View
4
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
1
Báo cáo tổng hợp
Kết quả tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ
(1/2013)
Mạng lưới VNGO-FLEGT
1. MỞ ĐẦU
Mạng lưới các tổ chức phi chính phủ Việt Nam về thực thi lâm luật, quản trị rừng và thương
mại lâm sản (VNGO-FLEGT) được hình thành vào tháng 1 năm 2012, hiện có 27 tổ chức phi
chính phủ / xã hội dân sự (VNGO / CSO) là thành viên, đã hoạt động ở khắp 3 miền Bắc-
Trung-Nam của Việt Nam.
Mục tiêu của mạng lưới là thúc đẩy sự tham gia, tăng cường sự đóng góp của các
CSO/VNGO và cộng đồng vào quá trình đàm phán và thực thi Hiệp định đối tác tự nguyện
(VPA) về Thực thi Lâm luật, Quản trị Rừng và Thương mại lâm sản (FLEGT) giữa Chính
phủ Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU), góp phần thực hiện kế hoạch quản lý, bảo vệ và
phát triển rừng giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam, thúc đẩy chính sách thu hút cộng đồng địa
phương sống ven rừng, gần rừng và dựa vào rừng được tiếp cận, sử dụng, quản lý, bảo vệ và
phát triển rừng một cách công bằng và bền vững.
Hiện nay Liên minh Châu Âu (EU) là một trong những thị trường xuất khẩu sản phẩm đồ gỗ
của Việt Nam, thu hút khoảng 30% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu gỗ của cả nước. Năm
2010, Nghị viện và Hội đồng Châu Âu đã ban hành Quy chế 995/2010 ngày 20/10/2010 về
kiểm soát nguồn gốc gỗ hợp pháp nhập khẩu vào thị trường EU. Theo quy định này, từ tháng
3/2013, các lô hàng xuất vào EU không có giấy phép FLEGT sẽ phải thực hiện trách nhiệm
giải trình. Nhằm thích ứng với các quy định mới của EU về nguồn gốc gỗ hợp pháp và đảm
bảo giữ vững và mở rộng thị trường EU cho đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam. Chính phủ đã
giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành liên
quan thực hiện đàm phán “Hiệp định đối tác tự nguyện (VPA)” về FLEGT với EU.
Một trong những nội dung quan trọng trong đàm phán VPA/FLEGT là “Định nghĩa gỗ hợp
pháp”, cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã soạn thảo “Dự thảo 5 về định nghĩa gỗ hợp
pháp”. Dự thảo này đã xem xét các ý kiến đóng góp của: (i) Các cơ quan Chính phủ như: các
Bộ liên quan, các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chuyên môn cấp tỉnh ở 30 tỉnh khác
nhau: (ii) Các Hiệp hội nghề nghiệp, như: Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, Hiệp hội gỗ và
lâm sản Bình Định, Hiệp hội gỗ và thủ công mỹ nghệ Thành phố Hồ Chí Minh; (iii) Các đoàn
thể chính trị-xã hội, như: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; Hội Nông dân Việt Nam. Tiến
trình xây dựng “Đinh nghĩa gỗ hợp pháp” đã đáp ứng được nguyên tắc mà phía EU yêu cầu,
đã thu hút sự tham vấn của các bên liên quan. Tuy vậy “Dự thảo 5 về định nghĩa gỗ hợp
pháp” vẫn chưa thu hút đầy đủ ý kiến của cộng đồng thông qua quá trình tham vấn của cộng
đồng.
Xuất phát từ bối cảnh trên, từ tháng 8 đến tháng 11/2012, Mạng lưới đã triển khai hoạt động
tham vấn cộng đồng trên địa bàn của 6 tỉnh tại 3 vùng Bắc Trung Nam, đó là: Yên Bái, Bắc
Kạn, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Lâm Đồng và Bà Rịa-Vũng Tàu để thu thập các ý kiến của
người dân/cộng đồng về những vấn đề liên quan đến tính hợp pháp của gỗ nhằm thu thập
2
thêm thông tin từ phía cộng đồng, cung cấp cho các cơ quan Chính phủ Việt Nam và EU
tham khảo và sử dụng trong tiến trình đàm phán và thực hiện VPA/FLEGT.
2. MỤC TIÊU THAM VẤN
Khảo sát sự hiểu biết/nhận thức của người dân/cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ,
Phân tích việc thực thi lâm luật và ảnh hưởng của nó đến quyền lợi và nghĩa vụ của
người dân/cộng đồng,
Đề xuất những giải pháp liên quan đến tính hợp pháp của gỗ nói chung và đóng góp
cho “Dự thảo 5 về định nghĩa gỗ hợp pháp” nói riêng.
3. NỘI DUNG THAM VẤN
Căn cứ các nguyên tắc của “Dự thảo 5 về định nghĩa gỗ hợp pháp” và khả năng hiểu biết/nhận
thức của cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ, chúng tôi tập trung tham vấn hai nội dung sau:
Các quy định về khai thác gỗ hợp pháp trong nước,
Các quy định về vận chuyển gỗ hợp pháp.
Liên quan đến 2 nội dung tham vấn nói trên, chúng tôi còn tham vấn thêm những nội dung
liên quan đến an toàn môi trường và an toàn xã hội trong quá trình khai thác và vận chuyển gỗ
có liên quan đến đảm bảo tính hợp pháp của gỗ.
4. TIẾN TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP THAM VẤN
4.1. Tiến trình tham vấn
Tiến trình tham vấn được tiến hành thông qua 4 bước chính, như tóm tắt ở bảng 1.
Bảng 1. Tiến trình tham vấn cộng đồng
Thời gian Tiến trình Hoạt động chính
8/2012 Bước 1:
Chuẩn bị
- Phát triển/biên soạn “Tài liệu hướng dẫn tham vấn cộng đồng
về tính hợp pháp của gỗ”
- Tập huấn cho các VNGOs/CSOs về “Phương pháp tham vấn
cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ”
9-10/2012 Bước 2: Tổ
chức tham
vấn cộng
đồng
- Làm việc với chính quyền địa phương (cấp huyện, xã) và
Trưởng thôn
- Thảo luận nhóm
- Họp thôn để trình bày kết quả thảo luận nhóm và thu nhận
thông tin phản hồi
10-
11/2012
Bước 3: Viết
báo cáo tham
vấn
- Viết báo cáo kết quả tham vấn ở các tỉnh
- Hội thảo báo cáo kết quả tham vấn ở các tỉnh và thu nhận
thông tin phản hồi
- Viết báo cáo tổng hợp
11-
12/2012
Bước 4: Chia
sẻ kết quả
tham vấn
- Hội thảo chia sẻ kết quả tham vấn trong nội bộ Mạng lưới
- Hội thảo chia sẻ kết quả tham vấn với Tổng cục lâm nghiệp
3
4.2. Phương pháp tham vấn
4.2.1. Đối tượng tham vấn
Hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn được Nhà nước giao, cho thuê rừng,
đất trồng rừng để sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp theo quy định của Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng (Chủ rừng),
Hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng được nhận khoán quản lý bảo vệ rừng (Bên nhận
khoán),
Hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng sống gần rừng, ven rừng và phụ thuộc vào rừng
nhưng không thuộc hai đối tượng trên.
4.2.2. Thảo luận nhóm: Thảo luận nhóm được tiến hành với 2 nhóm chính như sau:
Nhóm 1: BQL rừng cộng đồng và Tổ trưởng tổ bảo vệ rừng (5-7 người)
Nhóm 1A: Các cộng đồng được Nhà nước giao, cho thuê rừng, đất trồng rừng
(Chủ rừng),
Nhóm 1B: Các cộng đồng nhận khoán quản lý bảo vệ rừng hoặc tham gia đồng
quản lý rừng (Bên nhận khoán),
Nhóm 1C: Các cộng đồng sống gần rừng, ven rừng và phụ thuộc vào rừng
nhưng không thuộc hai đối tượng trên.
Thảo luận với các Nhóm 1A, 1B và 1C chỉ tập trung vào các vấn đề liên quan đến tính
hợp pháp của gỗ từ rừng tự nhiên.
Nhóm 2: Các hộ gia đình, cá nhân (7-10 người)
Nhóm 2A: Các hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao, cho thuê đất trồng
rừng (Chủ rừng),
Nhóm 2B: Các hộ gia đình, cá nhân nhận khoán quản lý bảo vệ rừng trồng
hoặc tham gia đồng quản lý rừng (Bên nhận khoán).
Nhóm 2C: Nhóm hộ trồng rừng trên đất nông nghiệp có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Các tiêu chí (theo thứ tự ưu tiên) để chọn các hộ tham gia thảo luận nhóm 2A và 2B
là: (1) Có rừng trồng (đã và chưa khai thác); (2) Bao gồm các loại: hộ nghèo, hộ cận
nghèo và hộ không nghèo; (3) Bao gồm cả Nam và Nữ.
Thảo luận với các Nhóm 2A, 2B chỉ tập trung vào các vấn đề liên quan đến tính hợp
pháp của gỗ từ rừng trồng.
4.3.3. Họp thôn: Những thông tin thu thập được từ các cuộc thảo luận nhóm được trình bày ở
cuộc họp thôn để thu nhận ý kiến đóng góp của cộng đồng/thôn
4
Trong quá trình tham vấn cộng đồng ở 6 tỉnh đã thực hiện được 73 cuộc thảo luận nhóm với
sự tham gia của 540 người dân và đã tổ chức được 35 cuộc họp thôn (xem chi tiết ở bảng 2).
Bảng 2. Tổng hợp các đối tượng tham vấn
Đối tượng Yên Bái Bắc Kạn Thanh
Hóa
Thừa
Thiên
Huế
Lâm
Đồng
Bà Rịa-
Vũng
Tàu
Nhóm 1A Số nhóm 3 3 3 3
Số người 21 15 25 24
Nhóm 1B Số nhóm 3 3 3 3 4
Số người 21 15 21 24 21
Nhóm 1C Số nhóm 3 2 3 3 3
Số người 23 10 23 24 13
Nhóm 2A Số nhóm 3 4 3 3 2 3
Số người 20 28 20 24 9 22
Nhóm 2B Số nhóm 3 2 3 3 5
Số người 23 14 23 24 25
Nhóm 2C Số nhóm 3
Số người 28
Tổng số Số nhóm 15 14 15 15 14 6
Số người 108 82 112 120 68 50
Tổng số
cuộc họp
thôn
3 6 3 12 6 5
5. MỘT SỐ THÔNG TIN LIÊN QUAN Ở CÁC ĐỊA BÀN THAM VẤN
Mạng lưới tiến hành tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ tại 35 thôn/bản, thuộc 14
xã của 6 huyện, 6 tỉnh: Yên Bái, Bắc Kạn (Vùng miền núi phía Bắc); Thanh Hóa, Thừa Thiên
Huế (Vùng Bắc Trung Bộ); Lâm Đồng, Bà Rịa-Vũng Tàu (vùng Đông Nam Bộ) như trình bày
ở bảng 3.
Bảng 3. Địa bàn tham vấn cộng đồng
Tỉnh Yên Bái Bắc Kạn Thanh
Hóa
Thừa Thiên-
Huế
Lâm
Đồng
Bà Rịa-
Vũng Tàu
Huyện Văn Chấn Na Rì Bá Thước Nam Đông Đạ Tẻ Xuyên Mộc
Xã (1)
Thượng
Bằng La
(3) Cư Lễ,
Lạng
Sang, Văn
Minh
(2) Điền
Hạ, Điền
Quang
(3) Thượng
Nhật, Thượng
Long,
Thượng
Quảng
(2) Mỹ
Đức,
Quốc
Oai
(3) Bông
Trang, Bưng
Riềng, Hòa
Hiệp
Thôn 3 6 3 12 6 5
Dưới đây sẽ giới thiệu một số thông tin về các địa bàn tham vấn nói trên
5
5.1. Xã Thượng La Bằng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái
Ở tỉnh Yên Bái, mạng lưới tiến hành tham vấn ở xã Thượng Bằng La, một xã miền núi vùng
cao thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Thông tin liên quan ở Huyện Văn Chấn
Văn Chấn là một trong 9 huyện /thị thuộc tỉnh Yên Bái, là huyện miền núi, vùng cao;
Nằm cách thành phố Yên Bái 70km về phía Tây, điều kiện tự nhiên-kinh tế-xã hội của
huyện Văn Chấn có thể phản ảnh được những đặc điểm chung về rừng và lâm nghiệp
ở các huyện miền núi vùng cao của tỉnh Yên Bái.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện Văn Chấn là 121.090 ha, chiếm 17% tổng diện tích
tự nhiên toàn tỉnh. Diện tích đất nông nghiệp trong toàn huyện có 86.787 ha chiếm
71,67% diện tích đất tự nhiên của toàn huyện, bao gồm:
- Đất canh tác nông nghiệp: 15.943 ha chiếm 18,3% diện tích đất nông nghiệp,
- Đất dùng để kinh doanh lâm nghiệp: 70.630 ha chiếm 81,3% diện tích đất
nông nghiệp. Trong đó:
o Đất rừng sản xuất là 48.390 ha chiếm 68,5% đất dùng để kinh doanh
lâm nghiệp,
o Đất rừng phòng hộ 22.239 ha chiếm 31,5% đất dùng để kinh doanh lâm
nghiệp.
Dân số toàn huyện có khoảng 145.711 người, mật độ dân số 121 người/km2
gồm 23
dân tộc anh em cùng sinh sống. Trong đó có 8 dân tộc, chủ yếu là các dân tộc: Kinh
34,05 %; Thái 22,38%; Tày 17,11%; Dao 8,93 %; Mường 7,57%; H'Mông 6,22 %;
Giáy 1,48%; Khơ Mú 0,74 %, chia thành 3 vùng cư trú: (i) Vùng ngoài là vùng cư trú
của đại đa số dân tộc Tày; (ii) Vùng đồng bằng có đa số đồng bào dân tộc Thái, Kinh
và Mường cư trú; (iii) Vùng cao chủ yếu đồng bào dân tộc Dao, H'Mông cư trú. Tổng
số lao động trong độ tuổi 88.554 người; số lao động trong độ tuổi hoạt động kinh tế
70.866 người; số lao động trong độ tuổi không hoạt động kinh tế 17.688 người.
Huyện Văn Chấn, có 31 đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn (03 thị trấn và 28 xã). Xã
Sơn Thịnh đồng thời là huyện lỵ.
Điều kiện sống của người dân chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, dựa vào
các sản phẩm canh tác trên đồi rừng, như: Chè, sắn, ngô nương, trồng rừng và bảo vệ
rừng.
Các con đường QL 37, QL 32 chạy qua huyện, tạo điều kiện nối liền các địa phương
trong huyện với các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Hà Nội… , thuận tiện cho việc
giao lưu kinh tế, văn hóa của người dân trong huyện với các nơi khác.
Thông tin liên quan ở xã Thượng Bằng La
Xã Thượng Bằng La nằm ở phía Tây Nam của huyện Văn Chấn, cách trung tâm
Huyện Văn Chấn là 32 km. Phía Bắc của xã giáp với thị trấn Nông trường Trần Phú
(huyện Văn Chấn); Phía Nam giáp với xã Mường Cơi, xã Tân Lang (huyện Phụ Yên,
6
tỉnh Sơn La); Phía Đông giáp với xã Minh An (huyện Văn Chấn); Phía Tây giáp với
xã Cát Thịnh (huyện Văn Chấn).
Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 9.244 ha. Toàn xã có 20 thôn, 2037 hộ . Dân số hiện
có ở toàn xã là 8.026 người.
Địa hình trên địa bàn xã có nhiều đặc trưng của các xã vùng núi cao.
Diên tích đất nông nghiệp (gồm cả diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu
năm, đất lâm nghiệp, đất thuỷ sản): 8.677 ha, chiếm 93,86 %.
Diên tích đất phi nông nghiệp: 275 ha, chiếm 2,98 %.
Diên tích đất chưa sử dụng: 101 ha, chiếm 1 %.
Diên tích đất lâm nghiệp: 6.717 ha; Trong đó: Diên tích đất rừng tự nhiên và phòng
hộ; 3.164 ha, chiếm 34,18%.
Xã Thượng Bằng La là xã có diện tích rừng rộng lớn và có đủ các loại rừng: rừng tự
nhiên có mục đích phòng hộ, rừng tự nhiên có mục đích sản xuất và rừng trồng.Trong
đó, rừng tự nhiên có mục đích sản xuất khá lớn. Trước đây, loại rừng này do Lâm
trường Ngòi Lao quản lý, khai thác và khoanh nuôi, trồng bổ sung. Năm 2011, diện
tích rừng này đã được UBND huyện Văn Chấn giao cho nhóm cộng đồng tại các thôn
quản lý, bảo vệ, hưởng lợi và đã cấp sổ đỏ. Tại xã Thượng Bằng La, diện tích rừng sản
xuất kinh doanh được giao cho các hộ nông dân và được cấp sổ đỏ tương đối sớm.
Trên đất này đã trồng chủ yếu các loại cây: Mỡ, Bồ đề, Keo, Quế, Do thời gian giao
đất còn ngắn, nên việc lập kế hoạch xin khai thác và khoanh nuôi trồng bổ sung cũng
như các tác động của Nhà nước vào quá trình phát triển loại rừng này chưa nhiều và
chưa có tác động rõ ràng.
Trên địa bàn xã có 5 dân tộc chính và 1 số dân tộc ít người khác cùng sinh sống, trong
đó dân tộc chiếm tỷ lệ đông nhất là người Kinh và người Tày.
Xã có 2 trục đường quốc lộ chạy qua là QL 32 và QL37 với chiều dài 18 km.
Tình hình và lịch sử giao đất rừng của xã Thượng Bằng La:
Rừng tự nhiên phòng hộ đã được giao cho 121 hộ thuộc 17 nhóm cộng đồng quản lý từ
năm 1995 (theo Chương trình 327).
Rừng tự nhiên sản xuất đã được giao cho 1.084 hộ thuộc 17 nhóm cộng đồng quản lý
từ năm 2011.
Đất trồng rừng được giao và cấp sổ đỏ cho các hộ từ năm 1999 dựa trên cơ sở đất khai
phá của hộ từ trước đây và đã được Hạt Kiểm lâm cấp sổ bìa vàng.
Đất rừng sản xuất: 3.553 ha, chiếm 38 % (trong đó đất rừng sản xuất có rừng tự nhiên
1.341 ha, đất rừng trồng sản xuất để kinh doanh, 1.186 ha, đất có khả năng trồng rừng
sản xuất, 1.025 ha).
5.2 Xã Cư Lễ, Văn Minh và Lạng Sang, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Cạn
7
Thông tin liên quan ở huyện Na Rì (tỉnh Bắc Cạn)
Na Rì là huyện miền núi vùng cao, nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Bắc Kạn, có diện tích tự
nhiên là 85.300 ha, chiếm 17,54% diện tích tự nhiên tỉnh Bắc Cạn, gồm 21 xã và 01
thị trấn với 232 thôn, bản. Phía Bắc giáp huyện Ngân Sơn; Phía Nam giáp huyện Chợ
Mới và tỉnh Thái Nguyên; Phía Đông giáp huyện Bình Gia và Tràng Định (tỉnh Lạng
Sơn); Phía Tây giáp huyện Bạch Thông. Thị trấn Yến Lạc là trung tâm kinh tế - chính
trị - văn hóa của huyện, cách thị xã Bắc Kạn 69 km và cách thành phố Thái Nguyên
130 km theo Quốc lộ 3B và Quốc lộ 3.
Na Rì có địa hình núi non hiểm trở, trong đó đồi núi chiếm 90% diện tích tự nhiên.
Một số xã có nhiều dãy núi đá vôi, nổi lên là khối núi Kim Hỷ có diện tích khoảng
15.000ha , với những ngọn núi cao từ 700 đến 800m.
Na Rì có tài nguyên rừng và nhiều loại khoáng sản quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Do
địa hình hiểm trở, núi non bao bọc xung quanh nên việc giao thông đi lại của người
dân trước đây gặp nhiều khó khăn. Sau khi hoàn thành đường nối Quốc lộ 3 với huyện
Na Rì (1965) và tiếp tục phát triển hệ thống giao thông nông thôn đến cấp xã, cấp thôn
/bản, đã góp phần thúc đẩy giao lưu kinh tế - văn hóa giữa Na Rì với các địa phương
lân cận.
Na Rì là huyện có “đất rộng người thưa”. Dân số toàn huyện hiện có xấp xỉ 40.000
người, bao gồm 6 dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Kinh, H.Mông, Sán chỉ (65% là dân tộc
Tày) đang sinh sống theo quan hệ cộng đồng dòng họ, đời sống gắn với ruộng vườn.
Các dân tộc Tày, Nùng thường quần cư trong các thung lũng, ven sông suối, canh tác
trên các thửa ruộng bậc thang. Đồng bào người Dao trước đây thường có tập quán du
canh du cư, phát nương làm rẫy. Người Kinh, người Hoa sống tập trung ở vùng trung
tâm, làm các nghề may mặc hoặc bán hàng phục vụ ăn uống, buôn bán tạp hóa...
Do tập quán canh tác lâu đời còn ảnh hưởng sâu đậm trong suy nghĩ của người dân,
nên đến nay, nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất tự túc tự cấp. Trên địa bàn huyện đã
có Lâm trường quốc doanh Na Rì hoạt động, nhưng hoạt động kinh doanh sản xuất
của lâm trường mới thực hiện ở mục đích khai thác gỗ thương mại phục vụ cho lợi ích
của lâm trường, nên chưa có tác động rõ ràng và tích cực đến đời sống cộng đồng.
Người dân tham gia sản xuất nông nghiệp với quy mô nhỏ lẻ, chủ yếu là trồng lúa, hoa
màu và khai thác gỗ theo phương thức làm thuê cho lâm trường. Số hộ nghèo còn
chiếm tỷ lệ cao (34,3%), số hộ nghèo thường tập trung ở những thôn bản gần rừng, nơi
thiếu đất canh tác, thiếu việc làm ổn định, cuộc sống chủ yếu dựa vào rừng tự nhiên
để khai thác gỗ và thu hái các loại lâm sản. Đời sống kinh tế của nhân dân trong huyện
còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng như đường giao thông, trường
học, điện lưới quốc gia, trạm y tế xã mặc dù đã được Nhà nước quan tâm đầu tư xong
vẫn còn nhiều khó khăn.
Tổng diện tích tự nhiên của Huyện là 86.400 ha. Trong đó diện tích đất kinh doanh lâm
nghiệp 74.760 ha chiếm 86,52%; diện tích đất có rừng là 58.961,29 ha, trong đó rừng
tự nhiên 48.260,78 ha và rừng trồng là 10.700,51 ha (kể cả rừng mới trồng là 1.980,11
ha), đất chưa có rừng là 15.768,02 ha, đất khác là 10.570,69 ha, độ che phủ rừng là
66,8% 1.
1Tổng hợp độ che phủ rừng theo đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Kạn đến ngày 31/12/2011
8
Trong năm 2011, toàn huyện đã cấp 65 giấy phép khai thác lâm sản, với tổng khối
lượng gỗ khai thác được cấp phép là 1.536,53 m3 gỗ ; đã khai thác: 731,729 m
3, đạt
47,6% so với khối lượng gỗ được cấp phép khai thác2.
Thông tin liên quan ở 3 xã Cư Lễ, Văn Minh và Lạng Sang (huyện Na Rì)
Đối chiếu với bản Hướng dẫn tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ, nhóm
tham vấn đã lựa chọn các xã Cổ Lễ, xã Lạng San, xã Văn Minh, huyện Na Rì, tỉnh
Bắc Kạn vì đã hội tụ đầy đủ các đối tượng để tiến hành tham vấn như:
- Cộng đồng cư dân thôn được giao rừng tự nhiên bảo vệ và sản xuất (có sổ
đỏ).
- Có các hộ gia đình, cá nhân nhận khoán trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ hoặc
khai thác với Lâm trường Na Rì.
- Có các hộ gia đình được giao đất rừng sản xuất (có sổ đỏ) để tự trồng rừng và
kinh doanh
- Có đồng bào dân tộc thiểu số.
- Có người dân sống ven rừng, phụ thuộc vào rừng mà không sở hữu rừng.
Xã Cư Lễ nằm cách huyện lỵ Na Rì 10 km về phía Nam. Tổng diện tích tự nhiên của
xã là 6.017 ha. Dân số toàn xã có 2.054 người, gồm các dân tộc: Tày, Nùng, Dao,
Kinh, Mông (85% số dân là dân tộc Tày). Diện tích đất có rừng là 4.891 ha, trong đó
diện tích rừng tự nhiên là 4.096 ha và rừng trồng là 795 ha (kể cả rừng mới trồng là
239 ha); diện tích đất chưa có rừng là 736 ha, diện tích các loại đất khác là 389 ha, độ
che phủ rừng của 77,3%.
Xã Văn Minh nằm cách trung tâm của huyện Na Rì 14 km về phía nam, cách trục
đường quốc lộ 3B khoảng 2 km, có tổng diện tích tự nhiên là 3.808 ha. Dân số của xã
Văn Minh có 1.104 người, gồm các dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Kinh, H’Mông (trong đó
80% số dân là dân tộc Tày), sống trên 12 thôn, bản. Diện tích đất có rừng là 2.715 ha,
trong đó diện tích đất có rừng tự nhiên là 2.236 ha và diện tích đất rừng trồng là 478
ha (kể cả rừng mới trồng là 85 ha). Diện tích đất chưa có rừng là 714ha , diện tích các
loại đất khác là 378 ha, độ che phủ rừng là 69%. Rừng trồng phát triển khá tốt với các
loại cây trồng như Luồng, Keo và Mỡ. Sản lượng gỗ khai thác hàng năm đạt 1.500 m3.
Xã Lạng Sang là một xã miền núi vùng cao, nằm cách trung tâm huyện Na Rì 30 km
về phía tây, có quốc lộ 279 chạy qua xã về đến huyện Ngân Sơn. Nhờ đó, đã tạo điều
kiện thuận lợi về giao lưu, trao đổi hàng hóa và phát triển kinh tế - xã hội của xã. Tổng
diện tích tự nhiên của xã là 3.478,7 ha, diện tích đất có rừng là 2.025 ha, trong đó rừng
tự nhiên là 1.831 ha và diện tích rừng trồng là 193 ha (kể cả rừng mới trồng là 26 ha).
Diện tích đất chưa có rừng là 998 ha, diện tích các loại đất khác là 463 ha; độ che
phủ rừng là 57,3%. Rừng trồng phát triển với những cây trồng như Luồng, Keo và
Mỡ, sản lượng khai thác hàng năm đạt 650 m3. Trong xã có các dân tộc: Tày, Nùng,
Dao, Kinh, H’Mông cùng sinh sống (81% số dân là dân tộc Tày).
5.3. Xã Điền Hạ và Điền Quang, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa
2 Báo cáo của Hạt Kiểm lâm huyện Na Rì
9
Thông tin liên quan ở huyện Bá Thước
Bá Thước là một huyện miền núi, nằm ở phía Tây tỉnh Thanh Hóa. Mặc dù là huyện
có nhiều tiềm năng, tài nguyên về rừng, đã có lâm trường quốc doanh trên địa bàn
huyện từ lâu, nhưng đến hiện nay, huyện này vẫn đang là một trong 62 huyện nghèo
nhất của Việt Nam.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 77.522 ha, trong đó diện tích đất lâm nghiệp
phân loại theo tác dụng của rừng như sau:
- Rừng phòng hộ: 20.992 ha; Trong đó: (i) rừng tự nhiên có 7.492 ha; (ii) rừng
trồng có 300 ha; (iii) đất không có rừng có 3.200 ha,
- Rừng đặc dụng: 8.088 ha, 100% diện tích rừng đặc dụng là rừng tự nhiên,
- Rừng sản xuất: 14.122 ha; Trong đó: (i) rừng tự nhiên là 8.394 ha; ii) rừng
trồng là 5.728 ha. Hàng năm sản lượng gỗ khai thác khoảng 7.000 m3 gỗ các
loại.
Toàn huyện có 23 xã, thị trấn và trên 22 ngàn dân. Có khoảng 72% số hộ gia đình có
rừng hoặc có sinh kế dựa vào rừng. Những số liệu nói trên cho thấy tầm quan trọng
của rừng trong đời sống và phát triển kinh tế của huyện.
Công tác giao đất giao rừng được bắt đầu thực hiện từ năm 2002. Loại hình sở hữu
rừng và loại hình chủ rừng rất đa dạng, cụ thể là: Hộ gia đình, Nhóm cộng đồng dân
cư thôn /bản, Nông lâm trường, Công ty lâm nghiệp, Ban quản lý khu bảo tồn. Đến
thời điểm 2012, đã có khoảng 90% diện tích rừng được giao và đã hoàn thiện các thủ
tục giao đất và cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất lâm nghiệp (sổ đỏ) đạt 65%.
Thông tin liên quan ở 2 xã : Điền Hạ và Điền Quang (huyện Bá Thước)
Cả 2 xã đều có diện tích rừng lớn và đã phân chia theo tác dụng của rừng. Việc giao
đất, giao rừng đã tạo nên nhiều loại chủ rừng, rất đa dạng, như: Hộ gia đình, Nhóm
cộng đồng, Đội sản xuất của lâm trường. Các đối tượng trên đều có cả những người
và tổ chức được giao rừng, có vị trí pháp lý là chủ rừng; có cả những hộ gia đình được
nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp cũng có vị trí pháp lý là chủ rừng.
Cả 2 xã đều đã tham gia thực hiện các chương trình KTXH của huyện có liên quan
đến Nông-Lâm nghiệp, như : Chương trình 327, 141, Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng
(Dự án 661)…
Đến thời điểm này, tại hai xã diện tích rừng trồng đều tăng lên hàng năm và có khoảng
40% số hộ gia đình đã được khai thác rừng trồng từ năm 2010 với loại cây chủ yếu
như: Cao su, Keo, Xoan, Bạch đàn.
Thu nhập bình quân đầu người tại Điền Hạ và Điền Quang đạt khoảng 4,2 triệu
đồng/người/năm, tỷ trọng thu nhập từ Nông-Lâm nghiệp chiếm khoảng 77% tổng thu
nhập của hộ gia đình.
- Rừng tự nhiên, rừng phòng hộ trước đây đều do các Lâm trường trên địa bàn
huyện Bá Thước quản lý về sau chuyển đổi thành công ty lâm nghiệp và hiện
nay chỉ còn một công ty Lâm nghiệp quản lý 5.760 ha rừng phòng hộ và sản
xuất.
10
- Bắt đầu từ 1992, đã triển khai thực hiện chương trình 327. Nhà nước đã giao
rừng cho các nhóm hộ trong thôn quản lý bảo vệ. Tuy nhiên theo đánh giá của
các hộ gia đình, khi nhận rừng, các khu rừng chỉ còn 1 số ít cây gỗ, còn lại,
kích thước nhỏ nhưng cũng không được bàn giao về số lượng và ranh giới cụ
thể.
- Đến nay việc giao đất rừng tự nhiên đã được chính thức hóa bằng việc cấp
“sổ đỏ” cho các nhóm cộng đồng và 100% những người tham gia các cuộc
họp đều đã được cấp sổ đỏ.
- Việc khai thác chính ở rừng tự nhiên đã không còn là công việc của người
dân và cộng đồng từ nhiều năm trước. Hiện nay chính quyền xã, kiểm lâm và
các Ban quản lý khu bảo tồn chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ rừng trên địa
bàn.
5.4. Thông tin liên quan ở Huyện Nam Đông (tỉnh Thừa Thiên-Huế ) và các xã Thượng
Nhật, xã Thượng Long
Thông tin liên quan ở Huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên -Huế
Nam Đông là một trong 2 huyện miền núi thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế. Phía Bắc
giáp thị xã Hương Thủy; Phía Nam giáp tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng; Phía
Đông giáp huyện Phú Lộc; Phía Tây giáp huyện A Lưới. Toàn huyện có 10 xã và 01
thị trấn, trong đó có 07 xã đặc biệt khó khăn, 6 xã có đồng bào dân tộc thiểu số chiếm
trên 70% tổng số dân.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 64.778 ha3. Dân số toàn huyện là: 24.390
người 4. Trong đó, 80% là đồng bào dân tộc thiểu số người dân tộc Cơ Tu và 20% còn
lại là người Kinh.
Nam Đông là huyện có dân số ít, nhưng lại có địa bàn phức tạp, trình độ dân trí thấp,
đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo có giảm, nhưng vẫn
đang ở mức cao. Trong những năm qua được sự đầu tư của nhà nước, tình hình kinh tế
xã hội của huyện có bước phát triển khá, tỉ lệ hộ đói nghèo ngày càng giảm, đời sống
của nhân dân từng bước ổn định và đang tiến đến ấm no. Công tác định canh định cư
của đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng đi vào thế vững chắc.
Tổng diện tích đất lâm nghiệp của huyện là 54.657 ha, chiếm 84% tổng diện tích tự
nhiên của toàn huyện. Trong đó, đất rừng đặc dụng là 26.079 ha, đất rừng phòng hộ là
11.733 ha và đất rừng sản xuất là 16.844 ha. Đối tượng được giao quản lý và sử dụng
rừng bao gồm: Hộ gia đình được giao đất rừng sản xuất trong 50 năm; Cộng đồng dân
cư thôn được giao rừng sản xuất (rừng tự nhiên) để quản lý bảo vệ trong 50 năm. Hầu
hết rừng được giao cho cộng đồng là rừng nghèo; UBND xã quản lý diện tích rừng và
đất rừng chưa có chủ thể quản lý. Trên địa bàn huyện có Vườn quốc gia Bạch Mã và
Khu bảo tồn Sao la và Ban quản lý rừng phòng hộ Nam Đông, là tổ chức sự nghiệp do
nhà nước thành lập, được giao nhiệm vụ quản lý rừng đặc dụng và rừng phòng hộ.
3 Niên giám thống kê huyện Nam Đông năm 2011
4 Niên giám thống kê huyện Nam Đông năm 2011
11
Giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình trên địa bàn huyện được thực hiện từ năm 1998,
giao rừng sản xuất cho cộng đồng dân cư quản lý bảo vệ mới được thực hiện từ năm
2005. Ngoài việc giao rừng và đất rừng để quản lý và sử dụng, hàng năm các hộ gia
đình còn được nhận khoán quản lý bảo vệ rừng theo hợp đồng với Ban Quản lý rừng
phòng hộ huyện Nam Đông. Tuy vậy, diện tích rừng được nhận khoán bảo vệ không
đáng kể. Năm 2012, trên toàn huyện chỉ có 8 hộ nhận khoán quản lý bảo vệ rừng với
tổng diện tích là 1.400 ha. Các hộ nhận khoán quản lý bảo vệ rừng cũng được quyền
khai thác tận thu, nhưng số lượng khai thác không đáng kể và chủ yếu chỉ được khai
thác cây chết, cây bị sâu bệnh để làm củi đun.
Thông tin liên quan ở xã Thượng Nhật, xã Thượng Long và xã Thượng Quảng
Hai xã này đều thuộc xã nghèo của huyện Nam Đông.
Thượng Nhật là một xã thuộc huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Xã Thượng
Nhật có diện tích 11.374 ha, trong đó đất lâm nghiệp là 9.800 ha. Tổng dân số của xã
là 2.081 người với 1.927 người là dân tộc thiểu số, mật độ dân số khoảng 1,81
người/km²5.
Thương Long cũng là một xã thuộc huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Xã
Thượng Long có diện tích 5.066 ha, trong đó đất lâm nghiệp là 3.936 ha. Xã có dân
tổng dân số là 2.488 người, trong đó có 2.354 người là dân tộc Cơ Tu, với mật độ dân
số là 4,86 người/km²6.
Thượng Quảng là xã thuộc huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tổng diện tích
tự nhiên của xã là 15.522 ha, trong đó đất lâm nghiệp là 14.320 ha. Dân số của xã là
1.961 người với 1.286 người là dân tộc Cơ Tu, mật độ dân số 1,25 người/km²7.
5.5. Thông tin liên quan ở huyện Đạ Tẻh và xã Mỹ Đức, xã Quốc Oai (huyện Đạ Tẻh,
tỉnh Lâm Đồng)
Thông tin liên quan ở huyện Đạ Tẻh
Huyện ĐạTẻh nằm trên phần chuyển tiếp giữa cao nguyên Di Linh, Bảo Lộc với vùng
Đông Nam Bộ, địa hình thấp dần về phía Tây, Tây Nam, từ độ cao 600m xuống còn
dưới 120m, có tổng diện tích tự nhiên là 52.343ha. Phía Bắc giáp với huyện Bảo Lâm;
Phía Nam giáp với tỉnh Đồng Nai; Phía Đông giáp với huyện Đạ Huoai; Phía Tây giáp
với huyện Cát Tiên.
- Tổng diện tích đất tự nhiên: 52.343ha, được phân ra:
o Đất nông nghiệp có: Đất trồng cây hàng năm: 6.114ha; Đất trồng cây
lâu năm: 3.211ha.
o Đất lâm nghiệp có: Rừng tự nhiên: 37.504 ha; Rừng trồng: 1.533ha.
o Đất chưa sử dụng có: Đất có khả năng nông nghiệp: 737ha; Đất đồi núi
chưa sử dụng: 767ha.
o Đất mặt nước: 81ha; Đất chưa sử dụng khác: 514ha.
5 Niên giám thống kê huyện Nam Đông năm 2011 6 Niên giám thống kê huyện Nam Đông năm 2011
7 Niên giám thống kê huyện Nam Đông năm 2011
12
Thông tin liên quan ở xã Mỹ Đức, xã Quốc Oai (huyện Đạ Tẻh)
Xã Mỹ Đức có diện tích hơn 10.300 ha, số dân gần 4000 người. Xã Quốc Oai có diện
tích hơn 8.500ha, số dân hơn 3.900 người. Hai xã này là nơi sinh sống của người Châu
Mạ là người bản địa và những người Kinh di cư đến từ nhiều đợt, bắt đầu từ đầu năm
1980. Do nằm ở vùng sâu, vùng xa, đời sống khó khăn, người dân tại hai xã này có
cuộc sống gắn bó với rừng và dựa vào rừng. Bên cạnh những người dân bản địa đã
sống dựa vào rừng từ nhiều đời nay, những người Kinh mới di cư đến, cuộc sống của
họ cũng phụ thuộc vào rừng rất nhiều. Do điều kiện tự nhiên, những cánh rừng lá rộng
thường xanh và lồ ô tre nứa ở địa phương đã cung cấp các sản phẩm rất đa dạng cho
người dân như: gỗ, tre nứa, măng, tươi, song mây, các loại rau, quả, thuốc, mật ong,
và nhiều loại thú rừng nhỏ.
Về mặt quản lý rừng ở hai xã đã có nhiều biến động. Cho đến đầu năm 2000, các khu
vực rừng ở 2 xã đều do Lâm Trường Đạ Tẻh quản lý. Vào khoảng 1989-1993, người
dân đã được Lâm trường giao khoán bảo vệ rừng theo nguồn vốn từ ngân sách hỗ trợ
của tỉnh Lâm Đồng theo chương trình thành lập làng lâm nghiệp. Sau đó giai đoạn từ
năm 1993 - 2008, các cộng đồng này cùng với người dân ở nơi khác đã được giao
khoán rừng theo chương trình 327 và sau đó là chương trình 661. Bên cạnh đó vào
năm 2003, khi dự án bảo tồn đa dạng sinh học (WINROCK) hỗ trợ kinh phí cho
UBND huyện Đạ Tẻh tiến hành việc khoán bảo vệ rừng, một số người dân ở xã Quốc
Oai cũng được tham gia. Đến năm 2008, diện tích rừng tự nhiên trong huyện đã được
chuyển giao cho các công ty tư nhân tận thu gỗ rừng tự nhiên để chuyển sang trồng
cây công nghiệp và trồng rừng sản xuất. Năm 2010, nhiều hộ nhận khoán quản lý bảo
vệ được trả thêm tiền thuộc chương trình chi trả dịch vụ môi trường (PES) thí điểm tại
tỉnh Lâm Đồng.
Trên địa bàn huyện Đạ Tẻh, có tổng cộng 22 công ty và doanh nghiệp được cho thuê
đất lâm nghiệp với diện tích 8.255 ha, trong đó diện tích đất có rừng là 8.069 ha và
diện tích đất không có rừng là 186 ha. Dù diện tích trồng cao su và trồng rừng của các
công ty trong địa bàn huyện Đạ Tẻh là nhiều nhưng những công ty có thuê đất tại khu
vực xã Quốc Oai và xã Mỹ Đức được người dân cho là chưa làm gì nhiều trên đất
được thuê.
Một số công ty, doanh nghiệp trên địa bàn là (dưới đây gọi chung là “các công ty”, để
phân biệt với công ty TNHH1TV Lâm nghiệp Đạ Tẻh)
Hiện có hai cách tiếp cận về việc sử dụng rừng ở địa phương, đó là: (i) cách tiếp cận
rừng theo truyền thống – xem rừng là tài sản chung của cộng đồng, là tài nguyên của
tổ tiên truyền từ đời này sang đời khác; mọi người bản địa đều có quyền tiếp cận theo
truyền thống. Đây là hiện trạng sử dụng rừng trên thực tế của người dân (de facto). (ii)
Cách tiếp cận thứ hai, là theo luật pháp (de jure). Hiện nay, rừng là tài sản của toàn
dân do nhà nước quản lý. Ở địa phương, rừng được nhà nước giao quyền sử dụng cho
các chủ rừng bao gồm các công ty nhà nước và tư nhân. Các chủ rừng có toàn quyền,
có thể giao, hoặc thuê, khoán người dân trồng hay bảo vệ rừng, khai thác rừng theo
như luật định. Ngược lại đa số người dân không được giao rừng (với giấy CNQSD) sẽ
không có vai trò gì, không có quyền tiếp cận được công nhận vào tài nguyên rừng.
Hiện nay, các hình thái và quan hệ pháp lý của cộng đồng với các bên ở địa phương
bao gồm quan hệ giữa các hộ hoặc nhóm hộ nhận khoán QLBVR với chủ rừng nhà
13
nước (Công ty TNHH1TV Lâm nghiệp Đạ Tẻh); quan hệ giữa các hộ hoặc nhóm hộ
nhận khoán QLBVR với chủ rừng tư nhân (các công ty, tổ chức tư nhân); giữa các hộ
được giao đất trồng rừng và Công ty TNHH1TV Lâm nghiệp Đạ Tẻh (Cty đóng vai
trò hỗ trợ, giám sát); và những hộ sống phụ thuộc vào rừng theo cách truyền thống
đang cùng tồn tại.
Như vậy, các lý do mà xã Mỹ Đức và xã Quốc Oai được chọn làm địa điểm tham vấn
cộng đồng như sau:
- Người dân tộc Châu mạ là người bản địa sinh sống tại địa phương và có cuộc
sống gắn bó với rừng và đất rừng; đất sản xuất, mồ mã của cha ông họ đều
gắn với rừng và đất rừng; nguồn sinh kế chủ yếu của họ cũng dựa vào rừng và
đất rừng,
- Người nhập cư (chủ yếu là người Kinh và người Tày) theo các chương trình
kinh tế mới của nhà nước trong thập niên 80 cũng có sự phụ thuộc lớn vào
rừng và đất rừng. Họ khai thác rừng để lấy đất sản xuất nông nghiệp, khai
thác gỗ cho các nhu cầu sử dụng tại chỗ và bán ra bên ngoài.
- Người dân địa phương (cả người nhập cư và người bản địa) đều được giao
khoán quản lý và bảo vệ rừng theo các chương trình của nhà nước, nhưng
đang bị ảnh hưởng bởi việc chuyển đổi mục đích sử dụng của rừng tại địa
phương.
- Các công ty được giao thực hiện chuyển đổi từ rừng nghèo kiệt sang rừng sản
xuất và trồng cây công nghiệp đã làm phát sinh mâu thuẫn giữa người dân địa
phương với các chủ rừng, chủ yếu là mâu thuẫn liên quan đến sự hưởng lợi từ
gỗ và các sản phẩm từ rừng.
5.6. Xã Bông Trang, Bưng Riềng và Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu
Thông tin liên quan ở huyện Xuyên Mộc (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu)
Huyện Xuyên Mộc nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Diện tích tự
nhiên của toàn huyện là 64.093 ha.Trong đó, diện tích đất lâm nghiệp được quy hoạch
là 17.608 ha.
Diện tích rừng đặc dụng: 10.451 ha, Diện tích rừng sản xuất: 6.197 ha; Diện tích rừng
phòng hộ 960 ha8. Huyện xuyên Mộc có 14.186 ha rừng, trong đó có 6.617 ha rừng
trồng (chủ yếu là rừng trồng keo lá tràm và keo lai).
Rừng trồng thuộc rừng sản xuất của tỉnh tập trung trên diện tích quy hoạch phát triển
rừng sản xuất. Đây là diện tích đất đai thuộc Công ty TNHH MTV lâm nghiệp Bà Rịa
- Vũng Tàu. Công ty lâm nghiệp này là đơn vị duy nhất trong tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
quản lý và kinh doanh rừng sản xuất.
80,7% diện tích tự nhiên của huyện là diện tích đất nông, lâm nghiệp. Trong đó, có
61,5% diện tích là đất tốt và đất trung bình, nên Xuyên Mộc có thế mạnh trong việc
phát triển các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, đặc biệt là cây công nghiệp dài ngày
8 Quy hoạch 3 loại rừng ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
14
như: cao su, nhãn, cà phê, tiêu. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng xây
dựng những vùng chuyên canh có giá trị cao, năng suất cao đang là chủ trương chung
của huyện.
Trên địa bàn huyện hiện có Công ty lâm nghiệp (tiền thân là Lâm trường Xuyên Mộc)
được thành lập từ năm 1978, diện tích quản lý của Công ty là 15.990 ha. Tổng diện
tích đất sau khi điều chỉnh của Lâm trường là 8.273 ha.9 Tổng diện tích đất của Công
ty LN sau khi rà soát phục vụ việc cấp GCNQSDĐ là 5.605 ha, trong đó: diện tích đất
của dân đang sử dụng nằm trong lâm phần quản lý của Công ty là 1.041 ha (dự kiến
giao về địa phương quản lý); đất khác là 117 ha. Diện tích đất Công ty đang trực tiếp
sử dụng là 4.447 ha, trong đó: Đã cấp giấy CNQSDĐ là 2.847 ha và đang làm thủ tục
cấp giấy CNQSDĐ là 1.600 ha
Thông tin về vấn đề giao khoán đất lâm nghiệp tại Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp
Xuyên Mộc
Trên cơ sở diện tích được giao và cấp giấy CNQSDĐ, Cty TNHH MTV Lâm nghiệp
Bà Rịa – Vũng Tàu đã liên doanh với Công ty Sanrim Johap ViNa (Hiệp hội Lâm
nghiệp Hàn Quốc); Công ty TNHH Vĩnh Hưng (Đài Loan) và một số Cty TNHH khác
để trồng rừng nguyên liệu. Diện tích đất được giao khoán cho các hộ dân (162 hộ)
trồng rừng theo Nghị định 135/2005/NĐ-CP ngày 8/11/2005 của Chính phủ về giao
khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản trong
các nông lâm trường quốc doanh là 1.976,5 ha. Toàn bộ diện tích đất đai được giao
khoán cho các hộ dân để trồng rừng cây gỗ nguyên liệu đều thuộc diện tích đất đã có
GCN QSDĐ.
Các hộ dân khi được giao khoán đất để trồng rừng đã ký kết “Hợp đồng giao khoán sử
dụng đất vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, mặt nước nuôi trồng thủy
sản” với Cty TNHH Một thành viên Lâm nghiệp Bà Rịa – Vũng Tàu. Nội dung chính
của hợp đồng giao khoán đất gồm: Vị trí (địa danh khoảnh, tiểu khu); Diện tích đất
giao khoán; Loài cây trồng; Mật độ trồng; Thời hạn hợp đồng (theo chu kỳ loài cây
trồng).
Trong hợp đồng có ghi các nội dung về quyền lợi của hộ nhận khoán là: được chủ
động trồng rừng sản xuất; được hưởng toàn bộ sản phẩm thu hoạch sau khi hoàn thành
nghĩa vụ thuế và nghĩa vụ tài chính với Cty Lâm nghiệp; được trồng xen cây hàng năm
và hưởng 100% sản phẩm; được hoàn trả chi phí đầu tư ban đầu nếu có nguyện vọng
không tiếp tục sản xuất; được đền bù khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích phát triển KTXH.
Nghĩa vụ của hộ nhận khoán theo hợp đồng là: sử dụng đất đúng mục đích, đúng quy
hoạch và chịu sự kiểm tra giám sát của Cty Lâm nghiệp về kế hoạch sản xuất, quy
trình kỹ thuật, chất lượng sản phẩm. Hộ nhận khoán đất phải nộp thuế sử dụng đất
nông nghiệp cho nhà nước theo quy định; Hộ nhận khoán phải nộp 5% sản lượng khai
thác của mỗi chu kỳ trồng rừng cho Cty Lâm nghiệp (là chủ rừng); bán sản phẩm cho
Cty LN; Hộ không được giao khoán lại và chuyển nhượng đất. Đối với Cty LN: Cty
có trách nhiệm lập hồ sơ giao khoán đất cho các hộ; hướng dẫn các hộ trồng rừng theo
9 Quyết định số 3075/QĐ.UBT ngày 26/12/1996 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về điều chỉnh diện tích đất
đai của Lâm trường Xuyên Mộc
15
kế hoạch, kỹ thuật quy định, thực hiện các hoạt động dịch vụ cung cấp giống, vật tư
nông nghiệp, khuyến nông – lâm, tiêu thụ sản phẩm của hộ. Quản lý việc sử dụng đất
của hộ theo đúng quy hoạch, kế hoạch.
Tại huyện Xuyên Mộc, diện tích rừng trồng trên đất có “sổ đỏ’ phần lớn là diện tích
được thu hồi từ diện tích của Lâm trường Xuyên Mộc trước đây tại các xã Hòa Hiệp,
Hòa Hội, Bưng Riềng, Bông Trang và Bình Châu. Diện tích đất này trước đây thuộc
lâm phần Lâm trường Xuyên Mộc, nay đã giao về địa phương và cấp “sổ đỏ” cho hộ
dân. Trên diện tích này, các hộ dân tiếp tục trồng rừng (và nhiều loài cây trồng khác).
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không có tổ chức, hộ gia đình, cá nhân,
cộng đồng dân cư thôn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp vì
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không có chủ trương giao đất lâm nghiệp và rừng cho các đối
tượng này.
Đối tượng tham vấn tính hợp pháp của gỗ được lựa chọn là các hộ nhận khoán đất
trồng rừng trên diện tích đất quy hoạch rừng sản xuất của tỉnh và các hộ trồng rừng
trên đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các đối tượng này là những hộ dân có
quyền sử dụng đất hợp pháp để trồng rừng.
6. KẾT QUẢ THAM VẤN
6.1 Nhận thức và thực thi các quy định về khai thác gỗ hợp pháp
Khai thác gỗ từ các khu rừng trong nước được điều chỉnh bằng nhiều văn bản quy phạm pháp
luật (VBQPPL) đã ban hành ở các cấp độ rất khác nhau, trong những thời kỳ rất khác nhau:
Từ Luật bảo vệ và phát triển rừng (BV&PTR) ban hành năm 2004, Nghị định số 23/2006/NĐ-
CP ngày 16/1/2006 về thi hành Luật BV&PTR, Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày
14/8/2006 về ban hành Qui chế quản lý rừng…, đến các VBQPPL ban hành theo thẩm quyền
của UBND cấp tỉnh.
Tính hợp pháp về gỗ khai thác trên các khu rừng trong nước rất khác nhau, tuỳ theo:
(i) Quyền sử dụng của từng khu rừng;
(ii) Nguồn gốc của khu rừng;
(iii) Công dụng của từng khu rừng;
(iv) Mục đích khai thác rừng…
Nghiên cứu về tính hợp pháp của gỗ khai thác ở các khu rừng ở các VBQPPL hiện lưu hành
và thực thi ở các địa bàn tham vấn trên 6 tỉnh có thể thấy tình hình tổng quát về các VBQPPL
qui định tính hợp pháp của gỗ có những nhược điểm tổng quát là:
(i) Tính hệ thống và thống nhất của VBQPPL chưa rõ ràng;
(ii) Các qui định pháp lý chưa rõ ràng, chưa minh bạch;
(iii) Tính khả thi của một số qui định pháp lý hiện hành chưa cao.
Thực tế khảo sát nhận thức và thực thi của người dân trên địa bàn các thôn/bản, xã, huyện ở 6
tỉnh đã tham vấn cho thấy rõ:
(i) Người dân chưa hiểu rõ đầy đủ tính hợp pháp của gỗ;
16
(ii) Người dân chưa quan tâm lắm đến các qui định về gỗ hợp pháp, trừ khi có những
vấn đề đụng chạm trực tiếp đến nhu cầu và lợi ích của mình;
(iii) Đa số người dân làm rừng phải tốn nhiều công sức từ khi trồng rừng đến khi thu
hoạch rừng, nhưng lại rất ngại ngùng và rất lo lắng khi phải lập thủ tục khai thác,
phải xin phép khai thác theo đúng qui định pháp luật hiện hành, nên đã khoán
trắng các việc đó cho thương lái, dù phải chấp nhận hạ giá bán để thương lái tự
làm thủ tục hợp pháp hóa khai thác và vận chuyển gỗ theo đúng pháp luật.
6.1.1 Về thủ tục khai thác gỗ thương mại ở rừng tự nhiên theo hạn mức (quota) được nhà
nước qui định
Từ năm 2000 đến nay, ở Việt Nam đã thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng với mục tiêu
chung là “tăng cướng quản lý, bảo vệ rừng; kiên quyết bảo vệ rừng tự nhiên hiện còn; tích cực
đẩy mạnh trồng rừng hướng tới “đóng cửa rừng/ngừng khai thác gỗ từ rừng tự nhiên”. Thực
hiện định hướng và mục tiêu nói trên, các cơ quan Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản qui
phạm pháp luật qui định rõ:
(i) Hạn mức sản lượng gỗ tròn được khai thác hàng năm ở mỗi tỉnh;
(ii) Trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt hạn mức sản lượng gỗ tròn được khai
thác hàng năm ở các tỉnh;
(iii) Qui định thủ tục “mở cửa rừng” cho phép khai thác rừng hàng năm ở các tỉnh đã
được cấp “quota” khai thác tự nhiên;
(iv) Tăng cường kiểm soát việc khai thác gỗ tại rừng tự nhiên và tăng cường kiểm soát
việc vận chuyển gỗ có nguồn gốc từ rừng tự nhiên;
Theo kế hoạch, sản lượng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước ngày càng giảm dần. Đến
nay, hàng năm hạn mức gỗ khai thác từ rừng tự nhiên trong nước chỉ còn khoản 150.000m3 gỗ
tròn/ năm. Như vậy, về mặt lý thuyết, về mặt pháp lý gỗ tự nhiên có nguồn gốc từ rừng tự
nhiên phát sinh trên địa bàn các tỉnh không được cấp “quota” đều là gỗ bất hợp pháp. Tuy
vậy, trên thực tế vẫn tồn tại những “khoảng trống” về mặt pháp lý rất quan trọng để xác định
“tính chất hợp pháp” của các loại gỗ có nguồn gốc từ rừng tự nhiên đang lưu thông trên thị
trường trong nước, thậm chí là đang tham gia vào “chuỗi sản phẩm” của sản phẩm gỗ xuất
khẩu. Tình hình đó làm cho việc xác định tính hợp pháp của loại gỗ khai thác từ rừng tự nhiên
theo mục đích thương mại vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, khai thác gỗ thương mại
hiện nay thường do các Công ty lâm nghiệp đảm nhiệm. Trong quá trình tham vấn này, mục
tiêu chủ yếu của chúng tôi là tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ, nên không đi sâu
vào vấn đề này. Tuy vậy, trước khi trình bày kết quả tham vấn, chúng tôi thấy cần nêu lên
một vấn đề cần quan tâm trong quá trình qui định về gỗ hợp pháp hiện nay. Đó là: (i) Xác
định tính hợp pháp đối với các loại gỗ chỉ được khai thác ở rừng tự nhiên là một vấn đề chưa
rõ ràng và còn nhiều khó khăn; (ii) Nạn khai thác lậu/thác trái phép vẫn đang diễn ra, có lúc
rất trầm trọng; (iii) Kiểm soát tình trạng khai thác trái pháp luật ngay từ rừng, ngay từ gốc cây
chưa có hiệu lực và hiệu quả cao.
6.1.2 Về “khai thác gỗ làm nhà và gỗ gia dụng” của người dân sống gần rừng
Thủ tục khai thác gỗ gia dụng từ rừng tự nhiên
17
Nhìn chung, thủ tục phổ biến là:
Hàng năm, UBND tỉnh đã phê duyệt chỉ tiêu khai thác gỗ từ rừng tự nhiên cho các hộ
gia đình sử dụng tại chổ (gỗ gia dụng). Thông thường, nguồn gỗ này được khai thác
từ rừng sản xuất của Công ty Lâm nghiệp (CTLN) hoặc rừng phòng hộ của Ban quản
lý rừng phòng hộ (BQLRPH).
Hộ gia đình muốn khai thác gỗ làm nhà thì phải gửi đơn xin khai thác gỗ (có xác nhận
của Trưởng thôn) đến UBND xã.
Khi có giấy phép (do UBND xã đưa về cho hộ gia đình), họ tiến hành khai thác gỗ
theo sự chỉ dẫn của cán bộ lâm nghiệp xã và kiểm lâm địa bàn.
Sau khi khai thác, gỗ được tập hợp về một địa điểm để đo đếm khối lượng, lập bảng
kê lâm sản và đóng búa kiểm lâm.
Theo người dân/hộ gia đình quy trình như vậy là tuân thủ đúng quy định của pháp luật về khai
thác gỗ. Tuy nhiên, họ cho rằng thủ tục cấp giấy phép mất quá nhiều thời gian, có khi kéo dài
một năm mới xin được giấy phép. Vì thế, ở nhiều xã người dân không thực hiện theo quy
trình này, mà chỉ làm đơn xin thôn xác nhận, sau đó gửi lên xã xác nhận và tiến hành khai
thác (không cần có giấy phép khai thác). Trên thực tế, ngay cả cán bộ kiểm lâm cũng cho cách
làm như thế này là hợp lý đối với trường hợp khai thác gỗ gia dụng.
Tham vấn sâu tại huyện ĐạTẻh (tỉnh Lâm Đồng), hồ sơ và thủ tục của người dân xin khai thác
gỗ để làm nhà và làm đồ gia dụng, bao gồm 5 bước sau đây:
1. Xác định loài gỗ cần khai thác. Người dân vào rừng để xác định loài cây cần khai thác
và vị trí cần khai thác
2. Làm đơn xin gỗ làm nhà hoặc làm đồ gia dụng. Trong đơn có ghi rõ loài cây, vị trí và
khối lượng cần khai thác. Trong đơn phải có xác nhận của của trưởng thôn về nhu cầu
thực tiễn của gia đình.
3. Gởi đơn đến UBND xã để xác nhận nhu cầu và sau đó đơn được và gởi lên Huyện để
xin phép được khai thác.
4. Huyện chuyển qua hạt kiểm lâm và Cty Lâm nghiệp Đạ Tẻh để tham mưu xem nội
dung đơn có được phép khai thác hay không và gởi lại cho. Từ kết quả tham mưu của
hai đơn vị chuyên môn này, UBND huyện ra quyết định cho phép khai thác (phỏng
vấn cán bộ Chi Cục Lâm nghiệp tỉnh Lâm Đồng, cho thấy quyết định này phải do
UBND Tỉnh quyết và chỉ trên gỗ tận thu).
5. Người dân chỉ được phép khai thác khi có quyết định này. Gỗ được người dân khai
thác xong đem về nhà phải được sử dụng đúng mục đích. Khi gỗ đem về nhà thì được
kiểm lâm kiểm tra loại gỗ, khối lượng có đúng như trong giấy cho phép không, nếu
đúng thì gỗ làm nhà xem như là hợp pháp, nếu sai thì tịch thu bớt hoặc tịch thu hết tuỳ
theo sai phạm.
Thủ tục khai thác đối với rừng tự nhiên đã được giao khoán cho các hộ gia đình hoặc
thôn/cộng đồng bảo vệ.
18
Theo quy định của Bên giao khoán (Chủ rừng nhà nước) thì cộng đồng/hộ gia đình
(Bên nhận khoán) được phép khai thác gỗ với số lượng hạn chế để làm nhà và các đồ
gia dụng, nhưng phải tuân thủ các quy định của nhà nước về thủ tục xin giấy phép
khai thác. Nhưng trên thực tế, người dân không phải làm hồ sơ gì cả mà chỉ vào rừng
chọn cây cần khai thác, sau đó báo (“xin phép”) với kiểm lâm địa bàn và cán bộ phụ
trách tiểu khu của CTLN để khai thác gỗ về sử dụng cho những nhu cầu gỗ làm nhà
và gỗ gia dụng. Theo nhận thức của người dân, số gỗ này rất ít, không đáng kể, nếu so
với số lượng gỗ mà lâm tặc đã khai thác, nên không cần phải xin thủ tục. Vì vậy, cho
dù người dân đã được Bên giao khoán phổ biến quy trình và thủ tục để xin gỗ làm nhà
nhưng từ trước đến nay hầu hết các hộ gia đình không tuân thủ các quy định này mà
vẫn được kiểm lâm địa bàn hoặc cán bộ kiểm lâm bỏ qua.
Thủ tục khai thác đối với rừng tự nhiên giao cho cộng đồng dân cư thôn (cộng đồng là chủ
rừng) quản lý:
Khi người dân muốn tiến hành khai thác gỗ gia dụng, thì đương sự /người có nhu cầu
chỉ cần làm đơn xin phép gửi đến UBND xã. Khi UBND xã đã xét duyệt và cho phép
thì cộng đồng dân cư thôn sẽ căn cứ vào kế hoạch quản lý sử dụng rừng 5 năm (đã
được UBND huyện phê duyệt) để hướng dẫn và đương sự /người có nhu cầu tiến
hành khai thác gỗ theo đúng kế hoạch quản lý sử dụng rừng đã được phê duyệt.
Thực trạng trên cho thấy rằng: người dân nhận thức vẫn chưa đầy đủ về những quy
định của nhà nước về khai thác rừng hợp pháp. Theo quan điểm của người dân, khi họ
có nhu cầu khai thác gỗ để làm nhà hay sử dụng vào các mục đích gia dụng khác, họ
chỉ cần xin phép tại UBND xã là đủ, vì UBND xã là cấp có thẩm quyền cấp giấy phép
khai thác gỗ cho mục đích sử dụng tại chổ (gỗ gia dụng)
Với gỗ từ rừng tự nhiên do các CTLN hoặc BQLRPH khai thác và vận chuyển, người
dân hoàn toàn không hiểu biết gì về những thủ tục pháp lý liên quan việc này. Ngay cả
những cộng đồng được nhà nước giao rừng tự nhiên cũng rất mơ hồ về tính hợp pháp
của gỗ rừng tự nhiên.
Tại các địa bàn tham vấn đang thực hiện chính sách khoán đất trồng rừng (theo Nghị
định 135/2005/NĐ-CP) với “Bên nhận khoán” là hộ gia đình hoặc nhóm hộ gia đình
hoặc cộng đồng dân cư thôn. Khi khai thác rừng thì phần lớn do “Bên giao khoán”
(chủ rừng nhà nước) tiến hành các thủ tục pháp lý liên quan đến thiết kế khai thác và
tổ chức khai thác, sau đó phân chia sản phẩm (gỗ) cho hai bên (sau khi đã khấu trừ các
khoản chi phí, bao gồm cả thuế) theo tỷ lệ đã được thỏa thuận (ghi trong Hợp đồng
khoán). Với cách làm này thì “Bên nhận khoán” rất khó có thể tính toán được khối
lượng gỗ khai thác được là bao nhiêu, vì không được tham gia khai thác hay tham gia
giám sát khai thác gỗ ở những diện tích rừng nhận khoán.
Trên thực tế, việc khai thác rừng tự nhiên đã gây ra những tác động xấu đối với môi
trường và gây ra những thiệt hại không nhỏ đối với người dân sống gần khu vực rừng
khai thác, đặc biệt là làm cạn kiệt nguồn nước và gây nên lũ quét.
Về vấn đề quyền sử đất hợp pháp là rất đa dạng. Ngay cả “Chủ rừng” thì vẫn có
trường hợp chưa được cấp “Sổ đỏ”, nhưng họ lại có Quyết định giao đất của UBND
huyện và đã sử dụng đất đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra vẫn có nhiều hộ gia
đình vẫn trồng rừng trên đất mà họ đã khai hoang hoặc được thừa kế từ bố mẹ nhưng
vẫn chưa được hợp pháp hóa mà vẫn không có sự tranh chấp đất đai. Trên thực tế gỗ
19
được khai thác từ rừng của cả hai trường hợp trên đều được thừa nhận là gỗ hợp pháp
với điều kiện có đầy đủ hồ sơ lâm sản hợp pháp.
Thủ tục khai thác gỗ từ rừng trồng
Người dân/cộng đồng rất ít quan tâm các thủ tục pháp lý liên quan đến khai thác gỗ
rừng trồng, thậm chí ngay cả những người nắm rất rõ về các thủ tục này nhưng họ vẫn
không thực hiện vì hầu hết các hộ gia đình đều bán rừng theo phương thức “bán cây
đứng”. Các hộ trồng rừng cho rằng do diện tích rừng của hộ không đủ lớn, nếu làm
các thủ tục xin phép khai thác thì mất thời gian và chi phí cao (do diện tích rừng nhỏ).
Ngoài ra, các hộ cũng không thể bán gỗ trực tiếp cho các nhà máy chế biến gỗ khi
khối lượng gỗ nhỏ, đôi khi không đủ cho một chuyến xe chuyên chở, đồng thời người
bán rừng cũng không có đủ năng lực tài chính để thuê nhiều xe vận chuyển gỗ đến nhà
máy cùng một lúc, dẫn đến chi phí tăng cao do thời gian vận chuyển kéo dài. Vì vậy
người dân thường chọn hình thức bán cây đứng tại rừng và toàn bộ thủ tục xin giấy
phép khai thác đều do những người thu mua trung gian chịu trách nhiệm.
Thủ tục khai thác gỗ từ rừng trồng trên đất lâm nghiệp đã được nhận khoán theo hợp
đồng
Đối với những diện tích đất trồng rừng nhận khoán, nếu Bên nhận khoán muốn tự khai
thác gỗ thì phải tiến hành các thủ tục sau:
Làm đơn gửi Bên giao khoán (CTLN hoặc BQLRPH) xin phép khai thác rừng, trong
đơn ghi rõ: căn cứ vào “Hợp đồng giao khoán sử dụng đất vào mục đích sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, mặt nước nuôi trồng thủy sản”; địa danh (lô, khoảnh) và diện tích
xin khai thác; loài cây trồng; thời gian khai thác.
Bên giao khoán tiến hành xác minh rừng (hồ sơ và hiện trường), trong trường hợp lô
rừng hộ xin khai thác đã đạt tuổi khai thác theo quy định của Bên giao khoán (theo
phương án sản xuất đã được UBND tỉnh phê duyệt) thì Bên giao khoán sẽ tiến hành
thiết kế khai thác tại các lô rừng mà hộ xin khai thác.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tiến hành kiểm tra, thẩm định và phê duyệt
thiết kế khai thác do Bên giao khoán lập bằng quyết định phê duyệt hồ sơ, cấp phép
khai thác rừng trồng sản xuất hàng năm của Bên giao khoán. Theo cách làm này thì
ngay trên diện tích rừng được nhận khoán, “Bên nhận khoán” cũng không được mời
tham gia vào quá trình thiết kế khai thác.
6.2 Nhận thức và thực thi các quy định về vận chuyển gỗ hợp pháp trong nước
6.2.1 Vận chuyển gỗ khai thác từ rừng tự nhiên
Hầu hết các cộng đồng được tham vấn cho rằng, gỗ rừng tự nhiên được người dân khai thác
thường được tiêu thụ theo 2 nguồn:
Bán trực tiếp cho các xưởng cưa ở thôn hoặc thôn lân cận (nếu có), và
Bán cho những người thu mua trung gian. Tất cả các loại giấy tờ liên quan đến việc
vận chuyển gỗ hợp pháp đều do người thu mua tự lo liệu.
Người dân cho rằng đối với các hộ gia đình được khai thác gỗ từ rừng cộng đồng sử dụng vào
mục đích gia dụng, ngoài những loại giấy tờ liên quan đến tính hợp pháp của gỗ do nhà nước
20
quy định, cần phải có thêm biên lai thu lệ phí của thôn (vì theo quy ước quản lý và bảo vệ
rừng của thôn/cộng đồng, thì hộ gia đình nào được khai thác gỗ cho mục đích gia dụng đều
phải đóng lệ phí cho thôn). Tất cả các lô gỗ nói trên chỉ được phép làm nhà, không được bán
(cho dù có đầy đủ các loại giấy tờ nêu trên).
6.2.2 Vận chuyển gỗ khai thác từ rừng trồng
Các thủ tục trong quá trình mua bán và vận chuyển gỗ rừng trồng chủ yếu do bên thu
mua chịu hoàn toàn trách nhiệm. Trước tiên, chủ thu mua tiến hành thương thảo với
các hộ gia đình về giá cả. Nếu hai bên đồng ý sẽ tiến hành bản thỏa thuận mua bán
bằng giấy viết tay. Nội dung của bảng thỏa thuận ghi rõ: vị trí và diện tích rừng trồng,
số lượng tiền (tổng số tiền mua, số tiền đặc cọc trước) và thời gian khai thác xong
rừng và bàn giao mặt bằng cho hộ, hai bên ký tên vào bảng thỏa thuận. Sau đó, chủ
thu mua tiến hành khai thác và vận chuyển gỗ ra khỏi địa bàn và chịu hoàn toàn trách
nhiệm về tính hợp pháp của lô gỗ này. Như vậy, ngoài thủ tục duy nhất là trao đổi giá
bán và bảng thỏa thuận mua bán với người mua, hộ gia đình không cần làm bất cứ các
thủ tục nào khác liên quan đến vận chuyển gỗ.
Tuy nhiên vẫn có những trường hợp gỗ hợp pháp đan xen với gỗ bất hợp pháp, bởi vì
ngại làm thủ tục, nên một số hộ gia đình khai thác rừng của mình và bán gỗ cùng với
các hộ bán cây đứng cho người thu mua, tất nhiên trong trường hợp này người thu
mua không làm thủ tục cho lô gỗ mua của hộ gia đình này mà vận chuyển chung với
những lô gỗ mua từ rừng đã được làm các thủ tục pháp lý.
Tóm lại: các thủ tục liên quan đến tính hợp pháp của gỗ rừng trồng trong quá trình khai
thác và vận chuyển đều do những người thu mua trung gian đảm nhận. Theo nhận thức
của người dân thì những người thu mua trung gian có vốn, hiểu rõ các thủ tục pháp lý liên
quan đến khai thác và vận chuyển gô, có mối quan hệ tốt với chính quyền địa phương và
kiểm lâm nên việc làm các thủ tục pháp lý nhanh chóng và dễ dàng hơn, chi phí cũng thấp
hơn. Từ đó có thể nói rằng: các hộ gia đình chưa sẵn sàng chịu trách nhiệm trong việc
đảm bảo tính hợp pháp của gỗ trong khai thác và vận chuyển.
6.3 Nhận thức và thực thi các qui định về đảm bảo an toàn môi trường;
6.3.1 An toàn môi trường trong khai thác gỗ
Đối với việc khai thác gỗ rừng tự nhiên thì người dân ít quan tâm đến trình tự, thủ tục
xin cấp giấy phép mà họ quan tâm nhiều đến vấn đề suy thoái môi trường do khai thác
rừng. Người dân/cộng đồng hầu như không hề hay biết gì về việc các CTLN hoặc
BQLRPH khai thác hợp pháp hay không hợp pháp. Họ cho rằng chỉ có cán bộ xã,
huyện mới biết được thủ tục xin cấp giấy phép khai thác của các đơn vị này.
Các cộng đồng sống gần rừng tự nhiên khi được tham vấn đều cho rằng: khai thác
rừng đã làm cho nguồn nước khe suối bị nhiễm bẫn, lượng nước trong các khe suối bị
giảm mạnh vào mùa khô, và vào mùa mưa thì gây ra sạt lỡ đất; đường sá bị hư hỏng
và thậm chí một số nơi còn ảnh hưởng đến đất sản xuất do quá trình vận chuyển gỗ
khai thác từ rừng về nơi tiêu thụ.
21
Vấn đề an toàn về môi trường quan trọng nhất cần đánh giá ở các khu vực có rừng
trồng là công tác phòng chống cháy rừng. Việc thực hiện các quy định về phòng cháy
và chữa cháy rừng theo Nghị định số 09/2006/NĐ-CP, ngày 16/1/2006 của Chính phủ
Quy định về phòng cháy và chữa cháy rừng đã được CTLN quán triệt đến từng hộ
nhận khoán đất trồng rừng. Hệ thống bảng cảnh báo cháy rừng, chòi canh lửa, bảng
cấm lửa đã được CTLN đầu tư xây dựng trên hầu hết các vùng trọng điểm cháy, vùng
có nguy cơ cháy cao trong lâm phận của công ty. Hàng năm, Chi cục Kiểm lâm, Hạt
Kiểm lâm Xuyên Mộc đều tiến hành kiểm tra phương án, phương tiện phòng cháy
chữa cháy (PCCC) rừng của CTLN.
Các hộ trồng rừng (hộ nhận khoán đất và hộ trồng rừng trên đất có “sổ đỏ”) đều có
nhận thức cao trong PCCC rừng vì rừng là tài sản của hộ, người dân gắn bó đời sống
với rừng. Kết quả tham vấn cho thấy: Có nhiều hộ trồng rừng đã sử dụng biện pháp
quét lá cây và gom đốt trước, việc chăm sóc rừng trồng (làm cỏ, cày xới đất, tỉa
cành…) được thực hiện rất tốt.
Vệ sinh rừng sau khai thác gỗ của các nhóm hộ tham vấn đều được thực hiện. Những
người mua rừng đã tận dụng tối đa sản phẩm khai thác được nhằm tăng tỷ lệ lợi dụng
gỗ, tăng lợi nhuận đã gián tiếp góp phần cho khâu vệ sinh rừng sau khai thác được
thực hiện tốt.
Về khâu vận chuyển gỗ: Theo quy định của Cty Lâm nghiệp, các xe vận chuyển gỗ
quá tải trọng không được đi qua hệ thống đường vận xuất, vận chuyển trong các khu
rừng, quy định này đã hạn chế mức độ hư hại đường trong khu vực.
6.3.2 Ý kiến của người dân trong quá trình tham vấn
Người dân cho rằng việc khai thác rừng ở các CTLN/BQLRPH thường có ảnh hưởng lớn đến
vấn đề môi trường, vì khối lượng gỗ khai thác ở các CTLN/BQLRPH thường có quy mô lớn,
nhất là khi khai thác gỗ ở những khu rừng nằm gần khu dân cư thì việc khai thác gỗ thường
có tác động xấu đến môi trường ở các khu dân cư đang sinh sống. Khi khai thác rừng, các
CTLN/BQLRPH thường phải làm đường vào khu khai thác, sẽ có ảnh hưởng nhiều đến môi
trường như khe suối bị lấp, gây ô nhiễm, làm đục nước vào mùa nắng và cả mùa mưa. Có nơi,
nước suối bị chuyển từ màu xanh sang màu đỏ của đất rừng, hoặc trước đây, trong mùa khô
thì các dòng suối này vẫn là nơi cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho người dân, nhưng
sau khi khai thác rừng thì nước ở các dòng suối đã bị cạn kiệt nghiêm trọng, người dân không
có đủ nước để sản xuất và sinh hoạt. Bên cạnh vấn đề ô nhiễm nguồn nước, việc vận chuyển
gỗ từ rừng về nơi tiêu thụ cũng làm mất một phần đất sản xuất và hư hỏng các tuyến đường
trong thôn. Bên cạnh đó, người dân/cộng đồng cho rằng khai thác gỗ cho mục đích gia dụng
của các hộ gia đình (khai thác ở quy mô nhỏ) thì ảnh hưởng không lớn đến môi trường. Người
dân vận chuyển gỗ chỉ bằng các phương tiện thô sơ, đi bộ, dùng xà gạc, trâu kéo, hoặc thả gỗ
dọc sông suối mà không làm đường sá, đào xới đất, nên ít ảnh hưởng đến môi trường.
Liên quan đến việc an toàn môi trường trong khai thác gỗ ở rừng tự nhiên, người dân/cộng
đồng đề nghị khi khai thác những lô rừng gần khu dân cư thì:
Các tổ chức khai thác cần phải thông qua thôn/Ban quản lý thôn về các hồ sơ khai thác
rừng và Ban quản lý thôn sẽ xác nhận vào các hồ sơ này. Thông qua đó, người dân có
thể tham gia ý kiến điều chỉnh phương án khai thác để đảm bảo sử dụng rừng bền
22
vững và hạn chế những tác động xấu đến môi trường, đồng thời người dân có thể giám
sát được hoạt động khai thác gỗ trên các khu rừng này. Điều này sẽ đảm bảo được
nguyên tắc tôn trọng quyền của người dân bản địa trong quản lý rừng bền vững.
Mặc dù các đơn vị khai thác gỗ đều đóng thuế tài nguyên, tuy nhiên trên thực tế người
dân chưa nhận được một khoản tiền nào được trích từ thuế tài nguyên để khắc phục
những hậu quả do khai thác gỗ gây ra như như sạt lở đất, mất đất do mở đường khai
thác và vận chuyển gỗ. Vì vậy nhà nước cần phải quy định rõ tỷ lệ trích từ nguồn thuế
tài nguyên để hỗ trợ cho cộng đồng khắc phục các hậu quả do khai thác gỗ gây ra
nhằm đảm bảo tính công bằng trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên rừng.
Như vậy, theo nhận thức của cộng đồng thì gỗ khai thác được xem là hợp pháp chỉ khi có
đầy đủ các hồ sơ theo qui định của pháp luật, đồng thời có xác nhận của Ban quản lý thôn
về những vấn đề nêu ở trên. Với cách làm này thì đơn vị khai thác vừa tuân thủ các quy
định của pháp luật vừa có trách nhiệm với cộng đồng/người dân sinh sống gần khu vực
rừng được khai thác.
6.4 Nhận thức và thực thi các qui định về đảm bảo an toàn xã hội
An toàn về xã hội trong kinh doanh lâm nghiệp trước hết là đảm bảo sự tham gia đầy đủ và
có hiệu quả của cộng đồng trong quá trình lập kế hoạch khai thác, thiết kế khai thác và khai
thác gỗ, cụ thể là:
Kế hoạch khai thác gỗ đạt được sự đồng thuận của cộng đồng sống ven khu rừng được
phép khai thác,
Người dân/Cộng đồng sống ven rừng tham gia thiết kế và giám sát quá trình khai thác
ở những khu khu rừng rừng đó,
Có cơ chế chia sẻ lợi ích công bằng giữa các bên liên quan. Sự hưởng lợi của người
dân/cộng đồng sống ven khu rừng được khai thác gỗ được công bằng,
Tính minh bạch trong việc hưởng lợi từ khai thác và vận chuyển gỗ được rõ ràng.
Trên thực tế, việc bán rừng theo phương thức “bán cây đứng” đã ảnh hưởng rất lớn đến thu
nhập của các hộ trồng rừng (những người trực tiếp sản xuất), trong khi đó thương lái (những
người thu mua trung gian) lợi dụng vấn đề này để ép giá hoặc “thông thầu (thông đồng)” để
mua rừng (mua cây đứng) với giá rất thấp. Hậu quả của việc này là chưa cải thiện được thu
nhập và đời sống của người trồng rừng tuy rằng họ đã có đất rừng.
Một vấn đề rất được người dân quan tâm đó là quyền sử dụng đất (đất trồng rừng) hợp pháp.
Kết quả tham vấn cộng đồng cho thấy, hiện nay vẫn còn một diện tích rất lớn đất trồng rừng
của người dân chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ), mặc dù diện tích
đất này do người dân khai hoang, sử dụng từ lâu (vài ba chu kỳ) và không có tranh chấp.
Người dân cho rằng nếu quy định chỉ có gỗ khai thác từ những khu rừng đã được cấp Sổ đỏ
mới là hợp pháp (nếu có đầy đủ hồ sơ hợp pháp) thì chưa thật sự phù hợp với bối cảnh hiện
nay. Họ đề xuất gỗ khai thác từ rừng trồng trên đất do người dân tự khai hoang, sử dụng qua
nhiều năm và không có tranh chấp và có đầy đủ hồ sơ lâm sản hợp lệ thì cũng nên được xem
là gỗ hợp pháp
23
An toàn xã hội trong các hoạt động của nghề rừng là việc tạo ra công ăn, việc làm cho người
dân, tạo thu nhập, tạo sinh kế bền vững cho các hộ gia đình. Tại huyện Xuyên Mộc các hộ dân
nhận khoán đất trồng rừng trên lâm phận của Cty Lâm nghiệp đã có việc làm ổn định trong
nhiều năm (tính theo chu kỳ kinh doanh cây nguyên liệu gỗ giấy là 5 năm, theo phương án sản
xuất được tỉnh phê duyệt), khi kết thúc chu kỳ kinh doanh, người dân khai thác rừng và được
ký lại hợp đồng ở chu kỳ tiếp theo.
Thu nhập từ việc bán rừng khá cao đã khuyến khích các hộ áp dụng các biện pháp kỹ thuật
tiến tiến để trồng rừng như: trồng rừng bằng cây giống hom, mô; bón phân cho rừng; chăm
sóc đúng kỹ thuật, tỉa cành, PCCC rừng bằng phương tiện tự trang bị… nhằm tăng sản lượng
và chất lượng gỗ, thu nhập ngày càng tăng cao.
Bằng hợp đồng giao khoán đất trồng rừng, với các điều khoản đảm bảo lợi ích từ hai phía (hộ
và Cty Lâm nghiệp) tính bền vững và an toàn về mặt xã hội đã được thể hiện rõ ràng trong
việc tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương.
Đối với các hộ dân trồng rừng trên đất có GCNQSDĐ, việc tận dụng diện tích đất có lập địa
“xấu” để trồng rừng là giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Các hộ trồng
rừng đều thoát nghèo và có hộ trở nên giầu nhờ bán gỗ rừng trồng.
Bà Nguyễn Thị Hoa, 45 tuổi, ngụ tại ấp 5, xã Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu. Bà Hoa đi họp tham vấn theo giấy mời của ForWet (có xác nhận của ông Chủ
tịch BCH Hội Nông dân xã). Bà rất bận vì có khoảng 6,5 ha đất (có “sổ đỏ”) trồng rừng cây
keo lai. Rừng của bà có một nửa diện tích mới trồng lại năm 2011, hiện còn diện tích trồng
năm 2009 thì sẽ bán vào năm 2013 (nếu được giá) hoặc để dành đến năm 2014. Số tiền đầu
tư để trồng rừng gồm: cầy đất, mua giống, phân bón, chăm sóc, chống cháy.. cho đến khi
khai thác khoảng 10 – 15 triệu đồng/ha. Rừng 5 tuổi sẽ bán được khoảng 80 triệu đồng/ha.
Hiện nay người dân có xu hướng bán rừng khi đạt 4 tuổi vì như vậy vòng quay đồng vốn
nhanh hơn, sau 4 chu kỳ đất sẽ được trồng rừng thêm 1 chu kỳ nữa. Theo bà Hoa, thu nhập
từ trồng rừng chưa cao nhưng là nguồn tiền quan trọng khi hộ gia đình cần chi tiêu khi có
việc quan trọng. Ngoài ra, 2 năm đầu có thể tận dụng đất trồng xen cây hàng năm (đậu,
bắp..) giúp tăng thu nhập.
7. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ ĐỀ XUẤT CỦA CỘNG ĐỒNG
Hiện nay, rừng tự nhiên phòng hộ đã được giao cho các nhóm cộng đồng quản lý thông qua
hợp đồng, phần lợi ích thu được từ quản lý, bảo vệ rừng rất ít. Có 1 số ý kiến đề nghị Chính
phủ xem xét cho thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng vì đây là khu vực đầu
nguồn có như vậy mới đảm bảo lợi ích và trách nhiệm của người giữ rừng.
Theo quy định, các sản phẩm lâm sản trong rừng tự nhiên phòng hộ các chủ rừng không được
phép khai thác, chỉ được phép khai thác tận thu cây chế đứng nhưng thực ra chưa có việc khai
thác này, chỉ được hưởng tiền thù lao quản lý bảo vệ với số lượng ít (90 000 đ/ha/năm).
Khi nói về các loại lâm sản kể cả ngoài gỗ ở trên rừng phòng hộ khai thác như thế nào, ai cho
phép… Các ý kiến cho biết: Trên rừng đó ngoài gỗ ra thì không lấy được thứ gì vì trèo lên
đến nơi rất xa, hơn nữa các loại khác như củi, lá dong, măng…thì ở rừng tự nhiên sản xuất đã
có, đi lấy gần hơn.
24
Đối với rừng tự nhiên sản xuất: Địa phương chuẩn bị cấp sổ đỏ cho các nhóm cộng đồng,
nhưng qua 1 năm thực hiện thấy rằng việc giao cho nhóm quản lý không đạt hiệu quả do trách
nhiệm không cao, muốn trồng bổ sung loại cây gì trên đất có khả năng thì các hộ trong nhóm
khó thống nhất, cứ để rừng như hiện nay thì không có gì đáng kể để hưởng lợi từ rừng trong
khi loại hình rừng này Nhà nước đã cắt tiền chi cho bảo vệ rừng chuyển sang quy định chủ
nhóm hộ được hưởng lợi từ rừng như khai thác gỗ và lâm sản tận thu, nhưng trên thực tế năm
2012 vừa qua các nhóm hộ chỉ có lấy măng nứa, 1 số có măng Bát độ (vì trước đây có 1 dự án
trồng măng Bát độ xen vào diện tích rừng tự nhiên sản xuất) và lấy củi. Còn việc khai thác sử
dụng gỗ chưa thực hiện vì mới giao sổ đỏ được hơn1 năm nên chưa thể tiến hành và hơn nữa
rừng qua nhiều năm bị khai thác cạn kiệt chưa phục hồi được. Các ý kiến đều thống nhất đề
nghị Nhà nước các cấp nghiên cứu chính sách giao đất này cho các hộ gia đình để đảm bảo
cho rừng được làm giàu và người giữ rừng có lợi ích thực sự (trường hợp của tỉnh Yên Bái).
8. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
8.1. Kết luận
Các nội dung định nghĩa gỗ hợp pháp (Dự thảo 5) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn là đầy đủ và phù hợp với các điều kiện pháp lý và thực tiễn của Việt Nam. Tuy nhiên
việc thực thi pháp luật lâm nghiệp ở các địa phương vẫn còn một số bất cập. Dưới đây là
những nhận định ban đầu từ kết quả tham vấn cộng đồng liên quan đến tính hợp pháp của gỗ
trên địa bàn của 6 tỉnh ở ba miền Bắc,Trung, Nam:
Nhận thức của người dân về tính hợp pháp của gỗ rất hạn chế. Người dân hầu như
không quan tâm đến tính hợp pháp của gỗ từ rừng trồng, do bán cây đứng tại rừng
theo hình thức khoán gọn và người mua làm tất cả các thủ tục pháp lý từ khâu khai
thác đến vận chuyển. Còn đối với gỗ từ rừng tự nhiên, thì hầu hết do các CTLN hoặc
BQLRPH khai thác, nên người dân hoàn toàn không hiểu biết gì về những thủ tục
pháp lý liên quan đến khai thác, vận chuyển và mua bán gỗ từ rừng tự nhiên. Ngay cả
những cộng đồng được nhà nước giao rừng tự nhiên cũng rất mơ hồ về tính hợp pháp
của gỗ rừng tự nhiên.
Ở nhiều địa phương trong cả nước đang thực hiện chính sách khoán đất trồng rừng
(theo Nghị định 135/2005/NĐ-CP) với “Bên nhận khoán” là hộ gia đình hoặc nhóm
hộ gia đình hoặc cộng đồng dân cư thôn. Khi khai thác rừng thì phần lớn do “Bên giao
khoán” (chủ rừng nhà nước) tiến hành các thủ tục pháp lý liên quan đến thiết kế khai
thác và tổ chức khai thác, sau đó phân chia sản phẩm (gỗ) cho hai bên (sau khi đã
khấu trừ các khoản chi phí, bao gồm cả thuế) theo tỷ lệ đã được thỏa thuận (ghi trong
Hợp đồng khoán). Với cách làm này thì “Bên nhận khoán” rất khó có thể tính toán
được khối lượng gỗ khai thác được là bao nhiêu, vì không được tham gia khai thác hay
tham gia giám sát khai thác gỗ ở những diện tích rừng nhận khoán.
Trên thực tế, việc khai thác rừng tự nhiên đã gây ra những tác động xấu đối với môi
trường và gây ra những thiệt hại không nhỏ đối với người dân sống gần khu vực rừng
khai thác, đặc biệt là làm cạn kiệt nguồn nước và gây nên lũ quét.
Về vấn đề quyền sử dụng đất hợp pháp là rất đa dạng. Ngay cả “Chủ rừng” thì vẫn có
trường hợp chưa được cấp “Sổ đỏ”, nhưng họ lại có Quyết định giao đất của UBND
huyện và đã sử dụng đất đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra vẫn có nhiều hộ gia
25
đình vẫn trồng rừng trên đất mà họ đã khai hoang hoặc được thừa kế từ bố mẹ nhưng
vẫn chưa được hợp pháp hóa mà vẫn không có sự tranh chấp đất đai. Trên thực tế gỗ
được khai thác từ rừng của cả hai trường hợp trên đều được thừa nhận là gỗ hợp pháp
với điều kiện có đầy đủ hồ sơ lâm sản hợp pháp.
8.2. Một số đề xuất
Từ kết quả tham vấn cho thấy rằng cộng đồng/người dân rất ít hiểu biết, thậm chí còn
không quan tâm đến tính hợp pháp của gỗ, như vậy họ sẽ rất dễ gặp các rủi ro trong
việc hưởng lợi từ cây gỗ khi Việt Nam chính thức tham gia VPA/FLEGT. Vì vậy cần
phải tiến hành phân tích rủi ro để từ đó đề xuất các giải pháp quản lý rủi ro trong quá
trình thực hiện VPA/FLEGT.
Đối với những trường hợp khoán quản lý bảo vệ rừng tự nhiên (nếu có khai thác) hoặc
giao khoán đất trồng rừng (theo Nghị định 135/2005/NĐ-CP), thì trong quá trình khai
thác ở những diện tích rừng đã giao khoán, cần có sự tham gia giám sát khai thác của
“Bên nhận khoán” (cùng với cơ quan kiểm lâm) để đảm bảo được tính minh bạch và
công bằng trong việc phân chia lợi ích từ khai thác gỗ. Yêu cầu này đảm bảo được sự
tham gia đầy đủ và có hiệu quả của các bên liên quan (“Bên giao khoán” và “Bên nhận
khoán”).
Đối với các cộng đồng dân cư sinh sống gần/ven rừng tự nhiên thì rừng đóng một vai
trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, đặc biệt là điều hòa nguồn nước,
vì vậy chỉ nên áp dụng phương thức “khai thác hạn chế” ở những diện tích rừng này.
Trong quá trình thiết kế và thực hiện khai thác gỗ ở những khu vực rừng này thì nên
thông báo/tham vấn và đạt được sự đồng thuận của cộng đồng, đặc biệt là cần có sự
tham gia của cộng đồng dân cư trong quá trình giám sát khai thác (cùng với cơ quan
kiểm lâm).
Nhà nước cần nhanh chóng cấp “Sổ đỏ” cho các “Chủ rừng” đã có Quyết định giao đất
và các hộ gia đình chưa có “Sổ đỏ” nhưng sử dụng đất lâm nghiệp ổn định, lâu dài và
không có tranh chấp. Bằng cách này sẽ giúp cho họ có đủ tư cách pháp lý khi tham gia
vào VPA/FLEGT.
8.3. Những góp ý cụ thể đối với Dự thảo 5 về định nghĩa gỗ hợp pháp
Từ kết quả tham vấn cộng đồng nói trên, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến để đóng góp vào
quá trình xây dựng các dự thảo tiếp theo về định nghĩa gỗ hợp pháp như sau:
Phần I: Giải thích từ ngữ
Phần này chúng tôi đề xuất bổ sung thêm:
Gỗ rừng trồng được khai thác trên những khu rừng có quyền sử dụng đất hợp pháp bao gồm:
Gỗ được khai thác từ rừng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ),
Gỗ được khai thác từ rừng đã có Quyết định giao đất,
Gỗ được khai thác từ rừng được trồng trên đất chưa được cấp Sổ đỏ hoặc chưa có
Quyết định giao đất, nhưng sử dụng đất ổn định, lâu dài và không có tranh chấp.
26
Phần II: Bảng mô tả nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ xác minh và văn bản tham chiếu gỗ và
sản phẩm gỗ hợp pháp
Chúng tôi đề xuất bổ sung một nội dung liên quan đến việc khai thác gỗ như sau:
Ở mục “1.1. Hồ sơ khai thác gỗ được phê duyệt hoặc Bảng dự kiến sản phẩm khai thác”
Bổ sung thêm điểm e như sau: “Đối với các chủ rừng nhà nước thực hiện khoán
quản lý bảo vệ rừng tự nhiên (nếu có khai thác) hoặc giao khoán đất trồng rừng
(theo Nghị định 135/2005/NĐ-CP) trong hồ sơ khai thác cần có thêm Biên bản xác
nhận sự tham gia của Bên nhận khoán trong quá trình thiết kế khai thác gỗ ở
những diện tích giao khoán”.
Bổ sung thêm điểm f như sau: “Đối với các chủ rừng khi khai thác gỗ ở những khu
rừng tự nhiên gần khu dân cư sinh sống thì trong hồ sơ khai thác cần có thêm Biên
bản xác nhận của cộng đồng dân cư thôn, trong đó nêu rõ tác động tích cực (tốt)
hoặc chưa tích cực (xấu) của quá trình khai thác gỗ đã thực hiện đối với môi
trường sống và việc làm của cộng đồng dân cư thôn”.
Ở mục “1.3. Khai thác đúng phạm vi ranh giới, diện tích, chủng loại không vượt khối lượng
theo giấy phép được cấp hoặc bản đăng ký khai thác”
Bổ sung thêm điểm d như sau: “Đối với các chủ rừng nhà nước thực hiện khoán
quản lý bảo vệ rừng tự nhiên (nếu có khai thác) hoặc giao khoán đất trồng rừng
(theo Nghị định 135/2005/NĐ-CP) trong hồ sơ khai thác cần có thêm Biên bản xác
nhận sự giám sát của Bên nhận khoán trong quá trình khai thác gỗ ở những diện
tích giao khoán”.
Bổ sung thêm điểm e như sau: “Đối với các chủ rừng khi khai thác gỗ ở những khu
rừng tự nhiên gần khu dân cư sinh sống thì trong hồ sơ khai thác cần có thêm Biên
bản xác nhận sự giám sát của cộng đồng trong quá trình khai thác gỗ”.
27
PHỤ LỤC I
Các thông tin về “Mạng lưới các tổ chức phi chính phủ Việt Nam về thực thi lâm luật,
quản trị rừng và thương mại lâm sản (VNGO-FLEGT)”
Mạng lưới VNGO-FLEGT đã được khởi xướng thành lập bởi một số tổ chức phi chính phủ
của Việt Nam vào tháng 1 năm 2012 với mong muốn các tổ chức phi chính phủ Việt Nam
thông qua vai trò và tiếng nói của mình đóng góp vào quá trình đàm phán và thực thi
VPA/FLEGT tại Việt Nam, từ đó góp phần thực hiện Kế hoạch quản lý, bảo vệ và phát triển
rừng giai đoạn 2011-2020 của nước ta và thúc đẩy việc hình thành các cơ chế, chính sách tạo
điều kiện cho cộng đồng địa phương sống trong rừng và dựa vào rừng được tiếp cận, sử dụng,
quản lý, bảo vệ và phát triển rừng một cách công bằng và bền vững.
Mạng lưới VNGO-FLEGT hiện có 27 tổ chức thành viên phân bố trên cả 3 miền Bắc – Trung
– Nam (chi tiết tại danh sách đính kèm), đây là các tổ chức hợp pháp, do cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước thành lập, đã hoạt động nhiều năm, có nhiều kinh nghiệm về các lĩnh
vực lâm nghiệp, nông thôn, miền núi, phát triển cộng đồng, môi trường và quản lý tài nguyên
thiên nhiên. Ban điều hành Mạng lưới gồm có 4 tổ chức: Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền
vững (SRD), Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Trung tâm Nghiên cứu Rừng
và Đất ngập nước (ForWet) và Trung tâm Phát triển Nông thôn Miền Trung (CRD).
Ngay sau khi thành lập, Mạng lưới đã xây dựng và triển khai nhiều hoạt động liên quan, trong
đó có dự án “Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng và các tổ chức dân sự tham gia vào tiến
trình đàm phán và triển khai VPA/FLEGT” do Bộ Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh
(DFID) tài trợ thông qua FERN - một NGO quốc tế có văn phòng tại Anh và Bỉ. Các hoạt
động chính mà Mạng lưới đã thực hiện trong năm 2012 gồm có:
Góp ý bằng văn bản cho Dự thảo số 5 về Định nghĩa gỗ và sản phẩm gỗ hợp pháp của
Việt Nam. Văn bản này đã được gửi cho Văn phòng thường trực FLEGT và Lacey
trực thuộc Tổng cục Lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và các
bên liên quan;
Tham gia các cuộc họp do Tổng cục Lâm nghiệp và các bên liên quan tổ chức để tiếp
thu và góp ý kiến về VPA/FLEGT;
Cử đại diện Mạng lưới tham gia Tuần lễ FLEGT lần thứ 7 tại Brussels (Bỉ) do EU tổ
chức; tham gia chia sẻ kinh nghiệm giữa các CSOs/NGOs ở các nước đã và đang đàm
phán VPA với EU, tham gia đối thoại với Nghị viện châu Âu và Ủy ban châu Âu về
FLEGT;
Cập nhật và chia sẻ thường xuyên cho các thành viên mạng lưới các thông tin liên
quan đến FLEGT và hoạt động của mạng lưới, thông qua email và trên các websites
như: www.logging-off.info; www.vngo-cc.vn; www.srd.org.vn; www.nature.org.vn;
www.thiennhien.net;
Tổ chức các hội thảo-tập huấn để tăng cường năng lực cho các tổ chức xã hội dân sự
về lộ trình VPA/FLEGT, về REDD và quản trị rừng nói chung…;
Tổ chức hoạt động tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ tại 35 thôn thuộc 14
xã trên địa bàn 06 huyện của 06 tỉnh Yên Bái, Bắc Kạn, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế,
Lâm Đồng và Bà Rịa-Vũng Tàu.
28
Trong thời gian tới, Mạng lưới dự kiến triển khai một số hoạt động sau:
Tiếp tục góp phần vào sự thành công của quá trình đàm phán VPA/FLEGT giữa Việt
Nam và EU;
Mở rộng mạng lưới, khuyến khích sự tham gia rộng rãi, tích cực và hiệu quả của các
cá nhân, tổ chức dân sự ở cả cấp trung ương và địa phương;
Tăng cường chia sẻ thông tin, thúc đẩy sự quan tâm, nâng cao hiểu biết và năng lực
cho các tổ chức phi chinh phủ của Việt Nam và cộng đồng địa phương về các vấn đề
liên quan tới nội dung đàm phán và thực thi Hiệp định VPA/FLEGT giữa Việt Nam và
EU;
Đánh giá tác động tiềm tàng của VPA/FLEGT đến cộng đồng địa phương, đến vấn đề
giảm nghèo, đến thị trường lâm sản, quản trị rừng, bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên
nhiên;
Tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo với các bộ, ngành, EU và các bên liên quan về các
kết quả hoạt động của mạng lưới.
29
PHỤ LỤC II
Danh sách các Tổ chức tham gia tham vấn cộng đồng về tính hợp pháp của gỗ
TT Tổ chức/Cá nhân Trách nhiệm chính Cán bộ thực hiện
tham vấn
1 Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng,
Chuyển giao khoa học và công
nghệ Tây Bắc (CARTEN)
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Yên Bái
Nguyễn Kim Trọng
Hà Thị Cúc
Hà Dũng Tiến
Hà Tiến Thành
2 Chương trình Phát triển nguồn
nhân lực nông thôn Việt Nam
(VietDHRRA)
Tham vấn cộng đồng ở
Yên Bái
Dương Anh Tuyên
3 Trung tâm Giáo dục và truyền
thông môi trường (CEACE)
Tham vấn cộng đồng ở
Yên Bái
Nguyễn Nguyên
Cương
4 Trung tâm Phát triển Nông thôn
Bền vững (SRD)
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Bắc Cạn
Nguyễn Văn Nhuận
5 Viện Quản lý rừng Bền vững và
Chứng chỉ rừng (SFMI)
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Bắc Cạn
Dương Thị Liên
6 Hợp tác xã phát triển nông thôn
Quan Hóa, Thanh Hóa
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Thanh Hóa
Lê Thành Yên
7 Trung tâm Phát triển Nông thôn
Miền Trung (CRD)
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Thừa Thiên Huế
Trương Quang Hoàng
Lê Văn Lân
Nguyễn Thanh Hiền
Phạm Đình Hiện
8 Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn
Quản lý Tài nguyên thiên nhiên
(CORENARM)
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Thừa Thiên Huế
Nguyễn Thị Bích
Ngọc
Lê Thị Tịnh Chi
9 Trung tâm Nghiên cứu Phát triển
Xã hội (CSRD)
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Thừa Thiên Huế
Lê Thị Mỹ Hạnh
10 Trung tâm Nghiên cứu, Tư vấn
Quản lý tài nguyên thiên nhiên và
Phát triển bền vững (CRCSD)
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Thừa Thiên Huế
Lê Trọng Thực
Phạm Cường
11 Khoa Lâm nghiệp-Đại học Nông
Lâm Tp. Hồ Chí Minh
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Lâm Đồng
Phan Triều Giang
Nguyễn Quốc Bình
12 Phòng nghiên cứu sinh thái - Viện
sinh học nhiệt đới (ITB)
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Lâm Đồng
Nguyễn Xuân Vinh
12 Trung tâm Nghiên cứu Rừng và
Đất ngập nước (ForWet)
Tham vấn cộng đồng ở
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
Nguyễn Chí Thành
Nguyễn Tiến Dũng
13 Hoàng Huy Tuấn
Khoa Lâm nghiệp-Đại học Nông
Lâm Huế
Xây dựng tài liệu hướng
dẫn tham vấn cộng đồng
về tính hợp pháp của gỗ
và viết báo cáo tổng hợp
14 Nguyễn Ngọc Lung
Viện Quản lý rừng Bền vững và
Chứng chỉ rừng (SFMI)
Phản biện báo cáo tổng
hợp
15 Tô Đình Mai
Trung tâm Môi trường và Phát
triển Cộng đồng (CECoD)
Phản biện và hiệu đính
báo cáo tổng hợp
Recommended