View
239
Download
5
Category
Preview:
Citation preview
SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TỈNH BR-VT
THƯ VIỆN TỈNH
Sưu tập chuyên đề:
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU: ĐOÀN KẾT - TRÍ TUỆ - ĐỔI MỚI
(Chào mừng thành công Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ VI – nhiệm kỳ 2015-2020)
Bà Rịa - Vũng Tàu, tháng 1 năm 2016
Sưu tập chuyên đề:
Trưởng Ban Biên tập
TRẦN MINH THẾ
Chịu trách nhiệm nội dung
NGUYỄN QUANG PHI
Biên tập - Trình bày
VŨ HÀ
KIM YẾN
LỜI NÓI ĐẦU
Sau 3 ngày làm việc tích cực, dân chủ, phát huy trí tuệ
tập thể và tinh thần trách nhiệm cao, Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ VI, nhiệm kỳ
2015-2020 đã hoàn thành chương trình đề ra và kết thúc
tốt đẹp. Đại hội đã thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, Đại hội đã dân chủ giới thiệu,
sáng suốt lựa chọn và bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh
khóa VI gồm 52 đồng chí, bầu Ban Thường vụ khóa VI
gồm 15 đồng chí.
Trong 5 năm qua (2010 - 2015), Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân đã bám sát thực tiễn, phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân, tạo
sự đồng thuận trong xã hội, hoàn thành cơ bản các mục
tiêu, đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, tạo sự
chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, góp phần rất
quan trọng vào thành tựu chung của vùng và cả nước.
Đại hội đã tập trung thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến
và nhất trí thông qua Báo cáo chính trị; Báo cáo kiểm
điểm nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V;
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI với mục tiêu
tổng quát là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng bộ; phát huy dân chủ và sức mạnh đoàn kết
toàn dân; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; cải
thiện chất lượng cuộc sống nhân dân; bảo đảm ổn định
chính trị, xã hội; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân vững mạnh, khu vực phòng thủ vững chắc;
phát triển Bà Rịa - Vũng Tàu thành tỉnh mạnh về công
nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng và du lịch”. Đây
là mục tiêu được xác định trên cơ sở tổng kết thực tiễn một
cách toàn diện, đánh giá đúng tiềm năng, lợi thế so sánh
của tỉnh, dự báo tình hình trong nước và quốc tế. Phấn
đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu trên là góp phần cùng với
cả nước tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để chào mừng thành công của Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ VI - Thư viện tỉnh sưu
tầm, biên soạn và phát hành sưu tập chuyên đề “Đại hội
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Đoàn kết - trí tuệ - đỏi
mới”. Sưu tập giúp bạn đọc có cài nhìn toàn diện và xuyên
suốt cả quá trình từ khi thành lập Đảng bộ; Những thành
tựu của các kỳ Đại hội đã qua; Những đánh giá thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ V; Đại hội của các
Đảng bộ trực thuộc….
Và nhân dịp năm mới, Ban biên tập xin kính chúc
quý bạn đọc dồi dào sức khỏe, hạnh phúc, an khang,
thịnh vượng!
Thư viện tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Đoàn kết - trí tuệ - đổi mới
Thư viện tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Số 4 - Phạm Văn Đồng - Phường Phước Trung
Tp. Bà Rịa - tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Điện thoại: (064) 3742104 - 3742101
Email: thuvienbrvt.vn@gmail.com
Website: http://thuvienbrvt.com.vn
Thư viện số: thuvienso.thuvienbrvt.com.vn
Thư chúc mừng năm mới Bính Thân của Tỉnh ủy, HĐND,
UBND, UBMTTQ Việt Nam tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Đồng bào, cán bộ và chiến sĩ thân mến!
Nhân dịp năm mới Bính Thân 2016, Tỉnh ủy, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thân
ái gửi đồng bào, cán bộ, chiến sĩ trong tỉnh, bà con quê hương Bà Rịa - Vũng Tàu ở mọi miền
của Tổ quốc và đang định cư ở nước ngoài, các doanh nghiệp, các chuyên gia, công nhân
người nước ngoài đang làm việc và sinh sống tại tỉnh nhà lời chúc mừng năm mới tốt đẹp nhất.
Thưa toàn thể đồng bào, cán bộ, chiến sĩ!
Năm 2015, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục gặp nhiều khó khăn,
thách thức, nhưng với tinh thần đoàn kết, nhất trí và quyết tâm cao của Đảng bộ, chính quyền,
nhân dân và cộng đồng các doanh nghiệp, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu tiếp tục chuyển biến tích cực, kết quả đạt được khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, phần
lớn các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đạt, vượt kế hoạch đề ra.
Duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đạt 6,55%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, đã và
đang hình thành các trung tâm công nghiệp, cảng, du lịch; sản xuất công nghiệp trừ dầu khí
tăng trưởng khá, cao nhất trong 4 năm trở lại đây; dịch vụ cảng tăng 10,2%; xuất khẩu trừ dầu
khí tăng 8,4%; sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, giá cả, thị trường hàng hóa khá ổn định; tổng
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 11,4%. Cùng với phát triển kinh tế, các lĩnh vực giáo
dục - đào tạo, y tế, văn hóa - thể thao được triển khai đồng bộ. Chính sách an sinh và phúc lợi
xã hội, chính sách đối với người lao động, người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc và
các đối tượng bảo trợ xã hội được quan tâm thực hiện, đời sống vật chất và tinh thần của người
dân tiếp tục được cải thiện. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định.
Công tác xây dựng Đảng được tăng cường và đạt kết quả tích cực, nổi bật là việc tổ chức
thành công Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI (nhiệm kỳ 2015-2020);
hệ thống chính trị tiếp tục được kiện toàn, đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên; khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được củng
cố vững chắc.
Những kết quả nêu trên là nền tảng quan trọng và là niềm tin để Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục đoàn kết, gắn bó và phấn đấu để đạt được nhiều
thành tựu quan trọng hơn nữa trong những năm tới. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trân trọng ghi nhận, đồng
thời nhiệt liệt biểu dương sự nỗ lực phấn đấu các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhân dân, lực
lượng vũ trang và cộng đồng doanh nghiệp trong tỉnh. Trân trọng cảm ơn sự quan tâm hỗ trợ,
giúp đỡ, phối hợp, tạo điều kiện của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành
Trung ương, các địa phương bạn, các tổ chức trong nước và quốc tế cùng bà con nhân dân tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu đang sinh sống ở trong nước và nước ngoài.
Thưa toàn thể đồng bào, cán bộ, chiến sĩ!
Năm 2016 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI với mục
tiêu tổng quát phát triển giai đoạn 2016-2020 là: "Xây dựng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thành tỉnh
mạnh về công nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng, du lịch; cải thiện chất lượng cuộc
sống nhân dân; bảo đảm ổn định xã hội; giữ vững ổn định chính trị; xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, khu vực phòng thủ vững chắc". Để thực hiện tốt mục
tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tỉnh kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tỉnh nhà tiếp tục phát huy tinh
thần đoàn kết, sáng tạo, truyền thống yêu nước, yêu quê hương, thống nhất ý chí, hành động
và bằng các giải pháp tích cực, thiết thực, hiệu quả để chung sức, chung lòng cùng nhau vượt
qua khó khăn, thách thức, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh; đưa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
nhanh chóng đi vào cuộc sống; tạo bước đột phá, đưa quê hương Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển
nhanh, phát triển bền vững, trở thành tỉnh mạnh về công nghiệp, cảng biển, dịch vụ cảng biển
và du lịch; góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII.
Trước thềm năm mới 2016 và đón Xuân Bính Thân, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thân ái gửi đến các bậc
lão thành cách mạng, quý Mẹ Việt Nam Anh hùng, toàn thể đồng bào, cán bộ, chiến sĩ trong
tỉnh, gia đình có công với cách mạng, các anh chị em thương binh, bệnh binh; các doanh
nghiệp trong và ngoài nước đầu tư trên địa bàn tỉnh; các cơ quan Trung ương; các chuyên gia,
công nhân người nước ngoài đang làm việc và sinh sống tại địa phương và đồng bào quê
hương Bà Rịa - Vũng Tàu đang sống và làm việc ở nước ngoài bước sang năm mới dồi dào
sức khỏe, hạnh phúc, an khang, thịnh vượng!
Chúc năm mới thắng lợi mới!
1
MỤC LỤC
PHẦN 1. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BR-VT QUA CÁC THỜI KỲ
1.1. Đảng bộ tỉnh BR-VT: Từ Đại hội đến Đại hội
1. Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ I ............................07
2. Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ II ............................08
3. Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ III ..........................10
4. Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ IV ..........................13
5. Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ V ...........................16
1.2. Những thành tựu quan trọng trong các Đại hội Đảng bộ tỉnh
6. Những thành tựu quan trọng Đảng bộ tỉnh đạt được từ Đại hội I đến Đại
hội IV .......................................................................................................20
7. Những thành tựu quan trọng từ kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ V (nhiệm kỳ 2010-2015) .................................................22
2
PHẦN 2. ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BR-VT LẦN THỨ V
1. Những dấu mốc nhiệm kỳ 2010 - 2015 ...............................................29
2. Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị giai đoạn 2010-2015: Kinh tế
phát triển, chất lượng đời sống được nâng cao .....................................32
3. Ngành công nghiệp phát triển đúng định hướng .................................35
4. Doanh nghiệp cam kết đầu tư lâu dài tại các KCN ............................... .38
5. Tổ chức hiệu quả hoạt động đánh bắt xa bờ ..........................................40
6. Quy hoạch phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội ........................42
7. Bảo đảm thu - chi ngân sách phục vụ yêu cầu phát triển .................45
8. Bà Rịa - Vũng Tàu vượt chỉ tiêu kéo giảm hộ nghèo ...................47
9. Chú trọng công tác xây dựng Đảng .....................................................49
10. Công tác vận động quần chúng: Đạt được nhiều kết quả thiết thực…51
11. Thực hiện tốt chính sách đối với người có công…………………...54
3
PHẦN 3. TIẾN TỚI ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BR-VT LẦN THỨ VI
3.1. Đóng góp ý kiến cho Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI
1. Đề nghị điều chỉnh một số chỉ tiêu .............................................................. 59
2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức cơ sở Đảng ....61
3. Đẩy mạnh cải cách hành chính ............................................................63
4. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ................................................66
5. Doanh nghiệp, doanh nhân BR-VT: Đặt niềm tin và kỳ vọng vào Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020 .................................67
3.2. Đại hội các Đảng bộ trực thuộc
6. Vươn tầm đô thị loại II ........................................................................... 70
7. Thành phố "sạch đẹp, văn minh, thân thiện" .................................72
8. Đưa Côn Đảo trở thành trung tâm du lịch, dịch vụ chất lượng cao ....78
9. Đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp hàng hóa .................................82
10. Phát huy sức mạnh tổng hợp, đưa Đất Đỏ phát triển bền vững ........86
11. Phát triển từ lợi thế dịch vụ - du lịch .................................................... 90
12. Xây dựng đô thị công nghiệp, cảng biển văn minh, hiện đại.. ..........94
13. Phát triển nông nghiệp bền vững, tăng tỷ trọng thương mại - dịch vụ .....98
14. Xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh vững mạnh, toàn diện ...............103
15. Xây dựng đội ngũ công an trong sạch, bản lĩnh và tận tụy .............106
16. Giữ vững chủ quyền, an ninh biên giới biển đảo Tổ quốc………...110
14. Xây dựng Đảng bộ khối Cơ quan tỉnh trong sạch, vững mạnh .......114
15. Phát huy tốt vai trò của tổ chức Đảng trong doanh nghiệp .............118
4
PHẦN 4. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BR-VT LẦN THỨ VI
1. Diễn văn của đông chí Nguyễn Tuấn Minh, Uy viên Trung ương Đảng,
Bí thư Tỉnh ủy khai mạc Đại hội Đảng bộ tỉnh BR-VT lần thứ VI, nhiệm
kỳ 2015-2020 .........................................................................................123
2. Bài phát biểu của đông chí Ngô Văn Dụ, Uy viên Bộ Chính trị, Bí thư
Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Uy ban Kiểm tra Trung ương tại Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020........................127
3. Một số tham luận trình bày tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VI, nhiệm
kỳ 2015-2020 ....... ……………………………………………………137
4. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V tại Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VI ..........................................................169
5. Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa VI, nhiệm kỳ 2015-2020 ..........................205
6. Diễn văn bế mạc Đại hội của đông chí Nguyễn Tuấn Minh, Bí thư Tỉnh
ủy khóa VI ............................................................................................208
PHẦN 5. TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU LẦN THỨ VI
1. Quyết tâm đưa Bà Rịa - Vũng Tàu thành tỉnh mạnh về công nghiệp,
cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng và du lịch ............................................... 215
2. Đông Chí Nguyễn Hông Lĩnh, Uy Viên Dự Khuyết Trung Ương Đảng,
Bí Thư Tỉnh Uy, Chủ Tịch HĐND Tỉnh: Năm 2016, tạo tiền đề thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI ............................ 218
3. Đông Chí Nguyễn Văn Trình, Chủ Tịch UBND Tỉnh: Sử dụng hiệu quả
các nguôn lực để phát triển kinh tế với tốc độ hợp lý .......................223
4. Thu hút đầu tư đón sóng TPP ................................................................. 228
5. Đưa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh BR-VT lần thứ VI vào cuộc sống.232
6. Bà Rịa - Vũng Tàu triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ VI.....................................................................................................238
7. Năm mới, bước trên đường hạnh phúc ....................................... 240
5
PHẦN 1.
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BR-VT QUA CÁC THỜI KỲ
* Đảng bộ tỉnh BR-VT: Từ Đại hội đến Đại hội
* Những thành tựu quan trọng trong các Đại hội Đảng bộ tỉnh
6
7
Đảng bộ tỉnh BR-VT: Từ Đại hội đến Đại hội
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LẦN THỨ I
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I họp từ ngày 6 - 7/4/1992 tại thành phố
Vũng Tàu. Tham dự Đại hội có 320 đại chiếm 3.82% tổng số đảng viên trong toàn
tỉnh, gôm 293 đại biểu được bầu từ 16 Đảng bộ trực thuộc và 27 đại biểu đương
nhiệm là các ủy viên BCH lâm thời Đảng bộ tỉnh. Có 21 đại biểu nữ, chiếm 6.56%
tổng số đại biểu.
Đại hội tiến hành đánh giá, kiểm điểm những thành tựu đạt được của Đảng
bộ và nhân dân các huyện Châu Thành, Long Đất, Xuyên Mộc và đặc khu Vũng
Tàu - Côn Đảo về sản xuất tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, du lịch và nông nghiệp,
đông thời cũng phân tích những khó khăn, tôn tại để đề ra phương hướng, nhiệm vụ
và mục tiêu đến năm 1995, phấn đấu xây dựng Bà Rịa - Vũng Tàu giàu đẹp, văn
minh, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở phân tích những tiềm năng, thế mạnh cũng
như những khó khăn, thuận lợi của tỉnh nhà.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ I đã
thông qua Báo cáo Chính trị Ban Chấp hành lâm thời tỉnh Đảng bộ về nhận định
tình hình và phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của tỉnh trong những năm
1992-1995.
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH KHÓA I:
STT HỌ VÀ TÊN STT HỌ VÀ TÊN
01 Nguyễn Văn Bảo 24 Nguyễn Trọng Minh
02 Nguyễn Trung Chánh 25 Nguyễn Văn Nhân
03 Phan Chiến 26 Nguyễn Việt Nhân
04 Nguyễn Ngọc Cư 27 Nguyễn Minh Ninh
05 Trần Văn Cường 28 Lê Minh Phương
06 Thái Văn Dũng 29 Phạm Thành Phương
07 Đặng Văn Đáo 30 Trần Minh Sanh
08 Nguyễn Văn Hai 31 Đỗ Thành Sóc
09 Lưu Quang Hải 32 Phạm Thị Sơn
8
10 Võ Kim Hanh 33 Trương Bình Tâm
11 Nguyễn Văn Hàng 34 Nguyễn Thị Thanh
12 Lê Văn Hân 35 Ngô Thành
13 Đỗ Quốc Hùng 36 Nguyễn Chiến Thắng
14 Nguyễn Nam Hưng 37 Nguyễn Tấn Thời
15 Trần Thị Hường 38 Trần Tiến
16 Trần Quang Huy 39 Trần Văn Trào
17 Phạm Văn Hy 40 Lưu Quang Trí
18 Đoàn Thị Khanh 41 Trần Văn Triệu
19 Đặng Hữu Khánh 42 Trần Thị Trinh
20 Trần Văn Khánh 43 Lê Quang Trung
21 Lê Huy Luyện 23 Dương Sơn Minh
22 Võ Ngọc Minh
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LẦN THỨ II
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ II họp từ ngày 08 - 10/05/1996 tại hội trường
Tỉnh ủy, tham dự Đại hội có 350 đại biểu đại diện cho hơn 10.000 đảng viên thuộc 40 Đảng
bộ chi bộ trực thuộc Tỉnh ủy. Tham dự đại hội bao gôm có các đông chí lãnh đạo đại diện
các ban, ngành của Trung ương; đại diện lãnh đạo Đảng ủy, Đại biểu các bà mẹ Việt Nam
anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động và các đông chí cán
bộ lão thành cách mạng, đại diện và phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí Trung ương
và địa phương.
Đoàn chủ tịch Đại hội gôm có các đông chí: Phạm Văn Hy; Trần Văn Khánh; Lê
Văn Dỹ; Trần Văn Triệu; Nguyễn Nam Hưng; Đỗ Quốc Hùng; Đoàn Thị Khanh; Lê
Quang Trung; Dương Sơn Minh.
Đại hội thông qua Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, đánh giá kết
quả thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất. Báo cáo nêu rõ: Đảng bộ và
9
nhân dân toàn tỉnh đã đoàn kết phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội I của
Đảng bộ tỉnh, đạt nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh và xây dựng hệ thống chính trị.
Các thành tựu nổi bật là: Đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế theo hướng xây
dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Thực hiện thắng lợi các chỉ
tiêu chủ yếu trong kế hoạch 5 năm đầu tiên của tỉnh. Trên cơ sở khẳng định những
thành tựu nêu trên, báo cáo nhấn mạnh: Hơn 4 năm qua, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã cơ
bản thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội và tạo ra được những
nhân tố bảo đảm cho sự phát triển cao hơn của sự nghiệp đổi mới trong những năm tới.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đó cũng còn có những mặt non yếu: Kinh tế
địa phương tuy tăng trưởng khá song chưa thật phát triển vững chắc; một số khó khăn
tiêu cực trong đời sống chưa được khắc phục cơ bản; tổ chức Đảng, chính quyền đoàn
thể các cấp trong tỉnh tuy đã có bước trưởng thành song vẫn còn những mặt chưa được
tăng cường với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ.
Đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của tỉnh trong những năm 1996
- 2000 như sau: Đẩy mạnh nhịp độ tăng trưởng kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đông thời tiếp tục cải thiện đời sống vật chất
và văn hóa của nhân dân, giữ vũng ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường
thực lực quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, nhiệm vụ mới; góp phần thực hiện
thắng lợi “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội tới năm 2000” và Nghị quyết
Đại hội VIII của Đảng, tạo tiền đề cần thiết cùng cả nước đạt bước phát triển cao hơn
nữa vào đầu thế kỷ 21.
Đại hội thông qua báo cáo tổng hợp góp ý kiến đại biểu đại hội vào Dự thảo văn
kiện trình Đại hội VIII của Đảng.
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH KHÓA II:
STT HỌ VÀ TÊN
STT HỌ VÀ TÊN
01 Nguyễn Văn Bảo 26 Nguyễn Tấn Minh
02 Nguyễn Thị Hòa Bình 27 Võ Ngọc Minh
03 Nguyễn Trung Chánh 28 Nguyễn Văn Nhân
04 Lâm Minh Chiến 29 Nguyễn Việt Nhân
10
05 Phan Chiến 30 Hô Văn Niên
06 Trần Chương 31 Ngô Hoàng Phúc
07 Nguyễn Văn Cường 32 Phạm Văn Phương
08 Thái Văn Dũng 33 Trần Minh Sanh
09 Lê Văn Dỹ 34 Ngô Trường San
10 Đặng Văn Đáo 35 Nguyễn Văn Si
11 Trần Cao Đề 36 Tạ Văn Sinh
12 Nguyễn Văn Hai 37 Phạm Thị Sơn
13 Nguyễn Văn Hàng 38 Lâm Thanh Tâm
14 Võ Kim Hanh 39 Trương Bình Tâm
15 Đỗ Quốc Hùng 40 Nguyễn Chiến Thắng
16 Trần Thị Hường 41 Ngô Thành
17 Trần Quang Huy 42 Nguyễn Công Thành
18 Trần Tuấn Huy 43 Trần Công Thanh
19 Đặng Hữu Khánh 44 Trương Minh Thủy
20 Trần Văn Khánh 45 Trần Tiến
21 Lê Huy Luyện 46 Trần Thị Trinh
22 Châu Văn Mẫn 47 Hoàng Trọng
23 Nguyễn Minh Mẫn 48 Nguyễn Văn Tròn
24 Dương Minh Sơn 49 Lê Xuân Tươi
25 Nguyễn Trọng Minh
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LẦN THỨ III
Đại hội lần thứ III của Đảng bộ Bà Rịa - Vũng Tàu diễn ra vào thời điểm đặc
biệt khi nhân dân ta cùng với cả nhân loại vừa đón chào những thời khắc đầu tiên của
năm mới, thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới. Thời khắc mở ra một trang sử mới cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu một sự lựa chọn đúng đắn, vững
chãi bước vào tương lai. Do đó càng thêm trọng trách đặt lên vai của Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần này.
11
Đại hội đã tiến hành phân tích, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội
đã đề ra tại Đại hội lần thứ II ( 1996-2000): Phát huy truyền thống cách mạng hào hùng
trong hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược trước đây, Đảng bộ, quân và dân
BR- VT đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách; năng động sáng tạo trong công cuộc
đổi mới, phát triển và xây dựng BR - VT thành một trong những trung tâm công nghiệp
hàng đầu của cả nước, đời sống vật chất, tinh thần của đông đảo nhân dân được cải
thiện và nâng cao. Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và tình
hình thực tế ở địa phương, Đại hội đã nêu phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội từ
năm 2001-2005, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III đã quyết nghị nhiều vấn đề
quan trọng với mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2010, Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành một
trong những trung tâm công nghiệp, du lịch và khai thác hải sản của khu vực và cả
nước, một thương cảng quốc gia và quốc tế. Phương hướng phát triển có tính chiến lược
trong 10 năm tơi được đẩy nhanh tốc độ phát triển các lĩnh vực văn hóa xã hội; đảm bảo
sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội; kết hợp chặt chẽ phát triển
kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, đảm bảo vững chắc an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội…
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh mới và đoàn Đại biểu đi dự Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX. Kết quả Đại hội đã bầu ra 47 đông chí vào BCH nhiệm kỳ
2001-2005; 12 đại biểu chính thức và một đại biểu dự khuyết đi dự Đại hội Đảng lần
thứ IX.
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH KHÓA III:
STT HỌ TÊN NĂM
SINH
CHỨC VỤ HIỆN TẠI
1 Nguyễn Thị Hòa Bình 1955 Tỉnh ủy viên, Phó chủ nhiệm UBKT tỉnh ủy
2 Lâm Minh Chiến 1953 Tỉnh ủy viên, Giám đốc Công an tỉnh
3 Trần Chương 1949 Tỉnh ủy viên, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy
4 Nguyễn Văn Cường 1952 Tỉnh ủy viên, Chỉ huy Phó BCH Quân sự tỉnh
5 Đỗ Minh Dân 1955 Phó GĐ Công an tỉnh
6 Lê Thanh Dũng 1958 Giám đốc Sở Y tế
7 Trần Cao Đề 1945 Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở GTVT
8 Nguyễn Giao 1939 Tổng GĐ XNLD Vietsovpetro
12
9 Võ Kim Hanh 1945 Uy viên ban thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban
TC Tỉnh ủy
10 Đỗ Thanh Hải 1946 Uỷ viên thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng
BCH Quân sự tỉnh
11 Trần Thanh Hải 1944 Bí thư huyện ủy Long Đất
12 Võ Công Hậu 1953 Trưởng ban Kinh tế Ngân sách HĐND tỉnh
13 Lê Kim Hương 1955 Giám đốc Sở KHĐT
14 Trần Thị Hường 1959 Tỉnh ủy viên, Chủ tịch LĐLĐ tỉnh
15 Trần Tấn Huy 1947 Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Thương mại
16 Đặng Hữu Khánh 1944 Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Công nghiệp
17 Trần Văn Khánh 1943 Quyền Bí thư Tỉnh ủy
18 Nguyễn Thị Chim Lang 1952 Giám đốc Sở GD-ĐT
19 Nguyễn Hông Lĩnh 1964 Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM
20 Lê Huy Luyện 1948 Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch HĐND tỉnh
21 Nguyễn Minh Mẫn 1944 Tỉnh ủy viên, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên
phòng tỉnh
22 Ký Hữu Minh 1956 Giám đốc sở NN&PTNT
23 Nguyễn Trọng Minh 1947 Phó Bí thư Tỉnh ủy
24 Nguyễn Tuấn Minh 1953 Uỷ viên thường vụ Tỉnh ủy, Quyền Chủ tịch
HĐND tỉnh
25 Trần Công Minh 1950 Phó trưởng ban tổ chức Chính quyền tỉnh
26 Võ Ngọc Minh 1955 Uỷ ban thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban
Tuyên giáo tỉnh
27 Võ Thị Phương Nguyên 1955 Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh
28 Nguyễn Văn Nhân 1945 Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh
29 Lê Đặng Nhựt 1957 Phó Trưởng ban tổ chức Tỉnh ủy
30 Hô Văn Niên 1954 Tỉnh ủy viên, Chánh văn phòng UBND tỉnh
31 Hứa Phước Ninh 1946 Bí thư Huyện ủy Côn Đảo
32 Ngô Quang Phúc 1954 Tỉnh ủy viên, Chánh Thanh tra nhà nước tỉnh
33 Nguyễn Ngọc Quế 1946 Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Xuyên Mộc
13
34 Hà Văn Rao 1952 Giám đốc Sở Tài chính vật giá
35 Trần Minh Sanh 1956 Tỉnh ủy viên, Phó chủ tịch UBND tỉnh
36 Tạ Minh Sinh 1948 Tỉnh ủy viên, Chánh văn phòng Tỉnh ủy
37 Lâm Thanh Tâm 1951 Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Du lịch
38 Trần Văn Thán 1956 Phó Văn phòng Tỉnh ủy
39 Nguyễn Tất Thắng 1950 Bí thư Thành ủy Vũng Tàu
40 Nguyễn Văn Thống 1957 Trưởng ban Dân vận Thị ủy Bà Rịa
41 Nguyễn Đức Thu 1946 Phó trưởng ban tổ chức Chính quyền tỉnh
42 Trương Minh Thủy 1955 Tỉnh ủy viên, Chủ tịch UBND Tp. Vũng Tàu
43 Phạm Quốc Toàn 1949 Tổng biên tập Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
44 Nguyễn Văn Tròn 1947 Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Châu Đức
45 Nguyễn Đức Trọng 1955 Phó Văn phòng Tỉnh ủy
46 Lê Xuân Tươi 1955 Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Tân Thành
47 Nguyễn Thị Hông Xinh 1954 Giám đốc Sở Lao động - Thương binh - Xã hội
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LẦN THỨ IV
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần
thứ IV, nhiệm kỳ 2005 - 2010, họp từ
ngày 20/12/2005 đến ngày 23/12/2005
tại hội trường Tỉnh ủy, tham dự Đại hội
có 300 đại biểu đại diện cho hơn 18.500
Đảng viên của 15 Đảng bộ trực thuộc
Tỉnh ủy. Tham dự đại hội có các đông
chí lãnh đạo đại diện các ban, ngành
của Trung ương; đại diện lãnh đạo
Đảng ủy, Bộ Tư lệnh quân khu 7; các
đông chí nguyên là Bí thư, Phó Bí thư,
Uy viên Ban thường vụ Đặc khu ủy
Vũng Tàu - Côn Đảo, Tỉnh ủy Bà Rịa -
Vũng Tàu qua các thời kỳ, Đại biểu các
bà mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng
Lao động và các đông chí cán bộ lão
thành cách mạng.
Đại hội thông qua dự thảo Báo cáo
Chính trị của BCH Đảng bộ tỉnh khóa
III. Báo cáo Chính trị nêu rõ: 5 năm
qua, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã
nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III giành
được những thành tựu kinh tế, quốc
phòng quan trọng: Sự phát triển kinh tế
14
của tỉnh gắn liền với quy hoạch phát
triển vùng kinh tế phía Nam; trình độ
dân trí được nâng lên, chất lượng nguôn
nhân lực cải thiện, khoa học công nghệ
được quan tâm ứng dụng; các hoạt động
văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, quốc
phòng và an ninh được tăng cường; các
mặt công tác xây dựng Đảng và cuộc
vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng đạt
nhiều tiến bộ. Dự thảo Báo cáo Chính
trị cũng chỉ rõ trong nhiệm kỳ qua,
Đảng bộ tỉnh còn những hạn chế, thiếu
sót, khuyết điểm.
Báo cáo Chính trị, Đảng bộ tỉnh đề ra
mục tiêu tổng quát phát triển của tỉnh
trong 5 năm 2006 - 2010 và hướng tới
2015 là: Phấn đấu xây dựng, phát triển
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trở tỉnh công
nghiệp, mạnh về kinh tế biển, với hệ
thống thương cảng quốc gia và quốc tế
vào đầu thời kỳ 2010 - 2015; là một
trong những trung tâm công nghiệp, dịch
vụ, du lịch và hải sản của cả khu vực và
cả nước; nâng cao chất lượng cuộc sống
nhân dân; bảo đảm vững chắc về quốc
phòng; an ninh.
Thông qua Nghị quyết Đại hội
nhiệm kỳ 2005 - 2010; 13 đông chí
được bầu vào Ban thường vụ Tỉnh ủy;
đông chí Nguyễn Tuấn Minh, Uy viên
trung ương Đảng được bầu giữ chức Bí
thư Tỉnh ủy; đông chí Trần Minh Sanh
và đông chí Nguyễn Văn Cường giữ
chức Phó Bí thư Tỉnh ủy; Bầu Uy ban
Kiểm tra Tỉnh ủy gôm 7 đông chí; đông
chí Nguyễn Thị Hòa Bình giữ chức Chủ
nhiệm Uy ban Kiểm tra Tỉnh ủy; Bầu
12 đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X.
DANH SÁCH BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH KHÓA IV
STT HỌ VÀ TÊN NĂM
SINH
CHỨC VỤ HIỆN NAY
01 Nguyễn Thị Hòa Bình 1955 Chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy
02 Trần Thanh Bình 1957 Bí thư Huyện ủy Tân Thành
03 Trương Thị Chi 1955 Phó Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy
04 Lâm Minh Chiến 1953 Giám đốc Công An tỉnh
05 Trần Chương 1949 Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh
06 Nguyễn Văn Cơ 1957 Chánh Tòa án Nhân dân tỉnh
07 Nguyễn Văn Cường 1952 Trưởng Ban tổ chức Tỉnh ủy
08 Đỗ Minh Dân 1955 Phó Giám đốc Công an tỉnh
09 Hoàng Nghĩa Doãn 1957 Bí thư Huyện ủy Côn Đảo
10 Lê Thanh Dũng 1958 Giám đốc Sở Y tế tỉnh
15
11 Lưu Tài Đoàn 1965 Phó chủ nhiệm UBKT Tỉnh ủy
12 Trần Lê Đông 1949 Tổng Giám đốc XNLD Vietsovpetro
13 Bùi Văn Hải 1958 Chủ tịch UBND Tp. Vũng Tàu
14 Lê Kim Hương 1955 Giám đốc Sở Kế hoạch Đầu tư
15 Phạm Quang Khải 1954 Phó Chủ tịch UBND tỉnh
16 Tạ Văn Kiệt 1956 Bí thư Huyện ủy Đất Đỏ
17 Võ Thành Kỳ 1954 Chánh văn phòng UBND tỉnh
18 Nguyễn Hông Lĩnh 1964 Bí thư Huyện ủy Long Điền
19 Ký Hữu Minh 1956 Giám đốc Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn
20 Nguyễn Tuấn Minh 1953 Uy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy
21 Trần Công Minh 1950 Giám đốc Sở Lao động Thương binh Xã hội
22 Võ Ngọc Minh 1955 Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
23 Huỳnh Thanh Nguyên 1955 Bí thư Huyện ủy Châu Đức
24 Võ Thị Phương Nguyên 1955 Chủ tịch Hội LHPN tỉnh
25 Lê Đặng Nhựt 1957 Phó trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy
26 Hô Văn Niên 1954 Phó Chủ tịch UBND tỉnh
27 Ngô Văn Nở 1957 Bí thư Huyện ủy Xuyên Mộc
28 Phan Châu Phi 1950 Phó Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh
29 Ngô Quang Phúc 1954 Bí thư Đảng ủy khối Dân chính Đảng
30 Lê Minh Quang 1956 Chỉ huy trưởng BCH Quân sự tỉnh
31 Hà Văn Rao 1952 Giám đốc Sở Tài chính
32 Trần Minh Sanh 1956 Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh
33 Tạ Văn Sinh 1948 Trưởng ban Dân vận tỉnh
34 Mã Thành Sơn 1954 Phó chỉ huy Chính trị BCH Quân sự tỉnh
35 Trương Văn Tài 1956 Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên Phòng
36 Trần Văn Thán 1956 Bí thư Đảng ủy khối Doanh nghiệp
37 Đỗ Thị Kim Thanh 1960 Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
38 Bùi Chí Thành 1974 Phó Bí thư Tỉnh đoàn
39 Nguyễn Văn Thành 1955 Bí thư Thị ủy Bà Rịa
40 Trần Văn Thông 1959 Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin
41 Nguyễn Văn Thống 1957 Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh
16
42 Trần Ngọc Thới 1956 Phó Chủ tịch UBND tỉnh
43 Trương Minh Thủy 1955 Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh
44 Trần Văn Thức 1952 Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam tỉnh
45 Phạm Quốc Toàn 1949 Tổng biên tập Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
46 Nguyễn Đức Trọng 1955 Chánh Văn phòng Tỉnh ủy
47 Lê Xuân Tươi 1955 Bí Thư Thành Uy Vũng Tàu
48 Giang Vinh 1953 Phó Giám đốc Sở Nội vụ
49 Nguyễn Thị Hông Xinh 1954 Phó Chủ tịch HĐND tỉnh
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LẦN THỨ V
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu lần thứ V, nhiệm kỳ
2010-2015 diễn ra từ ngày 21 đến 23-10-
2010. Dự Đại hội có 299 đại biểu đại diện
cho 23.704 đảng viên của 14 Đảng bộ
trực thuộc Tỉnh ủy. Đông chí Hô Đức
Việt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung
ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung
ương dự và chỉ đạo Đại hội. Báo cáo
Chính trị trình Đại hội nêu: GDP bình
quân đầu người của tỉnh năm 2010 đạt
5.827 USD, cao gấp 2,28 lần so với năm
2005 và cao gấp 4 lần mức bình quân
chung của cả nước.
Về cơ cấu công nghiệp - xây dựng
chiếm 64,3%, dịch vụ chiếm 31,2%,
nông nghiệp chiếm 4,5%... Công tác xây
dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức đảng và đảng viên luôn
được xác định là nhiệm vụ then chốt,
trọng tâm. Tỷ lệ tổ chức Đảng trong
sạch, vững mạnh đạt hơn 80%, hơn 70%
đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt
nhiệm vụ… Phát biểu chỉ đạo tại Đại
hội, đông chí Hô Đức Việt, Uỷ viên Bộ
Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương đã biểu
dương kết quả phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh - quốc phòng của tỉnh trong 5
năm qua. Tuy nhiên, trong công tác xây
dựng Đảng, dù đã được chú trọng, có
những tiến bộ, nhưng còn phải nỗ lực
nhiều hơn nữa. Công tác tư tưởng có lúc
triển khai chậm, thiếu chủ động; còn
thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi trên
nhiều địa bàn, lĩnh vực; tỷ lệ cán bộ trẻ,
cán bộ nữ trong thực tế và trong quy
hoạch còn thấp; công tác kiểm tra, giám
sát cần được đẩy mạnh để chủ động
17
phòng ngừa và phát hiện các sai phạm,
tăng tính giáo dục. Hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội trong một số phong trào, cuộc vận
động chưa cao… Đông chí Hô Đức Việt
yêu cầu cần nâng cao hơn nữa năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ,
tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của chính quyền, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân. Trước hết, cần chú
trọng tăng cường công tác xây dựng
Đảng bộ, chính quyền và hệ thống chính
trị trong tỉnh trong sạch, vững mạnh về
mọi mặt. Nâng cao chất lượng, tính chủ
động, kịp thời của công tác chính trị tư
tưởng, tạo sự thống nhất về tư tưởng và
hành động trong toàn Đảng bộ nhằm
thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối
của Đảng. Thực hiện tốt Cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hô Chí Minh”. Tiếp tục đổi mới công tác
cán bộ, làm tốt công tác quy hoạch, đào
tạo, bôi dưỡng, luân chuyển, xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công
chức đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của tỉnh trong giai
đoạn mới. Nâng cao chất lượng đảng
viên, chất lượng hoạt động, năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
Đảng, nhất là ở cơ sở; thực hiện tốt chế
độ tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt đảng. Phát huy vai trò của các tổ
chức chính trị - xã hội… Từ thực tiễn và
qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, Đại hội rút ra các
bài học kinh nghiệm:
Một là, giữ vững sự đoàn kết, nhất
trí trong toàn Đảng bộ trên cơ sở thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân
chủ; không ngừng tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, tạo sự đông thuận cao
trong xã hội là nhân tố quyết định làm
nên những thành tựu của Đảng bộ.
Hai là, kiên quyết, nhạy bén, cụ thể,
bám sát thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành; chú trọng công tác kiểm tra,
giám sát việc tổ chức thực hiện các chủ
trương, đường lối, chính sách, Nghị
quyết đã đề ra.
Ba là, phát triển kinh tế phải luôn
gắn với yêu cầu an dân, đảm bảo tốt an
sinh xã hội, khai thác hợp lý tài nguyên
thiên nhiên với bảo vệ được môi trường
sinh thái, lấy cải cách hành chính làm
khâu đột phá, thường xuyên giáo dục
nâng cao phẩm chất đạo đức, tinh thần
trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân
của đội ngũ cán bộ, công chức.
Bốn là, phải giữ vững được ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội,
đảm bảo quốc phòng an ninh, tạo điều
kiện cho mọi người dân và các thành
phần kinh tế yên tâm sản xuất kinh
doanh, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Đại hội nhất trí đề ra mục tiêu tổng quát
phát triển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong
giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến
năm 2020 là: Tiếp tục nâng cao năng lực
18
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ, xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh
đoàn kết toàn dân; phát triển mạnh kinh tế
biển, xây dựng Bà Rịa - Vũng Tàu thành
tỉnh công nghiệp và cảng biển theo hướng
hiện đại vào năm 2015; phát triển kinh tế
gắn với yêu cầu phát triển bền vững; nâng
cao thu nhập, chất lượng cuộc sống của
nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội và phúc
lợi xã hội; giữ vững ổn định chính trị; xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân vững mạnh, khu vực phòng thủ
vững chắc. Đại hội đề ra chỉ tiêu trong
công tác xây dựng Đảng: Bôi dưỡng lý
luận, chính trị cho 100% cán bộ, đảng
viên. Đào tạo, bôi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, quản lý nhà nước từ 30% trở
lên. 100% cấp ủy viên được bôi dưỡng
chương trình cấp ủy cơ sở. Triển khai
thực hiện có hiệu quả Chương trình đào
tạo tiến sĩ, thạc sĩ trong và ngoài nước.
- Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy 15%;
tham gia các chức danh lãnh đạo, quản lý
các cấp từ 30% trở lên.
- Cơ sở đảng đạt trong sạch, vững
mạnh trên 85%, cơ sở Đảng yếu kém
dưới 1%. 100% các tổ chức thôn, ấp, khu
phố; cơ quan trực thuộc Đảng bộ xã
(phường, thị trấn); các trường công lập
đều có tổ chức Đảng.
- Trên 80% đảng viên đủ tư cách
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phát triển đảng
viên mới từ 7% trở lên so với tổng số
đảng viên. Tỷ lệ đảng viên trong ngành y
tế đạt 25% trở lên; ngành giáo dục đạt
20% trở lên; lực lượng dân quân tự vệ
đạt 18% trở lên.
- Công tác kiểm tra, giám sát: cấp
ủy các cấp thực hiện Điều 30 của Điều lệ
Đảng tăng 10-20% và ủy ban kiểm tra
các cấp thực hiện Điều 32 của Điều lệ
Đảng tăng 10-20% so với nhiệm kỳ
2005-2010. Đối với các vi phạm, tiến
hành kiểm tra, xử lý đạt 100% số vụ việc
được phát hiện.
Đại hội đã bầu 55 đông chí vào
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V,
bầu 14 đại biểu chính thức và 2 đại biểu
dự khuyết dự Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI. Đông chí Nguyễn Tuấn
Minh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư
Tỉnh ủy được Ban Chấp hành bầu lại
làm Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu,
nhiệm kỳ 2010-2015; các đông chí:
Phạm Quang Khải, Trần Minh Sanh,
Nguyễn Hông Lĩnh được bầu làm Phó bí
thư Tỉnh ủy. Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy
gôm 9 đông chí. Đông chí Hoàng Nghĩa
Doãn, được bầu làm Chủ nhiệm ủy ban
Kiểm tra Tỉnh ủy.
Danh sách BCH Đảng bộ tỉnh
khóa V, nhiệm kỳ 2010-2015
(Xếp theo thứ tự A, B, C), gồm 55
đồng chí.
1. Trần Thanh Bình
19
2. Phan Hòa Bình
3. Đỗ Văn Bửu
4. Nguyễn Văn Chinh
5. Nguyễn Văn Cơ
6. Đỗ Minh Dân
7. Hoàng Nghĩa Doãn
8. Lê Thị Đầy
9. Lưu Tài Đoàn
10. Nguyễn Văn Đông
11. Lê Minh Đức
12. Ngô Hùng Dũng
13. Lê Thanh Dũng
14. Nguyễn Thanh Giang
15. Nguyễn Văn Hiến
16. Phan Đức Hiền
17. Phạm Hòa
18. Nguyễn Thị Kim Hoàng
19. Đinh Văn Hùng
20. Phạm Quang Khải
21. Tạ Văn Kiệt
22. Trương Văn Kính
23. Nguyễn Lập
24. Nguyễn Phước Lễ
25. Nguyễn Hông Lĩnh
26. Phạm Chí Lợi
27. Nguyễn Thành Long
28. Nguyễn Tuấn Minh
29. Võ Ngọc Minh
30. Lê Đặng Nhựt
31. Hô Văn Niên
32. Ngô Văn Nở
33. Trương Hoàng Phục
34. Quách Hữu Phước
35. Lê Minh Quang
36. Lê Tuấn Quốc
37. Lê Văn Sâm
38. Trần Minh Sanh
39. Nguyễn Văn Sớm
40. Mã Thành Sơn
41. Lê Tôi Sủng
42. Trương Văn Tài
43. Trần Văn Thán
44. Đỗ Thị Kim Thanh
45. Bùi Chí Thành
46. Nguyễn Văn Thành
47. Vũ Ngọc Thảo
48. Trần Ngọc Thới
49. Trần Văn Thông
50. Nguyễn Văn Thống
51. Mai Ngọc Thuận
52. Nguyễn Văn Trình
53. Nguyễn Đức Trọng
54. Lê Xuân Tươi
55. Nguyễn Thị Yến
http://www.baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
20
Những thành tựu quan trọng
trong các Đại hội Đảng bộ tỉnh
Những thành tựu quan trọng Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
đạt được từ Đại hội I đến Đại hội IV Bài 1:
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được thành
lập vào ngày 12/8/1991, theo Nghị quyết
của Quốc hội tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội
khóa VIII, gôm Đặc khu Vũng Tàu - Côn
Đảo và các huyện Châu Thành, Long
Đất, Xuyên Mộc thuộc tỉnh Đông Nai.
Ngay sau đó ngày 25/9/1991, Bộ Chính
trị đã có Quyết định số 64/QĐ. TW thành
lập Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đến ngày 01/11/1991 các cơ quan Đảng
bộ, chính quyền và các đoàn thể nhân
dân của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chính
thức đi vào hoạt động.
Thành công Đại hội Đảng lần thứ I
(1991-1995), với chủ trương lấy công
nghiệp dầu khí làm động lực phát triển
kinh tế, Bà Rịa - Vũng Tàu giữ vai trò
xây dựng hậu cứ cho ngành công nghiệp
Dầu khí Việt Nam. Năm 1991, Xí nghiệp
liên doanh Vietsopetro khai thác hơn 10
triệu tấn dầu thô; đến năm 1995,
Vietsopetro đạt sản lượng 26,5 triệu tấn.
Điều này góp phần quan trọng vào mức
tăng trưởng kinh tế của tỉnh cuối nhiệm
kỳ là 16,4%, vượt chỉ tiêu 16,2% theo
nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh. Nhờ đó
“công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp địa
phương đã vượt qua được nhiều chao
đảo của thời kỳ trước, đi dần vào ổn định
và đạt tốc độ tăng trưởng khá: 18,9%
năm. Số lượng, chủng loại và chất lượng
sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp của địa phương đều tăng… Kinh
tế dịch vụ phát triển đa dạng hơn, đáp
ứng một phần quan trọng nhu cầu của
sản xuất và đời sống. Nông nghiệp thực
hiện được chỉ tiêu do Đại hội I đề ra”.
Qua báo cáo của Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh khóa II, trong giai đoạn
1996 - 2000, ngành công nghiệp phát
triển tương đối nhanh, tính cả dầu khí,
mức tăng trưởng bình quân 19,56%/năm,
không tính dầu khí tăng 41,38%/năm.
Công nghiệp phát triển là nhân tố quan
trọng đảm bảo cho cơ cấu kinh tế chuyển
dịch đúng huớng cũng là điều kiện cơ bản
để tăng thu ngân sách.
Qua 10 năm xây dựng và phát triển
(từ năm 1991-2001), với hạ tầng kinh tế -
xã hội nghèo nàn, đời sống vật chất lẫn
21
tinh thần của đại bộ phận người dân đều
thiếu thốn, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có
sự phát triển vượt bậc. Báo cáo chính trị
tại Đại hội III nhận định: “Tỉnh đã cơ
bản thanh toán xong hàng trăm tỷ đồng
nợ ngân sách và tăng được vốn đầu tư
của địa phương lên gấp đôi so với giai
đoạn 1992-1995… Cơ sở vật chất kỹ
thuật tiếp tục được cải tạo, nâng cấp…
Mạng lưới thông tin liên lạc, bưu chính
viễn thông được mở rộng đáp ứng tốt các
yêu cầu của đời sống xã hội… Đời sống
vật chất, văn hóa, tinh thần của đông
đảo nhân dân được cải thiện rõ. Đặc
biệt, trong công cuộc xây dựng nông
thôn mới, các vùng nông thôn đã có
những thay đổi căn bản. An ninh chính
trị được đảm bảo…”.
Trên cơ sở những thành tựu quan
trọng đã đạt được, Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh đã đề ra mục tiêu tổng quát đến
năm 2010 là “Phấn đấu để đến năm
2010, Bà Rịa - Vũng Tàu cơ bản trở
thành một trong những trung tâm công
nghiệp, du lịch và khai thác hải sản của
khu vực và cả nước, một thương cảng
quốc gia và quốc tế”, trong đó Đại hội
III cũng đề ra mục tiêu ngắn hạn cho 5
năm tiếp theo (2001-2005) là: Tận dụng
được lợi thế so sánh phát triển nhanh và
vững chắc kinh tế địa phương, đặc biệt là
nâng cao lực hiệu quả sản xuất kinh
doanh và các ngành, các lĩnh vực kinh tế
trọng yếu: công nghiệp, du lịch, thương
mại - dịch vụ, hải sản, nông nghiệp.
Thực hiện chủ trương phát triển
công nghiệp phải gắn liền với việc “hình
thành các KCN tập trung” và “phát triển
các KCN phải đi đôi với thu hút đầu tư
nước ngoài”, tỉnh cũng đã triển khai
hàng loạt các giải pháp như: cải cách thủ
tục hành chính, cải thiện môi trường đầu
tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh - PCI … đến cuối giai đoạn
2000-2010, Bà Rịa - Vũng Tàu từ một
địa phương ít được biết đến trong thu hút
đầu tư nước ngoài, đã trở thành một
trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về lĩnh
vực này; từ 8 dự án nước ngoài được cấp
phép, đã lên đến 280 dự án, với tổng vốn
đăng ký 27,2 tỷ USD; cùng 341 dự án
đầu tư trong nước, tổng vốn đăng ký
135.915 tỷ đông. 14 KCN với quy mô
8.800 ha được hình thành, trong đó 7
KCN hình thành trước năm 2006 với tỷ
lệ lấp đầy là 77%.
Từ định hướng của đại hội IV, phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh
ngày càng gắn kết với quy hoạch phát
triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
theo phê duyệt của Chính phủ. Các hướng
quy hoạch, phát triển về kinh tế và đô thị
dần định hình, phù hợp với tiềm năng và
lợi thế từng địa phương.
22
Như vậy, qua 2 kỳ Đại hội Đảng bộ
tỉnh khóa III và khóa IV, định hướng -
quy hoạch phát triển kinh tế biển có thêm
cơ sở “hiện thực hóa”. Riêng với mục
tiêu xây dựng Bà Rịa - Vũng Tàu thành
thương cảng quốc gia và quốc tế, dịch vụ
cảng biển dần được xác định là xương
sống của nền kinh tế, là động lực cho sự
tăng trưởng và dần thay thế vai trò của
ngành dầu khí đối với tăng trưởng kinh tế
của tỉnh trong tương lai. Một loạt các dự
án cảng biển dọc quốc lộ 51 được triển
khai song song với hệ thống giao thông
vành đai cảng. Đến năm 2010, toàn tỉnh
đã quy hoạch 55 cảng biển, đưa vào khai
thác 21 cảng với công suất 45 triệu
tấn/năm. 2 cảng nước sâu là SP-PSA,
Tân Cảng - Cái Mép đã đón tàu trọng tải
100-110 ngàn tấn. Doanh thu từ dịch vụ
cảng không ngừng tăng lên, năm 2006
đạt 427 tỷ đông, năm 2010 đạt 1.313 tỷ
đông. Khu công nghiệp, cảng biển càng
phát triển càng nâng cao lợi thế so sánh
của tỉnh trong thu hút đầu tư. Hiệu quả
kinh tế từ hoạt động cảng tác động mạnh
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh,
góp phần nâng tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ vào năm 2010 lên hơn 96%..
http://congdoanbrvt.org.vn
Liên đoàn lao động tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu
Những thành tựu quan trọng từ kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ V (nhiệm kỳ 2010-2015)
Dù phải đối mặt với nhiều thách
thức nhưng trong 5 năm qua (2010-2015)
Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu đã nỗ lực khắc phục
khó khăn, đạt được những thành tựu
quan trọng, có 56/71 chỉ tiêu chủ yếu đạt
và vượt so với Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ V đề ra. Kinh tế phát triển
đúng hướng; hệ thống cảng biển được
đầu tư mạnh mẽ; thu hút được nhiều dự
án du lịch chất lượng cao; thu ngân sách
đầu năm đề vượt kế hoạch, đóng góp 15-
20% cho ngân sách quốc gia; các lĩnh
vực văn hóa - xã hội có bước tiến bộ;
chất lượng cuộc sống của nhân dân được
nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh.
Quốc phòng an ninh được củng cố vững
chắc, giữ vững ổn định chính trị xã hội.
Đặc biệt chú trọng công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; thực
23
hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI
về một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay, Chỉ thị 10-CT/TW về
nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ và
Chỉ thị 03-CT/TW về Tiếp tục đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hô Chí Minh, đáp ứng được yêu cầu
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức Đảng và đảng viên.
Về kinh tế: Trong 9 nhiệm vụ chủ
yếu được thông qua tại đại hội Đảng bộ
lần thứ V, nhiệm vụ đầu tiên đặt ra
là: “Phát huy lợi thế biển, bờ biển, thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng tỷ trọng dịch vụ…”.
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại
hội VI đánh giá “kinh tế duy trì đúng
mức, tăng trưởng hợp lý; cơ cấu kinh tế
tiếp tục chuyển dịch đúng hướng tăng
dần tỷ trọng dịch vụ; các ngành công
nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp có bước
phát triển; huy động vốn đầu tư toàn xã
hội và thu ngân sách đạt khá; Trong 10
chỉ tiêu chủ yếu có 5 chỉ tiêu vượt so với
Nghị quyết gồm: dịch vụ du lịch, giá trị
xuất khẩu, tổng thu ngân sách nội địa
vượt, giá trị sản xuất nông nghiệp, tỷ lệ
xã đạt tiêu chí quốc gia về xây dựng
nông thôn mới; Cơ cấu kinh tế trừ dầu
khí: công nghiệp - xây dựng chiếm
55,5% (giảm 1,97%; dịch vụ chiếm
34,57% (tăng 1,67%) và nông - lâm -
ngư nghiệp chiếm 9,93% (tăng 0,3%)”.
Về Văn hóa xã hội: Các lĩnh vực
giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao
được quan tâm đầu tư, tiếp tục phát triển;
các vấn đề xã hội được tích cực chăm lo;
đời sống người dân tiếp tục được cải thiện.
Phát triển kinh tế luôn đi đôi với
quan tâm giải quyết tốt các vấn đề xã
hội, phát triển văn hóa, cải thiện đời sống
vật chất lẫn tinh thần của nhân dân, quan
điểm này được Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu đặt thành nhiệm vụ xuyên suốt
ở tất cả các nhiệm kỳ. Chỉ sau 10 đầu
thành lập, Bà Rịa - Vũng Tàu đã có hệ
thống hạ tầng cơ sở phục vụ hoạt động
giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe,
văn hóa - thể thao khang trang, đông bộ.
Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong
những địa phương dẫn đầu cả nước về
đội ngũ giáo viên đạt chuẩn 100% ở cả 3
bậc học, trong đó bậc mầm non, tiểu học,
trung học cơ sở có 70-90% giáo viên trên
chuẩn; đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi trước thời hạn chung
của cả nước đến 7 năm, và tiếp tục về
đích phổ cập giáo dục THCS trước 6
năm; hoàn thành phổ cập mầm non cho
trẻ 5 tuổi trước 01 năm. Chất lượng giáo
dục của BRVT cũng khẳng định bằng kết
quả: tỉnh liên tục đứng trong tốp những
địa phương phía Nam có tỷ lệ học sinh
24
đậu cao đẳng, đại học chính quy, học
sinh đạt giải thưởng học sinh giỏi cấp
quốc gia cao nhất.
Chăm sóc sức khỏe cho nhân dân,
phải bắt đầu tư cơ sở, từ những địa bàn
vùng sâu, vùng xa, từ đối tượng người có
thu nhập thấp, nên so với cả nước, BR-
VT cũng là một trong những địa phương
hoàn chỉnh sớm nhất hệ thống trạm y tế.
Đến năm 2015, tỉnh đã có tỷ lệ 6,5 bác
sỹ/vạn dân, 49/82 xã - phường - thị trấn
đạt chuẩn quốc gia về y tế. Tăng cường
đầu tư cho ngành y tế theo chủ trương
của Đảng bộ tỉnh khóa V, tỉnh đã đầu tư
1.950 tỷ đông nâng cấp, trang bị phương
tiện, thiết bị cho các cơ sở y tế toàn tỉnh.
Đặc biệt, năm 2015, bệnh viện đa khoa
Bà Rịa, với tổng kinh phí xây dựng, mua
sắm, bổ sung thiết bị trên 2000 tỷ đông,
đã đưa vào sử dụng.
Về Quốc phòng an ninh: Với quan
điểm mang tính chiến lược là “phát
triển KT-XH phải đi đôi với củng cố
QP-AN” được Đảng bộ - Chính quyền
tỉnh BR-VT thấm nhuần sâu sắc. Trong
lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược phát triển
KT-XH trên địa bàn tỉnh luôn gắn liền
với tăng cường xây dựng, củng cố tiềm
lực QP-AN, xây dựng khu vực phòng
thủ của tỉnh ngày càng vững chắc.
Hàng năm, công tác tuyển quân ở 3
cấp đều đạt chỉ tiêu 100%, trong đó tỷ lệ
đảng viên tham gia nhập ngũ vượt chỉ
tiêu theo quy định; Xây dựng thế trận
khu vực phòng thủ vững chắc, đáp ứng
yêu cầu bảo vệ địa phương trong thời
bình và sẵn sàng chuyển thành thế trận
chiến tranh nhân dân khi có chiến tranh,
Đảng ủy - Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh đã
tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh lãnh
đạo, chỉ đạo tốt việc kết hợp kinh tế - xã
hội với Quốc phòng an ninh ở từng khu
vực và trên toàn địa bàn. Giải pháp kết
hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
được cụ thể hóa trong kế hoạch phát triển
tổng thể của tỉnh. Trong đó, việc đầu tư
xây dựng các dự án, công trình trọng
điểm của tỉnh trong giai đoạn 2010-2015
càng thể hiện rõ nét yêu cầu phát triển
sản xuất, kinh doanh gắn kết chặt chẽ với
nhiệm vụ Quốc phòng an ninh trong khu
vực phòng thủ.
Về Công tác xây dựng Đảng, chính
quyền: Nhiều Đảng bộ, đơn vị, địa
phương gắn việc thực hiện Chỉ thị 03-
CT/TW với thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp
bách trong xây dựng Đảng hiện nay, Chỉ
thị 10-CT/TW, của Ban Bí thư về nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, Quy
định 101 về trách nhiệm nêu gương, Quy
định 47 về những điều đảng viên không
được làm. Các cấp ủy Đảng, chính
quyền, mặt trận đoàn thể, doanh nghiệp
25
cụ thể hóa các nội dung học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hô Chí Minh,
gắn với nhiệm vụ chuyên môn. Phong
trào học và làm theo tấm gương đạo đức
Hô Chí Minh ngày càng lan tỏa sâu rộng
trong mọi thành phần, đối tượng. Do đó,
chất lượng, hiệu quả hoạt động của cả hệ
thống chính trị ngày càng nâng lên. Công
tác cải cách thủ tục hành chính theo mô
hình “một cửa liên thông”, được nhân
dân đánh giá cao.
Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân
dân các cấp ngày càng hoàn thiện về tổ
chức, có nhiều đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động theo hướng ngày càng cụ
thể, thiết thực, hiệu quả, hướng về cơ sở;
thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận
động nhân dân, nhân sỹ trí thức, chức sắc
tôn giáo, đông bào dân tộc thiểu số, ủng
hộ, đông thuận và tích cực thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng chính
sách, pháp luật của Nhà nước; các phong
trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động
ngày càng thiết thực, có tác dụng tuyên
truyền giáo dục sâu, rộng; thường xuyên
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng nhân dân và phản ánh kịp thời với
cấp ủy, chính quyền, góp phần củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
(Bài viết có sử dụng tài liệu Đề
cương tuyên truyền Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ VI của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ).
Nguyễn Văn Cường
Ban Tuyên giáo LĐLĐ tỉnh BR-VT
http://congdoanbrvt.org.vn
Liên đoàn lao động tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu
Dầu khí là một trong những ngành đóng góp lớn vào sự phát triển
kinh tế của tỉnh
26
27
PHẦN 2.
ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BR-VT LẦN THỨ V
28
29
Những dấu mốc nhiệm kỳ 2010 - 2015 .
Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2010-2015, Bà
Rịa - Vũng Tàu đã đạt được những thành tựu nổi bật trên tất cả các lĩnh vực. Mỗi
dấu mốc là một dấu ấn khẳng định sự phát triển ổn định, bền vững và đi lên về mọi
mặt của Bà Rịa - Vũng Tàu.
Xác định giáo dục - đào tạo là
một trong lĩnh vực quan trọng, tỉnh
đã dành khoản ngân sách lớn đầu tư
hệ thống trường lớp và bôi dưỡng,
nâng cao trình độ giáo viên. Đặc
biệt, tỉnh đã bố trí hơn 500 tỷ đông
để xây mới trường THPT chuyên
Lê Quý Đôn có diện tích khuôn
viên rộng gần 9ha tại đường 3-2
(Tp. Vũng Tàu). Quy mô xây dựng
24.770m2, gôm: 42 phòng học, có
khả năng đón nhận 1.260 học sinh;
26 phòng thực hành; 2 thư viện sách
và điện tử, phòng hiệu bộ, hội
trường… phục vụ các hoạt động
học tập, nghiên cứu và hoạt động
quản lý hành chính. Khu rèn luyện
thể chất gôm 1 nhà tập đa năng diện
tích 3.000m2, 1 sân bóng đá diện
tích gần 4.000m2, sân tập tạ, hố
nhảy cao, nhảy xa, đường chạy với
tổng diện tích 2.400m2. Ngoài ra,
còn có khu ký túc xá 5 tầng, câu lạc
bộ và nhà ăn phục vụ cho khoảng
630 học sinh và cán bộ, giáo viên.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
cũng được tỉnh đặc biệt chú trọng, nổi bật là
đã dành gần 2.000 tỷ đông để đầu tư xây mới
Bệnh viện Bà Rịa, có quy mô 700 giường
được xây dựng trên khu đất rộng 73.357m2,
thuộc phường Long Tâm (Tp. Bà Rịa). Bệnh
viện bao gôm 11 khối nhà được thiết kế thành
37 khoa, phòng, trong đó có 20 khoa lâm
sàng, 9 khoa cận lâm sàng và 8 phòng chức
năng. Bệnh viện được đầu tư nhiều trang thiết
bị hiện đại, mới, đông bộ (máy cộng hưởng
từ 1.5 tesla, hệ thống chụp mạch máu DSA,
máy CT scan 128 lát cắt, cùng hệ thống vận
chuyển mẫu tự động, hệ thống nội soi vi phẫu
thuật hiện đại…). Khi đi vào hoạt động, trung
bình mỗi ngày, Bệnh viện tiếp nhận từ 1.800
Trường THPT Chuyên Lê Quý Đôn
30
đến 2.000 lượt bệnh nhân khám
ngoại trú và từ 500 đến 700 bệnh
nhân nội trú.
Tháng 5-2012, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu chính thức di dời các cơ
quan hành chính - chính trị tỉnh từ
Tp. Vũng Tàu về Tp. Bà Rịa. Công
trình Trung tâm Hành chính - Chính
trị tỉnh tại Tp. Bà Rịa gôm: Trung
tâm Hội nghị; Trụ sở cơ quan Khối
Đảng và đoàn thể; Trụ sở cơ quan
Khối chính quyền; Khối phục vụ và
hạ tầng kỹ thuật. Trung tâm Hành
chính - Chính trị tỉnh phục vụ cho
hơn 40 cơ quan Đảng, hành chính,
đoàn thể cấp tỉnh làm việc, hội họp,
học tập, giao dịch. Việc di dời
Trung tâm Hành chính - Chính trị từ
Tp. Vũng Tàu về Tp. Bà Rịa đã góp
phần quan trọng chỉnh trang đô thị,
cải cách thủ tục hành chính, giúp
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành của lãnh đạo tỉnh và các sở,
ban, ngành được thuận tiện hơn;
đông thời tạo điều kiện thuận lợi cho nhân
dân, doanh nghiệp khi đến làm việc, giao dịch.
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, tỉnh đặc biệt
quan tâm đến công tác xóa đói giảm nghèo. 5
năm qua, tỉnh đã triển khai nhiều chủ trương,
chính sách, chương trình xóa đói giảm nghèo
như: đào tạo nghề cho lao động nông thôn,
đẩy mạnh giải quyết việc làm, hỗ trợ vốn, cây
con - giống để sản xuất kinh doanh, tặng bò
giống, xây nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo…
Nhờ đó, công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh
đã đạt được những kết quả tích cực, trở thành
điểm sáng của cả nước. Đến nay, số hộ nghèo
theo chuẩn tỉnh chỉ còn 1,51%, theo chuẩn
quốc gia còn 0,57%.
Thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-
TTg ngày 22-6-2007 của Thủ tướng Chính
phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên
thông tại cơ quan hành chính nhà nước, đến
nay, toàn tỉnh có 19/19 sở, ban, ngành (chưa
bao gôm các cơ quan Trung ương đóng trên
địa bàn tỉnh), 8/8 UBND cấp huyện, 82/82
UBND cấp xã triển khai thực hiện cơ chế một
cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ
tục hành chính (TTHC). 100% cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp
huyện, UBND cấp xã đã được đầu tư trang
thiết bị vi tính; xây dựng hệ thống mạng nội
bộ thông suốt để phục vụ cho giải quyết công
việc. Cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức
độ 1, 2 đối với tất cả các TTHC, mức độ 3:
284 TTHC, mức độ 4: 105 TTHC.
Trung tâm Hành chính - Chính trị tỉnh
31
Du lịch là ngành kinh tế mũi
nhọn của tỉnh. Để phát triển ngành
này, tỉnh đã có nhiều chính sách ưu
đãi và tạo mọi điều kiện thuận lợi
để các nhà đầu tư triển khai dự án
du lịch trên địa bàn, nổi bật là ngày
26-7-2013, Công ty TNHH Dự án
Hô Tràm (Hô Tràm Strip) đã khai
trương khu nghỉ dưỡng đầu tiên
mang tên The Grand Hô Tràm Strip
tại xã Phước Thuận, huyện Xuyên
Mộc. The Grand Hô Tràm Strip có
541 phòng lưu trú, trung tâm hội
nghị, 13 nhà hàng và quầy bar, spa,
khu vui chơi thiếu niên và trẻ em, 3
hô bơi ngoài trời, cửa hàng thời
trang, trung tâm casino, sân golf...
Đây là dự án du lịch lớn nhất cả
nước, có tổng vốn đầu tư hơn 4 tỷ
USD. Hiện tại đã có 1.800 lao động
làm việc tại khu du lịch nghỉ dưỡng
này. The Grand Hô Tràm Strip
được kỳ vọng sẽ thay đổi vùng Hô
Tràm - Xuyên Mộc nghèo khó xưa
thành trung tâm du lịch nối liền dải
ven biển của tỉnh, kết nối BR-VT
với tuyến ven biển Nam Trung Bộ
trong phát triển du lịch.
Cùng với du lịch, 5 năm qua,
tỉnh đã quan tâm phát triển lĩnh vực
thương mại, dịch vụ. Từ các chính
sách ưu đãi của tỉnh, nhiều DN
trong và ngoài nước đã đến Bà Rịa -
Vũng Tàu đầu tư hàng ngàn tỷ đông xây dựng
các siêu thị, trung tâm mua sắm lớn như:
Co.op Mart Vũng Tàu, Co.op Mart Bà Rịa,
Lotte Mart Vũng Tàu, Nguyễn Kim,
Dienmay.com, Thegioididong.com, Lam Sơn
Square, … Riêng Lotte Mart đầu tư 34,4
triệu USD; Lam Sơn Square đầu tư 150 tỷ
đông. Sự ra đời của các siêu thị, trung tâm
mua sắm đã góp phần làm sôi động thị
trường bán lẻ, đáp ứng tốt nhu cầu mua sắm,
tham quan, giải trí của người dân trong tỉnh
và du khách, góp phần quan trọng phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
Các dự án khí - điện - đạm được đưa vào
vận hành tại BR-VT đã đóng góp đáng kể cho
sự tăng trưởng kinh tế của cả nước, đặc biệt là
bảo đảm cung ứng năng lượng và phân bón
phục vụ các lĩnh vực sản xuất. Cụ thể, các
Nhà máy điện trên địa bàn Bà Rịa - Vũng Tàu
chiếm 40% tổng công suất điện năng của cả
nước (hơn 4.000 MW trên tổng số gần 10.000
MW của cả nước), đóng góp đáng kể vào việc
giữ vững an ninh năng lượng quốc gia nói
riêng và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước nói chung. Nhà máy Đạm Phú Mỹ
chiếm 40% thị phần phân đạm toàn quốc. PV
Gas cung cấp 9.771 triệu m3 khí (khí khô
9.540 triệu m3, khí ẩm 231 triệu m3), 48.000
tấn condensate, sản xuất và tiêu thụ 960.000
tấn LPG đáp ứng hơn 70% nhu cầu LPG của
cả nước.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
32
Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị giai đoạn 2010-2015: Kinh tế phát triển, chất lượng đời sống được nâng cao
Trong 5 năm (2010-2015), mặc dù có nhiều khó khăn thách thức nhưng Đảng
bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh BR-VT vẫn đạt được những thành quả quan
trọng. Kinh tế phát triển đúng hướng; thu ngân sách hàng năm đều vượt kế hoạch
có đóng góp lớn cho ngân sách quốc gia; chất lượng cuộc sống của nhân dân được
nâng lên, quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc.
Khai thác, sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực
Đông chí Trương Tấn Sang, Uy viên
Bộ Chính trị, Chủ tịch nước tại buổi làm
việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy BR-VT
giữa tháng 8-2015 đánh giá: Nhìn về
tổng quan, BR-VT có nền kinh tế phát
triển, với các thế mạnh về kinh tế biển,
cụ thể là công nghiệp khai thác dầu khí,
cảng biển, du lịch, đánh bắt hải sản.
Bằng định hướng chiến lược đúng đắn,
qua nhiều giai đoạn, tỉnh đã gặt hái nhiều
kết quả đáng mừng về phát triển cơ sở hạ
tầng; có hệ thống giao thông hiện đại,
thông suốt kết nối từ thành thị đến nông
thôn, từ tỉnh với các tỉnh, thành trong
khu vực, tạo điều kiện cho du lịch, sản
xuất, giao thương phát triển trong xu
hướng liên kết vùng. “Có kết quả đó
chính là nhờ sự định hướng, lãnh đạo, chỉ
đạo đúng đắn của Đảng bộ; sự vận dụng
linh hoạt của chính quyền các cấp trong
triển khai Nghị quyết của Đảng bộ, nhất
là chú trọng khai thác, sử dụng có hiệu
quả các nguôn lực; sự nỗ lực của từng
người dân trong lao động, sản xuất,
chung tay xây dựng quê hương BR-VT”,
Chủ tịch nước nói.
Đông chí Nguyễn Văn Trình, Chủ
tịch UBND tỉnh BR-VT cho biết, 5 năm
qua, kinh tế của tỉnh BR-VT đã duy trì
được mức tăng trưởng hợp lý; cơ cấu
kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng
tăng dần tỷ trọng dịch vụ; các ngành
công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp có
bước phát triển; huy động vốn đầu tư
toàn xã hội và thu ngân sách đạt khá. Cụ
thể là, trong 10 chỉ tiêu chủ yếu có 5 chỉ
tiêu vượt so với Nghị quyết gôm: dịch vụ
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (giữa) đi thị sát tiến độ
thi công giàn khoan 90m nước tại cảng PV Shipyard
33
du lịch, giá trị xuất khẩu, tổng thu ngân
sách nội địa, giá trị sản xuất nông
nghiệp, tỷ lệ xã đạt tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới. Trong cơ cấu kinh tế (trừ
dầu khí), công nghiệp - xây dựng chiếm
54,37% (giảm 3,1%); dịch vụ chiếm
33,96% (tăng 1,06%) và nông - lâm -
ngư nghiệp chiếm 11,66% (tăng 2,03%).
GRDP bình quân đầu người trừ dầu khí
năm 2015 đạt 5.233 USD. Về phát triển
công nghiệp, cơ cấu ngành công nghiệp
đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm
dần tỷ trọng công nghiệp khai thác, tăng
dần tỷ trọng công nghiệp chế biến; sản
phẩm công nghiệp ngày càng đa dạng,
có thêm nhiều sản phẩm mới; một số
sản phẩm công nghiệp đã trở thành
nguyên liệu đầu vào cho các sản phẩm
công nghiệp khác; có 12 sản phẩm sử
dụng công nghệ cao, tiêu tốn ít năng
lượng, có sức cạnh tranh. Đầu tư phát
triển trong các KCN cũng chiếm tỷ lệ
cao, quyết định tốc độ tăng trưởng của
ngành công nghiệp. Toàn tỉnh có 323
dự án công nghiệp đang hoạt động;
trong đó, các KCN có 204 dự án, qua 5
năm đóng góp cho ngân sách 31,31 ngàn
tỷ đông, thu hút thêm 15.700 lao động,
nâng tổng số lao động trong các KCN lên
48.000 người.
Hệ thống cảng biển được chú trọng
đầu tư, đã có thêm 4 dự án lớn đưa vào
hoạt động, nâng tổng số dự án cảng biển
đang hoạt động lên 28 cảng với tổng
công suất xử lý hàng hóa khoảng 98 triệu
tấn/năm; lượng hàng thông qua cảng
bình quân hàng năm đạt 36 triệu tấn, đặc
biệt đã đón được tàu có trọng tải đến
160.000 tấn đi thẳng các nước châu Âu,
châu Mỹ. Hạ tầng giao thông kết nối hệ
thống cảng với các đường, quốc lộ từng
bước được hoàn thiện; đã hoàn thành
tuyến đường 965, nâng cấp Quốc lộ 51;
đang đầu tư đường liên cảng Cái Mép -
Thị Vải, chuẩn bị xây dựng đường 991B,
Phước Hòa - Cái Mép và quy hoạch,
chọn nhà đầu tư Trung tâm Dịch vụ hậu
cần cảng Cái Mép Hạ.
Riêng về đầu tư phát triển, đông chí
Nguyễn Phước Lễ, Giám đốc Sở KH-ĐT
cho hay, tổng vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội trong 5 năm qua đạt 173.909 tỷ
đông, gấp 1,8 lần giai đoạn trước. Trong
đó vốn ngân sách chiếm 16%, vốn đầu tư
của DN chiếm 84%; thu hút thêm 219 dự
án đầu tư, gôm 76 dự án đầu tư nước
ngoài với tổng vốn đăng ký 2,4 tỷ USD,
143 dự án đầu tư trong nước với tổng
vốn đăng ký 78.119 tỷ đông. Từ nguôn
vốn ngân sách và DN đã có 368 công
trình, dự án mới ra đời, trong đó có một
số công trình, dự án lớn, cả về sản xuất
kinh doanh và hệ thống các công trình
phúc lợi xã hội. Điều đó đã giúp tạo cơ
34
hội việc làm cho người lao động, nâng
cao mức hưởng thụ của người dân.
Chú trọng an sinh xã hội
Đông chí Lê Thanh Dũng, Phó Chủ
tịch UBND tỉnh cho biết, song song với
phát triển kinh tế, các lĩnh vực giáo dục,
đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao được
quan tâm đầu tư, tiếp tục phát triển; các
vấn đề xã hội được tích cực chăm lo; đời
sống người dân tiếp tục được cải thiện.
Trong 5 năm qua, tỉnh đã đầu tư xây
dựng mới 42 trường học với tổng số tiền
4.369 tỷ đông, nâng tổng số trường học
các cấp từ 382 lên 424 trường, trong đó
có 187 trường đạt chuẩn quốc gia, chiếm
tỷ lệ 44,4%. Đội ngũ giáo viên bảo đảm
số lượng, cơ cấu và đạt chuẩn trình độ.
Chất lượng giáo dục và đào tạo được
nâng lên; tỉnh đã đạt chuẩn phổ cập giáo
dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, giữ vững kết
quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ
tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở;
tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT, thi đậu
các trường đại học, cao đẳng hàng năm
đều tăng. Hệ thống 5 trường đại học, cao
đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và 34 cơ
sở đào tạo nghề đã được củng cố, đáp
ứng nhu cầu học tập của học sinh. Công
tác đào tạo nghề được quan tâm, tỷ lệ lao
động qua đào tạo đạt 70%; giải quyết
việc làm cho 195.450 lượt lao động, vượt
13% so với Nghị quyết.
Về y tế, chất lượng khám, chữa bệnh
cho nhân dân từng bước được nâng lên
bằng nhiều giải pháp như: điều động luân
phiên cán bộ y tế, nhận chuyển giao kỹ
thuật từ tuyến trên xuống tuyến dưới;
đưa bác sĩ, y sĩ từ các bệnh viện tuyến
tỉnh xuống khám chữa bệnh tại các xã
vùng nông thôn. Tỉnh đầu tư từ ngân
sách trên 1.950 tỷ đông để xây dựng,
mua sắm trang thiết bị, nâng cấp các cơ
sở y tế; đưa vào sử dụng Bệnh viện Đa
khoa Bà Rịa, Ban Bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe cán bộ, Trung tâm Chăm sóc sức
khỏe sinh sản, Trung tâm Y tế các huyện
Đất Đỏ, Xuyên Mộc, Long Điền, nhờ đó
đã tăng thêm 550 giường bệnh. Có 697
cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân hoạt
động khá hiệu quả; hàng năm, các cơ sở
y tế đã khám, chữa bệnh cho trên 2 triệu
lượt người; có 6,5 bác sĩ/vạn dân, 49/82
xã, phường, thị trấn đạt bộ tiêu chí quốc
gia về y tế xã.
Về thực hiện các chính sách xã hội, 5
năm qua, tỉnh đã triển khai nhiều hoạt
động về giảm nghèo đạt kết quả tích cực,
tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn tỉnh còn
1,32%, theo chuẩn quốc gia còn 0,47%;
phụng dưỡng tất cả các Mẹ Việt Nam
Anh hùng; quan tâm, chăm lo, hỗ trợ các
gia đình chính sách; công tác dân tộc và
các chương trình, đề án phát triển kinh tế
- xã hội cho đông bào dân tộc thiểu số
được đẩy mạnh, đạt kết quả tích cực.
35
Về phát triển nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới, tỉnh đã huy động
được gần 5.550 tỷ đông, trong đó vốn
ngân sách 1.880 tỷ đông, chiếm 34,3%;
thu nhập bình quân đầu người ở các xã
nông thôn mới đạt 34 triệu đông/năm; có
18/43 xã đạt tiêu chí nông thôn mới (đạt
42%, vượt 22% so với chỉ tiêu Nghị
quyết). Sản xuất nông nghiệp có nhiều
tiến bộ; tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 37,7%
lên 44%, hình thành các vùng chăn nuôi
tập trung ở một số huyện; ứng dụng
KHCN trong lĩnh vực trông trọt từng
bước được nâng lên, cơ cấu cây trông
được chuyển đổi sang những loại có giá
trị cao, góp phần tăng năng suất và nâng
cao giá trị sản phẩm; giá trị sản xuất trên
1ha đất đạt 91,2 triệu đông, tăng 38 triệu
đông so với năm 2010.
Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn
Trình khẳng định: “Có được những thành
tựu kể trên là nhờ có sự quan tâm của
Trung ương, kịp thời đề ra nhiều chủ
trương, cơ chế, chính sách hiệu quả về ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội; chỉ đạo, giải quyết kịp thời những
khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của tỉnh.
Đảng bộ tỉnh cũng luôn giữ vững sự
đoàn kết, thống nhất, tạo được đông
thuận cao trong nhân dân đối với việc
triển khai và tổ chức thực hiện các chủ
trương, Nghị quyết của Trung ương và
của tỉnh. Bản thân lãnh đạo địa phương
cũng đã chủ động, sáng tạo, bám sát thực
tiễn, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành,
cùng với sự nỗ lực phấn đấu, vượt khó
khăn của cả hệ thống chính trị, của các
cấp, các ngành, cộng đông DN, lực
lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân,
quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của tỉnh trong 5 năm qua”.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Ngành công nghiệp phát triển đúng định hướng
Công nghiệp được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm tỷ trọng hơn 54%
trong cơ cấu kinh tế của BR-VT. Trong 5 năm qua, ngành công nghiệp có bước phát
triển nhanh, tạo được nhiều sản phẩm mới giá trị cao.
Thêm nhiều sản phẩm chủ lực
Sau 5 năm kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đầu tư và sau 3 năm kể từ
ngày khởi công xây dựng, cuối tháng 6-
2015, tại KCN Phú Mỹ I (huyện Tân
Thành), Công ty Posco SS Vina đã tổ
chức khánh thành nhà máy thép thanh và
thép hình cỡ lớn. Dự án Nhà máy thép
Posco SS Vina nằm trong quy hoạch phát
triển ngành thép Việt Nam và được Thủ
36
tướng Chính phủ chấp thuận đầu tư tại
Văn bản số 1881/VPCP-QHQT ngày 24-
3-2010. Ông Kim Jin Il, Giám đốc Công
ty Posco SS Vina cho biết, được triển
khai từ năm 2012 với số vốn đầu tư 600
triệu USD, Posco SS Vina đã đầu tư cảng
chuyên dụng để bốc xếp nguyên liệu và
thành phẩm của nhà máy thép hình, thép
thanh và luyện phôi bằng điện với công
suất 1,2 triệu tấn/năm. Nhà máy vừa có
thể sản xuất thép hình H, U, V, vừa có kế
hoạch sản xuất loại thép hình V không
đều cạnh, là nguyên liệu cao cấp đang
được sử dụng trong ngành công nghiệp
đóng tàu. Thép được sản xuất tại nhà
máy có chiều dài từ 6-12m, đáp ứng yêu
cầu đa dạng của thị trường. Nhà máy của
Posco SS Vina giải quyết việc làm cho
hơn 800 lao động, trong đó có nhiều lao
động tại địa phương và các vùng lân cận.
Đa phần dự án đầu tư trong 5 năm
trở lại đây đều sử dụng công nghệ hiện
đại, sản phẩm làm ra có chất lượng và
sức cạnh tranh tốt trên thị trường. Một số
ngành hiện đang nắm giữ công nghệ tiên
tiến nhất trong cả nước như thép, xi
măng, đóng tàu... Ngành đóng tàu đang
là một thế mạnh của địa phương. Từ cuối
năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt quy hoạch ngành đóng tàu Việt
Nam, trong đó KCN Đông Xuyên (Tp.
Vũng Tàu) được chọn nằm trong vùng
quy hoạch gắn với phát triển ngành công
nghiệp hỗ trợ. Nhiều DN ngành đóng tàu
đã đầu tư đổi mới công nghệ, hàng năm
xuất xưởng nhiều con tàu giá trị lớn.
Công ty TNHH Vard Vũng Tàu (KCN
Đông Xuyên, Tp. Vũng Tàu) là một ví
dụ. Hiện tại, Công ty đang có khoảng
1.400 lao động làm việc thường xuyên.
Ông Trần Thanh Bình, Phó Tổng giám
đốc Công ty TNHH Vard Vũng Tàu cho
biết, Công ty đặt mục tiêu xây dựng một
nhà máy đóng tàu có thể đóng những con
tàu chuyên dụng hiện đại, do đó đã đầu
tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị, trong
đó có cầu cảng neo đậu được tàu chuyên
dụng đến 7.000DWT và ụ nổi dùng để hạ
thủy tàu có chiều dài 120m, chiều rộng
lòng 32m và có sức nâng 7.500 tấn.
“Tính đến thời điểm này, chúng tôi đã
bàn giao 11 tàu các loại cho khách hàng
Mỹ, Na Uy, Úc, Singapore. Hiện Công ty
đang có 6 đơn hàng đóng tàu, bảo đảm
Sản xuất thép tại Nhà máy thép Posco SS Vina
(KCN Phú Mỹ I, huyện Tân Thành)
37
công việc cho người lao động đến quý
IV-2016. Doanh thu của Công ty đạt
1.000 tỷ đông/năm”, ông Trần Thanh
Bình cho hay.
Cơ cấu chuyển dịch mạnh mẽ
Theo bà Bùi Thị Dung, Giám đốc Sở
Công thương, 5 năm qua (2011-2015), cơ
cấu ngành công nghiệp chuyển dịch theo
đúng định hướng của Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ V đề ra, đó là giảm
tỷ trọng công nghiệp khai thác, tăng dần
tỷ trọng công nghiệp chế biến. Trong đó,
công nghiệp chế biến có tỷ trọng tăng
dần từ 41,15% năm 2010 lên 52,01%
năm 2015; công nghiệp khai khoáng
giảm từ 49,64% năm 2010 xuống còn
40,87% năm 2015. Tính đến nay, lĩnh
vực công nghiệp chế biến, chế tạo đã thu
hút 148 dự án FDI với 10,76 tỷ USD vốn
đầu tư (chiếm 49% tổng số dự án và 40%
tổng vốn đăng ký). Tỉnh đã thu hút được
các dự án sản xuất của các thương hiệu
lớn trên thế giới như Nike (Công ty
TNHH Đông Phương Vũng Tàu, Công ty
TNHH Sản xuất giày Uy Việt)...
Một trong những ngành xuất khẩu
chủ lực của tỉnh là may mặc và giày da
đã có kết quả xuất khẩu khá ấn tượng
trong 5 năm qua. Kim ngạch xuất khẩu
tăng dần qua mỗi năm và sản phẩm vào
được các thị trường khó tính như EU,
Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc. Giai đoạn
2011-2015, kim ngạch xuất khẩu 2 ngành
này luôn nằm tốp đầu các mặt hàng chủ
yếu của tỉnh với 384 triệu USD (giày da)
và 180 triệu USD (may mặc). Tỉnh đã
lựa chọn được 12 dự án sử dụng công
nghệ cao, tiêu tốn ít năng lượng, có sức
cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế, có sức lan tỏa thu hút công
nghiệp hỗ trợ và các dự án khác. Tổng
vốn đăng ký của các dự án này đạt
224,41 triệu USD và 26.870,292 tỷ đông,
gôm: Nhà máy sản xuất hợp chất
Zirconium Việt Nam; Nhà máy sản xuất
khí công nghiệp và khí y tế Linde Việt
Nam; Nhà máy sản xuất sợi, vải
Haosheng Vina; Nhà máy sợi Dunatex;
Xưởng pha trộn hóa phẩm chuyên dụng
phục vụ ngành công nghiệp dầu khí; Nhà
máy dệt TahTong Việt Nam; Công ty
TNHH Bột mì CJ-SC Toàn Cầu; Nhà
máy sản xuất pin năng lượng mặt trời;
Nhà máy chế biến khí Nam Côn Sơn 2…
Trong giai đoạn tới, công nghiệp vẫn
là ngành kinh tế chủ lực của địa phương,
do đó tỉnh phê duyệt Quy hoạch phát
triển công nghiệp giai đoạn 2011-2020,
xét đến năm 2025 với mục tiêu là phát
triển công nghiệp nhanh, bền vững, tập
trung về chất, đưa BR-VT trở thành tỉnh
công nghiệp trước năm 2020. Để hiện
thực hóa mục tiêu này, trong thời gian
tới, tỉnh sẽ tập trung 9 lĩnh vực ưu tiên
38
phát triển, bao gôm: cơ khí chế tạo, điện
tử tin học, sản xuất vật liệu xây dựng,
luyện kim, khai thác dầu khí, công
nghiệp hóa chất… “Đặc biệt là cùng với
quy hoạch công nghiệp, tỉnh đã có quy
hoạch phát triển mạnh ngành công
nghiệp hỗ trợ để tham gia chuỗi sản xuất
toàn cầu. Có thể nói, đến giai đoạn hiện
nay, quy hoạch ngành công nghiệp trên
địa bàn đã đáp ứng được định hướng
chung của tỉnh “đi trước đón đầu”, phát
triển công nghiệp công nghệ cao, mạnh
về kinh tế biển”, bà Bùi Thị Dung cho
biết thêm.
Nhiều dự án công nghiệp trên địa
bàn tỉnh phát huy được tiềm năng, thế
mạnh của địa phương. Nhiều ngành sản
xuất không chỉ có vị thế trong tỉnh mà
còn đóng vai trò quan trọng của cả
nước. Trong đó, Trung tâm điện lực Phú
Mỹ hiện chiếm gần 40% tổng sản lượng
điện quốc gia hàng năm; Nhà máy Đạm
Phú Mỹ chiếm thị phần 40% phân đạm
toàn quốc, nếu kể cả hoạt động phân bón
nhập khẩu thì chiếm đến 60% thị phần.
Đặc biệt, sản phẩm tháp gió chỉ có tại
BR-VT, là mặt hàng đem lại lợi ích kinh
tế cao và cũng là sản phẩm thân thiện
với môi trường. Tỉnh thu hút được các dự
án sản xuất nguyên vật liệu cần thiết của
nền kinh tế như: Chế biến khí, chế biến
condensate, sản xuất bột nhựa PVC, sợi,
dệt, da thuộc…
Thảo Phương
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Doanh nghiệp cam kết đầu tư lâu dài tại các KCN .
Trong 5 năm qua (2011- 2015), các KCN
trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 64 dự án,
với tổng vốn đăng ký mới hơn 1,7 tỷ USD,
diện tích đất thuê 275ha. Đáng chú ý trong
giai đoạn này là đã có nhiều dự án tăng vốn
với cam kết đầu tư lâu dài tại BR-VT.
Tăng vốn, mở rộng sản xuất
Theo đánh giá của Ban Quản lý các
KCN, điểm sáng trong giai đoạn 2011-2015
là đã có rất nhiều dự án tăng vốn đầu tư, mở
rộng sản xuất. Công ty TNHH Thép Vina
Kyoei, KCN Phú Mỹ I (huyện Tân
Thành) là một ví dụ. Trong 5 năm
qua, Công ty đã hoàn tất dự án mở
Nhiều dự án tăng vốn đầu tư trong giai
đoạn 2011-2015. Trong ảnh: Sản xuất thép
tại Công ty TNHH Vina Kyoei
39
rộng giai đoạn II với mục tiêu lắp đặt dây
chuyền luyện phôi thép 500.000 tấn/năm với
tổng vốn tăng thêm 220 triệu USD để nâng
công suất lên gần 1 triệu tấn/năm. Ông
Hiroyuki Iwasa, Tổng Giám đốc Vina Kyoei
cho biết, mặc dù trong giai đoạn này bị ảnh
hưởng mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng suy
thoái kinh tế toàn cầu, giá cả nguyên vật liệu
biến đổi liên tục, thị trường bất động sản gần
như “đóng băng” nhưng Ban lãnh đạo công
ty đã đưa ra các chính sách điều hành linh
hoạt, phù hợp, do đó mức tăng trưởng sản
xuất và kinh doanh của DN đạt 11%/năm.
Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2015, doanh
thu của Công ty đạt gần 140 triệu USD, lợi
nhuận sau thuế đạt khoảng 3,5 triệu USD.
Dự kiến trong vòng 5 năm tới, Vina Kyoei
sẽ tăng vốn đầu tư, nâng công suất sản xuất
lên 1 triệu tấn thép/năm.
Cũng trong 5 năm qua, Tập đoàn
Thoresen Thai Agencies (Thái Lan) đã 3 lần
tăng vốn đầu tư hơn 50 triệu USD để thực
hiện các dự án tại KCN Phú Mỹ I, hiện tại
đang vận hành 71.000m2 nhà kho với sức
chứa 300.000 tấn và 40.000m2 kho bãi trong
tổng diện tích 268.000m2, sản lượng đạt
220.000 tấn/năm; Nhà máy Tôn Hoa Sen
Phú Mỹ (KCN Phú Mỹ 1) tăng tổng vốn đầu
tư từ 2.775 tỷ đông lên 4.153,22 tỷ đông;
Nhà máy dệt Tah Tong Việt Nam (Công ty
TNHH Dệt Tah Tong Việt Nam) đăng ký
tăng tổng vốn đầu tư từ 14,5 triệu USD lên
22 triệu USD; Dự án Nhà máy sản
xuất khí công nghiệp Công ty TNHH
Air Water Việt Nam tăng tổng vốn
đầu tư từ 15 triệu USD lên 40 triệu
USD; Dự án Công ty TNHH ống thép
Nippon Steel Việt Nam tăng tổng vốn
đầu tư dự án từ 42 triệu USD lên 62
triệu USD...
Vốn đầu tư nước ngoài là
chủ yếu
Ông Nguyễn Anh Triết, Trưởng
Ban quản lý các KCN cho biết, trong
số 64 dự án cấp mới 5 năm qua, có 28
dự án đầu tư trong nước và 36 dự án
đầu tư nước ngoài. Về hình thức đầu
tư, vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
chiếm khoảng 81% tổng số dự án,
hình thức liên doanh chiếm khoảng
17%; còn lại là hình thức BOT chiếm
2% tổng số dự án. Đã có 27 quốc gia
và vùng lãnh thổ đầu tư vào các KCN
của tỉnh, trong đó Hàn Quốc là nhà
đầu tư có số vốn đăng ký lớn nhất 2,3
tỷ USD với 11 dự án, chiếm 27,6%
tổng vốn FDI; Đài Loan (Trung
Quốc) đứng thứ hai với vốn đăng ký
1,29 tỷ USD, chiếm 15,5% tổng vốn
đăng ký; tiếp theo là Nhật Bản, Pháp,
Anh, Malaysia, Singapore.
Tuy nhiên, giai đoạn này chưa
thu hút được các dự án công nghệ
cao, thân thiện với môi trường, có sức
40
lan tỏa đối với các dự án khác, nhất là các
dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Việc thu hút đầu tư từ các nền kinh tế lớn
như Mỹ, Đức, Nhật và khu vực Trung Đông
còn nhiều hạn chế, nhất là chưa thu hút được
các dự án đầu tư về công nghệ điện - điện tử,
vi mạch. Cũng theo ông Nguyễn Anh Triết,
giai đoạn này các nhà đầu tư tìm hiểu cơ hội
đầu tư mới không nhiều, thường là các dự án
xử lý chất thải, sản xuất hóa chất, phân bón,
giấy… là những dự án có nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường hoặc các dự án thường có
vốn đầu tư thấp, sử dụng đất không nhiều,
chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của
các KCN trên địa bàn tỉnh. Riêng các dự án
công nghiệp nặng, có quy mô lớn thuộc diện
dự án nguôn gần như không có hoặc chỉ
dừng lại ở việc khảo sát môi trường đầu tư.
Tính đến năm 2015, tại các KCN có 264
dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó có 247
dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp
(chiếm 93,56 %) và 17 dự án thuộc
lĩnh vực dịch vụ (6,44%). Đối với các
dự án đầu tư trong nước còn 133 dự
án, vốn đăng ký hơn 69 nghìn tỷ
đồng, trong đó có 123 dự án đầu tư
trong lĩnh vực công nghiệp; 10 dự án
trong lĩnh vực dịch vụ. Đối với lĩnh
vực đầu tư FDI hiện có 131 dự án,
vốn đăng ký hơn 8 tỷ USD, trong đó
có 124 dự án hoạt động trong lĩnh
vực công nghiệp sản xuất; 7 dự án
hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ. Vốn
đầu tư bình quân của dự án đầu tư
trong nước đạt 315,96 tỷ đồng/dự án;
vốn đầu tư bình quân của dự án có
vốn nước ngoài đạt 33,91 triệu
USD/dự án.
Ngô Gia
http:// baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Tổ chức hiệu quả hoạt động đánh bắt xa bờ
5 năm qua, tổng sản lượng khai thác hải sản của tỉnh luôn tăng đều với mức
tăng bình quân 3,48%/năm; từ 250.335 tấn năm 2010 đến năm 2015 ước đạt 297.000
tấn, bằng 109,75% chỉ tiêu Đại hội V đề ra. Ngành nông nghiệp đã tổ chức triển khai
thực hiện cơ cấu nghề khai thác chuyển dịch theo hướng đa nghề và khuyến khích
phát triển các nghề có hiệu quả.
Sản lượng, công suất tàu
tăng đều
Ông Trần Văn Cường, Phó
Giám đốc Sở NN-PTNT cho biết,
trên địa bàn tỉnh đã phát triển
6.277 tàu cá với tổng công suất 1.42.670CV.
Ngành đã tổ chức triển khai thực hiện cơ cấu
nghề khai thác chuyển dịch theo hướng đa nghề
và khuyến khích phát triển các nghề có hiệu quả
như lưới vây, rê, câu dàn cơ giới có sử dụng ánh
41
sáng, sử dụng ít nhiên liệu. Bên
cạnh đó, trong hoạt động khai
thác hải sản đã chú trọng kết hợp
sử dụng hiệu quả các loại máy dò
ngang, phát triển thêm nghề câu
khơi, nghề lưới rê hoạt động trong
cả vùng khơi, vùng lộng, giảm
dần tàu cá khai thác ở vùng biển
ven bờ có công suất nhỏ dưới
90CV và tăng dần tàu cá khai thác
xa bờ có công suất trên 90CV.
Đến nay, hầu hết các tàu cá
khai thác hải sản của tỉnh đều đã
trang bị các thiết bị máy móc
hàng hải hiện đại như: máy định
vị vệ tinh GPS, Icom, Movimar,
máy đo sâu, dò cá; ra đa hàng hải;
máy thu lưới, thu câu; máy tời
thủy lực. Ngư lưới cụ cũng không
ngừng được cải tiến để khai thác
có năng suất, hiệu quả kinh tế
cao, khai thác có tính chọn lọc và
bảo vệ nguôn lợi hải sản. Từ đó
cơ cấu tàu thuyền khai thác hải
sản chuyển dịch rõ nét theo
hướng vươn ra khơi xa và ứng
dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào khai thác, phù hợp với
mục tiêu Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ V đề ra. Sản
lượng khai thác năm sau luôn cao
hơn năm trước, góp phần ổn định
an ninh lương thực, tạo ra một lượng nguyên
liệu lớn phục vụ cho công nghiệp chế biến hải
sản xuất khẩu của tỉnh, giải quyết việc làm, ổn
định đời sống và tăng thu nhập cho người lao
động... Ngoài ra, phát triển đội tàu đánh bắt xa
bờ còn góp phần trong việc bảo vệ an ninh trên
vùng biển Việt Nam, đông thời giảm dần áp lực
khai thác gần bờ.
Triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ
ngư dân
Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều
chính sách tạo sự đột phá cho ngành khai thác
hải sản xa bờ, trong đó có hỗ trợ ngư dân mua
mới, đóng mới tàu đánh bắt hải sản, hỗ trợ kinh
phí bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm tai nạn cho
thuyền viên, hỗ trợ dầu; chính sách hỗ trợ giảm
tổn thất sau thu hoạch; hỗ trợ trang thiết bị
thông tin. Theo Sở NN-PTNT, thực hiện Quyết
định 48/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ
khai thác, nuôi trông và dịch vụ khai thác hải
sản trên vùng biển xa (hỗ trợ chi phí nhiên liệu,
bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm tai nạn thuyền viên,
máy thông tin liên lạc) đến nay đã phê duyệt để
Bốc hải sản sau đánh bắt lên cảng Cát Lở, Vũng Tàu
42
chi hỗ trợ với tổng số tiền hơn 40
tỷ đông cho 75 chủ tàu cá và hỗ
trợ cho 30 chủ tàu mua máy thông
tin liên lạc có tích hợp thiết bị
định vị vệ tinh (GPS). Đặc biệt,
với việc triển khai Nghị định
67/2014/NĐ-CP của Chính phủ
về một số chính sách phát triển
thủy sản, đến nay, Sở đã trình
UBND tỉnh đã phê duyệt thí điểm
3 tổ chức đủ điều kiện đóng mới
tàu cá vỏ thép làm dịch vụ hậu
cần thủy sản và 1 cá nhân đóng
mới tàu khai thác thủy sản, với
tổng kinh phí khoảng 143 tỷ
đông. Hiện nay, tỉnh cũng đang rà
soát, thẩm định để trình UBND
tỉnh xem xét phê duyệt cho phép
đóng mới 117 tàu cá của các tổ
chức, cá nhân đủ điều kiện đóng
mới theo quy định.
Ông Lê Tuấn Quốc, Giám
đốc Sở NN-PTNT cho biết, nhằm
bảo đảm sự phát triển bền vững
cho ngành khai thác thủy sản, thời
gian tới, tỉnh sẽ sắp xếp lại nghề khai thác thủy
sản theo hướng giảm dần số lượng tàu cá đến
năm 2020 còn 5.000 chiếc (tổng công suất
1.000.000CV). Đông thời phát triển khai thác
theo hướng hiện đại hóa, giảm dần số tàu nhỏ
ven bờ, những nghề khai thác hủy diệt, gây ảnh
hưởng đến nguôn lợi thủy sản; đẩy mạnh phát
triển các đội tàu thép và vật liệu mới có khả
năng vươn khơi khai thác xa bờ, nâng cao hiệu
quả khai thác, gắn khai thác thủy sản với bảo vệ
chủ quyền quốc gia và an ninh quốc phòng trên
các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Mặt khác, tỉnh
cũng từng bước chuyển dịch cơ cấu tàu thuyền
và lao động nghề cá, hạn chế và tiến tới xóa bỏ
các nghề khai thác hủy diệt, nghề khai thác kém
hiệu quả. Đối với một bộ phận ngư dân đánh bắt
ven bờ sẽ chuyển đổi sang các ngành nghề thích
hợp khác, phân cấp quản lý cho địa phương, gắn
với việc phát triển kinh tế tập thể trong các cộng
đông ngư dân. Mô hình tổ, đội hợp tác đối với
khai thác trên vùng biển khơi và mô hình đông
quản lý đối với vùng biển ven bờ hiệu quả và an
toàn cũng được tổ chức sắp xếp lại hiệu quả
hơn.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Quy hoạch phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội .
5 năm qua, công tác quản lý quy hoạch luôn được ngành xây dựng xác định là
nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Nhiều đồ án quy hoạch được triển khai thực hiện là
tiền đề, cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học, kỹ thuật để xây dựng phát triển các đô thị và
nông thôn một cách đồng bộ và bền vững, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
43
Hình thành nhiều đô thị hiện đại
Đến Tp. Bà Rịa, dễ nhận thấy là hệ
thống hạ tầng của thành phố được đầu tư
đông bộ, khang trang, hiện đại. Để có
kết quả này, theo lãnh đạo Tp. Bà Rịa,
thời gian qua, địa phương tiếp tục phát
triển theo hướng không gian mở, chủ
đạo là là trung tâm hành chính - chính
trị, kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh
BR-VT, là đô thị hành chính và dịch vụ
- thương mại giữ vai trò trọng yếu để
thực hiện kết nối vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam và khu vực cũng như
hành lang phát triển công nghiệp của
tuyến Quốc lộ 51. Với quan điểm chủ
đạo này, Tp. Bà Rịa đã xây dựng Đề án
điều chỉnh quy hoạch tổng thể không
gian của thành phố giai đoạn 2015-2020,
tầm nhìn đến năm 2030, qua đó rà soát
và điều chỉnh các đề án quy hoạch chi
tiết các khu dân cư, các dự án phát triển
nhà ở, dự án xây dựng công trình công
cộng, công trình dân dụng…
Theo ông Phạm Quang Nhật, Trưởng
phòng Quản lý đô thị Tp. Bà Rịa, thời
gian qua, Tp. Bà Rịa đã ban hành quy
chế quản lý đô thị, bảo đảm về mặt kiến
trúc, cảnh quan văn minh, hiện đại, bao
gôm: Quảng trường, công viên Bà Rịa,
công viên rừng ngập mặn, nhà tang lễ,
nhà máy xử lý nước thải, ngầm hoá các
công trình, tăng thêm mật độ cây xanh.
Tp. Bà Rịa cũng đang tập trung xây dựng
hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng
cơ sở của 1.680ha tại khu đô thị mới kết
hợp với du lịch sinh thái khu vực phía
Nam rừng ngập mặn của các phường:
Phước Trung, Long Hương và Kim Dinh.
Khu đô thị mới phía Nam Quốc lộ 51
cũng sẽ được hình thành với các khu nhà
ở, trường học, dịch vụ thương mại,
chung cư cao tầng, bệnh viện quốc tế…
Nhiều địa phương như Tp. Vũng
Tàu, các huyện Tân Thành, Châu Đức…
cũng đã có bước tiến vượt bậc trong việc
đẩy mạnh quản lý quy hoạch, đầu tư xây
dựng hạ tầng đông bộ, đáp ứng yêu cầu
mới của quá trình phát triển kinh tế - xã
hội. Đến nay tỉnh BR-VT có 9 đô thị
gôm: Tp. Vũng Tàu là đô thị loại I, Tp.
Bà Rịa đô thị loại II, thị trấn Phú Mỹ
(nằm trong quy hoạch đô thị mới Phú
Mỹ) là đô thị loại IV; các đô thị còn lại
như Ngãi Giao, Phước Bửu, Phước Hải,
Đất Đỏ, Long Điền là đô thị loại V và
Một góc khu vực Gò Cát, Tp. Bà Rịa.
44
Côn Đảo. Ngoài 9 đô thị trên, thời gian
qua, tỉnh BR-VT đã phát triển các khu đô
thị mới như khu trung tâm Chí Linh,
trung tâm thương mại Tp. Bà Rịa...
Bảo đảm chất lượng quy hoạch
Theo Sở Xây dựng, 5 năm qua, Sở
đã cùng UBND các huyện, thành phố tập
trung lập, thẩm định, trình phê duyệt các
quy hoạch xây dựng và tổ chức công bố
công khai rộng rãi cho nhân dân biết và
thực hiện. Các đô án quy hoạch được
duyệt, từ quy hoạch chung, quy hoạch
phân khu (trước đây gọi là quy hoạch chi
tiết tỷ lệ 1/2000) đến quy hoạch chi tiết
tỷ lệ 1/500 trên địa bàn đều có chất lượng
tốt, bảo đảm đáp ứng những yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Các
đô thị và khu dân cư nông thôn được quy
hoạch đầu tư đông bộ về hệ thống hạ
tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, môi
trường sống các khu dân cư ngày một cải
thiện, bộ mặt đô thị ngày một khang
trang, sạch đẹp. Các dự án đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế -
xã hội được triển khai theo quy hoạch
bảo đảm tính thống nhất, đúng trình tự
quy định. Một số đô án quy hoạch đã
được nghiên cứu cập nhật, điều chỉnh bổ
sung kịp thời, phù hợp với sự phát triển
của tỉnh.
Ông Võ Văn Dũng, Phó Giám đốc
Sở Xây dựng cho biết, 5 năm tới (2016-
2020), trên cơ sở quy hoạch và định
hướng phát triển BR-VT thành một đô
thị cảng biển, ngành xây dựng sẽ tập
trung thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý đô
thị hiện đại và có giải pháp giám sát,
kiểm tra việc thực hiện quy hoạch đã
được phê duyệt, đông thời hướng đến
việc xây dựng và phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng đông bộ, hiệu quả; tiếp tục
đôn đốc, phối hợp với các địa phương
trong tỉnh tổ chức lập quy hoạch xây
dựng nông thôn mới...
BR-VT đã và đang dần phủ kín quy
hoạch hệ thống đô thị và nông thôn. Theo
đó, đã có 1 đồ án quy hoạch vùng tỉnh, 12
đồ án quy hoạch chung xây dựng đô thị
với quy mô 37.685ha, 49 đồ án quy hoạch
chi tiết 1/2000 các khu trung tâm đô thị,
khu dân cư, du lịch, công nghiệp… đã
được lập và phê duyệt với tổng diện tích
khoảng 18.300ha, đạt 48% diện tích các
quy hoạch chung; 318 quy hoạch chi tiết
các loại, với tổng diện tích khoảng
8.542ha, đạt 46,7% trên tổng diện tích
quy hoạch chi tiết 1/2000 được duyệt.
Phương Anh
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Bảo đảm thu - chi ngân sách phục vụ yêu cầu phát triển .
45
Trong 5 năm qua (2011 - 2015), các cơ quan thuộc ngành tài chính không ngừng
nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ thu - chi ngân sách Nhà nước, bảo đảm
nguồn lực quan trọng phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Khai thác tốt nguồn thu
Đến nay, Cục Hải quan BR-VT đã
xây dựng được đội ngũ CBCC có đủ năng
lực, trình độ để tiếp nhận và vận hành các
hệ thống quản lý ứng dụng công nghệ
thông tin hiện đại như: hải quan điện tử,
thông quan điện tử cho tàu biển xuất nhập
cảnh E-Manifest; hệ thống thông quan
hàng hóa tự động VNACCS/VCIS; hệ
thống soi chiếu phóng xạ Megaports cho
hàng XK đi Mỹ …
Ông Trần Văn Danh, Cục trưởng
Cục Hải quan BR-VT nhận định: Việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong công
tác quản lý Nhà nước về hải quan đã tạo
điều kiện thuận lợi cho DN trong hoạt
động XNK, rút ngắn thời gian thông
quan hàng hóa XNK và phương tiện xuất
nhập cảnh; giảm bớt thời gian, chi phí và
nhân lực làm thủ tục hải quan của DN.
Đối với nhiệm vụ thu ngân sách trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu, từ năm 2011
đến 2014, Cục Hải quan BR-VT thực
hiện số thu bình quân hơn 24 ngàn tỷ
đông/năm, riêng năm 2015 được giao dự
toán thu 24.900 tỷ đông.
Cục Thuế BR-VT hiện đang quản lý
thu thuế đối với 7.853 DN, 1.133 chi
nhánh và văn phòng đại diện thương mại,
16.857 hộ kinh doanh và 528.250 mã số
thuế cá nhân. Hàng năm, số thu nội địa
(không kể dầu khí) do Cục Thuế thực
hiện năm sau đều cao hơn năm trước từ 8
- 10%. Riêng năm 2015, Cục Thuế được
giao dự toán thu 93.750 tỷ đông, trong đó
thu dầu thô 53.200 tỷ đông, thu nội địa
40.550 tỷ đông.
Ông Võ Thành Long, Cục trưởng
Cục Thuế BR-VT cho biết: Nhằm hoàn
thành nhiệm vụ thu ngân sách hàng năm
trên địa bàn, Cục Thuế đã triển khai đông
bộ các biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế,
giao chỉ tiêu thu mới và thu nợ thuế cho
các đơn vị trực thuộc ngay từ những
ngày đầu năm; tổ chức thực hiện quản lý
thuế chặt chẽ, khai thác nguôn thu mới,
thu hôi nợ thuế, chống phát sinh nợ đọng
thuế; cải cách hành chính và quy trình
nghiệp vụ với việc áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9001:2008 tại Văn phòng Cục Thuế và 8
chi cục thuế; đăng ký kê khai thuế qua
mạng đến nay có 100% DN đăng ký và
được cấp chứng thư số, trong đó 97%
DN nộp tờ khai thuế qua mạng.
Kiểm soát chi đúng chế độ,
tiết kiệm
46
Kho bạc Nhà nước (KBNN) BR-VT
là một trong 3 đơn vị KBNN có số thu
ngân sách Nhà nước (NSNN) cao nhất
nước, doanh số thu đều tăng qua các năm.
Trong 5 năm gần đây, doanh số thu
NSNN trên địa bàn (kể cả thu từ dầu thô)
qua hệ thống KBNN đạt gần 400 ngàn tỷ
đông. Bà Ngô Thị Kim Tuyến, Phó Giám
đốc KBNN BR-VT cho biết: Nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân
thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, KBNN
BR-VT cùng với Cục Thuế, Cục Hải quan
ký kết quy chế thanh toán song phương
điện tử và phối hợp thu NSNN qua các
ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh.
Việc triển khai công tác phối hợp thu đã
giảm thiểu thời gian và đơn giản hóa quy
trình, thủ tục thu nộp NSNN. Nhờ vậy,
mọi nguôn thu luôn được tập trung đầy
đủ, nhanh nhất vào NSNN.
Trong công tác quản lý quỹ NSNN,
kiểm soát chi thường xuyên và chi đầu tư
phát triển, KBNN BR-VT đã triển khai
quy trình kiểm soát chi NSNN một cửa;
cải tiến rút ngắn thời gian kiểm soát và
đơn giản hóa yêu cầu đối với hô sơ đề
nghị thanh toán. Việc kiểm soát chi
NSNN được thực hiện chặt chẽ, đúng
quy định pháp luật, góp phần sử dụng
NSNN tiết kiệm, hiệu quả, tăng cường kỷ
cương, kỷ luật tài chính, bảo đảm an toàn
tiền và tài sản của Nhà nước, góp phần
đẩy nhanh việc thực hiện đề án thanh
toán không dùng tiền mặt.
Ông Lê Hà Hải, Phó Giám đốc Sở
Tài chính cho hay: Trong thời kỳ ổn định
ngân sách giai đoạn 2011-2015, toàn tỉnh
có 255/255 cơ quan hành chính Nhà
nước ở cấp tỉnh, huyện, xã thực hiện
khoán biên chế, định mức chi kinh phí.
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập,
có 518/518 đơn vị ở cấp tỉnh và huyện
được giao quyền tự chủ toàn bộ, hoặc tự
chủ một phần kinh phí hoạt động. Việc
thực hiện khoán chi, khoán biên chế đã
tạo tính chủ động trong các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp công lập trong
việc sử dụng kinh phí có hiệu quả. Số
kinh phí tiết kiệm hàng năm, được dùng
để chi tăng thêm thu nhập cho CBCC và
người lao động. Qua đó, nâng cao năng
lực công tác, tinh thần trách nhiệm của
cá nhân và tập thể, bảo đảm hoàn thành
nhiệm vụ chuyên môn tại mỗi cơ quan,
đơn vị.
Theo thống kê của Sở Tài chính,
tổng thu ngân sách về nội địa (trừ dầu
khí) trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 -
2015 ước thu 154.304,9 tỷ đồng, tốc độ
tăng thu bình quân hàng năm là 16%.
Với số thu ngân sách địa phương được
hưởng điều tiết từ các khoản thu về nội
địa, đáp ứng yêu cầu tổng chi ngân sách
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của
47
tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 là 56.577,8
tỷ đồng, tốc độ tăng chi bình quân hàng
năm là 13,6%.
Nhựt Thanh
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu vượt chỉ tiêu kéo giảm hộ nghèo
Nhờ triển khai nhiều giải pháp thiết
thực, hiệu quả, BR-VT đã hoàn thành
vượt chỉ tiêu Nghị quyết 01-NQ/TU của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2011-2015.
Tính đến tháng 6-2015, tỷ lệ hộ nghèo
trên toàn tỉnh chỉ còn 1,32% theo
chuẩn tỉnh, 0,47% theo chuẩn quốc gia.
Theo Nghị quyết 01-NQ/TU của Ban
chấp hành Đảng bộ tỉnh về giảm nghèo
giai đoạn 2011-2015, mục tiêu đề ra đến
năm 2015, toàn tỉnh giảm tỷ lệ hộ nghèo
theo chuẩn tỉnh từ 12,15% vào đầu năm
2011 xuống dưới 2,35% vào cuối năm
2015; cơ bản không còn hộ nghèo theo
chuẩn quốc gia, khống chế tỷ lệ dưới 1%;
điều kiện sống của người nghèo được cải
thiện rõ rệt, trước hết là về y tế, giáo dục,
văn hoá, nước sinh hoạt, nhà ở; người
nghèo ngày càng được tiếp cận thuận lợi
hơn các dịch vụ xã hội cơ bản. Bà Trịnh
Thị Cánh, Trưởng phòng Bảo trợ xã hội,
Sở LĐTBXH cho biết, để thực hiện hiệu
quả công tác giảm nghèo, thời gian qua,
Sở LĐTBXH đã tăng cường đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, quán triệt chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về giảm nghèo tới cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là đội
ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác
giảm nghèo. Qua đó, nâng cao nhận thức,
trách nhiệm, năng lực của các cấp ủy
Đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể
trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
chương trình giảm nghèo. Sở LĐTBXH
cũng đã thực hiện chương trình đưa
thông tin, văn hóa về cơ sở, đa dạng hóa
các hoạt động truyền thông như: Giúp
người nghèo tiếp cận các chính sách
giảm nghèo; vận động các hộ nghèo nỗ
lực vượt khó khăn để vươn lên, chấp
hành đúng pháp luật Nhà nước về dân số
kế hoạch hóa gia đình, an toàn giao
thông, nâng cao học vấn, bài trừ tệ nạn
xã hội. Đông thời phổ biến các mô hình
giảm nghèo có hiệu quả; tuyên truyền
gương người tốt, việc tốt, làm ăn giỏi,
những hộ vươn lên thoát nghèo làm giàu
chính đáng để người nghèo noi theo;
khen thưởng kịp thời động viên các hộ
thoát nghèo...
48
Sở LĐTBXH cũng đã phối hợp với
các cơ quan, ban, ngành, địa phương
triển khai nhiều biện pháp, chính sách hỗ
trợ giúp cho các hộ nghèo có điều kiện
sản xuất, vươn lên ổn định cuộc sống. Cụ
thể, 5 năm qua, Sở LĐTBXH đã phối
hợp cùng Ngân hàng Chính sách xã hội
cho 43.570 lượt hộ nghèo vay vốn tín
dụng ưu đãi, với số tiền trên 636 tỷ đông,
cho 21.534 lượt hộ cận nghèo vay hơn
452 tỷ đông; chăm sóc y tế, cấp 557.117
thẻ BHYT cho người nghèo; hỗ trợ miễn
giảm học phí, chi phí học tập cho 52.735
lượt HS-SV với số tiền 20,4 tỷ đông; hỗ
trợ tiền điện cho 46.037 lượt hộ nghèo
14,918 tỷ đông; trợ cấp khó khăn cho
26.841 hộ nghèo 6,710 tỷ đông. Sở
LĐTBXH cùng với Trung tâm Khuyến
nông - Khuyến ngư tỉnh triển khai thực
hiện dự án nhân rộng mô hình giảm
nghèo. Dự án đã hỗ trợ cho hơn 700 hộ
nghèo về con giống, máy bơm, phân hữu
cơ, thuốc bảo vệ thực vật tại các huyện,
thành phố; tổ chức 170 lớp tập huấn về
kỹ thuật chăn nuôi, trông trọt cho hộ
nghèo để tự tổ chức sản xuất, tăng thu
nhập; 25 chuyến tham quan trong và
ngoài tỉnh để hộ nghèo học hỏi và trao
đổi kinh nghiệm...
Bà Lê Thị Trang Đài, Giám đốc Sở
LĐTBXH cho biết, giai đoạn 2011-2015,
công tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh đã
đạt được những kết quả đáng khích lệ,
chuẩn nghèo của tỉnh cao hơn 1,5 lần so
với chuẩn nghèo của Trung ương quy
định, đã góp phần cải thiện, nâng cao đời
sống nhân dân. Đông thời, các chính
sách về hỗ trợ người nghèo của tỉnh cũng
được áp dụng rộng cả về đối tượng
hưởng thụ cũng như định mức, thời gian
hỗ trợ.
Để tiếp tục phát huy và thực hiện tốt
hơn nữa mục tiêu giảm nghèo bền vững,
giai đoạn 2016-2020, theo kế hoạch, Sở
LĐTBXH sẽ phối hợp với các cơ quan,
ban ngành liên quan tiến hành tổng điều
tra, rà soát tổng hộ nghèo thực tế để tham
mưu UBND tỉnh ban hành mức chuẩn
nghèo mới theo quy định phù hợp với
tình hình địa phương; Tiếp tục triển khai
đông bộ các chính sách hỗ trợ người
nghèo, xây dựng cơ chế, chính sách phối
hợp giữa các cơ quan, đơn vị để có sự
phối hợp chặt chẽ trong triển khai nhiệm
vụ được giao; thực hiện tốt công tác
tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về
mục đích, ý nghĩa của chính sách giảm
nghèo. “Nhận thức của toàn xã hội về
giảm nghèo đã được nâng lên, đặc biệt là
đối với người nghèo. Họ ngày càng có ý
thức vươn lên ổn định cuộc sống, không
ỷ lại trông vào các chính sách giúp đỡ
của Nhà nước” - bà Trang Đài nói.
49
Giai đoạn 2011-2015, quỹ “Đền ơn
đáp nghĩa” và “Vì người nghèo” của
tỉnh vận động được khoảng 115 tỷ đồng,
xây dựng 2.000 căn nhà đại đoàn kết cho
hộ nghèo. Ngoài ra, tỉnh cũng đã hoàn
thành việc xây dựng 240 căn nhà cho hộ
nghèo với số tiền 6 tỷ đồng theo Quyết
định 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo
về nhà ở.
Ngô Thanh
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Chú trọng công tác xây dựng Đảng .
Xác định xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, nhiệm kỳ
2010-2015, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo và đạt được thành
tựu quan trọng về công tác xây dựng Đảng.
Theo ông Nguyễn Văn Xinh, Phó
Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, thực hiện
Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh
nhiệm kỳ 2010-2015, Ban Tổ chức Tỉnh
ủy đã tập trung chỉ đạo, thực hiện một số
công việc trọng tâm trong đó có công tác
phát triển đảng viên và xem đây là công
tác quan trọng trong xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh. Công tác phát triển
Đảng đã được các tổ chức cơ sở Đảng, cấp
ủy triển khai tổ chức thực hiện trên từng
lĩnh vực, đặc biệt quan tâm đến một số
ngành có tỷ lệ đảng viên thấp như: Giáo
dục, y tế, dân quân tự vệ, khu phố - thôn -
ấp, doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Đến
nay các chỉ tiêu đặt ra đã cơ bản đạt như tỷ
lệ đảng viên trong ngành y tế đạt trên 25%
(chỉ tiêu 25%), tỷ lệ đảng viên trong ngành
giáo dục đạt 26% (chỉ tiêu 20%), tỷ lệ
đảng viên trong lực lượng dân quân tự
vệ đạt 23% (chỉ tiêu 18%). Từ năm
2011 đến ngày 15-9-2015, toàn Đảng
bộ tỉnh đã phát triển 8.966 đảng viên,
trung bình mỗi năm đạt 7% trên tổng số
đảng viên theo Nghị quyết Đại hội V.
Ông Nguyễn Tuấn Minh, Uy viên
Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy đánh
giá: Trong nhiệm kỳ qua, công tác xây
dựng Đảng nói chung, công tác kiểm
Anh Nguyễn Phạm Duy (thứ 2 từ phải qua),
Phó Chánh Văn phòng cơ quan Tỉnh Đoàn
nhận Quyết định kết nạp Đảng.
50
tra, giám sát của Đảng nói riêng, ngày
càng được các tổ chức Đảng, đảng viên
coi trọng và được tổ chức thực hiện khá
toàn diện. Cấp ủy các cấp thường xuyên tổ
chức các cuộc kiểm tra, giám sát việc chấp
hành Điều lệ, Chỉ thị, Nghị quyết, kết luận
của Đảng. Tăng cường kiểm tra, giám sát
những lĩnh vực nhạy cảm, yếu kém, dễ
phát sinh sai phạm, tiêu cực. Qua đó, đã
giúp cho công tác đánh giá, phân loại tổ
chức Đảng và đảng viên chính xác hơn;
kịp thời uốn nắn những lệch lạc; xem xét,
kết luận đúng, sai và xử lý đối với tổ chức
Đảng, đảng viên có vi phạm, góp phần
giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng.
Nhiệm kỳ 2010-2015, các cấp ủy đã
kiểm tra 1.842 tổ chức Đảng và 14.159
đảng viên (tăng 0,6% so với nhiệm kỳ
2005-2010). Nội dung kiểm tra tập trung
chủ yếu trên các lĩnh vực nổi cộm, nhạy
cảm như: Quản lý sử dụng đất công, công
tác quy hoạch xây dựng dự án, công tác
cán bộ; việc thực hiện chức trách nhiệm
vụ được giao, việc chấp hành quy chế làm
việc, nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn
kết nội bộ; việc thực hiện những điều cán
bộ, đảng viên không được làm; việc khắc
phục hạn chế, khuyết điểm sau kết luận
kiểm điểm theo Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI). Các cấp ủy đã giám sát 861 tổ
chức Đảng (tăng 105% so với nhiệm kỳ
2005-2010) và 3.410 đảng viên (tăng
135% so với nhiệm kỳ trước).
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã giám
sát 24 tổ chức Đảng và 18 đảng viên.
Nội dung giám sát tập trung vào: Việc
chuyển mạnh vốn đăng ký sang vốn
thực hiện theo kết luận Hội nghị lần thứ
20 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
(khóa IV); về phát triển dịch vụ, trọng
tâm là dịch vụ cảng biển và dịch vụ hậu
cần logistics; việc quán triệt, triển khai,
tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ V; các Nghị quyết chuyên đề của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; việc giải
quyết việc làm cho người lao động tại
chỗ, nhà ở cho công nhân lao ở khu
công nghiệp; việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện cải cách hành chính theo
mô hình một cửa liên thông…
Qua công tác kiểm tra, giám sát, ở
nhiều cấp ủy đã có chuyển biến rõ rệt,
uốn nắn kịp thời những thiếu sót,
khuyết điểm và đề ra biện pháp khắc
phục nâng cao hiệu quả trong tổ chức
thực hiện nhiệm vụ, đã giải quyết được
những vấn đề phát sinh, vướng mắc,
các vụ việc nổi cộm, phức tạp, đông
thời chỉ đạo các tổ chức Đảng, các ban
của cấp ủy, các ngành liên quan phối
51
hợp tổ chức thực hiện kết quả ngày càng
tốt hơn.
Từ năm 2011 đến năm 2013, toàn
Đảng bộ tỉnh có 86,34% tổ chức cơ sở
Đảng đạt trong sạch, vững mạnh. Năm
2014 thực hiện theo Hướng dẫn số 27 của
Ban Tổ chức Trung ương, Đảng bộ tỉnh
có 309 tổ chức cơ sở Đảng đạt trong
sạch, vững mạnh, đạt 50,66%. 87,6%
đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt
nhiệm vụ, vượt chỉ tiêu (trên 80%) Nghị
quyết Đại hội V đề ra. Tính đến ngày 15-
9, toàn Đảng bộ tỉnh có 34.135 đảng
viên; trong đó, đảng viên trong khu
phố - thôn - ấp - khu dân cư là 10.805
đảng viên, 844 đảng viên trong ngành
y tế, 4.699 đảng viên trong ngành giáo
dục, 1.524 đảng viên là dự bị động
viên, 3.146 đảng viên là dân quân tự
vệ, 1.134 đảng viên trong doanh
nghiệp ngoài Nhà nước, 936 đảng viên
là người có đạo, 269 đảng viên là dân
tộc ít người.
Phúc Lưu
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Công tác vận động quần chúng: Đạt được nhiều kết quả thiết thực
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, các cấp
ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các
tổ chức chính trị - xã hội luôn xác định
công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Từ
đó, các cấp, các ngành đã nỗ lực tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục, tổ chức
thực hiện và động viên quần chúng
nhân dân thực hiện thắng lợi đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã
hội Chủ nghĩa.
Ông Văng Văn Châu, Phó Bí thư
Huyện ủy Tân Thành cho biết, huyện
Tân Thành là địa phương có đông đông
bào tín đô tôn giáo, chiếm tỷ lệ hơn 51%
dân số với 4 tôn giáo chính: Phật giáo,
Công giáo, Tin lành và Cao đài; có 1
trường Trung cấp Phật học; 1 Trung tâm
mục vụ trực thuộc Tòa Giám mục Bà
Rịa, là nơi sinh hoạt và mở các lớp bôi
dưỡng cho các chủng sinh trong tỉnh.
Dưới sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, sự
quản lý của chính quyền, UBMTTQVN
các cấp đã tích cực phối hợp với các ban,
ngành chức năng và các địa phương đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến,
52
quán triệt các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, các Chỉ thị, Nghị
quyết, pháp lệnh, Nghị định của Trung
ương và của tỉnh có liên quan đến công
tác tôn giáo cho các vị chức sắc, nhà tu
hành, tín đô các tôn giáo. Tăng cường
công tác đối thoại, gặp gỡ, kịp thời thăm
hỏi động viên, nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng của chức sắc, các nhà tu hành, tín
đô các tôn giáo để kiến nghị với các cấp
chính quyền xem xét, giải quyết thỏa
đáng, thấu tình đạt lý, thường xuyên
động viên đông bào các tôn giáo thực
hiện tốt phương châm sống “tốt đời đẹp
đạo”… Qua đó, tạo động lực mạnh mẽ
thúc đẩy đông bào các tôn giáo ý thức tự
giác vươn lên trong lao động sản xuất,
thoát nghèo, làm giàu chính đáng, tham
gia tích cực các hoạt động xã hội, từ
thiện nhân đạo.
Trên địa bàn huyện Tân Thành đã
xuất hiện nhiều mô hình như: “Xứ, họ
đạo không tội phạm, không có tệ nạn xã
hội”, mô hình “Nhóm từ thiện, mái ấm
tình thương” tại xã Tân Hải; giáo xứ
Phước Lộc, xã Tân Phước làm tốt công
tác xã hội, xây dựng trường dạy nghề…
Trong các phong trào thi đua, cuộc vận
động, một số chức sắc, tín đô tôn giáo đã
trực tiếp tham gia và động viên tín đô
tham gia các hoạt động cứu trợ, nhân
đạo, đóng góp tích cực vào việc xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tính đến hết tháng 7-2015, huyện Tân
Thành có 65/66 khu phố, thôn được công
nhận thôn văn hóa, 95% gia đình giáo
dân được công nhận là gia đình văn hóa.
Nhiều tổ chức, chức sắc, tín đô tôn giáo
đã tích cực hỗ trợ xây dựng trường học,
tham gia xây dựng quỹ khuyến học,
khuyến tài ở cơ sở, tích cực đóng góp
ngày công, hiến hàng ngàn m2 đất, hàng
trăm mét hàng rào, tài sản trên đất để mở
rộng đường làng, ngõ xóm theo quy
hoạch xây dựng nông thôn mới.
Tại huyện Châu Đức hiện có 13 dân
tộc như: Châu Ro, Hoa, Tày, Mường,
Khơme, với 1.989 hộ và 8.952 khẩu,
chiếm 5,7% dân số toàn huyện. Trong
công tác vận động, cán bộ các đoàn thể
thường xuyên bám sát cơ sở, nắm bắt
tình hình, lắng nghe tâm tư nguyện vọng
của bà con đông bào dân tộc, qua đó
tuyên truyền vận động, giải thích những
Nhờ được hỗ trợ dê giống, gia đình bà Tô Thị
Kim Thanh, dân tộc Hoa ở ấp Liên Đức, xã Xà
Bang, huyện Châu Đức đã ổn định cuộc sống
53
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật Nhà nước đối với đông bào dân tộc.
Các chương trình dự án về phát triển
kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng phục vụ
dân sinh ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng
đông bào dân tộc thiểu số được đầu tư
xây dựng; việc bảo tôn và phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc được chú trọng.
Từ năm 2011 đến năm 2015 số hộ nghèo
đông bào dân tộc thiểu số giảm từ 576 hộ
xuống còn 115 hộ, bình quân hằng năm
giảm 6,46%. Công tác chăm sóc y tế cho
đông bào dân tộc được quan tâm thường
xuyên, công tác phổ cập giáo dục tiểu
học, xóa mù chữ đạt kết quả cao, tỷ lệ trẻ
em dân tộc bỏ học hàng năm giảm. Các
phong trào thi đua yêu nước, các cuộc
vận động luôn được đông bào dân tộc
thiểu số hưởng ứng tham gia như: Thực
hiện “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hô Chí Minh”, vận động xây
dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày vì
người nghèo”.
Ông Nguyễn Văn Đông, Phó Trưởng
Ban Dân vận Tỉnh ủy cho biết, trong
những năm qua, các cấp ủy, chính quyền
các cấp đã có nhiều chủ trương, giải pháp
lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận.
Chính quyền các cấp đã phát huy vai trò
chức năng, nhiệm vụ trong quản lý, điều
hành trên các lĩnh vực phát triển kinh tế -
xã hội; đảm bảo quốc phòng - an ninh.
Vận động và phát huy nội lực toàn dân
tham gia xây dựng nông thôn mới, góp
phần vào việc thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, giữ vững an ninh - quốc phòng, xây
dựng Đảng, chính quyền ở cơ sở ngày
càng vững mạnh.
Theo báo cáo của Tỉnh ủy, việc vận
động nhân dân tham gia thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới, đóng góp xây dựng
cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi
công cộng, các loại quỹ giúp nhau giảm
nghèo đạt nhiều kết quả thiết thực. Các
tiêu chí về xây dựng nông thôn mới, các
công trình, các loại quỹ… đều được đưa
ra bàn bạc, lấy ý kiến của nhân dân và
được nhân dân đồng tình ủng hộ. Trong
5 năm qua, nhân dân đã đóng góp xây
dựng quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Vì
người nghèo” 98,1 tỷ đồng; xây dựng
1.802 căn nhà đại đoàn kết, 81 nhà tình
nghĩa; hiến đất, góp công để xây dựng
cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi
công cộng với số tiền trên 730 tỷ đồng.
Riêng tại 6 xã điểm được công nhận đạt
chuẩn nông thôn mới (giai đoạn 2010-
2012), đã huy động trên 62 tỷ đồng.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
54
Thực hiện tốt chính sách đối với người có công .
Cùng với cả nước, trong những năm qua, BR-VT đã thực hiện tốt chính sách
an sinh xã hội, nhất là chính sách đối với người có công với cách mạng, bảo đảm
hỗ trợ kịp thời cho các đối tượng thụ hưởng, giúp đời sống của họ ngày càng được
cải thiện.
Hiện nay BR-VT có hơn
35.000 đối tượng đang hưởng
chính sách dành cho thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người
có công. Trong những năm qua,
hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm
sóc thương bệnh binh, gia đình liệt
sĩ, người có công với cách mạng
trên địa bàn tỉnh đã được cụ thể
hóa bằng nhiều việc làm thiết thực,
hiệu quả. Trong đó phải kể đến
chính sách hỗ trợ nhà ở, miễn giảm
tiền sử dụng đất, miễn giảm học phí cho con
thương, bệnh binh, hỗ trợ vốn vay để mở rộng
phát triển sản xuất…
Hàng năm, các chính sách, chế độ luôn
được bổ sung, hoàn thiện; công tác đền ơn đáp
nghĩa, chăm sóc đời sống người có công đã trở
thành việc làm thường xuyên. Theo bà Huỳnh
Thị Kiên, Trưởng Phòng chăm sóc người có
công (Sở LĐTBXH), BR-VT đã có nhiều ưu
đãi đối với gia đình nghèo, gia đình cha mẹ liệt
sĩ neo đơn và bị bệnh hiểm nghèo. Với sự quan
tâm này, đời sống người có công trên địa bàn
Đồng chí Nguyễn Văn Trình (thứ 2 từ phải qua), Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND
tỉnh và đồng chí Nguyễn Thị Yến (bìa phải), Phó Bí thư Tỉnh ủy, thăm và tặng quà gia
đình người có công ở huyện Côn Đảo
55
tỉnh đang từng bước được nâng
cao cả về vật chất lẫn tinh thần.
BR-VT đang theo đuổi mục tiêu
bảo đảm người có công với cách
mạng có mức sống bằng hoặc cao
hơn mức sống trung bình của
người dân tại nơi cư trú.
Công tác đền ơn đáp nghĩa
ngày càng huy động được nhiều
nguôn lực xã hội tham gia. Nổi bật
là phong trào phụng dưỡng Mẹ
Việt Nam anh hùng. Thời gian
qua, các cơ quan, DN trên địa bàn
tỉnh đã nhận phụng dưỡng 42 Mẹ
Việt Nam anh hùng. Hàng tháng,
ngoài chế độ Nhà nước dành cho
các Mẹ, tỉnh còn trích từ Quỹ đền
ơn đáp nghĩa hỗ trợ mỗi Mẹ 500
ngàn đông. Hiện nay, hai Mẹ có
một con duy nhất đã hy sinh,
không còn người thân chăm sóc
được tỉnh hỗ trợ mỗi tháng 1,5
triệu đông để thuê người phụng
dưỡng các Mẹ. Ngoài khoản tiền
hỗ trợ hàng tháng, vào dịp lễ, tết
nhiều đơn vị, địa phương, các ban
ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội
và doanh nghiệp đều đến thăm
hỏi, tặng quà, động viên tinh thần
các Mẹ.
Mẹ Võ Thị Vĩ (89 tuổi), khu
phố Phước Sơn, TT. Đất Đỏ,
huyện Đất Đỏ cho biết: “Tới ngày lễ, tết nhà
luôn có khách là các đoàn của huyện, của tỉnh
đến thăm làm mẹ không thấy cô đơn khi về
già”. Mẹ Vĩ có 2 người con là Đoàn Văn Tròn
và Đoàn Thị Quang đều đã hy sinh. Hiện mẹ Vĩ
đang sống cùng với người con gái út. Mỗi
tháng ngoài tiền hưởng theo chế độ Nhà nước
quy định, mẹ còn được Công ty Xây dựng
Đông Nam nhận nuôi dưỡng.
Ông Nguyễn Văn Phương, Phó Giám đốc
Sở LĐTBXH cho biết, việc thực hiện chế độ
ưu đãi người có công, giúp đời sống của người
có công với cách mạng luôn ổn định và nâng
lên. Các chế độ chính sách được triển khai kịp
thời, công tác phục vụ lễ, tết chu đáo, chăm lo
tốt cho gia đình chính sách về tinh thần cũng
như vật chất. Đối với những đối tượng chính
sách gặp khó khăn do bệnh tật kéo dài, hàng
năm Sở trích từ Quỹ đền ơn đáp nghĩa để giải
quyết một phần khó khăn cho các đối tượng
này với mức từ 1-2 triệu đông. Ngoài ra, Sở
còn đưa các đoàn người có công đi tham quan,
điều dưỡng ở Bến Tre, Đà Lạt…
Việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời sống
tinh thần và vật chất, giảm bớt một phần khó
khăn trong cuộc sống cho thương binh, gia
đình liệt sĩ là tình cảm, trách nhiệm và bổn
phận của toàn xã hội, là thực hiện truyền thống
đạo lý uống nước nhớ nguôn của dân tộc ta.
Nhã Uyên
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
56
57
PHẦN 3.
TIẾN TỚI ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU LẦN THỨ VI
* Đóng góp ý kiến cho Dự thảo báo cáo chính trị trình
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
* Đại hội Đảng bộ trực thuộc
58
59
Đóng góp ý kiến cho Dự thảo Báo cáo chính trị
trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
Đề nghị điều chỉnh một số chỉ tiêu
Ủy ban MTTQVN tỉnh vừa tổ chức Hội nghị lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo
Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020.
Những ý kiến tại Hội nghị cơ bản nhất trí với dự thảo nhưng cũng đề nghị Báo cáo
Chính trị cần đánh giá rõ những tồn tại và điều chỉnh một số chỉ tiêu.
ÔNG VÕ VĂN GIÁO, CHU TỊCH
HỘI CỰU TÙ CHÍNH TRỊ:
Báo cáo chính trị cần nghiêm
khắc đánh giá một số tồn tại
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có nhiều
công trình xây dựng còn dang dở, bỏ
hoang, chưa đưa vào sử dụng như: Khu
tái định cư bên đường vào Bệnh viện Bà
Rịa (cũ), khu tái định cư đường đi về
phía Hòa Long, địa bàn huyện Tân
Thành, có nơi chợ xây dựng xong không
có người họp… Tình trạng này không
những không phát huy tác dụng của các
công trình, mà còn lãng phí vốn đầu tư
của Nhà nước. Báo cáo chính trị nên bổ
sung thêm đánh giá: Khi quy hoạch các
khu tái định cư chưa tính toán đến yếu tố
tâm lý, tâm tư, nguyện vọng và nếp sống
của người dân nên công trình không thu
hút được người dân vào sử dụng dẫn đến
lãng phí. Vấn đề này cần được đánh giá
nghiêm túc và có giải pháp cụ thể.
ÔNG NGUYỄN VĂN SƠN, TRƯỞNG
BAN TRỊ SỰ TỊNH ĐỘ CƯ SĨ PHẬT
HỘI TỈNH:
Một số chỉ tiêu chưa hợp lý
Một số chỉ tiêu, số liệu trong Dự
thảo báo cáo cần điều chỉnh cho hợp lý,
chính xác. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ V đề ra 71 chỉ tiêu thì có
56/71 chỉ tiêu đạt và vượt so với kế
hoạch, có 15/71 chỉ tiêu chủ yếu đạt thấp
so với Nghị quyết. Số chỉ tiêu chủ yếu
đạt thấp này chiếm 21,12% tổng chỉ tiêu
nhưng báo cáo nêu mục nào cũng đạt chỉ
tiêu là thiếu chính xác. Về chỉ tiêu phát
triển y tế, chỉ tiêu nhiệm kỳ 2010-2015 là
26,2 giường bệnh/vạn dân, chỉ tiêu đặt ra
cho nhiệm kỳ mới là 26 giường bệnh/vạn
dân. Chỉ tiêu thấp hơn nhiệm kỳ trước là
không hợp lý.
60
ÔNG PHAN NHẬT NAM, PHÓ
CHU TỊCH LIÊN MINH HTX:
Cần chú trọng phát triển kinh tế
tập thể
Dự thảo báo cáo không đề cập đến
vấn đề kinh tế tập thể. Trong khi đó, kinh
tế tập thể là một đối tượng kinh tế - xã
hội thu hút, tập trung những người nông
dân sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh
mún, không có nhiều kinh nhiệm trong
trông trọt, chăn nuôi lại để hỗ trợ sản
xuất, chia sẻ kinh nghiệm canh tác, nâng
cao hiệu quả lao động, góp phần nâng
cao đời sống người dân. Do đó, Báo cáo
chính trị cần bổ sung, chú trọng đến việc
phát triển loại hình kinh tế này.
BÀ NGUYỄN THỊ HỒNG NGUYÊN,
PHÓ CHU TỊCH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ
NỮ TỈNH:
Chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu
người chưa phù hợp
Dự thảo báo cáo đưa ra các chỉ tiêu
phát triển kinh tế, chỉ tiêu tổng sản phẩm
trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu
người trừ dầu khí đến năm 2020 đạt
8.670 USD là cao, chưa phù hợp. Bởi
tình hình thế giới trong những năm tiếp
theo được dự đoán là có nhiều biến động,
có thể sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển
kinh tế cả nước nói chung và của tỉnh nói
riêng. Các chỉ tiêu về văn hóa xã hội, đề
nghị tăng chỉ tiêu số cháu đi nhà trẻ từ
30% lên 40% và mẫu giáo từ 92,5% lên
95%. Trong lĩnh vực y tế, đề nghị bổ
sung thêm nội dung “Cần tăng cường
công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân,
Dân số kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em”. Về nhiệm vụ
và giải pháp chủ yếu, cần bổ sung thêm
“Thực hiện tốt các vấn đề về bình đẳng
giới và tăng cường các biện pháp phòng,
chống bạo lực gia đình”.
ÔNG NGUYỄN VĂN HỒNG,
PHÓ CHU TỊCH UBMTTQ HUYỆN
CHÂU ĐỨC:
Một số chỉ tiêu quá cao
Dự thảo Báo cáo chính trị đã đặt ra
nhiều mục tiêu trong nhiệm kỳ tới. Song
những mục tiêu này còn chung chung và
chưa sát thực tế. Chỉ tiêu tỷ lệ đảng viên
trong lực lượng dân quân đạt 20% rất
khó thực hiện đối với địa bàn nông thôn.
Về công tác Mặt trận, đoàn thể, chỉ tiêu
“100% doanh nghiệp có 20 lao động trở
lên... có tổ chức Công đoàn”, “45%
doanh nghiệp có từ 50 lao động trở lên
có tổ chức Đoàn thanh niên” là khó khả
thi. Chỉ tiêu đến năm 2020, tỷ lệ xã có
bác sĩ đạt 40% là quá thấp. Đề nghị nâng
lên đạt 70% vì có liên quan đến tiêu chí
xây dựng nông thôn mới. Đề nghị bổ
sung chỉ tiêu giải quyết việc làm: Đến
năm 2020, số sinh viên tốt nghiệp ra
trường có việc làm là 90%, vì đây là
61
chính sách liên quan đến công tác giáo
dục đào tạo với thu hút nguôn nhân lực
chất lượng cao, đáp ứng cho nhu cầu
phát triển của tỉnh.
UBMTTQVN HUYỆN TÂN THÀNH:
Không nên định hướng năm 2020
Tân Thành là huyện nông thôn mới
UBMTTQVN huyện Tân Thành
góp ý một số vấn đề về phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp phát
triển giai đoạn 2016-2020, trong phần
5.3 Phát triển đông bộ các vùng, các
huyện, thành phố gắn với vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam có nội dung: “xây
dựng và phát triển đô thị mới Phú Mỹ
với tính chất là trung tâm công nghiệp,
cảng, dịch vụ đạt tiêu chuẩn đô thị loại
III vào năm 2020”. Trong khi trước đó,
trong nội dung nhiệm vụ và giải pháp
chủ yếu phát triển ngành nông, lâm, ngư
nghiệp nêu: “Phấn đấu đến năm 2020 có
32/43 xã (tỷ lệ 74%) đạt tiêu chí nông
thôn mới và 3 huyện nông thôn mới (Đất
Đỏ, Long Điền, Tân Thành)”. Như vậy
đến năm 2020, Tân Thành vừa là đô thị
loại III vừa là huyện nông thôn mới. Đề
nghị Báo cáo chính trị có định hướng rõ
ràng, thống nhất ngay từ đầu, không nên
định hướng năm 2020 Tân Thành là
huyện nông thôn mới vì vậy sẽ chệch
hướng đầu tư.
www.baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức cơ sở Đảng
“Nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức cơ sở Đảng và đổi mới phương
thức, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng” là nội dung quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng. Thực tiễn cho thấy, những thành tựu đã đạt được, những kinh
nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ cơ sở, mà hạt nhân là tổ chức cơ sở Đảng
(TCCSĐ). Dưới đây là các ý kiến giải pháp nâng cao chất lượng công tác đánh giá;
kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng, đảng viên và sinh hoạt Chi bộ theo Chỉ thị 10.
ĐẢNG UY CÔNG TY TNHH
MTV CAO SU BÀ RỊA:
Thực hiện nghiêm túc hơn công
tác tự phê bình và phê bình
Hiện nay, một số TCCSĐ thực hiện
đánh giá đảng viên còn mang tính hình
thức, chưa chính xác, còn nể nang.
Nguyên nhân chính là công tác phê bình
và tự phê bình nói nhiều trong cuộc họp,
nhưng không thực hiện nghiêm túc, chưa
trở thành ý thức trong mỗi đảng viên (kể
cả đảng viên là cán bộ đứng đầu), sợ góp
62
ý cho người, người góp ý lại cho ta (thà
rằng dễ người dễ ta), chưa thẳng thắn nêu
rõ những khuyết điểm mà toàn nêu ưu
điểm. Thậm chí có đảng viên rất nhút
nhát, không mạnh dạn, e dè, trong cả
năm tham dự sinh hoạt chi bộ chưa tham
gia ý kiến nào.
Do đó, TCCSĐ cần thực hiện
nghiêm túc hơn công tác tự phê bình và
phê bình; mỗi đảng viên phải có ý thức
và xem đây là trách nhiệm, tránh việc
làm qua loa, hình thức, làm cho có.
Trong nội dung sinh hoạt chi bộ theo tinh
thần Chỉ thị 10 của Ban Bí thư về nâng
cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ có nội
dung thực hiện công tác tự phê bình và
phê bình, tham gia ý kiến trong cuộc họp
Chi bộ. Vì vậy nên quy định rõ nếu trong
một năm sinh hoạt, đảng viên không thực
hiện tự phê bình và phê bình, không
tham gia ý kiến thì xem như chưa hoàn
thành nhiệm vụ.
BAN TỔ CHỨC TỈNH UY:
Giữ vững nguyên tắc tập trung
dân chủ trong sinh hoạt chi bộ
Để tiếp tục nâng cao chất lượng
sinh hoạt Chi bộ theo Chỉ thị 10-CT/TW
của Ban Bí thư và khắc phục những hạn
chế trong thời gian qua, cấp ủy và trước
hết là Bí thư Chi bộ phải chuẩn bị kỹ nội
dung trước khi sinh hoạt Chi bộ. Trong
đó, nội dung sinh hoạt Chi bộ cần tập
trung bàn để lãnh đạo giải quyết những
vấn đề cụ thể, thiết thực của cơ quan, Chi
bộ. Vừa góp phần nâng cao trình độ,
nhận thức của đảng viên để hiểu và thực
hiện đúng các quy định của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, xác định được trách
nhiệm, vai trò tiên phong gương mẫu của
đảng viên. Nghị quyết của Chi bộ cần
xây dựng sát với đặc điểm tình hình,
nhiệm vụ chung của cơ quan, có tính khả
thi và trong quá trình thực hiện cần được
kiểm tra kịp thời.
Trong sinh hoạt chi bộ phải giữ
vững nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp
ủy cần xác định và chọn những nội dung
cụ thể, thiết thực liên quan đến thực hiện
nhiệm vụ chính trị của Chi bộ, cơ quan,
quyền và nghĩa vụ của đảng viên để đưa
ra thảo luận, bàn biện pháp giải quyết;
nên đưa ra những gợi ý để tạo điều kiện
cho đảng viên tập trung trao đổi, làm rõ.
Cấp ủy cần nghiên cứu bố trí về thời
gian sinh hoạt cấp ủy, Chi bộ hợp lý để
đảng viên có sự chuẩn bị nội dung góp ý
xây dựng Chi bộ tốt hơn.
UY BAN KIỂM TRA TỈNH UY:
Đổi mới và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ kiểm tra
Cơ cấu đội ngũ cán bộ kiểm tra phải
bảo đảm đông bộ, có nghiệp vụ chuyên
sâu và quá trình tích lũy kinh nghiệm, đủ
sức thực hiện các nhiệm vụ do Điều lệ
63
Đảng quy định. Cần có cơ chế khuyến
khích để tuyển chọn những đảng viên là
cán bộ, chuyên viên giỏi tham gia vào
công tác kiểm tra Đảng, khắc phục tình
trạng hụt hẫng về số lượng và chất
lượng. Việc bố trí, sử dụng cán bộ phải
hợp lý, phát huy được năng lực và sở
trường của cán bộ để có thể khai thác
một cách có hiệu quả năng lực trí tuệ và
năng lực thực tiễn của cán bộ. Việc lựa
chọn, quy hoạch, đào tạo cán bộ phải
được tiến hành theo đúng chính sách cán
bộ của Đảng và Nhà nước, đúng năng lực
của cán bộ và bảo đảm tính kế thừa.
Cấp ủy, tổ chức Đảng phải xem
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là
nhiệm vụ của toàn Đảng bộ, được tiến
hành ở tất cả tổ chức Đảng và đảng viên
hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Không chỉ kiểm tra, giám
sát tổ chức Đảng, đảng viên vi phạm, mà
còn kiểm tra tổ chức Đảng, đảng viên
chấp hành Điều lệ Đảng, đường lối, quan
điểm, Nghị quyết của Đảng, chính sách
pháp luật Nhà nước.
Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ chính trị
và công tác xây dựng Đảng từng giai
đoạn, cấp ủy, Ban Thường vụ cấp ủy và
tổ chức Đảng các cấp phải đề ra phương
hướng, nhiệm vụ lãnh đạo và thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát cụ thể. Chú
trọng việc chỉ đạo, hướng dẫn các tổ
chức Đảng trực thuộc thực hiện chức
năng lãnh đạo công tác kiểm tra và thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra. Cho ý kiến chỉ
đạo, giải quyết kịp thời những vướng
mắc, kiến nghị trong quá trình thực hiện.
Phúc Lưu
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Đẩy mạnh cải cách hành chính .
Sau khi nghiên cứu Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI nhiệm kỳ 2015-2020, lãnh đạo Sở Nội vụ đã tham gia đóng góp một
số ý kiến vào Dự thảo ở mục a, khoản 5, điểm 6 nằm trong phần II về những giải
pháp và mục tiêu trong công tác cải cách hành chính (CCHC).
Theo ông Nguyễn Văn
Thành, Giám đốc Sở Nội vụ,
những mục tiêu về công tác
CCHC giai đoạn 2015-2020
trong Dự thảo đã bám sát yêu
cầu thực tiễn. Mỗi mục tiêu đều mang tính khái
quát cao. Để làm rõ thêm một số nội dung, đề nghị
nên bổ sung thêm một số chỉ tiêu cụ thể cho công
tác CCHC giai đoạn 2015-2020, đó là: nâng cao
chất lượng thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa
64
liên thông” tại 100% cơ quan
hành chính Nhà nước của tỉnh.
Phấn đấu đến năm 2020, bảo
đảm sự hài lòng của cá nhân,
tổ chức đối với sự phục vụ của
cơ quan hành chính Nhà nước
đạt mức trên 80%; củng cố,
kiện toàn tổ chức bộ máy các
cơ quan, đơn vị, bộ máy chính
quyền cơ sở theo hướng tinh
gọn. Phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các
cấp, các ngành. Tiếp tục phân
cấp quản lý theo quy định
nhằm nâng cao tính chủ động,
hiệu lực, hiệu quả trong hoạt
động của các cấp, các ngành;
đến năm 2020, đội ngũ
CBCCVC có số lượng, cơ cấu
hợp lý, đủ trình độ và năng lực
thi hành công vụ, phục vụ
nhân dân. 100% các cơ quan
hành chính Nhà nước có cơ
cấu công chức theo vị trí việc
làm; cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp
công lập được triển khai thực
hiện trong toàn tỉnh. Bảo đảm
sự hài lòng của người dân đối
với dịch vụ công cung cấp
trong các lĩnh vực giáo dục, y
tế đạt mức trên 80% vào năm 2020; đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt
động của cơ quan hành chính Nhà nước để đến năm
2020 có 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao
đổi giữa các cơ quan hành chính Nhà nước được
thực hiện dưới dạng điện tử. Bảo đảm hầu hết các
dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Cổng
thông tin điện tử của tỉnh ở mức độ 3 và 4.
Về giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
CBCCVC của tỉnh giai đoạn 2015-2020, ông
Trương Thanh Phong, Phó Giám đốc Sở Nội vụ
cho rằng: Dự thảo nên bổ sung thêm nội dung: triển
khai thực hiện tốt và đầy đủ các quy định quản lý
CBCCVC; xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để
thu hút nhân lực chất lượng cao về làm việc, chính
sách thu hút không chỉ có ưu đãi bằng vật chất mà
cần phải bảo gôm cả điều kiện làm việc, cơ hội phát
triển, thăng tiến trong nghề nghiệp, hình thức tôn
vinh; triển khai thực hiện nghiêm túc việc bố trí
CCVC theo đúng vị trí việc làm trong từng cơ
quan, đơn vị. Tổ chức thực hiện việc đánh giá
Đoàn kiểm tra công tác CCHC tỉnh kiểm tra tại bộ phận “một cửa”
UBND xã Xuyên Mộc, huyện Xuyên Mộc.
65
CBCC hàng năm một cách
nghiêm túc, khách quan. Đề
cao trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, đơn vị
trong việc tuyển chọn, sử dụng
và quản lý, đào tạo nguôn
nhân lực thuộc phạm vi quản
lý; đẩy mạnh việc đánh giá
hiệu quả đào tạo, bôi dưỡng về
trình độ chuyên môn và năng
lực của CBCCVC định kỳ
hàng năm nhằm xác định
những thiếu sót, hạn chế cần
khắc phục và định hướng
chiến lược phát triển nguôn
nhân lực trước mắt và lâu dài;
đẩy mạnh ứng dụng CNTT
vào trong tuyển dụng, quản lý,
đào tạo đội ngũ CBCCVC
nhằm nâng cao tính chuyên
nghiệp cho đội ngũ làm công
tác quản lý nhân sự tại các cơ
quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp của tỉnh; cần đề cao
trách nhiệm của các cơ quan,
đơn vị trong việc tạo điều kiện
cho các trường hợp đã tốt
nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ ở nước
ngoài về làm việc tại cơ quan,
đơn vị được bôi dưỡng bổ sung
kiến thức về hành chính, kỹ
năng giao tiếp, ứng xử và kỹ
năng biên - phiên dịch để trưng tập làm phiên dịch
khi có nhu cầu của tỉnh, được tham gia thực hiện các
chương trình, đề án, đề tài của tỉnh; tổ chức bôi
dưỡng ngắn hạn ở nước ngoài cho CBCCVC trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tạo cơ hội, điều
kiện cho CBCCVC tiếp xúc, học hỏi kiến thức, kinh
nghiệm thực tế của các nước tiên tiến trên thế giới để
vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt vào tình hình
thực tế tại cơ quan, đơn vị mình đang công tác.
Ông Sầm Văn Mão, Phó Giám đốc Sở Nội vụ
cho rằng, Dự thảo nên bổ sung thêm những giải
pháp cụ thể để có thể bảo đảm thực hiện chương
trình CCHC Nhà nước giai đoạn 2015-2020. Bao
gôm những giải pháp như: tăng cường vai trò lãnh
đạo của cấp ủy và thủ trưởng đơn vị, thể hiện sự
quyết tâm cao trong thực hiện CCHC. Tăng cường
công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa
phương trong thực hiện CCHC; tăng cường công
tác giáo dục nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ,
đạo đức công vụ đối với đội ngũ CBCC. Làm tốt
công tác thông tin, tuyên truyền về CCHC. Tổ chức
có chất lượng các buổi tọa đàm, hội thảo, diễn đàn
đối thoại trên truyền hình và các cuộc thi về chủ đề
CCHC. Hàng năm tổ chức lấy ý kiến đánh giá của
khách hàng về dịch vụ hành chính công tại tỉnh;
tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện CCHC.
Thanh tra, kiểm tra công vụ, tiếp nhận và giải quyết
kịp thời đơn thư phản ánh qua đường dây nóng về
TTHC. Chấn chỉnh, xử lý nghiêm minh, kịp thời
những sai phạm gây khó khăn, phiền hà cho cá
nhân, tổ chức.
Sơn Quỳnh
www.baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
66
Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh .
Sau khi nghiên cứu Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI nhiệm kỳ 2015-2020, các bác sĩ là lãnh đạo đầu ngành y tế tỉnh, giám
đốc bệnh viện (BV) đã tham gia đóng góp một số ý kiến vào Dự thảo ở phần thứ 2,
khoản 4, điểm 5 về những giải pháp phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Bác sĩ Phạm Minh An, Bí
thư Đảng ủy, Phó Giám đốc
Sở Y tế có ý kiến: Những giải
pháp nâng cao chất lượng y tế,
chăm sóc sức khỏe cho nhân
dân được nêu trong Dự thảo đã
bám sát yêu cầu thực tiễn. Mỗi
giải pháp đều mang tính khái
quát cao. Để làm rõ thêm một
số nội dung, đề nghị bổ sung
thêm một số chỉ tiêu về phát
triển y tế vào giải pháp phát
triển y tế, chăm sóc sức khỏe
nhân dân. Cụ thể, phấn đấu
90% trạm y tế và phòng khám
đa khoa khu vực có cơ sở vật
chất hoàn chỉnh và được trang
bị theo quy định của Bộ Y tế.
Xây mới BV đa khoa Vũng
Tàu, xây dựng và thành lập
BV lao và phổi. Phấn đấu 2
BV đa khoa tỉnh đạt BV hạng
I. Nâng cao chất lượng khám
chữa bệnh (KCB), đáp ứng
cho nhu cầu 2.000.000 lượt
người khám mỗi năm. Thực hiện tốt công tác dân
số - kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe bà
mẹ và trẻ em, duy trì tỷ suất tăng tự nhiên khoảng
1%. Tiếp tục thu hút nhân lực y tế, đào tạo, bôi
dưỡng cán bộ và có chính sách ưu đãi cán bộ y tế.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT)
vào quản lý y tế đạt 80% BV và trung tâm y tế...
Bác sĩ Võ Văn Hùng, Phó Bí thư Đảng ủy,
Phó Giám đốc Sở Y tế đề xuất: Cần tập trung đầu
tư các trang thiết bị, cơ sở vật chất cho y tế dự
phòng để khống chế, loại trừ các dịch bệnh. Về
quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, trong 5 năm tới,
khống chế không để xảy ra ngộ độc thực phẩm
hàng loạt và các bệnh tật do nhiễm độc từ hóa chất
độc hại tôn dư trên thực phẩm. Thành lập Chi cục
Lao động và Môi trường để quản lý hoạt động bảo
đảm an toàn sức khỏe môi trường lao động trong
các khu công nghiệp. Về mảng điều trị, để nâng
cao chất lượng KCB, cần tập trung phát triển các
khoa chuyên sâu tại BV Bà Rịa, phấn đấu đưa BV
này lên BV hạng I. Bên cạnh đó, xây dựng BV đa
khoa khu vực Lê Lợi phục vụ cho người dân tuyến
Vũng Tàu - Côn Đảo. Để giảm quá tải cho các BV
đa khoa tuyến tỉnh, cần tập trung hoàn thiện và
xây dựng mới các BV chuyên khoa Tâm thần,
67
Mắt, Lao - phổi, sản - phụ
khoa - nhi - sơ sinh, ung thư
bằng nguôn ngân sách và xã
hội hóa. Nâng cấp các Trung
tâm y tế tại Xuyên Mộc, Châu
Đức, Tân Thành, Côn Đảo.
Phát triển y tế cơ sở theo định
hướng mô hình bác sĩ gia đình
tại các xã, phường. Tạo điều
kiện hỗ trợ, phát triển y tế
ngoài công lập, đông thời tăng
cường quản lý hoạt động y tế
ngoài công lập...
Góp ý Dự thảo văn kiện,
bác sĩ Nguyễn Viết Giáp, Bí
thư Chi bộ, Giám đốc BV Mắt
có ý kiến: Dự thảo cần đưa ra
các mục tiêu chính và mục
tiêu, giải pháp cụ thể. Chẳng
hạn về mục tiêu chính: Kiện
toàn và phát triển mạng lưới y
tế một cách toàn diện, nâng
cao chất lượng các dịch vụ y
tế, đáp ứng nhu cầu chăm sóc
sức khỏe, phòng chống bệnh
tật và KCB của nhân dân. Theo đó, các mục tiêu cụ
thể gôm: Thành lập một số BV chuyên khoa tuyến
tỉnh, chú trọng phát triển y học cổ truyền, công tác
phục hôi chức năng, và xây dựng hệ thống y học
gia đình. Tăng cường nguôn nhân lực y tế, đặc biệt
nhân lực kỹ thuật cao đủ sức thực hiện nhiệm vụ và
theo kịp tiến bộ y học. Cần đặc biệt quan tâm nâng
cao năng lực cho hoạt động y tế dự phòng. Chú
trọng nâng cao năng lực cho y tế tuyến huyện theo
hướng gần dân hơn, thực hiện toàn diện hai chức
năng điều trị và dự phòng. Đối với khối điều trị,
cần đầu tư phát triển một số chuyên khoa mũi nhọn
để hạn chế phải chuyển bệnh nhân lên tuyến trên.
Nâng cao trình độ chuyên môn chung, tăng cường y
đức và kỹ năng giao tiếp ứng xử cho đội ngũ y bác
sỹ. Cần tạo cơ chế, động lực và điều kiện thuận lợi
để thực hiện xã hội hóa y tế, phát triển y tế ngoài
công lập. Đổi mới cơ chế tài chính, trong đó tự chủ
kinh phí hoàn toàn với các đơn vị y tế có đủ điều
kiện để chủ động kinh phí và nhân lực thực hiện
nhiệm vụ và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
nhân dân...
Minh Thiên
http://www.baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Doanh nghiệp, doanh nhân BR-VT: Đặt niềm tin và kỳ vọng vào Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020
Cùng với sự mong đợi, chờ đón của người dân, doanh nghiệp, doanh nhân BR-
VT tích cực phát huy trí tuệ, sức mạnh đóng góp ý kiến cho Dự thảo văn kiện Đại hội
68
đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VI và hướng đến ngày diễn ra đại hội, từ 21 đến
23/10.
Về kết quả thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015),
các doanh nhân đánh giá cao việc Đảng
đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế về
hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước;
đông thời đề nghị Đảng phân tích rõ hơn
nguyên nhân của hạn chế đó nhằm huy
động được nhiều và chất lượng hơn ý
kiến tham gia đóng góp của người dân và
doanh nghiệp trong xây dựng chính sách,
pháp luật. Một số doanh nghiệp mạnh
dạn đề xuất ý kiến về việc kiên quyết
chống tham nhũng đi đôi với cải cách
thực sự bộ máy và thủ tục hành chính,
coi đây là một trong những nhiệm vụ
quan trọng để bảo vệ thành quả của
Đảng, của nhân dân.
Ông Lê Đình Thắng, Tổng giám
đốc Công ty Cp xây dựng DIC 4 bày
tỏ: “Là doanh nhân cũng là Đảng viên
trực thuộc Khối doanh nghiệp, trước
tiên chúng tôi mong muốn Đại hội tỉnh
Đảng bộ diễn ra thành công tốt đẹp.
Thứ 2, chúng tôi kỳ vọng rằng Đại hội
lần này bầu ra những lãnh đạo mới
quan tâm nhiều hơn đến chính sách
kinh tế vĩ mô, vi mô và quan tâm
nhiều hơn đến doanh nghiệp, tháo gỡ
dần khó khăn cho doanh nghiệp. Hiện
nay, thủ tục hành chính còn rất nhiêu
khê, lực lượng công chức nhà nước
thực hiện nhiệm vụ chưa thật sự tận sự
tâm huyết và tận tình hướng dẫn các
nhà đầu tư. Đây là một trong những
rào cản lớn trong việc thu hút nhà đầu
tư và doanh nghiệp”.
Bám sát vào mục tiêu tăng trưởng
kinh tế của tỉnh, đa số các doanh nghiệp,
doanh nhân đều mong đợi cơ chế, chính
sách thông thoáng hơn nhằm tạo điều
kiện thuận lợi hơn nữa để doanh nghiệp
phát triển ổn định và bền vững.
Ông Lưu Ngọc Thanh, TGĐ Công ty
CP gạch ngói gốm xây dựng Mỹ
Xuân chia sẻ: “Tôi nghĩ rằng đây là kỳ
Đại hội hết sức quan trọng để đổi mới,
xây dựng đất nước ngày càng phát
triển, nhất là trong giai đoạn chúng ta
hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế
giới. Tôi hy vọng Đại hội lần này sẽ đề
ra những giải pháp đột phá về phát triển
kinh tế, giúp doanh nghiệp nhanh chóng
hội nhập; đông thời tư vấn cho doanh
nghiệp biết rõ hơn, sâu hơn những hiệp
định mà chúng ta vừa ký kết, hội nhập”.
Nhiều doanh nghiệp cũng kỳ vọng,
nhiệm kỳ Đại hội lần này sẽ có những
69
quyết sách đúng đắn phát triển KT-XH,
chú trọng phát triển chiều sâu, xác định
rõ lĩnh vực và ngành nghề mũi nhọn,
trọng tâm, có lợi thế trong môi trường
hội nhập. Ông Nguyễn Văn Quý, Phó
Giám đốc Công ty CP may xuất khẩu
Vũng Tàu đánh giá: “Tôi nghĩ BR-VT
mạnh về công nghiệp, cảng biển, dịch vụ
hải sản, dầu khí, hậu cần cảng, du lịch và
một số ngành khác trong khu công
nghiệp Đông Xuyên, Phú Mỹ 1, Phú Mỹ
2… Tiềm năng phát triển kinh tế của tỉnh
rất lớn. Cơ sở hạ tầng những năm qua
được đầu tư mạnh mẽ. Tuy nhiên, để
phát huy những thế mạnh này cần phải
đầu tư mạnh mẽ hơn nữa về hạ tầng giao
thông, cảng biển”.
Song song với việc tích cực tham gia
góp ý Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI, đội ngũ doanh nghiệp,
doanh nhân tỉnh còn tổ chức nhiều hoạt
động sôi nổi. Một số doanh nghiệp đã có
những công trình, phát động các phong
trào: thi đua, văn hóa, văn nghệ, thể dục,
thể thao, tăng năng suất lao động ở các
phân xưởng, bộ phận, nhằm giảm giá
thành sản phẩm để tạo thị trường và thu
hút đầu tư, mở rộng sản xuất. Nhiều
doanh nghiệp tăng cường tổ chức các
hoạt động từ thiện, an sinh xã hội thông
qua hình thức: hỗ trợ vốn, xây nhà cho
người nghèo, gia đình chính sách, ủng hộ
các quỹ từ thiện… lập thành tích chào
mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần
thứ VI, nhiệm kỳ 2015- 2020. Ông
Nguyễn Đình Hùng, Phó giám đốc Nhà
máy Đạm Phú Mỹ cho biết: “Nhà máy
chúng tôi cố gắng vận hành đúng công
nghệ và đảm bảo sản lượng đề ra, giảm
thiểu sự cố ngoài ý muốn và nếu có sự cố
thì cố gắng khắc phục trong thời gian
sớm nhất để đảm bảo hiệu quả. Nếu
không có gì thay đổi thì năm 2015,
chúng tôi sẽ hoàn thành vượt kế hoạch
khoảng 25 đến 26 ngày”.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần
thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020 sẽ mở ra
một chặng đường mới với hướng phát
triển bền vững. Trong đó, doanh nghiệp,
doanh nhân là một trong những yếu tố
góp phần quan trọng vào quá trình xây
dựng, phát triển BR-VT trở thành một
tỉnh mạnh về công nghiệp, cảng biển,
dịch vụ hậu cần cảng và du lịch.
Vũ Yến
http://brt.vn
Đài truyền hình tỉnh BR-VT
70
Đại hội các Đảng bộ trực thuộc
Vươn tầm đô thị loại II
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân Tp. Bà
Rịa đã từng bước vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành cơ bản các mục tiêu,
nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IV đề ra. Hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh, kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng - an ninh được tăng cường,
đời sống của nhân dân cải thiện tích cực... đặc biệt là từ thị xã, Bà Rịa đã trở thành
thành phố và được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công nhận là đô thị loại II thuộc
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trước năm 2015.
Thành phố xanh - sạch - đẹp
Là người dân sống lâu năm ở Tp. Bà
Rịa, ông Lê Trọng Thủy, ở số 19 Hùng
Vương (Tp. Bà Rịa), nhận xét, vài năm
trở lại đây, Bà Rịa có những thay đổi rõ
rệt. Thành phố khang trang, đường sá
được mở rộng, lề đường lát gạch sạch
sẽ, thông thoáng, đáp ứng nhu cầu đi lại
cho người dân. “Mỗi sáng đi bộ tập thể
dục trên các con đường, tôi thấy thành
phố rất đẹp, công viên, cây xanh được
chăm, tỉa chu đáo, tạo không khí trong
lành. Tôi rất tự hào là người dân của Tp.
Bà Rịa xinh đẹp này” - ông Lê Trọng
Thủy tâm sự.
Theo ông Nguyễn Văn Hoàng, Chủ
tịch UBND Tp. Bà Rịa, công tác quy
hoạch, chỉnh trang đô thị, đầu tư xây
dựng công trình phúc lợi xã hội, phục vụ
dân sinh được thực hiện đông bộ, đáp
ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ phát triển địa
phương. Tp. Bà Rịa đã triển khai thực
hiện 15 đô án quy hoạch, điều chỉnh quy
hoạch chung tỷ lệ 1/10.000, tầm nhìn
đến năm 2025; điều chỉnh 4 đô án quy
hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2.000 thành quy
hoạch phân khu và tiếp tục rà soát các
đô án quy hoạch không còn phù hợp cần
điều chỉnh để đầu tư, phát triển trong
thời gian tới.
Tp. Bà Rịa đã ngầm hóa 18 tuyến
điện trung, hạ thế và hệ thống cáp viễn
Cơ sở hạ tầng Tp. Bà Rịa ngày càng phát triển
71
thông, truyền hình các tuyến đường dài
17km; tiếp tục ngầm hóa 14 tuyến
đường với tổng chiều dài khoảng
10,9km. Đầu tư xây dựng, sửa chữa 116
công trình (trong đó có 36 công trình
giao thông, 14 công trình trường học, 12
công trình y tế, 54 công trình phúc lợi
xã hội khác). Ngoài nguôn vốn từ ngân
sách Nhà nước, Tp. Bà Rịa đã thu hút 9
dự án đầu tư từ nguôn vốn của các
doanh nghiệp (trong đó có 3 dự án đầu
tư nước ngoài), vốn đăng ký mới 1.226
tỷ đông và 8,2 triệu USD, vốn thực hiện
382 tỷ đông và 0,5 triệu USD.
Với cơ sở hạ tầng không ngừng phát
triển, năm 2012, Chính phủ đã có quyết
định công nhận TX. Bà Rịa là thành phố
thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tiếp đó,
Tp. Bà Rịa đã tập trung nguôn lực, triển
khai đầu tư thực hiện các tiêu chí của đô
thị loại II và đã được Thủ tướng Chính
phủ quyết định công nhận Tp. Bà Rịa là
đô thị loại II vào tháng 11-2014. Đây là
thành quả quan trọng của Đảng bộ Tp.
Bà Rịa trong nhiệm kỳ, là nguôn động
viên, cổ vũ quý báu cho Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân Tp. Bà Rịa.
Điểm sáng văn hóa của cả nước
Bên cạnh việc đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội, hệ thống thiết chế văn hóa
từ thành phố đến phường, xã đã từng
bước được củng cố và phát triển. Chất
lượng, nội dung, hình thức hoạt động
của trung tâm văn hóa học tập cộng
đông ở các phường, xã được nâng lên,
phục vụ nhu cầu của nhân dân. Các
hoạt động và mô hình đội, nhóm, câu
lạc bộ, các lớp năng khiếu được nhân
dân hưởng ứng mạnh mẽ.
Phong trào xây dựng đời sống văn
hóa gắn với xây dựng nông thôn mới và
văn minh đô thị ngày càng đi vào chiều
sâu, được nhân dân đông thuận, hưởng
ứng tích cực.
Việc thực hiện Đề án nâng cao chất
lượng thành phố văn hóa giai đoạn 2011
- 2015 đã tạo sự chuyển biến tích cực
trên các lĩnh vực đời sống xã hội, như: Ý
thức chấp hành pháp luật được nâng cao;
đời sống tinh thần của nhân dân ngày
càng cải thiện; nếp sống văn hóa nông
thôn, văn minh đô thị ngày càng đi vào
chiều sâu, được nhân dân đông thuận,
hưởng ứng; sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc được phát huy. Tp. Bà Rịa
đã được Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Khóa XI) biểu
dương đánh giá là điểm sáng văn hóa của
cả nước.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo luôn
được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo. Chất
lượng dạy học và kết quả học tập được
72
nâng lên. Đến nay, Tp. Bà Rịa có 27/33
trường công lập đạt chuẩn quốc gia, đạt
tỷ lệ 81,81% (Nghị quyết Đại hội IV đề
ra 80%). Công tác xã hội hóa giáo dục và
đào tạo luôn được khuyến khích, hỗ trợ,
hiện có 5 trường Mầm non tư thục được
đầu tư và đưa vào hoạt động. Đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục
được kiện toàn và ngày càng nâng cao
chất lượng; giáo viên ở các cấp bảo đảm
chuẩn hóa 100% (trong đó, có 65% giáo
viên các trường công lập đạt trên chuẩn).
Chương trình giáo dục mầm non mới đạt
kết quả tích cực; duy trì tốt kết quả phổ
cập giáo dục mầm non (đạt chuẩn từ
2012), phổ cập giáo dục bậc tiểu học (đạt
chuẩn từ 2003) và trung học cơ sở (đạt
chuẩn từ 2008).
Phong trào thể dục - thể thao phát
triển sôi nổi, thu hút đông đảo đối tượng
tham gia. Dân số luyện tập thể dục, thể
thao thường xuyên đạt 37% (tăng 6,4%
so với năm 2011 và đạt 102,7% so với
Nghị quyết Đại hội IV đề ra).
Tp. Bà Rịa đã tích cực triển khai các
chương trình, dự án phục vụ cho phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
như: quy hoạch vùng sản xuất, chương
trình giống cây trồng, vật nuôi; phát
triển giao thông nông thôn, chương trình
nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường
nông thôn; kiên cố hóa kênh mương phục
vụ sản xuất nông nghiệp. Chương trình
xây dựng nông thôn mới ở 3 xã (Hòa
Long, Long Phước, Tân Hưng) được
triển khai đồng bộ và hiệu quả, được
nhân dân đồng tình, ủng hộ. Xã Hòa
Long đã được UBND tỉnh công nhận đạt
chuẩn nông thôn mới năm 2014; xã Long
Phước và xã Tân Hưng đang tích cực
hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới
trong thời gian tới.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Thành phố "sạch đẹp, văn minh, thân thiện"
Nhiệm kỳ 2010-2015, trên chặng đường xây dựng và phát triển, Đảng bộ, chính
quyền, quân và dân thành phố Vũng Tàu, với truyền thống đoàn kết, đã vượt qua
mọi khó khăn thách thức để đạt được những kết quả quan trọng. Thành phố duy trì
được mức tăng trưởng kinh tế ổn định; hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị được
đầu tư và phát triển, góp phần tạo bộ mặt đô thị “Xanh, sạch, đẹp, văn minh, thân
thiện, ấn tượng”.
73
Dịch vụ - Thương mại giữ thế
chủ đạo
Qua cầu Cỏ May, đi dọc con đường
Võ Nguyên Giáp, 3-2 về trung tâm Tp.
Vũng Tàu, các du khách đến từ tỉnh Nam
Định cứ trầm trô khen ngợi khi thấy những
con đường rộng rãi, với các hàng cây, cụm
hoa vươn mình trong nắng, gió. Chị
Nguyễn Thị Ngọc ở số 79 Hai Bà Trưng,
Tp. Nam Định cho biết, các thành viên
trong đoàn đều cảm nhận Tp. Vũng Tàu
rất xanh - sạch - đẹp, là nơi lý tưởng để du
khách nghỉ dưỡng.
Trong lễ công bố Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ công nhận Tp.
Vũng Tàu là đô thị loại I thuộc tỉnh vào
tháng 8-2013 (sớm hơn 2 năm so với
mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
Tp. Vũng Tàu lần thứ V đặt ra), ông
Nguyễn Thiện Nhân, Uy viên Bộ Chính
trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, nay là
Chủ tịch Uy ban Trung ương MTTQVN
đã phát biểu: “Tôi tin rằng, Tp. Vũng
Tàu sẽ trở thành một trung tâm kinh tế,
văn hóa, du lịch lớn của cả nước; là nơi
đáng đến, đáng sống và hạnh phúc”.
5 năm qua, lĩnh vực dịch vụ du lịch
của thành phố đã có những bước chuyển
biến tích cực. Ông Nguyễn Lập, Chủ tịch
UBND Tp. Vũng Tàu cho biết, kết cấu
hạ tầng ngành du lịch từng bước được
xây dựng đông bộ, thu hút nhiều dự án
đầu tư; nhiều khách sạn nhà hàng đạt tiêu
chuẩn quốc tế được xây dựng, bước đầu
đã hình thành những khu vui chơi giải trí
mới. Trong 5 năm qua, trên địa bàn thành
phố có thêm 423 cơ sở lưu trú đi vào
hoạt động, đưa tổng số cơ sở hiện có là
1.540, trong đó có 193 cơ sở được xếp
hạng từ 1 đến 5 sao. Tổng số phòng nghỉ,
lưu trú khoảng 13.600, trong đó có 6.900
phòng được xếp hạng, còn lại là số
phòng trọ bình dân. Để hướng đến môi
trường du lịch thân thiện, ấn tượng,
thành phố đã triển khai đề án củng cố và
phát triển khu du lịch Bãi Sau Tp. Vũng
Tàu đến năm 2020.
Tp. Vũng Tàu đã triển khai quyết
liệt, liên tục các biện pháp như tăng
cường công tác bảo đảm an ninh, trật tự
an toàn tại các địa điểm du lịch; niêm yết
giá và kinh doanh theo giá niêm yết;
công khai các cơ sở dịch vụ kinh doanh
tùy tiện nâng giá; sắp xếp lại buôn bán
hàng rong… góp phần tạo an tâm cho du
Cơ sở hạ tầng của Tp. Vũng Tàu ngày càng
phát triển Trong ảnh: Đường Võ Nguyên Giáp,
Tp. Vũng Tàu
74
khách đến Vũng Tàu. Lượng khách du
lịch đến thành phố Vũng Tàu không
ngừng tăng qua các năm. Năm 2015 ước
tính có trên 5,3 triệu lượt khách, đạt
142,8% chỉ tiêu Nghị quyết. Doanh thu
năm 2011 đạt 2.500 tỷ đông, năm 2013
đạt 4.300 tỷ đông, ước năm 2015 đạt
khoảng 6.900 tỷ đông; tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm đạt khoảng 30,3%.
Dịch vụ vận tải luôn được các doanh
nghiệp đầu tư đổi mới phương tiện, nâng
cao chất lượng phục vụ, đáp ứng tốt nhu
cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa
trên địa bàn. Các loại hình dịch vụ khác
như dịch vụ Ngân hàng, dịch vụ hậu cần
nghề cá, dịch vụ bưu chính viễn thông,
dịch vụ cung ứng ngành dầu khí… luôn
duy trì tốc độ tăng trưởng khá, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Thương mại tiếp tục phát triển, đáp
ứng nhu cầu của các tầng lớp nhân dân
và du khách, với doanh thu tăng bình
quân 28,7%/năm. Bên cạnh việc sửa
chữa, cải tạo hệ thống các chợ truyền
thống bằng nguôn vốn ngân sách Nhà
nước, thành phố đã khuyến khích và tạo
điều kiện phát triển hệ thống cơ sở kinh
doanh thương mại có quy mô và phương
thức hoạt động tương đối hiện đại.
Trong 5 năm các doanh nghiệp đã đầu tư
và đưa vào hoạt động 4 siêu thị quy mô
lớn, 3 chợ và nhiều cửa hàng tự chọn.
Chú trọng đầu tư phát triển và xây
dựng cơ bản
5 năm qua, được sự quan tâm đầu tư
của UBND tỉnh, các sở, ban, ngành, cùng
với nguôn ngân sách của thành phố, trên
địa bàn đã được đầu tư khoảng 8.974 tỷ
đông (trong đó ngân sách thành phố
khoảng 1.408 tỷ đông). Với nguôn vốn
trên đã đầu tư xây xây dựng mới 21
trường học (hiện đang triển khai thi công
6 công trình), 22 đường giao thông; cải
tạo nâng cấp trên 65km đường hẻm; xây
dựng, cải tạo 25 trụ sở làm việc và trụ sở
khu phố; lắp điện chiếu sáng cho khoảng
72km đường; xây dựng 3 trạm y tế, 1
trung tâm văn hóa học tập cộng đông; cải
tạo 122.000m2 vỉa hè và nhiều hoa viên,
công viên mới được đầu tư xây dựng.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố có hơn
1.200 đường hẻm, trong đó 100% đã
được lắp đặt hệ thống đèn chiếu sáng;
95% được trải bê tông hoặc tráng nhựa;
được lắp đặt hệ thống cấp nước sinh hoạt
và hệ thống thoát nước.
Một số công trình giao thông quan
trọng của thành phố đã hoàn thành đưa
vào sử dụng như đường Gò Găng - Long
Sơn, 51B, Phước Thắng, Ngô Quyền
(giai đoạn I), Nơ Trang Long, Lưu Hữu
Phước, Hàn Thuyên, Trần Anh Tông…
kết nối các tuyến đường dọc vào thành
phố, nhằm hoàn thiện mạng lưới giao
75
thông đô thị, phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội và đời sống nhân dân. Ngoài ra,
một số tuyến quan trọng như đường 30/4,
Nguyễn Hữu Cảnh, Cầu Cháy, Hàng
Điều đang được hoàn thiện thủ tục đầu tư
nâng cấp, xây dựng mới. Một số tuyến
đường thuộc khu vực Bãi Sau và khu
trung tâm cũng được cải tạo, nâng cấp
vỉa hè phục vụ chỉnh trang đô thị.
Tạo chuyển biến hơn nữa về đời
sống nhân dân
Bà Nguyễn Thị Bạch Ngân, Phó Chủ
tịch UBND Tp. Vũng Tàu cho biết, thành
phố luôn bảo đảm thực hiện tốt các chế
độ chính sách và chăm sóc, thăm hỏi
thường xuyên 8.500 đối tượng người có
công với cách mạng, gia đình thương
binh, liệt sĩ; quan tâm thực hiện các chế
độ đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Tổ
chức nhiều đợt quyên góp gây quỹ cho
trẻ mô côi, người già không nơi nương
tựa, người tàn tật và giúp đỡ người
nghèo. Đã triển khai thực hiện tốt cuộc
vận động xây dựng xã, phường phù hợp
với trẻ em, đến nay đã có 100% phường,
xã đạt tiêu chuẩn (Nghị quyết là 90%);
đã có 93,8% số hộ đạt ngôi nhà an toàn
cho trẻ em; triển khai mô hình cung cấp
dịch vụ chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng
HIV/AIDS tại gia đình, tại cộng đông 3
phường; mô hình cung cấp hệ thống
dịch vụ bảo vệ trẻ em tại 2 phường. Các
chính sách hỗ trợ đông bào dân tộc được
thực hiện đầy đủ, kịp thời theo quy định,
giúp cải thiện đời sống đông bào dân tộc
thiểu số.
Bên cạnh đó, thành phố cũng chú
trọng công tác đào tạo, dạy nghề và giới
thiệu việc làm cho người lao động.
Thành phố đã liên kết với các cơ sở dạy
nghề đào tạo nghề cho lao động nông
thôn và giải quyết việc làm cho các lao
động có nhu cầu làm việc. Trong 5 năm
đã giải quyết việc làm cho khoảng
48.382 lao động, trong đó số lao động
được giải quyết việc làm mới khoảng
26.744 lao động; số lao động nông thôn
được đào tạo nghề 1.242 người.
Trong công tác giảm hộ nghèo, đoàn
thể đã phối hợp thực hiện tốt công tác
giúp đỡ hỗ trợ các hộ giảm nghèo. Đến
nay, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn tỉnh còn
0,31%; tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia
còn 0,2% (Nghị quyết Đại hội Đảng đề
ra là đưa hộ nghèo xuống dưới 1% vào
năm 2015). Nếu không tính đối tượng
bảo trợ xã hội: Tỷ lệ hộ nghèo theo
chuẩn tỉnh: 0,04%; không còn hộ nghèo
theo chuẩn quốc gia.
Công tác chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe của nhân dân đã có nhiều chuyển
biến tích cực; thái độ phục vụ và trình độ
chuyên môn của đội ngũ cán bộ y tế
được nâng lên; các cơ sở y tế đã từng
76
bước được đầu tư trang thiết bị đáp ứng
yêu cầu khám chữa bệnh...
ÔNG MAI NGỌC THUẬN, BÍ
THƯ THÀNH UY VŨNG TÀU:
Xây dựng Đảng bộ trong sạch,
vững mạnh
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, nhiều
chủ trương, Nghị quyết của cấp ủy các
cấp được Đảng bộ thành phố triển khai
kịp thời. Công tác tuyên truyền, giáo dục
chính trị tư tưởng được chú trọng thực
hiện; Đảng bộ luôn quan tâm nắm bắt
tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và
nhân dân; kịp thời tuyên truyền, phổ biến
nghị quyết, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước. Công tác cán bộ, bảo vệ chính trị
nội bộ, xây dựng tổ chức Đảng và phát
triển đảng viên luôn được các cấp ủy
Đảng quan tâm và coi trọng chất lượng.
Các tổ chức Đảng có sự chú trọng đến
việc đổi mới phương thức hoạt động và
từng bước nâng cao chất lượng sinh hoạt
theo Chỉ thị 10-CT/TW của Ban Bí thư
nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả lãnh
đạo. Công tác đánh giá chất lượng, khen
thưởng tổ chức Đảng, đảng viên được
thực hiện nề nếp.
Việc thực hiện nghị quyết hội nghị
Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”
luôn có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sâu
sát và thể hiện sự quyết tâm chính trị cao
của các cấp ủy Đảng. Tập trung vào giải
pháp trọng tâm là tự phê bình và phê
bình, các cấp ủy đảng và mỗi cán bộ,
đảng viên trong Đảng bộ thành phố đã tự
giác kiểm điểm, nhìn nhận những ưu
điểm để phát huy, những hạn chế yếu
kém để khắc phục, sửa chữa. Đối với các
tổ chức đã điều chỉnh, bổ sung quy chế,
quy trình công tác để phát huy dân chủ
trong Đảng.
Thời gian qua, việc “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hô Chí Minh”
theo tinh thần Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị
(khóa XI) đã trở thành hoạt động thường
xuyên trong hệ thống chính trị và được
triển khai sâu rộng trong các tổ chức xã
hội, tạo những chuyển biến tích cực
trong nhận thức và hành động của đội
ngũ cán bộ, đảng viên trong việc tu
dưỡng rèn luyện, giữ gìn phẩm chất
chính trị, đạo đức lối sống và đổi mới lề
lối làm việc. Đã xuất hiện nhiều tập thể
và cá nhân điển hình tiên tiến, những mô
hình làm theo lời Bác, góp phần tích cực
vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của
địa phương và xây dựng Đảng bộ ngày
càng trong sạch, vững mạnh.
Đảng bộ thành phố đã từng bước trẻ
hóa cán bộ lãnh đạo, tăng cường việc đào
tạo trình độ chuyên môn, lý luận chính trị
cho cán bộ. Thực hiện điều động, luân
chuyển cán bộ đúng quy định; hoàn thành
công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản
77
lý cấp thành phố và thường xuyên tiến
hành điều chỉnh, nhằm bổ sung những
nhân tố mới, cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Đội
ngũ cán bộ thành phố, phường, xã nhất là
cán bộ lãnh đạo chủ chốt đã được đào tạo,
bôi dưỡng, rèn luyện có trình độ, năng
lực, phẩm chất đạo đức, có khả năng, kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ.
Công tác kiểm tra, giám sát được
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai
thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình,
quy định; chú trọng kiểm tra tổ chức
Đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm; công tác tiếp nhận, xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo của đảng viên và nhân
dân được giải quyết khách quan, công
minh, chính xác. Việc thi hành kỷ luật
đảng được thực hiện đúng nguyên tắc,
thủ tục quy định.
Công tác dân vận, đặc biệt là công
tác dân vận chính quyền các cấp cùng
với việc đề cao nguyên tắc tập trung dân
chủ đã tạo sự đông thuận xã hội, phát
hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề
phức tạp tại cơ sở, góp phần ổn định
tình hình an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội. Phong trào thi đua “Dân vận
khéo” được triển khai rộng rãi trong hệ
thống chính trị, đã xuất hiện những mô
hình hay, điển hình được nhân rộng,
thúc đẩy các phong trào thi đua yêu
nước và các cuộc vận động, góp phần
hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của
Đảng bộ đề ra.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội tích cực đổi mới
phương thức hoạt động với trọng tâm
hướng về cơ sở, lấy địa bàn cơ sở làm
trọng điểm để tập trung giải quyết các
vấn đề phát sinh. Hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -
xã hội ngày càng phát triển, khẳng định
được vai trò, vị trí trong hệ thống chính
trị. Ngoài việc thực hiện chức năng giám
sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội, các tổ chức hội quần chúng đã làm
tốt công tác tập hợp và vận động các
tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, các cuộc
vận động do chính quyền địa phương
phát động, góp phần xây dựng và củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo đông
thuận xã hội, cùng Đảng bộ và chính
quyền thành phố thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Phúc Lưu
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
78
Đưa Côn Đảo trở thành trung tâm du lịch, dịch vụ chất lượng cao
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V, Đại hội đại biểu
Đảng bộ huyện lần thứ VIII, Đảng bộ, Chính quyền, quân và dân huyện Côn Đảo đã
nỗ lực phấn đấu hoàn thành đạt và vượt nhiều chỉ tiêu về kinh tế - xã hội.
Kinh tế tăng trưởng khá, bảo đảm an
sinh xã hội
Ông Nguyễn Thành Chính, Phó Bí thư
Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Côn Đảo
cho biết, giai đoạn 2010-2015, Côn Đảo đã
đón 440.600 lượt khách (trong đó có 87.000
lượt khách quốc tế), tăng bình quân
21,18%/năm. Trong nhiệm kỳ 2010-2015,
doanh thu du lịch là 1.377 tỷ đông, đạt
226,8% NQ, tăng bình quân 45,09%/năm.
Tổng doanh thu thương mại dịch vụ khác
3.364 tỷ đông, đạt 93,25% NQ, tăng bình
quân 18%, trong đó: doanh thu thương mại
2.635 tỷ đông; doanh thu dịch vụ khác 729
tỷ đông.
Xác định lấy du lịch - dịch vụ là
ngành kinh tế mũi nhọn, huyện Côn
Đảo đã không ngừng hoàn thiện kết
cấu hạ tầng, kêu gọi các dự án đầu tư
vào lĩnh vực này. Liên tục trong các
năm qua, Côn Đảo đã thu hút được
nhiều dự án lớn: Dự án du lịch trong
Vườn quốc gia Côn Đảo do Công ty
TNHH Côn Đảo Shangri-la Surfing
Resort đầu tư, có vốn đăng ký 1 triệu
USD; Khu du lịch Poulo Condor tại
Bãi Vông - Cỏ Ống với vốn đăng ký
292,6 tỷ đông... Ngoài ra, hiện nay,
trên địa bàn huyện Côn Đảo đã có
nhiều khu du lịch được đầu tư quy
mô: Khu du lịch Việt - Nga, Khu du
lịch Côn Đảo Resort, Khu du lịch
Côn Đảo Residences, Khách sạn Sài
Gòn - Côn Đảo. Đặc biệt là Khu du
lịch đạt tiêu chuẩn 5 sao, đẳng cấp
quốc tế Resort Six Senese. Ngoài ra,
các cá nhân, doanh nghiệp đã không
ngừng đầu tư xây dựng nhiều nhà
nghỉ. Đến nay, Côn Đảo đã có 38 cơ
Du khách lên canô để tham quan các đảo ở huyện Côn Đảo
79
sở lưu trú, đủ sức đáp ứng nhu cầu cho 1.500
khách, tăng 2,52 lần so năm 2010.
Cùng với tập trung phát triển kinh tế,
Đảng bộ, chính quyền luôn quan tâm, hỗ trợ
người dân ổn định cuộc sống, làm giàu chính
đáng. Bà Võ Thị Quế, Phó Ban Công tác
Mặt trận khu dân cư số 1 (khu vực xung
quanh sân bay Cỏ Ống), cho biết, các hộ dân
ở khu dân cư được chính quyền tạo điều kiện
và hỗ trợ vay vốn để chăn nuôi bò, làm biển,
trông rau. Học sinh học ở các trường học
ngoài trung tâm huyện được hỗ trợ 150 ngàn
đông/tháng tiền đi lại. Đường điện sinh hoạt,
nước sạch đã đến tận nhà dân.
Chương trình mục tiêu quốc gia giải
quyết việc làm được thực hiện tốt, đã giải
quyết việc làm cho 1.547 lao động. Tỉ lệ lao
động qua đào tạo hàng năm đều tăng, năm
2015 đạt 60% tổng lao động trong độ tuổi.
Công tác giảm nghèo được quan tâm triển
khai thực hiện với quyết tâm cao và đạt kết
quả tích cực, đến cuối năm 2012 đã hoàn
thành đề án giảm nghèo giai đoạn 2011 -
2015, hiện trên địa bàn huyện không còn hộ
nghèo theo chuẩn của tỉnh. Huyện đã hỗ trợ
đúng mức cho đối tượng chính sách như:
Tặng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, hỗ trợ
kinh phí sửa chữa nhà, cấp thẻ bảo hiểm y tế,
trao học bổng. Với những sự hỗ trợ đó, cuộc
sống của nhân dân huyện Côn Đảo ngày
càng được nâng cao.
Sớm đưa côn đảo trở thành
thành phố
Ông Nguyễn Hoàng Tùng, Bí
thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND
huyện Côn Đảo cho biết, trong
nhiệm kỳ 2015-2020, Đảng bộ
huyện tập trung phát triển Côn Đảo
mang tính đột phá, có tầm nhìn dài
hạn, hướng tới hiện đại và ổn định,
bền vững, có hiệu quả, sớm đưa Côn
Đảo trở thành thành phố du lịch,
dịch vụ chất lượng cao.
Huyện sẽ tập trung xây dựng
nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng, coi
đây là khâu đột phá để thu hút đầu tư.
Kêu gọi mọi nguôn lực đầu tư vào
địa bàn, huy động vốn đầu tư trực
tiếp của các tổ chức, cá nhân trong
nước, vốn ứng trước của các đối
tượng có nhu cầu sử dụng hạ tầng,
vốn của các doanh nghiệp có chức
năng xây dựng và kinh doanh công
trình hạ tầng kỹ thuật. Tiếp tục đề
nghị Trung ương đầu tư nâng cấp sân
bay Côn Đảo, kéo dài đường băng
đáp ứng được máy bay chở từ 150
khách; đề nghị các hãng hàng không
tăng tần suất chuyến bay thành phố
Hô Chí Minh - Côn Đảo và mở thêm
đường bay giữa Côn Đảo với các địa
phương để phát triển du lịch. Về
80
đường thủy, xây dựng cảng cho tàu du lịch
loại lớn, nâng cấp cảng Bến Đầm thành cảng
tổng hợp; hoàn thiện cảng cầu tàu du lịch
hiện hữu, xây dựng các cầu tàu du lịch có
quy mô phù hợp tại các đảo để phát triển loại
hình du lịch sinh thái; đầu tư tàu chở khách
mới có tốc độ và trọng tải lớn hơn. Xây dựng
hoàn chỉnh khu neo đậu tránh trú bão và
Trung tâm tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ của
khu vực Côn Đảo. Phát triển hệ thống giao
thông quanh đảo lớn; cải tạo, nâng cấp các
đường hiện hữu; mở các tuyến giao thông
phù hợp để phát triển du lịch sinh thái rừng
và biển, ưu tiên xây dựng các công trình, vừa
phục vụ kinh tế - xã hội, vừa phục vụ quốc
phòng - an ninh. Đông thời, khuyến khích,
kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia đầu
tư xây dựng cửa hàng miễn thuế, chợ, siêu
thị mini, trung tâm thương mại kết hợp du
lịch đi bộ tham quan và mua sắm tại khu vực
Trung tâm và Cỏ Ống, đa dạng các loại hình
dịch vụ bán lẻ phục vụ nhân dân và du
khách; phát triển tiểu thủ công nghiệp, nhất
là ngành thủ công mỹ nghệ.
Bên cạnh đó, huyện Côn Đảo cũng tập
trung mở rộng cung cấp điện, nước đáp ứng
nhu cầu phát triển. Ưu tiên đầu tư xây dựng
các dự án: Nhà máy điện, xử lý nước thải,
rác thải với công nghệ tiên tiến nhằm bảo vệ
tài nguyên môi trường; không phát triển các
loại hình công nghiệp có nguy cơ ô nhiễm
cao. Đầu tư bổ sung nguôn điện công
suất 13MW để đến năm 2020 đạt
tổng công suất điện 19MW, đáp ứng
nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội, quốc phòng an ninh trên địa
bàn huyện. Đẩy mạnh kêu gọi đầu tư
các dự án điện sử dụng nguôn năng
lượng tái tạo, thân thiện với môi
trường như điện gió, điện mặt trời để
giảm đầu tư điện diesel. Hoàn thiện
hô Quang Trung II, nạo vét hô Quang
Trung I, xây mới hô chứa nước ngọt
Bưng Bèo, nâng cấp hệ thống cấp
nước Cỏ Ống - Bến Đầm…
ÔNG NGUYỄN HOÀNG TÙNG,
BÍ THƯ HUYỆN UY, CHU TỊCH
HĐND HUYỆN CÔN ĐẢO:
Không ngừng đổi mới, nâng
cao hiệu quả lãnh đạo của cấp
ủy Đảng
Trong nhiệm kỳ 2010-2015,
Đảng bộ huyện đã đoàn kết, thống
nhất, giữ mối liên hệ mật thiết với
nhân dân. Coi trọng xây dựng đạo
đức trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân; chủ động hơn trong đấu
tranh chống “diễn biến hòa bình”,
phản bác các luận điểm sai trái,
luận điệu tuyên truyền của các thế
lực thù địch. Cán bộ, đảng viên và
nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo
81
của Đảng bộ, quản lý, điều hành của chính
quyền địa phương.
Phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ
chức Đảng tiếp tục được đổi mới theo hướng
hiệu quả. Công tác xây dựng tổ chức Đảng
và đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn được quan
tâm. Đã chia tách, thành lập thêm 11 chi bộ
cơ sở; kết nạp mới 314 đảng viên, tăng bình
quân 9,28% so với tổng số đảng viên hàng
năm của Đảng bộ; chất lượng đảng viên mới
được nâng lên. Quy hoạch cán bộ thực hiện
đúng quy định, quy trình, thủ tục, phù hợp
với thực trạng đội ngũ cán bộ của huyện.
Công tác đào tạo, bôi dưỡng cán bộ, đảng
viên được chú trọng. Công tác bảo vệ chính
trị nội bộ được quan tâm thực hiện, tiếp tục
giải quyết những vấn đề lịch sử chính trị,
đông thời chú trọng nắm bắt và giải quyết
vấn đề chính trị hiện nay.
Các tổ chức trong hệ thống chính trị đã
đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 03 của
Bộ Chính trị gắn với thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Quy
định về những điều đảng viên không được
làm; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;
tăng cường kỷ luật, kỷ cương, sửa đổi lề lối
làm việc, tập trung giải quyết một số vấn đề
hạn chế, tôn tại trong lĩnh vực quản lý đất
đai, xây dựng nhà ở trên địa bàn huyện.
Công tác kiểm tra, giám sát được
coi trọng, nâng cao chất lượng, hiệu
quả. Huyện ủy đã chỉ đạo thực hiện
có kết quả việc kiểm tra, giám sát
thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng. Kịp thời ngăn ngừa, phát hiện,
xử lý những vụ việc sai phạm, giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Công tác dân vận của Đảng bộ
thường xuyên được quan tâm thực
hiện, hướng mạnh về cơ sở. Hệ thống
tổ chức, đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể từ huyện đến cơ
sở được củng cố, từng bước mở
rộng và phát triển; có nhiều phong
trào và hình thức hoạt động đa dạng
để vận động, tập hợp, đoàn kết các
tầng lớp nhân dân. Các phong trào
thi đua yêu nước, các cuộc vận động
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư”, “Đền ơn
đáp nghĩa”, “Vì người nghèo”, thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được
nhân dân tích cực, tự giác tham gia
đạt kết quả thiết thực.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
82
Đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp hàng hóa Trong 5 năm qua (2010-2015), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Châu Đức
không ngừng vượt qua khó khăn thực hiện thắng lợi chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ IV, tạo đà phát triển kinh tế - xã hội địa phương trong nhiệm
kỳ mới.
Kinh tế tiếp tục ổn định
và tăng trưởng
Trong nhiệm kỳ qua, kinh
tế huyện Châu Đức tiếp tục
ổn định và phát triển, tốc độ
tăng trưởng kinh tế hàng năm
đạt 7,5%. Cơ cấu kinh tế
huyện đến năm 2015, nông
nghiệp chiếm 62%; thương
mại, dịch vụ chiếm 28,7%,
công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp chiếm 9,3%. Thu nhập
bình quân đầu người khoảng 28
triệu đông/người/năm.
Điểm nổi bật trong kinh tế
huyện Châu Đức là ngành nông
nghiệp đã từng bước hình thành
một số vùng sản xuất tập trung
phù hợp với lợi thế từng vùng.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp
huyện đang chuyển dịch tích
cực theo hướng từng bước tăng
dần tỷ trọng ngành chăn nuôi
(đến hết năm 2015, tỷ trọng
ngành chăn nuôi chiếm 34,9%,
trông trọt chiếm 65,1%). Giá trị
sản xuất bình quân 1ha đất nông nghiệp đạt 90
triệu đông. Nền sản xuất nông nghiệp của huyện
hiện nay phát triển theo hướng nâng cao năng suất,
chất lượng gắn với nhu cầu thị trường. Việc áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất
nông nghiệp cũng đã mang lại nhiều hiệu quả, góp
phần tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản
xuất cho nông dân.
Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
huyện cũng đã có những bước tiến dài. Dự kiến
đến hết năm 2015, toàn huyện có 870 cơ sở, DN
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đến nay, cụm
công nghiệp Ngãi Giao đạt giá trị sản xuất
khoảng 2.578 tỷ đông/năm; KCN - Đô thị Châu
Đức đang được đầu tư hạ tầng kỹ thuật và kêu gọi
đầu tư thứ cấp; KCN Đá Bạc cũng đang trong
giai đoạn đầu tư hạ tầng kỹ thuật. Công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp được duy trì và ổn định sản
Châu Đức hôm nay đang hình thành diện mạo mới
83
xuất đã đáp ứng một phần nhu
cầu của thị trường tại chỗ và
phục vụ thị trường lân cận.
Về hệ thống thương mại,
trên địa bàn huyện Châu Đức,
hiện nay nhiều chợ đã được đầu
tư xây mới, nâng cấp, sửa chữa
như Kim Long, Ngãi Giao; các
mô hình kinh doanh thương mại
như cửa hàng tự chọn, siêu thị
điện máy phát triển mạnh, góp
phần đáp ứng ngày càng cao
nhu cầu của nhân dân. Công tác
chống hàng lậu, hàng giả và
gian lận thương mại được chú
trọng, đảm bảo môi trường kinh
doanh ổn định, quyền lợi người
tiêu dùng được bảo vệ.
Về đầu tư phát triển, giai
đoạn 2011-2015, Châu Đức đưa
vào sử dụng 399 công trình với
tổng vốn ngân sách 1.856 tỷ
đông, vốn doanh nghiệp 3.680
tỷ đông. Đến nay, kết cấu hạ
tầng của huyện được đầu tư
tương đối đông bộ, trường học
và các thiết chế văn hóa khác
được cải thiện về mọi mặt.
Toàn huyện hiện có 896km
đường giao thông. Các trục
giao thông chính gôm quốc lộ,
tỉnh lộ và các tuyến đường
liên xã cơ bản được láng nhựa; 100% xã, thị
trấn có đường ô tô đến trung tâm; 245km đường
giao thông nông thôn do huyện quản lý đã được
nhựa hóa.
Cùng với phát triển kinh tế, huyện luôn quan
tâm đến công tác đền ơn đáp nghĩa và thực hiện
các chính sách an sinh xã hội. Huyện đã trợ cấp
kinh phí thường xuyên và 1 lần cho người có
công, thân nhân số tiền 81,4 tỷ đông; xây 398 căn
nhà đại đoàn kết, cấp 67.966 lượt thẻ BHYT; hỗ
trợ vay vốn cho 2.705 hộ nghèo, tổ chức dạy nghề
cho 4.033 lao động và giải quyết việc làm cho
22.500 lao động.
Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa
bàn huyện đang tạo khí thế mới trong đời sống
người dân. Hiện xã Quảng Thành đạt 19/19 tiêu
chí và được công nhận xã nông thôn mới. Đối với
các xã nông thôn mới giai đoạn 2013-2015, hiện
nay trung bình mỗi xã đạt khoảng 14 tiêu chí. Dự
kiến đến cuối năm 2015 có 4/14 xã đạt chuẩn nông
thôn mới.
Trong nhiệm kỳ qua, tổng số vốn được huy
động đầu tư xây dựng nông thôn mới của huyện
vào khoảng 1.400 tỷ đông, trong đó vốn ngân sách
356 tỷ đông, vốn nhân dân đóng góp 445 tỷ đông,
còn lại các nguôn vốn khác. Kết quả này đã góp
phần cải thiện đời sống người dân, thu nhập bình
quân đầu người tăng 1,87 lần so với năm 2010.
Vượt thách thức, hoàn thành nhiệm vụ
Theo ông Nguyễn Công Vinh, Chủ tịch
UBND huyện Châu Đức, nhiệm kỳ 2015-2020,
huyện xác định mục tiêu là tiếp tục “Nâng cao
84
năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng bộ, phát huy dân
chủ và sức mạnh đoàn kết toàn
dân phấn đấu phát triển huyện
Châu Đức mạnh về nông
nghiệp; từng bước tăng tỷ trọng
thương mại, dịch vụ; công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp;
đẩy mạnh phát triển văn hóa;
đảm bảo an sinh xã hội; giữ
vững ổn định chính trị; xây
dựng quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân vững mạnh”.
Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân Châu Đức sẽ chú trọng xây
dựng và triển khai thực hiện kế
hoạch tái cơ cấu nông nghiệp
theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững gắn
với thực hiện chương trình xây
dựng nông thôn mới giai đoạn
2015-2020; ứng dụng công
nghệ cao vào trông trọt và chăn
nuôi; kết nối với các DN, ngân
hàng, nhà khoa học để xây
dựng thương hiệu, nhãn hiệu,
cung cấp vốn và ứng dụng các
tiến bộ khoa học tiên tiến trong
sản xuất, chăn nuôi; xây dựng
chuỗi giá trị trên một số cây
trông chính, tổ chức sản xuất
theo quy trình hoặc các tiêu
chuẩn phù hợp; tổ chức thu mua, sơ chế biến và
tiêu thụ sản phẩm; thực hiện tốt quy hoạch chăn
nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm; từng bước đầu tư
cơ sở hạ tầng, đưa vào hoạt động các khu chăn
nuôi tập trung. Huyện cũng xác định nâng cao
hiệu quả mọi nguôn lực để tiếp tục hoàn thiện và
đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng các KCN đã được
phê duyệt. Tập trung phát triển các ngành công
nghiệp là cơ sở vệ tinh cho các nhà máy công
nghiệp lớn, ngành công nghiệp chuyên sâu theo
định hướng của tỉnh. Tạo điều kiện phát triển các
ngành dịch vụ trên các lĩnh vực đầu tư, thương
mại để phục vụ sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp, phát triển đô thị và nông thôn mới.
Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao để
phục vụ các KCN, đô thị và nhu cầu của nhân dân.
ÔNG LÊ MINH ĐỨC, BÍ THƯ HUYỆN UY
CHÂU ĐỨC:
Chú trọng công tác xây dựng Đảng
Trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ huyện Châu
Đức đã tăng cường công tác phổ biến, quán triệt
các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp đến toàn
thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, việc triển khai
Nghị quyết phù hợp với thực tế từng địa phương.
Đảng bộ huyện cũng đẩy mạnh các hoạt động
nhằm nâng cao phẩm chất chính trị cho cán bộ,
đảng viên; Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ.
Mạnh dạn bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ trẻ có
triển vọng, phá bỏ khuynh hướng cục bộ, khép kín
trong quy hoạch sử dụng cán bộ ở từng cơ quan,
85
đơn vị, địa phương. Ngoài ra,
trong 5 năm qua (2010-2015)
toàn Đảng bộ đã phát triển 890
đảng viên mới, đạt 178% so với
chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện, đạt 105,45% so
với chỉ tiêu Tỉnh ủy giao.
Việc thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 (Khóa XI) “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” được gắn với
Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về
học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh. Qua việc
tổ chức kiểm điểm và khắc phục
hạn chế khuyết điểm, các cấp
ủy, tổ chức Đảng, đảng viên
trong toàn Đảng bộ huyện nhận
thức đầy đủ và sâu sắc hơn về
những vấn đề cấp bách trong
công tác xây dựng Đảng; nâng
cao ý thức đấu tranh với những
biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống
trong đội ngũ cán bộ đảng viên;
nguyên tắc tập trung dân chủ,
tự phê bình và phê bình được
phát huy, đoàn kết nội bộ được
tăng cường; cán bộ, đảng viên
có ý thức trách nhiệm trước
nhiệm vụ được giao.
Hàng năm, các cấp ủy Đảng đưa nội dung học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
vào sinh hoạt Chi bộ. Cán bộ, đảng viên nghiêm
túc đăng ký nội dung, nêu rõ thời gian và giải
pháp làm theo Bác và được bổ sung theo chủ đề
học tập từng năm. Hầu hết các cơ quan, đơn vị,
địa phương đều có những kết quả cụ thể về thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; công tác cải cách
hành chính, sửa đổi lối làm việc, tinh thần, thái độ
phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm trong công
việc của cán bộ, đảng viên được nâng lên. Qua 5
năm triển khai triển khai đã có 58 tập thể và 112
cá nhân có thành tích xuất sắc được Tỉnh ủy,
Huyện ủy biểu dương, khen thưởng.
Đảng bộ huyện Châu Đức cũng đã xây dựng
chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát phù hợp
với tình hình thực tế, yêu cầu của nhiệm vụ chính
trị và có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát các đối tượng,
các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực; chú trọng vào những vấn đề bức xúc, nổi
cộm của địa phương, đơn vị để chủ động phát hiện
vi phạm và ngăn chặn xử lý kịp thời. UBKT các cấp
thực hiện toàn diện các nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát; tập trung kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên
cùng cấp và tổ chức Đảng cấp dưới khi có dấu hiệu
vi phạm. Kịp thời ban hành kết luận và tổ chức
theo dõi việc thực hiện kết luận của đối tượng được
kiểm tra, giám sát để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng.
Nhã Uyên
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
86
Phát huy sức mạnh tổng hợp, đưa Đất Đỏ phát triển bền vững
.
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ và nhân
dân huyện Đất Đỏ luôn nỗ lực phấn đấu thực
hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần
thứ X. Kết quả này tạo động lực để Đảng bộ
huyện Đất Đỏ tiếp tục đề ra được mục tiêu phát
triển đúng đắn trong nhiệm kỳ mới 2015-2020,
cùng với chính quyền và nhân dân xây dựng địa
phương phát triển bền vững.
ÔNG NGUYỄN THANH DŨNG, BÍ THƯ
HUYỆN UY, CHU TỊCH UBND HUYỆN
ĐẤT ĐỎ:
Hệ thống chính trị hoạt động hiệu quả
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”, việc kiểm điểm tự phê bình và phê
bình từ huyện đến cơ sở được tiến hành nghiêm
túc, chặt chẽ, khoa học; các nội dung kiểm điểm
bám sát vào yêu cầu được nêu trong Nghị
quyết, xác định nguyên nhân chủ yếu của những
khuyết điểm để đề ra biện pháp khắc phục. Sau
kiểm điểm, các cấp ủy, tổ chức Đảng lãnh đạo,
chỉ đạo hực hiện các giải pháp khắc phục, sửa
chữa hạn chế, khuyết điểm bằng những việc làm
cụ thể, thiết thực, có hiệu quả góp phần hạn chế
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong cán bộ, đảng viên; đoàn kết nội bộ
trong các cơ quan, đơn vị được củng cố; việc
chấp hành các nguyên tắc tổ chức
và sinh hoạt Đảng, nguyên tắc
tập trung, dân chủ, nguyên tắc tự
phê bình và phê bình được thực
hiện tốt.
Trong nhiệm kỳ 2010-2015,
công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ
của huyện có những bước chuyển
biến tích cực. Đội ngũ cán bộ
được kiện toàn, năng lực công tác
không ngừng tăng lên, đáp ứng
yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính
trị trong giai đoạn hiện nay. Công
tác bảo vệ chính trị nội bộ, đào
tạo, luân chuyển cán bộ; công tác
quy hoạch cán bộ giai đoạn 2015-
2020 được thực hiện tốt, bảo đảm
87
tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ và tính kế thừa. Công
tác nhận xét, đánh giá cán bộ, phân loại tổ chức
Đảng và đảng viên hàng năm đúng quy định,
bảo đảm dân chủ.
Đảng bộ luôn củng cố, kiện toàn, sắp xếp tổ
chức bộ máy hành chính Nhà nước theo quy
định, từng bước tinh gọn, khắc phục sự trùng
lắp về chức năng, nhiệm vụ; xây dựng đề án vị
trí làm việc và cơ cấu ngạch công chức, chức
danh nghề nghiệp trong các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp, làm cơ sở để quản lý,
sử dụng tốt đội ngũ công chức, viên chức; chú
trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức
chính trị, trình độ chuyên môn và ý thức trách
nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức.
Đảng bộ cũng phát huy vai trò của Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội trong thực hiện
chức năng giám sát; tích cực tham gia xây dựng
Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thường
xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần
chúng nhân dân để kịp thời phản ánh với cấp ủy,
chính quyền, góp phần củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Điểm sáng về phát triển nông nghiệp
Vài năm nay, hình ảnh chiếc máy gặt đập
liên hợp thu hoạch lúa trên cánh đông của các
địa phương trên địa bàn huyện Đất Đỏ đã trở
nên quen thuộc với người nông dân. Việc cơ
giới hóa sản xuất nông nghiệp đã giúp nông dân
thu hoạch lúa nhanh, giảm hao hụt và tiết kiệm
chi phí thu hoạch khoảng 2,5 triệu
đông/ha so với thu hoạch thủ
công. Anh Phan Hông Tâm ở ấp
Tân Hòa, xã Long Tân cho biết,
năm 2012 anh mua 1 máy gặt đập
liên hợp và 1 máy cày. Ngoài mục
đích thu hoạch lúa trên ruộng của
gia đình, anh còn nhận làm dịch
vụ cho các hộ nông dân khác với
giá 2,5 triệu đông/ha. Việc sản
xuất, thu hoạch của gia đình anh
Tâm vì thế trở nên nhàn hạ, hiệu
quả hơn và còn kiếm thêm được
thu nhập từ chỗ làm dịch vụ.
Cùng đông hành với người
dân, Huyện ủy và UBND huyện
Đất Đỏ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
triển khai các chương trình về
phát triển nông nghiệp, nông thôn
như: Đầu tư xây dựng, cải tạo,
nâng cấp hệ thống thủy lợi, bảo
đảm đáp ứng nhu cầu tưới tiêu,
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Từ
năm 2011 đến nay, huyện đầu tư
bê tông hóa 22 công trình thủy lợi
với tổng chiều dài 38.284m.
Ngoài ra, các xã, thị trấn cũng đầu
tư nạo vét, sửa chữa, xây mới 28
công trình với tổng chiều dài
khoảng 45.589m. Các công trình
thủy lợi đều đã phát huy hiệu quả,
góp phần nâng diện tích sản xuất
88
nông nghiệp được tưới hàng năm đạt trên
3.000ha (năm 2010 là 1.974ha).
Ông Tạ Văn Bửu, Phó Chủ tịch UBND
huyện Đất Đỏ cho biết, hàng năm, các cơ quan
chức năng của huyện đều phối hợp với Trung
tâm Khuyến nông - Khuyến ngư của tỉnh đầu tư
các mô hình phát triển nông nghiệp, tổ chức
chuyển giao kỹ thuật cho các hộ áp dụng vào
sản xuất. Nhiều mô hình sản xuất được ứng
dụng, nhân rộng và phát huy hiệu quả như: Mô
hình trông hoa lan, sản xuất lúa giống xác nhận,
trông rau an toàn, chuyên canh mãng cầu ta,
nhãn xuông cơm vàng, đầu tư máy ấp trứng, lò
sấy thuốc lá... Ngoài ra, huyện cũng chủ động
nguôn vốn kết dư để đầu tư ứng dụng khoa học,
kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, thủy sản
thông qua các dự án phát triển nông nghiệp,
nông thôn; định hướng cho bà con nông dân
chuyển đổi cơ cấu cây trông, áp dụng tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất. Kết quả đối với cây trông
ngắn ngày, đã áp dụng thâm canh, tăng vụ, tăng
số vòng quay sử dụng đất lên 1,61 lần/năm. Đối
với cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả, tiếp
tục thực hiện cải tạo vườn tạp, tăng cường đầu tư
thâm canh, sử dụng các giống cao sản; khuyến
khích nông dân phát triển các khu vườn tập trung,
hình thành vùng chuyên canh mãng cầu ta 160ha
ở các xã: Phước Long Thọ, Phước Hội, Láng Dài,
Long Tân; vùng chuyên canh nhãn xuông cơm
vàng 45ha ở các xã: Lộc An, Phước Long Thọ,
Long Mỹ, Láng Dài, Phước Hội...
Các hoạt động trên góp phần
trực tiếp nâng cao năng suất và
sản lượng các sản phẩm trông trọt
với những kết quả quan trọng như:
Năng suất lúa bình quân tăng từ
39,3 tạ/ha năm 2010 lên 48 tạ/ha
vào năm 2015, tốc độ tăng năng
suất bình quân 4.08%/năm; năng
suất bắp tăng từ 46,5 tạ/ha lên 50
tạ/ha, tốc độ tăng năng suất bình
quân 1,46%/năm; năng suất hầu
hết các loại cây trông khác trong
giai đoạn vừa qua so với năm
2010 cũng tăng lên: Khoai mỳ
tăng 7%/năm, đậu phộng tăng
1,7%/năm... Giá trị sản phẩm thu
được bình quân trên một ha đất
trông trọt tăng từ mức 52,15 triệu
đông/ha lên 75 triệu đông/ha vào
năm 2015. Bên cạnh trông trọt,
chăn nuôi của huyện cũng có bước
chuyển theo hướng chăn nuôi
công nghiệp, ứng dụng công nghệ
sinh học, đưa các giống bò thịt,
heo siêu nạc, vịt siêu trứng vào
sản xuất. Nhờ đó, quy mô đàn vật
nuôi có bước phát triển nhanh về
số lượng tổng đàn và chất lượng
sản phẩm. Tổng đàn heo tăng từ
32 ngàn con năm 2010 lên 43
ngàn con; đàn bò tăng từ 10,2
89
ngàn con lên 11,5 ngàn con; số lượng gia cầm
cũng tăng từ 639 ngàn con lên 760 ngàn con
vào năm 2015. Tổng sản lượng thịt hơi xuất
chuông (heo, trâu, bò) tăng từ 3.590 tấn lên
4.714 tấn.
Chú trọng an sinh xã hội
Theo ông Nguyễn Văn Lợi, Phó Chủ tịch
UBND huyện Đất Đỏ, bên cạnh phát triển kinh
tế, huyện luôn quan tâm thực hiện tốt các chính
sách an sinh xã hội. UBND huyện triển khai
thực hiện Nghị quyết số 02 của Ban Chấp hành
Đảng bộ huyện về công tác giảm nghèo giai
đoạn 2011-2015. Chương trình giảm nghèo trở
thành phong trào hành động của toàn xã hội, với
nhiều hoạt động như: Tổ chức hướng dẫn làm
ăn, hỗ trợ và cho vay vốn phát triển sản xuất,
giải quyết việc làm, xây nhà đại đoàn kết, cấp
BHYT cho người nghèo, miễn giảm học phí cho
học sinh có hoàn cảnh khó khăn... Cuộc vận
động xây dựng nhà tình thương được triển khai
thực hiện rộng khắp. Đến nay, đã vận động quỹ
“Ngày vì người nghèo” hơn 5,4 tỷ đông và hỗ
trợ xây dựng 140 căn nhà đại đoàn kết cho
những hộ nghèo. Số hộ nghèo đầu năm 2011
trên địa bàn huyện có 2.105 hộ, chiếm 13,15%
hộ dân. Trong 5 năm có 1.907 hộ thoát nghèo, số
hộ nghèo còn lại khoảng 110 hộ, chiếm 0,6%.
Công tác dạy nghề, giải quyết việc làm cho
người lao động đạt kết quả tích cực, đã tổ chức
dạy nghề cho gần 2.200 lao động, giải quyết
việc làm hơn 21.500 lao động, trong đó tạo việc
làm mới cho hơn 10.800 lao động.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt
55%, bảo đảm chỉ tiêu Nghị quyết
đề ra.
Các lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, khoa học, công nghệ, y tế, văn
hóa văn nghệ, thể dục thể thao có
nhiều tiến bộ. Đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được
nâng lên rõ rệt.
Chính sách đối với người có
công, bảo trợ xã hội, đông bào dân
tộc được quan tâm, góp phần ổn
định cuộc sống nhân dân. Trẻ em
được quan tâm chăm sóc, bảo vệ
với nhiều biện pháp hiệu quả như:
Hỗ trợ học nghề, mua BHYT; hỗ
trợ mua SGK, đô dùng học tập; hỗ
trợ khó khăn đột xuất; vận động
tặng học bổng, quà, xe đạp... cho
trẻ em.
Những thành tựu nổi bật
* Hoàn thành xây dựng nông
thôn mới xã điểm Long Tân. Các
xã: Long Mỹ, Phước Hội, Láng
Dài đang triển khai thực hiện đề
án xây dựng nông thôn mới, phấn
đấu đến cuối năm 2015 đạt 19/19
tiêu chí.
* Trong giai đoạn 2011-2015,
giá trị sản xuất nông - lâm - ngư
90
nghiệp tăng bình quân 7,6%/năm; trong đó, giá
trị sản xuất nông nghiệp tăng 6,61%/năm, ngư
nghiệp tăng 8,2%/năm.
* Giá trị sản xuất thủy sản giai đoạn 2011-
2015 tăng trưởng bình quân 8,2%/năm, trong đó
khai thác thủy sản tăng 7,55%/năm và nuôi
trông thủy sản tăng 14,2%.
* Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình
quân 14,41%/năm. Các sản phẩm công nghiệp -
TTCN chủ yếu đều tăng trưởng khá.
* Thương mại - dịch vụ duy trì được tốc độ
tăng trưởng, bảo đảm phục vụ kịp thời các nhu
cầu hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân.
Tổng doanh thu thương mại - dịch vụ tăng
19,57%/năm.
* Doanh thu dịch vụ du lịch tăng trưởng
bình quân 21,84%/năm. Hệ thống hạ tầng kỹ
thuật phục vụ phát triển du lịch ngày càng
hoàn thiện.
* 100% xã có đường nhựa đến trung tâm.
Hệ thống điện, nước sạch đáp ứng kịp thời nhu
cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Tỷ lệ
hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch hợp
vệ sinh đạt 99%, trong đó tỷ lệ hộ
dân sử dụng nước máy đạt 71%.
* Số trường chuẩn quốc gia là
16/20 trường, đạt tỷ lệ 53,3%.
Hàng năm huy động học sinh vào
các lớp đầu cấp đạt 98% trở lên.
* Vận động gần 5,5 tỷ đông,
trao 21.994 suất học bổng và khen
thưởng cho học sinh.
* Trung tâm Y tế huyện được
xây mới và đưa vào hoạt động đáp
ứng nhu cầu khám và điều trị nội
trú của người dân. Các trạm y tế
xã, thị trấn được quan tâm đầu tư,
bảo đảm đủ các phòng chức năng
và trang, thiết bị thiết yếu phục vụ
công tác khám bệnh.
* Mức hưởng thụ văn hóa đạt
43 lần/người/năm; tỷ lệ gia đình
văn hóa đạt 98,65%.
Phúc Lưu
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Phát triển từ lợi thế dịch vụ - du lịch
Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đảng bộ và nhân dân huyện Long Điền đã hoàn
thành nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X đề ra. Đáng chú ý là
cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch đúng hướng, phát triển dựa trên tiềm năng, lợi
thế của địa phương.
91
Giảm tỷ trọng công - nông nghiệp,
tăng tỷ trọng du lịch - dịch vụ
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, cơ cấu
kinh tế của huyện có sự chuyển dịch theo
hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và
công nghiệp, tăng tỷ trọng dịch vụ - du
lịch. Năm 2010 tỷ trọng dịch vụ - du lịch
là 49,5%, đến nay tăng lên 61,7% (NQ
59,7%); nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy
sản 19,3% giảm xuống còn 10% (NQ
12,2%); công nghiệp 31,2% giảm xuống
còn 28,3% (NQ 28,1%).
Theo ông Nguyễn Văn Sớm, Bí thư
Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Long
Điền, thương mại - dịch vụ phát triển
nhanh, lượng hàng hóa đáp ứng tốt nhu
cầu sản xuất, tiêu dùng và phục vụ đời
sống nhân dân. Doanh thu thương mại -
dịch vụ qua 5 năm liên tục tăng và đạt so
với Nghị quyết. Cụ thể: doanh thu
thương mại giai đoạn 2011 - 2015 đạt
6.177 tỷ đông (NQ là 5.773 tỷ đông);
doanh thu dịch vụ 810 tỷ đông (NQ 757
tỷ đông). Tốc độ tăng trưởng thương mại
và dịch vụ bình quân đạt 23,7% (NQ
23,2%).
Hệ thống cơ sở hạ tầng thương mại
của huyện tiếp tục được cải thiện; hệ
thống chợ được xây dựng ở hầu hết các
xã - thị trấn. Cùng với đó, công tác kiểm
tra thị trường, nhãn mác hàng hóa, niêm
yết giá và bán theo giá niêm yết hàng hóa
và dịch vụ tại các cơ sở kinh doanh, các
chợ trên địa bàn huyện hàng năm đều
được thực hiện nghiêm túc; góp phần ổn
định giá cả thị trường.
Cơ sở vật chất phục vụ du lịch được
đầu tư nhiều hơn. Trên địa bàn huyện
hiện có 2 khách sạn đạt chuẩn 2 sao; 2
khu du lịch, resort đạt chuẩn 4 sao (Long
Hải Beach Resort và Anoasis Beach
Resort). Tính đến nay, trên địa bàn huyện
có 15 dự án du lịch với tổng diện tích
176,65ha; tổng vốn đăng ký đầu tư
8.380,29 tỷ đông; đã khai thác kinh
doanh 2 dự án là khu du lịch Long Hải,
khu du lịch Zenna resort với diện tích
10,38ha; đang khởi công 4 dự án gôm
khu du lịch Resort Crown Land, khu biệt
thự resort Rừng Dương, khu du lịch
Resort Tây Sơn, khu du lịch Cẩm Lệ, với
tổng diện tích 21,93ha; đang hoàn chỉnh
thủ tục đầu tư là 9 dự án với tổng diện
tích 144,33ha.
Các dịch vụ: vận tải hàng hóa và
Lễ hội Dinh Cô là điểm nhấn du lịch Long
Điền, đóng góp đáng kể vào doanh thu thương
mại - du lịch của địa phương
92
hành khách, bưu chính viễn thông, ngân
hàng, bảo hiểm, y tế, văn hóa - thể dục,
thể thao, phương tiện giao thông,… đều
có bước phát triển; về cơ bản đáp ứng
yêu cầu phục vụ sản xuất và đời sống
nhân dân.
Về công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp, trên địa bàn huyện có cụm công
nghiệp An Ngãi cơ bản hoàn thành, bước
đầu thu hút nhà đầu tư thứ cấp; các cơ sở
chế biến hải sản, đóng mới tàu cá, thủ
công mỹ nghệ, đan lát… có bước phát
triển, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và
tham gia xuất khẩu.
Lĩnh vực nông nghiệp - lâm nghiệp -
thủy sản được đầu tư theo hướng áp dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất và phát
triển một số mô hình sản xuất mới. Thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-
2015, huyện đã đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng phục vụ cho phát triển nông nghiệp
- nông thôn, xây dựng xã nông thôn mới.
Đến nay có 3/3 xã thực hiện việc xây
dựng nông thôn mới (trong đó có xã An
Ngãi được công nhận đã đạt chuẩn nông
thôn mới).
Bảo đảm an sinh xã hội
Theo ông Lâm Văn Hông, Phó Chủ
tịch UBND huyện Long Điền, giai đoạn
2011 - 2015, UBND huyện đã giải quyết
việc làm theo các chương trình cho 6.500
lao động, trong đó giải quyết việc làm
mới cho 4.000 lao động; phối hợp với
các cơ sở đào tạo, các trường nghề của
tỉnh mở 48 lớp dạy nghề ngắn hạn cho
1.551 lao động nông thôn, đạt 142% kế
hoạch; tỷ lệ lao động sau đào tạo có việc
làm đạt 83,4% trên tổng số lao động thực
tế có tham gia lao động. Chương trình
vay vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc
làm được triển khai thực hiện tốt góp
phần giải quyết việc làm cho lao động
của huyện.
Công tác giảm nghèo được triển khai
tốt. Cụ thể, thông qua các kênh, đã có
10.892 hộ nghèo, cận nghèo được tiếp cận
tín dụng chính sách, với tổng vốn 93,736
tỷ đông; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 18,44%
(đầu năm 2011) xuống còn 0,79% vào
năm 2015. Công tác vận động quỹ đền ơn
đáp nghĩa và vì người nghèo được triển
khai thực hiện tốt, đã vận động và xây
dựng được 180 căn nhà đại đoàn kết cho
hộ nghèo khó khăn về nhà ở, với tổng số
tiền 3,849 tỷ đông. Thực hiện hỗ trợ chi
phí học tập theo Nghị định số
49/2010/NĐ-CP cho 6.373 lượt học sinh
con hộ nghèo đang học tại các trường
mầm non, tiểu học, trung học cơ sở,
THPT với tổng số tiền hơn 3,6 tỷ đông.
Huyện đã thực hiện tốt chính sách
đối với người có công: phụng dưỡng các
93
bà mẹ Việt Nam anh hùng, chăm lo cho
gia đình thương binh, liệt sĩ và gia đình
chính sách. Trong 5 năm qua, huyện đã
xây dựng 176 căn nhà tình nghĩa; sửa
chữa 10 nhà tình nghĩa bị xuống cấp; xây
dựng mới 4 đền thờ liệt sĩ tại các xã
Phước Hưng, Phước Tỉnh, Tam Phước và
An Nhứt.
Chính sách bảo trợ xã hội được quan
tâm. Trợ cấp xã hội thường xuyên cho
124.178 lượt người với tổng số tiền hơn
35,636 tỷ đông; thực hiện tốt chính sách
hỗ trợ về y tế cho người nghèo, cấp thẻ
bảo hiểm y tế cho 70.740 người, trong đó
người nghèo chuẩn quốc gia là 11.671
người; chăm sóc, giúp đỡ trẻ em mô côi,
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, các trẻ
khuyết tật.
Thực hiện đúng các chính sách cho
đông bào dân tộc thiểu số, giúp cho đời
sống vật chất và tinh thần của đông bào
dân tộc được cải thiện rõ rệt, góp phần
thực hiện giảm nghèo
bền vững.
ÔNG NGUYỄN VĂN
SỚM, BÍ THƯ HUYỆN
UY, CHU TỊCH UBND
HUYỆN LONG ĐIỀN:
Nâng cao năng lực,
sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở Đảng
Nhiệm kỳ vừa qua,
Đảng bộ đã quán triệt, triển khai đầy đủ,
kịp thời các Nghị quyết từ đó xây dựng
chương trình hành động phù hợp tình hình
thực tiễn của địa phương. Công tác bôi
dưỡng chính trị cho đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức được chú trọng, góp phần
xây dựng bản lĩnh chính trị trong cán bộ,
đảng viên, tạo niềm tin trong nhân dân về
sự lãnh đạo của Đảng.
Công tác xây dựng, củng cố, kiện
toàn, phát triển tổ chức cơ sở Đảng, công
tác kết nạp đảng viên được quan tâm
thường xuyên. Huyện ủy đã bố trí đảng
viên là trưởng ban ấp, khu phố ở hầu hết
các xã, thị trấn, trong đó có 22 người là
Bí thư chi bộ kiêm trưởng ấp, khu phố,
đạt 37,93%. Ban Thường vụ Huyện ủy
đã xây dựng nhiều chương trình, kế
hoạch gắn với nội dung, giải pháp đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
nâng cao năng lực, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng. Từng bước nâng cao
chất lượng sinh hoạt chi bộ
theo Chỉ thị 10 của Ban Bí thư
Trung ương; thực hiện tốt công
tác bảo vệ chính trị nội bộ
trong việc bố trí, sử dụng cán
bộ và kết nạp đảng viên; lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thành
công Đại hội 52 chi, Đảng bộ
cơ sở. Trong nhiệm kỳ, toàn
huyện phát triển 816 đảng viên
94
mới, đạt 100,5% chỉ tiêu kế hoạch tỉnh
giao, nâng tổng số đảng viên toàn huyện
lên 2.504 đảng viên.
Trong thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khoá XI), toàn Đảng bộ đã triển
khai và tiến hành việc kiểm điểm tự phê
bình và phê bình. Các nội dung kiểm
điểm bám sát vào yêu cầu được nêu
trong Nghị quyết, xác định nguyên nhân
chủ yếu của những khuyết điểm để đề ra
biện pháp khắc phục. Đảng bộ huyện đã
quan tâm giải quyết các vấn đề nổi cộm,
bức xúc trong đảng và nhân dân. Qua đó,
góp phần ngăn chặn tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
và các hành vi tiêu cực trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên.
Qua 4 năm tổ chức thực hiện Chỉ thị
03 của Bộ Chính trị, việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hô Chí Minh
đã trở thành nề nếp trong sinh hoạt
chính trị, có sức lan tỏa sâu rộng trong
toàn xã hội. Nội dung chuyên đề học tập
hàng năm được quán triệt, chuẩn mực
đạo đức luôn được điều chỉnh, bổ sung.
Việc học tập và đăng ký làm theo Bác
từng bước được nhân rộng, có nhiều
gương điển hình, cách làm hay, hiệu
quả, tác động tích cực đến tư tưởng, tình
cảm và ý thức trách nhiệm của cán bộ
đảng viên và các tầng lớp nhân dân, góp
phần xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của địa phương.
Cấp ủy từ huyện đến cơ sở không
ngừng tăng cường, phát huy vai trò tích
cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân trong việc tập hợp đoàn kết
vận động nhân dân xây dựng và mở rộng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
tốt vị trí là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân trong xây dựng chính
quyền thật sự của dân, do dân và vì dân.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Xây dựng đô thị công nghiệp,
cảng biển văn minh, hiện đại
Trong 5 năm qua (2010-2015), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Tân
Thành đã đạt và vượt các mục tiêu kinh tế - chính trị - xã hội chủ yếu đã đề ra tại
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV. Với những kết quả đã đạt được,
95
huyện Tân Thành đang hướng tới trở thành đô thị công nghiệp, cảng biển, dịch vụ
hậu cần cảng văn minh, hiện đại trong tương lai.
Cơ bản hoàn thành vượt chỉ tiêu
Là người dân tộc Hoa, sống lâu năm
tại xã Sông Xoài (huyện Tân Thành),
ông Voong Văn Trung (ấp Sông Xoài 2)
luôn có cảm giác khó tả mỗi lần có khách
phương xa đến chơi. Ông Trung rất tự
hào khi giới thiệu về quê hương mình và
được trở thành hướng dẫn viên “bất đắc
dĩ”. Nhà máy, những tòa nhà cao ốc,…
dần tạo nên một đô thị trẻ, được quy
hoạch khá bài bản. Ở các vùng quê, đời
sống người dân được nâng cao, đèn điện
thắp sáng trưng những con đường liên
thôn hệt như phố thị. Ông Trung còn tự
hào khi “khoe” với bạn bè phương xa
rằng, toàn huyện gần như không còn hộ
đói, hộ nghèo chỉ còn 1,27% (420 hộ
trong toàn huyện), nhất là đông bào dân
tộc như ông. Sở dĩ ông Trung “thạo tin”
bởi ông thường xuyên tham gia những
buổi sinh hoạt ở thôn và còn xông xáo
với các hoạt động xã hội.
Những thay đổi nhanh chóng trong
đời sống kinh tế - xã hội của huyện Tân
Thành là nhờ sự quyết tâm, nỗ lực phấn
đấu của Đảng bộ, chính quyền và các
tầng lớp nhân dân trong huyện. Ông Lê
Văn Xương, Chủ tịch UBND huyện Tân
Thành cho biết, nhiệm kỳ 2010-2015,
trong điều kiện có nhiều khó khăn nhưng
với sự quyết tâm, nỗ lực phấn đấu, Đảng
bộ huyện đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện đạt và vượt các mục tiêu, chỉ
tiêu (50/52) mà Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ huyện lần thứ IV đề ra. Kinh tế tiếp
tục tăng trưởng cao và ổn định; cơ cấu
kinh tế địa phương chuyển dịch đúng
hướng dịch vụ - công nghiệp - nông
nghiệp; kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội được tập trung đầu tư đông bộ và
hoàn thiện hơn; thu ngân sách hàng năm
đều đạt và vượt kế hoạch, đóng góp lớn
cho ngân sách của tỉnh. Tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
ổn định và giữ vững. Huyện đã hoàn
thành mục tiêu xây dựng huyện Tân
Thành đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV và
được Chủ tịch nước trao tặng Huân
chương Lao động hạng Nhì.
Trong 5 năm qua (2010-2015) dịch
vụ, công nghiệp đều chiếm tỷ trọng lớn
Huyện Tân Thành đã hình thành một trung tâm
khí - điện - đạm lớn của cả nước
96
trong cơ cấu kinh tế của huyện. Trong
đó, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất:
55,39%, công nghiệp: 40,94% và nông
nghiệp là 3,67%. Chăn nuôi chiếm
50,81% trong tổng giá trị sản xuất nông
nghiệp, đã hình thành vùng trang trại tập
trung quy mô lớn với trang thiết bị hiện
đại, sử dụng công nghệ cao trên địa bàn.
Tổng sản lượng thủy sản tăng 11,5%. Đã
có 1 xã (Châu Pha) đạt “chuẩn nông
thôn mới”. Huyện cũng quan tâm đảm
bảo các chế độ cho đối tượng chính
sách, xã hội. Thực hiện tốt các chương
trình, chính sách đối với đông bào dân
tộc, chất lượng cuộc sống và trình độ
dân trí của đông bào dân tộc ngày càng
được nâng lên.
Phát huy lợi thế
Ông Ngô Hùng Dũng, Bí thư Huyện
ủy Tân Thành khẳng định, với vị trí địa
lý thuận lợi, là cửa ngõ quan trọng, cùng
hệ thống giao thông đường bộ, đường
thủy được mở rộng, nối kết với các tỉnh,
thành phố trong khu vực phía Nam,
huyện Tân Thành sẽ tiếp tục là địa bàn
được Trung ương và tỉnh đặc biệt quan
tâm đầu tư, phát triển. Cùng đó, sự phát
triển của các KCN tập trung sẽ có sức
hấp dẫn các nguôn vốn đầu tư trong và
ngoài nước vào địa bàn huyện. Việc tổ
chức thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TU
của Tỉnh ủy về “Xây dựng và phát triển
đô thị mới Phú Mỹ” cũng sẽ tạo điều
kiện tập trung nhiều nguôn lực mới cho
huyện nhà trong những năm tới. Đó là
những điều kiện thuận lợi, là tiền đề cơ
bản để huyện Tân Thành tiếp tục xây
dựng và phát triển đạt tiêu chuẩn đô thị
loại III vào năm 2020, trở thành đô thị
công nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu cần
cảng quan trọng của tỉnh.
Cũng theo ông Ngô Hùng Dũng,
trong nhiệm kỳ tới, Đảng bộ huyện sẽ tập
trung một số nhiệm vụ chính để xây
dựng Tân Thành trở thành đô thị công
nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu cần văn
minh, hiện đại. Trong đó chú trọng phát
huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương,
nhất là thế mạnh về cảng biển để đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế bền
vững; tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
địa phương đúng hướng dịch vụ (51%) -
công nghiệp (41%) và nông nghiệp (4%),
gắn với chuyển dịch mạnh cơ cấu lao
động trên địa bàn huyện. Phấn đấu đạt
tổng giá trị sản xuất của địa phương đến
năm 2020 là 40.574 tỷ đông, tốc độ tăng
bình quân 13,9%/năm. Song song đó,
huyện Tân Thành thường xuyên rà soát,
điều chỉnh, bổ sung và nâng cao tính khả
thi các quy hoạch, dự án phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn. Phối hợp với các
sở, ban, ngành của tỉnh cải thiện môi
97
trường đầu tư, thu hút các dự án lớn, sử
dụng công nghệ tiên tiến, đảm bảo vệ
sinh môi trường. Huy động tối đa các
nguôn lực để đầu tư, tạo bước đột phá
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội theo hướng đông bộ, hiện đại. Đẩy
mạnh xã hội hóa, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động khoa học - công
nghệ, giáo dục đào tạo, văn hoá - xã hội,
y tế; thực hiện giảm nghèo bền vững,
giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã
hội và nâng cao chất lượng cuộc sống
cho người dân. Tăng cường công tác
quốc phòng an ninh, bảo đảm an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn. Đặc biệt là, nâng cao chất lượng
công tác dân vận; phát huy vai trò giám
sát, phản biện xã hội, chủ động đề xuất
của mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã
hội; tích cực tuyên truyền, vận động nhân
dân chấp hành chủ trương của Đảng, Nhà
nước và thực hiện nhiệm vụ chính trị ở
địa phương…
Huyện Tân Thành hiện có 32 cảng
được triển khai thực hiện với tổng vốn
đăng ký hơn 5,4 tỷ USD; trong đó, 15
cảng đang khai thác, khối lượng hàng
hóa thông qua cảng đạt 44,9 triệu tấn, thu
thuế hải quan năm 2015 trên 11,1 ngàn tỷ
đồng, tăng 5,9 ngàn tỷ đồng so với năm
đầu nhiệm kỳ (5,2 ngàn tỷ đồng), 7 cảng
đang xây dựng và 10 cảng đang chuẩn bị
các thủ tục đầu tư. Huyện Tân Thành hiện
có 10 KCN tập trung, trong những năm
qua, huyện đã phối hợp kêu gọi đầu tư 24
dự án, nâng tổng số dự án lên 175 với
tổng vốn đầu tư hơn 11 tỷ USD.
ÔNG NGÔ HÙNG DŨNG, BÍ THƯ
HUYỆN UY TÂN THÀNH:
Thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết
Trung ương gắn với thực tiễn kinh tế -
xã hội địa phương
Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị
về “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hô Chí Minh” gắn với Quy định
101-QĐ/TW của Ban Bí thư về “Quy
định về trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các cấp” được Huyện ủy Tân
Thành chỉ đạo thường xuyên thực hiện.
Phần lớn cán bộ, đảng viên tích cực học
tập, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hô Chí Minh bằng những việc
làm cụ thể gắn với nhiệm vụ được giao;
đã phát huy tinh thần trách nhiệm trong
công việc, nâng cao ý thức phục vụ nhân
dân và có tác dụng đấu tranh phòng,
chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong cán bộ, đảng viên.
Huyện ủy Tân Thành cũng đã chỉ
đạo các tổ chức cơ sở Đảng thực hiện
nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung
98
ương 4 (khoá XI) về “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”; sau
kiểm điểm đã cơ bản khắc phục, sửa
chữa những khuyết điểm, hạn chế.
Nhất là tập trung khắc phục việc triển
khai xây dựng các công trình kém hiệu
quả, tạo niềm tin của nhân dân đối với
Đảng bộ huyện và sự đông thuận cao
trong xã hội.
Đến nay, Đảng bộ huyện Tân Thành
có 38 chi, Đảng bộ cơ sở, (tăng 7 Đảng
bộ cơ sở) và 195 chi bộ trực thuộc Đảng
bộ cơ sở (tăng 57 chi bộ). Hàng năm,
công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ
sở Đảng, đảng viên đảm bảo chặt chẽ,
đúng quy định, kết quả tổ chức cơ sở
Đảng “Trong sạch vững mạnh” đạt bình
quân từ 85,4% (NQĐH 85%), không có
tổ chức cơ sở Đảng yếu; tỷ lệ đảng viên
hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt bình quân
trên 92%. Trong 5 năm qua, Đảng bộ
huyện đã kết nạp 830 đảng viên mới,
tăng 100% so với nhiệm kỳ trước (415
đảng viên), đạt 100% kế hoạch tỉnh giao,
tỷ lệ phát triển đảng viên hàng năm đạt
bình quân từ 10% trở lên.
Trong nhiệm kỳ qua, Uy ban Kiểm
tra các cấp đã kiểm tra, giám sát 390 lượt
tổ chức đảng và 53 lượt đảng viên với
các nội dung: việc lãnh đạo tổ chức thực
hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
Nhà nước; những vấn đề bức xúc, nổi
cộm ở địa phương, đơn vị… Qua kiểm
tra, giám sát kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn
những thiếu sót và nâng cao sức chiến
đấu của tổ chức đảng, đảng viên. Việc
xem xét giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo bảo đảm đúng quy trình, quy định;
đã tiếp nhận và giải quyết 16 đơn khiếu
nại, tố cáo liên quan đến tổ chức Đảng và
đảng viên. Công tác thi hành kỷ luật
trong Đảng nghiêm túc, chặt chẽ, đúng
quy định, đã thi hành kỷ luật đối với 44
đảng viên.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Phát triển nông nghiệp bền vững, tăng tỷ trọng thương mại - dịch vụ
Với sự nỗ lực và quyết tâm phấn đấu, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện
Xuyên Mộc đã cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng
99
bộ huyện lần thứ X đề ra. Kinh tế của huyện tiếp tục tăng trưởng khá; huyện đã tập
trung phát triển nông nghiệp, nông thôn và thương mại, dịch vụ, du lịch.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn
Điểm sáng đầu tiên trong phát triển
nông nghiệp của Xuyên Mộc là sự lớn
mạnh của mô hình kinh tế trang trại. Đến
năm 2015 toàn huyện có 70 trang trại,
trong đó có 18 trang trại trông trọt; 41
trang trại chăn nuôi; 8 trang trại nuôi
trông thủy sản; 3 trang trại tổng hợp.
Tổng vốn đầu tư của trang trại là 270,2 tỷ
đông, sử dụng 512ha đất, thu nhập bình
quân 1 năm khoảng 1,193 tỷ đông/trang
trại, giải quyết việc làm cho 1.286 lao
động/năm. Kinh tế trang trại đã tạo ra
được vùng sản xuất hàng hóa tập trung,
nâng cao giá trị hàng hóa nông sản, góp
phần đáng kể cho sự phát triển kinh tế
của huyện. Song song với phát triển kinh
tế trang trại, kinh tế tập thể của huyện
cũng phát triển. Toàn huyện hiện có 14
hợp tác xã (HTX) đang hoạt động (tăng 6
HTX so với năm 2010), trong đó có 3
Quỹ tín dụng nhân dân, 9 HTX nông
nghiệp - nuôi trông thủy sản, 1 HTX giao
thông vận tải, 1 HTX quản lý chợ. Mô
hình tổ hợp tác sản xuất cũng được nhân
rộng với 67 tổ có 902 thành viên bằng
nhiều hình thức nhiều ngành nghề đang
phát huy hiệu quả sản xuất ở nông thôn.
Theo ông Mai Văn Dũng, Phó Chủ
tịch UBND huyện Xuyên Mộc, trong
phát triển nông nghiệp, huyện đã tập
trung chuyển đổi cây trông và xây dựng
vùng chuyên canh các loại cây trông dài
ngày kết hợp trông cây ngắn ngày phù
hợp, cùng với việc áp dụng công nghệ
mới vào sản xuất đã mang lại hiệu quả
kinh tế cao. Chăn nuôi phát triển mạnh
về quy mô theo hướng công nghiệp, tập
trung; phát triển nhanh về số lượng và
chất lượng đàn vật nuôi ngày càng nâng
lên, góp phần đẩy nhanh cơ cấu chăn
nuôi trong nội bộ ngành nông nghiệp
chuyển dịch đúng hướng.
Bên cạnh đó, bằng nguôn vốn của
Nhà nước, huyện đã đầu tư xây dựng các
công trình thủy lợi phục vụ cho việc tưới
tiêu. Hệ thống kênh mương kiên cố hóa
đã bảo đảm tưới cho khoảng 700ha lúa
và 500ha cây dài ngày. Đến nay, toàn
huyện có 4 hô chứa và 1 đập dâng với
tổng dung tích 161 triệu m3.
Thực hiện Chương trình mục tiêu
Quốc gia về xây dựng nông thôn mới,
bộ mặt xã điểm Bưng Riềng và 5 xã giai
đoạn 2013-2015 có nhiều thay đổi. Cơ
sở hạ tầng nông thôn được nâng cấp, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản
xuất và sinh hoạt của người dân nông
thôn. Nhân dân đã nhận thức được vai
100
trò, trách nhiệm của mình, đông thuận
và tích cực tham gia trong quá trình xây
dựng nông thôn mới. Thu nhập bình
quân của người dân trên địa bàn các xã
đã tăng lên đáng kể. Đến nay xã điểm
Bưng Riềng đã được công nhận đạt
chuẩn nông thôn mới; đến cuối năm
2015 sẽ có 50% số xã trên địa bàn đạt
19/19 tiêu chí nông thôn mới (Xuyên
Mộc, Hòa Hội, Phước Thuận, Bàu Lâm,
Hòa Bình). Đối với các xã giai đoạn
2016-2020 (Hòa Hiệp, Phước Tân, Tân
Lâm, Hòa Hưng, Bình Châu, Bông
Trang) đã hoàn chỉnh đô án quy hoạch.
Thương mại - du lịch tăng trưởng
Ông Lương Thành Công, Chủ tịch
UBND huyện Xuyên Mộc cho biết, trong
nhiệm kỳ 2010-2015, cơ cấu kinh tế của
huyện chuyển dịch theo hướng tích cực,
từng bước giảm dần tỷ trọng nông nghiệp
từ 40,67% xuống còn 39,16%; tăng tỷ
trọng thương mại - dịch vụ từ 40,37% lên
44,91% và công nghiệp - xây dựng giảm
từ 18,96% xuống còn 15,93%.
Kinh doanh thương mại phát triển
nhanh, đáp ứng lưu thông hàng hóa trong
và ngoài huyện. Hoạt động quản lý Nhà
nước về thương mại được tăng cường,
bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng. Tổng
doanh thu thương mại (nội thương) ước
thực hiện đạt 13.051,96 tỷ đông (giá hiện
hành), đạt 107,42% so với chỉ tiêu Nghị
quyết, tốc độ tăng bình quân hàng năm
đạt 8,7%. Hệ thống giao thông đã được
đầu tư xây dựng theo đúng quy hoạch,
phát triển đông bộ phục vụ nhu cầu đi lại
và vận chuyển hàng hóa, nông sản của
nhân dân. Dịch vụ vận tải phát triển
mạnh đáp ứng nhu cầu thị trường.
Ngành du lịch có nhiều khởi sắc, một
số dự án lớn như: Khu du lịch The Grand,
Vietsovpetro, Camelina, Sài Gòn - Hô
Cốc, đã đi vào hoạt động mang lại sự
tăng trưởng cao cho ngành dịch vụ du
lịch và đưa Xuyên Mộc trở thành một
trong số các địa phương đứng đầu trong
tỉnh về thu hút đầu tư lĩnh vực du lịch.
Doanh thu ngành du lịch tăng đều hàng
năm. Tổng doanh thu ước đạt 2.536 tỷ
đông đạt 282,68% so với chỉ tiêu Nghị
quyết, tốc độ tăng bình quân hàng năm
đạt 64,91%.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm dưới 2% theo
chuẩn tỉnh
Cùng với sự phát triển kinh tế, huyện
luôn quan tâm đến công tác giảm nghèo,
tạo việc làm và nâng cao mức sống cho
nhân dân, đến nay đã giảm tỷ lệ hộ
nghèo xuống dưới 2% theo chuẩn tỉnh.
Huyện cũng thực hiện tốt chính sách đền
ơn, đáp nghĩa, ưu đãi người có công và
hỗ trợ người nghèo; trợ cấp khó khăn đột
101
xuất cho đối tượng người có công với
cách mạng khó khăn ốm đau, bệnh tật.
Hơn 98% gia đình người có công có mức
sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung
bình của người dân nơi cư trú. Các chính
sách an sinh xã hội được bảo đảm; công
tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
được chăm lo chu đáo.
Đời sống của đông bào dân tộc được
quan tâm đúng mức; huyện đã triển khai
các chính sách, giải pháp về phát triển
kinh tế, xã hội vùng đông bào các dân
tộc thiểu số khá mạnh mẽ, làm thay đổi
tập quán canh tác, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất của đông bào.
Đến nay, đời sống của đông bào các dân
tộc thiểu số trên địa bàn ngày càng được
nâng cao, hơn 97% đông bào được sử
dụng điện lưới quốc gia, nước hợp vệ
sinh, được chăm sóc y tế, tiếp cận thông
tin, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể.
ÔNG NGÔ VĂN NỞ, BÍ THƯ
HUYỆN UY XUYÊN MỘC:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các cấp ủy Đảng
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, xác định
công tác giáo dục chính trị tư tưởng là
nhiệm vụ hàng đầu, các cấp ủy Đảng
luôn quan tâm chỉ đạo, tổ chức quán triệt
các Nghị quyết của Trung ương, tỉnh và
của huyện đến 96% cán bộ, đảng viên.
Các Chi, Đảng bộ đã đổi mới về hình
thức, phương pháp và ứng dụng công
nghệ thông tin vào triển khai Nghị quyết,
nên chất lượng học tập Nghị quyết được
nâng lên. Việc xây dựng chương trình, kế
hoạch cụ thể hóa thực hiện nghị quyết
của Đảng được các cấp ủy chỉ đạo thực
hiện kịp thời, phù hợp với tình hình thực
tế của từng địa phương, đơn vị. Những
vấn đề liên quan đến tình hình an ninh
chính trị trong nước và quốc tế đều được
Đảng bộ chỉ đạo các cấp ủy kịp thời
thông báo đến chi bộ, đảng viên và nhân
dân để định hướng tư tưởng, nâng cao
tinh thần cảnh giác, phòng chống các
luận điệu xuyên tạc của các phần tử cơ
hội và âm mưu “diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch.
Công tác tổ chức, cán bộ có những
chuyển biến tích cực; tập trung kiện toàn
tổ chức, bộ máy các cơ quan Đảng, định
hướng đổi mới tổ chức bộ máy Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị từ huyện đến cơ sở theo hướng
đồng bộ và hiệu quả, ban hành các quy
chế phối hợp giữa các cơ quan trong hệ
thống chính trị. Công tác quy hoạch cán
bộ được triển khai thực hiện hàng năm
theo đúng quy trình hướng dẫn. Trên cơ
102
sở quy hoạch đã cử cán bộ đi đào tạo,
bồi dưỡng từng bước đáp ứng yêu cầu
chuẩn hóa cán bộ. Công tác đánh giá
cán bộ được thực hiện đúng quy trình,
bảo đảm đánh giá đúng năng lực, trình
độ và phẩm chất chính trị, đạo đức của
cán bộ làm cơ sở cho việc đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ. Công tác luân chuyển cán
bộ được quan tâm thực hiện, qua đó tháo
gỡ khó khăn về cán bộ lãnh đạo, quản lý,
đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài về
cán bộ cho cơ sở.
Công tác phát triển đảng viên mới
được quan tâm lãnh đạo, các cấp ủy chủ
động xây dựng nguồn phù hợp với tình
hình của từng địa phương, đơn vị và bảo
đảm tiêu chuẩn, chất lượng, do đó tỷ lệ
phát triển đảng viên mới hàng năm tăng
từ 7% đến 8%, nâng tổng số đảng viên
trong toàn đảng bộ 2.711 đảng viên.
Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”,
Đảng bộ huyện đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận. Công tác lãnh đạo,
điều hành chuyển biến tích cực, tạo tiền
đề để tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
Đảng và đảng viên trong thực hiện nhiệm
vụ chính trị ở địa phương. Đến nay, hầu
hết cán bộ, đảng viên có thái độ rõ ràng,
tinh thần đấu tranh với những hành vi sai
trái. Qua kiểm điểm tự phê bình và phê
bình đã có tác dụng phòng ngừa đối với
cán bộ, đảng viên ở các cấp trên địa bàn
huyện, đưa tự phê bình và phê bình trong
Đảng trở thành thường xuyên, nề nếp.
Đảng bộ huyện xác định việc thực
hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị
về học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây
dựng Đảng, xây dựng nền tảng đạo đức
xã hội, vừa để khắc phục yếu kém, làm
cho Đảng ngày càng trong sạch vững
mạnh, vừa là nhiệm vụ, giải pháp cơ
bản, lâu dài để thực hiện nhiệm vụ chính
trị của huyện. Việc học tập và làm theo
Bác đã tác động tích cực đến tâm tư, tình
cảm, nhận thức của cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân, góp phần nâng
cao ý thức tự rèn. Qua hơn 4 năm thực
hiện đã có 20 tập thể, 88 cá nhân được
chọn điển hình tiên tiến cấp huyện và
nhiều gương tiêu biểu cấp cơ sở…
Phúc Lưu
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
103
Xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh vững mạnh, toàn diện
Thời gian qua, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến
phức tạp, Đảng bộ Quân sự tỉnh đã tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang
địa phương có bản lĩnh chính trị vững vàng, nội bộ đoàn kết thống nhất, vượt qua
mọi khó khăn thử thách, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Qua đó góp
phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Không để bị động, bất ngờ trước
mọi tình huống
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ
Quân sự tỉnh đã tham mưu kịp thời cho
Tỉnh ủy, UBND tỉnh trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng
toàn dân vững mạnh, khu vực phòng thủ
vững chắc, kết hợp chặt chẽ giữa phát
triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc
phòng - an ninh. Đến thời điểm này,
82/82 trụ sở làm việc của Ban Chỉ huy
Quân sự xã, phường, thị trấn đã được xây
mới và nâng cấp, với tổng kinh phí 167
tỷ đông; 100% xã, phường, thị trấn có
Chi bộ quân sự; 100% huyện, thành phố
đã tổ chức diễn tập các hình thức tác
chiến phòng thủ, phòng không nhân dân,
phòng chống lụt bão - tìm kiếm cứu nạn;
hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân hàng
năm, với chất lượng tân binh ngày một
nâng cao; bôi dưỡng kiến thức quốc
phòng - an ninh cho 199 ngàn học sinh,
sinh viên và 21 ngàn cán bộ các cấp,
hoàn thành 100% chỉ tiêu đề ra.
Bên cạnh đó, Đảng bộ Quân sự tỉnh
cũng chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ
đạo nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến
đấu của lực lượng vũ trang địa phương
trong tình hình mới. Thời gian qua, chế
độ trực sẵn sàng chiến đấu ở các cấp
trong lực lượng vũ trang tỉnh được duy
trì nghiêm túc, góp phần bảo vệ an toàn
các cao điểm lễ, Tết, sự kiện chính trị,
văn hóa lớn diễn ra trên địa bàn tỉnh;
công tác huấn luyện được tổ chức chặt
chẽ, đúng nội dung, phương châm,
nguyên tắc huấn luyện, với quân số tham
Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh luyện
tập trên thao trường
104
gia huấn luyện bình quân luôn đạt từ
95% trở lên, tỷ lệ khá giỏi đạt trên 70%;
công tác diễn tập phòng thủ được triển
khai đúng kế hoạch đề ra, bảo đảm an
toàn về người và vũ khí trang bị.
5 năm qua, công tác xây dựng lực
lượng dân quân, tự vệ, dự bị động viên
tiếp tục được Đảng bộ Quân sự tỉnh đẩy
mạnh, chất lượng và độ tin cậy về chính
trị của lực lượng này được nâng lên rõ
rệt, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu,
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa
phương trong giai đoạn mới. Đến nay,
lực lượng dân quân trên địa bàn tỉnh đạt
1,29% dân số, tự vệ đạt 13% số cán bộ,
công nhân viên, 100% quân nhân dự bị
được biên chế vào các đầu mối đơn vị.
Tỷ lệ đảng viên trong các lực lượng này
đạt hơn 20%… Nhờ đó, khả năng sẵn
sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang
tỉnh không ngừng được nâng lên, bảo
đảm không để bị động, bất ngờ trước mọi
tình huống.
Gắn bó với nhân dân
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, bên
cạnh việc tập trung xây dựng lực lượng
vũ trang địa phương vững mạnh toàn
diện, Đảng bộ Quân sự tỉnh cũng đặc biệt
quan tâm đến công tác dân vận và mối
đoàn kết quân dân. Năm 2012, Đảng ủy,
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh phát động
phong trào “Lực lượng vũ trang tỉnh
chung sức xây dựng nông thôn mới” và
được đông đảo cán bộ, chiến sĩ trong
toàn lực lượng tích cực hưởng ứng. Theo
đó, mỗi dịp cuối tuần, cán bộ, chiến sĩ
lực lượng vũ trang tỉnh lại hành quân về
các xã vùng sâu, vùng xa của tỉnh để
cùng chính quyền và nhân dân địa
phương tham gia duy tu, sửa chữa đường
giao thông nông thôn, nạo vét khơi thông
cống rãnh thoát nước, kênh mương tưới
tiêu, dọn dẹp vệ sinh môi trường tại các
khu vực công cộng, tiêu độc khử trùng
phòng chống dịch bệnh, tuyên truyền
thực hiện nếp sống mới ở địa bàn khu
dân cư, tặng quà cho các đối tượng chính
sách và học bổng cho trẻ em nghèo hiếu
học, xây nhà tặng các hộ có hoàn cảnh
khó khăn. Đến nay, lực lượng vũ trang
tỉnh đã tổ chức 133 đợt hành quân về các
xã để xây dựng nông thôn mới, với sự
tham gia của 76 ngàn lượt cán bộ, chiến
sĩ. Kết quả, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ
trang tỉnh đã sửa chữa, nâng cấp, phát
quang được 210km đường giao thông
nông thôn; nạo vét, khơi thông 27km
kênh mương tưới tiêu; làm mới 1,2km
đường giao thông nông thôn; tặng 2.457
suất học bổng (trị giá 474 triệu đông) cho
các em học sinh vượt khó học giỏi.
Ngoài ra, 5 năm qua, lực lượng vũ
trang tỉnh còn tổ chức nhiều hoạt động
thiết thực và ý nghĩa hướng về nhân dân
105
nơi đóng quân. Trong đó, giúp nhân dân
thu hoạch mùa vụ 3.900 ngày công;
phòng chống, khắc phục hậu quả thiên
tai 8.450 ngày công; tổ chức 29 đợt khám
bệnh, cấp thuốc miễn phí cho 5.100 lượt
nhân dân ở các xã vùng sâu, vùng xa;
xây 23 căn nhà tình nghĩa và 144 căn nhà
đại đoàn kết tặng các gia đình chính sách
và hộ nghèo; ủng hộ Quỹ bảo trợ trẻ em,
đền ơn đáp nghĩa, vì người nghèo số tiền
gần 1,5 tỷ đông.
Thông qua các hoạt động nêu trên đã
góp phần phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân ngày càng vững mạnh; đông thời tô
thắm thêm tình quân dân.
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ
Quân sự tỉnh đã triển khai thực hiện
nghiêm túc, sâu rộng Nghị quyết Trung
ương 4 (Khóa XI) một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay, gắn
với đẩy mạnh “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Trong
nhiệm kỳ, có 90% tổ chức cơ sở Đảng
đạt trong sạch vững mạnh; 89,39% Chi
bộ đạt trong sạch vững mạnh, không có
yếu kém; 14,35% đảng viên hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ và 81,77% đảng viên
hoàn thành tốt nhiệm vụ; 100% cơ quan,
đơn vị an toàn tuyệt đối về chính trị;
100% cán bộ, chiến sĩ có lập trường tư
tưởng vững vàng, tuyệt đối trung thành
với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, chấp
hành nghiêm chủ trương, đường lối của
Đảng, pháp luật Nhà nước và kỷ luật
quân đội.
ĐẠI TÁ THÁI VĂN ĐIỀN, CHÍNH
UY BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH:
Nâng cao chất lượng tổng hợp của
lực lượng vũ trang tỉnh
Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới của
giai đoạn 2015-2020, Đảng bộ Quân sự
tỉnh xác định cần tiếp tục quán triệt sâu
sắc và tổ chức thực hiện có hiệu quả các
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật
Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng; xây
dựng Đảng bộ Quân sự tỉnh trong sạch,
vững mạnh tiêu biểu; nâng cao năng lực
tham mưu cho cấp ủy, chính quyền trong
lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp với các
ban, ngành, đoàn thể tổ chức thực hiện
có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng nền quốc
phòng toàn dân vững mạnh, khu vực
phòng thủ tỉnh, huyện vững chắc, đi vào
chiều sâu, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội kết hợp với tăng cường
tiềm lực quốc phòng; xây dựng, nâng cao
chất lượng tổng hợp, khả năng sẵn sàng
chiến đấu toàn diện lực lượng vũ trang
tỉnh; xử lý kịp thời, hiệu quả mọi tình
huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ,
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
106
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
nêu trên, Đảng bộ Quân sự tỉnh sẽ tiếp
tục tham mưu cho cấp ủy, chính quyền
địa phương triển khai thực hiện có hiệu
quả các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về công tác quốc
phòng - an ninh trong tình hình mới; đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục chính trị, phong trào “Thi đua Quyết
thắng”, gắn với thực hiện có chiều sâu
việc “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”; thường xuyên
kiện toàn biên chế các cơ quan, đơn vị
đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, ưu tiên
quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn
sàng chiến đấu; đổi mới, nâng cao chất
lượng huấn luyện, giáo dục - đào tạo, hội
thi, hội thao; xây dựng 100% cơ quan,
đơn vị đạt vững mạnh, toàn diện, tạo
chuyển biến đồng bộ, toàn diện trong
chấp hành các chế độ, không có vi phạm
kỷ luật nghiêm trọng; duy trì trực sẵn
sàng chiến đấu ở các cấp đúng quy định,
chủ động phối hợp nắm, dự báo chính
xác tình hình, tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền địa phương giải quyết kịp
thời các vụ việc phức tạp, không để kéo
dài, lan rộng tạo thành “điểm nóng”;
xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững
mạnh, rộng khắp, tỷ lệ đảng viên đạt
25%, 100% cán bộ quân sự xã, trung đội
trưởng, tiểu đội trưởng dân quân cơ
động là đảng viên; triển khai thực hiện
có hiệu quả chính sách của Đảng, Nhà
nước về công tác hậu phương quân đội;
đẩy mạnh thực hiện Đề án 1237 của
Chính phủ về tìm kiếm, quy tập hài cốt
liệt sĩ; bảo đảm đúng, đủ, kịp thời hậu
cần, tài chính, kỹ thuật cho các hoạt
động của lực lượng vũ trang địa phương,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần bộ
đội; đẩy mạnh các hoạt động giúp đỡ
nhân dân, xây dựng nông thôn mới…
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Xây dựng đội ngũ công an trong sạch, bản lĩnh và tận tụy
.
Trong bối cảnh tình hình an ninh thế giới, khu vực và tình hình tội phạm trong
nước có những diễn biến phức tạp, nhiệm kỳ qua (2010-2015), Đảng bộ Công an
tỉnh đã lãnh đạo các phòng, ban chức năng triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ xây
dựng lực lượng trong sạch, vững mạnh, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
107
Chú trọng xây dựng lực lượng
Xác định công tác chính trị tư tưởng là
quan trọng hàng đầu, trong nhiệm kỳ qua,
Đảng ủy Công an tỉnh luôn chú trọng việc
giáo dục, tuyên truyền cho đội ngũ cán bộ,
chiến sĩ nhằm nâng cao nhận thức, bản lĩnh
chính trị và tinh thần cảnh giác cách mạng,
chủ động đấu tranh với những thế lực thù
địch, góp phần giữ vững an ninh chính trị tại
địa phương. Hàng năm, Đảng ủy Công an
tỉnh đều xây dựng chương trình hành động
và kế hoạch thực hiện chuyên đề gắn với
nhiệm vụ chính trị trong đơn vị; Xây dựng
mô hình “3 nghiêm, 4 chuẩn mực”; phát
động cán bộ, đảng viên đăng ký thực hiện
phong trào thi đua “Học tập, thực hiện 6 điều
Bác Hô dạy Công an nhân dân” gắn với các
nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hô Chí Minh.
Đại tá Lê Tôi Sủng, Bí thư Đảng ủy,
Giám đốc Công an tỉnh cho biết, thực hiện
Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị
quyết Trung ương 4, khóa XI, Đảng
ủy Công an tỉnh đã chỉ ra 3 vấn đề
cấp bách trong xây dựng Đảng của
đơn vị. Đó là, kiên quyết đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong cán bộ, đảng viên;
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế; Xác định
rõ thẩm quyền, trách nhiệm người
đứng đầu cấp ủy, lãnh đạo đơn vị
các cấp và mối quan hệ với tập thể
cấp ủy, cơ quan, đơn vị để tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng. Trên cơ sở đó, từng cấp ủy, tổ
chức Đảng đẩy mạnh thực hiện 4
nhóm giải pháp về tự phê bình và
phê bình, nêu cao tính tiên phong,
gương mẫu của lãnh đạo các cấp về
mọi mặt, trong đó, tập trung khắc
phục những khuyết điểm, hạn chế và
phát huy những mặt mạnh.
Qua quá trình triển khai thực
hiện đã tạo sự chuyển biến khá tích
cực trong Đảng bộ Công an tỉnh.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong đơn vị có bản lĩnh chính trị
vững vàng, tuyệt đối trung thành với
Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, nêu
cao tinh thần cảnh giác cách mạng,
Lực lượng cảnh sát cơ động Công an tỉnh biểu diễn
kỹ thuật bắn súng tại Hội thi điều lệnh CAND
108
ý thức trách nhiệm, tận tụy trong công việc,
có phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống
lành mạnh. Qua đẩy mạnh công tác kiểm tra,
giám sát thường xuyên 100% tổ chức Đảng,
Đảng bộ Công an tỉnh đã phát hiện xử lý 13
trường hợp đảng viên vi phạm, góp phần làm
trong sạch đội ngũ đảng viên và tổ chức Đảng
trong đơn vị.
Giữ vững an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội
Với mục tiêu bảo vệ vững chắc tình hình
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội,
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, hàng năm,
Đảng ủy Công an tỉnh chỉ đạo triển khai các
kế hoạch, phương án cụ thể trong mọi tình
huống. Lực lượng công an luôn nắm chắc tình
hình và tham mưu cho cấp ủy đảng, chính
quyền chủ động ngăn chặn và giải quyết kịp
thời những vụ việc có thể gây ảnh hưởng
đến an ninh địa phương, không để phát sinh
những “điểm nóng”. Bên cạnh đó, tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác
phòng, chống các loại tội phạm, bảo đảm
trật tự, an toàn giao thông, đẩy mạnh phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong
tình hình mới.
5 năm qua, tình hình tội phạm về trật tự
xã hội giảm 8,2%, tỷ lệ điều tra, phá án đạt
73,2%, trong đó, án nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng điều tra làm rõ đạt tỷ lệ 97,5%.
Lực lượng công an đã đấu tranh triệt phá
nhiều băng, nhóm tội phạm hình sự,
ngăn chặn không để hình thành tội
phạm có tổ chức hoạt động theo
kiểu “xã hội đen”. Công tác quản lý
nhà nước về an ninh, trật tự cũng
được triển khai thực hiện tốt. Công
tác bảo đảm trật tự an toàn giao
thông có chuyển biến tích cực. Số
vụ tai nạn giao thông tuy có tăng,
nhưng số người chết giảm 15 người,
số vụ tai nạn giao thông đường thủy
giảm 7 vụ, giảm 4 người chết và 43
người bị thương.
Công tác cải cách hành chính
cũng có bước tiến đáng kể, giảm
phiền hà cho người dân và doanh
nghiệp. Công tác bắt tạm giam, tạm
giữ được thực hiện đúng pháp luật,
không để xảy ra oan sai, bức cung,
nhục hình, thực hiện tốt chế độ
chính sách đối với phạm nhân. Với
sự phối hợp chặt chẽ của các cấp
chính quyền, phong trào Toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát
động mạnh mẽ.
Nhiều địa phương đã xây dựng
được các mô hình, điển hình tiên
tiến như: “Câu lạc bộ phòng chống
tội phạm, tệ nạn xã hội”, “Trường
học không có ma túy”, “Chốt
phòng, chống tội phạm”, “Tiếng
kẻng an ninh trật
109
tự”, “Khu dân cư, tổ dân cư tự quản về an
ninh trật tự”… qua đó, đã góp phần tích cực
trong công tác phòng chống tội phạm, bảo
đảm an ninh trật tự tại địa phương.
ĐẠI TÁ LÊ TÔI SUNG, BÍ THƯ ĐẢNG
UY, GIÁM ĐỐC CÔNG AN TỈNH:
Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị và
trật tự xã hội
Theo dự báo, tình hình an ninh thế giới,
khu vực và trong nước còn diễn biến phức
tạp, khó lường, đặc biệt là yêu sách, ý đồ và
hành động “độc chiếm Biển Đông” của
Trung Quốc. Các thế lực thù địch, phản động
tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá,
thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo
loạn lật đổ. Hoạt động của các loại tội phạm
và các vi phạm pháp luật gia tăng. Mặt trái
của kinh tế thị trường tác động đến tư tưởng,
tình cảm, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân. Do vậy, cuộc
đấu tranh chống các thế lực thù địch và các
loại tội phạm nhằm bảo đảm an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực
lượng Công an sẽ khó khăn và phức tạp hơn.
Trước tình hình trên, Đảng bộ Công an
tỉnh sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giữ vững ổn
định chính trị, không để bị động bất ngờ,
không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, bảo đảm
an ninh trật tự, an toàn giao thông, phục vụ tốt
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Để thực hiện tốt những mục tiêu,
nhiệm vụ nêu trên, trong nhiệm kỳ tới Đảng ủy
Công an tỉnh sẽ tập trung thực hiện
tốt 4 giải pháp sau:
Thực hiện tốt vai trò nòng cốt,
chủ động phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan, ban ngành tiếp tục tham
mưu với Tỉnh ủy, UBND tỉnh, triển
khai thực hiện nghiêm chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ
bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn.
Trước mắt, bảo đảm tuyệt đối an
ninh, an toàn Đại hội Đảng bộ các
cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần
thứ XII của Đảng, bảo vệ bầu cử
HĐND các cấp và bầu cử Quốc hội
khóa XIV. Bảo vệ an toàn các mục
tiêu, công trình trọng điểm, các
đoàn khách quốc tế, các đoàn lãnh
đạo Đảng, Nhà nước đến địa
phương, các lễ hội, hội nghị quan
trọng hàng năm... không để xảy ra
hoạt động khủng bố, phá hoại, đột
xuất, bất ngờ.
Kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm
an ninh trật tự với phát triển kinh tế
- xã hội trên địa bàn và trong từng
lĩnh vực; xây dựng vững chắc thế
trận an ninh nhân dân với quốc
phòng toàn dân; nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác xây
dựng phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh tổ quốc, phát huy sức mạnh
110
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ngăn chặn
và đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội,
kiềm chế tai nạn giao thông, góp phần thực
hiện tốt mục tiêu 4 giảm của tỉnh.
Tăng cường công tác quản lý hành chính
về trật tự xã hội. Đẩy mạnh áp dụng công
nghệ thông tin, nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác chuyên môn, cải cách hành chính
trong lực lượng Công an. Tiếp tục rà soát hệ
thống thủ tục hành chính trên các lĩnh vực,
tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh
nghiệp và người dân, góp phần phát triển
kinh tế - văn hóa - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
Đảng, chất lượng đảng viên, đề cao
ý thức tự phê bình và phê bình; tiếp
tục triển khai sâu rộng việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh; gắn phong trào thi đua vì
ANTQ với phong trào học tập thực
hiện 6 điều Bác Hồ dạy Công an
nhân dân; đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống quan liêu tham nhũng,
lãng phí, thực hành tiết kiệm...
Lam Phương
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Giữ vững chủ quyền, an ninh biên giới biển đảo Tổ quốc
.
Trong 5 năm qua, tập thể cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng tỉnh luôn đoàn kết
một lòng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, vượt qua mọi khó
khăn và hiểm nguy, giữ vững chủ quyền, an ninh biên giới biển đảo của Tổ quốc;
đồng thời trở thành chỗ dựa tin cậy của nhân dân sinh sống trên tuyến biên phòng.
Bảo đảm an ninh, an toàn địa bàn
Đại tá Nguyễn Văn Tiến, Phó Chỉ
huy trưởng Bộ đội Biên phòng (BĐBP)
tỉnh BR-VT cho biết: Hiện nay, BĐBP
tỉnh được giao nhiệm vụ quản lý địa bàn
rộng gần 415km2 cùng bờ biển dài
114km và hệ thống các đảo, vùng nước
nội thủy rộng hơn 15.000km2. Thời gian
qua, trên địa bàn đơn vị quản lý nổi lên
Trinh sát BĐBP tỉnh tuần tra, kiểm soát bảo
đảm an ninh trật tự tại khu vực cảng dầu khí
(Tp. Vũng Tàu)
111
tình trạng tàu nước ngoài neo đậu, hoạt
động trái phép trên vùng biển thuộc chủ
quyền nước ta; trộm cắp hàng hóa, thiết
bị trên tàu chở hàng; buôn lậu, vận
chuyển, mua bán, trao đổi hàng hóa trái
phép; sử dụng thuốc nổ đánh bắt hải sản;
mua bán trái phép chất ma túy; khai thác
cát trái phép; xâm phạm hành lang an
toàn công trình dầu khí; vi phạm các quy
định về xuất nhập cảnh; tai nạn cháy nổ,
đâm va, chìm đắm phương tiện.
Trước tình hình nêu trên, BĐBP tỉnh
đã triển khai đông bộ các biện pháp
nghiệp vụ nhằm bảo đảm an ninh, an
toàn địa bàn. Cụ thể, đơn vị đã kiểm tra,
giám sát chặt chẽ người và phương tiện
trước khi xuất bến ra khơi; tăng cường
công tác tuần tra, kiểm soát, mật phục ở
các địa bàn trọng yếu, nhất là khu vực
phao số 0, Bãi Sau, Bãi Trước, vịnh
Gành Rái (Tp. Vũng Tàu), Long Hải
(huyện Long Điền), Phước Hải (huyện
Đất Đỏ), Bình Châu (huyện Xuyên
Mộc); tiến hành rà soát, sàng lọc, giáo
dục, răn đe những đối tượng nghi vấn;
thường xuyên trao đổi thông tin với
Công an tỉnh, Cảng vụ Hàng hải Vũng
Tàu, Vùng Cảnh sát biển 3; đẩy mạnh
tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến các
tầng lớp nhân dân... Thông qua các biện
pháp nghiệp vụ, trong giai đoạn 2010-
2015, BĐBP tỉnh đã kịp thời xua đuổi,
xử lý 15 lượt tàu nước ngoài neo đậu,
hoạt động bất hợp pháp trên vùng biển
của tỉnh và 25 vụ xâm phạm hành lang
an toàn công trình dầu khí; đông thời bắt
giữ 213 vụ mua bán, tàng trữ ma túy; 6
băng nhóm chuyên trộm cắp tài sản trên
sông, biển; 85 vụ buôn lậu, mua bán, trao
đổi hàng hóa trái phép; 3 vụ sử dụng
thuốc nổ đánh bắt hải sản; 39 vụ khai
thác cát trái phép. Ngoài ra, BĐBP tỉnh
còn phối hợp với cơ quan công an điều
tra, xử lý hơn 40 vụ đánh bạc, đánh nhau,
gây rối trật tự công cộng, trộm cắp…
Qua đó góp phần giữ vững an ninh chính
trị - trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường
ổn định, thanh bình nơi biên giới biển,
đảo của tỉnh, thúc đẩy phát triển kinh tế
biển của địa phương.
Chỗ dựa tin cậy của nhân dân
Đại tá Phạm Văn Phong, Phó Bí thư
Đảng ủy, Chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh BR-
VT, cho biết: Thời gian qua, bên cạnh
việc hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý,
bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới biển
đảo, BĐBP tỉnh còn tích cực giúp đỡ
nhân dân và tham gia phát triển kinh tế -
xã hội tại địa bàn đóng quân. Chỉ tính
riêng trong giai đoạn 2010-2015, BĐBP
tỉnh đã tặng 146 căn nhà “đại đoàn kết”
và 41 con bò giống cho các hộ nghèo
sinh sống trên tuyến biên phòng của tỉnh;
giúp nhân dân 3.400 ngày công thu
112
hoạch mùa vụ, sửa chữa nhà cửa, tu bổ
đường giao thông, phòng chống dịch
bệnh, xây dựng nông thôn mới; tổ chức
nhiều đoàn công tác đến các xã vùng sâu,
vùng xa của tỉnh khám bệnh, cấp thuốc
miễn phí cho 2.600 lượt bệnh nhân
nghèo, với tổng kinh phí 121 triệu đông;
tuyên truyền, hướng dẫn bà con ngư dân
các quy định về bảo vệ nguôn lợi thủy
sản, bảo đảm an toàn công trình dầu khí,
không xâm phạm vùng biển nước
ngoài… được 928 buổi, với 43 ngàn lượt
người tham gia; tham mưu cho chính
quyền địa phương thành lập 202 tổ đoàn
kết đánh bắt hải sản trên biển; tổ chức 70
buổi văn nghệ tại các địa bàn vùng sâu,
vùng xa để nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần cho bà con.
Do đặc thù đa số người dân cư ngụ
trên tuyến biên phòng của tỉnh đều sinh
sống bằng nghề biển nên công tác cứu
hộ, cứu nạn, phòng tránh thiên tai trên
biển được BĐBP tỉnh chú trọng. Trong 5
năm qua, BĐBP tỉnh đã kịp thời thông
báo, kêu gọi 321 ngàn lượt phương tiện
đang hoạt động trên biển vào bờ tránh trú
bão và áp thấp nhiệt đới an toàn; điều
động 41 lượt tàu, ca nô cùng 1.400 lượt
cán bộ, chiến sĩ tham gia cứu hộ, cứu nạn
thành công 45 tàu thuyền và 210 ngư dân
bị nạn trên biển; cấp phát cho bà con ngư
dân 10.000 tờ rơi hướng dẫn, tuyên
truyền cách phòng chống thiên tai, tai
nạn khi hoạt động trên biển. Bằng những
việc làm, hành động cụ thể nêu trên của
cán bộ, chiến sĩ BĐBP tỉnh đã góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho dân
nhân trên tuyến biên phòng.
Chú trọng xây dựng Đảng
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, Đảng bộ
BĐBP tỉnh chủ động đề ra nhiều chủ
trương, biện pháp để củng cố, kiện toàn,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các cấp uỷ, tổ chức cơ sở đảng;
gắn xây dựng tổ chức đảng trong sạch
vững mạnh với xây dựng đơn vị vững
mạnh toàn diện; đổi mới nội dung sinh
hoạt đảng, quy trình ra Nghị quyết và tổ
chức thực hiện Nghị quyết; coi trọng
việc ban hành và thực hiện quy chế làm
việc, quy chế lãnh đạo trên các mặt công
tác trọng tâm; chấp hành nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ, duy trì chế độ sinh
hoạt, học tập trong Đảng, giữ vững sự
lãnh đạo của tập thể; thực hiện nghiêm
túc, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương
4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay” và Chỉ thị số
03 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hô Chí Minh”.
Trong nhiệm kỳ 2010-2015, có
93,75% tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ)
113
đạt trong sạch vững mạnh, tăng 8,44% so
với nhiệm kỳ trước; 6,25% TCCSĐ hoàn
thành nhiệm vụ, không có TCCSĐ yếu
kém. Kết quả đánh giá chất lượng đảng
viên trong nhiệm kỳ: Đảng viên đủ tư
cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt
14,13%, đảng viên đủ tư cách hoàn thành
tốt nhiệm vụ 81,21% (tăng 2,61% so với
nhiệm kỳ trước), đảng viên đủ tư cách
hoàn thành nhiệm vụ 3,96%, đảng viên
vi phạm tư cách 0,7%. Trong nhiệm kỳ,
hầu hết cán bộ, đảng viên phát huy được
vai trò lãnh đạo, gương mẫu trong thực
hiện nhiệm vụ, giữ vững phẩm chất đạo
đức của người cán bộ, đảng viên.
ĐẠI TÁ BÙI NAM ĐĨNH, BÍ THƯ
ĐẢNG UY, CHÍNH UY BĐBP TỈNH:
Phát huy sức mạnh tổng hợp của
nền biên phòng toàn dân
Trước tình hình mới của đất nước,
trong giai đoạn 2015-2020, Đảng bộ
BĐBP tỉnh sẽ tiếp tục phát huy sức mạnh
tổng hợp của nền biên phòng toàn dân;
triển khai đồng bộ, toàn diện các công
tác biên phòng; phối hợp, hiệp đồng chặt
chẽ với các lực lượng; tổ chức đấu tranh
có hiệu quả với các loại tội phạm, bảo vệ
vững chắc chủ quyền an, ninh biên giới
quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn biên
phòng; tích cực tham gia phát triển kinh
tế, củng cố quốc phòng - an ninh, xây
dựng khu vực phòng thủ vững mạnh; tập
trung xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện, có khả năng sẵn sàng chiến đấu
cao; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của các cấp ủy và tổ chức
đảng; gắn xây dựng các cấp ủy, tổ chức
cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh với
xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện;
xây dựng đội ngũ đảng viên đi đôi với
xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, xứng đáng là lực
lượng nòng cốt, chuyên trách trong quản
lý bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới
quốc gia trong mọi tình huống.
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
nêu trên, sắp tới, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy
BĐBP tỉnh sẽ chủ động tham mưu, đề
xuất với cấp trên những chủ trương, biện
pháp trong quản lý, bảo vệ biên giới,
không để kẻ địch và phần tử xấu lợi dụng
kích động, tạo thành những điểm “nóng”
ở khu vực biên giới biển, đảo; tổ chức
tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức
pháp luật cho quần chúng nhân dân trên
địa bàn; chủ động phối hợp chặt chẽ với
các ngành, lực lượng chức năng, tăng
cường hoạt động tuần tra, kiểm soát khu
vực trọng điểm ở đất liền và trên biển,
kịp thời phát hiện, đấu tranh với các hoạt
động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ; tiếp
tục thực hiện có hiệu quả Nghị định
50/2008/NĐ-CP của Chính phủ về quản
114
lý bảo vệ an ninh, trật tự tại cửa khẩu
cảng biển; thực hiện tốt công tác cải
cách thủ tục hành chính biên phòng,
nâng cao hiệu quả công tác quản lý xuất
nhập cảnh tại khu vực biên giới, cửa
khẩu cảng biển; đấu tranh trấn áp có
hiệu quả với các loại tội phạm như: buôn
lậu, gian lận thương mại, buôn bán, vận
chuyển chất nổ, vũ khí, ma túy, khai thác
cát trái phép…; đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác vận động quần chúng;
duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng
chiến đấu; chủ động tham gia phòng
chống lụt bão, cứu hộ, cứu nạn, giảm
nhẹ thiên tai.
Bùi Cảnh
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Xây dựng Đảng bộ khối Cơ quan tỉnh trong sạch, vững mạnh .
Qua 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Khối lần thứ III,
các chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cơ bản được hoàn thành. Công tác xây dựng Đảng
có nhiều tiến bộ và đạt được những kết quả quan trọng. Đặc biệt, các tổ chức Đảng
chú trọng việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, từng bước
trở thành nề nếp, có tác động tích cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên.
Nêu cao tinh thần
trách nhiệm
Ông Nguyễn Hữu Kiều,
Uy viên Ban Thường vụ
Đảng ủy, Trưởng Ban Tuyên
giáo Đảng ủy khối Cơ quan
tỉnh, cho biết, thực hiện Chỉ
thị 03-CT/TW của Bộ Chính
trị và các văn bản hướng dẫn
của Tỉnh ủy, trong những
năm qua, Ban Thường vụ
Đảng ủy khối đã chỉ đạo các
cấp ủy, tổ chức Đảng tiến
hành rà soát, sửa đổi, bổ sung
và ban hành quy định về tiêu
chuẩn đạo đức của cơ quan, đơn vị cho phù hợp với
đặc điểm, tình hình thực tế.
Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu
chuẩn đạo đức của cơ quan, đơn vị đã được các cấp
ủy, tổ chức Đảng phối hợp với thủ trưởng cơ quan
đơn vị tiến hành thường xuyên hàng năm. Nội dung
các chuẩn mực đạo đức sát với chức năng, đặc điểm,
nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị; nhiều đơn vị xây
dựng chuẩn mực đạo đức ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực
hiện như: Chi bộ Hội LHPNVN tỉnh với quy định
“Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang”, Chi bộ
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy với quy định về nghề
nghiệp “Bình tĩnh, chủ động, sẵn sàng, kiên quyết”,
Đảng bộ Viện Kiểm sát tỉnh “Công minh, chính
trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. “Qua
115
triển khai thực hiện quy định
tiêu chuẩn đạo đức, cán bộ,
đảng viên, công chức, viên
chức và người lao động
trong Khối đã có bước
chuyển biến về nhận thức và
hành động. Nhiều cơ quan,
đơn vị đã khắc phục được
tình trạng đi trễ về sớm; tinh
thần phục vụ nhân dân,
trách nhiệm với công việc
được nâng cao; tinh thần
tương thân, tương ái, đoàn
kết gắn bó được phát huy
mạnh mẽ”, ông Nguyễn Hữu
Kiều đánh giá.
Song song đó, Đảng ủy
khối đã đưa việc học tập và
làm theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức, phong cách Hô Chí
Minh vào sinh hoạt thường
xuyên của tổ chức Đảng, cơ
quan, đoàn thể.
Qua 4 năm triển khai
thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ
Chính trị, toàn thể cán bộ,
đảng viên và quần chúng
trong Khối đã có nhiều nỗ
lực, cố gắng, từng bước đưa
việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hô Chí Minh
đi vào chiều sâu, có tác dụng
lan tỏa trong đời sống xã
hội. Ý thức tự giác tu dưỡng
rèn luyện đạo đức, lối sống của đa số cán bộ, đảng
viên và quần chúng được nâng lên, nhất là nâng
cao tinh thần trách nhiệm trong công việc, sửa đổi
phong cách, lề lối làm việc khoa học, hiệu quả
hơn. Hầu hết các cơ quan, đơn vị đã thực hiện tốt
thực hành tiết kiệm các khoản chi tiêu, cắt giảm
đầu tư công, giảm mua sắm trang thiết bị văn
phòng, sửa chữa cải tạo nhà làm việc.
Tự phê bình và phê bình
Ông Chu Văn Tiến, Phó Bí thư Đảng ủy khối Cơ
quan tỉnh cho biết, thực hiện Kế hoạch số 23 (ngày 5-
4-2012) của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Hướng dẫn
của các Ban Tỉnh ủy về triển khai thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4, Khóa XI “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Đảng ủy Khối đã
xây dựng Kế hoạch chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức Đảng
trực thuộc tổ chức triển khai, quán triệt Nghị quyết
cho 4.400 lượt cán bộ, đảng viên, quần chúng, trong
đó đảng viên đạt tỷ lệ 98%. Thông qua học tập, quán
triệt Nghị quyết, hầu hết cán bộ, đảng viên nâng cao
nhận thức về tầm quan trọng và quyết tâm của Trung
ương về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Công tác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình đã
được Đảng ủy Khối, cấp ủy cơ sở trực thuộc bám sát
chỉ đạo của Tỉnh ủy, thực hiện nghiêm túc, đảm bảo
quy trình. Sau kiểm điểm, Đảng ủy Khối, cấp ủy cơ
sở đã xây dựng chương trình, kế hoạch khắc phục
hạn chế khuyết điểm. Tập trung đổi mới nâng cao
chất lượng công tác quán triệt phổ biến Chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng; chú trọng xây dựng chương trình,
kế hoạch công tác sát thực tế; tăng cường đi cơ sở;
tập trung hoàn thành công tác quy hoạch cấp ủy;
kiện toàn tổ chức Đảng; tăng cường công tác kiểm
116
tra, giám sát việc quán triệt
thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị
của Đảng.
Các cấp ủy, tổ chức Đảng
trực thuộc phối hợp với thủ
trưởng cơ quan, đơn vị lãnh
đạo cán bộ, đảng viên thực
hiện nghiêm túc các quy định
về công khai, minh bạch về
tài chính, tài sản công, thu
nhập và tài sản của cá nhân,
công tác bình xét, khen
thưởng, kỷ luật và công tác
quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ.
Sắp xếp, luân chuyển vị trí
công tác cho cán bộ phù hợp
với tình hình thực tế theo
thẩm quyền, nhằm hạn chế
cán bộ giữ một vị trí quá lâu
dễ dẫn đến tiêu cực. Thực
hiện tốt chuẩn mực ứng xử
trong công sở. Hầu hết các
cơ quan, đơn vị đều có bộ
phận thanh tra theo dõi, giám
sát việc tổ chức thực hiện.
Hàng năm, Đảng ủy Khối
xây dựng kế hoạch kiểm tra,
giám sát các cấp ủy cơ sở
thực hiện tốt việc giám sát
trách nhiệm đảng viên trong
quá trình thực thi công vụ
nhằm kịp thời phát hiện và
xử lý nghiêm những biểu
hiện tham nhũng.
Trong nhiệm kỳ qua, Đảng ủy Khối đã quan tâm
lãnh đạo chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức Đảng phối hợp
với Đảng Đoàn, Ban cán sự Đảng, thủ trưởng cơ
quan, đơn vị tập trung lãnh đạo, động viên cán bộ,
đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, góp
phần tham mưu với Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
nhiệm vụ trọng tâm về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, an ninh - quốc phòng… Thường xuyên phối
hợp chặt chẽ với thủ trưởng cơ quan, đơn vị lãnh
đạo thực hiện toàn diện các mặt công tác xây dựng
cơ quan vững mạnh, thực hiện quy chế dân chủ và
cải cách thủ tục hành chính, kiện toàn tổ chức;
triển khai và thực hiện hiệu quả vai trò giám sát,
tham gia phản biện xã hội, tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể chính trị - xã hội; Chỉ đạo các tổ chức đoàn thể,
hội phát động phong trào thi đua hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao...
ÔNG ĐINH VĂN HÙNG, BÍ THƯ ĐẢNG UY
KHỐI CƠ QUAN TỈNH:
Chú trọng giáo dục, bồi dưỡng và phát
triển đảng viên
Hàng năm Đảng ủy Khối, cấp ủy, tổ chức Đảng
trực thuộc xây dựng kế hoạch và tổ chức học tập,
nghiên cứu, quán triệt đầy đủ, kịp thời các Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước cho cán bộ, đảng viên; Công tác giáo dục
lý luận chính trị; phổ biến, giáo dục pháp luật được
duy trì nề nếp và chú trọng hơn, tạo được sự chuyển
biến tích cực trong nhận thức của cán bộ và đảng
viên. Từ năm 2010 - 2015, Đảng ủy Khối và các
Đảng bộ cơ sở tổ chức mở 105 lớp nghiên cứu, quán
triệt các Nghị quyết Trung ương (Khóa XI), Nghị
117
quyết Đại hội Đảng các cấp
với 27.809 lượt cán bộ, đảng
viên và quần chúng tham gia.
Tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục chính trị,
định hướng tư tưởng cho cán
bộ, đảng viên; tổ chức thông
tin thời sự định kỳ về tình
hình kinh tế - chính trị trong
nước và quốc tế; giáo dục
truyền thống cách mạng cho
các thế hệ trẻ, học sinh, sinh
viên nhân các ngày lễ lớn của
dân tộc; tuyên tuyền an toàn
giao thông; tuyên truyền về
tình hình điển đảo cho 3.540
lượt đảng viên và cán bộ chủ
chốt tham dự, nhằm nâng cao
nhận thức cho cán bộ, đảng
viên, quần chúng, tạo sự đồng
thuận và thống nhất cao
trong toàn Đảng bộ.
Công tác giáo dục, bồi
dưỡng và phát triển đảng
viên được Đảng ủy Khối và
các cấp ủy cơ sở quan tâm
thực hiện tốt. Kế hoạch bồi
dưỡng lý luận chính trị hàng
năm đều hoàn thành, trong
nhiệm kỳ đã mở được 23 lớp
với 2.274 đối tượng đảng;
xem xét kết nạp 1.051 quần
chúng ưu tú vào Đảng, đạt tỷ
lệ 8% so với tổng số Đảng
viên của Đảng bộ. Chất lượng đội ngũ đảng viên
trong Đảng bộ ngày càng được nâng lên; tỉ lệ đảng
viên nữ, đảng viên trẻ ngày càng tăng cao.
Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy Khối đã chỉ đạo và
triển khai chương trình kiểm tra, giám sát; tập
trung kiểm tra, giám sát đối với 77 lượt đảng
viên, người đứng đầu và tổ chức Đảng cấp dưới
trong việc lãnh đạo, thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị
của Đảng; Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối và cấp
ủy, Ủy ban Kiểm tra các Đảng ủy trực thuộc đã
tiến hành kiểm tra, giám sát 2.665 lượt đảng viên
và tổ chức Đảng cấp dưới. Qua kiểm tra, đã giúp
các tổ chức Đảng phát huy những mặt mạnh và
chấn chỉnh những hạn chế, thiếu sót, có giải pháp
thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Công tác
đánh giá chất lượng tổ chức Đảng, đảng viên
hàng năm được tiến hành chặt chẽ, nề nếp, chất
lượng được nâng cao, khắc phục tình trạng chạy
theo thành tích, bảo đảm theo quy định hướng
dẫn của Trung ương.
Các hoạt động về “Dân vận khéo” đã được
Đảng ủy Khối, các cấp ủy trực thuộc quan tâm thực
hiện tốt; hầu hết cán bộ, đảng viên và quần chúng
đều chấp hành tốt các chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Việc thực hiện quy
chế dân chủ trên các hoạt động của cơ quan, đơn vị
như: quy hoạch, bổ nhiệm, bố trí cán bộ; thực hiện
các chế độ, chính sách, khen thưởng... đã có nhiều
chuyển biến tích cực, theo nguyên tắc, quy định và
bảo đảm lợi ích chính đáng cho cán bộ, công chức,
viên chức và người lao động.
Ngọc Nguyễn
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
118
Phát huy tốt vai trò của tổ chức
Đảng trong doanh nghiệp .
Trong 5 năm (2010-2015), Đảng bộ Khối Doanh nghiệp cùng với các tổ chức cơ
sở Đảng đã phát huy vai trò hạt nhân chính trị, đã làm tốt chức năng lãnh đạo cán
bộ đảng viên, người lao động duy trì phát triển sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Qua đó góp phần tích cực xây dựng Đảng bộ, Chi bộ trong sạch vững mạnh.
Lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh
Ông Hoàng Minh Kim, Phó Bí thư
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp cho biết,
trong nhiệm kỳ qua, Đảng ủy Khối và
các cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng trong
khối đã bám sát chức năng, nhiệm vụ và
điều kiện thực tế của DN để lãnh đạo sản
xuất kinh doanh với các yêu cầu bảo đảm
an sinh xã hội, giải quyết việc làm, tăng
thu nhập cho người lao động. Từ thực
tiễn hoạt động, các tổ chức cơ sở Đảng
đã và đang từng bước phát huy được vai
trò, vị trí và có đóng góp nhất định vào
sự phát triển chung của DN. Các cấp ủy
Đảng tích cực tuyên truyền, giáo dục cán
bộ công nhân viên, người lao động và
các thành viên trong bộ máy quản lý của
DN chấp hành đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Theo đó, trong 5 năm qua, các DN
có tổ chức Đảng trực thuộc Đảng bộ
Khối Doanh nghiệp đã lãnh đạo hoàn
thành các chỉ tiêu về sản xuất kinh
doanh, tổng doanh thu đạt hơn
128.751,22 tỷ đông; tổng lợi nhuận hơn
9.561,28 tỷ đông; nộp ngân sách hơn
8.109,30 tỷ đông; đóng góp vào các quỹ
xã hội từ thiện hơn 61,56 tỷ đông. Trong
5 năm, doanh thu của các DN trong khối
tăng trưởng bình quân ở mức 7%, lợi
nhuận từ 2-13%, nộp ngân sách nhà nước
từ 3-8%, cơ bản đạt các chỉ tiêu so với
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khối DN lần
thứ III đề ra. Hầu hết các DN lĩnh vực
điện, nước, viễn thông, thương mại dịch
vụ, thủy sản đều có tăng trưởng hàng
năm, một số DN có mức tăng trưởng gấp
2 lần so với đầu nhiệm kỳ. Từ đó tạo việc
làm và thu nhập ổn định cho 60.000 lao
động với thu nhập bình quân 7,98 triệu
đông/người/tháng.
Cùng với những cơ hội, thách thức
và yêu cầu của tiến trình hội nhập quốc
tế, nhu cầu của thị trường, nhiều tổ chức,
cơ sở Đảng trong khối đã chú trọng lãnh
đạo, chỉ đạo các DN đầu tư đổi mới thiết
bị công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý
theo tiêu chuẩn ISO, HACCP... Đông
thời đẩy mạnh các phong trào thi đua
phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, lao
động sáng tạo, luyện tay nghề, thi thợ
119
giỏi, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
tìm kiếm và mở rộng thị trường, áp dụng
các loại hình dịch vụ mới vào sản xuất
kinh doanh. Nhiều DN mỗi năm có từ 1
đến 5 công trình thi đua làm lợi cả tỷ
đông. Cũng trong 5 năm qua, nhiều DN
và cá nhân trong khối đã được Đảng và
Nhà nước, tỉnh BR-VT trao tặng các
phần thưởng cao quý như: Anh hùng lao
động thời kỳ đổi mới, Huân chương Độc
lập; Huân chương Lao động; Cờ thi đua,
giải thưởng Ngọn Hải đăng, Sao Vàng
Đất Việt...
Coi trọng công tác xây dựng Đảng
Những năm gần đây, công tác phát
triển Đảng ở Đảng bộ khối Doanh nghiệp
đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các
cấp ủy Đảng đã chú trọng bôi dưỡng,
phát triển đảng viên mới trong đội ngũ
công nhân lao động. Bà Nguyễn Thị
Xuyến, Phó Trưởng ban Tuyên giáo
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp cho biết,
hiện nay Đảng bộ Khối có 63 tổ chức cơ
sở Đảng tại các loại hình DN, với tổng số
2.828 đảng viên. Trong 5 năm qua, Đảng
ủy Khối đã tổ chức 18 lớp bôi dưỡng
nhận thức về Đảng cho 1.585 quần chúng
ưu tú, qua đó kết nạp 916 đảng viên mới.
Trong số này có 337 đảng viên được kết
nạp trong các DN ngoài nhà nước, vượt
chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
Khối lần thứ III đề ra. Theo đánh giá,
hầu hết các đảng viên đều phát huy được
tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên
môn cao và nắm giữ các vị trí chủ chốt
tại DN. “Đảng ủy luôn quan tâm hướng
dẫn các cấp ủy tăng cường chỉ đạo các tổ
chức đoàn thể quần chúng trong DN, đổi
mới nội dung, phương pháp hoạt động và
thường xuyên phát động phong trào thi
đua gắn với nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Từ hoạt động phong trào,
lựa chọn, giới thiệu những quần chúng
ưu tú, tiêu biểu cho Đảng”, bà Nguyễn
Thị Xuyến cho hay.
Bên cạnh công tác tạo nguôn, Đảng
ủy khối còn xây dựng đề cương, tài liệu
bôi dưỡng nhận thức về Đảng và lý luận
chính trị cho đảng viên dự bị, chủ DN.
Đông thời, tăng cường công tác thông tin
sát với thực tiễn cơ sở, phù hợp với từng
đối tượng trong DN. Qua đó, nhiều cấp
ủy đảng đã làm tốt công tác phát triển
Đảng như Đảng bộ các KCN tỉnh, Đảng
bộ Công ty Dịch vụ Du lịch Dầu khí Việt
Nam… Trong nhiệm kỳ 2010-2015 Đảng
bộ Khối và các cấp ủy đã tổ chức được
686 lớp với 29.816 lượt cán bộ, đảng
viên và người lao động tham gia học tập,
quán triệt các Nghị quyết, kết luận, chỉ
thị của Đảng, của Tỉnh ủy. Tỷ lệ bình
quân tổ chức Đảng đạt trong sạch vững
mạnh chiếm 60,18%; 78,22% đảng viên
hoàn thành tốt nhiệm vụ; 12,51% đảng
viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cùng với nhiệm vụ phát triển Đảng,
5 năm qua Đảng bộ Khối đã thực hiện tốt
công tác lãnh đạo triển khai thực hiện
120
Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về
“Tiếp tục đẩy mạnh việc Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hô Chí Minh”.
Hầu hết cán bộ, đảng viên và người lao
động đều đông tình hưởng ứng, trở thành
đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, có sức
lan tỏa trong toàn Đảng bộ. Hàng năm có
97% các tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc
triển khai các đợt học tập chuyên đề Chỉ
thị 03. Bên cạnh đó, Đảng bộ Khối cũng
đẩy mạnh triển khai thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”. Qua đợt kiểm điểm theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 4 đã góp
phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy
thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, phát
huy tính dân chủ trong hoạt động của các
tổ chức đoàn thể và người lao động tại
DN, góp phần xây dựng các tổ chức cơ
sở Đảng trong sạch, vững mạnh.
ÔNG MAI MINH QUANG, BÍ THƯ
ĐẢNG UY KHỐI DOANH NGHIỆP:
Không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng
Trong 5 năm qua, Đảng bộ Khối
Doanh nghiệp đã không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở Đảng và Đảng bộ, tiếp
tục phát huy tốt vai trò hạt nhân chính trị
trong từng loại hình DN. Đồng thời chú
trọng lãnh đạo xây dựng và thực hiện
quy chế phối hợp giữa cấp ủy với Hội
đồng quản trị, lãnh đạo DN, các đoàn
thể xã hội, tạo sự đoàn kết thống nhất
cao trong công tác xây dựng Đảng cũng
như hoạt động sản xuất kinh doanh,
quan tâm lãnh đạo, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho người lao động,
tích cực đóng góp cho các hoạt động an
sinh xã hội; gắn công tác giáo dục chính
trị tư tưởng với thực hiện hiệu quả Chỉ
thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp
tục đẩy mạnh việc Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”. Đảng ủy Khối Doanh nghiệp
đã căn cứ vào điều kiện thực tế để đề ra
và tổ chức thực hiện tốt các chương
trình, kế hoạch công tác hàng năm và cả
nhiệm kỳ, thực hiện nghiêm túc việc sơ,
tổng kết hoạt động định kỳ và chuyên đề
theo đúng chỉ đạo của Tỉnh ủy; Phối hợp
với một số sở, ngành, hiệp hội, các ban
chỉ đạo của tỉnh nhằm tăng cường mối
quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa các DN và
phản ánh những ý kiến của DN với Tỉnh
ủy, HĐND, UBND tỉnh và các cơ quan
chức năng liên quan. Các tổ chức cơ sở
Đảng trực thuộc Đảng bộ Khối đã tiếp
tục phát huy được vai trò của mình, nêu
cao tinh thần tiên phong gương mẫu của
người đứng đầu, quan tâm xây dựng tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng mối
quan hệ hài hòa giữa người lao động và
chủ DN, bảo đảm lợi ích chung của DN...
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
121
PHẦN 4.
ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH BR-VT
LẦN THỨ VI
122
123
Diễn văn của đô ng chí Nguyễn Tuâ n Minh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy khai mạc
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020
Kính thưa đồng chí Ngô Văn Dụ, Ủy
viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương
Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra
Trung ương,
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo đại
diện các bộ, ban, ngành, đoàn thể của
Trung ương,
Kính thưa Đoàn chủ tịch Đại hội;
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo tỉnh
qua các thời kỳ,
Kính thưa các đồng chí lão thành
cách mạng; các Mẹ Việt Nam anh hùng;
các Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh
hùng lao động,
Kính thưa các vị khách quý,
Kính thưa Đại hội,
Hôm nay, trong không khí phấn khởi
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong cả
nước sôi nổi thi đua lập thành tích chào
mừng Đại hội toàn quốc lần thứ XII của
Đảng, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
tổ chức trọng thể Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020.
Đại hội nhiệt liệt chào mừng đông
chí Ngô Văn Dụ, Uy viên Bộ Chính trị,
Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Uy
ban Kiểm tra Trung ương; các đông chí
lãnh đạo các ban, bộ, ngành của Trung
ương về dự và chỉ đạo Đại hội. Sự có
mặt của các đông chí thể hiện sự quan
tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, là sự cổ vũ to lớn cho sự thành công
của Đại hội.
Đại hội nhiệt liệt chào mừng và chân
thành cảm ơn các đông chí lão thành cách
mạng; các Mẹ Việt Nam anh hùng; các
Anh hùng lực lượng vũ trang; Anh hùng
lao động; các đông chí nguyên là Bí thư,
Phó bí thư, Uy viên Ban Thường vụ, Đặc
khu ủy viên, Tỉnh ủy viên các thời kỳ; các
đại biểu đại diện Mặt trận Tổ quốc, các
124
đoàn thể, các sở, ban, ngành, lực lượng vũ
trang của tỉnh về dự Đại hội.
Đại hội nông nhiệt chào đón các đông
chí đại diện các cơ quan thông tấn, báo
chí, đài phát thanh, truyền hình Trung
ương và địa phương đến dự và đưa tin về
Đại hội.
Thay mặt Đoàn chủ tịch Đại hội, tôi
xin nhiệt liệt chào mừng 348 đại biểu
chính thức, những đảng viên ưu tú, tiêu
biểu cho trí tuệ và sức mạnh đoàn kết của
toàn Đảng bộ về dự Đại hội của Đảng bộ
chúng ta.
Kính thưa Đại hội,
Thực hiện Chỉ thị 36-CT/TW ngày
30-5-2014 của Bộ Chính trị về Đại hội
Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn
quốc lần thứ XII của Đảng, Tỉnh ủy Bà
Rịa - Vũng Tàu đã ban hành Chỉ thị số
45-CT/TU ngày 11-9-2014 và Kế hoạch
số 114-KH/TU ngày 11-9-2014 để triển
khai tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp,
nhiệm kỳ 2015-2020.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy thành lập 3
tiểu ban giúp việc, gôm Tiểu ban văn
kiện Đại hội, Tiểu ban nhân sự Đại hội
và Tiểu ban phục vụ Đại hội. Phân công
các đông chí ủy viên Ban Thường vụ
trực tiếp theo dõi, chỉ đạo đại hội các
Đảng bộ trực thuộc. Chọn điểm tổ chức
đại hội cấp sơ sở, cấp trên cơ sở để rút
kinh nghiệm chỉ đạo trên phạm vi toàn
Đảng bộ tỉnh.
Nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của
Thường vụ Tỉnh ủy, đến ngày 21-8-
2015, toàn bộ tổ chức cơ sở Đảng và
Đảng bộ trực thuộc đã tổ chức xong đại
hội theo đúng tiến độ và các quy định,
hướng dẫn của Trung ương, của Tỉnh
ủy. Trong thời gian trên, các Tiểu ban
giúp việc cho Đại hội Đảng bộ tỉnh cũng
khẩn trương tiến hành dự thảo văn kiện;
thực hiện quy trình công tác nhân sự;
chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết để tiến
tới tổ chức Đại hội.
Với tinh thần cầu thị và trách nhiệm,
nhiều tháng qua, Ban Thường vụ, Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V đã tổ
chức lấy ý kiến góp ý rộng rãi vào Báo
cáo Chính trị trình Đại hội. Ngoài việc
tổng hợp, tiếp thu ý kiến thảo luận, góp ý
tại đại hội đảng bộ trực thuộc và của các
ban, bộ, ngành, viện nghiên cứu của
Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ
chức 12 cuộc hội thảo góp ý với sự tham
gia của nhiều cán bộ, đảng viên đương
chức và nghỉ hưu, đại diện các tầng lớp
nhân dân, các chức sắc tôn giáo. Đặc
biệt, nhiều cuộc hội thảo đã mời được
các chuyên gia đầu ngành, thuộc các lĩnh
vực liên quan đến định hướng phát triển
của tỉnh tham dự và đóng góp ý kiến.
125
Ngày 17-8-2015, dưới sự chủ trì của
đông chí Trương Tấn Sang, Uy viên Bộ
Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam, Tổ công tác của Bộ
Chính trị đã làm việc với Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu. Ban Thường
vụ Tỉnh ủy được nghe và tiếp thu nhiều ý
kiến đóng góp quý báu của đông chí Chủ
tịch nước và các đông chí trong Tổ công
tác, các đông chí lãnh đạo đại diện các
ban, bộ, ngành Trung ương bổ sung cho
các dự thảo văn kiện trình Đại hội.
Tại Đại hội này, thay mặt Đoàn Chủ
tịch Đại hội, tôi xin trân trọng cảm ơn sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính
trị; xin nhiệt liệt hoan nghênh và cảm ơn
các ban, bộ, ngành Trung ương; các tổ chức
Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể; các
đông chí nguyên là lãnh đạo tỉnh qua các
thời kỳ và đông đảo cán bộ, đảng viên, trí
thức, các vị chức sắc tôn giáo, các tầng lớp
nhân dân đã đóng góp nhiều ý kiến tâm
huyết, đầy trách nhiệm vào dự thảo Báo
cáo Chính trị của Đại hội. Nhiệt liệt hoan
nghênh và biểu dương các cơ quan, đơn vị,
địa phương và các tầng lớp nhân dân đã
phát động các phong trào thi đua, thực hiện
các công trình, sản phẩm, lập thành tích
xuất sắc để chào mừng Đại hội.
Kính thưa Đại hội,
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ
V được triển khai thực hiện trong điều
kiện có nhiều khó khăn, thách thức do
ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới
và kinh tế trong nước; tình hình biển
Đông diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, với
tinh thần đoàn kết, chủ động, sáng tạo,
Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân và
cộng đông doanh nghiệp của tỉnh đã nỗ
lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, đạt
được nhiều thành quả quan trọng, hoàn
thành và hoàn thành vượt mức phần lớn
các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V đề ra.
Kinh tế phát triển đúng hướng; tổng thu
ngân sách cả nhiệm kỳ vượt kế hoạch,
đóng góp quan trọng vào ngân sách quốc
gia. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có
bước tiến bộ mới; chất lượng cuộc sống
của nhân dân được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ
hộ nghèo giảm mạnh. Quốc phòng, an
ninh được củng cố vững chắc. Bước đầu
thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung
ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”, Chỉ thị 10 của Ban
Bí thư về nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ và Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hô Chí Minh”, đáp ứng được yêu cầu
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức Đảng và đảng viên. Những kết
quả trên đã đóng góp tích cực vào kết quả
126
thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc
lần thứ XI của Đảng.
Thành quả đạt được là cơ bản, song
chúng ta vẫn còn 15/71 chỉ tiêu đạt thấp
so với nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội V;
một số lĩnh vực phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng, thế mạnh; cải cách
hành chính chưa đạt yêu cầu; văn hóa, xã
hội, y tế, giáo dục chưa theo kịp tốc độ
phát triển kinh tế; công tác xây dựng
Đảng, chính quyền còn nhiều vấn đề phải
tiếp tục nỗ lực khắc phục; hoạt động của
Mặt trận, các đoàn thể tuy có nhiều cố
gắng, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu
trong tình hình mới.
Trên tinh thần đó, Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI có nhiệm vụ nghiêm túc
tổng kết, đánh giá toàn diện, sâu sắc kết
quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ V; thẳng thắn chỉ rõ
nguyên nhân chủ quan của những hạn
chế, khuyết điểm, rút ra kinh nghiệm
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành. Trên cơ sở phân tích, dự báo
những biến động của tình hình thế giới,
trong nước và khu vực có tác động đến
sự vận động và phát triển của tỉnh; bám
sát sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và của
Trung ương, vận dụng vào tình hình thực
tiễn của tỉnh để xác định phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, xây
dựng, phát triển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
thành tỉnh mạnh về công nghiệp, cảng
biển, dịch vụ hậu cần cảng và du lịch.
Đại hội sẽ bầu Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh khóa VI là tập thể thực sự tiêu
biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, tinh thần trách nhiệm và bản lĩnh,
đủ sức lãnh đạo thực hiện tốt Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ. Đại hội bầu đoàn đại
biểu đi dự Đại hội toàn quốc lần thứ XII
của Đảng, là những đông chí tiêu biểu
cho trí tuệ và sức mạnh đoàn kết của
Đảng bộ, có khả năng đóng góp vào sự
thành công của Đại hội Đảng toàn quốc.
Đại hội phát huy trí tuệ và trách nhiệm
để thảo luận, đóng góp ý kiến vào các
văn kiện trình Đại hội toàn quốc lần thứ
XII của Đảng và Báo cáo Chính trị, Báo
cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh khóa V.
Để hoàn thành trọng trách trước Đại
hội, tôi đề nghị mỗi đại biểu nêu cao
trách nhiệm chính trị, phát huy dân chủ,
tích cực tham gia đóng góp ý kiến và
quyết định các vấn đề quan trọng của
Đại hội; chấp hành tốt Nội quy, Quy chế
của Đại hội, bảo đảm Đại hội của chúng
ta thực sự tiêu biểu cho ý chí và hành
động, xứng đáng với sự tin cậy và kỳ
vọng của trên 34 ngàn đảng viên trong
toàn Đảng bộ.
127
Phát huy truyền thống đoàn kết, niềm
tự hào về truyền thống cách mạng vẻ
vang và niềm tin vào tương lai tươi sáng
của Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ được tiếp tục
khơi dậy từ Đại hội lần thứ VI này của
Đảng bộ chúng ta, thay mặt Đoàn chủ
tịch, tôi tuyên bố khai mạc Đại hội Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ VI,
nhiệm kỳ 2015 - 2020.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
.
Bài phát biểu của đồng
chí Ngô Văn Dụ,
Ủy viên Bộ Chính trị,
Bí thư Trung ương Đảng,
Chủ nhiệm Ủy ban
Kiểm tra Trung ương tại
Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
lần thứ VI,
nhiệm kỳ 2015-2020,
ngày 22-10-2015
Thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội,
Thưa các đồng chí đại biểu và toàn
thể Đại hội.
Theo sự phân công của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, hôm nay, tôi rất vui mừng và
phấn khởi cùng các đông chí đại diện các
cơ quan Trung ương về dự Đại hội Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ VI.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi
nhiệt liệt chào mừng các đông chí lão
thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam Anh
hùng, các vị khách quý và 348 đại biểu
ưu tú đại diện cho trên 34.000 đảng viên
của Đảng bộ về dự Đại hội trọng thể này.
Tôi thân ái gửi tới toàn thể cán bộ, đảng
viên, toàn quân và nhân dân tỉnh nhà lời
thăm hỏi và chúc mừng tốt đẹp nhất.
Chúc Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu lần thứ VI thành công tốt đẹp.
Thưa Đại hội!
Hơn một năm qua, Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quán
128
triệt sâu sắc và triển khai thực hiện
nghiêm túc, có kết quả Chỉ thị số 36-
CT/TW của Bộ Chính trị và các quy
định, hướng dẫn của Trung ương về Đại
hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Các đông chí vừa tập trung chỉ đạo triển
khai và tổ chức thành công đại hội Đảng
bộ cấp cơ sở và cấp trên cơ sở, vừa chú
trọng chuẩn bị Đại hội Đảng bộ tỉnh theo
đúng quy định. Các báo cáo trình Đại hội
đã được chuẩn bị công phu, nghiêm túc,
với trách nhiệm cao, sát với thực tiễn của
địa phương; đông thời đã tiếp thu khá
đầy đủ các ý kiến góp ý, chỉ đạo của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư.
Tôi thống nhất cao với nội dung các
báo cáo, đông thời nhấn mạnh và lưu ý
thêm một số điểm chủ yếu sau đây:
Thưa Đại hội!
Năm năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội,
Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
sự quan tâm giúp đỡ của các bộ, ban,
ngành, các đoàn thể ở Trung ương và sự
hợp tác của các tỉnh bạn, trong bối cảnh
vừa có thời cơ, thuận lợi, vừa có nhiều
khó khăn, thách thức, Đảng bộ và nhân
dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có quyết
tâm chính trị cao, đoàn kết, thống nhất,
phấn đấu đạt được nhiều kết quả quan
trọng, hoàn thành 56/71 chỉ tiêu cụ thể về
các lĩnh vực do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ V đề ra; tiếp tục giữ vị trí là tỉnh có
quy mô kinh tế lớn trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam và cả nước.
Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo 3
khâu đột phá, cơ cấu lại các ngành, lĩnh
vực kinh tế để khai thác có hiệu quả các
tiềm năng, lợi thế theo hướng phát triển
toàn diện và bền vững. Kinh tế duy trì
được mức tăng trưởng hợp lý. Cơ cấu
kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng,
công nghiệp, dịch vụ đã chiếm trên 88%
tổng sản phẩm xã hội; kim ngạch xuất
khẩu tăng khá, nhiều sản phẩm đạt giá trị
trên 100 triệu USD/năm; thu ngân sách
tăng nhanh và vượt chỉ tiêu đề ra, đóng
góp lớn cho ngân sách quốc gia; thu nhập
bình quân đầu người (trừ dầu khí) đạt
trên 5.233USD/người/năm, thuộc nhóm
các tỉnh cao nhất cả nước.
Cơ cấu trong ngành công nghiệp đã
có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần
tỷ trọng công nghiệp chế biến; sản phẩm
công nghiệp ngày càng đa dạng, có thêm
Ưu tiên các nhà đầu tư quốc tế đủ
năng lực đầu tư phát triển các dự án du
lịch lớn, có sản phẩm du lịch mới, đặc
sắc, chất lượng phục vụ cao, thúc đẩy
phát triển du lịch của tỉnh, của toàn khu
vực phía Nam và của cả nước.
129
nhiều sản phẩm mới, trở thành nguyên
liệu đầu vào cho các sản phẩm công
nghiệp khác; có sức cạnh tranh và lan
tỏa. Lĩnh vực dịch vụ, thương mại, nhất
là du lịch, dịch vụ cảng biển có bước
phát triển mới và từng bước nâng cao
chất lượng. Hệ thống cảng biển được chú
trọng đầu tư, đã nâng tổng công suất lên
khoảng 87 triệu tấn/năm; đã đón được
tàu có trọng tải đến 160.000 tấn đi thẳng
đến các nước châu Âu, châu Mỹ, không
qua trung chuyển. Sản xuất nông nghiệp
có nhiều tiến bộ; tỷ trọng chăn nuôi tăng
từ 37,7% lên 44%, đã hình thành được
các vùng chăn nuôi tập trung. Việc khai
thác, nuôi trông, đánh bắt thủy sản có giá
trị cao được đẩy mạnh, nhất là việc đánh
bắt xa bờ với đội tàu dịch vụ hậu cần trên
biển gắn với bảo vệ lãnh hải và chủ
quyền biển đảo của Tổ quốc. Công tác
quản lý, bảo vệ, phòng, chống cháy rừng
được coi trọng. Chương trình xây dựng
nông thôn mới được tập trung chỉ đạo
thực hiện; đến nay đã có 18/43 xã đạt
chuẩn nông thôn mới, vượt 22% so với
chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ V. Công tác quy hoạch, xây
dựng, quản lý đất đai, đô thị có nhiều
tiến bộ, theo hướng văn minh, hiện đại.
Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa
học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao
được quan tâm đầu tư và có bước phát
triển; đời sống của nhân dân tiếp tục
được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm chỉ
còn 1,32%. Chất lượng giáo dục đào tạo
được nâng lên; công tác đào tạo nghề
được quan tâm, tỷ lệ lao động qua đào
tạo đạt 70%. Kết quả nghiên cứu khoa
học công nghệ được ứng dụng phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng
khám chữa bệnh cho nhân dân từng
bước được nâng lên. Công tác an sinh xã
hội, giải quyết việc làm, thực hiện chính
sách với người có công được đẩy mạnh
và đạt kết quả tích cực.
Quốc phòng, an ninh được giữ
vững, trật tự an toàn xã hội được bảo
đảm; chủ quyền biển đảo, cửa khẩu
được bảo vệ. Công tác cải cách tư pháp,
thanh tra, phòng, chống tham nhũng
được tăng cường. Hoạt động đối ngoại
được mở rộng.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị được chú trọng, có nhiều đổi
mới, sáng tạo theo hướng sâu sát với cơ
sở; phương thức lãnh đạo của các cấp ủy
có nhiều đổi mới. Các mặt công tác giáo
dục chính trị tư tưởng; công tác tổ chức,
cán bộ, nhất là quy hoạch cán bộ và phát
triển nguôn cán bộ trẻ, cán bộ nữ; việc
phát triển đảng viên, nhất là ở khu công
nghiệp, các doanh nghiệp ngoài nhà
nước; công tác kiểm tra, giám sát, dân
vận đều có chuyển biến tích cực. Hoạt
130
động của hệ thống chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
được đổi mới và nâng cao chất lượng,
hiệu quả. Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XI về xây dựng Đảng và Chỉ thị số 03
của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh
việc “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hô Chí Minh” được chỉ đạo và
thực hiện nghiêm túc, đi vào chiều sâu,
tạo sự chuyển biến bước đầu trong giữ
gìn đạo đức, lối sống và nâng cao bản
lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn
Đảng bộ.
Những kết quả nói trên đã góp phần
vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng và tạo tiền đề hết sức quan trọng để
Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục phát triển
mạnh mẽ, toàn diện, vững chắc hơn trong
những năm tới.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
tôi nhiệt liệt hoan nghênh, biểu dương và
chúc mừng những kết quả quan trọng mà
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu đã đạt được trong nhiệm kỳ qua.
Thưa Đại hội!
Cùng với việc khẳng định những kết
quả đạt được, tôi đề nghị các đại biểu
cũng cần nhìn nhận, đánh giá đúng mức
những hạn chế, khuyết điểm và nguyên
nhân như đã được nêu trong các báo cáo
trình Đại hội, trong đó cần lưu ý mấy
điểm chủ yếu:
Bà Rịa - Vũng Tàu là tỉnh nằm trong
khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam,
có vị trí quan trọng trong khu vực miền
Đông Nam Bộ, nhưng hiệu quả và chất
lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, vẫn
còn 15/71 chỉ tiêu về phát triển kinh tế -
xã hội chưa đạt hoặc đạt thấp so với
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
V. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
chậm; tăng trưởng kinh tế chưa tương
xứng với tiềm năng, lợi thế về du lịch,
thương mại, dịch vụ của tỉnh.
Chất lượng một số quy hoạch còn
thấp, chưa đông bộ. Công nghiệp tuy đã
phát triển nhưng chưa xác định được sản
phẩm công nghiệp chủ lực để thu hút,
phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Môi trường đầu tư chưa được cải thiện
nhiều, thu hút vốn đầu tư nước ngoài có
biểu hiện chững lại, còn nhiều dự án đầu
tư triển khai chậm, vốn thực hiện thấp.
Công tác quản lý đất đai, khai thác tài
nguyên, khoáng sản ở một số nơi thiếu
chặt chẽ, gây thất thoát; ô nhiễm môi
trường chậm được khắc phục. Hạ tầng
giao thông kết nối chưa đông bộ, khai
thác công suất hệ thống cảng biển còn
thấp. Chưa phát huy mạnh, hiệu quả, bền
vững thế mạnh về du lịch, dịch vụ. Việc
ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất
131
nông nghiệp còn ít; thiếu sự liên kết giữa
các khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Phát triển văn hóa, xã hội, khoa học
công nghệ có mặt còn hạn chế. Chất
lượng đào tạo nguôn nhân lực chưa cao,
chưa gắn với nhu cầu sử dụng. Tai nạn
giao thông, vi phạm pháp luật về ma túy
còn tăng; trật tự an toàn xã hội và khai
thác hải sản trên các vùng biển chông
lấn với một số nước còn diễn biến phức
tạp. Hoạt động đối ngoại chưa chủ động
và còn thiếu tính tổng thể.
Một số mặt công tác xây dựng Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị chưa đáp
ứng yêu cầu. Kết quả thực hiện Chỉ thị số
03 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng
chưa đông đều, ở một số nơi còn hạn
chế. Công tác quy hoạch, bố trí, sử dụng
cán bộ chưa theo kịp yêu cầu, tỷ lệ cán
bộ nữ, cán bộ trẻ còn thấp. Việc phát
triển tổ chức Đảng, đảng viên trong
doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt tỷ lệ
thấp. Công tác kiểm tra, giám sát ở một
số nơi chưa hiệu quả, chưa kịp thời xử lý
cán bộ sai phạm. Công tác dân vận ở một
số nơi chưa được coi trọng đúng mức.
Tôi đề nghị Đại hội nêu cao trách
nhiệm, tập trung trí tuệ, phát huy dân
chủ, đi sâu thảo luận phân tích kỹ, làm rõ
nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ
quan, xác định rõ trách nhiệm, rút ra
những bài học kinh nghiệm thiết thực để
có giải pháp khắc phục có hiệu quả trong
nhiệm kỳ tới.
Thưa Đại hội!
Trong những năm tới, sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ta sẽ có nhiều
thời cơ, thuận lợi lớn, nhưng cũng có
những khó khăn, thách thức do những
biến động nhanh, phức tạp, khó lường
của tình hình thế giới và khu vực, nhất là
tranh chấp chủ quyền biên giới trên Biển
Đông, sự biến động kinh tế của khu vực
và thế giới, mức độ hội nhập ngày càng
sâu rộng của Việt Nam vào khu vực và
quốc tế. Kinh tế thế giới tuy có dấu hiệu
phục hôi nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu
tố mất ổn định; tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội của một số nước ở khu vực
châu Á, Đông Nam Á có những diễn
biến phức tạp hơn… Nhiệm vụ đặt ra khá
nặng nề, đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn
đấu rất cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta, trong đó có Đảng bộ và nhân
dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tôi cơ bản
nhất trí với mục tiêu, nhiệm vụ, định
hướng và giải pháp phát triển của tỉnh
giai đoạn 2015-2020 như đã nêu trong
Báo cáo Chính trị trình Đại hội; đông
thời nhấn mạnh và lưu ý thêm mấy vấn
đề sau:
Một là, về thực hiện nhiệm vụ trung
tâm là phát triển kinh tế, Bà Rịa - Vũng
132
Tàu là tỉnh giữ vị trí cửa ngõ của vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam với hệ
thống cảng biển nước sâu đã được đầu tư
hiện đại, các khu công nghiệp cơ bản
đông bộ về hạ tầng, có biển và đảo, hết
sức thuận lợi cho phát triển công nghiệp,
thương mại, dịch vụ, du lịch, và nông,
lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại.
Đông thời, có điều kiện kết nối, liên kết,
hợp tác với các tỉnh trong toàn khu vực
phía Nam và cả nước, giao thương với
nước ngoài, cùng với những kinh nghiệm
tích lũy được trong lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành của nhiệm kỳ trước, sẽ tạo
điều kiện, tiền đề cho tỉnh phát triển toàn
diện, có hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Trên cơ sở phát huy những kết quả
đạt được, phân tích rõ hơn các tiềm năng,
lợi thế, những khó khăn, thách thức, nhất
là trong bối cảnh hội nhập với khu vực
và quốc tế ngày càng sâu rộng, Đảng bộ
tỉnh cần bám sát Nghị quyết số 53 ngày
29-8-2005, Kết luận số 27 ngày 2-8-2012
của Bộ Chính trị và Quy hoạch tổng thể
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt,
tập trung lãnh đạo làm tốt công tác dự
báo, đẩy mạnh rà soát, bổ sung, điều
chỉnh hợp lý quy hoạch phát triển kinh tế
- xã hội, quy hoạch xây dựng, ngành,
lĩnh vực, quy hoạch đô thị; đẩy mạnh tái
cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, tạo chuyển biến nhanh
về chất lượng tăng trưởng bền vững và
sức cạnh tranh của nền kinh tế, lựa chọn
và ưu tiên nguôn lực để phát triển các
ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, mũi
nhọn, đột phá, có nhiều tiềm năng, thế
mạnh, chuyển mạnh sang tăng trưởng
chủ yếu theo chiều sâu, bảo đảm bền
vững gắn với bảo vệ môi trường, tạo sự
bứt phá về phát triển kinh tế - xã hội
trong nhiệm kỳ tới.
Cần đẩy mạnh ba khâu đột phá chiến
lược theo chủ trương, định hướng của
Trung ương và phù hợp với đặc điểm,
điều kiện cụ thể của tỉnh. Tiếp tục cải
thiện môi trường đầu tư đi đôi với
chuyển đổi cơ cấu đầu tư theo hướng
đông bộ, có hiệu quả, tăng đầu tư của
khu vực tư nhân; đa dạng hóa phương
thức huy động nguôn lực và hình thức
đầu tư. Tăng cường thu hút đầu tư nước
ngoài để phát triển cân đối, đông bộ kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đô thị.
Ưu tiên triển khai các dự án đầu tư lớn,
công nghệ hiện đại, có sức lan tỏa, sản
phẩm có giá trị gia tăng cao, thân thiện
với môi trường. Tăng cường hỗ trợ các
nhà đầu tư triển khai dự án, sản xuất
kinh doanh có hiệu quả; kiên quyết thu
hôi các dự án chậm triển khai do nguyên
nhân của nhà đầu tư. Đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, nâng cao năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh.
Phát triển mạnh các ngành công
nghiệp có lợi thế, giá trị kinh tế và giá trị
133
gia tăng cao, phát triển các dự án công
nghiệp sử dụng công nghệ hiện đại, tiêu
tốn ít năng lượng, tiết kiệm tài nguyên,
có sức cạnh tranh cao và công nghiệp hỗ
trợ. Theo hướng đó, cần khởi công xây
dựng, đưa vào hoạt động dự án Tổ hợp
Hóa dầu miền Nam; hoàn thiện cơ sở hạ
tầng Khu công nghiệp Phú Mỹ 3; xây
dựng đông bộ hệ thống các cảng biển,
trước hết là hệ thống cảng Cái Mép - Thị
Vải thành cảng trung chuyển quốc tế.
Đầu tư hoàn thiện hạ tầng kết nối hệ
thống cảng với các đường quốc lộ và
đường vành đai, khẩn trương quy hoạch,
đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động
các trung tâm dịch vụ hậu cần cảng biển.
Tập trung rà soát, quy hoạch lại
không gian du lịch hợp lý, xác định rõ
đẳng cấp du lịch của tỉnh để phát triển
các loại hình du lịch sinh thái, lịch sử,
tâm linh, xây dựng văn hóa, môi trường
du lịch văn minh, lành mạnh, an toàn.
Ưu tiên các nhà đầu tư quốc tế đủ năng
lực đầu tư phát triển các dự án du lịch
lớn, có sản phẩm du lịch mới, đặc sắc,
chất lượng phục vụ cao, thúc đẩy phát
triển du lịch của tỉnh, của toàn khu vực
phía Nam và của cả nước. Xây dựng
thành phố Vũng Tàu là đô thị loại I, là
trung tâm du lịch, dịch vụ và hàng hải,
phát triển cảng và khai thác dịch vụ dầu
khí của cả nước; phát triển Côn Đảo
thành Khu du lịch quốc gia hiện đại, đặc
sắc tầm cỡ khu vực và quốc tế, gắn với
tăng cường quốc phòng, an ninh, khu
vực phòng thủ vững chắc, tạo tiềm lực
bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.
Tiếp tục coi trọng phát triển nông
nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới
và quá trình đô thị hóa một cách hợp lý.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp
và nông thôn theo hướng sản xuất hàng
hóa tập trung gắn với ứng dụng công
nghệ cao, từng bước hình thành tổ hợp
nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ
công nghệ cao, liên kết giữa các khâu để
nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm;
khuyến khích để thu hút các doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân đầu
tư vào lĩnh vực này. Đầu tư phát triển
đông bộ hệ thống hạ tầng, ứng dụng công
nghệ hiện đại phục vụ việc nâng cao chất
lượng nuôi trông, khai thác, chế biến,
tiêu thụ sản phẩm có giá trị cao. Hỗ trợ
ngư dân đóng mới, nâng cấp tàu cá, tăng
thêm tàu dịch vụ hậu cần, đẩy mạnh đánh
bắt xa bờ, gắn với việc bảo vệ chủ quyền
biển đảo của nước ta. Có chủ trương, giải
pháp hiệu quả để đẩy mạnh thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới;
phấn đấu đến năm 2020, gần 74% số xã
đạt tiêu chí nông thôn mới và hai huyện
nông thôn mới; nâng cao hơn nữa thu
nhập, chất lượng cuộc sống của người
dân nông thôn, thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa nông thôn và thành thị.
134
Tăng cường quản lý nhà nước về đất
đai, khai thác tài nguyên khoáng sản, bảo
đảm khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm,
gắn với xử lý nghiêm các vi phạm. Triển
khai các chủ trương, biện pháp để ứng
phó với tác động của biến đổi khí hậu;
chống xói lở các khu vực ven biển.
Hai là, cùng với phát triển kinh tế,
cần hết sức quan tâm phát triển đông bộ
các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, xã hội, y
tế, thể thao; khoa học, công nghệ và
thực hiện tốt các chính sách an sinh xã
hội. Đầu tư triển khai có hiệu quả để
nâng cao chất lượng dạy và học ở các
cấp học, các loại hình đào tạo, dạy nghề;
thu hút các trường dạy nghề có uy tín,
chất lượng đến xây dựng cơ sở đào tạo
tại địa phương để phát triển nhanh
nguôn nhân lực chất lượng cao, gắn với
nhu cầu sử dụng. Đẩy mạnh việc thực
hiện chủ trương xã hội hóa, nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo, dạy nghề,
chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể chất,
trình độ văn hóa cho nhân dân và giải
quyết việc làm cho người lao động. Hết
sức chăm lo giải quyết vấn đề phân hóa
giàu nghèo, làm tốt công tác giảm nghèo
bền vững; bảo đảm an sinh xã hội; thực
hiện tốt chính sách người có công, chính
sách dân tộc, tôn giáo.
Ba là, là tỉnh có vị trí chiến lược về
quốc phòng - an ninh, kinh tế, trong bối
cảnh tình hình khu vực và thế giới còn
nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù
địch vẫn tìm mọi cách thực hiện âm mưu
“diễn biến hòa bình”, cùng với việc
thường xuyên giáo dục, nâng cao cảnh
giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân, chủ động phòng ngừa và đấu
tranh với những quan điểm sai trái, tự
diễn biến, tự chuyển hóa, Đảng bộ tỉnh
cần thường xuyên chỉ đạo củng bố, tăng
cường tiềm lực an ninh, quốc phòng, xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn
với thế trận an ninh nhân dân vững chắc,
nhất là trên tuyến biển, đảo. Thực hiện
tốt việc bảo vệ an ninh quốc gia, chủ
quyền biển đảo, phòng, tránh thiên tai,
tìm kiếm cứu nạn, bảo vệ nhân dân sản
xuất trên biển; tuân thủ nghiêm pháp luật
quốc tế. Đưa công tác phòng, chống tội
phạm, bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn
trật tự an toàn xã hội trở thành nhiệm vụ
thường xuyên của các cấp, các ngành.
Chủ động đấu tranh với các loại vi phạm,
tội phạm và tệ nạn xã hội, kéo giảm tai
nạn giao thông. Mở rộng và chủ động,
tích cực đẩy mạnh các hoạt động đối
ngoại để phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, các cấp ủy đảng cần tập trung
trí tuệ, thời gian, công sức xây dựng
Đảng bộ, củng cố hệ thống chính trị ngày
càng vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng
135
và đội ngũ cán bộ, đảng viên, coi đó là
nhiệm vụ then chốt, nhân tố có ý nghĩa
quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới.
Cần tiếp tục giữ nghiêm kỷ luật và các
nguyên tắc về xây dựng Đảng, đổi mới
phương thức lãnh đạo, thường xuyên tự
phê bình và phê bình; tăng cường xây
dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong
sạch, vững mạnh, phát triển đảng viên
bảo đảm tiêu chuẩn, có chất lượng, nhất
là trong doanh nghiêp ngoài nhà nước.
Tăng cường công tác chính trị tư tưởng;
đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, chú
trọng phát triển và sử dụng người tài, cán
bộ trẻ, cán bộ nữ. Thường xuyên rèn
luyện, giữ gìn phẩm chất và bản lĩnh đi
đôi với phát huy sự chủ động, sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là
người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các
cấp. Tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát, xử lý kiên quyết, nghiêm minh các vi
phạm. Thực hiện có hiệu quả hơn nữa
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về
xây dựng Đảng gắn với Chỉ thị số 03-
CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hô Chí Minh để tạo
chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây
dựng Đảng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị.
Tăng cường và nâng cao chất lượng,
hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí. Nâng cao năng
lực, hiệu quả hoạt động của hội đông
nhân dân, ủy ban nhân dân và các cơ
quan tư pháp, nội chính; xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức liêm
chính, tận tụy, có trách nhiệm cao với
công việc. Đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động của công tác dân vận, của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể theo
hướng thiết thực, hiệu quả. Củng cố
vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc
và đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng
bộ và từng cơ quan, đơn vị.
Năm là, một nhiệm vụ rất quan trọng
của Đại hội là bầu Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015 - 2020. Trên cơ
sở quán triệt sâu sắc nội dung về tiêu
chuẩn, cơ cấu cấp ủy, độ tuổi cấp ủy viên
trong Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ
Chính trị; căn cứ vào tiêu chuẩn và Quy
chế bầu cử trong Đảng, từ thực tiễn của
Đảng bộ, các đại biểu cần nêu cao trách
Phát triển mạnh các ngành công
nghiệp có lợi thế, giá trị kinh tế và giá
trị gia tăng cao; phát triển các dự án
công nghiệp sử dụng công nghệ hiện
đại, tiêu tốn ít năng lượng, tiết kiệm tài
nguyên, có sức cạnh tranh cao và công
nghiệp hỗ trợ.
136
nhiệm, phát huy dân chủ, sáng suốt lựa
chọn bầu những đông chí đủ tiêu chuẩn,
thật sự xứng đáng vào Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh, đảm bảo đủ số lượng, cơ
cấu hợp lý, có sự kế thừa và phát triển, là
trung tâm đoàn kết để lãnh đạo thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh nhiệm kỳ tới. Sáng suốt lựa chọn để
bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII là những đông chí
đại diện, tiêu biểu cho trí tuệ và nguyện
vọng của Đảng bộ tỉnh đóng góp tích cực
vào sự thành công Đại hội Đảng toàn
quốc. Đông thời, Đại hội tập trung trí
tuệ, đóng góp ý kiến thiết thực vào Dự
thảo các văn kiện trình Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII để báo cáo Trung
ương tiếp thu, hoàn thiện.
Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI,
Ban Chấp hành khóa mới tập trung lãnh
đạo các cấp ủy trong Đảng bộ tỉnh sớm
ổn định tổ chức, ban hành quy chế làm
việc, chương trình công tác toàn khoá và
triển khai thực hiện. Chỉ đạo các cơ quan
tham mưu giúp Tỉnh ủy ban hành quy
chế làm việc, chương trình hành động và
tổ chức nghiên cứu, quán triệt, triển khai
thực hiện; chỉ đạo các tổ chức Đảng, cơ
quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị - xã hội cụ thể hoá
Nghị quyết Đại hội thành các nghị quyết,
chỉ thị, các đề án, dự án cụ thể và tổ chức
thực hiện có kết quả trong từng năm và
cả nhiệm kỳ.
Thưa Đại hội!
Phát huy những thành tích, kết quả đã
đạt được trong nhiệm kỳ qua, tranh thủ
thời cơ, thuận lợi, vượt qua thách thức,
nắm vững phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ và định hướng phát triển, mong
rằng Đảng bộ, toàn quân và nhân dân tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ nỗ lực phấn đấu,
với quyết tâm chính trị cao, nêu cao tinh
thần đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng
hợp, sớm đưa Nghị quyết Đại hội lần thứ
VI của Đảng bộ đi vào cuộc sống để Bà
Rịa - Vũng Tàu trở thành tỉnh mạnh về
công nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu cần
cảng và du lịch.
Một lần nữa, chúc các đông chí đại
biểu sức khỏe, hạnh phúc. Chúc Đại hội
Đại biểu Đảng bộ tỉnh thành công tốt
đẹp, Đảng bộ, quân và nhân dân trong
tỉnh cùng với các tỉnh vùng động lực
phía Nam tiếp tục phát triển nhanh, bền
vững, đóng góp tích cực vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
Xã hội Chủ nghĩa.
Xin trân trọng cảm ơn!
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
137
Một số tham luận trình bày tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VI,
nhiệm kỳ 2015-2020
Tăng hiệu quả khai thác hệ thống cảng Cái Mép - Thị Vải và phát triển logistics
(Trích tham luận tại Đại hội của đồng chí Vũ Ngọc Thảo, Bí thư Đảng ủy, Giám
đốc Sở GT-VT)
Theo quy hoạch của Chính
phủ, hệ thống cảng BR-VT là
cụm cảng tổng hợp quốc gia,
cửa ngõ quốc tế (loại IA), đảm
nhận vai trò là cảng trung
chuyển quốc tế, cho tàu có
trọng tải trên 100.000 tấn ra
vào. Toàn bộ hệ thống cảng Bà
Rịa - Vũng Tàu có 57 dự án,
khu vực Cái Mép - Thị Vải có
35 dự án với tổng vốn đăng ký
khoảng 5 tỷ USD, hiện đã đưa
vào khai thác 17 dự án với
công suất khoảng 93 triệu tấn/năm, trong đó có 7
dự án cảng container lớn, với công suất trên 6,8
triệu TEUs/năm.
Lượng hàng qua hệ thống cảng biển của tỉnh
trong các năm qua tăng bình quân khoảng 15%
năm trong đó có cả hàng container. Tuy sản lượng
hàng container qua cảng hàng năm gia tăng, nhưng
hiệu quả khai thác còn thấp. Trung bình mỗi năm có
khoảng 1,2 triệu TEUs/năm, chỉ đạt khoảng 18% so
với công suất hiện có, các cảng dư công suất rất
nhiều. Với vai trò là cảng trung chuyển quốc tế của
quốc gia, do vậy trong tương lai, hệ thống cảng Cái
Mép - Thị Vải cùng với hoạt động dịch vụ hậu cần
cảng (logistics) sẽ mang lại nguôn thu lớn trong các
ngành nghề kinh tế của tỉnh và cũng góp phần vào
sự thịnh vượng chung của khu vực.
Nguyên nhân dẫn đến việc hiệu quả khai thác
các cảng container còn thấp là do sức cạnh tranh
thu hút hàng và thu hút đội tàu đến cảng chưa cao,
cụ thể là:
Thứ nhất, việc thiếu chân hàng là một trong
những nguyên nhân chính của tình trạng thiếu hiệu
quả khai thác cảng như hiện nay. Quy mô đầu tư
138
của các cảng lớn, hiện đại, công
suất cũng như nguôn vốn lớn
nhưng chỉ có ít lượng hàng xuất
nhập, ngoài ra hàng hóa xuất
nhập khẩu khu vực Bà Rịa -
Vũng Tàu chưa cao phần nào
làm giảm sức hấp dẫn so với
khu cảng Tp. HCM.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng
GTVT, hạ tầng kỹ thuật chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển.
Nhiều tuyến đối ngoại chiến
lược vẫn chưa được đầu tư theo
quy hoạch được duyệt, như:
Tuyến đường vành đai 4 thành
phố Hô Chí Minh kết nối cảng
Cái Mép - Thị Vải với quốc lộ
1; đường cao tốc Biên Hòa -
Vũng Tàu; đường sắt cao tốc
Biên Hòa - Vũng Tàu; đường
991B; đường Phước Hòa - Cái
Mép; Cầu Phước An kết nối
đường liên cảng qua Đông Nai
vào đường cao tốc Bến Lức -
Long Thành.
Thứ ba, chưa có các trung
tâm dịch vụ logicstic được bố
trí ngay sau cảng để hỗ trợ các
dịch vụ hoạt động của cảng.
Công tác quy hoạch đang từng
bước được thực hiện, điều đó
làm ảnh hưởng lớn đến hiệu quả khai thác hệ thống
cảng Cái Mép - Thị Vải.
Thứ tư, các dịch vụ công đối với hoạt động
kinh doanh khai thác cảng biển, dịch vụ vận tải
vẫn còn nhiều bất cập. Cơ chế vận chuyển hàng
hóa nội bộ mà không phải thực hiện thủ tục
chuyển cảng cho cụm cảng Cái Mép - Thị Vải
chưa được thông thoáng, chỉ mới được áp dụng
cho 3 cảng thuộc Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn
(TCOT, TCIT và TCCT).
Thứ năm, cơ chế chính sách quản lý điều phối
mang tính cấp vùng chưa được phối hợp đông bộ
và thực thi hiệu quả. Việc đầu tư dàn trải và cạnh
tranh không lành mạnh giữa các cụm cảng trong
hệ thống cảng nhóm 5 làm cho hiệu quả đầu tư
thấp, lãng phí nguôn lực xã hội và ảnh hưởng đến
hiệu quả các dự án đầu tư, đặc biệt đối với đầu tư
nước ngoài. Từ các nguyên nhân hạn chế trên, thời
gian qua, Bộ GTVT và UBND tỉnh đã nghiên cứu
đánh giá và thực hiện nhiều giải pháp bằng những
đề án, quy hoạch quan trọng để tháo gỡ bao gôm:
Bộ GTVT phê duyệt Đề án Nâng cao hiệu quả
quản lý, khai thác cảng biển Nhóm 5 và các bến
cảng khu vực Cái Mép - Thị Vải. UBND tỉnh phê
duyệt Đề án phát triển logistics tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu giai đoạn 2011-2020; phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển ngành logistics tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2014-2020, định hướng
đến năm 2030 và phê duyệt Đề án phát triển hoạt
động cụm cảng trung chuyển quốc tế Cái Mép -
Thị Vải giai đoạn 2013-2020.
139
Từ năm 2013 đến nay,
UBND tỉnh phối hợp với Bộ
GTVT thực hiện nhiều giải
pháp mang lại hiệu quả thiết
thực như:
Trước mắt, thực hiện việc
bình ổn giá dịch vụ xếp dỡ theo
Quyết định 1661/QĐ-BTC
ngày 15-7-2013 của Bộ Tài
chính; Bãi bỏ việc bắt buộc có
ca nô dẹp luông cho tàu vào,
rời cảng khu vực Cái Mép -
Thị Vải; Tổ chức kiểm tra,
giám sát đảm bảo ATGT trong
phạm vi luông hàng hải; Thành
lập văn phòng đại diện của
Cảng vụ Hàng hải Vũng Tàu,
các cơ quan chức năng chuyên
ngành liên quan tại cảng
CMIT; Triển khai thí điểm hệ
thống thông quan điện tử
VNACCS/VCIS; Tiếp xúc làm
việc với doanh nghiệp; Kiến
nghị UBND tỉnh bỏ quy định
thu phí sử dụng hạ tầng KCN
Phú Mỹ I đối với các dự án
cảng biển khu Phú Mỹ...
Về lâu dài, xây dựng hệ
thống các trung tâm logistics,
hạ tầng giao thông kết nối khu
cảng với mạng lưới giao thông
quốc gia cả về đường bộ,
đường thủy, đường sắt để tổ
chức hoạt động vận chuyển hàng hóa đa phương
thức; Khơi thông nạo vét luông lạch cho tàu có tải
trọng lớn ra vào thuận lợi; Tiếp tục thực hiện cải
cách hành chính dịch vụ công; nghiên cứu mô hình
tổ chức quản lý cảng biển; Thực hiện nghiêm quy
hoạch Chính phủ đã phê duyệt với nhóm cảng biển
số 5.
Với các giải pháp thực hiện đã góp phần mang
lại hiệu quả bước đầu, lượng hàng hóa thông qua
cảng Cái Mép - Thị Vải được gia tăng khoảng 15%
so với năm trước; nâng cao vai trò hỗ trợ của cơ
quan quản lý nhà nước tạo cơ chế thông thoáng
cho doanh nghiệp trong các hoạt động liên quan.
Để nâng cao hiệu quả khai thác hệ thống cảng
Cái Mép - Thị Vải và phát triển dịch vụ hậu cần cảng
(logistics) trong những năm tới, chúng tôi đề xuất
thêm các giải pháp như sau:
Tiếp tục phối hợp cùng Bộ GTVT để thực hiện
các giải pháp trong đó xây dựng cơ chế chính sách
quản lý cụ thể đối với hệ thống cảng và logistics;
thực hiện đúng theo quy hoạch được Chính phủ
phê duyệt.
Triển khai các dự án hạ tầng giao thông quan
trọng như: đường sắt và đường cao tốc Biên Hòa -
Vũng Tàu, trước hết là đoạn nối vào cảng Cái Mép
- Thị Vải; cho phép đầu tư cầu Phước An bằng
nguôn vốn ODA của Nhật Bản để kết nối cụm
cảng Cái Mép - Thị Vải với đường cao tốc Bến
Lức - Long Thành; triển khai đầu tư đường 991B,
đường Phước Hòa - Cái Mép; Nghiên cứu chỉnh trị
đông bộ toàn tuyến luông Cái Mép - Thị Vải đảm
bảo độ sâu tuyến luông theo quy hoạch được
duyệt; nghiên cứu chiến lược phát triển vận tải đa
140
phương thức, trong đó chú
trọng phát triển vận tải bằng
đường thủy nội địa, kết nối
đường sắt vào các trung tâm
logistics.
Quy hoạch đầu tư phát
triển dịch vụ hậu cần cảng; tập
trung phát triển hệ thống
logistics theo hướng tập trung,
ưu tiên cho các trung tâm dịch
vụ logistics quy mô lớn sau
cảng; trước mắt nhanh chóng
triển khai lập quy hoạch xây
dựng trung tâm logistics Cái
Mép Hạ để tổ chức triển khai
đầu tư, xúc tiến đầu tư.
Tiếp tục đẩy mạnh công
tác cải cách thủ tục hành chính
cảng biển được dễ dàng, nhanh
chóng, thuận lợi, đặc biệt đối
với các thủ tục của hải quan tại
cảng biển; hỗ trợ các doanh
nghiệp vận tải, cảng biển tiết
kiệm thời gian, chi phí; nghiên
cứu triển khai thông lệ quốc tế
không can thiệp công tác hải
quan vào hàng trung chuyển
quốc tế; nghiên cứu kiến nghị
Chính phủ, Bộ Tài chính cho
phép giảm phí, lệ phí hàng hải,
phí lai dắt để thu hút tàu đến
cảng Cái Mép - Thị Vải.
Nghiên cứu đề xuất với Chính
phủ cơ chế khu thương mại tự do gắn liền với cảng
trung chuyển và thành lập mô hình quản lý cảng
biển và logistics để thực hiện các giải pháp đột phá
cảng trung chuyển Cái Mép - Thị Vải.
Các sở, ngành, địa phương, theo chức năng,
nhiệm vụ của mình chỉ đạo thực hiện quyết liệt các
vấn đề về môi trường, công tác bảo vệ an ninh trật
tự tại các bến cảng; chú trọng công tác đào tạo
nguôn nhân lực tại chỗ phục vụ các cảng biển,
trung tâm logistics trên địa bàn tỉnh.
Cảng biển và dịch vụ hậu cần cảng là lĩnh vực
kinh tế quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, là một trong những trọng tâm của chương
trình tái cơ cấu kinh tế của tỉnh, là ngành kinh tế sẽ
đóng góp vào ngân sách rất lớn trong những năm
tới. Chính vì vậy, những nội dung quan trọng đã
được Báo cáo chính trị Đại hội VI của Tỉnh đảng
bộ đề ra và qua đó các giải pháp nâng cao hiệu quả
khai thác hệ thống cảng Cái Mép - Thị Vải và phát
triển dịch vụ hậu cần cảng (logistics) là nhiệm vụ
lớn của ngành GTVT trong giai đoạn 2016-2020.
Với những tiềm năng to lớn, với những cơ hội
cũng như khó khăn và thách thức. Chúng tôi tin
tưởng rằng với sự quyết tâm chính trị cao nhất của
cả hệ thống trong việc chỉ đạo, điều hành, thực
hiện và giám sát, hệ thống cảng Cái Mép - Thị Vải
sẽ đáp ứng được mục tiêu đầu tư và khai thác, thực
hiện đúng chức năng đã đặt ra cho nó là cảng trung
chuyển quốc tế, trung tâm dịch vụ hậu cần cảng
(logistics) của cả nước và khu vực.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
141
Làm thế nào để thu hút đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ?
.
(Trích tham luận tại Đại hội của đồng chí Bùi Thị Dung, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc
Sở Công Thương)
Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong những tỉnh
được sự quan tâm của Chính phủ về phát triển
ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) sớm nhất cả
nước. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V
xem CNHT là một trong những giải pháp để phát
triển kinh tế của tỉnh. Chủ trương phát triển
CNHT của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và lãnh đạo
UBND tỉnh đã được các cấp, các ngành trong toàn
tỉnh triển khai bằng nhiều hoạt động cụ thể. Năm
2012, UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch phát triển
CNHT giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm
2025, xác định 3 lĩnh vực CNHT ưu tiên phát
triển là: CNHT ngành cơ khí (phục vụ cho ngành
đóng tàu, ngành dịch vụ khai thác và chế biến dầu
khí, ngành chế tạo sản phẩm tiêu dùng), CNHT
ngành điện - điện tử và CNHT
ngành hóa chất. Năm 2013,
UBND tỉnh thành lập Ban điều
hành phát triển CNHT; ban
hành quy trình thủ tục đầu tư
trong lĩnh vực CNHT trên địa
bàn tỉnh; thành lập KCN Phú
Mỹ 3 và KCN Đá Bạc chuyên
thu hút các dự án CNHT. Xác
định Nhật Bản là đối tác chiến
lược để phát triển CNHT, tỉnh
đã tổ chức 7 đoàn xúc tiến đầu
tư kết hợp tổ chức 11 hội thảo,
tham dự 2 diễn đàn kinh tế và 3
cuộc triển lãm tại Nhật Bản;
thiết lập cửa sổ liên lạc của tỉnh
tại Tp. Kawasaki; xây dựng
website tiếng Nhật cung cấp
thông tin về tỉnh cho các doanh
nghiệp Nhật Bản; thành lập Tổ
công tác Japan Desk với sự hỗ
trợ của chuyên gia cố vấn Nhật
Bản; triển khai đào tạo 1.000
công nhân kỹ thuật cho ngành
CNHT… Tuy nhiên, đến nay,
Các doanh nghiệp Nhật Bản tham quan xưởng thực hành
tại trường Cao đẳng nghề BR-VT
142
CNHT của tỉnh vẫn chưa phát triển mạnh.
Nguyên nhân khách quan là cơ chế chính sách
còn thiếu và yếu. Mặc dù hiện nay Chính phủ đã
ban hành nhiều chính sách ưu đãi cho lĩnh vực
CNHT, trong đó tiêu biểu là Quyết định số
12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban
hành ngày 22-2-2011. Quyết định này đã tạo điều
kiện cho các DN trong và ngoài nước hoạt động
trong lĩnh vực này được hình thành. Tuy nhiên,
theo nhiều chuyên gia kinh tế, quyết định này ra
đời nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phát triển CNHT,
nhưng vì nội dung còn chung chung nên thực tế
chưa phát huy tác dụng. Các hỗ trợ ưu đãi cho DN
trong lĩnh vực CNHT được quy định tại Quyết
định này gần như không có gì mới so với chính
sách hỗ trợ DN vừa và nhỏ. Hơn nữa, vì là quyết
định nên hiệu lực pháp luật không đủ mạnh so với
các nghị định và Luật Doanh nghiệp để thúc đẩy
CNHT phát triển.
Nguyên nhân chủ quan về phía DN. Các
doanh nghiệp CNHT hoạt động riêng rẽ, không
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Quá trình sản
xuất còn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập
khẩu từ nước ngoài. Trong một thời gian dài, các
DN tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quen với việc sản
xuất tích hợp theo chiều dọc, mọi khâu của quá
trình sản xuất sản phẩm đều được khép kín trong
nội bộ DN; các DN cung ứng nội địa chưa kết nối
được với các doanh nghiệp nước ngoài, mặc dù
nhu cầu cung cấp nguyên phụ liệu là rất lớn.
Hoạt động sản xuất trong lĩnh vực CNHT của
BR-VT hiện nay còn ở mức thấp, vẫn phụ thuộc
nhiều vào nguyên vật liệu, phụ
tùng nhập khẩu. Một số sản
phẩm CNHT trên địa bàn tỉnh
chủ yếu do các doanh nghiệp
nước ngoài sản xuất và cung
ứng cho thị trường, các doanh
nghiệp trong nước chỉ dừng lại
ở mức độ gia công các linh
kiện, chi tiết theo đơn hàng
nhằm sửa chữa và thay thế một
số linh kiện, phụ tùng hư hỏng
là chính. Nguyên nhân là do các
doanh nghiệp trong nước phần
lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
sản xuất chưa đảm bảo chất
lượng và tiêu chuẩn để gia nhập
thị trường quốc tế. Điều này
dẫn đến chi phí giá thành sản
phẩm cao, không cạnh tranh
được với các sản phẩm nhập
khẩu cùng loại. Lực lượng sản
xuất chủ đạo trong CNHT cũng
chưa hình thành. Lực lượng lao
động cho các ngành công
nghiệp cũng mới tập trung ở
các ngành dầu khí, chế biến
thủy hải sản…, còn các ngành
chế tạo thì hầu như chưa có sự
chuẩn bị cần thiết.
Nguyên nhân chủ quan về
phía tỉnh: Cơ sở hạ tầng chưa
hoàn thiện và triển khai chậm là
143
hạn chế lớn nhất khi tổ chức các hoạt động kêu gọi
các công ty nước ngoài đầu tư. Cụ thể, năm 2011,
Chính phủ đã đông ý lựa chọn KCN Phú Mỹ 3
làm KCN chuyên sâu Việt Nam - Nhật Bản dành
riêng thu hút ngành CNHT với tổng diện tích
999ha. Tuy nhiên, từ đó đến nay gần 4 năm vẫn
chưa hoàn thiện công tác giải phóng mặt bằng.
KCN Đá Bạc (huyện Châu Đức) được tỉnh chọn
làm KCN thu hút nhà đầu tư Nhật Bản trong lĩnh
vực CNHT đến nay đã hơn 2 năm vẫn chưa hoàn
thiện cơ sở hạ tầng. Việc chậm triển khai các KCN
chuyên sâu đã làm mất cơ hội thu hút các nhà đầu
tư Nhật Bản nói riêng và các nhà đầu tư nước
ngoài nói chung. Công tác xúc tiến đầu tư chưa
xác định rõ đối tượng kêu gọi đầu tư và chưa thực
sự tiếp cận được các doanh nghiệp có định hướng
đầu tư vào BR-VT mà chỉ mang tính chất quảng
bá là chính.
Kế thừa những kết quả đã đạt được trong thời
gian qua, khắc phục những hạn chế để ngành
CNHT của tỉnh có bước phát triển mới trong nhiệm
kỳ tới, Sở Công thương xin đề xuất một số giải
pháp sau:
Thứ nhất, xác định sản phẩm CNHT cần tập
trung phát triển. Muốn phát triển ngành CNHT bài
bản, cần giới hạn phạm vi hẹp và chi tiết những
lĩnh vực, sản phẩm CNHT sẽ phát triển ở tỉnh
trong giai đoạn mới, trên cơ sở nhận định rõ và
chính xác lợi thế so sánh so với các tỉnh lân cận.
Xuất phát từ mục tiêu đó, Sở Công Thương đề
xuất sản phẩm CNHT phát triển trong giai đoạn
2016-2020 là CNHT ngành cơ
khí giàn khoan, đóng tàu;
CNHT hóa dầu và CNHT phục
vụ cho hoạt động logistics trên
cơ sở lợi thế so sánh của tỉnh là
có cảng biển, có dầu khí, là cửa
ngõ hướng ra Biển Đông của
vùng Đông Nam Bộ, là trung
tâm điện năng của cả nước.
Thứ hai, giải pháp về cơ
chế, chính sách. Tỉnh cần kiến
nghị Chính phủ và các bộ,
ngành liên quan ban hành chính
sách hỗ trợ cho DN hoạt động
trong lĩnh vực CNHT, đặc biệt
là hỗ trợ về tài chính như cho
vay ưu đãi với lãi suất thấp để
các DN nhỏ và vừa trang bị
máy móc thiết bị; cần có chính
sách miễn giảm thuế đối với các
doanh nghiệp CNHT; ổn định
lãi suất; hỗ trợ cho các DN áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
cụ thể là tiếp cận các máy móc
thiết bị có nhu cầu về sản phẩm
CNHT để các DN tiếp cận dần
bảo đảm sản phẩm CNHT cung
cấp đúng tiêu chuẩn sản phẩm
theo yêu cầu của nhà đầu tư…
Thứ ba, tăng cường vai trò
của Ban điều hành phát triển
144
CNHT và mối liên kết vùng. Thành phần Ban điều
hành cần mở rộng thêm, bao gôm cả DN đầu tư hạ
tầng để tăng cường trách nhiệm, cũng như sự đóng
góp của đối tượng này vào việc phát triển ngành
CNHT. Tăng cường công tác liên kết vùng, đặc
biệt là Tp. Hô Chí Minh và tỉnh Đông Nai để tạo
chuỗi liên kết sản phẩm đủ mạnh cung ứng cho thị
trường trong và ngoài nước.
Thứ tư, mở rộng đối tác nước ngoài trong lĩnh
vực CNHT. Tỉnh ta xác định Nhật Bản là nhà đầu
tư chiến lược trong lĩnh vực CNHT là điều đúng
đắn, tuy nhiên, cần phải mở rộng thu hút các nước
và vùng lãnh thổ khác như: Hàn Quốc, Đài Loan…
Cuối năm 2015, cộng đông kinh tế ASEAN hình
thành, mặt khác hiện nay Hiệp định TPP đã kết
thúc đàm phán, một lợi thế lớn cho Việt Nam nói
chung và tỉnh BR-VT nói riêng là Trung Quốc và
Thái Lan - hai nước có hoạt động CNHT mạnh -
không tham gia trong Hiệp định, do đó, lợi thế cho
việc thu hút ngành CNHT của Việt Nam rất lớn.
Chăm sóc chu đáo các nhà đầu tư đang hoạt động
tại tỉnh, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát
sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, tạo sự tin
cậy, gần gũi giữa các nhà đầu tư với các cơ quan
quản lý, cơ quan chức năng của địa phương.
Thứ năm, phát triển doanh nghiệp CNHT nội
địa. Cần tiến hành điều tra, khảo sát, rà soát một
cách toàn diện các cơ sở sản xuất, làm tiền đề cho
việc xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành CNHT trong
tỉnh. Trên cơ sở điều tra, khảo sát sẽ lựa chọn một
số cơ sở, DN tiềm năng để ưu tiên hỗ trợ thông
qua vườn ươm DN, giúp thay
đổi công nghệ và cơ chế quản
lý, qua đó giúp các DN làm ra
sản phẩm có giá thành hạ, đủ
sức cạnh tranh để tham gia vào
chuỗi giá trị ngành, đủ khả năng
cung ứng cho doanh nghiệp
nước ngoài.
Thứ sáu, giải pháp về
nguôn nhân lực. Nâng cao chất
lượng nguôn nhân lực thông
qua việc triển khai thực hiện
quy hoạch phát triển nguôn
nhân lực cho các ngành CNHT
tỉnh BR-VT đến năm 2020.
Trong đó, tỉnh cần phối hợp
với các trường đại học có uy
tín trong và ngoài nước xây
dựng chương trình đào tạo
nhân lực kỹ thuật cao cho
CNHT, đẩy mạnh đào tạo công
nhân bậc cao, công nhân lành
nghề cho các lĩnh vực CNHT.
Tổ chức các khóa đào tạo về
quản lý, công nghệ, thương
mại... cho các nhà quản lý
doanh nghiệp CNHT.
Thứ bảy, hoàn chỉnh cơ sở
hạ tầng khu công nghiệp. Cần
phải gắn trách nhiệm của các
nhà đầu tư hạ tầng KCN trong
công tác xúc tiến đầu tư để đảm
145
bảo các nhà đầu tư hạ tầng nắm bắt tình hình nhu
cầu đầu tư, những điều kiện về cơ sở hạ tầng. Các
nhà đầu tư hạ tầng KCN phải thường xuyên báo
cáo tiến độ triển khai theo giấy phép đầu tư được
cấp nhằm ràng buộc nhà đầu tư hạ tầng thực hiện
đúng cam kết, đông thời, cơ quan Nhà nước có
thể nắm bắt những khó khăn vướng mắc của nhà
đầu tư để có biện pháp hỗ trợ kịp thời. Song song
đó, UBND các huyện, thành phố cần tập trung hỗ
trợ thực hiện công tác bôi
thường giải phóng mặt bằng,
tạo mặt bằng sạch cho nhà đầu
tư, tránh tình trạng kêu gọi đầu
tư nhưng không đáp ứng các
điều kiện về cơ sở hạ tầng cho
nhà đầu tư. http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Kinh nghiệm trong quy hoạch, quản lý, chỉnh trang đô thị .
(Trích tham luận tại Đại hội của đồng chí Lương Trí Tiên, Bí thư Thành ủy Bà Rịa)
Ngay từ khi thành lập, Bà Rịa được
xác định sẽ là Trung tâm hành chính -
Chính trị của tỉnh. Để đạt được mục tiêu
trên, trong các Nghị quyết các nhiệm kỳ
vừa qua, thành phố Bà Rịa đã tập trung
đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội, chỉnh trang đô thị. Kết quả
là, từ một thị xã, Bà Rịa đã được công
nhận là đô thị loại III (2007), được Bộ
VHTTDL công nhận là thị xã văn hóa
(2010); là thành phố trực thuộc tỉnh
(2012) và tháng 11-2014, thành phố Bà
Rịa được công nhận là đô thị loại II trực
thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Kết quả trong công tác quy hoạch,
quản lý, chỉnh trang đô thị
Về công tác quy hoạch, Đảng bộ
xác định tầm quan trọng của công tác
quy hoạch, nên đã tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác
quy hoạch trong thời gian qua. Năm
1995 đã được phê duyệt đô án quy
hoạch chung 1/10.000, được điều chỉnh
vào các năm 2003 và năm 2012. Đông
thời thành phố đã triển khai các quy
hoạch chi tiết 1/500, 1/1000 và 1/2000
phủ kín trên địa bàn 11/11 phường, xã.
Đến nay, trên toàn địa bàn thành phố đã
có 53 đô án quy hoạch.
Về quản lý quy hoạch, trên cơ sở đô
án 1/10.000 và các đề án quy hoạch chi
tiết đã được thực hiện và căn cứ vào các
quy định của Nhà nước, thành phố Bà
Rịa xây dựng tương đối hoàn chỉnh hành
lang pháp lý trong quản lý quy hoạch,
xây dựng.
Song song với việc ban hành các văn
bản quản lý quy hoạch xây dựng, năm
146
1993 thị xã Bà Rịa thành lập Đội Quy tắc
(trực thuộc Công ty Đô thị Bà Rịa), đến
năm 2013 được UBND tỉnh ban hành
quyết định thành lập Đội trật tự đô thị là
đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND thành
phố. Đây là lực lượng chính giúp Đảng
bộ thành phố trong công tác quản lý trật
tự xây dựng và trật tự đô thị.
Để đảm bảo mỹ quan và sự đông
nhất trong công tác xây dựng, Thành ủy,
UBND thành phố đã triển khai thực hiện
thiết kế mẫu nhà tại các khu dân cư tập
trung như: Khu tái định cư Gò Cát 6,
Khu tái định cư Đông Quốc lộ 56, Khu
tái định cư Công viên 30/4, Khu tái định
cư Đông Mắt Mèo… Riêng các trục
đường chính của thành phố như Cách
mạng tháng Tám, Hoàng Diệu, Võ Thị
Sáu, Phan Đăng Lưu… cũng được triển
khai thiết kế đô thị. Đây là cơ sở để cấp
phép cho người dân triển khai xây dựng.
Công tác xây dựng và chỉnh trang
đô thị
Trong thời gian qua, Tp. Bà Rịa đã
đầu tư xây dựng 137 tuyến đường nội
thị với tổng chiều dài 196,69km. Ở các
xã và vùng ngoại vi thành phố đã đầu tư
được 150 tuyến, tổng cộng 110km
đường bê-tông nhựa, láng nhựa và bê-
tông xi-măng.
Ngoài ra, cây xanh đường phố và các
dải phân cách đang từng bước được cải
tạo, hình thành một hệ thống cây xanh
liên tục và hoàn chỉnh trên các tuyến
phố. Đến nay, trên địa bàn thành phố có
tổng diện tích hoa cỏ kiểng là 29,6 nghìn
m2, 28,1 nghìn cây xanh và 95,3 nghìn
m2 diện tích công viên. Việc quản lý
chăm sóc, duy tu, sửa chữa được thực
hiện thường xuyên.
Thành phố đã triển khai đầu tư xây
dựng bờ kè Sông Dinh, đang triển khai
Công viên Bà Rịa (khu Vạn Kiếp) và
sắp tới xây dựng công viên trước Trung
tâm hành chính - Chính trị tỉnh nhằm tạo
điểm nhấn về cảnh quan đô thị cho
thành phố.
Thành phố Bà Rịa đã triển khai Đề
án đặt tên đường, lắp đặt số nhà giai
đoạn I và giai đoạn II với tổng quỹ tên
đường là 375 tên đường, đến nay đã hoàn
thành toàn bộ việc đặt tên đường theo đề
án được phê duyệt và tạo quỹ tên đường
để phục vụ cho sự phát triển của thành
phố Bà Rịa trong tương lai.
Năm 2014, Tp. Bà Rịa đã thực hiện
ngầm hóa giai đoạn 1 hệ thống lưới điện
trung, hạ thế, viễn thông, truyền hình cáp
trong nội ô thành phố được 18 tuyến
đường với tổng chiều dài hệ thống điện
trung, hạ thế là 11km; hệ thống cáp viễn
thông, truyền hình là 17km. Giai đoạn 2
đang triển khai với chiều dài 10,991km
trên 14 tuyến đường dự kiến hoàn thành
vào cuối năm 2015.
147
Những khó khăn, vướng mắc
Công tác quy hoạch là định hướng
cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, việc
bố trí vốn và mời gọi vào đầu tư đòi hỏi
thời gian dài và rất nhiều khó khăn.
Cho nên nhiều trường hợp đất người
dân được quy hoạch là các công trình
công cộng (như: đường, trường học,
công viên, khu dân cư xây dựng theo dự
án…) nhưng chưa triển khai khiến một
số người dân bức xúc, thắc mắc khiếu
nại nhà nước làm quy hoạch “treo”.
Nhiều quy hoạch chi tiết phân lô khu
dân cư (nhà vườn, nhà phố…) nhưng có
nhiều thửa đất của từng hộ dân không
trùng khớp với việc phân lô theo quy
hoạch, bản thân các hộ không tự thỏa
thuận được, từ đó người dân thắc mắc rất
nhiều trong việc triển khai, quản lý quy
hoạch của địa phương. Vẫn còn một bộ
phận nhỏ người dân vẫn cố tình vi phạm
về quy hoạch xây dựng.
Trong công tác đền bù, giải tỏa,
nhiều hộ dân khó khăn về mặt kinh tế,
chính sách tái định cư, ưu đãi cho người
dân còn bất cập nên khi giải tỏa giao đất
tái định cư, đất ở, một số hộ dân không
đủ điều kiện xây dựng theo quy hoạch
nên thường chuyển nhượng đất tái định
cư, đất ở cho người khác và tìm khu đất
có giá trị chuyển nhượng thấp để mua và
xây dựng nhà (thường là đất bị quy
hoạch các công trình công cộng,…), từ
đó việc quản lý rất khó khăn, phức tạp.
Ngoài ra, khi triển khai quy hoạch
chi tiết, quy hoạch kiến trúc đô thị đòi
hỏi nguôn kinh phí lớn.
Bài học kinh nghiệm và giải pháp
Trước hết phải rà soát, điều chỉnh kịp
thời các đô án quy hoạch không mang lại
hiệu quả và không còn phù hợp với quá
trình phát triển thực tế của địa phương.
Ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình
trọng điểm, các công trình mang tính
chiến lược nhằm xây dựng đô thị của
thành phố phát triển bền vững, văn minh,
hiện đại. Bên cạnh đó không ngừng
chỉnh trang, duy tu, sửa chữa các công
trình công cộng để đảm bảo ngày một tốt
hơn. Đầu tư xây dựng hạ tầng phải đi
trước một bước trong quá trình phát triển
đô thị.
Để xây dựng và phát triển thành phố
đúng theo quy hoạch được phê duyệt cần
phải có các quy định, quy chế cụ thể cho
từng khu vực, tuyến đường. Đông thời
cũng cần phải có lực lượng tăng cường
công tác kiểm tra, xử lý nghiêm và dứt
điểm các trường hợp xây dựng trái phép,
không phép, sai nội dung giấy phép được
cấp, phá vỡ kiến trúc, quy hoạch. Phải xử
lý cương quyết, kịp thời các vi phạm để
nâng cao ý thức chấp hành trong xây
dựng của người dân, từng bước hạn chế
vi phạm. Công tác quản lý, chỉnh trang
148
đô thị phải thực hiện thường xuyên; tập
trung xây dựng các phường đạt chuẩn
văn minh đô thị và thành phố đạt chuẩn
văn minh đô thị.
Đề xuất, kiến nghị
Xác định đầu tư xây dựng thành phố
Bà Rịa là đầu tư cho tỉnh trước một
bước, nên để thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ thành phố Bà Rịa lần thứ V
“Phấn đấu đến năm 2020, thành phố Bà
Rịa cơ bản đạt các tiêu chí của đô thị loại
I”, kiến nghị Tỉnh ủy, UBND tỉnh đưa
nhiệm vụ trên vào Nghị quyết Đảng bộ
tỉnh, chương trình mục tiêu cấp tỉnh và
có biện pháp hỗ trợ Bà Rịa các điều kiện
về vốn để thực hiện. Đối với các tiêu chí
còn lại của đô thị loại II, đề nghị tỉnh
cũng quan tâm bố trí vốn để thành phố
sớm hoàn thành theo đề án đã được
Chính phủ phê duyệt. Bố trí kinh phí
thiết kế kiến trúc đô thị các tuyến đường
mới mở, nhằm đảm bảo mỹ quan đô thị,
xây dựng các tuyến phố đông bộ, khang
trang, hiện đại.
Cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ đối
với các trường hợp giải tỏa được bố trí
tái định cư, vì hiện nay rất nhiều trường
hợp được bố trí giao nhà nhưng không đủ
điều kiện thực hiện nghĩa vụ tài chính
cho Nhà nước. Do đó, để đảm bảo ổn
định đời sống và đảm bảo mỹ quan đô thị
trong việc xây dựng, kiến nghị tỉnh cho
chủ trương thực hiện thu hôi dọc hai bên
tuyến đường khoảng lùi 30m và thực
hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất để
thực hiện đông bộ mỹ quan đô thị đối với
các tuyến đường nói trên.
Các trường hợp giải tỏa gặp khó
khăn về chỗ ở, đề nghị tỉnh có chính sách
hỗ trợ nhà ở xã hội cho các đối tượng
này, tránh trường hợp người dân mua đất
xây dựng nhà tạm, nhà cấp 4 trong các
khu đã được quy hoạch.
Trên địa bàn thành phố hiện nay
chưa có các công trình là điểm nhấn, tạo
vẻ mỹ quan cho đô thị, kiến nghị tỉnh
quan tâm đầu tư các tượng đài trên các
công viên, các vòng xoay trên các tuyến
đường chính và nhanh chóng đầu tư các
công viên đã được quy hoạch như: Công
viên Bà Rịa, Công viên rừng ngập mặn.
Trong thời gian qua, khi cấp phép
xây dựng và quản lý xây dựng đều có
quy định về cốt cao độ về xây dựng (cao
hơn vỉa hè 0,2m), nhưng người dân khi
triển khai xây dựng đều cố tình xây dựng
cao độ cao hơn làm mất vẻ mỹ quan đô
thị. Nguyên do khi duy tu sửa chữa
đường, Nhà nước không giữ cao trình cũ.
Kiến nghị trong thời gian tới đây, khi
duy tu sửa chữa các tuyến đường đã
được xây dựng phải đảm bảo giữ nguyên
cao trình cũ.
Một số công trình giao thông khi đầu
tư xây dựng cao trình chưa phù hợp với
địa hình từng đoạn, từng vị trí và không
149
đảm bảo cao trình trong quy hoạch đã
được phê duyệt dẫn đến khi đầu tư xây
dựng xong, nhiều công trình nhà dân,
công trình công cộng thấp nhiều so với
mặt đường. Kiến nghị khi đầu tư xây
dựng cần xem xét cụ thể địa hình, quy
hoạch đã được phê duyệt.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở .
(Trích tham luận tại Đại hội của đồng chí Bùi Chí Thành, Bí thư Huyện ủy Châu Đức)
Trong những năm qua, Huyện ủy
Châu Đức và các cấp ủy trực thuộc đã
từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo
Mặt trận, đoàn thể; tăng cường kiểm tra
về thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng về công tác vận động quần chúng;
lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền các cấp
phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể
trong việc tuyên truyền, vận động nhân
dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị,
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn...
Định kỳ, tổ chức giao ban Mặt trận, các
đoàn thể để lắng nghe ý kiến, kịp thời
tháo gỡ khó khăn và định hướng hoạt
động của Mặt trận, các đoàn thể; tạo điều
kiện để Mặt trận, các đoàn thể phát huy
vai trò, chức năng của mình, hoạt động
hiệu quả; quan tâm củng cố, kiện toàn tổ
chức bộ máy Mặt trận, các đoàn thể,
phân công cấp ủy viên có năng lực, phẩm
chất đạo đức, uy tín trực tiếp tham gia,
phụ trách Mặt trận, các đoàn thể.
Thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo sơ kết,
tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng về công tác Mặt trận,
đoàn thể; rà soát chất lượng về tổ chức
và hoạt động để đánh giá những mặt làm
được, những hạn chế, nguyên nhân và
rút kinh nghiệm, đông thời đề ra những
giải pháp tiếp tục chỉ đạo thực hiện
trong thời gian tới.
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng về công tác vận động quần chúng,
Các đoàn thể tích cực hướng dẫn người dân
chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm nâng cao
đời sống. Trong ảnh: Học tập kinh nghiệm
trồng tiêu tại Châu Đức.
150
Mặt trận, các đoàn thể từ huyện đến cơ
sở đã có nhiều cố gắng trong hoạt động
và đạt được những kết quả đáng kể; phát
huy được chức năng là cầu nối giữa cấp
ủy, chính quyền và nhân dân; tổ chức
phát động được một số phong trào có
chiều sâu thu hút đông đảo hội viên,
đoàn viên và nhân dân tham gia, trong đó
có phong trào đã đi vào đời sống của
nhân dân như: Cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở
khu dân cư”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày
vì người nghèo” đã khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần đoàn kết của nhân dân trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đoàn kết
giúp nhau giảm nghèo; xây dựng gia
đình, khu phố, thôn, ấp văn hoá; đến nay
có 93,5% số hộ đạt chuẩn gia đình văn
hóa; 87,6% khu phố, thôn, ấp, đạt chuẩn
văn hóa; 5/16 xã, thị trấn đạt danh hiệu
văn hóa, chiếm 31,25%. Đặc biệt, Mặt
trận, các đoàn thể cơ sở đã phát huy vai
trò trong việc tuyên truyền, vận động
nhân dân tham gia xây dựng nông thôn
mới với phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ
hưởng”; đến nay đã có 2/14 xã được
công nhận xã nông thôn mới (xã Quảng
Thành và Cù Bị), 2/14 xã đạt 16/19 tiêu
chí (xã Suối Nghệ và Xà Bang), 1/14 xã
đạt 15 tiêu chí (xã Bình Ba), 1/14 xã đạt
13 tiêu chí (xã Xuân Sơn), qua đó, góp
phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu
kinh tế, xã hội, giữ vững quốc phòng, an
ninh của địa phương và cơ sở.
Mặt trận và các đoàn thể trên địa bàn
huyện đã từng bước đổi mới phương
thức hoạt động; đa dạng hoá các hình
thức tập hợp quần chúng, chăm lo củng
cố tổ chức, phát triển thành viên, đoàn
viên, hội viên, xây dựng cốt cán, bôi
dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán
bộ. Đến nay, toàn huyện có 100% tổ
chức Mặt trận cơ sở đạt vững mạnh xuất
sắc; 100% tổ chức các đoàn thể ở cơ sở
đạt tiên tiến, vững mạnh trở lên; tỷ lệ tập
hợp quần chúng vào các tổ chức đoàn thể
đạt 71,11%; giới thiệu cho Đảng kết nạp
100 đông chí là trưởng, phó Ban công tác
Mặt trận, các đoàn thể khu phố, thôn, ấp
vào Đảng. Công tác đào tạo, bôi dưỡng
đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở đã
được Mặt trận, các đoàn thể thực hiện
khá tốt như: phối hợp mở các lớp tập
huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, tổ chức
các hội thi cán bộ giỏi...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đạt được, hoạt động của Mặt trận, các
đoàn thể trên địa bàn huyện vẫn còn
những hạn chế như:
Hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể
ở một số cơ sở còn hình thức, chưa sát
dân. Công tác tuyên truyền giáo dục
151
đoàn viên, hội viên và nhân dân chưa sâu
rộng. Tỷ lệ tập hợp quần chúng vào tổ
chức còn thấp, nhất là trong doanh
nghiệp, vùng đông bào theo đạo, đông
bào dân tộc thiểu số. Tổ chức đoàn thể ở
một số cơ sở còn yếu, chất lượng chính
trị của đoàn viên, hội viên chưa cao.
Hiệu quả một số phong trào, hoạt động
còn thấp; việc sơ kết, tổng kết, nhân điển
hình tiên tiến chưa được quan tâm thực
hiện tốt; vai trò giám sát, phản biện xã
hội của Mặt trận, các đoàn thể ở một số
cơ sở còn mờ nhạt.
Việc tổ chức sinh hoạt các chi đoàn,
chi hội ở một số địa bàn dân cư còn hạn
chế; nội dung sinh hoạt chưa thật sự hấp
dẫn và phù hợp với đoàn viên, hội viên.
Công tác phát triển đảng viên trong các
đoàn thể ở địa bàn khu phố, thôn, ấp còn
rất thấp, số lượng cốt cán khá nhiều,
nhưng chất lượng chưa đạt yêu cầu, tác
dụng còn hạn chế. Cán bộ Mặt trận, các
đoàn thể ở cơ sở đa số lớn tuổi, kiêm
nhiệm, một số nơi còn thiếu về số
lượng, yếu về năng lực, chưa đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Những hạn chế nêu
trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
nhưng chủ yếu là những nguyên nhân
chủ quan như sau:
Nhận thức về đại đoàn kết toàn dân
tộc, về công tác vận động quần chúng
của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ,
đảng viên chưa thật đầy đủ và sâu sắc; có
nơi, còn coi đó là nhiệm vụ của Mặt trận,
các đoàn thể.
Công tác củng cố kiện toàn tổ chức,
cán bộ Mặt trận, các đoàn thể, tuy đã
được quan tâm nhưng chưa chú trọng
làm tốt khâu tuyển chọn, quy hoạch, đào
tạo, bôi dưỡng cán bộ dẫn đến nhiều nơi
hụt hẫng cán bộ. Chế độ, chính sách đối
với cán bộ Mặt trận, các đoàn thể ở cơ sở
chưa thỏa đáng.
Nội dung, phương thức hoạt động
của Mặt trận, các đoàn thể ở cơ sở tuy đã
được đổi mới nhưng chưa đáp ứng với
yêu cầu nhiệm vụ; chức năng đại diện,
chăm lo lợi ích của đoàn viên, hội viên
chưa được phát huy, làm giảm sự hấp
dẫn của đoàn viên, hội viên và nhân dân
đối với tổ chức.
Để nâng cao chất lượng hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cơ sở
trên địa bàn huyện trong thời gian tới;
Huyện ủy Châu Đức xin đề xuất một số
giải pháp chủ yếu sau:
Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công
tác chính trị tư tưởng, quán triệt sâu sắc
tư tưởng Hô Chí Minh và các quan điểm
của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc,
về công tác vận động quần chúng trong
cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và
152
nhân dân, làm cho tất cả cán bộ, đảng
viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân
hiểu biết về chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc; phát huy sức mạnh tổng
hợp của nhân dân tham gia các phong
trào thi đua yêu nước, các cuộc vận
động, nâng cao nhận thức trong cả hệ
thống chính trị, trước hết là Đảng lãnh
đạo và từng cán bộ đảng viên về đại đoàn
kết toàn dân tộc và vai trò, vị trí, ý nghĩa
quan trọng của Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo của cấp ủy Đảng từ huyện đến cơ sở
đối với Mặt trận và các đoàn thể theo
hướng tổng kết thực tiễn, xây dựng
chương trình, kế hoạch thực hiện cụ thể,
phù hợp với từng đối tượng quần chúng.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng,
phát huy vai trò của tổ chức Đảng và
đảng viên trong tổ chức Mặt trận, các
đoàn thể; phân công cán bộ thực sự có
năng lực và uy tín phụ trách công tác
Mặt trận, các đoàn thể. Làm tốt công tác
phát triển Đảng trong đoàn viên, hội
viên, nhất là đối với thanh niên, công
nhân lao động, đoàn viên, hội viên là nữ,
vùng có đông đông bào theo đạo và đông
bào dân tộc thiểu số; xây dựng cốt cán
làm chỗ dựa cho tổ chức và trong các
phong trào cách mạng của quần chúng ở
cơ sở. Phát huy tính chủ động, sáng tạo,
vai trò giám sát, phản biện xã hội và
tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính
quyền trong sạch, vững mạnh của Mặt
trận, các đoàn thể.
Lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền các
cấp, các ngành phối hợp chặt chẽ với
Mặt trận, các đoàn thể trong công tác
tuyên truyền, vận động, phản ánh tâm tư,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân;
tích cực tham gia xây dựng chủ trương,
chính sách, pháp luật; tập hợp động viên
nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
của địa phương, cơ sở. Đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, thực hiện Quy
chế dân chủ, tăng cường tiếp xúc, đối
thoại trực tiếp với nhân dân, định kỳ
nghe ý kiến của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể. Bảo đảm cho Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể làm tốt vai trò kiểm
tra, giám sát đối với hoạt động của chính
quyền, đại biểu dân cử, cán bộ công
chức, đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội, góp
phần xây dựng chính quyền trong sạch,
vững mạnh.
Lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận, các đoàn
thể phải thật sự đổi mới, bám sát các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa
phương, cơ sở. Thường xuyên đi sâu, đi
153
sát cơ sở và từng đối tượng quần chúng,
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, kịp thời phản ánh với cấp ủy, chính
quyền, xem xét giải quyết. Tiếp tục đẩy
mạnh các hoạt động về cơ sở, củng cố
kiện toàn, xây dựng tổ chức thực sự vững
mạnh; đa dạng hoá các hình thức tập hợp
ở thôn, ấp, khu phố, tổ dân cư, vùng có
đông đông bào theo đạo, đông bào dân
tộc thiểu số và trong các doanh nghiệp,
phát triển và nâng cao chất lượng đoàn
viên, hội viên và đội ngũ cốt cán
Trong quá trình thực hiện, thường
xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, theo dõi, đôn
đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rà soát
đánh giá chất lượng tổ chức và hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể trên
địa bàn. Trên cơ sở đó, rút ra bài học
kinh nghiệm và đề ra những nhiệm vụ,
giải pháp cụ thể, khả thi nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể trong thời gian tới.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Làm tốt hơn nữa công tác cán bộ trẻ, cán bộ nữ .
(Trích tham luận tại Đại hội của đồng chí LÊ ĐẶNG NHỰT, Phó Trưởng Ban Tổ
chức Tỉnh ủy)
Công tác cán bộ trẻ, cán bộ
nữ có vai trò quan trọng trong
công tác cán bộ của Đảng. Từ
khi có Nghị quyết số 03/NQ-
HNTƯ ngày 18-6-1997 của Ban
Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về chiến lược
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước,
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ
Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nước, công tác cán bộ trẻ, cán bộ
Bà Nguyễn Thị Yến (đứng giữa), Phó Bí thư Tỉnh ủy, trao đổi
với đại biểu tham dự Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020
154
nữ của tỉnh luôn được Tỉnh ủy
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức thực hiện.
Những năm qua, Tỉnh ủy,
UBND tỉnh ban hành nhiều văn
bản về công tác cán bộ trẻ, cán
bộ nữ. Những chính sách của
tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các cấp ủy Đảng, lãnh đạo
các cơ quan, đơn vị quan tâm
nhiều hơn đến công tác cán bộ
trẻ, cán bộ nữ các cấp, các
ngành đều có kế hoạch cụ thể để
tổ chức thực hiện trong phạm vi
trách nhiệm, quyền hạn của
mình. Kết quả đạt được trong
nhiệm kỳ 2010-2015, số cán bộ
trẻ, cán bộ nữ được giới thiệu
quy hoạch cấp ủy, ban thường
vụ cấp ủy, các chức danh chủ
chốt, các chức danh lãnh đạo
quản lý các cấp được nâng lên
về số lượng, lẫn chất lượng.
Quy hoạch vào cấp ủy các cấp,
cán bộ trẻ chiếm tỷ lệ 18,05%,
cán bộ nữ chiếm tỷ lệ 23,2%;
quy hoạch vào ban thường vụ
cấp ủy các cấp, cán bộ trẻ chiếm
tỷ lệ 4,22%, cán bộ nữ chiếm tỷ
lệ 22,92%; quy hoạch vào các
chức danh chủ chốt các cấp, cán
bộ trẻ chiếm tỷ lệ 22,92%, cán
bộ nữ chiếm tỷ lệ 15,95%; số cán bộ trẻ, cán bộ
nữ được đào tạo, bôi dưỡng 211 đông chí, trong
đó nữ là 22 đông chí, đạt tỷ lệ 10,42%. Đã bố trí
26 cán bộ trẻ, cán bộ nữ vào vị trí các chức danh
lãnh đạo, quản lý: trưởng ngành cấp tỉnh là 8 đông
chí, trong đó nữ là 4 đông chí; phó ngành cấp tỉnh
là 16 đông chí, trong đó nữ là 9 đông chí; chủ
chốt Tỉnh ủy là 1 đông chí (nữ); chủ chốt cấp ủy
huyện là 1 đông chí (trẻ); chủ chốt UBND cấp
huyện 1 đông chí (trẻ). Cán bộ trẻ, cán bộ nữ bố
trí tham gia cấp ủy, các chức danh chủ chốt hầu
hết phát huy tốt năng lực, vai trò, vị trí của mình
trong công tác, góp phần quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương trong thời gian qua.
Tại Đại hội Đảng bộ cơ sở nhiệm kỳ 2015-
2020, tỷ lệ cán bộ trẻ tham gia cấp ủy chiếm
15,1%, cán bộ nữ chiếm 22,7%; Đại hội Đảng bộ
cấp trên cơ sở nhiệm kỳ 2015-2020, tỷ lệ cán bộ
trẻ tham gia cấp ủy chiếm 6,81%, cán bộ nữ
chiếm 15,35%; đối với nhân sự cấp ủy tỉnh nhiệm
kỳ 2015-2020, dự kiến tỷ lệ cán bộ trẻ tham gia
cấp ủy chiếm tỷ lệ 9,71%, cán bộ nữ tham gia cấp
ủy chiếm tỷ lệ 9,71%, có 1 cán bộ nữ dự kiến
tham gia ban thường vụ cấp ủy tỉnh, giữ vị trí chủ
chốt Tỉnh ủy.
Tuy nhiên, thực tế công tác cán bộ trẻ, cán bộ
nữ vừa qua cũng đặt ra nhiều vấn đề cần quan
tâm: Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ ở tất cả các cấp
và hầu hết các ngành, đơn vị thuộc tỉnh còn thấp,
không đạt chỉ tiêu đề ra trong các kỳ đại hội Đảng
và kỳ bầu cử chính quyền các cấp [trong nhiệm kỳ
155
2010-2015: tỷ lệ cấp ủy tỉnh
dưới 40 tuổi đạt 3,64%, cấp
huyện đạt 9,2% (chỉ tiêu là
15%); tỷ lệ HĐND dưới 40 tuổi
ở cấp tỉnh đạt 14%, cấp huyện
đạt 10,1%; tỷ lệ nữ tham gia cấp
ủy tỉnh đạt 7,27%, cấp huyện
đạt 11,08% (chỉ tiêu là 15%), tỷ
lệ nữ tham gia Quốc hội đạt
33,33%, HĐND tỉnh đạt 20%,
HĐND cấp huyện, thành phố
đạt 24,84% (chỉ tiêu là 30%)];
tỷ lệ cơ quan có cán bộ lãnh đạo
là nữ mới đạt 33,8%; đối với các
cơ quan, đơn vị có 30% cán bộ
là nữ mới có 43,1% cơ quan có
cán bộ lãnh đạo là nữ; công tác
bố trí, luân chuyển cán bộ triển
khai chậm; thiếu cán bộ nữ để
bố trí lãnh đạo một số ngành,
thiếu cán bộ trẻ để cơ cấu một
số ngành...
Tại Đại hội Đảng bộ cấp cơ
sở và cấp trên cơ sở nhiệm kỳ
2015-2020, tỷ lệ cán bộ trẻ và
cán bộ nữ có tăng hơn nhưng
so với chỉ tiêu của Trung ương
đề ra và yêu cầu nhiệm vụ của
tỉnh thì vẫn còn thấp, đặc biệt
là đối với cán bộ trẻ, nữ là cán
bộ chủ chốt ở từng cấp vẫn còn
hụt hẫng.
Những hạn chế trong công tác cán bộ trẻ, cán
bộ nữ có các nguyên nhân sau:
Một là, nhận thức của một số cấp ủy địa
phương, thủ trưởng đơn vị về công tác cán bộ trẻ,
cán bộ nữ còn giản đơn, chưa thật sự coi trọng
công tác này; có nơi còn tư tưởng xem nhẹ, tư duy
kiểu cũ với nếp nghĩ sống lâu lên lão làng, thiếu
tin tưởng, đánh giá chưa thật sự khách quan, công
tâm đối với lực lượng trẻ, nữ của cơ quan, đơn vị.
Từ đó, dẫn đến cách làm còn mang tính hình thức,
tự phát, không tuân thủ đúng quy trình, quy định,
hoặc nếu có chỉ dừng lại ở mức độ ngắn hạn, tức
là chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt về bố trí cán bộ
trẻ, nữ ở một thời điểm nhất định, không có tính
lâu dài cho cả một quá trình xây dựng và phát
triển nguôn cán bộ trẻ, cán bộ nữ.
Hai là, một số chương trình, kế hoạch, giải
pháp về công tác cán bộ trẻ, cán bộ nữ đã ban
hành, nhưng nhiều nội dung triển khai chất lượng
thấp; trong quá trình thực hiện còn thiếu đôn đốc,
kiểm tra, bám sát; còn thiếu các giải pháp mang
tính đông bộ, đột phá để thúc đẩy công tác này.
Ba là, cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho
cán bộ nữ được tham gia bình đẳng giới trong các
lĩnh vực hoạt động còn nhiều bất cập; tiền lương
chung chưa phù hợp để tạo động lực thu hút
nguôn cán bộ trẻ, có trình độ cao, xuất sắc vào
làm việc lâu dài trong các cơ quan hành chính, sự
nghiệp; bên cạnh đó, số biên chế và chức danh
lãnh đạo của từng ngành, từng cấp có hạn, ảnh
hưởng đến việc tuyển chọn, bố trí cán bộ trẻ, cán
bộ nữ làm nguôn thay thế.
156
Bốn là, nhiều cán bộ trẻ,
tuy được đào tạo cơ bản, nhưng
còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn
và kỹ năng lãnh đạo, giải quyết
công việc thường lúng túng,
thiếu quyết đoán; nhiều chị em
còn tư tưởng tự ti, an phận,
chưa chủ động phấn đấu vươn
lên để đảm nhiệm vị trí lãnh
đạo, quản lý...
Để nâng cao tỷ lệ và chất
lượng cán bộ trẻ, cán bộ nữ
trong thời gian tới cần tập trung
vào các giải pháp sau:
Tiếp tục quán triệt sâu rộng
về mục đích, yêu cầu, ý nghĩa
công tác cán bộ trẻ, cán bộ nữ
tỉnh trong các ngành, các cấp,
cán bộ, đảng viên. Trước hết
làm cho cấp ủy, người đứng đầu
nhận thức đúng và đổi mới quan
điểm về tính cấp thiết xây dựng
đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ là
yêu cầu của sự phát triển xã hội,
của sự nghiệp cách mạng do
Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo. Người đứng đầu cấp ủy, cơ
quan, đơn vị phải xem đây là
nhiệm vụ thường xuyên để lãnh
đạo, chỉ đạo xuyên suốt cả quá
trình công tác; các thế hệ cán bộ
đi trước cần khắc phục tư tưởng xem nhẹ lớp cán
bộ trẻ, cán bộ nữ, tạo điều kiện hỗ trợ, chia sẻ về
kinh nghiệm công tác, môi trường làm việc thân
thiện giúp cán bộ trẻ, cán bộ nữ phát triển và
trưởng thành.
Đẩy mạnh thực hiện Đề án số 02-ĐA/TU
ngày 7-1-2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về
phát triển nguôn cán bộ trẻ, cán bộ nữ tỉnh giai
đoạn 2013-2015 và định hướng đến năm 2020.
Theo đó, từng cơ quan, đơn vị cụ thể hóa bằng
các kế hoạch, chương trình hành động theo lộ
trình, bám sát với yêu cầu đề án và điều kiện
thực tế của cơ quan, đơn vị mình.
Thực hiện đông bộ các khâu trong công tác
cán bộ: Làm tốt công tác dự báo nhu cầu sử dụng
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp giai đoạn 2015-
2020, giai đoạn 2020-2025 gắn với công tác quy
hoạch cán bộ, làm cơ sở cho việc tính toán xây
dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bôi dưỡng bố
trí, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ một cách khoa
học, chặt chẽ, khắc phục tình trạng hẫng hụt cán
bộ trẻ, cán bộ nữ ở mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng,
HĐND, UBND các cấp. Trên cơ sở quy hoạch
cán bộ nói chung, giới thiệu và đưa vào quy hoạch
những cán bộ trẻ, nữ có trình độ, năng lực, đạo
đức tốt, có triển vọng phát triển ở các ngành, các
cấp. Có kế hoạch đào tạo, bôi dưỡng theo định kỳ
hàng năm, trong đó chú trọng bôi dưỡng kiến thức
về “lãnh đạo, quản lý”, kỹ năng xử lý tình huống,
cập nhật kiến thức chuyên môn… Lựa chọn một
số cán bộ trẻ, cán bộ nữ trong quy hoạch các chức
157
danh chủ chốt để thực hiện việc
luân chuyển nhằm đào tạo,
chuẩn bị nguôn nhân sự kế cận
khi đủ điều kiện. Tạo môi
trường công tác để cán bộ trẻ,
nữ học tập, trưởng thành. Thực
hiện thí điểm chế độ tập sự cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp phòng.
Rà soát bổ sung, sửa đổi
hoàn thiện các quy định của
Tỉnh ủy, UBND tỉnh về công tác
cán bộ và chính sách cán bộ
như: đánh giá, tuyển chọn và sử
dụng cán bộ; về bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại cán bộ; về tiêu chuẩn chức danh cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp…; về chế độ đào tạo,
chế độ thu hút người có trình độ đại học về công
tác tại phường, xã, thị trấn...
Đẩy mạnh hoạt động câu lạc bộ cán bộ trẻ của
tỉnh (đối tượng cán bộ dưới 40 tuổi) là diễn đàn,
là nơi hoạt động, là nơi bôi dưỡng kỹ năng thuyết
trình, quản lý lãnh đạo cho cán bộ trẻ.
Tăng cường kiểm tra công tác cán bộ trẻ, cán
bộ nữ của các cơ quan, đơn vị. Tập trung chỉ đạo
khắc phục những yếu kém trong công tác này ở
một số nơi chưa làm tốt công tác này.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao .
(Trích tham luận tại Đại hội của đồng chí Nguyễn Thanh Giang, Giám đốc Sở GD-ĐT)
Trong những năm qua, được sự quan
tâm của Tỉnh ủy, HĐND, UBND,
UBMTTQVN tỉnh, các sở, ngành và
các địa phương, ngành GD-ĐT tỉnh nhà
đã đạt được nhiều thành tựu đáng trân
trọng. Hệ thống trường lớp, cơ sở vật
chất, thiết bị dạy học từ bậc học mầm
non, phổ thông đến cao đẳng, đại học,
các trường nghề được đầu tư khang
trang, hiện đại, cơ bản đáp ứng tốt nhu
cầu học tập của người dân. Công tác
quản lý giáo dục và xây dựng đội ngũ
có những chuyển biến tích cực. Đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
ngày càng tăng về số lượng, từng bước
được nâng cao về chất lượng, tỷ lệ giáo
viên đạt chuẩn và trên chuẩn là 99%.
Liên tục 5 năm liền, từ năm 2010 đến
nay, ngành GD-ĐT tỉnh được Bộ GD-
ĐT tặng Cờ thi đua xuất sắc.
Chất lượng GD-ĐT ở các cấp học
được ổn định và ngày càng phát triển; tỷ
158
lệ học sinh khá giỏi tăng, tỷ lệ học sinh
yếu kém giảm qua các năm; học sinh giỏi
quốc gia tăng đều qua từng năm; kết quả
của kỳ thi cao đẳng, đại học luôn ở tốp
các tỉnh có chất lượng cao của cả nước.
Chất lượng phổ cập giáo dục được
củng cố và duy trì bền vững: tỉnh được
công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi năm 2003; đạt
chuẩn phổ cập giáo dục THCS năm
2004; đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm
non trẻ 5 tuổi năm 2013, về trước mục
tiêu 2 năm.
Số học sinh, sinh viên của tỉnh được
đào tạo ở các trường và cơ sở đào tạo đã
góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo
của tỉnh từ 55% năm 2010 lên gần 70%
năm 2015, trong đó tỷ lệ lao động qua
đào tạo nghề tăng từ 40,6% năm 2010
lên 56% năm 2015.
Tuy vậy, ngành GD-ĐT tỉnh nhà còn
nhiều bất cập:
Đổi mới căn bản và toàn diện GD-
ĐT bao gôm đổi mới mục tiêu, nội dung,
phương pháp giáo dục, đổi mới các điều
kiện để thực hiện GD-ĐT, đổi mới công
tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều
hành. Thế nhưng, không phải ai cũng có
thể hiểu đúng, hiểu đầy đủ những nội
dung yêu cầu theo tinh thần của Nghị
quyết 29-NQ/TW, trong đó có cả đội ngũ
cán bộ quản lý (CBQL) và giáo viên
trong ngành. Đội ngũ CBQL và giáo viên
đã được đào tạo bài bản, luôn tâm huyết
với nghề, có nhiều cống hiến cho sự phát
triển của ngành. Tuy vậy, trước yêu cầu
và nhiệm vụ mới phải chuyển từ chủ yếu
là dạy kiến thức cho học sinh sang nhiệm
vụ dạy để phát triển tối đa phẩm chất và
năng lực người học. Từ việc đánh giá
học sinh bằng điểm số, sang việc đánh
giá học sinh chủ yếu bằng những lời
nhận xét. Thói quen truyền thống của
nhà giáo là dạy nhằm cung cấp kiến thức
cho học sinh, bây giờ phải chuyển đổi
phương pháp giảng dạy để giúp học sinh
tích cực, chủ động, sáng tạo trong học
tập, nhằm phát triển các năng lực riêng
của từng học sinh. Thay đổi một thói
quen xấu đã khó, nay phải thay đổi cả
những thói quen được đánh giá là tốt,
quả không dễ đối với nhà giáo.
Các em học sinh tốt nghiệp THPT
rất lúng túng trong việc chọn trường
nào, ngành nào để thi, để học, sau này ra
Cô và trò trường THPT Trần Nguyên Hãn (Tp.
Vũng Tàu) trong giờ thực hành môn Hóa
159
trường có thể có được việc làm. Tâm lý
của các em học sinh là mong muốn và
luôn sẵn sàng phục vụ tỉnh nhà sau khi
học xong, nhưng không biết được tỉnh
cần những ngành nghề gì sau để có thể
chọn trường, chọn ngành, nghề phù hợp.
Chất lượng đào tạo của các trường
còn nhiều hạn chế. Sinh viên ra trường
kỹ năng làm việc yếu, thiếu các kỹ năng
mềm như ngoại ngữ, kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng giao tiếp… Trình độ kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp được đào tạo
không phù hợp với yêu cầu công việc
của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.
Nhiều trường hợp phải đào tạo lại mới có
thể làm việc được.
Nguyên nhân của những tôn tại, hạn
chế chủ yếu là do: Việc cung cấp thông
tin về nhu cầu việc làm, ngành nghề mà
địa phương cần chưa được thực hiện
một cách đến nơi đến chốn. Công tác dự
báo về nhu cầu lao động và việc làm,
thực hiện còn rất hạn chế. Chưa có sự
phối hợp thường xuyên và hiệu quả giữa
các cơ quan quản lý nhà nước với các
doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo.
Công tác hướng nghiệp từ các trường
phổ thông và trong xã hội còn chung
chung, thiếu hiệu quả. Bệnh thành tích,
bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng
cấp… chậm được khắc phục. Để tiếp tục
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục -
đào tạo, phát triển nguôn nhân lực chất
lượng cao, xin đề xuất một số các giải
pháp sau:
Tiếp tục tuyên truyền để các cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương, đội ngũ
cán bộ quản lý, các nhà giáo, phụ huynh,
học sinh và toàn xã hội hiểu đúng và đầy
đủ chủ trương của Đảng và Nhà nước về
đổi mới căn bản và toàn diện GD-ĐT.
Tuyển chọn, đào tạo, bôi dưỡng đội
ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đủ năng
lực và phẩm chất thực hiện nhiệm vụ đổi
mới. Xây dựng đề án Phát triển và nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu giai đoạn 2016 -2020. Dựa trên
những quy định của Trung ương, tỉnh
cần có những quy định riêng trong tuyển
dụng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo
viên, theo định hướng coi trọng phẩm
chất, năng lực sư phạm kể cả năng lực
ngoại ngữ và tin học. Tổ chức bôi dưỡng
theo định kỳ cho đội ngũ cán bộ quản lý,
giáo viên, giảng viên cập nhật những
kiến thức, kỹ năng giáo dục, đào tạo,
công nghệ, kỹ thuật mới.
Đổi mới các hoạt động dạy của thầy,
học của trò theo định hướng phát huy
tính tích cực chủ động, sáng tạo của
người học. Từng bước tổ chức hiệu quả
dạy học theo mô hình trường học mới
(VNEN) cho học sinh phổ thông đối với
160
các lớp có đủ điều kiện cơ sở vật chất và
năng lực của đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý giáo dục. Triển khai mạnh mẽ
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý và các hoạt động giáo dục, đào tạo và
dạy nghề; lấy ứng dụng công nghệ thông
tin và sử dụng công nghệ dạy học mới
làm khâu đột phá trong đổi mới phương
pháp dạy và học. Triển khai một cách
hiệu quả các đề án: “Dạy và học ngoại
ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân
giai đoạn 2015-2020”, “Dạy tiếng Nhật ở
các trường học trong toàn tỉnh”, “Dạy
tiếng Anh cho người dân Côn Đảo giai
đoạn 2015-2020”. Xây dựng “Đề án dạy
ngoại ngữ cho những người lao động
thuộc các ngành, nghề, các lĩnh vực cần
đến ngoại ngữ của tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu”. Có kế hoạch kết nối, liên kết trong
đào tạo với các cơ sở đào tạo tiên tiến
trong và ngoài nước, đặc biệt các ngành
nghề thuộc lĩnh vực đòi hỏi trình độ cao
mà tỉnh đang cần. Đối với các cơ sở đào
tạo và dạy nghề, phải thực hiện đổi mới
mạnh mẽ phương pháp dạy học theo
hướng cập nhật, nâng cao tay nghề, từng
bước tiếp cận trình độ của các nước tiên
tiến trong khu vực ASEAN và quốc tế.
Đa dạng hóa các phương thức và chương
trình đào tạo nhân lực có tay nghề cao.
Gắn kết giữa Nhà nước, nhà trường
và nhà doanh nghiệp trong đào tạo và
phát triển nguôn nhân lực chất lượng
cao. Các doanh nghiệp, các đơn vị sử
dụng lao động phải có kế hoạch cụ thể về
nhu cầu lao động trong từng thời gian,
từng dự án, đề án (số lượng, chất lượng,
trình độ đào tạo, loại ngành nghề…),
thông tin đến các sở, ngành của tỉnh và
các cơ sở đào tạo. Các sở, ngành của tỉnh
dựa trên những định hướng phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, làm
việc với các doanh nghiệp để xác định
nhu cầu sử dụng lao động cụ thể, tham
mưu Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh xây
dựng kế hoạch sử dụng lao động hàng
năm và 5 năm. Dựa trên Kế hoạch sử
dụng lao động hàng năm và 5 năm, Sở
GD-ĐT phối hợp Sở LĐTBXH và các
sở, ngành của tỉnh tham mưu Tỉnh ủy,
HĐND, UBND tỉnh xây dựng kế hoạch
đào tạo nguôn nhân lực của tỉnh, giao
cho các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh
trực tiếp đào tạo, đông thời làm việc với
các cơ sở đào tạo trong cả nước để thực
hiện nhiệm vụ đào tạo nguôn nhân lực
của tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế, xã hội của tỉnh theo từng giai đoạn cụ
thể. Các cơ sở đào tạo trên địa bàn tìm
hiểu nhu cầu sử dụng lao động của các
doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch đào
tạo hợp lý. Các doanh nghiệp tạo điều
kiện tiếp nhận học sinh đến tham quan
các cơ sở sản xuất, tạo điều kiện để học
161
sinh, sinh viên học nghề được thực tập,
nghiên cứu khoa học trong quá trình học
tập. Các trường phổ thông làm tốt công
tác hướng nghiệp cho học sinh, phối hợp
với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất để
hướng nghiệp cho học sinh, giúp các em
tìm hiểu ngành nghề ở địa phương để
định hướng và chọn nghề ngay từ khi
học phổ thông.
Có chính sách khuyến khích, tạo
động lực cho học sinh tốt nghiệp THPT là
người của tỉnh trúng tuyển vào các trường
Đại học, Cao đẳng đăng ký trở về phục vụ
cho tỉnh. Xây dựng quy hoạch nguôn
nhân lực địa phương và tổ chức thực hiện
khoa học, hợp lý giữa cung và cầu ngắn
hạn và dài hạn. Từ đó xây dựng chính
sách đặc thù của địa phương, hỗ trợ học
bổng cho sinh viên đại học đăng ký trở về
địa phương sau khi tốt nghiệp, thu hút
sinh viên giỏi về công tác tại địa phương,
đông thời bố trí sắp xếp, sử dụng lao động
hợp lý sau khi tốt nghiệp. Có kế hoạch
tuyên truyền, vận động hướng nghiệp cụ
thể đến các em học sinh đang ngôi ở ghế
nhà trường phổ thông (đặc biệt là học
sinh lớp 12). Để các em hiểu về nhu cầu
lao động và những chính sách đặc biệt ưu
tiên của tỉnh khi các em học ở trường đại
học và sau khi tốt nghiệp ra trường.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ đa ngành .
(Trích tham luận tại Đại hội của đồng chí Lê Thị Công, Giám đốc Sở Tài nguyên và
Môi trường)
Thực hiện Nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh nhiệm kỳ 2010-2015,
Tỉnh ủy, HĐND tỉnh,
UBND tỉnh luôn quan tâm
chỉ đạo phát triển kinh tế -
xã hội phải gắn với bảo vệ
và cải thiện môi trường.
Với quan điểm chỉ đạo nêu
trên, công tác bảo vệ môi
trường trên địa bàn tỉnh trong 5 năm qua đã có nhiều
chuyển biến tích cực, bảo đảm thu hút các dự án đầu
tư mới có công nghệ hiện đại, sử dụng tiết kiệm năng
lượng và thân thiện với môi trường, tuyệt đối không
cho phép xả trực tiếp nước thải công nghiệp sau xử lý
vào các nguôn cấp nước của tỉnh; chú trọng đầu tư xử
lý ô nhiễm. Đến nay, đã có 8/9 KCN và 3 cụm công
nghiệp có dự án thứ cấp hoạt động nước thải được thu
gom xử lý tập trung trước khi xả thải; đầu tư 9 lò đốt
chất thải y tế, xây dựng 6 hệ thống xử lý nước thải y
162
tế, đầu tư hạ tầng kỹ thuật
Khu xử lý chất thải tập
trung Tóc Tiên; triển khai
đầu tư hoàn thành dự án thu
gom và xử lý nước thải đô
thị Tp. Vũng Tàu giai đoạn
1. Hoạt động thanh tra về
bảo vệ môi trường từng
bước được tăng cường. Đến
nay, tỉnh đã đình chỉ và tạm
đình chỉ 37 cơ sở sản xuất,
kinh doanh hoạt động gây ô
nhiễm kéo dài. Công tác xã
hội hóa về xử lý chất thải
rắn bước đầu đã đem lại
một số kết quả đáng ghi
nhận. Công tác bảo vệ, bảo
tôn đa dạng sinh học và tôn
tạo cảnh quan môi trường
được quan tâm đầu tư nhiều
hơn, tăng cường bảo vệ các
đôi cát ven biển để hạn chế
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu do mực nước biển
dâng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, cùng với sự
phát triển kinh tế - xã hội, môi trường của tỉnh còn
một số yếu kém, tôn tại, hạn chế chậm được khắc
phục. Cụ thể: Quy hoạch phát triển một số ngành chưa
bảo đảm phát triển bền vững, chưa sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên, quy hoạch phát triển thiếu vành
đai bảo vệ an toàn hoặc gây tác động lẫn nhau trong
khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Ví dụ, cùng
sử dụng tài nguyên nước sông Chà Và nhưng vừa nuôi
trông, vừa chế biến hải sản; quy hoạch khu vực Lộc
An vừa chế biến hải sản vừa phát triển du lịch; quy
hoạch các KCN không có vành đai an toàn đối với khu
dân cư. Song song đó, quản lý sau quy hoạch một số
lĩnh vực chưa tốt, phát triển chưa tuân thủ quy hoạch
nên không có khả năng kiểm soát ô nhiễm môi trường
như phát triển nuôi trông thủy sản trên sông Chà Và.
Việc cấp phép đầu tư trước đây chưa thật sự quan tâm
đến yếu tố phát triển bền vững, chưa chú trọng đến
nguy cơ gây sự cố môi trường, an toàn nguôn nước;
Đoàn thanh tra tỉnh kiểm tra hệ thống xử lý nước thải của DNTN
Tiến Đạt tại khu chế biến hải sản xã Tân Hải (huyện Tân Thành)
163
việc khai thác, tận thu tài
nguyên khoáng sản chưa
chú trọng đến công tác cải
tạo, phục hôi môi trường
trong và sau khai thác; việc
xã hội hóa hoạt động nạo
vét lòng sông đang gây tác
động nhất định đến diễn
biến đường bờ xung quanh
khu vực nạo vét. Ngoài ra,
nhiệm vụ bảo vệ môi
trường chưa được thực
hiện đầy đủ theo phân cấp,
phân định của Luật Bảo vệ
môi trường, nhất là đối với
cấp huyện, công tác hậu
kiểm theo thẩm quyền thực
hiện còn rất hạn chế. Hoạt
động kiểm soát nguôn thải,
nhất là đối với hoạt động
của các KCN, cụm công
nghiệp, các nhà máy hoạt
động có lưu lượng xả thải
lớn còn rất bị động, chưa
kịp thời phát hiện và xử lý
các trường hợp vi phạm.
Những tôn tại, hạn chế
nêu trên do nhiều nguyên
nhân, song chủ yếu xuất
phát từ nhận thức về bảo vệ
môi trường và phát triển
bền vững của một số ngành, địa phương, tổ chức kinh
tế và cộng đông dân cư chưa được đầy đủ, chưa thấy
được tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường,
chưa kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, an sinh xã
hội và bảo vệ môi trường; thiếu nguôn lực tài chính
đầu tư các công trình bảo vệ môi trường, hạ tầng về
môi trường (thu gom, xử lý nước thải; chất thải rắn;
cải thiện môi trường các khu vực bị ô nhiễm). Cơ chế
phối hợp giữa các cấp, các ngành theo phân cấp còn
hạn chế, chưa hiệu quả; nguôn lực đầu tư cho công
tác quản lý môi trường còn hạn chế, thiếu nhân lực
thực thi nhiệm vụ bảo vệ môi trường, nhất là đối với
cấp huyện chưa bố trí đủ biên chế, cấp xã chưa có cán
bộ chuyên trách về bảo vệ môi trường; trang thiết bị
cho công tác kiểm soát ô nhiễm chưa được đầu tư dẫn
đến chưa đủ khả năng thực hiện công tác hậu kiểm,
xử lý kịp thời các vi phạm về bảo vệ môi trường.
Để giải quyết các tôn tại, hạn chế nêu trên, sớm
tạo sự chuyển biến căn bản trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững của
tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015 - 2020, ngành
tài nguyên môi trường nhận thấy một số giải pháp
trọng tâm về bảo vệ môi trường các ngành, các cấp
theo phân cấp của Luật Bảo vệ môi trường cần tập
trung triển khai trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, huy động sức mạnh của toàn dân tham
gia bảo vệ môi trường. Chỉ có sự tham gia tích cực của
mọi tổ chức, mọi gia đình và mỗi người dân, dưới sự
lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự quản lý của Nhà
nước thì công tác bảo vệ môi trường mới đem lại hiệu
164
quả thiết thực. Các cấp ủy
Đảng, các ngành, các cấp
cần tập trung đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục nâng cao ý
thức và trách nhiệm của
mọi người dân trong tỉnh về
bảo vệ môi trường, phát
động phong trào toàn dân
bảo vệ môi trường, đoàn
kết xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở và xây dựng ấp,
khu phố văn hóa.
Thứ hai, tăng cường
chủ động ngăn ngừa, kiểm
soát ô nhiễm môi trường.
Phương châm bảo vệ môi
trường phải lấy phòng ngừa
là chính kết hợp với khắc
phục ô nhiễm và cải thiện
chất lượng môi trường. Vì
vậy, cần tiến hành rà soát,
điều chỉnh, bổ sung các quy
hoạch phát triển bảo đảm
có vành đai an toàn, sử
dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên, tránh gây tác
động đến môi trường tự
nhiên, xã hội do quá trình
phát triển, tăng cường quản
lý sau quy hoạch, bảo đảm
tuân thủ nghiêm ngặt các quy hoạch đã được phê
duyệt và các quy định pháp luật. Quá trình thu hút các
dự án đầu tư mới phải bảo đảm có công nghệ hiện đại,
thân thiện với môi trường theo đúng tinh thần Chỉ thị
số 43/CT-TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Thứ ba, tập trung mọi nguôn lực, đa dạng hóa các
nguôn vốn đầu tư để xử lý ô nhiễm, cải thiện môi
trường tại các khu vực đang bị ô nhiễm kéo dài, tạo
sự chuyển biến rõ nét trong đầu tư bảo vệ môi trường,
trong đó ưu tiên đẩy nhanh tiến độ đầu tư các khu chế
biến hải sản tập trung và các dự án về thu gom, xử lý
nước thải đô thị có mức xả thải cao, đang tác động
lớn đối với môi trường. Phấn đấu trong nhiệm kỳ
hoàn thành Dự án thu gom và xử lý nước thải đô thị
giai đoạn II của Tp. Vũng Tàu; Dự án thu gom và xử
lý nước thải đô thị của Tp. Bà Rịa và Dự án thu gom
và xử lý nước thải đô thị mới Phú Mỹ, huyện Tân
Thành. Đông thời, cần tập trung nguôn lực để triển
khai và hoàn thành các dự án cải thiện môi trường tại
các khu vực đang bị ô nhiễm nghiêm trọng kéo dài
như khu vực kênh Bến Đình, khu vực Cửa Lấp, khu
vực ao Hải Hà...
Thứ tư, công tác bảo vệ môi trường là nhiệm vụ
mang tính đa ngành và liên vùng rất cao, do đó các
ngành, các cấp trong tỉnh cần phối hợp chặt chẽ và chủ
động thực hiện nhiệm vụ theo phân định, phân cấp của
Luật Bảo vệ môi trường. Cấp huyện cần cân đối, bảo
đảm đủ nhân lực thực thi nhiệm vụ bảo vệ môi trường
thuộc thẩm quyền, nhất là đối với công tác hậu kiểm,
kiểm soát các nguôn thải và xử lý các vi phạm theo
quy định.
165
Riêng đối với ngành
tài nguyên và môi trường
sẽ tập trung, chủ động
triển khai các giải pháp
quan trọng sau:
Thứ nhất, nâng cao
hiệu quả công tác thẩm
định báo cáo đánh giá tác
động môi trường đối với
các dự án đầu tư, bảo đảm
các dự án đầu tư sau khi
được phê duyệt tuân thủ
đầy đủ các biện pháp bảo
vệ môi trường, các quy
chuẩn kỹ thuật về bảo vệ
môi trường từ khâu xây
dựng đến khi dự án đi vào
hoạt động.
Thứ hai, đẩy mạnh
công tác điều tra cơ bản về
các nguôn thải, xây dựng
hoàn chỉnh cơ sở dữ liệu
các nguôn gây ô nhiễm.
Đầu tư xây dựng các trạm
quan trắc tự động, đặc biệt
tại các hô cấp nước, các nơi
tiếp nhận nước thải từ các
KCN, cụm công nghiệp,
các khu đô thị để bảo đảm
đủ nguôn lực theo dõi diễn
biến các thành phần môi
trường, kịp thời đề xuất những biện pháp nhằm phòng
ngừa, ngăn chặn và xử lý các nguôn gây ô nhiễm. Yêu
cầu các KCN, cụm công nghiệp có dự án thứ cấp hoạt
động phải đầu tư mới hoặc mở rộng hệ thống xử lý
nước thải tập trung với công suất xử lý tối thiểu bằng
lưu lượng xả thải của các dự án thứ cấp đang hoạt
động và phải lắp đặt thiết bị quan trắc tự động nước
thải các thông số cơ bản theo quy định, kết nối thông
tin từ mạng lưới quan trắc tự động với cơ quan quản lý
Nhà nước các cấp. Đông thời, tăng cường thanh tra,
cương quyết đình chỉ hoạt động các cơ sở gây ô nhiễm
kéo dài, đặc biệt đối với các cơ sở chế biến đang hoạt
động tại khu Tân Hải và Cửa Lấp.
Thứ ba, nghiên cứu các giải pháp khả thi phục hôi
cảnh quan trong hoạt động khai thác khoáng sản và yêu
cầu các tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác khoáng
sản trên địa bàn tỉnh thực hiện các giải pháp bảo vệ môi
trường, phục hôi cảnh quan cho từng điểm mỏ, từng
cụm mỏ trên địa bàn tỉnh, tránh tình trạng các tổ chức,
cá nhân chỉ chú trọng đến khai thác khoáng sản nhưng
không quan tâm đến công tác cải tạo, phục hôi môi
trường; đông thời bảo đảm việc khai thông luông giao
thông thủy phải đảm bảo đúng mục đích, mục tiêu đề
ra, chấm dứt tình trạng lợi dụng chủ trương xã hội hóa
để nạo vét luông nhưng chủ yếu tập trung khai thác tài
nguyên khoáng sản cho nhu cầu san lấp, dẫn đến tình
trạng sạt lở đường bờ trong khu vực bị ảnh hưởng.
Thứ tư, tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực
quản lý môi trường, đảm bảo đủ nhân lực có chuyên
môn, nghiệp vụ thực thi có hiệu quả các nhiệm vụ bảo
vệ môi trường theo quy định của pháp luật. Phối hợp
166
chặt chẽ với các tỉnh, thành
trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam để thống
nhất chương trình hành
động nhằm giải quyết các
vấn đề môi trường mang tính liên vùng như bảo vệ
môi trường lưu vực sông Đông Nai, quản lý và xử lý
chất thải nguy hại.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an ninh trật tự .
(Trích tham luận tại Đại hội của Đại tá Bùi Văn Thảo, Phó Giám đốc Công an tỉnh)
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ V, 5 năm qua, công tác đảm bảo an ninh
- trật tự (ANTT) nói chung và công tác phòng,
chống tội phạm hình sự, ma túy và đảm bảo an
toàn giao thông (ATGT) nói riêng đã đạt được
những kết quả quan trọng, đã huy động được tốt
hơn sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia
vào phòng, chống tội phạm hình sự, ma túy và
bảo đảm ATGT; quản lý chặt hơn các loại đối
tượng; liên tục mở các đợt cao điểm tấn công,
trấn áp tội phạm. Trong 5 năm qua, tội phạm
hình sự giảm 255 vụ (tương đương 6%) so với
giai đoạn 5 năm trước. Án rất nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng giảm mạnh: đã xảy ra
172 vụ, so với 5 năm trước giảm 214 vụ; tỷ lệ
điều tra án đạt tỷ lệ 72,7%, tăng 2,7%. Công an
toàn tỉnh đã phát hiện, bắt giữ 684 vụ (1.099
đối tượng) có hành vi mua bán, tàng trữ, vận
chuyển trái phép chất ma túy; khởi tố 670 vụ
(825 đối tượng); xử lý hành chính 14 vụ (273
đối tượng); thu giữ 810gr hêrôin, 3496gr và
2.292 viên ma túy tổng hợp, 39kg cần sa và 8gr
thuốc phiện...
Tuy nhiên, dù công tác
phòng, chống tội phạm hình sự,
ma túy và bảo đảm trật tự ATGT
đã đạt được những thành tựu quan
trọng nhưng chưa vững chắc, vẫn
còn những tôn tại, đó là: Sự phối
hợp giữa các lực lượng, các cấp,
các ngành trong phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm ở một
số nơi chưa chặt chẽ và hiệu quả
chưa cao, còn tư tưởng phó thác
cho lực lượng Công an; các mô
167
hình, điển hình về phong trào quần chúng bảo vệ
an ninh Tổ quốc (ANTQ) chưa được sơ kết rút
kinh nghiệm để nhân rộng kịp thời. Công tác
dạy nghề tại Trung tâm Giáo dục - lao động và
dạy nghề cho người sau cai nghiện trong thời
gian qua chưa đáp ứng nhu cầu thực tế của xã
hội. Công tác quản lý, hỗ trợ người sau cai
nghiện tại cộng đông có nhiều hạn chế như đối
tượng không hợp tác với chính quyền địa
phương, không có chế tài ràng buộc, đối tượng
về cộng đông thường đi khỏi địa phương để làm
ăn, sinh sống. Lực lượng chuyên trách phòng,
chống tội phạm ở một số địa phương chưa làm
tốt vai trò, trách nhiệm của cơ quan tham mưu,
cũng như vai trò nòng cốt trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm, nhất là cấp cơ sở.
Công tác quản lý địa bàn, đối tượng chưa thực
sự chặt chẽ, tội phạm lưu động từ các địa
phương khác đến hoạt động còn nhiều.
Nguyên nhân, về chủ quan, lực lượng
Công an còn những hạn chế nhất định về năng
lực, tinh thần, trách nhiệm trong công tác; lực
lượng điều tra viên mỏng; một
số lĩnh vực chưa được quan tâm
chỉ đạo đúng mức như về
phong trào quần chúng bảo vệ
ANTQ, đấu tranh phòng ngừa
trộm cắp nhà dân còn hạn chế,
vì vậy tình trạng trộm cắp nhà
dân chiếm tỷ lệ cao, tỷ lệ điều
tra làm rõ còn thấp.
Tình hình hoạt động của các
loại tội phạm, tệ nạn ma túy, tình
hình trật tự ATGT trên địa bàn
tỉnh tiếp tục diễn biến phức tạp,
sẽ có xu hướng gia tăng ở các loại
tội như: trộm cắp tài sản, cố ý gây
thương tích, cướp, cướp giật tài
sản... Đáng lưu ý, tội phạm và vi
phạm pháp luật trong thanh,
thiếu niên diễn biến phức tạp,
các nhóm thanh, thiếu niên hình
thành tự phát, tụ tập, sử dụng
hung khí tự tạo thực hiện hành
vi phạm tội với mức độ nghiêm
trọng hơn; tội phạm ma túy hoạt
động phức tạp, liều lĩnh và manh
động… Để góp phần thực hiện
tốt mục tiêu, nhiệm vụ chính trị
mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
VI đề ra, bảo đảm an ninh trật
tự, kiềm chế, kéo giảm các vụ vi
phạm pháp luật về ma túy, tai
nạn giao thông và tội phạm hình
Tuyên truyền Luật An toàn giao thông đường bộ cho
học sinh
168
sự trên địa bàn tỉnh, Công an tỉnh đưa ra
những giải pháp và kiến nghị sau đây:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo toàn diện
của các cấp ủy Đảng về công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm, ma túy, tai nạn giao
thông. Hàng năm, cấp ủy, chính quyền phải có
Nghị quyết, chương trình hành động, đề ra chỉ
tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực công tác để triển
khai thực hiện. Gắn trách nhiệm của người đứng
đầu trong việc chỉ đạo thực hiện, hoàn thành các
chỉ tiêu về kéo giảm các vụ vi phạm pháp luật về
ma túy, tai nạn giao thông và tội phạm hình sự
tại địa phương.
Hai là, quan tâm chỉ đạo tiến hành đông bộ
các biện pháp công tác phòng ngừa xã hội bao
gôm: đầu tư phát triển các ngành nghề sản xuất,
hỗ trợ, tạo công ăn việc làm cho người lao động,
góp phần xóa đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ thất
nghiệp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của người dân. Tạo môi trường lành mạnh, trong
sạch, không có “đất sống” cho tội phạm và tệ
nạn xã hội.
Ba là, chỉ đạo củng cố, duy trì phong trào
toàn dân bảo vệ ANTQ, làm tốt công tác quản lý
Nhà nước về ANTT, đặc biệt là quản lý, giáo
dục số đối tượng mới nổi, các đối tượng có nguy
cơ cao vi phạm pháp luật, các đối tượng tù tha,
đối tượng có tiền án, tiền sự, đối tượng nghiện
ma túy.
Bốn là, chỉ đạo củng cố, nâng cao vai trò,
trách nhiệm của các đoàn thể, nhất là Mặt trận
Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các
Hội thành viên. Tập trung xây
dựng, củng cố lực lượng nòng cốt
bảo vệ ANTT tại cơ sở, đặc biệt
là Công an xã, thị trấn, lực lượng
bảo vệ dân phố, thôn, ấp… để
làm nòng cốt bảo đảm an ninh trật
tự tại cơ sở.
Năm là, quan tâm xây dựng,
củng cố lực lượng Công an, Quân
sự các cấp, nhất là chính sách cho
Công an xã, thôn, ấp, bảo đảm
điều kiện cơ sở vật chất cho lực
lượng này yên tâm, phấn khởi
công tác.
Sáu là, đề nghị Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội tham mưu
UBND tỉnh chỉ đạo cho các sở,
ngành và địa phương liên quan tập
trung triển khai Kế hoạch về thực
hiện Đề án đổi mới công tác cai
nghiện trên địa bàn tỉnh đến năm
2020; Đề án đưa người nghiện ma
túy không có nơi cư trú ổn định
vào Trung tâm tiếp nhận trong
thời gian hoàn thiện hô sơ để Tòa
án cấp huyện xem xét, quyết định
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
kiện toàn Trung tâm Giáo dục, lao
động và dạy nghề thực hiện đa
chức năng về công tác tổ chức cai
nghiện và điều trị nghiện cho
người nghiện ma túy; nâng cao
169
năng lực, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản
lý, cai nghiện, điều trị nghiện tại các Trung tâm
trên địa bàn tỉnh. Sở Giao thông - Vận tải tiếp tục
kiểm tra, kiểm soát các cơ sở đào tạo, Trung tâm
sát hạch để nâng cao chất lượng, kỹ năng cho
người điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ.
Phối hợp với Công an tỉnh để thống kê các trung
tâm đào tạo có tỷ lệ lái xe vi phạm cao; bổ sung
nội dung đào tạo đạo đức lái xe, thực hành nâng
cao kỹ năng tay lái; nâng cao chất
lượng công tác kiểm định tiêu
chuẩn an toàn kỹ thuật phương
tiện; xử lý nghiêm các hiện tượng
tiêu cực trong công tác kiểm định
phương tiện giao thông.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; Phát huy dân chủ
và sức mạnh đoàn kết toàn dân; Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh; Nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân; Phát triển Bà Rịa - Vũng Tàu
thành tỉnh mạnh về công nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng và du lịch
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V tổ
chức vào cuối năm 2010, trong điều kiện
đất nước có nhiều thuận lợi, các chỉ tiêu
được xây dựng với mức tăng trưởng cao.
Nhưng bước vào đầu nhiệm kỳ, kinh tế
của tỉnh liên tục đối diện với nhiều khó
khăn, thách thức do ảnh hưởng từ khủng
hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới
và suy giảm kinh tế trong nước; lạm
phát, lãi suất tăng cao, tiêu thụ sản phẩm
khó khăn, nhiều doanh nghiệp giải thể,
phá sản, ngưng hoạt động; tình hình Biển
Đông diễn biến phức tạp, các vấn đề tội
phạm, tai nạn giao thông tăng cao đã tác
động đến việc thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội và tư tưởng của cán
bộ, đảng viên, nhân dân trong tỉnh.
Trong bối cảnh đó, với tinh thần
đoàn kết, đổi mới, chủ động, sáng tạo,
Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận, các
đoàn thể, nhân dân và cộng đông doanh
nghiệp trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu,
khắc phục khó khăn, đạt được nhiều
thành quả quan trọng, nhiều chỉ tiêu đạt,
vượt kế hoạch do Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ V đề ra, từng bước khẳng định
vai trò, vị trí của tỉnh trong nền kinh tế
cả nước, góp phần thực hiện có hiệu quả
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
170
I. KIỂM ĐIỂM 5 NĂM 2011-2015
1. Kinh tế duy trì được mức tăng
trưởng hợp lý; cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch đúng hướng tăng dần tỷ
trọng dịch vụ; các ngành công nghiệp,
dịch vụ, nông nghiệp có bước phát triển;
huy động vốn đầu tư toàn xã hội và thu
ngân sách đạt khá
1.1. Trong 10 chỉ tiêu chủ yếu có 5
chỉ tiêu vượt so với Nghị quyết gôm:
dịch vụ du lịch, giá trị xuất khẩu, tổng
thu ngân sách nội địa, giá trị sản xuất
nông nghiệp, tỷ lệ xã đạt tiêu chí quốc
gia về nông thôn mới.
1.2. Cơ cấu kinh tế trừ dầu khí:
Công nghiệp - xây dựng chiếm 54,37%
(giảm 3,1%); dịch vụ chiếm 33,96%
(tăng 1,06%) và nông - lâm - ngư nghiệp
chiếm 11,66% (tăng 2,03%). GRDP bình
quân đầu người trừ dầu khí năm 2015 đạt
5.233 USD.
1.3. Về phát triển công nghiệp
- Cơ cấu ngành công nghiệp đã có sự
chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ
trọng công nghiệp khai thác, tăng dần tỷ
trọng công nghiệp chế biến; sản phẩm
công nghiệp ngày càng đa dạng, có thêm
nhiều sản phẩm mới; một số sản phẩm
công nghiệp đã trở thành nguyên liệu đầu
vào cho các sản phẩm công nghiệp khác;
có 12 sản phẩm sử dụng công nghệ cao,
tiêu tốn ít năng lượng, có sức cạnh tranh,
sức lan tỏa, thu hút công nghiệp hỗ trợ và
các dự án khác.
- Đầu tư phát triển trong các khu
công nghiệp chiếm tỷ lệ cao, quyết định
tốc độ tăng trưởng của ngành công
nghiệp. Toàn tỉnh có 323 dự án công
nghiệp đang hoạt động; trong đó, các khu
công nghiệp có 204 dự án, qua 5 năm
đóng góp cho ngân sách 31,31 ngàn tỷ
đông, thu hút thêm 15.700 lao động,
nâng tổng số lao động trong các khu
công nghiệp lên 48.000 người.
1.4. Phát triển dịch vụ - thương mại
- Hệ thống cảng biển được chú
trọng đầu tư, đã có thêm 4 dự án lớn đưa
vào hoạt động, nâng tổng số dự án cảng
biển đang hoạt động lên 28 với tổng công
suất khoảng 98 triệu tấn/năm; lượng
hàng thông qua cảng bình quân hàng
năm đạt 36 triệu tấn, đặc biệt đã đón
được tàu có trọng tải đến 160.000tấn, đi
thẳng các nước Châu Âu, Châu Mỹ. Hạ
tầng giao thông kết nối hệ thống cảng với
các đường quốc lộ từng bước được hoàn
thiện; đã hoàn thành tuyến đường 965,
nâng cấp Quốc lộ 51; đang đầu tư đường
liên cảng Cái Mép - Thị Vải, chuẩn bị
xây dựng đường 991B, Phước Hòa - Cái
Mép và quy hoạch, chọn nhà đầu tư
Trung tâm Dịch vụ hậu cần cảng Cái
Mép Hạ.
171
- Dịch vụ du lịch tăng trưởng khá,
chất lượng phục vụ được nâng lên; đã
phát triển 12 sản phẩm và 10 tour, tuyến
mới đặc biệt là tour dành cho khách tàu
biển; cơ sở vật chất ngành du lịch được
tăng cường, đã có thêm 50 khách sạn và
khu du lịch đưa vào hoạt động. Hàng
năm, các cơ sở dịch vụ du lịch đón và
phục vụ khoảng 12 triệu lượt khách,
trong đó có khoảng 450 ngàn lượt khách
quốc tế.
- Hệ thống phân phối thương mại
có bước phát triển mạnh mẽ cả về số
lượng và chất lượng, đặc biệt là việc
hình thành, phát triển hệ thống các
siêu thị, trung tâm thương mại và xây
dựng, nâng cấp các chợ truyền thống
(có 3 trung tâm thương mại, 8 siêu thị
và 99 chợ).
- Hoạt động xuất khẩu phát triển
khá, đã có thêm một số mặt hàng xuất
khẩu mới như: thép, kính chất lượng cao,
nhựa, dầu thực vật,…; quy mô các mặt
hàng xuất khẩu trên 100 triệu USD được
mở rộng (thép, cơ khí chế tạo, hải sản
chế biến, vải giả da, da thuộc, dầu thực
vật, giầy da, hạt điều).
- Các ngành dịch vụ khác như: tài
chính, ngân hàng, thông tin truyền
thông, vận tải hàng hóa, hành khách, tư
vấn pháp lý… phát triển mạnh về số
lượng và chất lượng, bảo đảm phục vụ
kịp thời nhu cầu cuộc sống và sản xuất
kinh doanh.
1.5. Về phát triển nông nghiệp và
xây dựng nông thôn mới
- Sản xuất nông nghiệp có nhiều
tiến bộ; tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 37,7%
lên 44%, hình thành các vùng chăn nuôi
tập trung ở một số huyện; ứng dụng khoa
học công nghệ trong lĩnh vực trông trọt
từng bước được nâng lên, cơ cấu cây
trông được chuyển đổi sang những loại
có giá trị cao, góp phần tăng năng suất và
nâng cao giá trị sản phẩm; giá trị sản
xuất trên 1 ha đất đạt 91,2 triệu đông,
tăng 38 triệu đông so với năm 2010.
- Quan tâm đầu tư, cải tạo, nâng
cấp cơ sở vật chất, hạ tầng để phát triển
nông nghiệp, trong đó: kiên cố hóa 184
km kênh mương; hệ thống các công
trình thủy lợi cơ bản bảo đảm nước tưới
cho 18.465ha đất sản xuất nông nghiệp,
tăng 7.115ha so với năm 2010; đã đưa
vào sử dụng công trình Hô chứa nước
Sông Ray với dung tích 215 triệu m3,
cung cấp 535 ngàn m3 nước/ngày đêm
bảo đảm cho nhu cầu sinh hoạt, công
nghiệp, dịch vụ và sản xuất nông nghiệp.
- Cơ cấu khai thác, nuôi trông thủy
sản có giá trị cao được nâng lên; khai
thác thủy sản chuyển mạnh sang đánh bắt
xa bờ với tỷ lệ tàu chiếm 45% tổng số
tàu toàn tỉnh; giá trị sản phẩm trên 1ha
172
mặt nước đạt 150 triệu đông, tăng 57,4
triệu đông so với năm 2010; giá trị xuất
khẩu thủy sản đạt 1,75 tỷ USD, chiếm
15,6% tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh.
Dịch vụ hậu cần thủy sản được quan tâm
đầu tư; có 47 tàu làm dịch vụ hậu cần
nghề cá, tăng 55% so với giai đoạn
trước; hạ tầng kỹ thuật 2 khu chế biến hải
sản tập trung tại huyện Đất Đỏ, Xuyên
Mộc đang được thi công, tại thành phố
Vũng Tàu đang xem xét, cân nhắc kỹ
thêm về địa điểm đầu tư.
- Công tác quản lý, bảo vệ, phòng
chống cháy rừng được chú trọng thực
hiện; đã trông mới được 2.763ha rừng
tập trung, trong đó có 254ha rừng phòng
hộ, đặc dụng, 2.509ha rừng sản xuất;
trông phục hôi, nâng cao chất lượng
600ha rừng phòng hộ, đặc dụng.
- Huy động được gần 5.550 tỷ đông
để thực hiện Chương trình xây dựng
nông thôn mới, trong đó vốn ngân sách
1.880 tỷ đông, chiếm 34,3%; thu nhập
bình quân đầu người ở các xã nông thôn
mới đạt 34 triệu đông/năm; có 18/43 xã
đạt tiêu chí nông thôn mới (đạt 42%,
vượt 22% so với chỉ tiêu Nghị quyết).
1.6. Về đầu tư phát triển
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội đạt 173.909 tỷ đông, gấp 1,8 lần giai
đoạn trước, trong đó vốn ngân sách
chiếm 16%, vốn đầu tư của doanh nghiệp
chiếm 84%; thu hút thêm 219 dự án đầu
tư, gôm 76 dự án đầu tư nước ngoài với
tổng vốn đăng ký 2,4 tỷ USD, 143 dự án
đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký
78.119 tỷ đông.
- Năng lực mới về kinh tế, hạ tầng
kỹ thuật, xã hội từ các nguôn vốn đầu tư
bằng ngân sách và doanh nghiệp tăng
thêm 368 công trình, dự án, trong đó có
một số công trình, dự án lớn.
1.7. Về công tác quản lý quy hoạch,
kiến trúc, xây dựng, đất đai, tài nguyên
và bảo vệ môi trường
- Công tác lập, thẩm định, phê
duyệt, quản lý quy hoạch được chú
trọng; đến nay có 61 quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, ngành, lĩnh vực,
417 đô án quy hoạch xây dựng được lập
và phê duyệt; đã phân công, phân cấp
quản lý quy hoạch đến cơ sở; triển khai
Đề án tái định cư, lập Chương trình phát
triển nhà ở, Chương trình phát triển đô
thị của tỉnh.
- Hoàn thành Quy hoạch sử dụng
đất toàn tỉnh đến năm 2020 và kế hoạch
sử dụng đất 5 năm kỳ đầu 2011 - 2015 ở
cả 3 cấp; cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đạt 95,7% tổng diện tích cần
cấp; đã thu hôi và giải phóng mặt bằng
trên 6.000ha mặt đất, mặt nước để thực
hiện trên 330 dự án đầu tư.
173
- Có 5/7 chỉ tiêu môi trường đạt so
với Nghị quyết: tỷ lệ che phủ cây xanh;
tỷ lệ che phủ rừng; tỷ lệ rác thải y tế
được thu gom, xử lý; tỷ lệ cơ sở sản
xuất mới áp dụng công nghệ sạch hoặc
trang bị các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm
đạt tiêu chuẩn môi trường; tỷ lệ dự án
đầu tư mới trong các khu công nghiệp sử
dụng công nghệ sạch, bảo vệ môi trường.
- Có 7/9 khu công nghiệp đang hoạt
động đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải
tập trung, trong đó có 4 khu công nghiệp
và cụm công nghiệp Ngãi Giao đã lắp đặt
hệ thống quan trắc tự động. Phần lớn rác
thải sinh hoạt đã được xử lý chôn lấp hợp
vệ sinh; đến cuối năm 2015 sẽ hoàn thành
dự án thu gom và xử lý nước thải thành
phố Vũng Tàu, chuẩn bị đầu tư một số dự
án thu gom, xử lý nước thải ở các đô thị.
1.8. Thu, chi ngân sách nhà nước
- Tổng thu ngân sách nhà nước trừ
dầu khí trên địa bàn khoảng 258.466 tỷ
đông, gấp 1,9 lần so với giai đoạn trước,
vượt 19% dự toán. Trong đó, thu thuế
xuất nhập khẩu 111.026 tỷ đông, đạt
107% dự toán; thu nội địa 146.328 tỷ
đông, gấp 2 lần so với giai đoạn trước,
vượt 31% dự toán.
- Tổng chi ngân sách nhà nước
khoảng 57.746 tỷ đông, cơ cấu nguôn chi
hợp lý, chi đầu tư phát triển chiếm
49,7%, chi thường xuyên chiếm 48,3%,
các khoản chi khác chiếm 2%, đáp ứng
được yêu cầu chi cần thiết của tỉnh.
Kinh tế của tỉnh vẫn còn một số hạn
chế, khuyết điểm:
- Có 5/10 chỉ tiêu kinh tế, 2/7 chỉ tiêu
môi trường đạt thấp so với Nghị quyết:
tăng trưởng GRDP trừ dầu khí và tính cả
dầu khí; GRDP trừ dầu khí bình quân đầu
người; giá trị sản xuất công nghiệp trừ dầu
khí và tính cả dầu khí; tổng doanh thu
thương mại - dịch vụ; tổng vốn đầu tư phát
triển; tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải sinh
hoạt, tỷ lệ khu công nghiệp đang hoạt
động hoàn thành hệ thống xử lý nước thải
tập trung.
- Chưa xác định được sản phẩm
công nghiệp chủ lực để thu hút, phát
triển các ngành công nghiệp hỗ trợ còn
hạn chế; thu hút quá nhiều dự án thép sử
dụng nhiều điện, gây ô nhiễm môi
trường; đầu tư hạ tầng các khu, cụm công
nghiệp còn chậm.
- Phát triển kinh tế cảng chưa đông
bộ, tăng trưởng thấp so với quy mô công
suất đã đầu tư; dịch vụ hậu cần cảng và
hạ tầng giao thông kết nối chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển của hệ thống
cảng. Thiếu sản phẩm du lịch để khách
lưu trú dài ngày, các khu du lịch chất
174
lượng cao còn ít, chưa có cảng chuyên
dùng cho tàu khách du lịch, chất lượng
nguôn nhân lực du lịch còn thấp, công
tác quản lý và môi trường du lịch còn
nhiều hạn chế.
- Việc ứng dụng công nghệ cao vào
sản xuất nông nghiệp còn ít; thiếu sự liên
kết chặt chẽ giữa 5 nhà (nhà nước, nhà
nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học,
nhà băng - ngân hàng) để sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp; triển khai xây
dựng các khu chế biến hải sản tập trung
còn chậm.
- Quản lý quy hoạch, xây dựng, đất
đai, bảo vệ và tái tạo rừng tại một số địa
phương chưa tốt, còn để xảy ra vi phạm;
việc công khai quy hoạch chưa đạt yêu
cầu, người dân vẫn còn khó khăn trong
tiếp cận quy hoạch; chất lượng một số
quy hoạch còn thấp, có tình trạng không
thống nhất giữa quy hoạch xây dựng với
các quy hoạch khác; công tác thanh tra,
kiểm tra xây dựng còn hạn chế; tình
trạng xây dựng trái phép, không phép
diễn biến phức tạp, công tác lãnh đạo,
quản lý còn yếu kém nhưng chưa có biện
pháp kiên quyết, đủ mạnh để xử lý; công
tác thu hôi đất, chính sách bôi thường, hỗ
trợ, tái định cư còn bất cập, gây khó khăn
cho việc triển khai các dự án đầu tư.
- Công tác quản lý về cấp phép đầu
tư chưa chặt chẽ; hoạt động thu hút đầu
tư chưa tích cực, chủ động, hiệu quả
không cao, chưa gắn việc thu hút đầu tư
với các giải pháp bảo vệ môi trường, ảnh
hưởng đến phát triển bền vững của tỉnh.
Vốn thực hiện của các dự án do doanh
nghiệp đầu tư thấp chỉ đạt 40,7%, số dự
án chậm triển khai còn nhiều chiếm 26%
tổng số dự án đăng ký; việc xử lý các dự
án chậm triển khai chưa mạnh mẽ; bố trí
đầu tư bằng vốn ngân sách còn dàn trải,
chưa tập trung, lãng phí ở một số loại
công trình; thu tiền sử dụng đất của các
dự án vào ngân sách còn hạn chế.
- Công tác quản lý khai thác tài
nguyên khoáng sản thiếu chặt chẽ, quyết
liệt, dẫn đến khai thác không phép, trái
phép diễn biến phức tạp, gây thất thoát tài
nguyên; còn nhiều mỏ chưa thực hiện
việc cải tạo, phục hôi môi trường sau khai
thác; ô nhiễm môi trường tại một số khu
công nghiệp, các nhà máy thép, các cơ sở
chế biến hải sản, các khu dân cư chậm
được khắc phục.
2. Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y
tế, văn hóa, thể thao được quan tâm đầu
tư, tiếp tục phát triển; các vấn đề xã hội
được tích cực chăm lo; đời sống người
dân tiếp tục được cải thiện
2.1. Có 10/13 chỉ tiêu văn hóa - xã
hội đạt và vượt mức Nghị quyết: mức
giảm sinh, số bác sĩ/vạn dân, tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng, số học sinh
175
phổ thông, tỷ lệ huy động các cháu 5
tuổi và trong độ tuổi đi mẫu giáo, tỷ lệ
hộ nghèo theo chuẩn tỉnh và quốc gia,
giải quyết việc làm cho người lao động,
mức hưởng thụ văn hóa, tỷ lệ người dân
tham gia luyện tập thể dục thể thao
thường xuyên.
2.2. Về giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ
- Công tác giáo dục và đào tạo được
quan tâm đầu tư; đã hoàn thành 42
trường học với vốn đầu tư 4.369 tỷ đông,
nâng tổng số trường học các cấp từ 382
lên 424 trường, trong đó có 187 trường
đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 44,4%;
đã có 12 dự án hoàn thành đưa vào sử
dụng theo hình thức xã hội hóa. Đội ngũ
giáo viên cơ bản bảo đảm số lượng, cơ
cấu và đạt chuẩn về trình độ. Chất lượng
giáo dục và đào tạo được nâng lên; tỉnh
đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ 5 tuổi, giữ vững kết quả phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ
cập giáo dục trung học cơ sở; tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp THPT, thi đậu các trường
đại học, cao đẳng hàng năm đều tăng;
với hệ thống 5 trường đại học, cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp và 34 cơ sở đào
tạo nghề đã từng bước đáp ứng được nhu
cầu học tập của học sinh sau tốt nghiệp.
- Tổng vốn đầu tư từ ngân sách cho
hoạt động khoa học công nghệ là 237 tỷ
đông; hoàn thành 43 đề tài, dự án khoa
học cấp tỉnh, nhiều đề tài, dự án sau
nghiệm thu đã được áp dụng, phát huy
hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội. Nhiều doanh nghiệp đã bỏ vốn đầu
tư đổi mới công nghệ thiết bị và áp dụng
hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến; các
hoạt động sở hữu trí tuệ được triển khai
tích cực, nhiều nhãn hiệu, thương hiệu,
sáng chế, giải pháp hữu ích đã được cấp
bằng bảo bộ.
2.3. Về y tế
Chất lượng khám, chữa bệnh cho
nhân dân từng bước được nâng lên bằng
nhiều giải pháp như: điều động luân
phiên cán bộ y tế, nhận chuyển giao kỹ
thuật từ tuyến trên xuống tuyến dưới;
đưa bác sĩ, y sĩ từ các bệnh viện tuyến
tỉnh xuống khám chữa bệnh tại các xã
vùng nông thôn; đầu tư từ ngân sách
trên 1.950 tỷ đông để xây dựng, mua
sắm trang thiết bị, nâng cấp các cơ sở y
tế; đưa vào sử dụng Bệnh viện Đa khoa
Bà Rịa, Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
cán bộ, Trung tâm Chăm sóc sức khỏe
sinh sản, Trung tâm Y tế các huyện Đất
Đỏ, Xuyên Mộc, Long Điền, qua đó đã
tăng thêm 550 giường bệnh; có 697 cơ
sở khám, chữa bệnh tư nhân hoạt động
khá hiệu quả bằng hình thức xã hội hóa;
hàng năm, các cơ sở y tế đã khám, chữa
bệnh cho trên 2 triệu lượt người. Có 6,5
176
bác sĩ/vạn dân, 49/82 xã, phường, thị
trấn đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã;
công tác phòng, chống dịch bệnh được
chú trọng, không để xảy ra dịch bệnh
trên diện rộng.
2.4. Các hoạt động văn hóa, thể thao
Hoạt động văn hoá, thể thao phục
vụ nhân dân được nâng lên cả về số
lượng và chất lượng: cơ sở vật chất tiếp
tục được hoàn thiện; đã cơ bản hoàn
chỉnh các thiết chế từ tuyến tỉnh đến
huyện, xã; hoàn thành đưa vào hoạt động
Trung tâm Văn hóa và Bảo tàng tỉnh,
Bảo tàng và Đền thờ Côn Đảo, Trung
tâm Văn hóa - Thể thao Tân Thành, Đất
Đỏ và Côn Đảo; mạng lưới câu lạc bộ thể
dục, thể thao ở cơ sở phát triển mạnh,
chủ yếu bằng hình thức xã hội hóa với
hơn 500 câu lạc bộ; phong trào rèn luyện
thể dục thường xuyên ngày càng phát
triển. Các hoạt động biểu diễn nghệ thuật
diễn ra sôi nổi, phong phú, nâng cao mức
hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Hoạt
động tôn giáo, đời sống tín ngưỡng của
nhân dân được tôn trọng, phù hợp với
chính sách của Nhà nước.
2.5. Về thực hiện các chính sách
xã hội
Công tác đào tạo nghề được quan
tâm, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%;
giải quyết việc làm cho 195.450 lượt lao
động, vượt 13% so với Nghị quyết; triển
khai nhiều hoạt động về giảm nghèo đạt
kết quả tích cực, tỷ lệ hộ nghèo theo
chuẩn tỉnh còn 1,32%, theo chuẩn quốc
gia còn 0,47%; phụng dưỡng 100% Mẹ
Việt Nam Anh hùng, gia đình chính sách
được quan tâm, chăm lo, hỗ trợ; công tác
dân tộc và các chương trình, đề án phát
triển kinh tế - xã hội cho đông bào dân
tộc thiểu số được đẩy mạnh, đạt kết quả
tích cực; chế độ, chính sách về bảo hiểm
xã hội, y tế, thất nghiệp cho người lao
động được quan tâm thực hiện.
Các lĩnh vực văn hóa - xã hội vẫn
còn một số hạn chế, khuyết điểm:
- Có 3/13 chỉ tiêu chưa đạt so với
Nghị quyết: tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, tỷ
lệ huy động số cháu đi nhà trẻ, số giường
bệnh/vạn dân.
- Việc đầu tư xây dựng trường học ở
một số địa bàn chưa phù hợp với nhu
cầu, dẫn đến tình trạng có nơi thừa, nơi
thiếu phòng học; công tác đào tạo nguôn
nhân lực chưa gắn với nhu cầu sử dụng,
chất lượng đào tạo chưa cao.
- Việc bố trí vốn đầu tư phát triển
cho khoa học, công nghệ còn hạn chế;
các đề tài, dự án nghiên cứu ứng dụng
tiến bộ khoa học, công nghệ về các lĩnh
vực tiềm năng, thế mạnh của tỉnh như
phát triển công nghiệp, cảng biển, dịch
vụ hậu cần cảng, du lịch còn rất ít.
177
- Nhiều trung tâm văn hóa học tập
cộng đông hoạt động chưa hiệu quả
nhưng chậm được chỉ đạo khắc phục;
còn thiếu không gian, cơ sở vật chất cho
các hoạt động vui chơi, giải trí, thể dục,
thể thao phục vụ nhân dân.
- Chất lượng khám, chữa bệnh chưa
đáp ứng được yêu cầu; nguôn nhân lực y
tế vẫn còn thiếu, nhất là bác sĩ, kỹ thuật
viên có trình độ chuyên môn cao.
- Việc triển khai chủ trương xã hội
hoá các lĩnh vực giáo dục, khoa học,
công nghệ, y tế, văn hoá, thể thao còn
hạn chế, thiếu giải pháp thực hiện.
3. Các vùng kinh tế của tỉnh phát
triển đông bộ, hệ thống các đô thị được
đầu tư, nâng cấp
- Hệ thống hạ tầng các đô thị có sự
cải thiện rõ rệt về chất lượng ở tất cả các
mặt: nhà ở, giao thông, cấp điện, cấp
nước, thoát nước, chiếu sáng, cây xanh…
Thành phố Vũng Tàu được công nhận là
đô thị loại I, thành phố Bà Rịa được công
nhận là đô thị loại II; đô thị mới Phú Mỹ
đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV, đang hoàn
tất hô sơ để thành lập thị xã. Đã hoàn
thành hầu hết các quy hoạch; ban hành
một số cơ chế, chính sách ưu đãi và đầu
tư một số công trình hạ tầng cho huyện
Côn Đảo.
- Hành lang kinh tế công nghiệp -
cảng biển ngày càng phát huy thế mạnh,
với hệ thống đô thị Vũng Tàu, Bà Rịa
và Phú Mỹ; trong khu vực có 28 dự án
cảng biển với công suất khoảng 98 triệu
tấn/năm và 9 khu công nghiệp đang
hoạt động.
- Hành lang kinh tế dọc tuyến đường
ven biển Vũng Tàu, Long Hải, Phước
Hải, Bình Châu tiếp tục được đầu tư phát
triển, từng bước hình thành dải các dự án
du lịch và hậu cần thủy sản.
- Vùng kinh tế nông nghiệp bao
gôm các huyện Châu Đức, Xuyên Mộc,
Đất Đỏ đã hình thành và phát triển các
vùng trông cây chuyên canh, các trang
trại chăn nuôi quy mô lớn và vừa;
chương trình xây dựng nông thôn mới đã
góp phần tích cực vào việc cải thiện cơ
sở hạ tầng và nâng cao thu nhập của
nhân dân.
Việc phát triển các vùng, các huyện
và thành phố vẫn còn một số hạn chế,
khuyết điểm:
- Tiến độ triển khai Đề án Phát triển
Côn Đảo chậm, chưa có cơ chế hiệu quả
để huy động vốn đầu tư cho Côn Đảo.
- Kết quả thực hiện nghị quyết về
phát triển đô thị Vũng Tàu còn hạn chế,
không sử dụng hết vốn đầu tư được phân
bổ, do khó khăn về bôi thường giải
phóng mặt bằng và tái định cư; việc phát
triển đô thị mới Phú Mỹ chưa gắn kết
178
được mục tiêu, nhiệm vụ với kế hoạch
phân bổ, cân đối nguôn lực để thực hiện.
4. Quốc phòng, an ninh được giữ
vững, trật tự an toàn xã hội được bảo
đảm, công tác tư pháp có nhiều chuyển
biến tích cực
- Chất lượng tổng hợp và trình độ
sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ
trang tỉnh được nâng lên, không để bị
động, bất ngờ trong các tình huống;
bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh
biên giới, biển, đảo, cửa khẩu, cảng
biển, tài nguyên và các cơ sở kinh tế
trọng yếu của tỉnh; xây dựng cơ quan
quân sự cấp xã vững mạnh toàn diện,
tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ
hàng năm đạt chỉ tiêu về số lượng,
nâng cao dần chất lượng.
- An ninh chính trị, kinh tế, văn hóa
- tư tưởng, thông tin - truyền thông được
giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo
đảm; kịp thời nắm tình hình, phát hiện,
phối hợp ngăn chặn, xử lý những vụ vi
phạm pháp luật, tranh chấp, khiếu kiện
đông người, không để phát sinh thành
điểm nóng; tập trung chỉ đạo, họp bàn
giải quyết các vụ việc, đơn thư khiếu nại,
tố cáo, đặc biệt là đã giải quyết dứt điểm
20/25 vụ khiếu nại, tố cáo tôn đọng, phức
tạp, kéo dài; triển khai đông bộ các biện
pháp thực hiện chương trình 4 giảm,
giảm được 7,5% số vụ phạm pháp hình
sự, 2,8% số người chết vì tai nạn giao
thông, 20% số vụ mại dâm.
- Công tác cải cách tư pháp có nhiều
chuyển biến tích cực theo tinh thần Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, việc
thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp có hiệu quả hơn, chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa được
nâng lên.
- Công tác điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án hình sự, dân sự, đào tạo, bôi
dưỡng đội ngũ thẩm phán, điều tra viên,
kiểm sát viên, chấp hành viên được tăng
cường, góp phần phòng, chống oan sai và
bỏ lọt tội phạm, bảo đảm các chỉ tiêu,
nhiệm vụ được giao.
Công tác quốc phòng, an ninh, trật
tự an toàn xã hội, công tác tư pháp vẫn
còn một số hạn chế, khuyết điểm:
- Việc cụ thể hóa, triển khai thực
hiện các chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về lĩnh vực quốc phòng,
an ninh ở một số cấp ủy, chính quyền
hiệu quả chưa cao; việc kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng,
an ninh trên từng dự án còn lúng túng.
- Công tác phối hợp giữa công an,
quân sự, biên phòng với các lực lượng
chức năng khác ở một số ít địa bàn trong
thực hiện nhiệm vụ có lúc chưa chặt chẽ,
kịp thời.
179
- Chưa ngăn chặn có hiệu quả việc
lợi dụng phương tiện Internet để tập hợp,
đưa tin, viết bài có nội dung xấu, phản
động, xuyên tạc, bịa đặt.
- Số vụ tai nạn giao thông, vi phạm
pháp luật về ma túy tăng so với cùng kỳ;
trật tự an toàn xã hội trên biển còn nhiều
phức tạp; tình hình ngư dân khai thác hải
sản trên các vùng biển chông lấn, xâm
phạm lãnh hải một số nước, bị bắt giữ
vẫn diễn ra.
- Trong một số vụ án, quan điểm áp
dụng pháp luật giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng có lúc còn thiếu thống nhất
dẫn đến tình trạng án bị trả hô sơ, thời
gian giải quyết kéo dài; số vụ án quá thời
hạn xét xử còn cao; sự phối hợp giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng đôi khi chưa
chặt chẽ; chất lượng và hiệu quả tranh
tụng tại một số phiên tòa còn hạn chế,
nhất là các vụ án dân sự; trình độ, năng
lực của một số cán bộ tiến hành tố tụng
chưa đáp ứng được yêu cầu.
5. Hoạt động đối ngoại được mở
rộng, các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh
được tích cực giới thiệu, quảng bá
Hoạt động đối ngoại và mối quan hệ
hữu nghị, hợp tác với các địa phương
khác ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ
được đẩy mạnh; công tác giao lưu văn
hóa, đối ngoại nhân dân được tăng
cường; đã tiếp hơn 200 đoàn khách quốc
tế đến thăm và làm việc tại tỉnh; ký thỏa
thuận hợp tác với 17 địa phương và tổ
chức nước ngoài. Thông qua hoạt động
đối ngoại các tiềm năng, thế mạnh,
chương trình, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh đã được giới thiệu,
quảng bá, góp phần thu hút nguôn vốn
đầu tư nước ngoài và hỗ trợ các doanh
nghiệp của tỉnh mở rộng thị trường.
Hoạt động đối ngoại còn một số hạn
chế, khuyết điểm: chưa thật sự chủ động,
thiếu sự điều hành thống nhất, chưa có
chương trình, kế hoạch tổng thể về hoạt
động đối ngoại dài hạn; việc ký kết các
thỏa thuận hợp tác còn bị động; nội dung
hợp tác kinh tế chưa nhiều, chưa mang
lại hiệu quả, lợi ích rõ rệt.
6. Hệ thống chính quyền, Mặt
trận, các đoàn thể nhân dân từng bước
được đổi mới và nâng cao chất lượng
hoạt động
- Vai trò, vị thế của HĐND ngày
càng được nâng cao; các kỳ họp được đổi
mới, phát huy quyền và trách nhiệm của
đại biểu; tiếp xúc cử tri được mở rộng
đến nhiều đối tượng; các đại biểu HĐND
ghi nhận và chuyển kịp thời kiến nghị
của cử tri tới các cơ quan chức năng để
xem xét giải quyết; hoạt động giám sát
và kiểm tra việc triển khai, thực hiện các
180
kết luận, kiến nghị sau giám sát được
triển khai tích cực.
- Công tác quản lý nhà nước được
tăng cường, các cấp chính quyền đã tập
trung củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy
theo hướng tinh gọn đầu mối, hiệu quả,
sát nhu cầu thực tiễn; tổ chức thực hiện
thí điểm không tổ chức HĐND, thí điểm
Bí thư cấp ủy đông thời là chủ tịch
UBND tại một số địa phương; quan tâm
đào tạo, bôi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ, lý luận chính trị cho cán bộ, công
chức, viên chức; đẩy mạnh công tác cải
cách hành chính và chế độ công vụ, công
chức; tăng cường tổ chức thanh tra, kiểm
tra công vụ tại các cơ quan, đơn vị; tiến
hành luân chuyển, chuyển đổi vị trí công
tác gần 250 trường hợp.
- Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân
dân các cấp từng bước hoàn thiện về tổ
chức, nội dung, phương thức hoạt động
theo hướng ngày càng cụ thể, thiết thực,
hiệu quả, hướng về cơ sở; thực hiện tốt
công tác tuyên truyền, vận động nhân
dân, nhân sỹ trí thức, chức sắc tôn giáo,
đông bào dân tộc thiểu số ủng hộ, đông
thuận và tích cực thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; các phong trào
thi đua yêu nước, các cuộc vận động
ngày càng thiết thực, có tác dụng sâu,
rộng, góp phần củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Công tác xây dựng chính quyền,
Mặt trận, các đoàn thể nhân dân còn một
số hạn chế, khuyết điểm:
- Số lượng, nội dung các cuộc giám
sát của HĐND chưa bao quát toàn diện
các lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội;
chất lượng, hiệu quả một số cuộc giám
sát chưa cao; việc xem xét, giải quyết các
kiến nghị sau giám sát chậm được thực
hiện; phản hôi kết quả giải quyết kiến
nghị của cử tri có lúc, có việc chưa được
đầy đủ.
- Việc tuân thủ các thủ tục hành
chính tại một số đơn vị chưa tốt; hiệu quả
ứng dụng công nghệ thông tin chưa tương
xứng với quy mô đầu tư; vẫn còn tình
trạng một số cán bộ, công chức nhũng
nhiễu, gây phiền hà cho tổ chức, công
dân, hô sơ giải quyết chậm trễ, tôn đọng;
chất lượng cung cấp các dịch vụ công về
y tế, giáo dục còn hạn chế; sự phối hợp
thực hiện nhiệm vụ mang tính chất liên
ngành có lúc, có nơi chưa tốt.
- Ở một số nơi, nội dung, phương
thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn
thể nhân dân chậm được đổi mới, chưa
sát hợp với từng đối tượng, khu vực, địa
bàn, chưa thu hút được đông đảo thành
viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân
tham gia, hưởng ứng; việc xây dựng các
tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp
ngoài nhà nước còn gặp nhiều khó khăn;
181
số lượng, chất lượng lực lượng cốt cán
còn hạn chế, chưa đạt yêu cầu; việc nắm
bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân chưa kịp thời; công tác tham
mưu cho cấp ủy về chủ trương, giải pháp
thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc, về công tác dân tộc, tôn giáo còn
hạn chế.
7. Công tác xây dựng Đảng được
đặc biệt chú trọng, phương thức lãnh đạo
của Đảng bộ được đổi mới
- Công tác tuyên truyền, quán triệt,
tổ chức thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng được đổi mới; tăng cường
thông tin thời sự; phát huy mạng lưới báo
cáo viên, tuyên truyền viên; quan tâm bôi
dưỡng, đào tạo lý luận chính trị cho cán
bộ, đảng viên, quần chúng ưu tú, đặc biệt
là đoàn viên thanh niên.
- Công tác tổ chức, xây dựng đội
ngũ cán bộ có nhiều chuyển biến tích
cực, hoàn thành quy hoạch cán bộ chủ
chốt tỉnh nhiệm kỳ 2015- 2020; thực hiện
việc điều động, luân chuyển, bố trí sử
dụng cán bộ gắn với công tác bảo vệ
chính trị nội bộ; xây dựng và triển khai
thực hiện Đề án phát triển nguôn cán bộ
trẻ, cán bộ nữ, Quy định tạm thời Bộ tiêu
chí đánh giá cán bộ diện Ban Thường vụ
Tỉnh ủy quản lý.
- Đã thực hiện nhiều giải pháp về
bôi dưỡng, tạo nguôn, kết nạp Đảng viên
mới, nhất là tại những địa bàn, lĩnh vực
có ít đảng viên; xây dựng và tổ chức thực
hiện Đề án kết nạp đảng viên, phát triển
tổ chức Đảng trong doanh nghiệp ngoài
nhà nước; tỷ lệ kết nạp Đảng hàng năm
đạt 7% so tổng số đảng viên; tỷ lệ đảng
viên trong ngành y tế, giáo dục, lực
lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên
đều tăng. Chất lượng sinh hoạt Chi bộ
theo Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí
thư được nâng lên, nội dung, hình thức
sinh hoạt được đổi mới, đi vào nền nếp,
khắc phục dần tính hình thức. Chất lượng
công tác đánh giá tổ chức Đảng, đảng
viên từng bước đúng thực chất hơn; tổ
chức Đảng đạt trong sạch, vững mạnh
hàng năm trên 85%, cơ sở Đảng yếu kém
dưới 0,6%; đảng viên hoàn thành tốt
nhiệm vụ trên 89%.
- Lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ
chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
khoá XI; việc kiểm điểm được chuẩn bị
nghiêm túc, đạt yêu cầu, đúng tiến độ,
bám sát nội dung của Nghị quyết và các
gợi ý của Bộ Chính trị; tập trung phân
tích đánh giá các mặt còn hạn chế yếu
kém, đi sâu phân tích các nguyên nhân,
nhất là nguyên nhân chủ quan với tinh
thần thẳng thắn, trách nhiệm, xây dựng,
từ đó đã xác định những nhóm giải pháp
và các công việc cần tập trung chỉ đạo
khắc phục hạn chế, khuyết điểm. Đến
182
nay, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, các cấp ủy
Đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị đã cơ
bản khắc phục những hạn chế, khuyết
điểm được chỉ ra sau kiểm điểm theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 4.
- Chú trọng các giải pháp nâng cao
hiệu quả việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hô Chí Minh trong toàn
Đảng bộ, cụ thể hóa việc “làm theo” với
thực hiện nhiệm vụ được giao của cá
nhân, tập thể; đưa nhiệm vụ này trở
thành nền nếp thường xuyên, tác động
tích cực đến công tác phòng, chống suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, nâng cao rõ rệt ý thức trách nhiệm,
tính tự giác nêu gương, nói đi đôi với
làm và tinh thần, thái độ phục vụ nhân
dân của cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức.
- Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp
đã tiến hành kiểm tra, giám sát 6.916 tổ
chức Đảng và 19.308 đảng viên, với các
nội dung: tổ chức thực hiện các Chỉ thị,
Nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; phẩm chất
chính trị, đạo đức lối sống; nguyên tắc
tập trung dân chủ và những lĩnh vực dễ
phát sinh tiêu cực. Sau kết luận kiểm tra,
giám sát, các tổ chức Đảng đã triển khai
khắc phục những hạn chế đã chỉ ra. Giải
quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố
cáo đảng viên. Tổ chức bộ máy, đội ngũ
cán bộ kiểm tra các cấp được nâng cao
về số lượng và chất lượng.
- Các cấp ủy Đảng đã có nhiều đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo
công tác dân vận trong tình hình mới;
chính quyền các cấp cải tiến lề lối làm
việc theo hướng gần dân, sát dân, chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân; phong trào thi đua “Dân vận
khéo” đạt được nhiều kết quả thiết thực,
nhiều mô hình, điển hình được xây dựng,
nhân rộng và phát huy tác dụng; hệ thống
dân vận các cấp được xây dựng, củng cố,
kiện toàn và phát huy vai trò trong hoạt
động; 100% tổ dân vận ở địa bàn dân cư
được thành lập và hoạt động nền nếp;
Quy chế dân chủ ở cơ sở được chỉ đạo,
thực hiện nghiêm túc, tạo sự đông thuận
trong xã hội, tăng cường mối quan hệ
gắn bó, mật thiết giữa Đảng, chính quyền
với nhân dân.
Công tác xây dựng Đảng còn một số
hạn chế, khuyết điểm:
- Công tác tư tưởng, thông tin,
tuyên truyền có lúc, có việc chưa đáp
ứng yêu cầu, nhất là nắm bắt, phản bác
lại những thông tin xấu, sai sự thật; hình
thức, nội dung, phương pháp tuyên
truyền chưa phù hợp với từng đối tượng
cụ thể; chất lượng của Báo Bà Rịa -
Vũng Tàu, Đài Phát thanh - Truyền hình
tỉnh chưa được cải thiện; chưa có giải
183
pháp để nắm bắt diễn biến tư tưởng của
cán bộ, đảng viên; kết quả triển khai,
thực hiện Chỉ thị 03 về học tập và làm
theo tấm, gương đạo đức Hô Chí Minh
chưa đông đều, việc gắn thực hiện Chỉ
thị với nhiệm vụ chính trị ở một số đơn
vị, địa phương chưa tốt.
- Công tác quy hoạch, bố trí, sử
dụng cán bộ chưa theo kịp yêu cầu, trong
một số trường hợp bố trí cán bộ không
phát huy được tác dụng; chưa kịp thời
điều chuyển, xử lý những cán bộ yếu
kém, có sai phạm; công tác cải cách hành
chính trong Đảng chậm được thực hiện;
việc tạo nguôn kết nạp đảng viên trong
một số lĩnh vực, việc xây dựng, phát
triển tổ chức Đảng, đảng viên trong
doanh nghiệp ngoài nhà nước, ở địa bàn
dân cư còn khó khăn, đạt tỷ lệ thấp. Ở
một số nơi, kết quả đánh giá chất lượng
tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên còn nể
nang, chạy theo thành tích, chất lượng
sinh hoạt chi bộ theo Chỉ thị số 10-
CT/TW chưa đạt yêu cầu.
- Công tác kiểm tra, giám sát tại
một số cấp ủy, tổ chức Đảng chưa hiệu
quả; một số ủy ban kiểm tra, các ban cấp
ủy các cấp chưa làm tốt chức năng tham
mưu giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo công
tác kiểm tra, giám sát; chưa mạnh dạn đề
xuất với cấp ủy nội dung kiểm tra, giám
sát cấp ủy viên cùng cấp và những lĩnh
vực nổi cộm, bức xúc mà nhân dân quan
tâm, nhất là kiểm tra, giám sát khi có dấu
hiệu vi phạm. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm
tra, giám sát của một số cấp ủy Đảng,
của ngành về phòng, chống tham nhũng
có lúc chưa sâu sát, kịp thời, chưa bám
sát nhiệm vụ chính trị được giao.
- Kết quả đạt được của công tác dân
vận chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm
vụ; việc nắm bắt tâm tư, tình cảm của
một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân để đề xuất giải quyết
những vấn đề phát sinh chưa kịp thời;
công tác dân vận của chính quyền và tổ
chức thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở
một số sở, ngành, địa phương chưa được
coi trọng; một số nguyện vọng và lợi ích
chính đáng của nhân dân chưa được đề
đạt, xem xét, giải quyết kịp thời.
8. Đánh giá tổng quát thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V
5 năm qua, mặc dù phải đối mặt với
nhiều thách thức nhưng Đảng bộ, chính
quyền, quân và dân tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu đã nỗ lực khắc phục khó khăn, đạt
được những thành quả quan trọng, có
56/71 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt so với
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
V đề ra. Kinh tế phát triển đúng hướng;
hệ thống cảng biển được đầu tư mạnh
mẽ; thu hút được nhiều dự án chất lượng
cao; thu ngân sách hàng năm đều vượt kế
184
hoạch, đóng góp lớn cho ngân sách quốc
gia. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có
bước tiến bộ; chất lượng cuộc sống của
nhân dân được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo
giảm mạnh. Quốc phòng, an ninh được
củng cố vững chắc, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội. Đặc biệt chú trọng
công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị; thực hiện có hiệu quả
Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”,
Chỉ thị 10-CT/TW về nâng cao chất
lượng sinh hoạt Chi bộ và Chỉ thị 03-
CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hô
Chí Minh, đáp ứng được yêu cầu nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức Đảng và đảng viên.
Những thành quả đạt được nêu trên
do: Trung ương đã kịp thời đề ra nhiều
chủ trương, cơ chế, chính sách hiệu quả
về ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội; quan tâm chỉ đạo, giải quyết
kịp thời những khó khăn, vướng mắc,
kiến nghị của tỉnh. Đảng bộ tỉnh luôn giữ
vững sự đoàn kết, thống nhất, tạo được
đông thuận cao trong nhân dân đối với
việc triển khai và tổ chức thực hiện các
chủ trương, Nghị quyết của Trung ương
và của tỉnh; cùng sự chủ động, sáng tạo,
bám sát thực tiễn, quyết liệt trong lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành của Tỉnh uỷ,
HĐND, UBND tỉnh; sự nỗ lực phấn đấu,
vượt khó khăn của cả hệ thống chính trị,
của các cấp, các ngành, cộng đông doanh
nghiệp, lực lượng vũ trang và các tầng
lớp nhân dân, quyết tâm thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế,
khuyết điểm, đó là: 15/71 chỉ tiêu chủ
yếu đạt thấp so với Nghị quyết; phát triển
cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng, du lịch
chưa tương xứng với tiềm năng, thế
mạnh; nhiều dự án chậm triển khai
nhưng chưa được thu hôi; công nghiệp
hỗ trợ chậm phát triển; hạ tầng giao
thông kết nối hệ thống cảng chưa đông
bộ; công tác quản lý nhà nước về đất đai,
quy hoạch, xây dựng, môi trường và thu
hút đầu tư còn nhiều sai sót, bất cập;
chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp còn chậm, thu hút nguôn lực xã
hội đầu tư cho phát triển còn hạn chế; cải
cách hành chính chưa đạt yêu cầu, môi
trường đầu tư chậm được cải thiện; văn
hóa - thể thao, xã hội, y tế, giáo dục chưa
đáp ứng nhu cầu của nhân dân; trật tự an
toàn xã hội còn diễn biến phức tạp, số vụ
tai nạn giao thông, vi phạm pháp luật về
ma túy tăng so với cùng kỳ; công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm, hiệu
quả chưa cao; công tác xây dựng Đảng,
chính quyền còn nhiều vấn đề phải tiếp
tục nỗ lực khắc phục; thực hiện kỷ luật,
185
kỷ cương, công vụ và các kết luận sau
kiểm tra, giám sát chưa nghiêm, công tác
dân vận, hoạt động của Mặt trận, các
đoàn thể tuy có nhiều cố gắng nhưng
chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình
hình mới.
Những hạn chế, khuyết điểm trên do
nguyên nhân khách quan từ ảnh hưởng
tiêu cực của khủng khoảng tài chính và
suy thoái kinh tế thế giới, những khó
khăn của kinh tế trong nước; tình hình
phức tạp trên Biển Đông; sản lượng và
giá dầu khí bị sụt giảm; Trung ương chỉ
đạo chưa đủ mạnh để phát triển hệ thống
cảng trung chuyển quốc tế Cái Mép - Thị
Vải, chỉ đạo liên kết phát triển vùng chưa
hiệu quả, đã tác động đến việc thực hiện
các chỉ tiêu, mục tiêu quan trọng của tỉnh
trong nhiệm kỳ qua. Về nguyên nhân chủ
quan do tầm nhìn, khả năng dự báo tình
hình của tỉnh còn hạn chế; việc xây dựng
một số chỉ tiêu, nhiệm vụ chưa sát thực
tế; công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh
ủy, sự điều hành của UBND tỉnh đối với
một số việc còn chậm, chưa thật quyết
liệt, hiệu quả chưa cao; sự phối hợp giữa
các cơ quan, đơn vị, địa phương còn yếu;
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh còn thấp,
nhiều chỉ số chậm được cải thiện; công
tác cán bộ còn nhiều hạn chế, vai trò lãnh
đạo của người đứng đầu và tổ chức đảng
ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương
chưa được phát huy, một bộ phận cán bộ,
đảng viên chưa thật sự gương mẫu về
đạo đức, lối sống, tinh thần phục vụ nhân
dân, là điểm yếu quan trọng cản trở sự
phát triển.
9. Một số kinh nghiệm
- Một là, Giữ vững sự đoàn kết, nhất
trí trong toàn Đảng bộ trên cơ sở thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ,
phát huy yếu tố tích cực của cá nhân, quy
tụ được trí tuệ tập thể, tạo sự đông thuận
cao trong xã hội là nhân tố quyết định
những thành quả của Đảng bộ tỉnh.
- Hai là, Khi xác định kế hoạch,
công việc, nhiệm vụ phải sát thực tế;
mục tiêu phải rõ ràng; biện pháp phải
khả thi, hiệu quả; quá trình lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành phải quyết liệt, cụ thể;
thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát
việc thực hiện.
- Ba là, Chỉ đạo mạnh mẽ, kiên trì
công tác cải cách hành chính, thanh tra,
kiểm tra công vụ, kịp thời xử lý, chuyển
đổi vị trí công tác đối với những cán bộ,
công chức, viên chức ở các khâu, lĩnh vực
trì trệ, yếu kém, có nhiều dư luận xấu; coi
trọng và quan tâm sử dụng người tài, có
phẩm chất tốt.
II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, CHỈ
TIÊU, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN GIAI ĐOẠN 2016-2020
1. Dự báo tình hình trong 5 năm tới
186
Trên thế giới, tình hình sẽ còn nhiều
diễn biến rất phức tạp, nền kinh tế phục
hôi chậm, không đông đều và còn nhiều
biến động khó lường, đặc biệt là giá dầu,
sự bất ổn về tài chính tiền tệ và nợ công
tiếp tục gây ra những hiệu ứng bất lợi đối
với nền kinh tế thế giới; tranh chấp lãnh
thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực
và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay
gắt, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến
tình hình của tỉnh. 5 năm tới, nước ta
thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng
đông Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) và Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), tham gia các hiệp định tự do
thương mại thế hệ mới, hội nhập quốc tế
sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn
trước; kinh tế từng bước thoát khỏi tình
trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng,
nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách
thức; kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững
chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang
giảm dần nhưng còn ở mức cao; năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế thấp.
Ở trong tỉnh, tình hình chính trị - xã
hội ổn định, tiềm lực kinh tế và các điều
kiện phát triển được tăng cường, hệ
thống hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội
đang từng bước được đầu tư, ngày càng
hoàn thiện, đặc biệt là hệ thống cảng
biển, các khu công nghiệp, khu du lịch,
cùng với một số kinh nghiệm tích lũy
được trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành
nhiệm kỳ trước, tạo tiền đề cho tỉnh phát
triển trong thời gian tới. Bên cạnh đó,
tỉnh vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức như: thiếu nguôn lực để
đầu tư, nguôn nhân lực chưa đáp ứng
được yêu cầu, các vấn đề về tội phạm
hình sự, tai nạn giao thông, ma túy, ô
nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu; tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức và tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến
phức tạp.
Tình hình thế giới, trong nước và
của tỉnh đan xen cả thuận lợi, thời cơ và
khó khăn, thách thức, đòi hỏi Đảng bộ,
chính quyền, nhân dân và cộng đông
doanh nghiệp của tỉnh phải tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ, phấn đấu quyết liệt hơn
nữa trong giai đoạn tới.
2. Một số quan điểm phát triển tỉnh
trong giai đoạn 2016 - 2020
2.1. Phát huy lợi thế về kinh tế biển,
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng mạnh tỷ trọng dịch vụ;
xác định phát triển công nghiệp, cảng
biển, dịch vụ hậu cần cảng và du lịch là
nhiệm vụ trung tâm.
2.2. Thực hiện mô hình kinh tế phát
triển theo chiều sâu, có hiệu quả, bảo
187
đảm bền vững, bảo vệ môi trường sinh
thái và tài nguyên thiên nhiên.
2.3. Phát huy mạnh mẽ quyền làm
chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ trong
xây dựng và thực thi thể chế, pháp luật,
cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội; bảo đảm quyền con người, quyền
công dân; nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân.
2.4. Xác định cán bộ chuyên môn,
cán bộ quản lý các cấp, các ngành là
nguôn nhân lực quan trọng, là yếu tố
quyết định đến sự phát triển của tỉnh. Do
đó, cần nâng cao chất lượng tuyển chọn,
đào tạo, thử thách và bố trí cán bộ; có
chính sách thu hút người tài; đẩy mạnh
cải cách hành chính, trọng tâm là chế độ
công vụ, công chức và tăng cường đối
thoại với doanh nghiệp, người dân trong
thực thi chính sách.
2.5. Phát triển kinh tế - xã hội gắn
với xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
an ninh nhân dân ngày càng vững chắc,
bảo vệ chủ quyền biển, đảo, giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
2.6. Đổi mới mạnh mẽ phương thức
lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành đối với
công tác Đảng, chính quyền, Mặt trận,
các đoàn thể, trọng tâm là đổi mới việc
chỉ đạo xây dựng nghị quyết, kế hoạch,
chương trình hành động và tổ chức thực
hiện theo hướng sát thực, cụ thể, khả thi,
hiệu quả.
3. Mục tiêu tổng quát giai đoạn
2016 - 2020 và định hướng giai đoạn
tiếp theo
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ; phát huy dân chủ
và sức mạnh đoàn kết toàn dân; xây dựng
hệ thống chính trị vững mạnh; cải thiện
chất lượng cuộc sống nhân dân; bảo đảm
ổn định chính trị, xã hội; xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân
vững mạnh, khu vực phòng thủ vững
chắc; phát triển Bà Rịa - Vũng Tàu thành
tỉnh mạnh về công nghiệp, cảng biển,
dịch vụ hậu cần cảng và du lịch.
4. Các chỉ tiêu chủ yếu 5 năm
2016 - 2020
4.1. Về phát triển kinh tế
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế
(GRDP) bình quân trừ dầu khí 7%/năm;
GRDP bình quân đầu người trừ dầu khí
đến năm 2020 đạt 7.000 USD.
- Cơ cấu kinh tế trừ dầu khí: công
nghiệp, xây dựng 54,15% - dịch vụ
35,6% - nông nghiệp 10,25%.
- Giá trị sản xuất công nghiệp trừ
dầu khí tăng 7,6%/năm.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng
10%; dịch vụ cảng tăng 6,65%/năm.
- Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng
3,53%/năm, lâm nghiệp tăng 1,24%/năm,
ngư nghiệp tăng 4,95%/năm.
188
- Giá trị xuất khẩu trừ dầu khí 19,8
tỷ USD, tăng bình quân 10%/năm.
- Huy động tổng vốn đầu tư toàn xã
hội 206.606 tỷ đông, tăng 1,39%/năm.
- Tổng thu ngân sách nội địa trên
địa bàn đạt 173.515 tỷ đông, tăng
4,19%/năm. Tổng chi ngân sách địa
phương khoảng 82.092 tỷ đông, tăng
4,68%/năm.
4.2. Về văn hóa - xã hội
- Tốc độ tăng dân số tự nhiên
10,3%o/năm, mức giảm sinh 0,1%o/năm,
tuổi thọ trung bình 75 tuổi.
- Đến năm 2020: số cháu đi nhà trẻ
đạt tỷ lệ 30% và mẫu giáo đạt 92,5% số
trẻ trong độ tuổi; 90% học sinh tốt nghiệp
trung học cơ sở vào trung học phổ thông
hoặc tương đương; 85% thanh niên trong
độ tuổi đạt trình độ trung học phổ thông
và tương đương.
- Đến năm 2020: có 26 giường và
8,5 bác sĩ trên vạn dân; tỷ lệ xã có bác sĩ
đạt 40%; 100% xã, phường, thị trấn đạt
bộ tiêu chí về y tế xã; tỷ lệ người dân
tham gia bảo hiểm y tế đạt 81%.
- Hoàn thành chỉ tiêu giảm nghèo
theo chuẩn mới của tỉnh; giải quyết việc
làm cho 160.000 lượt lao động; tỷ lệ lao
động qua đào tạo đạt 80%.
4.3. Về bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững
- Tỷ lệ che phủ cây xanh đạt 44,2%;
tỷ lệ che phủ rừng đạt 13,4%.
- 100% dân số thành thị, 90% dân
số nông thôn được cung cấp nước sạch.
- 95% rác thải sinh hoạt đô thị, 100%
rác thải y tế và rác thải công nghiệp (thông
thường, nguy hại) được thu gom và xử lý
đạt tiêu chuẩn môi trường.
- 100% khu công nghiệp, cụm công
nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý
nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi
trường; 100% cơ sở sản xuất xây dựng
mới phải áp dụng công nghệ sạch hoặc
trang bị các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm đạt
tiêu chuẩn môi trường.
4.4. Về công tác nội chính
- Tỷ lệ đảng viên trong dân quân đạt
20%, trong tự vệ đạt 25%, trong quân
nhân dự bị đạt 10% trở lên; xây dựng
100% ban chỉ huy quân sự cấp xã đạt
vững mạnh toàn diện; nâng cao chất
lượng tuyển quân, đạt 100% chỉ tiêu;
đảng viên nhập ngũ (kết nạp trên 6
tháng) từ 2% trở lên.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả
chương trình 4 giảm; nhất là kiềm chế, kéo
giảm số vụ vi phạm pháp luật về ma túy và
số người chết vì tai nạn giao thông.
- Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố đạt
trên 90%; tỷ lệ điều tra các vụ án trên
189
70%; án bị trả hô sơ để điều tra bổ sung
không quá 6%.
- Xét xử từ 95% trở lên đối với án
hình sự, từ 90% trở lên đối với án dân sự
và từ 85% trở lên đối với án hành chính;
tỷ lệ án bị hủy, sửa do sai thấp hơn chỉ
tiêu Tòa án nhân dân tối cao quy định.
- Thi hành án dân sự xong đạt tỷ lệ
90% về việc và 77% về tiền.
- Giải quyết các vụ khiếu nại, tố cáo
đạt tỷ lệ 85%.
4.5. Về công tác Mặt trận và các
đoàn thể
- Uy ban Mặt trận Tổ quốc: 95%
ban công tác Mặt trận khu phố, thôn, ấp
đạt vững mạnh, không có yếu kém;
100% Uy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cấp huyện, cấp xã đạt vững mạnh.
- Liên đoàn lao động: 100% doanh
nghiệp có 20 lao động trở lên (đủ điều
kiện theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam)
có tổ chức công đoàn; trên 50% công
đoàn cơ sở khu vực ngoài nhà nước đạt
danh hiệu vững mạnh.
- Đoàn TNCS Hô Chí Minh: 90%
cơ sở đoàn và 100% cơ sở hội đạt vững
mạnh trở lên; 30% doanh nghiệp có từ 50
lao động trong độ tuổi thanh niên trở lên
có tổ chức Đoàn Thanh niên.
- Hội nông dân: hàng năm có từ
50% trở lên nông dân đạt danh hiệu sản
xuất - kinh doanh giỏi các cấp, 90% cơ
sở hội trở lên xếp loại vững mạnh.
- Hội liên hiệp phụ nữ: duy trì, củng
cố, nâng cao chất lượng hội viên, tổ chức
hội; 90% cơ sở hội liên hiệp phụ nữ xã,
phường, thị trấn đạt vững mạnh.
- Hội cựu chiến binh: xây dựng 20
tổ chức hội cựu chiến binh trong doanh
nghiệp ngoài nhà nước; 100% tổ chức
hội các cấp đạt trong sạch, vững mạnh,
trong đó có từ 70% - 80% đạt trong sạch
vững mạnh xuất sắc.
4.6. Về công tác xây dựng Đảng
- Tỷ lệ cán bộ, đảng viên được bôi
dưỡng lý luận chính trị đạt 100%, đào tạo
lý luận chính trị đạt 70% trở lên, đào tạo
và bôi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ đạt
40% trở lên.
- Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia cấp ủy
không dưới 15%, tham gia các chức danh
lãnh đạo, quản lý các cấp từ 30% trở lên;
tỷ lệ cán bộ trẻ tham gia cấp ủy không
dưới 10%.
- Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ
từ 90% trở lên. Kết nạp được trên 8.500
đảng viên; trong đó kết nạp 400 đảng viên
và phát triển 30 tổ chức Đảng trong doanh
nghiệp ngoài nhà nước.
- Tổ dân vận, khối dân vận, ban dân
vận hoạt động tốt, đạt tỷ lệ từ 90% trở lên,
không có trung bình và yếu kém.
190
- Tăng từ 10- 20% số lượng các
cuộc kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, uỷ
ban kiểm tra các cấp; xử lý đạt 100% số
vụ được phát hiện khi tiến hành kiểm tra.
5. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
5.1. Phát triển mạnh công nghiệp,
cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng và du
lịch; chú trọng phát triển nông nghiệp
công nghệ cao gắn với xây dựng nông
thôn mới; nâng cao hiệu quả thu hút đầu
tư; tăng cường quản lý quy hoạch, xây
dựng, đất đai, tài nguyên, khoáng sản và
bảo vệ môi trường
a) Công nghiệp
- Tạo điều kiện để thu hút, phát
triển các dự án công nghiệp sử dụng
công nghệ hiện đại, sản phẩm có giá trị
gia tăng cao, tiêu tốn ít năng lượng, thân
thiện với môi trường, có sức cạnh tranh
và lan tỏa; xác định rõ các sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ chủ yếu để kêu gọi
đầu tư; tích cực hỗ trợ khởi công xây
dựng, hoàn thành đưa vào hoạt động dự
án Tổ hợp Hóa dầu miền Nam và các dự
án công nghiệp lớn khác; tạo điều kiện
để phát triển các ngành hạ nguôn sau
hóa dầu.
- Rà soát, điều chỉnh quy hoạch các
khu, cụm công nghiệp một cách hợp lý
theo hướng không gian phát triển các
khu, cụm công nghiệp phải phù hợp với
khả năng chịu tải của môi trường, tiết
kiệm được quỹ đất, bảo đảm mục tiêu
phát triển các khu công nghiệp bền vững,
thu hút các dự án có chất lượng, mục tiêu
các cụm công nghiệp nhằm chuyển dịch
lao động nông thôn và di dời các cơ sở
sản xuất gây ô nhiễm trong khu dân cư.
- Thúc đẩy tiến độ đầu tư hạ tầng,
tăng tỷ lệ lấp đầy các khu, cụm công
nghiệp gắn với việc chọn lọc dự án khi
thu hút đầu tư; trong đó, tập trung bôi
thường giải phóng mặt bằng, khẩn
trương hoàn thành hạ tầng, khai thác có
hiệu quả khu công nghiệp chuyên sâu
Phú Mỹ 3, Khu công nghiệp Đá Bạc giai
đoạn 1 để phát triển công nghiệp hỗ trợ.
b) Cảng biển và dịch vụ hậu cần cảng
- Tập trung mọi nỗ lực để phát triển
hệ thống cảng Cái Mép - Thị Vải thành
cảng trung chuyển quốc tế; đấu thầu
quốc tế, hoàn thành lập quy hoạch chi
tiết, kêu gọi đầu tư và đưa vào hoạt động
Trung tâm dịch vụ hậu cần cảng Cái Mép
Hạ; tiếp tục cải cách các thủ tục hải quan
đối với hàng hóa xuất, nhập và quá cảnh
qua các cảng; tập trung đầu tư hoàn thiện
hạ tầng kết nối hệ thống cảng với các
tuyến đường trong khu vực; hoàn thành
tuyến đường liên cảng Cái Mép - Thị
Vải, đường Phước Hòa - Cái Mép, đường
991B.
- Hỗ trợ, thúc đẩy việc sáp nhập các
cảng nhỏ thành các cảng có quy mô lớn
hơn; đầu tư các dự án cảng thủy nội địa
191
kết hợp kho bãi; tăng cường quản lý quỹ
đất được quy hoạch cho phát triển cảng
và dịch vụ hậu cần cảng; triển khai quyết
liệt các giải pháp để bảo đảm an ninh trật
tự cho các bến cảng; chú trọng đào tạo
nguôn nhân lực tại địa phương và đầu tư
khu vui chơi, giải trí cho sĩ quan, thủy
thủ làm việc trên tàu biển để phục vụ cho
hoạt động của các cảng biển và Trung
tâm dịch vụ hậu cần cảng.
- Kiến nghị Trung ương có sự chỉ
đạo mạnh mẽ, có cơ chế, chính sách để
phát triển hệ thống cảng trung chuyển
quốc tế Cái Mép - Thị Vải, tiếp tục nạo
vét bảo đảm độ sâu luông tuyến, giảm
phí, lệ phí hàng hải để thu hút tàu đến
cảng và đầu tư các tuyến đường bộ,
đường sắt, đường thủy nội địa kết nối các
tỉnh với hệ thống cảng Thị Vải - Cái
Mép, trong đó ưu tiên cầu Phước An, các
tuyến đường cao tốc và đường sắt Biên
Hòa - Vũng Tàu.
c) Du lịch
- Tập trung phát triển du lịch nghỉ
dưỡng biển; du lịch hội nghị, hội thảo
(MICE); du lịch sinh thái chất lượng cao;
du lịch lịch sử, tâm linh. Lựa chọn một
số khu đất có vị trí lợi thế, tiềm năng để
kêu gọi các nhà đầu tư có đẳng cấp quốc
tế đủ năng lực, kinh nghiệm đầu tư phát
triển các dự án du lịch lớn, chất lượng
cao, có tác dụng thúc đẩy ngành du lịch
phát triển. Trên cơ sở đó, rà soát, bổ
sung, điều chỉnh các quy hoạch phát triển
du lịch, tập trung cho các khu vực tiềm
năng, lợi thế của tỉnh như tuyến ven biển
Vũng Tàu - Long Hải - Phước Hải -
Xuyên Mộc, khu vực Núi Dinh và huyện
Côn Đảo; quy hoạch, xây dựng và có cơ
chế quản lý thích hợp các bãi tắm công
cộng phục vụ cho người dân.
- Quy hoạch địa điểm, kêu gọi đầu
tư cảng tàu khách du lịch; huy động vốn
ngân sách và các nguôn vốn khác để đầu
tư hạ tầng về giao thông, cấp điện, cấp
nước, thoát nước, thông tin liên lạc phục
vụ cho các khu du lịch đã được quy
hoạch và các dự án du lịch trọng điểm;
có giải pháp thúc đẩy chủ đầu tư các dự
án du lịch đã được cấp phép chuyển vốn
đăng ký sang vốn thực hiện, hoàn thành
đưa dự án đi vào hoạt động.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện Đề
án bảo đảm an ninh du lịch, Đề án bảo
đảm môi trường du lịch; tăng cường
công tác quản lý nhà nước đối với các cơ
sở du lịch, đặc biệt là quản lý giá dịch
vụ; xây dựng, yêu cầu thực hiện quy định
những tiêu chuẩn tối thiểu đối với các cơ
sở kinh doanh du lịch và dịch vụ ăn,
nghỉ; nâng cao chất lượng nguôn nhân
lực, chất lượng phục vụ của các cơ sở du
lịch; tăng cường công tác quảng bá, xúc
192
tiến; xây dựng văn hóa du lịch văn minh;
tạo môi trường du lịch lành mạnh, thân
thiện, hấp dẫn du khách.
d) Phát triển dịch vụ khác
Phát triển các dịch vụ thương mại,
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thông tin
- truyền thông, vận tải, kinh doanh bất
động sản, tư vấn pháp lý, tư vấn đầu tư,
chuyển giao công nghệ, y tế, giáo dục,
đào tạo..., đáp ứng kịp thời nhu cầu phát
triển và góp phần tăng tỷ trọng dịch vụ
của tỉnh.
đ) Ngành nông, lâm, ngư nghiệp
- Thúc đẩy phát triển nông nghiệp
công nghệ cao cho các sản phẩm cây
trông, vật nuôi có lợi thế so sánh của
tỉnh, có cơ chế, chính sách để khuyến
khích các doanh nghiệp và tư nhân đầu
tư vào lĩnh vực này. Chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp theo hướng tăng tỷ
trọng chăn nuôi; xây dựng từ 5 đến 7
vùng sản xuất trông trọt ứng dụng công
nghệ cao; phát triển các trang trại, gia
trại quy mô lớn và vừa theo phương thức
nuôi công nghiệp; phổ biến mô hình chăn
nuôi khép kín, liên kết giữa các khâu sản
xuất - giết mổ - tiêu thụ; phát triển mô
hình sản xuất khép kín trên một số cây
trông chính của tỉnh, từ khâu quy hoạch
vùng sản xuất, tổ chức sản xuất theo quy
trình VietGAP đến khâu kết nối với các
doanh nghiệp trong xây dựng thương
hiệu, nhãn hiệu, tổ chức thu mua, bảo
quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm;
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
công nghệ chế biến sau thu hoạch; tạo
cơ chế khuyến khích liên kết “5 nhà”
(nhà nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp,
nhà khoa học, nhà băng - ngân hàng)
trong sản xuất nông nghiệp và lấy phát
triển doanh nghiệp trong nông nghiệp là
hạt nhân.
- Tiếp tục hỗ trợ ngư dân đóng mới,
nâng cấp tàu cá đánh bắt xa bờ, tăng
thêm tàu dịch vụ hậu cần thủy sản gắn
với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo; ứng
dụng công nghệ, thiết bị hiện đại trong
khai thác, bảo quản sản phẩm; duy trì
nuôi trông thủy sản ở quy mô hợp lý gắn
với ứng dụng khoa học, công nghệ mới,
bảo vệ được môi trường sinh thái.
- Tiếp tục đầu tư hoàn thiện hệ
thống hạ tầng phục vụ ngư nghiệp: hoàn
thành các khu neo đậu tránh trú bão tại
Sông Dinh, Côn Đảo, Bến Lội - Bình
Châu; triển khai các dự án khu neo đậu
tránh trú bão tại Cửa Lấp, Lộc An; nâng
cấp các cảng cá và đầu tư trung tâm nghề
cá phục vụ cho phát triển thủy sản.
- Bảo vệ và phát triển diện tích
rừng hiện có gắn với du lịch sinh thái;
trông mới 3.390ha rừng tập trung gôm
1.150ha rừng phòng hộ, đặc dụng và
2.240ha rừng sản xuất, trong đó tập
193
trung vào khu vực rừng nghèo, rừng bị
phá; bảo vệ và đầu tư phát triển rừng
ngập mặn, cảnh quan, đặc biệt là khu
vực cửa ngõ thành phố Bà Rịa và
Vũng Tàu.
- Thực hiện có hiệu quả chương
trình xây dựng nông thôn mới; giữ vững
các tiêu chí đạt được của các xã được
công nhận giai đoạn 2011 - 2015; phấn
đấu đến năm 2020 có 32/43 xã (tỷ lệ
74%) đạt tiêu chí nông thôn mới và 2
huyện nông thôn mới (Đất Đỏ, Long
Điền), nếu có thêm nguôn lực sẽ tập
trung đầu tư cho các xã của huyện Châu
Đức; nâng cao hơn nữa mức sống, thu
nhập của nhân dân khu vực nông thôn;
chú trọng cải thiện môi trường sống,
ngăn chặn và cơ bản xử lý dứt điểm việc
phát tán ô nhiễm môi trường ở khu vực
nông thôn.
e) Về thu hút đầu tư, phát triển doanh
nghiệp, doanh nhân và kinh tế hợp tác
- Thực hiện nghiêm chủ trương thu
hút đầu tư có chọn lọc, chú trọng thu hút
đầu tư các dự án lớn, công nghệ hiện đại,
có sức lan tỏa, sản phẩm có giá trị gia
tăng cao, thân thiện môi trường và các dự
án công nghiệp hỗ trợ; hạn chế thu hút
những dự án không đạt được những tiêu
chí trên. Đổi mới công tác xúc tiến đầu
tư theo hướng nâng cao vai trò, trách
nhiệm, tính chủ động của chủ đầu tư và
theo đúng định hướng của tỉnh; xây dựng
danh mục các nhà đầu tư chiến lược,
tiềm năng, có đẳng cấp, thế mạnh, năng
lực, kinh nghiệm để tiếp cận và mời gọi
đầu tư vào tỉnh.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng các đô thị,
khu công nghiệp, khu du lịch, hệ thống
giao thông kết nối, huy động các nguôn
vốn đầu tư cho các công trình giao thông
trọng điểm, tạo thuận lợi cho việc triển
khai các dự án đầu tư; tiếp tục đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi
trường đầu tư, tăng cường các kênh trao
đổi thông tin với doanh nghiệp, nâng cao
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).
- Tăng cường công tác hậu kiểm
hàng năm, đặc biệt lưu ý đối với các vấn
đề rà soát tiến độ thực hiện dự án, chống
chuyển giá, gian lận đầu tư, việc chấp
hành chính sách, pháp luật về môi
trường, lao động... Hỗ trợ nhà đầu tư
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, thúc
đẩy tiến độ thực hiện dự án; xây dựng
tiêu chí lựa chọn và biện pháp chế tài đối
với các dự án; kiên quyết thu hôi các dự
án chậm triển khai do nguyên nhân từ
phía nhà đầu tư. Dự kiến 5 năm tới thu
hút 100 dự án đầu tư nước ngoài với tổng
vốn đăng ký 3 tỷ USD, 100 dự án đầu tư
trong nước với tổng vốn đăng ký 50 ngàn
tỷ đông.
194
- Nâng cao nhận thức về vị trí, vai
trò của đội ngũ doanh nghiệp, doanh
nhân trong phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập quốc tế của tỉnh; tạo môi trường
bình đẳng, thuận lợi, hỗ trợ doanh
nghiệp, doanh nhân mở rộng quy mô,
nâng cao hiệu quả hoạt động; quan tâm
đào tạo, bôi dưỡng, nâng cao đạo đức,
văn hóa kinh doanh, trách nhiệm xã hội,
tinh thần dân tộc cho đội ngũ doanh
nhân; phát huy vai trò các tổ chức đại
diện của cộng đông doanh nghiệp và đội
ngũ doanh nhân trên địa bàn tỉnh.
- Tiếp tục quán triệt, tuyên
truyền, nâng cao nhận thức về quan
điểm xây dựng và phát triển kinh tế
tập thể, hợp tác xã; thực hiện đầy đủ
các chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với
hợp tác xã; vận động thành lập, tăng
nhanh số lượng hợp tác xã, chú trọng
phát triển các hợp tác xã thương mại,
dịch vụ, vận tải, tín dụng.
g) Về công tác quản lý quy hoạch,
kiến trúc, xây dựng, đất đai, tài nguyên,
khoáng sản, bảo vệ môi trường
- Nâng cao chất lượng lập, thẩm
định, phê duyệt quy hoạch; thường xuyên
rà soát các loại quy hoạch đã lập để điều
chỉnh, bổ sung cho phù hợp; tăng cường
lãnh đạo, chỉ đạo tạo sự thống nhất cao
giữa các loại quy hoạch, ứng dụng công
nghệ thông tin để khớp nối các quy
hoạch với nhau, bảo đảm sự thống nhất
về cao độ, ranh giới, diện tích, hạ tầng và
các thông tin khác của quy hoạch; xác
định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của
từng cấp trong việc báo cáo, cho chủ
trương và quyết định điều chỉnh quy
hoạch; tăng cường quản lý và thực hiện
theo quy hoạch; công khai, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân tiếp cận các quy
hoạch đã được phê duyệt; tổ chức lập
thiết kế đô thị và ban hành quy chế quản
lý đối với các tuyến đường, phố chính,
các khu vực có yêu cầu cao về kiến trúc
cảnh quan, các điểm nhấn đô thị; xử lý
dứt điểm các vấn đề liên quan đến đất
đai sau khi thu hôi các dự án chậm triển
khai, quy hoạch không khả thi và việc
xây dựng không phép, trái phép, không
đúng quy hoạch.
- Tăng cường công tác quản lý nhà
nước, chú trọng thanh tra, kiểm tra việc
chấp hành pháp luật về đất đai; giám sát
chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch, quản
lý quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất;
xây dựng, ban hành quy trình, biểu mẫu
để áp dụng thống nhất cho từng loại công
việc, từng cấp chính quyền trong lĩnh vực
đất đai; lập quy hoạch và triển khai xây
dựng các khu tái định cư trên địa bàn các
huyện, thành phố bảo đảm phù hợp với
nhu cầu sử dụng của người dân; tập trung
195
chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ bôi thường giải
phóng mặt bằng.
- Tăng cường công tác quản lý quy
hoạch và cấp phép khai thác khoáng sản;
thường xuyên kiểm tra, thanh tra, xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy
định; chế tài bắt buộc các chủ mỏ phải
phục hôi môi trường sau khai thác.
- Thường xuyên tuyên truyền, phổ
biến các quy định của pháp luật về bảo
vệ môi trường đối với các cấp, các
ngành, các tổ chức kinh tế và nhân dân,
từ đó tạo sự chuyển biến về nhận thức
và có những hành động thiết thực để bảo
vệ môi trường. Nâng cao chất lượng
đánh giá tác động môi trường đối với
các dự án được cấp phép, đông thời yêu
cầu các cơ sở sản xuất kinh doanh phải
áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị
các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, xử lý
chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường theo
báo cáo đánh giá tác động môi trường
được phê duyệt; kịp thời kiểm tra và có
biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với
các cơ sở phát thải ô nhiễm.
- Quản lý tốt việc xử lý khí thải,
nước thải, rác thải sinh hoạt và các loại
chất thải rắn, bảo đảm nguyên tắc không
gây ô nhiễm môi trường, không đưa rác
thải sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp
từ địa phương khác về tỉnh xử lý; sử
dụng hợp lý, có hiệu quả đất đai khu xử
lý chất thải 100ha Tóc Tiên; thực hiện
lắp đặt hệ thống quan trắc tự động chất
lượng nước và không khí tại các khu vực
nhạy cảm về môi trường, các khu, cụm
công nghiệp và các cơ sở có nguôn nước
thải, khí thải lớn; triển khai đông bộ các
giải pháp để khắc phục tình trạng ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng ở một số
khu vực (khu vực chế biến hải sản Tân
Hải, khu vực chế biến hải sản Cửa Lấp
và khu Bến Đình, khu vực ao Hải Hà);
sớm hoàn thành đầu tư nhà máy xử lý bụi
thép, 2 cụm công nghiệp phục vụ di dời
các cơ sở gây ô nhiễm trong khu dân cư
trên địa bàn thành phố Vũng Tàu, Bà Rịa
và các khu chế biến hải sản tập trung;
chuyển đổi công năng và chấm dứt hoạt
động sản xuất bột cá; bảo vệ nghiêm ngặt
nguôn nước sinh hoạt và các đôi cát ven
biển của tỉnh.
- Xây dựng kế hoạch, chủ động
triển khai các công việc cần thiết để ứng
phó với các tác động của biến đổi khí
hậu; đề ra giải pháp và đầu tư chống xói
lở có hiệu quả khu vực ven biển từ Vũng
Tàu đến Bình Châu. Đẩy mạnh thực hiện
công tác tuyên truyền về biển và hải đảo
cho cán bộ, nhân dân trong tỉnh.
h) Về thu, chi ngân sách
Triển khai các giải pháp để hoàn
thành các chỉ tiêu thu ngân sách của cả
nhiệm kỳ, đông thời bảo đảm nuôi dưỡng
nguôn thu và thúc đẩy tăng trưởng, phấn
196
đấu thu vượt dự toán hàng năm để có
nguôn chi đáp ứng nhu cầu cho đầu tư
phát triển; ngoài nguôn vốn ngân sách
tỉnh được hưởng, cần thực hiện các giải
pháp để huy động các nguôn vốn khác
nhằm bổ sung thêm nguôn lực đầu tư hệ
thống hạ tầng giao thông kết nối và các
công trình hạ tầng kỹ thuật cần thiết khác
(phát hành trái phiếu chính quyền địa
phương, vốn vay, đấu giá quyền sử dụng
đất, ODA, hợp tác công tư PPP, Quỹ đầu
tư phát triển tỉnh…); tăng cường giám
sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động thuế,
hải quan; kiểm soát chi ngân sách đúng
quy định, hiệu quả, tiết kiệm, phục vụ
cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh.
5.2. Nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao; tăng
cường đầu tư cho khoa học và công
nghệ; quan tâm thực hiện các chính sách
an sinh xã hội
a) Giáo dục và đào tạo
- Chuẩn bị cơ sở vật chất, đội ngũ
nhà giáo, cán bộ quản lý để tiếp thu và
triển khai hiệu quả chủ trương đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo của
Trung ương, nhất là việc thực hiện
chương trình học và sách giáo khoa mới.
- Nâng cao chất lượng dạy và học ở
các cấp học, ưu tiên đầu tư phát triển cơ
sở trường lớp và đội ngũ giáo viên mầm
non nhất là trên địa bàn thành phố Vũng
Tàu và nơi có đông công nhân lao động;
duy trì và nâng cao thành quả phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập
mầm non 5 tuổi, trung học cơ sở; thực
hiện các giải pháp phân luông sau trung
học cơ sở, tăng quy mô trung học phổ
thông hợp lý ở những nơi có đủ điều
kiện; thực hiện có hiệu quả đề án dạy và
học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
quốc dân trên địa bàn tỉnh.
- Làm tốt công tác dự báo nhu cầu
để có kế hoạch đào tạo nguôn nhân lực
phù hợp, gắn với nhu cầu sử dụng; rà
soát, điều chỉnh, bổ sung và tiếp tục triển
khai các đề án đào tạo nguôn nhân lực đã
được phê duyệt; tăng cường liên kết và
nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề,
cao đẳng, đại học, đáp ứng kịp thời số
lượng, chất lượng lao động cho các dự án
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, chú
trọng vào các dự án sử dụng công nghệ
cao; nâng cao chất lượng chương trình
đào tạo nghề cho lao động nông thôn; tạo
điều kiện về địa điểm, đất đai, đẩy mạnh
xã hội hóa, hỗ trợ lĩnh vực giáo dục nghề
nghiệp, nhất là dạy nghề chất lượng cao;
tập trung xây dựng Trường Cao đẳng
Nghề tỉnh hướng đến đạt tiêu chuẩn khu
vực và quốc tế.
b) Khoa học và công nghệ
197
- Tăng cường nghiên cứu, ứng
dụng, chuyển giao công nghệ, thiết bị
tiên tiến, hiện đại của nước ngoài gắn với
việc thẩm định, cấp phép đầu tư các dự
án mới vào tỉnh. Tăng thêm tỷ lệ vốn
ngân sách đầu tư cho việc nghiên cứu,
ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ
vào sản xuất và đời sống, tập trung cho
các lĩnh vực như: ứng dụng công nghệ
cao vào sản xuất nông nghiệp, nuôi trông
thủy sản, bảo quản, chế biến sau thu
hoạch; đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm; xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi
trường; phòng, chống xói lở bờ biển và
các ao xoáy tại các bãi tắm; phát triển
năng lượng tái tạo,... và các lĩnh vực tiềm
năng, thế mạnh của tỉnh. Xây dựng cơ
chế khuyến khích, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp đổi mới công nghệ, áp
dụng các hệ thống quản lý tiên tiến, xây
dựng và phát triển thương hiệu.
- Thu hút, đào tạo, bôi dưỡng, phát
triển đội ngũ nhân lực khoa học, công
nghệ đủ khả năng tiếp thu, làm chủ
những công nghệ tiên tiến, hiện đại; đầu
tư cơ sở vật chất, trang thiết bị khoa học,
công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc gia; tăng
cường hợp tác trong nước và quốc tế về
phát triển khoa học, công nghệ.
c) Y tế
- Nâng cao y đức, chất lượng khám,
chữa bệnh; phát triển mạnh nguôn nhân
lực y tế cả về số lượng và chất lượng;
thực hiện tốt Đề án đào tạo bác sĩ, dược
sĩ và nhân viên ngành y tế; thu hút và
phát huy đội ngũ các chuyên gia đầu
ngành y tế về địa phương công tác; tiếp
tục thực hiện việc điều động, luân phiên
bác sĩ từ tuyến trên xuống tuyến dưới, để
nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh.
- Hoàn thiện mạng lưới khám, chữa
bệnh và hiện đại hóa thiết bị y tế từ tuyến
tỉnh đến cơ sở; đẩy mạnh hoạt động y tế
dự phòng; đầu tư Bệnh viện Đa khoa
Vũng Tàu 350 giường; hoàn thành Bệnh
viện Y học dân tộc; khuyến khích xã hội
hóa đầu tư các bệnh viện, cơ sở khám,
chữa bệnh cho nhân dân.
d) Văn hóa, thể thao
- Nâng cao chất lượng hoạt động của
hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao từ tỉnh
đến cơ sở, tạo điều kiện phát triển phong
trào văn hoá, văn nghệ, biểu diễn nghệ
thuật, bảo tôn và phát huy các loại hình
nghệ thuật truyền thống.
- Khuyến khích, tạo điều kiện để
nhân dân tham gia luyện tập thể dục, thể
thao thường xuyên; đẩy mạnh công tác
giáo dục thể chất và thể thao trường học;
đầu tư xây dựng trường đào tạo năng
khiếu thể thao của tỉnh.
- Bảo tôn và phát huy giá trị lịch sử
của các di tích; đầu tư khu công viên văn
hóa tỉnh tại Vạn Kiếp, thành phố Bà Rịa;
198
đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động văn hóa,
thể thao và có cơ chế, chính sách khuyến
khích phát triển các cơ sở sinh hoạt văn
hóa, thể thao của tư nhân, của cộng đông
như: câu lạc bộ văn hóa, câu lạc bộ thể
thao, trung tâm tập luyện thể thao...
- Tiếp tục phát huy những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn
giáo; quan tâm và tạo điều kiện cho
các tôn giáo sinh hoạt theo quy định
của pháp luật; đông thời, chủ động
phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với
những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân tộc hoặc những hoạt động
tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của
pháp luật.
đ) Về các chính sách xã hội
- Thực hiện tốt chính sách đền ơn
đáp nghĩa, chăm lo cho các Mẹ Việt Nam
Anh hùng, người có công với cách mạng,
gia đình chính sách; khuyến khích, hỗ trợ
tổ chức, cá nhân quan tâm trợ giúp các
đối tượng bảo trợ xã hội và các cơ sở
nuôi dưỡng tập trung; thực hiện tốt công
tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em, bảo đảm
90% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được
chăm sóc; tiếp tục thực hiện các chính
sách đối với đông bào dân tộc thiểu số.
- Thực hiện có hiệu quả việc chuyển
dịch lao động từ lĩnh vực nông nghiệp
sang phi nông nghiệp; tăng thêm các
phiên giao dịch việc làm, kết nối giữa
doanh nghiệp với người lao động. Tăng
cường kiểm tra, chế tài xử lý, yêu cầu
các chủ doanh nghiệp đóng đủ, kịp thời
các loại bảo hiểm và thực hiện đầy đủ
những quyền lợi hợp pháp cho người lao
động theo quy định. Thúc đẩy, hỗ trợ
phát triển các dự án nhà ở xã hội cho
người có thu nhập thấp, cán bộ, công
chức, viên chức, lực lượng vũ trang,
công nhân và sinh viên.
- Nâng chuẩn nghèo của tỉnh; huy
động mọi nguôn lực, triển khai đông bộ
các biện pháp giảm nghèo bền vững,
không để tái nghèo, trong đó tăng cường
giáo dục, nâng cao quyết tâm, sự nỗ lực
của người dân vươn lên thoát nghèo,
nhân rộng các mô hình giảm nghèo có
hiệu quả, có giải pháp cụ thể với từng hộ
nghèo và huy động sự giúp đỡ của cộng
đông trong công tác giảm nghèo.
5.3. Phát triển đông bộ các vùng,
các huyện, thành phố gắn với vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam
- Hợp tác chặt chẽ với các tỉnh,
thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam trên cơ sở quy hoạch vùng
được phê duyệt, phát huy tiềm năng, lợi
thế so sánh của từng địa phương; phát
triển các ngành kinh tế của tỉnh, đặc biệt
là phát triển cảng, dịch vụ hậu cần cảng,
199
du lịch vì mục tiêu phát triển bền vững
của vùng và lợi ích quốc gia.
- Xây dựng, triển khai Đề án tái cơ
cấu kinh tế của tỉnh và Quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh giai
đoạn 2016 - 2025 theo hướng lấy công
nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng
và du lịch là trọng tâm.
- Tiếp tục thực hiện các chương
trình, đề án về phát triển hành lang kinh
tế công nghiệp - cảng biển dọc Quốc lộ
51; trong đó, tập trung phát triển các đô
thị Vũng Tàu - Gò Găng - Long Sơn, xây
dựng và phát triển đô thị mới Phú Mỹ
với tính chất là trung tâm công nghiệp,
cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng đạt tiêu
chuẩn đô thị loại III vào năm 2020. Hoàn
thiện hạ tầng kỹ thuật, phát triển hạ tầng
giao thông kết nối và đẩy mạnh xúc tiến
đầu tư vào các khu công nghiệp và dịch
vụ cảng.
- Thúc đẩy triển khai các dự án
trong hành lang du lịch dọc tuyến đường
ven biển Vũng Tàu - Long Hải - Phước
Hải - Bình Châu; thu hôi các dự án chậm
triển khai để tiếp tục kêu gọi các doanh
nghiệp khác có năng lực đầu tư; phát
triển hành lang này thành tuyến du lịch
trọng điểm, đa dạng, hấp dẫn và chất
lượng cao của tỉnh.
- Tập trung xây dựng thành phố
Vũng Tàu là đô thị loại I “xanh, sạch,
đẹp, thân thiện, ấn tượng”, là trung tâm
du lịch, dịch vụ hàng hải, phát triển cảng
và khai thác dịch vụ dầu khí của cả nước.
- Đầu tư phát triển, nâng cao chất
lượng đô thị loại II của thành phố Bà
Rịa, phát triển mạnh dịch vụ, thương
mại, phát huy vai trò là trung tâm hành
chính - chính trị, từng bước trở thành
trung tâm văn hóa, giáo dục, đào tạo
của tỉnh.
- Phát triển vùng kinh tế nông, lâm,
ngư nghiệp ở các huyện Châu Đức,
Xuyên Mộc, Đất Đỏ, Long Điền hình
thành các mô hình xã, huyện nông thôn
mới; tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây
trông, vật nuôi, nâng cao tỷ trọng chăn
nuôi, phát triển sản xuất quy mô lớn và
vừa, gắn với thị trường; xây dựng trang
trại lớn để gắn với thu mua, chế biến,
tiêu thụ theo chuỗi giá trị; hình thành các
mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ
cao, vùng chuyên canh rau, vùng cây ăn
quả đặc sản của tỉnh, sản xuất theo quy
trình an toàn, chất lượng, giá trị cao.
- Xác định Côn Đảo là địa bàn trọng
điểm đầu tư của tỉnh trong 5 năm tới; huy
động các nguôn lực để phát triển Côn
Đảo thành Khu du lịch quốc gia chất
lượng cao, hiện đại, đặc sắc tầm cỡ khu
vực và quốc tế, gắn với tăng cường quốc
phòng, tạo tiềm lực bảo vệ vững chắc
chủ quyền biển, đảo; tập trung vốn ngân
200
sách đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng
kỹ thuật của Côn Đảo, bao gôm: nâng
cấp sân bay, phương tiện đi lại giữa đất
liền với Côn Đảo, cấp điện, cấp nước,
bệnh viện, đường giao thông; xây dựng
Đề án thành lập thành phố Côn Đảo,
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
5.4. Tăng cường quốc phòng, an
ninh; bảo đảm ổn định chính trị - xã hội;
đẩy mạnh cải cách tư pháp và thực hiện
chương trình 4 giảm, nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Củng cố tiềm lực và xây dựng khu
vực phòng thủ vững chắc; tập trung hoàn
chỉnh quy hoạch tổng thể bố trí thế trận
quốc phòng - an ninh, kết hợp với phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2020; kết
hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với
quốc phòng - an ninh từ công tác xây
dựng quy hoạch, kế hoạch, trong từng
công trình, dự án và từng ngành, lĩnh
vực, địa bàn; thực hiện tốt cơ chế phối
hợp giữa các lực lượng trong bảo vệ an
ninh quốc gia, chủ quyền biển, đảo,
phòng, tránh thiên tai, tìm kiếm cứu nạn,
bảo vệ nhân dân lao động sản xuất; chủ
động các phương án động viên nhân, tài,
vật lực, phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu
quả các tình huống về quốc phòng, an
ninh; đổi mới, nâng cao chất lượng bôi
dưỡng, giáo dục, tuyên truyền về kiến
thức quốc phòng, an ninh cho các đối
tượng; xây dựng Đề án tổ chức lực lượng
tự vệ trong các doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Chủ động nắm tình hình, phát
hiện, đấu tranh, không để xảy ra đột biến
bất ngờ, gây rối, bạo loạn và hình thành,
hoạt động của các tổ chức đối lập; bảo vệ
bí mật nhà nước; thực hiện phòng, chống
khủng bố; tập trung bảo vệ an ninh chính
trị nội bộ, kinh tế, văn hóa - tư tưởng,
thông tin - truyền thông, an ninh mạng;
nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất,
phương tiện kỹ thuật, xây dựng lực
lượng quân sự, công an, biên phòng,
cảnh sát phòng cháy chữa cháy vững
mạnh, sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Tăng cường tuyên truyền, phổ
biến để người dân hiểu rõ, nắm vững các
quy định của pháp luật; nâng cao trách
nhiệm của người đứng đầu, của từng cấp
chính quyền, sở, ban, ngành và xây dựng
hệ thống quản lý thông tin thống nhất
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực
hiện nghiêm túc việc tiếp, đối thoại với
công dân, đẩy nhanh tiến độ giải quyết
các vụ khiếu nại, tố cáo, đặc biệt trong
lĩnh vực đất đai; đẩy mạnh đào tạo, bôi
dưỡng, giáo dục về phẩm chất đạo đức,
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán
201
bộ, công chức làm công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
- Huy động sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị và toàn dân tham
gia thực hiện có hiệu quả chương trình
4 giảm; tập trung thực hiện đông bộ các
giải pháp để kiềm chế, kéo giảm các vụ
vi phạm pháp luật về ma túy, giao
thông, số vụ và số người chết vì tai nạn
giao thông.
- Nâng cao chất lượng công tác
điều tra, truy tố, xét xử; tránh các trường
hợp oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm; đẩy
nhanh công tác xét xử, giải quyết các vụ
án, hạn chế đến mức thấp nhất và tiến tới
không còn án quá hạn theo luật định; bảo
đảm các bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật đều được đưa ra thi hành.
5.5. Tích cực, chủ động, nâng cao
hiệu quả hoạt động đối ngoại
- Xây dựng chương trình, kế hoạch
tổng thể về hoạt động đối ngoại dài hạn
của tỉnh; trên cơ sở đó rà soát, đánh giá
tất cả các thỏa thuận hợp tác đã ký kết
với các đối tác để tiếp xúc, đàm phán, ký
kết với các đối tác mới có năng lực, thúc
đẩy được sự phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh.
- Tăng cường chỉ đạo công tác đối
ngoại nhân dân, vận động viện trợ và tiếp
nhận các dự án tài trợ của các tổ chức phi
chính phủ nước ngoài, bảo đảm chặt chẽ,
thống nhất một đầu mối.
5.6. Nâng cao chất lượng, hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy chính quyền; đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động
của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
a) Về xây dựng chính quyền
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng hoạt động, hiệu quả các kỳ họp,
công tác thẩm tra và ban hành nghị quyết
của HĐND các cấp; tăng cường hoạt
động giám sát việc thực hiện các nghị
quyết của HĐND tỉnh đã ban hành, giám
sát việc thực hiện các chủ trương liên
quan đến chế độ, chính sách cho nhân
dân; việc thực hiện các kết luận sau giám
sát; đổi mới công tác tiếp xúc cử tri và
giải quyết có hiệu quả các vấn đề cử tri
quan tâm.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý, điều hành của chính quyền các cấp, sự
phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa
phương; đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi
để người dân, tổ chức, doanh nghiệp tiếp
cận và sử dụng có hiệu quả đối với các
dịch vụ công trực tuyến; nâng cao mức
độ tín nhiệm và sự hài lòng của người
dân trong việc giải quyết các thủ tục
hành chính; giữ vững kỷ luật, kỷ cương
hành chính trong việc thực hiện chỉ đạo
của cấp trên; thực hiện nghiêm túc, quyết
202
liệt Kế hoạch cải cách hành chính giai
đoạn 2016- 2020, trọng tâm là nâng cao
trách nhiệm và đạo đức công vụ của công
chức; mở rộng các kênh thông tin đối
thoại, tiếp thu ý kiến người dân, doanh
nghiệp; hoàn thành mô hình một cửa tập
trung cấp tỉnh; nâng cao vai trò, trách
nhiệm của người đứng đầu trong chỉ đạo,
triển khai, thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện cải cách hành chính tại cơ quan, đơn
vị, xử lý nghiêm những cán bộ, công
chức vi phạm trong thi hành công vụ.
b) Về xây dựng Mặt trận, các đoàn
thể nhân dân
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động theo hướng ngày càng cụ
thể, thiết thực, hiệu quả, hướng về cơ sở,
đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền,
vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp
nhân dân; tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao
chất lượng các phong trào thi đua yêu
nước, các cuộc vận động; phát huy vai
trò cá nhân tiêu biểu, lực lượng cốt cán,
những người có uy tín trong cộng đông,
nhân sỹ trí thức, chức sắc tôn giáo, đông
bào dân tộc thiểu số; xây dựng, củng cố,
kiện toàn tổ chức, phát triển đoàn viên,
hội viên, góp phần tăng cường, mở rộng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Nắm chắc tình hình, kịp thời
tuyên truyền, vận động và đề xuất giải
pháp giải quyết những vấn đề bức xúc
trong nhân dân; thực hiện tốt vai trò
giám sát, phản biện xã hội và chủ động
đề xuất, tham gia góp ý xây dựng Đảng,
chính quyền trong sạch, vững mạnh.
5.7. Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng bộ
- Đổi mới phương thức, nâng cao
hiệu quả lãnh đạo của Đảng theo hướng
sâu sát thực tiễn, năng động, sáng tạo,
thiết thực, cụ thể; các Nghị quyết,
chương trình, kế hoạch của cấp ủy phải
đưa ra mục tiêu rõ ràng, giải pháp khả
thi, đông bộ và bố trí nguôn lực, các điều
kiện để tổ chức thực hiện; triển khai cải
cách hành chính trong Đảng; thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ,
tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt
Đảng và chế độ báo cáo, trao đổi nhằm
đưa ra quyết định, chỉ đạo kịp thời.
- Tiếp tục đổi mới nội dung, phương
pháp thực hiện công tác tư tưởng, tăng
cường khả năng nắm bắt và xử lý hiệu
quả các diễn biến mới về chính trị tư
tưởng trong Đảng, trong nhân dân, kịp
thời phản bác những thông tin xấu, sai sự
thật; nâng cao chất lượng Báo Bà Rịa -
Vũng Tàu, Đài Phát thanh - Truyền hình
tỉnh và chất lượng, hiệu quả việc học tập,
quán triệt và tổ chức thực hiện các Chỉ
thị, Nghị quyết của Đảng; giáo dục, nâng
203
cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức, qua đó tích
cực đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống; tăng cường giáo dục lý
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, văn
hóa cho thế hệ trẻ.
- Thường xuyên rà soát, bổ sung,
triển khai thực hiện quy hoạch cán bộ
nhiệm kỳ 2015- 2020 bảo đảm dân chủ,
khách quan, trung thực, chất lượng; tăng
cường công tác đào tạo, bôi dưỡng, thực
hiện tốt việc luân chuyển, bố trí, đề bạt
cán bộ bảo đảm đúng tiêu chuẩn, năng
lực, sở trường, lấy công việc làm trọng
tâm; coi trọng và quan tâm sử dụng
người tài, có phẩm chất tốt; kịp thời xử
lý, chuyển đổi vị trí công tác đối với
những cán bộ, công chức, viên chức ở
các khâu, lĩnh vực trì trệ, yếu kém, có
nhiều dư luận xấu; tiếp tục thực hiện có
hiệu quả Đề án phát triển nguôn cán bộ
trẻ, cán bộ nữ, Đề án kết nạp đảng viên
và phát triển tổ chức Đảng trong doanh
nghiệp ngoài nhà nước, kế hoạch luân
chuyển cán bộ theo quy hoạch; hoàn
chỉnh Bộ Tiêu chí đánh giá cán bộ diện
Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; xây
dựng Đề án thi tuyển chức danh cán bộ
lãnh đạo cấp trưởng, cấp phó các sở, ban,
ngành và trưởng, phó phòng cấp tỉnh, Đề
án tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp đại
học chính quy để tạo nguôn cán bộ phục
vụ cho hệ thống chính trị của tỉnh; nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo Chỉ
thị 10-CT/TW của Ban Bí thư và công
tác đánh giá cán bộ, phân loại tổ chức
Đảng, đảng viên hàng năm bảo đảm thực
chất gắn với việc kiểm điểm tự phê bình
và phê bình; tăng cường công tác bảo vệ
chính trị nội bộ, nhất là vấn đề chính trị
hiện nay.
- Lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực
hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát; chú
trọng giám sát việc thực hiện các kết luận
sau kiểm tra, giám sát. Uy ban kiểm tra
các cấp triển khai toàn diện các nhiệm
vụ, tập trung kiểm tra đảng viên, kể cả
cấp ủy viên cùng cấp và tổ chức Đảng
cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm; tăng
cường công tác giám sát trên tất cả các
lĩnh vực, chú trọng những vấn đề bức
xúc, nổi cộm của địa phương, đơn vị để
chủ động, phát hiện vi phạm và ngăn
chặn, xử lý kịp thời.
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động và
đổi mới nội dung, phương thức công tác
dân vận; triển khai tốt Quy chế công tác
dân vận của hệ thống chính trị; tăng
cường công tác dân vận của chính
quyền, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở
cơ sở và việc đối thoại, tiếp công dân,
204
phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của
nhân dân; phát động mạnh mẽ phong
trào thi đua “Dân vận khéo”, cổ vũ,
động viên các tầng lớp nhân dân hăng
hái tham gia thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh.
- Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện tốt các nhóm giải pháp, lộ trình để
khắc phục, sửa chữa những hạn chế,
khuyết điểm đã chỉ ra sau điểm kiểm và
những việc phát sinh trong quá trình thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4; triển khai
nghiêm túc, có hiệu quả Quy định số
101-QĐ/TW của Ban Bí thư về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp
và các chương trình, giải pháp phòng,
chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật; thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiên
quyết xử lý, kịp thời thay thế những cán
bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng, lãng
phí; xử lý nghiêm trách nhiệm của người
đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng
phí trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa
phương mình trực tiếp quản lý và các cán
bộ, đảng viên, công chức vi phạm.
- Đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hô Chí Minh,
trở thành nhiệm vụ chính trị thường
xuyên của mỗi tổ chức, cá nhân; cụ thể
hóa thành mục tiêu phấn đấu, giải pháp
thực hiện; tuyên truyền, nhân rộng những
điển hình tiêu biểu, tạo sức lan tỏa sâu
rộng trong Đảng và trong xã hội; tăng
cường giáo dục, rèn luyện, kiểm tra,
giám sát việc tu dưỡng phẩm chất đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức, nhất là người đứng đầu.
***
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
khẳng định quyết tâm của Đảng bộ,
chính quyền, quân và dân tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu phát huy hơn nữa truyền thống
cách mạng, truyền thống đoàn kết, tận
dụng tốt thời cơ, vượt qua thách thức,
xây dựng Đảng bộ và cả hệ thống chính
trị thật sự trong sạch, vững mạnh, thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội, phát
triển Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành tỉnh
mạnh về công nghiệp, cảng biển, dịch vụ
hậu cần cảng, du lịch, ngày càng giàu
đẹp, văn minh, hiện đại, góp phần cùng
cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng./.
http://www.brt.vn
Đài phát thanh truyền hình tỉnh BR-VT
205
Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa VI,
nhiệm kỳ 2015-2020
Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa VI, nhiệm kỳ 2015-2020
206
Danh sách Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VI, nhiệm kỳ 2015-2020
(Xếp theo vần A, B, C)
207
Danh sách ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy khóa VI, nhiệm kỳ 2015 - 2020
1. Đông chí Đỗ Văn Bửu, Chủ nhiệm Uy ban Kiểm tra Tỉnh ủy
2. Đông chí Trần Thị Ngọc Hà
3. Đông chí Hồ Hải
4. Đông chí Nguyễn Thanh Huấn
5. Đông chí Ngô Phương Lan
6. Đông chí Trần Tuấn Lĩnh
7. Đông chí Quách Hữu Phước
8. Đông chí Lê Thị Kim Thu
9. Đông chí Đặng Thị Hồng Vân
10. Đông chí Nguyễn Văn Việt
Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh BR-VT tham dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
Đại biểu đương nhiên:
1. Đông chí Nguyễn Tuấn Minh
2. Đông chí Nguyễn Hồng Lĩnh
Đại biểu được bầu chính thức:
1. Đông chí Đỗ Văn Bửu
2. Đông chí Nguyễn Văn Chinh
3. Đông chí Lưu Tài Đoàn
4. Đông chí Nguyễn Văn Đồng
5. Đông chí Nguyễn Thị Kim Hoàng
6. Đông chí Nguyễn Thành Long
7. Đông chí Bùi Thanh Nghĩa
8. Đông chí Lê Tôi Sủng
9. Đông chí Bùi Chí Thành
10. Đông chí Mai Ngọc Thuận
11. Đông chí Lương Trí Tiên
12. Đông chí Nguyễn Văn Trình
13. Đông chí Võ Ngọc Thanh Trúc
14. Đông chí Nguyễn Văn Xinh
15. Đông chí Phạm Phú Ý
16. Đông chí Nguyễn Thị Yến
208
Đại biểu dự khuyết:
1. Đông chí Nguyễn Phước Lễ
2. Đông chí Nguyễn Hoàng Tùng
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Phát huy tiềm năng, tận dụng thời cơ và vận hội mới, xây
dựng tỉnh BR - VT ngày càng văn minh, hiện đại (*) .
(Diễn văn bế mạc Đại hội của đông chí Nguyễn Tuấn Minh, Bí thư Tỉnh ủy khóa V).
Thưa các đồng chí lãnh đạo
đại diện các ban, bộ, ngành
Trung ương và đoàn thể của
Trung ương!
Thưa Đoàn chủ tịch Đại hội!
Thưa các đồng chí lãnh đạo
tỉnh qua các thời kỳ!
Thưa các đồng chí lão thành
cách mạng; các Mẹ Việt Nam
anh hùng; Anh hùng lực lượng vũ
trang, Anh hùng lao động!
Thưa các vị khách quý!
Thưa toàn thể Đại hội!
Sau 3 ngày làm việc tích cực, dân chủ, phát
huy trí tuệ tập thể và tinh thần trách nhiệm cao, Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần
thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020 đã hoàn thành chương
trình đề ra và kết thúc tốt đẹp. Đại hội đã bày tỏ sự
nhất trí cao những nội dung cơ bản trong các văn
kiện trình Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng;
đông thời gửi đến Bộ Chính trị, Ban Chấp hành
Trung ương báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp của
đại biểu Đại hội vào dự thảo các văn kiện, để
Trung ương nghiên cứu, chọn lọc, bổ sung, hoàn
thiện văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng.
Đại hội đã tập trung thảo luận, đóng góp
nhiều ý kiến và nhất trí thông qua Báo cáo chính
trị; Báo cáo kiểm điểm nhiệm kỳ của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh khóa V; Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ VI với mục tiêu tổng quát
là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng bộ; phát huy dân chủ và sức mạnh
đoàn kết toàn dân; xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh; cải thiện chất lượng cuộc sống nhân
dân; bảo đảm ổn định chính trị, xã hội; xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân
209
vững mạnh, khu vực phòng thủ
vững chắc; phát triển Bà Rịa -
Vũng Tàu thành tỉnh mạnh về
công nghiệp, cảng biển, dịch vụ
hậu cần cảng và du lịch”.
Đây là mục tiêu được xác
định trên cơ sở tổng kết thực tiễn
một cách toàn diện, đánh giá
đúng tiềm năng, lợi thế so sánh
của tỉnh, dự báo tình hình trong
nước và quốc tế. Phấn đấu thực
hiện thắng lợi mục tiêu trên là
góp phần cùng với cả nước tạo
nền tảng đến năm 2020, nước ta
cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội đã dân chủ giới
thiệu, sáng suốt lựa chọn và bầu
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh
khóa VI gôm 52 đông chí. Ban
Chấp hành nhiệm kỳ mới có cơ
cấu hợp lý, độ tuổi trung bình trẻ
hơn so với nhiệm kỳ trước. Nhân
sự Ban chấp hành của nhiệm kỳ
này thể hiện rõ sự chuyển giao
từ thế hệ cán bộ trực tiếp tham
gia kháng chiến, sang lớp cán bộ
sinh ra và trưởng thành sau ngày
đất nước hòa bình. Điều này là
quy luật tất yếu và mang tính
lịch sử tại thời điểm này. Vì vậy,
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
còn có ý nghĩa là Đại hội của sự
chuyển giao thế hệ lãnh đạo. Với ý nghĩa đó, Đại
hội mong muốn mỗi ủy viên Ban chấp hành Đảng
bộ tỉnh khóa VI luôn xứng đáng với niềm tin
tưởng và sự ủy thác của Đảng bộ, ra sức phấn
đấu, rèn luyện, phát huy truyền thống đoàn kết,
nâng cao bản lĩnh, năng lực, trí tuệ, không ngừng
đổi mới, cùng nhau thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội đề ra, góp phần xây dựng tỉnh nhà
ngày càng văn minh, giàu đẹp.
Cùng với 2 đại biểu đương nhiên là Uy viên
chính thức và Uy viên dự khuyết Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Đại hội đã bầu đoàn đại biểu
đi dự Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng,
gôm 16 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự
khuyết, đại diện cho trên 34 ngàn đảng viên của
Đảng bộ. Đại hội tin tưởng, các đại biểu sẽ nêu
cao tinh thần trách nhiệm, phát huy trí tuệ, đóng
góp tích cực cho sự thành công của Đại hội toàn
quốc lần thứ XII của Đảng.
Với việc hoàn thành tốt chương trình, nội
dung đề ra, chúng ta vui mừng khẳng định, Đại
hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần
thứ VI đã thành công tốt đẹp.
Thưa Đại hội!
Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành Đại
hội, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã nhận được
sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên, trực tiếp của
Bộ Chính trị và các Ban Trung ương. Tại Đại hội,
đông chí Ngô Văn Dụ, Uy viên Bộ Chính trị, Bí
thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Uy ban Kiểm
tra Trung ương thay mặt Bộ Chính trị, đã đánh
giá cao và nhiệt liệt biểu dương những thành tích
mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
210
đạt được trong nhiệm kỳ qua.
Khẳng định mục tiêu, phương
hướng phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2016-2020 do Đại hội
đề ra là hoàn toàn phù hợp với
tiềm năng, lợi thế của tỉnh, đông
thời chỉ đạo các nhiệm vụ chủ
yếu mà Đảng bộ cần tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện trong nhiệm kỳ VI. Đại hội
xin chân thành cảm ơn và
nghiêm túc tiếp thu những ý
kiến chỉ đạo của đông chí Ngô
Văn Dụ. Đảng bộ và nhân dân
Bà Rịa - Vũng Tàu nguyện đoàn
kết một lòng, phát huy tiềm
năng, thời cơ và vận hội mới, nỗ
lực vượt qua thách thức, xây
dựng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
ngày càng văn minh, giàu đẹp,
cùng các tỉnh trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, quyết tâm
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, góp
phần cùng với cả nước thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần
thứ XII của Đảng.
Đại hội chân thành cảm ơn
sự quan tâm theo dõi của cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân
dân tỉnh nhà trong suốt thời gian
diễn ra Đại hội. Xin chân thành
cảm ơn các cơ quan, đơn vị đã
gửi điện, thư, lẵng hoa và cử
đoàn đại biểu đến chúc mừng Đại hội. Chân
thành cảm ơn các cơ quan thông tấn báo chí,
phát thanh truyền hình Trung ương và địa
phương đã đến dự và tích cực, tuyên truyền cho
Đại hội. Cảm ơn các Tiểu ban của Đại hội, đội
ngũ cán bộ, nhân viên Văn phòng Tỉnh ủy, Văn
phòng UBND tỉnh, Ban Quản lý Trung tâm
Hành chính tỉnh, các ban của Tỉnh ủy, các sở,
ngành, địa phương và các đơn vị, đã nhiệt tình,
trách nhiệm, làm tốt công tác phục vụ, góp phần
tích cực cho thành công của Đại hội.
Kính thưa Đại hội!
Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nhiều
đông chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ khóa V
do tuổi cao, hoặc do yêu cầu nhiệm vụ mới
không tiếp tục tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh khóa VI. Đại hội đánh giá cao những cống
hiến và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các
đông chí. Đại hội và Ban Chấp hành khóa VI
chúc các đông chí luôn mạnh khỏe, tiếp tục phát
huy nhiệt tình cách mạng và kinh nghiệm thực
tiễn, đóng góp cho Ban Chấp hành Đảng bộ
khóa VI về công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong thời
gian tới.
Thưa Đại hội!
Thành công của Đại hội là nguôn cổ vũ, động
viên to lớn đối với Đảng bộ và nhân dân trong
tỉnh. Ngay sau Đại hội, Ban Chấp hành mới cần
tổ chức tuyên truyền rộng rãi trong toàn Đảng bộ
và nhân dân tỉnh nhà về kết quả Đại hội. Các
Đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy, Đảng đoàn, ban cán
sự Đảng tổ chức tốt việc nghiên cứu, quán triệt
Nghị quyết; nhanh chóng cụ thể hoá Nghị quyết
Đại hội thành các nghị quyết chuyên đề, chương
211
trình hành động, kế hoạch hàng
năm và các đề án để tổ chức thực
hiện, sớm đưa Nghị quyết Đại
hội VI của Đảng bộ tỉnh vào
cuộc sống.
Đại hội kêu gọi toàn thể
đảng viên của Đảng bộ tỉnh, dù ở
vị trí công tác nào, đều phải tích
cực nghiên cứu, nắm vững tinh
thần Nghị quyết Đại hội, gương
mẫu đi đầu và vận động nhân
dân nêu cao ý thức tự lực, tự
cường, ra sức thi đua, phấn đấu
thực hiện thắng lợi các mục tiêu,
nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI đề ra; quyết tâm
xây dựng Bà Rịa - Vũng Tàu
thành tỉnh mạnh về công nghiệp, cảng biển, dịch
vụ hậu cần cảng và du lịch.
Với niềm tin tưởng sâu sắc vào tương lai
tươi sáng của vùng đất thân yêu này, thay mặt
Đoàn chủ tịch Đại hội, tôi long trọng tuyên bố
bế mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020.
--------------------------------------
(*) Đầu đề do Tòa soạn đặt.
http://baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020
212
213
PHẦN 5.
TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI
ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU LẦN THỨ VI (2015-2020)
214
215
Quyết tâm đưa Bà Rịa - Vũng Tàu thành tỉnh mạnh về công nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng và du lịch
Đó là những mục tiêu căn bản được Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020 quyết nghị tại phiên bế mạc diễn ra ngày 23-10-
2015. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy khóa V giữ chức vụ Bí
thư Tỉnh ủy khóa VI, nhiệm kỳ 2015-2020.
Tại phiên bế mạc, Đại hội đã
thông qua Nghị quyết và thống
nhất về các mục tiêu, chỉ tiêu
trong nhiệm kỳ 2015-2020 là:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng bộ; phát
huy dân chủ và sức mạnh đoàn
kết toàn dân; xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh; cải thiện
chất lượng cuộc sống nhân dân;
bảo đảm ổn định chính trị, xã hội;
xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân vững
mạnh, khu vực phòng thủ vững
chắc; phát triển Bà Rịa - Vũng
Tàu thành tỉnh mạnh về công
nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu
cần cảng và du lịch.
Theo đó, các chỉ tiêu chủ yếu
trong 5 năm tới là: Tốc độ tăng
trưởng kinh tế (GRDP) bình quân
(trừ dầu khí) 7%/năm; GRDP bình
quân đầu người (trừ dầu khí) đến năm 2020 đạt
7.000 USD; cơ cấu kinh tế (trừ dầu khí): công
nghiệp, xây dựng 54,15% - dịch vụ 35,6% -
nông nghiệp 10,25%; giá trị sản xuất công
nghiệp (trừ dầu khí) tăng 7,6%/năm; giá trị xuất
khẩu (trừ dầu khí) 19,8 tỷ USD, tăng bình quân
10%/năm; huy động tổng vốn đầu tư toàn xã hội
206.606 tỷ đông, tăng 1,39%/năm; tổng thu
ngân sách nội địa trên địa bàn đạt 173.515 tỷ
đông, tăng 4,19%/năm. Để thực hiện có hiệu
quả các mục tiêu đề ra, Đại hội đã xác định rõ
quan điểm, mục tiêu cơ bản là: Xem trọng việc
Đồng chí Nguyễn Hồng Lĩnh, Tân Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa
- Vũng Tàu
216
đổi mới mạnh mẽ phương thức
lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành đối
với công tác Đảng, chính quyền,
Mặt trận, các đoàn thể, trọng tâm
là đổi mới việc chỉ đạo xây dựng
Nghị quyết, kế hoạch, chương
trình hành động và tổ chức thực
hiện theo hướng sát thực, cụ thể,
khả thi, hiệu quả. Chú trọng phát
huy lợi thế về kinh tế biển, thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng mạnh tỷ trọng
dịch vụ; xác định phát triển công
nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu
cần cảng và du lịch là nhiệm vụ
trung tâm. Thực hiện mô hình
kinh tế phát triển theo chiều sâu,
có hiệu quả, bảo đảm bền vững,
bảo vệ môi trường sinh thái và tài
nguyên thiên nhiên.
Phát huy mạnh mẽ quyền làm
chủ của nhân dân, mở rộng dân
chủ trong xây dựng và thực thi thể
chế, pháp luật, cơ chế, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội; bảo
đảm quyền con người, quyền công
dân; nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Xác định cán
bộ chuyên môn, cán bộ quản lý
các cấp, các ngành là nguôn nhân
lực quan trọng, là yếu tố quyết định đến sự
phát triển của tỉnh. Do đó, cần nâng cao chất
lượng tuyển chọn, đào tạo, thử thách và bố trí
cán bộ; có chính sách thu hút người tài; đẩy
mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là chế độ
công vụ, công chức và tăng cường đối thoại
với doanh nghiệp, người dân trong thực thi
chính sách. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân ngày càng vững chắc, bảo vệ chủ
quyền biển, đảo, giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Trên cơ sở đó, Đại hội cũng đã xác định rõ
một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như: Tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng bộ. Phát triển mạnh công nghiệp,
cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng và du lịch; chú
trọng phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn
với xây dựng nông thôn mới; nâng cao hiệu quả
thu hút đầu tư; tăng cường quản lý quy hoạch,
xây dựng, đất đai, tài nguyên, khoáng sản và
bảo vệ môi trường. Nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao; tăng cường
đầu tư cho khoa học và công nghệ; quan tâm
thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Phát
triển đông bộ các vùng, các huyện, thành phố
gắn với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Tăng cường quốc phòng, an ninh; bảo đảm ổn
217
định chính trị - xã hội; đẩy mạnh
cải cách tư pháp và thực hiện
chương trình 4 giảm, nâng cao
hiệu quả công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Tích cực, chủ động,
nâng cao hiệu quả hoạt động đối
ngoại. Nâng cao chất lượng, hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy chính
quyền; đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động của Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Tại phiên họp lần thứ nhất của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu khóa VI, nhiệm kỳ
2015 - 2020, Đại hội đã bầu Ban
Thường vụ Tỉnh ủy gôm 15 thành
viên, trong đó đông chí Nguyễn
Hông Lĩnh, Uy viên dự khuyết Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, Phó
Bí thư Thường trực Tỉnh ủy nhiệm
kỳ 2010 - 2015 đã trúng cử chức
danh Bí thư Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015
- 2020; Đại hội đã bầu ra 10 đại
biểu vào Uy ban Kiểm tra Tỉnh ủy.
Tiếp đó, Đại hội đã bầu đại biểu
tham dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Phát biểu bế mạc Đại hội, đông chí Nguyễn
Hông Lĩnh nhấn mạnh: Thành công của Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015 - 2020
là sự khẳng định tinh thần đoàn kết, thống nhất
trong toàn Đảng bộ, chính quyền, quân và dân
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Vì vậy, để thực hiện
thắng lợi các mục tiêu đã đề ra, Đảng bộ, chính
quyền, quân và dân trong tỉnh cần phát huy hơn
nữa truyền thống cách mạng, tận dụng tốt thời
cơ, vượt qua thách thức, xây dựng Đảng bộ và
cả hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững
mạnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội,
phát triển Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành tỉnh
mạnh về công nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu
cần cảng, du lịch, ngày càng giàu đẹp, văn
minh, hiện đại, góp phần cùng cả nước thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng. Đông chí Nguyễn Hông Lĩnh yêu cầu,
ngay sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
khóa VI sẽ tập trung xây dựng các chương trình,
kế hoạch để nhanh chóng triển khai, thực hiện
thắng lợi các chỉ tiêu, mục tiêu đã đề ra trong
nhiệm kỳ mới.
Lâm Quân
http://www.tapchicongsan.org.vn
Tạp chí Cộng sản Đảng
218
Đồng Chí Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy Viên Dự Khuyết Trung Ương Đảng, Bí Thư Tỉnh Ủy, Chủ Tịch HĐND Tỉnh: Năm 2016, tạo tiền đề thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
Trong không khí chào mừng
thành công Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ VI, tiến tới Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII, mừng đất
nước đổi mới, mừng Xuân mới
Bính Thân, đông chí Nguyễn
Hông Lĩnh, Uy viên dự khuyết
Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh
ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh đã trả lời
phỏng vấn Báo Bà Rịa - Vũng
Tàu về tình hình phát triển kinh tế
- xã hội, quốc phòng - an ninh;
xây dựng, chỉnh đốn Đảng của
tỉnh nhà.
* Phóng viên: Thưa đồng chí,
năm 2016 là năm đầu tiên toàn
Đảng, quân và dân Bà Rịa - Vũng
Tàu thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ
2015-2020. Để triển khai đúng
tinh thần Nghị quyết Đại hội, các
cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở cần phải
thực hiện tốt những nhiệm vụ
trọng tâm gì, thưa đồng chí?
- Đông chí Nguyễn Hông
Lĩnh: Năm 2016 là năm đầu tiên
triển khai Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nhiệm vụ đặt ra đòi
hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong tỉnh
phải tập trung cao độ, mở rộng tầm nhìn, tăng
cường giải pháp, nỗ lực hết mình nhằm tạo đà
cho việc thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ của cả
giai đoạn 5 năm 2016-2020. Do đó, Hội nghị
lần thứ hai Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã xác
định nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu là các cấp,
các ngành phải nhanh chóng xây dựng kế hoạch
để triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ VI nhiệm kỳ 2015-2020 gắn với việc
thực hiện Nghị quyết của cấp ủy cấp mình;
đông thời đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm cho
năm 2016 như sau:
Về phát triển kinh tế: Các cấp, các ngành
cần triển khai quyết liệt các giải pháp để thúc
đẩy 4 lĩnh vực kinh tế mũi nhọn đã được xác
định tại Nghị quyết Đại hội VI đó là: công
nghiệp, cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng và du
lịch. Xây dựng chính sách để hỗ trợ, đẩy mạnh
phát triển nông nghiệp công nghệ cao; có giải
pháp để thực hiện có hiệu quả chương trình
nông thôn mới, nâng cao mức sống của người
dân. Tập trung xây dựng môi trường thu hút đầu
tư thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp theo Nghị
quyết 19 ngày 12-3-2015 của Chính phủ; tiếp
tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc
219
đẩy sản xuất - kinh doanh. Tích
cực tìm kiếm các nguôn vốn ngân
sách, trái phiếu, ODA, vay Chính
phủ... để đầu tư hạ tầng giao
thông kết nối và các công trình
trọng điểm của tỉnh; trong đó, sẽ
đẩy mạnh thu hút xã hội hóa, kêu
gọi đầu tư theo hình thức BOT,
giới thiệu các dự án kêu gọi
doanh nghiệp đầu tư.... Chú trọng
công tác bảo vệ môi trường; tập
trung xử lý tình trạng gây ô nhiễm
nghiêm trọng, kéo dài.
Đối với lĩnh vực văn hóa - xã
hội, tỉnh cũng đã xác định một số
nội dung cần tập trung thực hiện
như: Sẽ tiến hành đánh giá, rút
kinh nghiệm và đầu tư về cơ sở
vật chất, đội ngũ giáo viên để tiếp
tục triển khai hiệu quả mô hình
trường học mới. Triển khai đông
bộ các giải pháp để nâng cao chất
lượng công tác đào tạo nghề cho
người lao động, đáp ứng được yêu
cầu theo các hiệp định thương
mại mà Việt Nam tham gia, ký
kết, nhất là Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Khai thác, sử dụng có hiệu quả
các cơ sở y tế mới được đầu tư
(Bệnh viện Bà Rịa, Bệnh viện
Tâm thần, Bệnh viện Y học dân
tộc...); tích cực hơn nữa trong việc thu hút, đào
tạo, bôi dưỡng đội ngũ y, bác sĩ, nâng cao tỷ lệ
bác sĩ/vạn dân; chú trọng công tác bảo đảm vệ
sinh an toàn thực phẩm, bảo đảm sức khỏe cho
người dân. Tổ chức tốt các hoạt động tuyên
truyền, văn hóa, văn nghệ năm 2016; nâng cao
chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa
cơ sở. Triển khai rà soát, thống kê hộ nghèo và
ban hành chuẩn nghèo mới của tỉnh theo
hướng tiếp cận đa chiều. Đặc biệt là dịp Tết
Nguyên đán sắp tới, tỉnh sẽ tập trung chăm lo
cho mọi người đều có Tết, không để bất cứ ai
phải vì hoàn cảnh khó khăn mà không được
đón Tết một cách vui tươi, hạnh phúc; chăm lo
Tết thật tốt cho các Mẹ Việt Nam Anh hùng,
các gia đình chính sách, gia đình có công với
cách mạng.
Đông thời, với quốc phòng - an ninh phải
tập trung bảo vệ, bảo đảm an ninh, an toàn tuyệt
đối trong đợt bầu cử Quốc hội và HĐND sẽ diễn
ra vào tháng 5-2016; hoàn thành chỉ tiêu tuyển
quân năm 2016. Huy động cả hệ thống chính trị,
thực hiện đông bộ các giải pháp để giải quyết
hiệu quả các vụ khiếu kiện đông người, phức
tạp, kéo dài không để hình thành “điểm nóng”;
kiềm chế, kéo giảm số vụ vi phạm pháp luật về
ma túy, tội phạm hình sự, số vụ và số người chết
vì tai nạn giao thông. Tăng cường kiểm tra, xử
lý nghiêm các vi phạm pháp luật về môi trường,
đặc biệt là tình trạng khai thác cát trái phép.
Trong công tác xây dựng Đảng: Nhiệm vụ
quan trọng trong năm 2016 là phải tổ chức quán
220
triệt, học tập tốt Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII và các Nghị quyết của
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị trong năm 2016; kiện
toàn tổ chức, bộ máy của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị sau đại hội
đảng các cấp; lãnh đạo tổ chức
thành công cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội khóa XIV và đại biểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-
2021; đề ra các giải pháp để nắm
bắt và xử lý hiệu quả các diễn
biến mới về chính trị tư tưởng
trong Đảng, trong nhân dân; tập
trung công tác tạo nguôn, phát
triển đảng viên bảo đảm đạt chỉ
tiêu đề ra cho năm 2016; đẩy
mạnh công tác kiểm tra, giám sát;
thực hiện nghiêm túc các kết luận
sau kiểm tra, giám sát; tăng cường
công tác dân vận, nắm bắt tình
hình nhân dân. Bên cạnh đó, các
cấp ủy đảng cũng cần tiếp tục
thực hiện tốt Nghị quyết Trung
ương 4 và việc học tập, làm theo
tấm gương đạo đức Hô Chí Minh,
xác định đây là nhiệm vụ thường
xuyên, liên tục trong công tác xây
dựng Đảng
* Trong công tác xây dựng Đảng, việc thực
hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị và Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI) có tác động quan trọng,
đề nghị đồng chí cho biết Đảng bộ tỉnh sẽ đẩy
mạnh nội dung này như thế nào trong năm nay?
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hô Chí Minh theo Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị là
quá trình lâu dài, đòi hỏi sự tự giác, chủ động
của mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên
và các tầng lớp nhân dân để biến quá trình nhận
thức thành hành động cụ thể. Trong năm 2016,
để bảo đảm tính liên tục trong việc thực hiện
Chỉ thị trong khi chờ Trung ương có hướng dẫn
mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành
Hướng dẫn 01-HD/TU, ngày 8-12-2015 chỉ đạo
các cấp ủy trực thuộc Tỉnh ủy tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hô Chí Minh, trong đó tập trung vào
những nhiệm vụ và giải pháp sau:
Các Cấp ủy Đảng, Đảng đoàn, ban cán sự
Đảng trực thuộc Tỉnh ủy đưa nội dung tiếp tục
thực hiện Chỉ thị 03-CT/ TW của Bộ Chính trị
vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI,
Nghị quyết đại hội Đảng bộ cấp mình để tổ chức
thực hiện; tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận
thức, xác định việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hô Chí Minh trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân, nhất là đối với cán bộ chủ
chốt các cấp là nhiệm vụ chính trị thường xuyên
gắn chặt với nhiệm vụ xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, bảo
221
đảm quốc phòng, an ninh và các
phong trào thi đua yêu nước trong
năm 2016.
Tiếp tục thực hiện chủ đề năm
2015 và các năm trước đây, nâng
cao chất lượng sinh hoạt chuyên
đề theo hướng gắn với việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị trong năm
2016 và thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4. Từng cấp ủy, địa
phương, đơn vị lựa chọn những
vấn đề trọng tâm, bức xúc, nổi
cộm để tập trung thảo luận, đề ra
giải pháp, lãnh đạo, chỉ đạo, giải
quyết dứt điểm.
Xây dựng nội dung giáo dục
đạo đức Hô Chí Minh đưa vào
giảng dạy và sinh hoạt ngoại khóa
ở nhà trường, xác định đây là một
nội dung thực hiện Nghị quyết
29-NQ/TW về đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục và đào tạo.
Tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát việc thực hiện Chỉ
thị, đặc biệt là việc rèn luyện
phẩm chất, đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên; kịp thời biểu
dương, khen thưởng và nhân rộng
những điển hình tiêu biểu; đông
thời phê bình, nhắc nhở, xử lý
nghiêm đối với những trường hợp
vi phạm.
Trong năm mới 2016, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy xác định việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 cần tiếp tục được đẩy mạnh, đi sâu hơn
và thực chất hơn. Trong đó chú trọng các nội
dung: Tăng cường công tác tuyên truyền, tổ
chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 để cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhận
thức rõ hơn ý nghĩa, tầm quan trọng của Nghị
quyết gắn với việc chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số
03-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hô Chí
Minh và Chỉ thị số 10- CT/TW của Ban Bí thư
về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc khắc
phục, sửa chữa những khuyết điểm đã được chỉ
ra, ngăn ngừa những khuyết điểm mới phát sinh;
kịp thời ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực,
không để xảy ra trường hợp cán bộ, đảng viên
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống,
vi phạm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát, thanh tra và các biện pháp phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Đông thời, xem
xét, xử lý những tổ chức, cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý có sai phạm;
phát hiện, giới thiệu và nhân rộng những cá
nhân, tập thể điển hình có chuyển biến tốt sau
kiểm điểm.
Đẩy mạnh công tác tự phê bình và phê bình;
tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
gương mẫu, vững vàng về tư tưởng chính trị, có
222
ý thức trách nhiệm, có tư duy
sáng tạo và năng lực hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
* Thưa đồng chí, Tỉnh ủy đã
có kế hoạch như thế nào trong
công tác xây dựng, đào tạo đội
ngũ cán bộ, đảng viên nhằm đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của
thực tiễn, nhất là với xu hướng
hội nhập hiện nay?
- Công tác xây dựng, đào tạo
đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn
được Ban thường vụ Tỉnh ủy đặt
lên hàng đầu; nhất là trong giai
đoạn hiện nay, với xu hướng hội
nhập, đòi hỏi đội ngũ cán bộ
đảng viên phải giỏi chuyên môn,
có tinh thần, trách nhiệm cao và
có phẩm chất đạo đức cách
mạng. Để thực hiện điều này,
tỉnh sẽ chú trọng thực hiện một
số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, thực hiện tốt công
tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý giai đoạn 2020-2025,
định hướng đến năm 2030, đây là
tiền đề quan trọng để có kế hoạch
đào tạo, bôi dưỡng và thực hiện
luân chuyển, thử thách cán bộ.
Thứ hai, tiến hành rà soát,
đánh giá đội ngũ cán bộ, công
chức và công tác đào tạo, bôi
dưỡng trong thời gian qua để xác định nhu cầu
và xây dựng kế hoạch đào tạo, bôi dưỡng cụ thể
theo từng năm và cả nhiệm kỳ đối với mỗi cơ
quan, ban, ngành, địa phương. Trên cơ sở quy
hoạch cán bộ và nhu cầu thực tế, cấp ủy sẽ xây
dựng kế hoạch đào tạo, bôi dưỡng cán bộ cụ thể,
phù hợp với từng chức danh, ngạch, bậc; quan
tâm đào tạo cán bộ trẻ, cán bộ nữ; chú trọng đào
tạo chuyên sâu để có đội ngũ trí thức giỏi trong
một số lĩnh vực, nhất là những ngành, lĩnh vực
có yêu cầu cao trong xu thế hội nhập hiện nay.
Thứ ba, quyết liệt chỉ đạo việc triển khai
thực hiện Nghị quyết số 39-CT/TW ngày 17-4-
2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,
gắn với việc đào tạo, bôi dưỡng, bố trí, sử dụng
cán bộ, tránh tình trạng đào tạo không đúng
chuyên ngành, chuyên môn nghiệp vụ, đông
thời xác định rõ trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện quy
hoạch đào tạo, bôi dưỡng và sử dụng cán bộ.
Thứ tư, tỉnh sẽ đổi mới và áp dụng phương
pháp cạnh tranh lành mạnh trong tuyển dụng, bổ
nhiệm, nâng ngạch, nhất là các chức danh lãnh
đạo, quản lý nhằm tạo động lực thúc đẩy sự
phấn đấu, khắc phục được tình trạng trì trệ trong
công việc.
Thứ năm, thường xuyên tổ chức kiểm tra,
giám sát việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng, đào
tạo, bôi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức để
kịp thời xử lý những trường hợp sai phạm.
223
* Trước thềm năm mới 2016 -
Xuân Bính Thân, đồng chí có lời
nhắn gửi gì tới Đảng bộ, quân và
dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu?
- Thay mặt lãnh đạo tỉnh, tôi
xin kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng
viên, quân, dân và cộng đông
doanh nghiệp trong tỉnh phát huy
truyền thống cách mạng, đoàn
kết, tiếp tục đẩy mạnh phong trào
thi đua, vượt qua khó khăn, thách
thức, lập nhiều thành tích chào
mừng Đại hội Đại hội toàn quốc
lần thứ XII của Đảng, quyết tâm
thực hiện thắng lợi các mục tiêu,
nhiệm vụ của năm 2016, tạo tiền
đề, nền tảng vững chắc để thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
nhiệm kỳ 2015-2020 đề ra.
Nhân dịp năm mới 2016, tôi xin gửi đến
toàn thể cán bộ, đảng viên, quân, nhân dân và
cộng đông doanh nghiệp trong tỉnh lời chúc sức
khỏe, hạnh phúc, thắng lợi, với niềm tin tưởng
sâu sắc rằng Bà Rịa - Vũng Tàu bước sang giai
đoạn 2016-2020 với khí thế mới, sẽ luôn vững
bước đi lên, ngày càng phát triển bền vững, góp
phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập của đất nước trong thời
gian tới. Xin cảm ơn đông chí!
Sơn Trà
http://www.baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Đồng Chí Nguyễn Văn Trình, Chủ Tịch UBND Tỉnh: Sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển kinh tế
với tốc độ hợp lý
Năm 2015 là một năm đầy khó khăn, nhưng với sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của
lãnh đạo địa phương, sự nỗ lực của các tầng lớp nhân dân, BR-VT đã không ngừng đổi
mới, phát triển kinh tế, giữ vững ổn định xã hội, an ninh quốc phòng. “Thành tựu đó
cũng là nền tảng cơ bản để BR-VT tự tin bước vào thực hiện thắng lợi kế hoạch xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương theo định hướng Đại hội Đảng bộ
tỉnh BR-VT lần thứ VI nhiệm kỳ 2015-2020”, đồng chí Nguyễn Văn Trình, Chủ tịch
UBND tỉnh nhấn mạnh.
● Phóng viên: Đồng chí đánh giá
như thế nào về bước phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh BR-VT trong năm 2015?
- Đông chí Nguyễn Văn Trình: Năm
2015, các ngành, lĩnh vực kinh tế của
tỉnh có dấu hiệu phục hôi. Nhìn chung,
224
các chỉ tiêu kinh tế của tỉnh tăng trưởng
đạt và vượt Nghị quyết HĐND tỉnh đề ra,
cụ thể như: tăng trưởng GRDP ước đạt
6,55%; Giá trị sản xuất công nghiệp tăng
7,52%; Doanh thu thương mại tăng
10,88%, trong đó tổng mức bán lẻ hàng
hóa tăng 10%; Dịch vụ lưu trú, du lịch
tăng 9,77%, trong đó dịch vụ du lịch tăng
12% và dịch vụ lưu trú tăng 8,9%; Dịch
vụ vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận
tải tăng 8,66%, trong đó dịch vụ cảng
tăng 10,22%; Giá trị xuất khẩu trừ dầu
khí đạt 3,133 tỷ USD, tăng 8,4%; Giá trị
sản xuất nông nghiệp tăng 4,27%, ngư
nghiệp tăng 4,78%. Tổng vốn đầu tư trên
địa bàn khoảng 39.431 tỷ đông, tăng
11,4%. Trong đó, vốn ngân sách nhà
nước 7.541 tỷ đông, tăng 30,4%, vốn DN
trong nước 9.000 tỷ đông, tăng 4,65% và
vốn DN nước ngoài 22.890 tỷ đông, tăng
8,94%. Song song đó, các hoạt động
giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa và thể
dục - thể thao đều triển khai đầy đủ, kịp
thời. An sinh xã hội được bảo đảm: Các
chính sách đối với người lao động,
người có công, người nghèo, đông bào
dân tộc và các đối tượng bảo trợ xã
hội... được quan tâm thực hiện. Quốc
phòng an ninh được giữ vững, trật tự an
toàn xã hội cơ bản ổn định.
● Theo đồng chí, điểm nổi bật trong
lĩnh vực kinh tế năm qua của tỉnh là gì?
- Trong năm qua tỉnh đã chỉ đạo
quyết liệt các ngành, các cấp triển khai
thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm phát
triển kinh tế trên địa bàn. Với sự đông
tâm và nỗ lực của các cấp, các ngành,
tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích
cực, trong đó có 2 điểm nổi bật, cụ thể
như sau:
Thứ nhất, tỉnh đã chỉ đạo các ngành,
địa phương tích cực hỗ trợ các chủ đầu tư
đẩy nhanh tiến độ triển khai các chương
trình, dự án lớn phục vụ định hướng phát
triển kinh tế địa phương. Cụ thể, đến nay
dự án Hóa dầu Long Sơn đã hoàn thành
các thủ tục cơ bản để khởi công xây
dựng vào đầu năm 2016, các dự án Khu
công nghiệp Phú Mỹ 3, Khu công nghiệp
Đá Bạc,... về cơ bản đã hoàn thành các
hạng mục cần thiết, sẵn sàng đón các nhà
đầu tư thứ cấp hoạt động trong các lĩnh
vực công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp
chuyên sâu, cơ khí nông nghiệp,...
Thứ hai, chương trình nâng cao hiệu
quả hoạt động hệ thống cảng biển trên
địa bàn tỉnh cũng đã được triển khai
quyết liệt. Cụ thể, tỉnh đã chỉ đạo rà soát
quỹ đất trong KCN để phát triển và kêu
gọi đầu tư dịch vụ logistics theo quy
hoạch; đẩy mạnh công tác quy hoạch và
xúc tiến đầu tư Trung tâm logistics Cái
Mép Hạ; đẩy mạnh đầu tư xây dựng hệ
thống hạ tầng giao thông kết nối như
225
tuyến đường Liên cảng, đường 991B,
Phước Hòa - Cái Mép; triển khai các giải
pháp thực hiện bình ổn giá dịch vụ xếp
dỡ tại cảng biển; đề xuất giảm phí và lệ
phí hàng hải tại khu vực, tiếp tục nạo vét
luông Vũng Tàu - Thị Vải. Với những nỗ
lực phấn đấu của các ngành, các cấp trên
địa bàn tỉnh và sự quan tâm sâu sắc của
lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương,
bước đầu đã mang lại một số kết quả
khả quan. Sản lượng hàng hóa qua hệ
thống cảng biển của tỉnh năm 2015 ước
đạt khoảng 65 triệu tấn, tăng 10%; trong
đó hàng xuất nhập khẩu trực tiếp qua
cảng đạt 45 triệu tấn, tăng 12% so với
cùng kỳ 2014. Khu vực Cái Mép - Thị
Vải đã có 18 tuyến tàu trực tiếp Châu
Âu, Châu Mỹ và các nước Châu Á vào
hàng tuần - tăng 9 tuyến so với 2014;
đông thời đã có khả năng đón tàu trọng
tải lớn lên đến 14.000 TEUs tương
đương 160.000 tấn cập cảng.
● Thưa đồng chí, năm 2016 là năm
đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh BR-VT lần thứ VI nhiệm kỳ 2015-
2020, tỉnh sẽ tập trung vào những mục
tiêu, nhiệm vụ nào cho phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương?
- Năm 2016 là năm đầu tiên thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
BR-VT lần thứ VI và Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020.
UBND tỉnh sẽ triển khai thực hiện những
nhiệm vụ, chương trình phát triển kinh tế
xã hội mà Nghị quyết Tỉnh ủy, Hội đông
nhân dân tỉnh đã đề ra, trong đó tập trung
triển khai thực hiện một số nhiệm vụ
trọng tâm, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tập trung hỗ trợ thu hút tàu
mẹ, hàng quá cảnh và nguôn hàng xuất
khẩu thông qua cụm cảng trung chuyển
quốc tế Cái Mép - Thị Vải nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
cảng trên địa bàn tỉnh. Để cụ thể hóa
mục tiêu này, UBND tỉnh sẽ chỉ đạo đẩy
nhanh tiến độ đầu tư hệ thống hạ tầng
giao thông kết nối hệ thống cảng như
đường Liên cảng, 991B, Phước Hòa -
Cái Mép; đẩy mạnh công tác quy hoạch
và xúc tiến đầu tư Trung tâm logistics
Cái Mép Hạ; đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính trong lĩnh vực thuế và hải
quan; triển khai thực hiện Đề án
“Chương trình xuất khẩu hàng hóa tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2020”.
Kiến nghị Chính phủ một số vấn đề
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và
khai thác tối đa công suất của hệ thống
cảng trên địa bàn tỉnh như: điều chỉnh
phí, lệ phí hàng hải phù hợp để tăng sức
cạnh tranh cho các cảng; đẩy nhanh tiến
độ đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động
đường và cầu Phước An, đường sắt và
đường bộ cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu;
226
đẩy nhanh tiến độ di dời các cảng trên
sông Sài Gòn theo quy hoạch cảng biển
Đông Nam bộ nhóm 5.
Thứ hai, tập trung hỗ trợ thúc đẩy
đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật các khu
công nghiệp và các cụm công nghiệp để
thu hút đầu tư công nghiệp, công nghiệp
hỗ trợ tạo chân hàng cho cụm cảng Cái
Mép - Thị Vải, trong đó tập trung hỗ trợ
thúc đẩy đầu tư hạ tầng Khu công nghiệp
chuyên sâu Phú Mỹ 3, hoàn thành giai
đoạn I Khu công nghiệp Đá Bạc làm khu
công nghiệp hỗ trợ. Tạo điều kiện, hỗ trợ
nhà đầu tư sớm triển khai đầu tư xây
dựng dự án Hóa dầu Long Sơn.
Thứ ba, đẩy nhanh tiến độ xây dựng
quy hoạch Khu du lịch Quốc gia Long
Hải - Phước Hải, quy hoạch Khu du lịch
Núi Dinh để kêu gọi thu hút đầu tư theo
định hướng du lịch chất lượng cao, mang
tầm vóc quốc tế, có tính lan tỏa rộng; lập
kế hoạch xử lý Khu Du lịch Paradise sau
khi hết thời gian hoạt động, thu hút các
nhà đầu tư có đủ năng lực, kinh nghiệm,
đẳng cấp quốc tế và có mục tiêu, ý tưởng
đầu tư phù hợp với tình hình thực tế tại
địa phương kết hợp với quy hoạch phát
triển du lịch khu vực Bàu Trũng, thành
phố Vũng Tàu tạo ra quần thể du lịch
phức hợp Paradise - Bàu Trũng.
Thứ tư, lập kế hoạch xúc tiến thu hút
đầu tư các dự án nông nghiệp công nghệ
cao và công nghệ sinh học, có sản phẩm
phù hợp với chiến lược phát triển của
tỉnh và tình hình thực tế tại địa phương,
dễ chuyển giao công nghệ nhằm tăng
cường tính hiệu quả và đảm bảo phát
triển nông nghiệp nông thôn bền vững.
Khẩn trương hoàn thành hạ tầng kỹ
thuật 2 khu chế biến hải sản tập trung tại
Đất Đỏ và Xuyên Mộc. Tổ chức Hội thảo
Trung tâm nghề cá lớn để xác định quy
mô, địa điểm phù hợp với điều kiện thực
tế tại địa phương.
Lập kế hoạch di dời các hộ dân đang
sinh sống trong Khu bảo tôn thiên nhiên
rừng Bình Châu - Phước Bửu. Tập trung
các giải pháp để thực hiện tiêu chí về thu
nhập, xây dựng mô hình sản xuất để
nâng cao thu nhập cho người dân phấn
đấu hoàn thành 3 xã nông thôn mới trong
chương trình mục tiêu quốc gia.
Thứ năm, tiếp tục triển khai Đề án xử
lý ô nhiễm môi trường khu vực Cửa Lấp
và Đề án xử lý ô nhiễm môi trường khu
chế biến hải sản Tân Hải; lập phương án
di dời phân xưởng nhuộm của Nhà máy
sản xuất Meisheng Textiles tại Ngãi
Giao, Châu Đức; lập kế hoạch xử lý, di
dời các dự án xử lý rác không còn phù
hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã
hội của tỉnh.
Đẩy nhanh tiến độ đầu tư 2 cụm
công nghiệp Hòa Long tại Bà Rịa và
227
Phước Thắng tại Vũng Tàu để di dời các
cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm,
ảnh hưởng đến cuộc sống người dân tại
các khu dân cư; kêu gọi đầu tư xử lý rác
cho Côn Đảo. Rà soát thống nhất địa
điểm để kêu gọi đầu tư khu chôn lấp rác
thải sinh hoạt hợp vệ sinh cho huyện
Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc và thành
phố Bà Rịa.
Thứ sáu, tăng cường công tác cải
cách thủ tục hành chính tạo ra môi
trường đầu tư thông thoáng cho doanh
nghiệp, cải thiện chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh. Tăng cường công tác đối
thoại với doanh nghiệp, đối thoại theo
chuyên đề, nhất là theo các lĩnh vực dễ
gây bức xúc cho doanh nghiệp như thuế,
hải quan, đất đai, … nhằm tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp. Tăng cường
thanh tra công vụ, chấn chỉnh và xử lý
kịp thời những trường hợp nhũng nhiễu,
gây phiền hà cho doanh nghiệp. Khẩn
trương hoàn thành mô hình tiếp nhận, xử
lý thủ tục hành chính “một cửa” tập trung
cấp tỉnh.
Thứ bảy, tập trung rà soát, thu hôi
các dự án chậm triển khai và xây dựng
kế hoạch xử lý các khu đất dự án sau khi
thu hôi, phục vụ phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh. Ban hành các chương trình, kế
hoạch quản lý, thu hút đầu tư đảm bảo
các dự án sau khi được cấp giấy chứng
nhận đầu tư được triển khai theo mục
tiêu kế hoạch đề ra. Xử lý các quy hoạch
treo, kéo dài làm ảnh hưởng đến cuộc
sống của người dân, gây bức xúc trong
xã hội. Công khai thông tin đến người
dân kết quả xử lý các dự án chậm triển
khai, các quy hoạch treo trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
Thứ tám, phối hợp chặt chẽ với các
bộ, ngành Trung ương triển khai chủ
trương của Thủ tướng Chính phủ cho
phép tỉnh được điều tiết một phần ngân
sách của địa phương để đầu tư, tôn tạo và
phát triển Côn Đảo. Lập kế hoạch cụ thể
các chương trình, mục tiêu tôn tạo, đầu
tư và phát triển Côn Đảo theo định
hướng đã được phê duyệt.
Thứ chín, tăng cường công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo,
nhất là đối với những vụ khiếu kiện
đông người, kéo dài, tạo lòng tin của
nhân dân đối với sự lãnh đạo toàn diện
của Đảng, quản lý của Nhà nước trên
địa bàn tỉnh. Triển khai các biện pháp
đảm bảo an sinh xã hội, an ninh quốc
phòng, ổn định chính trị phục vụ phát
triển kinh tế xã hội, đem đến sự phôn
vinh và thịnh vượng trên địa bàn tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu.
● Cảm ơn đông chí về cuộc trao đổi!
Thái An
http://www.baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
228
Thu hút đầu tư đón sóng TPP
Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang
được kỳ vọng sẽ chảy mạnh vào Việt Nam
trong thời gian tới, khi Hiệp định đối tác
chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)
đã kết thúc đàm phán. Bà Rịa - Vũng Tàu
cũng không là ngoại lệ, khi dòng vốn FDI
đã có nhiều chuyển biến tích cực trong
năm 2015. Dự báo năm 2016, năm đầu
tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020, với
những định hướng mới, thu hút vốn FDI
vào tỉnh sẽ có nhiều thay đổi cả về lượng
và chất.
Vốn chảy mạnh vào các KCN
Năm 2015 được xem là một năm
“thắng lợi lớn” của các khu công nghiệp
(KCN) trên địa bàn tỉnh, khi vốn đầu tư
vào các KCN đạt 501% kế hoạch. Đặc biệt,
đã có những dự án đầu tiên đăng ký đầu tư
vào KCN chuyên sâu Phú Mỹ 3 - KCN
dành riêng cho các nhà đầu tư Nhật
Bản về công nghiệp hỗ trợ. Trong số
này, dự án của Công ty TNHH Nitori
BR-VT thuộc Tập đoàn Nitori
Holdings Nhật Bản đã được UBND
tỉnh cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu
tư vào tháng 11-2015.
Tại lễ trao Giấy chứng nhận đăng
ký đầu tư, ông Nitori Akio, Giám đốc
điều hành Tập đoàn Nitori Holdings
cho biết, dự án có vốn đăng ký đầu tư
150 triệu USD, trên diện tích đất thuê
40ha, không chỉ lắp ráp mà còn trực tiếp
sản xuất vật liệu và các chi tiết sản
phẩm, bao gôm: tủ, ghế sofa và nệm…
Hầu hết sản phẩm được xuất khẩu và
tiêu thụ tại thị trường Nhật Bản. Dự án
có tổng công suất khoảng 2 triệu sản
phẩm/năm. Theo kế hoạch, tháng 6-
2016, dự án khởi công xây dựng và sẽ
chính thức đi vào hoạt động vào tháng
7-2017, tạo việc làm cho khoảng 1.000
lao động. “Việc Tập đoàn Nitori xây
dựng nhà máy ở tỉnh BR-VT sẽ không
chỉ dừng lại ở việc giải quyết vấn đề lao
động cho địa phương, gia tăng sản
phẩm công nghiệp mà còn là chất xúc
tác giúp kêu gọi thêm nhiều DN Nhật
Các đồng chí: Nguyễn Thị Yến, Phó Bí thư Thường
trực Tỉnh ủy; Nguyễn Văn Trình, Chủ tịch UBND tỉnh
(bìa phải) trao Giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty
TNHH Nitori BR-VT
229
Bản đến đầu tư” - đông chí Nguyễn Văn
Trình, Chủ tịch UBND tỉnh khẳng định.
Theo đông chí Nguyễn Anh Triết,
Trưởng Ban quản lý các KCN tỉnh, năm
2015, các KCN trên địa bàn tỉnh đã thu hút
được 15 dự án mới, tổng vốn đăng ký 501
triệu USD, đạt 501% kế hoạch. Để có được
kết quả này, Ban Quản lý các KCN đã
nghiên cứu và hướng dẫn rõ ràng, giúp các
nhà đầu tư an tâm hơn khi đến tìm hiểu cơ
hội đầu tư tại tỉnh BR-VT. Đông thời, tích
cực giải quyết các vướng mắc của dự án
đầu tư đã được cấp phép; phối hợp với các
sở, ngành thực hiện công tác xúc tiến đầu
tư vào các KCN; rà soát, đôn đốc các dự án
đầu tư trong các KCN thực hiện tiến độ
đăng ký theo quy định và cam kết trong
Giấy chứng nhận đầu tư, đẩy mạnh
việc triển khai vận hành hệ thống thông
tin quốc gia về đầu tư nước ngoài…
Tính chung trên địa bàn tỉnh, năm
2015 đã thu hút 32 dự án, trong đó có
12 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 528
triệu USD. Ngoài các yếu tố làm nên
thành công trong việc thu hút vốn FDI
như “thiên thời, địa lợi” dành cho BR-
VT thì sự cầu thị, không ngừng cải
thiện môi trường đầu tư của tỉnh là
điểm mạnh “hút” vốn FDI trong năm
2015. Đông chí Lê Hoàng Hải, Phó
Giám đốc Sở KH- ĐT cho biết, trong
thời gian qua, tỉnh đặc biệt chú trọng
công tác cải cách thủ tục hành chính,
đầu tư cơ sở hạ tầng, triển khai công
KHÔNG THU HÚT ĐẦU TƯ BẰNG MỌI GIÁ
Đó là khẳng định của đông chí Nguyễn Hông Lĩnh, Uy viên dự khuyết Trung ương
Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh khi nói về định hướng thu hút đầu tư trong
thời gian tới. Năm 2016, BR-VT tiếp tục xúc tiến thu hút các dự án đầu tư theo hướng
chọn lọc các dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, sản phẩm có giá trị gia tăng
cao, có sức cạnh tranh, lan tỏa, thu hút các dự án khác. Trong đó, ưu tiên thu hút công
nghiệp hỗ trợ về cơ khí chế tạo, nhựa - hóa chất, hóa dầu, thiết bị phục vụ hàng hải...
từng bước phát triển BR-VT trở thành trung tâm sản xuất vật liệu cơ bản của cả vùng.
Các KCN tập trung thu hút các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu để tạo chân hàng
phát triển cụm cảng trung chuyển quốc tế Cái Mép – Thị Vải và dịch vụ hậu cần cảng.
Thu hút đầu tư các loại hình kinh tế dịch vụ, trong đó ưu tiên dịch vụ logistics như: hệ
thống kho bãi, vận tải, đóng gói, phân phối, đào tạo nguôn nhân lực và các dịch vụ liên
quan khác...
230
tác đào tạo nguôn nhân lực, tập trung tháo
gỡ khó khăn cho nhà đầu tư, xây dựng
chương trình xúc tiến đầu tư trong và ngoài
nước hàng năm, thành lập các tổ công tác
Nhật Bản (Japan Desk), Hàn Quốc để hỗ
trợ và thu hút nhà đầu tư từ Nhật Bản, Hàn
Quốc... Triển khai kịp thời, đầy đủ các
chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư,
gắn thu hút đầu tư với cải cách thủ tục
hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa, tại
chỗ, liên thông”, thường xuyên đối thoại
với nhà đầu tư nhằm kịp thời hỗ trợ, tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động
đầu tư, kinh doanh của DN, nhất là trong
công tác bôi thường, giải phóng mặt
bằng...
Tận dụng cơ hội mới
Trong năm 2016, hàng loạt hiệp định
thương mại tự do tiếp tục được ký kết và
có hiệu lực, đặc biệt việc kết thúc đàm
phán TPP vào cuối năm 2015 đã mở ra cơ
hội lớn trước hết về mặt thương mại, kéo
theo đó là cơ hội thu hút vốn FDI. Các cơ
quan chức năng cũng nhận định, hiện có
một dòng vốn lớn đang chuyển dần từ
Trung Quốc (nước không tham gia TPP)
để đầu tư vào các nước Đông Nam Á,
trong đó có Việt Nam, để được hưởng các
ưu đãi từ các điều khoản mà TPP mang lại.
Thời gian tới, đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ,
thương mại, phân phối bán lẻ sẽ tăng.
Ngoài ra, thời gian qua, nhiều đoàn DN
Nhật Bản đã sang thăm dò, khảo sát để
hợp tác đầu tư ngành công nghiệp hỗ
trợ, dự báo sự khởi sắc trong định
hướng thu hút đầu tư vào ngành này
trên địa bàn tỉnh trong năm 2016. Ông
Yasuzumi Hirotak, Trưởng đại diện
Văn phòng JETRO tại TP. Hô Chí
Minh khẳng định, Nhật Bản là một
trong những đối tác chiến lược của tỉnh
BR-VT. Tổng số dự án FDI của Nhật
Bản đang đầu tư tại tỉnh có 23 DN,
trong đó tập trung vào các lĩnh vực như
sắt thép, kính, lọc hóa dầu… “Điểm
hấp dẫn đầu tư vào BR-VT là có cảng
biển nước sâu, năng lượng, nguôn nhân
lực tiếng Nhật dôi dào. Ngoài ra, BR-
VT còn nằm gần 2 tỉnh tập trung các
khu công nghiệp lớn như Bình Dương
và Đông Nai, gần thành phố có sức
tiêu thụ lớn như Tp. Hô Chí Minh và
BR-VT có vị trí địa lý nằm trong
vùng trung tâm khu vực ASEAN. Để
thúc đẩy mối quan hệ kinh tế, thương
mại giữa cộng đông DN Nhật Bản và
tỉnh BR-VT, chúng tôi luôn cung cấp
đầy đủ thông tin của tỉnh cho các DN
Nhật Bản, vì đây là tỉnh có tiềm năng
phát triển rất cao” - ông Yasuzumi
Hirotak nói.
Theo GS-TSKH Nguyễn Mại, Chủ
tịch Hiệp hội DN Đầu tư nước ngoài,
TTP cũng kỳ vọng sẽ có một cú hích
231
lớn trong thu hút vốn đầu tư từ Mỹ vào
Việt Nam. Khi TPP có hiệu lực, thuế nhập
khẩu hàng Việt Nam vào Mỹ về 0%, các
DN Mỹ sẽ rất có lợi nếu đầu tư vào Việt
Nam sản xuất rôi tái xuất sang Mỹ. Ngoài
ra, TPP sẽ tạo nhiều cơ hội phát triển quan
hệ hợp tác giữa Việt Nam - Hàn Quốc; các
DN Hàn Quốc sẵn sàng đầu tư nhiều hơn
vào Việt Nam để hòa nhập vào những nền
kinh tế lớn trên thế giới, tập trung ở các
lĩnh vực công nghiệp ô tô, dệt may, điện
tử… và một số lĩnh vực truyền thống khác.
BR-VT sẽ hưởng lợi không ít những cơ hội
này, bởi tỉnh có những lợi thế so sánh khá
thuận lợi. Chính vì vậy, các DN và các cơ
quan quản lý nhà nước của BR-VT cần
phân khúc thị trường, xây dựng và thực
hiện tốt chiến lược tiếp thị, xây dựng và
quảng bá thương hiệu… để tận dụng cơ hội
mới này.
Đến nay, trên địa bàn BR-VT có
295 dự án FDI với tổng vốn đầu tư
đăng ký gần 27 tỷ uSD và 432 dự án
đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư
đăng ký hơn 240 ngàn tỷ đông. Nhiều
dự án quy mô lớn đưa vào hoạt động
trong các lĩnh vực công nghiệp, cảng
biển, du lịch… trở thành động lực thúc
đẩy tăng trưởng xuất khẩu, chuyển dịch
cơ cấu hàng xuất khẩu, tăng thu ngân
sách, giải quyết việc làm cho người lao
động… Một số tập đoàn kinh tế xuyên
quốc gia đã đầu tư tại BR-VT như:
Kyoei, Nippon, Sumitomo, Posco,
Lotte, BP…
Thảo Phương
http://www.baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Dự án Nhà máy thép Sendo, KCN Phú Mỹ I (huyện Tân Thành) được khánh thành
và đi vào hoạt động từ tháng 12-2015
232
Đưa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh BR-VT lần thứ VI vào cuộc sống
.
Ông Trần Văn Khánh,
Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bà
Rịa - Vũng Tàu
Sớm đưa Nghị quyết vào
cuộc sống
Để Nghị quyết Đại hội VI
của Đảng bộ tỉnh sớm đi vào
cuộc sống, tôi có mấy suy nghĩ
như sau:
Trước hết, tỉnh BR-VT là
căn cứ dịch vụ cho thăm dò,
khai thác dầu khí. Tới đây, Khu
Lọc hóa dầu Long Sơn sẽ hình
thành, các khu công nghiệp
(KCN) đã và sẽ phát triển
mạnh, mở ra một mảng sản xuất
cho dịch vụ và dịch vụ nên cần
một lượng rất lớn người lao
động có tay nghề. Do vậy, phải có kế hoạch rất cụ
thể để nắm bắt và đáp ứng kịp thời lợi thế này.
Bên cạnh đó, cảng nước sâu là lợi thế của tỉnh.
Vấn đề đặt ra là phải đáp ứng cho hoạt động của
cảng không ngừng phát triển nhộn nhịp và sầm
uất. Muốn vậy phải bảo đảm hậu cần cảng tốt
nhất, để việc chuyển hàng các nơi đến có nơi tập
trung, đóng gói, đưa xuống tàu nhanh. Các tuyến
giao thông vận tải đường thủy, đường bộ, đường
sắt liên hoàn cũng phải sớm hình thành để giải
phóng nhanh hàng và nhận hàng mới.
Mặt khác, cần tập trung xây dựng Tp. Vũng
Tàu trở thành một thành phố công nghiệp, dịch vụ,
du lịch, thương mại có tầm cỡ trong tỉnh và khu
vực; Tp. Bà Rịa là một trung tâm văn hóa - hành
chính - thương mại - dịch vụ tầm cỡ của tỉnh; Tân
Thành là một thành phố công nghiệp - cảng - dịch
vụ; tạo cho các xã, thị trấn như Long Hải, Phước
Hải, Phước Tỉnh, Đất Đỏ, Bình Châu, Hô Cốc,
Phước Bửu, Kim Long, Ngãi Giao…, thành những
cụm đô thị sầm uất, gắn với các xã đạt chuẩn nông
thôn mới thành một khu vực giàu đẹp, văn minh,
có tốc độ phát triển cao.
Ông Mai Ngọc Thuận, Bí thư Thành ủy
Vũng Tàu:
Xây dựng Vũng Tàu trở thành địa chỉ được
lựa chọn của du khách
233
Năm 2013, Tp. Vũng Tàu
đã được công nhận là đô thị loại
I trực thuộc tỉnh, trước 2 năm so
với Nghị quyết Đại hội đề ra.
Tuy nhiên, để Tp. Vũng Tàu
thực sự là đô thị loại I, trong
thời gian tới, thành phố cần
phải tiếp tục thực hiện nhiều
nhiệm vụ quan trọng, bảo đảm
đầy đủ các tiêu chí của đô thị
loại I, kết cấu hạ tầng kỹ thuật
và xã hội cần phải tiếp tục đầu
tư; đặc biệt phải xây dựng con
người Tp. Vũng Tàu thân thiện,
mến khách, văn minh, là thành
phố đáng sống. Để phát triển
du lịch, thành phố tập trung
vào những giải pháp: Tạo lập
môi trường thuận lợi để phát
triển du lịch. Trong đó, môi
trường cảnh quan phải xanh -
sạch - đẹp; môi trường văn hóa
phải văn minh, thân thiện, ấn
tượng; môi trường xã hội phải
trật tự, an toàn. Tăng cường
công tác quản lý nhà nước về
du lịch, văn hóa, trật tự đô thị,
trong đó chú trọng đến việc xây
dựng và phát triển quy hoạch
phát triển du lịch; đông thời
tăng cường kiểm tra, xử lý các
vi phạm về trật tự mỹ quan đô
thị, giá cả dịch vụ du lịch... Có biện pháp quảng
bá, giới thiệu, tạo dựng thương hiệu giá trị đặc
sản địa phương kết hợp với việc tăng cường bảo
tôn, khai thác và phát huy giá trị các di tích lịch
sử văn hóa, thắng cảnh, các lễ hội truyền thống
tại thành phố. Tạo điều kiện thuận lợi, trong đó
tập trung vào cải cách hành chính và đẩy mạnh
tiến độ bôi thường giải phóng mặt bằng các dự
án, nhằm thu hút các nhà đầu tư đến với Tp.
Vũng Tàu. Bên cạnh đó, lựa chọn những nhà đầu
tư có đẳng cấp, có tiềm lực, kinh nghiệm... để
đầu tư tạo ra những sản phẩm du lịch đặc sắc, ấn
tượng, có sức thu hút du khách, trở thành điểm
nhấn về du lịch tại thành phố…
Ông Trần Văn Dũng, Tổng Giám đốc Công
ty CP chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản BR-
VT (Baseafood):
Gia tăng sản xuất các mặt hàng có giá trị cao
Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ VI,
nhiệm kỳ 2015-2020 đã
đưa ra mục tiêu quan
trọng với những đột phá
mạnh mẽ, phù hợp với
giai đoạn phát triển mới
của tỉnh: “Phát triển Bà
Rịa - Vũng Tàu thành tỉnh mạnh về công nghiệp,
cảng biển, dịch vụ hậu cần cảng và du lịch”. Mục
tiêu tổng quát giai đoạn 2015-2020 và định hướng
giai đoạn tiếp theo của tỉnh là tiền đề, là những gợi
mở hết sức thiết thực cho định hướng phát triển
của các đơn vị sản xuất kinh doanh trong tỉnh.
234
Nghị quyết cũng đã dành sự
quan tâm đối với DN nói chung
và DN chế biến hải sản nói
riêng. Để đưa Nghị quyết vào
thực tiễn, ở góc độ DN chuyên
về chế biến XNK thủy sản, định
hướng những năm tới của
Baseafood là không ngừng đầu
tư chuyên sâu và bổ sung trang
thiết bị sản xuất theo dây
chuyền công nghệ hiện đại, đáp
ứng các điều kiện tiêu chuẩn
sản phẩm xuất khẩu sang thị
trường châu Âu và các nước
Nhật Bản, Hàn Quốc; Chú trọng
đặc biệt đến phát triển sản xuất
đi đôi với bảo vệ môi trường;
Gia tăng các mặt hàng có giá trị
cao và làm phong phú các mặt
hàng như hải sản tẩm bột,
nướng, chiên, sushi, nhôi thịt và
các loại nông sản; Giữ vững
thương hiệu sản phẩm hải sản
xuất khẩu Baseafood đã và
đang được tin dùng, tiêu thụ
mạnh tại 40 quốc gia và vùng
lãnh thổ trên toàn thế giới: Nhật
Bản, Mỹ, EU, Hàn Quốc,
Australia, ASEAN…
Ông Nguyễn Xuân Minh,
Bí thư Chi bộ, Phó Giám đốc
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh BR-VT:
Phấn đấu đến cuối năm 2020, nguồn vốn huy
động tại chỗ đạt 148.000 tỷ đồng
Tôi rất tâm đắc với
nội dung Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
VI, trong đó nhấn mạnh
việc triển khai thực hiện
mô hình kinh tế phát
triển theo chiều sâu, có
hiệu quả.
Ngành ngân hàng sẽ xây dựng chương trình
hành động hưởng ứng và chung tay thực hiện mục
tiêu Nghị quyết đề ra. Đó là, điều hành chính sách
tiền tệ linh hoạt nhằm ổn định giá trị đông tiền,
góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm
soát lạm phát, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả huy
động và phân bổ nguôn vốn trong nền kinh tế,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Kiểm soát
thận trọng các giao dịch vốn chu chuyển ngoại tệ
trong nền kinh tế và các rủi ro liên quan đến luông
vốn ra, vào lãnh thổ phù hợp với cam kết quốc tế.
Phát triển các hình thức thanh toán không dùng
tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng dựa trên nền
tảng công nghệ ngân hàng hiện đại, nhiều tiện ích,
dễ tiếp cận.
Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước sẽ bám sát, hỗ
trợ các tổ chức tín dụng trên địa bàn nghiêm túc
triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách
của Nhà nước; chủ động xây dựng các biện pháp
tổ chức thực hiện nhằm hoàn thành kế hoạch kinh
235
doanh được giao, góp phần
hoàn thành nhiệm vụ chính trị
của ngành và thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh;
không ngừng nâng cao công tác
tổ chức huy động vốn, triển
khai các giải pháp linh hoạt để
thu hút nguôn tiền gửi từ nền
kinh tế nhằm chủ động trong
thanh toán và cung ứng vốn tín
dụng cho nền kinh tế; Phấn đấu
đến cuối năm 2020, nguôn vốn
huy động tại chỗ đạt 148.000 tỷ
đông, tăng 74% so với đầu
nhiệm kỳ, mức tăng bình quân
khoảng 14,8%/năm; dư nợ tín
dụng đầu tư các ngành kinh tế
trên địa bàn đạt 62.000 tỷ đông,
tăng 55% so với đầu nhiệm kỳ,
mức tăng trưởng tín dụng bình
quân đạt 11%/năm.
Ông Vũ Nam Cường, Bí
thư Đảng ủy Liên doanh Việt
- Nga Vietsovpetro:
5 năm tới sẽ khai thác 23,45
triệu tấn dầu thô, doanh thu từ
dịch vụ cho bên ngoài 893,4
triệu USD
Là DN Trung ương đứng
chân tại địa phương, Liên doanh
Việt - Nga Vietsovpetro có
trách nhiệm góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu. Bằng hoạt động đặc thù của mình, trong giai
đoạn 2015-2020, Liên doanh Việt - Nga
Vietsovpetro sẽ thực hiện mục tiêu: “Tiếp tục đẩy
mạnh tìm kiếm, thăm dò, tận thăm dò để gia tăng
trữ lượng, nâng cao hệ số thu hôi dầu và hiệu quả
khai thác các mỏ, các công trình biển, đưa nhanh
các mỏ mới vào hoạt động, đẩy mạnh cung cấp
dịch vụ dầu khí chất lượng cao, đổi mới công tác
quản lý nhằm đảm bảo cho Vietsovpetro phát triển
ổn định, lâu dài”. Theo đó, tập trung vào 5 nhiệm
vụ chính: Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến
lược phát triển ổn định Vietsovpetro đến năm
2030 phù hợp với Hiệp định Liên Chính phủ ngày
27-12-2010 và Chiến lược phát triển của Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam đến năm 2035; tiếp tục đẩy
mạnh tìm kiếm, thăm dò dầu khí tại thềm lục địa
Việt Nam, sang Liên bang Nga và các nước khác;
Áp dụng hiệu quả công nghệ truyền thống và công
nghệ mới, bảo đảm khai thác an toàn, nâng cao hệ
số thu hôi dầu các mỏ tại lô 09-1, phát triển khai
thác hiệu quả mỏ khí Thiên Ưng, khẩn trương đưa
các mỏ dầu, khí vào khai thác sớm; Nâng cao
năng suất lao động ở các bộ phận, đơn vị sản xuất,
hạ giá thành sản phẩm, xây
dựng và tổ chức thực hiện
chương trình tổng thể về
quản lý sử dụng hiệu quả
ngân sách, chi phí; Sử
dụng hiệu quả nguôn nhân
lực, phương tiện, thiết bị
và cơ sở vật chất hiện có
236
để gia tăng khối lượng và giá trị
dịch vụ, đẩy mạnh cung cấp
dịch vụ chất lượng cao cho các
tổ chức bên ngoài; Hoàn thiện
cơ cấu tổ chức và định biên lao
động, tiếp tục thực hiện cải cách
hành chính, đảm bảo chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần
cho người lao động. Cụ thể, 5
năm tới, Liên doanh Việt - Nga
Vietsovpetro sẽ gia tăng trữ
lượng thu hôi từ 4,5-5,5 triệu
tấn quy dầu/năm, phấn đấu đạt
hệ số thay thế trữ lượng lớn hơn
1; Sản lượng khai thác dầu thô
23,45 triệu tấn; Doanh thu từ
dịch vụ cho bên ngoài 893,4
triệu USD.
Bà Lê Thị Công, Giám
đốc Sở TN-MT:
Tập trung cải thiện môi
trường, đảm bảo phát triển
bền vững
Để nền kinh tế của tỉnh phát
triển bền vững, Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI đã xác định các
chỉ tiêu môi trường cần đạt
được trong giai đoạn 2015-2020
là: 95% tổng lượng chất thải rắn
sinh hoạt phát sinh tại các đô thị
phải được thu gom, xử lý; 90%
tổng lượng chất thải rắn công
nghiệp nguy hại và không nguy hại được thu gom,
xử lý; 100% chất thải rắn y tế được thu gom, xử
lý; 100% khu công nghiệp, cụm công nghiệp hoạt
động có hệ thống xử lý nước thải tập trung…
Để đạt được các chỉ tiêu về môi trường như
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI đã đề
ra, ngành TN-MT từng bước khắc phục các tôn tại
về môi trường trên địa bàn tỉnh do quá trình phát
triển, hướng đến sự phát triển bền vững. Theo đó,
trong giai đoạn 2015-2020, ngành TN-MT sẽ phối
hợp với các ngành, các địa phương tập trung cải
thiện môi trường tại các khu vực đang bị ô nhiễm:
Cụm chế biến hải sản xã Tân Hải (huyện Tân
Thành); hoạt động chế biến hải sản tại khu vực
Cửa Lấp, khu vực kênh Bến Đình (Tp. Vũng Tàu);
khu vực ao Hải Hà (huyện Long Điền)… Phấn
đấu trong nhiệm kỳ, các cơ sở chế biến hải sản
đang hoạt động hiện nay sẽ được di dời về các khu
chế biến hải sản tập trung. Trong năm 2016, sẽ
đưa Dự án xử lý nước thải đô thị Tp. Vũng Tàu
giai đoạn I với công suất 22.000m3/ngày đêm vào
vận hành để thu gom nước thải đô thị của Tp.
Vũng Tàu, bảo đảm đạt quy chuẩn môi trường
trước khi thải. Đông thời, sẽ sớm đưa vào vận
hành Nhà máy xử lý bụi
lò thép nhằm tăng cường
tính chủ động trong việc
xử lý bụi lò thép phát
sinh trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, ngành TN-
MT sẽ phối hợp chặt chẽ
với Sở NN-PTNT tổ chức
237
rà soát hiện trạng chăn nuôi,
giết mổ gia súc, gia cầm và đề
xuất UBND tỉnh điều chỉnh quy
hoạch tổng thể phát triển ngành
chăn nuôi… Ngành TN-MT sẽ
tham mưu cho tỉnh thu hút các
dự án bảo đảm thân thiện với
môi trường, công nghệ hiện đại
theo đúng tinh thần Chỉ thị
43/CT-TU của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy.
Ông Trương Trọng Ngân,
Bí thư Đảng ủy xã Mỹ Xuân,
huyện Tân Thành:
Tập trung chuyển đổi cơ
cấu kinh tế
Cụ thể hóa Nghị quyết của
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
VI, chúng tôi sẽ đẩy nhanh quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
theo hướng thương mại - dịch
vụ - công nghiệp - nông nghiệp.
Trên địa bàn xã hiện có 5 KCN
với nhiều nhà máy, đã và đang
thu hút nhiều người lao động
trong và ngoài tỉnh đến làm
việc. Để phục vụ cho phát triển
công nghiệp, chúng tôi sẽ làm
tốt hơn công tác giải phóng mặt
bằng, bảo đảm hài hòa lợi ích
giữa doanh nghiệp - nhà nước
và nhân dân. Nhiệm kỳ tới,
chúng tôi cũng chú trọng công tác chăm lo đời
sống cho người nghèo, đối tượng chính sách, nâng
cao đời sống tinh thần và mức hưởng thụ văn hóa
cho người dân địa phương.
Ông Huỳnh Bách Chiến, Bí Thư Huyện Ủy
Xuyên Mộc:
Thực hiện công tác
giảm nghèo bền vững
Tại huyện Xuyên
Mộc, đời sống kinh tế
của một bộ phận nhân
dân còn nhiều khó khăn,
mức thu nhập không
đông đều, tỉ lệ hộ nghèo
của huyện còn cao (3,3%) so với tỉ lệ chung của
tỉnh. Thời gian tới, Huyện ủy sẽ tăng cường chỉ
đạo, lãnh đạo các cấp ủy, các ban ngành đoàn thể
chú trọng công tác giảm nghèo bền vững, khơi dậy
ý chí chủ động, vươn lên của người nghèo.
Huyện Xuyên Mộc sẽ huy động tối đa nguôn
lực đầu tư phát triển, giảm nghèo, ưu tiên thực
hiện đông bộ các dự án, chính sách ở các xã đặc
biệt khó khăn, nhất là hỗ trợ cho gia đình thiếu đất
sản xuất…
Ông Bùi Ngọc Tuấn,
Tổng Giám Đốc Công Ty
Cp Trùng Dương:
Đầu tư thực hiện những
dự án thương mại, chỉnh
trang đô thị
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần
thứ VI đã xác định các chỉ tiêu phát triển thương
238
mại, dịch vụ của tỉnh BR-VT là:
Doanh thu thương mại tăng
13,2%/năm; dịch vụ tăng
11,05%/năm, trong đó dịch vụ
du lịch tăng 12,25/năm; dịch vụ
cảng tăng 6,65%/năm. Trong
giai đoạn 2015-2020, tỉnh BR-
VT phát triển các dịch vụ
thương mại, tài chính, kinh
doanh bất động sản… đáp ứng
kịp thời nhu cầu phát triển và
góp phần tăng mạnh cơ cấu
dịch vụ của tỉnh.
Những năm gần đây, thực
hiện chủ trương, chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà nước, đời
sống của người dân ngày càng
được nâng cao, nhiều chỉ tiêu
kinh tế hoàn thành vượt kế
hoạch đề ra. Thời gian tới, để thực hiện thắng lợi
chỉ tiêu về phát triển thương mại, dịch vụ nêu trên,
theo tôi, tỉnh BR-VT cần tiếp tục kêu gọi các nhà
đầu tư có tiềm lực tài chính mạnh, năng lực
chuyên môn cao đầu tư vào các dự án theo mô
hình công trình tổ hợp đa chức năng về dịch vụ,
du lịch, thương mại, chỉnh trang đô thị. Là DN của
tỉnh BR-VT, Công ty CP Trùng Dương đã và đang
xúc tiến nhanh việc triển khai đầu tư xây dựng
một số dự án có quy mô lớn về dịch vụ, du lịch.
Cụ thể trong giai đoạn 2015-2016 sẽ thực hiện dự
án 23ha tại khu vực Chí Linh - Cửa Lấp (Tp.
Vũng Tàu). Khi dự án hoàn thành sẽ là khu du lịch
cao cấp hiện đại, trung tâm thương mại lớn, trung
tâm giải trí của địa phương, góp phần chỉnh trang
đô thị và thực hiện các chỉ tiêu về phát triển
thương mại, dịch vụ mà Đại hội Đảng bộ tỉnh đã
đề ra.
http://www.baobariavungtau.com.vn
Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
Bà Rịa - Vũng Tàu triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
Ngay sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khóa VI (nhiệm kỳ 2015
- 2020), các Đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy, Đảng đoàn, ban cán sự Đảng đã tổ chức tốt
việc nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết; đồng thời nhanh chóng cụ thể hóa Nghị quyết
nhằm sớm đưa Nghị quyết Đại hội VI của Đảng bộ tỉnh vào cuộc sống.
Bà Nguyễn Thị Thu Hằng - Chủ tịch
Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Châu Đức
cho biết, sau Đại hội, chúng tôi triển khai
Nghị quyết đến các tầng lớp phụ nữ ở cơ
sở; trong đó, tập trung vào các chính
sách chăm lo cho phụ nữ nghèo. Bên
cạnh đó, tăng cường công tác tuyên
truyền các phẩm chất đạo đức của người
phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để chị em tự tin
239
về vai trò, vị trí của mình trong gia đình
và xã hội.
Đại tá Nguyễn Tâm Hùng - Phó Chỉ
huy trưởng kiêm Tham mưu trưởng Bộ
Chỉ huy quân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu cho biết, trong thời gian tới, Đảng
ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh sẽ tập
trung vào công tác quốc phòng, quân sự
địa phương để xây dựng khu vực phòng
thủ tỉnh ngày càng vững chắc. Trong
đó, tập trung huấn luyện nâng cao khả
năng sẵn sàng chiến đấu; chú trọng xây
dựng Ban Chỉ huy quân sự cấp xã vững
mạnh toàn diện.
Để nhanh chóng đưa Nghị quyết Đại
hội VI của Đảng bộ tỉnh vào cuộc sống,
Bí thư Thành ủy Vũng Tàu Mai Ngọc
Thuận cho rằng, trong thời gian tới,
Thành phố cần phải tiếp tục thực hiện
nhiều nhiệm vụ quan trọng, bảo đảm đầy
đủ các tiêu chí của đô thị loại I, kết cấu
hạ tầng kỹ thuật và xã hội cần phải tiếp
tục đầu tư; đặc biệt phải xây dựng con
người thành phố Vũng Tàu thân thiện,
mến khách, văn minh, là thành phố đáng
sống; có các giải pháp hiệu quả để phát
triển du lịch bền vững; tập trung cải cách
hành chính và đẩy mạnh tiến độ bôi
thường giải phóng mặt bằng các dự án
nhằm thu hút các nhà đầu tư đến với
thành phố Vũng Tàu. Bên cạnh đó, tỉnh
cần lựa chọn những nhà đầu tư có đẳng
cấp, có tiềm lực, kinh nghiệm để đầu tư
tạo ra những sản phẩm du lịch đặc sắc,
ấn tượng, có sức thu hút du khách, trở
thành điểm nhấn về du lịch tại thành phố.
Ông Trần Văn Dũng - Tổng Giám
đốc Công ty cổ phần Chế biến và Xuất
nhập khẩu thủy sản tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu nhận định: Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ VI,
nhiệm kỳ 2015-2020 đã đưa ra mục tiêu
quan trọng với những đột phá mạnh mẽ,
phù hợp với giai đoạn phát triển mới của
tỉnh, đó là “Phát triển Bà Rịa - Vũng Tàu
thành tỉnh mạnh về công nghiệp, cảng
biển, dịch vụ hậu cần cảng và du lịch”.
Mục tiêu tổng quát giai đoạn 2015-2020
và định hướng giai đoạn tiếp theo của
tỉnh chính là tiền đề, là những gợi mở hết
sức thiết thực cho định hướng phát triển
của các đơn vị sản xuất kinh doanh trong
tỉnh. Nghị quyết cũng đã dành sự quan
tâm đối với doanh nghiệp nói chung và
doanh nghiệp chế biến hải sản nói riêng.
Để đưa Nghị quyết vào thực tiễn, ở góc
độ doanh nghiệp chuyên về chế biến xuất
nhập khẩu thủy sản, định hướng những
năm tới của Công ty là không ngừng đầu
tư chuyên sâu và bổ sung trang thiết bị
sản xuất theo dây chuyền công nghệ hiện
đại, đáp ứng các điều kiện tiêu chuẩn sản
phẩm xuất khẩu sang thị trường châu Âu
và các nước Nhật Bản, Hàn Quốc; chú
240
trọng đặc biệt đến phát triển sản xuất đi
đôi với bảo vệ môi trường; giữ vững
thương hiệu sản phẩm hải sản xuất khẩu
của Công ty đã và đang được tin dùng,
tiêu thụ mạnh tại 40 quốc gia và vùng
lãnh thổ trên toàn thế giới.
Bà Lê Thị Công - Giám đốc Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu cho biết, để nền kinh tế của
tỉnh phát triển bền vững, Đại hội Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ VI đã
xác định các chỉ tiêu môi trường cần đạt
được trong giai đoạn 2015-2020, đó là:
95% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt
phát sinh tại các đô thị phải được thu
gom, xử lý; 90% tổng lượng chất thải rắn
công nghiệp nguy hại và không nguy hại
được thu gom, xử lý; 100% chất thải rắn
y tế được thu gom, xử lý; 100% khu
công nghiệp, cụm công nghiệp hoạt động
có hệ thống xử lý nước thải tập trung…
Để đạt được các chỉ tiêu về môi
trường như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI đã đề ra, ngành Tài
nguyên và Môi trường từng bước khắc
phục các tôn tại về môi trường trên địa
bàn tỉnh do quá trình phát triển, hướng
đến sự phát triển bền vững. Theo đó,
trong giai đoạn 2015-2020, ngành sẽ
phối hợp với các đơn vị liên quan tập
trung cải thiện môi trường tại các khu
vực đang bị ô nhiễm. Trong năm 2016,
sẽ đưa Dự án xử lý nước thải đô thị thành
phố Vũng Tàu giai đoạn I với công suất
22.000m3/ngày đêm vào vận hành để thu
gom nước thải đô thị của Thành phố, bảo
đảm đạt quy chuẩn môi trường trước khi
thải; đông thời, sẽ sớm đưa vào vận hành
nhà máy xử lý bụi lò thép nhằm tăng
cường tính chủ động trong việc xử lý bụi
lò thép phát sinh trên địa bàn tỉnh. Bên
cạnh đó, ngành sẽ phối hợp chặt chẽ với
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tổ chức rà soát hiện trạng chăn nuôi, giết
mổ gia súc, gia cầm và đề xuất Uy ban
nhân dân tỉnh điều chỉnh quy hoạch tổng
thể phát triển ngành chăn nuôi./.
http://www.baria-vungtau.gov.vn
Cổng thông tin điện tử tỉnh BR-VT
Năm mới, bước trên đường hạnh phúc
Báo cáo của Chính phủ tại kỳ
họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII (diễn
ra từ 20-10
đến 27-11-2015) cho biết, trong số 14
chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội Quốc hội
đề ra cho năm 2015, có 13 chỉ tiêu dự kiến
đạt và vượt kế hoạch, chỉ 1 chỉ tiêu (về độ
241
che phủ rừng) không đạt. Nền kinh
tế tiếp tục đà phục hôi, kinh tế vĩ
mô ổn định, lạm phát được kiểm
soát ở mức thấp. Tốc độ tăng
trưởng GDP, theo Tổng cục Thống
kê, đạt 6,68%.
Tỉnh BR-VT cũng đạt các kết
quả tích cực; nhiều chỉ tiêu kinh tế
đạt và vượt kế hoạch năm 2015 do
HĐND tỉnh giao; trong đó phải kể
đến mức tăng trưởng của giá trị sản
xuất công nghiệp (7,52%), giá trị
sản xuất nông nghiệp (4,27%), giá
trị xuất khẩu trừ dầu khí (8,4%),
dịch vụ cảng (10,22%), tổng vốn
đầu tư trên địa bàn (11,4%) và tốc
độ tăng trưởng GRDP (6,55%).
Năm 2015 đông thời kết thúc kế
hoạch phát triển 5 năm 2011-2015.
Đại hội Đảng bộ tỉnh BR-VT lần thứ
VI (tổ chức tháng 10-2015) đánh giá
chúng ta cơ bản hoàn thành được
các mục tiêu phát triển của giai đoạn
2011-2015; duy trì mức tăng trưởng
kinh tế hợp lý; tạo được những
chuyển biến căn bản trong đời sống
xã hội; 5 trong số 10 chỉ tiêu chủ
yếu thực hiện vượt mức Nghị quyết
đề ra (gôm: dịch vụ du lịch, giá trị
xuất khẩu, tổng thu ngân sách nội
địa, giá trị sản xuất nông nghiệp, tỷ
lệ xã đạt tiêu chí quốc gia về nông thôn mới).
Những năm 2010-2015 là một giai đoạn
khó khăn đặc biệt, mức độ ảnh hưởng của nó
lên toàn thế giới và mỗi quốc gia được coi là
tôi tệ hơn cả cuộc đại khủng hoảng 1929-
1933. Nhưng nền kinh tế nước ta không
những không bị nhấn chìm, mà còn vượt lên
và có những mặt phát triển. Tăng trưởng tuy
thấp hơn 5 năm trước nhưng vẫn đạt tốc độ
khá, mô hình tăng trưởng bắt đầu đổi mới,
kinh tế vĩ mô dần ổn định, cơ cấu kinh tế tiếp
tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa
- hiện đại hóa, lạm phát được kiểm soát, an
sinh xã hội cơ bản được bảo đảm. Đặt trong
bối cảnh toàn cầu suy thoái về kinh tế, rối ren
về chính trị, càng thấy những kết quả đạt
được và sự trưởng thành của đất nước ta trong
giai đoạn 2010-2015 và nói rộng ra cả thời kỳ
30 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986-
2015) là rất đáng quý, là “những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử”.
Năm 2015 cũng là năm diễn ra Đại hội
Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XII. Các đại hội đã đánh giá cả
thành quả và khuyết điểm, phân tích nguyên
nhân, xây dựng định hướng phát triển mới
cho các địa phương trong giai đoạn 2016-
2021. Chẳng hạn với tỉnh BR-VT, mục tiêu
tổng quát của 5 năm tới là phát triển mạnh về
công nghiệp, cảng biển, dịch vụ cảng biển và
du lịch.
242
Tài sản tích lũy từ năm 2015 mà
chúng ta mang theo sang năm mới
không chỉ có các thành quả kinh tế -
xã hội, mà còn là tầm nhìn mới về
tương lai thể hiện qua Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ các địa phương.
Và lúc này, chúng ta đang đứng
trước ngưỡng cửa năm 2016.
Năm 2016 là năm của Đại hội
Đảng lần thứ XII, của bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XIV và HĐND
các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Đây
là một phần quan trọng trong sự
nghiệp chuẩn bị các nền tảng về tư
tưởng, chính trị, tổ chức và nguôn
lực vật chất để Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta thực hiện được mục
tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
Năm 2016 là một năm mới đầy
mới mẻ. Mới trong việc xác định
mục tiêu phát triển, trong giải pháp
và nhân sự thực hiện nhiệm vụ. Thế
giới cũng bắt đầu năm mới trong xu
thế chủ đạo là hòa bình, hội nhập,
hợp tác và phát triển nhưng xen lẫn
với cạnh tranh, tranh chấp khốc liệt
và tiềm ẩn bất ổn. Năm mới có khó
khăn, thách thức đang chờ, nhưng
vẫn rất nhiều hy vọng mới đang thôi thúc
chúng ta đi về phía tương lai; và đó mới là
điều quan trọng nhất.
Ở BR-VT, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ VI đề ra mục tiêu tổng quát:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng bộ; phát huy dân chủ và sức
mạnh đoàn kết toàn dân; xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh; cải thiện chất lượng
cuộc sống nhân dân; bảo đảm ổn định chính
trị, xã hội; xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân vững mạnh, khu vực
phòng thủ vững chắc; phát triển BR-VT thành
tỉnh mạnh về công nghiệp, cảng biển, dịch vụ
hậu cần cảng và du lịch”. Mục tiêu được xây
dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đánh giá
tiềm năng, lợi thế của tỉnh, dự báo tình hình
trong nước và quốc tế. Hoàn thành thắng lợi
mục tiêu này là góp phần thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước.
Chúng ta tin tưởng rằng, với sự lãnh đạo
của Đảng, Chính phủ, sự đoàn kết toàn dân,
sức phấn đấu của mọi người, mọi ngành, đất
nước ta sẽ đạt các thành quả quan trọng về
kinh tế - xã hội trong năm 2016 và nhân dân
ta, dân tộc ta sẽ tiến thêm những bước dài trên
con đường hạnh phúc.
http://www.baobariavungtau.com.vn Báo Bà Rịa - Vũng Tàù
Recommended