193

Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Thư Liên Bang là 1 tập hợp gồm 85 bài luận của Alexander Hamilton, James Madison, và John Jay viết để cổ vũ cho việc thông qua bản Hiến Pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. 85 bài luận này đã nêu lên những lý do thành lập Liên Bang Hoa Kỳ và phản bác các ý tưởng chống đối lại việc này. Đây là nền tảng của Chính phủ Hoa Kỳ ngày nay. Các bài luận này còn chưa được dịch hoàn chỉnh sang tiếng Việt. Nếu còn có điều gì thiếu sót, mong bạn đọc thông cảm.

Citation preview

Page 1: Thư Liên Bang - The Federalist Papers
Page 2: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

ĐANG IN,và sẽ được xuất bản mau chóng

THƯ LIÊN BANGMột Bộ Sưu tập các Bài Luận Ủng hộ Tân Hiến Pháp

Bởi một Công dân Tiểu bang Nữu Ước

Được hiệu đính bởi Tác giả, được Viết thêm và Sửa chữa

Tác phẩm này sẽ được in ra trên Giấy tốt và Đánh máy đẹp,

trong một Quyển, và giao tận tay cho các người đặt mua trước với

giá phải chăng là một đô la. Vài bản copy sẽ được in trên giấy

đặc biệt tốt giành cho giới hoàng gia, giá nửa Bảng Anh.

Không cần trả tiền cho đến khi giao hàng.

Để công trình này thêm hoàn thiện, sẽ được cộng thêm,

không tính thêm tiền,

PHILO-PUBLIUSVà

Các Điều khoản của Đại hội [Hiến pháp]

được thông qua tại Philadelphia, ngày 17 tháng 9, 1787

II

Page 3: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

MỤC LỤC

Tầm quan trọng của Liên Bang (1-14)Thư Liên bang số 1: Lời Giới ThiệuThư Liên bang số 2: Các mối hiểm nguy từ ảnh hưởng và quân đội nước ngoàiThư Liên bang số 3: Các mối hiểm nguy từ ảnh hưởng và quân đội nước ngoàiThư Liên bang số 4: Các mối hiểm nguy từ ảnh hưởng và quân đội nước ngoàiThư Liên bang số 5: Các mối hiểm nguy từ ảnh hưởng và quân đội nước ngoàiThư Liên bang số 6: Nguy hiểm từ các điều bất đồng ý giữa các tiểu bangThư Liên bang số 7: Nguy hiểm từ các điều bất đồng ý giữa các tiểu bangThư Liên bang số 8: Hậu quả của các sự thù nghịch giữa các tiểu bangThư Liên bang số 9: Liên bang như một vệ sĩ chống lại bè phái và nổi loạn nội địaThư Liên bang số 10: Liên bang như một vệ sĩ chống lại bè phái và nổi loạn nội địaThư Liên bang số 11: Ích lợi của Liên bang trong các mối liên hệ thương mại và hải quânThư Liên bang số 12: Ích lợi của Liên bang trong việc thu ngân sáchThư Liên bang số 13: Lợi thế của Liên bang trong việc tiết kiệm ngân sách chính phủThư Liên bang số 14: Trả lời các lời phản đối bản dự thảo hiến pháp từ các vùng đất đang mở rộng

Các thiếu sót trong các điều khoản của văn kiện thành lập Confederation (15-22)Thư Liên bang số 15: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 16: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 17: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 18: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 19: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 20: Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn Khối Liên hiệpThư Liên bang số 21: Các khuyết điểm khác của Liên bangThư Liên bang số 22: Các khuyết điểm khác của Liên bang

Các lời tranh luận về thể loại chính phủ được bao gồm trong Hiến pháp (23-36)Thư Liên bang số 23: Sự cần thiết của một Chinh phủ đầy sinh lựcThư Liên bang số 24: Quyền lực cần thiết của quốc phòngThư Liên bang số 25: Quyền lực cần thiết của quốc phòngThư Liên bang số 26: Ý tưởng về việc giới hạn quyền Lập pháp trong vấn đề Quốc phòngThư Liên bang số 27: Ý tưởng về việc giới hạn quyền Lập pháp trong vấn đề Quốc phòngThư Liên bang số 28: Ý tưởng về việc giới hạn quyền Lập pháp trong vấn đề Quốc phòngThư Liên bang số 29: Vấn đề Dân quân Thư Liên bang số 30: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 31: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 32: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 33: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 34: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 35: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụThư Liên bang số 36: Quyền lực Tổng quát của Thuế vụ

III

Page 4: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Hình thái Cộng hòa của Chính phủ (37-51)Thư Liên Bang số 37: Các vấn đề khó khăn của Đại hội Hiến pháp trong việc kiến tạo một hình thái chính

phủ thích hợpThư Liên Bang số 38: Đề tài trên, cùng với sự tiền hậu bất nhất của các lời phản đối Tân Hiến pháp Thư Liên Bang số 39: Sự tương quan của Tân Hiến pháp đối với các nguyên tắc của Đảng Cộng hòaThư Liên Bang số 40: Quyền lực của Đại hội Lập Hiến trong việc thành lập một chính phủ đa phươngThư Liên Bang số 41: Tổng quan về các quyền lực được Hiến pháp hợp thức hóaThư Liên Bang số 42: Xem xét cặn kẽ hơn về các quyền lực được Hiến pháp hợp thức hóaThư Liên Bang số 43: Xem xét cặn kẽ hơn về các quyền lực được Hiến pháp hợp thức hóaThư Liên Bang số 44: Hạn chế quyền lực của vài Tiểu bangThư Liên Bang số 45: Các mối hiểm nguy có thể có từ quyền lực của Liên bang đối với các chính quyền

tiểu bangThư Liên Bang số 46: So sánh ảnh hưởng của chinh phủ Liên bang và chính quyền Tiểu bangThư Liên Bang số 47: Cấu trúc đặc thù của chính phủ mới và phân chia quyền lực giữa các thành phần khác

nhauThư Liên Bang số 48: Các bộ này không nên bị chia cách đến mức không thể kiểm soát nhau theo Hiến

địnhThư Liên Bang số 49: Phương cách phòng chống các sự vi phạm của bất cứ bộ nào trong chính phủ bằng

cách kêu gọi dân chúng ủng hộ trong Đại hội Lập Hiến Thư Liên Bang số 50: Bàn luận về các lời thỉnh cầu dân chúng thỉnh thoảng được đưa raThư Liên bang số 51: Cấu trúc của chính phủ phải cung cấp việc kiểm soát và cân bằng giữa các bộ khác

nhau

Ngành Lập pháp (52-66)Thư Liên bang số 52: Hạ việnThư Liên bang số 53: Hạ việnThư Liên bang số 54: Việc bổ nhiệm các Dân biểu giữa các tiểu bangThư Liên bang số 55: Tổng số Dân biểuThư Liên bang số 56: Tổng số Dân biểuThư Liên bang số 57: Khuynh hướng bị nghi ngờ của kế hoạch mới trong việc nâng cao vị thế một nhóm

nhỏ trong khi số đông phải trả giá, liên quan đến vấn đề đại diệnThư Liên bang số 58: Sự phản đối rằng con số thành viên sẽ không được tăng lên, một khi các nhu cầu của

dân chúng tăng caoThư Liên bang số 59: Quyền lực của Quốc hội trong việc điều hành bầu cử của các thành viênThư Liên bang số 60: Quyền lực của Quốc hội trong việc điều hành bầu cử của các thành viênThư Liên bang số 61: Quyền lực của Quốc hội trong việc điều hành bầu cử của các thành viênThư Liên bang số 62: Thượng việnThư Liên bang số 63: Thượng việnThư Liên bang số 64: Quyền lực của Thượng việnThư Liên bang số 65: Quyền lực của Thượng việnThư Liên bang số 66: Các sự phản đối Quyền lực của Quốc hội như là một Tòa án xét xử việc Truất nhiệm

Tổng thống

Ngành Hành pháp (67-77)Thư Liên bang số 67: Ngành Hành phápThư Liên bang số 68: Phương cách Bầu Tổng thốngThư Liên bang số 69: Đặc tính thực thể của Ngành Hành phápThư Liên bang số 70: Ngành Hành pháp, được xem xét cận ảnh hơnThư Liên bang số 71: Nhiệm kỳ của Ngành Hành phápThư Liên bang số 72: Tiếp theo cùng chủ đề, cùng sự tái hợp lệ ứng cử của Ngành Hành phápThư Liên bang số 73: Điều khoản về sự ủng hộ của Ngành Hành pháp, và Quyền Phủ quyết

IV

Page 5: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 74: Việc điều khiển Quân đội và Hải quân, cùng Quyền Ân xá của Ngành Hành phápThư Liên bang số 75: Quyền thành lập Hiệp ước của Ngành Hành phápThư Liên bang số 76: Quyền Bổ nhiệm của Ngành Hành pháThư Liên bang số 77: Tiếp theo Quyền Bổ nhiệm, cùng các Quyền khác của Ngành Hành pháp

Ngành Tư Pháp (78-83)Thư Liên Bang số 78: Bộ Tư phápThư Liên Bang số 79: Bộ Tư pháp (tiếp theo)Thư Liên Bang số 80: Quyền lực của Ngành Tư phápThư Liên Bang số 81: Quyền lực của Ngành Tư pháp, và sự phân bổ quyền lực của Ngành Tư phápThư Liên Bang số 82: Ngành Tư pháp (tiếp theo)Thư Liên Bang số 83: Ngành Tư pháp, liên quan đến các phiên tòa được quyết định bởi Bồi thẩm đoàn

Kết luận và vài điều khác (84-85)Thư Liên Bang số 84: Xem xét và trả lời các điều phản đối chung chung và linh tinh đến Bản Hiến phápThư Liên Bang số 85: Lời Kết Luận

V

Page 6: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên Bang Số 1

Lời Mở Đầu

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Sau một kinh nghiệm hy hữu về sự cục mịch của chính quyền liên bang, các bạn được

mời gọi để suy nghĩ về một bản hiến pháp mới cho đất nước chúng ta, nước cộng hòa liên

bang Hoa Kỳ. Đề tài này nói lên tầm mức quan trọng của chính nó: sự sống còn của

chính quyền liên bang, sự an toàn của những tiểu bang, và số phận của một siêu cường

quốc trong tương lai mà thế giới chưa biết đến. Như đã nói nhiều lần, nhân dân của đất

nước chúng ta sẽ phải trả lời những câu hỏi quan trọng trong việc lập nên một chính

quyền từ suy nghĩ và lựa chọn hay là từ sự tình cờ và đàn áp. Nếu kết luận trên có lý, sự

khủng hoảng trong chính quyền liên bang bây giờ sẽ cần một quyết định đầy sáng suốt.

Nếu không, ảnh hưởng lâu dài sẽ không lường trước được.

Ý niệm này sẽ tạo nên những lời chào mời đóng góp của những thành phần yêu nước; nó

cũng tăng cường thêm mối lo ngại mà những công dân tốt sẽ thấy trong sự kiện này.

Hạnh phúc thay nếu sự chọn lựa này được dẫn dắt bởi một đánh giá khôn ngoan về mối

quan tâm thực sự của chúng ta, không rắc rối và không thiên vị bởi những yếu tố khác

dính đến lợi ích trước công chúng. Nhưng đây là một việc có vẻ dễ mong ước hơn là hiện

thực. Kế hoạch soạn thảo hiến pháp ảnh hưởng tới quá nhiều quyền lợi của nhiều thành

phần trong xã hội, sẽ thay đổi rất nhiều cơ quan địa phương, hơn thế nữa, những quan

điểm, cảm xúc mạnh và thành kiến sẽ tạo ra nhiều bất lợi cho công cuộc khám phá sự thật

này.

Trong những trở ngại vật lớn nhất mà hiến pháp mới của chúng ta sẽ gặp là những quyền

lợi của một giai cấp trong mỗi tiểu bang, giai cấp này sẽ cản trở, bằng mọi giá, sự thành

VI

Page 7: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

lập hiến pháp mới này bởi vì nó không có lợi cho quyền hành, lương bổng, và chức vụ

của họ dưới chính phủ tiểu bang. Chướng ngại kế tiếp là tham vọng sai trái của một số

người muốn nâng cao địa vị của mình trong tình trạng hỗn loạn của đất nước, hoặc hy

vọng hão huyền về lợi lộc tương lai trong sự chia rẽ của quốc gia.

Tuy nhiên, tôi không muốn dừng lại ở vấn đề này quá nhiều. Tôi thừa biết rằng giải quyết

tất cả mọi chống đối của mọi thành phần trong xã hội là không thực tế tại vì hoàn cảnh

của họ có lẽ đẩy họ vào quan điểm đó. Nếu chúng ta suy nghĩ một cách vô tư, chúng ta

phải chấp nhận rằng những người đó có thể hành động bởi những ý định chính trực. Hơn

thế nữa, nhiều quan điểm chống đối đã và sẽ xuất hiện từ những thành phần vô tội, nếu

không nói là đáng trọng. Sự hiểu lầm này được gầy dựng bởi định kiến ganh ghét và sợ

hãi. Quá nhiều nguyên nhân quan trọng đã ảnh hưởng không tốt đến sức phán đoán của

những người hiểu biết ở cả hai bên, bên đúng và bên sai, về những câu hỏi quan trọng của

xã hội. Trường hợp này, nếu tìm hiểu kỹ, sẽ cho chúng ta một bài học về sự điều độ, kiên

nhẫn trước những ai quá thuyết phục bởi lập trường của họ trong cuộc tranh luận. Điểm

kế tiếp trong bài học này là chúng ta sẽ không bao giờ chắc chắn rằng những người ủng

hộ sự thật được ảnh hưởng bởi những chính nghĩa trong sạch hơn thành phần bất đồng ý

kiến. Thật vậy, tham vọng, tính hám lợi, thù địch cá nhân, đảng đối lập, và nhiều động cơ

khác sẽ tiếp tục ảnh hưởng cả hai bên, bên ủng hộ và chống đối của một vấn đề. Nếu

không điều độ và nhẫn nại, sẽ không có sự thỏa hiệp xảy ra như các đảng chính trị hiện

thời. Trong chính trị cũng như tôn giáo, thật là nực cười nếu chúng ta thu nhập thành viên

mới bằng dàn thiêu hoặc dao búa. Dị giáo ở trong hai trường hợp này sẽ không chữa bằng

khủng bố hoặc đàn áp được.

Tuy vậy, cho dù những cảm nghĩ này sẽ cho phép được bày tỏ cho đúng lẽ phải, chúng ta

đã có đầy đủ bằng chứng để biết rằng nó sẽ xảy ra trong cuộc đối thoại này cũng như tất

cả những cuộc tranh luận quốc gia trong quá khứ. Một làn sóng phẫn nộ và những cảm

xúc mạnh sẽ được thoát ra. Nếu phán xét từ khía cạnh của đảng đối lập, chúng ta sẽ kết

luận rằng họ muốn được nói lên sự chính đáng về quan điểm của họ cũng như những sai

VII

Page 8: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

trái của bên kia, để rồi họ có thể thu phục nhiều ủng hộ viên. Lòng nhiệt huyết để tìm

kiếm một sinh lực và hiệu quả cho chính phủ sẽ bị dán cho một nhãn hiệu như thể là một

đứa con bạo ngược và chống lại những yếu tố cơ bản của tự do. Một sự ghen tuông nguy

hiểm cho quyền công dân thường bắt đầu từ trí óc chứ không phải trái tim, vì thế nó

tượng trưng cho sự giả vờ, mưu mẹo, và một chiếc bẫy cũ rích để được nổi tiếng để trả

giá bằng những việc tốt cho công chúng. Đừng quên rằng sự ghen tuông thường đi đôi

với tình yêu, và những sư nhiệt tình cao quý cho tự do thường bị lây nhiễm với một tinh

thần hẹp hòi và những nghi ngờ tầm thường. Cũng đừng quên rằng khí lực của chính phủ

là yếu tố cần thiết để cho sự an toàn của tự do. Và với một suy nghĩ đúng đắn và một

phán quyết đầy đủ thông tin,quyền lợi của quyền tự do và chính phủ thường dính liền với

nhau. Hơn thế nữa, những tham vọng nguy hiểm luôn ẩn náu đằng sau cái mặt nạ của sự

sốt sắng giả tạo với quyền tự do công dân hơn là nhiệt tình cho một chính phủ cứng rắn

và hiệu quả. Lịch sử đã dạy cho chúng ta rằng những tham vọng đó sẽ dễ dàng dẫn đến

một chế độ độc tài hơn là những nhiệt tình kia. Nên nhớ rằng, trong những người lật đổ tự

do của thể chế cộng hòa, một số nhiều đã bắt đầu sự nghiệp của họ bằng sự xum xoe với

dân chúng, mị dân, và giả bộ muốn chấm dứt những bạo chúa.

Trong quá trình quan sát trên, tôi đã có một con mắt, đồng bào yêu quý của tôi ơi, để thúc

đẩy các bạn canh trừng tất cả mọi mưu toan từ bất cứ những ai muốn ảnh hưởng đến

những quyết định của bạn trong một vấn đề liên quan đến phúc lợi của chính bản thân

bạn, ngoại trừ những người muốn mang đến cho các bạn chứng cớ của sự thật. Bạn sẽ

thấy rằng những kẻ mưu lợi trên sẽ không thân thiện với bản hiến pháp mới này. Vâng,

đồng bào của tôi ơi, tôi không dấu các bạn là sau khi suy nghĩ rất kỹ, tôi ủng hộ việc các

bạn chấp nhận bản hiến pháp này. Tôi tin rằng con đường này là an toàn nhất cho quyền

tự do, cho phẩm giá, và cho hạnh phúc của bạn. Tôi không giả bộ những chần chừ mà tôi

thật sự không có. Tôi sẽ cũng không giả bộ làm ra vẻ cân nhắc khi tôi đã quyết định rồi.

Tôi thẳng thắn thú nhận với các bạn về niềm tin của tôi và tôi sẽ tự động bày ra trước mặt

các bạn những nguyên nhân tại sao của những niềm tin đó. Sự hiểu biết về lý tưởng tốt

đẹp sẽ đánh chết những sự mơ hồ không rõ ràng. Tuy nhiên, tôi sẽ không bao giờ nói

VIII

Page 9: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

thêm về những lời công bố này. Động lực thúc đẩy tôi sẽ giữ ở trong lòng và những tranh

luận của tôi sẽ bày ra cho mọi người để tất cả các bạn sẽ phán xét nó. Các tranh luận này

sẽ được bỏ ra với một tinh thần không bao giờ ruồng bỏ căn nguyên của sự thật.

Tôi đề nghị trong một loạt bài viết để thảo luận những điều sau đây:

* Ích lợi của Liên Bang cho sự thịnh vượng chính trị của bạn

* Bất khả năng của các tiểu bang hiện tại cho việc thành lập Liên Bang

* Sự cần thiết của một chính phủ ít nhất phải mạnh mẽ bằng chính phủ sắp đưa ra

* Sự phù hợp của hiến pháp sắp đưa ra với những nguyên tắc trung thực của chính phủ

cộng hòa

* Sự tương tự của nó với hiến pháp của tiểu bang

* Và cuối cùng, những phần bảo vệ thêm để có đủ điều kiện mà giữ gìn thể chế chính phủ

đó cũng như tự do và thịnh vượng.

Trong công cuộc bàn thảo này, tôi sẽ cố gắng trả lời thỏa đáng cho tất cả mọi tranh luận

hoặc phản đối mà các bạn quan tâm.

Có lẽ, nó là một điều không cần thiết để đưa ra những tranh luận chứng minh cho lợi ích

của việc thành lập một Liên Bang Hoa Kỳ. Điều này dĩ nhiên là một điều nhạy cảm đến

tất cả chúng ta mọi người trong mỗi tiểu bang. Sự thật là chúng ta đã nghe những tiếng xì

xào bàn tán trong những giới chống lại hiến pháp mới rồi, và họ nói rằng 13 tiểu bang

quá lớn cho bất cứ hệ thống nào. Và từ đó, họ muốn giữ sự riêng lẻ của các tiểu bang qua

những liên kết nhỏ trong một liên kết lớn hơn giữa các tiểu bang. Học thuyết này có lẽ sẽ

từ từ lan truyền cho tới khi nó đủ mạnh để lên tiếng chính thức. Một điều không tranh cãi

cho thời cuộc bây giờ là chấp nhận soạn thảo hiến pháp mới hoặc giải tán Liên Bang của

chúng ta. Vì vậy, trong bài kế tiếp tôi sẽ bắt đầu xem xét những thế lợi của việc thành lập

chính phủ Liên Bang, những tai hại và nguy hiểm mà những tiểu bang sẽ gặp phải nếu

chúng ta giải tán chính phủ Liên Bang.

IX

Page 10: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

PUBLIUS

X

Page 11: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 2

Các mối hiểm nguy liên quan đến Ảnh hưởng và Lực lượng

quân sự ngoại bang

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Khi người dân Mỹ nghĩ rằng giờ đây họ đã được triệu tập để quyết định một vấn đề mà

kết quả của nó phải chứng tỏ được một trong những điều quan trọng nhất đã luôn thu hút

sự chú ý của họ, thì tính chính đáng của vấn đề rất toàn diện và rất nghiêm túc đó sẽ được

sáng tỏ.

Không có gì chắc chắn hơn sự cần thiết không thể thiếu được của chính quyền, và hơn

nữa điều không thể tranh cãi là bất cứ khi nào và dù sao thì chính quyền đã được thiết lập,

người dân cần phải chuyển nhượng một số quyền tự nhiên của họ để giao phó cho nó

những quyền lực thiết yếu. Do vậy, thật đáng xem xét phải chăng việc làm đó sẽ đem đến

nhiều lợi ích hơn cho người dân Mỹ mà họ nên hành động vì mọi mục đích chung, là một

cường quốc, dưới sự lãnh đạo của một chính quyền Liên bang, hay họ nên phân chia

chính họ thành các tiểu quốc tách rời, và cử người đứng đầu cho mỗi một chính quyền

giống như họ đã được khuyến cáo bổ nhiệm vào một chính quyền quốc gia.

Mãi đến gần đây, một ý kiến được thừa nhận và không thể phản bác rằng sự hưng thịnh

của người dân Mỹ phụ thuộc vào sự kéo dài liên minh vững chắc của họ, vào những ước

vọng, những lời nguyện cầu và những nỗ lực của các công dân thông thái và tốt bụng

nhất đã liên tục theo đuổi mục tiêu đó. Nhưng giờ đây xuất hiện các nhà chính trị, những

người khẳng định rằng ý kiến này là sai lầm, rằng thay vì tìm kiếm sự an toàn và hạnh

phúc trong một thể chế Liên bang, chúng ta cần tìm kiếm nó bằng việc chia các tiểu bang

thành các tiểu liên bang hay các vùng chủ quyền riêng biệt. Dù học thuyết mới này có thể

xuất hiện một cách bất thường, nhưng nó đã được khá nhiều người ủng hộ, kể cả những

XI

Page 12: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

nhân vật trước đây chống đối nó mà hiện nay đã đồng tình. Điều gì có thể là luận cứ hay

lý lẽ thuyết phục tạo nên thay đổi về tình cảm và những tuyên bố của các quý ông này,

chắc chắn điều đó sẽ không khôn ngoan cho người dân nói chung khi chấp nhận các

nguyên lý chính trị mới này mà không được thuyết phục đầy đủ rằng chúng được căn cứ

trên những chính sách đúng đắn và lành mạnh.

Điều thường làm tôi vui mừng là nước Mỹ độc lập không bao gồm những vùng lãnh thổ

xa xôi và tách rời, mà một đất nước rộng mở, màu mỡ và không bị chia cắt là định mệnh

của chúng ta, những người con tự do của phương tây. Thượng đế bằng cách của riêng

mình đã ban phước cho đất nước này với hàng loạt đất đai và sản vật, ban cho nó nguồn

nước với vô số những dòng suối, làm hài lòng và cung cấp nơi cư ngụ cho những con dân

của nó. Sự liên tục của các luồng nước phù hợp cho tàu thuyền tạo nên một hàng rào bao

quanh biên giới của nó, như thể để liên kết nó với nhau; trong khi những con sông hùng

vĩ nhất thế giới, chảy theo những dòng chảy thuận tiện, đã ban cho cư dân của nó những

tuyến đường biển thuận tiện để liên lạc, dễ dàng tìm kiếm những giúp đỡ thân thiện, và

giao thương trao đổi các hàng hóa khác nhau của họ với nhau.

Điều thích thú tương tự mà tôi thường xuyên lưu ý là Thượng đế đã dễ dãi ban cho đất

nước không bị chia cắt này một dân tộc thống nhất – một dân tộc sinh ra từ cùng một tổ

tiên, nói cùng một ngôn ngữ, tự nhận theo cùng một tôn giáo, cùng gắn liền với những

nguyên tắc chính quyền, rất giống nhau về phong tục tập quán, và những con người bằng

những dự định, trang bị, những nỗ lực liên kết của họ để chiến đấu bên nhau trong suốt

một cuộc chiến lâu dài và đẫm máu, đã thiết lập được sự tự do và độc lập toàn thể một

cách huy hoàng.

Đất nước này và dân tộc này dường như đã được sinh ra cho nhau, và như thể được

Thượng đế tạo dựng, là tài sản thừa kế rất xứng đáng và thích hợp cho một nhóm đồng

đạo, gắn bó với nhau bởi các mối liên kết chặt chẽ nhất, không bao giờ bị tách chia thành

một số vùng chủ quyền xa lạ, đố kỵ và không hài hòa.

XII

Page 13: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Những tình cảm tương tự đến nay đã chiếm ưu thế trong tất cả các tầng lớp và đảng phái

của người dân chúng ta. Với mọi mục tiêu chung, chúng ta đã đồng nhất thành một dân

tộc mà mỗi công dân riêng lẻ dù ở bất cứ đâu đều được hưởng các quyền lợi, những đặc

ân của quốc gia và được bảo vệ như nhau. Như là một quốc gia, chúng ta đã tạo ra chiến

tranh và hòa bình; như một quốc gia chúng ta đã chế ngự các kẻ thù chung; như một quốc

gia chúng ta đã tạo ra các khối đồng minh, thiết lập các hiệp ước, và bắt đầu thực hiện các

qui ước và thỏa thuận khác nhau với các quốc gia nước ngoài.

Ngay từ một giai đoạn rất sớm, cảm giác mạnh mẽ về giá trị và phước lành của Liên bang

đã giúp cho người dân xây dựng một chính quyền Liên bang để bảo đảm và duy trì nó.

Gần như họ đã tạo nên chính quyền đó ngay khi họ có được một sự bảo đảm về chính trị;

hay nói cho đúng hơn là ngay sau khi nhà cửa của họ bị cháy, khi nhiều con dân họ đang

đổ máu, và ngay khi mà sự tiến triển của thù địch và tàn phá chỉ để lại chút không gian để

bình tâm suy ngẫm và tìm hiểu một cách chín chắn về những điều luôn phải làm trước khi

hình thành một chính quyền đúng mực và sáng suốt cho một dân tộc tự do. Không có gì

ngạc nhiên là một chính quyền đã được thiết lập vào thời điểm bất hạnh như vậy qua thực

tiễn đã nhìn ra những điều không thích hợp và khiếm khuyết to lớn đối với các mục đích

mà nó dự tính phải giải quyết.

Dân tộc thông minh này đã hiểu ra và hối tiếc về những khiếm khuyết như vậy. Vẫn tiếp

tục gắn bó với Liên bang không kém hơn là say mê tự do, họ đã thấy được mối nguy

hiểm trước mắt đã đe dọa chính quyền trước đây và xa hơn là về sau; và bị thuyết phục

rằng nền an ninh rộng lớn cho cả hai chỉ có thể được tìm thấy trong một chính quyền

quốc gia được dựng nên một cách khôn ngoan hơn, như cùng đồng tâm nhất trí, họ đã tập

trung tại Hội nghị tại Philadelphia vừa qua, để xem xét vấn đề hệ trọng đó.

Hội nghị này bao gồm những người có được sự tin tưởng của nhân dân, và nhiều người

trong họ đã trở thành biểu tượng vì lòng ái quốc, đức hạnh và sự thông thái của họ, đã

XIII

Page 14: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đảm trách các nhiệm vụ khó khăn trong các thời điểm thử thách trí tuệ và tình cảm của

những con người. Trong thời khắc êm dịu của hòa bình, với tâm trí không bị ràng buộc

bởi các vấn đề khác, họ đã vượt qua nhiều tháng nhạt nhẽo, bàn cãi liên tục hàng ngày; và

cuối cùng, không sợ hãi quyền lực, hay bị ảnh hưởng bởi bất kỳ tình cảm mạnh mẽ nào

khác ngoài tình yêu đất nước, họ đã đưa ra và khuyến cáo cho người dân thực hiện một

kế hoạch được thảo ra bởi các hội đồng chung mà rất đồng lòng của họ.

Hãy thừa nhận thực tế rằng kế hoạch này chỉ là KHUYẾN CÁO, không áp đặt, nhưng

cũng nhớ rằng nó không khuyến cáo việc chấp thuận MÙ QUÁNG, hay bài xích MÙ

QUÁNG; mà hãy xem xét điều đó một cách ngay thẳng và bình tĩnh trong chừng mức và

tầm quan trọng mà vấn đề đòi hỏi, và nó chắc chắn phải nhận được. Song điều này (như

đã được nhận ra trong phần trước của bài viết này) được mong ước hơn là đòi hỏi, rằng

nó có thể rất đáng được xem xét và nghiên cứu. Kinh nghiệm từ những sự kiện trước đây

dạy chúng ta không được quá lạc quan với những mong ước như vậy. Người ta vẫn chưa

quên việc nắm bắt một cách chắc chắn các mối nguy hiểm sắp xảy ra cho người dân Mỹ

đã tạo ra một Quốc hội đáng nhớ vào năm 1774. Quốc hội đó đã khuyến cáo các biện

pháp thích đáng cho cử tri, và sự kiện này đã chứng tỏ sự khôn ngoan của họ; điều dường

như còn mới nguyên trong tâm trí chúng ta, là các nhà xuất bản đã rất nhanh chóng tung

ra các loại sách giới thiệu và các báo hàng ngày chống lại chính những biện pháp đó.

Không chỉ nhiều quan chức chính quyền, những kẻ chỉ tuân theo tiếng gọi của quyền lợi

cá nhân, mà cả những người khác do đã đánh giá sai các kết quả, ảnh hưởng thái quá các

lề lối trước đây, hay tham vọng của ai đó nhắm vào các mục tiêu không phù hợp với lợi

ích công chúng, đã không mệt mỏi với những nỗ lực để thuyết phục người dân từ bỏ

khuyến cáo của Quốc hội yêu nước đó. Quả thật, nhiều người đã bị lừa gạt, nhưng phần

lớn dân chúng đã suy luận và quyết định một cách sáng suốt; và hạnh phúc mà họ đang

có phản ánh họ đã làm vậy.

Họ đã cân nhắc rằng Quốc hội gồm nhiều người từng trải và khôn ngoan, đã được tập hợp

lại từ các vùng khác nhau của đất nước, đưa họ lại gần nhau và cùng luận bàn với nhau về

XIV

Page 15: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

hàng loạt thông tin hữu ích. Rằng trong khoảng thời gian họ đã cùng trải qua việc tìm

hiểu và bàn thảo về những quyền lợi thực sự của đất nước, họ cần phải có được kiến thức

thật chính xác về lĩnh vực đó. Rằng họ đã có sẵn những mối quan tâm khác biệt về tự do

và sự thịnh vượng của cộng đồng, do đó đã làm thiên lệch không ít nhiệm vụ của họ để

chỉ khuyến cáo những biện pháp này, sau khi đã cân nhắc hết mức, mà họ thực sự cho là

cẩn trọng và đáng theo.

Những suy xét như vậy và tương tự sau đó đã làm cho người dân rất tin tưởng vào những

ý kiến và tính thống nhất của Quốc hội; và họ đã làm theo những lời khuyên của các nhà

lập pháp, bất chấp những thủ đoạn và nỗ lực khác nhau được đưa ra để ngăn cản họ.

Nhưng nếu như người dân tự do có lý do để tin tưởng vào những con người của Quốc hội

đó, một vài người đã kiểm chứng hay hoàn toàn nhận ra vẫn có lý do lớn hơn mà giờ đây

họ phải lưu tâm đến ý kiến và lời khuyên của hội nghị, vì họ biết rằng một số thành viên

nổi bật nhất của Quốc hội đó đã được thử thách và chỉ được phê chuẩn do năng lực và

lòng yêu nước, rằng những con người từng trải có được những thông tin nhạy bén về

chính trị, cũng là thành viên của hội nghị này, và đã đưa vào hội nghĩ những kiến thức và

kinh nghiệm mà họ đã tích lũy được.

Điều đáng lưu ý là không chỉ Quốc hội đầu tiên mà tất cả những quốc hội tiếp theo, cũng

như hội nghị vừa qua lúc nào cũng phải gắn chặt với người dân trong niềm tin rằng sự

thịnh vượng của nước Mỹ phụ thuộc vào việc Liên minh của nó. Bảo đảm và duy trì điều

này là mục đích cao cả của mọi người trong việc định hình hội nghị đó, và nó cũng là

mục đích cao cả của kế hoạch mà hội nghị đã tư vấn cho người dân thực hiện. Do vậy,

những nỗ lực được một số người tạo ra làm suy giảm tầm quan trọng của Liên bang trong

các giai đoạn riêng biệt có tính chính đáng gì, hay vì những mục đích cao đẹp ra sao?

Hay tại sao người ta đã gợi ý 3 hoặc 4 liên bang sẽ tốt hơn một? Tôi bị ý nghĩ của chính

mình thuyết phục rằng người dân luôn nghĩ đúng về chủ đề này, rằng sự gắn bó chung và

không thay đổi của người dân với tính chính đáng của Liên bang dựa trên những suy

ngẫm lớn lao và vững chắc, mà tôi phải nỗ lực để phát triển và giải thích trong một số bài

XV

Page 16: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

viết kế tiếp. Dân chúng, người thúc đẩy những ý tưởng về việc thay thế một số liên bang

khác nhau bằng kế hoạch của hội nghị, hẳn như thấy trước rằng việc phản đối nó sẽ đặt

sự tồn tại của Liên bang vào một tình thế vô cùng hiểm nghèo. Điều đó chắc hẳn sẽ đúng,

và tôi chân thành mong muốn nó có thể được thấy trước một cách rõ ràng bởi tất cả

những công dân nghiêm túc, rằng khi nào sự tan rã của Liên bang diễn ra, người Mỹ sẽ có

lý do để thét lên như lời của bài thơ “TẠM BIỆT, VĨNH BIỆT SỰ CAO CẢ CỦA TÔI”.

PUBLIUS

XVI

Page 17: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 3

Tiếp cùng chủ đề (Các mối hiểm nguy liên quan đến Ảnh hưởng và Lực

lượng quân sự ngoại bang)

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Một nhận xét không phải mới rằng người dân của bất kỳ quốc gia nào (nếu khôn ngoan

và có đủ thông tin, giống như người dân Mỹ) hiếm khi chấp nhận và kiên trì nhiều năm

chỉ để theo đuổi một ý kiến sai lầm liên quan đến các quyền lợi của họ. Một cách tự

nhiên, sự suy xét đó có xu hướng tạo nên sự tôn trọng cao đối với ý kiến tốt đẹp mà

người dân Mỹ đã xem xét lâu dài và giống như nhau về tầm quan trọng của việc duy trì

sự thống nhất vững chắc dưới một chính quyền Liên bang, được giao phó đủ quyền lực

đối với mọi mục đích của nhân dân và quốc gia của họ.

Càng chăm chú xem xét và khảo cứu các lý do dường như đã tạo nên quan điểm này, tôi

càng tin tưởng rằng chúng vững chắc và thuyết phục.

Trong nhiều mục đích mà một người dân tự do và khôn ngoan thấy cần phải hướng sự

chú ý của họ vào, thì việc lo liệu cho sự AN TOÀN của họ dường như là việc làm đầu

tiên. SỰ AN TOÀN của người dân không còn nghi ngờ gì liên quan đến hàng loạt tình

huống và những suy xét, mà kết quả tạo ra quyền rộng rãi cho những con người đó,

những người muốn định nghĩa nó một cách chính xác và toàn diện.

Bây giờ tôi dự định chỉ xem xét nó vì điều đó tôn trọng an ninh để bảo đảm sự yên ổn và

thái bình, cũng như chống lại những mối hiểm nguy từ ẢNH HƯỞNG VÀ LỰC LƯỢNG

QUÂN SỰ NGOẠI BANG, cũng như từ các HIỂM NGUY CÙNG LOẠI bắt nguồn từ

những nguyên nhân trong nước. Theo thứ tự đến trước, sẽ là phù hợp để thảo luận những

XVII

Page 18: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

hiểm nguy từ ngoại bang trước tiên. Do đó chúng ta hãy bắt đầu kiểm tra, phải chăng

người dân không đúng trong ý kiến của họ rằng một liên bang thân ái, dưới sư lãnh đạo

của một chính quyền quốc gia hiệu quả, tạo cho họ nền an ninh tốt nhất có thể chống lại

NHỮNG THÙ ĐỊCH từ nước ngoài.

Số lượng những cuộc chiến tranh đã xảy ra hay sẽ xảy ra trên thế giới sẽ luôn tỷ lệ thuận

với số lượng và trọng lượng các nguyên nhân, dù THẬT SỰ hay NGỤY TẠO để KHIÊU

KHÍCH hoặc KÍCH ĐỘNG chúng. Nếu nhận xét này là đúng đắn, sẽ là hữu ích để điều

tra xem liệu có bao nhiêu nguyên nhân chiến tranh CHÍNH ĐÁNG như vậy có thể đưa ra

bởi NƯỚC MỸ HỢP NHẤT thay cho nước Mỹ KHÔNG HỢP NHẤT; vì nếu điều đó

gợi ra rằng nước Mỹ hợp nhất có thể sẽ đưa ra ít nguyên nhân nhất, thì về khía cạnh này

sẽ dẫn đến Liên bang có xu hướng bảo đảm cho nhân dân được sống trong một đất nước

hòa bình với các quốc gia khác hơn cả.

Các nguyên nhân chiến tranh CHÍNH ĐÁNG, đa phần đều bắt nguồn từ hoặc sự vi phạm

các hiệp ước, hoặc do xung đột trực tiếp. Người Mỹ đã tạo ra các hiệp ước với không

dưới 6 quốc gia nước ngoài, ngoại trừ với đế quốc Phổ, tất cả chúng đều liên quan đến

hàng hải, và do vậy có thể gây khó chịu hoặc làm tổn thương chúng ta. Nước Mỹ cũng đã

giao thương rộng rãi với Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Anh quốc. Hơn nữa, đối với hai

nước phía sau, phải lưu tâm đến tình trạng lân bang.

Điều tối quan trọng cho hòa bình của nước Mỹ là nó phải quan sát các luật lệ của các

quốc gia hướng tới tất cả các cường quốc này, và với tôi dường như rõ ràng rằng điều này

sẽ đạt được một cách hoàn hảo và không chậm trễ bởi một chính quyền quốc gia hơn nó

có thể làm bởi 13 tiểu bang tách rời hoặc bởi 3 hay 4 tiểu quốc riêng biệt.

Vì một khi chính quyền quốc gia hiệu quả được thiết lập, những người con ưu tú nhất của

đất nước sẽ không chỉ sẵn lòng phụng sự, mà sẽ còn được hầu hết dân chúng đề nghị để

quản lý nó; vì dẫu thành phố, nông thôn, hay thế lực khác có thể cử người vào quốc hội,

XVIII

Page 19: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

thượng viện, hay tòa án công lý, hoặc các ban ngành hành pháp của tiểu bang, nhưng

danh tiếng rộng rãi trong dân chúng đối với những nhân tài và những người có năng lực

khác mới là cần thiết để cử người vào các chức vụ lãnh đạo chính quyền quốc gia, nhất là

khi đó nó sẽ có phạm vi lựa chọn rộng nhất, và điều chưa từng trải qua là sự thiếu những

con người phù hợp là không phải không phổ biến trong một số tiểu bang. Vì vậy, sẽ dẫn

tới các đảng phái chính trị, quyền lực, và các quyết định pháp luật của chính quyền quốc

gia sẽ đúng đắn, hệ thống và khôn ngoan hơn của các tiểu bang riêng rẽ, kết quả làm thỏa

mãn hơn đối với các quốc gia khác, cũng như AN TOÀN hơn cho người dân chúng ta.

Vì dưới một chính quyền quốc gia, các hiệp ước và điều khoản của hiệp ước, cũng như

các điều luật của các quốc gia, sẽ luôn luôn được giải thích theo một ý và thể hiện theo

cùng một phương thức, trong khi những phán xét về cùng các luận điểm, vấn đề giống

nhau trong 13 tiểu bang, hoặc 3 hay 4 tiểu quốc, sẽ không luôn phù hợp hay nhất quán; và

cũng như được đưa ra từ hàng loạt các tòa án và thẩm phán độc lập được các chính quyền

độc lập khác nhau bổ nhiệm, dựa trên các bộ luật và quyền lợi địa phương khác nhau có

thể tác động và ảnh hưởng đến chúng. Sự sáng suốt của hội nghị, thông qua việc cam kết

những vấn đề này với quyền thực thi pháp lý và quyền phán quyết của tòa án được bổ

nhiệm bởi và chỉ chịu trách nhiệm với duy nhất chính quyền quốc gia, không thể bị quá

nhiều chỉ trích.

Vì viễn cảnh của sự thua thiệt hay có lợi thường có thể xúi giục đảng cầm quyền trong

một vài tiểu bang đi chệch khỏi công lý và những cam kết tốt đẹp; nhưng những lệch lạc

đó, không lan được đến các bang khác, kết quả là sẽ có rất ít hoặc không ảnh hưởng đến

chính quyền quốc gia, sự cám dỗ này sẽ không có kết quả, các cam kết và công lý tốt đẹp

sẽ được duy trì. Trường hợp hiệp ước hòa bình với Anh quốc đã bổ sung tính vững chắc

to lớn cho lập luận này.

Vì, ngay cả đảng cầm quyền trong một tiểu bang cần được sắp xếp để chống lại những

cám dỗ, nhưng những cám dỗ loại này vẫn có thể, thường là do những điều kiện khác biệt

XIX

Page 20: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

của tiểu bang, và có thể ảnh hưởng đến một số lượng lớn cư dân. Đảng đương quyền có

thể không luôn luôn đủ năng lực, mặc dù sẵn lòng ngăn chặn hành động bất công được

trù tính, hay trừng phạt những kẻ xâm lược. Nhưng chính quyền quốc gia không bị ảnh

hưởng bởi các điều kiện của địa phương đó, hoặc sẽ không đưa ra những cam kết có lỗi

với chính họ, hoặc không thiếu quyền lực, hoặc lệch lạc khi ngăn cản hay trừng phạt

những sai phạm đó của các quốc gia nước ngoài.

Như vậy, những vi phạm các hiệp ước và các điều luật của các nước một cách ngẫu nhiên

hoặc có tính toán tới chừng mực gây ra các nguyên nhân chiến tranh CHÍNH ĐÁNG, họ

vẫn chưa phải e sợ dưới một chính quyền Liên bang hơn là dưới một vài chính quyền nhỏ

hơn, và về khía cạnh đó, chính quyền liên bang giúp cho sự AN TOÀN của người dân

hơn cả.

Khi những nguyên nhân chiến tranh rõ ràng đó khởi phát từ những xung đột trực tiếp và

bất chính, điều có vẻ rõ ràng với tôi là một chính quyền quốc gia tin cậy tạo ra an ninh to

lớn chống lại các hiểm nguy thuộc loại đó hơn là có thể nhận được từ bất kỳ 4 tiểu quốc

khác.

Vì những xung đột này thường gây ra bởi những cảm xúc giận dữ và quyền lợi của một

bộ phận hơn là toàn bộ; của một vài bang hơn là Liên bang. Không chỉ duy nhất cuộc

chiến tranh với người da đỏ yếu kém vì nó chưa gây ra những cuộc tấn công của chính

quyền Liên bang hiện nay; mà có một vài trường hợp những kẻ thù địch người da đỏ đã

bị kích động bởi sự quản lý không hợp lý của các tiểu bang riêng rẽ, các chính quyền

hoặc không thể hoặc không sẵn sàng ngăn chặn và trừng phạt những kẻ tấn công, là

nguyên nhân của sự tàn sát nhiều người dân vô tội.

Lân bang với các vùng lãnh thổ của Anh quốc và Tây Ban Nha, tiếp giáp với một số nước

và không tiếp giáp với nước khác, được tự nhiên giới hạn khỏi các nguyên nhân tranh

chấp đến sớm hơn với người dân biên giới. Các quốc gia biên giới nếu có, sẽ là những

XX

Page 21: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

nơi bị sự thúc đẩy của sự kích động đột ngột đó, và một cảm nhận nhanh chóng những lợi

ích và tổn thương rõ rệt, sẽ là nguyên nhân có thể nhất kích động chiến tranh với các

nước này bởi xung đột trực tiếp; và không gì có thể ngăn ngừa một cách hiệu quả mối

hiểm nguy đó như một chính quyền quốc gia, mà sự thông thái và cẩn trọng của nó không

hề bị giảm bớt vì những cảm xúc tức giận, sẽ thúc đẩy các bên đối phó ngay lập tức.

Không chỉ ít nguyên nhân chiến tranh chính đáng hơn được chính quyền quốc gia đưa ra,

mà chính quyền cũng sẽ có nhiều quyền lực hơn để xem xét và làm lắng dịu chúng một

cách chân tình. Ở khía cạnh đó cũng như các khía cạnh khác, họ sẽ trở nên ấm nóng hơn,

và Liên bang sẽ có nhiều khả năng để hành động một cách thận trọng hơn tiểu bang đang

có tranh chấp. Lòng tự trọng của các tiểu bang, cũng như của người dân một cách tự

nhiên đã cho phép họ biện minh cho mọi hành động của họ, và phản đối việc chấp nhận

sự thật, hành động đúng và sửa chữa những sai lầm và vi phạm của họ. Trong các trường

hợp như vậy, chính quyền quốc gia sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự kiêu hãnh này, mà sẽ

bắt đầu kiềm chế và không thiên vị khi cân nhắc và quyết định đưa ra những biện pháp

phù hợp nhất để gỡ ra khỏi các khó khăn đã đe dọa họ.

Hơn nữa, người ta biết rằng những hành động đền đáp, lời giải thích và bồi thường được

thỏa mãn bởi một nhà nước liên bang mạnh dễ được chấp nhận hơn, trong khi sẽ bị từ

chối vì không vừa ý nếu nó được đưa ra bởi một tiểu bang hoặc tiểu quốc ít được quan

tâm và ít quyền lực hơn.

Vào năm 1685, bang Genoa đã xúc phạm vua Louis XIV, đã phải cố gắng để nhượng bộ

ông ta. Ông ta đã yêu cầu họ phải cử ngài Tổng trấn, hay người đứng đầu địa phương

cùng với 4 thượng nghị sỹ của họ sang Pháp để xin được tha thứ và chấp nhận sự xét xử

của ông ta. Họ đã bị bắt buộc phục tùng vì hòa bình. Liệu vào dịp nào khác, bang này sẽ

bị yêu cầu hay nhận được điều sỉ nhục tương tự từ Tây Ban Nha, Anh quốc, hay bất kỳ

cường quốc nào khác?

XXI

Page 22: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

PUBLIUS

XXII

Page 23: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 4

Tiếp cùng chủ đề (Các mối hiểm nguy liên quan đến Ảnh hưởng và

Lực lượng quân sự ngoại bang)

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Bài viết VỪA RỒI của tôi đã ấn định một vài lý do tại sao sự an toàn của dân chúng

chống lại những hiểm nguy có thể bị rơi vào bởi những nguyên nhân chiến tranh CHÍNH

ĐÁNG đưa ra sẽ được bảo đảm tốt nhất bởi chính quyền Liên bang hơn là các tiểu quốc

khác; và những lý do đó chỉ ra rằng các nguyên nhân như vậy sẽ không chỉ hiếm khi được

đưa ra hơn, mà sẽ cũng được xem xét bởi chính quyền quốc gia dễ dàng hơn hoặc bởi

chính quyền tiểu bang hoặc các tiểu quốc đã đề nghị.

Nhưng sự an toàn của người dân Mỹ chống lại những hiểm nguy do thế lực NGOẠI

BANG không chỉ phụ thuộc vào sự kiên nhẫn của họ không đưa ra các nguyên nhân

chiến tranh CHÍNH ĐÁNG với các nước khác, mà còn phụ thuộc vào việc sắp đặt và sự

tiếp nối của chính họ trong một tình huống như vậy để không KÍCH ĐỘNG sự thù địch

hay lăng mạ; vì nó cần không được kéo theo có các nguyên nhân chiến tranh chính đáng

cũng như NGỤY TẠO.

Điều đó là quá đúng, tuy đáng hổ thẹn nhưng có thể là do bản chất của con người, rằng

các quốc gia nhìn chung sẵn sàng gây chiến bất cứ khi nào mà họ có hy vọng kiếm được

gì đó từ cuộc chiến; nói cho đúng hơn, các quốc vương độc tài thường sẽ vẫn gây chiến

khi đất nước họ không thu được lợi ích gì từ cuộc chiến tranh, mà chỉ đơn thuần vì mục

tiêu và mục đích cá nhân, tỷ như thèm khát danh tiếng về quân sự, trả thù cho những lăng

mạ cá nhân, tham vọng hay những thỏa thuận riêng tư nhằm mở rộng quyền lợi cho gia

XXIII

Page 24: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đình riêng và cho những đảng viên của họ. Những điều đó cộng với hàng loạt các lý do

khác chỉ ảnh hưởng đến suy nghĩ về sự toàn quyền, thường kéo ông ta vào các cuộc chiến

tranh không hợp đạo lý hay không phù hợp với tiếng nói và quyền lợi của nhân dân. Tuy

nhiên, độc lập với những lý do gây chiến tranh thường nhận thấy nhiều hơn ở các vương

quốc độc tài này, điều đáng được chúng ta chú ý còn có những nguyên nhân khác, ảnh

hưởng đến các quốc gia như các vị vua chúa; mà một số họ được xem là sinh ra từ tình

trạng và hoàn cảnh liên quan với chúng ta.

Chúng ta đã là đối thủ của Pháp và Anh quốc về ngư trường, và có thể cung cấp cho các

thị trường của họ với giá rẻ hơn chính họ có thể làm, bất chấp các nổ lực nhằm ngăn chặn

điều đó bởi những trợ giúp của chính họ hay các khoản thuế đối với cá nhập khẩu từ nước

ngoài.

Chúng ta cũng đã trở thành đối thủ về hàng hải và vận tải biển với họ và hầu hết các nước

Âu châu khác; và chúng ta sẽ làm thất vọng chính chúng ta nếu chúng ta tin rằng bất cứ ai

trong số họ sẽ vui mừng khi thấy nó hưng thịnh; vì vận tải thủy của chúng ta không thể

tăng lên mà không làm giảm khả năng của họ trong chúng mực nào đó, họ sẽ quan tâm

hơn, và có nhiều chính sách để hạn chế hơn là thúc đẩy điều đó.

Trong việc buôn bán với Ấn Độ và Trung quốc, chúng ta nhảy vào với nhiều hơn một

quốc gia, bởi vì điều đó giúp cho chúng ta chia sẻ những thuận lợi mà họ có được bằng

các phương thức độc quyền, vì bằng cách ấy chúng ta cung cấp cho chính chúng ta những

hàng hóa mà chúng ta thường phải mua của họ.

Sự mở rộng thương mại của chúng ta bằng chính các đội tàu của chúng ta không thể làm

hài lòng bất kỳ quốc gia nào có lãnh thổ trên hoặc gần lục địa bắc Mỹ này, vì giá rẻ và

chất lượng tuyệt vời của hàng hóa chúng ta, cộng thêm tình trạng kém cỏi của các vùng

lân cận, hoạt động kinh doanh và giao dịch của các thương gia và nhà hàng hải của chúng

ta, sẽ tạo cho chúng ta nhiều thuận lợi hơn các lãnh thổ đó có thể có được, phù hợp với

XXIV

Page 25: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

ước muốn hay chính sách của các vùng chủ quyền tương ứng của họ.

Tây Ban Nha cho rằng nó dễ dàng đóng cửa sông Mississippi chống lại chúng ta ở một

phía, và Anh quốc ngăn chặn chúng ta vào Saint Lawrence phía bên kia; cũng không ai

trong họ sẽ cho phép các luồng nước khác giữa họ và chúng ta trở thành phương tiện để

đi lại và giao thương với nhau.

Từ những luận điểm này và các suy xét tương tự như vậy, mà nếu thận trọng có thể được

mở rộng và chi tiết hơn, dễ thấy rằng những đố kỵ và không thỏa mãn có thể trượt dần

vào những dự tính và các thành viên nội các của các quốc gia khác, và rằng chúng ta

không hy vọng họ sẽ lưu ý sự tiến bộ của chúng ta về sự hợp nhất, về sức mạnh và tầm

quan trọng bởi đất và biển, với con mắt bình tâm và không phân biệt.

Người dân Mỹ nhận thức rằng các việc gây ra chiến tranh có thể xuất phát từ các tình

trạng này, cũng như do tình trạng khác hiện không quá rõ ràng, và rằng bất cứ khi nào

những lý lẽ như vậy có thể tìm được cơ hội và thời điểm thích hợp cho hành động, những

ngụy tạo để tô vẽ và thanh minh cho chúng sẽ không thiếu. Do đó, một cách khôn ngoan

họ xem xét sự liên hợp và một chính phủ quốc gia tin cậy như cần có phải đặt ra và giữ

họ trong TÌNH TRẠNG NHƯ VẬY, thay cho việc KÍCH ĐỘNG chiến tranh, sẽ có xu

hướng ngăn chặn và không khuyến khích việc đó. Tình trạng đó là trạng thái phòng vệ tốt

nhất có thể và tất yếu phụ thuộc vào chính quyền, các lực lượng quân sự và tài nguyên

của quốc gia.

Vì sự an toàn của tổng thể là mối quan tâm của tất cả mọi người, và không thể được lo

liệu mà không cần chính quyền, hoặc một, một vài hay nhiều, cho phép chúng ta xem xét

liệu một chính quyền tin cậy là không có khả năng hơn bất kỳ số lượng chính quyền nào

khác đã đưa ra liên quan đến mục đích đang bàn.

Một chính quyền có thể lựa chọn và sử dụng chính các tài năng và kinh nghiệm của

XXV

Page 26: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

những người có năng lực nhất của chính nó, ở bất cứ nơi nào của Liên bang mà nó có thể

nhận ra. Điều đó có thể phát triển thành những nguyên tắc chính sách đồng nhất. Chính

sách đó có thể làm hài lòng, đồng thuận và bảo vệ một vài vùng và các thành viên, mở

rộng lợi ích của việc lo trước của nó và những phòng ngừa cho mỗi vùng. Trong việc

hình thành các hiệp ước, nó sẽ xem xét mối quan tâm của toàn thể, và các quyền lợi riêng

của các vùng được gắn liền với quyền lợi đó của toàn thể. Nó có thể sử dụng các tài

nguyên và sức mạnh của toàn thể để bảo vệ cho bất kỳ vùng riêng rẽ nào, và việc đó dễ

dàng và mau lẹ hơn các chính quyền tiểu bang hoặc tiểu quốc tách rời có thể làm, vì thiếu

sự phối hợp và thống nhất của hệ thống. Có thể đặt lực lượng quân đội tuân thủ một kế

hoạch quy củ, bằng việc sắp xếp các sỹ quan của họ theo sự phụ thuộc với người đứng

đầu địa phương như nó đã dự tính, thống nhất họ thành một quân đoàn và bằng cách đó

làm cho họ hoạt động hiệu quả hơn khi bị chia nhỏ thành 13 hay 3 hoặc 4 bộ phận độc lập

khác nhau.

Quân đội của vương quốc Anh sẽ thế nào nếu như quân đội Anh tuân theo chính quyền

Anh, quân đội Scotland tuân theo chính quyền Scotland và quân đội xứ Wales tuân theo

chính quyền xứ Wales? Giả sử một cuộc xâm chiếm xảy ra; 3 chính quyền đó sẽ làm

được gì (ngay cả khi họ đồng ý hoàn toàn), với tất cả các lực lượng tương ứng của họ để

hoạt động chống lại kẻ thù hiệu quả như là một chính quyền duy nhất của Vương quốc

Anh sẽ đạt được?

Chúng ta đã nghe nói nhiều về các hạm đội của Anh quốc, và nếu chúng ta khôn ngoan sẽ

có thể đến thời điểm khi mà các hạm đội của Hoa kỳ có thể lôi kéo sự chú ý. Thế nhưng

nếu một chính quyền quốc gia đã không được chỉnh đốn hải quân Anh quốc đến mức tạo

cho nó một nơi đào tạo thủy thủ, nếu một chính quyền quốc gia không phát huy hết mọi

phương tiện và tài lực quốc gia để hình thành các hạm đội, thì sự cam đảm và sức mạnh

của họ sẽ không bao giờ được tôn vinh. Hãy để cho nước Anh có hải quân và hạm đội

của chính nó, cho Scotland có hải quân và hạm đội của nó, cho xứ Wales có hải quân và

hạm đội của nó, cho Ireland có hải quân và hạm đội của nó. Để cho 4 vùng lập thành nên

XXVI

Page 27: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đế chế Anh được lãnh đạo bởi 4 chính quyền độc lập, và dễ nhận thấy sớm làm sao mỗi

một trong họ sẽ suy yếu dần thành các đội quân tương đối tầm thường.

Áp dụng những thực tế này vào trường hợp của chính chúng ta. Để Hoa Kỳ bị phân chia

thành 13, hoặc nếu bạn thích thành 3 hay 4 chính quyền độc lập, những đội quân nào mà

họ có thể xây dựng và trả lương, hạm đội nào họ luôn muốn có? Nếu một tiểu quốc bị tấn

công, liệu các nước khác có chạy đến cứu giúp, dùng xương máu và tiền bạc của họ để

bảo vệ cho nó? Sẽ không có gì nguy hiểm cho họ khi được tôn thành trung lập bởi những

hứa hẹn bên ngoài, hay bị quyến rũ bởi ham muốn hòa bình quá lớn để cúi đầu mạo hiểm

với sự bình yên và sự an toàn hiện có của họ vì lân bang, của những người có lẽ bị họ

ghen ghét, và họ thích thú khi thấy tầm quan trọng của lân bang đó bị thu nhỏ lại? Mặc

dù cách xử lý như vậy là không khôn ngoan, song điều đó sẽ là lẽ tự nhiên. Lịch sử của

những nhà nước như Hy Lạp, và của các quốc gia khác đầy rẫy những trường hợp như

vậy, và không phải là không chắc xảy ra điều đã thường xuyên xảy ra như thế trong quá

khứ, sẽ lại xảy ra dưới những tình trạng tương tự.

Nhưng phải thừa nhận rằng họ cũng có thể sẵn sàng giúp các tiểu bang hoặc tiểu quốc bị

tấn công. Như thế nào, khi nào và mức độ trợ giúp thế nào về nhân lực và tài lực sẽ được

đưa ra? Ai sẽ chỉ huy liên quân, và người nào trong số đó sẽ nhận lệnh của ông ta? Ai sẽ

thiết lập các điều khoản hòa bình, và trong trường hợp có tranh chấp, người trung gian

nào sẽ quyết định cho họ và buộc họ phải ưng thuận? Những khó khăn và bất lợi khác

nhau sẽ không thể tách rời khỏi tình huống như vậy; trong khi một chính quyền duy nhất

trông nom các quyền lợi chung và phổ quát, cũng như kết hợp và quản lý sức mạnh và tài

nguyên của toàn thể, sẽ thoát được tất cả những rắc rối đó, và xa hơn nữa là mang lại sự

an toàn cho người dân.

Nhưng tình trạng của chúng ta có thể là gì, phải chăng liên minh vững chắc dưới một

chính quyền quốc gia, hay tách ra thành một số tiểu liên bang, điều đó chắc chắn các

quốc gia nước ngoài sẽ biết và xem xét nó một cách chính xác như nó làm; và họ sẽ hành

XXVII

Page 28: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

động hướng tới chúng ta một cách phù hợp. Nếu họ thấy rằng chính quyền quốc gia của

chúng ta được điều hành một cách tin cậy và hiệu quả, hoạt động thương mại của chúng

ta được điều chỉnh một cách khôn ngoan, quân đội chúng ta được tổ chức đúng đắn và có

kỷ luật, các nguồn tài nguyên và tài chính của chúng ta được quản lý một cách thận trọng,

sự tin cậy chúng ta được lập lại, nhân dân ta được tự do, hài lòng và đoàn kết, họ sẽ tự

nguyện nuôi dưỡng tình bạn với chúng ta hơn là gây ra sự oán giận của chúng ta. Nói một

cách khác, nếu họ thấy chúng ta hoặc không có một chính quyền hiệu quả (mỗi tiểu bang

làm đúng hay sai, vì có thể là phù hợp với quy tắc của nó), hoặc bị chia tách thành 3 hay

4 tiểu quốc, hoặc nước cộng hòa độc lập và có thể bất hòa, một nghiêng về Anh quốc,

một theo Pháp quốc và nước thứ 3 theo Tây Ban Nha, và có lẽ đã chống đối lẫn nhau bởi

3 nước kia, trong mắt họ người Mỹ sẽ là những kẻ nghèo hèn, nhỏ mọn làm sao! Nước

Mỹ sẽ có thể trở nên thế nào không chỉ với sự khinh miệt mà cả với sự xúc phạm của họ,

và nhanh chóng làm sao để nhận ra kinh nghiệm đắt giá rằng khi một dân tộc hay gia

đình bị phân chia như vậy, nó không bao giờ thôi bị chống lại bởi chính nó.

PUBLIUS

XXVIII

Page 29: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 5

Tiếp cùng chủ đề (Các mối hiểm nguy liên quan đến Ảnh hưởng và Lực

lượng quân sự ngoại bang)

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Trong lá thư ngày 1 tháng 7 năm 1706 gửi cho quốc hội xứ Scotland, nữ hoàng ANNE đã

đưa ra một số quan sát về tầm quan trọng của LIÊN HIỆP hình thành sau đó giữa Anh và

Scotland, đáng được chúng ta chú ý. Tôi sẽ công bố ở đây một hoặc hai điều rút ra từ đó:

“Một liên hiệp thành khối hoàn hảo sẽ là nền tảng vững chắc cho hòa bình dài lâu: Tôi sẽ

bảo đảm cho tôn giáo, sự tự do và tài sản của bạn; loại bỏ những thù hận trong chính bản

thân các bạn, những sự ghen ghét và sự khác biệt tồn tại giữa hai vương quốc chúng ta.

Cần phải gia tăng sức mạnh, sự giàu có và hoạt động thương mại; và với liên minh này,

toàn bộ hòn đảo sẽ được liên hiệp với nhau một cách thân thiện thoát khỏi tất cả những e

ngại do lợi ích khác nhau, sẽ CÓ KHẢ NĂNG CHỐNG LẠI MỌI KẺ THÙ CHUNG

CỦA NÓ.” “Chúng tôi khuyến cáo một cách nghiêm túc nhất với các bạn hãy bình tĩnh

và nhất trí về vấn đề quan trọng và lớn lao này, rằng liên hiệp có thể đưa đến một kết quả

hạnh phúc, là cách thúc duy nhất HIỆU QUẢ để bảo đảm niềm hạnh phúc trong hiện tại

và tương lai cho chúng ta, và làm thất vọng những mưu đồ của các kẻ thù của các bạn và

chúng tôi, những kẻ không còn nghi ngờ gì sẽ nhân cơ hội này, DÙNG NHỮNG NỖ

LỰC CUỐI CÙNG CỦA HỌ ĐỂ NGĂN CẢN HOẶC LÀM CHẬM TIẾN TRÌNH

LIÊN HIỆP NÀY.”

Hãy nhớ lại bài báo trước rằng sự yếu kém và phân chia trong nước sẽ kéo theo những

nguy hiểm từ ngoại quốc; và rằng không gì sẽ có khả năng bảo vệ chúng ta khỏi chúng

hơn là một chính quyền liên bang, mạnh mẽ và tin cậy bởi chính chúng ta. Chủ đề này đã

XXIX

Page 30: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

được viết nhiều và không thể dễ dàng nói hết được.

Lịch sử của Vương quốc Anh là một trong đó mà chúng ta nhìn chung đã quen thuộc

nhất, và điều đó cho chúng ta nhiều bài học giá trị. Chúng ta có thể hưởng lợi từ kinh

nghiệm của họ mà không phải trả cái giá mà họ đã phải trả. Mặc dù cảm giác chung có vẻ

như rõ ràng rằng dân chúng hòn đảo này chỉ nên thuộc một quốc gia, song cho đến bây

giờ chúng ta vẫn thấy rằng họ đã đồng ý chia thành 3 nước từ rất xa xưa, và rằng 3 nước

đó hầu như liên tục bị lôi kéo vào những tranh chấp và chiến tranh với nhau. Mặc dù lợi

ích thực sự của họ tương ứng với các nước Âu châu lục địa là hoàn toàn giống nhau, ngay

cả trên cơ sở các mưu đồ, chính sách và thực tiễn của những nước đó, những đố kỵ lẫn

nhau giữa họ vẫn mãi mãi tồn tại trong giận dữ, và trong nhiều năm dài họ đã cảm thấy

phiền phức và khó chịu nhiều hơn là thấy hữu ích và giúp đỡ nhau.

Người dân Mỹ có nên chia tách chính họ thành 3 hay 4 tiểu quốc, mà những điều tương

tự sẽ không xảy ra? Những đố kỵ giống như thế sẽ không xuất hiện, và được ấp ủ theo

cùng cách thức? Thay vì được “liên kết thân thiện” và thoát khỏi tất cả những e dè vì

“quyền lợi” khác nhau, ghen tỵ và đố kỵ sẽ sớm dập tắt sự tự tin và thân thiện, và các

quyền lợi cục bộ của mỗi tiểu quốc sẽ thay cho quyền lợi chung của toàn thể dân Mỹ, sẽ

là mục đích duy nhất trong chính sách và hành động của họ. Vì vậy, giống như hầu hết

các quốc gia TIẾP GIÁP, họ sẽ luôn luôn hoặc gắn với tranh chấp và chiến tranh, hoặc

liên tục sống trong sự nghi kỵ nhau.

Những người chủ trương cho 3 hay 4 tiểu quốc lạc quan nhất không thể chứng minh một

cách hợp lý rằng họ sẽ duy trì lâu dài vị trí tương đương một cách chính xác về sức mạnh,

ngay cả khi điều đó là để hình thành nên chúng lúc ban đầu, nhưng phải thừa nhận một

thực tiễn là, vào lúc này những người trù tính còn có thể bảo đảm kéo dài sự bình đẳng

như vậy? Không phụ thuộc vào những điều kiện địa phương thường sẽ có xu hướng gây

ra và làm tăng quyền lực ở một vùng và cản trở sự tiến triển của nó ở những vùng khác,

chúng ta cần phải khuyếch trương những hiệu quả của chính sách tốt hơn và sự quản lý

XXX

Page 31: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

tin cậy đó sẽ có thể chỉ ra chính quyền của một vùng sẽ vượt lên trên phần còn lại, và bởi

vậy tính bình đẳng tương đối về sức mạnh và công lao của họ sẽ bị phá hủy. Vì không thể

giả thiết rằng mức độ giống nhau về chính sách lành mạnh, sự thận trọng, và nhìn xa

trông rộng sẽ được tuân thủ một cách đồng nhất trong mỗi một tiểu quốc này trong những

năm dài tiếp theo.

Bất kỳ lúc nào, và do nguyên nhân gì, điều đó cũng có thể xảy ra, và sẽ xảy ra rằng chỉ

một trong những tiểu bang hoặc tiểu quốc này sẽ vượt lên trên về tầm quan trọng chính trị

cao hơn nhiều so với mức độ của các nước lân bang, lúc đó các lân bang sẽ nhìn nó với

con mắt đố kỵ và e sợ. Cả hai cảm xúc mạnh mẽ đó sẽ làm cho các lân bang hướng tới

khuyến khích, nếu không phải là thúc đẩy bất kỳ việc gì có tiềm năng làm giảm bớt mức

quan trọng của nó; và cũng sẽ ngăn cản họ tiến hành các biện pháp được tính toán để tiến

bộ hay thậm chí để duy trì sự thịnh vượng của nó. Sẽ không mất nhiều thời gian để cho

nước đó nhận ra các khuynh hướng không thân thiện này. Nó sẽ bắt đầu ngay, không chỉ

mất niền tin vào các nước lân bang, mà còn cảm thấy cách sắp xếp không có lợi ích tương

đương của họ với nó. Một cách tự nhiên nghi ngờ sinh ra nghi ngờ, và bởi không còn gì

là thiện ý và cách xử sự tốt đẹp sẽ nhanh chóng mất đi hơn do sự ghen ghét đến mức ác

cảm và sự đổ lỗi theo thành kiến, hoặc biểu hiện hoặc ngụ ý.

Miền Bắc thường là vùng có tiềm lực, và nhiều điều kiện địa phương có thể làm cho phần

lớn miền bắc của các tiểu quốc đề nghị, không còn nghi ngờ sẽ mạnh hơn bất kỳ vùng

nào khác trong một giai đoạn không xa lắm. Ngay khi việc này sẽ trở nên rõ ràng,

NHÓM MIỀN NAM sẽ kích động bởi những ý tưởng và tình cảm tương tự như đã hình

thành trước đó ở các vùng miền Nam Âu châu, ngay ở các vùng phía Nam hơn của bắc

Mỹ. Dường như cũng không phải là một sự phỏng đoán vội vàng rằng những nhóm người

trẻ tuổi thường dễ bị xúi giục để tìm kiếm của cải trên những cách đồng tươi đẹp và

không khí êm dịu hơn của những người láng giềng sang trọng và tinh tế hơn.

Những người xem xét kỹ lịch sử những sự phân chia và những tiểu quốc tương tự sẽ thấy

XXXI

Page 32: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

vô số lý do để e ngại rằng những việc suy tính đó sẽ không có ý nghĩa khác hơn với

những người dân láng giềng vì họ sẽ là người dân biên giới; rằng họ hoặc sẽ yêu thích

hoặc tin cậy nhau, nhưng ngược lại sẽ là nạn nhân của mối bất hòa, đố kỵ, và làm tổn

thương nhau; tóm lại chính xác là họ sẽ đặt chúng ta vào tình trạng mà không còn nghi

ngờ gì một số quốc gia muốn thấy, có nghĩa là, CHỈ MẠNH MỒM VỚI NHAU.

Trên cơ sở những suy xét này, dường như các quý ông đó, những người cho rằng các liên

minh tấn công và phòng thủ có thể hình thành giữa các tiểu quốc đã sai lầm lớn, và có thể

dẫn đến việc kết hợp hoặc liên minh dựa trên ý muốn của các thế lực quân sự và tài

nguyên, sẽ cần thiết để thiết lập và duy trì chính họ trong trạng thái mạnh về quốc phòng

chống lại những kẻ thù địch từ ngoại bang.

Khi nào các tiểu bang độc lập, bị chia tách thành tiểu quốc như Anh quốc và Tây Ban

Nha đã từng bị chia cắt trước đây, sẽ kết hợp lại trong liên minh như vậy hay thống nhất

các lực lượng của họ chống lại cùng một kẻ thù nước ngoài? Các tiểu liên bang đề nghị sẽ

là CÁC QUỐC GIA KHÁC NHAU. Mỗi quốc gia sẽ có trao đổi thương mại với các đối

tác nước ngoài của nó để điều chỉnh theo các hiệp ước khác nhau; và vì sản phẩm và hàng

hóa của họ là không giống nhau và thích hợp cho những thị trường khác nhau, như vậy

những hiệp ước đó sẽ khác nhau về bản chất. Những mối lo về thương mại khác nhau

chắc chắn sẽ tạo ra những lợi ích khác nhau, dĩ nhiên cả mức độ liên kết chính trị khác

nhau và giao thiệp với các quốc gia nước ngài khác nhau. Vì điều có thể và có lẽ sẽ xảy

ra là một quốc gia nước ngoài có thể đang có chiến tranh với người thuộc bang MIỀN

NAM sẽ là nước khát khao duy trì hòa bình và hữu nghị với người thuộc bang MIỀN

BẮC nhất. Do đó, một liên minh trái ngược với quyền lợi trước mắt của họ như vậy sẽ

không dễ dàng hình thành, và nếu hình thành được cũng sẽ không được tôn trọng và thực

hiện với sự tin tưởng hoàn toàn.

Nói cho đúng hơn, còn quá xa để cho Mỹ, giống như ở Ân châu, các quốc gia lân bang,

hành động theo sự thôi thúc của các quyền lợi đối kháng và cảm xúc không thân thiện, sẽ

XXXII

Page 33: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

thường thấy tham gia vào các bên khác nhau. Hãy xem xét sự xa cách của chúng ta với

Âu châu, sẽ là tự nhiên hơn để các tiểu quốc này e sợ những mối hiểm nguy từ nhau hơn

là từ các nước xa xôi, và do vậy nên mỗi một trong chúng sẽ khao khát để bảo vệ chống

lại nhau với sự trợ giúp của các liên minh ngoại quốc, hơn là để chống lại những hiểm

nguy từ chính ngoại quốc bằng các liên minh giữa chính các tiểu liên bang với nhau. Và ở

đây chúng ta cũng đừng quên nó sẽ chấp nhận các chiến hạm nước ngoài vào cảng, cũng

như quân đội ngoại quốc vào đất nước của chúng ta dễ dàng hơn bao nhiêu so với việc

thuyết phục hay bắt buộc họ rời khỏi. Bao nhiêu vùng đất mà đế chế La Mã và các cường

quốc khác đã xâm chiếm được theo những phương thức liên minh trong quá khứ, và

những điều cách tân mà họ đã làm theo cùng phương thức đã đưa vào trong những chính

quyền của những nước mà họ giả vờ bảo vệ đó.

Vậy thì, hãy để cho những người ngay thẳng phán xét, liệu sự phân chia nước Mỹ thành

bất kỳ số vùng lãnh thổ có chủ quyền đã đề nghị nào sẽ có khuynh hướng bảo đảm cho

chúng ta chống lại những kẻ thù địch và sự can thiệp không hợp lý của các quốc gia nước

ngoài.

PUBLIUS

XXXIII

Page 34: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 6

Mối nguy hại từ những bất đồng giữa các tiểu bang

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Ba số cuối của bài viết này được đề cập tới một loạt những mối nguy hại mà chúng ta có

thể bị đặt vào, trong một đất nước của sự chia rẽ, bởi những bàn tay và thủ đoạn của nước

ngoài. Bây giờ, tôi sẽ vạch ra những mối hiểm họa khác, tất nhiên, đáng báo động hơn,

những mối hiểm họa sẽ có thể xảy ra từ sự bất đồng giữa bản thân các tiểu bang và từ nạn

bè phái, mất ổn định trong nước. Những điều này đã được đoán trước ở mức độ đáng kể

trong một số trường hợp, nhưng chúng xứng đáng có một bản nghiên cứu cụ thể và đầy

đủ hơn.

Con người phải được thoát ra khỏi tư tưởng duy tâm có thể đặt câu hỏi rằng: liệu những

tiểu bang này có nên hoặc là hoàn toàn tách ra hoặc là chỉ liên minh trong liên bang

không hoàn chỉnh, những liên minh mà họ bị đẩy vào sẽ có những cuộc chiến thường

xuyên và bạo lực nhằm vào nhau. Cho rằng động lực cho các cuộc chiến, như là cuộc

tranh cãi chống lại sự tồn tại của họ, chính là để quên đi rằng con người là những kẻ đầy

tham vọng, hận thù và tham lam. Tìm kiếm sự hòa hợp giữa các vùng có chủ quyền và

không quan hệ với nhau là thiếu quan tâm đến quá trình diễn biến các sự kiện của loài

người và coi thường kinh nghiệm đã được tích lũy của các thế hệ.

Những nguyên nhân của sự thù địch giữa các dân tộc thì không thể đếm xuể. Có một số

nguyên nhân phổ biến trong các thực thể của xã hội. Ở đây chính là sự đam mê quyền lực

hay tham vọng đứng trên những người khác và quyền thống trị - sự ghen tị về quyền lực

hay khát vọng về sự bình đẳng và sự toàn vẹn. Còn có những nguyên nhân khác có ảnh

hưởng ít hơn mặc dù có tác dụng tương tự trong phạm vi ảnh hưởng của chúng. Đó là đối

thủ và là sự cạnh tranh trong việc buôn bán giữa các quốc gia hoạt động thương mại. Và

XXXIV

Page 35: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

cũng có những cái khác nữa, cũng không ít hơn cái đã nói, chúng hoàn toàn có nguồn gốc

riêng: trong sự gắn bó, sự thù hằn, tầm quan trọng, niềm hi vọng và sự sợ hãi của các cá

nhân lãnh đạo các cộng đồng mà họ là thành viên trong đó. Lớp người này, dù là những

nhân vật được yêu mến bởi một ông vua hay bởi nhân dân, hãy nhớ là, có quá nhiều

trường hợp đã lạm dụng những thông tin riêng tư mà họ có, và giả sử rằng lý do là vì một

động cơ nào đó, đã không cân nhắc để hi sinh sự yên bình của quốc gia cho lợi ích cá

nhân hay sự hài lòng cá nhân.

Pericles trứ danh, chỉ vì sự oán giận của cô gái làng chơi, trả giá bằng máu và của cải của

những người đồng bào của ông ta, đã tấn công, đánh bại và hủy diệt thành phố của người

SAMNIANS. Cũng con người này, bị kích động bởi thù oán cá nhân đối với người

MEGARENSIANS, một dân tộc khác của Hi Lạp, hay để tránh sự truy tố về việc ông ta

đã bị coi là một kẻ tòng phạm trong việc trộm cắp liên quan đến tượng của Phidias, hay

để thoát khỏi sự kết tội đã được chuẩn bị để đưa ra chống lại ông ta trong việc phung phí

ngân quỹ nhà nước để mua chuộc dân chúng, hay là sự kết hợp của tất cả những nguyên

nhân trên, là người đã khơi mào cuộc chiến nổi tiếng và tai hại đó, được đặt tên trong lịch

sử Hi Lạp với cái tên cuộc chiến PELOPONNESIAN, cuộc chiến mà sau nhiều sự thăng

trầm, tạm dừng rồi lại tiếp tục, đã kết thúc bằng sự hủy diệt của cả Đế chế Athena.

Hồng y giáo chủ đầy tham vọng, người đã là Thủ tướng chính phủ của vua Henry VIII,

đã để cho ảo tưởng của ông ta thèm khát chiếc vương miện, ấp ủ niềm hi vọng thành

công trong việc tranh giành phần thưởng lộng lẫy kia bằng sự ảnh hưởng của Hoàng đế

Charles V. Để đảm bảo địa vị và quyền lợi của nền quân chủ hùng mạnh này, ông ta đẩy

nước Anh vào cuộc chiến tranh với nước Pháp, trái ngược với những trật tự đơn giản nhất

của cách hành động, và ở sự rủi ro đối với sự an nguy và nền độc lập, cũng như của

vương quốc mà ông ta chịu trách nhiệm với những toan tính của ông ta, cũng như của

Châu âu nói chung. Đối với việc liệu đã bao giờ có một ông hoàng có triển vọng thực

hiện kế hoạch của nền quân chủ toàn trị, đó là Hoàng đế Charles V, những mưu đồ

Wolsey của ông ta đồng thời vừa là công cụ, vừa là kẻ bị lừa.

XXXV

Page 36: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Sự ảnh hưởng mà sự cả tin của người đàn bà, tính hay hờn dỗi của một người khác và âm

mưu của một kẻ thứ ba, có trong chính phủ hiện hành, sự lộn xộn và sự yên bình của một

phần đáng kể của Châu âu, là những chủ đề rất hay được bàn dài dòng mà nói chung là

không được biết đến.

Để tăng thêm các ví dụ về tác dụng của những toan tính cá nhân trong việc hình thành

những sự kiện vĩ đại mang tầm quốc gia, hoặc ở nước ngoài hoặc ở trong nước, theo

chiều hướng của chúng, là sự lãng phí thời gian không cần thiết. Những người có sự hiểu

biết không sâu sắc về nguồn gốc hình thành của chúng, sẽ tự nhớ ra đủ các loại ví dụ

khác nhau, và những người có kiến thức khá tốt về bản năng con người sẽ không nấp sau

những cái bóng để đưa ra ý kiến dù là sự thực hay mức độ của khía cạnh đó. Tuy nhiên,

có lẽ, sự tham khảo, có xu hướng minh họa nguyên tắc chung, có thể, với sự đúng đắn,

được tạo ra một tình huống mà cuối cùng xảy đến với chúng ta. Nếu Shays không phải là

một CON NỢ TUYỆT VỌNG, thì không biết rằng liệu Massachusetts có bị ném vào

cuộc nội chiến hay không.

Mặc dù có bằng chứng được công nhận về sự từng trải, trong trường hợp này, vẫn thấy

người có tầm nhìn hoặc những người đầy tính toán, người mà sẵn sàng đứng ra để biện

hộ cho sự nghịch lý của nền hòa bình vĩnh viễn giữa các tiểu bang, mặc dù bị tách rời và

không thân thiện với nhau. Thiên tài của các nền cộng hòa (họ nói) đều yêu hòa bình; tinh

thần của sự biến đổi xã hội có xu hướng làm yếu đi cách xử sự của con người, và để dập

tắt tính khí dễ bị kích động mà rất thường hay gây nên những cuộc chiến tranh. Những

nền cộng hòa có tính thị trường, như của chúng ta, sẽ không bao giờ muốn lãng phí bản

thân chúng trong những cuộc chiến hủy diệt lẫn nhau. Chúng sẽ bị khống chế bởi sự quan

tâm lẫn nhau và sẽ nuôi dưỡng trên tinh thần của tình hữu nghị và sự hòa hợp với nhau.

Có phải điều đó (ta có thể hỏi những người vạch kế hoạch về quan điểm chính trị) không

phải là tầm quan trọng thực sự của tất cả các dân tộc để nuôi dưỡng tâm hồn rộng lượng

và có tính triết học? Nếu điều này là lợi ích thực sự của họ, liệu họ có theo đuổi nó

không? Liệu, trái lại, có đúng là không phải lúc nào cũng được nhận thấy rằng sự đam mê

XXXVI

Page 37: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

nhất thời và lợi ích trước mắt có quyền điều khiển tư cách con người tích cực và thiết

thực hơn các đề xuất chung hoặc riêng biệt của chính sách, tiện ích hay luật pháp không?

Có phải các nền cộng hòa trong thực tế thì ít tham gia chiến tranh hơn các nền quân chủ

không? Có phải trước kia không được điều hành bởi CON NGƯỜI cũng như sau này

không? Có phải là không có những sự ác cảm, sự ưa thích, sự ganh đua và tham vọng của

sự giành được không công bằng tác động đến các dân tộc cũng như các vương quốc

không? Có phải những nhóm người được ái mộ không phải chịu sự thúc đẩy của sự giận

dữ, sự oán thán, ghen tị, sự tham lam và những xu hướng mạnh mẽ và không bình thường

khác? Có phải đã không được hiểu thấu đáo rằng những quyết định của họ thường bị chi

phối bởi một số cá nhân mà trong số đó họ đặt sự riêng tư vào và, tất nhiên, rất có thể

được tô vẽ bởi sự đam mê và quan điểm của những cá nhân đó? Liệu sự thay đổi trong xã

hội cho đến nay có làm được gì hơn là thay đổi các mục tiêu chiến tranh không? Có phải

sự ham thích giàu có không giống như sự đam mê độc đoán và mạnh mẽ như là đối với

quyền lực và danh vọng? Có phải là không có nhiều cuộc chiến được phát động với động

cơ thương mại từ khi nó trở thành hệ thống phổ biến của các quốc gia như là đã xảy ra

trước đây bởi sự tham lam của các vùng hay của lãnh địa? Có phải tinh thần của sự thay

đổi xã hội, trong nhiều trường hợp, đã không nuôi dưỡng những động lực mới cho lòng

tham, cho cả bên này và bên kia? Hãy để kinh nghiệm, những bài học ít sai lầm nhất của

con người, được nêu ra để có câu trả lời cho những câu hỏi này.

Sparta, Athens, Rome và Carthage đều là những nền cộng hòa, hai trong số đó, Athens và

Carthage là kiểu thị trường. Nhưng họ thường xuyên tham gia vào các cuộc chiến tranh,

gây chiến hoặc tự vệ, cũng như các nền quân chủ láng giềng trong thời gian đó. Sparta thì

tốt hơn một chút so với một phe được điều hòa tốt, và Rome thì chưa bao giờ thỏa mãn sự

chém giết và đi xâm chiếm.

Carthage, mặc dù là nền cộng hòa kiểu thị trường, lại là kẻ gây chiến trong cuộc chiến

khốc liệt và đã kết thúc bằng chính sự hủy diệt của nó. Hannibal đã mang quân tiến tới

thủ đô của Italy và các cửa ngõ của Rome, trước khi tới Scipio, mang lại cho ông ta sự

chinh phục hoàn toàn trên các vùng lãnh thổ của Carthage, và xâm chiếm toàn bộ Đế chế.

XXXVII

Page 38: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Venice, về sau này, được nhắc đến hơn một lần trong các cuộc chiến của sự tham vọng,

cho đến khi, trở thành một trong các vùng của Italy, giáo hoàng Julius II đã tìm ra cách để

thực hiện cái khối liên minh ghê gớm đó, cái mà đã đem lại tai họa chết người cho quyền

lực và sự kiêu hãnh của nền cộng hòa ngạo mạn này.

Các tỉnh của Hà Lan, cho đến khi chúng bị ngập trong những nợ nần và thuế má, đã đóng

vai trò chính và quan trọng trong các cuộc chiến ở Châu âu. Họ có những cuộc chiến đẫm

máu với người Anh để giành quyền thống trị trên biển, và là một trong số những kẻ thù

bền bỉ nhất và khó đánh bại nhất của vua Louis XIV.

Trong Chính phủ của Vương quốc Anh, những người đại diện cho nhân dân tạo nên một

nhánh của cơ quan lập pháp quốc gia. Mối quan hệ có từ hàng bao nhiêu năm là sự theo

đuổi dễ nhận thấy nhất của đất nước này. Tuy nhiên, một số nước lại rất hay tham gia vào

chiến tranh, và các cuộc chiến mà nước đó nhảy vào, trong nhiều trường hợp, lại bắt

nguồn từ nhân dân.

Hầu như rất phổ biến là các cuộc chiến có tính chất hoàng gia, nếu tôi có thể diễn đạt như

vậy. Lời kêu gọi của dân tộc và sự thúc bách của những người đại diện của họ, trong

nhiều trường hợp khác nhau, đã lôi kéo các nền quân chủ của họ vào cuộc chiến, hoặc giữ

họ trong đó, ngược lại khuynh hướng của họ, và đôi khi còn ngược lại những lợi ích thực

sự của đất nước. Trong cuộc chiến để chứng tỏ sức mạnh không thể nào quên giữa hai

dòng họ thù địch AUSTRIA và BOURBON, đã giữ Châu âu ở trong lò lửa chiến tranh

quá lâu, rất rõ là sự ác cảm của người Anh chống lại người Pháp, tiếp đến là tham vọng,

hay đúng hơn là sự tham lam, của người lãnh đạo được lòng dân chúng, đã kéo dài cuộc

chiến quá giới hạn được vạch ra bởi chính sách hợp lí, và với một quãng thời gian đáng

kể của sự chống đối đối với các ý kiến của triều đình.

Các cuộc chiến của hai quốc gia được nói đến cuối cùng này, theo cách tính toán thú vị,

gia tăng ngoài các tính toán thương mại, mong muốn hất cẳng và nỗi sợ bị hất cẳng, hoặc

XXXVIII

Page 39: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

là ở những nhánh cụ thể của việc buôn bán hoặc là đối với sự thuận lợi nói chung của

thương mại và hàng hải.

Từ những tổng kết về những gì đã xảy ra ở những quốc gia khác mà những hoàn cảnh của

nó mang những nét rất giống với chúng ta, lí do nào chúng ta có thể phải đưa ra để lý giải

những ảo tưởng sẽ lôi kéo chúng ta vào sự trông đợi nền hòa bình và lòng nhân ái giữa

những thành viên của liên bang hiện tại, trong một đất nước của sự chia cắt? Có phải

chúng ta chưa thấy rõ sự sai lầm và quá đề cao những thuyết vô căn cứ làm cho chúng ta

buồn cười với những lời hứa hẹn về việc bỏ qua những sự không hoàn chỉnh, sự yếu kém

và những việc xấu xa vốn gắn liền với xã hội dưới mọi hình thức? Có phải không phải lúc

để đánh thức giấc mơ dối trá về một thời đại vàng son và để chọn một phương ngôn thực

tế cho con đường về tư cách chính trị của chúng ta mà chúng ta, cũng như những cư dân

khác của Trái đất, vẫn chưa cách xa cái đất nước hạnh phúc của sự hiểu biết hoàn hảo và

đức hạnh hoàn hảo?

Hãy để cho tình trạng trì trệ của phẩm giá và lòng tin dân tộc mà chúng ta có bị chìm

nghỉm đi, hãy để cho những sự phiền phức được cảm thấy ở khắp mọi nơi từ sự quản lí

lỏng lẻo và ốm yếu của chính phủ, hãy để cho cuộc nổi loạn ở một bộ phận của bang Bắc

Carolina, sự lộn xộn có tính đe dọa cuối cùng ở Pennsylvania, và những cuộc khởi nghĩa,

những cuộc nổi loạn thực sự ở Massachusetts công khai đi.

Giờ là sự hiểu biết thông thường của loài người từ phù hợp với những giáo lý của những

người đã nỗ lực tới sự ngủ yên của những nỗi khiếp sợ của chúng ta đối với mối bất hòa

và thù địch giữa các tiểu bang, trong trường hợp của sự chia rẽ mà xuất phát từ việc quan

sát lâu dài của tiến trình xã hội trở thành một loại chân lý trong đời sống chính trị, tình

trạng tương tự như thế, tạo thành những kẻ thù tự nhiên của các dân tộc. Một tác giả xuất

chúng phát biểu về chủ đề này: “CÁC QUỐC GIA LÁNG GIỀNG (anh ta nói) là những

kẻ thù tự nhiên của nhau trừ khi yếu điểm chung của chúng bắt buộc chúng liên kết với

nhau trong một CỘNG HÒA LIÊN BANG, và hiến pháp của chúng ngăn ngừa những

mối bất đồng, dập tắt sự đố kị thầm kín mà sẽ đưa tất cả các bang vào việc nâng cao bản

XXXIX

Page 40: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

thân họ và không có lợi cho các bang láng giềng của họ”. Cùng lúc, đoạn này chỉ ra

THẢM HỌA và gợi ý CÁCH CỨU CHỮA.

PUBLIUS

XL

Page 41: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 7

Mối nguy hại từ những bất đồng giữa các tiểu bang (tiếp theo)

Gởi cư dân Tiểu Bang Nữu Ước:

Đôi khi có người được hỏi rằng, trong một bầu không khí có vẻ thắng lợi, sự khích lệ nào

liên bang có thể có, nếu bị làm cho mất đoàn kết, và gây chiến với nhau? Câu trả lời đầy

đủ cho câu hỏi này là: chính những sự khích lệ đã dìm các dân tộc trên thế giới trong bể

máu, trong các giai đoạn khác nhau. Nhưng, không may cho chúng ta, câu hỏi đã nhường

chỗ cho một câu trả lời cụ thể hơn. Có nhiều nguyên nhân cho những sự khác biệt ngay

trong tư duy có tính nhất thời của chúng ta, của xu hướng mà trong đó, thậm chí dưới sự

ràng buộc của hiến pháp liên bang, chúng ta có đủ kinh nghiệm để cho phép chúng ta

hình thành nên một phán quyết có thể được trông đợi nếu những ràng buộc này bị dỡ bỏ.

Lúc nào cũng thế, những tranh cãi về lãnh thổ luôn được coi là một trong những nguyên

nhân phổ biến nhất của sự thù địch giữa các dân tộc. Có lẽ phần lớn các cuộc chiến đã tàn

phá Trái đất bắt nguồn từ động cơ này. Động cơ này tồn tại trong chúng ta rất mãnh liệt.

Chúng ta có cả một vùng đất rộng lớn chưa có người định cư ngay trong lòng nước Mỹ.

Vẫn còn có những đòi hỏi trái ngược và lằng nhằng giữa các tiểu bang, và sự tan rã của

khối liên hiệp sẽ tạo nên một nền tảng cho những yêu sách tương tự giữa các tiểu bang.

Thật rõ ràng rằng, cho đến nay, họ đang có những thảo luận nghiêm túc và sôi nổi liên

quan đến quyền lực đối với các vùng đất mà đã không được cấp trong thời gian của cuộc

cách mạng, và thường là mất tên tuổi của các vùng đất hoàng gia. Các bang với những

hạn chế của những chính phủ trực thuộc nó đã tuyên bố rằng đó là tài sản của họ, các

bang khác thì cho rằng quyền của hoàng gia về khoản này đã chuyển giao cho liên minh;

đặc biệt như là vùng lãnh thổ miền Tây mà, hoặc bằng sự chiếm hữu trên thực tế hoặc

thông qua sự đệ trình của những người da đỏ làm chủ, đã phải chịu sự cai trị của Vương

XLI

Page 42: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

quốc Anh, cho đến giờ nó đã bị tước bỏ hiệp ước hòa bình. Có người nói rằng, trong tất

cả các sự kiện, đây là thành quả của liên bang thông qua sự thỏa hiệp với một thế lực

ngoại bang. Đó là một chính sách khôn ngoan của Quốc hội để nhượng bộ cuộc chiến

này, bằng việc thuyết phục các bang gộp đất đai thành liêng bang để tất cả các bên cùng

có lợi. Việc này đã làm xong xuôi, dưới sự tiếp nối của liên minh, để tạo ra một tầm nhìn

rõ rệt cho một cái kết có hậu cho cuộc tranh cãi. Tuy nhiên, sự chia cắt của liên bang, sẽ

làm sống lại cuộc tranh cãi này, và sẽ tạo ra những cuộc cãi vã khác cũng về vấn đề này.

Hiện tại, một diện tích lớn của miền Tây bỏ không, ít nhất là bằng việc chuyển giao, nếu

không bởi bất cứ quyền nào trước đây, là tài sản chung của liên bang. Nếu việc đó đã đi

đến hồi kết, các bang đã đưa ra việc chuyển giao, trên nguyên tắc của thỏa thuận liên

bang, sẽ là thông minh khi động cơ của việc chuyển giao đã hết, để khai hoang các vùng

đất như một sự thừa kế. Các bang khác thì không còn nghi ngờ gì là họ sẽ khăng khăng

đòi sự cân bằng, về quyền đại diện. Lý lẽ của họ đưa ra sẽ là, việc bàn giao, một khi đã

được thiết lập, sẽ không thể hủy bỏ được, và tính pháp lý trong việc tham gia vào vấn đề

lãnh thổ đạt được hoặc bị ràng buộc bởi bằng những cố gắng chung của liên bang, vẫn

không giảm. Trái với khả năng có thể xảy ra, nếu được thừa nhận bởi tất cả các bang, mà

mỗi bang có quyền chia sẻ tài sản chung này, vẫn sẽ có một khó khăn để vượt qua, liên

quan đến một nguyên tắc phù hợp cho việc phân chia. Các nguyên tắc khác nhau sẽ được

xây dựng bởi các bang khác nhau để phục vụ cho mục đích này, và nếu chúng ảnh hưởng

đến những lợi ích trái ngược nhau của các bên, chúng có thể không dễ làm tổn hại đến

một sự điều chỉnh có tính ôn hòa.

Trên những cánh đồng của miền Tây, chúng ta nhận thấy một chiến trường của những sự

đòi hỏi đầy sự thù địch, không hề có bất cứ một trọng tài nào hay quan tòa chung nào để

đứng giữa các bên đang tranh giành nhau. Suy luận từ quá khứ cho đến tương lai, chúng

ta sẽ có một nền tảng tốt để hiểu rõ, rằng đôi khi một thanh kiếm sẽ được dùng đến với

vai trò của một quan tòa đối với những khác biệt. Những tình huống của cuộc tranh cãi

giữa bang Connecticut và Pennsylvania, liên quan đến vấn đề đất đai ở Wyoming, khuyên

chúng ta đừng có lạc quan trong việc mong chờ một thỏa hiệp dễ dàng cho những ý kiến

khác biệt kiểu như thế. Các điều khoản của liên bang bắt buộc các bên đệ trình những vấn

XLII

Page 43: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đề lên tòa án liêng bang. Bản đệ trình được đưa ra, và tòa án quyết định ủng hộ bang

Pennsylvania. Nhưng Connecticut cho thấy những dấu hiệu mạnh mẽ về sự không hài

lòng đối với phán quyết đó, họ cũng không tỏ ra hoàn toàn chấp nhận điều đó, cho đến

khi, bằng đàm phán và sự khôn khéo, một cái gì đó như kiểu một sự tương đương đã

được tìm ra cho sự mất mát mà họ vẫn cho là bản thân họ đã duy trì. Ở đây không hề có ý

định đưa ra sự chỉ trích nhẹ nhàng đối với cách chỉ đạo của bang đó cả. Bang Connecticut

chắc chắn rằng họ bị tổn thương bởi phán quyết, và các bang, cũng như những cá nhân,

đồng ý một cách rất miễn cưỡng đối với những phán quyết không có lợi cho họ.

Những người có cơ hội xem xét những văn kiện có liên quan đến cuộc tranh cãi giữa

bang này và hạt Vermont, có thể xác nhận sự chống đối mà chúng tôi đã trải qua, từ

những bang không quan tâm cũng như từ những bang quan tâm đến các yêu sách, và có

thể chứng thực sự nguy hại mà nền hòa bình của liên bang có thể bị đẩy vào, bang này đã

cố gắng để khẳng định quyền của họ bằng vũ lực. Hai động cơ nghiêng về ý kiến đối lập

đó: thứ nhất là sự ghen tị được ấp ủ đối với sức mạnh tương lai của chúng ta, và thứ hai là

mối quan tâm của những cá nhân nào đó đối với thế lực của các bang láng giềng, những

bang đã được cấp đất đai bởi chính quyền thực sự của hạt đó. Thậm chí những bang đã

đưa ra những yêu sách trước, trái ngược với chúng ta, dường như quan tâm hơn đến chia

cắt bang này hơn là việc tạo lập những kỳ vọng của riêng họ. Đây là các bang New

Hampshire, Massachusetts và Connecticut. New Jersey và Rhode Island, trong mọi

trường hợp, đã cho thấy một sự hăng hái nhiệt tình đối với sự độc lập của Vermont, và

Maryland, vẫn bị lo lắng bởi sự xuất hiện mối liên kết giữa Canada và bang đó, đã đi sâu

vào cùng những quan điểm. Những bang nhỏ này đã nhìn viễn cảnh về sự vĩ đại đang lớn

lên của chúng ta với một ánh mắt không thân thiện. Nhìn qua những văn kiện này chúng

ta có thể lần ra một số nguyên nhân có thể lôi kéo lẫn nhau giữa các bang, nếu đó là số

phận không may mắn của họ để trở nên bị chia rẽ.

Sự cạnh tranh về thương mại sẽ là một mảnh đất màu mỡ của sự bất đồng. Các bang có

hoàn cảnh ít thuận lợi sẽ khát khao thoát khỏi những bất lợi về địa lý, và chia sẻ những

thuận lợi của những láng giềng may mắn hơn. Mỗi bang, hoặc những liên minh riêng rẽ,

XLIII

Page 44: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

sẽ theo đuổi một hệ thống chính sách thương mại riêng biệt cho bản thân nó. Điều này sẽ

gây ra sự tương phản, sự thiên vị và sự loại trừ mà sẽ gây ra sự bất mãn. Những tập quán

buôn bán, dựa trên quyền bình đẳng, mà chúng ta đã quen từ những ngày đầu lập quốc, sẽ

đem đến tình trạng nguy khốn cho những nguyên nhân của sự bất mãn hơn là chúng sẽ có

sự độc lập trong hoàn cảnh này. CHÚNG TA NÊN SẴN SÀNG ĐỂ GỌI TÊN NHỮNG

TỔN THƯƠNG THẬT RA LÀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG CHÍNH ĐÁNG CỦA NHỮNG

QUYỀN ĐỘC LẬP CÓ THAM KHẢO ĐẾN QUYỀN LỢI RIÊNG BIỆT. Tinh thần của

hoạt động kinh doanh mà tiêu biểu cho nền thương mại của nước Mỹ đã không để lại một

cơ hội nào cho việc thể hiện bản thân nó không được cải thiện. Không thể nào xảy ra

chuyện cái tinh thần không bị kiểm soát này sẽ tôn trọng nhiều đến những quy định

thương mại mà các bang cụ thể có thể nỗ lực để siết chặt những lợi ích riêng biệt đối với

dân chúng của họ. Sự vi phạm của những quy định này, một mặt, là những nỗ lực để ngăn

chặn và đẩy lùi chúng, mặt khác, dẫn tới những sự vi phạm trắng trợn một cách tự nhiên,

và những điều này sẽ dẫn tới sự trả đũa và cả những cuộc chiến tranh.

Những cơ hội mà một số bang đáp lại cho những chư hầu khác của nó bằng những sự

điều chỉnh thương mại sẽ được đưa ngay cho những bang chư hầu. Mối quan hệ của New

York, Connecticut và New Jersey sẽ là một ví dụ cho việc này. New York, xuất phát từ

những sự cần thiết của ngân khố, phải đặt ra những loại thuế cho các mặt hàng nhập khẩu

của nó. Phần lớn những loại thuế này phải trả bởi dân cư của hai bang khác trong khả

năng của những người tiêu dùng của những thứ chúng ta nhập khẩu. New York sẽ không

sẵn sàng mà cũng không thể bỏ lợi thế này. Nhân dân của bang sẽ không ưng thuận một

loại thuế mà họ phải trả đáng lẽ ra phải đánh lên cư dân của những bang láng giềng; và

cũng không khả thi, nếu không có trở ngại này, để phân biệt những khách hàng trong

những thị trường của riêng chúng ta. Liệu Connecticut và New Jersey có chịu bị đánh

thuế bởi New York cho lợi ích riêng của nó một cách lâu dài không? Chúng ta có nên

chấp nhận một cách lâu dài để duy trì trong im lặng và không bị làm phiền sự đạt được

của một thủ phủ, từ sự chiếm hữu mà ở đó chúng ta đã lấy được một lợi thế quá ghê tởm

từ những láng giềng của chúng ta, và theo ý kiến họ, là áp bức quá đáng? Chúng ta có nên

duy trì nó chống lại gánh nặng hiện tại của Connecticut về mặt này, và áp lực có tính chất

XLIV

Page 45: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

hợp tác của New Jersey về mặt khác không? Đây là những câu hỏi mà sự táo bạo sẽ trả

lời “được”.

Khoản nợ chung của liên bang sẽ là một nguyên nhân nữa cho sự xung đột giữa các bang

riêng rẽ hay các liên minh. Sự phân chia, trong ví dụ thứ nhất, và sự thanh toán không

ngừng tăng lên sau đó, sẽ tương tự như dẫn đến sự bực tức và sự thù địch. Làm thế nào để

có thể đồng ý một nguyên tắc phân chia thỏa đáng cho tất cả các bên? Chắc chắn là

không có cái nào được đưa ra mà hoàn toàn tránh được những chống đối thực sự. Thông

thường, việc này sẽ bị phóng đại bởi lợi ích trái ngược của các bên. Thậm chí còn có

những cách nhìn không giống nhau giữa các bang đối với nguyên tắc chung của việc

thanh toán món nợ chung này. Một vài trong số họ, hoặc là ít bị ấn tượng đối với tầm

quan trọng của tín dụng nhà nước hơn hoặc là vì dân cư của họ có ít lợi ích trước mắt,

nếu có, cảm nhận một sự thờ ơ, nếu không phải là sự ác cảm, đối với việc thanh toán nợ

nần trong nước với bất cứ lãi suất nào. Những điều này bị khuynh hướng thổi phồng

những khó khăn của sự phân bổ. Đối với những bang khác, nhiều nơi mà cư dân của nó là

chủ nợ đối với quần chúng ngoại trừ sự cân bằng của bang đối với tổng số nợ nần của

quốc gia, sẽ vất vả đối với một dự liệu công bằng và hiệu quả nào đó. Những sự trì hoãn

trước đây sẽ kích thích sự oán giận sau này. Trong khi chờ đợi, việc dàn xếp một nguyên

tắc sẽ bị hoãn lại bởi những khác biệt thật sự về quan điểm và những chậm trễ giả tạo.

Những cư dân của các bang có liên quan sẽ phản đối ầm ĩ, các thế lực ngoại bang sẽ dẫn

chứng cho sự hài lòng đối với những nhu cầu nhất thời của họ, và nền hòa bình của liên

bang sẽ bị đặt vào tình trạng nguy hiểm của sự xâm lăng từ bên ngoài và sự đấu đá từ bên

trong.

Giả sử những khó khăn của việc đồng thuận một nguyên tắc đã được vượt qua, và sự

phân chia đã được thực hiện. Vẫn còn một khả năng lớn để giả sử rằng nguyên tắc đã

được chấp thuận, trong lúc thử nghiệm, sẽ được thấy là chỉ phục vụ một số bang hơn là

các bang khác. Những bang bị thiệt hại bởi nguyên tắc đó tự nhiên sẽ tìm ra một giải

pháp làm nhẹ đi gánh nặng. Các bang khác sẽ đương nhiên không thích sự xét lại, cái mà

có khả năng chấm dứt một chu kỳ tăng của những gánh nặng riêng của họ. Sự từ chối của

XLV

Page 46: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

họ sẽ là một lý do rất khéo đối với những bang lên tiếng phàn nàn để ngăn cản những

đóng góp của họ, không để bị ghì chặt bởi sự tham lam, và sự từ chối của những bang

này đối với những cam kết của họ sẽ là nền tảng của cho những cuộc thảo luận và tranh

cãi quyết liệt. Thậm chí nếu nguyên tắc được chấp nhận, sự bình đẳng của nguyên tắc nên

được kiểm chứng bằng thực tế, những món nợ quá hạn trong việc thanh toán ở một số

bang sẽ vẫn xảy ra như một kết quả của tính đa dạng của các nguyên nhân khác – sự thiếu

sót thực sự của các nguồn lực; sự quản lý tồi về vốn liếng của họ; sự rối loạn bất ngờ

trong cách quản lý của chính phủ; và, bổ sung thêm là sự miễn cưỡng đối với ai mà nhiều

khi cho đi tiền bạc với mục đích vượt qua những tình trạng cấp bách đã tạo ra chúng, và

cản trở nguồn cung cấp của những mong muốn nhất thời. Những món nợ quá hạn, từ bất

kể nguyên nhân nào, sẽ dẫn đến những lời phàn nàn, tố cáo và đổ lỗi cho nhau. Tuy

nhiên, không có gì gây phiền hà đến sự yên bình của các quốc gia bằng việc bị gắn với

những đóng góp chung cho bất cứ mục tiêu chung nào mà không mang lại lợi ích công

bằng và phù hợp. Có một lời nhận xét, được lặp đi lặp lại, rằng chẳng có ai khác nhau về

việc sẵn sàng trả tiền cả.

Các điều luật về việc vi phạm những thỏa thuận cá nhân, khi chúng chẳng khác gì sự xâm

hại về quyền của những bang mà cư dân bị tổn thương bởi chính các điều luật, có thể

được coi như một nguồn gốc khác của sự thù địch. Chúng ta không được quyền nghĩ rằng

một tinh thần tự do hơn hoặc công bằng hơn sẽ điều khiển pháp luật của các bang riêng lẻ

trong tương lai, nếu không bị kiềm chế bởi bất cứ sự kiểm tra bổ sung nào, hơn là chúng

ta thấy quá nhiều ví dụ ruồng bỏ một số điều luật của họ cho đến nay. Chúng ta đã thấy

khuynh hướng trả đũa bị kích động ở Connecticut là hậu quả của tội ác mà cơ quan lập

pháp của Rhode Island phạm phải, và chúng ta suy luận một cách hợp lý rằng, trong

những trường hợp tương tự như vậy, dưới các hình thức khác nhau, một cuộc chiến,

không phải TRÊN GIẤY DA, mà là bằng gươm, sẽ trừng phạt những sự vi phạm tồi tệ về

những chuẩn mực đạo đức và luật pháp xã hội.

Khả năng của những liên minh không hợp nhau giữa các bang khác nhau hoặc các liên

minh và các quốc gia nước ngoài khác nhau, và những tác động của tình trạng này lên

XLVI

Page 47: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

nền hòa bình của tất cả các bên, đã được trình bày đầy đủ trong một số bức thư trước đây.

Từ quan điểm mà họ đã đưa ra về chủ đề này, một kết luận được rút ra rằng, nước Mỹ,

nếu hoàn toàn không được liên kết lại, hoặc chỉ bằng mối quan hệ mờ nhạt của một liên

minh đơn điệu, tấn công hay phòng ngự, bằng cách hoạt động của những liên minh đầy

mâu thuẫn như thế, sẽ dần dần bị làm cho rối tung lên trong những mê cung tai hại của

những hoạt động chính trị và chiến tranh theo kiểu Châu âu, và bằng những cuộc đấu đá

mang tính hủy diệt của các bên đã bị chia cắt ra, sẽ có khả năng trở thành con mồi của

những thủ đoạn và mưu đồ của các thế lực đóng vai trò như những kẻ thù của tất cả các

bên. Chia cắt và kiềm chế - là phương châm của mọi quốc gia mà hoặc là họ ghét chúng

ta hoặc là sợ chúng ta.

PUBLIUS

XLVII

Page 48: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 8

Những hậu quả của sự thù địch giữa các tiểu bang

Gởi cư dân Tiểu Bang Nữu Ước:

Một chân lý đã được chứng minh cho rằng một số tiểu bang, trong trường hợp bị chia rẽ,

hoặc mối liên kết giữa họ đã được hình thành không dính líu đến sự sụp đổ của liên bang

chung, sẽ khó tránh khỏi những thăng trầm của hòa bình và chiến tranh, của tình hữu nghị

và sự thù hằn lẫn nhau mà đã rơi vào nhiều quốc gia láng giềng không được đoàn kết

dưới một chính quyền, chúng ta hãy cùng bắt đầu giải quyết một chi tiết ngắn gọn của

một số hậu quả sẽ hiện diện trong hoàn cảnh như vậy.

Chiến tranh giữa các tiểu bang, trong giai đoạn đầu của sự tồn tại riêng rẽ của chúng, sẽ

đồng hành cùng với những hiểm họa lớn hơn nhiều so với khi nó ở trong những quốc gia

mà ở đó lực lượng quân đội chính quy đã tồn tại lâu dài. Những quân đội có kỷ luật luôn

luôn có mặt trên lục địa Châu âu, mặc dù chúng đã sinh ra những cái làm tổn hại đến

quyền tự do và kinh tế, tuy nhiên, chúng đem lại thuận lợi đáng kể cho việc đáp trả những

cuộc xâm lược bất ngờ không thể thực hiện được, và cho việc ngăn chặn sự tàn phá

nhanh chóng thường đánh dấu tiến trình của cuộc chiến trước khi có sự hiện diện của

chúng. Nghệ thuật xây dựng công sự cũng góp phần vào mục đích tương tự. Các quốc gia

Châu âu được bao quanh bởi một loạt những nơi đã được củng cố để ngăn chặn sự xâm

lược lẫn nhau. Các chiến dịch phải từ bỏ hai hoặc ba đơn vị đồn trú tiền tiêu, để đạt được

việc xâm nhập vào bên trong lãnh thổ của kẻ thù. Những sự cản bước tương tự xảy ra ở

mọi bước tiến quân, để làm cạn kiệt sức mạnh và trì hoãn tiến trình của kẻ xâm lược.

Trước kia, một đội quân xâm lược sẽ lọt được vào trung tâm của một nước láng giềng

gần như ngay khi nó nhận được tin tức tình báo phục vụ cho việc tiếp cận, nhưng giờ đây

một lực lượng tương đối nhỏ của một quân đội có kỷ luật, làm nhiệm vụ phòng thủ, với

XLVIII

Page 49: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

sự hỗ trợ của những vị trí canh gác, là có thể cản bước, và cuối cùng là làm thất bại

những cuộc tấn công một cách rất đáng kể. Lịch sử chiến tranh, ở nơi chiếm một phần tư

Trái đất đó, không còn là lịch sử của các dân tộc bị đánh bại và các đế chế bị lật đổ nữa,

mà là của những thành phố bị chiếm đóng và được chiếm lại, của những trận chiến mà

chẳng giải quyết được vấn đề gì, của những sự rút lui mà có lợi ích nhiều hơn những

chiến thắng, của nhiều nỗ lực nhưng thu được chẳng bao nhiêu.

Ở đất nước này, tình cảnh sẽ hoàn toàn bị đảo ngược. Sự đố kỵ của lực lượng quân đội sẽ

kéo lùi họ càng lâu càng tốt. Việc thiếu hệ thống công sự, để cho các đường biên giới mở

toang, sẽ tạo điều kiện cho sự xâm nhập. Chỉ với chút ít khó khăn, những bang đông dân

cư sẽ tràn sang những bang láng giềng ít dân hơn họ. Sự xâm lược sẽ dễ dàng được thực

hiện cũng như khó mà ngăn chặn được. Do đó, chiến tranh sẽ nổ ra lung tung và nhằm

mục đích cướp bóc. SỰ CƯỚP BÓC và sự tàn phá bao giờ cũng theo bước chân của

những đội quân ô hợp. Những tai họa của những cá nhân sẽ tạo nên những nhân vật chính

trong nhiều trường hợp mà sẽ tiêu biểu cho những thành tích chói lọi của quân đội chúng

ta.

Bức tranh này không phải bị tô vẽ quá mức; mặc dù, tôi thú thật rằng, nó đã chẳng còn gì.

Tính an toàn từ hiểm họa bên ngoài là người chỉ huy mạnh mẽ nhất của cách chỉ đạo

quốc gia. Thậm chí tình yêu cháy bỏng của sự tự do, sau một thời gian, sẽ nhường đường

cho tiếng gọi của nó. Sự tàn phá khủng khiếp đối với cuộc sống và tài sản vốn gắn liền

với chiến tranh, nỗ lực không nghỉ và sự sợ hãi kèm theo trong hoàn cảnh hiểm họa luôn

rình rập, sẽ bắt buộc các quốc gia phải gắn chặt với quyền tự do để đi đến sự yên bình và

an toàn cho những thể chế mà có xu hướng phá bỏ quyền công dân và quyền chính trị của

họ. Để an toàn hơn, rốt cuộc, họ trở nên sẵn sàng liều với việc ít tự do hơn.

Những thể chế được nói đến chủ yếu là NHỮNG QUÂN ĐỘI THƯỜNG TRỰC và

những lực lượng bổ sung của lực lượng quân đội. Quân đội thường trực, nó được nói như

vậy, không được chuẩn bị đầy đủ trong hiến pháp mới; và do đó suy ra là chúng có thể

tồn tại theo các điều khoản của hiến pháp đó. Tuy nhiên, sự hiện diện của chúng, từ chính

XLIX

Page 50: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

những điều khoản của lời tuyên bố, không hơn, thì còn phải bàn và không chắc chắn.

Những lực lượng quân đội thường trực, nó có thể được phản hồi, chắc hẳn phải xảy ra

như là hậu quả của sự tan rã của liên bang. Chiến tranh liên miên và sự sợ hãi thường

trực, cần đến trạng thái luôn luôn sẵn sàng, sẽ sinh ra quân đội. Các bang yếu hơn hoặc

các liên minh trước tiên sẽ trông cậy vào quân đội, để đặt bản thân họ vào một thế quân

bình với những người láng giềng có uy lực hơn. Họ sẽ cố gắng để bổ khuyết sự ít ỏi về

dân số và tài nguyên bằng một hệ thống quốc phòng hiệu quả và chính quy hơn, bằng một

quân đội có kỷ luật, và bằng hệ thống công sự. Trong thời gian đó, họ buộc phải củng cố

quyền hành pháp của chính phủ, trong đó hiến pháp của họ sẽ cần đến một định hướng

tiến tới nền quân chủ. Đó là quy luật của chiến tranh để tăng thêm quyền hành pháp bằng

cách hi sinh quyền lập pháp.

Những thủ đoạn đã được nói đến sẽ mau chóng đặt liên bang hoặc các liên minh đã sử

dụng chúng vào lợi thế hơn so với những láng giềng của họ. Các bang nhỏ, hoặc những

bang có ít lợi thế tự nhiên, dưới sự điều hành của những chính phủ mạnh mẽ, và với sự hỗ

trợ của lực lượng quân đội có kỷ luật, thường chiến thắng các bang lớn, hoặc các bang có

nhiều thuận lợi tự nhiên hơn, nhưng lại thiếu những lợi thế này. Không phải niềm kiêu

hãnh mà cũng chẳng phải sự an toàn của các bang có thế lực hơn hoặc các liên minh buộc

họ chấp nhận sự ưu việt mất thể diện và bất định này một cách lâu dài. Họ sẽ nhanh

chóng phải sử dụng đến những tiềm lực giống như những thứ mà nó bị ảnh hưởng, để lấy

lại sự vượt trội đã bị đánh mất. Do đó, trong một thời gian ngắn, chúng ta nên thấy trong

mọi miền của đất nước này những cơ cấu giống nhau của chế độ chuyên quyền đã được

thiết lập, những cái đã là tai họa cho Cựu thế giới. Ít nhất, đây là diễn biến tự nhiên của

sự vật; và lý trí của chúng ta sẽ có khả năng đúng như là chúng bị điều chỉnh theo trình

độ này một cách tương xứng.

Đây không phải là những kết luận mơ hồ được rút ra từ những khuyết điểm được cho là

và có tính chất suy đoán trong hiến pháp, toàn bộ sức mạnh được trao vào tay một dân

tộc, hoặc những người đại diện và đại biểu của họ, mà chúng là những kết luận đáng tin

L

Page 51: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

cậy, được rút ra từ sự phát triển tự nhiên và thiết yếu của những vấn đề mang tính con

người.

Có lẽ, có người được hỏi, bằng cách phản đối ý kiến này, rằng tại sao quân đội thường

trực lại không nhảy ra khỏi những tranh chấp điên cuồng của nền Cộng hòa Hi Lạp cổ

đại? Những câu trả lời khác nhau, thỏa đáng như nhau, có thể được đưa ra cho câu hỏi

này. Những đức tính cần cù của con người ngày nay, miệt mài trong việc theo đuổi lợi

ích, và nhiệt tình với sự cải thiện của nền nông nghiệp và thương mại, không còn phù hợp

với hoàn cảnh của một đất nước toàn lính, là hoàn cảnh thực sự của nhân dân của những

nền cộng hòa đó. Của cải trong ngân khố quốc gia, được nhân lên rất nhanh chóng bởi

vàng, bạc và những thủ đoạn làm ăn, khoa học tài chính, là kết quả của thời kỳ hiện đại,

phù hợp với những tập quán của các nước, đã sản sinh ra một cuộc cách mạng toàn diện

về phương thức của chiến tranh, và trao lại một đội quân có kỷ luật, khác biệt với thể xác

của những cư dân, những người bạn không thể tách rời của sự thù địch thường xuyên.

Có sự khác nhau xa giữa lực lượng quân đội ở một đất nước ít khi bị bộc lộ bởi hoàn cảnh

của nó đối với những sự xâm lăng từ bên trong, và ở một nước mà thường bị nhòm ngó

và sợ hãi những sự xâm lăng này. Những người cầm quyền trước đây có thể có một lý do

hợp lý, thậm chí nếu họ thích, để duy trì một lực lượng quân đội hùng hậu cả về sau này.

Trường hợp thứ nhất, lực lượng quân đội này hiếm khi bị đưa vào những hoạt động của

việc phòng thủ nội địa, nhân dân không bị nguy hiểm bởi việc tách khỏi sự phụ thuộc vào

quân sự. Các điều luật không quen với những sự giảm nhẹ, ủng hộ tình trạng khẩn cấp về

mặt quân sự; nhà nước dân sự vẫn đầy sức mạnh, không bị sụp đổ mà cũng không bị chết

bởi những nguyên tắc hay những xu hướng của nước khác. Sự ít ỏi của quân đội trao lại

sức mạnh tự nhiên của cộng đồng một người chiến thắng, và những công dân, không

quen với việc tìm kiếm sự bảo vệ bởi sức mạnh quân sự, hoặc phải chịu sự đàn áp, không

thích mà cũng không sợ quân lính; họ nhìn chúng với tinh thần của sự phục tùng ghen

ghét như một điều không muốn nhưng phải chấp nhận, và sẵn sàng đứng lên để chống lại

thế lực mà họ tin rằng có thể được đưa ra làm thiệt hại quyền lợi của họ. Lực lượng quân

đội dưới những hoàn cảnh như thế có thể hỗ trợ đắc lực cho cơ quan hành chính địa

LI

Page 52: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

phương để ngăn chặn nạn bè phái, hoặc dân chúng tự phát, hoặc sự nổi dậy; nhưng nó sẽ

không có khả năng buộc sự xâm phạm chống lại những nỗ lực đoàn kết của những con

người vĩ đại của một dân tộc.

Ở một đất nước có tình thế khó khăn vừa được nói đến ở trên, điều trái ngược đã xảy ra.

Những mối đe dọa liên tục của sự hiểm nghèo buộc chính phủ luôn phải được chuẩn bị để

đẩy lùi nó; lực lượng quân đội của họ phải đủ lớn cho việc phòng thủ ngay lập tức. Sự

cần thiết liên tục đối với sự phục vụ của họ đã nâng vai trò của người lính, và làm giảm

địa vị của thường dân một cách tương ứng. Một chính quyền quân sự trở nên mạnh hơn

chính quyền dân sự. Cư dân của các vùng lãnh thổ, thường là chiến trường, không thể

tránh khỏi phải chịu đựng những sự xâm phạm thường xuyên đến quyền hạn của họ, làm

yếu đi ý thức của họ về những quyền đó; và nhân dân bị mua chuộc bằng địa vị để coi

quân lính không chỉ là những người bảo vệ họ, mà còn như bề trên của họ nữa. Việc

chuyển trạng thái từ khuynh hướng này sang việc coi họ như những ông chủ, cũng không

xa và cũng không khó; nhưng rất khó để thuyết phục một dân tộc với những ấn tượng như

vậy, để tạo ra một sự kháng cự rõ rệt và có hiệu quả đối với sự chiếm đoạt được hỗ trợ

bởi sức mạnh quân sự.

Vương quốc Anh đã rơi vào tình huống thứ nhất. Một đảo quốc, và một lực lượng hải

quân hùng mạnh, bảo vệ nó trong một cuộc đọ sức chống lại những khả năng có thể của

sự xâm lược của nước ngoài, không cần đến một lực lượng quân sự đông đảo ở bên trong

Vương quốc. Một lực lượng vừa đủ để chống lại một cuộc tấn công bất ngờ, cho đến khi

lực lượng dân quân có thời gian để tập hợp và có mặt, là tất cả những gì được cho là cần

thiết. Chính sách quốc gia chẳng có lý do để yêu cầu , mà cũng không phải chịu ý kiến

của công luận, một số lượng lớn quân lính cho lực lượng phòng thủ bên trong. Một thời

gian dài trước đây, không có nhiều chỗ cho sự hoạt động của những động cơ khác, được

liệt kê ra như là những hậu quả của cuộc chiến bên trong. Sự diễn đạt thích hợp kỳ lạ của

hoàn cảnh, ở trình độ cao, đã đóng góp cho việc giữ gìn sự tự do mà đất nước đó tận

hưởng cho đến nay, thay vì những sự mua chuộc và tham nhũng đang thịnh hành. Ngược

lại, nếu nước Anh nằm trên lục địa, và bị buộc, như là nó chắc hẳn sẽ bị, trong trường

LII

Page 53: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

hợp đó, thiết lập lực lượng quân sự tại chỗ được mở rộng giống như những nước lớn khác

ở Châu âu, nước Anh, cũng giống như họ, bằng nhiều khả năng, cho đến hôm nay, sẽ là

nạn nhân của quyền lực tuyệt đối thuộc về một người. Có thể, mặc dù không dễ, rằng

nhân dân của hòn đảo đó đã bị biến thành nô lệ bởi các thế lực khác; nhưng nó không bị

như thế bởi năng lực của một lực lượng quân đội không đáng kể luôn được duy trì bên

trong Vương quốc.

Nếu chúng ta đủ sáng suốt để giữ gìn liên minh, qua nhiều thế hệ, chúng ta có thể tận

hưởng lợi thế giống như vậy trong hoàn cảnh được bảo vệ trong tình trạng được cách ly.

Châu âu thì rất xa chúng ta. Những vùng đất thuộc địa của họ trong vùng lân cận của

chúng ta sẽ có khả năng tiếp tục rất mất cân đối về sức mạnh để có thể gây ra cho chúng

ta bất cứ sự phiền toái nguy hiểm nào. Ở điểm này, việc mở rộng lực lượng quân đội sẽ

không cần thiết cho nền an ninh của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta bị mất đoàn kết, và

những bang chủ chốt hoặc là vẫn bị chia rẽ, hoặc, cái dễ xảy ra nhất, là bị co cụm lại với

nhau trong hai hoặc ba liên minh, thì trong một thời gian ngắn, chúng ta sẽ ở trong tình

thế của những thế lực như ở Châu âu – sự tự do của chúng ta sẽ là nạn nhân của những

cách thức bảo vệ bản thân chúng ta chống lại tham vọng và sự đố kỵ của nhau.

Đây là một ý tưởng không hề hời hợt và viển vông, mà chắc chắn và có sức thuyết phục.

Nó xứng đáng là sự suy xét nghiêm túc và chín chắn nhất của bất cứ người nào khôn

ngoan và chân thật của bất cứ đảng phái nào. Nếu những con người như thế có sự ngập

ngừng nhất định, và suy ngẫm một cách bình thản về tầm quan trọng của ý tưởng thú vị

này; nếu họ nhìn vào và suy ngẫm tất cả những quan điểm của nó, và lần theo tất cả

những hậu quả của nó, họ sẽ không do dự từ bỏ những phản đối tầm thường đối với hiến

pháp, sự từ bỏ sẽ có thể xảy ra đặt dấu chấm hết cho liên minh. Những bóng ma vô hình

vụt qua trước những trí tưởng tượng hoảng loạn của một vài kẻ thù của nó sẽ nhanh

chóng nhường chỗ cho những hình thức có thật hơn của những nguy cơ, thực tế, chắc

chắn và ghê gớm.

PUBLIUS

LIII

Page 54: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên Bang Số 15

Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn

Khối Liên hiệp

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Trong các bài trước đây, tôi đã dốc sức đặt ra trước các bạn quốc dân, bằng những lý lẽ rõ

ràng, thuyết phục, sự quan trọng của một Liên Hiệp đối cho sự an toàn chính trị và hạnh

phúc. Tôi đã vạch ra cho các bạn diễn biến phức tạp của các mối hiểm họa sẽ vây quanh

các bạn nếu như các bạn để cho mối liên kết thiêng liêng kết nối người Mỹ với nhau bị

cắt đứt hoặc hủy diệt chỉ vì sự tham vọng, vì lòng tham lam, vì sự ganh tị, hay vì sự thiếu

trung thực. Trong bài kế tiếp tôi gửi đến các bạn, sự thật sẽ được diễn giải một cách rõ

ràng cùng với các bằng chứng và lý lẽ mà trước giờ chưa được để ý đến. Nếu đoạn đường

mà các bạn sẽ phải vượt qua có những nơi có vẻ tạo ra sự nhàm chán hay mệt mỏi, các

bạn hay nhớ rằng các bạn đang trong hành trình tìm kiếm thông tin làm cho một đề tài có

sức cuốn hút sự quan tâm của một dân tộc tự do, và lĩnh vực mà các bạn khảo sát khá bao

la, và những khó khăn của công việc tăng lên một cách vô ích vì các ma trận của những

lý luận sai lầm bủa vây tứ phía. Mục đích của tôi là loại bỏ những trở ngại cho sự tiến

triển của các bạn một cách ngắn nhất mà không phải cắt bỏ nội dung.

Trong quá trình theo đuổi kế hoạch tôi đã đặt ra cho sự thảo luận của đề tài, vấn đề kế

tiếp cần khảo sát là "sự khiếm khuyết của Liên Bang trong hiên tại trong việc bảo toàn

Liên Hiệp." Có lẽ câu hỏi được đặt ra là tại sao cần lý lẽ hay bằng chứng thuyết phục cho

một lập trường không có gì đáng tranh cãi hay nghi ngờ, lập trường mà sự hiểu biết và

tình cảm của các tầng lớp người dân là đồng thuận, và sự thực là người ủng hộ cũng

nhưng chống đối bản Hiến Pháp mới đều thừa nhận. Phải nhìn nhận một cách trung thực

là, bất kể những người này có khác biệt trong các khía cạnh khác, nhìn chung, họ có vẻ

LIV

Page 55: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

như đồng quan điểm trong cùng nhận thức là, ít nhất, có sự khiếm khuyết về bản chất

trong hệ thống chính quyền quốc gia chúng ta, và cần phải làm điều gì đó để cứu chúng ta

ra khỏi bờ vực của hỗn loạn. Những dữ kiện hổ trợ cho ý kiến trên không còn nằm trong

phạm vi suy đoán nữa. Chúng được phơi bày ra trước nhận thức của mọi người, và đôi

khi đi xa đến mức buộc những ai có chính sách sai lầm góp phần lớn trong việc nhanh

chóng đưa chúng ta đến thái cực này, một sự thừa nhận lưỡng lự về thực trạng của những

khiếm khuyết trong bản dự thảo của hệ thống chính quyền liên bang, mà đã được những

người bạn sáng suốt của Liên Hiệp vạch ra và lưu tâm từ lâu.

Chúng ta thực sự có thể nói là đã ở vào giai đoạn cuối của mối quốc nhục. Hầu như

không có gì có thể làm tổn thương niềm kiêu hãnh, hay chà đạp tư cách của một quốc gia

độc lập mà chúng ta chưa hề có. Có hiệp ước nào mà chúng ta được tôn trọng một cách

bình đẳng? Đây là các vấn đề thường xuyên bị phạm một cách trắng trợn. Liệu chúng ta

sẽ thiếu ngoại quốc và các công dân các món nợ được thòa thuận vào thời điểm nguy cấp

cho sự sinh tồn của hệ thống chính trị của chúng ta? Các món nợ này chưa có điều khoản

thỏa đáng để giải nợ. Liệu chúng ta vẫn còn có những lãnh thổ quý giá, và đồn lũy quan

trọng nằm trong sự kiểm soát của thế lực nước ngoài mà, bằng một vài điều khoảng trong

hiệp ước, đã bị mất từ lâu? Các lãnh thổ vẫn bị chiếm giữ một cách bất công đối với lợi

ích, và hơn nữa là quyền cơ bản của chúng ta. Liệu chúng ta có vị thế để phản ứng mạnh

mẽ hay đẩy lui sự xâm lấn? Chúng ta không có quân đội, không có ngân khố, không có

chính quyền. Liệu chúng ta có ở vị thế có thể phản đối trong danh dự? Những nghi ngờ

chính đáng của chúng ta đối với các hiệp ước này phải được giải quyết trước hết. Liệu

chúng ta có được đặc quyền tự nhiên hay do thỏa ước để tự do giao thông trên sông

Mississippi? Tây Ban Nha ngăn cản chúng ta sử dụng nó. Có phải tín dụng công là tài

nguyên quý giá nhất khi có mối hiểm nguy chung. Dường như chúng ta đã bỏ rơi nguyên

tắc đó vì vô vọng. Liệu thương mại có tầm quan trọng thế nào đối với sự giàu mạnh của

quốc gia? Thương mại của chúng ta đang ở điểm thấp nhất của thoái trào. Có phải sự nể

trọng của các thế lực ngoại quốc là sự bảo vệ chống lại ngoại xâm? Sự bạc nhược của

chính quyền chúng ta khiến họ không tôn trọng chúng ta. Các sứ quán của chúng ta ở

LV

Page 56: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

nước ngoài chỉ là chủ quyền giả tạo mặc những bộ đồ cải lương. Có phải bạo động hay sự

giảm giá trị của đất đai một cách không bình thường là biểu hiện của tình trạng khẩn cấp

của quốc gia? Giá trị đất cải thiện ở nhiều nơi trong nước quá thấp để có thể lý giải bằng

con số diện tích đất bỏ hoang trên thị trường, và chỉ có thể lý giải bằng sự thiếu tín nhiệm

của cá nhân lẫn công chúng, lan tràn rộng rãi trong mọi tầng lớp dân chúng đến một mức

đáng báo động, và trực tiếp có khuynh hướng làm giảm giá trị cái loại tài sản. Có phải tín

dụng cá nhân là bạn và là khách hàng của công nghiệp? Thứ hữu ích nhất đó có liên quan

đến vay và cho vay bị suy giảm đến phạm vi hẹp nhất, và điều nay vẫn xuất phát từ quan

niệm thiếu an toàn hơn là thiếu tiền. Để giảm thiểu những dãy tính của các yếu tố rời rạc,

không mấy lý thú và cũng không có hướng dẫn, mà thông thường phải có, những biểu

hiện nào của tình trạng đất nước hỗn loạn, nghèo đói và mất ảnh hưởng có thể giáng

xuống một cộng đồng được đặc biệt ưu đãi với nhiều thiên thời địa lợi như chúng ta, mà

lại không kết thành một phần trong chuỗi những rủi ro đen đủi cho dân chúng?

Đây là tình trạng bi quan mà chúng ta rơi vào, cũng do chính các nguyên tắc và trợ lý đó

giờ đây ngăn cản chúng ta thông qua bản dự thảo Hiến Pháp; và không những dẫn chúng

ta đến bờ vực của hiểm họa, mà còn quyết tâm đẩy chúng ta xuống vực thẩm đó. Và đây,

hỡi quốc dân đồng bào, các bạn được thôi thúc bởi mọi động lực phải tạo nên ảnh hưởng

và khai sáng cho mọi người, chúng ta hãy khẳng định lòng quyết tâm cho sự an toàn của

chúng ta, cho sự an bình của chúng ta, cho danh dự và tiếng tăm của chúng ta. Sau cùng

chúng ta hãy bẻ gãy lá bùa chết người mà từ lâu nay lôi cuốn chúng ta ra khỏi con đường

hạnh phúc và thịnh vượng.

Đúng như trước giờ vẫn được nhận thấy qua các bằng chứng không thể chối cãi, đã tạo ra

một quan điểm thống nhất cho rằng có khiếm khuyết về bản chất của hệ thống chính trị

quốc gia; nhưng lợi ích của sự nhìn nhận đó, về phần các thành phần trước nay vẫn bất

đồng với các phương thức liên bang, bị hủy bỏ bằng sự chống đối mạnh mẽ đối với một

giải pháp, trên những nguyên tắc duy nhất có thể mang lại một cơ hội thành công. Trong

khi họ công nhận rằng chính quyền Liên Bang đang cạn kiệt nguồn năng lượng, họ chống

LVI

Page 57: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

lại việc trang bị cho Liên Bang những quyền hành cần thiết để cung cấp năng lượng đó.

Dường như họ vẫn hướng tới các chống đối và bất đồng; ở sự gia tăng quyền lực của Liên

Bang, mà không giảm đi quyền lực Tiểu Bang; ở chủ quyền và hoàn toàn độc lập của các

thành viên trong Liên Bang. Nói một cách ngắn gọn là họ vẫn có vẻ ủng hộ một cách mù

quáng một thứ quái vật chính trị của hình thức "một quốc gia có chủ quyền trong một

quốc gia có chủ quyền." Điều này đã để lộ ra những khiếm khuyết cơ bản của Liên Bang

rất cần để cho thấy những thứ xấu xa chúng ta đang trải nghiệm không bắt nguồn từ

những sai lầm nhỏ hay chỉ một phần, mà từ những sai lầm căn bản trong cấu trúc của toàn

khối, không thể chắp vá mà phải thay đổi những nguyên tắc căn bản và cấu tạo chính của

vật liệu.

Điều tệ hại lớn nhất và cơ bản nhất trong cấu trúc của Liên Bang hiện tại là nguyên tắc

LẬP PHÁP cho CÁC TIỂU BANG hay CÁC CHÍNH QUYỀN, dưới dạng TỔ CHỨC

thống nhất hay TẬP HỢP CÁC QUYỀN LỰC, và như sự tách biệt đối kháng giữa các

CÁ NHÂN trong tập hợp với nhau. Mặc dù nguyên tắc này không chi phối tất cả các

quyền lực được giao cho Liên Hiệp, tuy nhiên nó khá phổ biến và điều khiển các các

quyền hạn có hiệu năng khác. Ngoại trừ luật bổ nhiệm, chính quyền Liên Bang có thẩm

quyền vô hạn trong việc đòi hỏi nhân lực và tiền bạc; nhưng họ cũng không có quyền làm

vậy vì các điều luật bảo vệ quyền công dân Mỹ. Hậu quả là mặc dù về lý thuyết, các nghị

quyết liên quan đến vấn đề đó là các đạo luật, có giá trị bắt buộc theo hiến định đối với

tất cả các thành viên của Liên Hiệp, nhưng trong thực tế, chúng chỉ là những gợi ý mà các

Tiểu Bang có thể làm theo hoặc gạt bỏ tùy ý.

Sự quái gở của bộ não con người, là sau tất cả những kinh nghiệm chúng ta có được từ

thể chế hiện tại, vẫn còn có người chống đối Hiến Pháp mới, chỉ vì nó khác hẳn với

nguyên tắc xào nấu lại những thứ cũ rích, mà tự nó hiển nhiên không phù hợp với ý

tưởng CHÍNH QUYỀN; một nguyên tắc, cách ngắn gọn là, nếu được thực thi, phải thay

thế bạo lực và chém giết đẫm máu bằng sự thuyết phục của lý lẽ và luật pháp.

LVII

Page 58: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Không có gì tầm thường hay không tưởng về khái niệm một liên minh giữa các quốc gia

độc lập cho cùng những mục tiêu xác định trước đã được nêu ra rõ ràng trong hiệp ước

điều hành các chi tiết về thời gian, vị trí, hoàn cảnh và số lượng; không để sót vấn đề gì

để phải tùy tiện xử lý trong tương lai; và lệ thuộc vào sự thành thật của các thành phần

tham gia để vận hành. Các hiệp ước như vậy tồn tại trong hầu hết các quốc gia tiến bộ,

phụ thuộc vào các biến chuyển của hòa bình và chiến tranh, được tuân thủ hay không

tuân thủ, chi phối bởi quyền lợi và sự nhiệt tình của các cường quốc tham gia thỏa ước.

Hồi đầu thế kỷ này, có một sự bùng nỗ lan rộng ở Châu Âu của các loại hiệp ước này, các

chính trị gia của thời kỳ này háo hức kỳ vọng vào các lợi ích không bao giờ có được từ

các hiệp ước này. Với quan điểm xây dựng sự cân bằng quyền lực và hòa bình ở Châu

Âu, tất cả mọi nỗ lực thương thuyết đã được vận dụng và liên minh ba thành phần, hay

bốn thành phần đã được thành lập; những liên minh như vậy hiếm khi được thành lập

trước khi chúng bị phá vỡ, để lại những bài học đau thương cho hậu thế, cho thấy không

thể nào tin tưởng vào các hiệp ước không có ràng buộc nào ngoài sự tín nhiệm, và các

hiệp ước đó chỉ chọn những quyền lợi hay quan tâm nhất thời thay vì suy tính đến các giá

trị hòa bình và công lý.

Nếu những Tiểu Bang nào đó trong quốc gia này được tách ra, đứng độc lập với nhau và

bỏ đi kế hoạch GIÁM SÁT CÂN NHẮC chung, thì toan tính đó thực sự độc địa, và sẽ

mang lại cho chúng ta tất cả những tai họa như đã xảy ra hàng loạt trước đây; nhưng ít

nhất nó cũng chứng tỏ khả năng nhất quán và hoàn toàn loại bỏ các quan điểm hướng về

một chính quyền liên bang, và đem lại cho chúng ta một liên minh thuần túy tấn công và

phòng thủ; và sẽ đặt chúng ta vào vị thế khi là các đồng minh, khi là các kẻ thù của nhau,

vì các thế lực ngoại quốc sẽ thúc đẩy sự tranh giành ganh ghét lẫn nhau giữa chúng ta.

Nhưng nếu chúng ta không chấp nhận để rơi vào tình trạng nguy hiểm này; nếu chúng ta

tiếp tục theo đuổi kiến trúc của chính quyền quốc gia, hay nói một cách khác, một quyền

lực giám sát tối cao, được đặt dưới sự chỉ đạo của một hội đồng cố vấn chung, chúng ta

phải quyết tâm gom lại các yếu tố được xem như là tạo ra sự khác biệt về bản chất của

LVIII

Page 59: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

một tập đoàn và chính quyền; chúng ta phải mở rộng quyền lực của Liên Bang đến những

người là công dân - mục đích chính đáng duy nhất của chính quyền.

Chính quyền có quyền tạo ra các sắc luật. Ý tường cơ bản của luật là nó phải kèm theo

một thứ quyền lực thực thi; hay nói cách khác, là một thứ hình phạt cho sự bất tuân thủ.

Nếu không có hình phạt gắn liền vào sự bất tuân thủ, các nghị quyết hay mệnh lệnh tưởng

chừng như là luật pháp sẽ thực sự không khác gì một lời khuyên, hay sự yêu cầu. Hình

phạt này, bất kể là gì, chỉ có thể áp đặt lên bằng hai cách: bằng các tòa án và các bộ

trưởng tư pháp, hay bằng quân đội; bằng ÁP LỰC của pháp lý, hay bằng ÁP LỰC của

quân đội. Thứ đầu tiên rõ ràng chỉ có thể áp dụng cho con người; thứ sau cùng, khi cần

thiết, phải được sử dụng chống lại các tổ chức chính trị, các cộng đồng, hay các Tiểu

Bang. Rõ ràng là không có phiên tòa nào mà sự tuân thủ luật pháp có thể thực hiện như là

giải pháp sau cùng. Các bản án có thể được giáng xuống cho kẻ phạm tội, nhưng những

bản án này chỉ có thể được thực thi bằng thanh gươm. Trong một tổ chức mà quyền hành

chung nằm trong tay của một tập hợp các cá nhân trong cộng đồng, hình thành tổ chứ đó,

mọi thứ vi phạm luật pháp phải liên quan đến tình trạng chiến tranh; và giải pháp quân sự

phải là phương tiện duy nhất duy trì trật tự dân sự. Một tình trạng như vậy thực sự không

đáng gọi là chính quyền, và cũng không có người khôn ngoan nào lại giao cuộc sống

hạnh phúc của mình cho chính quyền đó.

Trong quá khứ khi chúng ta đã được nghe nói rằng sẽ không có vấn đề các Tiểu Bang vi

phạm luật lệ của chính quyền Liên Bang; rằng tinh thần lợi ích chung sẽ điều khiển hành

động của các thành viên, và sẽ tạo ra một sự tuân thủ hoàn toàn đối với các điều kiện quy

định trong hiến pháp của Liên Bang. Ngày nay, cách nói như vậy sẽ có vẻ như khó tin

như phần lớn những gì chúng ta nghe từ trường phái đó, khi chúng ta có thêm nhiều bài

học từ các sự tiên tri khôn ngoan nhất chính là kinh nghiệm. Kinh nghiệm lúc nào cũng

phản bội sự ngờ nghệch về động lực thực sự của các hành vi của con người và mâu thuẫn

với những động cơ ban đầu trong việc xây dựng sức mạnh hành chính. Tại sao cần tạo ra

chính quyền? Bởi vì ước muốn của con người không tuân thủ lý lẽ và công lý nếu không

LIX

Page 60: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

có sự kiềm chế. Có bao giờ một nhóm người thì hành xử đúng đắn và vô tư hơn từng cá

nhân? Cách hành xử của con người đã chứng minh ngược lại với những lý do khá rõ

ràng. Sự tôn trọng tiếng tăm không có một động lực gây ảnh hưởng khi tiếng tăm xấu bị

chia ra giữa mọi người thay vì rơi vào một cá nhân. Tinh thần bè phái, chắc chắn xảy ra

trong các cuộc thảo luật tập thể, thường làm các cá nhân trong phe phái có hành động

thiếu tư cách và thái quá mà nếu là cá nhân đơn lẽ họ sẽ thấy xấu hổ.

Hơn nữa, trong bản chất của chủ quyền quốc gia, một sự thiếu kiên nhẫn trong kiểm soát,

qua việc loại bỏ những ai được trao quyền sử dụng nó, có cái nhìn hằn học với các nỗ lực

bên ngoài nhằm hạn chế hay điều khiển những hoạt động đó. Từ tin thần này, nảy sinh

vấn đề là mọi tổ chức chính trị được thành lập dựa trên nguyên tắc tập hợp các chủ quyền

nhỏ hơn dưới một lợi ích chung, một khuynh hướng kỳ dị sẽ phát sinh từ các vệ tinh con

này, bằng các hoạt động sẽ tạo ra các nổ lực không ngừng để thoát khỏi mục tiêu chung.

Khuynh hướng này không khó kiểm chứng. Bởi vì chúng có cùng nguồn gốc từ lòng ham

muốn quyền lực. Sự kiểm soát hay thu hẹp quyền lực hầu như luôn luôn là kẻ thù của

quyền lực bị kiểm soát hay hạn chế. Cái lý lẽ đơn giản này dạy chúng ta không có lý do

gì để trông mong rằng những người được giao phó các việc hành chính của các tiểu bang

thành viên trong một liên bang lúc nào cũng sẽ sẵn sàng, với thái độ vui vẽ, không thành

kiến đối với quyền lợi của công chúng, để thực thi các nghị quyết và sắc lệnh trong phạm

vi quyền hạn. Trái lại, mọi thứ kết quả đều phụ thuộc vào bản chất của con người.

Cho nên, nếu những quyền hạn của Liên Bang không được thi hành nếu không có sự can

thiệp của các chính quyền tiểu bang, thì các quyền hạn đó không có mấy triển vọng được

thực hiện. Lãnh đạo của các tiểu bang, dù có quyền hiến định để thực thi hay không, đều

phải tự họ phán đoán xem những quyền hạn đó có phù hợp hay không. Họ sẽ lượng định

sự phù hợp của các điều khoản đề nghị hoặc bắt buộc đối với quyền lợi hay mục tiêu của

họ; thuận lợi hay bất lợi về tiền bạc sẽ dẫn đến việc có thông qua hay không. Tất cả sẽ

được thực hiện; và trên tinh thần quan tâm, và nghi vấn khảo sát vấn đề, mà không có sự

hiểu biết về tình huống của quốc gia, và nguyên nhân của tiểu bang, là yếu tố cơ bản để

LX

Page 61: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

có phán quyết đúng, và với khuynh hướng thiên vị các đối tượng mang tính địa phương,

dẫn đến quyết định lúc nào cũng sai lệch. Quá trình đó được lập lại trong mỗi thành viên

của tổ chức; và kế hoạch thực hiện, theo khuôn khổ được vạch ra bởi các cố vấn sẽ luôn

thay đổi theo những ý kiến thiếu thông tin và đầy thành kiến của mọi thành phần. Những

ai từng tham gia các quá trình thảo luận của các nghị trường nổi tiếng; từng chứng kiến

nó khó khăn như thế nào, khi không có áp lực từ bên ngoài của các tình huống, để đem

chúng lại với nhau dưới các nghị quyết đồng nhất về những điểm quan trọng, sẽ dễ dàng

hiểu không thể nào đem các vấn đề vào trong quá nhiều nghị trường như vậy, để thảo

luận từ cách xa nhau, tại khác thời điểm và dưới các ấn tượng khác nhau, cùng ước muốn

hợp tác trong cùng quan điểm và mục tiêu.

Trong trường hợp của chúng ta, sự đồng thuận của cả mười ba ý chí chủ quyền riêng biệt

là điều kiện phải có, trong Liên Bang, để có thể hoàn toàn thi hành các điều luật từ Liên

Hiệp. Nó xảy ra như thể đã được tiên đoán trước. Các điều luật từ Liên Hiệp chưa được

thực thi; sự chậm trễ của các Tiểu Bang đã từng bước lên đến cao điểm, có lúc đến mức

ngăn trở các hoạt động của chính quyền liên bang đến mức dừng lại hoàn toàn. Quốc hội

lúc này hiếm khi nắm giữ phương tiện theo kịp với các hình thức hành chính, đến khi các

Tiểu Bang có thể có thời gian để đồng ý về một hình thức hoàn thiện hơn thay thế cho

chính quyền liên bang khiếm khuyết trong hiện tại. Mọi sự không đi đến điểm đỉnh của

tuyệt vọng này cùng lúc. Các nguyên nhân đã được nêu ra lúc đầu chỉ được hình thành

không đồng đều và dưới mức độ tuân thủ các điều kiện của Liên Hiệp không cân đối. Các

tiểu bang có nhiều khuyết điểm được đưa ra làm ví dụ và cuốn hút sự quan tâm của các

tiểu bang tuân thủ hay ít chậm trễ nhất. Tại sao chúng ta phải làm phần lớn công việc so

với những nơi cùng tham gia vào cùng hành trình chính trị này? Tại sao chúng ta chấp

nhận lãnh phần công việc chung nhiều hơn? Đây là những gợi ý mà tính ích kỷ của con

người không thể nào chấp nhận được, và ngay cả những người chờ thời, hướng vào

những kết quả trong tương lai, không thể không phản đối. Mỗi tiểu bang, nghe theo tiếng

nói thuyết phục của quyền lợi trước mắt hay tiện lợi, đã liên tiếp rút lui sự ủng hộ, cho

LXI

Page 62: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đến khi hệ thống non yếu dường như sắp ngã xuống đầu chúng ta và nghiền nát chúng ta

dưới các mảnh vụng của nó.

PUBLIUS

LXII

Page 63: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 16

Tiếp tục đề tài (Sự thiếu sót của Liên bang hiện tại trong việc bảo toàn

Khối Liên hiệp)

Gửi cư dân Tiểu bang New York:

Khuynh hướng của nguyên tắc lập pháp của các Tiểu Bang, hay các cộng đồng, trong khả

năng chính trị của chúng, như đã được biểu hiện qua các thử nghiệm chúng ta đã làm,

đồng thời được chứng minh qua các sự kiện đã xẩy ra với tất cả các chính quyền dưới

hình thức liên bang, mà chúng ta được biết, cũng phổ biến như các chính thể này. Các

khẳng định của dữ kiện này đáng để phân tích cặn kẽ. Ở đây, tôi chỉ có thể đóng vai trò

quan sát, có thể thấy rằng trong các liên bang thời xưa, qua các chứng cớ lịch sử, liên

bang Lycian và Achaean dường như không bị hạn chế bở nguyên tắc sai lầm đó, và vì thế

các liên bang đó xứng đáng được sự đón nhận, và khen ngợi của các tác giả chính trị.

Nguyên tắc ngoại lệ này có thể, vừa đúng vừa nổi bật, được xem như là cha đẻ của sự vô

chính phủ: Có thể thấy các chậm trễ của các tiểu bang thành viên trong Liên Hiệp là sản

phẩm tự nhiên và cần thiết của nguyên tắc này; và khi nào chúng xảy ra, giải pháp duy

nhất trong khuôn khổ hiến pháp là vũ lực, và hậu quả lập tức là nội chiến.

Câu hỏi đặt ra là bộ máy chính quyền trở nên đáng ghét đến mức nào, trong sự áp đặt lên

chúng ta, để còn có thể chịu tránh nhiệm của nó. Nếu không có một quân đội hùng hậu

luôn thường trực theo lệnh của chính quyền quốc gia thì không thể nào triển khai quân

đội được, hoặc khi triển khai, nó sẽ đồng nghĩa với một cuộc chiến tranh giữa các thành

phần của Liên Bang liên quan đến các vi phạm trong liên minh, trong đó những nhóm

mạnh nhất sẽ thắng cho dù nó gồm các thành phần ủng hộ hay chống quyền lực của chính

quyền liên bang. Hiếm khi sự chậm trễ cần được sửa đổi chỉ hạn chế trong một thành

LXIII

Page 64: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

viên, và nếu có nhiều thành viên sao lãng nhiệm vụ, các thành viên trong cùng tình huống

sẽ có khuynh hướng liên kết để bảo vệ lẫn nhau. Độc lập với động lực đồng cảm, nếu một

tiểu bang lớn và có ảnh hưởng, đồng thời là một thành viên hiếu chiến, thường sẽ có đủ

trọng lực để lôi kéo các thành viên khác ủng hộ cho mục tiêu của nó. Các lý lẽ ngụy biện

về mối nguy đối với các tự do căn bản có thể dễ dàng được nhào nặn ra; các biện cớ

tưởng như có thể tin được cho sự khiếm khuyết của thành viên có thể, không mấy khó

khăn, được tạo ra để đánh lạc hướng, châm ngòi phản ứng thái quá, giành cảm tình ngay

cả của các Tiểu Bang không vi phạm hay lơ là nhiệm vụ. Điều này càng dễ xảy ra, vì

trong các chậm trễ của các thành viên lớn có thể phải mất một thời gian để thoát ra khỏi

những tính toán đầy tham vọng của các nhà lãnh đạo của họ, với quan niệm loại bỏ các

kiểm soát từ bên ngoài nhằm làm tăng ảnh hưởng cá nhân họ; càng có ảnh hưởng nhiều

đến các tiểu bang kế cận qua các nhà lãnh đạo của các tiểu bang này. Nếu không thể tìm

thấy đồng minh trong nước, sẽ nảy sinh vấn đề cầu viện nước ngoài, những kẻ có khuynh

hướng khuyến khích chia rẽ trong Liên Bang mà một liên minh chặt chẽ là điều họ lo sợ.

Khi lưỡi gươm đã tuốt ra, tính bồng bột của con người sẽ không có giới hạn trung dung.

Sự kiêu hãnh bị tổn thương, sự oán hận bị khơi dậy, sẽ khiến các Tiểu Bang bằng mọi giá

chống lại quân đội Liên Hiệp để tránh sự đầu hàng nhục nhã. Cuộc chiến tranh đầu tiên

dưới hình thức này sẽ làm tan rã Liên Hiệp.

Đây có thể được xem như sự giãy chết của Liên Bang. Cái chết tự nhiên hơn có lẽ là thứ

chúng ta đang trãi qua, nếu hệ thống chính quyền liên bang không được nhanh chóng sửa

đổi dưới một hình thức tiến bộ hơn. Xét theo sự xuất chúng của quốc gia này, không thể

nào, có chuyện các Tiểu Bang tuân thủ nguyên tắc lại thường có khuynh hướng ủng hộ

quyền lực Liên Hiệp bằng cách gây chiến với các Tiểu Bang không tuân thủ. Các Tiểu

Bang tuân thủ sẽ luôn sẵn sàng theo đuổi một đường lối ôn hòa để trở nên gần gũi hơn

với các tiểu bang chậm trễ bằng cách làm theo gương các tiểu bang này. Và sai lầm của

tất cả các tiểu bang thành viên sẽ là an toàn cho tất cả. Kinh nghiệm trong quá khứ của

chúng ta đã phơi bày hoạt động trên tinh thần này một cách trọn vẹn. Thực sự, sẽ có khó

khăn không thể vượt qua liên quan đến vấn đề thời điểm thích hợp để sử dụng vũ lực.

LXIV

Page 65: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Trong điều luật gây quỹ, cũng chính là nguyên nhân thường nhất dẫn đến việc chậm trễ,

không thể nào khẳng định nó xuất phát từ sự không quyết đoán hay sự bất tài. Sự giả vờ

bất tài cũng luôn xảy ra. Và trường hợp phải rất tệ hại qua đó sự sai lầm có thể được phát

hiện một cách chắc chắn để biện minh cho hành động vũ lực. Có thể dễ dàng thấy vấn đề

này thôi, dù chỉ xảy ra theo cách đó, cũng tạo ra một sân chơi cho cho các quan điểm phe

nhóm, cho sự thiên vị và áp bức, trong đa số tình cờ chiếm ưu thế trong hội đồng quốc

gia.

Dường như không mấy khó khăn để chứng minh các Tiểu Bang muốn có một Hiến Pháp

hoạt động được nhờ phương tiện của một quân đội hùng hậu sẵn sàng ra trận để thực thi

những yêu cầu bình thường hay sắc lệnh của chính quyền. Và vậy mà đây là giải pháp

thay thế đơn giản được đề ra bởi những người muốn hạn chế quyền lực hoạt động của

chính quyền Liên Bang lên các cá nhân. Một hiến pháp như vậy, nếu có chút nào khả thi,

sẽ ngay lập tức biến thành một chế độ quân phiệt; tuy nhiên nó hoàn toàn không thực

tiễn. Các nguồn tài nguyên của Liên Hiệp sẽ không đủ để trang bị cho một quân đội đủ

lớn để kiểm soát một Tiểu Bang lớn; cũng như không có phương tiện để thành lập một

quân đội như vậy ngay từ đầu. Ai cho rằng dân cư đông đúc và sức mạnh của vài trong số

các Tiểu Bang trong thời điểm hiện tại, và hướng đến tương lai của các Tiểu Bang này,

ngay cả trong khoảng thời gian nữa thế kỷ, sẽ ngay lập tức gạt qua hiến pháp nào nhằm

hạn chế hoạt động của họ bằng luật pháp áp dụng trên vai trò chung của các tiểu bang, và

được sử dụng bằng áp lực trong cùng những vai trò đó vì cho rằng nó không có ích lợi,

hay viễn vong. Một dự án theo cách này thì hơi ít màu sắc cổ tích một chút so với tinh

thần chinh phục quái vật của các anh hùng, và thần nhân trong các huyền thoại cổ xưa.

Ngay cả các liên bang bao gồm các thành viên nhỏ hơn nhiều quận hạt của chúng ta,

nguyên tắc lập pháp cho các Tiểu Bang có chủ quyền, được hậu thuẫn bởi áp lực quân

đội, chưa bao giờ tỏ ra có hiệu quả. Hiếm khi nó được sử dụng, ngoại trừ cho các thành

viên yếu hơn; và hầu hết các trường hợp các nổ lực dùng áp lực trên các thành viên cứng

LXV

Page 66: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đầu, không tuân thủ là những tín hiệu của các cuộc chiến tranh đẫm máu khi mà một nữa

liên bang đối đầu với phân nửa còn lại.

Kết quả của những quan sát trên đối với một bộ óc sáng suốt rõ ràng là nếu có thể, bằng

mọi giá, phải xây dựng một chính quyền liên bang có khả năng điều tiết các mối quan

tâm chung và bảo vệ nền hòa bình chung, nó phải được xây dựng, như các thành viên

nằm trong sự bảo vệ của nó, trái ngược với nguyên tắc ủng hộ bởi những người chống lại

bản dự thảo Hiến Pháp. Nó phải mang lại các tổ chức công ích cho các công dân. Nó phải

đứng độc lập không cần các điều khoản luật trung gian; nhưng tự nó phải có sức mạnh sử

dụng cánh tay của tòa án thông thường để thực thi các nghị quyết của nó. Sự hùng mạnh

của quyền lực quốc gia phải thể hiện qua các tòa án. Chính quyền của Liên Hiệp, giống

như chính quyền mỗi tiểu bang, phải có khả năng ngay lập tức tự diễn giải trước những lo

âu và hy vọng của các cá nhân; và thu hút sự nhiệt tình ủng hộ có ảnh hưởng mạnh mẽ

đến nhân tâm. Một cách ngắn gọn là nó phải sở hữu tất cả các phương tiện và có quyền

sử dụng tất cả các biện pháp để thực thi các quyền lực đã được giao phó, cũng như các

Tiểu Bang có thể thực hiện các quyền đó. Đối với cách lý luận này, nó có thể bị phản đối,

rằng nếu có Tiểu Bang nào không chấp nhận quyền lực của Liên Hiệp, nó có thể ngăn cản

thực thi luật pháp của liên bang bất cứ lúc nào và đem vấn đề đến chỗ sử dụng vũ lực như

đã nói, với sự cần thiết trong dự thảo hiến pháp bị chỉ trích.

Các chống đối sẽ biến mất khi chúng ta hướng đến sự khác biệt cơ bản giữa một sự

KHÔNG TUÂN THỦ và một sự TRỰC TIẾP và MẠNH MẼ CHỐNG ĐỐI. Nếu quyền

phản đối Liên Bang của các lập pháp Tiểu Bang là cần thiết để một điều luật của Liên

Bang có hiệu quả, các tiểu bang có thể chỉ cần KHÔNG HÀNH ĐỘNG, hay TRỐN

TRÁNH, và điều luật sẽ bị thất bại. Sự sao lãng tránh nhiệm có thể được hóa trang dưới

các điều khoảng có hiệu lực nhưng không có giá trị, để không tỏ ra và dĩ nhiên là không

gây ra sự hoảng sợ cho mọi người về sự toàn vẹn của Hiến Pháp. Các lãnh đạo tiểu bang

thậm chí xuất sắc trong việc lén lút vi phạm hiến pháp dưới hình thức tiện nghi tạm thời,

tạm miễn, hay lợi thế.

LXVI

Page 67: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Nhưng nếu việc thi hành các đạo luật của chính quyền quốc gia không đòi hỏi sự can

thiệp của các lập pháp tiểu bang, nếu chúng được chuyển qua các hoạt động trung gian

cho các công dân, các chính quyền tiểu bang không thể can thiệp vào tiến triển công việc

của họ ngoại trừ khi các chính quyền này công khai và sử dụng bạo lực bằng phương

cách vi hiến. Không thể đổ thừa bằng cách lấp lửng hay bỏ sót. Họ sẽ bắt buộc phải hành

động, và theo cách mà có thể dễ dàng nhận thấy họ vi phạm quyền lực thuộc về liên bang.

Một thử nghiệm theo cách này sẽ luôn nguy hiểm đối với một hiến pháp mà trong một

mức độ nào đó có khả năng tự vệ, và đối với một dân tộc đủ tri thức để phân biệt giữa

một hoạt động pháp luật bình thường và một sự tiếm quyền phi pháp. Sự thành công của

nó không chỉ đòi hỏi một phe nhóm đa số trong lập pháp, mà còn sự đồng thuận của các

tòa án và của dân chúng. Nếu các quan tòa không tham gia vào các âm mưu cùng với lập

pháp, họ sẽ tuyên bố các nghị quyết với một đa số như vậy là trái với luật tối cao của đất

nước, vi hiến và không có hiệu lực. Nếu người dân không bị tiêm nhiễm bởi tư tưởng của

các dân biểu tiểu bang, họ, những người hiển nhiên bảo vệ Hiến Pháp, sẽ gia nhập vào

lực lượng chung và tạo ra một tiếng nói có trọng lượng trong cuộc đọ sức. Các nỗ lực như

vậy thường không được quyết định vội vàng, thiếu cân nhắc, bởi vì những người đưa ra

quyết định như vậy thường bị nguy hiểm, trừ phi trong các trường hợp hành động độc

đoán của chính quyền liên bang.

Nếu các hành vi gây rối loạn chống lại chính quyền liên bang của các thành phần phản

đối xảy ra, có thể sử dụng cùng các biện pháp được sử dụng hằng ngày dưới chính quyền

tiểu bang chống lại các hành động quỷ quái này. Phòng công tố, tương đương các bộ

trưởng theo hiến pháp quy định, bất kể được đề xuất từ đâu, cũng sẵn sàng bảo vệ luật

pháp quốc gia cũng như địa phương chống lại vi phạm của các hành động vô luật lệ riêng

lẽ. Đối với các hành vi bạo động và phản loạn, đôi khi làm quấy nhiễu xã hội, từ âm mưu

của một nhóm nhỏ, hay từ những chống đối đột xuất, đôi khi xảy ra mà không ảnh hưởng

toàn cộng đồng, chính quyền có thể phối hợp nhiều tài nguyên cho việc trấn áp các vụ

gây rối kiểu đó hơn là các thành viên riêng lẽ. Và đối với các tranh chấp chết người, trong

LXVII

Page 68: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

vài trường hợp khẩn cấp, ngọn lửa hủy diệt lan tỏa ra toàn đất nước, hay ra một phần rất

lớn của nó, diễn ra hoặc từ các nguyên nhân chính của sự bất đồng mang lại bởi chính

quyền hoặc từ sự lây lan từ các đợt sóng bạo động phổ biến, chúng không rơi vào các

phép tính thông thường. Khi chúng xảy ra, chúng thường tương đương với các cuộc cách

mạng và các tan rã của đế quốc. Không có hình thức chính quyền nào có thể luôn luôn

tránh khỏi hay điều khiển chúng. Không có hy vọng phòng chóng lại các sự kiện quá

mạnh mẽ đối với tầm viễn kiến hay sự thận trọng của con người, và phản đối chính quyền

bởi vì nó không thể làm những việc ngoài khả năng là hành động vô nghĩa.

PUBLIUS

LXVIII

Page 69: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên Bang số 30

Bàn Về Quyền Lực Tổng Quan của Thuế vụ

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Ai cũng biết rằng, Chính quyền Liên bang cần phải nắm quyền hổ trợ cho quân đội quốc

gia, với nhiều dự án phải triển khai như: chi phí tuyển quân, đóng và trang bị đội tàu

chiến, và các chi phí khác liên quan đến việc bố trí quân đội và các hoạt động quân

sự.Tuy nhiên, chưa dừng lại ở đó, Chính phủ Liên bang còn phải lo toan cho cả những dự

án dân sự, cho việc trả nợ quốc gia, và cho những vấn đề chi tiêu khác cần sử dụng đến

ngân sách quốc gia. Do vậy, bằng cách này hay cách khác, chính phủ cần phải có quyền

quyết định, về thuế chẳng hạn, để bù trừ cho các nguồn chi nói trên.

Tiền tệ, trong một chừng mực nào đó, được xem là yếu tố quan trọng cho một chính thể,

vì đồng tiền giúp duy trì nguồn sống và hoạt động của chính thể đó, giúp cho một chính

thể thực hiện các chức năng cơ bản nhất của mình. Cho nên, một quyền lực trọn vẹn, để

có thể xoay sở đủ tiền cho các hoạt động trong một chừng mực cho phép của cộng đồng,

là cấu thành quan trọng của mọi Hiến pháp của một quốc gia.

Trước sự thiếu hụt ngân khoản cho các khoản chi nói trên, một trong hai điều tồi tệ có thể

xảy ra: hoặc là người dân sẽ bị bóc lột để bù vào sự thiếu hụt, hoặc là nhà nước sẽ teo tóp

dần và sẽ bị diệt vong trong thời gian ngắn. Vào thời Ottoman hay đế chế Thổ Nhĩ Kỳ,

quốc vương không có quyền ban hành sắc thế mới mặc dù ông ta tuyệt đối tôn trọng

quyền sống và tài sản của thần dân. Kết quả là vị quốc vương cho phép các viên Toàn

quyền và Tổng trấn cướp bóc và ăn chặn tài sản của người dân đúng bằng số tiền mà ông

ta cần để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của ông ta và của đế chế. Ở Hoa Kỳ, với lý do tương

tự, chính phủ Liên bang dần dần suy yếu và sắp bị triệt tiêu. Có ai đó có thể nghi ngờ

LXIX

Page 70: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

rằng đời sống hạnh phúc của nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ và Hoa Kỳ sẽ được giới chức chính

quyền đảm bảo, trong khi vẫn đảm bảo thu nhập để đáp ứng các nhu cầu của xã hội?

Liên minh các tiểu bang hiện nay, yếu ớt như thể rất cần được nghĩ ngơi, có quyền lực

hạn chế để có thể cung cấp tiền bạc cho các nhu cầu của Liên bang, nhưng lại hoạt động

theo một nguyên tắc sai lầm, khiến cho mọi nổ lực trở thành sự thất vọng. Dựa trên

những điều khoản của khế ước đã được công bố, Quốc hội, bằng các quyết định của

mình, có quyền xác lập và đề xuất các khoản tiền cần thiết để phục vụ cho đất nước Hoa

Kỳ. Yêu cầu của Quốc hội, nếu đúng luật, sẽ được các Tiểu bang tuân theo. Sẽ không ai

có quyền nghi vấn tính đúng đắn từ các yêu cầu của Quốc hội; không ai được tự ý bày

mưu tính kế vẽ ra số tiền cần thiết. Tuy nhiên, mặc dù rất nghiêm khắc với những trường

hợp này; mặc dù rất hiếm khi hoặc không bao giờ được cho phép chất vấn Quốc hội,

nhưng trong thực tế những chất vấn nói trên vẫn xảy ra và sẽ tiếp tục như thế cho đến khi

nào nguồn thu của Liên bang còn phụ thuộc vào các Tiểu bang. Hậu quả của cách làm

của hệ thống này là, như mọi người đều biết, việc công bị đình trệ, và những kiểu cách

truy vấn này đã và đang mở rộng sang các bộ phận khác của chính phủ liên bang. Chính

điều đó đã góp phần làm Hoa Kỳ bị mất thể diện và tạo điều kiện cho kẻ thù giành thắng

lợi.

Liệu có phương cách điều trị nào cho tình huống này, nhưng trong một hệ thống đã được

thay đổi với những hạn ngạch, định mức dối trá và bịp bợm? Có cách nào để thay thế

niềm hy vọng hão huyền về tài chính này, nhưng cho phép chính phủ có được nguồn thu

bằng các sắc thuế thông thường của chính quyền dân sự? Các nhà thông thái có thể sẽ

hùng hồn diễn thuyết tính hợp lý của mọi vấn đề; nhưng không một ai có thể chỉ ra một

cách nào khác để giải thoát chúng ta khỏi những bất tiện và lúng túng do nhược điểm của

hệ thống công về cung ứng tiền tệ.

Với quan điểm lý luận này, nếu càng có nhiều đối tượng xuất sắc, những người chấp

thuận sự khác biệt của cái gọi là thuế nhập khẩu và thuế tiêu dùng, đối lập đối với chính

LXX

Page 71: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

sách thuế của Hiến pháp mới, thì các chính quyền của các Tiểu bang càng sớm bảo lưu

quyền tự quyết của mình chừng đó, và càng chậm chấp thuận các cải cách của chình phủ

Liên bang bằng cách nêu các lý do liên quan đến việc đánh thuế thương mại và hàng nhập

khẩu. Tuy nhiên, sự khác biệt này sẽ xâm phạm các chủ ý tốt đẹp và những chính sách

thuế đầy hứa hẹn vốn có thể giúp cho mọi QUYỀN LỰC luôn cân xứng với MỤC TIÊU;

sẽ làm cho quyền giám hộ của chính phủ Liên Bang đối với Tiểu bang không theo đúng

như các ý tưởng hay ho và hiệu quả hằng mong muốn. Ai có thể giả vờ như là các sắc

thuế thương mại hoàn toàn có thể cân bằng với các nhu cầu ngân sách cấp thiết của Liên

bang trong hiện tại và tương lai? Chỉ cần xem xét các khoản nợ trong nước và nước ngoài

hiện nay, đối chiếu với các kế hoạch chi tiêu công dễ được công chúng và các Đảng phái

đồng tình và chấp thuận nhất, chúng ta không cần phải tự "nâng" mình lên để thấy rằng

nguồn thu hoàn toàn không đủ đáp ứng ngay cả những nhu cầu cần thiết trong hiện tại. Sẽ

cần có quyền tự do được lập các dư toán cho các nhu cầu của tương lại, không cần dựa

theo sự tính toán hay giới hạn, mà chỉ là dựa trên nguyên tắc hoạt động cơ bản đã từng

hơn một lần được đề cập đến. Tôi tin rằng quyền tự do đó có lẽ sẽ được bảo đảm trong

lịch sử của nhân loại, rằng TRONG MỘT TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN BÌNH THƯỜNG

CỦA SỰ VẬT, NHỮNG VẤN ĐỀ THIẾT YẾU TRONG MỖI GIAI ĐOẠN TỒN TẠI

CỦA MỘT QUỐC GIA, ÍT NHẤT SẼ LUÔN TƯƠNG ĐƯƠNG VỚI CÁC NGUỒN

LỰC CỦA QUỐC GIA ĐÓ.

Nếu nói rằng các sự khác biệt là do sự khác nhau giữa các tiêu chuẩn của mỗi Tiểu bang,

có nghĩa là, một mặt , chấp nhận hệ thống Liên bang này không thể phụ thuộc lẫn nhau;

mặt khác lại chấp nhận hệ thống phụ thuộc vào nhau khi sự việc vượt quá một chuẩn mực

nào đó. Những người đã từng tham gia và trãi nghiệm những đắng cay khi soạn thảo

những bức Thư Liên bang này chắc hẳn sẽ cảm thấy vô cùng chán ngán đối với việc tin

tưởng vào vào các lợi ích của quốc gia trong mọi hoạt động của quốc gia đó. Những căng

thẳng không thể tránh khỏi mỗi khi Hiến pháp Liên Bang được đưa vào áp dụng trong

thực tế chắc chắn sẽ làm suy yếu Liên Bang và gieo mầm bất hòa và tranh chấp giữa

Lãnh đạo Liên bang và các Tiểu bang, và giữa các Tiểu bang với nhau. Liệu những thiếu

LXXI

Page 72: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

hụt về ngân sách của Liên bang sẽ được đáp ứng tốt hơn bằng cách luôn áp dụng phương

cách thực hiện cũ? Cần nên nhớ rằng nếu nhu cầu của các Tiểu bang giảm đi, họ sẽ tương

ứng cắt giảm các phương tiện cần thiết để đáp ứng nhu cầu. Nếu có ai đó xem ý kiến của

những người theo xu hướng "có sự khác biệt giữa các Tiểu bang" là bằng chứng đáng tin,

người đó sẽ kết luận rằng: Ở một vài thời điểm của nền kinh tế quốc gia, sẽ an toàn hơn

khi dừng lại và phát biểu: Do đó, niềm hạnh phúc tột cùng của công chúng là đáp ứng

những nhu cầu của chính phủ", và hơn hết điều này không xứng đáng để chúng ta quan

tâm hay cảm thấy bực bội. Làm thế nào để một chính phủ, vốn luôn thiếu hụt, có thể đáp

ứng những nhu cầu chi tiêu của các cơ quan chính quyền, đảm bảo an ninh, vươn tới giàu

có, và duy trì tiếng thơm của một nhà nước thịnh vượng? Làm thế nào để một quốc gia có

thể có được năng lượng hoặc ổn định, sự tự trọng hoặc uy tín, sự tự tin hay ngưỡng mộ từ

nước ngoài? Làm thế nào để chính phủ của quốc gia đó chỉ thừa kế tính cơ hội và luồn

lách, không có quyền lực, và nhục nhã? Làm sao để một quốc gia có thể tránh được

những hy sinh thường xuyên khi đáp ứng các nhu cầu cấp thiết? Làm sao để quốc gia có

thể thực thi quyền tự do hay các kế hoạch mang lại những điều tốt đẹp cho công chúng?

Hãy xem những hiệu ứng của tình huống hiện nay sẽ ra sao nếu chúng ta tham gia vào

cuộc chiến tranh. Với mục đích tranh luận, chúng ta hãy giả định rằng doanh thu tăng lên

từ nguồn thuế sẽ dùng để chi tiêu cho các dự án công ích, trả nợ, và nền hòa bình của

Liên bang. Như vậy, trong trường hợp chiến tranh bùng nổ, nguồn thu nhập nào sẽ cung

cấp cho chính phủ trong tình huống khẩn cấp như thế? Kinh nghiệm cho thấy rằng các

tiêu chuẩn do mỗi Tiểu bang đặt ra sẽ không thể nào đáp ứng được trong trường hợp Liên

bang hoàn toàn lệ thuộc các Tiểu bang về tài chính; và Liên bang không thể tự tìm các

nguồn ngân khoản mới trong tình thế nguy hiểm của quốc gia.Liệu có thể thúc đẩy việc

đa dạng hóa các nguồn ngân quỹ từ những nguồn phù hợp của các Tiểu bang để bảo vệ

quốc gia? Sẽ không dễ dàng gì nếu không dùng đến biện pháp này, và nếu phương án này

được thực hiện, đó sẽ là bằng chứng cho thấy sự xuống cấp về lòng tin của công chúng

đối với mỗi khoảnh khắc thiết yếu đối với sự an toàn của họ. hãy tưởng tượng rằng trong

tình huống khẩn cấp như thế việc không cần dùng đến lòng tin có thể là một điều rồ dại.

LXXII

Page 73: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Trong chiến tranh hiện đại, những quốc gia giàu có nhất sẽ được biết ơn nhờ vào các

khoản cho vay lớn. Quốc gia kém giàu có như đất nước chúng ta phải cảm nhận điều cần

thiết đối với các khoản vay như thế này ở mức độ mạnh hơn. Nhưng có quốc gia nào sẽ

cho một chính phủ như chúng ta vay khi chúng ta mở lời xin vay mà không có được sự

tín nhiệm về khả năng chi trả? Những khoản vay mà chúng ta có thể kiếm được sẽ bị giới

hạn cùng với những điều kiện ngặt nghèo. Các khoản vay sẽ được thực hiện dựa trên

nguyên tắc nhỏ giọt dành cho những quốc gia phá sản hoặc hay giựt nợ, với lãi suất cao

ngất.

Có thể tưởng tượng rằng do nguồn tài nguyên quốc gia thiếu thốn, nhu cầu xử dụng trệch

hướng nguồn ngân quỹ sẽ nảy sinh mặc dù chính phủ Liên bang có quyền không hạn chế

về vấn đề thuế khóa. Nhưng có hai vấn đề cần xem xét để xoa dịu các mối lo sợ của giới

lãnh đạo: Một là chúng ta cần bảo đảm các nguồn tài nguyên của xã hội, ở mức độ tối đa,

sẽ mang lại lợi ích cho Liên bang; và hai là khi xảy ra những thiếu hụt thì nguồn vay nợ

sẽ không bị hạn chế.

Chính quyền lực tạo nên nguồn ngân quỹ mới dựa trên những mục tiêu mới về thuế sẽ

khiến cho chính phủ Liên bang có thể vay được số tiền mong muốn khi cần. Người nước

ngoài cũng như công dân Hoa kỳ sẽ yên tâm cho chính phủ vay, nhưng sẽ tùy thuộc vào

chính phủ Liên bang, và chính phủ Liên bang lại phụ thuộc vào 13 Tiểu bang trong việc

đảm bảo việc trả nợ vay; một khi đã thông hiểu lẫn nhau, người vay và cho vay sẽ đạt

được sự tin tưởng, vốn không phổ biến trong giao dịch tiền bạc của loài người, ở mức độ

nào đó, và khả năng dàn xếp các vấn đề nảy sinh trong giao dịch do lòng tham.

Những suy nghĩ vế vấn đề thuế khóa sẽ là chuyện vặt đối với những người nào hy vọng

được nhìn thấy một xứ xở Hoa kỳ trong quang cảnh thanh bình của thơ ca hay trong thần

thoại, nhưng đối với những người cho rằng chúng ta sẽ có thể trãi qua những thăng trầm

và tai họa như các quốc gia khác, những người này chắc chắn thường quan tâm đến

những điều đáng sợ. Những người như thế phải được chứng kiến những tình huống thật

LXXIII

Page 74: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

sự ở đất nước họ với những điều đau thương, chống chọi với cái xấu, và lòng nung nấu

trả thù.

PUBLIUS

LXXIV

Page 75: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 37

Về những khó khăn của hội nghị Lập hiến trong việc định hình một thể

chế phù hợp cho chính quyền

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Bằng VIỆC RÀ SOÁT các khiếm khuyết của Liên bang hiện nay, thấy rằng chúng không

thể được thay thế bởi một chính quyền kém hiệu quả cộng đồng hơn chính quyền trước

đây, dĩ nhiên một vài nguyên tắc quan trọng nhất của chính quyền về sau đã được đưa

vào tiến trình xem xét. Song vì mục đích tối hậu của các bài viết này là để xác định các

phẩm chất của bản Hiến pháp đề nghị này một cách rõ ràng và đầy đủ, và xem xét tính

thiết thực của việc chấp nhận nó. Kế hoạch của chúng tôi không thể hoàn thành được mà

không thực hiện việc điều tra công việc của hội nghị một cách kỹ lưỡng và tối ưu, mà

không xem xét nó về mọi mặt, so sánh nó về tất cả mọi phần và tính toán các ảnh hưởng

mà nó có thể gây ra.

Để nhiệm vụ còn lại này có thể được thực hiện với những cảm xúc có lợi cho một kết quả

đúng đắn và công bằng, một số điều suy ngẫm, không thiên vị theo những gợi ý trước đây

phải được chiều theo ở chỗ này.

Điều không may, không thể tách rời khỏi các việc làm của con người, là các cách hành

xử chung hiếm khi được khảo sát với tinh thần tiết chế cần thiết để đánh giá đúng đắn xu

hướng thực sự đó của chúng nhằm thúc đẩy hay cản trở lợi ích cộng đồng; tinh thần này

là thích hợp để làm suy giảm hơn là thúc đẩy việc đó, bởi những cơ hội như thế đòi hỏi

phải vận dụng nó một cách khác thường. Để những con người được hướng dẫn bằng kinh

nghiệm như vậy chú tâm vào việc xem xét này, dường như không có vẻ ngạc nhiên rằng

hành động của hội nghị khuyến cáo nhiều thay đổi và cách tân quan trọng như vậy, có thể

LXXV

Page 76: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

được cân nhắc kỹ với rất nhiều hiểu biết và mối tương quan, liên quan đến các căn

nguyên của rất nhiều quyền lợi và cảm xúc mạnh, sẽ tìm thấy hay kích thích những

khuynh hướng không thân thiện cả phía bên này và bên kia, tiến tới thảo luận ngay thẳng

và đánh giá chính xác các phẩm chất của nó. Trong một số trường hợp, việc đó đã quá rõ

ràng trên những ấn phẩm của họ, rằng họ đã xem xét tỷ mỉ bản Hiến pháp đề nghị, không

chỉ với khuynh hướng thiên về chỉ trích, mà với khuynh hướng thiên về kết án; vì ngôn

ngữ của những người khác lộ ra khuynh hướng hay thành kiến ngược lại, cần phải làm

cho các ý kiến của họ cũng trở nên ít quan trọng trong tranh luận. Tuy nhiên, thay vào đó

những đặc tích khác nhau này ở cùng một cấp độ về tầm quan trọng với những ý kiến của

họ, tôi không thích ám chỉ rằng điều đó có thể không phải là khác biệt quan trọng về sự

trong sạch trong những dự định của họ. Nhưng đó chỉ là dấu hiệu có lợi cho sự diễn tả về

sau, vì rằng tình huống của chúng ta được thừa nhận phổ biến là đặc biệt tối ưu, và đòi

hỏi cấp thiết là việc gì đó cần phải thực hiện để trợ giúp chúng ta, người bảo trợ được chỉ

định trước cho cái việc đã được làm trong thực tế, có thể vì thành kiến của mình đi chệch

khỏi tầm quan trọng của những xem xét này, cũng như khỏi chính những việc xem xét

với một động cơ xấu xa. Mặt khác, đối thủ định trước có thể được chỉ đạo không phải bởi

bất kỳ động cơ không đáng kể nào. Các dự định của nhóm đầu tiên có thể là đứng đắn, vì

ngược lại họ có thể bị khiển trách. Các quan điểm của nhóm sau có thể không ngay thẳng,

và phải bị chỉ trích. Nhưng sự thật là những bài báo này không được viết cho những

người thuộc nhóm nào thuộc các đặc điểm này. Họ chỉ cố thu hút sự chú ý của những

người đó, người với nhiệt huyết chân thành vì sự hạnh phúc của đất nước họ, với tâm tình

có lợi cho việc đánh giá đúng đắn phương thức thúc đẩy việc đó.

Những con người với đặc tính này sẽ tiến tới kiểm tra chặt chẽ kế hoạch đã được hội nghị

đệ trình, không chỉ không có khuynh hướng tìm kiếm và thổi phồng những sai lầm; mà sẽ

xem xét tính đúng đắn bằng việc suy ngẫm rằng không thể hy vọng có một kế hoạch hoàn

hảo. Và chọ cũng sẽ không xem xét một cách qua quýt các lỗi có thể tính đến như sự sai

lầm của hội nghị, như một nhóm gồm những người có trách nhiệm; mà phải suy nghĩ

rằng chính họ cũng là con người, và chắc hẳn không được xem là không thể sai lầm trong

LXXVI

Page 77: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

việc đánh giá lại những ý kiến có thể sai của người khác.

Điều sẽ được nhận thấy với sự sẵn sàng như nhau, là ngoài những điều thuyết phục này

đối với tính vô tư của hội nghị, nhiều sự đánh giá hẳn được thực hiện vì những khó khăn

vốn có trong chính động cơ cam kết liên quan đến hội nghị.

Tính mới mẻ của việc cam kết ngay lập tức gây ấn tượng cho chúng tôi. Điều đã chỉ ra

trong suốt diễn trình của những bài viết này là, Liên bang hiện nay được thiết lập trên các

nguyên tắc sai lầm; mà vì thế chúng ta phải thay đổi nền tảng đầu tiên này, và cùng với

nó là siêu cấu trúc dựa trên đó. Điều đã được chỉ ra là các liên bang khác có thể đã được

tham khảo như những hình mẫu cho liên bang này đã bị suy yếu bởi cùng những nguyên

tắc sai lầm tương tự, và do đó không thể cung cấp chân lý nào khác hơn là ánh đèn hiệu

cảnh báo cho tiến trình phải tránh xa, mà không chỉ ra là cái gì cần phải theo đuổi. Điều

mà hội nghị có thể làm hơn cả trong tình huống đó là tránh những sai lầm đã được thừa

nhận bởi kinh nghiệm quá khứ của các nước khác, cũng như của chính chúng ta; và đưa

ra một mô hình thích hợp để sửa chữa những sai lầm của chính họ, khi các kinh nghiệm

trong tương lai có thể lộ ra cho họ.

Trong số những khó khăn đã được hội nghị chỉ ra, một điều rất quan trọng cần phải đặt

vào việc kết hợp giữa quyền lực và sự ổn định thiết yếu trong chính quyền, với sự lưu ý

bất khả xâm phạm đối với quyền tự do và thể chế cộng hòa. Không hoàn thành phần cam

kết này của họ về căn bản, họ sẽ thực hiện mục đích đã được đặt vào hay đáp lại trông

mong của dân chúng một cách rất dở dang; nhưng điều đó không dễ dàng hoàn thành, nó

sẽ bị từ chối bởi không ai sẵn lòng phơi bày sự kém hiểu biết của mình về vấn đề này.

Năng lực chính quyền là quan trọng giúp cho nó bảo đảm an ninh chống lại các hiểm họa

từ bên trong cũng như bên ngoài, và để cho nó thúc đẩy và thi hành luật pháp một cách có

lợi như trong chính định nghĩa về một chính quyền tin cậy. Tính ổn định của chính quyền

là điều kiện thiết yếu cho đặc trưng của một quốc gia và những thuận lợi thêm vào đó,

cũng như để đặt niềm tin và sự tin cậy vào suy nghĩ của người dân, trong số những phước

LXXVII

Page 78: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

lành quan trọng nhất của xã hội dân sự. Một nền pháp luật khác lạ và có thể thay đổi tự

nó không phải là thảm họa hơn là khi nó bị ghê tởm bởi dân chúng; và điều đó có thể

được cảm nhận với sự tin chắc rằng người dân của đất nước này đã khai sáng vì họ gắn

liền với tự nhiên, và quan tâm đến những ảnh hưởng của chính quyền tốt, vì đa số họ sẽ

không bao giờ được thỏa mãn cho tới khi một số biện pháp được áp dụng cho những

thăng trầm và những việc không chắc chắn đặc trưng của các chính quyền tiểu bang. Tuy

nhiên, bằng việc so sánh những thành tố giá trị này với các nguyên lý sống còn của tự do,

chúng ta cần ngay lập tức nhận rõ khó khăn lẫn cùng với chúng theo những tỷ lệ tương

xứng của chúng. Tinh thần tự do cộng hòa dường như đòi hỏi về một phía, không chỉ là

toàn bộ quyền lực cần phải bắt nguồn từ nhân dân, mà là những quyền lực được giao phó

cho chính quyền đó phải được duy trì trong sự phụ thuộc vào nhân dân, bởi một nhiệm kỳ

ngắn của những người được nhân dân bầu lên; và thậm chí trong giai đoạn ngắn ngủi này

sự tin cậy cần phải không được đặt vào một vài, mà là một số người. Ngược lại, ổn định

đòi hỏi rằng những người nắm giữ quyền lực được nhân dân giao phó cần tiếp tục làm

việc trong một khoảng thời gian dài như nhau. Sự thay đổi người cầm quyền định kỳ sẽ

xảy ra như kết quả một cuộc bầu cử theo chu kỳ; và sự thay đổi các biện pháp định kỳ do

việc thay đổi người lãnh đạo định kỳ: trong khi năng lực của chính quyền đòi hỏi không

chỉ một giai đoạn quyền lực nhất định, mà nó phải được thực thi bởi một quyền lực duy

nhất.

Bao xa mà hội nghị có thể phải kéo dài phần việc này của họ, sẽ là tốt hơn bấy nhiêu để

đưa ra một quan điểm chỉnh xác hơn về việc đó. Từ cái nhìn thoáng qua đã thấy ở đây,

dường như rõ ràng rằng nó hẳn đã là một phần việc cam go.

Không ít khó khăn hơn phải vượt qua để thực hiện việc đưa ra đường ranh giới phù hợp

giữa quyền lực của các chính quyền trung ương và các tiểu bang. Tất cả mọi người sẽ

phải nhận ra khó khăn này, theo tỷ lệ mà anh ta đã quen với ngẫm nghĩ và phân biệt các

mục đích rộng lớn và phức tạp về bản chất. Khả năng trí tuệ tự nó chưa bao giờ được

phân biệt và định nghĩa với sự chính xác thỏa đáng, bởi tất cả những nỗ lực của các triết

LXXVIII

Page 79: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

gia sắc sảo và siêu hình nhất. Cảm giác, nhận thức, phán đoán, khát khao, ý chí, trí nhớ,

tưởng tượng đều chỉ được tách bạch bởi những sắc thái mong manh và những thay đổi

nhỏ dần mà biên giới của chúng đã vượt quá những khảo cứu tinh vi nhất, và vẫn còn là

một nguồn rất phong phú cho các nghiên cứu công phu và tranh luận tài tình. Biên giới

giữa các giới tự nhiên rộng lớn và, vẫn lớn hơn giữa các ngành sinh vật khác nhau, và các

bộ phận nhỏ hơn thành cái mà chúng bị phân chia nhỏ, trao cho sự minh họa khác của

cùng một sự thật quan trọng. Các nhà tự nhiên học miệt mài và minh mẫn nhất chưa bao

giờ thành công một cách chắc chắn trong việc lần ra biên giới tách lãnh địa của đời sống

thực vật khỏi vùng lân cận của vật chất không có tổ chức, hay nơi đánh dấu sự tách bạch

của thế giới thực vật và sự bắt đầu của kỷ nguyên động vật. Vẫn còn một trở ngại lớn hơn

nằm trong các đặc tính để phân biệt mà với nó các đối tượng trong mỗi ngành to lớn này

của thế giới tự nhiên đã được sắp xếp và phân loại.

Khi chúng ta vượt qua các công việc của thiên nhiên, trong đó tất cả những sự mô tả đều

hoàn toàn chính xác, và dường như trong tình trạng khác chỉ là do sự không hoàn hảo của

mắt người quan sát chúng, đối với những thể chế của con người, trong đó sự khó hiểu

phát sinh từ chính mục đích cũng như từ tổ chức mà nó dự tính, chúng ta cần phải nhận

thấy tính thiết yếu của việc tiết chế từ những nỗ lực khôn ngoan của con người vẫn còn

xa những mong đợi và hy vọng của chúng ta. Kinh nghiệm đã dạy cho chúng ta rằng

không có kỹ năng khoa học nào về chính quyền còn có thể phân biệt và định nghĩa được

ba lĩnh vực lớn của nó là luật pháp, hành pháp và tư pháp với đầy đủ tính chắc chắn; hay

thậm chí các đặc quyền và quyền lực của những nhánh hành pháp khác nhau. Các vấn đề

xuất hiện hàng ngày trong quá trình thực hành, chứng tỏ sự khó hiểu ngự trị trong các chủ

đề này, làm bối rối những người thông thạo nhất về khoa học chính trị.

Kinh nghiệm của tuổi tác, với những công việc kết hợp liên tục của hầu hết các luật gia

và các nhà lập pháp khai sáng đã không thành công như nhau trong việc mô tả một vài

đối tượng và những hạn chế của các bộ luật khác nhau và các tòa án công lý khác nhau.

Mức độ chính xác của các điều luật chung, đạo luật, luật biển, luật giáo hội, luật hợp tác,

LXXIX

Page 80: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

luật lệ và phong tục địa phương khác, vẫn còn được thiết lập rõ ràng và dứt khoát ở

vương quốc Anh, nơi tính chính xác trong các vấn đề này đã được theo đuổi nhiều hơn

bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Quyền thực thi pháp lý ở một vài tòa án Anh quốc,

trung ương và địa phương thuộc thuộc về luật pháp, về tính công bằng và về chủ quyền

trên biển..., là đề tài thảo luận không kém thường xuyên và phức tạp, biểu hiện một cách

đầy đủ các giới hạn mơ hồ mà chúng đã được định nghĩa tương ứng. Tất cả những luật

mới, dù được viết ra bởi người có kỹ năng nhất, và vượt qua cuộc bàn thảo chín chắn và

đầy đủ nhất, được xem xét là ít nhiều khó hiểu và mập mờ, cho đến khi ý nghĩa của

chúng được loại trừ và được xác định chắc chắn bởi một loạt những thảo luận và phán xử

cụ thể. Bên cạnh những sự khó hiểu xuất phát từ tính phức tạp của các đối tượng, và sự

không hoàn hảo của năng lực con người, môi trường mà qua đó các quan niệm của con

người lan truyền với nhau tạo thêm sự lúng túng mới.

Việc sử dụng các ngôn từ là để biểu đạt các ý tưởng khác nhau. Do đó, sự minh bạch

không chỉ đòi hỏi rằng các ý tưởng cần phải được hình thành riêng biệt, mà rằng chúng

phải được thể hiện bởi những ngôn từ khác biệt và duy nhất phù hợp với chúng. Song

không có ngôn ngữ nào là dồi dào đến mức cung cấp đủ các ngôn từ và mệnh đề cho mọi

ý tưởng phức tạp, hay chính xác đến mức không bao gồm nhiều ý tưởng khác nhau được

biểu hiện không rõ rệt. Vì vậy điều phải xảy ra là các đối tượng có thể được phân biệt với

nhau chính xác đến đâu, và sự phân biệt này có thể được xem xét chính xác đến đâu, định

nghĩa về chúng vẫn có thể đã được làm không đúng bởi sự thiếu chính xác của các thuật

ngữ mà nó đưa ra. Và sự thiếu chính xác không thể tránh khỏi này nhiều hay ít phải tùy

theo tính phức tạp và tính mới mẻ của các đối tượng định nghĩa. Khi chính Thượng đế hạ

cố nói chuyện với loài người bằng ngôn ngữ của chính họ, ngôn từ của ông ta là rõ ràng

như nó cần phải, bị làm cho mập mờ là khó hiểu bởi môi trường u ám mà nó được truyền

qua.

Vật thì, ở đây có 3 nguồn định nghĩa không chính xác và mơ hồ; sự không rõ ràng của đối

tượng, sự không hoàn hảo của cơ quan nhận thức, sự thiếu phương tiện biểu đạt các ý

LXXX

Page 81: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

tưởng. Bất kỳ một trong những nguồn này phải tạo ra một mức độ khó hiểu nhất định.

Hội nghị, bằng việc mô tả ranh giới gữa các quyền thực thi pháp lý của Liên bang và tiểu

bang, đã phải trải qua toàn bộ các ảnh hưởng của chúng.

Những khó khăn đã đề cập có thể gộp thêm vào với những đòi hỏi gây cản trở của các

tiểu bang lớn nhỏ. Chúng ta không thể sai lầm khi cho rằng các bang lớn hơn sẽ tranh đấu

cho việc tham gia vào chính quyền, hoàn toàn tỷ lệ với sự phồn thịnh và tầm quan trọng

hơn của họ: và rằng các bang nhỏ hơn sẽ không kém kiên trì theo đuổi tính bình đẳng

hiện đang làm vui lòng họ. Chúng ta có thể giả thiết một cách hợp lý rằng không bên nào

sẽ chịu lép vế hoàn toàn bên kia, và vì thế cuộc tranh giành chỉ có thể chấm dứt bằng thỏa

hiệp. Cũng rất có thể là sau đó tỷ lệ người đại diện phải được điều chỉnh, chính thỏa hiệp

này chắc hẳn sẽ tạo ra một cuộc tranh đấu mới giữa các đảng phái giống nhau, để đưa

việc thay đổi như vậy vào việc tổ chức chính quyền, và để phân phối các quyền hạn của

nó, như sẽ tăng tầm quan trọng của các ngành theo thể thức họ đã đạt được phần ảnh

hưởng lớn nhất tương ứng. Có những đặc điểm trong hiến pháp bảo đảm mỗi một điều

giả định này; và cho đến khi hoặc một trong chúng được xây dựng một cách hợp lý, điều

đó chỉ ra rằng hội nghị phải bắt buộc hy sinh tính đúng đắn lý thuyết cho hiệu lực của

những tính toán xa lạ.

Cũng không chỉ có thể là các tiểu bang lớn nhỏ, sẽ sắp xếp chính chúng theo thứ tự đối

lập với nhau trong các quan điểm khác nhau. Những sự kết hợp khác xuất phát từ sự khác

biệt về vị trí và chính sách địa phương, hẳn đã tạo ra những khó khăn thêm vào. Vì tất cả

các tiểu bang có thể được chia thành các khu vực khác nhau, và cư dân của nó thành các

tầng lớp khác nhau, sinh ra những quyền lợi ganh nhau và tính kỳ thị địa phương, nên các

vùng khác nhau của Hợp chủng quốc Hoa kỳ được phân biệt với nhau bởi một loạt các

điều kiện, tạo ra một hiệu quả giống như nhau trong một phạm vi lớn hơn. Và mặc dầu có

các quyền lợi khác nhau này, vì những lý do đã được giải thích đầy đủ trong bài báo

trước, có thể có ảnh hưởng có lợi tới việc điều hành chính quyền khi hình thành, tất cả

mọi người vẫn phải nhận ra ảnh hưởng ngược lại chắc hẳn đã trải qua trong việc hình

LXXXI

Page 82: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

thành chính quyền.

Sẽ là tuyệt vời nếu như dưới áp lực của tất cả những khó khăn này, hội nghị sẽ buộc một

cấu trúc cân đối hợp lý và nhân tạo mà quan điểm trừu tượng về vấn đề đó có thể dẫn dắt

một lý luận gia tài tình đặt ra một bản Hiến pháp được trù tính trong phòng kín hay trong

trí tưởng tượng của ông ta thành một số biến thể? Điều thực sự kinh ngạc là quá nhiều

khó khăn cần phải vượt qua, và vượt qua bằng một sự nhất trí gần như chưa từng có tiền

lệ như nó hẳn đã được mong đợi. Điều không thể đối với bất kỳ ai vô tư khi ngẫm nghĩ về

tình huống này mà không cùng chia sẻ sự ngạc nhiên. Đối với những con người sùng đạo

không thể không nhận thấy một ngón tay trong bàn tay đó của Thượng đế đã mở rộng

đáng kể và thường xuyên đến thế để cứu giúp chúng ta trong những giai đoạn khủng

hoảng của cuộc cách mạng.

Trong một bài viết trước đây, chúng ta đã có cơ hội quan tâm đến các thử nghiệm lặp đi

lặp lại mà đã được thực hiện không thành công ở Vương quốc Hà Lan để cải cách những

thiếu sót xấu xa và tai hại trong hiến pháp của họ. Lịch sử của hầu hết mọi hội đồng và

cuộc hội đàm lớn được tổ chức bởi loài người để làm cho nhất trí các ý kiến bất hòa của

họ, làm dịu bớt tính đố kỵ nhau, và điều chỉnh các quyền lợi tương ứng của họ là lịch sử

của những bè phái, những bất đồng và những thất vọng, và có thể được phân loại vào

những bức tranh bị tan rã và đen tối nhất thể hiện tích chất yếu đuối và đồi bại trong tích

cách của con người. Nếu trong một vài trường hợp lẻ tẻ, một diện mạo sáng sủa hơn được

hình thành, chúng chỉ phụng sự như những ngọai lệ để răn bảo chúng ta về sự thật phổ

biến; và bởi vẻ lộng lẫy của chúng làm u ám thêm sự tăm tối của viễn cảnh đối nghịch

với cái mà chúng được lấy làm tương phản. Bằng việc suy đi xét lại các nguyên nhân từ

đó những ngọai lệ này hình thành, và áp dụng chúng cho các trường hợp riêng biệt có

trước chúng ta, chúng ta tất yếu được dẫn đến hai kết luận quan trọng. Thứ nhất là, trong

một mức độ rất khác thường, hội nghị chắc hẳn đã có được sự miễn nhiễm khỏi ảnh

hưởng độc hại của những hận thù đảng phái, một tệ nạn hầu như gắn liền với các hội nghị

thảo luận, và dễ làm nhiễm bẩn những biên bản hội nghị hơn cả. Kết luận thứ hai là tất cả

LXXXII

Page 83: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

các đại biểu tham dự hội nghị đã được cung cấp ăn ở một cách thỏa đáng theo điều luật

cuối cùng, hay đã được thuyết phục để tham gia hội nghị bởi một niềm tin sâu sắc vào

tính cần thiết phải việc hy sinh những ý kiến cá nhân và quyền lợi đảng phái cho lợi ích

cộng đồng, và bởi sự thất vọng khi thấy tính thiết yếu này bị giảm nhẹ do những trì hoãn

hay các thực tiễn mới.

PUBLIUS

LXXXIII

Page 84: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 38

Tiếp cùng chủ đề, và sự không mạch lạc của những phản bác đã đưa ra

chống kế hoạch mới

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Điều không kém phần đáng chú ý trong tất cả các trường hợp được ghi nhận trong giai

đoạn lịch sử cổ đại, nơi mà chính quyền đã được thiết lập thông qua tranh luận và đồng

thuận, là nhiệm vụ định hình chính quyền đã không được giao phó cho một hội đồng, mà

được thực hiện bởi một số công dân riêng rẽ với khả năng khôn ngoan hơn hẳn và tính

liêm chính được thừa nhận.

Chúng ta được biết, Minos là người sáng lập chính quyền nguyên thủy của đảo Crete,

cũng như Zaleucus là người sáng lập chính quyền vùng Locri. Đầu tiên là Theseus, và sau

ông ta là Draco và Solon, đã thành lập nên chính quyền Athens. Lycurgus là nhà lập pháp

của vùng Sparta. Nền tảng cho chính quyền nguyên thủy của Rome được đặt ra bởi

Romulus, và công việc được hoàn tất bởi hai người kế tục ông thông qua bầu cử, Numa

và Tillius Hostilius. Bằng việc bãi bỏ hoàng tộc để thay vào đó chính quyền chấp chính

bởi Brutus, người đã tiến dài về phía trước bằng một dự án cho việc cải cách mà ông ta đã

thừa nhận được Tullius Hostilius chuẩn bị, và với bài diễn văn đó, ông ta đã nhận được

sự tán thành và thông qua bởi thượng viện và nhân dân. Lời bình luận này cũng có thể áp

dụng được cho các chính quyền liên bang. Người ta đã dạy chúng ta rằng, Amphictyon là

tác giả của việc đó và nó được mang tên ông. Liên minh Achaean đã được sinh ra lần đầu

tiên bởi Achaeus, và lần thứ hai bởi Aratus. (Đoạn này nói về các vị thần trong thần thoại

Hy lạp, cũng như những nhà lập pháp và các địa danh trong lịch sử Hy-La cổ đại).

Mức độ ảnh hưởng nào mà các nhà lập pháp nổi tiếng này có thể có được từ các văn bản

LXXXIV

Page 85: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

lập pháp tương ứng của họ, hay chúng có thể được phủ bằng quyền lực hợp pháp của

nhân dân bao lâu, trong mọi trường hợp là không thể xác định. Tuy nhiên, trong một số

trường hợp, văn bản đó đã được hợp thức một cách chính xác. Draco dường như đã được

dân chúng Athens trao cho các quyền không hạn chế để cải cách chính quyền và các bộ

luật của nó. Và theo Plutarch, Solon, theo một phương thức bắt buộc ông ta đảm trách

quyền lực duy nhất và tuyệt đối trong việc lập mới hiến pháp thông qua quyền bầu cử phổ

thông của đồng bào ông. Các văn bản dưới thời Lycurgus là ít chuẩn mực hơn, phải cho

đến khi những người chủ trương ủng hộ cho việc cải cách thông lệ có thể thắng thế, tất cả

họ sẽ hướng mắt vào những nỗ lực đơn độc của con người yêu nước và là nhà hiền triết

đó, thay cho việc tìm kiếm để đưa ra một cuộc cách mạng bởi sự can thiệp từ hội nghị

bàn tròn của các công dân.

Do đâu mà có thể xảy ra việc một dân tộc, đố kỵ như người dân Hy Lạp về quyền tự do

của họ, đã từ bỏ các quy tắc cẩn trọng tới mức đặt vận mệnh của họ vào một công dân

duy nhất? Do đâu mà người dân Athens, những người sẽ không phải tham gia quân đội

lại phải tuân lệnh của chưa tới chục vị tướng, và là những người không đòi hỏi bằng

chứng đe dọa quyền tự do của họ nào khác hơn phẩm chất cao cả của đồng bào, đã xem

một công nhân nổi tiếng là người phù hợp để gửi gắm tương lai của chính họ và con cháu

họ, hơn một hội đồng công dân chọn lọc từ những suy tính chung của họ, mà có thể được

trông đợi là khôn ngoan hơn, cũng như an toàn hơn? Những câu hỏi này không thể được

trả lời đầy đủ mà không giả thiết rằng những nỗi lo lắng về sự bất hòa và chia rẽ trong số

những người cố vấn đó vượt quá nỗi sợ về sự bội bạc và bất lực của một cá nhân duy

nhất. Tương tự như vậy, lịch sử đã dạy chúng ta về những khó khăn mà những nhà cải

cách nổi tiếng này đã phải vượt qua chúng, cũng như những thủ đoạn mà họ buộc phải

thực hiện để những cải cách của họ có hiệu lực. Solon, người dường như đã cổ vũ cho

một chính sách tùy cơ ứng biến, thú nhận rằng ông ta đã không trao cho những người

đồng hương ông một chính quyền phù hợp nhất với hạnh phúc của họ, mà là chính quyền

có thể chịu đựng tốt nhất những thành kiến chỉ trích của họ. Và Lycurgus, trung thành

hơn với mục đích của mình, bị chi phối bởi tính cần thiết phối hợp giữa một phần bạo lực

LXXXV

Page 86: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

và quyền năng siêu nhiên để bảo đảm thành công cuối cùng của ông ta bởi sự hy sinh chủ

động, đầu tiên của đất nước ông ta và sau đó là cuộc sống của chính ông ta. Nếu như

những bài học này dạy chúng ta, một mặt khâm phục những tiến bộ đã được người dân

Mỹ thực hiện dựa trên mô hình cổ đại trong việc chuẩn bị và xây dựng những kế hoạch

thường xuyên cho chính quyền mà họ phụng sự không ít, mặt khác cảnh báo chúng ta về

những mối hiểm nguy và khó khăn liên quan đến các cuộc thử nghiệm này, là do sự

khinh suất lớn trong việc nhân rộng chúng một cách không cần thiết.

Điều phỏng đoán không hợp lý là những sai lầm có thể nằm trong kế hoạch của hội nghị

phần nào bắt nguồn từ khiếm khuyết của kinh nghiệm trước đó về vấn đề khó khăn và

phức tạp này, hơn là từ sự thiếu chính xác và thiếu thận trọng trong việc khảo sát kinh

nghiệm đó; và kết quả sẽ là không biết chắc cho đến khi một thử nghiệm thực tế sẽ vạch

chúng ra? Phỏng đoán này có thể được đưa ra, không chỉ bởi nhiều suy ngẫm về bản chất

chung, mà bởi trường hợp riêng của các Điều luật Liên bang. Có thể thấy rằng trong số

vô số những phản đối và sửa đổi bổ sung được gợi ý bởi một vài tiểu bang, khi những

điều luật này được đệ trình để họ thông qua, không một phản đối nào được ghi nhận có

ám chỉ đến sai lầm lớn và cơ bản mà tự nó đã bộc lộ ra trong thử nghiệm thực tế. Và nếu

chúng ta loại ra những quan sát mà New Jersey đã chỉ đạo thực hiện, do tình hình của địa

phương họ, hơn là bởi sự thấy trước khác thường của nó, điều có thể phải bàn cãi liệu

một gợi ý duy nhất là đủ quan trọng để biện minh cho việc xem xét lại hệ thống. Tuy

nhiên, có vô số lý do để cho rằng những phản đối này là không quan trọng, chúng sẽ gắn

liền với tính không thể thay đổi rất nguy hiểm, trong một số tiểu bang, sự hăng hái với

những ý kiến và quyền lợi được cho là của họ đã bị kiềm chế bởi tình cảm mạnh mẽ hơn

về việc tự trị. Chúng ta có thể nhớ lại, một tiểu bang đã cố chấp vài năm từ chối việc nhất

trí của nó, mặc dù kẻ thù vẫn còn nằm trong toàn bộ tiến trình tại cửa ngõ đất nước, hay

đúng hơn là chính trong lòng đất nước ta. Cũng không phải là tiểu bang dễ bị tác động đó

cuối cùng đã bị ảnh hưởng bởi sự kém năng động hơn là sự run sợ bị buộc tội kéo dài

những tai họa cho cộng đồng, và gây nguy hiểm cho sự kiện đang bàn luận. Tất cả những

độc giả vô tư sẽ thực hiện những suy ngẫm phù hợp với các sự kiện trọng đại này.

LXXXVI

Page 87: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Một bệnh nhân thấy bệnh rối loạn chức năng của anh ta xấu đi hàng ngày, và rằng một

liệu pháp hiệu quả có thể là không chậm trễ được nữa mà không để hậu quả vô cùng nguy

hiểm, sau khi suy đi xét lại một cách điềm tĩnh về tình cảnh của mình, đánh giá khả năng

của các bác sỹ khác nhau, chọn và mời những người trong đó mà anh ta xét thấy có khả

năng tiến hành cứu chữa nhất, và làm cho anh ta tin cậy nhất. Các bác sỹ rất chú tâm;

trường hợp của bệnh nhân được kiểm tra cẩn thận; hội đồng tư vấn được tổ chức; họ nhất

trí cho rằng các triệu chứng là nguy hiểm, nhưng với trường hợp đó, rất hy vọng là việc

cứu chữa thích hợp và kịp thời có thể được thực hiện để tạo ra một sự cải thiện thể trạng

cho anh ta. Họ hoàn toàn đồng ý trong việc kê đơn điều trị, ma với nó tác dụng tốt đẹp

này sẽ được tạo ra. Tuy nhiên, ngay khi đơn thuốc được đưa ra, một số người can thiệp và

không từ chối thực tế hay sự nguy hiểm của bệnh rối loạn chức năng đó, cam đoan với

bệnh nhân rằng đơn thuốc sẽ gây hại đối với thể trạng của anh ta, gây đau đớn đến chết

chắc, và ngăn anh ta sử dụng nó. Có thể bệnh nhân không đòi hỏi một cách hợp lý, rằng

các tác giả của nó ít nhất đã đồng ý với nhau rằng một số liệu pháp khác phải được thay

thế, trước khi anh ta mạo hiểm tuân theo lời khuyên này? Và nếu anh ta thấy họ khác

nhau nhiều cũng như khác với nhóm tư vấn đầu tiên của anh ta, anh ta sẽ thận trọng

không hành động bằng việc thử biện pháp điều trị được nhất trí khuyến cáo bởi nhóm đầu

tiên, hơn là lắng nghe những người có thể hoặc không từ chối tính cần thiết của liệu pháp

tức thời, hoặc cũng không đồng ý liệu pháp đang đề nghị? Bệnh nhân đó trong trường

hợp này là nước Mỹ tại thời điểm này. Nó đã nhận biết được tình trạng bệnh tật của nó.

Nó đã có được một khuyến cáo đồng lòng và đầy đủ của những người mà chính nó lựa

chọn một cách thận trọng. Và rồi nó bị cảnh báo bởi những người khác chống lại việc

tuân theo khuyến cáo này vì có nguy cơ để lại những hậu quả chết người nhất. Những

người răn bảo từ chối thực tế hiểm nghèo của nó? Không! Họ từ chối tính cấp thiết của

một số liệu pháp nhanh và mạnh? Không! Vậy thì họ đã đồng ý với bất kỳ hai điều trong

đó là những phản đối của họ đối với liệu pháp đã đề nghị, hay là một biện pháp thích hợp

phải được thay thế? Hãy để họ biện hộ cho chính họ. Nhóm người này bảo chúng ta rằng

Hiến pháp đề nghị phải bị từ chối, bởi vì nó không phải là một liên minh của các tiểu

LXXXVII

Page 88: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

bang, mà là một chính quyền bên trên các tiểu bang. Nhóm khác thừa nhận rằng nó phải

là một chính quyền bên trên các tiểu bang với một mức độ nhất định, nhưng không phải

với mức độ đã đề nghị. Nhóm thứ ba không có chủ định một chính quyền trên các tiểu

bang, hay phạm vi đề nghị mà là cần phải có một bản tuyên ngôn nhân quyền. Nhóm thứ

tư nhất trí về tính cần thiết tuyệt đối của một bản tuyên ngôn nhân quyền, nhưng cho rằng

nó phải được giải thích, không phải là về các quyền riêng tư của mỗi cá nhân, mà là về

các quyền hạn trao cho các tiểu bang trong khả năng chính trị của chúng. Nhóm thứ 5 với

ý kiến rằng một bản tuyên ngôn nhân quyền thuộc bất kỳ loại nào sẽ là không cần thiết và

đặt không đúng chỗ, và rằng kế hoạch sẽ không thể bác được ngoài quyền hạn điều chỉnh

thời điểm và vị trí bầu cử tai hại. Một nhóm phản đối trong tiểu bang lớn tố cáo ầm ỹ về

tính bình đẳng về những người đại diện phi lý trong Thượng viện. Nhóm phản đối ở tiểu

bang nhỏ cũng kịch liệt chống lại tính bất bình đẳng nguy hiểm trong Hạ viện. Từ khu

vực này, chúng tôi được cảnh báo bởi những phí tổn đáng ngạc nhiên, từ một số người

đang quản trị chính quyền mới. Từ một khu vực khác, và đôi khi từ cùng một vùng trong

một dịp khác, phàn nàn rằng Quốc hội sẽ chỉ là hình bóng của những người đại diện, và

rằng chính phủ sẽ ít bị phản đối hơn nếu số lượng và chi phí được tăng lên gấp đôi.

Người yêu nước trong Thượng viện không liên quan nhập khẩu hay xuất khẩu, thấy rõ

những phản đối không thể khắc phục được chống lại quyền thu thuế trực thu. Đối phương

yêu nước trong tiểu bang xuất khẩu và nhập khẩu lớn không phải là ít bất mãn cho rằng

gánh nặng thuế tổng thể có thể phải đưa vào việc tiêu thụ. Nhà chính trị này khám phá xu

hướng quân chủ trực tiếp và không thể cưỡng lại trong Hiến pháp; điều cũng được bảo

đảm là nó sẽ kết thúc thời đại quý tộc. Nhà chính trị khác bị bối rối khi nói cái nào trong

những thể chế này cuối cùng sẽ được thừa nhận, nhưng quan niệm rõ ràng phải là cái này

hay cái kia trong chúng; trong khi người thứ tư người không kém tự tin xác nhận rằng

Hiến pháp quá xa do có thiên hướng dẫn tới hoặc một trong những nguy hiểm này, rằng

sức nặng về phía đó sẽ không đủ để giữ cho thể chế này đứng thẳng và vững chắc chống

lại những xu hướng ngược lại với nó. Nhóm chống đối khác Hiến pháp khác, cho rằng

các bộ phận lập pháp, hành pháp và tư pháp được phối hợp theo một phương thức như

vậy sẽ phủ nhận tất cả các lý tưởng của chính quyền hợp pháp và tất cả những phòng

LXXXVIII

Page 89: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

ngừa cần thiết ủng hộ quyền tự do. Trong khi phản đối này truyền bá với những biểu hiện

chung chung và mập mờ, song cũng có một vài người chấp nhận ủng hộ nó. Mỗi chúng ta

hãy đứng ra giải thích cho riêng mình, và hiếm có bất kỳ hai người nào đồng ý một cách

chính xác về vấn đề này. Trong con mắt của một người sự tiếp nối giữa Thượng viện với

Tổng thống trong quyền hạn bổ nhiệm các công chức tương ứng, thay cho việc trao

quyền hành pháp này cho chỉ mình Hành pháp, là điều xấu xa trong việc tổ chức chính

quyền. Với người khác, việc lọai trừ Hạ viện, của chỉ một số đơn độc có thể là sự bảo

đảm chính đáng chống lại tham nhũng và những lệch lạc trong việc thực thi quyền hạn

này, là đáng ghét như nhau. Với những người khác nữa, quyền hành của tổng thống dành

cho bất kỳ sự chia sẻ quyền lực nào, từng hẳn là động cơ nguy hiểm trong tay của người

đứng đầu hành pháp, là một sự vi phạm không thể tha thứ trong những phương châm đố

kỵ cộng hòa. Theo một số người, không phần nào của cách sắp xếp chính quyền là không

thể chấp nhận hơn thử nghiệm về những cáo buộc bởi Thượng viện, là thành viên luân

phiên của cả hai bộ phận lập pháp và hành pháp, khi quyền hạn này thuộc về bộ phận tư

pháp một cách quá rõ. Những người khác đáp lại “Chùng tôi hoàn toàn đồng tình”, với

“phản đối phần này của kế hoạch, nhưng chúng tôi có thể không bao giờ đồng ý rằng sự

tham khảo về những cáo buộc đối với quyền hạn tư pháp sẽ là sửa đổi cho sai lầm này.

Cơ bản là chúng tôi không muốn một tổ chức sinh ra từ những quyền hạn to lớn đã đặt

vào ngành tư pháp đó”. Ngay cả trong số những người bảo trợ nhiệt thành cho hội đồng

tiểu bang, biến thể không thể dung hòa nhất được phát hiện liên quan đến thể chế trong

đó nó phải được thiết lập. Yêu cầu của một quý ông là hội đồng cần bao gồm một số nhỏ

những người được bổ nhiệm bởi hầu hết các ngành lập pháp. Những người khác sẽ thích

một số lượng lớn hơn, và xem nó như điều kiện cơ bản mà việc bổ nhiệm này cần được

thực hiện bởi chính Tổng thống.

Vì điều đó có thể không gây xúc phạm đối với những tác giả chống lại kế hoạch của Hiến

pháp liên bang, chúng ta hãy giả thuyết rằng họ là những người nhiệt huyết nhất, như vậy

họ cũng là những người khôn ngoan nhất, người nghĩ rằng các việc đó là không phù hợp

với nhiệm vụ đã giao phó cho họ trong hội nghị vừa qua, và rằng một kế hoạch tốt hơn và

LXXXIX

Page 90: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

khôn ngoan hơn là có thể và sẽ phải được thay thế. Chúng ta hãy giả thuyết xa hơn rằng

đất nước họ nên đồng tình cả về ý kiến có lợi này đối với phẩm chất của họ, và về ý kiến

không có lợi của họ đối với hội nghị; và vì vậy nên tiến tới tổ chức chúng thành một hội

nghị thứ hai, với những quyền hạn đầy đủ, và với mục đích rõ ràng nhằm sửa lại và thiết

lập lại công việc của hội nghị đầu tiên. Cuộc thực nghiệm đã được tiến hành nghiêm túc,

mặc dù nó đòi hỏi một số nỗ lực để xem xét việc đó một cách nghiêm túc thậm chí là

trong tưởng tượng, tôi để mặc nó được quyết định bởi ví dụ về những ý kiến vừa đưa ra,

phải chăng với tất cả sự thù địch của họ đối với những người tiền nhiệm, họ sẽ đi trệch

quá xa khỏi ví dụ họ đưa ra trong bất kỳ điểm nào, vì những cuộc tranh luận của chính họ

sẽ đặc trưng bằng bất hòa và náo động; và liệu Hiến pháp bây giờ truớc khi công khai, sẽ

không có được một cơ hội trường tồn phải có, giống như Lycurgus đã đem lại cho hiến

pháp vùng Sparta bằng việc thực hiện thay đổi nó trong lần trở về từ chốn lưu đày và cõi

chết của chính ông ta, nếu như nó được thông qua ngay lập tức, và được tiếp tục mạnh

mẽ, mà không chờ cho tới khi một bản hiến pháp TỐT HƠN, nhưng cho đến khi bản hiến

pháp KHÁC được chấp nhận bởi hội đồng các nhà lập pháp mới này.

Điều vừa ngạc nhiên vừa đáng tiếc là những người đã nêu ra quá nhiều chỉ trích chống lại

Hiến pháp mới sẽ không bao giờ nhớ rằng các khiếm khuyết của hiến pháp đó phải được

thay đổi. Không cần thiết cái trước đó phải hoàn thiện; có khả năng là cái sau đó lại dở

dang hơn. Sẽ không ai từ chối đổi cỏ lấy bạc hay vàng, chỉ vì trong đó có chứa một số

hợp kim. Cũng không ai từ chối rời khỏi nơi cư ngụ bị tàn phá và đổ nát đổi lấy tòa nhà

rộng rãi và chắc chắn, chỉ vì tòa nhà đó không có cổng vòm, hay bởi vì một số phòng có

thể nhỏ hơn hay lớn hơn chút đỉnh, hoặc vì trần nhà cao hơn hay thấp hơn điều tưởng

tượng mà anh ta đã trù tính cho chúng. Song việc khước từ những chuyện loại này, không

tự nói lên đa phần các phản đối chính yếu đã đưa ra chống hệ thống mới có sức nặng

chục lần chống lại Liên bang hiện hành hay sao? Quyền thu tiền thuế không giới hạn

thuộc sự kiểm soát của chính quyền liên bang có nguy hiểm? Quốc hội hiện nay có thể

ban ra những lệnh trưng thu với bất kỳ khoản tiền nào mà họ thích, và các tiểu bang bị

yêu cầu phải cung cấp chúng một cách hợp hiến; họ có thể phát hành các loại tín dụng

XC

Page 91: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

miễn là chúng sẽ trả thay cho tiền giấy; họ có thể mượn cả ở nước ngoài và trong nước,

miễn là tiền lãi sẽ được thanh toán thêm. Quyền lực không giới hạn trong việc tuyển quân

có nguy hiểm? Liên bang cũng trao cho Quốc hội quyền lực đó; và họ đã bắt đầu sử dụng

quyền đó rồi. Điều không thích hợp và không an toàn là khi kết hợp các quyền lực khác

nhau của chính quyền trong sự kiểm soát của cùng một nhóm người? Quốc hội, chỉ gồm

một nhóm người, là nơi duy nhất giữ mọi quyền lực của liên bang. Điều đó có là đặc biệt

nguy hiểm khi trao chùm chìa khóa ngân khố, và mệnh lệnh quân đội vào cùng một

nguồn? Liên bang trao cả hai việc đó cho Quốc hội kiểm soát. Bản tuyên ngôn nhân

quyền có cần thiết đối với quyền tự do? Liên bang không có bản tuyên ngôn nhân quyền.

Phản đối chống lại hiến pháp mới là vì nó trao quyền hợp pháp cho Thượng viện để thiết

lập các hiệp ước phù hợp các điều luật của địa phương, với sự đồng tình của Hành pháp?

Quốc hội hiện nay, không có bất kỳ sự giám sát nào như vậy, có thể xây dựng các hiệp

ước mà chính họ tuyên bố là điều luật tối cao của địa phương, và hầu hết các tiểu bang

phải công nhận. Việc nhập khẩu các nô lệ được Hiến pháp mới cho phép trong 20 năm?

Theo hiến pháp cũ việc đó được phép vĩnh viễn.

Tôi vẫn phải nói rằng, việc phối hợp quyền lực này tuy nguy hiểm, có thể chỉ là trong lý

thuyết, nó được làm cho vô hại bởi sự phụ thuộc của Quốc hội vào tiểu bang trong cách

thức thực hiện chúng; rằng tuy khối quyền lực có thể là to lớn, nhưng trong thực tế đó là

khối quyền lực khó sử dụng. Tiếp theo, điều thứ nhất, tôi muốn nói rằng Liên bang được

nuôi dưỡng vẫn bằng cách thức rất điên rồ vừa tuyên bố những quyền hạn nhất định của

chính quyền liên bang là tuyệt đối cần thiết, vừa đồng thời làm cho chúng vô hiệu tuyệt

đối; và điều thứ hai là nếu Liên bang được tiếp tục kéo dài mà không được thay thể bởi

chính quyền tốt hơn, những quyền lực hiệu quả hoặc là phải được trao cho, hoặc được

đảm đương bởi Quốc hội hiện hành; với một trong hai sự kiện đó, điều trái ngược vừa

tuyên bố sẽ giữ vững một cách tin cậy. Nhưng điều này không phải là tất cả. Vì khối

quyền lực khó sử dụng này đã trở thành quyền không cần thiết, dẫn tới nhận ra tất cả

những hiểm nguy có thể là đáng ngại do việc thiết lập chính quyền tối cao của Liên bang

một cách khiếm khuyết. Điều đó giờ đây không còn là suy đoán và hy vọng, rằng lãnh

XCI

Page 92: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

thổ miền Tây là nguồn thịnh vượng to lớn cho Hoa Kỳ; mặc dầu nó không có vẻ tự nhiên

như phải giải thoát chúng khỏi những tai họa hiện nay của chúng, hay để trong khoảng

thời gian tới, đạt được bất kỳ nguồn cung cấp thường xuyên cho phí tổn của cộng đồng,

nhưng phải để cho việc đó là có thể thực hiện trong tương lai, dưới sự quản trị phù hợp,

vừa để thanh toán dần các khoản nợ trong nước, và vừa cung cấp những khoản đóng góp

hào phóng cho ngân khố liên bang trong một giai đoạn nhất định. Một phần rất lớn quỹ

này đã được thực hiện bởi các tiểu bang riêng rẽ; và việc đó có thể được làm với lý do

được hy vọng là các tiểu bang còn lại sẽ không tiếp tục giấu nhẹm những bằng chứng

tương tự về sự rộng rãi và vô tư của họ. Do đó, chúng ta có thể tính toán rằng một vùng

quê trù phú và màu mỡ với diện tích tương đương với phạm vi cư ngụ của người Mỹ, sẽ

sớm trở thành kho dự trữ quốc gia. Quốc hội đã đảm đương việc quản lý kho dự trữ này.

Họ đã bắt đầu làm cho nó sinh sôi. Quốc hội đã cam kết làm nhiều hơn: họ đã xúc tiến

hình thành các tiểu bang mới, dựng nên các chính quyền tạm thời, bổ nhiệm các quan

chức cho chúng, và quy định những điều kiện trong đó các tiểu bang này sẽ phải nhập

vào Liên bang. Tất cả những việc này đã được làm; và được thực hiện với không chút sắc

thái nào của quyền lực hợp hiến. Chưa có sai lầm nào được bàn tán, chưa có cảnh báo

nào được đưa ra. Ngân khố LỚN và ĐỘC LẬP của quốc gia được chuyển vào tay của

một NHÓM NGƯỜI DUY NHẤT, những người có thể TUYỂN QUÂN với một SỐ

LƯỢNG KHÔNG GIỚI HẠN, và tiền tương ứng để cung cấp cho họ trong một THỜI

GIAN KHÔNG GIỚI HẠN. Hãy còn có những người, không chỉ là những khán giả im

lặng của viễn cảnh này, mà là những người chủ trương cho hệ thống thể hiện nó; và đồng

thời thúc giục chống lại hệ thống mới bằng những phản đối mà chúng ta đã nghe thấy.

Liệu họ sẽ không hành động kiên định hơn nhằm thúc đẩy việc thiết lập hệ thống mới,

điều đó là không ít cần thiết để bảo vệ Liên bang chống lại các quyền hạn và tiềm lực

tương lai của một tổ chức được thiết lập giống như Quốc hội hiện nay, hơn là bảo vệ nó

khỏi những nguy hiểm bị đe dọa bởi sự bất lực hiện nay của Quốc hội đó?

Với những gì đã nói ở đây, tôi không đưa ra sự phê bình các biện pháp mà Quốc hội đã

theo đuổi. Tôi hiểu được họ không thể làm khác. Quyền lợi cộng đồng, tính cần thiết của

XCII

Page 93: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

hoàn cảnh, đã lạm dụng chúng cho nhiệm vụ vượt quá những giới hạn được hiến định của

họ. Nhưng bằng chứng cảnh báo nguy hiểm bắt nguồn từ chính quyền không có những

quyền lực hợp pháp tương xứng với những mục đích này là không thực tế? Sự tan rã và

tiếm quyền là hai nan đề khủng khiếp liên tục được phơi bày với chính quyền.

PUBLIUS

XCIII

Page 94: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 39

Sự tuân thủ của Dự thảo đối với các nguyên tắc của nền cộng hòa

Gửi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Bài viết trước đã đưa ra những quan sát với ý định đưa ra một cuộc điều tra vô tư về dự

thảo chính phủ đã thông báo trong hội nghị lập hiến, giờ đây chúng ta tiến tới việc thực

hiện phần cam kết đó của chúng tôi. Vấn đề đầu tiên đưa ra là, liệu thể chế và diện mạo

chung của chính quyền là hoàn toàn cộng hòa. Rõ ràng rằng không một dạng nào khác sẽ

có thể dung hòa được các đặc tính của người dân Mỹ; với các nguyên tắc cơ bản của

Cuộc cách mạng; hay với việc quyết định ngay thẳng cổ vũ cho tất cả những ai tôn thờ tự

do, để dựa mọi thử nghiệm chính trị của chúng ta vào khả năng xây dựng chế độ tự quản

của loài người. Do đó, nếu như kế hoạch của hội nghị bị chệch khỏi đặc tính cộng hòa,

những người chủ trương cho nó phải từ bỏ kế hoạch đó vì không còn có thể bào chữa

được.

Vậy thì cái gì là những đặc điểm của thể chế cộng hòa? Câu trả lời cho câu hỏi này phải

rõ ràng, không trở lại với các nguyên tắc, mà bằng việc sử dụng thuật ngữ của các nhà

chính trị trong hiến pháp của các tiểu bang khác nhau, điều thỏa đáng sẽ không bao giờ

được tìm thấy. Hà lan, nơi không có dấu vết nào của quyền lực tối cao được bắt nguồn từ

dân, hầu như đã được chấp nhận hoàn toàn thuộc về thể chế cộng hòa. Danh nghĩa tương

tự đã được trao cho Venice, nơi quyền lực tuyệt đối bên trên một tổ chức dân chúng lớn

được sử dụng bởi một nhóm nhỏ gồm những quý tộc cha truyền con nối, theo phương

thức chính xác nhất. Balan, một hỗn hợp của tầng lớp quý tộc và chế độ quân chủ ở dạng

tồi tệ nhất của chúng, đã được đề cao bằng tên gọi tương tự. Chính quyền Anh quốc, chỉ

có một nhánh cộng hòa, kết hợp với một tầng lớp quý tộc cha truyền con nối và quân chủ,

đã thường xuyên được xếp vào danh sách những nền cộng hòa với sự sai sót tương tự.

XCIV

Page 95: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Những ví dụ này, gần như không giống nhau cũng như khác với một nền cộng hòa chính

cống, chỉ ra sự thiếu chính xác cực kỳ về thuật ngữ đã được sử dụng trong các văn kiện

chính trị.

Nếu chúng ta viện dẫn một tiêu chí cho các nguyên tắc khác nhau trong đó các thể chế

chính quyền khác nhau được dựng lên, chúng ta có thể địng nghĩa nền cộng hòa, hay ít

nhất có thể dành cho cái tên đó là một chính quyền nhận được tất cả các quyền lực của nó

trực tiếp hay gián tiếp từ đa số nhân dân, và được quản trị bởi những người đang nắm giữ

chức vụ của họ trong một giai đoạn hữu hạn với niềm vui thích, hay với thái độ tin cậy.

Điều QUAN TRỌNG với chính phủ này là nó phải được bắt nguồn từ bộ phận xã hội

rông lớn, không phải từ một tỷ lệ không đáng kể, hay một giai cấp được hưởng đặc ân

của nó; cũng không phải một nhúm những quý tộc chuyên chế, sử dụng việc đàn áp của

họ theo sự ủy quyền của họ, có thể khao khát được xếp vào các thể chế cộng hòa, và đòi

hỏi chính phủ của họ được mang tên cộng hòa danh giá. Điều kiện ĐỦ đối với một chính

phủ như vậy là những người quản trị nó được bổ nhiệm, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp bởi

nhân dân; và rằng họ nắm giữ những công việc mà họ được đặt vào theo từng nhiệm kỳ

được định rõ một cách chính xác; nếu không mọi chính phủ ở Hoa Kỳ, cũng như tất cả

các chính quyền phổ biến khác đã hoặc có thể được tổ chức tốt hoặc thực thi tốt, sẽ bị mất

danh giá do đặc điểm cộng hòa. Theo hiến pháp tất cả các tiểu bang trong Liên bang, một

số quan chức này hay khác của chính phủ chỉ được bổ nhiệm gián tiếp bởi nhân dân.

Theo phần lớn các hiến pháp, chính người đứng đầu chính phủ được bổ nhiệm như vậy.

Và theo một hiến pháp, mô hình bổ nhiệm này được mở rộng cho một trong các nhánh

phối hợp của lập pháp. Cũng theo tất cả các hiến pháp, nhiệm kỳ của các quan chức cao

nhất được mở rộng đến một giai đoạn nhất định, tới vài năm, và trong nhiều trường hợp,

cả bên trong bộ phận hành pháp và lập pháp. Lại theo các điều khoản của hầu hết các bản

hiến pháp, cũng như theo các ý kiến được chấp nhận và đứng đắn nhất về chủ đề này, các

thành viên của ban tư pháp phải duy trì công việc của họ với cư xử tin cậy trong nhiệm

kỳ không thay đổi.

XCV

Page 96: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Bằng việc so sánh bản Hiến pháp dự thảo bởi hội nghị với tiêu chuẩn cố định ở đây,

chúng tôi ngay lập tức nhận thấy rằng bản hiến pháp đó là phù hợp với nó trong ý nghĩa

khắt khe nhất. Hạ viện, giống như ít nhất một nhánh của tất cả các cơ quan lập pháp các

tiểu bang, được bầu trực tiếp bởi đa số nhân dân. Thượng viện, giống như Quốc hội hiện

nay, và thượng viện bang Maryland, nhận được sự bổ nhiệm gián tiếp từ nhân dân. Tổng

thống được bầu gián tiếp bởi sự lựa chọn của người dân, theo như trong phần lớn các tiểu

bang. Thậm chí tư pháp, với tất cả các quan chức khác của Liên bang sẽ được chọn thông

qua việc lựa chọn từ xa của chính nhân dân, như trong một vài tiểu bang, khoảng thời

gian được bổ nhiệm cũng phù hợp với tiêu chuẩn cộng hòa, và với mô hình các hiến pháp

tiểu bang. Hạ nghị viện được bầu cử theo chu kỳ, như trong tất cả các tiểu bang; và cho

giai đoạn 2 năm một như tiểu bang South Carolina. Thượng viện được bầu chọn cho giai

đoạn 6 năm một; là nhiều hơn 1 năm so với Thượng viện của bang New York và

Virginia. Tổng thống được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 4 năm; như quan tổng trấn được bầu

cho 3 năm ở New York và Delaware, và 2 năm ở South Carolina. Ở các tiểu bang khác

bầu cử diễn ra hàng năm. Tuy nhiên ở một vài tiểu bang, không có điều khoản hợp hiến

nào được thiết lập đối với việc buộc tội người đứng đầu nhà nước. Và ở Delaware và

Virginia ông ta không thể bị buộc tội cho đến khi rời khỏi chức vụ. Tổng thống của Hoa

Kỳ không thể bị buộc tội vào bất kỳ lúc nào trong suốt thời gian cầm quyền của ông ta.

Các việc xét xử được ngưng trong nhiệm kỳ để cho các vị trí họ nắm giữ được vận hành

tốt, vì điều đó là không thể tranh cãi. Nhiệm kỳ của các quan chức dạng bộ trưởng nhìn

chung, sẽ được luật pháp điều chỉnh, phù hợp với hoàn cảnh và tiền lệ của các hiến pháp

tiểu bang.

Có thể đòi hỏi thêm bằng chứng khác nữa cho hình thái cộng hòa của hệ thống này, điều

trước tiên mà chúng ta có thể được nhận thấy là lệnh cấm tuyệt đối việc sử dụng các tước

hiệu cao quý của nó, cả theo điều luật của các chính phủ tiểu bang và liên bang; và việc

bảo đảm rõ ràng thể chế cộng hòa của nó cho mỗi tiểu bang.

XCVI

Page 97: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Những người chống lại bản hiến pháp đề nghị nói, “Nhưng điều đó không đủ để cho hội

nghị tôn trọng triệt để thể chế cộng hòa. Với sự thận trọng tương tự, họ phải duy trì được

thể chế LIÊN BANG, xem liên bang như một LIÊN MINH gồm các tiểu bang có chủ

quyền; thay cho cái mà họ đã định hình nên một chính quyền QUỐC GIA xem liên bang

như là HỢP NHẤT của các tiểu bang.” Và điều được đặt ra với quyền lực nào mà việc

đổi mới cơ bản và dũng cảm này đã được cam kết? Việc xử lý vấn đề liên quan đến phản

đối này đòi hỏi điều đó phải được tra xét với độ chính xác nào đó.

Nếu không thẩm tra độ chính xác của những khác biệt về điều mà sự phản đối dựa vào, sẽ

cần phải đánh giá chính xác về áp lực của nó, thứ nhất để bảo đảm tích hiện thực của

chính phủ đang được bàn bạc; thứ hai để xem xét hội nghị lập hiến đã được cho phép đến

mức độ nào để đặt ra chính phủ này; và thứ ba là nhiệm vụ mà họ có bổn phận với đất

nước đến chừng mực.có thể đưa ra mọi khiếm khuyết của quyền lực thông thường.

Đầu tiên, để bảo đảm tính hiện thực của chính quyền, nó có thể được xem xét trong quan

hệ với cơ sở mà nó đã được thiết lập; với những nguồn mà từ đó các quyền lực thông

thường của nó được đưa ra; với sự điều hành những quyền lực đó; với phạm vi của

chúng; và với quyền lực mà theo đó những thay đổi trong tương lai của chính phủ phải

được đưa vào.

Khi xem xét mối quan hệ đầu tiên, một mặt dường như rằng Hiến pháp đã được thiết lập

dựa trên sự đồng thuận và phê chuẩn của nhân dân Mỹ, đưa ra bởi những người đại diện

của dân đã bầu chọn cho mục đích đặc biệt này; nhưng mặt khác là sự đồng thuận và phê

chuẩn này phải được nhân dân đưa ra, không giống như những cá nhân tạo nên một quốc

gia toàn vẹn, mà được tạo nên bởi những tiểu bang độc lập riêng rẽ với liên bang mà

chúng lần lượt thuộc về. Đó có thể là sự đồng ý và phê chuẩn của một vài tiểu bang, bắt

nguồn từ quyền lực tối cao trong mỗi tiểu bang, quyền lực của chính nhân dân. Do đó,

đạo luật thiết lập Hiến pháp sẽ không phải là đạo luật QUỐC GIA mà là luật LIÊN

BANG.

XCVII

Page 98: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Rằng đó sẽ là một đạo luật liên bang không phải luật quốc gia, như các thuật ngữ này đã

được hiểu bởi những người phản đối; vì được hình thành từ rất nhiều tiểu bang độc lập

mà không phải từ một quốc gia hợp nhất, đạo luật đó của nhân dân trở nên rõ ràng bằng

việc xem xét đơn giản, rằng nó được hình thành do quyết định của ĐA SỐ người dân liên

bang, không phải từ người dân của ĐA SỐ tiểu bang. Nó phải xuất phát từ việc ĐỒNG

THUẬN của một vài tiểu bang tham gia vào đó, cũng không khác với sự đồng ý thông

thường của họ hơn dạng đã được thể hiện, không phải vì quyền lập pháp, mà bởi quyền

lực của chính nhân dân. Nhân dân đã quan tâm đến văn kiện này như là việc thành lập

quốc gia, nguyện vọng của đa số toàn thể nhân dân của hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ ràng

buộc thiểu số, theo phương thức tương tự giống như đa số trong mỗi tiểu bang phải ràng

buộc thiểu số; và nguyện vọng của đa số hẳn phải được xác định hoặc bởi việc so sánh

các lá phiếu riêng, hoặc bởi việc xem xét ý nguyện của đa số các tiểu bang như là bằng

chứng của nguyện vọng của đa số người dân Hoa Kỳ. Không điều luật nào trong những

luật này được chấp nhận. Bằng việc phê chuẩn Hiến pháp, mỗi tiểu bang được xem như

những đơn vị có chủ quyền, độc lập với tất cả các tiểu bang khác, và chỉ bị ràng buộc bởi

chính đạo luật tự nguyện của nó. Trong mối quan hệ này thì Hiến pháp mới nếu thiết lập

được, sẽ là hiến pháp LIÊN BANG, không phải là hiến pháp QUỐC GIA .

Liên quan tiếp theo là quan hệ với các nguồn mà từ đó những quyền lực thông thường

của chính phủ phải được sinh ra. Hạ viện sẽ nhận được các quyền lực của nó từ nhân dân

Mỹ; và người dân sẽ được đại diện theo cùng tỷ lệ, cùng nguyên tắc như họ đại diện trong

cơ quan lập pháp của một tiểu bang riêng. Ở mức độ này thì chính phủ là QUỐC GIA,

không phải là LIÊN BANG. Mặt khác, Thượng viện sẽ nhận được quyền lực của nó từ

các tiểu bang, giống như các đoàn thể chính trị ngang hàng: và những quyền lực này sẽ

được đại diện trên nguyên tắc tôn trọng tính bình đẳng trong Thượng viện, như hiện

chúng đang có trong quốc hội. Với mức độ như vậy, chính phủ sẽ là LIÊN BANG, không

phải QUỐC GIA. Quyền lực của hành pháp sẽ được sinh ra từ một nơi rất phức hợp. Bầu

cử trực tiếp Tổng thống phải được thực hiện bởi các tiểu bang với những đặc trưng chính

XCVIII

Page 99: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

trị của chúng. Những lá phiếu giao cho chúng với một tỷ lệ phức hợp, một phần coi

chúng như những đoàn thể khác biệt ngang hàng, một phần như những thành viên không

ngang hàng trong cùng một đoàn thể. Hơn nữa, bầu cử cuối cùng phải được thực hiện bởi

nhánh đó của lập pháp bao gồm những người đại diện của quốc gia; nhưng theo đạo luật

đặc biệt này họ phải được tính vào dạng những sự ủy quyền riêng, từ rất nhiều đoàn thể

khác biệt và ngang hàng về chính trị. Trên khía cạnh này của chính phủ, dường như nó

thuộc về một đặc tính hỗn hợp ít nhất là thể hiện các đặc tính LIÊN BANG cũng nhiều

như tính chất QUỐC GIA.

Liên quan đến việc ĐIỀU HÀNH CỦA CHÍNH PHỦ, sự khác biệt giữa chính phủ liên

bang và quốc gia được giả thiết ở đây, là trong chính phủ liên bang các quyền lực thực thi

dựa trên các đoàn thể chính trị hình thành nên liên bang, với khả năng chính trị của họ;

trong chính phủ quốc gia thì dựa trên các công dân riêng biệt cấu thành quốc gia, với

năng lực cá nhân của họ. Bằng việc xem xét Hiến pháp theo tiêu chí này, nó rơi vào đặc

tính QUỐC GIA, mà không phải LIÊN BANG, mặc dầu có lẽ không thật hoàn chỉnh như

đã được hiểu. Trong một vài trường hợp, và nhất là trong việc xem xét những cuộc tranh

luận có thể là với các đảng phái của các tiểu bang nào đó, họ phải được xem xét và khởi

kiện theo khả năng tập hợp và năng lực chính trị của chính họ. Trên khía cạnh này, diện

mạo quốc gia của chính phủ có vẻ như đã bị làm cho méo mó bởi một vài đặc tính liên

bang. Song nhược điểm này có lẽ là không thể tránh khỏi trong bất kỳ dự thảo nào; và sự

điều hành của chính phủ dựa vào nhân dân, với năng lực cá nhân của họ, theo các văn

bản thông thường và quan trọng nhất của nó, có thể định rõ một cách tổng quát dựa trên

mối quan hệ này, đó là chính phủ QUỐC GIA.

Nhưng nếu chính phủ là quốc gia liên quan đến việc ĐIỀU HÀNH các quyền lực của nó,

nó thay đổi diện mạo của mình một lần nữa khi chúng ta suy ngẫm về nó trong mối quan

hệ với PHẠM VI quyền lực của nó. Ý tưởng của một chính quyền quốc gia bao hàm

trong đó không chỉ một quyền lực bên trên các công dân riêng lẻ, mà còn là một uy quyền

tối cao không hạn định bên trên tất cả mọi người và sự vật, đến mức chúng chỉ là các đối

XCIX

Page 100: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

tượng của một chính phủ hợp pháp. Trong một dân tộc đã hợp nhất thành quốc gia, quyền

lực tối cao này được giao phó hoàn toàn cho cơ quan lập pháp của quốc gia. Trong những

cộng đồng hợp nhất vì các mục đích riêng, nó được giao phó một phần cho cơ quan lập

pháp trung ương và một phần cho các cơ quan lập pháp các thành phố. Ở trường hợp đầu,

tất cả các quan chức địa phương phụ thuộc quan chức cao nhất; và có thể bị kiểm soát,

định hướng, hoặc bãi chức một cách tùy ý. Ở trường hợp sau, các quan chức địa phương

hay thành phố hình thành quyền lực tối cao với những tỷ lệ độc lập và khác biệt, với

phạm vi tương ứng của họ không còn tùy thuộc vào quyền lực trung ương, mà quyền lực

trung ương, trong phạm vi ảnh hưởng của nó tùy thuộc vào họ. Trong mối liên quan này

thì chính phủ đề nghị không thể được coi là chính quyền QUỐC GIA; bởi vì phạm vi

quyền hạn của nó chỉ mở rộng tới các đối tượng được liệt kê nhất định, và phó mặc cho

một vài tiểu bang chủ quyền còn lại bất khả xâm phạm bên trên mọi đối tượng khác. Sự

thật là trong những cuộc tranh luận liên quan đến biên giới giữa hai phạm vi quyền lực,

cuối cùng tòa án, được thiết lập bên dưới chính quyền trung ương, phải quyết định.

Nhưng điều này không làm thay đổi các nguyên tắc của vụ việc. Quyết định phải được

thiết lập một cách công bằng, tuân theo các nguyên tắc của Hiến pháp; tất cả những biện

pháp đề phòng thông thường và có giá trị pháp lý nhất phải được đưa ra để bảo đảm tính

công bằng này. Một số tòa án loại này rõ là cần thiết để ngăn cản bị lôi kéo vào việc phân

định bằng chiến tranh và sự tan rã của các hiệp ước; và rằng nó phải được thiết lập bên

dưới chính quyền trung ương hơn là dưới các chính quyền địa phương, hay nói một cách

phù hợp hơn là nó có thể được thiết lập một cách an toàn, duy nhất dưới chính quyền

trung ương, là vị trí không bao giờ bị chống phá.

Nếu chúng ta xem xét Hiến pháp theo mối liên quan cuối cùng của nó với quyền mà theo

đó những sửa đổi phải được thiết lập, chúng ta thấy nó không phải là QUỐC GIA hoàn

toàn mà cũng không phải LIÊN BANG hoàn toàn. Là chính phủ quốc gia hoàn toàn thì

quyền lực tối cao sau cùng sẽ ở trong tay ĐA SỐ nhân dân của Liên bang; và quyền lực

này sẽ phải luôn luôn có hiệu lực để thay đổi và bãi bỏ chính phủ được nó thiết lập, giống

như quyền lực của đa số trong mọi thể chế quốc gia. Mặc khác, là chính phủ liên bang, sự

C

Page 101: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đồng tình của mỗi tiểu bang trong Liên bang sẽ cần thiết cho tất cả những thay đổi sẽ bắt

buộc mọi tiểu bang tuân theo. Phương thức được dự thảo của hội nghị đưa ra không dựa

vào cái nào trong hai nguyên tắc này. Bằng việc đòi hỏi nhiều hơn một đa số và các

nguyên tắc. Với việc đòi hỏi hơn một đa số, và đặc biệt là bằng việc tính toán tỷ lệ của

các TIỂU BANG, mà không phải là những CÔNG DÂN, chính phủ đi chệch khỏi đặc

tính QUỐC GIA và tiến dần tới đặc tính LIÊN BANG; bằng việc làm cho sự đồng thuận

của ít hơn toàn bộ các tiểu bang có thẩm quyền, nó lại mất đặc tính LIÊN BANG và chia

sẻ đặc tính QUỐC GIA.

Do đó, Hiến pháp đề nghị chính xác không phải là liên bang và cũng không phải là quốc

gia, mà là một phức hợp của cả hai. Về nền tảng nó là liên bang, không phải quốc gia: về

nguồn gốc mà các quyền lực thông thường của chính phủ được sinh ra, nó có một phần là

liên bang, một phần là quốc gia; về sự thực thi các quyền lực này, nó là quốc gia, không

phải liên bang; về phạm vi của quyền lực, một lần nữa nó là liên bang, không phải quốc

gia; và cuối cùng về phương thức thể hiện thẩm quyền đưa ra những sửa đổi bổ sung, nó

không hoàn toàn là liên bang cũng không hoàn toàn là quốc gia.

PUBLIUS

CI

Page 102: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 40

Các quyền của Hội nghị thành lập một chính phủ hỗn hợp phải được

giám sát và duy trì

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Điểm THỨ HAI cần phải giám sát là liệu hội nghị đã được cho phép để định hình và đề

nghị bản Hiến pháp hỗn hợp này.

Các quyền của hội nghị, phải được xác định một cách nghiêm ngặt bởi sự giám sát kỹ

càng của các ủy ban trao cho các thành viên đại diện cho những nhóm cử tri tương xứng

với họ. Tuy nhiên, vì tất cả những điều này được tham khảo hoặc do khuyến cáo của hội

nghị tại Annapolis vào tháng 9 năm 1786, hay khuyến cáo của Quốc hội vào tháng 2 năm

1787, sẽ là đầy đủ để nhắc lại các đạo luật đặc biệt này.

Điều luật Annapolis khuyến cáo “việc bổ nhiệm những người đại diện phải xem xét đến

hiện trạng của Hoa Kỳ; để đặt ra NHỮNG ĐIỀU KHOẢN THẬT THẤU ĐÁO vì dường

như sẽ cần cho họ nhằm tạo ra Hiến pháp của chính quyền liên bang PHÙ HỢP VỚI

TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP CỦA LIÊN BANG; và để báo cáo một đạo luật như thế cho

mục đích đó lên Quốc hội được triệu tập của nước Mỹ, khi họ đồng ý, và được các cơ

quan lập pháp của tất cả các tiểu bang xác nhận sau đó, sẽ thiết lập một cách hiệu quả

tương tự.”

Đạo luật được Quốc hội giới thiệu nằm trong tuyên bố sau: “TRONG KHI, có điều khoản

trong Bộ luật Liên minh và Liên bang suốt đời, dùng để đưa ra những thay đổi trong đó,

bởi sự đồng thuận của một Quốc hội Hoa Kỳ, và của các cơ quan lập pháp một vài tiểu

bang; và trong khi kinh nghiệm đã cho thấy rằng có những khiếm khuyết trong Liên bang

hiện tại; như một biện pháp sửa chữa mà một vài tiểu bang; và ĐẶC BIỆT LÀ BANG

CII

Page 103: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

NEW YORK, bằng cách đưa ra những chỉ dẫn cho những người đại diện họ trong Quốc

hội, đã gợi ý một hội nghị với những mục đích được bày tỏ trong quyết nghị dưới đây; và

hội nghị này dường như là phương thức khả thi nhất để thiết lập một CHÍNH QUYỀN

QUỐC GIA VỮNG MẠNH trong các tiểu bang này:

Quyết định, Điều đó là phù hợp với ý kiện của Quốc hội, rằng vào ngày thứ hai tuần thứ

2 của tháng 5 tới một hội nghị gồm những người đại diện, người hẳn sẽ phải được một số

tiểu bang bổ nhiệm, sẽ được tổ chức tại Philadelphia, với mục đích đặc biệt và duy nhất

là SỬA LẠI BỘ ĐIỀU LUẬT LIÊN BANG, báo cáo với Quốc hội và một vài cơ quan

lập pháp NHỮNG ĐIỀU KHOẢN VÀ NHỮNG SỬA ĐỔI TRONG ĐÓ, như khi sẽ

được Quốc hội phê chuẩn, và được xác nhận bởi các tiểu bang, làm cho bản Hiến pháp

liên bang PHÙ HỢP VỚI TÍNH CẤP BÁCH CỦA CHÍNH PHỦ VÀ DUY TRÌ LIÊN

BANG..”

Điều sinh ra từ 2 đạo luật này là, thứ nhất, đối tượng của hội nghị là để thiết lập MỘT

CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VỮNG MẠNH trong các tiểu bang này; thứ hai, chính phủ

này là chẳng hạn sẽ phải PHÙ HỢP VỚI TÍNH CẤP BÁCH CỦA CHÍNH PHỦ và DUY

TRÌ LIÊN BANG; thứ ba, các mục tiêu này sẽ phải có hiệu lực bởi NHỮNG THAY ĐỔI

VÀ NHỮNG ĐIỀU KHOẢN TRONG BỘ ĐIỀU LUẬT LIÊN BANG, như nó được thể

hiện trong đạo luật của Quốc hội, hay bởi CÁC ĐIỀU KHOẢN THẬT THẤU ĐÁO SẼ

SINH RA NHƯ CẦN CÓ, khi nó đại diện cho đạo luật khuyến cáo từ hội nghị

Annapolis; thứ tư, những sửa đổi và điều khoản phải được báo cáo với Quốc hội, và các

tiểu bang, để được phê chuẩn bởi quốc hội và xác nhận bởi các tiểu bang.

Quyền lực chi phối hành động của hội nghị đã được luận ra từ việc so sánh và thiết lập

một cách hợp lý một vài phương thức thể hiện luật này. Họ phải định hình nên một

CHÍNH PHỦ QUỐC GIA, phù hợp với TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP CỦA CHÍNH PHỦ,

và CỦA LIÊN BANG; và để rút gọn bộ luật liên bang thành dạng như là để hoàn thành

các mục đích này.

CIII

Page 104: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Có hai nguyên tắc xây dựng, được tuyên bố bởi lý do rõ ràng, cũng như căn cứ vào các

tiên đề dựa trên luật pháp. Thứ nhất là, tất cả các phần thể hiện nếu có thể phải được cho

phép mang một số nghĩa, và phải được thực hiện để gộp với một số mục đích chung. Thứ

hai là, nơi mà một vài phần không thể thực hiện được đồng thời, phần ít quan trọng phải

nhượng bộ phần quan trọng nhiều hơn; các phương tiện phải được hy sinh cho mục đích

này, hơn là mục đích hy sinh cho phương tiện.

Tiếp theo, giả sử rằng những định nghĩa xác định rõ quyền lực của hội nghị là mâu thuẫn

với nhau đến mức không thể hòa hợp; rằng một CHÍNH PHỦ QUỐC GIA và PHÙ HỢP

có thể không hiện thực, vì bị chi phối bởi NHỮNG THAY ĐỔI và NHỮNG ĐIỀU

KHOẢN trong BỘ LUẬT LIÊN BANG theo đánh giá của hội nghị; phần nào của định

nghĩa phải được gồm vào, và phần nào phải loại bỏ? Phần nào là quan trọng, phần nào ít

quan trọng hơn? Cái nào là mục đích; cái nào là phương tiện? Hãy để cho những người

thận trọng nhất giải thích các quyền lực được giao phó; để cho những người phản đối

thâm căn cố đế nhất chống lại những điều được hội nghị thực hiện đó, trả lời các câu hỏi

này. Để cho họ tuyên bố, liệu điều đó có là quan trọng nhất đối với hạnh phúc của người

dân Mỹ, rằng bộ điều luật liên bang phải bị xem nhẹ, và một chính phủ phù hợp phải

được thiếp lập, liên bang được bảo đảm; hay là nên loại bỏ chính phủ thích hợp, mà duy

trì bộ điều luật liên bang. Để họ tuyên bố xem phải chăng việc duy trì các điều luật này là

mục đích để bảo đảm việc cải cách chính phủ được đưa vào như phương tiện; hay việc

thiết lập chính phủ phù hợp với hạnh phúc quốc gia, là mục đích mà qua đó chính những

điều luật này nhắm đến trước tiên, và họ buộc phải hy sinh cho nó vì thiếu phương tiện.

Nhưng có cần giả thiết rằng những định nghĩa này không thể hòa hợp hoàn toàn với nhau;

rằng không có CÁC THAY ĐỔI hay CÁC ĐIỀU KHOẢN nào trong BỘ ĐIỀU LUẬT

LIÊN BANG có thể hiện thực đúc chúng thành một chính phủ quốc gia phù hợp; thành

chính phủ như đã được hội nghị đề xuất?

CIV

Page 105: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Không cần lo lắng, trong trường hợp này, nó được cho là sẽ được đặt trên TIÊU ĐỀ; sự

thay đổi điều đó không bao giờ có thể được xem như việc thực hiện quyền lực không

được giao phó. NHỮNG SỬA ĐỔI trong phần chính yếu của văn kiện là hoàn toàn được

phép. CÁC ĐIỀU KHOẢN MỚI trong đó cũng hoàn toàn được phép. Vậy thì đây là

quyền thay đổi tiêu đề; để đưa vào những điều luật mới; để thay đổi điều luật cũ. Có bắt

buộc phải chấp nhận rằng quyền lực này bị xâm phạm; miễn sao một phần của các điều

luật cũ vẫn còn? Những người vẫn giữ lời khẳng định đó ít nhất phải đánh dấu ranh giới

giữa những cách tân được cho phép và bị ép buộc; giữa mức độ thay đổi nằm trong phạm

vi những SỬA ĐỔI VÀ CÁC ĐIỀU KHOẢN THẤU ĐÁO, và sự thay đổi đó chẳng khác

gì VIỆC CHUYỂN ĐỔI của chính phủ. Sẽ có người nói rằng những thay đổi phải không

được đụng chạm đến sự vững chắc của Liên bang? Các tiểu bang hẳn sẽ không bao giờ

chỉ định một hội nghị quá trọng thể, cũng không diễn tả các mục tiêu của nó với nhiều

quyền lực rộng rãi như vậy, nếu một số cải cách TRỌNG YẾU đã không được suy tính.

Sẽ có người nói rằng CÁC NGUYÊN TẮC CĂN BẢN của Liên bang không nằm trong

những điều khoản có tính nội dung của hội nghị, và sẽ không được thay đổi? Chúng tôi

hỏi lại, các nguyên tắc này là gì? Họ đòi hỏi rằng trong việc thiết lập Hiến pháp, các tiểu

bang phải được xem như những vùng chủ quyền độc lập khác biệt? Chúng phải được xem

xét như thế với Hiến pháp đề nghị. Họ yêu cầu các thành viên của chính phủ phải nhận

được sự bổ nhiệm từ cơ quan hành pháp, mà không phải là dân chúng các tiểu bang? Một

nhánh của chính phủ mới phải được bổ nhiệm bởi những cơ quan hành pháp này; và tuân

theo bộ luật liên bang, CÓ THỂ TẤT CẢ những người đại diện trong Quốc hội được bổ

nhiệm trực tiếp bởi nhân dân, và họ thực sự được bổ nhiệm theo cách đó trong 2 tiểu

bang [Connecticut and Rhode Island]. Họ lại đòi hỏi rằng quyền lực của chính phủ phải

tác động đến các tiểu bang, mà không tác động trực tiếp đến các cá nhân? Như đã được

chỉ ra trong một số trường hợp, quyền lực của chính phủ mới sẽ ảnh hưởng đến các tiểu

bang theo những đặc trưng chung của chúng. Cũng vậy, trong một số trường hợp, những

quyền lực đó của chính phủ hiện hành ngay lập tức ảnh hưởng đến các cá nhân. Trong

các trường hợp bắt giữ; vì cướp biển; vì bưu điện; vì tiền bạc, trách nhiệm, và cách hành

xử; vì buôn bán với người da đỏ; vì những tuyên bố cấp đất của các tiểu bang khác nhau;

CV

Page 106: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

và trên hết, trong trường hợp những tố tụng bởi cảnh sát trưởng tòa án binh trong quân

đội và hải quân, có thể bị buộc tội chết mà không có sự can thiệp của bồi thẩm đoàn, hay

thậm chí của một quan toàn dân sự; trong tất cả những trường hợp này quyền lực của liên

bang thực thi ngay lập tức dựa vào những cá nhân và các quyền lợi của những công dân

riêng lẻ. Rõ ràng, những nguyên tắc căn bản này có đòi hỏi rằng không khoản thuế nào sẽ

được thu mà không thông qua các cơ quan trung gian của các tiểu bang? Chính Liên bang

ban hành khoản thuế trực tiếp với mức độ nhất định đánh lên bưu điện. Quyền đúc tiền đã

được Quốc hội giải thích là để thu một khoản thuế trực tiếp cũng từ nguồn đó. Song bỏ

qua các trường hợp này, điều đó không phải là mục đích được thừa nhận của hội nghị và

trông đợi chung của dân chúng, rằng những quy tắc thương mại phải được đệ trình cho

chính phủ trung ương ở dạng như thể sẽ làm cho nó thành một nguồn thu nhập trực tiếp

của trung ương? Quốc hội đã không khuyến cáo lại biện pháp này vì không mâu thuẫn

với các nguyên tắc căn bản của Liên bang? Không phải tất cả các tiểu bang mà là một

tiểu bang; không phải chính New York đã tuân thủ kế hoạch của Quốc hội đến mức nhận

ra NGUYÊN TẮC của việc cải cách? Các nguyên tắc này, nói ngắn gọn luôn đòi hỏi rằng

quyền lực của chính phủ trung ương phải bị dưới hạn, và rằng vượt qua giới hạn này, các

tiểu bang phải được để mặc cho hành động trong chủ quyền và độc lập của chúng? Chúng

tôi thấy rằng trong chính phủ mới, cũng như chính phủ cũ, các quyền lực của chính quyền

trung ương bị hạn chế; và rằng các tiểu bang được để mặc cho có được quyền thực thi

pháp luật độc lập và có chủ quyền, trong tất cả các trường hợp không được liệt kê ra.

Sự thực là, các nguyên tắc cao cả của bản Hiến pháp được đề nghị bởi hội nghị có thể

được xem là mới hoàn toàn ít hơn xem như sự mở rộng các nguyên tắc được thấy trong

bộ điều luật Liên bang. Điều không may của hệ thống sau là các nguyên tắc này quá yếu

kém và bị giới hạn trong việc biện hộ cho tất cả những nhiệm vụ không hiệu quả được

thúc đẩy chống lại nó, và đòi hỏi việc mở rộng tới mức sẽ làm cho hệ thống mới có được

diện mạo của sự biến đổi toàn diện hệ thống cũ.

CVI

Page 107: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Trong một trường hợp, người ta đã thừa nhận rằng hội nghị đã chệch khỏi nội dung chính

trong nhiệm vụ của họ. Thay cho việc báo cáo một kế hoạch đòi hỏi sự phê chuẩn CỦA

CÁC CƠ QUAN LẬP PHÁP TẤT CẢ CÁC TIỂU BANG, họ đã báo cáo một dự thảo

phải được phê chuẩn bởi NHÂN DÂN, và có thể giành được hiệu lực thi hành của CHỈ 9

TIỂU BANG. Điều đó ứng với nhận xét rằng, dù là hợp lý nhất, điều bị phản đối này chí

ít đã thúc đẩy các ấn phẩm được tập hợp chống lại hội nghị. Sự kiên nhẫn chỉ có thể xuất

phát từ một niềm tin không thể cưỡng lại về sự phi lý để số phận của 12 tiểu bang tùy

thuộc vào sự ngoan cố và mục rỗng của bang thứ 13; từ thí dụ về sự chống đối bất di bất

dịch đưa ra bởi một ĐA SỐ gồm một phần sáu mươi dân Mỹ đối với biện pháp đã phê

chuẩn và có tính đến thế lực của 12 tiểu bang, gồm 59 phần 60 dân số là ví dụ vẫn còn

mới nguyên trong tâm thức và sự phẫn nộ của mọi công dân người đã cảm thông cho sự

thịnh vượng và danh giá của bị tổn thương đất nước mình. Do đó, vì điều bị phản đối này

thuộc phương thức bị từ bỏ bởi những người đã chỉ trích các quyền lực của hội nghị,

chúng tôi bỏ qua nó mà không xem xét nó tiếp.

Điểm THỨ BA phải được tìm hiểu là, những xem xét về nhiệm vụ phát sinh xa đến mức

vượt ra khỏi trường hợp mà chính nó đã có thể đưa ra bất kỳ khiếm khuyết nào của quyền

lực hợp pháp.

Trong những điều tra trước, các quyền lực của hội nghị đã được phân tích và xem xét với

cùng mức độ chặt chẽ, và bởi cùng nguyên tắc như thể chúng đã là các quyền hiện thực

cuối cùng để thiết lập bản Hiến pháp cho Hoa Kỳ. Chúng ta đã thấy bằng phương thức

nào chúng đã sinh ra việc xét xử thậm chí dựa trên giả thuyết đó. Bây giờ là lúc để nhớ

lại rằng các quyền hạn này đơn thuần chỉ là tư vấn và khuyến cáo; rằng chúng có ý nghĩa

theo từng tiểu bang, và được hiểu như thế bởi hội nghị; và vậy nên sau đó hội nghị đã dự

thảo và đề nghị một bản Hiến pháp không quan trọng hơn các văn bản được viết trong đó,

trừ khi việc đó được chứng tỏ bằng sự tán thành của những người mà nó đã nhắm tới. Suy

ngẫm này đặt chủ thể vào quan điểm hoàn toàn khác, và sẽ cho phép chúng ta xét đoán

với tính đúng đắn của đường lối mà hội nghị đã đưa ra.

CVII

Page 108: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Chúng ta hãy xem xét lý lẽ mà hội nghị đã dựa vào. Điều có thể suy ra từ các văn bản

trước đó của họ rằng họ đã bị ấn tượng một cách sâu sắc và đồng lòng bởi khủng hoảng,

mà gần như đã đồng tâm nhất trí đưa đất nước họ đến thực hiện một thử nghiệm phi

thường và trang nghiêm để sửa đổi những sai lầm của hệ thống mà theo đó cuộc khủng

hoảng này đã xảy ra; rằng họ đã bị thuyết phục không ít sâu sắc và nhất trí rằng cuộc cải

cách như họ đã đề nghị là tuyệt đối cần thiết để hiện thực hóa các mục tiêu mà họ được

giao phó. Điều mà họ đã không thể không hay biết là những niềm hy vọng và trông đợi

của đa số công dân khắp nơi trên đất nước to lớn này, đã hướng tới sự kiện trong các cuộc

bàn thảo của họ với sự lo lắng khủng khiếp. Họ đã có tất cả lý do để tin rằng những tình

cảm trái ngược đã khuấy động những con tim và khối óc của mọi kẻ thù bên trong và bên

ngoài chống lại sự tự do và sự thịnh vượng của nước Mỹ. Họ đã xem xét nguồn gốc và sự

tiến triển của thử nghiệm, sự sốt sắng với ĐỀ XUẤT, được đưa ra bởi một tiểu bang duy

nhất (Virginia), đối với việc sửa đổi từng phần Liên bang, đã được chú ý và thúc đẩy. Họ

đã thấy SỰ TỰ DO ĐƯỢC THỪA NHẬN bởi RẤT ÍT người đại diện từ RẤT ÍT tiểu

bang, đã được triệu tập tại Annapolis, nhằm khuyến cáo một mục tiêu then chốt và cao

cả, hoàn toàn xa lạ với nhiệm vụ của họ, không chỉ được thanh minh bởi ý kiến của cộng

đồng, mà thực tế còn được thực hiện bởi 12 trong 13 tiểu bang. Họ đã nhận thấy trong

hàng loạt các trường hợp, sự gánh vác của Quốc hội không chỉ có khuyến cáo, mà còn

điều hành, cung cấp, đảm bảo bằng các đánh giá chung bởi những lý do và mục đích ít

cấp bách hơn bởi việc mà cách quản trị của họ đã được giám sát. Họ hẳn phải suy ngẫm

rằng với tất cả những thay đổi lớn của các chính phủ, các thể chế đã thiết lập phải đi đến

chỗ vững vàng; rằng sự tham gia cứng nhắc vào thể chế trước trong các trường hợp này

sẽ làm nhỏ bé và vô dụng quyền quý giá và hơn hẳn của người dân tới mức “bãi bỏ hoặc

thay đổi các chính phủ của họ vì dường như đối với họ sẽ có khả năng nhất để mang lại

sự an toàn và hạnh phúc” [Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ], vì không thể để cho nhân dân

chuyển sang phối hợp hướng tới mục tiêu của họ một cách phổ biến và tự nhiên; và do đó

điều cần thiết là những thay đổi này phải được xây dựng bởi một số ĐỀ XUẤT KHÔNG

CHÍNH THỨC VÀ KHÔNG ĐƯỢC ỦY QUYỀN, đưa ra bởi một số công dân ái quốc

CVIII

Page 109: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

và đáng kính hay bởi nhiều công dân. Chúng hẳn phải gợi lại rằng đó là vì đặc quyền có

vẻ bất thường và không có thật này trong việc đề nghị với nhân dân những kế hoạch đối

với sự an toàn và hạnh phúc của họ, rằng các tiểu bang lần đầu tiên đã thống nhất chống

lại hiểm nguy đe dọa họ bởi chính phủ cũ của họ; rằng các ủy ban và quốc hội đã được

hình thành để tập trung những nỗ lực của họ và bảo đảm các lợi ích của họ; và rằng CÁC

HỘI NGHỊ đã được CHỈ ĐỊNH ở MỘT VÀI TIỂU BANG để thiết lập các hiến pháp mà

giờ đây họ bị chi phối bởi nó; cũng không thể quên rằng có không ít những lưỡng lự

không đúng lúc, không nhiệt tình bám vào các thể chế thông thường, được nhận thấy

khắp nơi, ngoại trừ những người muốn thỏa mãn sự thù hằn bí mật của họ với nội dung

đạt được dưới những bộ mặt này. Họ hẳn phải ghi nhớ rằng vì dự thảo được định hình và

đề nghị là để đưa ra cho CHÍNH NGƯỜI DÂN, sự không chấp nhận của quyền lực tối

cao này sẽ phá hỏng nó mãi mãi; sự tán thành nó sẽ làm mờ đi những sai sót và điều trái

luật có trước đó. Thậm chí điều có thể xảy ra với họ là khuynh hướng tranh cãi vụn vặt

chiếm ưu thế, sự thờ ơ của họ đối việc thực thi cấp độ quyền lực họ đã được giao phó, và

vẫn còn nhiều khuyến cáo của họ về bất cứ biện pháp nào, không được họ bảo đảm, sẽ

không ít kích thích bản ngã cá nhân, hơn một khuyến cáo tức thời về biện pháp tương

xứng hoàn toàn với những cấp bách của quốc gia.

Dưới tất cả những dấn ấn và giữa tất cả những xem xét này, hội nghị này đã thay việc thể

hiện niềm tin mạnh mẽ vào đất nước họ bằng niềm tin mà họ đã nhận ra một cách rất

khác thường, và thay việc vạch ra khả năng hệ thống trong việc bảo đảm hạnh phúc cho

nó, với sự đánh giá của họ, bằng việc đưa ra cam kết lạnh lùng và ảm đạm làm thất vọng

những niềm hy vọng mãnh liệt của nó, hy sinh sự vững chắc đối với các thể chế, bằng

việc cam kết những lợi ích thiết tha nhất của đất nước họ cho những việc không chắc

chắn về sự trì hoãn và rủi ro của các sự kiện, cho phép tôi được hỏi những con người có

thể nâng trí tuệ của mình lên một khái niệm cao hơn, người có thể được nhận ra là yêu

nước với tấm lòng của mình, nhận xét nào phải được tuyên bố bởi thế giới công bằng, bởi

những bè bạn của loài người, bởi tất cả những công dân có đạo đức, về cách quản trị và

đặc tính của quốc hội này? Hay liệu có người mà thiên hướng chỉ trích của anh ta là dễ bị

CIX

Page 110: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

mất kiểm soát, sau đó hãy cho tôi hỏi tuyên bố nào mà anh ta đã dành cho 12 tiểu bang đã

TIẾM QUYỀN gửi những người đại diện đến hội nghị, một tổ chức hoàn toàn vô danh

với các bản hiến pháp của họ; cho Quốc hội, tổ chức đã khuyến cáo việc bổ nhiệm tổ

chức này, cũng vô danh đối với Liên bang; và cho bang New York nói riêng, nơi đầu tiên

thúc giục và sau đó tuân thủ tổ chức xen vào không đúng luật này?

Liệu rằng những người phản đối có thể được làm nguôi ngoai bởi tất cả những lý do, điều

sẽ được chấp nhận trong chốc lát rằng hội nghị hoặc là không được phép bởi nhiệm vụ

của họ, hoặc cũng không được thanh minh bởi các tình trạng trong việc đề nghị bản Hiến

pháp cho đất nước họ: kéo theo nó là bản hiến pháp phải bị từ chối chỉ vì lý do đó? Nếu

như, theo lời giáo huấn đáng kính, điều đó là hợp luật để chấp nhận lời khuyên tin cậy

thậm chí của kẻ thù đưa ra, chúng ta sẽ nêu ra thí dụ ti tiện về việc từ chối lời khuyên như

vậy ngay cả khi nó được đưa ra bởi những người bạn của chúng ta? Trong mọi trường

hợp, việc điều tra thận trọng phải chắc chắn, không phải là lời khuyên DO AI đưa ra, mà

liệu đó có là lời khuyên TỐT.

Tóm lại điều đã được phát triển và chứng minh ở đây là, việc buộc tội hội nghị vượt quá

quyền lực của họ, ngoại trừ trong trường hợp ít bị thúc ép bởi những người phản đối đã

không có cơ sở ủng hộ nào; rằng nếu họ đã vượt quá quyền hạn của họ, họ không chỉ bị

cảnh báo, mà còn bị yêu cầu như những người đầy tớ tin cậy của đất nước họ bởi những

hiện trạng mà họ đã bị đặt vào, để thực hiện quyền tự do mà họ thừa nhận: và cuối cùng,

nếu họ đã vi phạm cả quyền lực và bổn phận của họ trong việc đề nghị bản Hiến pháp, vì

thế mà điều này được nắm lấy, nếu như nó được tính toán để hoàn thành viễn cảnh và

hạnh phúc cho nhân dân Mỹ. Đặc tính này thấu đáo đến chừng mực nào là do Hiến pháp,

là chủ đề được đánh giá.

PUBLIUS

CX

Page 111: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 41

Quan niệm chung về quyền lực được Hiến pháp đề cập

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Bản Hiến pháp được dự thảo bởi Hội nghị có thể được xem xét theo hai quan niệm. THỨ

NHẤT liên quan đến toàn bộ hoặc đa số quyền được giao cho chính phủ, bao hàm cả

những hạn chế áp đặt đối với các tiểu bang. THỨ HAI liên quan đến cấu trúc cụ thể của

chính phủ, và sự phân bố quyền lực này trong một số ban ngành của chính phủ

Hai câu hỏi quan trọng phát sinh dưới quan niệm thứ nhất: 1. Liệu có bất kỳ bộ phận

quyền lực nào đã giao cho chính phủ trung ương là không cần thiết hoặc không phù hợp?

2. Phải chăng toàn bộ khối lượng quyền lực này là nguy hiểm đối với phần quyền thực thi

luật pháp còn lại ở một vài tiểu bang?

Tổng số quyền lực của chính phủ trung ương lớn hơn cái mà nó phải được giao phó? Đây

chính là câu hỏi đầu tiên.

Không thể thoát khỏi những người đã vô tư lưu tâm đến những lý lẽ được đưa ra nhằm

chống lại khối quyền lực to lớn này của chính phủ, rằng những người tạo ra nó đã cân

nhắc quá ít việc các quyền lực này là phương tiện cần thiết đến mức nào để đạt được mục

đích thiết yếu. Họ đã chọn đúng hơn để nhấn mạnh vào những bất cập hẳn được pha trộn

với những lợi thế về chính trị một cách không thể tránh; và vào những sự lạm dụng có thể

có, mà chắc là gắn liền với mọi quyền lực hoặc niềm tin, mà lợi ích của nó có thể đạt

được. Cách thức luận giải vấn đề này không thể áp đặt lên lương tri của người dân Mỹ.

Nó có thể thể hiện phẩm chất của những người soạn thảo; nó có thể mở ra một phạm vi

vô hạn cho tài hùng biện và diễn thuyết; có thể kích động cảm xúc mạnh của những

người nhẹ dạ, có thể củng cố thành kiến của những người có suy nghĩ sai lệch: song

CXI

Page 112: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

những người vô tư và tỉnh táo sẽ ngay lập tức suy ngẫm rằng sự trong sáng nhất của việc

may mắn làm người phải pha trộn một phần trong họ, rằng việc lựa chọn phải luôn được

thực hiện, nếu không vì sự xấu xa ít hơn, thì ít nhất vì sự tốt đẹp LỚN HƠN, mà không

phải là HOÀN TOÀN tốt đẹp; và rằng trong mọi thể chế chính trị, quyền nâng cao hạnh

phúc của cộng đồng liên quan đến sự tự do làm theo ý mình có thể bị làm sai hoặc bị lạm

dụng. Do đó, họ sẽ thấy rằng trong mọi trường hợp, nơi quyền lực được giao phó, điểm

đầu tiên phải quyết định là liệu quyền này có cần thiết cho lợi ích cộng đồng; sau đó

trong trường hợp quyết định khẳng định, phải bảo đảm càng hiệu quả càng tốt chống lại

sự bóp méo quyền lực gây phương hại cho cộng đồng.

Chúng ta có thể tạo được một cách nhìn đúng đắn về vấn đề này, sẽ là phù hợp để xem

xét một vài quyền được trao cho chính phủ Liên bang; và việc này có thể được thực hiện

thuận tiện hơn khi chúng có thể bị chia nhỏ thành các loại khác nhau có liên quan đến các

mục tiêu khác nhau như sau: 1. An ninh chống lại mối đe dọa từ ngoại bang; 2. Quy định

về quan hệ với nước ngoài; 3. Duy trì sự hài hoà và giao thiệp đúng đắn trong các tiểu

bang; 4. Các mục tiêu hỗn hợp nhất định phục vụ nhân dân; 5. Ngăn ngừa các tiểu bang

đưa ra những đạo luật gây tổn thương nào đó; 6. Các điều khoản để đem lại hiệu lực xứng

đáng cho tất cả những quyền lực này.

Các quyền lực thuộc vào loại ĐẦU TIÊN là các quyền tuyên bố chiến tranh và cấp phép

cho các công dân riêng được trang bị vũ khí chống lại kẻ thù, xây dựng những đạo quân

và những hạm đội, chỉnh đốn và tổng động viên dân quân, thu thuế và mượn tiền.

An ninh chống lại những đe dọa từ ngoại bang là một trong những mục tiêu nguyên thủy

của xã hội dân sự. Đó là mục tiêu quan trọng và được công khai thừa nhận bởi liên bang

Mỹ. Các quyền lực thiết yếu để đạt được nó phải được giao phó một cách hiệu quả cho

các hội đồng liên bang.

CXII

Page 113: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Quyền tuyên bố chiến tranh có cần thiết không? Sẽ không ai trả lời phủ định câu hỏi này.

Vì vậy, sẽ không cần phải đưa ra bằng chứng về sự khẳng định. Liên bang hiện nay thiết

lập quyền này ở dạng dư thừa nhất.

Quyền tuyển các đội quân và trang bị những hạm đội có thực sự cần thiết? Cái này liên

quan đến quyền đã nói ở trên. Nó liên quan đến quyền tự vệ.

Song có cần thiết trao một QUYỀN LỰC KHÔNG HẠN CHẾ trong việc tuyển quân,

cũng như xây dựng các hạm đội; và duy trì cả hai trong THỜI BÌNH, cũng như trong

chiến tranh?

Câu trả lời cho những câu hỏi này đã được thấy trước quá xa ở nơi khác để chấp nhận

cuộc thảo luận rộng rãi về chúng ở đây. Quả thật câu trả lời có vẻ quá rõ ràng và thuyết

phục như vừa đủ để biện minh cho một thảo luận như vậy tại bất cứ đâu. Với sắc thái nào

về tính đúng đắn mà lực lượng cần cho quốc phòng có thể được giới hạn bởi những người

không thể hạn chế lực lượng tấn công đó? Nếu như Hiến pháp liên bang có thể buộc chặt

những tham vọng, hoặc thiết lập những ranh giới đối với ảnh hưởng của tất cả các quốc

gia khác, thì thực sự nó có thể buộc chặt sự tự do làm theo ý chính phủ của chính nó một

cách thận trọng, và thiết lập những ranh giới cho các nỗ lực vì sự an toàn của chính nó.

Làm thế nào để việc sẵn sàng chiến tranh trong thời bình có thể được ngăn chặn một cách

chắc chắn, trừ khi chúng ta có thể ngăn cấm những sự chuẩn bị và các lực lượng chiến

tranh của tất cả các quốc gia thù địch, theo cách thức tương tự? Các biện pháp an ninh chỉ

có thể được điều chỉnh bởi theo những cách thức và sự đe dọa tấn công. Trên thực tế,

chúng sẽ liên tục được xác định theo những nguyên tắc này, mà không theo các nguyên

tắc khác. Thật vô ích khi đưa ra những rào cản thể chế chống lại sự cấp bách của việc tự

bảo toàn. Việc đó còn tệ hơn vô ích; vì nó gieo vào trong chính Hiến pháp những sự

chiếm giữ cần thiết của quyền lực, mà mọi tiền lệ của nó đều là mầm mống của những tái

diễn tăng thêm và không cần thiết. Nếu một quốc gia duy trì liên tục một đội quân có kỷ

CXIII

Page 114: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

luật, sẵn sàng phục vụ cho tham vọng hay thù hận, nó sẽ buộc hầu hết các quốc gia thanh

bình có thể nằm trong tầm với của nó phải đưa ra những biện pháp phòng ngừa tương

ứng. Thế kỷ mười lăm là thời kỳ không vui của các lực lượng quân sự trong thời bình.

Chúng được khởi đầu bởi vua Pháp, Charles VII. Rồi toàn Châu Âu đã tuân theo, hoặc bị

ép buộc theo mô hình này. Nếu khuôn mẫu đã không được tuân theo bởi các quốc gia

khác, toàn Châu Âu xa xưa hẳn phải chấp nhận xiềng xích của một đế chế chung. Sự kiện

tương tự có thể kéo theo là giờ đây tất cả các nước ngoại trừ Pháp đã phải giải tán lực

lượng thời bình của nó. Các quân đoàn Rome kỳ cựu đã là người thắng vì sự chiến đấu vô

kỷ luật của tất cả các quốc gia khác và đã làm cho La Mã trở thành bà chủ của thế giới.

Điều không kém chính xác rằng các quyền tự do của người La Mã đã chứng tỏ là nạn

nhân cuối cùng của những thắng lợi quân sự của nó; và rằng các quyền tự do của Âu

Châu, đến mức như họ đã từng có, với không nhiều ngoại lệ, là cái giá của các thế lực

quân sự của nó. Do đó, lực lượng thường trực là một sự dự phòng nguy hiểm, đồng thời

nó có thể là cần thiết. Với quy mô nhỏ nhất nó có những bất lợi của chính nó. Với quy

mô rộng lớn, hậu quả của nó có thể tai hại. Với bất kỳ quy mô nào, nó đều có chung mục

tiêu lo trước và thận trọng một cách đánh ngợi ca. Một đất nước khôn ngoan sẽ kết hợp

tất cả những cân nhắc này; và trong khi không nóng vội ngăn ngừa nó khỏi bất kỳ nguồn

tài nguyên nào có thể trở nên thiết yếu cho sự an toàn của chính mình, nó sẽ phát huy

toàn bộ sự thận trọng của mình trong việc làm suy giảm cả tính cấp thiết cũng như nguy

cơ phải viện đến việc có thể gây rủi ro đối với các quyền tự do của nó.

Những dấu hiệu rõ ràng nhất về sự thận trọng này được chứng tỏ trong bản Hiến pháp đề

nghị. Chính liên bang mà nó gắn bó và bảo vệ, phá bỏ tất cả các lý do để xem một lực

lượng quân đội có thể là nguy hiểm. Nước Mỹ thống nhất, với chỉ một nhóm binh sĩ,

hoặc không có một lực lượng quân đội riêng, thể hiện một tư thế nguy hiểm đối với tham

vọng của ngoại bang hơn là nước Mỹ không thống nhất, với hàng trăm ngàn cựu chiến

binh sẵn sàng chiến đấu. Trước đây, người ta thấy rằng việc thiếu lý do này đã cứu vãn

các quyền tự do của một quốc gia ở châu Âu. Đạt được bởi tình trạng cách ly của mình và

CXIV

Page 115: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

các tài nguyên biển bất khả xâm phạm đối với các quân đội lân bang, những người trị vì

Vương quốc Anh chưa bao giờ có thể lôi kéo công chúng theo đuổi một lực lượng thời

bình lớn mạnh bởi những hiểm nguy có thực hay ngụy tạo. Khoảng cách giữa hợp chủng

quốc Hoa Kỳ và các cường quốc trên thế giới tạo cho họ nền an ninh cùng hài lòng với

nhau. Lực lượng khẩn cấp có thể không bao giờ là cần thiết hoặc đáng tin cậy, miễn họ

vẫn tiếp tục là một dân tộc thống nhất. Song cho đến lúc này, đừng bao giờ quên rằng họ

đang mắc nợ Liên bang chỉ tính riêng cho lợi thế này. Thời điểm giải thể của nó sẽ là

ngày mở đầu một trật tự mới. Những lo ngại của các tiểu bang yếu hơn, hay tham vọng

của các tiểu bang mạnh hơn, hoặc tiểu liên bang, sẽ thiết lập khuôn mẫu tương tự ở Tân

thế giới, giống như cách mà Charles VII. đã làm ở Cựu thế giới. Cái tương tự sẽ được

tuân theo ở đây bắt nguồn từ cùng những động cơ đã tạo ra khuôn mẫu chung đó. Thay vì

bắt nguồn từ tình trạng của chúng ta, lợi thế quý giá của Vương quốc Anh đã bắt nguồn

từ chính nó, bộ mặt của nước Mỹ sẽ chỉ là một bản sao loại này của Âu châu lục địa. Nó

sẽ đặt ra quyền tự do ở bất cứ đâu chen giữa các đội quân thường trực và các loại thuế

thường xuyên. Sự thịnh vượng của nước Mỹ không thống nhất thậm chí sẽ bất hạnh hơn

những quốc gia Âu châu đó. Nguồn gốc của thảm họa trong sự không thống nhất gắn liền

với những hạn chế của chính nó. Không có những sức mạnh vượt trội của một phần tư địa

cầu khác gợi chú ý cho các quốc gia kình định với nó, kích động tình trạng thù địch lẫn

nhau của họ, và khiến họ trở thành các công cụ của sự tham vọng, đố kỵ, và hận thù của

ngoại bang. Tại Mỹ những khổ đau hiện xuất phát từ những đố kỵ, bất đồng, và các cuộc

chiến tranh nội bộ, sẽ tạo thành chỉ một phần số phận của nó. Sự bổ sung dồi dào các

thảm họa hẳn có nguồn gốc liên quan đến cái mà châu Âu chịu đựng cho phần tư địa cầu

này, và là cái mà không phần tư nào khác của địa cầu chống đỡ cho Âu châu. Bức tranh

về những hậu quả của sự không thống nhất không thể bị bóp méo quá đáng, hay được thể

hiện quá bình thường. Tất cả những người yêu hòa bình, những người yêu quý đất nước

của mình, những người yêu thích tự do, hẳn thấy ngay trước mắt mình, điều mà anh ta có

thể ấp ủ trong tim về sự gắn bó phù hợp với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, và có thể đặt một

giá trị thích hợp vào các cách thức để duy trì nó. Tiếp theo việc thành lập Liên bang một

cách hiệu quả, sự phòng ngừa hợp lý nhất chống lại những hiểm nguy từ các đội quân

CXV

Page 116: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

thường trực là việc giới hạn khoảng thời gian mà quốc khố có thể dành ra khoản hỗ trợ

cho họ. Sự lo trước này đã được bổ sung một cách thận trọng vào Hiến pháp. Tôi sẽ

không lặp lại ở đây các nhận xét mà tôi tự hào vì đặt ra chủ đề này với một quan niệm

đúng đắn và thỏa đáng. Nhưng có thể là không thích hợp nếu không quan tâm đến lý lẽ

chống lại phần này của bản Hiến pháp, phần đã được rút ra từ chính sách và thực tiễn của

Vương quốc Anh. Người ta nói rằng sự tồn tại của quân đội ở vương quốc đó đòi hỏi sự

chấp thuận của cơ quan lập pháp hàng năm, trong khi Hiến pháp của nước Mỹ hiện tại

kéo dài thời hạn quyết định này lên đến hai năm. Đây là thể chế mà trong đó việc so sánh

thường được nói rõ cho công chúng: song thể chế đó có đúng đắn? Sự so sánh có là công

bằng? Hiến pháp Anh quốc giới hạn sự thao túng của nghị viện Anh trong một năm?

Người Mỹ áp đặt sự nắm quyền của Quốc hội trong hai năm? Ngược lại, người ta không

thể không biết đến chính những người tạo ra sai lầm, mà Hiến pháp Anh không đặt bất kỳ

giới hạn nào đối với sự tự do làm theo ý mình của cơ quan lập pháp, và người Mỹ ràng

buộc cơ quan lập pháp vào thời hạn hai năm, là thời hạn dài nhất có thể chấp nhận.

Tranh luận từ mô hình của Anh quốc đã được tuyên bố đúng sự thật, nó hẳn sẽ có giá trị

như thế: Thời hạn mà theo đó các nguồn cung cấp có thể dành riêng cho lực lượng quân

đội, dù là không giới hạn theo Hiến pháp vương quốc Anh, song trong thực tế, đã được

giới hạn bởi sự dành riêng cho nghị viện Anh cho đến một năm. Bây giờ, cho dù ở

Vương quốc Anh, nơi Hạ viện được bầu cho thời hạn 7 năm; nơi một tỷ lệ lớn các thành

viên được bầu bởi một tỷ lệ rất nhỏ nhân dân; nơi các cử tri bị mua chuộc bởi những

người đại diện, và người đại diện này bị nhũng nhiễu bởi Hoàng gia, tổ chức đại nghị có

thể có quyền ban ra lệnh chu cấp cho quân đội đến một thời hạn không giới hạn mà

không dám yêu cầu, hoặc không đủ can đảm, để kéo dài thời hạn này vượt quá một năm,

hẳn không nên nghi ngờ tự nó xấu hổ khi giả mạo rằng những người đại diện của nước

Mỹ, được bầu cử một cách TỰ DO bởi TOÀN THỂ dân chúng, cứ mỗi vào NĂM THỨ

HAI, không thể được tin cậy giao phó việc xem xét toàn bộ sự nắm quyền như vậy, mà đã

giới hạn một cách rõ ràng cho thời gian ngắn ngủi HAI NĂM?

CXVI

Page 117: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Một động cơ xấu xa hiếm khi không phản bội chính nó. Về sự thật này, ban quản lý của

phe đối lập với chính phủ liên bang là một bản sao nguyên vẹn. Nhưng trong tất cả những

sai lầm đã được xem xét, không gì nổi bật hơn cố gắng giành được thái độ ghen tỵ kín

đáo được nuôi dưỡng bởi người dân, đối với quân đội thường trực. Cố gắng này đã hoàn

toàn đánh thức sự quan tâm của dân chúng đến vấn đề quan trọng đó, và đã dẫn đến

những điều tra mà chắc hẳn phải được kết thúc trong sự thuyết phục hoàn toàn và phổ

quát, không chỉ vì hiến pháp đã cung cấp những sự bảo đảm hữu hiệu nhất chống lại hiểm

nguy từ phần tư địa cầu đó, mà là vì không gì thiếu bằng một bản hiến pháp hoàn toàn

phù hợp với việc bảo vệ quốc gia và duy trì Liên bang, có thể bảo vệ nước Mỹ khỏi nhiều

đội quân thường trực như khi nó có thể bị chia nhỏ thành các tiểu bang hoặc tiểu liên

bang, cũng như khỏi sự tăng dần thêm như vậy, của các lực lượng quốc phòng này trong

mỗi bang, sẽ khiến chúng như là gánh nặng đối với tài sản và gây quan ngại cho các

quyền tự do của người dân, vì bất kỳ lực lượng nào có thể trở nên cần thiết, dưới một

chính phủ thống nhất và hiệu quả, hẳn là khá tốt để bảo vệ quốc gia và an toàn đối với

liên bang.

Tính thiết yếu rõ ràng của quyền xây dựng và duy trì lực lượng hải quân đã bảo vệ phần

đó của Hiến pháp khỏi những chỉ trích, vốn dư thừa ở một vài phần khác. Quả thật, điều

đó hẳn phải được liệt kê vào một trong những điều hạnh phúc lớn nhất của nước Mỹ, vì

Liên bang sẽ là nguồn sức mạnh hàng hải duy nhất của nó, do vậy đây sẽ là một nguồn

chủ yếu đảm bảo an ninh chống lại mối đe dọa từ nước ngoài cho nó. Về khía cạnh này,

hoàn cảnh của chúng ta phát sinh sự tương tự nữa với thuận lợi của cư dân ở đảo như của

Vương quốc Anh. Những hành động trừng phạt có khả năng nhất đẩy các hoạt động của

nước ngoài về phía an toàn cho chúng ta, là phù hợp như có thể không bao giờ bị thay đổi

bởi một chính phủ phản bội chống lại các quyền tự do của chúng ta.

Những cư dân ở vùng biên giới Đại Tây Dương, tất cả họ đều quan tâm sâu sắc đến điều

khoản bảo vệ hải quân này, và dù cho đến nay họ vẫn chịu ngủ yên trên giường của họ;

dù tài sản của họ vẫn được bảo đảm an toàn chống lại thái độ tà tâm của những kẻ bịp

CXVII

Page 118: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

bợm phóng túng; dù các đô thị ven biển của họ chưa bị buộc phải chuộc mình từ những

kẻ quấy phá về một đại họa, bởi việc nhân nhượng với các đòi hỏi của những kẻ xâm

lược táo bạo và bất ngờ, những trường hợp may mắn này không được quy cho năng lực

của chính phủ đương quyền về việc bảo vệ khỏi những tai họa đó từ người mà nó đòi hỏi

lòng trung thành, mà quy cho những nguyên nhân là phù du và sai lầm. Có lẽ khi chúng

ta loại trừ Virginia và Maryland, những nơi đặc biệt dễ bị tổn thương ở những vùng biên

giới phía đông của họ, không có vùng nào của Liên bang hẳn cảm thấy lo lắng về vấn đề

này hơn bang New York. Với bờ biển của nó rộng lớn và một vùng rất quan trọng của

bang là một hòn đảo. Bản thân tiểu bang này bị cắt ngang qua bởi một con sông lớn với

chiều dài hơn năm mươi lý (150 dặm) thuận lợi cho tàu bè đi lại. Khu trung tâm thương

mai lớn, nguồn dự trữ to lớn cho sự thịnh vượng của nó, lúc nào cũng bị phó mặc cho các

sự việc, và có thể được xem như là con tin đối với việc phục tùng đê tiện các mệnh lệnh

của kẻ thù nước ngoài, hoặc thậm chí với các đòi hỏi tham lam của cướp biển và bọn

người dã man. Chiến tranh sẽ là kết quả của tình trạng bấp bênh trong việc giao thương

của châu Âu, và tất cả những cảm xúc ngoan cố với nó bị buông ra trên đại dương, lối

thoát để chúng ta khỏi bị lăng nhục và cướp bóc, không chỉ trên vùng đó mà ở tất cả các

vùng biên giới khác trên đó, sẽ thực sự phi thường. Trong điều kiện hiện tại của nước

Mỹ, các tiểu bang lộ diện trực tiếp hơn với những tai họa này không hy vọng gì vào hành

động không thực tế của chính phủ trung ương hiện có; và nếu các nguồn lực của riêng họ

đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ làm cho chính họ đủ vững mạnh chống lại các mối đe

dọa, đối tượng được bảo vệ gần như sẽ bị phá hủy bởi các phương tiện để bảo vệ họ.

Quyền điều chỉnh và tổng động viên quân đội này đã được giải thích và xác nhận một

cách đầy đủ.

Quyền thu thuế và vay mượn tiền, mà sức mạnh của quyền đó được sử dụng trong việc

bảo vệ đất nước, được bổ sung phù hợp vào loại quyền tương ứng với nó. Quyền lực này,

cũng đã được xem xét với nhiều lưu ý, và tôi tin nó đã thể hiện rõ ràng là cần thiết bởi

Hiến pháp, cả về mức độ và hình thức. Tôi sẽ chỉ đưa ra một sự xem xét bổ sung cho

CXVIII

Page 119: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

những người dám chắc rằng quyền đó nên được kiểm soát đối với hệ thống thuế buôn bán

với nước ngoài theo cách mà họ dự định, đánh thuế lên các hàng hóa nhập khẩu từ các

quốc gia khác. Không thể nghi ngờ rằng đây sẽ luôn là một nguồn thu có giá trị; rằng

trong một thời gian dài nó hẳn phải là nguồn thu chính; và vào thời điểm này nó là một

nguồn thu quan trọng. Nhưng chúng ta có thể có những ý tưởng rất sai lầm về vấn đề này,

nếu chúng ta không nhắc lại những tính toán của chúng ta, rằng mức độ thu nhập có được

từ việc buôn bán với nước ngoài phải thay đổi theo các biến thể, cả về mức độ và chủng

loại hàng hóa nhập khẩu; và rằng những biến thể này không tương ứng với sự gia tăng

dân số, mà phải là thước đo chung về nhu cầu của cộng đồng. Miễn rằng nông nghiệp tiếp

tục là lĩnh vực hạn chế nhập khẩu, việc nhập khẩu các hàng công nghiệp phải tăng khi

lượng người tiêu dùng tăng lên. Ngay sau khi các hàng công nghiệp trong nước được bắt

đầu chuyển giao không cần đến nông nghiệp, các hàng hóa nhập khẩu sẽ giảm khi số

lượng người tăng lên. Trong khoảng thời gian xa hơn nữa, hàng nhập khẩu có thể bao

gồm một phần đáng kể nguyên liệu thô, sẽ được đưa vào làm các hàng xuất khẩu, và do

đó sẽ đòi hỏi sự khích lệ của các loại tiền thưởng, hơn là phải chịu thuế nhập khẩu làm

ngã lòng. Một hệ thống chính quyền đã dự tính cho thời gian dài, phải suy tính về những

cuộc cách mạng này, và tự nó có thể cung cấp cho người dân.

Một số người đã không từ chối sự cần thiết của quyền thu thuế, đã dựa vào ngôn ngữ mà

nó định nghĩa công kích Hiến pháp rất ác liệt. Nó đã được kêu gọi và lặp lại, rằng quyền

"đặt và thu thuế, đánh thuế nhập khẩu, thuế thế chấp, và thuế hàng hóa nội địa, để thanh

toán các khoản nợ, và cung cấp cho quốc phòng thường xuyên và phúc lợi tổng thể của

Hoa Kỳ" chẳng khác gì sự ủy thác vô tận để thực thi mọi quyền lực mà có thể được tuyên

bố như một cái cớ là cần cho quốc phòng hoặc phúc lợi tổng thể. Không một bằng chứng

mạnh mẽ nào có thể được đưa ra về tình trạng đáng buồn mà theo đó các tác giả này nỗ

lực phản đối, hơn là việc ha thấp phẩm giá của họ đối với sự giải thích sai lệch như vậy.

Không có sự liệt kê hay định nghĩa về các quyền của Quốc hội được tìm thấy trong Hiến

pháp, ngoài những diễn giải chung vừa mới trích dẫn, các tác giả phản đối có thể đã gây

CXIX

Page 120: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

ra một số bóp méo đối với nó; mặc dù thật khó có thể tìm thấy một lý do nào đối với hình

thức mô tả vụng về như vậy về quyền làm luật trong tất cả các trường hợp có thể. Quyền

hủy bỏ sự tự do báo chí, việc xét xử bởi bồi thẩm đoàn, hoặc thậm chí điều chỉnh thủ tục

thừa kế, hay các hình thức chuyển nhượng, phải được thể hiện rất khác thường bởi các

thuật ngữ "để thu tiền cho phúc lợi tổng thể."

“Nhưng sự bóp méo nào mà bên phản đối có thể đưa ra, khi một biên bản chi tiết các mục

tiêu được nói đến bởi các thuật ngữ chung này ngay lập tức kèm theo, và thậm chí không

bị tách rời ra bởi chỗ ngắt dài hơn một dấu chấm phẩy? Nếu các phần khác nhau của cùng

một văn kiện phải được giải nghĩa chi tiết như vậy, để có nghĩa cho tất cả các phần sẽ

mang nó, thì phần này của câu tương tự sẽ phải bị loại trừ hoàn toàn sự chia sẻ về nghĩa;

những thuật ngữ không định rõ và nhiều nghi ngờ sẽ được giữ lại trong phạm vi chính

thức của chúng, và những sự diễn giải rõ ràng và chính xác sẽ phủ nhận bất kỳ nghĩa gì?

Vì mục đích mà bản liệt kê các quyền cụ thể đã có thể đưa vào, nếu những quyền này và

tất cả các quyền khác đều có nghĩa đã được bao gồm trong quyền tổng quát có trước?

Không có gì tự nhiên hơn và cũng không có gì phổ biến hơn thuật ngữ chung được sử

dụng đầu tiên, và sau đó được giải thích và minh định nó bằng một đoạn văn với các chi

tiết. Nhưng ý tưởng về một bản liệt kê các chi tiết hoặc không giải thích hoặc không nói

rõ ý nghĩa tổng thể, và có thể không có tác dụng gì khác hơn là làm lẫn lộn và hiểu sai, là

một sự ngớ ngẩn, vì chúng ta bị đặt vào tình thế khó xử hoặc với các tác giả phản đối

hoặc với các tác giả Hiến pháp, chúng ta phải sử dụng quyền tự do giả định, không có

nguồn gốc với tác giả hiến pháp.

Sự phản đối ở đây là bất thường hơn, vì nó cho rằng ngôn ngữ được sử dụng bởi hội nghị

là một bản sao từ các điều khoản liên bang. Các mục tiêu của Liên bang ở trong các tiểu

bang, như được mô tả trong điều 3, rằng "quốc phòng thông thường của họ, sự bảo đảm

các quyền tự do của họ, và phúc lợi tổng thể chung." Các khoản của điều 8 vẫn đúng hơn:

"Mọi phí tổn chiến tranh và tất cả các chi phí khác sẽ phải tính cho quốc phòng thông

thường hoặc phúc lợi công cộng, và phải được cho phép bởi Quốc hội Hoa Kỳ, sẽ được

CXX

Page 121: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

chi trả ngoài ngân quỹ chung," v.v... Ngôn ngữ tương tự một lần nữa xuất hiện trong điều

9. Giải thích một trong những điều luật này theo các nguyên tắc sẽ biện minh cho cấu trúc

gán cho Hiến pháp mới, và chúng sẽ trao cho Quốc hội hiện hành quyền làm luật trong

bất kỳ trường hợp nào. Song cái gì sẽ được nghĩ ra từ Quốc hội đó, nếu như gắn chính họ

với những lối diễn giải mơ hồ này, mà xem nhẹ những biên bản chi tiết để xác định và

hạn chế việc nhập khẩu hàng hóa của họ, họ đã sử dụng quyền không giới hạn trong việc

cung cấp cho quốc phòng thông thường và phúc lợi công cộng? Tôi kêu gọi chính những

người phản đối, nên chăng trong trường hợp đó có lẽ họ đã tận dụng lập luận tương tự để

biện minh cho Quốc hội như họ đang lợi dụng để chống lại hội nghị lúc này. Thật khó

khăn làm sao để cho sai lầm thoát khỏi sự kết tội của chính bản thân nó.

PUBLIUS

CXXI

Page 122: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 42

Các quyền được giao phó bởi Hiến pháp phải được xem xét thấu đáo

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Loại quyền lực THỨ HAI, được trao cho chính phủ trung ương, bao gồm các quyền điều

chỉnh quan hệ với các quốc gia nước ngoài, nghĩa là: quyền xây dựng các hiệp ước; gửi

và nhận các đại sứ, lãnh sự và các vị bộ trưởng đương quyền khác; quyền bắt giữ và

trừng phạt bọn hải tặc và những kẻ vi phạm trọng tội trên vùng biển khơi, vi phạm luật

pháp quốc tế; quyền quy định việc buôn bán với nước ngoài, gồm quyền ngăn chặn việc

nhập khẩu nô lệ, sau năm 1808, và quyền đặt ra loại thuế trung gian lên đến mười đô la

cho mỗi nô lệ, làm chán nản những việc nhập khẩu “hàng hóa” này.

Nhóm quyền lực này hình thành một nhánh rõ ràng và cần thiết trong việc điều hành của

chính quyền liên bang. Nếu như chúng ta sẽ là một quốc gia thống nhất trong bất kỳ khía

cạnh nào, việc này rõ ràng phải được lưu tâm với các quốc gia khác.

Quyền tạo dựng các hiệp ước quốc tế, cũng như quyền cử và nhận các đại sứ, thể hiện

tính chính đáng của chính các chính quyền. Cả hai quyền này đều được bao gồm trong bộ

điều luật Liên bang, với sự khác biệt duy nhất, rằng quyền đầu tiên được làm cho tránh

khỏi phản đổi bởi dự thảo của hội nghị hiến pháp, theo đó các hiệp ước có thể bị thất bại

trong thực tế vì các quy định của tiểu bang; và rằng quyền bổ nhiệm và nhận "các lãnh sự

và các bộ trưởng khác" được bổ sung rất đúng cách và rõ ràng vào điều khoản liên quan

đến các đại sứ đã có trước đó. Điều khoản đại sứ, nếu được tuân thủ một cách nghiêm

ngặt, giống như đòi hỏi của điều hai trong bộ luật Liên bang, chỉ gồm người có khả năng

ở mức cao nhất thuộc các bộ trưởng, và loại trừ các cấp độ mà sẽ có vẻ phù hợp hơn cho

Hoa kỳ, nơi mà các đại sứ quán nước ngoài có thể cần thiết. Và không theo phạm vi xây

dựng, điều khoản này sẽ bao gồm các lãnh sự. Song nó đã được minh chứng là thiết thực,

CXXII

Page 123: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

và thực tế là Quốc hội đã giao cho các cấp thấp hơn các bộ trưởng, cử và nhận lãnh sự.

Thực sự là ở nơi mà các hiệp ước thương mại quy định về việc bổ nhiệm các lãnh sự của

hai bên, thì chức năng của họ được gắn với thương mại, sự chấp nhận các lãnh sự nước

ngoài có thể thuộc vào quyền tạo dựng các hiệp ước thương mại; và rằng ở nơi mà các

hiệp ước loại này không tồn tại, sứ mệnh của lãnh sự Mỹ ở nước ngoài NÊN CHĂNG có

thể gộp vào dưới các quyền, được đưa ra bởi điều 9 của luật Liên bang, để bổ nhiệm tất

cả các quan chức dân sự loại này như là cần thiết để quản lý các công việc chung của

nước Mỹ. Nhưng việc chấp nhận lãnh sự vào Hoa Kỳ, ở những nơi trước đây chưa có

hiệp ước quy định việc đó, dường như đã không nơi nào chuẩn bị. Nguồn gốc phát sinh

các thiếu sót là một trong những trường hợp nhỏ hơn được xem xét, ở đó hội nghị đã

hoàn thiện mô hình đã có trước của chúng. Nhưng các điều khoản nhỏ nhất sẽ trở nên

quan trọng khi chúng có xu hướng xóa bỏ tính cần thiết hoặc lý do để dần dần tiếm quyền

và không minh bạch. Một bản liệt kê các trường hợp, trong đó Quốc hội đã bị dẫn đến,

hoặc bị ép buộc bởi các khiếm khuyết của Liên bang, theo những vi phạm của các quan

chức đủ tư cách của họ, sẽ không gây chút ngạc nhiên nào đối với những người đã không

quan tâm đến vấn đề; và sẽ là luận cứ không hề nhỏ bé ủng hộ Hiến pháp mới, mà dường

như không ít chủ động để thiết lập cái đỡ khiếm khuyết hơn, so với những khiếm khuyết

nổi bật và rõ ràng của hiến pháp cũ.

Quyền bắt giữ và trừng phạt những kẻ trọng tội và bọn cướp biển phạm tội ở vùng biển

khơi, và những kẻ vi phạm luật quốc tế, thuộc về chính phủ trung ương với cùng một

nguyên tắc, là một thành tựu to lớn hơn trong bộ các điều luật Liên bang. Những điều luật

này không chứa sự dự liệu đối với trường hợp vi phạm luật pháp quốc tế; và hậu quả phó

mặc nó cho thế lực của bất kỳ thành viên nào vô ý lôi kéo Liên bang về phía các nước

khác. Điều khoản về vấn đề tội phạm và cướp biển của bộ luật liên bang không mở rộng

xa hơn đến việc thành lập các tòa án để xét xử những vi phạm này. Có lẽ nếu không bất

tiện, thì việc định tội bọn cướp biển nên để cho luật quốc tế, mặc dù một định nghĩa hợp

pháp về chúng được thấy ở hầu hết các bộ luật của từng nước. Định nghĩa về trọng tội

ngoài biển khơi là điều hiển nhiên cần thiết. Trọng tội là một thuật ngữ mang ý nghĩa

CXXIII

Page 124: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

lỏng lẻo, ngay cả trong thông luật của Anh quốc; và thuộc về các nội dung khác nhau

trong đạo luật của vương quốc đó. Không phải thông luật, cũng không phải đạo luật đó,

hay luật của bất kỳ quốc gia khác, mà phải là một chuẩn mực cho văn bản loại này, trừ

khi chính nó đã được thiết lập trước đó bởi sự phê chuẩn của cơ quan lập pháp. Ý nghĩa

của điều khoản này, như đã định nghĩa trong các đạo luật của một vài tiểu bang, sẽ không

thể áp dụng vì định nghĩa trước đây sẽ là chỉ dẫn không hợp pháp và đáng hổ thẹn. Điều

khoản đó không hoàn toàn giống nhau giữa hai tiểu bang bất kỳ; và khác nhau trong mỗi

với với mọi phiên bản về các luật hình sự của nó. Do đó, để chắc chắn và đồng nhất,

quyền xác định các trọng tội của Liên bang trong trường hợp này là cần thiết và thích hợp

về mọi khía cạnh.

Quy định buôn bán với nước ngoài, nằm trong một số quan niệm được đưa ra về chủ đề

này, được thảo luận quá đủ ở đây với những bằng chứng bổ sung cần thiết phải được đệ

trình một cách đúng đắn lên chính phủ liên bang.

Không còn nghi ngờ gì điều được hy vọng là quyền ngăn chặn việc nhập khẩu nô lệ đã

không bị trì hoãn cho đến năm 1808, hay đúng hơn là nó đã phải nhận được hiệu lực tức

thì. Song cũng không khó để giải thích hoặc cho điều hạn chế này của chính phủ trung

ương, hoặc cho phương thức trong đó toàn bộ điều khoản được đưa ra. Nó nên được xem

là một điểm nhận được sự ủng hộ to lớn của nhân loại, rằng khoảng thời gian hai mươi

năm có thể chấm dứt vĩnh viễn, việc buôn bán đã bị chỉ trích quá kịch liệt và lâu dài như

là tình trạng dã man về cách hành xử hiện đại trong các quốc gia này; rằng trong giai

đoạn đó, nó sẽ bị ngăn ngừa đáng kể từ chính phủ liên bang, và có thể bị hủy bỏ hoàn

toàn bởi sự đồng tình của một vài tiểu bang tiếp tục việc buôn bán bất lương này, theo mô

hình ngăn chặn đã được đưa ra bởi đại đa số người dân Liên bang. Sẽ là điều hạnh phúc

cho những người Phi bất hạnh, nếu một viễn cảnh công bằng đặt ra trước họ về việc được

chuộc khỏi những sự áp bức của người anh em Âu châu của họ! Những nỗ lực đã được

thực hiện làm hiểu sai điều khoản này thành sự chống đối chống lại Hiến pháp, bằng cách

miêu tả nó một mặt như là sự tha thứ không đúng luật cho hành động bất hợp pháp, và

CXXIV

Page 125: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

mặt khác đã được tính toán để ngăn chặn sự di dân có lợi và tự nguyện từ châu Âu đến

châu Mỹ. Tôi đề cập những sự hiểu sai này không phải với quan điểm đưa cho họ câu trả

lời, vì họ chỉ xứng đáng như những hạng người với thái độ và tinh thần, mà một số người

đã tự cho là phù hợp để hướng sự phản đối của họ đến chính phủ dự tính.

Thuộc loại quyền lực THỨ BA là các quyền ủng hộ cho sự giao thiệp hài hòa và đúng

đắn giữa các tiểu bang.

Bên dưới đề mục này có thể bao gồm các giới hạn cụ thể được áp đặt đối với quyền của

các tiểu bang, và các quyền hạn nhất định của ngành tư pháp; song nhóm quyền trước

được dành cho một đối tượng rõ ràng, và nhóm sau sẽ được thẩm tra một cách đặc biệt

khi chúng ta xét tới cấu trúc và tổ chức của chính phủ. Tôi sẽ tự giới hạn mình vào việc

lướt nhanh các quyền còn lại thuộc vào loại quyền lực thứ ba này, nghĩa là gồm: quy định

hoạt động thương mại trong một vài tiểu bang và bộ tộc Anh Điêng (da đỏ); từ đó quy

định giá trị cho tiền xu, và giá trị của đồng tiền nước ngoài; ủng hộ việc trừng phạt nạn

làm giả tiền xu đang lưu hành và trái phiếu chính phủ Mỹ; đặt tiêu chuẩn về trọng lượng

và phương thức đúc tiền; thiết lập nguyên tắc thống nhất về việc nhập tịch, và các luật lệ

thống nhất về phá sản, thực thi phương thức theo đó các hồ sơ, các đạo luật công khai, và

các văn bản tư pháp của mỗi tiểu bang sẽ phải xác lập, và hiệu lực mà chúng sẽ có trong

các tiểu bang khác; cũng như thiết lập các trạm bưu điện và đường bưu điện.

Những khiếm khuyết về quyền điều tiết hoạt động thương mại giữa một số thành viên

trong Liên bang hiện nay, nằm trong số những điểm đã được chỉ rõ qua kinh nghiệm thực

tiễn. Với những bằng chứng và nhận xét mà các bài viết trước đây đã dẫn ra quan niệm về

chủ đề này, nó có thể được thêm vào mà không cần dùng đến điều khoản bổ sung này,

chính quyền lực cần có để quy định việc buôn bán với nước ngoài hẳn sẽ không đầy đủ

và không hiệu quả. Một mục tiêu rất quan trọng của quyền này là sự giải thoát cho các

tiểu bang phải nhập khẩu hoặc xuất khẩu thông qua các tiểu bang khác, khỏi các khoản

đóng góp không phù hợp đã đánh vào họ bởi loại quyền sau. Những bang đã tự do quy

CXXV

Page 126: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

định việc giao thương giữa các tiểu bang này, hẳn phải thấy trước các phương thức sẽ

được nghĩ ra để thiết lập những điều luật về xuất nhập khẩu, trong quá trình chuyển cho

bộ phận thực thi luật pháp của họ, với những khoản thuế sẽ đánh vào các nhà sản xuất

theo nhóm quyền sau và đánh vào người tiêu dùng theo quyền trước. Chúng tôi có thể

được đảm bảo nhờ kinh nghiệm trong quá khứ, rằng thực tế này sẽ được đưa vào những

dự liệu cho tương lai; cả vì điều đó và kiến thức chung về hành xử của con người, rằng

điều đó sẽ nuôi dưỡng những thù hận không ngừng, và chắc chắn kết thúc bằng những

gián đoạn đáng sợ đối với sự thanh bình của cộng đồng. Với những người không xem xét

vấn đề này qua trung gian của niềm say mê hoặc của lợi ích, thì mong muốn của các tiểu

bang thương mại để thu được nguồn thu nhập gián tiếp từ lân bang phi thương mại của

họ, dưới bất kỳ hình thức nào, hẳn được xem là không ít thất sách hơn là không công

bằng; vì nó sẽ kích thích bên bị tổn thương, bởi oán hận cũng như lợi ích, viện dẫn đến

các nguồn kém thuận lợi cho việc buôn bán với nước ngoài của họ. Nhưng mà những

tiếng nói ôn hòa của lý trí đã bị nhấn chìm quá thường xuyên, trước khi đưa ra được lý do

về lợi ích mở rộng và lâu dài cho các tổ chức công cộng cũng như những cá nhân, vì

những phản đối mạnh mẽ của sự tham lam khó chịu đối với những mối lợi thái quá trước

mắt.

Tính thiết thực của quyền giám sát việc buôn bán qua lại giữa các tiểu bang trong Liên

bang, đã được minh họa bằng các ví dụ ở nơi khác cũng như của chính chúng ta. Ở Thụy

Sĩ, nơi Liên bang là quá lỏng lẻo, mỗi bang có nghĩa vụ cho phép các hàng hóa vào các

bang khác với sự thông qua của cơ quan thẩm quyền của nó, mà không cần tăng thêm các

loại phí cầu đường. Ở Đức, một luật của đế chế, quy định rằng các hoàng tử và các tiểu

bang sẽ không đánh thuế cầu đường hoặc thuế hải quan đối với những cây cầu, con sông,

hoặc đường đi, mà không có sự đồng ý của hoàng đế và nghị viện; mặc dù giống như

điều được trích dẫn trong bài viết trước, rằng thực tiễn trong trường hợp này, cũng như

nhiều trường khác trong liên bang đó, đã không tuân theo đúng luật, và đã tạo ra ở đó các

mối nguy hiểm được thấy trước ở đây. Trong số các hạn chế áp đặt bởi Liên bang Hà Lan

CXXVI

Page 127: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đối với các thành viên của nó, có một điểm là họ sẽ không được đặt ra các loại thuế gây

thiệt thòi cho các lân bang của họ, mà không có sự cho phép của tất cả các thành viên.

Các quy định về việc buôn bán với các bộ tộc da đỏ được giải phóng một cách rất đúng

đắn khỏi hai hạn chế trong bộ điều luật Liên bang, làm cho điều khoản này bị lu mờ và

mâu thuẫn. Quyền lực ở đó bị hạn chế đối với dân da đỏ, không phải là thành viên của bất

kỳ tiểu bang nào, và không xung đột hoặc vi phạm quyền lập pháp của bất kỳ tiểu bang

nào nằm trong những giới hạn của chính nó. Điều mô tả về các bộ tộc da đỏ như là các

thành viên của một tiểu bang, chưa được dàn xếp, và vẫn là vấn đề phức tạp và gây tranh

cãi thường xuyên trong các hội đồng liên bang. Và việc buôn bán như thế nào với thổ dân

da đỏ, mặc dù không phải là các thành viên của tiểu bang, vẫn nằm trong phạm vi thẩm

quyền lập pháp của nó, có thể được quy định bởi một quyền nằm ngoài lập pháp, mà

không xâm phạm quá sâu đến những thẩm quyền thi hành pháp luật bên trong, là rất khó

hiểu. Đây không phải là trường hợp duy nhất mà ở đó các điều luật Liên bang đã cố gắng

một cách thiếu thận trọng để hoàn thành những điều không thể thực hiện được; nhằm làm

hài hoà chủ quyền một phần trong Liên bang, với chủ quyền đầy đủ trong các tiểu bang;

để phá vỡ một tiên đề toán học, bằng cách cất đi một phần, và cho phép giữ nguyên toàn

bộ.

Tất cả những vấn đề phải được cân nhắc về quyền đúc tiền, điều chỉnh giá trị của nó, với

giá trị của tiền xu nước ngoài, là căn cứ cho trường hợp cuối cùng này, Hiến pháp đã bổ

khuyết cho thiếu sót quan trọng trong bộ các điều luật liên bang. Quyền thực thi của

Quốc hội hiện nay bị hạn chế đối với quy định về tiền ĐƯỢC ĐÚC bởi chính quyền hạn

pháp lý của họ, hay quyền của các tiểu bang tương ứng. Người ta phải được thấy ngay lập

tức rằng sự thống nhất đề xuất về GIÁ TRỊ của các loại tiền hiện đang lưu hành có thể bị

phá hủy bằng việc bắt giá trị của đồng xu nước ngoài phải tuân theo những quy định khác

nhau của các tiểu bang khác nhau.

CXXVII

Page 128: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Việc trừng phạt nạn làm giả những chứng nhận sở hữu công, cũng như tiền đang lưu

thông, dĩ nhiên phải trình lên cơ quan có thẩm quyền để bảo đảm giá trị cho cả hai.

Các quy định về trọng lượng và các phương tiện đúc tiền được chuyển sang từ các điều

luật Liên bang, và được dựa trên những xem xét tương tự với quyền quy định về tiền xu

trước đó.

Tính khác nhau trong các quy tắc về nhập tịch đã từ lâu được xem như một sai lầm trong

hệ thống của chúng ta, và đặt cơ sở cho các vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Trong điều 4

của luật Liên bang, nó được tuyên bố "NHỮNG CƯ DÂN TỰ DO của mỗi tiểu bang này,

ngoại trừ những người được hưởng cứu tế, những người lang thang, và những kẻ chạy

trốn luật pháp, sẽ được hưởng tất cả các quyền ưu đãi và miễn trừ của CÁC CÔNG DÂN

TỰ DO trong một số tiểu bang; và NHÂN DÂN của mỗi tiểu bang sẽ được tận hưởng tất

cả các đặc quyền về buôn bán kinh doanh trong tất cả các bang khác", v.v... Có một sự

nhầm lẫn đáng kể về ngôn ngữ ở đây. Tại sao các thuật ngữ CƯ DÂN TỰ DO được sử

dụng trong một phần, CÁC CÔNG DÂN TỰ DO trong phần khác, và NHÂN DÂN trong

phần khác nữa của điều luật này; hay cái gì đã có nghĩa khi thêm vào quá nhiều "tất cả

các quyền ưu đãi và miễn trừ của các công dân tự do", "tất cả các đặc quyền buôn bán và

kinh doanh," không thể được xác định một cách dễ dàng. Tuy nhiên, dường như sự giải

thích hiếm khi tránh được, là những ai được xếp nằm trong nhóm các cư dân tự do của

một tiểu bang, mặc dù không phải là công dân của bang đó, được hưởng tất cả các đặc

quyền của CÁC CÔNG DÂN TỰ DO của nhóm sau trong tất cả các bang khác; nghĩa là,

các đặc quyền lớn hơn mà họ có thể được hưởng trong chính bang của họ: để điều đó có

thể thuộc quyền hạn của một tiểu bang riêng, hoặc đúng hơn là mỗi bang được đặt ra theo

tính cần thiết, không chỉ được trao các quyền công dân trong các tiểu bang khác cho bất

kỳ ai có thể nhận các quyền đó trong chính bang của nó, mà còn cho bất kỳ ai có thể được

phép trở thành cư dân trong phạm vi thẩm quyền của nó. Song cách giải thính thuật ngữ

"cư dân" đã được chấp nhận sẽ hạn chế các đặc quyền đã quy định chỉ riêng đối với các

công dân, sự khó hiểu chỉ được giảm đi mà không bị loại bỏ. Chính quyền hạn không

CXXVIII

Page 129: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

thích hợp này vẫn sẽ được giữ lại ở mỗi tiểu bang, đối với ngoại kiều nhập tịch trong tất

cả các tiểu bang khác,. Trong một tiểu bang, quá trình cư trú trong khoảng thời gian ngắn

xác nhận tất cả các quyền công dân: trong tiểu bang khác, những chứng nhận quan trọng

hơn bị yêu cầu. Do đó, một kiều dân bị tước bỏ các quyền nhất định một cách hợp luật ở

bang sau, có thể chỉ với quá trình cư trú trước đó trong bang trước, tránh được sự thiếu tư

cách của anh ta; và như vậy luật pháp của một tiểu bang bị làm cho cao hơn luật lệ của

tiểu bang khác một cách vô lý, thuộc thẩm quyền của bang kia. Chúng tôi công nhận điều

đó đơn thuần là chỗ gây hiểu nhầm, mà những tình trạng lúng túng rất nghiêm trọng về

chủ đề này cho đến nay đã được tránh khỏi. Theo các luật lệ của một số bang, những định

nghĩa nhất định về ngoại kiều, người đã làm cho chính họ khó chịu, đã được đặt ra theo

các lệnh cấm không chỉ không phù hợp với các quyền công dân mà cả với quyền cư trú.

Cái gì sẽ là kết quả, nếu những người đó, do quá trình cư trú hoặc bằng cách khác, đã tích

lũy những đặc tính công dân theo các bộ luật của tiểu bang khác, và sau đó xác nhận

quyền công dân của họ như vậy, cả về thời gian cư trú và tư cách công dân, trong tiểu

bang đang đặt họ ra ngoài vòng pháp luật? Dù bất kỳ kết quả pháp lý có thể có nào, các

hậu quả khác có lẽ hẳn sẽ dẫn đến trạng thái quá nghiêm trọng mà không được dự phòng.

Do vậy, Hiến pháp mới, với tính đúng đắn lớn, đã đặt ra điều khoản chống lại chúng, và

tất cả những văn bản khác khỏi khiếm khuyết của Liên bang về đề mục này, bằng cách

cho quyền chính phủ trung ương thiết lập một nguyên tắc thống nhất về việc nhập tịch ở

khắp mọi nơi của nước Mỹ.

Quyền thiết lập các luật lệ thống nhất về việc phá sản liên quan mật thiết đến quy định về

hoạt động buôn bán thương mại, và sẽ ngăn chặn rất nhiều sự gian lận ở nơi mà các bên

hoặc tài sản của họ có thể được pháp luật công nhận hoặc phải chuyển sang các bang

khác, nơi mà tính thiết thực của nó không bao giờ được đưa ra xem xét.

Quyền thực thi theo các luật lệ chung, cách thức mà theo đó các đạo luật công khai, các

hồ sơ và văn bản tư pháp của mỗi bang sẽ được chứng thực, và có hiệu lực mà chúng sẽ

có trong các tiểu bang khác, là một sự tiến bộ hiển nhiên và có giá trị đối với điều khoản

CXXIX

Page 130: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

liên quan đến chủ đề này trong các điều luật Liên bang. Ý nghĩa của phần sau là cực kỳ

mơ hồ, và có thể là ít quan trọng hơn theo bất kỳ sự giải thích nào mà nó sẽ có hiệu lực.

Quyền hạn đã thiết lập ở đây có thể được làm thành một văn kiện tư pháp rất thuận tiện,

và đặc biệt có lợi cho những khu vực biên giới của các tiểu bang tiếp giáp, nơi mà những

tác động thuộc khả năng tư pháp có thể bị diễn giải một cách bất ngờ và bí mật trong bất

kỳ giai đoạn của quá trình, nằm trong thẩm quyền của lân bang.

Trong mọi quan niệm, quyền thiết lập hệ thống đường bưu điện phải là quyền vô hại, và

nên chăng, có thể trở thành điều thuận tiện to lớn và hữu ích cho cộng đồng, bằng cách

quản lý đúng đắn. Không gì có xu hướng làm thuận tiện cho quan hệ giữa các tiểu bang

có thể được coi là không có giá trị trong việc giữ gìn cộng đồng.

PUBLIUS

CXXX

Page 131: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 43

Tiếp theo (Các quyền Hiến pháp trao cho Liên bang phải được cân nhắc

thấu đáo)

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Loại quyền lực thứ tư bao gồm các quyền khác nhau như sau:

1. Quyền "thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học và các lĩnh vực nghệ thuật hữu ích, bằng cách

bảo đảm sự độc quyền đối với các tác phẩm và phát minh tương ứng cho các tác giả và

những nhà phát minh trong một khoảng thời gian có giới hạn.

"Tính thiết thực của quyền lực này sẽ hiếm khi bị nghi ngờ. Bản quyền tác giả đã được

cấp chính thức theo quy định của thông luật tại Anh quốc. Quyền có được đối với những

sáng chế hữu ích dường như thuộc về các nhà phát minh với lý do tương tự. Lợi ích cộng

đồng hoàn toàn trùng khớp với quyền yêu sách của các cá nhân trong cả hai trường hợp.

Các tiểu bang không thể thực hiện riêng rẽ các điều khoản hợp pháp cho một trong các

trường hợp này, và đa phần họ đã lường trước sự phán quyết về điểm này, bởi các luật lệ

được Quốc hội thông qua.

2. "Quyền thực thi việc soạn luật dành riêng, trong mọi trường hợp, trên khắp khu vực

(không quá mười dặm vuông) này như có thể, bởi hành động nhượng quyền của các tiểu

bang riêng biệt và sự chấp nhận của Quốc hội, để cho nó trở thành một khu vực của chính

phủ Hoa Kỳ; và để thực thi thẩm quyền tương tự khắp tất cả những nơi có được nhờ sự

chấp thuận của các cơ quan lập pháp các tiểu bang, mà ở đó cũng sẽ tán thành việc xây

dựng các pháo đài, kho vũ khí, xưởng sản xuất đạn dược, xưởng đóng tàu, và các tòa nhà

cần thiết khác.

CXXXI

Page 132: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

"Tính cần thiết không thể thiếu của thẩm quyền đầy đủ tại khu vực chính phủ, chứa đựng

căn cứ của chính nó. Đó là quyền hạn được sử dụng của mọi cơ quan lập pháp Liên bang,

có thể nói là về mọi thứ, vì quyền lực tối cao không giới hạn của nó. Nếu không có nó,

không chỉ uy quyền chung có thể bị xúc phạm và các biên bản về quyền đó bị phá hủy

bới việc không bị trừng phạt, mà sự phụ thuộc của các thành viên chính phủ liên bang

vào tiểu bang có khu vực chính phủ, để bảo đảm việc thực thi nhiệm vụ của họ, có thể

dẫn các hội đồng quốc gia đến việc đổ lỗi cho nỗi sợ hãi hay ảnh hưởng, cũng đáng hổ

thẹn đối với chính phủ và làm bất mãn các thành viên khác của Liên bang. Cân nhắc này

có sức nặng hơn, sự tích lũy dần dần những tiến bộ chung tại nơi tọa lạc của chính phủ sẽ

vừa là vật bảo đảm công khai quá lớn được để mặc cho sự kiểm soát của một tiểu bang

đơn lẻ, vừa tạo ra quá nhiều trở ngại đối với việc di chuyển của chính phủ, cũng như vẫn

còn xa để giảm bớt tính độc lập tất yếu của nó. Phạm vi khu vực liên bang này bị giới hạn

hoàn toàn để thỏa mãn mọi thái độ đố kỵ của những người phản đối. Và vì nó phải được

dành riêng cho việc sử dụng như vậy với sự cho phép của tiểu bang nhượng lại nó; vì tiểu

bang đó không còn nghi ngờ gì sẽ quy định những thỏa thuận cho các quyền lợi và việc

chấp thuận của các công dân đang sinh sống ở đó; vì các cư dân sẽ được thuyết phục đầy

đủ về lợi ích để trở thành các bên vui lòng nhượng quyền; vì họ hẳn sẽ có tiếng nói của

mình trong việc bầu cử chính phủ để thực thi thẩm quyền đối với họ; vì một cơ quan lập

pháp đô thị cho các mục tiêu của địa phương, có nguồn gốc từ quyền đi bầu của chính họ,

tất nhiên sẽ được họ cho phép; vì quyền lực của cơ quan lập pháp tiểu bang, và của cư

dân khu vực đã nhượng quyền của nó, đồng tình về việc nhượng quyền, sẽ phải xuất phát

từ toàn thể nhân dân của tiểu bang trong việc chấp nhận bản Hiến pháp của họ, mọi phản

đối có thể hình dung được dường như đã bị ngăn chặn.

Sự cần thiết của một quyền hạn tương tự đối với các pháo đài, các kho vũ khí, v.v… đã

được thiết lập bởi chính phủ trung ương, là không kém phần rõ ràng. Số tiền công khai

tiêu dùng cho những chốn như vậy, và tài sản công khai dành cho chúng, đòi hỏi chúng

phải được miễn tuân theo uy quyền của tiểu bang đơn lẻ nào. Điều tương tự cũng không

thích hợp cho những nơi mà sự an toàn của toàn bộ Liên bang có thể phụ thuộc, với bất

CXXXII

Page 133: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

kỳ mức độ nào vào một thành viên riêng biệt của nó. Mọi phản đối và do dự ở đây cũng

được ngăn chặn, bởi việc đòi hỏi sự đồng tình chấp nhận của các tiểu bang liên quan, về

tất cả mọi cơ sở kiến lập như vậy.

3. "Quyền công bố việc trừng phạt tội phản quốc, nhưng không một lệnh tước quyền công

dân và tịch thu tài sản nào sẽ làm ô uế thanh danh, hoặc tước mất quyền danh dự của kẻ

phản quốc, ngoại trừ trong quãng đời mà người đó bị tước quyền.

"Vì tội phản quốc có thể bị buộc là do chống lại nước Mỹ, thẩm quyền của Hoa Kỳ phải

được phép trừng phạt nó. Song khi những tội phản quốc giả mạo và mới lạ với những

động cơ lớn lao do các phe phái quá khích, mà kết quả tự nhiên của chính phủ tự do

thường gây ra tà tâm giữa họ đối với nhau. Rất sáng suốt, hội nghị đã tạo ra rào cản đối

với việc làm nguy hiểm này, bằng cách đưa vào một định nghĩa hợp hiến về tội phản

quốc, ấn định các chứng cứ cần thiết để kết tội này, và kiềm chế Quốc hội, thậm chí trừng

phạt nó, do việc mở rộng những hậu quả phạm tội vượt quá người gây ra nó.

4. "Quyền cho phép các bang mới gia nhập Liên bang; nhưng không bang mới nào được

hình thành hoặc dựng lên trong quyền uy của bất kỳ bang nào khác; cũng không có bất kỳ

bang nào được dựng lên bởi chỗ tiếp giáp của hai hay nhiều tiểu bang, hoặc các phần của

các bang, mà không được chấp thuận bởi các cơ quan lập pháp của các bang liên quan,

cũng như của Quốc hội Liên bang.

"Trong các điều luật Liên bang, không có điều khoản nào được thấy nói về chủ đề quan

trọng này. Canada đã được chấp nhận quyền gia nhập của nó vào các chuẩn mực của Hoa

Kỳ; và CÁC THUỘC ĐỊA khác, vì quyền đó rõ ràng đã dành cho các thuộc địa của Anh

quốc, với sự suy xét thận trọng của chín tiểu bang. Sự thiết lập cuối cùng của CÁC

BANG MỚI dường như đã không được chú ý tới bởi những người biên soạn văn kiện đó.

Chúng tôi đã thấy rõ sự bất tiện của thiếu sót này, và trọng trách quyền lực mà theo đó

Quốc hội đã giao phó. Do đó, hệ thống mới đã sửa chữa khiếm khuyết này một cách hết

CXXXIII

Page 134: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

sức đúng đắn. Sự phòng trước thông thường là không tiểu bang mới nào sẽ được thành

lập, mà không được sự nhất trí của những người có thẩm quyền trong liên bang, và sự

đồng tình của các tiểu bang liên quan, phù hợp với các nguyên tắc sẽ chi phối văn kiện

này. Sự lo liệu trước một cách chi tiết chống lại việc thành lập các tiểu bang mới, bởi sự

phân chia của một tiểu bang mà không có được sự đồng tình của nó, lắng dịu đố kỵ của

các tiểu bang lớn hơn; cũng như ghen ghét của tiểu bang nhỏ hơn được làm lắng xuống

bởi sự lường trước tương tự, chống lại sự liên kết của các tiểu bang mà không có sự đồng

ý của họ.

5. "Quyền sắp đặt và thực hiện tất cả các luật lệ và quy định cần thiết tôn trọng lãnh thổ

hoặc tài sản khác thuộc về Hoa Kỳ, với một điều kiện, là không có điểm nào trong Hiến

pháp sẽ bị diễn giải theo hướng làm tổn hại đến bất kỳ tuyên bố nào của Hoa Kỳ, hay của

bất cứ tiểu bang riêng biệt nào.

"Đây là quyền có tầm quan trọng rất lớn, và đòi hỏi những suy xét tương tự như những

cân nhắc chỉ ra tính đúng đắn của hệ thống trước đó. Điều kiện kèm theo là phù hợp, và

đã có thể thể hiện tính cần thiết tuyệt đối bởi những ghen tỵ và ngờ vực liên quan đến

lãnh thổ của phương Tây đã hoàn toàn quen thuộc với công chúng.

6. "Quyền đảm bảo thể chế cộng hòa của chính phủ đối với mọi bang trong Liên bang;

quyền để bảo vệ mỗi tiểu bang trong đó chống lại sự xâm lấn; và với sự chuyên tâm của

các cơ quan lập pháp, hoặc hành pháp (khi lập pháp không thể bị triệu tập), chống lại

những xung đột trong nước.

"Trong một liên bang dựa trên các nguyên tắc cộng hòa, và bao gồm các thành viên cộng

hòa, chính phủ đương quyền rõ ràng phải có thẩm quyền bảo vệ hệ thống chống lại những

sự cách tân kiểu quân chủ và quý tộc. Tình trạng của liên bang này càng có thể thân mật,

lợi ích của các thành viên trong các tổ chức chính trị có được càng lớn; và quyền khẳng

định các thể chế chính phủ theo đó những thỏa thuận đã ký kết sẽ được duy trì càng tốt về

CXXXIV

Page 135: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

THỰC CHẤT. Nhưng quyền hạn ám chỉ phương thức hoạt động; và nơi nào khác mà

phương thức này có thể được giao phó, hơn là nơi nó được ký thác bởi Hiến pháp? Các

chính phủ với những nguyên tắc và thể chế không giống nhau đã được thấy là kém thích

nghi với sự liên kết dạng liên bang theo bất cứ hình thức nào, hơn là những chính phủ với

bản chất giống nhau. Montesquieu nói, "Như kinh nghiệm cho chúng ta thấy cộng hòa

liên bang Đức bao gồm các thành phố không bị ràng buộc và các tiểu bang nhỏ bé, phụ

thuộc vào các vị hoàng tử khác nhau, là kém hoàn hảo hơn thể chế của Hà Lan và Thụy

Sĩ." Ông nói thêm, "Liên bang Hy Lạp đã bị phá bỏ, ngay khi vua của vương quốc

Macedonia cổ đại giành được một ghế trong hội đồng Đại nghị liên bang". Trong trường

hợp sau đó, không còn nghi ngờ gì, sức mạnh không cân xứng, cũng như thể chế quân

chủ của liên bang mới, đã góp ảnh hưởng đến các khả năng có thể xảy ra. Có lẽ người ta

đã đặt ra vấn đề, điều cần thiết ở đó có thể thuộc về việc lường trước như vậy, và liệu nó

có thể không trở thành một lý do cho những thay đổi trong các chính phủ bang, mà không

có sự đồng tình của chính các tiểu bang này. Những câu hỏi này thừa nhận các câu trả lời

có sẵn. Nếu việc xen vào của chính phủ trung ương là không cần thiết, điều khoản về vấn

đề này sẽ là sự dư thừa vô hại trong chính bản Hiến pháp. Nhưng ai có thể nói những

thực tế nào có thể được tạo ra bởi sự thất thường của các tiểu bang riêng biệt, bởi tham

vọng của những người lãnh đạo mạnh dạn, hoặc bởi những mưu mô và ảnh hưởng của

các thế lực nước ngoài? Đối với câu hỏi thứ hai, người ta có thể được trả lời rằng nếu

chính phủ trung ương phải can thiệp vì quyền hợp hiến này, dĩ nhiên, nó sẽ buộc phải

theo đuổi quyền hạn đó. Nhưng uy quyền không mở rộng xa hơn đến việc BẢO ĐẢM thể

chế cộng hòa của chính phủ, giả định chính phủ tồn tại từ trước đang có thể chế được

đảm bảo. Do đó, miễn là các hình thức cộng hoà hiện có được tiếp tục bởi các tiểu bang,

chúng sẽ được bảo đảm bởi Hiến pháp liên bang. Bất cứ khi nào các tiểu bang cũng có

thể chọn để thay thế các hình thức cộng hòa khác, họ có quyền làm như vậy, và đòi hỏi sự

bảo đảm của liên bang cho thể thức cộng hòa sau. Hạn chế duy nhất buộc họ phải chấp

nhận là, họ sẽ không đánh đổi Hiến pháp cộng hòa cho các Hiến pháp chống chế độ cộng

hòa; một hạn chế được cho là sẽ khó bị xem xét như một sự bất công.

CXXXV

Page 136: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Việc bảo vệ chống lại sự xâm lấn là thích đáng của mọi xã hội đến các phần tạo nên nó.

Mức độ biểu hiện ở đây dường như thường để bảo vệ mỗi bang không chỉ chống lại sự

thù địch của nước ngoài, mà còn chống lại những hành động hận thù và đầy tham vọng

của các lân bang hùng mạnh hơn. Lịch sử của cả các liên bang cổ đại và hiện đại, đều

chứng minh rằng các thành viên yếu hơn của liên bang phải không bị mê hoặc đối với

cách giải quyết của điều luật này.

Việc bảo vệ chống những xung đột trong nước được thêm vào với tính chính đáng tương

tự. Người ta đã nhận thấy, ngay trong số các bang của Thụy Sĩ, điều khoản được tạo ra

cho mục đích này, nói đúng hơn, là không thuộc về một chính phủ; và lịch sử của liên

minh đó cho chúng ta biết rằng sự tương trợ lẫn nhau thường xuyên bị đòi hỏi và được

ban ra; bởi các bang dân chủ nhất, cũng như các bang khác. Một sự kiện nổi tiếng gần

đây trong chúng ta đã cảnh báo chúng tôi phải chuẩn bị cho các trường hợp khẩn cấp có

bản chất tương tự.

Với cái nhìn đầu tiên, điều có thể là không tương xứng với lý thuyết cộng hòa, khi giả

thiết rằng, hoặc đa số không có quyền, hoặc thiểu số sẽ có quyền, lật đổ một chính phủ;

và kết quả là việc xen vào của chính phủ liên bang có thể không bao giờ cần thiết, trừ khi

nó sẽ bất ổn. Nhưng về mặt lý thuyết, trong trường hợp này cũng như ở hầu hết các

trường hợp khác, điều đó cần phải được tuyên bố qua các bài học thực tiễn. Tại sao

những liên kết không hợp pháp vì mục đích xung đột, có thể không được hình thành bởi

đa số người dân của một bang, nhất là bang nhỏ cũng như bởi đa số người dân của một

tỉnh, hoặc một khu vực dân cư của cùng tiểu bang; và trong trường hợp sau, nếu quyền

lực của tiểu bang phải bảo vệ quyền lực địa phương, mà không phải quyền lực của liên

bang trong trường hợp trước đó, để xác nhận quyền của tiểu bang? Bên cạnh đó, có

những phần nhất định của hiến pháp tiểu bang được trộn lẫn với Hiến pháp liên bang, mà

một tai họa nghiêm trọng không thể bị gây ra cho tiểu bang đó mà không dẫn tới những

tổn thương cho các bang khác. Những cuộc nổi dậy trong một tiểu bang sẽ hiếm khi gây

ra sự can thiệpp của liên bang, trừ khi một số trong đó chịu vài phần ứng với những

CXXXVI

Page 137: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

người ủng hộ chính phủ. Sẽ là điều tốt hơn nhiều khi xung đột trong những trường hợp

như vậy được ngăn chặn bởi quyền giám sát, hơn là đa số được phép duy trì động cơ của

chúng thông qua một cuộc chiến dai dẳng và đẫm máu. Sự tồn tại của quyền can thiệp,

nhìn chung sẽ ngăn cản sự cần thiết đưa nó vào sử dụng.

Có đúng là sức mạnh và quyền lợi tất yếu thuộc về cùng một bên trong các chính phủ

cộng hoà? Có thể các đảng nhỏ không có được sự ưu việt như vậy về tiền tài, khả năng và

kinh nghiệm quân sự, hoặc về những sự giúp đỡ bí mật từ các thế lực nước ngoài, để làm

cho nó mạnh hơn nữa trong sự lôi kéo quyền lực? Có thể một vị thế thuận lợi và vững

vàng hơn không quay cán cân về cùng bên, chống lại một số mạnh hơn trong tình cảnh ít

có thể nỗ lực một cách tự chủ và mau chóng về sức mạnh của nó? Không gì có thể hão

huyền hơn khi tưởng tượng rằng trong một phiên tòa với thế lực hiện nay, chiến thắng có

thể được tính toán theo những quy tắc thịnh hành trong cuộc điều tra dân số, hay các

nguyên tắc xác định khả năng có thể xảy ra trong một cuộc bầu cử! Có thể không xảy ra,

dù nhỏ, việc thiểu số các CÔNG DÂN có thể trở thành một đa số nhiều NGƯỜI DÂN, do

sự gia nhập của những vị khách xa lạ, do sự tụ họp tình cờ của những nhà thám hiểm,

hoặc của những người mà hiến pháp tiểu bang đã không chấp nhận quyền bỏ phiếu? Tôi

không lưu ý đến hạng dân cư không hài lòng đầy rẫy trong một số tiểu bang, những

người, trong thời kỳ yên ổn của một chính phủ tốt, bị nhấn chìm dưới mức con người; mà

nói đến những người dân, trong những hoàn cảnh giông bão của xung đột dân sự, có thể

nổi lên tính cách con người, và đưa ra ưu thế về sức mạnh đối với bất kỳ bên nào mà họ

có thể hợp sức với.

Trong trường hợp nơi mà công lý sẽ thuộc về có thể bị nghi ngờ, việc tranh giành ảnh

hưởng, và chia tách tiểu bang thành từng phần nhỏ, là những phán xử có thể được trông

chờ từ cả hai phía xung đột hơn là những người đại diện của các tiểu bang trong liên

bang, mà không bị kích thích bởi chủ nghĩa cục bộ địa phương? Họ sẽ hợp nhất tình cảm

yêu mến của những người ủng hộ thành tính công bằng của các thẩm phán. Sẽ là điều

hạnh phúc nếu một phương thuốc kiểu đó đối với sự yếu đuối của nó có thể được thỏa

CXXXVII

Page 138: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

mãn bởi mọi chính phủ tự do; nếu một kế hoạch có thể được thiết lập với hiệu lực tương

đương cho hòa bình phổ quát của nhân loại!

Người ta sẽ hỏi, quyền gì là để trở thành vật bồi thường cho cuộc nổi dậy đang lan rộng

khắp tất cả các tiểu bang, và bao gồm sự vượt trội của sức mạnh tổng thể, mặc dù không

phải là một quyền hợp hiến? Câu trả lời hẳn phải là, trường hợp đó có thể nói nó sẽ nằm

ngoài phạm vi các biện pháp của loài người, rất may nó không thuộc vào phạm vi khả

năng của con người; rằng đó là khuyến cáo đầy đủ của Hiến pháp liên bang, và nó làm

giảm bớt rủi ro về một thảm họa mà không một hiến pháp hợp lý nào có thể đưa ra cách

khắc phục đối với tai họa đó.

Trong số những thuận lợi của một chính phủ cộng hòa liên bang được liệt kê bởi

Montesquieu, điều quan trọng là, "một cuộc nổi dậy của nhân dân sẽ xảy ra trong một

tiểu bang, những bang khác có thể chế ngự nó. Những hành động bất lương sẽ chỉ len vào

được một phần, chúng được sửa chữa bởi những phần vẫn còn vững mạnh."

7. "Quyền xem xét tất cả các khoản nợ đã phải chấp nhận, và các cam kết đã ký kết trước

khi thông qua Hiến pháp này, như đang có không ít hiệu lực đối với Hoa Kỳ, theo Hiến

pháp Liên bang, hơn là theo bộ luật Liên bang."

Điều này chỉ có thể được xem xét như là lời tuyên bố có tính chất giải thích; và có thể

được đưa vào, giữa các lý do khác, để làm thỏa mãn các chủ nợ nước ngoài của Hoa Kỳ,

những người không thể là những kẻ xa lạ với học thuyết giả, rằng một thay đổi về thể chế

chính trị của xã hội dân sự có tác động ma lực phá hủy những bổn phận luân lý của nó.

Trong số các chỉ trích nhỏ hơn đã tác động đến Hiến pháp, người ta đã nhận thấy rằng

tính hiệu lực của những cam kết phải được khẳng định bằng sự ủng hộ của Hoa Kỳ, cũng

như áp vào nó; và trong tinh thần thường đặc trưng cho những người chỉ trích hẹp hòi, sự

thiếu sót đã bị biến đổi và phóng đại thành một âm mưu chống lại các quyền lợi quốc gia.

CXXXVIII

Page 139: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Các tác giả của phát hiện này có thể nói ra, cái mà một vài người khác cần phải được

thông báo, vì những cam kết thuộc về thỏa thuận tương hỗ tự nhiên của họ, một sự khẳng

định tính hiệu lực của chúng với bên này, liên quan tất yếu đến tính hiệu lực với bên kia;

và vì rằng điều luật này chỉ đơn thuần để giải thích, việc thiết lập nguyên tắc trong một

trường hợp là đủ cho mọi trường hợp. Họ có thể phải nói rõ hơn, rằng mọi hiến pháp phải

giới hạn những sự liệu trước của nó đối với những mối nguy hiểm mà không phải do

tưởng tượng hoàn toàn; và rằng không mối hiểm nguy thực sự nào có thể tồn tại mà chính

phủ sẽ phải ĐƯƠNG ĐẦU với, hoặc thậm chí không có tuyên bố hợp hiến nào trước đó,

để công khai các khoản nợ một cách đủ hợp lý, với lý do đã bị chỉ trích ở đây.

8. "Quyền đưa ra những sửa chữa được thông qua bởi 3/4 tiểu bang với chỉ chưa đến hai

phản đối.

"Rằng những thay đổi hữu ích sẽ được đề xuất bởi kinh nghiệm, song có thể không được

biết trước. Do đó, điều tiên quyết là cách thức để đưa chúng vào phải được quy định.

Cách thức ưa thích bởi hội nghị dường như được chứng tỏ bằng tất cả những dấu hiệu

đúng đắn. Nó cũng bảo vệ chống sự dễ dãi cùng cực, sẽ làm cho Hiến pháp quá dễ thay

đôi; và sự khó khăn cùng cực, có thể duy trì các sai lầm đã được nhận ra của nó. Hơn

nữa, nó cũng có thể cho phép các chính phủ tiểu bang và trung ương tạo ra sửa chữa đối

với sai lầm, vì chúng có thể được chỉ ra bởi kinh nghiệm từ phía này hay phía khác. Sự

phản đối đối với tính công bằng trong quyền bầu cử Thượng viện, có lẽ đã có nghĩa như

là một vật bảo hộ cho chủ quyền còn lại của tiểu bang, được hàm ý và bảo đảm bởi

nguyên tắc đại diện trong một nhánh của lập pháp; và có thể đã được khẳng định bởi các

tiểu bang gắn bó đặc biệt với sự bình đẳng đó. Phản đối khác hẳn được thừa nhận dựa

trên những xem xét tương tự đã tạo ra đặc quyền được nó bảo vệ.

9. "Việc phê chuẩn các hiệp định của chín tiểu bang sẽ là đủ để thiết lập Hiến pháp này

giữa các tiểu bang, thông qua điều tương tự."

CXXXIX

Page 140: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Điều luật này đã tự nói rõ. Chỉ thẩm quyền rõ ràng của riêng nhân dân có thể trao hiệu

lực xứng đáng cho Hiến pháp. Để có sự phê chuẩn đồng lòng và cần có của mười ba tiểu

bang, sẽ phải đưa ra những lợi ích thiết yếu của toàn bộ đối với tính thất thường hay mục

ruỗng của một thành viên duy nhất. Nó hẳn sẽ đánh dấu sự thiếu nhìn xa trông rộng tại

hội nghị, mà kinh nghiệm của chính chúng ta có lẽ hẳn sẽ không thể tha thứ được.

Hai câu hỏi với một bản chất rất tế nhị đưa ra cho chính họ trong trường hợp này: 1. Bằng

nguyên tắc nào, mà Liên bang đại diện cho hình thức trang trọng của thỏa thuận bên

trong các tiểu bang, có thể bị thay thế mà không có sự đồng thuận nhất trí của các bên đối

với nó? 2. Mối quan hệ nào tiếp tục tồn tại giữa chín hay nhiều hơn các tiểu bang phê

chuẩn Hiến pháp, và thiểu số còn lại không trở thành các bên đối với nó?

Câu hỏi đầu tiên được trả lời ngay lập tức bằng việc quay lại với tính cần thiết tuyệt đối

trong trường hợp này; với nguyên tắc vĩ đại về sự tự bảo toàn; với luật lệ siêu việt của tự

nhiên và Chúa tể của thiên nhiên, được tuyên bố rằng sự an toàn và hạnh phúc của xã hội

là những mục đích mà tất cả các tổ chức chính trị nhắm tới, và tất cả các tổ chức như vậy

hẳn phải hy sinh cho nó. Cũng CÓ LẼ, một câu trả lời có thể được tìm thấy mà không

phải tìm kiếm bên ngoài các nguyên tắc của chính thỏa thuận. Cho đến nay, người ta đã

lưu ý trong những khiếm khuyết của Liên bang, rằng nó đã không nhận được sự phê

chuẩn cao hơn chỉ là sự phê chuẩn của lập pháp trong nhiều tiểu bang. Nguyên tắc tương

hỗ dường như đòi hỏi nghĩa vụ của nó với các tiểu bang khác phải hạ xuống cùng tiêu

chuẩn. Sự thỏa thuận giữa các bang có chủ quyền độc lập, dựa trên những đạo luật thông

thường của cơ quan lập pháp, có thể đòi hỏi hiệu lực không cao hơn liên minh hoặc hiệp

ước giữa các bên. Đó là một học thuyết được thiết lập dựa trên chủ đề của các hiệp ước,

rằng tất cả các điều khoản là những điều kiện có cùng mối quan hệ với nhau; rằng sự vi

phạm bất kỳ một điều khoản nào là sự vi phạm toàn bộ hiệp ước; và rằng sự vi phạm, bởi

hoặc mỗi một bên, là cái cớ chính đáng cho các bên khác, và cho phép họ thông báo sự

thỏa thuận đã bị xâm phạm và không có hiệu lực nếu họ vui lòng. Nó sẽ không may là

cần khăng khăng đòi hỏi những sự thật nhạy cảm này để biện minh cho việc bỏ qua sự

CXL

Page 141: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đồng tình của các tiểu bang riêng biệt đối với việc hủy bỏ hiệp ước liên bang, sẽ không

bên oán trách nào thấy khó giải đáp các vi phạm NHIỀU LẦN và QUAN TRỌNG mà họ

có thể phải đương đầu? Thời điểm là khi phận sự của tất cả chúng ta phải giấu kín những

ý tưởng mà đoạn này thể hiện. Tình cảnh bây giờ đã bị thay đổi, và cùng với nó là phần

mà các động cơ tương tự sai khiến.

Câu hỏi thứ hai không kém phần tế nhị; và triển vọng hão chỉ đơn thuần về lý thuyết ngăn

cấm việc thảo luận quá tò mò về nó. Đó là một trong những trường hợp hẳn phải được

phép để ủng hộ chính nó. Nhìn chung, người ta có thể quan sát thấy rằng mặc dù không

có mối quan hệ chính trị nào có thể tiếp tục tồn tại giữa các tiểu bang đồng ý và bất đồng,

nhưng các mối quan hệ luân lý sẽ vẫn chưa bị hủy bỏ. Những yêu sách công lý, cả ở phía

này và phía kia, sẽ có hiệu lực, và phải được thi hành; trong tất cả các trường hợp, các

quyền con người phải được tôn trọng đối với nhau một cách đúng đắn; trong khi những

suy xét về quyền lợi chung, và trên hết điều được hy vọng là việc nhớ lại những tình cảnh

ưa thích được bỏ qua, và việc đề phòng một chiến thắng nhanh chóng vượt qua những trở

ngại để tái hợp nhất, sẽ không thúc giục SỰ TIẾT CHẾ một cách vô ích của bên này, và

SỰ THẬN TRỌNG ở bên kia.

PUBLIUS

CXLI

Page 142: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 45

Các quyền của chính phủ liên bang được cho là nguy hiểm đối với các

chính phủ tiểu bang

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước,

SAU KHI đã chỉ rằng không một quyền lực nào đã được trao cho chính phủ liên bang là

không cần thiết hoặc không phù hợp, vấn đề tiếp theo phải được xem xét là, phải chăng

toàn bộ lượng quyền lực đó sẽ gây nguy hiểm đối với phần quyền lực còn lại trong một

vài tiểu bang.

Những người phản đối kế hoạch của hội nghị lập hiến, thay vì xem xét cấp độ quyền lực

nào là tuyệt đối cần thiết cho các mục đích của chính phủ liên bang trong phần đầu, đã

kiệt sức mình trong phần thứ hai về những hậu quả có thể có của mức quyền hạn đề nghị

này đối với các chính phủ của các tiểu bang riêng. Nhưng nếu Liên bang, như đã thấy, là

cần thiết cho an ninh của nhân dân Mỹ chống lại mối nguy hiểm từ nước ngoài; nếu nó là

quan trọng đối với an ninh của họ chống lại những tranh chấp và các cuộc chiến tranh

giữa các bang khác nhau; nếu nó là quan trọng để bảo vệ họ chống lại những phe phái áp

bức và quá khích đó làm xói mòn phước lành của tự do, và chống lại những tổ chức dân

sự hẳn sẽ dần dần làm tổn thương chính chân lý của nó; Nói tóm lại, nếu Liên bang là cần

thiết cho hạnh phúc của nhân dân Mỹ, không phải là phi lý để thúc đẩy sự phản đối đối

với một chính phủ tới một chừng mực, mà không có nó, các mục tiêu của Liên bang

không thể đạt được, liệu rằng một chính phủ như vậy có thể làm giảm tầm quan trọng của

các chính phủ tiểu bang riêng? Thì sau đó, cuộc Cách mạng Mỹ đã được tiến hành, Liên

bang Hoa Kỳ đã được thành lập, xương máu quý báu của hàng ngàn người đã đổ ra, và tài

sản khó nhọc của hàng triệu người đã bị phung phí, không chỉ người dân Mỹ cần tận

hưởng hòa bình, tự do và an toàn, mà có chăng chính phủ của các tiểu bang riêng, các tổ

chức chính quyền đô thị riêng biệt, có thể thỏa mãn với một mức độ quyền lực nhất định,

CXLII

Page 143: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

và được định rõ với những chân giá trị và thuộc tính chủ quyền nhất định? Chúng ta đã

nghe nói về học thuyết tà đạo ở Cựu thế giới (Âu châu), rằng nhân dân phải làm việc cho

các ông vua, còn vua không phải làm gì cho người dân. Phải chăng học thuyết tương tự

đang được hồi sinh ở Tân thế giới (châu Mỹ), trong một hình dạng khác mà niềm hạnh

phúc vững chắc của người dân bị hy sinh cho các quan điểm của những tổ chức chính trị

theo một thể chế khác? Quá sớm để cho các chính trị gia lợi dụng việc lãng quên của

chúng ta rằng, lợi ích công cộng, phúc lợi thực sự của đa số quần chúng nhân dân, là mục

đích tối thượng phải được theo đuổi, và rằng không một thể chế chính phủ nào có bất kỳ

giá trị nào khác hơn như nó có thể được đáp ứng để đạt mục đích này. Dự định của hội

nghị là xấu xa đối với hạnh phúc của công chúng, tiếng nói của tôi sẽ là Phản đối dự định

này. Chính Liên bang không phù hợp với hạnh phúc cộng đồng, nó sẽ là, Bãi bỏ Liên

bang. Với cách thức tương tự, đến chừng mực chủ quyền của các tiểu bang không thể

được điều hòa với hạnh phúc của nhân dân, tiếng nói của mọi công dân tử tế phải là, Hãy

để thể chế trước hy sinh cho thể chế sau. Sự hy sinh là cần thiết đến mức nào, đã được chỉ

ra. Phần còn lại không hy sinh sẽ gây nguy hiểm đến mức độ nào, là câu hỏi trước mắt

chúng ta.

Một vài suy xét quan trọng đã đạt đến đồng thời trong các bài luận này, làm bối rối giả

thuyết rằng hoạt động của chính phủ Liên bang sẽ dần dần chứng minh tính tai hại đối với

các chính quyền tiểu bang. Càng xoay quanh chủ đề, tôi càng hoàn toàn bị thuyết phục

rằng sự cân bằng có thể bị phá vỡ dễ hơn nhiều bởi sự vượt trội của thể chế cuối cùng

hơn mức ban đầu.

Chúng ta đã thấy trong tất cả các ví dụ về các liên bang hiện tại và cổ đại, xu hướng mạnh

mẽ nhất liên tục để lộ chính nó trong các thành viên liên bang, mà các tổ chức chính

quyền của nó nhằm tước đoạt quyền lực của chính phủ trung ương, với một khả năng rất

vô ích trong trường hợp sau để bảo vệ chính nó chống lại những sự xâm phạm. Mặc dù,

trong hầu hết các ví dụ này, hệ thống quá khác biệt với hệ thống đang được xem xét là

cao cả để làm suy yếu bất kỳ kết luận liên quan đến dạng sau từ số phận của hệ thống

CXLIII

Page 144: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

trước, nhưng khi các tiểu bang vẫn giữ được một phần rất lớn chủ quyền chủ động theo

Hiến pháp được đề nghị, kết luận rút ra phải không bị xem thường hoàn toàn. Trong Liên

bang kiểu Achae, có thể xảy ra việc bộ phận đứng đầu liên bang có mức độ và các loại

quyền lực, mà đã tạo cho nó một diện mạo đáng kể đối với chính quyền được dựng lên

bởi quy ước này. Liên bang kiểu Lycian, hẳn đã sản sinh một sự tương tự lớn hơn nữa,

cho đến khi các nguyên tắc và hình thức của nó được truyền đi. Nhưng lịch sử không

thông báo cho chúng ta biết rằng hoặc một trong chúng đã từng bị thoái hóa, hoặc có

khuynh hướng thoái hóa thành một chính quyền hợp nhất. Ngược lại, chúng ta biết rằng

sự suy sụp của một trong chúng xuất phát từ sự bất lực của các cơ quan quyền lực liên

bang để ngăn chặn những mối bất đồng và cuối cùng là sự chia rẽ, của các cơ quan thẩm

quyền cấp dưới. Những trường hợp này càng đáng cho chúng ta quan tâm hơn, như là

những nguyên nhân bên ngoài mà theo đó các bộ phận cấu thành bị ép cùng với nhau là

đông đảo và mạnh mẽ hơn nhiều trong trường hợp của chúng ta; và do vậy những mối

ràng buộc kém vững chắc bên trong đó sẽ là đủ để ràng buộc các thành viên với bộ phận

đứng đầu, và với nhau.

Trong hệ thống phong kiến, chúng ta đã thấy một xu hướng tương tự làm ví dụ. Mặc dù

thiếu sự cảm thông phù hợp giữa những người đứng đầu địa phương và người dân trong

mọi trường hợp, sự đồng cảm giữa người đứng đầu chính quyền trung ương và người dân

trong một số trường hợp, điều thường xảy ra là những người đứng đầu địa phương thắng

thế đối thủ cạnh tranh vì những sự xâm phạm. Không có các mối nguy hiểm bên ngoài ép

buộc việc làm cho lệ thuộc và cân đối ở bên trong, và đặc biệt những người cầm quyền

địa phương có được sự yêu mến của nhân dân, thì các vương quốc lớn ở châu Âu lúc này

sẽ bao gồm nhiều nhà quý tộc độc lập như các nam tước phong kiến trước đây.

Chính phủ tiểu bang sẽ có lợi thế của chính phủ liên bang, dù chúng ta so sánh chúng với

sự phụ thuộc trực tiếp của chính phủ này vào chính phủ kia; với trọng lượng của ảnh

hưởng cá nhân mà mỗi bên sẽ sở hữu; với quyền hạn tương ứng đã trao cho họ; với sự ưa

CXLIV

Page 145: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

chuộng và ủng hộ có thể có của nhân dân; với khuynh hướng và khả năng chịu đựng và

chống lại nhau của các phương thức điều hành.

Các chính quyền tiểu bang có thể được coi là các bộ phận quan trọng của chính phủ liên

bang, trong khi cái sau tuyệtt nhiên là không cần thiết cho hoat động hay sự tô chức của

cái trước. Nếu không có sự can thiệp của các cơ quan lập pháp bang, Tổng thống Hoa Kỳ

không thể được bổ nhiệm thực sự. Trong tất cả các trường hợp, chúng phải có một phần

đóng góp lớn trong việc bổ nhiệm ông ta, và trong hầu hết các trường hợp, có lẽ sẽ do

chính họ xác định việc đó. Thượng viện sẽ được bầu một cách hoàn toàn và dành riêng

bởi các cơ quan lập pháp tiểu bang. Ngay cả Hạ viện, mặc dù được bầu cử trực tiếp từ

người dân, sẽ được chọn lựa rất nhiều dưới tác động của các nhóm người, mà ảnh hưởng

của họ đối với người dân làm cho chính họ được bầu vào các cơ quan lập pháp tiểu bang.

Như vậy, mỗi nhánh quan trọng của chính phủ liên bang sẽ ít nhiều mắc nợ sự tồn tại của

nó đối với việc ủng hộ của các chính quyền bang, và do vậy phải cảm thấy sự phụ thuộc,

có nhiều khả năng hơn sinh ra một khuynh hướng quá khúm núm hơn là quá hống hách

đối với họ. Mặt khác, các bộ phận cấu thành của chính quyền tiểu bang sẽ không phải

mang ơn về việc bổ nhiệm của họ đối với tác dụng hướng dẫn của chính phủ liên bang, và

rất ít hay gần như không, đối với các ảnh hưởng cục bộ từ các thành viên của nó.

Số lượng người làm việc cho chính phủ theo Hiến pháp Hoa Kỳ sẽ ít hơn nhiều so với số

người làm việc theo các tiểu bang riêng. Cho nên sẽ có ít ảnh hưởng cá nhân lên phần này

của hệ thống trước hơn hệ thống sau. Các thành viên của của các ban ngành lập pháp,

hành pháp, và tư pháp của mười ba và nhiều hơn nữa các tiểu bang, thẩm phán hoà giải,

các sỹ quan quân đội, thượng thẩm phán, với tất cả các giới chức thị trấn, hội đồng thành

phố và tỉnh lỵ, cho ba triệu dân và nhiều hơn nữa, trộn lẫn và có hiểu biết sơ lược về mọi

giai cấp và nhóm nhân dân, phải vượt xa mọi tỷ lệ, cả về số lượng và ảnh hưởng của mọi

lĩnh vực về số người sẽ được giao cho chính quyền của hệ thống liên bang. So sánh các

thành viên thuộc ba ban ngành lớn của mười ba tiểu bang, ngoại trừ bộ phận thẩm phán

hòa giải thuộc tư pháp, với các thành viên của các phòng ban tương ứng của chỉ chính

CXLV

Page 146: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

quyền liên bang; so sánh các sỹ quan quân đội của ba triệu dân với các giới chức quân đội

và hải quân của bất kỳ tổ chức nằm trong phạm vi có khả năng xảy ra, hoặc tôi có thể nói

thêm, trong mức độ triển vọng, và chỉ với quan điểm này, chúng tôi có thể tuyên bố thuận

lợi của các tiểu bang là quyết định. Nếu chính phủ liên bang phải có những người thu

thuế, các chính phủ tiểu bang cũng sẽ có nhân viên thu thuế của họ. Và vì những người

đó trong hệ thống trước sẽ chủ yếu thuộc về miền ven biển, và không phải rất nhiều,

trong khi những người như vậy thuộc hệ thống sau sẽ được dàn khắp toàn quốc gia, và sẽ

là rất nhiều, lợi thế trong vấn đề này cũng thuộc về cùng bên. Sự thật là liên bang phải có,

và có thể sử dụng quyền thu thuế bên trong cũng như bên ngoài trong khắp các tiểu bang;

song có thể xảy ra là quyền lực này sẽ không được dùng đến, ngoại trừ các mục đích bổ

sung cho ngân khố quốc gia; rằng một lựa chọn sau đó sẽ được trao cho các tiểu bang để

cung cấp những chỉ tiêu của họ bằng các khoản quyên góp của chính họ; và rằng khoản

quyên góp cuối cùng, theo thẩm quyền trực tiếp của liên bang, nói chung sẽ được thực

hiện bởi các viên chức, và tuân theo các luật lệ được tạo ra bởi một vài tiểu bang. Quả

thực điều đó rất có thể xảy ra trong trường hợp khác, đặc biệt là ở cơ quan tư pháp, các

quan chức của tiểu bang sẽ được trao cho thẩm quyền tương ứng của liên bang. Tuy

nhiên, điều sẽ xảy ra là, những nhân viên riêng biệt của sở thuế bên trong nên được bổ

nhiệm theo quy định của chính phủ liên bang, ảnh hưởng của toàn bộ số này sẽ không bị

suy giảm bởi một số ảnh hưởng của vô số viên chức tiểu bang trong phần đối diện. Một

nhân viên thu thuế liên bang sẽ được phân công trong mỗi quận huyện, sẽ không có dưới

ba mươi hay bốn mươi, hoặc thậm chí nhiều hơn, các viên chức thuộc các lĩnh vực khác

nhau, và nhiều người trong họ có đặc điểm và mức quan trọng, mà ảnh hưởng của họ sẽ

thuộc về phía tiểu bang.

Các quyền lực mà Hiến pháp đề nghị trao cho chính phủ liên bang là ít và giới hạn.

Những quyền lực còn lại trong các chính phủ tiểu bang là rất nhiều và vô hạn. Quyền lực

trước sẽ được sử dụng chủ yếu trong những mục tiêu bên ngoài, như chiến tranh, hòa

bình, đàm phán, và thương mại với nước ngoài; với hầu hết các phần, kéo dài quyền thu

thuế sẽ phải gắn liên với chúng. Các quyền dành cho một số tiểu bang sẽ được mở rộng

CXLVI

Page 147: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đến tất cả các mục đích mà trong quá trình thực hiện công việc thông thường, liên quan

đến đời sống, các quyền tự do, tài sản của người dân, và thứ tự nội tại, hướng tới sự cải

thiện, và thịnh vượng của tiểu bang.

Các hoạt động của chính phủ liên bang sẽ mở rộng và quan trọng nhất trong thời gian

chiến tranh và bị đe dọa bởi sự hiểm nguy; những hoạt động đó của chính phủ tiểu bang,

trong thời kỳ hòa bình và an ninh. Vì các giai đoạn trước sẽ có thể chịu một tỷ lệ nhỏ với

các giai đoạn sau, khi các chính phủ bang sẽ tận hưởng lợi thế khác bên trên chính phủ

liên bang. Quả thật, các quyền mà liên bang có thể được trao cho liên quan đến quốc

phòng, những tình cảnh nguy hiểm nhiều hơn, có thể ủng hộ uy thế của họ hơn các chính

phủ tiểu bang riêng lẻ, và sẽ là ít thường xuyên hơn..

Nếu Hiến pháp mới được kiểm chứng với sự chính xác và vô tư, người ta sẽ nhận thấy

rằng những thay đổi mà nó đề xuất bao gồm sự bổ sung các QUYỀN LỰC MỚI cho liên

bang ít hơn nhiều so với việc tăng thêm hiệu lực cho các QUYỀN LỰC ĐẦU TIÊN của

nó. Quy định việc buôn bán thương mại đúng là một quyền lực mới, nhưng việc đó có vẻ

như là một sự bổ sung vài cạnh tranh, mà từ đó không có sự e dè nào phải ấp ủ. Các

quyền lực liên quan đến chiến tranh và hòa bình, quân đội và hạm đội, các hiệp ước và tài

chính, với các quyền đáng kể hơn khác, tất cả được giao phó cho Quốc hội hiện hành theo

bộ điều luật liên bang. Sự thay đổi đề nghị không mở rộng các quyền lực này; nó chỉ thay

thế một phương thức thực hiện chúng hiệu quả hơn. Sự thay đổi liên quan đến việc thu

thuế có thể được xem là quan trọng nhất; và Quốc hội hiện nay chưa có thẩm quyền đầy

đủ để ĐÒI HỎI những đóng góp tiền bạc không giới hạn cho quốc phòng và phúc lợi

công cộng, cũng như Quốc hội trong tương lai sẽ phải đòi hỏi chúng từ các công dân

riêng biệt; và hệ thống sau sẽ không bị ràng buộc nhiều hơn với chính các tiểu bang đã

có, để đáp ứng những chỉ tiêu thu thuế tương ứng với chúng. Các tiểu bang đã tuân thủ

các điều khoản của Liên bang không chậm trễ, hoặc có thể việc tuân thủ của họ đã có

hiệu lực bởi các biện pháp yên bình như có thể được sử dụng với sự thành công nhắm tới

những con người riêng rẽ, kinh nghiệm trong quá khứ của chúng ta rất khác xa việc ủng

CXLVII

Page 148: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

hộ một ý kiến, rằng các chính phủ tiểu bang có lẽ đã mất các quyền lực hợp hiến của họ,

và dần trải qua sự hợp nhất toàn bộ. Sự kiện như vậy có lẽ đã xảy ra sau đó, để duy trì sự

tồn tại của các chính phủ tiểu bang, có thể nói ngay là, sẽ không thích hợp với bất kỳ hệ

thống nào đạt được các mục đích quan trọng của Liên bang.

PUBLIUS

CXLVIII

Page 149: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên Bang Số 51

Cấu trúc của chính phủ phải cung cấp việc kiểm soát và cân bằng giữa

các bộ khác nhau

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Câu hỏi khẩn cấp lúc này là làm thế nào chúng ta có thể duy trì sự độc lập của các bộ

trong chính quyền như đã quy định trong hiến pháp? Câu trả lời độc nhất cho vấn đề này

là tất cả những sự đề phòng ở bên ngoài bộ phận chính phủ khó giải quyết được, chỉ có

những bộ phận nội các của chính quyền, do sự liên quan lẫn nhau, mới có thể giữ chỗ

đứng của chúng trong giới hạn. Tôi sẽ không bàn hết mọi khía cạnh của vấn đề quan

trọng này mà chỉ bàn tới một số quan sát tổng quát để có thể làm sáng tỏ nó thêm, để rồi

chúng ta có thể từ đó mà suy luận ra một biện pháp cho đúng theo nguyên tắc và cấu trúc

của chính phủ mới sắp hình thành từ đại hội hiến pháp.

Để có thể tạo nên một nền móng vững chắc cho sự độc lập và hoạt động riêng biệt của

từng bộ trong chính phủ, một điều hiển nhiên là mỗi bộ nên có ý chí riêng của nó. Vì thế,

các bộ nên có càng ít liên quan đến việc bổ nhiệm các chức vụ của bộ khác càng tốt. Nếu

nguyên tắc này được thực hiện một cách triệt để, sự bổ nhiệm của tất cả các chức vụ quan

trọng trong bộ tư pháp, hành pháp, và lập pháp phải được lấy từ một quyền lực cao nhất

là dân chúng qua những nguồn không liên hệ với nhau. Có lẽ, một kế hoạch xây dựng

những bộ trong chính phủ sẽ bớt khó khăn hơn trong thực hành hơn là trong dự tính. Một

vài thay đổi nhỏ khác với nguyên tắc sẽ được cho phép. Trong chi bộ tư pháp của hiến

pháp, sẽ không gấp rút cho lắm về việc áp dụng triệt để nguyên tắc: một, bởi vì tiêu

chuẩn chuyên môn của những thành viên này hơi khác thường, điều quan trọng nhất là

phải chọn lựa làm sao để duy trì được những tiêu chuẩn chuyên môn này; hai, bởi vì

CXLIX

Page 150: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

những chức vụ trong bộ tư pháp sẽ có nhiệm kỳ vĩnh viễn, nó sẽ tiêu diệt mọi lệ thuộc

vào cái quyền lực đã bổ nhiệm nó vào chức vụ đó.

Một điều hiển nhiên khác là những thành viên của mỗi bộ nên phụ thuộc vào những thành

viên của bộ khác càng ít càng tốt. Nếu chức vụ cao nhất của bộ hành pháp hay những ông

tòa của bộ tư pháp bị lệ thuộc vào bộ lập pháp, sự độc lập của họ với nhau sẽ chỉ là hư

danh.

Nhưng sự an toàn nhất để đối phó với sự tập trung từ từ của nhiều quyền hạn vào một bộ

nào đó của chính phủ là cho phép những người quản lý của mỗi bộ những phương cách tự

vệ dựa vào hiến pháp và một động lực riêng tư để chống lại những chiêu dụ của bộ khác.

Sự phòng hờ để tự vệ phải làm sao cho xứng với sự nguy hiểm khi bị tấn công. Tham

vọng phải bị phản công với tham vọng. Những quyền lợi riêng tư của họ phải được nối

kết với quyền lợi của văn phòng mà họ đại diên trước hiến pháp. Hiến pháp, nói chung ra,

là một chiếc gương soi cho bản tính con người, và rồi những phương cách của hiến pháp

rất cần thiết để kiểm soát sự lạm dụng quyền hành của chính phủ. Nhưng chính phủ là gì

nếu không phải là sự phản chiếu lớn nhất của bản tính con người? Nếu tất cả chúng ta là

thiên thần thì không cần một chính phủ nào hết. Nếu những thiên thần sẽ cai trị chúng ta,

thì không cần những kiểm soát bên trong hay bên ngoài chính phủ. Để xây dựng một

chính phủ cai trị con người bởi con người, cái khó nhất nằm trong vấn đề này: bạn phải

cho phép chính phủ đó cai trị dân chúng, và kế tiếp phải bắt buộc chính phủ đó kiểm soát

chính nó. Sự phụ thuộc vào dân chúng dĩ nhiên là cách tốt nhất để kiểm soát một chính

phủ, nhưng kinh nghiệm cho ta thấy sự cần thiết của nhiều phòng ngừa phụ khác.

Chính sách đối chiếu và cạnh tranh có thể tìm thấy trong những quan hệ của con người,

riêng tư hay công khai. Chúng ta thấy nó nhan nhản khắp nơi trong sự phân bố quyền lực

ở cấp dưới, chỗ mà mục tiêu chính là để chia rẽ và xắp xếp một số chi nhánh theo một

đường lối để rồi chi nhánh này sẽ kiểm tra chi nhánh kia, và quyền lợi riêng tư của mỗi cá

CL

Page 151: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

nhân là lính canh cho những quyền lợi của dân chúng. Những sự thận trọng này rất cần

thiết trong việc phân bố quyền lực tối cao của chính phủ.

Nhưng khó có thể cho các chi nhánh một quyền hạn bằng nhau để tự vệ. Trong chính phủ

cộng hòa, quyền lực của bộ lập pháp bao giờ cũng lớn hơn các bộ khác. Cho nên một

cách chữa trị cho vấn đề bất lợi này là chia xẻ bộ lập pháp thành nhiều chi nhánh khác

nhau và ban cho chúng những cách thức bầu cử và hoạt động khác nhau, liên hệ giữa

cách chi nhánh này nên giữ ở mức độ thấp nhất. Những lệ thuộc, nếu có, chỉ vừa đủ để

hoạt động trong khuôn phép mà xã hội và đất nước cho phép. Có thể sẽ phải có thêm

nhiều cách phòng ngờ khác để canh trừng những chiêu dụ nguy hiểm trong bộ lập pháp.

Nếu sức nặng quyền lực của bộ lập pháp cần được chia rẽ, thì sự yếu kém của bộ hành

pháp nên được chấn chỉnh. Bản tính xấu tuyệt đối của bộ lập pháp xuất hiện một cách tự

nhiên cho nên người có chức vụ cao nhất trong bộ hành pháp nên được trang bị “vũ khí”

để đối phó. Nhưng có lẽ cả hai sẽ không an toàn cùng với nhau hoặc không đủ khả năng

nếu đứng một mình. Trong những trường hợp bình thường, nó không thể ra tay với sự

cứng rắn cần thiết, và trong những trường hợp đặc biệt, nó có thể bị lạm dụng một cách

xảo trá (1). Nhược điểm của bản tính xấu này có thể dẫn đến vài liên hệ đứng đắn giữa bộ

yếu hơn và chi nhánh yếu trong bộ mạnh hơn. Để rồi chi nhánh yếu của bộ mạnh hơn sẽ

ủng hộ quyền lợi hiến pháp của bộ yếu hơn mà không bị rời ra khỏi bộ phận của nó (2).

Nếu những nguyên tắc và quan sát trên được coi là hợp lý, thì chúng nên được áp dụng

vào hiến pháp của một vài tiểu bang, và hiến pháp của liên bang. Nếu chính phủ liên bang

không vận hành được những nguyên tắc trên, thì chính quyền tiểu bang sẽ còn khó hơn

ngàn lần nữa trong việc thực hành những nguyên tắc này.

Có hai vấn đề nữa về thể chế liên bang của Hoa Kỳ mà tôi nghĩ sẽ có một cách nhìn

ngoạn mục.

CLI

Page 152: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Một. Trong một chế độ cộng hòa, tất cả mọi quyền lực của dân chúng được giao cho

chính phủ quản lý, và sự lạm dụng quyền lực sẽ được phòng ngừa bởi sự chia rẽ của

chính phủ vào những bộ riêng biệt khác nhau. Trong chế độ cộng hòa lớn hơn ở Hoa Kỳ,

quyền lực của dân chúng, trước hết, sẽ được phân chia vào hai hệ thống chính phủ khác

nhau, và rồi nó lại được phân chia tiếp tục cho những bộ riêng biệt trong chính phủ. Từ

đó sự bảo vệ quyền lợi dân chúng sẽ được tăng gấp hai lần. Hai chính phủ khác nhau,

chính phủ liên bang và tiểu bang, sẽ kiểm soát lẫn nhau giống như những bộ trong hai

chính phủ này

Hai. Điều quan trọng kế đến trong một thể chế cộng hòa là không những phòng ngừa sự

đàn áp của những người cai trị trong chính phủ mà còn phải phòng ngừa những bất công

của một nhóm trong xã hội áp đặt lên nhóm kia. Nhiều quyền lợi có lẽ sẽ xuất hiện trong

nhiều giai cấp công dân khác nhau. Nếu một đại đa số liên kết với nhau bởi một lợi ích

chung nào đó, quyền lợi của những kẻ thiểu số sẽ không được bảo vệ. Có hai cách phòng

ngừa vấn đề này: cách thứ nhất là tạo ra một di chúc trong cộng đồng hoặc trong xã hội

không phụ thuộc vào đại đa số; cách thứ hai là làm hài lòng tất cả những thành phần

trong xã hội tuy nó có thể không thực tế. Cách thứ nhất sẽ áp dụng được trong mọi chính

phủ cai trị bởi những nhà độc tài. Cái này lúc tốt nhất cũng chỉ là sự an toàn tạm thời, tại

vì một quyền lực không không bắt nguồn từ xã hội có thể tán thành những hướng nhìn

bất công của thành phần đa số và hoặc quyền lợi đúng đắn của thành phần thiểu số, hoặc

có thể sẽ phản lại cả hai thành phần này. Cách thứ hai sẽ được minh họa trong thể chế

cộng hòa liên bang của Hoa Kỳ. Khi tất cả các quyền lực được lấy từ và dựa vào xã hội,

chính xã hội đó sẽ phân chia ra nhiều thành phần, quyền lợi và giai cấp để rồi quyền của

công dân và của những kẻ thiểu số sẽ tránh được nguy hiểm từ sự đoàn kết của những

người thuộc nhóm đại đa số. Sự sung túc của nhiều thành phần trong xã hội này sẽ giảm

đi ý định của những đoàn kết mờ ám muốn đàn áp thành phần thiểu số. Trong một chính

phủ tự do, sự an toàn cho quyền công dân phải được bảo vệ giống như quyền tôn giáo.

Nó bao gồm một quyền lợi nhỏ trong nhiều quyền lợi khác nhau cũng như một tôn giáo

nhỏ trong nhiều tôn giáo khác nhau. Mức độ an toàn trong hai trường hợp trên phụ thuộc

CLII

Page 153: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

vào số đếm bao nhiêu của những quyền lợi và tôn giáo. Số đếm càng đông thì càng an

toàn. Hơn thế nữa, nó cũng phụ thuộc vào dân số và sự rộng lớn của đất nước. Để bảo vệ

cho tất cả mọi thành phần và giai cấp trong xã hội, sự vững chắc và độc lập của các thành

phần trong chính phủ nên được tăng cường một cách hợp lý. Công lý là kết quả cuối cùng

của chính phủ và xã hội văn minh. Nó đã và sẽ tiếp tục được theo đuổi cho đến khi hoàn

tất, hoặc cho đến khi tất cả tự do bị mất trong quá trình theo đuổi.

Trong một xã hội mà những thành phần mạnh có thể liên kết lại để đàn áp những thành

phần yếu hơn, tình trạng hỗn hoạn sẽ tung hoành và thống trị. Kẻ yếu sẽ không được bảo

vệ khỏi bạo lực của kẻ mạnh. Trong một xã hội mà chúng ta sắp xây dựng, kẻ mạnh cũng

như kẻ yếu sẽ được bảo vệ bởi chính phủ. Tôi đoán chắc rằng tiểu bang Rhode Island,

nếu tách rời khỏi chính phủ Liên Bang và tự đứng một mình, những kẻ thuộc đại đa số sẽ

dần dần trấn áp quyền của những người thiểu số và sau đó một quyền lực nào đó không

phụ thuộc vào xã hội sẽ được mời gọi bởi chính những kẻ này để sửa đổi những việc mà

họ đã mang lại. Trong thể chế cộng hòa Hoa Kỳ và nhiều tiếng nói, quyền lợi, đảng phái,

hoặc tôn giáo mà nó cưu mang, một tập hợp của đại đa số trong xã hội khó có thể đạt

được nếu không vì lợi ích chung hoặc sự công bằng trong xã hội. Vì vậy sẽ có ít nguy

hiểm cho thành phần thiểu số trong một xã hội dưới luật lệ của thành phần đa số. Hơn thế

nữa, sẽ ít có lý do để thông qua những luật lệ thiên vị cho mục tiêu của một vài nhóm nhỏ

nếu không được sự ủng hộ của đại đa số trong xã hội . Xã hội càng lớn bao nhiêu, nếu nó

nằm trong một phạm vi thực tế, nó sẽ tự cai trị chính nó nếu như nó tuân thủ và sửa đổi

hợp lý theo những nguyên tắc của liên bang.

PUBLIUS

1. Ở đây James Madison đang ám chỉ đến quyền bác bỏ của tổng thống trong bộ hành

pháp đối với những điều luật mà bộ lập pháp viết ra. James Madison sợ rằng quyền bác

bỏ của tổng thống thôi thì không đủ tại vì nó có thể bị lạm dụng hoặc không sử dụng khi

cần.

CLIII

Page 154: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

2. James Madison tự hỏi xem có cách nào sắp xếp chính phủ để rồi mặt yếu của bộ lập

pháp mạnh mẽ có thể ủng hộ quyền lợi hiến pháp của mặt yếu bên bộ hành pháp mà

không phản bội lại quyền lợi của của chi nhánh mẹ là bộ lập pháp.

CLIV

Page 155: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên Bang Số 52

Hạ Nghị Viện

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Từ những câu hỏi tổng quát đã theo đuổi trong 4 lá thư trước, tôi muốn nêu lên một xem

xét tỉ mỉ hơn về một vài bộ phận khác nhau trong chính phủ. Tôi xin được bắt đầu với Hạ

Nghị Viện.

Phần xem xét đầu tiên cho bộ phận này của chính phủ có liên quan đến những tư cách

khả năng của những cử tri và những đắc cử viên.

Những cử tri của trong Hạ Nghị Viện của chính quyền Liên Bang sẽ giống như những cử

tri trong bộ lập pháp của Tiểu Bang. Định nghĩa của quyền đi bầu cử là một điều căn bản

rất quan trọng trong một chính phủ cộng hòa. Vì vậy, những người soạn thảo và tham dự

viên trong hội nghị thành lập hiến pháp sẽ định rõ và thiết lập quyền lợi bầu cử này trong

Hiến Pháp. Nếu để cho quốc hội Liên Bang thỉnh thoảng tự điều chỉnh quyền lợi này, nó

sẽ là một bất ổn vì lý do kể trên. Nếu giao nó cho bộ lập pháp của các Tiểu Bang, nó cũng

lại là một bất ổn vì lý do trên và thêm một lý do nữa là bộ lập pháp của Liên Bang sẽ liên

hệ quá nhiều đến chính phủ Tiểu Bang trong khi nó chỉ nên dựa vào dân chúng mà thôi.

Nếu tóm lược tất cả những tiêu chuẩn khác nhau trong các Tiểu Bang thành một tiêu

chuẩn mẫu, nó sẽ tạo nên những bất mãn của một vài Tiểu Bang và những khó khăn cho

hội nghị thành lập hiến pháp. Điều khoản đã quyết định trong hội nghị là định nghĩa của

quyền đi bầu phải hài lòng tất cả các tiêu chuẩn hiện hành hoặc tương lai của mọi Tiểu

Bang. Nó sẽ an toàn hơn cho chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ bởi vì nếu quyền đi bầu cử

nằm trong hiến pháp của Tiểu Bang, nó sẽ không bị thay đổi bởi chính quyền hoặc dân

CLV

Page 156: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

chúng của các Tiểu Bang để rồi phải chịu sự hạn chế về quyền lợi của chính họ trong

Hiến Pháp Liên Bang.

Trong khi tư cách khả năng của các đắc cử viên được định nghĩ một cách lỏng lẻo bởi

hiến pháp Tiểu Bang và thường giống nhau, nó lại được cân nhắc và sắp đặt một cách

chặt chẽ bởi hội đồng hiến pháp Liên Bang. Một dân biểu phải từ 25 tuổi trở lên, phải làm

công dân của nước cộng hòa Liên Bang Hoa Kỳ hơn 7 năm, phải là thường trú dân của

Tiểu Bang mà người đó đại diện khi đắc cử, và khi tại chức người đó không được có các

chức vụ khác trong nước cộng hòa Liên Bang Hoa Kỳ. Dưới những giới hạn hợp lý kể

trên, cánh cửa của bộ phận này trong chính phủ liên bang sẽ mở ra cho tất cả những ai đạt

đủ điều kiện, dân bản sứ hay dân nhập tịch, trẻ hay già, giàu hay nghèo, và theo bất cứ

tôn giáo nào.

Nhiệm kỳ cho mỗi dân biểu sẽ được sẽ được xem xét theo một chiều hướng thứ hai từ chi

nhánh này. Để trả lời một cách thích đáng cho điều khoản này, có hai câu hỏi cần được

cân nhắc: một, bầu cử hai năm một lần trong trường hợp này sẽ an toàn hay không; hai,

nó có cần thiết hoặc có ích hay không?

Trước hết, nếu yếu tố cần thiết cho quyền tự do là chính phủ phải có một quyền lợi chung

với dân chúng, thì chi nhánh này của chính phủ phải có một sự liên hệ trực tiếp và một

mối thương cảm mật thiết với dân chúng đó. Bầu cử thường xuyên chắc chắn sẽ là một

chính sách duy nhất có thể duy trì sự lệ thuộc và thương cảm rất cần thiết này. Nhưng

mức độ thường xuyên đúng đắn nhất của các cuộc bầu cử cho dân biểu không cần phải bị

tính toán một cách tuyệt đối mà phải dựa trên những tình huống khác nhau liên quan đến

nó. Chúng ta hãy tra cứu những kinh nghiệm trong quá khứ, một bản chỉ dẫn luôn cần

được đi theo mỗi khi tìm được nó.

Hệ thống đại diện dân biểu để thay thế cho những cuộc gặp mặt các công dân đã được áp

dụng một cách rất nhiều thiếu xót trong nhiều xã hội cổ xưa, nhưng chỉ đến thời kỳ cận

CLVI

Page 157: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đại, chúng ta mới có thể học hỏi được một vài thí dụ. Và ở đây, để tránh tìm kiếm một đề

tài quá mập mờ và rườm rà, chúng ta cần giới hạn trong một vài ví dụ nổi tiếng và giống

như trường hợp của chúng ta nhất . Ví dụ đầu tiên là Hạ Nghị Viện ở Anh quốc. Lịch sử

của chi nhánh này trong hiến pháp Anh quốc , trước ngày Đại Hiến Chương Anh Quốc,

rất khó hiểu để học hỏi. Sự tồn tại của nó đã là một câu hỏi giữa các nhà nghiên cứu

chính trị. Những ghi chép mới nhất chứng nhận cho ta thấy các nghị viên thường chỉ họp

một lần trong một năm chứ không phải họ được bầu mỗi năm. Mặc dù các cuộc họp

thường niên này không có sự can thiệp nào từ các hoàng gia, sự gián đoạn quá dài và

nguy hiểm sẽ bị ảnh hưởng và chiêu dụ từ những tham vọng của hoàng gia. Để chữa trị

vấn đề này, một đạo luật được ban hành dưới triều đại của Vua Charles Đệ Nhị cấm sự

gián đoạn này không được quá 3 năm. Khi Vua William Đệ Tam lên ngôi, một cuộc cách

mạng đã xảy ra trong chính phủ và vấn đề này lại được tranh cãi để rồi quyền họp hành

thường xuyên của nghị viện được tuyên bố là một trong những quyền lợi căn bản của dân

chúng. Một đạo luật khác cũng được ban hành trong cùng triều đại đã định nghĩa lại chữ

thường xuyên này là chu kỳ 3 năm cho mỗi hội nghị của nghị viện cho giống như đạo

luật dưới thời Vua Charles Đệ Nhị. Sự thay đổi cuối cùng từ 3 đến 7 năm đã được giới

thiệu vào đầu thế kỷ này dưới những cảnh báo trong sự kế vị của triều đại Hanover. Từ

những bằng chứng này, để trói buộc các dân biểu với những quyền lợi của các cử tri, chu

kỳ bầu cử nên không quá 3 năm. Và nếu chúng ta lý luận rằng quyền lợi của các cử tri đã

không giảm xuống khi giảm chu kỳ bầu cử từ 7 năm xuống 3 năm, thì không lý gì quyền

lợi này sẽ giảm nếu chúng ta giảm chu kỳ bầu cử xuống 2 năm như trong trường hợp của

Hạ Nghị Viện của chính phủ Liên Bang.

Chuyện bầu cử của nước Ái nhĩ lan đến nay vẫn bị qui định theo chỉ thị của hoàng gia và

ít khi lặp lại trừ khi có sự lên ngôi của hoàng đế mới hoặc những sự kiện bất ngờ. Nghị

viện thành lập bởi Vua George Đệ Nhị đã tiếp tục hiện hành trong khoảng 35 năm dưới

triều đại của chính vị vua này. Sự lệ thuộc của các dân biểu vào dân chúng chỉ có trong

sự bầu cử của các cử tri để cung cấp những dân biểu mới vào các chỗ trống, hoặc trong

một cuộc bầu cử tổng thể khi những sự kiện bất ngờ xảy ra. Vì vây, khả năng duy trì

CLVII

Page 158: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

quyền lợi của cử tri ở nghị viện Ái nhĩ lan rất dễ dàng bị xiềng xích bởi sự kiểm soát của

hoàng gia. Một trong những sự xiềng xích này, nếu tôi không nhầm, là chu kỳ bầu cử của

nghị viện đã bị thay đổi thành 8 năm. Hậu quả của sự cải cách này ra sao sẽ phải chờ đợi

cho thời gian trả lời. Thí dụ của chính quyền Ái nhĩ lan sẽ cho chúng ta một ít ánh sáng

về vấn đề đang tranh cãi. Một bài học được rút ra là nếu dân Ái nhĩ lan có thể bảo vệ

quyền lợi của họ dưới những bất lợi này, thì lợi thế của chu kỳ bầu cử hai năm sẽ dễ dàng

bảo vệ các quyền lợi đó trong mối quan hệ xứng đáng giữa dân biểu và cử tri.

Bây giờ chúng ta hãy tóm tắt lại những nghiên cứu này. Những thí dụ của các nước trên

đã quá trứ danh cho nên không cần phải nói đến nữa. Nguyên tắc của sự thay mặt cho dân

chúng trong ban lập pháp của chính quyền đã thiết lập trong tất cả các nước trên. Tuy

nhiên, sự khác biệt giữa những nước này nằm ở chu kỳ bầu cử của các dân biểu. Các chu

kỳ bầu cử này khác nhau từ một đến bảy năm. Vì thế, từ tinh thần và hạnh kiểm của các

dân biểu trước cuộc Cách Mạng dành độc lập cho đất nước này, chúng ta có lý do gì để

sợ rằng chu kỳ bầu cử hai năm cho các dân biểu của Hạ Nghị Viện sẽ có hại cho quyền tự

do của dân chúng? Tinh thần của các dân biểu đã lộ ra trong sự bắt đầu của công cuộc

đấu tranh và đã đánh tan tất cả những trở ngại trên con đường dẫn đến nền độc lập nước

nhà. Tinh thần này là một bằng chứng hùng hồn cho sự phồn thịnh của tự do khắp nơi

cũng như giá trị và sự khuếch trương của nó. Những nhận xét trên cũng giữ vững lập

trường của nó trong trường hợp của các tiểu bang với chu kỳ bầu cử ngắn hoặc dài như

tiểu bang Virginia, một tiểu bang đầu tiên đã đứng lên chống lại sự chi phối của nước

Anh đối với nghị viện của họ. Nó cũng là một tiểu bang đã đứng ra tán thành nghị quyết

độc lập một cách công khai. Ở tiểu bang Virginia, nếu tôi không lầm, chu kỳ bầu cử của

nghị viện là 9 năm. Ví dụ đặc biệt này được mang ra để chứng minh rằng quyền tự do của

dân chúng sẽ không bị nguy hiểm trong chu kỳ bầu cử hai năm.

Kết luận cuối cùng cho những thí dụ kể trên sẽ được vững chắc hơn nếu tưởng nhớ lại 3

chi tiết sau. Chi tiết thứ nhất là bộ lập pháp của Liên Bang sẽ có một phần giống như

quyền lập pháp tối cao trong nghị viện Anh quốc đã được thực hành trong các quốc hội

CLVIII

Page 159: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

thuộc địa và bộ lập pháp của Ái nhĩ lan. Nó là một tư tưởng rất có cơ sở và đáng tin cậy

nếu được thực hiện trong câu ngạn ngữ “quyền hạn càng lớn bao nhiêu thì nhiệm kỳ của

nó nên ngắn bấy nhiêu, và ngược lại, quyền hạn càng nhỏ bao nhiêu thì nhiệm kỳ của nó

sẽ không nguy hiểm nếu được kéo dài.” Chi tiết thứ hai là bộ lập pháp Liên Bang không

những nên bị ràng buộc bởi sự phụ thuộc vào dân chúng như ở những nước kể trên mà

còn nên bị canh gác và kiểm tra bởi một vài bộ phận khác trong cơ quan lập pháp. Chi

tiết thứ ba là không có sự so sánh giữa những công cụ của các nhánh cố định hơn trong

chính phủ để chiêu dụ Hạ Nghị Viện phản lại trách nhiệm của nó đối với dân chúng và

những phương thức để gây ảnh hưởng đến nhánh phổ biến sở hữu bởi những nhánh khác

kể trên trong chính phủ. Với ít quyền hạn để lạm dụng, những dân biểu trong chính quyền

tiểu bang sẽ khó bị cám dỗ và sẽ cảnh giác gấp hai lần.

PUBLIUS

CLIX

Page 160: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên Bang Số 53

Hạ Nghị Viện (tiếp theo)

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Tôi muốn nhắc nhở các đồng bào một quan sát hiện tại là, “mỗi khi không có những cuộc

bầu cử theo chu kỳ, độc tài và bạo chúa sẽ bắt đầu.” Nếu điều trên là sự thật, như nó đã

được nhắc đến nhiều lần và căn cứ dựa trên những lẽ phải, thì một khi nó được thiết lập,

nó thường được áp dụng vào những trường hợp trong đó lẽ phải của nó không nới rộng ra

được. Để chứng minh cho điều này, tôi sẽ kiếm không đâu xa bằng trường hợp trước mặt

chúng ta. Dựa trên lý lẽ nào mà câu tục ngữ trên được sáng lập ra? Không ai sẽ giả vờ

không biết mối quan hệ giữa mặt trời và ảnh hưởng của nó vào bốn mùa trong năm, hoặc

các đức hạnh của con người sẽ chống trả lại sự cám dỗ của quyền lực trong bao lâu. May

mắn thay cho loài người, tự do không bị giam giữ trong tại bất cứ thời điểm nào của thời

gian. Nhưng tự do nằm giữa các đối cực để rồi nó lên xuống và thay đổi tùy theo những

tình thế và hoàn cảnh khác nhau trong xã hội văn minh. Nếu việc bầu cử những công

chức được coi là có lợi, nó có thể nên thực hiện theo chu kỳ mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi

tháng, hoặc mỗi năm. Nếu những hoàn cảnh khác nhau có thể cần một thay đổi nhỏ trong

quy luật ở bên này, thì tại sao không thay đổi luôn ở bên kia? Hãy chuyển sự chú ý của

chúng ta đến những nhiệm kỳ của những Hạ Nghị Viện lớn nhất của bộ lập pháp trong

mỗi tiểu bang, ta có thể thấy một vài chu kỳ khác nhau cho những nhiệm kỳ này. Ở tiểu

bang Connecticut và Rhode Island, chu kỳ thường là nửa năm. Ở những tiểu bang khác

ngoại trừ South Carolina, chu kỳ thường là một năm. Còn ở tiểu bang South Carolina còn

lại, chu kỳ là hai năm giống như chu kỳ bầu cử đã đưa ra trong chính phủ Liên Bang. Sự

khác biệt là tỉ lệ bốn so với một giữa những chu kỳ ngắn nhất và dài nhất. Nhưng chúng

ta khó có thể nói rằng tiểu bang Rhode Island hay Connecticut được cai trị tốt hơn hoặc

được hưởng nhiều quyền tự do hơn tiểu bang South Carolina. Hơn thế nữa, chúng ta khó

CLX

Page 161: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

có thể phân biệt được những tiểu bang này trong những tiêu chuẩn hoặc căn nguyên kể

trên đối với những tiểu bang khác mặc dầu chu kỳ bầu cử khác nhau.

Trong khi tìm kiếm những nền tảng cho học thuyết này, tôi khám phá chỉ được một điều

nhưng nó lại không áp dụng vào trường hợp của chúng ta. Một nét đặc thù riêng biệt ở

đất Hoa Kỳ mà mọi người hiểu rất rõ đó là Hiến pháp lập nên bởi dân chúng không được

sửa đổi bởi chính phủ, và luật pháp lập nên bởi chính phủ có thể thay đổi bởi chính phủ.

Điều quan trọng này lại không hiểu rõ hoặc không chú ý đến ở những nước khác. Chỗ

nào có quyền lập pháp tối cao tồn tại, chỗ đó có đủ quyền lực để thay đổi thể thức của

chính phủ. Mặc dù những nguyên tắc chính trị, quyền tự do của công dân, và quyền hạn

của Hiến pháp được thảo luận thường xuyên ở Anh quốc, uy quyền bất trị của nghị viện

đã xem Hiến pháp như một món hàng tầm thường của cơ quan lập pháp. Họ đã nhiều lần

thay đổi một số điều khoản căn bản của chính phủ cũng như chu kỳ bầu cử qua những

hành động lập pháp. Trong một dịp gần đây, họ đã không những đổi chu kỳ bầu cử từ 3

năm lên 9 năm mà còn tăng thêm 4 năm nữa cho nhiệm kỳ của họ, trái với khế ước mà

dân chúng đã đồng ý khi bầu họ lên. Thật vậy, chu kỳ bầu cử là nền tảng cho chính phủ

cộng hòa. Những hoạt động nguy hiểm trên sẽ đẻ ra những báo động tự nhiên cho các cử

tri. Và nó sẽ dẫn dắt họ trên con đường tìm kiếm những giải pháp để bảo vệ quyền tự do

của chính họ khỏi những nguy hiểm này. Ở những nước không có Hiến pháp để kiểm

soát chính phủ hoặc dân chúng nước đó không thể kiếm ra một điều tương tự, sự an toàn

của Hiến pháp như Hiến pháp của Liên Bang Hoa Kỳ sẽ không bị thử thách. Vì vậy, một

số cách bảo vệ được tìm ra, và có cách nào hay hơn là dùng chiều dài của thời gian làm

một thước đo cho sự nguy hiểm của đổi thay, cho sự sửa sang những cảm nghĩ trong đất

nước, và cho sự liên kết của lòng yêu nước? Chiều dài thời gian đơn giản và quen thuộc

nhất là một năm. Kể từ đây, học thuyết này sẽ được khắc sâu bởi một nhiệt tâm xứng

đáng để xây nên pháo đài phòng thủ chống lại những thay đổi từ từ của một chính phủ

không có giới hạn. Lối vào của độc tài và bạo chúa thường được tính bằng chu kỳ bầu cử

lâu bao nhiêu.

CLXI

Page 162: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Nhưng điều gì cần thiết để áp dụng lợi ích này vào một chính phủ bị hạn chế bởi quyền

lực tối cao của Hiến pháp như chính quyền Liên Bang sắp lập ra? Hay ai có thể giả vờ

không biết rằng quyền tự do của dân chúng Hoa Kỳ sẽ không an toàn hơn dưới quy luật

bầu cử hai năm một lần, một quy luật không bao giờ thay đổi viết trong Hiến pháp, nếu

so sánh với những nước khác với chu kỳ bầu cử một năm hoặc thường xuyên hơn nhưng

lại dễ bị thay đổi bởi quyền hạn của chính phủ?

Câu hỏi thứ hai đã viết là chu kỳ bầu cử hai năm một lần có cần thiết hay ích lợi gì

không? Một vài quan sát hiển nhiên sẽ cho ta thấy câu trả lời khẳng định là có.

Không ai có thể là một nhà lập pháp có khả năng nếu người đó không có một mục đích

ngay thẳng, một lương tri lành mạnh, và một số kiến thức về người dân mà anh ta viết

luật cho. Một phần nhỏ của tri thức này có thể thu nhập từ cuộc sống riêng tư hoặc công

khai. Phần còn lại chỉ có thể thu nhập được từ những kinh nghiệm thực tế trong một chức

vụ cần sử dụng nó. Vì vậy trong tất cả những trường hợp trên, chu kỳ của nhiệm vụ phải

được tương xứng với đòi hỏi của kiến thức thực dụng để hoàn thành nhiệm vụ đó. Chu kỳ

của các chức vụ lập pháp trong nhiều Tiểu bang như chúng ta đã thấy thường là một năm.

Câu hỏi kế tiếp là: một dân biểu của Liên Bang có thể thu nhập nhiều kiến thức hơn dân

biểu của Tiểu Bang, trong hai năm so với một năm, để hoạt động trong chi nhánh lập

pháp hay không? Câu trả lời đã nằm trong câu hỏi này.

Trong một nước riêng biệt, kiến thức cần thiết liên quan đến những luật pháp hiện hành,

một luật pháp đồng dạng mà tất cả các công dân ít hay nhiều biết đến nó, và nó cũng liên

quan đến công việc tổng quát của nước này. Kiến thức này thường nằm trong một lãnh

vực nhỏ, không đa dạng và thường không được đề cập đến trong những cuộc đàm luận

hằng ngày của tất cả các giai cấp trong xã hội. Hội trường của nước Liên Bang Hoa Kỳ

cho ta thấy một quang cảnh rất khác biệt. Luật pháp ở đây không đồng dạng chút nào, nó

khác nhau trong mỗi Tiểu Bang. Hơn thế nữa, những luật pháp này khó có thể học ở các

CLXII

Page 163: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

chỗ khác trừ hội đồng trung ương, nơi mà tất cả các dân biểu từ khắp nơi của đất nước sẽ

mang kiến thức của các luật pháp này về.

Những dân biểu của mỗi Tiểu Bang nên có một ít kiến thức về những tin tức và luật pháp

của tất cả các Tiểu Bang. Làm sao mà giao dịch thương mại quốc tế có thể được quản lý

bởi một luật pháp đồng dạng nếu không làm quen với những giao thiệp, cảng, tập quán,

và luật lệ của những nước khác nhau? Làm sao mà giao dịch giữa các Tiểu Bang có thể

được quản lý nếu không có chút ít kiến thức về những tình hình liên quan trong các Tiểu

Bang này và những chuyện khác? Làm sao thuế má có thể được đặt ra và thu thập một

cách có hiệu quả nếu nó không phù hợp với các luật pháp khác nhau cũng như các hoàn

cảnh địa phương? Làm sao những qui tắc đồng dạng cho dân quân được chu cấp nếu

không có sự hiểu biết về những hoàn cảnh nội bộ khác biệt của các Tiểu Bang? Đây là

những chủ đề chính của pháp luật liên bang và nó cũng đề nghị một cách ép buộc các dân

biểu phải thu thập những kiến thức rộng như thế. Những chủ đề khác cũng cần một kiến

thức tương đương để giải quyết.

Thật sự mà nói, mức độ của những khó khăn này sẽ giảm đi. Công việc cực nhọc nhất là

việc khánh thành chính phủ một cách đứng đắn và sự thành lập bộ luật liên bang đầu tiên.

Những cải thiện của bản nháp này sẽ từ từ dễ dàng và ít đi mỗi năm. Những văn kiện cũ

của chính phủ sẽ sẵn sàng và là một tài liệu gốc chính xác cho những thành viên mới

trong bộ máy chính phủ. Việc nội bộ của Liên Bang sẽ ngày càng thú vị hơn và cũng sẽ là

một đề tài đàm luận hàng ngày giữa các công dân trong đất nước. Và sự giao hữu tăng lên

giữa những Tiểu Bang sẽ đóng góp cho kiến thức qua lại của công việc liên quan cũng

như việc đồng hóa chung tất cả các luật pháp và phong tục tập quán của các Tiểu Bang.

Mặc dù những khó khăn này sẽ giảm xuống, công việc pháp luật của liên bang sẽ còn

phát triển rộng rãi hơn trong sự mới lạ và khó khăn so với cùng công việc ở tầm mức tiểu

bang. Vì vậy, nó là một điều hợp lý để cho phép những người có phận sự một nhiệm kỳ

dài hơn.

CLXIII

Page 164: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Một nhánh kiến thức mà dân biểu liên bang phải thu thập chưa được nhắc đến là kiến

thức đối ngoại. Trong quá trình quản lý thương mại của đất nước, dân biểu liên bang

không những phải quen với những hiệp ước của nước Liên Bang Hoa Kỳ với những nước

khác mà còn phải biết những chính sách thương mại cũng như luật pháp của các nước

này. Anh ta phải am hiểu luật pháp của các nước bởi vì nó có dính dáng đến chính phủ

liên bang nếu những luật lệ đó là luật thành phố. Và tuy rằng Hạ Nghị Viện sẽ không trực

tiếp tham gia vào các cuộc thương lượng và dàn xếp của công việc đại chúng, nó sẽ

thường xuyên phải chú ý đến những hướng đi của luật pháp để phạt vạ hoặc hợp tác. Một

vài kiến thức này dĩ nhiên có thể thu nhập từ cuộc sống riêng tư nhưng một số khác sẽ chỉ

có thể rút ra từ nguồn tin tức công cộng. Và tất cả các kiến thức này tốt nhất nên lấy từ sự

chú ý đến những vấn đề phải giải quyết trong nhiệm kỳ.

Có những mối quan tâm khác không quan trọng lắm nhưng đáng được chú ý đến. Khoảng

cách mà các dân biểu phải du hành có thể quá xa, trong một vài trường hợp, và sẽ là một

trở ngại nếu giới hạn nhiệm kỳ thành một năm thay vì hai năm. Không có lý lẽ nào trong

chủ đề này có thể nêu ra từ những đại biểu trong Quốc hội hiên nay. Sự thật là họ được

bầu mỗi năm, nhưng sự tái đắc cử của họ được xem xét bởi hội đồng lập pháp như là một

điều hiển nhiên. Như đã xảy ra trong tất cả các hội đồng, một vài thành viên sẽ có những

tài năng rất cao và hậu quả là họ sẽ được đắc cử thường xuyên để trở thành những thành

viên thâm niên. Những thành viên này sẽ là những bậc thầy về việc phục vụ công chúng

và không ngần ngại tận dụng những kinh nghiệm đó. Tỷ lệ các thành viên mới càng lớn

hoặc thông tin càng ít thì họ sẽ dễ dàng rơi vào những cạm bẫy đã đặt sẵn cho họ. Lời

bình luận này có thể áp dụng vào cả hai Hạ Nghị Viện và Thượng Nghị Viện.

Trong những thế lợi của việc bầu cử thường xuyên có một sự bất tiện nên nói ra. Trong

một Tiểu bang lớn và đơn độc, nếu cuộc bầu cử và các phiên họp lập pháp được tổ chức

hàng năm, bầu cử giả tạo khó có thể điều tra và bãi bỏ kịp thời để quyết định đó có hiệu

lực. Nếu một cuộc bầu cử đã thắng bằng bất cứ cách thức bất hợp pháp nào, thành viên

không chính quy sẽ có đủ thời gian để thực hiện mục đích của hắn. Vì vậy, một khuyến

CLXIV

Page 165: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

khích tiêu cực của việc sử dụng những phương cách bất hợp pháp để giành những kết quả

bầu cử không theo quy luật sẽ xảy ra. Nếu các cuộc bầu cử cho bộ lập pháp liên bang

được tổ chức hằng năm, thủ đoạn này sẽ bị lạm dụng một cách nghiêm trọng, nhất là ở

những Tiểu bang xa. Mỗi viện sẽ là một quan tòa cho những cuộc bầu cử, những tiêu

chuẩn, và những sự trở lại của các thành viên. Và tất cả những cải tiến có thể được đề

nghị bởi kinh nghiệm để đơn giản hóa hoặc tăng nhanh hơn quá trình xử lý các trường

hợp tranh chấp. Trong khi những chuyện này đang xảy ra thì một phần lớn của năm đó sẽ

trôi qua trước khi thành viên bất hợp pháp bị đuổi ra khỏi chức vụ của hắn. Viễn cảnh của

sự kiện trên sẽ không làm được gì để kiểm tra những cách thức trái phép và bất công đó

trong việc chiếm chiếc ghế ở viện.

Tất cả những cân nhắc này đã, nếu được suy nghĩ cùng với nhau, sẽ đảm bảo cho chúng

ta lợi ích của việc bầu cử theo chu kỳ hai năm trong việc phục vụ công chúng và sự an

toàn của quyền tự do dân chủ.

PUBLIUS

CLXV

Page 166: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên Bang Số 54

Việc Bổ Nhiệm Các Dân Biểu Giữa Các Tiểu Bang

Gởi cư dân Tiểu Bang Nữu Ước:

Quan điểm kế tiếp của tôi sẽ chú ý đến vấn đề sử dụng một qui luật giống nhau cho việc

thuế má và bổ nhiệm Dân Biểu.

Để đại diện cho công chúng một cách cân xứng, nó phải được dựa trên số dân của Tiểu

Bang đó. Theo chiều hướng này, hiến pháp mới sẽ sử dụng dân số để quyết định nghĩa vụ

thuế của mỗi Tiểu Bang. Việc sử dụng dân số của mỗi Tiểu Bang cho hai vấn đề trên dựa

vào hai nguyên lý khác nhau.

Trong trường hợp của Hạ Nghị Viện, việc đại diện theo tỉ lệ dân số ám chỉ đến quyền lợi

riêng cho dân chúng tuân theo qui luật tự nhiên. Trong trường hợp của thuế vụ, nó ám chỉ

đến tỷ lệ thịnh vượng của một Tiểu Bang. Tuy rằng qui luật trên không được hoàn hảo

cho lắm nhưng nó ít bị phản đối nhất, và đồng bào chúng ta gần đây đã ủng hộ cho

phương cách này. Vì thế, hội đồng hiến pháp đã chọn nó.

Một số nhân vật trong nước gần đây đã tỏ ý muốn những người nô lệ được tính vào trách

nhiệm thuế vụ nhưng không vào chế độ bầu đại biểu theo tỉ lệ dân chúng. Họ lý luận rằng

tất cả những người nô lệ này được coi như là vật sở hữu chứ không phải là công dân, vì

vậy những người nô lệ đó chỉ nên tính cho việc đánh thuế mà thôi chứ không nên dùng để

tính vào tỷ lệ cho việc bầu cử đại diện dựa trên việc điều tra dân số. Điều này là một phản

đối, theo như tôi thấy, rất gay go đã được nêu ra. Kế tiếp, tôi sẽ nêu ra một khía cạnh

tương phản với lập luận trên.

CLXVI

Page 167: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Một anh bạn người Nam có thể nói rằng, “Chúng tôi đồng ý rằng chuyện bầu cử liên

quan chủ yếu đến dân số và thuế vụ thì liên quan đến tài sản nhiều hơn. Nhưng chúng tôi

phủ nhận việc coi các người nô lệ là vật sở hữu chứ không phải con người. Họ có cả hai

phẩm chất. Luật pháp của chúng tôi nhìn nhận họ là con người trong một số trường hợp,

và là vật sở hữu trong những trường hợp khác. Kẻ nô lệ bị bắt buộc phải lao động cho

ông chủ của nó. Ông chủ của nó có thể bán nó. Tự do của nó có giới hạn. Và thân thể nó

bị bắt buộc phải làm những gì ông chủ nó ra lệnh. Từ những lý do này, kẻ nô lệ không

được coi như là một con người. Trái lại, nó bị xem như là một gia súc trong nông trại và

được định nghĩa là một vật sở hữu. Tuy vậy, nó lại được bảo vệ để tránh khỏi những bạo

lực kể cả bạo lực từ người chủ nó. Và nếu một kẻ nô lệ sát hại người khác, nó sẽ bị trừng

phạt. Vì vậy, luật pháp coi nó như một thành viên của xã hội chứ không phải là một gia

súc. Anh ta được xem như một con người có phẩm giá chứ không phải chỉ là một vật sở

hữu tầm thường.”

Hiến pháp của Liên Bang rất đúng khi nhìn nhận những người nô lệ theo hai đường, vừa

là vật sở hữu và vừa là con người. Những Tiểu Bang chống lại vấn đề nô lệ không muốn

bỏ những người này vào các cuộc điều tra dân số nhưng yêu sách của luật pháp đã nhìn

nhận các người Châu Phi là vật sở hữu. Và nếu luật pháp hoàn trả lại quyền tự do của

người Châu phi, thì họ không nên bị từ chối dự phần của họ trong việc tính tỷ lệ đại diện.

Chúng ta có thể nhìn lại câu hỏi này trong một hướng khác. Cả hai bên có lẽ đã đồng ý

rằng những con số là một cán cân đo đạc hữu hiệu nhất để tính toán của cải, thuế vụ,

cũng như tỷ lệ đại diện. Sẽ ra sao nếu như hội đồng hiến pháp bỏ những người nô lệ ra

khỏi dân số khi tính tỷ lệ đại diện nhưng lại bỏ họ vào để tính chuyện thuế vụ? Nếu vậy

thì những Tiểu Bang Miền Nam có tán thành hay không một hệ thống trong đó ủng hộ

việc xem những người nô lệ là con người khi bị đánh thuế, nhưng lại từ chối họ quyền

này khi tính tỷ lệ dân số để xác định con số các Dân biểu? Một số người đã chỉ trích

những Tiểu Bang Miền Nam về chính sách man rợ của họ cho việc đối xử những người

cùng đồng loại như vật sở hữu. Và giờ đây, chính những người này lại nói rằng chính phủ

CLXVII

Page 168: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Liên Bang nên xem giống dân Châu Phi bất hạnh này như những vật sở hữu, trái với đạo

lý con người, khi đề cập đến những luật pháp ảnh hưởng tới quyền lợi chính trị của họ.

Họ có thể lý luận rằng dân nô lệ không nên tính vào tỷ lệ dân số để ước lượng con số Dân

biểu trong những Tiểu Bang chứa họ. Những người dân nô lệ này sẽ không có quyền bầu

cử và cũng không được tính vào việc tăng lên số phiếu cho các chủ nhân của họ. Nếu

hiến pháp Liên Bang không đồng ý với cả hai quan điểm trên trong việc bầu cử và thuế

vụ, thì nó đang ngả về hướng của luật pháp trong các Tiểu Bang.

Sự chống đối trên đã bị phủ quyết bởi một quan sát nhỏ sau đây. Một trong những

nguyên tắc căn bản của bản Hiến Pháp Liên Bang đã đề xuất ra là việc thống kê con số

các Dân biểu theo một quy luật dựa trên dân số. Tuy vậy, mỗi Tiểu Bang sẽ quyết định ai

có thể bầu cho các Dân biểu và luật pháp của mỗi Tiểu Bang có thể quy định quyền bầu

cử một cách khác nhau. Trong mỗi Tiểu Bang, sẽ có một số dân cư bị tước đi quyền bầu

cử bởi hiến pháp trong Tiểu Bang đó không cho phép. Nhưng họ lại được tính vào trong

các cuộc điều tra dân số của chính phủ Liên Bang, để rồi từ đó xác định con số Dân biểu

cho phép. Những Tiểu Bang Miền Nam có thể cãi lại rằng Hiến Pháp Liên Bang không

đòi hỏi các Tiểu Bang có một chính sách bầu cử giống nhau. Vì thế, tất cả các nô lệ của

họ nên được tính vào các cuộc điều tra dân số tại vì những Tiểu Bang khác sẽ tính hết tất

cả các dân cư trong vùng kể cả những người không có quyền công dân trọn vẹn. Tuy

nhiên, các Tiểu Bang Miền Nam đã chịu bỏ đi quan điểm trên, và họ muốn phe bên kia

cũng phải có sự hy sinh vừa phải cho xứng. Vậy thì hãy để cho vấn đề nô lệ làm một

trường hợp đặc biệt tiêu biểu cho sự dàn xếp giữa hai bên trong hiến pháp Liên Bang.

Nếu chúng ta đồng ý thì một người nô lệ trong hiến pháp này sẽ được tính bằng hai phần

năm (2/5) một công dân chính thức, tức là 5 người NÔ LỆ sẽ bằng 2 người CÔNG DÂN.

Xét cho cùng, có một lời biện hộ tốt hơn cho điều khoản này của Hiến Pháp. Đó là chúng

ta đã thừa nhận rằng chuyện bầu cử đại diện chỉ liên quan đến con người, chứ không phải

vật sở hữu. Nhưng vấn đề này có cơ sở hay không? Chính phủ được dựng lên để bảo vệ

CLXVIII

Page 169: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

cả hai, người và vật. Vì thế, chính phủ tượng trưng cho công dân và tài sản của họ. Trong

một vài Tiểu Bang, một chi nhánh của chính phủ bảo vệ tài sản cá nhân và được bầu ra

bởi những người quan tâm đến mục tiêu này. Trong Hiến Pháp liên bang, chi nhánh chính

phủ này cũng sẽ bảo vệ cả hai, quyền công dân và tài sản của họ. Vì vậy, nên chú ý đến

vấn đề tài sản cá nhân mỗi khi lựa chọn những nhân vật này.

Có một lý do khác để đại biểu liên bang nên có tỷ lệ cân bằng với sự thịnh vượng của

Tiểu Bang đó. Những Tiểu Bang giàu, khác với những nhân vật giàu có, không có ảnh

hưởng gì đến các Tiểu Bang khác. Mặc dù một nhân vật giàu có chỉ được bỏ một phiếu

bầu, tài sản và thế lực của ông ta có thể ảnh hưởng những cử tri khác về phía ông ấy. Qua

con đường vô hình này, quyền sở hữu cá nhân được truyền đạt vào sự đại diện công

chúng. Một Tiểu Bang sẽ không có những ảnh hưởng nào đến những Tiểu Bang khác.

Tiểu Bang giàu có nhất, có lẽ, cũng không thể có ảnh hưởng gì đến sự lựa chọn một Dân

biểu đơn độc của Tiểu Bang khác. Và những Dân biểu của những Tiểu Bang giàu có hoặc

lớn hơn sẽ chẳng có lợi thế gì so với những Dân biểu của Tiểu Bang nhỏ hơn trong hệ

thống lập pháp của Liên Bang, ngoại trừ có nhiều số Dân biểu hơn do bởi dân số đông

hơn. Vì vậy, nếu tài sản cá nhân có đem đến cho họ những thế lợi nào thì họ nên lấy

chúng qua số phần đại biểu lớn hơn. Hiến Pháp Liên Bang rất khác so với hiến pháp hiện

thời của khối Liên Hiệp cũng như khối liên hiệp Hà Lan trong việc những nghị quyết

Liên Bang phải được chấp thuận bởi các tiểu bang trước khi chúng trở thành luật. Trong

những khối liên hiệp đó, mỗi tiểu bang có một tiếng nói bằng nhau trong hội đồng liên

kết. Tuy vậy, những tiểu bang có các ảnh hưởng khác nhau tùy theo những chủ đề trong

các nghị quyết.

Dưới bảng Hiến Pháp mới, luật liên bang sẽ có hiệu lực ngay lập tức mà không cần đến

sự đồng ý của các Tiểu Bang riêng lẻ. Các luật này sẽ chỉ dựa vào biểu quyết đa số của

quốc hội trong nhánh lập pháp. Vì thế, mỗi lá phiếu trong quốc hội, cho dù từ Tiểu Bang

nhỏ hay lớn, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, sẽ luôn có một trọng lượng và hiệu lực bằng

CLXIX

Page 170: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

nhau. Bất cứ ảnh hưởng nào sẽ đến từ đặc tính cá nhân của một Dân biểu chứ không phải

việc anh ta đến từ một quận hạt giàu có.

Những lập luận kể trên là những điều mà một người ủng hộ miền Nam sẽ bàn cãi cho chủ

đề này. Cho dù nó có vẻ gượng ép ở một vài điểm, tôi nghĩ là nó đã cho thấy quy luật của

Hiến Pháp về vấn đề đại diện có hiệu nghiệm.

Trong một khía cạnh khác, việc sử dụng một quy luật chung để tính tỷ lệ đại diện và thuế

vụ sẽ có một tác dụng rất tốt. Ở một mức độ lớn hơn, sự chính xác của việc điều tra dân

số sẽ dựa trên sự sắp xếp, nếu không nói là sự cộng tác, của tất cả các Tiểu Bang. Điều

quan trọng nhất là các Tiểu Bang phải làm sao không có sự giả dối trong việc báo cáo con

số dân chúng của nó.

Nếu việc điều tra dân số chỉ để xác định tỷ lệ đại diện, các Tiểu Bang sẽ phóng đại số dân

của nó lên. Còn nếu cuộc điều tra dân số để xác định trách nhiệm thuế vụ, những Tiểu

Bang này sẽ muốn dân số họ nhỏ đi. Bằng cách sử dụng việc điều tra dân số cho hai vấn

đề trên, tất cả các Tiểu Bang sẽ có hai quyền lợi trái ngược nhau, và hai quyền lợi này sẽ

kiểm soát và cân bằng lẫn nhau để tạo ra một cuộc điều tra dân số công bằng và trung

thực.

PUBLIUS

CLXX

Page 171: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên Bang Số 67

Ngành Hành Pháp

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Qua bài viết này chúng ta hãy xét đến sự hiến định của hành pháp trong cấu trúc dự thảo

của chính quyền liên bang.

Có lẽ không có bộ phận nào của hệ thống chính quyền lại gặp nhiều khó khăn hơn khi

chuẩn bị và không bộ phận nào lại bị công kích dữ dội và phê phán mạnh mẽ hơn khối

hành pháp.

Những người phản đối lại Hiến Pháp đã cố gắng đến tuyệt đỉnh trong việc diễn đạt sai trái

nội dung của nó. Dựa vào toan tính về sự chán ghét của công chúng đối với chế độ vương

quyền, họ đã dốc sức kích động sự thù hằn và tâm lý sợ hãi đối với chức danh Tổng

Thống Hợp Chủng Quốc; như thể đó là một ác ý của cha mẹ ghẻ đối với đứa con riêng.

Họ đã không từ thủ đoạn nào kể cả việc bịa đặt trắng trợn để thêu dệt lên sự giả dối. Như

trường hợp quyền lực của thống đốc tiểu bang New York đôi khi đã được phóng đại như

uy quyền của hoàng tộc. Chức danh thống đốc được miêu tả với sự tuyệt đối về quyền lực

và dưới ánh hào quang như thể của hoàng đế Anh quốc. Ngài thống đốc được trình bày

trước công chúng với vương miệng sáng rực, thảm đỏ trải dài trên con tàu của ông ta.

Ông ta ngồi trên ngai vàng bao quanh bởi cận thần và cung nữ, tiếp đón sứ giả ngoại quốc

như một ông vua thực thụ. Chỉ còn thiếu cảnh cha truyền con nối của và sự xa hoa các

vương quyền Á châu nữa mà thôi. Chúng ta biết rùng mình trước hình ảnh ghê sợ của

những tên giết thuê, chúng ta biết xấu hổ trước sự phơi bày của góc tối bản ngã con

người....

CLXXI

Page 172: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Những cố gắng tuyệt vọng như vậy để bôi nhọ hay nói khác đi để đánh lạc hướng chủ đề

chính làm chúng ta cần phải quan sát xem động cơ và nguồn gốc của nó là gì. Chúng ta

cần biết đâu là vấn đề thực thụ và đâu là sự che đậy cho những ý đồ đen tối cần phải vạch

trần.

Trong công việc này không ai có thể xem nhẹ những cố gắng nham hiểm được tạo dựng

ra để đánh đổi quan điểm của công chúng. Những cố gắng này đã vượt qua sự đối lập giả

tạo giữa các đảng phái, đến mức cả người bình thường nhất cũng chỉ biết lắc đầu ngao

ngán. Không thể nào gọi khác đi sự giả dối đánh lận con đen của sự so sánh hàm hồ giữa

quyền lực của hoàng đế Anh quốc và chức danh Tổng Thống Hợp Chủng Quốc.

Trong một ví dụ mà tôi đưa ra sau đây sự khiên cưỡng đã lên tới mức người ta gán cho

chức danh Tổng Thống Hợp Chủng Quốc một đặc quyền mà đúng ra nó được thực thi bởi

chức danh Thống Đốc các tiểu bang. Đó là quyền đề cử nhân sự vào Thượng Nghị Viện.

Tác giả của sự bịa đặt này, cho dù động cơ chính của ông ta là gì, là một người có ảnh

hưởng nhất định trong đảng của ông ta, sau khi đưa ra những tuyên bố vô cơ sở đã tiếp

tục những phát tán những ý tưởng không đúng sự thật. Hãy để cho ông ta đối diện với sự

thật và để cho ông ấy, nếu có thể, tự tìm cách giải thích cho lương tâm của mình về thế

nào sự thật và thế nào là sự đối đáp công bằng.

Đoạn thứ hai của phần thứ hai của chương hai cho Tổng Thống "quyền đề cử, với sự góp

ý và đồng thuận của Thượng Nghị Viện, quyền chỉ định đặc sứ, lãnh sự, chánh án tòa

Thượng Thẩm và các CHỨC VỊ khác của Hợp Chủng Quốc, nếu các chức vị đó KHÔNG

được hiến pháp CHỈ ĐỊNH, nhưng bắt buộc phải có theo luật định". Ngay sau đoạn này

là một đoạn như sau: " Tổng Thống có quyền chỉ định tạm thời cho các vị trí CHƯA

ĐƯỢC ĐỀ CỬ qua Thượng Nghị Viện TRONG THỜI GIAN THƯỢNG NGHỊ VIỆN

KHÔNG NHÓM HỌP, bằng cách chỉ định tạm thời, bổ nhiệm này sẽ HẾT HẠN VÀO

CUỐI KỲ NHÓM HỌP SAU ĐÓ". Từ đoạn cuối này người ta đã suy ra quyền lực giả

CLXXII

Page 173: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

tưởng của Tổng Thống để chỉ định các vị trí trong Thượng Nghị Viện. Chúng ta chỉ cần

chú ý đến các đoạn văn và ý nghĩa của chúng thì chúng ta đều hiểu sự suy diễn như trên

là vô căn cứ.

Trong đoạn đầu bản hiến pháp rõ ràng chỉ ra các chức vị mà Tổng Thống có quyền đề cử

"là những chức vị KHÔNG được hiến pháp chỉ định, nhưng bắt buộc phải có theo luật

định"; dĩ nhiên là đoạn này không thể dùng cho chức danh Thượng Nghị Sĩ vì Thượng

Nghị Sĩ là chức danh hiến pháp đã chỉ định, đã được đặt ra bởi hiến pháp và không cần bị

chi phối bởi một điều luật nào trong tương lai. Điều này thật quá ư rõ ràng.

Đoạn thứ hai về quyền đề cử tạm thời của Tổng Thống cho các vị trí chưa được bổ nhiệm

cũng rất rõ ràng. Thứ nhất đây là đoạn theo sau đoạn chính nói về quyền bổ nhiệm của

Tổng Thống trong trường hợp các chức danh đó chưa được đề cử theo đường chính

thống. Quyền đề cử chính thống cùng thuộc về Tổng Thống và Thương Nghị Viện, như

vậy cả hai bên đều có thể thực thi quyền này khi Thượng Nghị Viện nhóm họp. Tuy

nhiên chúng ta không thể giả định Thượng Nghị Viện sẽ nhóm họp quanh năm, ngoài ra

nhiều vị trí trong chính phủ cần được bổ nhiệm ngày vì quyền lợi công chúng và quốc gia

khi Thượng Nghị Viện không nhóm họp\. Do vậy đoạn này đã định quyền cho Tổng

Thống, một mình, "quyền bổ nhiệm tạm thời, bổ nhiệm này sẽ HẾT HẠN VÀO CUỐI

KỲ NHÓM HỌP SAU ĐÓ". Thứ hai nếu đoạn luật này là phụ cho đoạn luật chính trước

đó, thì các vị trí bổ khuyết là những vị trí được định nghĩa trong đoạn luật chính, mà như

vậy theo chúng ta hiểu không bao gồm thành viên Thượng Nghị Viện. Thứ ba khoảng

thời gian định ra cho sự bổ nhiệm là "khi Thượng Nghị Viện không nhóm họp", và sự bổ

nhiệm này chỉ có hiệu lực cho đến hết kỳ nhóm họp sau đó. Như vậy chúng ta có thể thấy

tính chất tạm thời của sự bổ nhiệm và đó cũng là lý do thúc đẩy Thượng Nghị Viện chỉ

định sự bổ nhiệm chính thức. Việc đánh tráo khái niệm về sự bổ nhiệm chức danh của

chính phủ và quyền đề cử thành viên Thượng Nghị Viện với mục đích bôi nhọ và phóng

đại quyền lực Tổng Thống là điều người ta muốn đạt được. Chúng ta nên nhớ, đoạn thứ

nhất và thứ hai của phần thứ ba của chương Một hiến pháp đã không những giải đáp hết

CLXXIII

Page 174: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

thắc mắc mà còn xóa sạch những hoàn cảnh có thể dẫn đến hiểu lầm. Đoạn đầu chỉ rằng

"Thượng Nghị Viện Hợp Chủng Quốc bao gồm hai Nghị Sĩ từ mỗi tiểu bang chọn bởi

bầu cử mỗi sáu năm", và đoạn sau viết rõ rằng " nếu vị trí Nghị Sĩ bị trống vì từ nhiệm

hay vì lý do khác, trong khi quốc hội không nhóm họp, thì hành pháp tiểu bang có quyền

chỉ định tạm thời cho vị trí đó cho đến lần nhóm họp sau của quốc hội để bầu cho vị trí

bỏ trống. Đây là quyền được chỉ định một cách rõ ràng, bằng ngôn ngữ luật định, cho

hành pháp tiểu bang, trong việc bổ nhiệm tạm thời vào Thượng Nghị Viện. Nó hoàn toàn

vạch rõ điều sai trái trong quan điểm cho rằng quyền đó được đưa về cho Tổng Thống.

Nó cũng chứng minh rằng những luận điểm xuyên tạc được thêu dệt ra với mục đích lừa

gạt công chúng, nhưng dù che đậy như thế nào thì chúng cũng bị vạch trần.

Tôi đã dốc sức đem một luận điệu sai trái này ra ánh sáng và coi nó như một bằng chứng

của sự phản biện vô căn cứ nhằm vào bản hiến pháp đang cần được công chúng đánh giá

và xem xét một cách công bằng và khách quan. Tôi đã không ngần ngại, trong trường hợp

rõ ràng này, tự cho phép tôi quyền được bảo vệ quan điểm của mình trong tinh thần

chung của những bài luận bút. Tôi sẵn lòng gởi nó cho bất cứ ai phản đối lại hình thái

chính phủ đang được đề cử một cách đàng hoàng trung thực, lời nói không mất tiền mua,

không thể để một sự dối trá như vậy đến với công chúng Mỹ quốc.

PUBLIUS

CLXXIV

Page 175: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên Bang số 68

Thể Thức Bầu Cử Tổng Thống

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Thể thức đề cử và bầu cho chức vị hành pháp tối cao của Hợp Chủng Quốc là phần duy

nhất trong bản Hiến Pháp đã hầu như tránh được sự phủ định hoàn toàn của các nhà đối

lập. Ngay cả một bài phản biện mạnh nhất được đăng trên báo cũng thừa nhận thể thức

bầu cử tổng thống được cân nhắc thận trọng [1]. Tôi muốn tiến thêm một bước và tuyên

bố rằng dù thể thức bầu cử này có thể chưa hoàn hảo nhưng nó là một thể thức vô cùng

xuất sắc. Nó liên kết một cách tuyệt vời mọi lợi thế của liên bang mà chúng ta hằng mong

muốn.

Chỉ có sự lựa chọn người ủy thác qua dân ý mới đem lại niềm tin đối với công chúng và

làm cho sự ủy thác đó trở thành thiêng liêng. Nhóm người chịu sự ủy thác của công

chúng sẽ chọn người lãnh đạo liên bang.

Chúng ta muốn sự chọn lựa đó diễn ra trong điều kiện tối ưu bởi những cá nhân có khả

năng suy luận, phân tích và cân nhắc một cách chín chắn phiếu bầu của mình. Sự lựa

chọn người lãnh đạo liên bang thông qua một tập hợp các đại cử tri đầy đủ hiểu biết là

hình thức phù hợp nhất cho công việc phức tạp và quan trọng này.

Chúng ta cần giảm thiểu tối đa các khả năng gây bất ổn và xáo trộn trong việc bầu cử,

nhất là khi bầu cho chức vụ Tổng Thống Hợp Chủng Quốc người đứng đầu chính phủ

liên bang. Những thiết chế được đặt ra dưới bản hiến pháp này có mục đích giảm thiểu

một cách hữu hiệu các khả năng gây bất ổn. Việc chọn lựa một nhóm đại cử tri như là

một tầng lớp trung gian sẽ hạn chế các đột biến và các xu hướng bạo lực so với việc chọn

CLXXV

Page 176: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

lựa một CÁ NHÂN vào vị trí người ưu tú duy nhất bởi công chúng. Ngoài ra các đại cử

tri sẽ nhóm họp và bầu tại từng tiểu bang họ đại diện, sự phân chia về khoảng cách địa lý

và thời gian sẽ giúp giảm thiểu các ảnh hưởng gay gắt trực tiếp từ phía công chúng như

trong trường hợp toàn bộ đại cử tri nhóm họp tại cùng một địa điểm và cùng thời gian.

Trong nền cộng hòa không có gì quan trọng hơn việc phòng chống các hình thức bè đảng,

thỏa hiệp tay trong và tham nhũng. Những nguy hiểm tối thượng này của nền cộng hòa có

thể đến từ nhiều hướng, chủ yếu từ các thế lực ngoại bang hòng thao túng chính quyền

của chúng ta. Làm sao có thể tưởng tượng sự thỏa mãn của ngoại bang nếu vị trí tối cao

trong chính quyền chỉ là một con cờ trong tay họ? Do vậy hội nghị lập hiến đã rất chú

trọng vào việc định ra các thể chế để loại trừ khả năng đó. Việc bầu cử Tổng Thống hoàn

toàn không lệ thuộc vào bất cứ hội đoàn sẵn có nào, đề phòng trường hợp họ bị dụ dỗ bán

đi lá phiếu của mình. Công chúng là những người trực tiếp lựa chọn đại cử tri đoàn cho

mục đích duy nhất bầu cử tổng thống. Các cá nhân sau đây không được phép tham gia đại

cử tri đoàn - Thượng Nghị Sỹ, Dân Biểu Hạ Viện, công chức các cấp trong bộ máy chính

quyền. Như vậy các đại cử tri được công chúng bầu chọn sẽ bình tâm và khác quan trong

công việc khó khăn của mình. Sự tồn tại chóng vánh và tính độc lập của đại cử tri đoàn

khuyến khích họ hoàn thành công việc lựa chọn tổng thống Hợp Chủng Quốc. Việc mua

chuộc một nhóm đại cử tri độc lập là điều rất khó xảy ra do những cản trở về thời gian và

tài chính. Một khó khăn nữa cho những thế lực đen tối là làm sao có thể tiếp xúc được đại

cử tri đoàn từ tất cả 13 tiểu bang. Những biện pháp được đề ra do vậy sẽ đảm bảo cho

tính trung lập và khách quan cho quá trình bầu cử tổng thống trước những ý đồ đen tối

muốn thao túng đại cử tri đoàn.

Trong một khía cạnh không kém quan trọng khác, chỉ có công chúng Hợp Chủng Quốc

mới quyết định Tổng Thống có tái đắc cử hay không, ngoài ra Tổng Thống sẽ không lệ

thuộc vào bất kỳ một ai trong việc tiếp tục cương vị của mình. Thiết chế này đảm bảo

tính độc lập cho Tổng Thống trong thời gian tại vị, nó giúp tránh việc Tổng Thống phải

dàn xếp để có thể thực thi trách nhiệm của mình. Việc tái đắc cử của Tổng Thống như

CLXXVI

Page 177: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

vậy chỉ tùy thuộc vào sự lựa chọn của đại cử tri đoàn qua sự ủy thác của công chúng với

mục đích duy nhất là bỏ phiếu cho quyết định đó.

Tất cả các thiết chế trên kết hợp với nhau thành hệ thống bầu cử Tổng Thống tại hội nghị

lập hiến như sau. Công chúng mỗi tiểu bang sẽ chọn ra đại cử tri đoàn với số lượng tương

đương với tổng số Thượng Nghị Sỹ và Dân Biểu Hạ Viện của tiểu bang. Đại cử tri đoàn

sẽ nhóm họp tại địa phương đề bầu cho một người xứng đáng vào vai trò Tổng Thống

Hợp Chủng Quốc. Phiếu bầu của mỗi tiểu bang sẽ chuyển về chính phủ liên bang, ứng cử

viên với đa số phiếu sẽ trở thành Tổng Thống. Trong trường hợp không ứng viên nào đạt

đa số phiếu, thay vì chấp nhận ứng viên với số phiếu cao nhất thì Hạ Viện được ủy quyền

lựa chọn một trong năm ứng viên với số phiếu cao nhất vào chức vụ Tổng Thống.

Thể thức bầu cử đảm bảo chức vụ Tổng Thống sẽ không rơi vào tay một cá nhân, nếu

người đó không có tư cách đáng trân trọng và một trình độ uyên thâm. Những cá nhân cơ

hội chính trị, xảo quyệt trong việc lấy lòng công chúng có thể sẽ len lỏi vào được vị trí

đứng đầu một tiểu bang, nhưng để được đề cử vào vị trí Tổng Thống Hợp Chủng Quốc cá

nhân đó cần thực sự có tài năng và công trạng; vì chỉ khi nào toàn thể liên bang hoặc đa

số công chúng liên bang tin tưởng vào uy tín và khả năng thì cá nhân đó mới thành công

trong việc ứng cử vào chức vụ cao quý Tổng Thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chúng ta

có thể tin tưởng rằng chức danh này sẽ được đảm trách bởi những tài năng xuất chúng

nhất. Đây là một trong những nguyên do bản Hiến Pháp được đánh giá rất cao bởi những

người có nhận thức về ảnh hưởng tốt hay xấu của ngành Hành Pháp trong mỗi nền cộng

hòa. Chúng ta không thể cản trở dư luận đàm tiếu "Chỉ có kẻ ngốc mới tin vào chính

quyền, chính quyền nào tốt nhất là tốt nhất", tuy vậy chúng ta có toàn quyền khẳng định

rằng cách đánh giá tốt nhất đối với một chính quyền là khả năng và cơ chế tạo dựng các

chính phủ tốt.

Chức vị Phó Tổng Thống sẽ được chọn lựa tương tự như chức vị Tổng Thống, với điểm

khác biệt duy nhất là vai trò của Hạ Viện sẽ được thay bằng Thượng Viện.

CLXXVII

Page 178: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Việc đề cử một cá nhân xuất chúng vào chức vị Phó Tổng Thống đã được xem là không

cần thiết và là có ý đồ. Nhiều người cho rằng nên để Thượng Viện chọn ra từ hàng ngũ

Thượng Nghị Sỹ một cá nhân vào chức vị này. Hội nghị lập hiến đã đưa ra hai điểm sau

để giải thích cho quan điểm của mình. Điều thứ nhất, để Thượng Viện luôn luôn đảm bảo

được sự biểu quyết, chức vị Chủ Tịch chỉ được dùng cho phiếu bầu quyết định. Nếu chức

vị Chủ Tịch được một Thượng Nghị Sỹ đảm trách thì khác gì chúng ta đã lấy đi một

phiếu bầu thường trực từ tiểu bang của Thượng Nghị Sỹ đó và thay bằng một phiếu bầu

dự phòng. Điều thứ hai, Phó Tổng Thống có lúc cần thay mặt cho Tổng Thống trong vai

trò đại diện tối cao, do vậy tất cả những cân nhắc và lý do để chúng ta lựa chọn Tổng

Thống cũng phải được áp dụng một cách tương đương cho vị trí này. Điều đáng chú ý là

sự phản đối dành cho chức vị Phó Tổng Thống thực ra cũng đi ngược lại hiến pháp tiểu

bang của chúng ta. Chúng ta có chức vị Phó Thống Đốc, lựa chọn trực tiếp bởi công

chúng, cũng là vị trí Chủ Tịch Thượng Viện, và là vị trí hiến định thay mặt cho chức vị

Thống Đốc, quyền hạn và trách nhiệm của chức vị Phó Tổng Thống đối với Tổng Thống

là hoàn toàn tương tự.

PUBLIUS

CLXXVIII

Page 179: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên Bang 69

Quyền Lực Thực Thụ của Ngành Hành Pháp

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Trong bài viết này tôi sẽ tiếp tục giải trình tính cách thực thụ của ngành Hành Pháp như

được vạch ra trong kế hoạch tổ chức hội nghị lập hiến. Mục đích của tôi là làm tỏ tường

cho những quan điểm sai lầm được đưa ra về ngành Hành Pháp.

Vấn đề đầu tiên chúng ta cần quan tâm là, trừ một vài ngoại lệ, quyền lực Hành Pháp sẽ

được tập trung vào một chức vụ công quyền duy nhất. Tuy nhiên điều này không thể

dùng làm cơ sở so sánh nó với quyền lực của Hoàng đế Anh quốc, hay của Thổ Vương,

Mông Hãn, Tù trưởng, hoặc ngay cả Thống Đốc tiểu bang New York.

Chức vụ công quyền này sẽ được bầu lên trong BỐN năm; và được phép tái đề cử nếu

công chúng Hợp Chủng Quốc tiếp tục tin tưởng vào người thừa hành tại vị. Như vậy ở

đây hoàn toàn có sự khác biệt giữa người thừa hành công quyền và Hoàng đế Anh quốc,

người được thừa hưởng ngai vàng và vương miện, người sẽ truyền ngôi đời đời cho dòng

dõi con cháu hoàng tộc. Tuy vậy chức vụ này khá tương đồng với Thống Đốc tiểu bang

New York, người được bầu lên trong BA năm và có quyền tái ứng cử vô thời hạn. Nếu

chúng ta suy ngẫm về việc cần bao nhiêu thời gian để tạo dựng lên sự ảnh hưởng nguy

hiểm trong một tiểu bang, rồi nhân rộng quãng thời gian đó ra toàn liên bang, chúng ta sẽ

đi đến kết luận một nhiệm kỳ BỐN năm cho chức vụ Hành Pháp tối cao của liên bang là

quãng thời gian tương đối ngắn ngủi so với nhiệm kỳ BA năm cho chức vụ tối cao tương

tự tại riêng một tiểu bang.

Người mang chức vụ Tổng Thống Hợp Chủng Quốc vẫn có thể bị công tố, xét xử và nếu

CLXXIX

Page 180: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

bị luận tội phản quốc, hối lộ hay những tội hình trầm trọng khác, sẽ phải rời chức vụ

Tổng Thống, và sau đó tiếp tục chịu tố tụng và hình phạt theo luật pháp bình thường.

Ngược lại, người ngồi trên ngai vàng Anh quốc là thánh thượng bất khả xâm phạm,

không chịu trách nhiệm trước bất cứ tòa án nào, không bao giờ nhận lãnh bất cứ hình

phạt nào ngoại trừ trong trường hợp khủng hoảng quốc gia do một cuộc cách mạng nổ ra.

Trong những tình huống đầy quan trọng và tinh tế gắn liền với trách nhiệm cá nhân, một

Tổng Thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ không khác gì so với Thống Đốc New York hay

Thống Đốc Delaware hoặc Maryland.

Tổng Thống Hợp Chủng Quốc sẽ có quyền trả bất cứ dự luật nào, sau khi được lưỡng

viện phê chuẩn, về lại cho Lập Pháp. Dự luật sau khi tái bàn thảo, nếu vẫn được lưỡng

viện phê chuẩn với trên 2/3 số phiếu, sẽ trở thành luật chính thức. Ngược lại, Hoàng đế

Anh quốc có quyền phủ quyết tối thượng đối với lưỡng viện quốc hội. Tuy quyền phủ

quyết tối cao đó không được dùng trong một thời gian dài, nhưng thực tế là nó vẫn tồn

tại. Lý do chủ yếu do điện Buckingham muốn dùng ảnh hưởng để dành đa số tại một

trong lưỡng viện thay vì áp dụng một uy quyền, mà họ biết rằng nó sẽ gây ra sự bất bình

ghê gớm trên toàn quốc. Quyền phủ quyết tương đối của Tổng Thống Hợp Chủng Quốc

khác rất xa quyền phủ quyết tuyệt đối của Hoàng đế Vương quốc Anh. Nó khá giống

quyền tái kiểm định của hội đồng kiểm định tiểu bang New York, nơi Thống Đốc cũng là

một thành viên. Trong trường hợp này ta có thể thấy quyền lực của Tổng Thống cao hơn

quyền lực của Thống Đốc New York, vì Tổng Thống tự mình có thể phủ quyết dự luật,

trong khi Thống Đốc phải chia xẻ quyền đó với các thành viên khác trong hội đồng.

Quyền phủ quyết của Tổng Thống hoàn toàn trùng khớp với quyền của Thống Đốc

Massachusettes, nơi quyền phủ quyết hiến định, tại thời điểm của bài viết này, đã được

hội nghị lập hiến sao chép lại.

Tổng Thống sẽ là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của lực lượng lục quân và hải quân Hợp Chủng

Quốc và lực lượng Vệ Binh Quốc Gia các tiểu bang khi họ được gọi phục vụ cho Hợp

Chủng Quốc. Tổng Thống có quyền giảm tội và ân xá cho những tội phạm chống lại Hợp

CLXXX

Page 181: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Chủng Quốc, ngoại trừ trường hợp CÔNG TỐ; quyền đưa ra những điều luật để Quốc

Hội bàn thảo; quyền gọi nhóm họp một hay lưỡng viện Quốc Hội trong tình trạng khẩn

cấp; quyền kết thúc nhóm họp khi có SỰ BẤT ĐỖNG VỄ THỜI GIAN BẾ MẠC; quyền

hành xử nhằm thượng tôn pháp luật; quyền bổ nhiệm các chức vụ công quyền của Hợp

Chủng Quốc. Trong hầu hết các điểm trên quyền Tổng Thống đều ngang bằng quyền

Hoàng đế Anh quốc hay quyền Thống Đốc New York. Những sự khác biệt chính yếu bao

gồm, thứ nhất, Tổng Thống chỉ có quyền điều hành Vệ Binh Quốc Gia khi lực lượng này

được điều động bởi chính quyền tiểu bang để phục vụ liên bang. Hoàng đế Anh và Thống

Đốc New York luôn có toàn quyền đối với toàn thể vệ binh trong lãnh thổ của mình. Như

vậy quyền Tổng Thống ở đây thua kém quyền của Hoàng đế Anh lẫn Thống Đốc New

York. Thứ nhì, Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của lục quân và hải quân. Điểm

này thoạt nhìn thì tương đồng với quyền của Hoàng đế Anh, nhưng thực ra nó thua rất xa.

Quyền này chỉ cho phép Tổng Thống chỉ huy và điều động hải lục quân như một Đại

Tướng hay Đại Đô Đốc, trong khi Hoàng đế Anh có quyền TUYÊN CHIẾN, TUYỂN

MỘ và ĐIỄU HÀNH binh lính và hạm đội, tất cả những quyền này trong bản hiến pháp

dự thảo, đều thuộc về Lập Pháp. Hiến pháp New York chỉ cho Thống Đốc quyền chỉ huy

hải lục quân. Hiến pháp một số tiểu bang khác tuyên bố Thống Đốc của họ là Tổng Tư

Lệnh Tối Cao hải lục quân, chúng ta hoàn toàn có quyền thắc mắc khi Massachusettes và

New Hampshire dành cho Thống Đốc của họ những quyền cao hơn cả quyền của Tổng

Thống Hợp Chủng Quốc. Thứ ba, quyền đặc xá của Tổng Thống không bao gồm trường

hợp bị CÔNG TỐ. Thống Đốc New York có toàn quyền đặc xá cho bất cứ tội phạm nào,

ngoại trừ tội phản nghịch và án mạng. Như vậy trong trương hợp này có phải quyền lực

của Thống Đốc mạnh hơn của Tổng Thống hay không? Những âm mưu và kế hoạch lật

đổ chính quyền, nếu chưa thành hình để trở thành tội phản nghịch, sẽ có thể được bảo vệ

bởi đặc quyền ân xá. Giả sử Thống Đốc New York là người cầm đầu một âm mưu phản

nghịch thì ông ta có toàn quyền che chở bảo vệ cho các đồng phạm của mình cho đến khi

kế hoạch của họ thực hiện thành công. Trái lại, Tổng Thống Liên Bang trên cương vị của

mình có thể đặc xá cho tội phản nghịch nếu được truy tố theo trình tự tố tụng bình

thường, nhưng ông ta không thể che chắn cho bất kỳ ai nếu người đó bị công tố và luận

CLXXXI

Page 182: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

tội. Đối với những thành phần chống lại sự tự do của xã hội, viễn cảnh về một sự bất khả

xâm phạm trong mọi hoạt động có hấp dẫn hơn so với viễn cảnh được ân xá giữ lấy mạng

sống nếu hành động bạo lực chống lại chính quyền bất thành? Liệu nhân vật với quyền

đặc xá có dám lạm dụng nó khi ông ta biết rằng chính mình có thể bị liên quan và cách

chức? Để hiểu rõ các mối liên quan này chúng ta cần nhớ rằng bản Hiến Pháp dự thảo

định nghĩa phản nghịch là "gây chiến chống lại Hợp Chủng Quốc, ngả về phía kẻ thù,

giúp đỡ kẻ thù về vật chất và tinh thần; luật của New York cũng đưa ra định nghĩa tương

tự. Thứ tư, Tổng Thống chỉ có thể tuyên bố bế mạc Quốc Hội trong trường hợp duy nhất

nếu có sự bất đồn về thời gian bế mạc. Hoàng đế Anh quốc ngược lại có thể thay đổi

nhiệm kỳ hay giải tán Quốc Hội. Thống Đốc New York cũng có thể thay đổi nhiệm kỳ

của lập pháp trong một số trường hợp đặc biệt.

Tổng Thống có quyền ký kết hiệp định với sự bàn thảo và đồng thuận của Thượng Viện,

nếu trên 2/3 Thượng Nghị Sỹ đồng ý. Hoàng đế Anh quốc là đại diện tối cao duy nhất

cho vương quốc Anh trên trường quốc tế. Ông ta có thể tùy ý ký kết hiệp định hòa bình,

thương mại, lập đồng minh v.v. Có người cho rằng Hoàng gia không có toàn quyền trong

lĩnh vực này vì các hiệp định được ký kết phải được Quốc Hội duyệt xét và phê chuẩn.

Nhưng tôi tin rằng tiền lệ này chưa hề xảy ra, cho đến khi người ta bắt đầu nói về nó thời

gian gần đây. Bất cứ một luật gia nào của Anh quốc hay bất cứ ai thông hiểu hiến pháp

Anh biết chắc một thực tế là quyền ký kết hiệp ước nằm trong tay Hoàng đế một cách

tuyệt đối; những hiệp ước được Hoàng đế phê chuẩn có hiệu lực tối cao và độc lập đối

với các quyết định của chính quyền. Quốc Hội Anh trên thực tế đã phải sửa đổi những

luật lệ sẵn có cho phù hợp với những điều ước của hiệp định mới, điều này có thể đã gây

sự hiểu lầm rằng cần có sự thỏa thuận của Quốc Hội trong việc thương thảo hiệp định.

Thực ra việc Quốc Hội Anh phải được liên đới vì hệ thống luật thương mại và thuế vụ

Anh quốc là hệ thống rắc rối và phức tạp nhất thế giới, nó phải được chỉnh sửa liên tục để

tránh mâu thuẫn với những hiệp ước vừa ký kết và tránh việc cả hệ thống ngưng vận hành

vì quá tải. Trong trường hợp này ta không thể so sánh giữa quyền lực tương đối cảu Tổng

Thống và quyền tối thượng của Hoàng Gia Anh quốc. Một bên chỉ có thể hành động với

CLXXXII

Page 183: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

sự đồng thuận của một nhánh Lập Pháp, một bên có toàn quyền độc tôn. Tuy vậy chúng

ta công nhận rằng quyền lực này của Tổng Thống vượt quá quyền của bất cứ người đứng

đầu Hành Pháp tiểu bang nào, điều này do mối liên quan tự nhiên về chủ quyền và vấn đề

ký kết hiệp ước. Nếu liên bang của chúng ta tan rã, thì tôi cho rằng Hành Pháp tiểu bang

sẽ thừa hưởng quyền đó trong lãnh vực nhạy cảm và quan trọng này.

Tổng Thống được quyền tiếp nhận đại sứ và các đại diện ngoại quốc. Đây là vấn đề liên

quan đến thể diện quốc gia hơn là quyền thực thụ, mặc nó cũng là nguồn gốc của nhiều

sự đả kích. Việc này rõ ràng thuộc về chức trách của chính quyền, ta nên để cho Hành

Pháp thực hiện vì như vậy sẽ thuận tiện hơn so với việc nhóm họp Lập Pháp để đón tiếp

hay đưa tiễn một đại diện nước ngoài.

Tổng Thống có quyền đề cử và bổ nhiệm, VỚI SỰ THỎA THUẬN VÀ PHÊ CHUẨN

CỦA THƯỢNG VIỆN, đại sứ và các đại diện chính quyền, chánh án Tòa Thượng Thẩm

và tất cả các công chức chính quyền Hợp Chủng Quốc theo luật, khi những vị trí đó

không được chỉ định bởi Hiến Pháp. Hoàng đế Anh quốc là người có địa vị độc tôn, ông

ta không những chỉ bổ nhiệm mà còn có thể tự tạo ra các chức danh mới. Ông ta có thể

ban vương tước một cách tự nhiên, ông ta cũng là người đứng đầu Giáo Hội Anh quốc và

quản lý tất cả các tài sản và đất đai của nhà thờ. Quyền lực của Tổng thống trong trường

hợp này thua xa quyền của Hoàng đế Anh, nó còn kém hơn quyền của Thống đốc New

York. Thống đốc New York có quyền đề cử nhân sự và quyền tham gia hội đồng năm

người để phê chuẩn sự bổ nhiệm đó. Như vậy ngài Thống đốc vừa có thể đề cử ai đó vào

bộ máy chính quyền, điều này tương đương vớ quyền Tổng Thống, nhưng ngài Thống

đốc còn có thêm quyền bầu cho người đề cử của mình, Tổng Thống hoàn toàn không có

quyền đó. Trong chính quyền liên bang, nếu Thượng Viện bất đồng, không ứng viên nào

được phê chuẩn. Trong chính quyền New York, nếu Thượng Viện bất đồng, thống đốc có

thể bỏ phiếu quyết định để phê chuẩn việc đề cử cho ứng viên của mình. Nếu chúng ta

tiếp tục so sánh tính công khai của việc tổng thống đề cử và Thượng viện phê chuẩn ở

mức độ liên bang, và tính tương đối kín đáo của việc Thống đốc đề cử, hội đồng phê

CLXXXIII

Page 184: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

chuẩn ở mức tiểu bang, cũng như xét đến mức độ khó khăn của hành vi lũng đoạn toàn

bộ Thượng viện so với việc lũng đoạn một hội đồng bốn người, chỉ cần hai người đồng ý

là đủ đa số, thì chúng ta phải thừa nhận người đứng đầu Hành Pháp tiểu bang có quyền

cao hơn so với người đứng đầu Hành Pháp liên bang.

Như vậy ngoại trừ đồng quyền ký kết hiệp ước, ta có thể thấy khó mà khẳng định chức vụ

Tổng Thống có quyền cao hay thấp hơn so với chức vụ thống đốc New York. Nếu so với

quyền lực của Hoàng đế Anh quốc thì ta càng thấy hoàn toàn không thể có sự tương đồng

nào. Để làm rõ hơn nữa, chúng ta có thể tóm tắt những điểm khác biệt nổi bật nhất như

sau.

Tổng Thống Hợp Chủng Quốc là chức vụ được công chúng bầu ra cho nhiệm kỳ BỐN

năm; Hoàng đế Anh quốc tại vị trên ngai vàng THỪA TỰ mãi mãi. Một người phải chịu

trách nhiệm cá nhân, chịu hình phạt nếu lạm quyền, một người là thánh thượng và bất khả

xâm phạm. Một người có quyền phủ quyết giới hạn cho dự luật đưa ra bởi Lập Pháp, một

người có quyền phủ quyết tối cao. Một người có quyền chỉ huy hải lục quân quốc gia,

một người ngoài quyền đó có thể TUYÊN CHIẾN, THÀNH LẬP và QUẢN LÝ quân đội

và hạm đội. Một người có đồng quyền với một nhánh Lập Pháp trong việc ký kết hiệp

ước, người kia là ĐỘC TÔN trong quyền ký kết hiệp ước. Một người có quyền đề cử các

chức vụ trong chính quyền, một người có TOÀN QUYỀN bổ nhiệm bất kỳ ai. Một người

hoàn toàn không có quyền ban phát bổng lộc, người kia có thể ban quyền công dân cho

ngoại nhân, ban chức sắc cho thường dân, tạo dựng các hội nhóm thương mại với tất cả

quyền lợi sẵn có. Một người không thể áp đặt bất cứ điều lệ gì về thương mại, tiền tệ

quốc gia, người kia có thể được xem là người điều khiển thương mại, lập ra chợ búa, điều

độ việc mua bán cân đong, có quyền cấm chợ, có thể in tiền, có quyền cho phép hay cấm

đoán ngoại tệ. Một người hoàn toàn không dính dáng đến tâm linh, người kia là giáo

hoàng đứng đầu giáo hội quốc gia! Làm sao chúng ta có thể trả lời cho những người cho

rằng hai địa vị đó giống nhau trong khi chúng hoàn toàn khác biệt? Câu trả lời đó cũng sẽ

dành cho những người nói rằng một chính quyền với toàn bộ quyền lực nằm trong tay các

CLXXXIV

Page 185: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đại diện dân cử và các công chức thường niên, chỉ là một chế độ quý tộc, phong kiến và

gia đình trị.

PUBLIUS

CLXXXV

Page 186: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

Thư Liên bang số 78

Ngành Tư pháp

Gởi cư dân Tiểu bang Nữu Ước:

Chúng ta sẽ bàn ở đây các vấn đề về tòa án trong bộ máy nhà nước mới. Khi phân tích về

các hạn chế của nhà nước liên bang hiện tại, sự cần thiết phải có một bộ máy tư pháp liên

bang đã được khẳng định một cách rõ ràng. Ở đây chúng tôi không đi vào phân tích

những tiền đề dẫn đến sự cần thiết đó mà tập trung giải quyết câu hỏi ngành tư pháp liên

bang cần được tổ chức như thế nào.

Việc tổ chức bộ máy của ngành tư pháp liên bang liên quan đến một số các vấn đề sau: 1/

Cách thức bổ nhiệm các thẩm phán; 2/Nhiệm kỳ hoạt động của các thẩm phán; 3/ Sự

phân bổ các thẩm phán tại các toà và quan hệ của họ với nhau

Vấn đề thứ nhất, cách thức bổ nhiệm thẩm phán được thức hiện giống như việc chỉ định

các quan chức của Liên bang, điều này đã được thảo luận đầy đủ tại hai thư quốc gia

trước nên chúng tôi sẽ không nhắc lại ở đây. Vấn đề thứ hai, thời gian làm việc của các

thẩm phán tại tòa liên bang, trước hết đó là thời gian họ làm việc tại văn phòng, ngoài ra

là thời gian chuẩn bị các tài liệu và làm các việc khác có liên quan đến nhiệm vụ của

mình.

Theo dự thảo thỏa thuận chung, mọi thẩm phán được Hợp chủng quốc Hoa kỳ chỉ định sẽ

giữ chức vụ này chừng nào họ vẫn còn “KHẢ NĂNG CỐNG HIẾN”, điều này là phù

hợp với hiến pháp của phần lớn các quốc gia thành viên đồng thời đã được tranh luận bởi

các bên phản biện và không có ý kiến nào đối kháng cho rằng nó sẽ hạn chế tư duy và

khả năng phán xử của các thẩm phán. Quy định được giữ chức vụ thẩm phán tòa liên

CLXXXVI

Page 187: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

bang chừng nào vẫn còn “khả năng cống hiến” là một minh chứng cho sự tiến bộ của việc

tổ chức nhà nước trong thực tiễn. Trong thế chế quân chủ quy định này là một công cụ

hoàn hảo để bảo vệ sự chuyên quyền của hoàng gia, trong thể chế cộng hòa, nó lại trở

thành một công cụ tốt để bảo vệ sự độc lập và giảm các áp lực từ bên ngoài đối với những

thẩm phán đại diện. Và đây cũng chính là phương pháp tốt nhất có thể áp dụng đối với

bất kỳ chính phủ nào nhằm đảm bảo tính ổn định, đúng đắn, công bằng trong việc thực

thi luật pháp

Khi nhìn nhận về sự phân chia quyền lực trong việc tổ chức bộ máy nhà nước chúng ta

đều thấy rằng Tư pháp về bản chất luôn là nhánh ít nguy hiểm nhất đối với các quyền

chính trị được nêu trong hiến pháp vì nó ít có khả năng xâm phạm các quyền này. Bộ

máy hành pháp không những quản lý các nguồn lực mà còn nắm trong tay bộ máy

chuyên chính. Cơ quan lập pháp không chỉ thông qua các kế hoạch chi tiêu của quốc gia

mà còn làm ra các đạo luật điều chỉnh các quyền lợi và nghĩa vụ của người dân. Trong

khi đó ngành tư pháp không nắm trong tay bộ máy chuyên chính cũng không dính dáng

đến quản lý tiền bạc của quốc gia, nói cách khác họ không có quyết định nào ảnh hưởng

trực tiếp đến sự hùng mạnh hay thịnh vượng của xã hội. Nhiệm vụ của ngành tư pháp

thuần túy là xét xử, ngay cả việc thực hiện các phán quyết của tòa án cũng phải dựa vào

các công cụ điều hành của bộ máy hành pháp.

Trên đây là một số phân tích giúp ta đi đến một số những kết luận quan trọng. Rõ ràng,

ngành tư pháp là bộ phận yếu nhất trong 3 cơ quan quyền lực của nhà nước tam quyền

phân lập.

1/ Ngành tư pháp không thể ảnh hưởng đến lập pháp và hành pháp, do đó cần phải giúp

đỡ họ bảo vệ mình trước những ảnh hưởng của hai cơ quan này. Điều đó cũng chứng

minh rằng, mặc dù có thể có những vụ án oan riêng lẻ diễn ra tại các tòa án, song nhìn

chung ngành tư pháp không có ảnh hưởng đến sự tự do nói chung của người dân, Tôi

luôn nhấn mạnh rằng ngành tư pháp là một thực thể khác biệt đối với bộ máy hành pháp

CLXXXVII

Page 188: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

và lập pháp đồng thời nhất trí với quan điểm “Sẽ không có tự do nếu như quyền lực của

thẩm phán không được tách rời với các quyền lực lập pháp và hành pháp”.

2/ Mặt khác chúng ta cũng nhận thấy rằng tự do ít bị đe dọa bởi ngành tư pháp nhưng lại

dễ bị xâm phạm bởi hai ngành lập pháp và hành pháp, do vậy liên bang cần phải đảm bảo

sự độc lập của tòa án đối với Chính quyền và Quốc hội. Tuy nhiên một sự độc lập bề

ngoài hay danh nghĩa chưa đủ, do bản chất yếu hơn của ngành tư pháp làm cho nó luôn

có nguy cơ phải chịu áp lực ảnh hưởng bởi hai nhánh còn lại của bộ máy nhà nước, do

vậy không có gì đảm bảo tốt hơn cho sự độc lập và củng cố sức mạnh của ngành tư pháp

bằng cách bổ nhiệm các các quan tòa cố định. Đây là biện pháp rất hiệu quả có thể xem là

thành trì cho ngành tư pháp và an ninh của cộng đồng.

Tính độc lập tổng thể của tòa án là một đặc tính chủ đạo giúp giải quyết vấn đề hạn chế

của hiến pháp. Một hiến pháp hạn chế có thể được hiểu là một bản hiến pháp mở ra một

số ngoại lệ nhất định cho các nhà làm luật, ví dụ như họ có thể không thông qua sắc lệnh

tịch thu tài sản nếu như không có các tiền lệ về luật điều chỉnh trước đó. Hạn chế này chỉ

có thể được giải quyết trong thực tế thông qua các tòa trung gian với nhiệm vụ chính là

xem xét tuyên bố tất cả các luật đi ngược với tinh thần của hiến pháp là vô hiệu lực. Đây

chính là lý do cần phải dành các đặc quyền để bảo vệ sự độc lập của các thẩm phán.

Việc tòa án được quyền tuyên bố các đạo luật là vô hiệu lực do có xung đột với hiến pháp

có thể đưa đến những lo ngại về việc ngành tư pháp có quyền lực cao hơn các nhà lập

pháp. Điều này dẫn đến việc cần có quy định là tòa tuyên bố một đạo luật vô hiệu phải ở

cấp cao hơn cơ quan đã ban hành ra đạo luật đó. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng

trong mọi bản hiến pháp Hoa kỳ nên chúng tôi sẽ trình bày vắn tắt thêm dưới đây về nền

tảng lý luận dẫn đến sự ra đời của nguyên tắc này.

Một tiền đề mà chúng ta công nhận là mọi đạo luật của các nhà chức trách do dân cử ra

mà đi ngược với tinh thần mục tiêu nhiệm vụ của họ đều là vô hiệu. Không một đao luật

CLXXXVIII

Page 189: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

nào được đi ngước lại với hiến pháp. Điều này cũng cùng một nguyên tắc không một dân

biểu nào đứng trên các cử tri của họ, người dân được không những được làm những gì

luật pháp cho phép mà còn được làm những gì mà luật pháp không cấm

Nếu để các nhà lập pháp cũng đồng thời là người phán quyết về tính hợp hiến thì cũng có

nghĩa để cho họ tự xét xử về các hoạt động của mình và do vậy việc làm luật, mở rộng

giải thích luật đều do các nhà lập pháp áp đặt đối với các cơ quan khác, nó không thể đáp

ứng được tiền đề đặt ra trong hiến pháp là luật pháp phải thể hiện ý nguyện của toàn dân.

Ngoài ra nó cũng có thể làm phát sinh nguy cơ các nhà làm luật tạo ra những đạo luật

nhằm bảo vệ quyền lợi của chính họ thay vì quyền lợi của những người mà họ đại diện.

Chính vì vậy cần phải có tòa án đóng vai trò trung gian giữa người dân và những nhà lập

pháp nhằm đảm bảo các nhà lập pháp không vượt quá quyền hạn của minh. Việc giải

thích ý nghĩa của luật là thẩm quyền hoạt động của tòa án. Hiến pháp là văn bản được các

thẩm phán sử dụng như một đạo luật cơ bản, họ có nhiệm vụ giải thích cắt nghĩa Hiến

pháp cũng như bất kỳ một đạo luật nào khác của các cơ quan lập pháp. Nếu có xung đột

về luật pháp giữa hai đạo luật, đạo luật nào có hiệu lực cao hơn sẽ được ưu tiên. Hiến

pháp sẽ có hiệu lực cao hơn luật, nghị định, thể hiện nguyên tắc ý chí của toàn dân được

đặt cao hơn ý chí của những người đại diện.

Quyền hạn trên đây của tòa án không có ý nghĩa rằng họ được đặt trên các nhà lập pháp

mà chỉ nhằm đảm bảo quyền lợi của nhân dân được đặt lên trên cả hai cơ quan này và nó

cho thấy khi các nhà lập pháp đưa ý chí của mình vào các đạo luật mà trái với ý chí của

nhân dân thì các thẩm phán với quyền hạn được quy đinh bởi hiến pháp cần phải đại diện

cho dân chúng. Các quy định về thẩm quyền của thẩm phán phải được nêu trong hiến

pháp là đạo luật tối thượng chứ không phải một đạo luật nào khác

Hoạt động diễn giải luật của tòa án là một hoạt động khá tế nhị, các trường hợp hai đạo

luật xung đột nhau không hiếm gặp trong thực tế. Trong trường hợp này tòa án sẽ cắt gọt

và hợp nhất ý nghĩa cũng như phạm vi ứng dụng. Nhờ vậy họ có thể thống nhất các đạo

CLXXXIX

Page 190: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

luật, giải quyết các xung đột, trong các trường hợp không thể thống nhất được một cách

triệt để họ sẽ đưa ra phạm vi áp dụng của luật này và các ngoại lệ đối với luật khác để

tránh các xung đột trực tiếp về sau. Một nguyên tắc đã được nhiều tòa án áp dụng trong

việc xác định hiệu lực của các văn bản luật có xung đột là luật nào ra đời sau được ưu

tiên áp dụng so với các luật được ban hành trước nó. Tuy nhiên đây chỉ là một thông lệ ra

đời từ thực tiền xét xử, không được quy định trong bất cứ văn bản nào. Thông lệ này

không do các nhà lập pháp đặt ra nhưng được các thẩm phán công nhận trong quá trình

xét xử vì nó hợp lý và phù hợp với thực tế trong việc giải thích các đạo luật được ban

hành bởi các cấp tương đương.

Đối với các xung đột của các văn bản luật do các cơ quan không cùng thẩm quyền ban

hành thì nguyên tắc chung là văn bản do cơ quan có thẩm quyền cao hơn sẽ được ưu tiên

áp dụng và theo cùng một nguyên tắc, bất cứ đạo luật nào xâm phạm hiến pháp đều phải

được các thẩm phán bãi bỏ

Tòa án cũng có nguy cơ thông qua hoạt động xét xử ảnh hưởng đến việc lập pháp với

việc quyết định áp dụng các đạo luật xung đột hay thực hiện giải thích một đạo luật, nói

cách khác đi thay vì xét xử họ lại lồng ý chí của mình vào các đạo luật. Trong trường hợp

này họ hòa lẫn với hoạt động lập pháp và không còn sự phân quyền giữa hai hoạt động

nói trên. Để tránh nguy cơ này xảy ra và đảm bảo sự độc lập trong xét xử, một lập luận

được áp dụng là trao cho các thẩm phán quy chế hoạt động nhiệm kỳ vô thời hạn - đến

chừng nào họ còn khả năng cống hiến, vì điều này sẽ giúp cho họ giữ được tính độc lập

và công bằng để thực hiện các nhiệm vụ mà không bị ảnh hưởng bới các thế lực khác. Sự

độc lập của các thẩm phán cũng là cần thiết để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hiến pháp và

nhân quyền trước các ý chí cá nhân, các liên minh… đôi khi những tư tưởng mang tính

cấp tiến của một nhóm người có thể dẫn đến những cải tiến nguy hiểm trong Chính phủ

và tạo ra sự chống đối của nhóm thiểu số. Mặc dù vậy, tôi tin rằng những người bạn của

bản dự thảo hiến pháp sẽ không bao giờ liên kết với kẻ thù

CXC

Page 191: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

3/ Nguyên tắc cơ bản của một nhà nước cộng hòa là cho phép người dân có thể tham gia

vào việc thay đổi hoặc xóa bỏ những quy định của hiến pháp khi nào những quy định của

nó không còn phục vụ lợi ích của đông đảo quần chúng. Tuy nhiên nguyên tắc này có thể

bị lợi dụng khi các đại diện của dân chúng liên kết tạo thành đa số để thay đổi hiến pháp

không đúng với các quy định của hiến pháp hiện tại, tòa án sẽ cũng bị áp lực để đồng lõa

với các vi phạm dạng này nhiều hơn khi họ chịu ảnh hưởng của cơ quan lập pháp. Nhiệm

vụ giữ được sự công bằng của các quan tòa là rất khó khăn khi họ luôn phải chịu tác động

của các nhà lập pháp đại diện cho đa số trong xã hội.

Không chỉ giới hạn ở vai trò bảo vệ hiến pháp khỏi bị vi phạm, sự độc lập của các thẩm

phán còn giúp hạn chế các xu hướng xấu tức thời trong xã hội. Trong một số trường hợp

các thẩm phán chỉ bảo vệ quyền lợi của các nhóm, các công dân trước các đạo luật sai trái

thông qua đó khẳng định tính đúng đắn của luật pháp và làm giảm các xung đột về luật.

Điều này không chỉ giúp điều hòa các đạo luật đã được thông qua mà còn đóng vai trò

kiểm tra trong quá trình thông qua các đạo luật nhờ đó hạn chế các toan tính ban hành các

đạo luật đi ngược với lợi ích của số đông của các nhà làm luật. Đây là một đặc tính được

tính toán nhằm tạo ảnh hưởng đến tính chất của bộ máy nhà nước mà chỉ một số ít người

nhận ra.

Lợi ích của việc cử các thẩm phán có nhiệm kỳ suốt đời đã được thấy ở một số bang, họ

là những người được quý trọng, có đạo đức và công minh không vụ lợi. Tuy nhiên không

ai có thể biết trước việc ngày mai mình có thể trở thành nạn nhân của sự không công

bằng, diều mà họ là người chiến thắng hôm nay do vậy thẩm phán cũng như bất cứ ai

khác có xu hướng bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh và tâm lý. Để hạn chế nguy cơ này hiến

pháp quy định các thẩm phán không làm theo nhiệm kỳ hữu hạn. Sự chỉ định thẩm phán

theo nhiệm kỳ hữu hạn sẽ làm các thẩm phán phụ thuộc vào người chỉ định họ và do vậy

làm mất đi tính độc lập cần thiết. Thử hình dung nếu trao quyền bổ nhiệm thẩm phán theo

định kỳ cho một trong hai cơ quan hành pháp hoặc tư pháp thì sẽ rất nguy hiểm vì thẩm

phán sẽ có xu hướng dễ dãi với cơ quan bổ nhiệm mình, nếu trao quyền bổ nhiệm thẩm

CXCI

Page 192: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

phán định kỳ cho cả hai cơ quan sẽ làm phát sinh rủi ro thẩm phán cố gắng làm hài lòng

cả hai cơ quan này, nếu trao quyền bổ nhiệm cho người dân hoặc cử tri đại diện thì lại

làm việc này lại tạo ra một cơ chế quá cồng kềnh trái với tiền đề chỉ trung cầu dân ý các

vấn đề liên quan đến hiến pháp và luật.

Còn một lý do xác đáng khác cho việc duy trì nhiệm kỳ thẩm phán suốt đời xuất phát từ

đòi hỏi thực tế của công việc. Thông thường, khối lượng luật lệ khổng lồ là một trong

những điểm bất tiện của một nhà nước tự do. Để tránh nhưng xung đột luật nhạy cảm ở

tòa án, các luật cần thiết phải được giới hạn bởi các nguyên tắc, tôn chỉ nhất định góp

phần chỉ rõ phạm vi áp dụng của nó trong các trường hợp trước đây, đây là một vấn đề

khởi nguồn nhiều tranh cãi và có thể tạo ra nhiều áp dụng tai hại, nó đòi hỏi thẩm phán

phải có một quá trì học hỏi để tích lũy đủ các hiểu biết trong lĩnh vực này để tránh tạo ra

những lỗ hổng về mặt luật pháp. Do đặc tính phức tạp của nghề nghiệp nên chỉ có rất ít

người có khả năng hiểu biết về luật pháp để đạt tới trình độ thẩm phán. Các yêu cầu về

nghiệp vụ cộng thêm các chuẩn mực về đạo đức liêm chính càng làm giảm số ứng cử

viên cho vị trí này.

Những lập luận này cho thấy Nhà nước không có nhiều lựa chọn cho các ứng cử viên đủ

tiêu chuẩn và việc chỉ định thẩm phán theo nhiệm kỳ hữu hạn sẽ làm nản lòng các ứng cử

viên muốn rời khu vực kinh tế tư nhân để tìm một vị trí trong thành tư pháp, do đó có thể

làm ngành tư pháp yếu đi về mặt chuyên môn. Với các điều kiện hiện tại và ngay cả với

các điều kiện dự kiến trong tương lai của đất nước, những hạn chế của việc bổ nhiệm

thẩm phán suốt đời dường như ít hơn so với các cảm giác ban đầu, đồng thời nó là lựa

chọn tốt hơn cả trong cân nhắc so sánh đối với các khả năng khác.

Xét một cách tổng thể, việc vận dụng các mô hình hiến pháp dựa trên nguyên tắc “Hành

xử công minh” của các thẩm phán là một việc làm khôn ngoan, về nhiệm kỳ vô thời hạn,

tuy còn nhiều ý kiến phê phán nhưng các giải pháp khác của những người phản đối còn

CXCII

Page 193: Thư Liên Bang - The Federalist Papers

đưa đến một chính phủ khiếm khuyết hơn. Kinh nghiệm của nước Anh cũng giúp chúng

ta một ví dụ về một bản hiến pháp có chất lượng.

Publius

CXCIII