng bởi sự can thiệp từ hội nghị
bàn tròn của các công dân.
Do đâu mà có thể xảy ra việc một dân tộc, đố kỵ như người dân Hy Lạp về quyền tự do
của họ, đã từ bỏ các quy tắc cẩn trọng tới mức đặt vận mệnh của họ vào một công dân
duy nhất? Do đâu mà người dân Athens, những người sẽ không phải tham gia quân đội
lại phải tuân lệnh của chưa tới chục vị tướng, và là những người không đòi hỏi bằng
chứng đe dọa quyền tự do của họ nào khác hơn phẩm chất cao cả của đồng bào, đã xem
một công nhân nổi tiếng là người phù hợp để gửi gắm tương lai của chính họ và con cháu
họ, hơn một hội đồng công dân chọn lọc từ những suy tính chung của họ, mà có thể được
trông đợi là khôn ngoan hơn, cũng như an toàn hơn? Những câu hỏi này không thể được
trả lời đầy đủ mà không giả thiết rằng những nỗi lo lắng về sự bất hòa và chia rẽ trong số
những người cố vấn đó vượt quá nỗi sợ về sự bội bạc và bất lực của một cá nhân duy
nhất. Tương tự như vậy, lịch sử đã dạy chúng ta về những khó khăn mà những nhà cải
cách nổi tiếng này đã phải vượt qua chúng, cũng như những thủ đoạn mà họ buộc phải
thực hiện để những cải cách của họ có hiệu lực. Solon, người dường như đã cổ vũ cho
một chính sách tùy cơ ứng biến, thú nhận rằng ông ta đã không trao cho những người
đồng hương ông một chính quyền phù hợp nhất với hạnh phúc của họ, mà là chính quyền
có thể chịu đựng tốt nhất những thành kiến chỉ trích của họ. Và Lycurgus, trung thành
hơn với mục đích của mình, bị chi phối bởi tính cần thiết phối hợp giữa một phần bạo lực
LXXXV
và quyền năng siêu nhiên để bảo đảm thành công cuối cùng của ông ta bởi sự hy sinh chủ
động, đầu tiên của đất nước ông ta và sau đó là cuộc sống của chính ông ta. Nếu như
những bài học này dạy chúng ta, một mặt khâm phục những tiến bộ đã được người dân
Mỹ thực hiện dựa trên mô hình cổ đại trong việc chuẩn bị và xây dựng những kế hoạch
thường xuyên cho chính quyền mà họ phụng sự không ít, mặt khác cảnh báo chúng ta về
những mối hiểm nguy và khó khăn liên quan đến các cuộc thử nghiệm này, là do sự
khinh suất lớn trong việc nhân rộng chúng một cách không cần thiết.
Điều phỏng đoán không hợp lý là những sai lầm có thể nằm trong kế hoạch của hội nghị
phần nào bắt nguồn từ khiếm khuyết của kinh nghiệm trước đó về vấn đề khó khăn và
phức tạp này, hơn là từ sự thiếu chính xác và thiếu thận trọng trong việc khảo sát kinh
nghiệm đó; và kết quả sẽ là không biết chắc cho đến khi một thử nghiệm thực tế sẽ vạch
chúng ra? Phỏng đoán này có thể được đưa ra, không chỉ bởi nhiều suy ngẫm về bản chất
chung, mà bởi trường hợp riêng của các Điều luật Liên bang. Có thể thấy rằng trong số
vô số những phản đối và sửa đổi bổ sung được gợi ý bởi một vài tiểu bang, khi những
điều luật này được đệ trình để họ thông qua, không một phản đối nào được ghi nhận có
ám chỉ đến sai lầm lớn và cơ bản mà tự nó đã bộc lộ ra trong thử nghiệm thực tế. Và nếu
chúng ta loại ra những quan sát mà New Jersey đã chỉ đạo thực hiện, do tình hình của địa
phương họ, hơn là bởi sự thấy trước khác thường của nó, điều có thể phải bàn cãi liệu
một gợi ý duy nhất là đủ quan trọng để biện minh cho việc xem xét lại hệ thống. Tuy
nhiên, có vô số lý do để cho rằng những phản đối này là không quan trọng, chúng sẽ gắn
liền với tính không thể thay đổi rất nguy hiểm, trong một số tiểu bang, sự hăng hái với
những ý kiến và quyền lợi được cho là của họ đã bị kiềm chế bởi tình cảm mạnh mẽ hơn
về việc tự trị. Chúng ta có thể nhớ lại, một tiểu bang đã cố chấp vài năm từ chối việc nhất
trí của nó, mặc dù kẻ thù vẫn còn nằm trong toàn bộ tiến trình tại cửa ngõ đất nước, hay
đúng hơn là chính trong lòng đất nước ta. Cũng không phải là tiểu bang dễ bị tác động đó
cuối cùng đã bị ảnh hưởng bởi sự kém năng động hơn là sự run sợ bị buộc tội kéo dài
những tai họa cho cộng đồng, và gây nguy hiểm cho sự kiện đang bàn luận. Tất cả những
độc giả vô tư sẽ thực hiện những suy ngẫm phù hợp với các sự kiện trọng đại này.
LXXXVI
Một bệnh nhân thấy bệnh rối loạn chức năng của anh ta xấu đi hàng ngày, và rằng một
liệu pháp hiệu quả có thể là không chậm trễ được nữa mà không để hậu quả vô cùng nguy
hiểm, sau khi suy đi xét lại một cách điềm tĩnh về tình cảnh của mình, đánh giá khả năng
của các bác sỹ khác nhau, chọn và mời những người trong đó mà anh ta xét thấy có khả
năng tiến hành cứu chữa nhất, và làm cho anh ta tin cậy nhất. Các bác sỹ rất chú tâm;
trường hợp của bệnh nhân được kiểm tra cẩn thận; hội đồng tư vấn được tổ chức; họ nhất
trí cho rằng các triệu chứng là nguy hiểm, nhưng với trường hợp đó, rất hy vọng là việc
cứu chữa thích hợp và kịp thời có thể được thực hiện để tạo ra một sự cải thiện thể trạng
cho anh ta. Họ hoàn toàn đồng ý trong việc kê đơn điều trị, ma với nó tác dụng tốt đẹp
này sẽ được tạo ra. Tuy nhiên, ngay khi đơn thuốc được đưa ra, một số người can thiệp và
không từ chối thực tế hay sự nguy hiểm của bệnh rối loạn chức năng đó, cam đoan với
bệnh nhân rằng đơn thuốc sẽ gây hại đối với thể trạng của anh ta, gây đau đớn đến chết
chắc, và ngăn anh ta sử dụng nó. Có thể bệnh nhân không đòi hỏi một cách hợp lý, rằng
các tác giả của nó ít nhất đã đồng ý với nhau rằng một số liệu pháp khác phải được thay
thế, trước khi anh ta mạo hiểm tuân theo lời khuyên này? Và nếu anh ta thấy họ khác
nhau nhiều cũng như khác với nhóm tư vấn đầu tiên của anh ta, anh ta sẽ thận trọng
không hành động bằng việc thử biện pháp điều trị được nhất trí khuyến cáo bởi nhóm đầu
tiên, hơn là lắng nghe những người có thể hoặc không từ chối tính cần thiết của liệu pháp
tức thời, hoặc cũng không đồng ý liệu pháp đang đề nghị? Bệnh nhân đó trong trường
hợp này là nước Mỹ tại thời điểm này. Nó đã nhận biết được tình trạng bệnh tật của nó.
Nó đã có được một khuyến cáo đồng lòng và đầy đủ của những người mà chính nó lựa
chọn một cách thận trọng. Và rồi nó bị cảnh báo bởi những người khác chống lại việc
tuân theo khuyến cáo này vì có nguy cơ để lại những hậu quả chết người nhất. Những
người răn bảo từ chối thực tế hiểm nghèo của nó? Không! Họ từ chối tính cấp thiết của
một số liệu pháp nhanh và mạnh? Không! Vậy thì họ đã đồng ý với bất kỳ hai điều trong
đó là những phản đối của họ đối với liệu pháp đã đề nghị, hay là một biện pháp thích hợp
phải được thay thế? Hãy để họ biện hộ cho chính họ. Nhóm người này bảo chúng ta rằng
Hiến pháp đề nghị phải bị từ chối, bởi vì nó không phải là một liên minh của các tiểu
LXXXVII
bang, mà là một chính quyền bên trên các tiểu bang. Nhóm khác thừa nhận rằng nó phải
là một chính quyền bên trên các tiểu bang với một mức độ nhất định, nhưng không phải
với mức độ đã đề nghị. Nhóm thứ ba không có chủ định một chính quyền trên các tiểu
bang, hay phạm vi đề nghị mà là cần phải có một bản tuyên ngôn nhân quyền. Nhóm thứ
tư nhất trí về tính cần thiết tuyệt đối của một bản tuyên ngôn nhân quyền, nhưng cho rằng
nó phải được giải thích, không phải là về các quyền riêng tư của mỗi cá nhân, mà là về
các quyền hạn trao cho các tiểu bang trong khả năng chính trị của chúng. Nhóm thứ 5 với
ý kiến rằng một bản tuyên ngôn nhân quyền thuộc bất kỳ loại nào sẽ là không cần thiết và
đặt không đúng chỗ, và rằng kế hoạch sẽ không thể bác được ngoài quyền hạn điều chỉnh
thời điểm và vị trí bầu cử tai hại. Một nhóm phản đối trong tiểu bang lớn tố cáo ầm ỹ về
tính bình đẳng về những người đại diện phi lý trong Thượng viện. Nhóm phản đối ở tiểu
bang nhỏ cũng kịch liệt chống lại tính bất bình đẳng nguy hiểm trong Hạ viện. Từ khu
vực này, chúng tôi được cảnh báo bởi những phí tổn đáng ngạc nhiên, từ một số người
đang quản trị chính quyền mới. Từ một khu vực khác, và đôi khi từ cùng một vùng trong
một dịp khác, phàn nàn rằng Quốc hội sẽ chỉ là hình bóng của những người đại diện, và
rằng chính phủ sẽ ít bị phản đối hơn nếu số lượng và chi phí được tăng lên gấp đôi.
Người yêu nước trong Thượng viện không liên quan nhập khẩu hay xuất khẩu, thấy rõ
những phản đối không thể khắc phục được chống lại quyền thu thuế trực thu. Đối phương
yêu nước trong tiểu bang xuất khẩu và nhập khẩu lớn không phải là ít bất mãn cho rằng
gánh nặng thuế tổng thể có thể phải đưa vào việc tiêu thụ. Nhà chính trị này khám phá xu
hướng quân chủ trực tiếp và không thể cưỡng lại trong Hiến pháp; điều cũng được bảo
đảm là nó sẽ kết thúc thời đại quý tộc. Nhà chính trị khác bị bối rối khi nói cái nào trong
những thể chế này cuối cùng sẽ được thừa nhận, nhưng quan niệm rõ ràng phải là cái này
hay cái kia trong chúng; trong khi người thứ tư người không kém tự tin xác nhận rằng
Hiến pháp quá xa do có thiên hướng dẫn tới hoặc một trong những nguy hiểm này, rằng
sức nặng về phía đó sẽ không đủ để giữ cho thể chế này đứng thẳng và vững chắc chống
lại những xu hướng ngược lại với nó. Nhóm chống đối khác Hiến pháp khác, cho rằng
các bộ phận lập pháp, hành pháp và tư pháp được phối hợp theo một phương thức như
vậy sẽ phủ nhận tất cả các lý tưởng của chính quyền hợp pháp và tất cả những phòng
LXXXVIII
ngừa cần thiết ủng hộ quyền tự do. Trong khi phản đối này truyền bá với những biểu hiện
chung chung và mập mờ, song cũng có một vài người chấp nhận ủng hộ nó. Mỗi chúng ta
hãy đứng ra giải thích cho riêng mình, và hiếm có bất kỳ hai người nào đồng ý một cách
chính xác về vấn đề này. Trong con mắt của một người sự tiếp nối giữa Thượng viện với
Tổng thống trong quyền hạn bổ nhiệm các công chức tương ứng, thay cho việc trao
quyền hành pháp này cho chỉ mình Hành pháp, là điều xấu xa trong việc tổ chức chính
quyền. Với người khác, việc lọai trừ Hạ viện, của chỉ một số đơn độc có thể là sự bảo
đảm chính đáng chống lại tham nhũng và những lệch lạc trong việc thực thi quyền hạn
này, là đáng ghét như nhau. Với những người khác nữa, quyền hành của tổng thống dành
cho bất kỳ sự chia sẻ quyền lực nào, từng hẳn là động cơ nguy hiểm trong tay của người
đứng đầu hành pháp, là một sự vi phạm không thể tha thứ trong những phương châm đố
kỵ cộng hòa. Theo một số người, không phần nào của cách sắp xếp chính quyền là không
thể chấp nhận hơn thử nghiệm về những cáo buộc bởi Thượng viện, là thành viên luân
phiên của cả hai bộ phận lập pháp và hành pháp, khi quyền hạn này thuộc về bộ phận tư
pháp một cách quá rõ. Những người khác đáp lại “Chùng tôi hoàn toàn đồng tình”, với
“phản đối phần này của kế hoạch, nhưng chúng tôi có thể không bao giờ đồng ý rằng sự
tham khảo về những cáo buộc đối với quyền hạn tư pháp sẽ là sửa đổi cho sai lầm này.
Cơ bản là chúng tôi không muốn một tổ chức sinh ra từ những quyền hạn to lớn đã đặt
vào ngành tư pháp đó”. Ngay cả trong số những người bảo trợ nhiệt thành cho hội đồng
tiểu bang, biến thể không thể dung hòa nhất được phát hiện liên quan đến thể chế trong
đó nó phải được thiết lập. Yêu cầu của một quý ông là hội đồng cần bao gồm một số nhỏ
những người được bổ nhiệm bởi hầu hết các ngành lập pháp. Những người khác sẽ thích
một số lượng lớn hơn, và xem nó như điều kiện cơ bản mà việc bổ nhiệm này cần được
thực hiện bởi chính Tổng thống.
Vì điều đó có thể không gây xúc phạm đối với những tác giả chống lại kế hoạch của Hiến
pháp liên bang, chúng ta hãy giả thuyết rằng họ là những người nhiệt huyết nhất, như vậy
họ cũng là những người khôn ngoan nhất, người nghĩ rằng các việc đó là không phù hợp
với nhiệm vụ đã giao phó cho họ trong hội nghị vừa qua, và rằng một kế hoạch tốt hơn và
LXXXIX
khôn ngoan hơn là có thể và sẽ phải được thay thế. Chúng ta hãy giả thuyết xa hơn rằng
đất nước họ nên đồng tình cả về ý kiến có lợi này đối với phẩm chất của họ, và về ý kiến
không có lợi của họ đối với hội nghị; và vì vậy nên tiến tới tổ chức chúng thành một hội
nghị thứ hai, với những quyền hạn đầy đủ, và với mục đích rõ ràng nhằm sửa lại và thiết
lập lại công việc của hội nghị đầu tiên. Cuộc thực nghiệm đã được tiến hành nghiêm túc,
mặc dù nó đòi hỏi một số nỗ lực để xem xét việc đó một cách nghiêm túc thậm chí là
trong tưởng tượng, tôi để mặc nó được quyết định bởi ví dụ về những ý kiến vừa đưa ra,
phải chăng với tất cả sự thù địch của họ đối với những người tiền nhiệm, họ sẽ đi trệch
quá xa khỏi ví dụ họ đưa ra trong bất kỳ điểm nào, vì những cuộc tranh luận của chính họ
sẽ đặc trưng bằng bất hòa và náo động; và liệu Hiến pháp bây giờ truớc khi công khai, sẽ
không có được một cơ hội trường tồn phải có, giống như Lycurgus đã đem lại cho hiến
pháp vùng Sparta bằng việc thực hiện thay đổi nó trong lần trở về từ chốn lưu đày và cõi
chết của chính ông ta, nếu như nó được thông qua ngay lập tức, và được tiếp tục mạnh
mẽ, mà không chờ cho tới khi một bản hiến pháp TỐT HƠN, nhưng cho đến khi bản hiến
pháp KHÁC được chấp nhận bởi hội đồng các nhà lập pháp mới này.
Điều vừa ngạc nhiên vừa đáng tiếc là những người đã nêu ra quá nhiều chỉ trích chống lại
Hiến pháp mới sẽ không bao giờ nhớ rằng các khiếm khuyết của hiến pháp đó phải được
thay đổi. Không cần thiết cái trước đó phải hoàn thiện; có khả năng là cái sau đó lại dở
dang hơn. Sẽ không ai từ chối đổi cỏ lấy bạc hay vàng, chỉ vì trong đó có chứa một số
hợp kim. Cũng không ai từ chối rời khỏi nơi cư ngụ bị tàn phá và đổ nát đổi lấy tòa nhà
rộng rãi và chắc chắn, chỉ vì tòa nhà đó không có cổng vòm, hay bởi vì một số phòng có
thể nhỏ hơn hay lớn hơn chút đỉnh, hoặc vì trần nhà cao hơn hay thấp hơn điều tưởng
tượng mà anh ta đã trù tính cho chúng. Song việc khước từ những chuyện loại này, không
tự nói lên đa phần các phản đối chính yếu đã đưa ra chống hệ thống mới có sức nặng
chục lần chống lại Liên bang hiện hành hay sao? Quyền thu tiền thuế không giới hạn
thuộc sự kiểm soát của chính quyền liên bang có nguy hiểm? Quốc hội hiện nay có thể
ban ra những lệnh trưng thu với bất kỳ khoản tiền nào mà họ thích, và các tiểu bang bị
yêu cầu phải cung cấp chúng một cách hợp hiến; họ có thể phát hành các loại tín dụng
XC
miễn là chúng sẽ trả thay cho tiền giấy; họ có thể mượn cả ở nước ngoài và trong nước,
miễn là tiền lãi sẽ được thanh toán thêm. Quyền lực không giới hạn trong việc tuyển quân
có nguy hiểm? Liên bang cũng trao cho Quốc hội quyền lực đó; và họ đã bắt đầu sử dụng
quyền đó rồi. Điều không thích hợp và không an toàn là khi kết hợp các quyền lực khác
nhau của chính quyền trong sự kiểm soát của cùng một nhóm người? Quốc hội, chỉ gồm
một nhóm người, là nơi duy nhất giữ mọi quyền lực của liên bang. Điều đó có là đặc biệt
nguy hiểm khi trao chùm chìa khóa ngân khố, và mệnh lệnh quân đội vào cùng một
nguồn? Liên bang trao cả hai việc đó cho Quốc hội kiểm soát. Bản tuyên ngôn nhân
quyền có cần thiết đối với quyền tự do? Liên bang không có bản tuyên ngôn nhân quyền.
Phản đối chống lại hiến pháp mới là vì nó trao quyền hợp pháp cho Thượng viện để thiết
lập các hiệp ước phù hợp các điều luật của địa phương, với sự đồng tình của Hành pháp?
Quốc hội hiện nay, không có bất kỳ sự giám sát nào như vậy, có thể xây dựng các hiệp
ước mà chính họ tuyên bố là điều luật tối cao của địa phương, và hầu hết các tiểu bang
phải công nhận. Việc nhập khẩu các nô lệ được Hiến pháp mới cho phép trong 20 năm?
Theo hiến pháp cũ việc đó được phép vĩnh viễn.
Tôi vẫn phải nói rằng, việc phối hợp quyền lực này tuy nguy hiểm, có thể chỉ là trong lý
thuyết, nó được làm cho vô hại bởi sự phụ thuộc của Quốc hội vào tiểu bang trong cách
thức thực hiện chúng; rằng tuy khối quyền lực có thể là to lớn, nhưng trong thực tế đó là
khối quyền lực khó sử dụng. Tiếp theo, điều thứ nhất, tôi muốn nói rằng Liên bang được
nuôi dưỡng vẫn bằng cách thức rất điên rồ vừa tuyên bố những quyền hạn nhất định của
chính quyền liên bang là tuyệt đối cần thiết, vừa đồng thời làm cho chúng vô hiệu tuyệt
đối; và điều thứ hai là nếu Liên bang được tiếp tục kéo dài mà không được thay thể bởi
chính quyền tốt hơn, những quyền lực hiệu quả hoặc là phải được trao cho, hoặc được
đảm đương bởi Quốc hội hiện hành; với một trong hai sự kiện đó, điều trái ngược vừa
tuyên bố sẽ giữ vững một cách tin cậy. Nhưng điều này không phải là tất cả. Vì khối
quyền lực khó sử dụng này đã trở thành quyền không cần thiết, dẫn tới nhận ra tất cả
những hiểm nguy có thể là đáng ngại do việc thiết lập chính quyền tối cao của Liên bang
một cách khiếm khuyết. Điều đó giờ đây không còn là suy đoán và hy vọng, rằng lãnh
XCI
thổ miền Tây là nguồn thịnh vượng to lớn cho Hoa Kỳ; mặc dầu nó không có vẻ tự nhiên
như phải giải thoát chúng khỏi những tai họa hiện nay của chúng, hay để trong khoảng
thời gian tới, đạt được bất kỳ nguồn cung cấp thường xuyên cho phí tổn của cộng đồng,
nhưng phải để cho việc đó là có thể thực hiện trong tương lai, dưới sự quản trị phù hợp,
vừa để thanh toán dần các khoản nợ trong nước, và vừa cung cấp những khoản đóng góp
hào phóng cho ngân khố liên bang trong một giai đoạn nhất định. Một phần rất lớn quỹ
này đã được thực hiện bởi các tiểu bang riêng rẽ; và việc đó có thể được làm với lý do
được hy vọng là các tiểu bang còn lại sẽ không tiếp tục giấu nhẹm những bằng chứng
tương tự về sự rộng rãi và vô tư của họ. Do đó, chúng ta có thể tính toán rằng một vùng
quê trù phú và màu mỡ với diện tích tương đương với phạm vi cư ngụ của người Mỹ, sẽ
sớm trở thành kho dự trữ quốc gia. Quốc hội đã đảm đương việc quản lý kho dự trữ này.
Họ đã bắt đầu làm cho nó sinh sôi. Quốc hội đã cam kết làm nhiều hơn: họ đã xúc tiến
hình thành các tiểu bang mới, dựng nên các chính quyền tạm thời, bổ nhiệm các quan
chức cho chúng, và quy định những điều kiện trong đó các tiểu bang này sẽ phải nhập
vào Liên bang. Tất cả những việc này đã được làm; và được thực hiện với không chút sắc
thái nào của quyền lực hợp hiến. Chưa có sai lầm nào được bàn tán, chưa có cảnh báo
nào được đưa ra. Ngân khố LỚN và ĐỘC LẬP của quốc gia được chuyển vào tay của
một NHÓM NGƯỜI DUY NHẤT, những người có thể TUYỂN QUÂN với một SỐ
LƯỢNG KHÔNG GIỚI HẠN, và tiền tương ứng để cung cấp cho họ trong một THỜI
GIAN KHÔNG GIỚI HẠN. Hãy còn có những người, không chỉ là những khán giả im
lặng của viễn cảnh này, mà là những người chủ trương cho hệ thống thể hiện nó; và đồng
thời thúc giục chống lại hệ thống mới bằng những phản đối mà chúng ta đã nghe thấy.
Liệu họ sẽ không hành động kiên định hơn nhằm thúc đẩy việc thiết lập hệ thống mới,
điều đó là không ít cần thiết để bảo vệ Liên bang chống lại các quyền hạn và tiềm lực
tương lai của một tổ chức được thiết lập giống như Quốc hội hiện nay, hơn là bảo vệ nó
khỏi những nguy hiểm bị đe dọa bởi sự bất lực hiện nay của Quốc hội đó?
Với những gì đã nói ở đây, tôi không đưa ra sự phê bình các biện pháp mà Quốc hội đã
theo đuổi. Tôi hiểu được họ không thể làm khác. Quyền lợi cộng đồng, tính cần thiết của
XCII
hoàn cảnh, đã lạm dụng chúng cho nhiệm vụ vượt quá những giới hạn được hiến định của
họ. Nhưng bằng chứng cảnh báo nguy hiểm bắt nguồn từ chính quyền không có những
quyền lực hợp pháp tương xứng với những mục đích này là không thực tế? Sự tan rã và
tiếm quyền là hai nan đề khủng khiếp liên tục được phơi bày với chính quyền.
PUBLIUS
XCIII
Thư Liên bang số 39
Sự tuân thủ của Dự thảo đối với các nguyên tắc của nền cộng hòa
Gửi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Bài viết trước đã đưa ra những quan sát với ý định đưa ra một cuộc điều tra vô tư về dự
thảo chính phủ đã thông báo trong hội nghị lập hiến, giờ đây chúng ta tiến tới việc thực
hiện phần cam kết đó của chúng tôi. Vấn đề đầu tiên đưa ra là, liệu thể chế và diện mạo
chung của chính quyền là hoàn toàn cộng hòa. Rõ ràng rằng không một dạng nào khác sẽ
có thể dung hòa được các đặc tính của người dân Mỹ; với các nguyên tắc cơ bản của
Cuộc cách mạng; hay với việc quyết định ngay thẳng cổ vũ cho tất cả những ai tôn thờ tự
do, để dựa mọi thử nghiệm chính trị của chúng ta vào khả năng xây dựng chế độ tự quản
của loài người. Do đó, nếu như kế hoạch của hội nghị bị chệch khỏi đặc tính cộng hòa,
những người chủ trương cho nó phải từ bỏ kế hoạch đó vì không còn có thể bào chữa
được.
Vậy thì cái gì là những đặc điểm của thể chế cộng hòa? Câu trả lời cho câu hỏi này phải
rõ ràng, không trở lại với các nguyên tắc, mà bằng việc sử dụng thuật ngữ của các nhà
chính trị trong hiến pháp của các tiểu bang khác nhau, điều thỏa đáng sẽ không bao giờ
được tìm thấy. Hà lan, nơi không có dấu vết nào của quyền lực tối cao được bắt nguồn từ
dân, hầu như đã được chấp nhận hoàn toàn thuộc về thể chế cộng hòa. Danh nghĩa tương
tự đã được trao cho Venice, nơi quyền lực tuyệt đối bên trên một tổ chức dân chúng lớn
được sử dụng bởi một nhóm nhỏ gồm những quý tộc cha truyền con nối, theo phương
thức chính xác nhất. Balan, một hỗn hợp của tầng lớp quý tộc và chế độ quân chủ ở dạng
tồi tệ nhất của chúng, đã được đề cao bằng tên gọi tương tự. Chính quyền Anh quốc, chỉ
có một nhánh cộng hòa, kết hợp với một tầng lớp quý tộc cha truyền con nối và quân chủ,
đã thường xuyên được xếp vào danh sách những nền cộng hòa với sự sai sót tương tự.
XCIV
Những ví dụ này, gần như không giống nhau cũng như khác với một nền cộng hòa chính
cống, chỉ ra sự thiếu chính xác cực kỳ về thuật ngữ đã được sử dụng trong các văn kiện
chính trị.
Nếu chúng ta viện dẫn một tiêu chí cho các nguyên tắc khác nhau trong đó các thể chế
chính quyền khác nhau được dựng lên, chúng ta có thể địng nghĩa nền cộng hòa, hay ít
nhất có thể dành cho cái tên đó là một chính quyền nhận được tất cả các quyền lực của nó
trực tiếp hay gián tiếp từ đa số nhân dân, và được quản trị bởi những người đang nắm giữ
chức vụ của họ trong một giai đoạn hữu hạn với niềm vui thích, hay với thái độ tin cậy.
Điều QUAN TRỌNG với chính phủ này là nó phải được bắt nguồn từ bộ phận xã hội
rông lớn, không phải từ một tỷ lệ không đáng kể, hay một giai cấp được hưởng đặc ân
của nó; cũng không phải một nhúm những quý tộc chuyên chế, sử dụng việc đàn áp của
họ theo sự ủy quyền của họ, có thể khao khát được xếp vào các thể chế cộng hòa, và đòi
hỏi chính phủ của họ được mang tên cộng hòa danh giá. Điều kiện ĐỦ đối với một chính
phủ như vậy là những người quản trị nó được bổ nhiệm, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp bởi
nhân dân; và rằng họ nắm giữ những công việc mà họ được đặt vào theo từng nhiệm kỳ
được định rõ một cách chính xác; nếu không mọi chính phủ ở Hoa Kỳ, cũng như tất cả
các chính quyền phổ biến khác đã hoặc có thể được tổ chức tốt hoặc thực thi tốt, sẽ bị mất
danh giá do đặc điểm cộng hòa. Theo hiến pháp tất cả các tiểu bang trong Liên bang, một
số quan chức này hay khác của chính phủ chỉ được bổ nhiệm gián tiếp bởi nhân dân.
Theo phần lớn các hiến pháp, chính người đứng đầu chính phủ được bổ nhiệm như vậy.
Và theo một hiến pháp, mô hình bổ nhiệm này được mở rộng cho một trong các nhánh
phối hợp của lập pháp. Cũng theo tất cả các hiến pháp, nhiệm kỳ của các quan chức cao
nhất được mở rộng đến một giai đoạn nhất định, tới vài năm, và trong nhiều trường hợp,
cả bên trong bộ phận hành pháp và lập pháp. Lại theo các điều khoản của hầu hết các bản
hiến pháp, cũng như theo các ý kiến được chấp nhận và đứng đắn nhất về chủ đề này, các
thành viên của ban tư pháp phải duy trì công việc của họ với cư xử tin cậy trong nhiệm
kỳ không thay đổi.
XCV
Bằng việc so sánh bản Hiến pháp dự thảo bởi hội nghị với tiêu chuẩn cố định ở đây,
chúng tôi ngay lập tức nhận thấy rằng bản hiến pháp đó là phù hợp với nó trong ý nghĩa
khắt khe nhất. Hạ viện, giống như ít nhất một nhánh của tất cả các cơ quan lập pháp các
tiểu bang, được bầu trực tiếp bởi đa số nhân dân. Thượng viện, giống như Quốc hội hiện
nay, và thượng viện bang Maryland, nhận được sự bổ nhiệm gián tiếp từ nhân dân. Tổng
thống được bầu gián tiếp bởi sự lựa chọn của người dân, theo như trong phần lớn các tiểu
bang. Thậm chí tư pháp, với tất cả các quan chức khác của Liên bang sẽ được chọn thông
qua việc lựa chọn từ xa của chính nhân dân, như trong một vài tiểu bang, khoảng thời
gian được bổ nhiệm cũng phù hợp với tiêu chuẩn cộng hòa, và với mô hình các hiến pháp
tiểu bang. Hạ nghị viện được bầu cử theo chu kỳ, như trong tất cả các tiểu bang; và cho
giai đoạn 2 năm một như tiểu bang South Carolina. Thượng viện được bầu chọn cho giai
đoạn 6 năm một; là nhiều hơn 1 năm so với Thượng viện của bang New York và
Virginia. Tổng thống được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 4 năm; như quan tổng trấn được bầu
cho 3 năm ở New York và Delaware, và 2 năm ở South Carolina. Ở các tiểu bang khác
bầu cử diễn ra hàng năm. Tuy nhiên ở một vài tiểu bang, không có điều khoản hợp hiến
nào được thiết lập đối với việc buộc tội người đứng đầu nhà nước. Và ở Delaware và
Virginia ông ta không thể bị buộc tội cho đến khi rời khỏi chức vụ. Tổng thống của Hoa
Kỳ không thể bị buộc tội vào bất kỳ lúc nào trong suốt thời gian cầm quyền của ông ta.
Các việc xét xử được ngưng trong nhiệm kỳ để cho các vị trí họ nắm giữ được vận hành
tốt, vì điều đó là không thể tranh cãi. Nhiệm kỳ của các quan chức dạng bộ trưởng nhìn
chung, sẽ được luật pháp điều chỉnh, phù hợp với hoàn cảnh và tiền lệ của các hiến pháp
tiểu bang.
Có thể đòi hỏi thêm bằng chứng khác nữa cho hình thái cộng hòa của hệ thống này, điều
trước tiên mà chúng ta có thể được nhận thấy là lệnh cấm tuyệt đối việc sử dụng các tước
hiệu cao quý của nó, cả theo điều luật của các chính phủ tiểu bang và liên bang; và việc
bảo đảm rõ ràng thể chế cộng hòa của nó cho mỗi tiểu bang.
XCVI
Những người chống lại bản hiến pháp đề nghị nói, “Nhưng điều đó không đủ để cho hội
nghị tôn trọng triệt để thể chế cộng hòa. Với sự thận trọng tương tự, họ phải duy trì được
thể chế LIÊN BANG, xem liên bang như một LIÊN MINH gồm các tiểu bang có chủ
quyền; thay cho cái mà họ đã định hình nên một chính quyền QUỐC GIA xem liên bang
như là HỢP NHẤT của các tiểu bang.” Và điều được đặt ra với quyền lực nào mà việc
đổi mới cơ bản và dũng cảm này đã được cam kết? Việc xử lý vấn đề liên quan đến phản
đối này đòi hỏi điều đó phải được tra xét với độ chính xác nào đó.
Nếu không thẩm tra độ chính xác của những khác biệt về điều mà sự phản đối dựa vào, sẽ
cần phải đánh giá chính xác về áp lực của nó, thứ nhất để bảo đảm tích hiện thực của
chính phủ đang được bàn bạc; thứ hai để xem xét hội nghị lập hiến đã được cho phép đến
mức độ nào để đặt ra chính phủ này; và thứ ba là nhiệm vụ mà họ có bổn phận với đất
nước đến chừng mực.có thể đưa ra mọi khiếm khuyết của quyền lực thông thường.
Đầu tiên, để bảo đảm tính hiện thực của chính quyền, nó có thể được xem xét trong quan
hệ với cơ sở mà nó đã được thiết lập; với những nguồn mà từ đó các quyền lực thông
thường của nó được đưa ra; với sự điều hành những quyền lực đó; với phạm vi của
chúng; và với quyền lực mà theo đó những thay đổi trong tương lai của chính phủ phải
được đưa vào.
Khi xem xét mối quan hệ đầu tiên, một mặt dường như rằng Hiến pháp đã được thiết lập
dựa trên sự đồng thuận và phê chuẩn của nhân dân Mỹ, đưa ra bởi những người đại diện
của dân đã bầu chọn cho mục đích đặc biệt này; nhưng mặt khác là sự đồng thuận và phê
chuẩn này phải được nhân dân đưa ra, không giống như những cá nhân tạo nên một quốc
gia toàn vẹn, mà được tạo nên bởi những tiểu bang độc lập riêng rẽ với liên bang mà
chúng lần lượt thuộc về. Đó có thể là sự đồng ý và phê chuẩn của một vài tiểu bang, bắt
nguồn từ quyền lực tối cao trong mỗi tiểu bang, quyền lực của chính nhân dân. Do đó,
đạo luật thiết lập Hiến pháp sẽ không phải là đạo luật QUỐC GIA mà là luật LIÊN
BANG.
XCVII
Rằng đó sẽ là một đạo luật liên bang không phải luật quốc gia, như các thuật ngữ này đã
được hiểu bởi những người phản đối; vì được hình thành từ rất nhiều tiểu bang độc lập
mà không phải từ một quốc gia hợp nhất, đạo luật đó của nhân dân trở nên rõ ràng bằng
việc xem xét đơn giản, rằng nó được hình thành do quyết định của ĐA SỐ người dân liên
bang, không phải từ người dân của ĐA SỐ tiểu bang. Nó phải xuất phát từ việc ĐỒNG
THUẬN của một vài tiểu bang tham gia vào đó, cũng không khác với sự đồng ý thông
thường của họ hơn dạng đã được thể hiện, không phải vì quyền lập pháp, mà bởi quyền
lực của chính nhân dân. Nhân dân đã quan tâm đến văn kiện này như là việc thành lập
quốc gia, nguyện vọng của đa số toàn thể nhân dân của hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ ràng
buộc thiểu số, theo phương thức tương tự giống như đa số trong mỗi tiểu bang phải ràng
buộc thiểu số; và nguyện vọng của đa số hẳn phải được xác định hoặc bởi việc so sánh
các lá phiếu riêng, hoặc bởi việc xem xét ý nguyện của đa số các tiểu bang như là bằng
chứng của nguyện vọng của đa số người dân Hoa Kỳ. Không điều luật nào trong những
luật này được chấp nhận. Bằng việc phê chuẩn Hiến pháp, mỗi tiểu bang được xem như
những đơn vị có chủ quyền, độc lập với tất cả các tiểu bang khác, và chỉ bị ràng buộc bởi
chính đạo luật tự nguyện của nó. Trong mối quan hệ này thì Hiến pháp mới nếu thiết lập
được, sẽ là hiến pháp LIÊN BANG, không phải là hiến pháp QUỐC GIA .
Liên quan tiếp theo là quan hệ với các nguồn mà từ đó những quyền lực thông thường
của chính phủ phải được sinh ra. Hạ viện sẽ nhận được các quyền lực của nó từ nhân dân
Mỹ; và người dân sẽ được đại diện theo cùng tỷ lệ, cùng nguyên tắc như họ đại diện trong
cơ quan lập pháp của một tiểu bang riêng. Ở mức độ này thì chính phủ là QUỐC GIA,
không phải là LIÊN BANG. Mặt khác, Thượng viện sẽ nhận được quyền lực của nó từ
các tiểu bang, giống như các đoàn thể chính trị ngang hàng: và những quyền lực này sẽ
được đại diện trên nguyên tắc tôn trọng tính bình đẳng trong Thượng viện, như hiện
chúng đang có trong quốc hội. Với mức độ như vậy, chính phủ sẽ là LIÊN BANG, không
phải QUỐC GIA. Quyền lực của hành pháp sẽ được sinh ra từ một nơi rất phức hợp. Bầu
cử trực tiếp Tổng thống phải được thực hiện bởi các tiểu bang với những đặc trưng chính
XCVIII
trị của chúng. Những lá phiếu giao cho chúng với một tỷ lệ phức hợp, một phần coi
chúng như những đoàn thể khác biệt ngang hàng, một phần như những thành viên không
ngang hàng trong cùng một đoàn thể. Hơn nữa, bầu cử cuối cùng phải được thực hiện bởi
nhánh đó của lập pháp bao gồm những người đại diện của quốc gia; nhưng theo đạo luật
đặc biệt này họ phải được tính vào dạng những sự ủy quyền riêng, từ rất nhiều đoàn thể
khác biệt và ngang hàng về chính trị. Trên khía cạnh này của chính phủ, dường như nó
thuộc về một đặc tính hỗn hợp ít nhất là thể hiện các đặc tính LIÊN BANG cũng nhiều
như tính chất QUỐC GIA.
Liên quan đến việc ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ, sự khác biệt giữa chính phủ liên
bang và quốc gia được giả thiết ở đây, là trong chính phủ liên bang các quyền lực thực thi
dựa trên các đoàn thể chính trị hình thành nên liên bang, với khả năng chính trị của họ;
trong chính phủ quốc gia thì dựa trên các công dân riêng biệt cấu thành quốc gia, với
năng lực cá nhân của họ. Bằng việc xem xét Hiến pháp theo tiêu chí này, nó rơi vào đặc
tính QUỐC GIA, mà không phải LIÊN BANG, mặc dầu có lẽ không thật hoàn chỉnh như
đã được hiểu. Trong một vài trường hợp, và nhất là trong việc xem xét những cuộc tranh
luận có thể là với các đảng phái của các tiểu bang nào đó, họ phải được xem xét và khởi
kiện theo khả năng tập hợp và năng lực chính trị của chính họ. Trên khía cạnh này, diện
mạo quốc gia của chính phủ có vẻ như đã bị làm cho méo mó bởi một vài đặc tính liên
bang. Song nhược điểm này có lẽ là không thể tránh khỏi trong bất kỳ dự thảo nào; và sự
điều hành của chính phủ dựa vào nhân dân, với năng lực cá nhân của họ, theo các văn
bản thông thường và quan trọng nhất của nó, có thể định rõ một cách tổng quát dựa trên
mối quan hệ này, đó là chính phủ QUỐC GIA.
Nhưng nếu chính phủ là quốc gia liên quan đến việc ĐIỀU HÀNH các quyền lực của nó,
nó thay đổi diện mạo của mình một lần nữa khi chúng ta suy ngẫm về nó trong mối quan
hệ với PHẠM VI quyền lực của nó. Ý tưởng của một chính quyền quốc gia bao hàm
trong đó không chỉ một quyền lực bên trên các công dân riêng lẻ, mà còn là một uy quyền
tối cao không hạn định bên trên tất cả mọi người và sự vật, đến mức chúng chỉ là các đối
XCIX
tượng của một chính phủ hợp pháp. Trong một dân tộc đã hợp nhất thành quốc gia, quyền
lực tối cao này được giao phó hoàn toàn cho cơ quan lập pháp của quốc gia. Trong những
cộng đồng hợp nhất vì các mục đích riêng, nó được giao phó một phần cho cơ quan lập
pháp trung ương và một phần cho các cơ quan lập pháp các thành phố. Ở trường hợp đầu,
tất cả các quan chức địa phương phụ thuộc quan chức cao nhất; và có thể bị kiểm soát,
định hướng, hoặc bãi chức một cách tùy ý. Ở trường hợp sau, các quan chức địa phương
hay thành phố hình thành quyền lực tối cao với những tỷ lệ độc lập và khác biệt, với
phạm vi tương ứng của họ không còn tùy thuộc vào quyền lực trung ương, mà quyền lực
trung ương, trong phạm vi ảnh hưởng của nó tùy thuộc vào họ. Trong mối liên quan này
thì chính phủ đề nghị không thể được coi là chính quyền QUỐC GIA; bởi vì phạm vi
quyền hạn của nó chỉ mở rộng tới các đối tượng được liệt kê nhất định, và phó mặc cho
một vài tiểu bang chủ quyền còn lại bất khả xâm phạm bên trên mọi đối tượng khác. Sự
thật là trong những cuộc tranh luận liên quan đến biên giới giữa hai phạm vi quyền lực,
cuối cùng tòa án, được thiết lập bên dưới chính quyền trung ương, phải quyết định.
Nhưng điều này không làm thay đổi các nguyên tắc của vụ việc. Quyết định phải được
thiết lập một cách công bằng, tuân theo các nguyên tắc của Hiến pháp; tất cả những biện
pháp đề phòng thông thường và có giá trị pháp lý nhất phải được đưa ra để bảo đảm tính
công bằng này. Một số tòa án loại này rõ là cần thiết để ngăn cản bị lôi kéo vào việc phân
định bằng chiến tranh và sự tan rã của các hiệp ước; và rằng nó phải được thiết lập bên
dưới chính quyền trung ương hơn là dưới các chính quyền địa phương, hay nói một cách
phù hợp hơn là nó có thể được thiết lập một cách an toàn, duy nhất dưới chính quyền
trung ương, là vị trí không bao giờ bị chống phá.
Nếu chúng ta xem xét Hiến pháp theo mối liên quan cuối cùng của nó với quyền mà theo
đó những sửa đổi phải được thiết lập, chúng ta thấy nó không phải là QUỐC GIA hoàn
toàn mà cũng không phải LIÊN BANG hoàn toàn. Là chính phủ quốc gia hoàn toàn thì
quyền lực tối cao sau cùng sẽ ở trong tay ĐA SỐ nhân dân của Liên bang; và quyền lực
này sẽ phải luôn luôn có hiệu lực để thay đổi và bãi bỏ chính phủ được nó thiết lập, giống
như quyền lực của đa số trong mọi thể chế quốc gia. Mặc khác, là chính phủ liên bang, sự
C
đồng tình của mỗi tiểu bang trong Liên bang sẽ cần thiết cho tất cả những thay đổi sẽ bắt
buộc mọi tiểu bang tuân theo. Phương thức được dự thảo của hội nghị đưa ra không dựa
vào cái nào trong hai nguyên tắc này. Bằng việc đòi hỏi nhiều hơn một đa số và các
nguyên tắc. Với việc đòi hỏi hơn một đa số, và đặc biệt là bằng việc tính toán tỷ lệ của
các TIỂU BANG, mà không phải là những CÔNG DÂN, chính phủ đi chệch khỏi đặc
tính QUỐC GIA và tiến dần tới đặc tính LIÊN BANG; bằng việc làm cho sự đồng thuận
của ít hơn toàn bộ các tiểu bang có thẩm quyền, nó lại mất đặc tính LIÊN BANG và chia
sẻ đặc tính QUỐC GIA.
Do đó, Hiến pháp đề nghị chính xác không phải là liên bang và cũng không phải là quốc
gia, mà là một phức hợp của cả hai. Về nền tảng nó là liên bang, không phải quốc gia: về
nguồn gốc mà các quyền lực thông thường của chính phủ được sinh ra, nó có một phần là
liên bang, một phần là quốc gia; về sự thực thi các quyền lực này, nó là quốc gia, không
phải liên bang; về phạm vi của quyền lực, một lần nữa nó là liên bang, không phải quốc
gia; và cuối cùng về phương thức thể hiện thẩm quyền đưa ra những sửa đổi bổ sung, nó
không hoàn toàn là liên bang cũng không hoàn toàn là quốc gia.
PUBLIUS
CI
Thư Liên bang số 40
Các quyền của Hội nghị thành lập một chính phủ hỗn hợp phải được
giám sát và duy trì
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Điểm THỨ HAI cần phải giám sát là liệu hội nghị đã được cho phép để định hình và đề
nghị bản Hiến pháp hỗn hợp này.
Các quyền của hội nghị, phải được xác định một cách nghiêm ngặt bởi sự giám sát kỹ
càng của các ủy ban trao cho các thành viên đại diện cho những nhóm cử tri tương xứng
với họ. Tuy nhiên, vì tất cả những điều này được tham khảo hoặc do khuyến cáo của hội
nghị tại Annapolis vào tháng 9 năm 1786, hay khuyến cáo của Quốc hội vào tháng 2 năm
1787, sẽ là đầy đủ để nhắc lại các đạo luật đặc biệt này.
Điều luật Annapolis khuyến cáo “việc bổ nhiệm những người đại diện phải xem xét đến
hiện trạng của Hoa Kỳ; để đặt ra NHỮNG ĐIỀU KHOẢN THẬT THẤU ĐÁO vì dường
như sẽ cần cho họ nhằm tạo ra Hiến pháp của chính quyền liên bang PHÙ HỢP VỚI
TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP CỦA LIÊN BANG; và để báo cáo một đạo luật như thế cho
mục đích đó lên Quốc hội được triệu tập của nước Mỹ, khi họ đồng ý, và được các cơ
quan lập pháp của tất cả các tiểu bang xác nhận sau đó, sẽ thiết lập một cách hiệu quả
tương tự.”
Đạo luật được Quốc hội giới thiệu nằm trong tuyên bố sau: “TRONG KHI, có điều khoản
trong Bộ luật Liên minh và Liên bang suốt đời, dùng để đưa ra những thay đổi trong đó,
bởi sự đồng thuận của một Quốc hội Hoa Kỳ, và của các cơ quan lập pháp một vài tiểu
bang; và trong khi kinh nghiệm đã cho thấy rằng có những khiếm khuyết trong Liên bang
hiện tại; như một biện pháp sửa chữa mà một vài tiểu bang; và ĐẶC BIỆT LÀ BANG
CII
NEW YORK, bằng cách đưa ra những chỉ dẫn cho những người đại diện họ trong Quốc
hội, đã gợi ý một hội nghị với những mục đích được bày tỏ trong quyết nghị dưới đây; và
hội nghị này dường như là phương thức khả thi nhất để thiết lập một CHÍNH QUYỀN
QUỐC GIA VỮNG MẠNH trong các tiểu bang này:
Quyết định, Điều đó là phù hợp với ý kiện của Quốc hội, rằng vào ngày thứ hai tuần thứ
2 của tháng 5 tới một hội nghị gồm những người đại diện, người hẳn sẽ phải được một số
tiểu bang bổ nhiệm, sẽ được tổ chức tại Philadelphia, với mục đích đặc biệt và duy nhất
là SỬA LẠI BỘ ĐIỀU LUẬT LIÊN BANG, báo cáo với Quốc hội và một vài cơ quan
lập pháp NHỮNG ĐIỀU KHOẢN VÀ NHỮNG SỬA ĐỔI TRONG ĐÓ, như khi sẽ
được Quốc hội phê chuẩn, và được xác nhận bởi các tiểu bang, làm cho bản Hiến pháp
liên bang PHÙ HỢP VỚI TÍNH CẤP BÁCH CỦA CHÍNH PHỦ VÀ DUY TRÌ LIÊN
BANG..”
Điều sinh ra từ 2 đạo luật này là, thứ nhất, đối tượng của hội nghị là để thiết lập MỘT
CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VỮNG MẠNH trong các tiểu bang này; thứ hai, chính phủ
này là chẳng hạn sẽ phải PHÙ HỢP VỚI TÍNH CẤP BÁCH CỦA CHÍNH PHỦ và DUY
TRÌ LIÊN BANG; thứ ba, các mục tiêu này sẽ phải có hiệu lực bởi NHỮNG THAY ĐỔI
VÀ NHỮNG ĐIỀU KHOẢN TRONG BỘ ĐIỀU LUẬT LIÊN BANG, như nó được thể
hiện trong đạo luật của Quốc hội, hay bởi CÁC ĐIỀU KHOẢN THẬT THẤU ĐÁO SẼ
SINH RA NHƯ CẦN CÓ, khi nó đại diện cho đạo luật khuyến cáo từ hội nghị
Annapolis; thứ tư, những sửa đổi và điều khoản phải được báo cáo với Quốc hội, và các
tiểu bang, để được phê chuẩn bởi quốc hội và xác nhận bởi các tiểu bang.
Quyền lực chi phối hành động của hội nghị đã được luận ra từ việc so sánh và thiết lập
một cách hợp lý một vài phương thức thể hiện luật này. Họ phải định hình nên một
CHÍNH PHỦ QUỐC GIA, phù hợp với TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP CỦA CHÍNH PHỦ,
và CỦA LIÊN BANG; và để rút gọn bộ luật liên bang thành dạng như là để hoàn thành
các mục đích này.
CIII
Có hai nguyên tắc xây dựng, được tuyên bố bởi lý do rõ ràng, cũng như căn cứ vào các
tiên đề dựa trên luật pháp. Thứ nhất là, tất cả các phần thể hiện nếu có thể phải được cho
phép mang một số nghĩa, và phải được thực hiện để gộp với một số mục đích chung. Thứ
hai là, nơi mà một vài phần không thể thực hiện được đồng thời, phần ít quan trọng phải
nhượng bộ phần quan trọng nhiều hơn; các phương tiện phải được hy sinh cho mục đích
này, hơn là mục đích hy sinh cho phương tiện.
Tiếp theo, giả sử rằng những định nghĩa xác định rõ quyền lực của hội nghị là mâu thuẫn
với nhau đến mức không thể hòa hợp; rằng một CHÍNH PHỦ QUỐC GIA và PHÙ HỢP
có thể không hiện thực, vì bị chi phối bởi NHỮNG THAY ĐỔI và NHỮNG ĐIỀU
KHOẢN trong BỘ LUẬT LIÊN BANG theo đánh giá của hội nghị; phần nào của định
nghĩa phải được gồm vào, và phần nào phải loại bỏ? Phần nào là quan trọng, phần nào ít
quan trọng hơn? Cái nào là mục đích; cái nào là phương tiện? Hãy để cho những người
thận trọng nhất giải thích các quyền lực được giao phó; để cho những người phản đối
thâm căn cố đế nhất chống lại những điều được hội nghị thực hiện đó, trả lời các câu hỏi
này. Để cho họ tuyên bố, liệu điều đó có là quan trọng nhất đối với hạnh phúc của người
dân Mỹ, rằng bộ điều luật liên bang phải bị xem nhẹ, và một chính phủ phù hợp phải
được thiếp lập, liên bang được bảo đảm; hay là nên loại bỏ chính phủ thích hợp, mà duy
trì bộ điều luật liên bang. Để họ tuyên bố xem phải chăng việc duy trì các điều luật này là
mục đích để bảo đảm việc cải cách chính phủ được đưa vào như phương tiện; hay việc
thiết lập chính phủ phù hợp với hạnh phúc quốc gia, là mục đích mà qua đó chính những
điều luật này nhắm đến trước tiên, và họ buộc phải hy sinh cho nó vì thiếu phương tiện.
Nhưng có cần giả thiết rằng những định nghĩa này không thể hòa hợp hoàn toàn với nhau;
rằng không có CÁC THAY ĐỔI hay CÁC ĐIỀU KHOẢN nào trong BỘ ĐIỀU LUẬT
LIÊN BANG có thể hiện thực đúc chúng thành một chính phủ quốc gia phù hợp; thành
chính phủ như đã được hội nghị đề xuất?
CIV
Không cần lo lắng, trong trường hợp này, nó được cho là sẽ được đặt trên TIÊU ĐỀ; sự
thay đổi điều đó không bao giờ có thể được xem như việc thực hiện quyền lực không
được giao phó. NHỮNG SỬA ĐỔI trong phần chính yếu của văn kiện là hoàn toàn được
phép. CÁC ĐIỀU KHOẢN MỚI trong đó cũng hoàn toàn được phép. Vậy thì đây là
quyền thay đổi tiêu đề; để đưa vào những điều luật mới; để thay đổi điều luật cũ. Có bắt
buộc phải chấp nhận rằng quyền lực này bị xâm phạm; miễn sao một phần của các điều
luật cũ vẫn còn? Những người vẫn giữ lời khẳng định đó ít nhất phải đánh dấu ranh giới
giữa những cách tân được cho phép và bị ép buộc; giữa mức độ thay đổi nằm trong phạm
vi những SỬA ĐỔI VÀ CÁC ĐIỀU KHOẢN THẤU ĐÁO, và sự thay đổi đó chẳng khác
gì VIỆC CHUYỂN ĐỔI của chính phủ. Sẽ có người nói rằng những thay đổi phải không
được đụng chạm đến sự vững chắc của Liên bang? Các tiểu bang hẳn sẽ không bao giờ
chỉ định một hội nghị quá trọng thể, cũng không diễn tả các mục tiêu của nó với nhiều
quyền lực rộng rãi như vậy, nếu một số cải cách TRỌNG YẾU đã không được suy tính.
Sẽ có người nói rằng CÁC NGUYÊN TẮC CĂN BẢN của Liên bang không nằm trong
những điều khoản có tính nội dung của hội nghị, và sẽ không được thay đổi? Chúng tôi
hỏi lại, các nguyên tắc này là gì? Họ đòi hỏi rằng trong việc thiết lập Hiến pháp, các tiểu
bang phải được xem như những vùng chủ quyền độc lập khác biệt? Chúng phải được xem
xét như thế với Hiến pháp đề nghị. Họ yêu cầu các thành viên của chính phủ phải nhận
được sự bổ nhiệm từ cơ quan hành pháp, mà không phải là dân chúng các tiểu bang? Một
nhánh của chính phủ mới phải được bổ nhiệm bởi những cơ quan hành pháp này; và tuân
theo bộ luật liên bang, CÓ THỂ TẤT CẢ những người đại diện trong Quốc hội được bổ
nhiệm trực tiếp bởi nhân dân, và họ thực sự được bổ nhiệm theo cách đó trong 2 tiểu
bang [Connecticut and Rhode Island]. Họ lại đòi hỏi rằng quyền lực của chính phủ phải
tác động đến các tiểu bang, mà không tác động trực tiếp đến các cá nhân? Như đã được
chỉ ra trong một số trường hợp, quyền lực của chính phủ mới sẽ ảnh hưởng đến các tiểu
bang theo những đặc trưng chung của chúng. Cũng vậy, trong một số trường hợp, những
quyền lực đó của chính phủ hiện hành ngay lập tức ảnh hưởng đến các cá nhân. Trong
các trường hợp bắt giữ; vì cướp biển; vì bưu điện; vì tiền bạc, trách nhiệm, và cách hành
xử; vì buôn bán với người da đỏ; vì những tuyên bố cấp đất của các tiểu bang khác nhau;
CV
và trên hết, trong trường hợp những tố tụng bởi cảnh sát trưởng tòa án binh trong quân
đội và hải quân, có thể bị buộc tội chết mà không có sự can thiệp của bồi thẩm đoàn, hay
thậm chí của một quan toàn dân sự; trong tất cả những trường hợp này quyền lực của liên
bang thực thi ngay lập tức dựa vào những cá nhân và các quyền lợi của những công dân
riêng lẻ. Rõ ràng, những nguyên tắc căn bản này có đòi hỏi rằng không khoản thuế nào sẽ
được thu mà không thông qua các cơ quan trung gian của các tiểu bang? Chính Liên bang
ban hành khoản thuế trực tiếp với mức độ nhất định đánh lên bưu điện. Quyền đúc tiền đã
được Quốc hội giải thích là để thu một khoản thuế trực tiếp cũng từ nguồn đó. Song bỏ
qua các trường hợp này, điều đó không phải là mục đích được thừa nhận của hội nghị và
trông đợi chung của dân chúng, rằng những quy tắc thương mại phải được đệ trình cho
chính phủ trung ương ở dạng như thể sẽ làm cho nó thành một nguồn thu nhập trực tiếp
của trung ương? Quốc hội đã không khuyến cáo lại biện pháp này vì không mâu thuẫn
với các nguyên tắc căn bản của Liên bang? Không phải tất cả các tiểu bang mà là một
tiểu bang; không phải chính New York đã tuân thủ kế hoạch của Quốc hội đến mức nhận
ra NGUYÊN TẮC của việc cải cách? Các nguyên tắc này, nói ngắn gọn luôn đòi hỏi rằng
quyền lực của chính phủ trung ương phải bị dưới hạn, và rằng vượt qua giới hạn này, các
tiểu bang phải được để mặc cho hành động trong chủ quyền và độc lập của chúng? Chúng
tôi thấy rằng trong chính phủ mới, cũng như chính phủ cũ, các quyền lực của chính quyền
trung ương bị hạn chế; và rằng các tiểu bang được để mặc cho có được quyền thực thi
pháp luật độc lập và có chủ quyền, trong tất cả các trường hợp không được liệt kê ra.
Sự thực là, các nguyên tắc cao cả của bản Hiến pháp được đề nghị bởi hội nghị có thể
được xem là mới hoàn toàn ít hơn xem như sự mở rộng các nguyên tắc được thấy trong
bộ điều luật Liên bang. Điều không may của hệ thống sau là các nguyên tắc này quá yếu
kém và bị giới hạn trong việc biện hộ cho tất cả những nhiệm vụ không hiệu quả được
thúc đẩy chống lại nó, và đòi hỏi việc mở rộng tới mức sẽ làm cho hệ thống mới có được
diện mạo của sự biến đổi toàn diện hệ thống cũ.
CVI
Trong một trường hợp, người ta đã thừa nhận rằng hội nghị đã chệch khỏi nội dung chính
trong nhiệm vụ của họ. Thay cho việc báo cáo một kế hoạch đòi hỏi sự phê chuẩn CỦA
CÁC CƠ QUAN LẬP PHÁP TẤT CẢ CÁC TIỂU BANG, họ đã báo cáo một dự thảo
phải được phê chuẩn bởi NHÂN DÂN, và có thể giành được hiệu lực thi hành của CHỈ 9
TIỂU BANG. Điều đó ứng với nhận xét rằng, dù là hợp lý nhất, điều bị phản đối này chí
ít đã thúc đẩy các ấn phẩm được tập hợp chống lại hội nghị. Sự kiên nhẫn chỉ có thể xuất
phát từ một niềm tin không thể cưỡng lại về sự phi lý để số phận của 12 tiểu bang tùy
thuộc vào sự ngoan cố và mục rỗng của bang thứ 13; từ thí dụ về sự chống đối bất di bất
dịch đưa ra bởi một ĐA SỐ gồm một phần sáu mươi dân Mỹ đối với biện pháp đã phê
chuẩn và có tính đến thế lực của 12 tiểu bang, gồm 59 phần 60 dân số là ví dụ vẫn còn
mới nguyên trong tâm thức và sự phẫn nộ của mọi công dân người đã cảm thông cho sự
thịnh vượng và danh giá của bị tổn thương đất nước mình. Do đó, vì điều bị phản đối này
thuộc phương thức bị từ bỏ bởi những người đã chỉ trích các quyền lực của hội nghị,
chúng tôi bỏ qua nó mà không xem xét nó tiếp.
Điểm THỨ BA phải được tìm hiểu là, những xem xét về nhiệm vụ phát sinh xa đến mức
vượt ra khỏi trường hợp mà chính nó đã có thể đưa ra bất kỳ khiếm khuyết nào của quyền
lực hợp pháp.
Trong những điều tra trước, các quyền lực của hội nghị đã được phân tích và xem xét với
cùng mức độ chặt chẽ, và bởi cùng nguyên tắc như thể chúng đã là các quyền hiện thực
cuối cùng để thiết lập bản Hiến pháp cho Hoa Kỳ. Chúng ta đã thấy bằng phương thức
nào chúng đã sinh ra việc xét xử thậm chí dựa trên giả thuyết đó. Bây giờ là lúc để nhớ
lại rằng các quyền hạn này đơn thuần chỉ là tư vấn và khuyến cáo; rằng chúng có ý nghĩa
theo từng tiểu bang, và được hiểu như thế bởi hội nghị; và vậy nên sau đó hội nghị đã dự
thảo và đề nghị một bản Hiến pháp không quan trọng hơn các văn bản được viết trong đó,
trừ khi việc đó được chứng tỏ bằng sự tán thành của những người mà nó đã nhắm tới. Suy
ngẫm này đặt chủ thể vào quan điểm hoàn toàn khác, và sẽ cho phép chúng ta xét đoán
với tính đúng đắn của đường lối mà hội nghị đã đưa ra.
CVII
Chúng ta hãy xem xét lý lẽ mà hội nghị đã dựa vào. Điều có thể suy ra từ các văn bản
trước đó của họ rằng họ đã bị ấn tượng một cách sâu sắc và đồng lòng bởi khủng hoảng,
mà gần như đã đồng tâm nhất trí đưa đất nước họ đến thực hiện một thử nghiệm phi
thường và trang nghiêm để sửa đổi những sai lầm của hệ thống mà theo đó cuộc khủng
hoảng này đã xảy ra; rằng họ đã bị thuyết phục không ít sâu sắc và nhất trí rằng cuộc cải
cách như họ đã đề nghị là tuyệt đối cần thiết để hiện thực hóa các mục tiêu mà họ được
giao phó. Điều mà họ đã không thể không hay biết là những niềm hy vọng và trông đợi
của đa số công dân khắp nơi trên đất nước to lớn này, đã hướng tới sự kiện trong các cuộc
bàn thảo của họ với sự lo lắng khủng khiếp. Họ đã có tất cả lý do để tin rằng những tình
cảm trái ngược đã khuấy động những con tim và khối óc của mọi kẻ thù bên trong và bên
ngoài chống lại sự tự do và sự thịnh vượng của nước Mỹ. Họ đã xem xét nguồn gốc và sự
tiến triển của thử nghiệm, sự sốt sắng với ĐỀ XUẤT, được đưa ra bởi một tiểu bang duy
nhất (Virginia), đối với việc sửa đổi từng phần Liên bang, đã được chú ý và thúc đẩy. Họ
đã thấy SỰ TỰ DO ĐƯỢC THỪA NHẬN bởi RẤT ÍT người đại diện từ RẤT ÍT tiểu
bang, đã được triệu tập tại Annapolis, nhằm khuyến cáo một mục tiêu then chốt và cao
cả, hoàn toàn xa lạ với nhiệm vụ của họ, không chỉ được thanh minh bởi ý kiến của cộng
đồng, mà thực tế còn được thực hiện bởi 12 trong 13 tiểu bang. Họ đã nhận thấy trong
hàng loạt các trường hợp, sự gánh vác của Quốc hội không chỉ có khuyến cáo, mà còn
điều hành, cung cấp, đảm bảo bằng các đánh giá chung bởi những lý do và mục đích ít
cấp bách hơn bởi việc mà cách quản trị của họ đã được giám sát. Họ hẳn phải suy ngẫm
rằng với tất cả những thay đổi lớn của các chính phủ, các thể chế đã thiết lập phải đi đến
chỗ vững vàng; rằng sự tham gia cứng nhắc vào thể chế trước trong các trường hợp này
sẽ làm nhỏ bé và vô dụng quyền quý giá và hơn hẳn của người dân tới mức “bãi bỏ hoặc
thay đổi các chính phủ của họ vì dường như đối với họ sẽ có khả năng nhất để mang lại
sự an toàn và hạnh phúc” [Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ], vì không thể để cho nhân dân
chuyển sang phối hợp hướng tới mục tiêu của họ một cách phổ biến và tự nhiên; và do đó
điều cần thiết là những thay đổi này phải được xây dựng bởi một số ĐỀ XUẤT KHÔNG
CHÍNH THỨC VÀ KHÔNG ĐƯỢC ỦY QUYỀN, đưa ra bởi một số công dân ái quốc
CVIII
và đáng kính hay bởi nhiều công dân. Chúng hẳn phải gợi lại rằng đó là vì đặc quyền có
vẻ bất thường và không có thật này trong việc đề nghị với nhân dân những kế hoạch đối
với sự an toàn và hạnh phúc của họ, rằng các tiểu bang lần đầu tiên đã thống nhất chống
lại hiểm nguy đe dọa họ bởi chính phủ cũ của họ; rằng các ủy ban và quốc hội đã được
hình thành để tập trung những nỗ lực của họ và bảo đảm các lợi ích của họ; và rằng CÁC
HỘI NGHỊ đã được CHỈ ĐỊNH ở MỘT VÀI TIỂU BANG để thiết lập các hiến pháp mà
giờ đây họ bị chi phối bởi nó; cũng không thể quên rằng có không ít những lưỡng lự
không đúng lúc, không nhiệt tình bám vào các thể chế thông thường, được nhận thấy
khắp nơi, ngoại trừ những người muốn thỏa mãn sự thù hằn bí mật của họ với nội dung
đạt được dưới những bộ mặt này. Họ hẳn phải ghi nhớ rằng vì dự thảo được định hình và
đề nghị là để đưa ra cho CHÍNH NGƯỜI DÂN, sự không chấp nhận của quyền lực tối
cao này sẽ phá hỏng nó mãi mãi; sự tán thành nó sẽ làm mờ đi những sai sót và điều trái
luật có trước đó. Thậm chí điều có thể xảy ra với họ là khuynh hướng tranh cãi vụn vặt
chiếm ưu thế, sự thờ ơ của họ đối việc thực thi cấp độ quyền lực họ đã được giao phó, và
vẫn còn nhiều khuyến cáo của họ về bất cứ biện pháp nào, không được họ bảo đảm, sẽ
không ít kích thích bản ngã cá nhân, hơn một khuyến cáo tức thời về biện pháp tương
xứng hoàn toàn với những cấp bách của quốc gia.
Dưới tất cả những dấn ấn và giữa tất cả những xem xét này, hội nghị này đã thay việc thể
hiện niềm tin mạnh mẽ vào đất nước họ bằng niềm tin mà họ đã nhận ra một cách rất
khác thường, và thay việc vạch ra khả năng hệ thống trong việc bảo đảm hạnh phúc cho
nó, với sự đánh giá của họ, bằng việc đưa ra cam kết lạnh lùng và ảm đạm làm thất vọng
những niềm hy vọng mãnh liệt của nó, hy sinh sự vững chắc đối với các thể chế, bằng
việc cam kết những lợi ích thiết tha nhất của đất nước họ cho những việc không chắc
chắn về sự trì hoãn và rủi ro của các sự kiện, cho phép tôi được hỏi những con người có
thể nâng trí tuệ của mình lên một khái niệm cao hơn, người có thể được nhận ra là yêu
nước với tấm lòng của mình, nhận xét nào phải được tuyên bố bởi thế giới công bằng, bởi
những bè bạn của loài người, bởi tất cả những công dân có đạo đức, về cách quản trị và
đặc tính của quốc hội này? Hay liệu có người mà thiên hướng chỉ trích của anh ta là dễ bị
CIX
mất kiểm soát, sau đó hãy cho tôi hỏi tuyên bố nào mà anh ta đã dành cho 12 tiểu bang đã
TIẾM QUYỀN gửi những người đại diện đến hội nghị, một tổ chức hoàn toàn vô danh
với các bản hiến pháp của họ; cho Quốc hội, tổ chức đã khuyến cáo việc bổ nhiệm tổ
chức này, cũng vô danh đối với Liên bang; và cho bang New York nói riêng, nơi đầu tiên
thúc giục và sau đó tuân thủ tổ chức xen vào không đúng luật này?
Liệu rằng những người phản đối có thể được làm nguôi ngoai bởi tất cả những lý do, điều
sẽ được chấp nhận trong chốc lát rằng hội nghị hoặc là không được phép bởi nhiệm vụ
của họ, hoặc cũng không được thanh minh bởi các tình trạng trong việc đề nghị bản Hiến
pháp cho đất nước họ: kéo theo nó là bản hiến pháp phải bị từ chối chỉ vì lý do đó? Nếu
như, theo lời giáo huấn đáng kính, điều đó là hợp luật để chấp nhận lời khuyên tin cậy
thậm chí của kẻ thù đưa ra, chúng ta sẽ nêu ra thí dụ ti tiện về việc từ chối lời khuyên như
vậy ngay cả khi nó được đưa ra bởi những người bạn của chúng ta? Trong mọi trường
hợp, việc điều tra thận trọng phải chắc chắn, không phải là lời khuyên DO AI đưa ra, mà
liệu đó có là lời khuyên TỐT.
Tóm lại điều đã được phát triển và chứng minh ở đây là, việc buộc tội hội nghị vượt quá
quyền lực của họ, ngoại trừ trong trường hợp ít bị thúc ép bởi những người phản đối đã
không có cơ sở ủng hộ nào; rằng nếu họ đã vượt quá quyền hạn của họ, họ không chỉ bị
cảnh báo, mà còn bị yêu cầu như những người đầy tớ tin cậy của đất nước họ bởi những
hiện trạng mà họ đã bị đặt vào, để thực hiện quyền tự do mà họ thừa nhận: và cuối cùng,
nếu họ đã vi phạm cả quyền lực và bổn phận của họ trong việc đề nghị bản Hiến pháp, vì
thế mà điều này được nắm lấy, nếu như nó được tính toán để hoàn thành viễn cảnh và
hạnh phúc cho nhân dân Mỹ. Đặc tính này thấu đáo đến chừng mực nào là do Hiến pháp,
là chủ đề được đánh giá.
PUBLIUS
CX
Thư Liên bang số 41
Quan niệm chung về quyền lực được Hiến pháp đề cập
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Bản Hiến pháp được dự thảo bởi Hội nghị có thể được xem xét theo hai quan niệm. THỨ
NHẤT liên quan đến toàn bộ hoặc đa số quyền được giao cho chính phủ, bao hàm cả
những hạn chế áp đặt đối với các tiểu bang. THỨ HAI liên quan đến cấu trúc cụ thể của
chính phủ, và sự phân bố quyền lực này trong một số ban ngành của chính phủ
Hai câu hỏi quan trọng phát sinh dưới quan niệm thứ nhất: 1. Liệu có bất kỳ bộ phận
quyền lực nào đã giao cho chính phủ trung ương là không cần thiết hoặc không phù hợp?
2. Phải chăng toàn bộ khối lượng quyền lực này là nguy hiểm đối với phần quyền thực thi
luật pháp còn lại ở một vài tiểu bang?
Tổng số quyền lực của chính phủ trung ương lớn hơn cái mà nó phải được giao phó? Đây
chính là câu hỏi đầu tiên.
Không thể thoát khỏi những người đã vô tư lưu tâm đến những lý lẽ được đưa ra nhằm
chống lại khối quyền lực to lớn này của chính phủ, rằng những người tạo ra nó đã cân
nhắc quá ít việc các quyền lực này là phương tiện cần thiết đến mức nào để đạt được mục
đích thiết yếu. Họ đã chọn đúng hơn để nhấn mạnh vào những bất cập hẳn được pha trộn
với những lợi thế về chính trị một cách không thể tránh; và vào những sự lạm dụng có thể
có, mà chắc là gắn liền với mọi quyền lực hoặc niềm tin, mà lợi ích của nó có thể đạt
được. Cách thức luận giải vấn đề này không thể áp đặt lên lương tri của người dân Mỹ.
Nó có thể thể hiện phẩm chất của những người soạn thảo; nó có thể mở ra một phạm vi
vô hạn cho tài hùng biện và diễn thuyết; có thể kích động cảm xúc mạnh của những
người nhẹ dạ, có thể củng cố thành kiến của những người có suy nghĩ sai lệch: song
CXI
những người vô tư và tỉnh táo sẽ ngay lập tức suy ngẫm rằng sự trong sáng nhất của việc
may mắn làm người phải pha trộn một phần trong họ, rằng việc lựa chọn phải luôn được
thực hiện, nếu không vì sự xấu xa ít hơn, thì ít nhất vì sự tốt đẹp LỚN HƠN, mà không
phải là HOÀN TOÀN tốt đẹp; và rằng trong mọi thể chế chính trị, quyền nâng cao hạnh
phúc của cộng đồng liên quan đến sự tự do làm theo ý mình có thể bị làm sai hoặc bị lạm
dụng. Do đó, họ sẽ thấy rằng trong mọi trường hợp, nơi quyền lực được giao phó, điểm
đầu tiên phải quyết định là liệu quyền này có cần thiết cho lợi ích cộng đồng; sau đó
trong trường hợp quyết định khẳng định, phải bảo đảm càng hiệu quả càng tốt chống lại
sự bóp méo quyền lực gây phương hại cho cộng đồng.
Chúng ta có thể tạo được một cách nhìn đúng đắn về vấn đề này, sẽ là phù hợp để xem
xét một vài quyền được trao cho chính phủ Liên bang; và việc này có thể được thực hiện
thuận tiện hơn khi chúng có thể bị chia nhỏ thành các loại khác nhau có liên quan đến các
mục tiêu khác nhau như sau: 1. An ninh chống lại mối đe dọa từ ngoại bang; 2. Quy định
về quan hệ với nước ngoài; 3. Duy trì sự hài hoà và giao thiệp đúng đắn trong các tiểu
bang; 4. Các mục tiêu hỗn hợp nhất định phục vụ nhân dân; 5. Ngăn ngừa các tiểu bang
đưa ra những đạo luật gây tổn thương nào đó; 6. Các điều khoản để đem lại hiệu lực xứng
đáng cho tất cả những quyền lực này.
Các quyền lực thuộc vào loại ĐẦU TIÊN là các quyền tuyên bố chiến tranh và cấp phép
cho các công dân riêng được trang bị vũ khí chống lại kẻ thù, xây dựng những đạo quân
và những hạm đội, chỉnh đốn và tổng động viên dân quân, thu thuế và mượn tiền.
An ninh chống lại những đe dọa từ ngoại bang là một trong những mục tiêu nguyên thủy
của xã hội dân sự. Đó là mục tiêu quan trọng và được công khai thừa nhận bởi liên bang
Mỹ. Các quyền lực thiết yếu để đạt được nó phải được giao phó một cách hiệu quả cho
các hội đồng liên bang.
CXII
Quyền tuyên bố chiến tranh có cần thiết không? Sẽ không ai trả lời phủ định câu hỏi này.
Vì vậy, sẽ không cần phải đưa ra bằng chứng về sự khẳng định. Liên bang hiện nay thiết
lập quyền này ở dạng dư thừa nhất.
Quyền tuyển các đội quân và trang bị những hạm đội có thực sự cần thiết? Cái này liên
quan đến quyền đã nói ở trên. Nó liên quan đến quyền tự vệ.
Song có cần thiết trao một QUYỀN LỰC KHÔNG HẠN CHẾ trong việc tuyển quân,
cũng như xây dựng các hạm đội; và duy trì cả hai trong THỜI BÌNH, cũng như trong
chiến tranh?
Câu trả lời cho những câu hỏi này đã được thấy trước quá xa ở nơi khác để chấp nhận
cuộc thảo luận rộng rãi về chúng ở đây. Quả thật câu trả lời có vẻ quá rõ ràng và thuyết
phục như vừa đủ để biện minh cho một thảo luận như vậy tại bất cứ đâu. Với sắc thái nào
về tính đúng đắn mà lực lượng cần cho quốc phòng có thể được giới hạn bởi những người
không thể hạn chế lực lượng tấn công đó? Nếu như Hiến pháp liên bang có thể buộc chặt
những tham vọng, hoặc thiết lập những ranh giới đối với ảnh hưởng của tất cả các quốc
gia khác, thì thực sự nó có thể buộc chặt sự tự do làm theo ý chính phủ của chính nó một
cách thận trọng, và thiết lập những ranh giới cho các nỗ lực vì sự an toàn của chính nó.
Làm thế nào để việc sẵn sàng chiến tranh trong thời bình có thể được ngăn chặn một cách
chắc chắn, trừ khi chúng ta có thể ngăn cấm những sự chuẩn bị và các lực lượng chiến
tranh của tất cả các quốc gia thù địch, theo cách thức tương tự? Các biện pháp an ninh chỉ
có thể được điều chỉnh bởi theo những cách thức và sự đe dọa tấn công. Trên thực tế,
chúng sẽ liên tục được xác định theo những nguyên tắc này, mà không theo các nguyên
tắc khác. Thật vô ích khi đưa ra những rào cản thể chế chống lại sự cấp bách của việc tự
bảo toàn. Việc đó còn tệ hơn vô ích; vì nó gieo vào trong chính Hiến pháp những sự
chiếm giữ cần thiết của quyền lực, mà mọi tiền lệ của nó đều là mầm mống của những tái
diễn tăng thêm và không cần thiết. Nếu một quốc gia duy trì liên tục một đội quân có kỷ
CXIII
luật, sẵn sàng phục vụ cho tham vọng hay thù hận, nó sẽ buộc hầu hết các quốc gia thanh
bình có thể nằm trong tầm với của nó phải đưa ra những biện pháp phòng ngừa tương
ứng. Thế kỷ mười lăm là thời kỳ không vui của các lực lượng quân sự trong thời bình.
Chúng được khởi đầu bởi vua Pháp, Charles VII. Rồi toàn Châu Âu đã tuân theo, hoặc bị
ép buộc theo mô hình này. Nếu khuôn mẫu đã không được tuân theo bởi các quốc gia
khác, toàn Châu Âu xa xưa hẳn phải chấp nhận xiềng xích của một đế chế chung. Sự kiện
tương tự có thể kéo theo là giờ đây tất cả các nước ngoại trừ Pháp đã phải giải tán lực
lượng thời bình của nó. Các quân đoàn Rome kỳ cựu đã là người thắng vì sự chiến đấu vô
kỷ luật của tất cả các quốc gia khác và đã làm cho La Mã trở thành bà chủ của thế giới.
Điều không kém chính xác rằng các quyền tự do của người La Mã đã chứng tỏ là nạn
nhân cuối cùng của những thắng lợi quân sự của nó; và rằng các quyền tự do của Âu
Châu, đến mức như họ đã từng có, với không nhiều ngoại lệ, là cái giá của các thế lực
quân sự của nó. Do đó, lực lượng thường trực là một sự dự phòng nguy hiểm, đồng thời
nó có thể là cần thiết. Với quy mô nhỏ nhất nó có những bất lợi của chính nó. Với quy
mô rộng lớn, hậu quả của nó có thể tai hại. Với bất kỳ quy mô nào, nó đều có chung mục
tiêu lo trước và thận trọng một cách đánh ngợi ca. Một đất nước khôn ngoan sẽ kết hợp
tất cả những cân nhắc này; và trong khi không nóng vội ngăn ngừa nó khỏi bất kỳ nguồn
tài nguyên nào có thể trở nên thiết yếu cho sự an toàn của chính mình, nó sẽ phát huy
toàn bộ sự thận trọng của mình trong việc làm suy giảm cả tính cấp thiết cũng như nguy
cơ phải viện đến việc có thể gây rủi ro đối với các quyền tự do của nó.
Những dấu hiệu rõ ràng nhất về sự thận trọng này được chứng tỏ trong bản Hiến pháp đề
nghị. Chính liên bang mà nó gắn bó và bảo vệ, phá bỏ tất cả các lý do để xem một lực
lượng quân đội có thể là nguy hiểm. Nước Mỹ thống nhất, với chỉ một nhóm binh sĩ,
hoặc không có một lực lượng quân đội riêng, thể hiện một tư thế nguy hiểm đối với tham
vọng của ngoại bang hơn là nước Mỹ không thống nhất, với hàng trăm ngàn cựu chiến
binh sẵn sàng chiến đấu. Trước đây, người ta thấy rằng việc thiếu lý do này đã cứu vãn
các quyền tự do của một quốc gia ở châu Âu. Đạt được bởi tình trạng cách ly của mình và
CXIV
các tài nguyên biển bất khả xâm phạm đối với các quân đội lân bang, những người trị vì
Vương quốc Anh chưa bao giờ có thể lôi kéo công chúng theo đuổi một lực lượng thời
bình lớn mạnh bởi những hiểm nguy có thực hay ngụy tạo. Khoảng cách giữa hợp chủng
quốc Hoa Kỳ và các cường quốc trên thế giới tạo cho họ nền an ninh cùng hài lòng với
nhau. Lực lượng khẩn cấp có thể không bao giờ là cần thiết hoặc đáng tin cậy, miễn họ
vẫn tiếp tục là một dân tộc thống nhất. Song cho đến lúc này, đừng bao giờ quên rằng họ
đang mắc nợ Liên bang chỉ tính riêng cho lợi thế này. Thời điểm giải thể của nó sẽ là
ngày mở đầu một trật tự mới. Những lo ngại của các tiểu bang yếu hơn, hay tham vọng
của các tiểu bang mạnh hơn, hoặc tiểu liên bang, sẽ thiết lập khuôn mẫu tương tự ở Tân
thế giới, giống như cách mà Charles VII. đã làm ở Cựu thế giới. Cái tương tự sẽ được
tuân theo ở đây bắt nguồn từ cùng những động cơ đã tạo ra khuôn mẫu chung đó. Thay vì
bắt nguồn từ tình trạng của chúng ta, lợi thế quý giá của Vương quốc Anh đã bắt nguồn
từ chính nó, bộ mặt của nước Mỹ sẽ chỉ là một bản sao loại này của Âu châu lục địa. Nó
sẽ đặt ra quyền tự do ở bất cứ đâu chen giữa các đội quân thường trực và các loại thuế
thường xuyên. Sự thịnh vượng của nước Mỹ không thống nhất thậm chí sẽ bất hạnh hơn
những quốc gia Âu châu đó. Nguồn gốc của thảm họa trong sự không thống nhất gắn liền
với những hạn chế của chính nó. Không có những sức mạnh vượt trội của một phần tư địa
cầu khác gợi chú ý cho các quốc gia kình định với nó, kích động tình trạng thù địch lẫn
nhau của họ, và khiến họ trở thành các công cụ của sự tham vọng, đố kỵ, và hận thù của
ngoại bang. Tại Mỹ những khổ đau hiện xuất phát từ những đố kỵ, bất đồng, và các cuộc
chiến tranh nội bộ, sẽ tạo thành chỉ một phần số phận của nó. Sự bổ sung dồi dào các
thảm họa hẳn có nguồn gốc liên quan đến cái mà châu Âu chịu đựng cho phần tư địa cầu
này, và là cái mà không phần tư nào khác của địa cầu chống đỡ cho Âu châu. Bức tranh
về những hậu quả của sự không thống nhất không thể bị bóp méo quá đáng, hay được thể
hiện quá bình thường. Tất cả những người yêu hòa bình, những người yêu quý đất nước
của mình, những người yêu thích tự do, hẳn thấy ngay trước mắt mình, điều mà anh ta có
thể ấp ủ trong tim về sự gắn bó phù hợp với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, và có thể đặt một
giá trị thích hợp vào các cách thức để duy trì nó. Tiếp theo việc thành lập Liên bang một
cách hiệu quả, sự phòng ngừa hợp lý nhất chống lại những hiểm nguy từ các đội quân
CXV
thường trực là việc giới hạn khoảng thời gian mà quốc khố có thể dành ra khoản hỗ trợ
cho họ. Sự lo trước này đã được bổ sung một cách thận trọng vào Hiến pháp. Tôi sẽ
không lặp lại ở đây các nhận xét mà tôi tự hào vì đặt ra chủ đề này với một quan niệm
đúng đắn và thỏa đáng. Nhưng có thể là không thích hợp nếu không quan tâm đến lý lẽ
chống lại phần này của bản Hiến pháp, phần đã được rút ra từ chính sách và thực tiễn của
Vương quốc Anh. Người ta nói rằng sự tồn tại của quân đội ở vương quốc đó đòi hỏi sự
chấp thuận của cơ quan lập pháp hàng năm, trong khi Hiến pháp của nước Mỹ hiện tại
kéo dài thời hạn quyết định này lên đến hai năm. Đây là thể chế mà trong đó việc so sánh
thường được nói rõ cho công chúng: song thể chế đó có đúng đắn? Sự so sánh có là công
bằng? Hiến pháp Anh quốc giới hạn sự thao túng của nghị viện Anh trong một năm?
Người Mỹ áp đặt sự nắm quyền của Quốc hội trong hai năm? Ngược lại, người ta không
thể không biết đến chính những người tạo ra sai lầm, mà Hiến pháp Anh không đặt bất kỳ
giới hạn nào đối với sự tự do làm theo ý mình của cơ quan lập pháp, và người Mỹ ràng
buộc cơ quan lập pháp vào thời hạn hai năm, là thời hạn dài nhất có thể chấp nhận.
Tranh luận từ mô hình của Anh quốc đã được tuyên bố đúng sự thật, nó hẳn sẽ có giá trị
như thế: Thời hạn mà theo đó các nguồn cung cấp có thể dành riêng cho lực lượng quân
đội, dù là không giới hạn theo Hiến pháp vương quốc Anh, song trong thực tế, đã được
giới hạn bởi sự dành riêng cho nghị viện Anh cho đến một năm. Bây giờ, cho dù ở
Vương quốc Anh, nơi Hạ viện được bầu cho thời hạn 7 năm; nơi một tỷ lệ lớn các thành
viên được bầu bởi một tỷ lệ rất nhỏ nhân dân; nơi các cử tri bị mua chuộc bởi những
người đại diện, và người đại diện này bị nhũng nhiễu bởi Hoàng gia, tổ chức đại nghị có
thể có quyền ban ra lệnh chu cấp cho quân đội đến một thời hạn không giới hạn mà
không dám yêu cầu, hoặc không đủ can đảm, để kéo dài thời hạn này vượt quá một năm,
hẳn không nên nghi ngờ tự nó xấu hổ khi giả mạo rằng những người đại diện của nước
Mỹ, được bầu cử một cách TỰ DO bởi TOÀN THỂ dân chúng, cứ mỗi vào NĂM THỨ
HAI, không thể được tin cậy giao phó việc xem xét toàn bộ sự nắm quyền như vậy, mà đã
giới hạn một cách rõ ràng cho thời gian ngắn ngủi HAI NĂM?
CXVI
Một động cơ xấu xa hiếm khi không phản bội chính nó. Về sự thật này, ban quản lý của
phe đối lập với chính phủ liên bang là một bản sao nguyên vẹn. Nhưng trong tất cả những
sai lầm đã được xem xét, không gì nổi bật hơn cố gắng giành được thái độ ghen tỵ kín
đáo được nuôi dưỡng bởi người dân, đối với quân đội thường trực. Cố gắng này đã hoàn
toàn đánh thức sự quan tâm của dân chúng đến vấn đề quan trọng đó, và đã dẫn đến
những điều tra mà chắc hẳn phải được kết thúc trong sự thuyết phục hoàn toàn và phổ
quát, không chỉ vì hiến pháp đã cung cấp những sự bảo đảm hữu hiệu nhất chống lại hiểm
nguy từ phần tư địa cầu đó, mà là vì không gì thiếu bằng một bản hiến pháp hoàn toàn
phù hợp với việc bảo vệ quốc gia và duy trì Liên bang, có thể bảo vệ nước Mỹ khỏi nhiều
đội quân thường trực như khi nó có thể bị chia nhỏ thành các tiểu bang hoặc tiểu liên
bang, cũng như khỏi sự tăng dần thêm như vậy, của các lực lượng quốc phòng này trong
mỗi bang, sẽ khiến chúng như là gánh nặng đối với tài sản và gây quan ngại cho các
quyền tự do của người dân, vì bất kỳ lực lượng nào có thể trở nên cần thiết, dưới một
chính phủ thống nhất và hiệu quả, hẳn là khá tốt để bảo vệ quốc gia và an toàn đối với
liên bang.
Tính thiết yếu rõ ràng của quyền xây dựng và duy trì lực lượng hải quân đã bảo vệ phần
đó của Hiến pháp khỏi những chỉ trích, vốn dư thừa ở một vài phần khác. Quả thật, điều
đó hẳn phải được liệt kê vào một trong những điều hạnh phúc lớn nhất của nước Mỹ, vì
Liên bang sẽ là nguồn sức mạnh hàng hải duy nhất của nó, do vậy đây sẽ là một nguồn
chủ yếu đảm bảo an ninh chống lại mối đe dọa từ nước ngoài cho nó. Về khía cạnh này,
hoàn cảnh của chúng ta phát sinh sự tương tự nữa với thuận lợi của cư dân ở đảo như của
Vương quốc Anh. Những hành động trừng phạt có khả năng nhất đẩy các hoạt động của
nước ngoài về phía an toàn cho chúng ta, là phù hợp như có thể không bao giờ bị thay đổi
bởi một chính phủ phản bội chống lại các quyền tự do của chúng ta.
Những cư dân ở vùng biên giới Đại Tây Dương, tất cả họ đều quan tâm sâu sắc đến điều
khoản bảo vệ hải quân này, và dù cho đến nay họ vẫn chịu ngủ yên trên giường của họ;
dù tài sản của họ vẫn được bảo đảm an toàn chống lại thái độ tà tâm của những kẻ bịp
CXVII
bợm phóng túng; dù các đô thị ven biển của họ chưa bị buộc phải chuộc mình từ những
kẻ quấy phá về một đại họa, bởi việc nhân nhượng với các đòi hỏi của những kẻ xâm
lược táo bạo và bất ngờ, những trường hợp may mắn này không được quy cho năng lực
của chính phủ đương quyền về việc bảo vệ khỏi những tai họa đó từ người mà nó đòi hỏi
lòng trung thành, mà quy cho những nguyên nhân là phù du và sai lầm. Có lẽ khi chúng
ta loại trừ Virginia và Maryland, những nơi đặc biệt dễ bị tổn thương ở những vùng biên
giới phía đông của họ, không có vùng nào của Liên bang hẳn cảm thấy lo lắng về vấn đề
này hơn bang New York. Với bờ biển của nó rộng lớn và một vùng rất quan trọng của
bang là một hòn đảo. Bản thân tiểu bang này bị cắt ngang qua bởi một con sông lớn với
chiều dài hơn năm mươi lý (150 dặm) thuận lợi cho tàu bè đi lại. Khu trung tâm thương
mai lớn, nguồn dự trữ to lớn cho sự thịnh vượng của nó, lúc nào cũng bị phó mặc cho các
sự việc, và có thể được xem như là con tin đối với việc phục tùng đê tiện các mệnh lệnh
của kẻ thù nước ngoài, hoặc thậm chí với các đòi hỏi tham lam của cướp biển và bọn
người dã man. Chiến tranh sẽ là kết quả của tình trạng bấp bênh trong việc giao thương
của châu Âu, và tất cả những cảm xúc ngoan cố với nó bị buông ra trên đại dương, lối
thoát để chúng ta khỏi bị lăng nhục và cướp bóc, không chỉ trên vùng đó mà ở tất cả các
vùng biên giới khác trên đó, sẽ thực sự phi thường. Trong điều kiện hiện tại của nước
Mỹ, các tiểu bang lộ diện trực tiếp hơn với những tai họa này không hy vọng gì vào hành
động không thực tế của chính phủ trung ương hiện có; và nếu các nguồn lực của riêng họ
đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ làm cho chính họ đủ vững mạnh chống lại các mối đe
dọa, đối tượng được bảo vệ gần như sẽ bị phá hủy bởi các phương tiện để bảo vệ họ.
Quyền điều chỉnh và tổng động viên quân đội này đã được giải thích và xác nhận một
cách đầy đủ.
Quyền thu thuế và vay mượn tiền, mà sức mạnh của quyền đó được sử dụng trong việc
bảo vệ đất nước, được bổ sung phù hợp vào loại quyền tương ứng với nó. Quyền lực này,
cũng đã được xem xét với nhiều lưu ý, và tôi tin nó đã thể hiện rõ ràng là cần thiết bởi
Hiến pháp, cả về mức độ và hình thức. Tôi sẽ chỉ đưa ra một sự xem xét bổ sung cho
CXVIII
những người dám chắc rằng quyền đó nên được kiểm soát đối với hệ thống thuế buôn bán
với nước ngoài theo cách mà họ dự định, đánh thuế lên các hàng hóa nhập khẩu từ các
quốc gia khác. Không thể nghi ngờ rằng đây sẽ luôn là một nguồn thu có giá trị; rằng
trong một thời gian dài nó hẳn phải là nguồn thu chính; và vào thời điểm này nó là một
nguồn thu quan trọng. Nhưng chúng ta có thể có những ý tưởng rất sai lầm về vấn đề này,
nếu chúng ta không nhắc lại những tính toán của chúng ta, rằng mức độ thu nhập có được
từ việc buôn bán với nước ngoài phải thay đổi theo các biến thể, cả về mức độ và chủng
loại hàng hóa nhập khẩu; và rằng những biến thể này không tương ứng với sự gia tăng
dân số, mà phải là thước đo chung về nhu cầu của cộng đồng. Miễn rằng nông nghiệp tiếp
tục là lĩnh vực hạn chế nhập khẩu, việc nhập khẩu các hàng công nghiệp phải tăng khi
lượng người tiêu dùng tăng lên. Ngay sau khi các hàng công nghiệp trong nước được bắt
đầu chuyển giao không cần đến nông nghiệp, các hàng hóa nhập khẩu sẽ giảm khi số
lượng người tăng lên. Trong khoảng thời gian xa hơn nữa, hàng nhập khẩu có thể bao
gồm một phần đáng kể nguyên liệu thô, sẽ được đưa vào làm các hàng xuất khẩu, và do
đó sẽ đòi hỏi sự khích lệ của các loại tiền thưởng, hơn là phải chịu thuế nhập khẩu làm
ngã lòng. Một hệ thống chính quyền đã dự tính cho thời gian dài, phải suy tính về những
cuộc cách mạng này, và tự nó có thể cung cấp cho người dân.
Một số người đã không từ chối sự cần thiết của quyền thu thuế, đã dựa vào ngôn ngữ mà
nó định nghĩa công kích Hiến pháp rất ác liệt. Nó đã được kêu gọi và lặp lại, rằng quyền
"đặt và thu thuế, đánh thuế nhập khẩu, thuế thế chấp, và thuế hàng hóa nội địa, để thanh
toán các khoản nợ, và cung cấp cho quốc phòng thường xuyên và phúc lợi tổng thể của
Hoa Kỳ" chẳng khác gì sự ủy thác vô tận để thực thi mọi quyền lực mà có thể được tuyên
bố như một cái cớ là cần cho quốc phòng hoặc phúc lợi tổng thể. Không một bằng chứng
mạnh mẽ nào có thể được đưa ra về tình trạng đáng buồn mà theo đó các tác giả này nỗ
lực phản đối, hơn là việc ha thấp phẩm giá của họ đối với sự giải thích sai lệch như vậy.
Không có sự liệt kê hay định nghĩa về các quyền của Quốc hội được tìm thấy trong Hiến
pháp, ngoài những diễn giải chung vừa mới trích dẫn, các tác giả phản đối có thể đã gây
CXIX
ra một số bóp méo đối với nó; mặc dù thật khó có thể tìm thấy một lý do nào đối với hình
thức mô tả vụng về như vậy về quyền làm luật trong tất cả các trường hợp có thể. Quyền
hủy bỏ sự tự do báo chí, việc xét xử bởi bồi thẩm đoàn, hoặc thậm chí điều chỉnh thủ tục
thừa kế, hay các hình thức chuyển nhượng, phải được thể hiện rất khác thường bởi các
thuật ngữ "để thu tiền cho phúc lợi tổng thể."
“Nhưng sự bóp méo nào mà bên phản đối có thể đưa ra, khi một biên bản chi tiết các mục
tiêu được nói đến bởi các thuật ngữ chung này ngay lập tức kèm theo, và thậm chí không
bị tách rời ra bởi chỗ ngắt dài hơn một dấu chấm phẩy? Nếu các phần khác nhau của cùng
một văn kiện phải được giải nghĩa chi tiết như vậy, để có nghĩa cho tất cả các phần sẽ
mang nó, thì phần này của câu tương tự sẽ phải bị loại trừ hoàn toàn sự chia sẻ về nghĩa;
những thuật ngữ không định rõ và nhiều nghi ngờ sẽ được giữ lại trong phạm vi chính
thức của chúng, và những sự diễn giải rõ ràng và chính xác sẽ phủ nhận bất kỳ nghĩa gì?
Vì mục đích mà bản liệt kê các quyền cụ thể đã có thể đưa vào, nếu những quyền này và
tất cả các quyền khác đều có nghĩa đã được bao gồm trong quyền tổng quát có trước?
Không có gì tự nhiên hơn và cũng không có gì phổ biến hơn thuật ngữ chung được sử
dụng đầu tiên, và sau đó được giải thích và minh định nó bằng một đoạn văn với các chi
tiết. Nhưng ý tưởng về một bản liệt kê các chi tiết hoặc không giải thích hoặc không nói
rõ ý nghĩa tổng thể, và có thể không có tác dụng gì khác hơn là làm lẫn lộn và hiểu sai, là
một sự ngớ ngẩn, vì chúng ta bị đặt vào tình thế khó xử hoặc với các tác giả phản đối
hoặc với các tác giả Hiến pháp, chúng ta phải sử dụng quyền tự do giả định, không có
nguồn gốc với tác giả hiến pháp.
Sự phản đối ở đây là bất thường hơn, vì nó cho rằng ngôn ngữ được sử dụng bởi hội nghị
là một bản sao từ các điều khoản liên bang. Các mục tiêu của Liên bang ở trong các tiểu
bang, như được mô tả trong điều 3, rằng "quốc phòng thông thường của họ, sự bảo đảm
các quyền tự do của họ, và phúc lợi tổng thể chung." Các khoản của điều 8 vẫn đúng hơn:
"Mọi phí tổn chiến tranh và tất cả các chi phí khác sẽ phải tính cho quốc phòng thông
thường hoặc phúc lợi công cộng, và phải được cho phép bởi Quốc hội Hoa Kỳ, sẽ được
CXX
chi trả ngoài ngân quỹ chung," v.v... Ngôn ngữ tương tự một lần nữa xuất hiện trong điều
9. Giải thích một trong những điều luật này theo các nguyên tắc sẽ biện minh cho cấu trúc
gán cho Hiến pháp mới, và chúng sẽ trao cho Quốc hội hiện hành quyền làm luật trong
bất kỳ trường hợp nào. Song cái gì sẽ được nghĩ ra từ Quốc hội đó, nếu như gắn chính họ
với những lối diễn giải mơ hồ này, mà xem nhẹ những biên bản chi tiết để xác định và
hạn chế việc nhập khẩu hàng hóa của họ, họ đã sử dụng quyền không giới hạn trong việc
cung cấp cho quốc phòng thông thường và phúc lợi công cộng? Tôi kêu gọi chính những
người phản đối, nên chăng trong trường hợp đó có lẽ họ đã tận dụng lập luận tương tự để
biện minh cho Quốc hội như họ đang lợi dụng để chống lại hội nghị lúc này. Thật khó
khăn làm sao để cho sai lầm thoát khỏi sự kết tội của chính bản thân nó.
PUBLIUS
CXXI
Thư Liên bang số 42
Các quyền được giao phó bởi Hiến pháp phải được xem xét thấu đáo
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Loại quyền lực THỨ HAI, được trao cho chính phủ trung ương, bao gồm các quyền điều
chỉnh quan hệ với các quốc gia nước ngoài, nghĩa là: quyền xây dựng các hiệp ước; gửi
và nhận các đại sứ, lãnh sự và các vị bộ trưởng đương quyền khác; quyền bắt giữ và
trừng phạt bọn hải tặc và những kẻ vi phạm trọng tội trên vùng biển khơi, vi phạm luật
pháp quốc tế; quyền quy định việc buôn bán với nước ngoài, gồm quyền ngăn chặn việc
nhập khẩu nô lệ, sau năm 1808, và quyền đặt ra loại thuế trung gian lên đến mười đô la
cho mỗi nô lệ, làm chán nản những việc nhập khẩu “hàng hóa” này.
Nhóm quyền lực này hình thành một nhánh rõ ràng và cần thiết trong việc điều hành của
chính quyền liên bang. Nếu như chúng ta sẽ là một quốc gia thống nhất trong bất kỳ khía
cạnh nào, việc này rõ ràng phải được lưu tâm với các quốc gia khác.
Quyền tạo dựng các hiệp ước quốc tế, cũng như quyền cử và nhận các đại sứ, thể hiện
tính chính đáng của chính các chính quyền. Cả hai quyền này đều được bao gồm trong bộ
điều luật Liên bang, với sự khác biệt duy nhất, rằng quyền đầu tiên được làm cho tránh
khỏi phản đổi bởi dự thảo của hội nghị hiến pháp, theo đó các hiệp ước có thể bị thất bại
trong thực tế vì các quy định của tiểu bang; và rằng quyền bổ nhiệm và nhận "các lãnh sự
và các bộ trưởng khác" được bổ sung rất đúng cách và rõ ràng vào điều khoản liên quan
đến các đại sứ đã có trước đó. Điều khoản đại sứ, nếu được tuân thủ một cách nghiêm
ngặt, giống như đòi hỏi của điều hai trong bộ luật Liên bang, chỉ gồm người có khả năng
ở mức cao nhất thuộc các bộ trưởng, và loại trừ các cấp độ mà sẽ có vẻ phù hợp hơn cho
Hoa kỳ, nơi mà các đại sứ quán nước ngoài có thể cần thiết. Và không theo phạm vi xây
dựng, điều khoản này sẽ bao gồm các lãnh sự. Song nó đã được minh chứng là thiết thực,
CXXII
và thực tế là Quốc hội đã giao cho các cấp thấp hơn các bộ trưởng, cử và nhận lãnh sự.
Thực sự là ở nơi mà các hiệp ước thương mại quy định về việc bổ nhiệm các lãnh sự của
hai bên, thì chức năng của họ được gắn với thương mại, sự chấp nhận các lãnh sự nước
ngoài có thể thuộc vào quyền tạo dựng các hiệp ước thương mại; và rằng ở nơi mà các
hiệp ước loại này không tồn tại, sứ mệnh của lãnh sự Mỹ ở nước ngoài NÊN CHĂNG có
thể gộp vào dưới các quyền, được đưa ra bởi điều 9 của luật Liên bang, để bổ nhiệm tất
cả các quan chức dân sự loại này như là cần thiết để quản lý các công việc chung của
nước Mỹ. Nhưng việc chấp nhận lãnh sự vào Hoa Kỳ, ở những nơi trước đây chưa có
hiệp ước quy định việc đó, dường như đã không nơi nào chuẩn bị. Nguồn gốc phát sinh
các thiếu sót là một trong những trường hợp nhỏ hơn được xem xét, ở đó hội nghị đã
hoàn thiện mô hình đã có trước của chúng. Nhưng các điều khoản nhỏ nhất sẽ trở nên
quan trọng khi chúng có xu hướng xóa bỏ tính cần thiết hoặc lý do để dần dần tiếm quyền
và không minh bạch. Một bản liệt kê các trường hợp, trong đó Quốc hội đã bị dẫn đến,
hoặc bị ép buộc bởi các khiếm khuyết của Liên bang, theo những vi phạm của các quan
chức đủ tư cách của họ, sẽ không gây chút ngạc nhiên nào đối với những người đã không
quan tâm đến vấn đề; và sẽ là luận cứ không hề nhỏ bé ủng hộ Hiến pháp mới, mà dường
như không ít chủ động để thiết lập cái đỡ khiếm khuyết hơn, so với những khiếm khuyết
nổi bật và rõ ràng của hiến pháp cũ.
Quyền bắt giữ và trừng phạt những kẻ trọng tội và bọn cướp biển phạm tội ở vùng biển
khơi, và những kẻ vi phạm luật quốc tế, thuộc về chính phủ trung ương với cùng một
nguyên tắc, là một thành tựu to lớn hơn trong bộ các điều luật Liên bang. Những điều luật
này không chứa sự dự liệu đối với trường hợp vi phạm luật pháp quốc tế; và hậu quả phó
mặc nó cho thế lực của bất kỳ thành viên nào vô ý lôi kéo Liên bang về phía các nước
khác. Điều khoản về vấn đề tội phạm và cướp biển của bộ luật liên bang không mở rộng
xa hơn đến việc thành lập các tòa án để xét xử những vi phạm này. Có lẽ nếu không bất
tiện, thì việc định tội bọn cướp biển nên để cho luật quốc tế, mặc dù một định nghĩa hợp
pháp về chúng được thấy ở hầu hết các bộ luật của từng nước. Định nghĩa về trọng tội
ngoài biển khơi là điều hiển nhiên cần thiết. Trọng tội là một thuật ngữ mang ý nghĩa
CXXIII
lỏng lẻo, ngay cả trong thông luật của Anh quốc; và thuộc về các nội dung khác nhau
trong đạo luật của vương quốc đó. Không phải thông luật, cũng không phải đạo luật đó,
hay luật của bất kỳ quốc gia khác, mà phải là một chuẩn mực cho văn bản loại này, trừ
khi chính nó đã được thiết lập trước đó bởi sự phê chuẩn của cơ quan lập pháp. Ý nghĩa
của điều khoản này, như đã định nghĩa trong các đạo luật của một vài tiểu bang, sẽ không
thể áp dụng vì định nghĩa trước đây sẽ là chỉ dẫn không hợp pháp và đáng hổ thẹn. Điều
khoản đó không hoàn toàn giống nhau giữa hai tiểu bang bất kỳ; và khác nhau trong mỗi
với với mọi phiên bản về các luật hình sự của nó. Do đó, để chắc chắn và đồng nhất,
quyền xác định các trọng tội của Liên bang trong trường hợp này là cần thiết và thích hợp
về mọi khía cạnh.
Quy định buôn bán với nước ngoài, nằm trong một số quan niệm được đưa ra về chủ đề
này, được thảo luận quá đủ ở đây với những bằng chứng bổ sung cần thiết phải được đệ
trình một cách đúng đắn lên chính phủ liên bang.
Không còn nghi ngờ gì điều được hy vọng là quyền ngăn chặn việc nhập khẩu nô lệ đã
không bị trì hoãn cho đến năm 1808, hay đúng hơn là nó đã phải nhận được hiệu lực tức
thì. Song cũng không khó để giải thích hoặc cho điều hạn chế này của chính phủ trung
ương, hoặc cho phương thức trong đó toàn bộ điều khoản được đưa ra. Nó nên được xem
là một điểm nhận được sự ủng hộ to lớn của nhân loại, rằng khoảng thời gian hai mươi
năm có thể chấm dứt vĩnh viễn, việc buôn bán đã bị chỉ trích quá kịch liệt và lâu dài như
là tình trạng dã man về cách hành xử hiện đại trong các quốc gia này; rằng trong giai
đoạn đó, nó sẽ bị ngăn ngừa đáng kể từ chính phủ liên bang, và có thể bị hủy bỏ hoàn
toàn bởi sự đồng tình của một vài tiểu bang tiếp tục việc buôn bán bất lương này, theo mô
hình ngăn chặn đã được đưa ra bởi đại đa số người dân Liên bang. Sẽ là điều hạnh phúc
cho những người Phi bất hạnh, nếu một viễn cảnh công bằng đặt ra trước họ về việc được
chuộc khỏi những sự áp bức của người anh em Âu châu của họ! Những nỗ lực đã được
thực hiện làm hiểu sai điều khoản này thành sự chống đối chống lại Hiến pháp, bằng cách
miêu tả nó một mặt như là sự tha thứ không đúng luật cho hành động bất hợp pháp, và
CXXIV
mặt khác đã được tính toán để ngăn chặn sự di dân có lợi và tự nguyện từ châu Âu đến
châu Mỹ. Tôi đề cập những sự hiểu sai này không phải với quan điểm đưa cho họ câu trả
lời, vì họ chỉ xứng đáng như những hạng người với thái độ và tinh thần, mà một số người
đã tự cho là phù hợp để hướng sự phản đối của họ đến chính phủ dự tính.
Thuộc loại quyền lực THỨ BA là các quyền ủng hộ cho sự giao thiệp hài hòa và đúng
đắn giữa các tiểu bang.
Bên dưới đề mục này có thể bao gồm các giới hạn cụ thể được áp đặt đối với quyền của
các tiểu bang, và các quyền hạn nhất định của ngành tư pháp; song nhóm quyền trước
được dành cho một đối tượng rõ ràng, và nhóm sau sẽ được thẩm tra một cách đặc biệt
khi chúng ta xét tới cấu trúc và tổ chức của chính phủ. Tôi sẽ tự giới hạn mình vào việc
lướt nhanh các quyền còn lại thuộc vào loại quyền lực thứ ba này, nghĩa là gồm: quy định
hoạt động thương mại trong một vài tiểu bang và bộ tộc Anh Điêng (da đỏ); từ đó quy
định giá trị cho tiền xu, và giá trị của đồng tiền nước ngoài; ủng hộ việc trừng phạt nạn
làm giả tiền xu đang lưu hành và trái phiếu chính phủ Mỹ; đặt tiêu chuẩn về trọng lượng
và phương thức đúc tiền; thiết lập nguyên tắc thống nhất về việc nhập tịch, và các luật lệ
thống nhất về phá sản, thực thi phương thức theo đó các hồ sơ, các đạo luật công khai, và
các văn bản tư pháp của mỗi tiểu bang sẽ phải xác lập, và hiệu lực mà chúng sẽ có trong
các tiểu bang khác; cũng như thiết lập các trạm bưu điện và đường bưu điện.
Những khiếm khuyết về quyền điều tiết hoạt động thương mại giữa một số thành viên
trong Liên bang hiện nay, nằm trong số những điểm đã được chỉ rõ qua kinh nghiệm thực
tiễn. Với những bằng chứng và nhận xét mà các bài viết trước đây đã dẫn ra quan niệm về
chủ đề này, nó có thể được thêm vào mà không cần dùng đến điều khoản bổ sung này,
chính quyền lực cần có để quy định việc buôn bán với nước ngoài hẳn sẽ không đầy đủ
và không hiệu quả. Một mục tiêu rất quan trọng của quyền này là sự giải thoát cho các
tiểu bang phải nhập khẩu hoặc xuất khẩu thông qua các tiểu bang khác, khỏi các khoản
đóng góp không phù hợp đã đánh vào họ bởi loại quyền sau. Những bang đã tự do quy
CXXV
định việc giao thương giữa các tiểu bang này, hẳn phải thấy trước các phương thức sẽ
được nghĩ ra để thiết lập những điều luật về xuất nhập khẩu, trong quá trình chuyển cho
bộ phận thực thi luật pháp của họ, với những khoản thuế sẽ đánh vào các nhà sản xuất
theo nhóm quyền sau và đánh vào người tiêu dùng theo quyền trước. Chúng tôi có thể
được đảm bảo nhờ kinh nghiệm trong quá khứ, rằng thực tế này sẽ được đưa vào những
dự liệu cho tương lai; cả vì điều đó và kiến thức chung về hành xử của con người, rằng
điều đó sẽ nuôi dưỡng những thù hận không ngừng, và chắc chắn kết thúc bằng những
gián đoạn đáng sợ đối với sự thanh bình của cộng đồng. Với những người không xem xét
vấn đề này qua trung gian của niềm say mê hoặc của lợi ích, thì mong muốn của các tiểu
bang thương mại để thu được nguồn thu nhập gián tiếp từ lân bang phi thương mại của
họ, dưới bất kỳ hình thức nào, hẳn được xem là không ít thất sách hơn là không công
bằng; vì nó sẽ kích thích bên bị tổn thương, bởi oán hận cũng như lợi ích, viện dẫn đến
các nguồn kém thuận lợi cho việc buôn bán với nước ngoài của họ. Nhưng mà những
tiếng nói ôn hòa của lý trí đã bị nhấn chìm quá thường xuyên, trước khi đưa ra được lý do
về lợi ích mở rộng và lâu dài cho các tổ chức công cộng cũng như những cá nhân, vì
những phản đối mạnh mẽ của sự tham lam khó chịu đối với những mối lợi thái quá trước
mắt.
Tính thiết thực của quyền giám sát việc buôn bán qua lại giữa các tiểu bang trong Liên
bang, đã được minh họa bằng các ví dụ ở nơi khác cũng như của chính chúng ta. Ở Thụy
Sĩ, nơi Liên bang là quá lỏng lẻo, mỗi bang có nghĩa vụ cho phép các hàng hóa vào các
bang khác với sự thông qua của cơ quan thẩm quyền của nó, mà không cần tăng thêm các
loại phí cầu đường. Ở Đức, một luật của đế chế, quy định rằng các hoàng tử và các tiểu
bang sẽ không đánh thuế cầu đường hoặc thuế hải quan đối với những cây cầu, con sông,
hoặc đường đi, mà không có sự đồng ý của hoàng đế và nghị viện; mặc dù giống như
điều được trích dẫn trong bài viết trước, rằng thực tiễn trong trường hợp này, cũng như
nhiều trường khác trong liên bang đó, đã không tuân theo đúng luật, và đã tạo ra ở đó các
mối nguy hiểm được thấy trước ở đây. Trong số các hạn chế áp đặt bởi Liên bang Hà Lan
CXXVI
đối với các thành viên của nó, có một điểm là họ sẽ không được đặt ra các loại thuế gây
thiệt thòi cho các lân bang của họ, mà không có sự cho phép của tất cả các thành viên.
Các quy định về việc buôn bán với các bộ tộc da đỏ được giải phóng một cách rất đúng
đắn khỏi hai hạn chế trong bộ điều luật Liên bang, làm cho điều khoản này bị lu mờ và
mâu thuẫn. Quyền lực ở đó bị hạn chế đối với dân da đỏ, không phải là thành viên của bất
kỳ tiểu bang nào, và không xung đột hoặc vi phạm quyền lập pháp của bất kỳ tiểu bang
nào nằm trong những giới hạn của chính nó. Điều mô tả về các bộ tộc da đỏ như là các
thành viên của một tiểu bang, chưa được dàn xếp, và vẫn là vấn đề phức tạp và gây tranh
cãi thường xuyên trong các hội đồng liên bang. Và việc buôn bán như thế nào với thổ dân
da đỏ, mặc dù không phải là các thành viên của tiểu bang, vẫn nằm trong phạm vi thẩm
quyền lập pháp của nó, có thể được quy định bởi một quyền nằm ngoài lập pháp, mà
không xâm phạm quá sâu đến những thẩm quyền thi hành pháp luật bên trong, là rất khó
hiểu. Đây không phải là trường hợp duy nhất mà ở đó các điều luật Liên bang đã cố gắng
một cách thiếu thận trọng để hoàn thành những điều không thể thực hiện được; nhằm làm
hài hoà chủ quyền một phần trong Liên bang, với chủ quyền đầy đủ trong các tiểu bang;
để phá vỡ một tiên đề toán học, bằng cách cất đi một phần, và cho phép giữ nguyên toàn
bộ.
Tất cả những vấn đề phải được cân nhắc về quyền đúc tiền, điều chỉnh giá trị của nó, với
giá trị của tiền xu nước ngoài, là căn cứ cho trường hợp cuối cùng này, Hiến pháp đã bổ
khuyết cho thiếu sót quan trọng trong bộ các điều luật liên bang. Quyền thực thi của
Quốc hội hiện nay bị hạn chế đối với quy định về tiền ĐƯỢC ĐÚC bởi chính quyền hạn
pháp lý của họ, hay quyền của các tiểu bang tương ứng. Người ta phải được thấy ngay lập
tức rằng sự thống nhất đề xuất về GIÁ TRỊ của các loại tiền hiện đang lưu hành có thể bị
phá hủy bằng việc bắt giá trị của đồng xu nước ngoài phải tuân theo những quy định khác
nhau của các tiểu bang khác nhau.
CXXVII
Việc trừng phạt nạn làm giả những chứng nhận sở hữu công, cũng như tiền đang lưu
thông, dĩ nhiên phải trình lên cơ quan có thẩm quyền để bảo đảm giá trị cho cả hai.
Các quy định về trọng lượng và các phương tiện đúc tiền được chuyển sang từ các điều
luật Liên bang, và được dựa trên những xem xét tương tự với quyền quy định về tiền xu
trước đó.
Tính khác nhau trong các quy tắc về nhập tịch đã từ lâu được xem như một sai lầm trong
hệ thống của chúng ta, và đặt cơ sở cho các vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Trong điều 4
của luật Liên bang, nó được tuyên bố "NHỮNG CƯ DÂN TỰ DO của mỗi tiểu bang này,
ngoại trừ những người được hưởng cứu tế, những người lang thang, và những kẻ chạy
trốn luật pháp, sẽ được hưởng tất cả các quyền ưu đãi và miễn trừ của CÁC CÔNG DÂN
TỰ DO trong một số tiểu bang; và NHÂN DÂN của mỗi tiểu bang sẽ được tận hưởng tất
cả các đặc quyền về buôn bán kinh doanh trong tất cả các bang khác", v.v... Có một sự
nhầm lẫn đáng kể về ngôn ngữ ở đây. Tại sao các thuật ngữ CƯ DÂN TỰ DO được sử
dụng trong một phần, CÁC CÔNG DÂN TỰ DO trong phần khác, và NHÂN DÂN trong
phần khác nữa của điều luật này; hay cái gì đã có nghĩa khi thêm vào quá nhiều "tất cả
các quyền ưu đãi và miễn trừ của các công dân tự do", "tất cả các đặc quyền buôn bán và
kinh doanh," không thể được xác định một cách dễ dàng. Tuy nhiên, dường như sự giải
thích hiếm khi tránh được, là những ai được xếp nằm trong nhóm các cư dân tự do của
một tiểu bang, mặc dù không phải là công dân của bang đó, được hưởng tất cả các đặc
quyền của CÁC CÔNG DÂN TỰ DO của nhóm sau trong tất cả các bang khác; nghĩa là,
các đặc quyền lớn hơn mà họ có thể được hưởng trong chính bang của họ: để điều đó có
thể thuộc quyền hạn của một tiểu bang riêng, hoặc đúng hơn là mỗi bang được đặt ra theo
tính cần thiết, không chỉ được trao các quyền công dân trong các tiểu bang khác cho bất
kỳ ai có thể nhận các quyền đó trong chính bang của nó, mà còn cho bất kỳ ai có thể được
phép trở thành cư dân trong phạm vi thẩm quyền của nó. Song cách giải thính thuật ngữ
"cư dân" đã được chấp nhận sẽ hạn chế các đặc quyền đã quy định chỉ riêng đối với các
công dân, sự khó hiểu chỉ được giảm đi mà không bị loại bỏ. Chính quyền hạn không
CXXVIII
thích hợp này vẫn sẽ được giữ lại ở mỗi tiểu bang, đối với ngoại kiều nhập tịch trong tất
cả các tiểu bang khác,. Trong một tiểu bang, quá trình cư trú trong khoảng thời gian ngắn
xác nhận tất cả các quyền công dân: trong tiểu bang khác, những chứng nhận quan trọng
hơn bị yêu cầu. Do đó, một kiều dân bị tước bỏ các quyền nhất định một cách hợp luật ở
bang sau, có thể chỉ với quá trình cư trú trước đó trong bang trước, tránh được sự thiếu tư
cách của anh ta; và như vậy luật pháp của một tiểu bang bị làm cho cao hơn luật lệ của
tiểu bang khác một cách vô lý, thuộc thẩm quyền của bang kia. Chúng tôi công nhận điều
đó đơn thuần là chỗ gây hiểu nhầm, mà những tình trạng lúng túng rất nghiêm trọng về
chủ đề này cho đến nay đã được tránh khỏi. Theo các luật lệ của một số bang, những định
nghĩa nhất định về ngoại kiều, người đã làm cho chính họ khó chịu, đã được đặt ra theo
các lệnh cấm không chỉ không phù hợp với các quyền công dân mà cả với quyền cư trú.
Cái gì sẽ là kết quả, nếu những người đó, do quá trình cư trú hoặc bằng cách khác, đã tích
lũy những đặc tính công dân theo các bộ luật của tiểu bang khác, và sau đó xác nhận
quyền công dân của họ như vậy, cả về thời gian cư trú và tư cách công dân, trong tiểu
bang đang đặt họ ra ngoài vòng pháp luật? Dù bất kỳ kết quả pháp lý có thể có nào, các
hậu quả khác có lẽ hẳn sẽ dẫn đến trạng thái quá nghiêm trọng mà không được dự phòng.
Do vậy, Hiến pháp mới, với tính đúng đắn lớn, đã đặt ra điều khoản chống lại chúng, và
tất cả những văn bản khác khỏi khiếm khuyết của Liên bang về đề mục này, bằng cách
cho quyền chính phủ trung ương thiết lập một nguyên tắc thống nhất về việc nhập tịch ở
khắp mọi nơi của nước Mỹ.
Quyền thiết lập các luật lệ thống nhất về việc phá sản liên quan mật thiết đến quy định về
hoạt động buôn bán thương mại, và sẽ ngăn chặn rất nhiều sự gian lận ở nơi mà các bên
hoặc tài sản của họ có thể được pháp luật công nhận hoặc phải chuyển sang các bang
khác, nơi mà tính thiết thực của nó không bao giờ được đưa ra xem xét.
Quyền thực thi theo các luật lệ chung, cách thức mà theo đó các đạo luật công khai, các
hồ sơ và văn bản tư pháp của mỗi bang sẽ được chứng thực, và có hiệu lực mà chúng sẽ
có trong các tiểu bang khác, là một sự tiến bộ hiển nhiên và có giá trị đối với điều khoản
CXXIX
liên quan đến chủ đề này trong các điều luật Liên bang. Ý nghĩa của phần sau là cực kỳ
mơ hồ, và có thể là ít quan trọng hơn theo bất kỳ sự giải thích nào mà nó sẽ có hiệu lực.
Quyền hạn đã thiết lập ở đây có thể được làm thành một văn kiện tư pháp rất thuận tiện,
và đặc biệt có lợi cho những khu vực biên giới của các tiểu bang tiếp giáp, nơi mà những
tác động thuộc khả năng tư pháp có thể bị diễn giải một cách bất ngờ và bí mật trong bất
kỳ giai đoạn của quá trình, nằm trong thẩm quyền của lân bang.
Trong mọi quan niệm, quyền thiết lập hệ thống đường bưu điện phải là quyền vô hại, và
nên chăng, có thể trở thành điều thuận tiện to lớn và hữu ích cho cộng đồng, bằng cách
quản lý đúng đắn. Không gì có xu hướng làm thuận tiện cho quan hệ giữa các tiểu bang
có thể được coi là không có giá trị trong việc giữ gìn cộng đồng.
PUBLIUS
CXXX
Thư Liên bang số 43
Tiếp theo (Các quyền Hiến pháp trao cho Liên bang phải được cân nhắc
thấu đáo)
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Loại quyền lực thứ tư bao gồm các quyền khác nhau như sau:
1. Quyền "thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học và các lĩnh vực nghệ thuật hữu ích, bằng cách
bảo đảm sự độc quyền đối với các tác phẩm và phát minh tương ứng cho các tác giả và
những nhà phát minh trong một khoảng thời gian có giới hạn.
"Tính thiết thực của quyền lực này sẽ hiếm khi bị nghi ngờ. Bản quyền tác giả đã được
cấp chính thức theo quy định của thông luật tại Anh quốc. Quyền có được đối với những
sáng chế hữu ích dường như thuộc về các nhà phát minh với lý do tương tự. Lợi ích cộng
đồng hoàn toàn trùng khớp với quyền yêu sách của các cá nhân trong cả hai trường hợp.
Các tiểu bang không thể thực hiện riêng rẽ các điều khoản hợp pháp cho một trong các
trường hợp này, và đa phần họ đã lường trước sự phán quyết về điểm này, bởi các luật lệ
được Quốc hội thông qua.
2. "Quyền thực thi việc soạn luật dành riêng, trong mọi trường hợp, trên khắp khu vực
(không quá mười dặm vuông) này như có thể, bởi hành động nhượng quyền của các tiểu
bang riêng biệt và sự chấp nhận của Quốc hội, để cho nó trở thành một khu vực của chính
phủ Hoa Kỳ; và để thực thi thẩm quyền tương tự khắp tất cả những nơi có được nhờ sự
chấp thuận của các cơ quan lập pháp các tiểu bang, mà ở đó cũng sẽ tán thành việc xây
dựng các pháo đài, kho vũ khí, xưởng sản xuất đạn dược, xưởng đóng tàu, và các tòa nhà
cần thiết khác.
CXXXI
"Tính cần thiết không thể thiếu của thẩm quyền đầy đủ tại khu vực chính phủ, chứa đựng
căn cứ của chính nó. Đó là quyền hạn được sử dụng của mọi cơ quan lập pháp Liên bang,
có thể nói là về mọi thứ, vì quyền lực tối cao không giới hạn của nó. Nếu không có nó,
không chỉ uy quyền chung có thể bị xúc phạm và các biên bản về quyền đó bị phá hủy
bới việc không bị trừng phạt, mà sự phụ thuộc của các thành viên chính phủ liên bang
vào tiểu bang có khu vực chính phủ, để bảo đảm việc thực thi nhiệm vụ của họ, có thể
dẫn các hội đồng quốc gia đến việc đổ lỗi cho nỗi sợ hãi hay ảnh hưởng, cũng đáng hổ
thẹn đối với chính phủ và làm bất mãn các thành viên khác của Liên bang. Cân nhắc này
có sức nặng hơn, sự tích lũy dần dần những tiến bộ chung tại nơi tọa lạc của chính phủ sẽ
vừa là vật bảo đảm công khai quá lớn được để mặc cho sự kiểm soát của một tiểu bang
đơn lẻ, vừa tạo ra quá nhiều trở ngại đối với việc di chuyển của chính phủ, cũng như vẫn
còn xa để giảm bớt tính độc lập tất yếu của nó. Phạm vi khu vực liên bang này bị giới hạn
hoàn toàn để thỏa mãn mọi thái độ đố kỵ của những người phản đối. Và vì nó phải được
dành riêng cho việc sử dụng như vậy với sự cho phép của tiểu bang nhượng lại nó; vì tiểu
bang đó không còn nghi ngờ gì sẽ quy định những thỏa thuận cho các quyền lợi và việc
chấp thuận của các công dân đang sinh sống ở đó; vì các cư dân sẽ được thuyết phục đầy
đủ về lợi ích để trở thành các bên vui lòng nhượng quyền; vì họ hẳn sẽ có tiếng nói của
mình trong việc bầu cử chính phủ để thực thi thẩm quyền đối với họ; vì một cơ quan lập
pháp đô thị cho các mục tiêu của địa phương, có nguồn gốc từ quyền đi bầu của chính họ,
tất nhiên sẽ được họ cho phép; vì quyền lực của cơ quan lập pháp tiểu bang, và của cư
dân khu vực đã nhượng quyền của nó, đồng tình về việc nhượng quyền, sẽ phải xuất phát
từ toàn thể nhân dân của tiểu bang trong việc chấp nhận bản Hiến pháp của họ, mọi phản
đối có thể hình dung được dường như đã bị ngăn chặn.
Sự cần thiết của một quyền hạn tương tự đối với các pháo đài, các kho vũ khí, v.v… đã
được thiết lập bởi chính phủ trung ương, là không kém phần rõ ràng. Số tiền công khai
tiêu dùng cho những chốn như vậy, và tài sản công khai dành cho chúng, đòi hỏi chúng
phải được miễn tuân theo uy quyền của tiểu bang đơn lẻ nào. Điều tương tự cũng không
thích hợp cho những nơi mà sự an toàn của toàn bộ Liên bang có thể phụ thuộc, với bất
CXXXII
kỳ mức độ nào vào một thành viên riêng biệt của nó. Mọi phản đối và do dự ở đây cũng
được ngăn chặn, bởi việc đòi hỏi sự đồng tình chấp nhận của các tiểu bang liên quan, về
tất cả mọi cơ sở kiến lập như vậy.
3. "Quyền công bố việc trừng phạt tội phản quốc, nhưng không một lệnh tước quyền công
dân và tịch thu tài sản nào sẽ làm ô uế thanh danh, hoặc tước mất quyền danh dự của kẻ
phản quốc, ngoại trừ trong quãng đời mà người đó bị tước quyền.
"Vì tội phản quốc có thể bị buộc là do chống lại nước Mỹ, thẩm quyền của Hoa Kỳ phải
được phép trừng phạt nó. Song khi những tội phản quốc giả mạo và mới lạ với những
động cơ lớn lao do các phe phái quá khích, mà kết quả tự nhiên của chính phủ tự do
thường gây ra tà tâm giữa họ đối với nhau. Rất sáng suốt, hội nghị đã tạo ra rào cản đối
với việc làm nguy hiểm này, bằng cách đưa vào một định nghĩa hợp hiến về tội phản
quốc, ấn định các chứng cứ cần thiết để kết tội này, và kiềm chế Quốc hội, thậm chí trừng
phạt nó, do việc mở rộng những hậu quả phạm tội vượt quá người gây ra nó.
4. "Quyền cho phép các bang mới gia nhập Liên bang; nhưng không bang mới nào được
hình thành hoặc dựng lên trong quyền uy của bất kỳ bang nào khác; cũng không có bất kỳ
bang nào được dựng lên bởi chỗ tiếp giáp của hai hay nhiều tiểu bang, hoặc các phần của
các bang, mà không được chấp thuận bởi các cơ quan lập pháp của các bang liên quan,
cũng như của Quốc hội Liên bang.
"Trong các điều luật Liên bang, không có điều khoản nào được thấy nói về chủ đề quan
trọng này. Canada đã được chấp nhận quyền gia nhập của nó vào các chuẩn mực của Hoa
Kỳ; và CÁC THUỘC ĐỊA khác, vì quyền đó rõ ràng đã dành cho các thuộc địa của Anh
quốc, với sự suy xét thận trọng của chín tiểu bang. Sự thiết lập cuối cùng của CÁC
BANG MỚI dường như đã không được chú ý tới bởi những người biên soạn văn kiện đó.
Chúng tôi đã thấy rõ sự bất tiện của thiếu sót này, và trọng trách quyền lực mà theo đó
Quốc hội đã giao phó. Do đó, hệ thống mới đã sửa chữa khiếm khuyết này một cách hết
CXXXIII
sức đúng đắn. Sự phòng trước thông thường là không tiểu bang mới nào sẽ được thành
lập, mà không được sự nhất trí của những người có thẩm quyền trong liên bang, và sự
đồng tình của các tiểu bang liên quan, phù hợp với các nguyên tắc sẽ chi phối văn kiện
này. Sự lo liệu trước một cách chi tiết chống lại việc thành lập các tiểu bang mới, bởi sự
phân chia của một tiểu bang mà không có được sự đồng tình của nó, lắng dịu đố kỵ của
các tiểu bang lớn hơn; cũng như ghen ghét của tiểu bang nhỏ hơn được làm lắng xuống
bởi sự lường trước tương tự, chống lại sự liên kết của các tiểu bang mà không có sự đồng
ý của họ.
5. "Quyền sắp đặt và thực hiện tất cả các luật lệ và quy định cần thiết tôn trọng lãnh thổ
hoặc tài sản khác thuộc về Hoa Kỳ, với một điều kiện, là không có điểm nào trong Hiến
pháp sẽ bị diễn giải theo hướng làm tổn hại đến bất kỳ tuyên bố nào của Hoa Kỳ, hay của
bất cứ tiểu bang riêng biệt nào.
"Đây là quyền có tầm quan trọng rất lớn, và đòi hỏi những suy xét tương tự như những
cân nhắc chỉ ra tính đúng đắn của hệ thống trước đó. Điều kiện kèm theo là phù hợp, và
đã có thể thể hiện tính cần thiết tuyệt đối bởi những ghen tỵ và ngờ vực liên quan đến
lãnh thổ của phương Tây đã hoàn toàn quen thuộc với công chúng.
6. "Quyền đảm bảo thể chế cộng hòa của chính phủ đối với mọi bang trong Liên bang;
quyền để bảo vệ mỗi tiểu bang trong đó chống lại sự xâm lấn; và với sự chuyên tâm của
các cơ quan lập pháp, hoặc hành pháp (khi lập pháp không thể bị triệu tập), chống lại
những xung đột trong nước.
"Trong một liên bang dựa trên các nguyên tắc cộng hòa, và bao gồm các thành viên cộng
hòa, chính phủ đương quyền rõ ràng phải có thẩm quyền bảo vệ hệ thống chống lại những
sự cách tân kiểu quân chủ và quý tộc. Tình trạng của liên bang này càng có thể thân mật,
lợi ích của các thành viên trong các tổ chức chính trị có được càng lớn; và quyền khẳng
định các thể chế chính phủ theo đó những thỏa thuận đã ký kết sẽ được duy trì càng tốt về
CXXXIV
THỰC CHẤT. Nhưng quyền hạn ám chỉ phương thức hoạt động; và nơi nào khác mà
phương thức này có thể được giao phó, hơn là nơi nó được ký thác bởi Hiến pháp? Các
chính phủ với những nguyên tắc và thể chế không giống nhau đã được thấy là kém thích
nghi với sự liên kết dạng liên bang theo bất cứ hình thức nào, hơn là những chính phủ với
bản chất giống nhau. Montesquieu nói, "Như kinh nghiệm cho chúng ta thấy cộng hòa
liên bang Đức bao gồm các thành phố không bị ràng buộc và các tiểu bang nhỏ bé, phụ
thuộc vào các vị hoàng tử khác nhau, là kém hoàn hảo hơn thể chế của Hà Lan và Thụy
Sĩ." Ông nói thêm, "Liên bang Hy Lạp đã bị phá bỏ, ngay khi vua của vương quốc
Macedonia cổ đại giành được một ghế trong hội đồng Đại nghị liên bang". Trong trường
hợp sau đó, không còn nghi ngờ gì, sức mạnh không cân xứng, cũng như thể chế quân
chủ của liên bang mới, đã góp ảnh hưởng đến các khả năng có thể xảy ra. Có lẽ người ta
đã đặt ra vấn đề, điều cần thiết ở đó có thể thuộc về việc lường trước như vậy, và liệu nó
có thể không trở thành một lý do cho những thay đổi trong các chính phủ bang, mà không
có sự đồng tình của chính các tiểu bang này. Những câu hỏi này thừa nhận các câu trả lời
có sẵn. Nếu việc xen vào của chính phủ trung ương là không cần thiết, điều khoản về vấn
đề này sẽ là sự dư thừa vô hại trong chính bản Hiến pháp. Nhưng ai có thể nói những
thực tế nào có thể được tạo ra bởi sự thất thường của các tiểu bang riêng biệt, bởi tham
vọng của những người lãnh đạo mạnh dạn, hoặc bởi những mưu mô và ảnh hưởng của
các thế lực nước ngoài? Đối với câu hỏi thứ hai, người ta có thể được trả lời rằng nếu
chính phủ trung ương phải can thiệp vì quyền hợp hiến này, dĩ nhiên, nó sẽ buộc phải
theo đuổi quyền hạn đó. Nhưng uy quyền không mở rộng xa hơn đến việc BẢO ĐẢM thể
chế cộng hòa của chính phủ, giả định chính phủ tồn tại từ trước đang có thể chế được
đảm bảo. Do đó, miễn là các hình thức cộng hoà hiện có được tiếp tục bởi các tiểu bang,
chúng sẽ được bảo đảm bởi Hiến pháp liên bang. Bất cứ khi nào các tiểu bang cũng có
thể chọn để thay thế các hình thức cộng hòa khác, họ có quyền làm như vậy, và đòi hỏi sự
bảo đảm của liên bang cho thể thức cộng hòa sau. Hạn chế duy nhất buộc họ phải chấp
nhận là, họ sẽ không đánh đổi Hiến pháp cộng hòa cho các Hiến pháp chống chế độ cộng
hòa; một hạn chế được cho là sẽ khó bị xem xét như một sự bất công.
CXXXV
Việc bảo vệ chống lại sự xâm lấn là thích đáng của mọi xã hội đến các phần tạo nên nó.
Mức độ biểu hiện ở đây dường như thường để bảo vệ mỗi bang không chỉ chống lại sự
thù địch của nước ngoài, mà còn chống lại những hành động hận thù và đầy tham vọng
của các lân bang hùng mạnh hơn. Lịch sử của cả các liên bang cổ đại và hiện đại, đều
chứng minh rằng các thành viên yếu hơn của liên bang phải không bị mê hoặc đối với
cách giải quyết của điều luật này.
Việc bảo vệ chống những xung đột trong nước được thêm vào với tính chính đáng tương
tự. Người ta đã nhận thấy, ngay trong số các bang của Thụy Sĩ, điều khoản được tạo ra
cho mục đích này, nói đúng hơn, là không thuộc về một chính phủ; và lịch sử của liên
minh đó cho chúng ta biết rằng sự tương trợ lẫn nhau thường xuyên bị đòi hỏi và được
ban ra; bởi các bang dân chủ nhất, cũng như các bang khác. Một sự kiện nổi tiếng gần
đây trong chúng ta đã cảnh báo chúng tôi phải chuẩn bị cho các trường hợp khẩn cấp có
bản chất tương tự.
Với cái nhìn đầu tiên, điều có thể là không tương xứng với lý thuyết cộng hòa, khi giả
thiết rằng, hoặc đa số không có quyền, hoặc thiểu số sẽ có quyền, lật đổ một chính phủ;
và kết quả là việc xen vào của chính phủ liên bang có thể không bao giờ cần thiết, trừ khi
nó sẽ bất ổn. Nhưng về mặt lý thuyết, trong trường hợp này cũng như ở hầu hết các
trường hợp khác, điều đó cần phải được tuyên bố qua các bài học thực tiễn. Tại sao
những liên kết không hợp pháp vì mục đích xung đột, có thể không được hình thành bởi
đa số người dân của một bang, nhất là bang nhỏ cũng như bởi đa số người dân của một
tỉnh, hoặc một khu vực dân cư của cùng tiểu bang; và trong trường hợp sau, nếu quyền
lực của tiểu bang phải bảo vệ quyền lực địa phương, mà không phải quyền lực của liên
bang trong trường hợp trước đó, để xác nhận quyền của tiểu bang? Bên cạnh đó, có
những phần nhất định của hiến pháp tiểu bang được trộn lẫn với Hiến pháp liên bang, mà
một tai họa nghiêm trọng không thể bị gây ra cho tiểu bang đó mà không dẫn tới những
tổn thương cho các bang khác. Những cuộc nổi dậy trong một tiểu bang sẽ hiếm khi gây
ra sự can thiệpp của liên bang, trừ khi một số trong đó chịu vài phần ứng với những
CXXXVI
người ủng hộ chính phủ. Sẽ là điều tốt hơn nhiều khi xung đột trong những trường hợp
như vậy được ngăn chặn bởi quyền giám sát, hơn là đa số được phép duy trì động cơ của
chúng thông qua một cuộc chiến dai dẳng và đẫm máu. Sự tồn tại của quyền can thiệp,
nhìn chung sẽ ngăn cản sự cần thiết đưa nó vào sử dụng.
Có đúng là sức mạnh và quyền lợi tất yếu thuộc về cùng một bên trong các chính phủ
cộng hoà? Có thể các đảng nhỏ không có được sự ưu việt như vậy về tiền tài, khả năng và
kinh nghiệm quân sự, hoặc về những sự giúp đỡ bí mật từ các thế lực nước ngoài, để làm
cho nó mạnh hơn nữa trong sự lôi kéo quyền lực? Có thể một vị thế thuận lợi và vững
vàng hơn không quay cán cân về cùng bên, chống lại một số mạnh hơn trong tình cảnh ít
có thể nỗ lực một cách tự chủ và mau chóng về sức mạnh của nó? Không gì có thể hão
huyền hơn khi tưởng tượng rằng trong một phiên tòa với thế lực hiện nay, chiến thắng có
thể được tính toán theo những quy tắc thịnh hành trong cuộc điều tra dân số, hay các
nguyên tắc xác định khả năng có thể xảy ra trong một cuộc bầu cử! Có thể không xảy ra,
dù nhỏ, việc thiểu số các CÔNG DÂN có thể trở thành một đa số nhiều NGƯỜI DÂN, do
sự gia nhập của những vị khách xa lạ, do sự tụ họp tình cờ của những nhà thám hiểm,
hoặc của những người mà hiến pháp tiểu bang đã không chấp nhận quyền bỏ phiếu? Tôi
không lưu ý đến hạng dân cư không hài lòng đầy rẫy trong một số tiểu bang, những
người, trong thời kỳ yên ổn của một chính phủ tốt, bị nhấn chìm dưới mức con người; mà
nói đến những người dân, trong những hoàn cảnh giông bão của xung đột dân sự, có thể
nổi lên tính cách con người, và đưa ra ưu thế về sức mạnh đối với bất kỳ bên nào mà họ
có thể hợp sức với.
Trong trường hợp nơi mà công lý sẽ thuộc về có thể bị nghi ngờ, việc tranh giành ảnh
hưởng, và chia tách tiểu bang thành từng phần nhỏ, là những phán xử có thể được trông
chờ từ cả hai phía xung đột hơn là những người đại diện của các tiểu bang trong liên
bang, mà không bị kích thích bởi chủ nghĩa cục bộ địa phương? Họ sẽ hợp nhất tình cảm
yêu mến của những người ủng hộ thành tính công bằng của các thẩm phán. Sẽ là điều
hạnh phúc nếu một phương thuốc kiểu đó đối với sự yếu đuối của nó có thể được thỏa
CXXXVII
mãn bởi mọi chính phủ tự do; nếu một kế hoạch có thể được thiết lập với hiệu lực tương
đương cho hòa bình phổ quát của nhân loại!
Người ta sẽ hỏi, quyền gì là để trở thành vật bồi thường cho cuộc nổi dậy đang lan rộng
khắp tất cả các tiểu bang, và bao gồm sự vượt trội của sức mạnh tổng thể, mặc dù không
phải là một quyền hợp hiến? Câu trả lời hẳn phải là, trường hợp đó có thể nói nó sẽ nằm
ngoài phạm vi các biện pháp của loài người, rất may nó không thuộc vào phạm vi khả
năng của con người; rằng đó là khuyến cáo đầy đủ của Hiến pháp liên bang, và nó làm
giảm bớt rủi ro về một thảm họa mà không một hiến pháp hợp lý nào có thể đưa ra cách
khắc phục đối với tai họa đó.
Trong số những thuận lợi của một chính phủ cộng hòa liên bang được liệt kê bởi
Montesquieu, điều quan trọng là, "một cuộc nổi dậy của nhân dân sẽ xảy ra trong một
tiểu bang, những bang khác có thể chế ngự nó. Những hành động bất lương sẽ chỉ len vào
được một phần, chúng được sửa chữa bởi những phần vẫn còn vững mạnh."
7. "Quyền xem xét tất cả các khoản nợ đã phải chấp nhận, và các cam kết đã ký kết trước
khi thông qua Hiến pháp này, như đang có không ít hiệu lực đối với Hoa Kỳ, theo Hiến
pháp Liên bang, hơn là theo bộ luật Liên bang."
Điều này chỉ có thể được xem xét như là lời tuyên bố có tính chất giải thích; và có thể
được đưa vào, giữa các lý do khác, để làm thỏa mãn các chủ nợ nước ngoài của Hoa Kỳ,
những người không thể là những kẻ xa lạ với học thuyết giả, rằng một thay đổi về thể chế
chính trị của xã hội dân sự có tác động ma lực phá hủy những bổn phận luân lý của nó.
Trong số các chỉ trích nhỏ hơn đã tác động đến Hiến pháp, người ta đã nhận thấy rằng
tính hiệu lực của những cam kết phải được khẳng định bằng sự ủng hộ của Hoa Kỳ, cũng
như áp vào nó; và trong tinh thần thường đặc trưng cho những người chỉ trích hẹp hòi, sự
thiếu sót đã bị biến đổi và phóng đại thành một âm mưu chống lại các quyền lợi quốc gia.
CXXXVIII
Các tác giả của phát hiện này có thể nói ra, cái mà một vài người khác cần phải được
thông báo, vì những cam kết thuộc về thỏa thuận tương hỗ tự nhiên của họ, một sự khẳng
định tính hiệu lực của chúng với bên này, liên quan tất yếu đến tính hiệu lực với bên kia;
và vì rằng điều luật này chỉ đơn thuần để giải thích, việc thiết lập nguyên tắc trong một
trường hợp là đủ cho mọi trường hợp. Họ có thể phải nói rõ hơn, rằng mọi hiến pháp phải
giới hạn những sự liệu trước của nó đối với những mối nguy hiểm mà không phải do
tưởng tượng hoàn toàn; và rằng không mối hiểm nguy thực sự nào có thể tồn tại mà chính
phủ sẽ phải ĐƯƠNG ĐẦU với, hoặc thậm chí không có tuyên bố hợp hiến nào trước đó,
để công khai các khoản nợ một cách đủ hợp lý, với lý do đã bị chỉ trích ở đây.
8. "Quyền đưa ra những sửa chữa được thông qua bởi 3/4 tiểu bang với chỉ chưa đến hai
phản đối.
"Rằng những thay đổi hữu ích sẽ được đề xuất bởi kinh nghiệm, song có thể không được
biết trước. Do đó, điều tiên quyết là cách thức để đưa chúng vào phải được quy định.
Cách thức ưa thích bởi hội nghị dường như được chứng tỏ bằng tất cả những dấu hiệu
đúng đắn. Nó cũng bảo vệ chống sự dễ dãi cùng cực, sẽ làm cho Hiến pháp quá dễ thay
đôi; và sự khó khăn cùng cực, có thể duy trì các sai lầm đã được nhận ra của nó. Hơn
nữa, nó cũng có thể cho phép các chính phủ tiểu bang và trung ương tạo ra sửa chữa đối
với sai lầm, vì chúng có thể được chỉ ra bởi kinh nghiệm từ phía này hay phía khác. Sự
phản đối đối với tính công bằng trong quyền bầu cử Thượng viện, có lẽ đã có nghĩa như
là một vật bảo hộ cho chủ quyền còn lại của tiểu bang, được hàm ý và bảo đảm bởi
nguyên tắc đại diện trong một nhánh của lập pháp; và có thể đã được khẳng định bởi các
tiểu bang gắn bó đặc biệt với sự bình đẳng đó. Phản đối khác hẳn được thừa nhận dựa
trên những xem xét tương tự đã tạo ra đặc quyền được nó bảo vệ.
9. "Việc phê chuẩn các hiệp định của chín tiểu bang sẽ là đủ để thiết lập Hiến pháp này
giữa các tiểu bang, thông qua điều tương tự."
CXXXIX
Điều luật này đã tự nói rõ. Chỉ thẩm quyền rõ ràng của riêng nhân dân có thể trao hiệu
lực xứng đáng cho Hiến pháp. Để có sự phê chuẩn đồng lòng và cần có của mười ba tiểu
bang, sẽ phải đưa ra những lợi ích thiết yếu của toàn bộ đối với tính thất thường hay mục
ruỗng của một thành viên duy nhất. Nó hẳn sẽ đánh dấu sự thiếu nhìn xa trông rộng tại
hội nghị, mà kinh nghiệm của chính chúng ta có lẽ hẳn sẽ không thể tha thứ được.
Hai câu hỏi với một bản chất rất tế nhị đưa ra cho chính họ trong trường hợp này: 1. Bằng
nguyên tắc nào, mà Liên bang đại diện cho hình thức trang trọng của thỏa thuận bên
trong các tiểu bang, có thể bị thay thế mà không có sự đồng thuận nhất trí của các bên đối
với nó? 2. Mối quan hệ nào tiếp tục tồn tại giữa chín hay nhiều hơn các tiểu bang phê
chuẩn Hiến pháp, và thiểu số còn lại không trở thành các bên đối với nó?
Câu hỏi đầu tiên được trả lời ngay lập tức bằng việc quay lại với tính cần thiết tuyệt đối
trong trường hợp này; với nguyên tắc vĩ đại về sự tự bảo toàn; với luật lệ siêu việt của tự
nhiên và Chúa tể của thiên nhiên, được tuyên bố rằng sự an toàn và hạnh phúc của xã hội
là những mục đích mà tất cả các tổ chức chính trị nhắm tới, và tất cả các tổ chức như vậy
hẳn phải hy sinh cho nó. Cũng CÓ LẼ, một câu trả lời có thể được tìm thấy mà không
phải tìm kiếm bên ngoài các nguyên tắc của chính thỏa thuận. Cho đến nay, người ta đã
lưu ý trong những khiếm khuyết của Liên bang, rằng nó đã không nhận được sự phê
chuẩn cao hơn chỉ là sự phê chuẩn của lập pháp trong nhiều tiểu bang. Nguyên tắc tương
hỗ dường như đòi hỏi nghĩa vụ của nó với các tiểu bang khác phải hạ xuống cùng tiêu
chuẩn. Sự thỏa thuận giữa các bang có chủ quyền độc lập, dựa trên những đạo luật thông
thường của cơ quan lập pháp, có thể đòi hỏi hiệu lực không cao hơn liên minh hoặc hiệp
ước giữa các bên. Đó là một học thuyết được thiết lập dựa trên chủ đề của các hiệp ước,
rằng tất cả các điều khoản là những điều kiện có cùng mối quan hệ với nhau; rằng sự vi
phạm bất kỳ một điều khoản nào là sự vi phạm toàn bộ hiệp ước; và rằng sự vi phạm, bởi
hoặc mỗi một bên, là cái cớ chính đáng cho các bên khác, và cho phép họ thông báo sự
thỏa thuận đã bị xâm phạm và không có hiệu lực nếu họ vui lòng. Nó sẽ không may là
cần khăng khăng đòi hỏi những sự thật nhạy cảm này để biện minh cho việc bỏ qua sự
CXL
đồng tình của các tiểu bang riêng biệt đối với việc hủy bỏ hiệp ước liên bang, sẽ không
bên oán trách nào thấy khó giải đáp các vi phạm NHIỀU LẦN và QUAN TRỌNG mà họ
có thể phải đương đầu? Thời điểm là khi phận sự của tất cả chúng ta phải giấu kín những
ý tưởng mà đoạn này thể hiện. Tình cảnh bây giờ đã bị thay đổi, và cùng với nó là phần
mà các động cơ tương tự sai khiến.
Câu hỏi thứ hai không kém phần tế nhị; và triển vọng hão chỉ đơn thuần về lý thuyết ngăn
cấm việc thảo luận quá tò mò về nó. Đó là một trong những trường hợp hẳn phải được
phép để ủng hộ chính nó. Nhìn chung, người ta có thể quan sát thấy rằng mặc dù không
có mối quan hệ chính trị nào có thể tiếp tục tồn tại giữa các tiểu bang đồng ý và bất đồng,
nhưng các mối quan hệ luân lý sẽ vẫn chưa bị hủy bỏ. Những yêu sách công lý, cả ở phía
này và phía kia, sẽ có hiệu lực, và phải được thi hành; trong tất cả các trường hợp, các
quyền con người phải được tôn trọng đối với nhau một cách đúng đắn; trong khi những
suy xét về quyền lợi chung, và trên hết điều được hy vọng là việc nhớ lại những tình cảnh
ưa thích được bỏ qua, và việc đề phòng một chiến thắng nhanh chóng vượt qua những trở
ngại để tái hợp nhất, sẽ không thúc giục SỰ TIẾT CHẾ một cách vô ích của bên này, và
SỰ THẬN TRỌNG ở bên kia.
PUBLIUS
CXLI
Thư Liên bang số 45
Các quyền của chính phủ liên bang được cho là nguy hiểm đối với các
chính phủ tiểu bang
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước,
SAU KHI đã chỉ rằng không một quyền lực nào đã được trao cho chính phủ liên bang là
không cần thiết hoặc không phù hợp, vấn đề tiếp theo phải được xem xét là, phải chăng
toàn bộ lượng quyền lực đó sẽ gây nguy hiểm đối với phần quyền lực còn lại trong một
vài tiểu bang.
Những người phản đối kế hoạch của hội nghị lập hiến, thay vì xem xét cấp độ quyền lực
nào là tuyệt đối cần thiết cho các mục đích của chính phủ liên bang trong phần đầu, đã
kiệt sức mình trong phần thứ hai về những hậu quả có thể có của mức quyền hạn đề nghị
này đối với các chính phủ của các tiểu bang riêng. Nhưng nếu Liên bang, như đã thấy, là
cần thiết cho an ninh của nhân dân Mỹ chống lại mối nguy hiểm từ nước ngoài; nếu nó là
quan trọng đối với an ninh của họ chống lại những tranh chấp và các cuộc chiến tranh
giữa các bang khác nhau; nếu nó là quan trọng để bảo vệ họ chống lại những phe phái áp
bức và quá khích đó làm xói mòn phước lành của tự do, và chống lại những tổ chức dân
sự hẳn sẽ dần dần làm tổn thương chính chân lý của nó; Nói tóm lại, nếu Liên bang là cần
thiết cho hạnh phúc của nhân dân Mỹ, không phải là phi lý để thúc đẩy sự phản đối đối
với một chính phủ tới một chừng mực, mà không có nó, các mục tiêu của Liên bang
không thể đạt được, liệu rằng một chính phủ như vậy có thể làm giảm tầm quan trọng của
các chính phủ tiểu bang riêng? Thì sau đó, cuộc Cách mạng Mỹ đã được tiến hành, Liên
bang Hoa Kỳ đã được thành lập, xương máu quý báu của hàng ngàn người đã đổ ra, và tài
sản khó nhọc của hàng triệu người đã bị phung phí, không chỉ người dân Mỹ cần tận
hưởng hòa bình, tự do và an toàn, mà có chăng chính phủ của các tiểu bang riêng, các tổ
chức chính quyền đô thị riêng biệt, có thể thỏa mãn với một mức độ quyền lực nhất định,
CXLII
và được định rõ với những chân giá trị và thuộc tính chủ quyền nhất định? Chúng ta đã
nghe nói về học thuyết tà đạo ở Cựu thế giới (Âu châu), rằng nhân dân phải làm việc cho
các ông vua, còn vua không phải làm gì cho người dân. Phải chăng học thuyết tương tự
đang được hồi sinh ở Tân thế giới (châu Mỹ), trong một hình dạng khác mà niềm hạnh
phúc vững chắc của người dân bị hy sinh cho các quan điểm của những tổ chức chính trị
theo một thể chế khác? Quá sớm để cho các chính trị gia lợi dụng việc lãng quên của
chúng ta rằng, lợi ích công cộng, phúc lợi thực sự của đa số quần chúng nhân dân, là mục
đích tối thượng phải được theo đuổi, và rằng không một thể chế chính phủ nào có bất kỳ
giá trị nào khác hơn như nó có thể được đáp ứng để đạt mục đích này. Dự định của hội
nghị là xấu xa đối với hạnh phúc của công chúng, tiếng nói của tôi sẽ là Phản đối dự định
này. Chính Liên bang không phù hợp với hạnh phúc cộng đồng, nó sẽ là, Bãi bỏ Liên
bang. Với cách thức tương tự, đến chừng mực chủ quyền của các tiểu bang không thể
được điều hòa với hạnh phúc của nhân dân, tiếng nói của mọi công dân tử tế phải là, Hãy
để thể chế trước hy sinh cho thể chế sau. Sự hy sinh là cần thiết đến mức nào, đã được chỉ
ra. Phần còn lại không hy sinh sẽ gây nguy hiểm đến mức độ nào, là câu hỏi trước mắt
chúng ta.
Một vài suy xét quan trọng đã đạt đến đồng thời trong các bài luận này, làm bối rối giả
thuyết rằng hoạt động của chính phủ Liên bang sẽ dần dần chứng minh tính tai hại đối với
các chính quyền tiểu bang. Càng xoay quanh chủ đề, tôi càng hoàn toàn bị thuyết phục
rằng sự cân bằng có thể bị phá vỡ dễ hơn nhiều bởi sự vượt trội của thể chế cuối cùng
hơn mức ban đầu.
Chúng ta đã thấy trong tất cả các ví dụ về các liên bang hiện tại và cổ đại, xu hướng mạnh
mẽ nhất liên tục để lộ chính nó trong các thành viên liên bang, mà các tổ chức chính
quyền của nó nhằm tước đoạt quyền lực của chính phủ trung ương, với một khả năng rất
vô ích trong trường hợp sau để bảo vệ chính nó chống lại những sự xâm phạm. Mặc dù,
trong hầu hết các ví dụ này, hệ thống quá khác biệt với hệ thống đang được xem xét là
cao cả để làm suy yếu bất kỳ kết luận liên quan đến dạng sau từ số phận của hệ thống
CXLIII
trước, nhưng khi các tiểu bang vẫn giữ được một phần rất lớn chủ quyền chủ động theo
Hiến pháp được đề nghị, kết luận rút ra phải không bị xem thường hoàn toàn. Trong Liên
bang kiểu Achae, có thể xảy ra việc bộ phận đứng đầu liên bang có mức độ và các loại
quyền lực, mà đã tạo cho nó một diện mạo đáng kể đối với chính quyền được dựng lên
bởi quy ước này. Liên bang kiểu Lycian, hẳn đã sản sinh một sự tương tự lớn hơn nữa,
cho đến khi các nguyên tắc và hình thức của nó được truyền đi. Nhưng lịch sử không
thông báo cho chúng ta biết rằng hoặc một trong chúng đã từng bị thoái hóa, hoặc có
khuynh hướng thoái hóa thành một chính quyền hợp nhất. Ngược lại, chúng ta biết rằng
sự suy sụp của một trong chúng xuất phát từ sự bất lực của các cơ quan quyền lực liên
bang để ngăn chặn những mối bất đồng và cuối cùng là sự chia rẽ, của các cơ quan thẩm
quyền cấp dưới. Những trường hợp này càng đáng cho chúng ta quan tâm hơn, như là
những nguyên nhân bên ngoài mà theo đó các bộ phận cấu thành bị ép cùng với nhau là
đông đảo và mạnh mẽ hơn nhiều trong trường hợp của chúng ta; và do vậy những mối
ràng buộc kém vững chắc bên trong đó sẽ là đủ để ràng buộc các thành viên với bộ phận
đứng đầu, và với nhau.
Trong hệ thống phong kiến, chúng ta đã thấy một xu hướng tương tự làm ví dụ. Mặc dù
thiếu sự cảm thông phù hợp giữa những người đứng đầu địa phương và người dân trong
mọi trường hợp, sự đồng cảm giữa người đứng đầu chính quyền trung ương và người dân
trong một số trường hợp, điều thường xảy ra là những người đứng đầu địa phương thắng
thế đối thủ cạnh tranh vì những sự xâm phạm. Không có các mối nguy hiểm bên ngoài ép
buộc việc làm cho lệ thuộc và cân đối ở bên trong, và đặc biệt những người cầm quyền
địa phương có được sự yêu mến của nhân dân, thì các vương quốc lớn ở châu Âu lúc này
sẽ bao gồm nhiều nhà quý tộc độc lập như các nam tước phong kiến trước đây.
Chính phủ tiểu bang sẽ có lợi thế của chính phủ liên bang, dù chúng ta so sánh chúng với
sự phụ thuộc trực tiếp của chính phủ này vào chính phủ kia; với trọng lượng của ảnh
hưởng cá nhân mà mỗi bên sẽ sở hữu; với quyền hạn tương ứng đã trao cho họ; với sự ưa
CXLIV
chuộng và ủng hộ có thể có của nhân dân; với khuynh hướng và khả năng chịu đựng và
chống lại nhau của các phương thức điều hành.
Các chính quyền tiểu bang có thể được coi là các bộ phận quan trọng của chính phủ liên
bang, trong khi cái sau tuyệtt nhiên là không cần thiết cho hoat động hay sự tô chức của
cái trước. Nếu không có sự can thiệp của các cơ quan lập pháp bang, Tổng thống Hoa Kỳ
không thể được bổ nhiệm thực sự. Trong tất cả các trường hợp, chúng phải có một phần
đóng góp lớn trong việc bổ nhiệm ông ta, và trong hầu hết các trường hợp, có lẽ sẽ do
chính họ xác định việc đó. Thượng viện sẽ được bầu một cách hoàn toàn và dành riêng
bởi các cơ quan lập pháp tiểu bang. Ngay cả Hạ viện, mặc dù được bầu cử trực tiếp từ
người dân, sẽ được chọn lựa rất nhiều dưới tác động của các nhóm người, mà ảnh hưởng
của họ đối với người dân làm cho chính họ được bầu vào các cơ quan lập pháp tiểu bang.
Như vậy, mỗi nhánh quan trọng của chính phủ liên bang sẽ ít nhiều mắc nợ sự tồn tại của
nó đối với việc ủng hộ của các chính quyền bang, và do vậy phải cảm thấy sự phụ thuộc,
có nhiều khả năng hơn sinh ra một khuynh hướng quá khúm núm hơn là quá hống hách
đối với họ. Mặt khác, các bộ phận cấu thành của chính quyền tiểu bang sẽ không phải
mang ơn về việc bổ nhiệm của họ đối với tác dụng hướng dẫn của chính phủ liên bang, và
rất ít hay gần như không, đối với các ảnh hưởng cục bộ từ các thành viên của nó.
Số lượng người làm việc cho chính phủ theo Hiến pháp Hoa Kỳ sẽ ít hơn nhiều so với số
người làm việc theo các tiểu bang riêng. Cho nên sẽ có ít ảnh hưởng cá nhân lên phần này
của hệ thống trước hơn hệ thống sau. Các thành viên của của các ban ngành lập pháp,
hành pháp, và tư pháp của mười ba và nhiều hơn nữa các tiểu bang, thẩm phán hoà giải,
các sỹ quan quân đội, thượng thẩm phán, với tất cả các giới chức thị trấn, hội đồng thành
phố và tỉnh lỵ, cho ba triệu dân và nhiều hơn nữa, trộn lẫn và có hiểu biết sơ lược về mọi
giai cấp và nhóm nhân dân, phải vượt xa mọi tỷ lệ, cả về số lượng và ảnh hưởng của mọi
lĩnh vực về số người sẽ được giao cho chính quyền của hệ thống liên bang. So sánh các
thành viên thuộc ba ban ngành lớn của mười ba tiểu bang, ngoại trừ bộ phận thẩm phán
hòa giải thuộc tư pháp, với các thành viên của các phòng ban tương ứng của chỉ chính
CXLV
quyền liên bang; so sánh các sỹ quan quân đội của ba triệu dân với các giới chức quân đội
và hải quân của bất kỳ tổ chức nằm trong phạm vi có khả năng xảy ra, hoặc tôi có thể nói
thêm, trong mức độ triển vọng, và chỉ với quan điểm này, chúng tôi có thể tuyên bố thuận
lợi của các tiểu bang là quyết định. Nếu chính phủ liên bang phải có những người thu
thuế, các chính phủ tiểu bang cũng sẽ có nhân viên thu thuế của họ. Và vì những người
đó trong hệ thống trước sẽ chủ yếu thuộc về miền ven biển, và không phải rất nhiều,
trong khi những người như vậy thuộc hệ thống sau sẽ được dàn khắp toàn quốc gia, và sẽ
là rất nhiều, lợi thế trong vấn đề này cũng thuộc về cùng bên. Sự thật là liên bang phải có,
và có thể sử dụng quyền thu thuế bên trong cũng như bên ngoài trong khắp các tiểu bang;
song có thể xảy ra là quyền lực này sẽ không được dùng đến, ngoại trừ các mục đích bổ
sung cho ngân khố quốc gia; rằng một lựa chọn sau đó sẽ được trao cho các tiểu bang để
cung cấp những chỉ tiêu của họ bằng các khoản quyên góp của chính họ; và rằng khoản
quyên góp cuối cùng, theo thẩm quyền trực tiếp của liên bang, nói chung sẽ được thực
hiện bởi các viên chức, và tuân theo các luật lệ được tạo ra bởi một vài tiểu bang. Quả
thực điều đó rất có thể xảy ra trong trường hợp khác, đặc biệt là ở cơ quan tư pháp, các
quan chức của tiểu bang sẽ được trao cho thẩm quyền tương ứng của liên bang. Tuy
nhiên, điều sẽ xảy ra là, những nhân viên riêng biệt của sở thuế bên trong nên được bổ
nhiệm theo quy định của chính phủ liên bang, ảnh hưởng của toàn bộ số này sẽ không bị
suy giảm bởi một số ảnh hưởng của vô số viên chức tiểu bang trong phần đối diện. Một
nhân viên thu thuế liên bang sẽ được phân công trong mỗi quận huyện, sẽ không có dưới
ba mươi hay bốn mươi, hoặc thậm chí nhiều hơn, các viên chức thuộc các lĩnh vực khác
nhau, và nhiều người trong họ có đặc điểm và mức quan trọng, mà ảnh hưởng của họ sẽ
thuộc về phía tiểu bang.
Các quyền lực mà Hiến pháp đề nghị trao cho chính phủ liên bang là ít và giới hạn.
Những quyền lực còn lại trong các chính phủ tiểu bang là rất nhiều và vô hạn. Quyền lực
trước sẽ được sử dụng chủ yếu trong những mục tiêu bên ngoài, như chiến tranh, hòa
bình, đàm phán, và thương mại với nước ngoài; với hầu hết các phần, kéo dài quyền thu
thuế sẽ phải gắn liên với chúng. Các quyền dành cho một số tiểu bang sẽ được mở rộng
CXLVI
đến tất cả các mục đích mà trong quá trình thực hiện công việc thông thường, liên quan
đến đời sống, các quyền tự do, tài sản của người dân, và thứ tự nội tại, hướng tới sự cải
thiện, và thịnh vượng của tiểu bang.
Các hoạt động của chính phủ liên bang sẽ mở rộng và quan trọng nhất trong thời gian
chiến tranh và bị đe dọa bởi sự hiểm nguy; những hoạt động đó của chính phủ tiểu bang,
trong thời kỳ hòa bình và an ninh. Vì các giai đoạn trước sẽ có thể chịu một tỷ lệ nhỏ với
các giai đoạn sau, khi các chính phủ bang sẽ tận hưởng lợi thế khác bên trên chính phủ
liên bang. Quả thật, các quyền mà liên bang có thể được trao cho liên quan đến quốc
phòng, những tình cảnh nguy hiểm nhiều hơn, có thể ủng hộ uy thế của họ hơn các chính
phủ tiểu bang riêng lẻ, và sẽ là ít thường xuyên hơn..
Nếu Hiến pháp mới được kiểm chứng với sự chính xác và vô tư, người ta sẽ nhận thấy
rằng những thay đổi mà nó đề xuất bao gồm sự bổ sung các QUYỀN LỰC MỚI cho liên
bang ít hơn nhiều so với việc tăng thêm hiệu lực cho các QUYỀN LỰC ĐẦU TIÊN của
nó. Quy định việc buôn bán thương mại đúng là một quyền lực mới, nhưng việc đó có vẻ
như là một sự bổ sung vài cạnh tranh, mà từ đó không có sự e dè nào phải ấp ủ. Các
quyền lực liên quan đến chiến tranh và hòa bình, quân đội và hạm đội, các hiệp ước và tài
chính, với các quyền đáng kể hơn khác, tất cả được giao phó cho Quốc hội hiện hành theo
bộ điều luật liên bang. Sự thay đổi đề nghị không mở rộng các quyền lực này; nó chỉ thay
thế một phương thức thực hiện chúng hiệu quả hơn. Sự thay đổi liên quan đến việc thu
thuế có thể được xem là quan trọng nhất; và Quốc hội hiện nay chưa có thẩm quyền đầy
đủ để ĐÒI HỎI những đóng góp tiền bạc không giới hạn cho quốc phòng và phúc lợi
công cộng, cũng như Quốc hội trong tương lai sẽ phải đòi hỏi chúng từ các công dân
riêng biệt; và hệ thống sau sẽ không bị ràng buộc nhiều hơn với chính các tiểu bang đã
có, để đáp ứng những chỉ tiêu thu thuế tương ứng với chúng. Các tiểu bang đã tuân thủ
các điều khoản của Liên bang không chậm trễ, hoặc có thể việc tuân thủ của họ đã có
hiệu lực bởi các biện pháp yên bình như có thể được sử dụng với sự thành công nhắm tới
những con người riêng rẽ, kinh nghiệm trong quá khứ của chúng ta rất khác xa việc ủng
CXLVII
hộ một ý kiến, rằng các chính phủ tiểu bang có lẽ đã mất các quyền lực hợp hiến của họ,
và dần trải qua sự hợp nhất toàn bộ. Sự kiện như vậy có lẽ đã xảy ra sau đó, để duy trì sự
tồn tại của các chính phủ tiểu bang, có thể nói ngay là, sẽ không thích hợp với bất kỳ hệ
thống nào đạt được các mục đích quan trọng của Liên bang.
PUBLIUS
CXLVIII
Thư Liên Bang Số 51
Cấu trúc của chính phủ phải cung cấp việc kiểm soát và cân bằng giữa
các bộ khác nhau
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Câu hỏi khẩn cấp lúc này là làm thế nào chúng ta có thể duy trì sự độc lập của các bộ
trong chính quyền như đã quy định trong hiến pháp? Câu trả lời độc nhất cho vấn đề này
là tất cả những sự đề phòng ở bên ngoài bộ phận chính phủ khó giải quyết được, chỉ có
những bộ phận nội các của chính quyền, do sự liên quan lẫn nhau, mới có thể giữ chỗ
đứng của chúng trong giới hạn. Tôi sẽ không bàn hết mọi khía cạnh của vấn đề quan
trọng này mà chỉ bàn tới một số quan sát tổng quát để có thể làm sáng tỏ nó thêm, để rồi
chúng ta có thể từ đó mà suy luận ra một biện pháp cho đúng theo nguyên tắc và cấu trúc
của chính phủ mới sắp hình thành từ đại hội hiến pháp.
Để có thể tạo nên một nền móng vững chắc cho sự độc lập và hoạt động riêng biệt của
từng bộ trong chính phủ, một điều hiển nhiên là mỗi bộ nên có ý chí riêng của nó. Vì thế,
các bộ nên có càng ít liên quan đến việc bổ nhiệm các chức vụ của bộ khác càng tốt. Nếu
nguyên tắc này được thực hiện một cách triệt để, sự bổ nhiệm của tất cả các chức vụ quan
trọng trong bộ tư pháp, hành pháp, và lập pháp phải được lấy từ một quyền lực cao nhất
là dân chúng qua những nguồn không liên hệ với nhau. Có lẽ, một kế hoạch xây dựng
những bộ trong chính phủ sẽ bớt khó khăn hơn trong thực hành hơn là trong dự tính. Một
vài thay đổi nhỏ khác với nguyên tắc sẽ được cho phép. Trong chi bộ tư pháp của hiến
pháp, sẽ không gấp rút cho lắm về việc áp dụng triệt để nguyên tắc: một, bởi vì tiêu
chuẩn chuyên môn của những thành viên này hơi khác thường, điều quan trọng nhất là
phải chọn lựa làm sao để duy trì được những tiêu chuẩn chuyên môn này; hai, bởi vì
CXLIX
những chức vụ trong bộ tư pháp sẽ có nhiệm kỳ vĩnh viễn, nó sẽ tiêu diệt mọi lệ thuộc
vào cái quyền lực đã bổ nhiệm nó vào chức vụ đó.
Một điều hiển nhiên khác là những thành viên của mỗi bộ nên phụ thuộc vào những thành
viên của bộ khác càng ít càng tốt. Nếu chức vụ cao nhất của bộ hành pháp hay những ông
tòa của bộ tư pháp bị lệ thuộc vào bộ lập pháp, sự độc lập của họ với nhau sẽ chỉ là hư
danh.
Nhưng sự an toàn nhất để đối phó với sự tập trung từ từ của nhiều quyền hạn vào một bộ
nào đó của chính phủ là cho phép những người quản lý của mỗi bộ những phương cách tự
vệ dựa vào hiến pháp và một động lực riêng tư để chống lại những chiêu dụ của bộ khác.
Sự phòng hờ để tự vệ phải làm sao cho xứng với sự nguy hiểm khi bị tấn công. Tham
vọng phải bị phản công với tham vọng. Những quyền lợi riêng tư của họ phải được nối
kết với quyền lợi của văn phòng mà họ đại diên trước hiến pháp. Hiến pháp, nói chung ra,
là một chiếc gương soi cho bản tính con người, và rồi những phương cách của hiến pháp
rất cần thiết để kiểm soát sự lạm dụng quyền hành của chính phủ. Nhưng chính phủ là gì
nếu không phải là sự phản chiếu lớn nhất của bản tính con người? Nếu tất cả chúng ta là
thiên thần thì không cần một chính phủ nào hết. Nếu những thiên thần sẽ cai trị chúng ta,
thì không cần những kiểm soát bên trong hay bên ngoài chính phủ. Để xây dựng một
chính phủ cai trị con người bởi con người, cái khó nhất nằm trong vấn đề này: bạn phải
cho phép chính phủ đó cai trị dân chúng, và kế tiếp phải bắt buộc chính phủ đó kiểm soát
chính nó. Sự phụ thuộc vào dân chúng dĩ nhiên là cách tốt nhất để kiểm soát một chính
phủ, nhưng kinh nghiệm cho ta thấy sự cần thiết của nhiều phòng ngừa phụ khác.
Chính sách đối chiếu và cạnh tranh có thể tìm thấy trong những quan hệ của con người,
riêng tư hay công khai. Chúng ta thấy nó nhan nhản khắp nơi trong sự phân bố quyền lực
ở cấp dưới, chỗ mà mục tiêu chính là để chia rẽ và xắp xếp một số chi nhánh theo một
đường lối để rồi chi nhánh này sẽ kiểm tra chi nhánh kia, và quyền lợi riêng tư của mỗi cá
CL
nhân là lính canh cho những quyền lợi của dân chúng. Những sự thận trọng này rất cần
thiết trong việc phân bố quyền lực tối cao của chính phủ.
Nhưng khó có thể cho các chi nhánh một quyền hạn bằng nhau để tự vệ. Trong chính phủ
cộng hòa, quyền lực của bộ lập pháp bao giờ cũng lớn hơn các bộ khác. Cho nên một
cách chữa trị cho vấn đề bất lợi này là chia xẻ bộ lập pháp thành nhiều chi nhánh khác
nhau và ban cho chúng những cách thức bầu cử và hoạt động khác nhau, liên hệ giữa
cách chi nhánh này nên giữ ở mức độ thấp nhất. Những lệ thuộc, nếu có, chỉ vừa đủ để
hoạt động trong khuôn phép mà xã hội và đất nước cho phép. Có thể sẽ phải có thêm
nhiều cách phòng ngờ khác để canh trừng những chiêu dụ nguy hiểm trong bộ lập pháp.
Nếu sức nặng quyền lực của bộ lập pháp cần được chia rẽ, thì sự yếu kém của bộ hành
pháp nên được chấn chỉnh. Bản tính xấu tuyệt đối của bộ lập pháp xuất hiện một cách tự
nhiên cho nên người có chức vụ cao nhất trong bộ hành pháp nên được trang bị “vũ khí”
để đối phó. Nhưng có lẽ cả hai sẽ không an toàn cùng với nhau hoặc không đủ khả năng
nếu đứng một mình. Trong những trường hợp bình thường, nó không thể ra tay với sự
cứng rắn cần thiết, và trong những trường hợp đặc biệt, nó có thể bị lạm dụng một cách
xảo trá (1). Nhược điểm của bản tính xấu này có thể dẫn đến vài liên hệ đứng đắn giữa bộ
yếu hơn và chi nhánh yếu trong bộ mạnh hơn. Để rồi chi nhánh yếu của bộ mạnh hơn sẽ
ủng hộ quyền lợi hiến pháp của bộ yếu hơn mà không bị rời ra khỏi bộ phận của nó (2).
Nếu những nguyên tắc và quan sát trên được coi là hợp lý, thì chúng nên được áp dụng
vào hiến pháp của một vài tiểu bang, và hiến pháp của liên bang. Nếu chính phủ liên bang
không vận hành được những nguyên tắc trên, thì chính quyền tiểu bang sẽ còn khó hơn
ngàn lần nữa trong việc thực hành những nguyên tắc này.
Có hai vấn đề nữa về thể chế liên bang của Hoa Kỳ mà tôi nghĩ sẽ có một cách nhìn
ngoạn mục.
CLI
Một. Trong một chế độ cộng hòa, tất cả mọi quyền lực của dân chúng được giao cho
chính phủ quản lý, và sự lạm dụng quyền lực sẽ được phòng ngừa bởi sự chia rẽ của
chính phủ vào những bộ riêng biệt khác nhau. Trong chế độ cộng hòa lớn hơn ở Hoa Kỳ,
quyền lực của dân chúng, trước hết, sẽ được phân chia vào hai hệ thống chính phủ khác
nhau, và rồi nó lại được phân chia tiếp tục cho những bộ riêng biệt trong chính phủ. Từ
đó sự bảo vệ quyền lợi dân chúng sẽ được tăng gấp hai lần. Hai chính phủ khác nhau,
chính phủ liên bang và tiểu bang, sẽ kiểm soát lẫn nhau giống như những bộ trong hai
chính phủ này
Hai. Điều quan trọng kế đến trong một thể chế cộng hòa là không những phòng ngừa sự
đàn áp của những người cai trị trong chính phủ mà còn phải phòng ngừa những bất công
của một nhóm trong xã hội áp đặt lên nhóm kia. Nhiều quyền lợi có lẽ sẽ xuất hiện trong
nhiều giai cấp công dân khác nhau. Nếu một đại đa số liên kết với nhau bởi một lợi ích
chung nào đó, quyền lợi của những kẻ thiểu số sẽ không được bảo vệ. Có hai cách phòng
ngừa vấn đề này: cách thứ nhất là tạo ra một di chúc trong cộng đồng hoặc trong xã hội
không phụ thuộc vào đại đa số; cách thứ hai là làm hài lòng tất cả những thành phần
trong xã hội tuy nó có thể không thực tế. Cách thứ nhất sẽ áp dụng được trong mọi chính
phủ cai trị bởi những nhà độc tài. Cái này lúc tốt nhất cũng chỉ là sự an toàn tạm thời, tại
vì một quyền lực không không bắt nguồn từ xã hội có thể tán thành những hướng nhìn
bất công của thành phần đa số và hoặc quyền lợi đúng đắn của thành phần thiểu số, hoặc
có thể sẽ phản lại cả hai thành phần này. Cách thứ hai sẽ được minh họa trong thể chế
cộng hòa liên bang của Hoa Kỳ. Khi tất cả các quyền lực được lấy từ và dựa vào xã hội,
chính xã hội đó sẽ phân chia ra nhiều thành phần, quyền lợi và giai cấp để rồi quyền của
công dân và của những kẻ thiểu số sẽ tránh được nguy hiểm từ sự đoàn kết của những
người thuộc nhóm đại đa số. Sự sung túc của nhiều thành phần trong xã hội này sẽ giảm
đi ý định của những đoàn kết mờ ám muốn đàn áp thành phần thiểu số. Trong một chính
phủ tự do, sự an toàn cho quyền công dân phải được bảo vệ giống như quyền tôn giáo.
Nó bao gồm một quyền lợi nhỏ trong nhiều quyền lợi khác nhau cũng như một tôn giáo
nhỏ trong nhiều tôn giáo khác nhau. Mức độ an toàn trong hai trường hợp trên phụ thuộc
CLII
vào số đếm bao nhiêu của những quyền lợi và tôn giáo. Số đếm càng đông thì càng an
toàn. Hơn thế nữa, nó cũng phụ thuộc vào dân số và sự rộng lớn của đất nước. Để bảo vệ
cho tất cả mọi thành phần và giai cấp trong xã hội, sự vững chắc và độc lập của các thành
phần trong chính phủ nên được tăng cường một cách hợp lý. Công lý là kết quả cuối cùng
của chính phủ và xã hội văn minh. Nó đã và sẽ tiếp tục được theo đuổi cho đến khi hoàn
tất, hoặc cho đến khi tất cả tự do bị mất trong quá trình theo đuổi.
Trong một xã hội mà những thành phần mạnh có thể liên kết lại để đàn áp những thành
phần yếu hơn, tình trạng hỗn hoạn sẽ tung hoành và thống trị. Kẻ yếu sẽ không được bảo
vệ khỏi bạo lực của kẻ mạnh. Trong một xã hội mà chúng ta sắp xây dựng, kẻ mạnh cũng
như kẻ yếu sẽ được bảo vệ bởi chính phủ. Tôi đoán chắc rằng tiểu bang Rhode Island,
nếu tách rời khỏi chính phủ Liên Bang và tự đứng một mình, những kẻ thuộc đại đa số sẽ
dần dần trấn áp quyền của những người thiểu số và sau đó một quyền lực nào đó không
phụ thuộc vào xã hội sẽ được mời gọi bởi chính những kẻ này để sửa đổi những việc mà
họ đã mang lại. Trong thể chế cộng hòa Hoa Kỳ và nhiều tiếng nói, quyền lợi, đảng phái,
hoặc tôn giáo mà nó cưu mang, một tập hợp của đại đa số trong xã hội khó có thể đạt
được nếu không vì lợi ích chung hoặc sự công bằng trong xã hội. Vì vậy sẽ có ít nguy
hiểm cho thành phần thiểu số trong một xã hội dưới luật lệ của thành phần đa số. Hơn thế
nữa, sẽ ít có lý do để thông qua những luật lệ thiên vị cho mục tiêu của một vài nhóm nhỏ
nếu không được sự ủng hộ của đại đa số trong xã hội . Xã hội càng lớn bao nhiêu, nếu nó
nằm trong một phạm vi thực tế, nó sẽ tự cai trị chính nó nếu như nó tuân thủ và sửa đổi
hợp lý theo những nguyên tắc của liên bang.
PUBLIUS
1. Ở đây James Madison đang ám chỉ đến quyền bác bỏ của tổng thống trong bộ hành
pháp đối với những điều luật mà bộ lập pháp viết ra. James Madison sợ rằng quyền bác
bỏ của tổng thống thôi thì không đủ tại vì nó có thể bị lạm dụng hoặc không sử dụng khi
cần.
CLIII
2. James Madison tự hỏi xem có cách nào sắp xếp chính phủ để rồi mặt yếu của bộ lập
pháp mạnh mẽ có thể ủng hộ quyền lợi hiến pháp của mặt yếu bên bộ hành pháp mà
không phản bội lại quyền lợi của của chi nhánh mẹ là bộ lập pháp.
CLIV
Thư Liên Bang Số 52
Hạ Nghị Viện
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Từ những câu hỏi tổng quát đã theo đuổi trong 4 lá thư trước, tôi muốn nêu lên một xem
xét tỉ mỉ hơn về một vài bộ phận khác nhau trong chính phủ. Tôi xin được bắt đầu với Hạ
Nghị Viện.
Phần xem xét đầu tiên cho bộ phận này của chính phủ có liên quan đến những tư cách
khả năng của những cử tri và những đắc cử viên.
Những cử tri của trong Hạ Nghị Viện của chính quyền Liên Bang sẽ giống như những cử
tri trong bộ lập pháp của Tiểu Bang. Định nghĩa của quyền đi bầu cử là một điều căn bản
rất quan trọng trong một chính phủ cộng hòa. Vì vậy, những người soạn thảo và tham dự
viên trong hội nghị thành lập hiến pháp sẽ định rõ và thiết lập quyền lợi bầu cử này trong
Hiến Pháp. Nếu để cho quốc hội Liên Bang thỉnh thoảng tự điều chỉnh quyền lợi này, nó
sẽ là một bất ổn vì lý do kể trên. Nếu giao nó cho bộ lập pháp của các Tiểu Bang, nó cũng
lại là một bất ổn vì lý do trên và thêm một lý do nữa là bộ lập pháp của Liên Bang sẽ liên
hệ quá nhiều đến chính phủ Tiểu Bang trong khi nó chỉ nên dựa vào dân chúng mà thôi.
Nếu tóm lược tất cả những tiêu chuẩn khác nhau trong các Tiểu Bang thành một tiêu
chuẩn mẫu, nó sẽ tạo nên những bất mãn của một vài Tiểu Bang và những khó khăn cho
hội nghị thành lập hiến pháp. Điều khoản đã quyết định trong hội nghị là định nghĩa của
quyền đi bầu phải hài lòng tất cả các tiêu chuẩn hiện hành hoặc tương lai của mọi Tiểu
Bang. Nó sẽ an toàn hơn cho chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ bởi vì nếu quyền đi bầu cử
nằm trong hiến pháp của Tiểu Bang, nó sẽ không bị thay đổi bởi chính quyền hoặc dân
CLV
chúng của các Tiểu Bang để rồi phải chịu sự hạn chế về quyền lợi của chính họ trong
Hiến Pháp Liên Bang.
Trong khi tư cách khả năng của các đắc cử viên được định nghĩ một cách lỏng lẻo bởi
hiến pháp Tiểu Bang và thường giống nhau, nó lại được cân nhắc và sắp đặt một cách
chặt chẽ bởi hội đồng hiến pháp Liên Bang. Một dân biểu phải từ 25 tuổi trở lên, phải làm
công dân của nước cộng hòa Liên Bang Hoa Kỳ hơn 7 năm, phải là thường trú dân của
Tiểu Bang mà người đó đại diện khi đắc cử, và khi tại chức người đó không được có các
chức vụ khác trong nước cộng hòa Liên Bang Hoa Kỳ. Dưới những giới hạn hợp lý kể
trên, cánh cửa của bộ phận này trong chính phủ liên bang sẽ mở ra cho tất cả những ai đạt
đủ điều kiện, dân bản sứ hay dân nhập tịch, trẻ hay già, giàu hay nghèo, và theo bất cứ
tôn giáo nào.
Nhiệm kỳ cho mỗi dân biểu sẽ được sẽ được xem xét theo một chiều hướng thứ hai từ chi
nhánh này. Để trả lời một cách thích đáng cho điều khoản này, có hai câu hỏi cần được
cân nhắc: một, bầu cử hai năm một lần trong trường hợp này sẽ an toàn hay không; hai,
nó có cần thiết hoặc có ích hay không?
Trước hết, nếu yếu tố cần thiết cho quyền tự do là chính phủ phải có một quyền lợi chung
với dân chúng, thì chi nhánh này của chính phủ phải có một sự liên hệ trực tiếp và một
mối thương cảm mật thiết với dân chúng đó. Bầu cử thường xuyên chắc chắn sẽ là một
chính sách duy nhất có thể duy trì sự lệ thuộc và thương cảm rất cần thiết này. Nhưng
mức độ thường xuyên đúng đắn nhất của các cuộc bầu cử cho dân biểu không cần phải bị
tính toán một cách tuyệt đối mà phải dựa trên những tình huống khác nhau liên quan đến
nó. Chúng ta hãy tra cứu những kinh nghiệm trong quá khứ, một bản chỉ dẫn luôn cần
được đi theo mỗi khi tìm được nó.
Hệ thống đại diện dân biểu để thay thế cho những cuộc gặp mặt các công dân đã được áp
dụng một cách rất nhiều thiếu xót trong nhiều xã hội cổ xưa, nhưng chỉ đến thời kỳ cận
CLVI
đại, chúng ta mới có thể học hỏi được một vài thí dụ. Và ở đây, để tránh tìm kiếm một đề
tài quá mập mờ và rườm rà, chúng ta cần giới hạn trong một vài ví dụ nổi tiếng và giống
như trường hợp của chúng ta nhất . Ví dụ đầu tiên là Hạ Nghị Viện ở Anh quốc. Lịch sử
của chi nhánh này trong hiến pháp Anh quốc , trước ngày Đại Hiến Chương Anh Quốc,
rất khó hiểu để học hỏi. Sự tồn tại của nó đã là một câu hỏi giữa các nhà nghiên cứu
chính trị. Những ghi chép mới nhất chứng nhận cho ta thấy các nghị viên thường chỉ họp
một lần trong một năm chứ không phải họ được bầu mỗi năm. Mặc dù các cuộc họp
thường niên này không có sự can thiệp nào từ các hoàng gia, sự gián đoạn quá dài và
nguy hiểm sẽ bị ảnh hưởng và chiêu dụ từ những tham vọng của hoàng gia. Để chữa trị
vấn đề này, một đạo luật được ban hành dưới triều đại của Vua Charles Đệ Nhị cấm sự
gián đoạn này không được quá 3 năm. Khi Vua William Đệ Tam lên ngôi, một cuộc cách
mạng đã xảy ra trong chính phủ và vấn đề này lại được tranh cãi để rồi quyền họp hành
thường xuyên của nghị viện được tuyên bố là một trong những quyền lợi căn bản của dân
chúng. Một đạo luật khác cũng được ban hành trong cùng triều đại đã định nghĩa lại chữ
thường xuyên này là chu kỳ 3 năm cho mỗi hội nghị của nghị viện cho giống như đạo
luật dưới thời Vua Charles Đệ Nhị. Sự thay đổi cuối cùng từ 3 đến 7 năm đã được giới
thiệu vào đầu thế kỷ này dưới những cảnh báo trong sự kế vị của triều đại Hanover. Từ
những bằng chứng này, để trói buộc các dân biểu với những quyền lợi của các cử tri, chu
kỳ bầu cử nên không quá 3 năm. Và nếu chúng ta lý luận rằng quyền lợi của các cử tri đã
không giảm xuống khi giảm chu kỳ bầu cử từ 7 năm xuống 3 năm, thì không lý gì quyền
lợi này sẽ giảm nếu chúng ta giảm chu kỳ bầu cử xuống 2 năm như trong trường hợp của
Hạ Nghị Viện của chính phủ Liên Bang.
Chuyện bầu cử của nước Ái nhĩ lan đến nay vẫn bị qui định theo chỉ thị của hoàng gia và
ít khi lặp lại trừ khi có sự lên ngôi của hoàng đế mới hoặc những sự kiện bất ngờ. Nghị
viện thành lập bởi Vua George Đệ Nhị đã tiếp tục hiện hành trong khoảng 35 năm dưới
triều đại của chính vị vua này. Sự lệ thuộc của các dân biểu vào dân chúng chỉ có trong
sự bầu cử của các cử tri để cung cấp những dân biểu mới vào các chỗ trống, hoặc trong
một cuộc bầu cử tổng thể khi những sự kiện bất ngờ xảy ra. Vì vây, khả năng duy trì
CLVII
quyền lợi của cử tri ở nghị viện Ái nhĩ lan rất dễ dàng bị xiềng xích bởi sự kiểm soát của
hoàng gia. Một trong những sự xiềng xích này, nếu tôi không nhầm, là chu kỳ bầu cử của
nghị viện đã bị thay đổi thành 8 năm. Hậu quả của sự cải cách này ra sao sẽ phải chờ đợi
cho thời gian trả lời. Thí dụ của chính quyền Ái nhĩ lan sẽ cho chúng ta một ít ánh sáng
về vấn đề đang tranh cãi. Một bài học được rút ra là nếu dân Ái nhĩ lan có thể bảo vệ
quyền lợi của họ dưới những bất lợi này, thì lợi thế của chu kỳ bầu cử hai năm sẽ dễ dàng
bảo vệ các quyền lợi đó trong mối quan hệ xứng đáng giữa dân biểu và cử tri.
Bây giờ chúng ta hãy tóm tắt lại những nghiên cứu này. Những thí dụ của các nước trên
đã quá trứ danh cho nên không cần phải nói đến nữa. Nguyên tắc của sự thay mặt cho dân
chúng trong ban lập pháp của chính quyền đã thiết lập trong tất cả các nước trên. Tuy
nhiên, sự khác biệt giữa những nước này nằm ở chu kỳ bầu cử của các dân biểu. Các chu
kỳ bầu cử này khác nhau từ một đến bảy năm. Vì thế, từ tinh thần và hạnh kiểm của các
dân biểu trước cuộc Cách Mạng dành độc lập cho đất nước này, chúng ta có lý do gì để
sợ rằng chu kỳ bầu cử hai năm cho các dân biểu của Hạ Nghị Viện sẽ có hại cho quyền tự
do của dân chúng? Tinh thần của các dân biểu đã lộ ra trong sự bắt đầu của công cuộc
đấu tranh và đã đánh tan tất cả những trở ngại trên con đường dẫn đến nền độc lập nước
nhà. Tinh thần này là một bằng chứng hùng hồn cho sự phồn thịnh của tự do khắp nơi
cũng như giá trị và sự khuếch trương của nó. Những nhận xét trên cũng giữ vững lập
trường của nó trong trường hợp của các tiểu bang với chu kỳ bầu cử ngắn hoặc dài như
tiểu bang Virginia, một tiểu bang đầu tiên đã đứng lên chống lại sự chi phối của nước
Anh đối với nghị viện của họ. Nó cũng là một tiểu bang đã đứng ra tán thành nghị quyết
độc lập một cách công khai. Ở tiểu bang Virginia, nếu tôi không lầm, chu kỳ bầu cử của
nghị viện là 9 năm. Ví dụ đặc biệt này được mang ra để chứng minh rằng quyền tự do của
dân chúng sẽ không bị nguy hiểm trong chu kỳ bầu cử hai năm.
Kết luận cuối cùng cho những thí dụ kể trên sẽ được vững chắc hơn nếu tưởng nhớ lại 3
chi tiết sau. Chi tiết thứ nhất là bộ lập pháp của Liên Bang sẽ có một phần giống như
quyền lập pháp tối cao trong nghị viện Anh quốc đã được thực hành trong các quốc hội
CLVIII
thuộc địa và bộ lập pháp của Ái nhĩ lan. Nó là một tư tưởng rất có cơ sở và đáng tin cậy
nếu được thực hiện trong câu ngạn ngữ “quyền hạn càng lớn bao nhiêu thì nhiệm kỳ của
nó nên ngắn bấy nhiêu, và ngược lại, quyền hạn càng nhỏ bao nhiêu thì nhiệm kỳ của nó
sẽ không nguy hiểm nếu được kéo dài.” Chi tiết thứ hai là bộ lập pháp Liên Bang không
những nên bị ràng buộc bởi sự phụ thuộc vào dân chúng như ở những nước kể trên mà
còn nên bị canh gác và kiểm tra bởi một vài bộ phận khác trong cơ quan lập pháp. Chi
tiết thứ ba là không có sự so sánh giữa những công cụ của các nhánh cố định hơn trong
chính phủ để chiêu dụ Hạ Nghị Viện phản lại trách nhiệm của nó đối với dân chúng và
những phương thức để gây ảnh hưởng đến nhánh phổ biến sở hữu bởi những nhánh khác
kể trên trong chính phủ. Với ít quyền hạn để lạm dụng, những dân biểu trong chính quyền
tiểu bang sẽ khó bị cám dỗ và sẽ cảnh giác gấp hai lần.
PUBLIUS
CLIX
Thư Liên Bang Số 53
Hạ Nghị Viện (tiếp theo)
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Tôi muốn nhắc nhở các đồng bào một quan sát hiện tại là, “mỗi khi không có những cuộc
bầu cử theo chu kỳ, độc tài và bạo chúa sẽ bắt đầu.” Nếu điều trên là sự thật, như nó đã
được nhắc đến nhiều lần và căn cứ dựa trên những lẽ phải, thì một khi nó được thiết lập,
nó thường được áp dụng vào những trường hợp trong đó lẽ phải của nó không nới rộng ra
được. Để chứng minh cho điều này, tôi sẽ kiếm không đâu xa bằng trường hợp trước mặt
chúng ta. Dựa trên lý lẽ nào mà câu tục ngữ trên được sáng lập ra? Không ai sẽ giả vờ
không biết mối quan hệ giữa mặt trời và ảnh hưởng của nó vào bốn mùa trong năm, hoặc
các đức hạnh của con người sẽ chống trả lại sự cám dỗ của quyền lực trong bao lâu. May
mắn thay cho loài người, tự do không bị giam giữ trong tại bất cứ thời điểm nào của thời
gian. Nhưng tự do nằm giữa các đối cực để rồi nó lên xuống và thay đổi tùy theo những
tình thế và hoàn cảnh khác nhau trong xã hội văn minh. Nếu việc bầu cử những công
chức được coi là có lợi, nó có thể nên thực hiện theo chu kỳ mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi
tháng, hoặc mỗi năm. Nếu những hoàn cảnh khác nhau có thể cần một thay đổi nhỏ trong
quy luật ở bên này, thì tại sao không thay đổi luôn ở bên kia? Hãy chuyển sự chú ý của
chúng ta đến những nhiệm kỳ của những Hạ Nghị Viện lớn nhất của bộ lập pháp trong
mỗi tiểu bang, ta có thể thấy một vài chu kỳ khác nhau cho những nhiệm kỳ này. Ở tiểu
bang Connecticut và Rhode Island, chu kỳ thường là nửa năm. Ở những tiểu bang khác
ngoại trừ South Carolina, chu kỳ thường là một năm. Còn ở tiểu bang South Carolina còn
lại, chu kỳ là hai năm giống như chu kỳ bầu cử đã đưa ra trong chính phủ Liên Bang. Sự
khác biệt là tỉ lệ bốn so với một giữa những chu kỳ ngắn nhất và dài nhất. Nhưng chúng
ta khó có thể nói rằng tiểu bang Rhode Island hay Connecticut được cai trị tốt hơn hoặc
được hưởng nhiều quyền tự do hơn tiểu bang South Carolina. Hơn thế nữa, chúng ta khó
CLX
có thể phân biệt được những tiểu bang này trong những tiêu chuẩn hoặc căn nguyên kể
trên đối với những tiểu bang khác mặc dầu chu kỳ bầu cử khác nhau.
Trong khi tìm kiếm những nền tảng cho học thuyết này, tôi khám phá chỉ được một điều
nhưng nó lại không áp dụng vào trường hợp của chúng ta. Một nét đặc thù riêng biệt ở
đất Hoa Kỳ mà mọi người hiểu rất rõ đó là Hiến pháp lập nên bởi dân chúng không được
sửa đổi bởi chính phủ, và luật pháp lập nên bởi chính phủ có thể thay đổi bởi chính phủ.
Điều quan trọng này lại không hiểu rõ hoặc không chú ý đến ở những nước khác. Chỗ
nào có quyền lập pháp tối cao tồn tại, chỗ đó có đủ quyền lực để thay đổi thể thức của
chính phủ. Mặc dù những nguyên tắc chính trị, quyền tự do của công dân, và quyền hạn
của Hiến pháp được thảo luận thường xuyên ở Anh quốc, uy quyền bất trị của nghị viện
đã xem Hiến pháp như một món hàng tầm thường của cơ quan lập pháp. Họ đã nhiều lần
thay đổi một số điều khoản căn bản của chính phủ cũng như chu kỳ bầu cử qua những
hành động lập pháp. Trong một dịp gần đây, họ đã không những đổi chu kỳ bầu cử từ 3
năm lên 9 năm mà còn tăng thêm 4 năm nữa cho nhiệm kỳ của họ, trái với khế ước mà
dân chúng đã đồng ý khi bầu họ lên. Thật vậy, chu kỳ bầu cử là nền tảng cho chính phủ
cộng hòa. Những hoạt động nguy hiểm trên sẽ đẻ ra những báo động tự nhiên cho các cử
tri. Và nó sẽ dẫn dắt họ trên con đường tìm kiếm những giải pháp để bảo vệ quyền tự do
của chính họ khỏi những nguy hiểm này. Ở những nước không có Hiến pháp để kiểm
soát chính phủ hoặc dân chúng nước đó không thể kiếm ra một điều tương tự, sự an toàn
của Hiến pháp như Hiến pháp của Liên Bang Hoa Kỳ sẽ không bị thử thách. Vì vậy, một
số cách bảo vệ được tìm ra, và có cách nào hay hơn là dùng chiều dài của thời gian làm
một thước đo cho sự nguy hiểm của đổi thay, cho sự sửa sang những cảm nghĩ trong đất
nước, và cho sự liên kết của lòng yêu nước? Chiều dài thời gian đơn giản và quen thuộc
nhất là một năm. Kể từ đây, học thuyết này sẽ được khắc sâu bởi một nhiệt tâm xứng
đáng để xây nên pháo đài phòng thủ chống lại những thay đổi từ từ của một chính phủ
không có giới hạn. Lối vào của độc tài và bạo chúa thường được tính bằng chu kỳ bầu cử
lâu bao nhiêu.
CLXI
Nhưng điều gì cần thiết để áp dụng lợi ích này vào một chính phủ bị hạn chế bởi quyền
lực tối cao của Hiến pháp như chính quyền Liên Bang sắp lập ra? Hay ai có thể giả vờ
không biết rằng quyền tự do của dân chúng Hoa Kỳ sẽ không an toàn hơn dưới quy luật
bầu cử hai năm một lần, một quy luật không bao giờ thay đổi viết trong Hiến pháp, nếu
so sánh với những nước khác với chu kỳ bầu cử một năm hoặc thường xuyên hơn nhưng
lại dễ bị thay đổi bởi quyền hạn của chính phủ?
Câu hỏi thứ hai đã viết là chu kỳ bầu cử hai năm một lần có cần thiết hay ích lợi gì
không? Một vài quan sát hiển nhiên sẽ cho ta thấy câu trả lời khẳng định là có.
Không ai có thể là một nhà lập pháp có khả năng nếu người đó không có một mục đích
ngay thẳng, một lương tri lành mạnh, và một số kiến thức về người dân mà anh ta viết
luật cho. Một phần nhỏ của tri thức này có thể thu nhập từ cuộc sống riêng tư hoặc công
khai. Phần còn lại chỉ có thể thu nhập được từ những kinh nghiệm thực tế trong một chức
vụ cần sử dụng nó. Vì vậy trong tất cả những trường hợp trên, chu kỳ của nhiệm vụ phải
được tương xứng với đòi hỏi của kiến thức thực dụng để hoàn thành nhiệm vụ đó. Chu kỳ
của các chức vụ lập pháp trong nhiều Tiểu bang như chúng ta đã thấy thường là một năm.
Câu hỏi kế tiếp là: một dân biểu của Liên Bang có thể thu nhập nhiều kiến thức hơn dân
biểu của Tiểu Bang, trong hai năm so với một năm, để hoạt động trong chi nhánh lập
pháp hay không? Câu trả lời đã nằm trong câu hỏi này.
Trong một nước riêng biệt, kiến thức cần thiết liên quan đến những luật pháp hiện hành,
một luật pháp đồng dạng mà tất cả các công dân ít hay nhiều biết đến nó, và nó cũng liên
quan đến công việc tổng quát của nước này. Kiến thức này thường nằm trong một lãnh
vực nhỏ, không đa dạng và thường không được đề cập đến trong những cuộc đàm luận
hằng ngày của tất cả các giai cấp trong xã hội. Hội trường của nước Liên Bang Hoa Kỳ
cho ta thấy một quang cảnh rất khác biệt. Luật pháp ở đây không đồng dạng chút nào, nó
khác nhau trong mỗi Tiểu Bang. Hơn thế nữa, những luật pháp này khó có thể học ở các
CLXII
chỗ khác trừ hội đồng trung ương, nơi mà tất cả các dân biểu từ khắp nơi của đất nước sẽ
mang kiến thức của các luật pháp này về.
Những dân biểu của mỗi Tiểu Bang nên có một ít kiến thức về những tin tức và luật pháp
của tất cả các Tiểu Bang. Làm sao mà giao dịch thương mại quốc tế có thể được quản lý
bởi một luật pháp đồng dạng nếu không làm quen với những giao thiệp, cảng, tập quán,
và luật lệ của những nước khác nhau? Làm sao mà giao dịch giữa các Tiểu Bang có thể
được quản lý nếu không có chút ít kiến thức về những tình hình liên quan trong các Tiểu
Bang này và những chuyện khác? Làm sao thuế má có thể được đặt ra và thu thập một
cách có hiệu quả nếu nó không phù hợp với các luật pháp khác nhau cũng như các hoàn
cảnh địa phương? Làm sao những qui tắc đồng dạng cho dân quân được chu cấp nếu
không có sự hiểu biết về những hoàn cảnh nội bộ khác biệt của các Tiểu Bang? Đây là
những chủ đề chính của pháp luật liên bang và nó cũng đề nghị một cách ép buộc các dân
biểu phải thu thập những kiến thức rộng như thế. Những chủ đề khác cũng cần một kiến
thức tương đương để giải quyết.
Thật sự mà nói, mức độ của những khó khăn này sẽ giảm đi. Công việc cực nhọc nhất là
việc khánh thành chính phủ một cách đứng đắn và sự thành lập bộ luật liên bang đầu tiên.
Những cải thiện của bản nháp này sẽ từ từ dễ dàng và ít đi mỗi năm. Những văn kiện cũ
của chính phủ sẽ sẵn sàng và là một tài liệu gốc chính xác cho những thành viên mới
trong bộ máy chính phủ. Việc nội bộ của Liên Bang sẽ ngày càng thú vị hơn và cũng sẽ là
một đề tài đàm luận hàng ngày giữa các công dân trong đất nước. Và sự giao hữu tăng lên
giữa những Tiểu Bang sẽ đóng góp cho kiến thức qua lại của công việc liên quan cũng
như việc đồng hóa chung tất cả các luật pháp và phong tục tập quán của các Tiểu Bang.
Mặc dù những khó khăn này sẽ giảm xuống, công việc pháp luật của liên bang sẽ còn
phát triển rộng rãi hơn trong sự mới lạ và khó khăn so với cùng công việc ở tầm mức tiểu
bang. Vì vậy, nó là một điều hợp lý để cho phép những người có phận sự một nhiệm kỳ
dài hơn.
CLXIII
Một nhánh kiến thức mà dân biểu liên bang phải thu thập chưa được nhắc đến là kiến
thức đối ngoại. Trong quá trình quản lý thương mại của đất nước, dân biểu liên bang
không những phải quen với những hiệp ước của nước Liên Bang Hoa Kỳ với những nước
khác mà còn phải biết những chính sách thương mại cũng như luật pháp của các nước
này. Anh ta phải am hiểu luật pháp của các nước bởi vì nó có dính dáng đến chính phủ
liên bang nếu những luật lệ đó là luật thành phố. Và tuy rằng Hạ Nghị Viện sẽ không trực
tiếp tham gia vào các cuộc thương lượng và dàn xếp của công việc đại chúng, nó sẽ
thường xuyên phải chú ý đến những hướng đi của luật pháp để phạt vạ hoặc hợp tác. Một
vài kiến thức này dĩ nhiên có thể thu nhập từ cuộc sống riêng tư nhưng một số khác sẽ chỉ
có thể rút ra từ nguồn tin tức công cộng. Và tất cả các kiến thức này tốt nhất nên lấy từ sự
chú ý đến những vấn đề phải giải quyết trong nhiệm kỳ.
Có những mối quan tâm khác không quan trọng lắm nhưng đáng được chú ý đến. Khoảng
cách mà các dân biểu phải du hành có thể quá xa, trong một vài trường hợp, và sẽ là một
trở ngại nếu giới hạn nhiệm kỳ thành một năm thay vì hai năm. Không có lý lẽ nào trong
chủ đề này có thể nêu ra từ những đại biểu trong Quốc hội hiên nay. Sự thật là họ được
bầu mỗi năm, nhưng sự tái đắc cử của họ được xem xét bởi hội đồng lập pháp như là một
điều hiển nhiên. Như đã xảy ra trong tất cả các hội đồng, một vài thành viên sẽ có những
tài năng rất cao và hậu quả là họ sẽ được đắc cử thường xuyên để trở thành những thành
viên thâm niên. Những thành viên này sẽ là những bậc thầy về việc phục vụ công chúng
và không ngần ngại tận dụng những kinh nghiệm đó. Tỷ lệ các thành viên mới càng lớn
hoặc thông tin càng ít thì họ sẽ dễ dàng rơi vào những cạm bẫy đã đặt sẵn cho họ. Lời
bình luận này có thể áp dụng vào cả hai Hạ Nghị Viện và Thượng Nghị Viện.
Trong những thế lợi của việc bầu cử thường xuyên có một sự bất tiện nên nói ra. Trong
một Tiểu bang lớn và đơn độc, nếu cuộc bầu cử và các phiên họp lập pháp được tổ chức
hàng năm, bầu cử giả tạo khó có thể điều tra và bãi bỏ kịp thời để quyết định đó có hiệu
lực. Nếu một cuộc bầu cử đã thắng bằng bất cứ cách thức bất hợp pháp nào, thành viên
không chính quy sẽ có đủ thời gian để thực hiện mục đích của hắn. Vì vậy, một khuyến
CLXIV
khích tiêu cực của việc sử dụng những phương cách bất hợp pháp để giành những kết quả
bầu cử không theo quy luật sẽ xảy ra. Nếu các cuộc bầu cử cho bộ lập pháp liên bang
được tổ chức hằng năm, thủ đoạn này sẽ bị lạm dụng một cách nghiêm trọng, nhất là ở
những Tiểu bang xa. Mỗi viện sẽ là một quan tòa cho những cuộc bầu cử, những tiêu
chuẩn, và những sự trở lại của các thành viên. Và tất cả những cải tiến có thể được đề
nghị bởi kinh nghiệm để đơn giản hóa hoặc tăng nhanh hơn quá trình xử lý các trường
hợp tranh chấp. Trong khi những chuyện này đang xảy ra thì một phần lớn của năm đó sẽ
trôi qua trước khi thành viên bất hợp pháp bị đuổi ra khỏi chức vụ của hắn. Viễn cảnh của
sự kiện trên sẽ không làm được gì để kiểm tra những cách thức trái phép và bất công đó
trong việc chiếm chiếc ghế ở viện.
Tất cả những cân nhắc này đã, nếu được suy nghĩ cùng với nhau, sẽ đảm bảo cho chúng
ta lợi ích của việc bầu cử theo chu kỳ hai năm trong việc phục vụ công chúng và sự an
toàn của quyền tự do dân chủ.
PUBLIUS
CLXV
Thư Liên Bang Số 54
Việc Bổ Nhiệm Các Dân Biểu Giữa Các Tiểu Bang
Gởi cư dân Tiểu Bang Nữu Ước:
Quan điểm kế tiếp của tôi sẽ chú ý đến vấn đề sử dụng một qui luật giống nhau cho việc
thuế má và bổ nhiệm Dân Biểu.
Để đại diện cho công chúng một cách cân xứng, nó phải được dựa trên số dân của Tiểu
Bang đó. Theo chiều hướng này, hiến pháp mới sẽ sử dụng dân số để quyết định nghĩa vụ
thuế của mỗi Tiểu Bang. Việc sử dụng dân số của mỗi Tiểu Bang cho hai vấn đề trên dựa
vào hai nguyên lý khác nhau.
Trong trường hợp của Hạ Nghị Viện, việc đại diện theo tỉ lệ dân số ám chỉ đến quyền lợi
riêng cho dân chúng tuân theo qui luật tự nhiên. Trong trường hợp của thuế vụ, nó ám chỉ
đến tỷ lệ thịnh vượng của một Tiểu Bang. Tuy rằng qui luật trên không được hoàn hảo
cho lắm nhưng nó ít bị phản đối nhất, và đồng bào chúng ta gần đây đã ủng hộ cho
phương cách này. Vì thế, hội đồng hiến pháp đã chọn nó.
Một số nhân vật trong nước gần đây đã tỏ ý muốn những người nô lệ được tính vào trách
nhiệm thuế vụ nhưng không vào chế độ bầu đại biểu theo tỉ lệ dân chúng. Họ lý luận rằng
tất cả những người nô lệ này được coi như là vật sở hữu chứ không phải là công dân, vì
vậy những người nô lệ đó chỉ nên tính cho việc đánh thuế mà thôi chứ không nên dùng để
tính vào tỷ lệ cho việc bầu cử đại diện dựa trên việc điều tra dân số. Điều này là một phản
đối, theo như tôi thấy, rất gay go đã được nêu ra. Kế tiếp, tôi sẽ nêu ra một khía cạnh
tương phản với lập luận trên.
CLXVI
Một anh bạn người Nam có thể nói rằng, “Chúng tôi đồng ý rằng chuyện bầu cử liên
quan chủ yếu đến dân số và thuế vụ thì liên quan đến tài sản nhiều hơn. Nhưng chúng tôi
phủ nhận việc coi các người nô lệ là vật sở hữu chứ không phải con người. Họ có cả hai
phẩm chất. Luật pháp của chúng tôi nhìn nhận họ là con người trong một số trường hợp,
và là vật sở hữu trong những trường hợp khác. Kẻ nô lệ bị bắt buộc phải lao động cho
ông chủ của nó. Ông chủ của nó có thể bán nó. Tự do của nó có giới hạn. Và thân thể nó
bị bắt buộc phải làm những gì ông chủ nó ra lệnh. Từ những lý do này, kẻ nô lệ không
được coi như là một con người. Trái lại, nó bị xem như là một gia súc trong nông trại và
được định nghĩa là một vật sở hữu. Tuy vậy, nó lại được bảo vệ để tránh khỏi những bạo
lực kể cả bạo lực từ người chủ nó. Và nếu một kẻ nô lệ sát hại người khác, nó sẽ bị trừng
phạt. Vì vậy, luật pháp coi nó như một thành viên của xã hội chứ không phải là một gia
súc. Anh ta được xem như một con người có phẩm giá chứ không phải chỉ là một vật sở
hữu tầm thường.”
Hiến pháp của Liên Bang rất đúng khi nhìn nhận những người nô lệ theo hai đường, vừa
là vật sở hữu và vừa là con người. Những Tiểu Bang chống lại vấn đề nô lệ không muốn
bỏ những người này vào các cuộc điều tra dân số nhưng yêu sách của luật pháp đã nhìn
nhận các người Châu Phi là vật sở hữu. Và nếu luật pháp hoàn trả lại quyền tự do của
người Châu phi, thì họ không nên bị từ chối dự phần của họ trong việc tính tỷ lệ đại diện.
Chúng ta có thể nhìn lại câu hỏi này trong một hướng khác. Cả hai bên có lẽ đã đồng ý
rằng những con số là một cán cân đo đạc hữu hiệu nhất để tính toán của cải, thuế vụ,
cũng như tỷ lệ đại diện. Sẽ ra sao nếu như hội đồng hiến pháp bỏ những người nô lệ ra
khỏi dân số khi tính tỷ lệ đại diện nhưng lại bỏ họ vào để tính chuyện thuế vụ? Nếu vậy
thì những Tiểu Bang Miền Nam có tán thành hay không một hệ thống trong đó ủng hộ
việc xem những người nô lệ là con người khi bị đánh thuế, nhưng lại từ chối họ quyền
này khi tính tỷ lệ dân số để xác định con số các Dân biểu? Một số người đã chỉ trích
những Tiểu Bang Miền Nam về chính sách man rợ của họ cho việc đối xử những người
cùng đồng loại như vật sở hữu. Và giờ đây, chính những người này lại nói rằng chính phủ
CLXVII
Liên Bang nên xem giống dân Châu Phi bất hạnh này như những vật sở hữu, trái với đạo
lý con người, khi đề cập đến những luật pháp ảnh hưởng tới quyền lợi chính trị của họ.
Họ có thể lý luận rằng dân nô lệ không nên tính vào tỷ lệ dân số để ước lượng con số Dân
biểu trong những Tiểu Bang chứa họ. Những người dân nô lệ này sẽ không có quyền bầu
cử và cũng không được tính vào việc tăng lên số phiếu cho các chủ nhân của họ. Nếu
hiến pháp Liên Bang không đồng ý với cả hai quan điểm trên trong việc bầu cử và thuế
vụ, thì nó đang ngả về hướng của luật pháp trong các Tiểu Bang.
Sự chống đối trên đã bị phủ quyết bởi một quan sát nhỏ sau đây. Một trong những
nguyên tắc căn bản của bản Hiến Pháp Liên Bang đã đề xuất ra là việc thống kê con số
các Dân biểu theo một quy luật dựa trên dân số. Tuy vậy, mỗi Tiểu Bang sẽ quyết định ai
có thể bầu cho các Dân biểu và luật pháp của mỗi Tiểu Bang có thể quy định quyền bầu
cử một cách khác nhau. Trong mỗi Tiểu Bang, sẽ có một số dân cư bị tước đi quyền bầu
cử bởi hiến pháp trong Tiểu Bang đó không cho phép. Nhưng họ lại được tính vào trong
các cuộc điều tra dân số của chính phủ Liên Bang, để rồi từ đó xác định con số Dân biểu
cho phép. Những Tiểu Bang Miền Nam có thể cãi lại rằng Hiến Pháp Liên Bang không
đòi hỏi các Tiểu Bang có một chính sách bầu cử giống nhau. Vì thế, tất cả các nô lệ của
họ nên được tính vào các cuộc điều tra dân số tại vì những Tiểu Bang khác sẽ tính hết tất
cả các dân cư trong vùng kể cả những người không có quyền công dân trọn vẹn. Tuy
nhiên, các Tiểu Bang Miền Nam đã chịu bỏ đi quan điểm trên, và họ muốn phe bên kia
cũng phải có sự hy sinh vừa phải cho xứng. Vậy thì hãy để cho vấn đề nô lệ làm một
trường hợp đặc biệt tiêu biểu cho sự dàn xếp giữa hai bên trong hiến pháp Liên Bang.
Nếu chúng ta đồng ý thì một người nô lệ trong hiến pháp này sẽ được tính bằng hai phần
năm (2/5) một công dân chính thức, tức là 5 người NÔ LỆ sẽ bằng 2 người CÔNG DÂN.
Xét cho cùng, có một lời biện hộ tốt hơn cho điều khoản này của Hiến Pháp. Đó là chúng
ta đã thừa nhận rằng chuyện bầu cử đại diện chỉ liên quan đến con người, chứ không phải
vật sở hữu. Nhưng vấn đề này có cơ sở hay không? Chính phủ được dựng lên để bảo vệ
CLXVIII
cả hai, người và vật. Vì thế, chính phủ tượng trưng cho công dân và tài sản của họ. Trong
một vài Tiểu Bang, một chi nhánh của chính phủ bảo vệ tài sản cá nhân và được bầu ra
bởi những người quan tâm đến mục tiêu này. Trong Hiến Pháp liên bang, chi nhánh chính
phủ này cũng sẽ bảo vệ cả hai, quyền công dân và tài sản của họ. Vì vậy, nên chú ý đến
vấn đề tài sản cá nhân mỗi khi lựa chọn những nhân vật này.
Có một lý do khác để đại biểu liên bang nên có tỷ lệ cân bằng với sự thịnh vượng của
Tiểu Bang đó. Những Tiểu Bang giàu, khác với những nhân vật giàu có, không có ảnh
hưởng gì đến các Tiểu Bang khác. Mặc dù một nhân vật giàu có chỉ được bỏ một phiếu
bầu, tài sản và thế lực của ông ta có thể ảnh hưởng những cử tri khác về phía ông ấy. Qua
con đường vô hình này, quyền sở hữu cá nhân được truyền đạt vào sự đại diện công
chúng. Một Tiểu Bang sẽ không có những ảnh hưởng nào đến những Tiểu Bang khác.
Tiểu Bang giàu có nhất, có lẽ, cũng không thể có ảnh hưởng gì đến sự lựa chọn một Dân
biểu đơn độc của Tiểu Bang khác. Và những Dân biểu của những Tiểu Bang giàu có hoặc
lớn hơn sẽ chẳng có lợi thế gì so với những Dân biểu của Tiểu Bang nhỏ hơn trong hệ
thống lập pháp của Liên Bang, ngoại trừ có nhiều số Dân biểu hơn do bởi dân số đông
hơn. Vì vậy, nếu tài sản cá nhân có đem đến cho họ những thế lợi nào thì họ nên lấy
chúng qua số phần đại biểu lớn hơn. Hiến Pháp Liên Bang rất khác so với hiến pháp hiện
thời của khối Liên Hiệp cũng như khối liên hiệp Hà Lan trong việc những nghị quyết
Liên Bang phải được chấp thuận bởi các tiểu bang trước khi chúng trở thành luật. Trong
những khối liên hiệp đó, mỗi tiểu bang có một tiếng nói bằng nhau trong hội đồng liên
kết. Tuy vậy, những tiểu bang có các ảnh hưởng khác nhau tùy theo những chủ đề trong
các nghị quyết.
Dưới bảng Hiến Pháp mới, luật liên bang sẽ có hiệu lực ngay lập tức mà không cần đến
sự đồng ý của các Tiểu Bang riêng lẻ. Các luật này sẽ chỉ dựa vào biểu quyết đa số của
quốc hội trong nhánh lập pháp. Vì thế, mỗi lá phiếu trong quốc hội, cho dù từ Tiểu Bang
nhỏ hay lớn, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, sẽ luôn có một trọng lượng và hiệu lực bằng
CLXIX
nhau. Bất cứ ảnh hưởng nào sẽ đến từ đặc tính cá nhân của một Dân biểu chứ không phải
việc anh ta đến từ một quận hạt giàu có.
Những lập luận kể trên là những điều mà một người ủng hộ miền Nam sẽ bàn cãi cho chủ
đề này. Cho dù nó có vẻ gượng ép ở một vài điểm, tôi nghĩ là nó đã cho thấy quy luật của
Hiến Pháp về vấn đề đại diện có hiệu nghiệm.
Trong một khía cạnh khác, việc sử dụng một quy luật chung để tính tỷ lệ đại diện và thuế
vụ sẽ có một tác dụng rất tốt. Ở một mức độ lớn hơn, sự chính xác của việc điều tra dân
số sẽ dựa trên sự sắp xếp, nếu không nói là sự cộng tác, của tất cả các Tiểu Bang. Điều
quan trọng nhất là các Tiểu Bang phải làm sao không có sự giả dối trong việc báo cáo con
số dân chúng của nó.
Nếu việc điều tra dân số chỉ để xác định tỷ lệ đại diện, các Tiểu Bang sẽ phóng đại số dân
của nó lên. Còn nếu cuộc điều tra dân số để xác định trách nhiệm thuế vụ, những Tiểu
Bang này sẽ muốn dân số họ nhỏ đi. Bằng cách sử dụng việc điều tra dân số cho hai vấn
đề trên, tất cả các Tiểu Bang sẽ có hai quyền lợi trái ngược nhau, và hai quyền lợi này sẽ
kiểm soát và cân bằng lẫn nhau để tạo ra một cuộc điều tra dân số công bằng và trung
thực.
PUBLIUS
CLXX
Thư Liên Bang Số 67
Ngành Hành Pháp
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Qua bài viết này chúng ta hãy xét đến sự hiến định của hành pháp trong cấu trúc dự thảo
của chính quyền liên bang.
Có lẽ không có bộ phận nào của hệ thống chính quyền lại gặp nhiều khó khăn hơn khi
chuẩn bị và không bộ phận nào lại bị công kích dữ dội và phê phán mạnh mẽ hơn khối
hành pháp.
Những người phản đối lại Hiến Pháp đã cố gắng đến tuyệt đỉnh trong việc diễn đạt sai trái
nội dung của nó. Dựa vào toan tính về sự chán ghét của công chúng đối với chế độ vương
quyền, họ đã dốc sức kích động sự thù hằn và tâm lý sợ hãi đối với chức danh Tổng
Thống Hợp Chủng Quốc; như thể đó là một ác ý của cha mẹ ghẻ đối với đứa con riêng.
Họ đã không từ thủ đoạn nào kể cả việc bịa đặt trắng trợn để thêu dệt lên sự giả dối. Như
trường hợp quyền lực của thống đốc tiểu bang New York đôi khi đã được phóng đại như
uy quyền của hoàng tộc. Chức danh thống đốc được miêu tả với sự tuyệt đối về quyền lực
và dưới ánh hào quang như thể của hoàng đế Anh quốc. Ngài thống đốc được trình bày
trước công chúng với vương miệng sáng rực, thảm đỏ trải dài trên con tàu của ông ta.
Ông ta ngồi trên ngai vàng bao quanh bởi cận thần và cung nữ, tiếp đón sứ giả ngoại quốc
như một ông vua thực thụ. Chỉ còn thiếu cảnh cha truyền con nối của và sự xa hoa các
vương quyền Á châu nữa mà thôi. Chúng ta biết rùng mình trước hình ảnh ghê sợ của
những tên giết thuê, chúng ta biết xấu hổ trước sự phơi bày của góc tối bản ngã con
người....
CLXXI
Những cố gắng tuyệt vọng như vậy để bôi nhọ hay nói khác đi để đánh lạc hướng chủ đề
chính làm chúng ta cần phải quan sát xem động cơ và nguồn gốc của nó là gì. Chúng ta
cần biết đâu là vấn đề thực thụ và đâu là sự che đậy cho những ý đồ đen tối cần phải vạch
trần.
Trong công việc này không ai có thể xem nhẹ những cố gắng nham hiểm được tạo dựng
ra để đánh đổi quan điểm của công chúng. Những cố gắng này đã vượt qua sự đối lập giả
tạo giữa các đảng phái, đến mức cả người bình thường nhất cũng chỉ biết lắc đầu ngao
ngán. Không thể nào gọi khác đi sự giả dối đánh lận con đen của sự so sánh hàm hồ giữa
quyền lực của hoàng đế Anh quốc và chức danh Tổng Thống Hợp Chủng Quốc.
Trong một ví dụ mà tôi đưa ra sau đây sự khiên cưỡng đã lên tới mức người ta gán cho
chức danh Tổng Thống Hợp Chủng Quốc một đặc quyền mà đúng ra nó được thực thi bởi
chức danh Thống Đốc các tiểu bang. Đó là quyền đề cử nhân sự vào Thượng Nghị Viện.
Tác giả của sự bịa đặt này, cho dù động cơ chính của ông ta là gì, là một người có ảnh
hưởng nhất định trong đảng của ông ta, sau khi đưa ra những tuyên bố vô cơ sở đã tiếp
tục những phát tán những ý tưởng không đúng sự thật. Hãy để cho ông ta đối diện với sự
thật và để cho ông ấy, nếu có thể, tự tìm cách giải thích cho lương tâm của mình về thế
nào sự thật và thế nào là sự đối đáp công bằng.
Đoạn thứ hai của phần thứ hai của chương hai cho Tổng Thống "quyền đề cử, với sự góp
ý và đồng thuận của Thượng Nghị Viện, quyền chỉ định đặc sứ, lãnh sự, chánh án tòa
Thượng Thẩm và các CHỨC VỊ khác của Hợp Chủng Quốc, nếu các chức vị đó KHÔNG
được hiến pháp CHỈ ĐỊNH, nhưng bắt buộc phải có theo luật định". Ngay sau đoạn này
là một đoạn như sau: " Tổng Thống có quyền chỉ định tạm thời cho các vị trí CHƯA
ĐƯỢC ĐỀ CỬ qua Thượng Nghị Viện TRONG THỜI GIAN THƯỢNG NGHỊ VIỆN
KHÔNG NHÓM HỌP, bằng cách chỉ định tạm thời, bổ nhiệm này sẽ HẾT HẠN VÀO
CUỐI KỲ NHÓM HỌP SAU ĐÓ". Từ đoạn cuối này người ta đã suy ra quyền lực giả
CLXXII
tưởng của Tổng Thống để chỉ định các vị trí trong Thượng Nghị Viện. Chúng ta chỉ cần
chú ý đến các đoạn văn và ý nghĩa của chúng thì chúng ta đều hiểu sự suy diễn như trên
là vô căn cứ.
Trong đoạn đầu bản hiến pháp rõ ràng chỉ ra các chức vị mà Tổng Thống có quyền đề cử
"là những chức vị KHÔNG được hiến pháp chỉ định, nhưng bắt buộc phải có theo luật
định"; dĩ nhiên là đoạn này không thể dùng cho chức danh Thượng Nghị Sĩ vì Thượng
Nghị Sĩ là chức danh hiến pháp đã chỉ định, đã được đặt ra bởi hiến pháp và không cần bị
chi phối bởi một điều luật nào trong tương lai. Điều này thật quá ư rõ ràng.
Đoạn thứ hai về quyền đề cử tạm thời của Tổng Thống cho các vị trí chưa được bổ nhiệm
cũng rất rõ ràng. Thứ nhất đây là đoạn theo sau đoạn chính nói về quyền bổ nhiệm của
Tổng Thống trong trường hợp các chức danh đó chưa được đề cử theo đường chính
thống. Quyền đề cử chính thống cùng thuộc về Tổng Thống và Thương Nghị Viện, như
vậy cả hai bên đều có thể thực thi quyền này khi Thượng Nghị Viện nhóm họp. Tuy
nhiên chúng ta không thể giả định Thượng Nghị Viện sẽ nhóm họp quanh năm, ngoài ra
nhiều vị trí trong chính phủ cần được bổ nhiệm ngày vì quyền lợi công chúng và quốc gia
khi Thượng Nghị Viện không nhóm họp\. Do vậy đoạn này đã định quyền cho Tổng
Thống, một mình, "quyền bổ nhiệm tạm thời, bổ nhiệm này sẽ HẾT HẠN VÀO CUỐI
KỲ NHÓM HỌP SAU ĐÓ". Thứ hai nếu đoạn luật này là phụ cho đoạn luật chính trước
đó, thì các vị trí bổ khuyết là những vị trí được định nghĩa trong đoạn luật chính, mà như
vậy theo chúng ta hiểu không bao gồm thành viên Thượng Nghị Viện. Thứ ba khoảng
thời gian định ra cho sự bổ nhiệm là "khi Thượng Nghị Viện không nhóm họp", và sự bổ
nhiệm này chỉ có hiệu lực cho đến hết kỳ nhóm họp sau đó. Như vậy chúng ta có thể thấy
tính chất tạm thời của sự bổ nhiệm và đó cũng là lý do thúc đẩy Thượng Nghị Viện chỉ
định sự bổ nhiệm chính thức. Việc đánh tráo khái niệm về sự bổ nhiệm chức danh của
chính phủ và quyền đề cử thành viên Thượng Nghị Viện với mục đích bôi nhọ và phóng
đại quyền lực Tổng Thống là điều người ta muốn đạt được. Chúng ta nên nhớ, đoạn thứ
nhất và thứ hai của phần thứ ba của chương Một hiến pháp đã không những giải đáp hết
CLXXIII
thắc mắc mà còn xóa sạch những hoàn cảnh có thể dẫn đến hiểu lầm. Đoạn đầu chỉ rằng
"Thượng Nghị Viện Hợp Chủng Quốc bao gồm hai Nghị Sĩ từ mỗi tiểu bang chọn bởi
bầu cử mỗi sáu năm", và đoạn sau viết rõ rằng " nếu vị trí Nghị Sĩ bị trống vì từ nhiệm
hay vì lý do khác, trong khi quốc hội không nhóm họp, thì hành pháp tiểu bang có quyền
chỉ định tạm thời cho vị trí đó cho đến lần nhóm họp sau của quốc hội để bầu cho vị trí
bỏ trống. Đây là quyền được chỉ định một cách rõ ràng, bằng ngôn ngữ luật định, cho
hành pháp tiểu bang, trong việc bổ nhiệm tạm thời vào Thượng Nghị Viện. Nó hoàn toàn
vạch rõ điều sai trái trong quan điểm cho rằng quyền đó được đưa về cho Tổng Thống.
Nó cũng chứng minh rằng những luận điểm xuyên tạc được thêu dệt ra với mục đích lừa
gạt công chúng, nhưng dù che đậy như thế nào thì chúng cũng bị vạch trần.
Tôi đã dốc sức đem một luận điệu sai trái này ra ánh sáng và coi nó như một bằng chứng
của sự phản biện vô căn cứ nhằm vào bản hiến pháp đang cần được công chúng đánh giá
và xem xét một cách công bằng và khách quan. Tôi đã không ngần ngại, trong trường hợp
rõ ràng này, tự cho phép tôi quyền được bảo vệ quan điểm của mình trong tinh thần
chung của những bài luận bút. Tôi sẵn lòng gởi nó cho bất cứ ai phản đối lại hình thái
chính phủ đang được đề cử một cách đàng hoàng trung thực, lời nói không mất tiền mua,
không thể để một sự dối trá như vậy đến với công chúng Mỹ quốc.
PUBLIUS
CLXXIV
Thư Liên Bang số 68
Thể Thức Bầu Cử Tổng Thống
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Thể thức đề cử và bầu cho chức vị hành pháp tối cao của Hợp Chủng Quốc là phần duy
nhất trong bản Hiến Pháp đã hầu như tránh được sự phủ định hoàn toàn của các nhà đối
lập. Ngay cả một bài phản biện mạnh nhất được đăng trên báo cũng thừa nhận thể thức
bầu cử tổng thống được cân nhắc thận trọng [1]. Tôi muốn tiến thêm một bước và tuyên
bố rằng dù thể thức bầu cử này có thể chưa hoàn hảo nhưng nó là một thể thức vô cùng
xuất sắc. Nó liên kết một cách tuyệt vời mọi lợi thế của liên bang mà chúng ta hằng mong
muốn.
Chỉ có sự lựa chọn người ủy thác qua dân ý mới đem lại niềm tin đối với công chúng và
làm cho sự ủy thác đó trở thành thiêng liêng. Nhóm người chịu sự ủy thác của công
chúng sẽ chọn người lãnh đạo liên bang.
Chúng ta muốn sự chọn lựa đó diễn ra trong điều kiện tối ưu bởi những cá nhân có khả
năng suy luận, phân tích và cân nhắc một cách chín chắn phiếu bầu của mình. Sự lựa
chọn người lãnh đạo liên bang thông qua một tập hợp các đại cử tri đầy đủ hiểu biết là
hình thức phù hợp nhất cho công việc phức tạp và quan trọng này.
Chúng ta cần giảm thiểu tối đa các khả năng gây bất ổn và xáo trộn trong việc bầu cử,
nhất là khi bầu cho chức vụ Tổng Thống Hợp Chủng Quốc người đứng đầu chính phủ
liên bang. Những thiết chế được đặt ra dưới bản hiến pháp này có mục đích giảm thiểu
một cách hữu hiệu các khả năng gây bất ổn. Việc chọn lựa một nhóm đại cử tri như là
một tầng lớp trung gian sẽ hạn chế các đột biến và các xu hướng bạo lực so với việc chọn
CLXXV
lựa một CÁ NHÂN vào vị trí người ưu tú duy nhất bởi công chúng. Ngoài ra các đại cử
tri sẽ nhóm họp và bầu tại từng tiểu bang họ đại diện, sự phân chia về khoảng cách địa lý
và thời gian sẽ giúp giảm thiểu các ảnh hưởng gay gắt trực tiếp từ phía công chúng như
trong trường hợp toàn bộ đại cử tri nhóm họp tại cùng một địa điểm và cùng thời gian.
Trong nền cộng hòa không có gì quan trọng hơn việc phòng chống các hình thức bè đảng,
thỏa hiệp tay trong và tham nhũng. Những nguy hiểm tối thượng này của nền cộng hòa có
thể đến từ nhiều hướng, chủ yếu từ các thế lực ngoại bang hòng thao túng chính quyền
của chúng ta. Làm sao có thể tưởng tượng sự thỏa mãn của ngoại bang nếu vị trí tối cao
trong chính quyền chỉ là một con cờ trong tay họ? Do vậy hội nghị lập hiến đã rất chú
trọng vào việc định ra các thể chế để loại trừ khả năng đó. Việc bầu cử Tổng Thống hoàn
toàn không lệ thuộc vào bất cứ hội đoàn sẵn có nào, đề phòng trường hợp họ bị dụ dỗ bán
đi lá phiếu của mình. Công chúng là những người trực tiếp lựa chọn đại cử tri đoàn cho
mục đích duy nhất bầu cử tổng thống. Các cá nhân sau đây không được phép tham gia đại
cử tri đoàn - Thượng Nghị Sỹ, Dân Biểu Hạ Viện, công chức các cấp trong bộ máy chính
quyền. Như vậy các đại cử tri được công chúng bầu chọn sẽ bình tâm và khác quan trong
công việc khó khăn của mình. Sự tồn tại chóng vánh và tính độc lập của đại cử tri đoàn
khuyến khích họ hoàn thành công việc lựa chọn tổng thống Hợp Chủng Quốc. Việc mua
chuộc một nhóm đại cử tri độc lập là điều rất khó xảy ra do những cản trở về thời gian và
tài chính. Một khó khăn nữa cho những thế lực đen tối là làm sao có thể tiếp xúc được đại
cử tri đoàn từ tất cả 13 tiểu bang. Những biện pháp được đề ra do vậy sẽ đảm bảo cho
tính trung lập và khách quan cho quá trình bầu cử tổng thống trước những ý đồ đen tối
muốn thao túng đại cử tri đoàn.
Trong một khía cạnh không kém quan trọng khác, chỉ có công chúng Hợp Chủng Quốc
mới quyết định Tổng Thống có tái đắc cử hay không, ngoài ra Tổng Thống sẽ không lệ
thuộc vào bất kỳ một ai trong việc tiếp tục cương vị của mình. Thiết chế này đảm bảo
tính độc lập cho Tổng Thống trong thời gian tại vị, nó giúp tránh việc Tổng Thống phải
dàn xếp để có thể thực thi trách nhiệm của mình. Việc tái đắc cử của Tổng Thống như
CLXXVI
vậy chỉ tùy thuộc vào sự lựa chọn của đại cử tri đoàn qua sự ủy thác của công chúng với
mục đích duy nhất là bỏ phiếu cho quyết định đó.
Tất cả các thiết chế trên kết hợp với nhau thành hệ thống bầu cử Tổng Thống tại hội nghị
lập hiến như sau. Công chúng mỗi tiểu bang sẽ chọn ra đại cử tri đoàn với số lượng tương
đương với tổng số Thượng Nghị Sỹ và Dân Biểu Hạ Viện của tiểu bang. Đại cử tri đoàn
sẽ nhóm họp tại địa phương đề bầu cho một người xứng đáng vào vai trò Tổng Thống
Hợp Chủng Quốc. Phiếu bầu của mỗi tiểu bang sẽ chuyển về chính phủ liên bang, ứng cử
viên với đa số phiếu sẽ trở thành Tổng Thống. Trong trường hợp không ứng viên nào đạt
đa số phiếu, thay vì chấp nhận ứng viên với số phiếu cao nhất thì Hạ Viện được ủy quyền
lựa chọn một trong năm ứng viên với số phiếu cao nhất vào chức vụ Tổng Thống.
Thể thức bầu cử đảm bảo chức vụ Tổng Thống sẽ không rơi vào tay một cá nhân, nếu
người đó không có tư cách đáng trân trọng và một trình độ uyên thâm. Những cá nhân cơ
hội chính trị, xảo quyệt trong việc lấy lòng công chúng có thể sẽ len lỏi vào được vị trí
đứng đầu một tiểu bang, nhưng để được đề cử vào vị trí Tổng Thống Hợp Chủng Quốc cá
nhân đó cần thực sự có tài năng và công trạng; vì chỉ khi nào toàn thể liên bang hoặc đa
số công chúng liên bang tin tưởng vào uy tín và khả năng thì cá nhân đó mới thành công
trong việc ứng cử vào chức vụ cao quý Tổng Thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chúng ta
có thể tin tưởng rằng chức danh này sẽ được đảm trách bởi những tài năng xuất chúng
nhất. Đây là một trong những nguyên do bản Hiến Pháp được đánh giá rất cao bởi những
người có nhận thức về ảnh hưởng tốt hay xấu của ngành Hành Pháp trong mỗi nền cộng
hòa. Chúng ta không thể cản trở dư luận đàm tiếu "Chỉ có kẻ ngốc mới tin vào chính
quyền, chính quyền nào tốt nhất là tốt nhất", tuy vậy chúng ta có toàn quyền khẳng định
rằng cách đánh giá tốt nhất đối với một chính quyền là khả năng và cơ chế tạo dựng các
chính phủ tốt.
Chức vị Phó Tổng Thống sẽ được chọn lựa tương tự như chức vị Tổng Thống, với điểm
khác biệt duy nhất là vai trò của Hạ Viện sẽ được thay bằng Thượng Viện.
CLXXVII
Việc đề cử một cá nhân xuất chúng vào chức vị Phó Tổng Thống đã được xem là không
cần thiết và là có ý đồ. Nhiều người cho rằng nên để Thượng Viện chọn ra từ hàng ngũ
Thượng Nghị Sỹ một cá nhân vào chức vị này. Hội nghị lập hiến đã đưa ra hai điểm sau
để giải thích cho quan điểm của mình. Điều thứ nhất, để Thượng Viện luôn luôn đảm bảo
được sự biểu quyết, chức vị Chủ Tịch chỉ được dùng cho phiếu bầu quyết định. Nếu chức
vị Chủ Tịch được một Thượng Nghị Sỹ đảm trách thì khác gì chúng ta đã lấy đi một
phiếu bầu thường trực từ tiểu bang của Thượng Nghị Sỹ đó và thay bằng một phiếu bầu
dự phòng. Điều thứ hai, Phó Tổng Thống có lúc cần thay mặt cho Tổng Thống trong vai
trò đại diện tối cao, do vậy tất cả những cân nhắc và lý do để chúng ta lựa chọn Tổng
Thống cũng phải được áp dụng một cách tương đương cho vị trí này. Điều đáng chú ý là
sự phản đối dành cho chức vị Phó Tổng Thống thực ra cũng đi ngược lại hiến pháp tiểu
bang của chúng ta. Chúng ta có chức vị Phó Thống Đốc, lựa chọn trực tiếp bởi công
chúng, cũng là vị trí Chủ Tịch Thượng Viện, và là vị trí hiến định thay mặt cho chức vị
Thống Đốc, quyền hạn và trách nhiệm của chức vị Phó Tổng Thống đối với Tổng Thống
là hoàn toàn tương tự.
PUBLIUS
CLXXVIII
Thư Liên Bang 69
Quyền Lực Thực Thụ của Ngành Hành Pháp
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Trong bài viết này tôi sẽ tiếp tục giải trình tính cách thực thụ của ngành Hành Pháp như
được vạch ra trong kế hoạch tổ chức hội nghị lập hiến. Mục đích của tôi là làm tỏ tường
cho những quan điểm sai lầm được đưa ra về ngành Hành Pháp.
Vấn đề đầu tiên chúng ta cần quan tâm là, trừ một vài ngoại lệ, quyền lực Hành Pháp sẽ
được tập trung vào một chức vụ công quyền duy nhất. Tuy nhiên điều này không thể
dùng làm cơ sở so sánh nó với quyền lực của Hoàng đế Anh quốc, hay của Thổ Vương,
Mông Hãn, Tù trưởng, hoặc ngay cả Thống Đốc tiểu bang New York.
Chức vụ công quyền này sẽ được bầu lên trong BỐN năm; và được phép tái đề cử nếu
công chúng Hợp Chủng Quốc tiếp tục tin tưởng vào người thừa hành tại vị. Như vậy ở
đây hoàn toàn có sự khác biệt giữa người thừa hành công quyền và Hoàng đế Anh quốc,
người được thừa hưởng ngai vàng và vương miện, người sẽ truyền ngôi đời đời cho dòng
dõi con cháu hoàng tộc. Tuy vậy chức vụ này khá tương đồng với Thống Đốc tiểu bang
New York, người được bầu lên trong BA năm và có quyền tái ứng cử vô thời hạn. Nếu
chúng ta suy ngẫm về việc cần bao nhiêu thời gian để tạo dựng lên sự ảnh hưởng nguy
hiểm trong một tiểu bang, rồi nhân rộng quãng thời gian đó ra toàn liên bang, chúng ta sẽ
đi đến kết luận một nhiệm kỳ BỐN năm cho chức vụ Hành Pháp tối cao của liên bang là
quãng thời gian tương đối ngắn ngủi so với nhiệm kỳ BA năm cho chức vụ tối cao tương
tự tại riêng một tiểu bang.
Người mang chức vụ Tổng Thống Hợp Chủng Quốc vẫn có thể bị công tố, xét xử và nếu
CLXXIX
bị luận tội phản quốc, hối lộ hay những tội hình trầm trọng khác, sẽ phải rời chức vụ
Tổng Thống, và sau đó tiếp tục chịu tố tụng và hình phạt theo luật pháp bình thường.
Ngược lại, người ngồi trên ngai vàng Anh quốc là thánh thượng bất khả xâm phạm,
không chịu trách nhiệm trước bất cứ tòa án nào, không bao giờ nhận lãnh bất cứ hình
phạt nào ngoại trừ trong trường hợp khủng hoảng quốc gia do một cuộc cách mạng nổ ra.
Trong những tình huống đầy quan trọng và tinh tế gắn liền với trách nhiệm cá nhân, một
Tổng Thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ không khác gì so với Thống Đốc New York hay
Thống Đốc Delaware hoặc Maryland.
Tổng Thống Hợp Chủng Quốc sẽ có quyền trả bất cứ dự luật nào, sau khi được lưỡng
viện phê chuẩn, về lại cho Lập Pháp. Dự luật sau khi tái bàn thảo, nếu vẫn được lưỡng
viện phê chuẩn với trên 2/3 số phiếu, sẽ trở thành luật chính thức. Ngược lại, Hoàng đế
Anh quốc có quyền phủ quyết tối thượng đối với lưỡng viện quốc hội. Tuy quyền phủ
quyết tối cao đó không được dùng trong một thời gian dài, nhưng thực tế là nó vẫn tồn
tại. Lý do chủ yếu do điện Buckingham muốn dùng ảnh hưởng để dành đa số tại một
trong lưỡng viện thay vì áp dụng một uy quyền, mà họ biết rằng nó sẽ gây ra sự bất bình
ghê gớm trên toàn quốc. Quyền phủ quyết tương đối của Tổng Thống Hợp Chủng Quốc
khác rất xa quyền phủ quyết tuyệt đối của Hoàng đế Vương quốc Anh. Nó khá giống
quyền tái kiểm định của hội đồng kiểm định tiểu bang New York, nơi Thống Đốc cũng là
một thành viên. Trong trường hợp này ta có thể thấy quyền lực của Tổng Thống cao hơn
quyền lực của Thống Đốc New York, vì Tổng Thống tự mình có thể phủ quyết dự luật,
trong khi Thống Đốc phải chia xẻ quyền đó với các thành viên khác trong hội đồng.
Quyền phủ quyết của Tổng Thống hoàn toàn trùng khớp với quyền của Thống Đốc
Massachusettes, nơi quyền phủ quyết hiến định, tại thời điểm của bài viết này, đã được
hội nghị lập hiến sao chép lại.
Tổng Thống sẽ là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của lực lượng lục quân và hải quân Hợp Chủng
Quốc và lực lượng Vệ Binh Quốc Gia các tiểu bang khi họ được gọi phục vụ cho Hợp
Chủng Quốc. Tổng Thống có quyền giảm tội và ân xá cho những tội phạm chống lại Hợp
CLXXX
Chủng Quốc, ngoại trừ trường hợp CÔNG TỐ; quyền đưa ra những điều luật để Quốc
Hội bàn thảo; quyền gọi nhóm họp một hay lưỡng viện Quốc Hội trong tình trạng khẩn
cấp; quyền kết thúc nhóm họp khi có SỰ BẤT ĐỖNG VỄ THỜI GIAN BẾ MẠC; quyền
hành xử nhằm thượng tôn pháp luật; quyền bổ nhiệm các chức vụ công quyền của Hợp
Chủng Quốc. Trong hầu hết các điểm trên quyền Tổng Thống đều ngang bằng quyền
Hoàng đế Anh quốc hay quyền Thống Đốc New York. Những sự khác biệt chính yếu bao
gồm, thứ nhất, Tổng Thống chỉ có quyền điều hành Vệ Binh Quốc Gia khi lực lượng này
được điều động bởi chính quyền tiểu bang để phục vụ liên bang. Hoàng đế Anh và Thống
Đốc New York luôn có toàn quyền đối với toàn thể vệ binh trong lãnh thổ của mình. Như
vậy quyền Tổng Thống ở đây thua kém quyền của Hoàng đế Anh lẫn Thống Đốc New
York. Thứ nhì, Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của lục quân và hải quân. Điểm
này thoạt nhìn thì tương đồng với quyền của Hoàng đế Anh, nhưng thực ra nó thua rất xa.
Quyền này chỉ cho phép Tổng Thống chỉ huy và điều động hải lục quân như một Đại
Tướng hay Đại Đô Đốc, trong khi Hoàng đế Anh có quyền TUYÊN CHIẾN, TUYỂN
MỘ và ĐIỄU HÀNH binh lính và hạm đội, tất cả những quyền này trong bản hiến pháp
dự thảo, đều thuộc về Lập Pháp. Hiến pháp New York chỉ cho Thống Đốc quyền chỉ huy
hải lục quân. Hiến pháp một số tiểu bang khác tuyên bố Thống Đốc của họ là Tổng Tư
Lệnh Tối Cao hải lục quân, chúng ta hoàn toàn có quyền thắc mắc khi Massachusettes và
New Hampshire dành cho Thống Đốc của họ những quyền cao hơn cả quyền của Tổng
Thống Hợp Chủng Quốc. Thứ ba, quyền đặc xá của Tổng Thống không bao gồm trường
hợp bị CÔNG TỐ. Thống Đốc New York có toàn quyền đặc xá cho bất cứ tội phạm nào,
ngoại trừ tội phản nghịch và án mạng. Như vậy trong trương hợp này có phải quyền lực
của Thống Đốc mạnh hơn của Tổng Thống hay không? Những âm mưu và kế hoạch lật
đổ chính quyền, nếu chưa thành hình để trở thành tội phản nghịch, sẽ có thể được bảo vệ
bởi đặc quyền ân xá. Giả sử Thống Đốc New York là người cầm đầu một âm mưu phản
nghịch thì ông ta có toàn quyền che chở bảo vệ cho các đồng phạm của mình cho đến khi
kế hoạch của họ thực hiện thành công. Trái lại, Tổng Thống Liên Bang trên cương vị của
mình có thể đặc xá cho tội phản nghịch nếu được truy tố theo trình tự tố tụng bình
thường, nhưng ông ta không thể che chắn cho bất kỳ ai nếu người đó bị công tố và luận
CLXXXI
tội. Đối với những thành phần chống lại sự tự do của xã hội, viễn cảnh về một sự bất khả
xâm phạm trong mọi hoạt động có hấp dẫn hơn so với viễn cảnh được ân xá giữ lấy mạng
sống nếu hành động bạo lực chống lại chính quyền bất thành? Liệu nhân vật với quyền
đặc xá có dám lạm dụng nó khi ông ta biết rằng chính mình có thể bị liên quan và cách
chức? Để hiểu rõ các mối liên quan này chúng ta cần nhớ rằng bản Hiến Pháp dự thảo
định nghĩa phản nghịch là "gây chiến chống lại Hợp Chủng Quốc, ngả về phía kẻ thù,
giúp đỡ kẻ thù về vật chất và tinh thần; luật của New York cũng đưa ra định nghĩa tương
tự. Thứ tư, Tổng Thống chỉ có thể tuyên bố bế mạc Quốc Hội trong trường hợp duy nhất
nếu có sự bất đồn về thời gian bế mạc. Hoàng đế Anh quốc ngược lại có thể thay đổi
nhiệm kỳ hay giải tán Quốc Hội. Thống Đốc New York cũng có thể thay đổi nhiệm kỳ
của lập pháp trong một số trường hợp đặc biệt.
Tổng Thống có quyền ký kết hiệp định với sự bàn thảo và đồng thuận của Thượng Viện,
nếu trên 2/3 Thượng Nghị Sỹ đồng ý. Hoàng đế Anh quốc là đại diện tối cao duy nhất
cho vương quốc Anh trên trường quốc tế. Ông ta có thể tùy ý ký kết hiệp định hòa bình,
thương mại, lập đồng minh v.v. Có người cho rằng Hoàng gia không có toàn quyền trong
lĩnh vực này vì các hiệp định được ký kết phải được Quốc Hội duyệt xét và phê chuẩn.
Nhưng tôi tin rằng tiền lệ này chưa hề xảy ra, cho đến khi người ta bắt đầu nói về nó thời
gian gần đây. Bất cứ một luật gia nào của Anh quốc hay bất cứ ai thông hiểu hiến pháp
Anh biết chắc một thực tế là quyền ký kết hiệp ước nằm trong tay Hoàng đế một cách
tuyệt đối; những hiệp ước được Hoàng đế phê chuẩn có hiệu lực tối cao và độc lập đối
với các quyết định của chính quyền. Quốc Hội Anh trên thực tế đã phải sửa đổi những
luật lệ sẵn có cho phù hợp với những điều ước của hiệp định mới, điều này có thể đã gây
sự hiểu lầm rằng cần có sự thỏa thuận của Quốc Hội trong việc thương thảo hiệp định.
Thực ra việc Quốc Hội Anh phải được liên đới vì hệ thống luật thương mại và thuế vụ
Anh quốc là hệ thống rắc rối và phức tạp nhất thế giới, nó phải được chỉnh sửa liên tục để
tránh mâu thuẫn với những hiệp ước vừa ký kết và tránh việc cả hệ thống ngưng vận hành
vì quá tải. Trong trường hợp này ta không thể so sánh giữa quyền lực tương đối cảu Tổng
Thống và quyền tối thượng của Hoàng Gia Anh quốc. Một bên chỉ có thể hành động với
CLXXXII
sự đồng thuận của một nhánh Lập Pháp, một bên có toàn quyền độc tôn. Tuy vậy chúng
ta công nhận rằng quyền lực này của Tổng Thống vượt quá quyền của bất cứ người đứng
đầu Hành Pháp tiểu bang nào, điều này do mối liên quan tự nhiên về chủ quyền và vấn đề
ký kết hiệp ước. Nếu liên bang của chúng ta tan rã, thì tôi cho rằng Hành Pháp tiểu bang
sẽ thừa hưởng quyền đó trong lãnh vực nhạy cảm và quan trọng này.
Tổng Thống được quyền tiếp nhận đại sứ và các đại diện ngoại quốc. Đây là vấn đề liên
quan đến thể diện quốc gia hơn là quyền thực thụ, mặc nó cũng là nguồn gốc của nhiều
sự đả kích. Việc này rõ ràng thuộc về chức trách của chính quyền, ta nên để cho Hành
Pháp thực hiện vì như vậy sẽ thuận tiện hơn so với việc nhóm họp Lập Pháp để đón tiếp
hay đưa tiễn một đại diện nước ngoài.
Tổng Thống có quyền đề cử và bổ nhiệm, VỚI SỰ THỎA THUẬN VÀ PHÊ CHUẨN
CỦA THƯỢNG VIỆN, đại sứ và các đại diện chính quyền, chánh án Tòa Thượng Thẩm
và tất cả các công chức chính quyền Hợp Chủng Quốc theo luật, khi những vị trí đó
không được chỉ định bởi Hiến Pháp. Hoàng đế Anh quốc là người có địa vị độc tôn, ông
ta không những chỉ bổ nhiệm mà còn có thể tự tạo ra các chức danh mới. Ông ta có thể
ban vương tước một cách tự nhiên, ông ta cũng là người đứng đầu Giáo Hội Anh quốc và
quản lý tất cả các tài sản và đất đai của nhà thờ. Quyền lực của Tổng thống trong trường
hợp này thua xa quyền của Hoàng đế Anh, nó còn kém hơn quyền của Thống đốc New
York. Thống đốc New York có quyền đề cử nhân sự và quyền tham gia hội đồng năm
người để phê chuẩn sự bổ nhiệm đó. Như vậy ngài Thống đốc vừa có thể đề cử ai đó vào
bộ máy chính quyền, điều này tương đương vớ quyền Tổng Thống, nhưng ngài Thống
đốc còn có thêm quyền bầu cho người đề cử của mình, Tổng Thống hoàn toàn không có
quyền đó. Trong chính quyền liên bang, nếu Thượng Viện bất đồng, không ứng viên nào
được phê chuẩn. Trong chính quyền New York, nếu Thượng Viện bất đồng, thống đốc có
thể bỏ phiếu quyết định để phê chuẩn việc đề cử cho ứng viên của mình. Nếu chúng ta
tiếp tục so sánh tính công khai của việc tổng thống đề cử và Thượng viện phê chuẩn ở
mức độ liên bang, và tính tương đối kín đáo của việc Thống đốc đề cử, hội đồng phê
CLXXXIII
chuẩn ở mức tiểu bang, cũng như xét đến mức độ khó khăn của hành vi lũng đoạn toàn
bộ Thượng viện so với việc lũng đoạn một hội đồng bốn người, chỉ cần hai người đồng ý
là đủ đa số, thì chúng ta phải thừa nhận người đứng đầu Hành Pháp tiểu bang có quyền
cao hơn so với người đứng đầu Hành Pháp liên bang.
Như vậy ngoại trừ đồng quyền ký kết hiệp ước, ta có thể thấy khó mà khẳng định chức vụ
Tổng Thống có quyền cao hay thấp hơn so với chức vụ thống đốc New York. Nếu so với
quyền lực của Hoàng đế Anh quốc thì ta càng thấy hoàn toàn không thể có sự tương đồng
nào. Để làm rõ hơn nữa, chúng ta có thể tóm tắt những điểm khác biệt nổi bật nhất như
sau.
Tổng Thống Hợp Chủng Quốc là chức vụ được công chúng bầu ra cho nhiệm kỳ BỐN
năm; Hoàng đế Anh quốc tại vị trên ngai vàng THỪA TỰ mãi mãi. Một người phải chịu
trách nhiệm cá nhân, chịu hình phạt nếu lạm quyền, một người là thánh thượng và bất khả
xâm phạm. Một người có quyền phủ quyết giới hạn cho dự luật đưa ra bởi Lập Pháp, một
người có quyền phủ quyết tối cao. Một người có quyền chỉ huy hải lục quân quốc gia,
một người ngoài quyền đó có thể TUYÊN CHIẾN, THÀNH LẬP và QUẢN LÝ quân đội
và hạm đội. Một người có đồng quyền với một nhánh Lập Pháp trong việc ký kết hiệp
ước, người kia là ĐỘC TÔN trong quyền ký kết hiệp ước. Một người có quyền đề cử các
chức vụ trong chính quyền, một người có TOÀN QUYỀN bổ nhiệm bất kỳ ai. Một người
hoàn toàn không có quyền ban phát bổng lộc, người kia có thể ban quyền công dân cho
ngoại nhân, ban chức sắc cho thường dân, tạo dựng các hội nhóm thương mại với tất cả
quyền lợi sẵn có. Một người không thể áp đặt bất cứ điều lệ gì về thương mại, tiền tệ
quốc gia, người kia có thể được xem là người điều khiển thương mại, lập ra chợ búa, điều
độ việc mua bán cân đong, có quyền cấm chợ, có thể in tiền, có quyền cho phép hay cấm
đoán ngoại tệ. Một người hoàn toàn không dính dáng đến tâm linh, người kia là giáo
hoàng đứng đầu giáo hội quốc gia! Làm sao chúng ta có thể trả lời cho những người cho
rằng hai địa vị đó giống nhau trong khi chúng hoàn toàn khác biệt? Câu trả lời đó cũng sẽ
dành cho những người nói rằng một chính quyền với toàn bộ quyền lực nằm trong tay các
CLXXXIV
đại diện dân cử và các công chức thường niên, chỉ là một chế độ quý tộc, phong kiến và
gia đình trị.
PUBLIUS
CLXXXV
Thư Liên bang số 78
Ngành Tư pháp
Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:
Chúng ta sẽ bàn ở đây các vấn đề về tòa án trong bộ máy nhà nước mới. Khi phân tích về
các hạn chế của nhà nước liên bang hiện tại, sự cần thiết phải có một bộ máy tư pháp liên
bang đã được khẳng định một cách rõ ràng. Ở đây chúng tôi không đi vào phân tích
những tiền đề dẫn đến sự cần thiết đó mà tập trung giải quyết câu hỏi ngành tư pháp liên
bang cần được tổ chức như thế nào.
Việc tổ chức bộ máy của ngành tư pháp liên bang liên quan đến một số các vấn đề sau: 1/
Cách thức bổ nhiệm các thẩm phán; 2/Nhiệm kỳ hoạt động của các thẩm phán; 3/ Sự
phân bổ các thẩm phán tại các toà và quan hệ của họ với nhau
Vấn đề thứ nhất, cách thức bổ nhiệm thẩm phán được thức hiện giống như việc chỉ định
các quan chức của Liên bang, điều này đã được thảo luận đầy đủ tại hai thư quốc gia
trước nên chúng tôi sẽ không nhắc lại ở đây. Vấn đề thứ hai, thời gian làm việc của các
thẩm phán tại tòa liên bang, trước hết đó là thời gian họ làm việc tại văn phòng, ngoài ra
là thời gian chuẩn bị các tài liệu và làm các việc khác có liên quan đến nhiệm vụ của
mình.
Theo dự thảo thỏa thuận chung, mọi thẩm phán được Hợp chủng quốc Hoa kỳ chỉ định sẽ
giữ chức vụ này chừng nào họ vẫn còn “KHẢ NĂNG CỐNG HIẾN”, điều này là phù
hợp với hiến pháp của phần lớn các quốc gia thành viên đồng thời đã được tranh luận bởi
các bên phản biện và không có ý kiến nào đối kháng cho rằng nó sẽ hạn chế tư duy và
khả năng phán xử của các thẩm phán. Quy định được giữ chức vụ thẩm phán tòa liên
CLXXXVI
bang chừng nào vẫn còn “khả năng cống hiến” là một minh chứng cho sự tiến bộ của việc
tổ chức nhà nước trong thực tiễn. Trong thế chế quân chủ quy định này là một công cụ
hoàn hảo để bảo vệ sự chuyên quyền của hoàng gia, trong thể chế cộng hòa, nó lại trở
thành một công cụ tốt để bảo vệ sự độc lập và giảm các áp lực từ bên ngoài đối với những
thẩm phán đại diện. Và đây cũng chính là phương pháp tốt nhất có thể áp dụng đối với
bất kỳ chính phủ nào nhằm đảm bảo tính ổn định, đúng đắn, công bằng trong việc thực
thi luật pháp
Khi nhìn nhận về sự phân chia quyền lực trong việc tổ chức bộ máy nhà nước chúng ta
đều thấy rằng Tư pháp về bản chất luôn là nhánh ít nguy hiểm nhất đối với các quyền
chính trị được nêu trong hiến pháp vì nó ít có khả năng xâm phạm các quyền này. Bộ
máy hành pháp không những quản lý các nguồn lực mà còn nắm trong tay bộ máy
chuyên chính. Cơ quan lập pháp không chỉ thông qua các kế hoạch chi tiêu của quốc gia
mà còn làm ra các đạo luật điều chỉnh các quyền lợi và nghĩa vụ của người dân. Trong
khi đó ngành tư pháp không nắm trong tay bộ máy chuyên chính cũng không dính dáng
đến quản lý tiền bạc của quốc gia, nói cách khác họ không có quyết định nào ảnh hưởng
trực tiếp đến sự hùng mạnh hay thịnh vượng của xã hội. Nhiệm vụ của ngành tư pháp
thuần túy là xét xử, ngay cả việc thực hiện các phán quyết của tòa án cũng phải dựa vào
các công cụ điều hành của bộ máy hành pháp.
Trên đây là một số phân tích giúp ta đi đến một số những kết luận quan trọng. Rõ ràng,
ngành tư pháp là bộ phận yếu nhất trong 3 cơ quan quyền lực của nhà nước tam quyền
phân lập.
1/ Ngành tư pháp không thể ảnh hưởng đến lập pháp và hành pháp, do đó cần phải giúp
đỡ họ bảo vệ mình trước những ảnh hưởng của hai cơ quan này. Điều đó cũng chứng
minh rằng, mặc dù có thể có những vụ án oan riêng lẻ diễn ra tại các tòa án, song nhìn
chung ngành tư pháp không có ảnh hưởng đến sự tự do nói chung của người dân, Tôi
luôn nhấn mạnh rằng ngành tư pháp là một thực thể khác biệt đối với bộ máy hành pháp
CLXXXVII
và lập pháp đồng thời nhất trí với quan điểm “Sẽ không có tự do nếu như quyền lực của
thẩm phán không được tách rời với các quyền lực lập pháp và hành pháp”.
2/ Mặt khác chúng ta cũng nhận thấy rằng tự do ít bị đe dọa bởi ngành tư pháp nhưng lại
dễ bị xâm phạm bởi hai ngành lập pháp và hành pháp, do vậy liên bang cần phải đảm bảo
sự độc lập của tòa án đối với Chính quyền và Quốc hội. Tuy nhiên một sự độc lập bề
ngoài hay danh nghĩa chưa đủ, do bản chất yếu hơn của ngành tư pháp làm cho nó luôn
có nguy cơ phải chịu áp lực ảnh hưởng bởi hai nhánh còn lại của bộ máy nhà nước, do
vậy không có gì đảm bảo tốt hơn cho sự độc lập và củng cố sức mạnh của ngành tư pháp
bằng cách bổ nhiệm các các quan tòa cố định. Đây là biện pháp rất hiệu quả có thể xem là
thành trì cho ngành tư pháp và an ninh của cộng đồng.
Tính độc lập tổng thể của tòa án là một đặc tính chủ đạo giúp giải quyết vấn đề hạn chế
của hiến pháp. Một hiến pháp hạn chế có thể được hiểu là một bản hiến pháp mở ra một
số ngoại lệ nhất định cho các nhà làm luật, ví dụ như họ có thể không thông qua sắc lệnh
tịch thu tài sản nếu như không có các tiền lệ về luật điều chỉnh trước đó. Hạn chế này chỉ
có thể được giải quyết trong thực tế thông qua các tòa trung gian với nhiệm vụ chính là
xem xét tuyên bố tất cả các luật đi ngược với tinh thần của hiến pháp là vô hiệu lực. Đây
chính là lý do cần phải dành các đặc quyền để bảo vệ sự độc lập của các thẩm phán.
Việc tòa án được quyền tuyên bố các đạo luật là vô hiệu lực do có xung đột với hiến pháp
có thể đưa đến những lo ngại về việc ngành tư pháp có quyền lực cao hơn các nhà lập
pháp. Điều này dẫn đến việc cần có quy định là tòa tuyên bố một đạo luật vô hiệu phải ở
cấp cao hơn cơ quan đã ban hành ra đạo luật đó. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng
trong mọi bản hiến pháp Hoa kỳ nên chúng tôi sẽ trình bày vắn tắt thêm dưới đây về nền
tảng lý luận dẫn đến sự ra đời của nguyên tắc này.
Một tiền đề mà chúng ta công nhận là mọi đạo luật của các nhà chức trách do dân cử ra
mà đi ngược với tinh thần mục tiêu nhiệm vụ của họ đều là vô hiệu. Không một đao luật
CLXXXVIII
nào được đi ngước lại với hiến pháp. Điều này cũng cùng một nguyên tắc không một dân
biểu nào đứng trên các cử tri của họ, người dân được không những được làm những gì
luật pháp cho phép mà còn được làm những gì mà luật pháp không cấm
Nếu để các nhà lập pháp cũng đồng thời là người phán quyết về tính hợp hiến thì cũng có
nghĩa để cho họ tự xét xử về các hoạt động của mình và do vậy việc làm luật, mở rộng
giải thích luật đều do các nhà lập pháp áp đặt đối với các cơ quan khác, nó không thể đáp
ứng được tiền đề đặt ra trong hiến pháp là luật pháp phải thể hiện ý nguyện của toàn dân.
Ngoài ra nó cũng có thể làm phát sinh nguy cơ các nhà làm luật tạo ra những đạo luật
nhằm bảo vệ quyền lợi của chính họ thay vì quyền lợi của những người mà họ đại diện.
Chính vì vậy cần phải có tòa án đóng vai trò trung gian giữa người dân và những nhà lập
pháp nhằm đảm bảo các nhà lập pháp không vượt quá quyền hạn của minh. Việc giải
thích ý nghĩa của luật là thẩm quyền hoạt động của tòa án. Hiến pháp là văn bản được các
thẩm phán sử dụng như một đạo luật cơ bản, họ có nhiệm vụ giải thích cắt nghĩa Hiến
pháp cũng như bất kỳ một đạo luật nào khác của các cơ quan lập pháp. Nếu có xung đột
về luật pháp giữa hai đạo luật, đạo luật nào có hiệu lực cao hơn sẽ được ưu tiên. Hiến
pháp sẽ có hiệu lực cao hơn luật, nghị định, thể hiện nguyên tắc ý chí của toàn dân được
đặt cao hơn ý chí của những người đại diện.
Quyền hạn trên đây của tòa án không có ý nghĩa rằng họ được đặt trên các nhà lập pháp
mà chỉ nhằm đảm bảo quyền lợi của nhân dân được đặt lên trên cả hai cơ quan này và nó
cho thấy khi các nhà lập pháp đưa ý chí của mình vào các đạo luật mà trái với ý chí của
nhân dân thì các thẩm phán với quyền hạn được quy đinh bởi hiến pháp cần phải đại diện
cho dân chúng. Các quy định về thẩm quyền của thẩm phán phải được nêu trong hiến
pháp là đạo luật tối thượng chứ không phải một đạo luật nào khác
Hoạt động diễn giải luật của tòa án là một hoạt động khá tế nhị, các trường hợp hai đạo
luật xung đột nhau không hiếm gặp trong thực tế. Trong trường hợp này tòa án sẽ cắt gọt
và hợp nhất ý nghĩa cũng như phạm vi ứng dụng. Nhờ vậy họ có thể thống nhất các đạo
CLXXXIX
luật, giải quyết các xung đột, trong các trường hợp không thể thống nhất được một cách
triệt để họ sẽ đưa ra phạm vi áp dụng của luật này và các ngoại lệ đối với luật khác để
tránh các xung đột trực tiếp về sau. Một nguyên tắc đã được nhiều tòa án áp dụng trong
việc xác định hiệu lực của các văn bản luật có xung đột là luật nào ra đời sau được ưu
tiên áp dụng so với các luật được ban hành trước nó. Tuy nhiên đây chỉ là một thông lệ ra
đời từ thực tiền xét xử, không được quy định trong bất cứ văn bản nào. Thông lệ này
không do các nhà lập pháp đặt ra nhưng được các thẩm phán công nhận trong quá trình
xét xử vì nó hợp lý và phù hợp với thực tế trong việc giải thích các đạo luật được ban
hành bởi các cấp tương đương.
Đối với các xung đột của các văn bản luật do các cơ quan không cùng thẩm quyền ban
hành thì nguyên tắc chung là văn bản do cơ quan có thẩm quyền cao hơn sẽ được ưu tiên
áp dụng và theo cùng một nguyên tắc, bất cứ đạo luật nào xâm phạm hiến pháp đều phải
được các thẩm phán bãi bỏ
Tòa án cũng có nguy cơ thông qua hoạt động xét xử ảnh hưởng đến việc lập pháp với
việc quyết định áp dụng các đạo luật xung đột hay thực hiện giải thích một đạo luật, nói
cách khác đi thay vì xét xử họ lại lồng ý chí của mình vào các đạo luật. Trong trường hợp
này họ hòa lẫn với hoạt động lập pháp và không còn sự phân quyền giữa hai hoạt động
nói trên. Để tránh nguy cơ này xảy ra và đảm bảo sự độc lập trong xét xử, một lập luận
được áp dụng là trao cho các thẩm phán quy chế hoạt động nhiệm kỳ vô thời hạn - đến
chừng nào họ còn khả năng cống hiến, vì điều này sẽ giúp cho họ giữ được tính độc lập
và công bằng để thực hiện các nhiệm vụ mà không bị ảnh hưởng bới các thế lực khác. Sự
độc lập của các thẩm phán cũng là cần thiết để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hiến pháp và
nhân quyền trước các ý chí cá nhân, các liên minh… đôi khi những tư tưởng mang tính
cấp tiến của một nhóm người có thể dẫn đến những cải tiến nguy hiểm trong Chính phủ
và tạo ra sự chống đối của nhóm thiểu số. Mặc dù vậy, tôi tin rằng những người bạn của
bản dự thảo hiến pháp sẽ không bao giờ liên kết với kẻ thù
CXC
3/ Nguyên tắc cơ bản của một nhà nước cộng hòa là cho phép người dân có thể tham gia
vào việc thay đổi hoặc xóa bỏ những quy định của hiến pháp khi nào những quy định của
nó không còn phục vụ lợi ích của đông đảo quần chúng. Tuy nhiên nguyên tắc này có thể
bị lợi dụng khi các đại diện của dân chúng liên kết tạo thành đa số để thay đổi hiến pháp
không đúng với các quy định của hiến pháp hiện tại, tòa án sẽ cũng bị áp lực để đồng lõa
với các vi phạm dạng này nhiều hơn khi họ chịu ảnh hưởng của cơ quan lập pháp. Nhiệm
vụ giữ được sự công bằng của các quan tòa là rất khó khăn khi họ luôn phải chịu tác động
của các nhà lập pháp đại diện cho đa số trong xã hội.
Không chỉ giới hạn ở vai trò bảo vệ hiến pháp khỏi bị vi phạm, sự độc lập của các thẩm
phán còn giúp hạn chế các xu hướng xấu tức thời trong xã hội. Trong một số trường hợp
các thẩm phán chỉ bảo vệ quyền lợi của các nhóm, các công dân trước các đạo luật sai trái
thông qua đó khẳng định tính đúng đắn của luật pháp và làm giảm các xung đột về luật.
Điều này không chỉ giúp điều hòa các đạo luật đã được thông qua mà còn đóng vai trò
kiểm tra trong quá trình thông qua các đạo luật nhờ đó hạn chế các toan tính ban hành các
đạo luật đi ngược với lợi ích của số đông của các nhà làm luật. Đây là một đặc tính được
tính toán nhằm tạo ảnh hưởng đến tính chất của bộ máy nhà nước mà chỉ một số ít người
nhận ra.
Lợi ích của việc cử các thẩm phán có nhiệm kỳ suốt đời đã được thấy ở một số bang, họ
là những người được quý trọng, có đạo đức và công minh không vụ lợi. Tuy nhiên không
ai có thể biết trước việc ngày mai mình có thể trở thành nạn nhân của sự không công
bằng, diều mà họ là người chiến thắng hôm nay do vậy thẩm phán cũng như bất cứ ai
khác có xu hướng bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh và tâm lý. Để hạn chế nguy cơ này hiến
pháp quy định các thẩm phán không làm theo nhiệm kỳ hữu hạn. Sự chỉ định thẩm phán
theo nhiệm kỳ hữu hạn sẽ làm các thẩm phán phụ thuộc vào người chỉ định họ và do vậy
làm mất đi tính độc lập cần thiết. Thử hình dung nếu trao quyền bổ nhiệm thẩm phán theo
định kỳ cho một trong hai cơ quan hành pháp hoặc tư pháp thì sẽ rất nguy hiểm vì thẩm
phán sẽ có xu hướng dễ dãi với cơ quan bổ nhiệm mình, nếu trao quyền bổ nhiệm thẩm
CXCI
phán định kỳ cho cả hai cơ quan sẽ làm phát sinh rủi ro thẩm phán cố gắng làm hài lòng
cả hai cơ quan này, nếu trao quyền bổ nhiệm cho người dân hoặc cử tri đại diện thì lại
làm việc này lại tạo ra một cơ chế quá cồng kềnh trái với tiền đề chỉ trung cầu dân ý các
vấn đề liên quan đến hiến pháp và luật.
Còn một lý do xác đáng khác cho việc duy trì nhiệm kỳ thẩm phán suốt đời xuất phát từ
đòi hỏi thực tế của công việc. Thông thường, khối lượng luật lệ khổng lồ là một trong
những điểm bất tiện của một nhà nước tự do. Để tránh nhưng xung đột luật nhạy cảm ở
tòa án, các luật cần thiết phải được giới hạn bởi các nguyên tắc, tôn chỉ nhất định góp
phần chỉ rõ phạm vi áp dụng của nó trong các trường hợp trước đây, đây là một vấn đề
khởi nguồn nhiều tranh cãi và có thể tạo ra nhiều áp dụng tai hại, nó đòi hỏi thẩm phán
phải có một quá trì học hỏi để tích lũy đủ các hiểu biết trong lĩnh vực này để tránh tạo ra
những lỗ hổng về mặt luật pháp. Do đặc tính phức tạp của nghề nghiệp nên chỉ có rất ít
người có khả năng hiểu biết về luật pháp để đạt tới trình độ thẩm phán. Các yêu cầu về
nghiệp vụ cộng thêm các chuẩn mực về đạo đức liêm chính càng làm giảm số ứng cử
viên cho vị trí này.
Những lập luận này cho thấy Nhà nước không có nhiều lựa chọn cho các ứng cử viên đủ
tiêu chuẩn và việc chỉ định thẩm phán theo nhiệm kỳ hữu hạn sẽ làm nản lòng các ứng cử
viên muốn rời khu vực kinh tế tư nhân để tìm một vị trí trong thành tư pháp, do đó có thể
làm ngành tư pháp yếu đi về mặt chuyên môn. Với các điều kiện hiện tại và ngay cả với
các điều kiện dự kiến trong tương lai của đất nước, những hạn chế của việc bổ nhiệm
thẩm phán suốt đời dường như ít hơn so với các cảm giác ban đầu, đồng thời nó là lựa
chọn tốt hơn cả trong cân nhắc so sánh đối với các khả năng khác.
Xét một cách tổng thể, việc vận dụng các mô hình hiến pháp dựa trên nguyên tắc “Hành
xử công minh” của các thẩm phán là một việc làm khôn ngoan, về nhiệm kỳ vô thời hạn,
tuy còn nhiều ý kiến phê phán nhưng các giải pháp khác của những người phản đối còn
CXCII
đưa đến một chính phủ khiếm khuyết hơn. Kinh nghiệm của nước Anh cũng giúp chúng
ta một ví dụ về một bản hiến pháp có chất lượng.
Publius
CXCIII