View
1
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 23/10)
VN - Index 939,68 1,45%
HNX - Index 105,07 2,30%
D.JONES CK Mỹ 25.191,43 0,50%
STOXX CK C.Âu 3.140,94 1,54%
CSI 300 CK TQ 3.183,43 2,66%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 24/10)
SJC Ng.đ/L 36.640 0,11%
Quốc tế USD/Oz 1233.40 1,00%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.721 0,01%
EUR/USD 1,1473 0,08%
Dầu
WTI USD/th 66,30 4,15%
6
Trong thời gian qua, nhiều ngân hàng,
trong đó có cả các ngân hàng lớn, đã có
những động thái tăng lãi suất huy động.
Theo các chuyên gia, sự vào cuộc của các
“ông lớn” trong cuộc chơi này sẽ dẫn tới
mặt bằng lãi suất huy động mới được thiết
lập tư đó có lo ngai về áp lực lãi suất cho
vay sẽ tăng lên trong thời gian tới. Việc
nâng lãi suất để ổn định giá trị đồng VNĐ
trong ngắn han đều có thể dẫn tới những
rủi ro cho nền kinh tế. Việc tăng lãi suất sẽ
dẫn tới những hệ lụy cho doanh nghiệp
trong năm 2019 và 2020.
Tin nổi bật
Lãi suất huy động thiết lập mặt bằng mới
Thanh khoản hệ thống eo hẹp, lãi suất liên
ngân hàng tăng trở lai
Kịch bản GDP 2018 tăng 7,01% có khả
năng xảy ra
Đai biểu Quốc hội lo lắng nợ Chính phủ
đang tăng nhanh
"1 triệu doanh nghiệp" vì sao khó thành?
Word Bank nâng dự đoán tăng trưởng kinh
tế Campuchia
Thứ Tư, ngày 24/10/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] kehoach@sacombank.com
2
Lãi suất huy động thiết lập mặt
bằng mới
Trong thời gian qua, nhiều NH, trong đó có cả các NH lớn, đã có những
động thái tăng LS huy động. Theo các chuyên gia, sự vào cuộc của các
“ông lớn” trong cuộc chơi này sẽ dẫn tới mặt bằng LS huy động mới
được thiết lập và các DN lo ngai về áp lực LS cho vay sẽ tăng lên trong
thời gian tới. Nếu như trước đây việc tăng LS huy động thường diễn ra ở
các NHTM CP nhỏ khi mà nguồn vốn, thị phần của các NH này kém xa
so với các NHTM CP nhà nước, thì trong thời gian gần đây, các NH lớn
cũng nhập cuộc tích cực trong cuộc đua “hút” vốn. Về nguyên nhân của
việc LS huy động tăng, PGS. TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện
Nghiên cứu KT và Chính sách (VEPR) cho rằng, đó là do thanh khoản
hệ thống eo hẹp (mà nguyên nhân của điều này là do chênh lệch LS huy
động - tín dụng, do NHNN bán ra ngoai tệ để bình ổn tỷ giá cũng làm cho tổng
phương tiện thanh toán tăng chậm hơn…). Nếu như trước đây thường chỉ
có các NH nhỏ nhưng hiện nay ngay cả các NH lớn cũng tăng LS huy
động, chuyên gia TC-NH Nguyễn Trí Hiếu nhận định, nguyên nhân của
việc này là do tính chu kỳ. Trong những tháng cuối năm, các NH cần có
thanh khoản để có nguồn cho vay ra giúp các DN tất toán niên khóa
cũng như thanh toán chi phí và trả lương cho người lao động. Bên canh
lý do về thanh khoản, nhiều NH phải đẩy huy động vốn, trong đó có vốn
dài han lên cao vì NHNN sẽ "siết" tín dụng ngắn han cho vay trung và
dài han trong thời gian tới. Công cụ LS sẽ được áp dụng, vì thế không
nên hy vọng LS sẽ giảm trong thời gian tới. Ngoài ra, việc nâng LS huy
động cũng được xem là biện pháp để ổn định giá trị tiền đồng, kiểm
soát lam phát, cụ thể là tiền nhàn rỗi trong dân chúng sẽ được hút vào
hệ thống NH, trong bối cảnh lam phát 2018 đã tiệm cận mục tiêu và
tăng trưởng KT đã đat được những kết quả khả quan. LS huy động tăng
cao một mặt sẽ tao ra mặt bằng LS huy động mới và chắc chắc sẽ tác
động lên LS cho vay góp phần tao ra mặt bằng LS nói chung tăng lên,
tao áp lực cho DN, ảnh hưởng đến kết quả SXKD cũng như sức canh
tranh của DN. Theo PGS.TS. Nguyễn Đức Thành, việc nâng LS để ổn
định giá trị VNĐ trong ngắn han đều có thể dẫn tới những rủi ro cho nền
KT. Việc tăng LS sẽ dẫn tới những hệ lụy cho DN trong 2019 và 2020.
Tài chính – Ngân hàng
3
Chuyên gia lo ngai “bom nợ” của
doanh nghiệp FDI sau năm 2020
Hai vấn đề quan ngai hiện nay của nền KT là (i) vay nợ nước ngoài của
KV DN có vốn FDI tăng đột biến và (ii) xu hướng "tràn" vốn tín dụng tư
thị trường bên ngoài vào VN qua kênh vay ngang hàng (P2P). Ông
Pham Xuân Hoè, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược NH (NHNN), trong
tổng nợ quốc gia năm 2017, nợ vay nước ngoài ngắn han của các DN
và TCTD theo hình thức tự vay tự trả năm 2017 73% so với 2016.
Trong đó, có khoản vay nước ngoài ngắn han của công ty Vietnam
Beverage vay nước ngoài để mua cổ phần của Tổng công ty Rượu và
Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) trị giá khoảng 5 tỷ USD, #1/4 tổng nợ
nước ngoài ngắn han của quốc gia. "Việc tăng đột biến dư nợ vay ngắn
han nước ngoài (nợ tự vay tự trả của DN và TCTD) khiến dư nợ nước ngoài
quốc gia so với GDP năm 2017 tăng lên 49% GDP, tiệm cận ngưỡng nợ
nước ngoài quốc gia (50% GDP) ảnh hưởng đến chỉ tiêu an toàn nợ
nước ngoài quốc gia và làm giảm dư địa vay nước ngoài quốc gia trong
đó có phần đi vay của các DN VN trong các năm tiếp theo. DN phần
nào sẽ gặp khó trong tiếp cận tài chính để phục vụ hoat động SXKD",
ông Hoè nhấn manh. Trong khi khả năng vay nợ nước ngoài của DN
trong nước bị "eo hẹp" lai, khả năng vay nợ tư các TCTD trong nước
cũng không dễ dàng. Theo Bộ Tài chính, tổng dư nợ tín dụng của các
TCTD đang ở mức 130% GDP. Mối quan ngai thứ hai, theo ông Hoè là
xu hướng P2P đang diễn ra manh mẽ gần đây khi nhu cầu tín dụng trên
thị trường vẫn ở mức cao. Hiện vẫn trong giai đoan đầu nên theo ông
Hoè chưa thể khẳng định xu thế song là hiện tượng cần được theo dõi
bởi đây cũng là kênh tín dụng mới nhưng nảy sinh nhiều bất cập trong
vấn đề thu hồi nợ. "Cách mang công nghiệp 4.0 đã tràn vào, liệu chúng
ta có lợi dụng được 4.0 hay không, nhất là trong bối cảnh còn có những
chính sách quản lý của chúng ta không những chưa theo kịp mà còn trì
trệ so với thực tế phát triển", ông Hoè nhận định.
Thanh khoản hệ thống eo hẹp,
LS liên ngân hàng tăng trở lai
Trong một báo cáo mới đây, CK Bảo Việt (BVSC) cho biết, tuần vưa qua
(15-19/10/2018), thanh khoản hệ thống có phần eo hẹp trở lai. Cụ thể,
trong tuần, NHNN không có hoat động bơm mới nào qua kênh OMO,
trong khi đó lượng vốn đáo han qua kênh này là 0 đồng. Bên canh đó,
qua kênh tín phiếu, NHNN đã phát hành 1.650 tỷ đồng tín phiếu mới
trong khi lượng vốn đáo han đat 1.900 tỷ đồng. Như vậy, tổng hợp hai
kênh OMO và tín phiếu, NHNN đã bơm ròng 250 tỷ đồng vào thị trường.
LS LNH trung bình tuần qua có xu hướng tăng trở lai đối với các loai kỳ
4
han qua đêm, 1 tuần và 2 tuần. Cụ thể LS trung bình các loai kỳ han kể
trên tăng với biên độ 0,27% - 0,34%. Trong đó, LS trung bình kỳ han
qua đêm 0,34% đat mức 3,18%/năm. LS trung bình kỳ han 1 tuần
0,33% đat mức 3,43%/năm. LS trung bình kỳ han 2 tuần 0,27%, đat
mức 3,58%/năm. BVSC cho rằng, diễn biến tăng trở lai của LS LNH đi
kèm động thái bơm ròng của NHNN cho thấy thanh khoản toàn hệ
thống đang ở trang thái eo hẹp. Trên thị trường ngoai hối, tỷ giá giao
dịch trung bình tai các NHTM có xu hướng giảm nhẹ (9,6 đồng) so với
tuần trước đó, về mức 23.340,8 VND/USD. Trong khi đó, tỷ giá trung
tâm có bước 3,6 đồng, về mức 22.717,4 VND/USD. Trên thị trường
TG, chỉ số USD Index có diễn biến tăng (0,567%) so với các đồng tiền
chủ chốt khác (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF), đat mức 95,69 điểm.
Khoảng trống nhà tao lập thị
trường: Đi tìm nhà tao lập thị
trường phái sinh
Ý kiến tư những người trong cuộc cho rằng, có nhiều nguyên nhân
khiến vai trò của nhà tao lập thị trường trên TTCK VN mờ nhat, nhưng
cốt lõi nằm ở mục đích của nhà quản lý, tổ chức thị trường chưa khớp
nối “mượt mà” với mục đích của các tổ chức mong muốn làm nhà tao
lập thị trường. Thậm chí, theo ý kiến tư lãnh đao một số CTCK, NH, nhà
quản lý đang “bắt” các tổ chức trở thành nhà tao lập thị trường phải hy
sinh, chịu thiệt về lợi ích, trong khi đổi lai họ chưa thấy được bù đắp cho
những hy sinh này. Đây trở thành lý do chính khiến các tổ chức dù
muốn làm nhà tao lập thị trường, nhưng vẫn đứng ngoài cuộc. Điều này
cũng không phải là ngoai lệ trên TTCK phái sinh còn non trẻ. Thêm vào
đó, còn thiếu cơ chế thanh toán, vay mượn CK… mang tính ưu đãi với
nhà tao lập thị trường, nên chưa thu hút họ tham gia. Điều quan trọng
đầu tiên là nhà quản lý, tổ chức thị trường cần thay đổi tư duy theo
hướng nhà tao lập thị trường phải cân bằng giữa trách nhiệm và quyền
lợi. Cần khuyến khích nhà tao lập thị trường tham gia bằng những cơ
chế ưu đãi, hỗ trợ, nhất là trong bối cảnh TTCK phái sinh còn non trẻ
như hiện tai. Có những hỗ trợ về cơ chế thanh toán, tiết kiệm cả về thời
gian lẫn chi phí khi vay mượn CK. Cơ quan quản lý, tổ chức thị trường
còn cần có hướng dẫn chi tiết về cơ chế giao dịch chênh lệch giá giữa
thị trường trái phiếu cơ sở và phái sinh trái phiếu, để các tổ chức nhìn
thấy cơ hội kiếm lời, tư đó hấp dẫn họ tham gia. Đồng thời, cần có các
giải pháp bền vững để cải thiện thanh khoản và quy mô cho TTCK phái
sinh, tao triển vọng dài han cho hoat động của nhà tao lập thị trường.
5
Kịch bản GDP 2018 tăng 7,01%
có khả năng xảy ra
Trung tâm thông tin và dự báo KT xã hội quốc gia (NCIF) vưa đưa ra 2
kịch bản dự báo tình hình KT VN năm 2018 và cả năm 2019, trong đó
kịch bản GDP 2018 7,01% có nhiều khả năng xảy ra hơn. NCIF tin
rằng những tháng cuối năm 2018, KT VN sẽ được tiếp đà tăng trưởng
khả quan tư 9th/2018, KTVM ổn định với việc ổn định LS và tỷ giá được
đảm bảo. Đây là những điều kiện thuận lợi để duy trì đà tăng trong các
quý còn lai của năm. Phân tích của NCIF cho thấy, nhiều ngành KT lớn
bước vào chu kỳ tăng trưởng nhanh như công nghiệp chế biến, chế tao;
bán buôn, bán lẻ KD BĐS, DV lưu trú và ăn uống, tài chính, NH, bảo
hiểm… Đồng thời, trên cơ sở lam phát được kiểm soát khá tốt và thu
nhập được cải thiện thì nhu cầu tiêu dùng dự kiến sẽ tiếp tục tăng. Dựa
trên các biến số về dự báo tăng trưởng KT thế giới và giá dầu thô cùng
các biến số trong nước là tỷ lệ đầu tư/GDP; tốc độ tăng lực lượng lao
động, biến động của tỷ giá, LS… Khẳng định của NCIF dựa trên đà
tăng trưởng của năm nay, việc tiếp tục duy trì mục tiêu tổng quát là giữ
vững ổn định KTVM, kiểm soát lam phát, bảo đảm tốc độ tăng trưởng
KT cao hơn năm 2018, nâng cao sức chống chịu của nền KT. Mặt khác,
nền KT tiếp tục có nhiều yếu tố là hậu thuẫn tích cực tư triển vọng tăng
trưởng khả quan của KT thế giới và nền KT tiếp tục hưởng lợi tư những
động lực của nền KT trong nước…
Đai biểu Quốc hội lo lắng nợ
Chính phủ đang tăng nhanh
Các đai biểu Quốc hội cho rằng, báo cáo của Chính phủ cho thấy tín
hiệu khả quan của nền KT năm nay. Nhưng vẫn có những dữ liệu khiến
không ít đai biểu lo lắng. "Nợ Chính phủ đã sát trần 50% GDP Quốc hội
cho phép", ông Trần Hoàng Ngân cho biết. Theo báo cáo Chính phủ, tỷ
lệ nợ công trên GDP có xu hướng giảm dần các năm gần đây, như năm
2017 là 62,6% GDP; năm 2018 là 61,4% GDP và dự kiến năm 2019
khoảng 61,3% GDP. Tuy nhiên, nợ công (nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo
lãnh và nợ chính quyền địa phương) giảm, nhưng trong đó nợ Chính phủ
lai tăng, hiện khoảng 52,8% GDP trong khi trần là 54% GDP. Điều này
đồng nghĩa khoản tiền trả nợ gốc hàng năm của Chính phủ tăng lên.
Theo ông Ngân, năm 2016 tiền trả nợ gốc là 150.700 tỷ đồng; năm
Kinh tế Việt Nam
6
2017 trên 157.000 tỷ và dự kiến 2019 khoảng 201.210 tỷ đồng. Nếu
cộng với con số bội chi ngân sách khoảng 204.000 tỷ, thì Chính phủ
phải bù đắp khoảng 350.000 tỷ đồng/năm, đẩy nợ Chính phủ tăng về số
tuyệt đối. "Nếu GDP không đat kế hoach, nợ tiếp tục tăng thì nợ công
sẽ vượt trần, nhưng điều lo lắng là nợ chi trả của Chính phủ", ông Ngân
nhấn manh. Chủ nhiệm UB Tài chính ngân sách cho rằng, các chỉ tiêu
này còn trong giới han cho phép nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro. Cơ quan
thẩm tra của Quốc hội cũng cho rằng, chỉ trường hợp có tăng thu ngân
sách thì mới được tăng chi và sử dụng dự phòng chung của ngân sách,
không điều chỉnh tăng mức bội chi NSNN, trần đầu tư công, trần nợ
công đã được Quốc hội quyết định (trư trường hợp tăng thu của các địa
phương). Vì vậy, UB Tài chính Ngân sách đề nghị Chính phủ thực hiện
nghiêm các biện pháp đã đề ra để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
"1 triệu doanh nghiệp" vì sao khó
thành?
UBKT Quốc hội vưa đưa ra đánh giá, về phát triển DN, mục tiêu có 1
triệu DN vào năm 2020 khó hoàn thành, đặc biệt khi việc phát triển DN
vẫn tiềm ẩn một số khó khăn và số lượng DN chờ giải thể, phá sản tăng
cao. Sự chậm chap trong việc cơ cấu lai DNNN, đến mức qua non nửa
năm 2018 chỉ cổ phần hóa chưa được 1/10 kế hoach đề ra là một thực
tế không mới nhưng lai chưa thể tìm được lời giải. Chưa tính tới sức
khỏe nội tai của khối DNTN, sự trì hoãn cổ phần hóa khối DN “con
cưng” nói trên cũng đã tác động xấu tới mục tiêu đat 1 triệu DN vào
năm 2020. Có thể viễn cảnh còn ảm đam hơn thế. Đến hết tháng
8/2018, lượng tín dụng đẩy ra nền KT mới chỉ ở mức 8,18%, đặt khả
năng tín dụng sẽ được bơm ra ồ at trong những tháng cuối năm để đat
mục tiêu TTTD. Nếu điều đó xảy ra, kịch bản dồn vốn vào khối BĐS sẽ
lập lai, đẩy DNNVV vào thế khó chồng khó trong tiếp cận vốn. Việc khối
DNNVV đóng góp 50% GDP cả nước chỉ có thể vui gượng vì sự đóng
góp quá sức của các DNNVV nhưng buồn nhiều hơn bởi gánh nặng đặt
lên vai các DN này quá lớn. Xu hướng nhỏ hóa, li ti hóa của DNNVV đã
được cảnh báo và nếu điều này không thay đổi, mức đóng góp 50% nói
trên chỉ khả thể trong hiện tai. Theo PGS–TS.Lê Cao Đoàn, chỉ cần
thêm những cú hích kết nối DNNVV, họ sẽ có thể đàng hoàng đua
tranh với các khối DN khác, kích thích sự hoàn thiện và lớn manh về
chất của toàn bộ khối DN. Có thể sẽ không đủ 1 triệu DN nhưng mức
đóng góp vào nền KT của nhóm DNNVV là không thể hồ nghi.
7
Tiếp thị trực tuyến sẽ chiếm 89%
tổng ngân sách tiếp thị, quảng
cáo
Cuộc khảo sát bao gồm các câu hỏi để khám phá về cách người tiêu
dùng sử dụng các ứng dụng bán lẻ và mua sắm, được Criteo, hợp tác
với Qualtrics and Research Now SSI khảo sát với 2.500 cư dân VN
trong Q.III/2018. Theo kết quả cuộc khảo sát, ngày nay, người mua sắm
trực tuyến không còn chỉ tìm kiếm và lưu các sản phẩm trên những ứng
dụng điện thoai, mà gần như họ sẽ thực hiện đến thao tác cuối cùng
trong việc mua sắm. Cùng với đó, các nhà bán lẻ lớn đã sẵn sàng thiết
lập và thực hiện các chiến lược tiếp thị kỹ thuật số để đáp ứng xu
hướng này, thực hiện các lợi ích trong việc thu hút khách hàng, chuyển
đổi và tái tương tác với khách. Kết quả khảo sát của Criteo cho thấy,
ngày nay, quảng cáo trực tuyến có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất với tỷ
lệ tăng trưởng kép hàng năm lên tới 27% (2014 - 2017). Dự đoán, đến
năm 2022, sẽ có hơn 34% người dùng có tư 2 thiết bị có thể kết nổi trở
lên. Ngoài ra, đến năm 2022, 89% tổng ngân sách tiếp thị sẽ được đầu
tư vào mảng trực tuyến. Đặc biệt, 89% người dùng di động tai VN đã
thực hiện tất cả các bước để mua hàng trong ứng dụng. Có thể thấy
đây là một con số khổng lồ. Để theo kịp hành vi của người mua sắm ở
VN và duy trì hoặc tăng doanh số bán hàng, các nhà bán lẻ khác cần
đánh giá xu hướng này và tập trung manh hơn vào tiếp thị kỹ thuật số.
8
NHTW Trung Quốc sắp cung cấp
1,4 tỷ USD để hỗ trợ các đợt bán
trái phiếu tư nhân?
PBoC dự tính cung cấp 10 tỷ CNY (#1,4 tỷ USD) cho Tập đoàn China
Bond Insurance để hỗ trợ tín dụng cho những đợt bán trái phiếu của các
DNTN. Lượng vốn này là một phần của kế hoach mà PBoC công bố
vào cuối ngày 22/10 nhằm hỗ trợ những DNTN phát hành nợ. Cụ thể,
PBoC tuyên bố về các biện pháp mới để làm giảm bớt căng thẳng trong
hoat động tài trợ cho các DNTN, sau khi các quan chức hàng đầu liên
tục đưa ra tuyên bố trấn an nhằm khôi phục lai niềm tin vào nền KT lớn
thứ hai trên thế giới. PBoC nhấn manh đến lời cam kết liên tục hỗ trợ
của Chủ tịch nước dành cho lĩnh vực tư nhân. Đây là khu vực bị tác
động manh nhất bởi chiến lược giảm bớt nợ và giảm bớt quy mô của
ngành NH ngầm (shadow banking) của Chính phủ. Cú giảm manh của
giá CK và đà giảm tốc của nền KT cũng gây nhiều áp lực tới DNNN.
Ngoài ra, PBoC cũng tuyên bố tăng han ngach tái cho vay và tái chiết
khấu thêm 150 tỷ CNY (22 tỷ USD). Đây là những công cụ cho phép
NHTW cung cấp vốn cho các tổ chức tài chính...
Word Bank nâng dự đoán tăng
trưởng kinh tế Campuchia
Trong Báo cáo KT về KV Đông Á và Thái Bình Dương mới công bố, WB
đã điều chỉnh mức dự đoán tăng trưởng KT của Campuchia lên 7%
trong 2018 sv mức 6,9% đã đưa ra hồi tháng 4. Theo báo cáo, xu
hướng tăng trưởng KT của Campuchia được thúc đẩy chủ yếu nhờ nhu
cầu tư nước ngoài, XK, gia tăng chi tiêu Chính phủ và sự sự lac quan
hơn về cảm tính NĐT. XK các sản phẩm may mặc, giày dép và sản
phẩm du lịch 6th đầu năm 16,1% sv cùng kỳ 2017 và tăng tư mức
8,3% được ghi nhận vào thời điểm cuối năm 2017. Theo cùng với xu
hướng gia tăng đó, NK vải sợi nhằm phục vụ chủ yếu cho SX hàng may
mặc 37,1% trong suốt giai đoan đó. Lượng khách du lịch đã đat mức
3 triệu du khách chỉ riêng trong nửa đầu năm 2018, đat mức 13,6%
sv mức 11,8 % đã đat được trong 2017. Thâm hụt tài khoản vãng lai
có tăng nhẹ trong nửa đầu năm nay nhưng toàn bộ đã được trang trải
bằng dòng vốn FDI. Dòng vốn FDI rót vào Campuchia trong 6th đầu
năm nay 14,3% sv cùng kỳ 2017. Trong đó, hơn ½ đến tư TQ và được
trực tiếp rót vào lĩnh vực BĐS thương mai và nhà ở, SX và nông nghiệp.
Kinh tế Quốc tế
9
“Do nhu cầu toàn cầu tăng tốc trong năm nay, tăng trưởng KT
Campuchia được kỳ vọng vẫn manh mẽ, dù có giảm nhẹ còn 6,8%
trong 2019 và 2020. Tăng trưởng KT manh được kỳ vọng sẽ tiếp tục
góp phần làm giảm tình trang nghèo đói”. Tuy nhiên, những thách thức
và rủi ro mà Campuchia có thể phải đối mặt cũng như có khả năng tác
động đến tăng trưởng KT xuất phát tư chế độ bảo hộ ngày một gia tăng
và khả năng về một sự điều chỉnh đối với khả năng tiếp cận các nền KT
tiên tiến của Campuchia… Trước đó, ADB đã dự đoán nền KT
Campuchia sẽ đat mức tăng trưởng 7% trong 2018 và 2019; IMF dự
đoán KT Campuchia sẽ tăng trưởng 7,25% trong 2018.
Thị trường bất động sản của
Campuchia sẽ chững lai trong 5
năm tới?
Trong báo cáo của IMF về tăng trưởng KT Campuchia được công bố
gần đây, IMF đã dự đoán tăng trưởng KT của Vương quốc sẽ tiếp tục
manh mẽ trong vài năm tới trước khi giảm xuống còn khoảng 6% trong
trung han do ảnh hưởng bởi sự suy yếu trong tăng trưởng năng suất
SX, đáo han tín dụng và các chu kỳ BĐS. “Hiện nay, lĩnh vực BĐS và
XD chính là những yếu tố thúc đẩy chính cho tăng trưởng KT nhưng
trong 5 năm tới, các lĩnh vực khác sẽ thúc đẩy đà tăng trưởng hơn cả
lĩnh vực BĐS và XD”… Theo Thư ký Hiệp hội Các nhà XD Campuchia,
các dự án XD lớn phải mất 3-5 năm mới hoàn thành, thế nên dự đoán
của IMF có thể sẽ trở thành hiện thực khi một số các dự án đó hoàn
thành. “Khi một dự án hoàn thành, NĐT không thực hiện đầu tư mới
ngay mà họ sẽ chờ đợi cho đến khi dự án đó được bán ra để lỡ như đầu
tư có giảm một thời gian thì cũng bù đắp được sau đó”. Cố vấn cấp cao
Emerging Markets Consulting cũng tán thành dự đoán của IMF và cho
rằng, thị trường BĐS của Campuchia sẽ bảo hòa trong 5 năm tới do sự
gia tăng ồ at trong các dự XD lớn. Tuy nhiên, “Lĩnh vực BĐS tai
Campuchia trong 5 năm tới có thể giảm một chút nhưng nếu như các
NĐT TQ tiếp tục đến đây đầu tư, thì lĩnh vực này vẫn luôn khả quan”.
10
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://cafef.vn/lai-suat-huy-dong-thiet-lap-mat-bang-moi-20181023141456434.chn
https://bizlive.vn/tai-chinh/khoang-trong-nha-tao-lap-thi-truong-di-tim-nha-tao-lap-thi-truong-phai-
sinh-3476406.html
http://cafef.vn/chuyen-gia-lo-ngai-bom-no-cua-doanh-nghiep-fdi-sau-nam-2020-
20181023151235621.chn
http://cafef.vn/thanh-khoan-he-thong-eo-hep-lai-suat-lien-ngan-hang-tang-tro-lai-
20181023175919668.chn
Tin KT vĩ mô http://thoibaonganhang.vn/kich-ban-gdp-2018-tang-701-co-kha-nang-xay-ra-81297.html
https://vietnambiz.vn/dai-bieu-quoc-hoi-lo-lang-no-chinh-phu-dang-tang-nhanh-102788.html
https://nhipcaudautu.vn/thuong-truong/1-trieu-doanh-nghiep-vi-sao-kho-thanh-3326485/
https://nhipcaudautu.vn/thuong-truong/tiep-thi-truc-tuyen-se-chiem-89-tong-ngan-sach-tiep-thi-
quang-cao-3326528/
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2018/10/pboc-sap-cung-cap-14-ty-usd-de-ho-tro-cac-dot-ban-trai-phieu-tu-
nhan-775-635199.htm
https://vietstock.vn/2018/10/wb-nang-du-doan-tang-truong-kinh-te-campuchia-1326-635240.htm
https://vietstock.vn/2018/10/thi-truong-bat-dong-san-cua-campuchia-se-chung-lai-trong-5-nam-toi-
1326-635217.htm
11
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mai cổ phần NHTM CP
Cơ sở ha tầng CSHT Ngân hàng thương mai Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân DNTN NSNN NSNN
Doanh nghiệp vưa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN TPCP TPCP
KT vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
KT KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bac Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới World Bank Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO
Recommended