31
TRƯỜNG ĐẠI KINH TTP. HCM KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIP MÔN: TÀI CHÍNH DOANH NGHIP Đề tài: Chi phí đại din trong các công ty cphn và doanh nghip Nhà nước Vit Nam GVHD: TS. Nguyn ThLiên Hoa SVTH : Trnh ThNgc Giang Phm Hng NgNguyn ThThùy Trang Lp : TCDN 4 - K32 Tp. HCM, tháng 01, năm 2009 1

Tailieu.vncty.com chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

Embed Size (px)

DESCRIPTION

http://tailieu.vncty.com

Citation preview

Page 1: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

TRƯỜNG ĐẠI KINH TẾ TP. HCM

KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

MÔN: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Đề tài:

Chi phí đại diện trong các công ty cổ phần và doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

GVHD: TS. Nguyễn Thị Liên Hoa SVTH : Trịnh Thị Ngọc Giang

Phạm Hồng Ngự

Nguyễn Thị Thùy Trang

Lớp : TCDN 4 - K32

Tp. HCM, tháng 01, năm 2009

1

Page 2: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

MỤC LỤC

Lời mở đầu..........................................................................................................4

Phần 1- Những vấn đề cơ bản về chi phí đại diện ..............................................5

1.. Khái niệm về chi phí đại diện .......................................................................5

2. Phân loại .......................................................................................................7

2.1. Chi phí đại diện của vốn cổ phần ............................................................7

2.2. Chi phí đại diện của nợ ............................................................................8

2.3. Chi phí đại diện do bất cân xứng thông tin giữa nhà đầu tư và nhà quản

lý..........................................................................................................................8

3. Có thể triệt tiêu hoàn toàn chi phí đại diện hay không ? ..............................9

Phần 2 - Chi phí đại diện trong các công ty cổ phần và Doanh nghiệp

Nhà nước ...........................................................................................................11

1. Trong công ty cổ phần .................................................................................11

2. Trong Doanh nghiệp Nhà nước ...................................................................13

Phần 3- Giải pháp cho vấn đề chi phí đại diện .................................................19

1.. Trong công ty cổ phần ................................................................................19

2.. Trong Doanh nghiệp Nhà nước ...................................................................27

Lời kết ...............................................................................................................30

Tài liệu tham khảo ............................................................................................31

2

Page 3: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

....................................................................................

3

Page 4: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

LỜI MỞ ĐẦU

Trong một nền kinh tế đầy biến động và phức tạp, quy mô của doanh nghiệp

càng lớn và sự cạnh tranh càng gay gắt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn tìm tòi

và phát triển một cơ cấu tổ chức hoàn thiện và hợp lý. Ở đó vai trò của người quản

trị là cực kỳ quan trọng và quyết định mức độ tồn tại và phát triển của công ty.

Không phải ngẫu nhiên mà trong các công ty lớn, sự phân định giữa quyền sở hữu

và quyền quản lý là điều hết sức cần thiết. Có một số nguyên nhân dẫn tới điều này

và tất cả cũng đều nhằm mục đích giúp cho doanh nghiệp phát triển tốt hơn và

nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty.

Việc tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa chi phí, tối thiểu hóa rủi ro là mục tiêu

của bất cứ doanh nghiệp nào cũng hướng tới. Nói về tối thiểu hóa chi phí, có nhiều

loại chi phí khác nhau, bài viết này muốn đề cập đến vấn đề chi phí đại diện- một

loại chi phí không nhìn thấy được nhưng làm cho doanh nghiệp cũng gặp phải

nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế như hiện nay thì các doanh nghiệp phải

gánh chịu chi phí đại diện ở mức độ cao, việc khắc phục hay làm giảm chi phí đại

diện đòi hỏi sự nghiên cứu kĩ lưỡng.

Trong phạm vi một bài viết nhỏ, chúng tôi xin nêu ra những lý luận khái quát, tình hình thực tiễn và một vài giải pháp cho vấn đề chi phí đại diện ở Việt Nam.

Xin được sự đóng góp ý kiến từ cô và các bạn để bài viết của chúng tôi được hoàn chỉnh hơn. Chân thành cảm ơn!

Nhóm thực hiện đề tài.

4

Page 5: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

PHẦN 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHI PHÍ ĐẠI

DIỆN

1. Khái niệm về chi phí đại diện

Trong một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao, quy mô và mức độ phức tạp của

các doanh nghiệp khiến cho việc điều hành trực tiếp của các chủ doanh nghiệp trở

nên không khả thi và thiếu hiệu quả. Việc điều hành những doanh nghiệp quy mô

lớn và phức tạp đòi hỏi những kỹ năng và phẩm chất mà không phải nhà đầu tư nào

cũng có được. Thực tế đó dẫn tới sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền kiểm

soát. Thật vậy, điển hình trong các công ty lớn, sự phân định giữa quyền sở hữu và

quyền quản lí là điều hết sức cần thiết. Những công ty này có thể có hàng trăm

ngàn cổ đông, do đó không có cách nào thỏa mãn việc tất cả các cổ đông cùng

tham gia quản lý. Từ thực tế này mà ta thấy được sự phân định giữa quyền sở hữu

và quyền quản lí đã đem lại thuận lợi rõ ràng khi nó cho phép chia nhỏ quyền sở

hữu theo những phần vốn góp bằng nhau, từ đó sự chuyển nhượng thay đổi quyền

sở hữu sẽ không gây phiền phức đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Song song đó, sự phân định cũng cho phép công ty thuê những nhà quản lí chuyên

nghiệp để điều hành công ty theo hướng hiệu quả nhất mà vẫn đảm bảo mục tiêu

ban đầu của các chủ sở hữu.

Tuy nhiên, việc phân định quyền sở hữu và quyền quản lí cũng mang lại nhiều

vấn đề phiền phức khi mục tiêu của các nhà sở hữu và mục tiêu của các nhà quản lí

khác nhau. Cả hai bên đều mong muốn tối đa hoá lợi ích của mình, nhưng điều

kiện để tối đa hoá lợi ích của hai bên không giống nhau. Nhà đầu tư mong muốn

5

Page 6: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

tối đa hoá lợi ích của mình thông qua việc tăng giá trị của doanh nghiệp, còn lợi

ích của nhà quản lý thường gắn trực tiếp với thu nhập nhận được. Do nhà quản lý

là người trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nên họ có thể thực hiện

những hành vi hay quyết định nhằm tối đa hoá lơi ích cho cá nhân mình nhưng lại

làm tổn hại đến lợi ích của nhà đầu tư. Những tổn thất gây ra trong trường hợp này

được gọi là tổn thất do phân quyền hay chi phí đại diện (agency costs).

Agency costs - chi phí đại diện là vấn đề thường được nghe nhắc hoặc nói đến

nhiều trong kinh doanh khi mà người chủ và người quản lý không gặp nhau ở mục

đích của mình và vấn đế thông tin bất cân xứng (tình trạng thông tin bất cân xứng

phát sinh khi trong một giao dịch, một trong các bên tham gia có nhiều thông tin

hơn hoặc có thông tin tốt hơn các bên còn lại. Hoặc cũng có thể là trường hợp một

bên tham gia có khả năng áp đặt, tác động hoặc phản ứng lại một hoặc một số

điều khỏan bị phá vỡ trong thỏa thuận mà các bên còn lại không có năng lực đó).

Sự mâu thuẫn giữa mục tiêu của người chủ và người đại diện đã tạo nên mâu

thuẫn giữa người chủ - người đại diện. Các cổ đông là người chủ còn các nhà

quản lý chuyên ngiệp là người đại diện cho họ. Các cổ đông sẽ yêu cầu các nhà

quản lý làm sao để tăng giá trị của công ty nhưng các nhà quản lý có thể tự rút lui

khỏi những công vịêc nặng nhọc này hoặc có thể thu vén cho cá nhân để làm giàu.

Chi phí đại diện xuất hiện khi các nhà quản lý không cố gắng thực hiện nhiệm vụ

tối đa hóa giá trị công ty và các người chủ sẽ gánh chịu phí tổn để kiểm soát ban

quản lý và do đó ảnh hưởng đến công việc của họ.

Chi phí đại diện là chi phí phát sinh gồm:

Chi phí theo dõi bởi người chủ: Đây là những chi phí để giám sát

người đại diện để đảm bảo rằng người đại diện gắn với lợi ích của người

chủ. Đồng thời còn mở rộng hơn nữa là đối với các giám đốc, họ được các

cổ đông khuyến khích làm việc hiệu quả, thì bản thân họ- những nhà quản lý

6

Page 7: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

cấp cao- lại phải tiếp tục suy nghĩ những biện pháp để khuyến khích các

nhân viên dưới quyền mình cũng nỗ lực làm việc- và tất cả những nhân viên

lại là người đại diện cho quản lý cấp cao hơn.

Chi phí ràng buộc bởi người đại diện: Người đại diện gánh chịu chi

phí để cam kết rằng bản thân họ không xâm phạm đến lợi ích của người chủ.

Sự mất mát- những chi phí được kết hợp với một kết quả mà kết quả

đó không hoàn toàn phục vụ lợi ích của người chủ.

Nếu kí hiệu: (M) : chi phí theo dõi bởi người chủ

(B) : chi phí ràng buộc bởi người đại diện.

(R) : sự mất mát.

Khi đó, chi phí đại diện sẽ là : (M) + (B) + (R)

Tổng chi phí theo dõi, ràng buộc, và mất mát phụ trội được gọi là chi phí đại

diện vì chúng xuất phát từ các mối quan hệ giữa người chủ và người quản lý.

2. Phân loại

2.1. Chi phí đại diện của vốn cổ phần

Đây là một dạng chi phí đại diện có nguồn gốc từ mâu thuẫn lợi ích giữa cổ

đông và các nhà quản lý do sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của

các loại hình doanh nghiệp hiện đại.

Khi cổ đông bị giới hạn hoặc mất kiểm soát đối với người quản lý thì phía quản

lý sẽ có động cơ tiến hành những hoạt động có lợi cho bản thân và có thể làm nguy

hại đến quyền lợi của cổ đông. Ví dụ: Người quản lý có thể dùng tài sản của công

ty cho việc riêng bằng nhiều hình thức như lương bổng hậu hĩnh, phát hành cổ

phiếu, hay định giá chuyển giao cho chính mình.

7

Page 8: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

Jensen (1986) gợi ý rằng: Vấn đề chi phí đại diện nghiêm trọng hơn trong các

doanh nghiệp có dòng tiền vượt quá mức cần thiết để thực hiện tất cả các dự án có

hiện giá ròng NPV dương. Ông gọi dòng tiền dôi dư này là dòng tiền tự do, và hậu

quả của chi phí đại diện do dòng tiền này là chi phí đại diện của dòng tiền tự do.

Chi phí đại diện của vốn cổ phần cũng xuất hiện trong tính huống các nhà quản

lý thường xuyên thực hiện những chiến lược đầu tư khiến công ty phát triển vượt

mức tối ưu hoặc tham gia vào những lĩnh vực kinh doanh mà công ty không có lợi

thế cạnh tranh. Với hành động như vậy, nhà quản lý mới có thể tăng quyền hạn của

mình bằng cách thâu tóm nhiều nguồn lực hơn, tăng thu nhập (do mức lương và

tiền thưởng được gắn với doanh số) hay giảm rủi ro mất việc.

2.2. Chi phí đại diện của nợ

Chi phí này phát sinh từ mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và chủ nợ. Trong tình

huống vốn cổ phần của một công ty có vay nợ là một quyền chọn mua đối với tài

sản của công ty, khi đó, cổ đông có thể chiếm hữu tài sản của chủ nợ bằng cách gia

tăng rủi ro đầu tư (Jensen và Meckling 1976). Myers (1977) gợi ý xa hơn là sự hiện

diện của nợ có thể khiến những dự án có NPV dương bị từ chối . Do nếu chấp nhận

dự án này thì rủi ro tài chính sẽ tăng (rủi ro phá sản) và giá trị sẽ chuyển từ cổ đông

sang trái chủ. Do đó, trái chủ sẽ đòi hỏi mức lãi suất cao hơn và kiên quyết áp dụng

những ràng buộc hạn chế vay vốn như khế ước vay nợ và sử dụng các công cụ

giám sát.

2.3. Chi phí đại diện do bất cân xứng thông tin giữa nhà đầu tư và nhà

quản lý

Nhà quản lý có những thông tin mà nhà đầu tư không thể có hoặc không muốn

có do chi phí để thu thập các thông tin đó là quá cao. Ví dụ, nhà quản lý có thể biết

được mức độ nỗ lực của mình trong khi nhà đầu tư không biết được; nhà quản lý

8

Page 9: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

nhờ trực tiếp điều hành nên có được những thông tin nội bộ mà nhà đầu tư hoặc

không biết được hoặc biết nhưng không hiểu được đầy đủ.

Nhà quản lý có thể không nỗ lực với khả năng cao nhất của mình, do đó làm

giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (giám đốc, như bất kỳ một người bình

thường nào khác, có xu hướng thích nghỉ ngơi hơn là làm việc); nhà quản lý có thể

quyết định không đầu tư nguồn lực vào một dự án có khả năng sinh lời cao trong

tương lai vì làm như vậy sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận trong ngắn hạn (nếu thu nhập

của nhà quản lý được xác định dựa trên kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong

ngắn hạn); thậm chí nhà quản lý có thể báo cáo không trung thực về tình hình hoạt

động của doanh nghiệp (earnings management) nhằm đạt mức lợi nhuận kế hoạch

(kèm theo đó là tiền thưởng). Những hành vi như vậy của nhà quản lý sẽ làm tổn

hại tới lợi ích dài hạn của nhà đầu tư. Thế nhưng do tình trạng thông tin không cân

xứng này mà nhà quản lý có cơ hội để thực hiện các hành động này mà không sợ bị

trừng phạt.

Cũng do thông tin mà nhà đầu tư biết được thì rất khác biệt so với thông tin mà

các nhà quản lý nắm giữ như kết quả hoạt động kinh doanh của công ty, các nguồn

tài trợ, các dự án đầu tư… khi đó nhà đầu tư sẽ có những quyết định không đúng.

Điều chúng ta dễ thấy, đó là sự thao túng giá cổ phiếu của một số cổ đông.

Bằng cách này, họ sẽ làm cho giá cổ phiếu của công ty tăng cao. Các nhà đầu tư họ

sẽ không có đầy đủ thông tin để nhận biết điều này. Thông thường việc tăng giá là

do công ty hoạt động có hiệu quả hay có một khả năng tăng trưởng trong tương lai.

Các nhà đầu tư sẽ thông qua giá cổ phiếu trên thị trường mà có thể biết được công

ty hoạt động có hiệu quả hay không. Nhưng sự tăng giá này chỉ do một số cổ đông

liên kết với nhà đầu cơ tạo ra. Khi mà các nhà đầu tư nhận biết, thì lúc ấy giá cổ

phiếu đã giảm mạnh.

9

Page 10: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

3. Có thể triệt tiêu hoàn toàn chi phí đại diện hay không?

Vấn đề người chủ- người đại diện sẽ dễ dàng được giải quyết nếu mọi người

đều nhận được những thông tin ngang bằng nhau.

Nếu thị trường lao động là hoàn hảo thì trong dài hạn những hành vi của nhà

quản lý sẽ bị phát giác. Khi đó, nhà quản lý sẽ phải gánh chịu những hậu quả do

hành vi của mình gây ra. Vì vậy, các giám đốc không có động cơ để thực hiện hành

vi này.

Tuy nhiên, trong thưc tế thị trường lao động là không hoàn hảo, thông tin nhà

đầu tư và nhà quản lí có được là rất khác nhau do đó chi phí đại diện vẫn luôn tồn

tại và chúng ta chỉ hướng tới mục tiêu giảm thiểu chi phí này chứ không phải triệt

tiêu nó hoàn toàn.

10

Page 11: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

PHẦN 2

CHI PHÍ ĐẠI DIỆN TRONG CÁC CÔNG TY CỔ

PHẦN VÀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

1. Trong các công ty cổ phần

Mối quan hệ giữa cổ đông (người sở hữu vốn công ty) và giám đốc (người được

thuê quản trị vốn) và nhiều vấn đề của mối quan hệ này đã được các nhà nghiên

cứu tài chính ở các nước kinh tế thị trường nghiên cứu từ lâu. Lý thuyết về mối

quan hệ này cơ bản dựa trên sự chấp nhận rằng cổ đông và giám đốc luôn có

khuynh hướng cá nhân, tư lợi và cơ hội. Vì thế, mặc dù cùng trong một công ty

(công ty cổ phần), nhưng vì bản chất sở hữu vốn là khác nhau nên cổ đông và giám

đốc tuy về hình thức là cùng hướng đến lợi ích cho công ty, nhưng về bản chất thì

lại thường có đối kháng lợi ích. Lý thuyết này cho rằng khi giám đốc không sở hữu

cổ phiếu hoặc sở hữu không đáng kể cổ phiếu của công ty thì giám đốc thường

không cố gắng làm gia tăng lợi ích của cổ đông, cụ thể là làm gia tăng giá trị cổ

phiếu. Mà ngược lại, giám đốc sẵn sàng đeo đuổi những phương án kinh doanh,

đầu tư, chi tiêu... không mang đến hiệu quả cao nhất, thậm chí không hiệu quả nếu

các phương án, chi tiêu này là có lợi cho giám đốc về lợi ích vật chất, có thể là tiền

bạc, có thể là các kỳ nghỉ, có thể là phương tiện đi lại, phòng ốc làm việc xa xỉ... vì

những chi tiêu không hiệu quả này cụ thể hóa thành chi phí, cổ đông sẽ gánh chịu.

Tất cả các chi phí này gọi chung là chi phí đại diện - chi phí phát sinh do giám đốc

và cổ đông không đồng nhất về mục đích lợi ích.

11

Page 12: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

Chấp nhận lý thuyết về mối quan hệ này trong cơ chế thị trường, có nghĩa là

chấp nhận khuynh hướng tư lợi của giám đốc, các công ty cổ phần đã có cách giải

quyết thực tế và hiệu quả hơn nạn tham nhũng trong công ty.

Bài học thực tế

CÔNG TY COCA – COLA

Vào khoảng những năm 1994-1996, công ty Coca Cola khi mới thâm nhập thị

trường Việt Nam công ty phải tồn tại dưới hình thức là công ty liên doanh, do thời

kì đó chính phủ nước ta chưa cho phép thành lập công ty có 100% vốn nước ngòai

nên có 30% là vốn của doanh nghiệp Việt Nam, 70% là của tập đoàn công ty mẹ

bên Mỹ. Trong trường hợp này ta có thể xem công ty Việt Nam đóng vai trò là chủ

nợ đầu tư vào công ty liên doanh, công ty Coca Cola Mỹ là chủ sở hữu.Với mục

tiêu biến công ty liên doanh trên thành công ty 100% vốn nước ngòai, công ty

Coca Cola Mỹ đã cố tình điều hành công ty liên doanh làm ăn thua lỗ trong thời

gian dài, vì tiềm lực tài chính hạn hẹp công ty Việt Nam không thể tiếp tục đầu tư.

Mặt khác với tình hình làm ăn thua lỗ kéo dài đã làm giá trị công ty liên doanh sụt

giàm nghiêm trọng, trong tình hình đó công ty Việt Nam phài chấp nhận bán lại cổ

phần của mình cho công ty Coca Cola Mỹ với giá rất thấp so với khỏan đầu tư ban

đầu mà công ty Việt Nam đã bỏ ra đầu tư. Bằng chiến lược kinh doanh như vậy,

công ty Coca Cola Mỹ đã chiếm đoạt tài sản của chủ nợ là công ty Việt Nam. Công

ty Việt Nam phải gánh chịu thiệt hại. Đây cũng là một hình thức của chi phí đại

diện.

12

Page 13: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

2. Trong các Doanh nghiệp Nhà nước

Đối với các công ty nhà nước trong cơ chế thị trường, nếu không nhìn nhận một

cách thực tế mối quan hệ chủ sở hữu vốn (ở đây là nhà nước - đại diện cho dân) và

giám đốc thì chắc chắn sẽ không hạn chế được các loại chi phí phát sinh từ mối

quan hệ này. Các chi phí này không là gì khác mà chính là tư lợi và tham nhũng.

Chi phí đại diện xuất hiện trong doanh nghiệp nhà nước không chỉ là việc chi

trả tiền lương, thưởng, các tổn thất có thể nhìn thấy trước mắt, mà còn những chi

phí ẩn đằng sau mà do sức ỳ tâm lý, sự lề mề, thụ động gây ra. Với mức đóng góp

50% cho ngân sách, các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) được coi là chủ lực,

nhưng là chủ lực trên mảnh đất màu mỡ. Trước hết phải kể đến nhóm khai thác tài

nguyên gồm hai ngành quan trọng là dầu khí và than đá. Hai tập đoàn này đã đóng

góp một số thu lớn vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên số thu này không nói lên tài

năng kinh doanh mà là do giá cả tài nguyên, họ là người thay mặt nhà nước khai

thác tài nguyên để bán. Trong lĩnh vực này chưa chứng tỏ được sự vượt trội nào về

áp dụng KHCN hay cải tiến quản lý, làm ra giá trị gia tăng. Ngay như Petro

Vietnam, tập đoàn hàng đầu hiện được coi là quả đấm thép của nền kinh tế, có tuổi

đời hơn 20 năm, nhưng thời gian qua, tập đoàn này chỉ làm được mỗi việc là hút

dầu thô lên để bán. Còn việc xây dựng nhà máy lọc dầu nhằm đa dạng hóa sản

phẩm đang là chuyện của tương lai.

Một số lĩnh vực khác có đóng góp lớn cho ngân sách là Bia, thuốc lá, bảo hiểm,

hàng không. Đây là những ngành đặc biệt, tỷ suất lợi nhuận cao, hiện nhà nước

đang giữ độc quyền, khu vực ngoài quốc doanh chưa thể len chân được. Tuy nhiên,

nguồn ngân sách thu được chủ yếu là thuế gián thu (thu từ người tiêu dùng).

DNNN với chức năng tổ chức sản xuất, cộng với việc xây dựng đại lý bán hàng,

thu thuế từ người tiêu dùng thông qua giá bán trực tiếp. Những DN dạng này, đã có

13

Page 14: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

những bước tiến nhất định, nhưng nếu đủ sức để cạnh tranh với các nước khu vực

thì vẫn là chuyện quá sớm, mặc dù tuổi đời của chúng cũng không hề thua kém các

nước khu vực. Nếu muốn thực sự là chủ lực, hãy tiên phong trên những trận chiến

nóng bỏng, cày quốc trên những mảnh đất xương xẩu. Còn nếu chủ lực chỉ nhăm

nhăm cái gì dễ thì làm, như vậy có còn xứng đáng là chủ lực không?

DNNN là loại hình sở hữu toàn dân, ông chủ Nhà nước đã giao cho một hoặc

một nhóm cá nhân đại diện làm điều đó. Người được giao trọng trách quản lý tài

sản nhà nước thường là Hội đồng quản trị (HĐQT) do Chủ tịch đứng đầu. Những

ông chủ này không có đầy đủ quyền năng (gồm quyền sử dụng, chuyển nhượng và

định đoạt) mà chỉ là một số quyền nhất định. Thường, họ không có một đồng cắc

nào trong DN, nên hầu hết những ông chủ tịch HĐQT này cho rằng, mình là ông

chủ giả.

TGĐ cũng vậy, là người làm công ăn lương 100%, về danh nghĩa, họ là ông chủ

nhưng không có vốn. “Đồng tiền đi liền khúc ruột”, vốn của nhà nước, lãi nhà

nước được, lỗ nhà nước chịu. Với tư cách là ông chủ, họ cần phải chuẩn bị đầy đủ

thủ tục. Nếu lỡ có thua lỗ, có đơn thư khiếu kiện, các cơ quan thanh tra vào cuộc,

có đủ giấy tờ chứng minh rằng quy trình họ không sai là đủ. Nộp nhiều tiền cho

ngân sách cùng lắm cũng chỉ được khen thưởng. “Được khen thì ho hen đầy

mình”, không khéo bị một vài ông chọc ngoáy, tìm kiếm một vài sơ suất nào đó lại

rơi vào vòng lao lý dễ như bỡn. Chẳng dại gì. Nếu lỡ có làm ăn được, phải biết

tiêu.

Đã là DNNN phải chịu cả chục hàng rào giám sát, tưởng như không con ruồi

nào có thể chui lọt. Thực tế là, muốn bổ nhiệm một cán bộ, trước hết phải là người

nằm trong diện quy hoạch. Người này nhiều năm liền phải không có khuyết điểm

nào và được đánh giá tốt về phẩm chất đạo đức cách mạng. Sau đó lấy ý kiến của

cấp ủy, của các đơn vị trực thuộc, của đảng úy khối, của cơ quan chủ quản, Ban nội

14

Page 15: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

chính, Ban Tổ chức, Ban kiểm tra nội bộ... Bằng ấy vòng mới được đưa ra bỏ

phiếu rồi bổ nhiệm. Tưởng như thế, các DNNN sẽ có những cán bộ bằng vàng

ròng. Tuy nhiên, thực tiễn diễn ra lại không như mong muốn. Qua nhiều năm đổi

mới DNNN, chúng ta vẫn có hàng chục cán bộ yếu kém về năng lực, trong đó có

không ít lãnh đạo DNNN phải truy tố vì tội tham nhũng. Một nhà nghiên cứu kinh

tế nói: Với DNNN, cái gì cũng phải thông qua cấp ủy, phải được cấp ủy đồng ý, ra

quyết định, tuy nhiên, chưa bao giờ cáp ủy phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

DNNN là DN nhưng vận hành theo nền hành chính. Do lãnh đạo DNNN chỉ là

người được nhà nước cử để quản lý và kinh doanh vốn của NN nên mọi quyết định

trong DN đều tuân thủ quy trình hành chính. Một giám đốc DNNN lấy ví dụ: muốn

mua sắm hay đầu tư cái gì, dù nhỏ cũng phải tuần tự lên kế hoạch, làm tờ trình, xin

được phê duyệt, gọi thầu, đấu thầu... Nếu chỉ cần bỏ qua một trong các bước đó đã

có thể bị truy cứu về tội “cố ý làm trái”. Không chỉ đầu tư, mua sắm mà ngay cả

tuyển dụng, điều chuyển, bổ nhiệm cán bộ đều phải vận hành theo cơ chế tương tự.

Trong khi đó sự vận hành của thương trường đòi hỏi sự tranh thủ thời gian, nắm

bắt cơ hội, có như thế mới có thể chiến thắng trong cạnh tranh.

Có thể nói rằng, ở nước ta hiện nay, trong các doanh nghiệp nhà nước, chi phí

đại diện là khá lớn. Trong điều kiện tách rời quyền sở hữu và quyền quản lý trong

cá doanh nghiệp nhà nước, nhà nứơc với tư cách là chủ sở hữu, phải thiết lập được

một cấu trúc để kiểm soát những người làm thuê là các giám đốc hoặc các nhà

quản lý để đảm bảo tính hiệu quả trong kinh doanh và duy trì các chi phí giao dịch

ở một mức độ thấp nhất có thể được. Thế nhưng, không bao giờ có sự đồng nhất

tuyệt đối trong mục tiêu giữa người chủ và người đại diện trong quá trình hoạt

động cho dù đó là các DNNN. Người đại diện trong các DNNN vẫn có những mục

tiêu khác với ông chủ nhà nước, mà hiện tượng “công ty một nhà”, “công ty thân

hưu” hoặc tình trạng tham nhũng lãng phí tràn lan trong các DNNN là nỗi ám ảnh

15

Page 16: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

thường trực của ông chủ khi không ít nhà quản lí do nhà nước bổ nhiệm lại tìm mọi

thủ đoạn để làm thất thoát tài sản. vấn đề chi phí đại diện trong các DNNN nhiều

khi còn phức tạp và khó nhận diện hơn cả doanh nghịêp khu vực tư nhân.

Đối với sở hữu tư nhân, các cổ đông cá nhân có quyền lợi và trách nhiệm liên

quan trực tiếp đến tài sản cá nhân. Do vậy, họ có động lực mạnh mẽ trong theo dõi,

kiểm soát việc sử dụng, sinh lời đồng tiền của mình khi giao cho người quản lý.

Đối với chủ sở hữu là nhà nước, sở hữu nhà nước là sở hữu toàn dân. Có thể xem

chính phủ là đại diện của sở hữu toàn dân trong công ty nhà nước. Tuy nhiên,

chính phủ có những thể chế mà có những cá nhân, tập thể được chính phủ giao

nhiệm vụ thực hiện việc quản lý vốn nhà nước trong công ty.

Những cá nhân, tập thể đó thực chất cũng là người đại diện, được ủy quyền

quản lý vốn chứ không phải là những người sở hữu cá nhân đối với tài sản mà

mình quản lý. Như vậy, sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước rất phân tán và nhình

chung những người sở hữu cuối cùng đối với tài sản nhà nước cũng không có khái

niệm rõ ràng về thực hiện quyền làm chủ này như thế nào vì đó là sở hữu thuộc về

sở hữu toàn dân hay của những người đóng thuế.

Việc quản lý vốn trong doanh nghiệp nhà nước là rất quan trọng, nó được thực

hiện qua cơ chế người đại diện quản lý người đại diện. Trong khi đó, doanh nghiệp

tư nhân quản lý theo cơ chế người sở hữu quản lý người đại diện. Trong một nền

kinh tế hệ thống pháp luật các quan hệ kinh doanh chưa hoàn thiện rất dễ xảy ra

tiêu cực. Đây là lý do tại sao Việt Nam hay có những vụ tham nhũng lớn liên quan

tới tài sản của nhà nước. Những vụ tham nhũng từ tài sản tư nhân rất ít xảy ra.

Sở hữu trong công ty nhà nước mang tính chất rất phân tán. Việc quản lý, sử

dụng nó hoàn toàn qua nhiều cấp những người đại diện sở hữu. Sở hữu toàn dân

được giao cho chính phủ quản lý, chính phủ sau đó lại giao cho người đại diện sở

hữu khác (bộ, ngành). Sau đó lại được giao cho người đại diện khác (hội đồng

16

Page 17: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

quản trị). Cuối cùng hội đồng quản trị giao cho tổng giám đốc với vai trò điều hành

việc sử dụng nguồn vốn trên. Do vậy, khả năng kiểm soát của người chủ sở hữu

đối với người đại diện cũng xa vời và khó khăn.

Xu hướng không sử dụng hết và sử dụng kém hiệu quả các thông tin “được

cung cấp” cũng rất phổ biến. Quốc hội, chính phủ không có đủ thông tin cần thiết

về toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước; các bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh

không có đủ thông tin về từng doanh nghiệp nói riêng và tất cả các doanh nghiệp

thuộc thẩm quyền quản lý nói chung; hội đồng quản trị các tổng công ty không có

đủ thông tin cần thiết về từng đơn vị thành viên và toàn bộ tổng công ty. Giám đốc

công ty không có đủ thông tin cần thiết về từng chi nhánh, đơn vị kinh doanh trực

thuộc…

Vì vậy, vấn đề người đại diện trong doanh nghiệp nhà nước có khả năng xảy ra

ở nhiều cấp- từ cấp thấp nhất. Nguyên nhân căn bản của tình trạng trên là do bản

chất tư lợi, luôn quan tâm đến tài sản cá nhân hơn tài sản tập thể. Điều này dẫn đến

chi phí đại diện trong các doanh nghiệp nhà nước lớn và sự hoạt động kém hiệu

quả, thất thoát,lãng phí của một số công ty nhà nước.

Những yếu kém trên đã thúc đẩy quá trình cổ phần hóa mạnh mẽ doanh nghiệp

nhà nước và không ngừng tìm cách minh bạch hóa thông tin và bài toán sử dụng

vốn nhà nước. Trong hơn 20 năm qua tuy đã đạt nhiều thành tựu nhưng hiệu lực

chưa được hòan toàn. Nó phụ thuộc vào tính kỷ luật của những người quản lý,

những người đại diện quyền chủ sở hữu, tính nhất quán và nghiêm khắc trong thực

thi luật pháp, nhất là trong xử lý những cá nhân không công khai hóa các lợi ích

liên quan theo quy định.

Có thể nêu lên một vài vụ việc ở nước ta liên quan đến chi phí đại diện mà đều

có điểm chung là do người điều hành lợi dụng nhiệm vụ được các cổ đông giao

17

Page 18: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

phó để hành động vì mục đích tư lợi cá nhân, gây hậu quả nghiêm trọng đến doanh

nghiệp.

Pjico là một công ty cổ phần, tuy nhiên, sở hữu nhà nước chiếm đa số. Với

cơ cấu sở hữu nhà nước chiếm tuyệt đối như vậy, có thể thấy Pjico mang tính chất

sở hữu nhà nước. Tại hội đồng quản trị của Pjico, các thành viên chủ chốt đa số là

đại diện của các công ty vốn nhà nước như Petrolimex, VCB, VSC…Cơ chế quản

lý nội bộ của chủ sở hữu đối với người điều hành chưa cao. Vì thế, người điều

hành Pjico qua mặt HĐQT một vụ bồi thường có nhiều khúc mắc trị giá tới 3,8 tỷ

đồng. Người bị ảnh hưởng trực tiếp từ vụ bê bối này của người điều hành là các cổ

đông. Tại Pjico, cổ đông chủ yếu là nhà nước và các cổ đông tư nhân. Do vậy, có

thể nhận thấy sự thất thoát rất lớn từ nguồn vốn nhà nước mà căn bản là đi từ

nguồn đóng góp, thuế của nhân dân, vào tay một số người, làm mất tính hiệu quả

của đồng vốn.

Một vụ án nổi tiếng liên quan đến động cơ của người nắm vai trò điều hành

là vụ tham ô, cố ý làm trái của Lã Thị Kim Oanh. Chỉ là giám đốc một công ty nhà

nước, nhưng được sự hỗ trợ của nhiều cán bộ thuộc một số ngành khác nhau, Lã

Thị Kim Oanh đã chiếm dụng và gây thiệt hại cho nhà nước hàng trăm tỉ đồng.

Bùi Tiến Dũng lợi dụng quyền hạn và tiếng tăm của mình tổ chức những

đường dây cá độ và sử dụng những đồng vốn ODA để tư lợi cá nhân. Vụ án đã gây

chấn động dư luận Việt Nam cũng như các nước và tổ chức cung cấp ODA cho

Việt Nam, trong đó có Nhật Bản và Ngân hàng Thế giới. Họ quan ngại việc quản

lý không chặt nguồn vốn vay, làm cho vốn đó bị sử dụng sai mục đích, không giúp

được Việt Nam cải thiện cơ sở hạ tầng. Qủa thật là một chi phí quá lớn cho sự điều

hành lãnh đạo trong quá trình phát triển kinh tế.

18

Page 19: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

PHẦN 3

GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN

Hơn lúc nào hết, vấn đề chi phí đại diện trong doanh nghiệp dường như trở lên

rất nóng. Nhiều doanh nghiệp đã tiến hành tái cơ cấu mạnh, cắt giảm nhân sự, điều

chuyển, kết hợp các bộ phận, đóng cửa, tái cấu trúc từng phần hoặc toàn bộ để

thích ứng tình hình khó khăn. Việc đề ra những giải pháp nhằm giảm thiểu chi phí

đại diện trở nên cấp bách và rất cần thiết tại thời điểm hiện nay.

1. Trong các công ty cổ phần

Trên lý thuyết, các cổ đông, người chủ sở hữu đích thực của một công ty, phải

là người điều hành các hoạt động của nó. Song thật là một điều vô cùng khó khăn

để có thể thống nhất hàng ngàn cổ đông của một công ty, mỗi người nắm một số cổ

phần rất nhỏ của công ty, để đưa ra một quyết định nào đó. Trên thực tế, cổ đông

của các tập đoàn lớn ngày nay rất phân tán và do đó quyền điều hành thực chất lại

nằm trong tay các giám đốc điều hành. Các giám đốc điều hành là những người

được các cổ đông uỷ quyền đứng ra điều hành công ty, đem lại lợi ích cho cả hai

phía.

Tuy nhiên, chính uỷ quyền trên lại gây sự tách rời hay sự chia cắt quyền sở hữu

và quyền quản lý một doanh nghiệp. Sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền quản

lý doanh nghiệp làm nảy sinh các mối lo ngại rằng, những người quản lý sẽ theo

đuổi những mục tiêu rất hấp dẫn đối với họ, song chưa chắc đã có lợi cho các cổ

đông, cho công ty. Người uỷ quyền, chính là các cổ đông, phải tìm cách nào đó để

đảm bảo người được uỷ quyền (các nhà quản lý) hành động vì quyền lợi của người

uỷ quyền. Muốn đạt được điều này các cổ đông phải bỏ ra các "chi phí uỷ quyền"

19

Page 20: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

để giám sát hoạt động của các nhà quản lý và tạo ra những cơ chế khuyến khích

các nhà quản lý theo đuổi việc tối đa hoá lợi ích cho các cổ đông chứ không phải

chỉ vì lợi ích cá nhân.

Rất nhiều phương pháp được sử dụng để đồng nhất hành động của các nhà quản

lý cấp cao với lợi ích của các cổ đông, vì một mục tiêu chung có lợi cho cả hai

phía:

Gắn liền phần thưởng cho nhà quản lý với việc nâng cao lợi ích cho các

cổ đông: Các cổ đông có thể thưởng cho các giám đốc và quản lý cấp cao bằng

quyền mua cổ phiếu, cho phép các nhà quản lý mua cổ phiếu vào một ngày nhất

định trong tương lai tại một mức giá cố định trước. Nếu giá cổ phiếu tăng mạnh kể

từ ngày nhà quản lý được tặng quyền mua cổ phiếu và ngày thực hiện quyền mua

này thì nhà quản lý thực sự sẽ kiếm được một gia tài bằng việc mua cổ phiếu ở

mức giá địn trước và bán ra thị trường. Các nhà quản lý này có một lợi ích rõ ràng

từ việc đẩy giá cổ phiếu lên và như vậy trong một mức độ nào đó đã đạt được sự

đồng thuận với các cổ đông, bởi khi công ty hoạt động tốt thì cả hai sẽ cùng có lợi.

Một phương pháp gần tương tự là phân phối cổ phiếu cho các nhà quản lý doanh

nghiệp nếu họ đạt được một số mục tiêu nhất định xét trên kết quả hoạt động của

công ty, ví dụ, đạt được mức tăng trưởng theo kế hoạch về thu nhập trên đầu cổ

phiếu.

Sa thải: Nguy cơ bị sa thải, với sự mất mát về tài chính cũng như danh dự

có thể sẽ động viên các nhà quản lý giúp họ không đi chệch hướng quá xa so với

định hướng đem lại sự thính vượng của các cổ đông. Tuy nhiên, phương pháp này

ít khi được sử dụng bởi vì nó khó thực thi.

Nguy cơ các nhà đầu tư bán cổ phiếu và công ty bị thâu tóm: hầu hết các

cổ đông lớn (đặc biệt là các tổ chức đầu tư) của các công ty niêm yết lớn đều

không có ý định bỏ ra những khoản chi phí lớn để điều hành và giám sát tất cả các

20

Page 21: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

công ty mà nó giữ cổ phiếu. Hoàn toàn bình thường, phản ứng đầu tiên của các cổ

đông lớn khi họ phát hiện ra rằng hoạt động quản trị đang không diễn ra theo cách

mà họ cho là sẽ đem lại lợi ích tối đa là bán các cổ phiếu đó đi thay vì can thiệp

vào các hoạt động đó. Điều này sẽ làm giảm giá cổ phiếu và khiến việc huy động

vốn trở nên khó khăn hơn. Nếu quá trình này kéo dài, công ty có thể sẽ đứng trước

nguy cơ bị thâu tóm bởi một công ty khác, và đương nhiên các vị trí quản lý cấp

cao sẽ mất việc. Nỗi sợ hãi bị thâu tóm có thể sẽ tạo ra một số điểm dừng nhất định

để ngăn ngừa việc lợi ích của cáccổ đông hoàn toàn bị bỏ qua.

Các qui định về quản chế tập đoàn: có rất nhiều áp lực về mặt pháp lý

cũng như về giám sát (Ví dụ: Luật công ty) được tạo ra để thúc đẩy các nhà quản lý

hành động vì lợi ích của cổ đông. Ví dụ, theo các qui định này ban giám đốc không

thể do một người duy nhất đứng đầu vừa với tư cách chủ tịch vừa với tư các tổng

giám đốc. Đồng thời, các giám đốc không mang tính chất điều hành, nên có thêm

quyền lực để đại diện cho lợi ích cổ đông, đặc biệt, họ phải chiếm đa số trong việc

đưa ra các quyết định liên quan đến lương thưởng của các giám đốc và sổ sách kế

toán của công ty.

Kiểm soát dòng thông tin: các công ty kiểm toán, công ty chứng khoán, sàn

giao dịch chứng khoán, các cơ quan quản lý và cộng đồng đầu tư liên tục đấu tranh

để đòi các công ty đưa ra những thông tin chính xác, kịp thời và chi tiết về hoạt

động của họ. Các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên với chất lượng cao hơn và

sự hiện diện của các thông tin khác cho nhà đầu tư và các chuyên gia phân tích như

các báo cáo tóm lược của công ty và các thông cáo báo chí sẽ giúp giám sát các

công ty tốt hơn, và sớm phát hiện ra bất cứ một động thái nào của các nhà quản lý

bướng bỉnh gây tổn hại lợi ích cho các cổ đông.

21

Page 22: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

Ngoài ra, nhằm giảm thiểu các kiểu chi phí tiêu cực trong các công ty cổ phần,

cổ đông mà cụ thể là hội đồng quản trị thường sử dụng song song hai hệ thống giải

pháp, đó là:

Giám sát (monitoring mechanism) và động viên (incentive mechanism). Cụ

thể là: một mặt, tăng cường kiểm soát, giám sát, đánh giá chi tiêu, đầu tư của giám

đốc, gián tiếp sử dụng triệt để bên thứ ba là ngân hàng và các tổ chức tài chính

kiểm soát hoạt động của giám đốc.

Mặt khác là gia tăng việc sở hữu vốn (cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu) của

giám đốc, đồng thời với các biện pháp khuyến khích khen thưởng để kích thích

tinh thần làm giàu cho cổ đông, cũng là cho chính giám đốc. Các nghiên cứu ở các

nước kinh tế thị trường cho thấy, mức độ sở hữu vốn (cổ phiếu hoặc các quyền

mua cổ phiếu) của giám đốc công ty cổ phần sẽ tỷ lệ nghịch với các loại chi phí

tiêu cực.

Nâng cao đạo đức nghề nghiệp, giáo dục tinh thần làm việc vì lợi ích chung

của công ty cho bộ máy quản lý từ người quản lý cấp cao đến nhân viên.

Có cách thức trả lương cho giám đốc một cách hợp lý

Một cơ chế thù lao hợp lý cho giám đốc phải bảo đảm được tối thiểu ba yêu

cầu:

Thứ nhất, cơ chế thù lao đó phải có tác dụng khuyến khích nhà quản lý làm

việc với nỗ lực cao nhất. Muốn vậy mức thù lao phải tỷ lệ thuận với mức độ nỗ lực

của nhà quản lý.

Thứ hai, cơ chế thù lao phải khuyến khích nhà quản lý đồng thời quan tâm

tới lợi ích ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp.

Thứ ba, phải bảo đảm kiểm soát được mức độ rủi ro đối với doanh nghiệp.

22

Page 23: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

Như đã phân tích ở trên, tình trạng thông tin không cân xứng khiến cho nhà đầu

tư không thể quan sát được mức độ nỗ lực của nhà quản lý. Tuy nhiên, nhà đầu tư

có thể quan sát được kết quả công việc của nhà quản lý thông qua một số tiêu chí

như lợi nhuận, dòng tiền, giá trị thị trường của doanh nghiệp. Xuất phát từ thực tế

đó, một trong những cơ sở để xác định mức thù lao cho các nhà quản lý là lợi

nhuận hằng năm của doanh nghiệp, dựa trên giả thiết lợi nhuận của doanh nghiệp

tỷ lệ thuận với mức độ nỗ lực của nhà quản lý.

Tuy nhiên, sử dụng lợi nhuận để đánh giá hiệu quả công việc của các nhà quản

lý có hai nhược điểm:

Lợi nhuận chịu ảnh hưởng của phương pháp kế toán áp dụng (phương pháp

kế toán khác nhau dẫn tới mức lợi nhuận khác nhau) và thường phản ánh không

đầy đủ nỗ lực của các nhà quản lý (do nguyên tắc thận trọng trong kế toán nên lợi

nhuận thường không được ghi nhận kịp thời).

Trong nhiều trường hợp quyết định của nhà quản lý có thể không mang lại

lợi nhuận trong ngắn hạn nhưng sẽ mang lợi lợi nhuận trong dài hạn. Lợi nhuận kế

toán không phản ánh được yếu tố tiềm năng này.

Tiêu chí thứ hai thường được sử dụng để xác định mức thù lao của các nhà quản

lý là dựa trên mức độ tăng giá trị doanh nghiệp, thể hiện ở mức tăng giá cổ phiếu.(

Phương pháp này khắc phục được hai nhược điểm của lợi nhuận kế toán vì giá cổ

phiếu không phụ thuộc vào phương pháp kế toán áp dụng, đồng thời giá trị cổ

phiếu phản ánh thông tin về tiềm năng của doanh nghiệp cả trong ngắn hạn và dài

hạn.) Mục tiêu của nhà đầu tư là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp, vì vậy gắn thù lao

của nhà quản lý với mức tăng giá cổ phiếu sẽ giúp đồng nhất hoá mục tiêu của nhà

quản lý và nhà đầu tư, do đó hạn chế chi phí đại diện.( Tuy nhiên, cũng như lợi

nhuận kế toán, cơ chế thù lao gắn với giá cổ phiếu cũng có những hạn chế. Giá trị

cổ phiếu chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của các nhà

23

Page 24: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

quản lý. Ví dụ, những biến động của cả nền kinh tế khiến cho giá trị cổ phiếu của

doanh nghiệp biến động theo; sự không hoàn hảo của thị trường chứng khoán

khiến cho giá trị cổ phiểu phản ánh không chính xác giá trị của doanh nghiệp. Nói

cách khác, giá trị cổ phiếu không phải là một thước đo hoàn hảo cho mức độ nỗ lực

của nhà quản lý. Như vậy, có thể thấy sử dụng lợi nhuận kế toán hay giá trị cổ

phiếu để đánh giá hiệu quả công việc của các nhà quản lý đều có những ưu và

nhược điểm. Liệu kết hợp cả 2 tiêu chí này có mang lại một kết quả tốt hơn?

Holmstrom (1979) nghiên cứu vấn đề này và chỉ ra việc sử dụng đồng thời lợi

nhuận kế toán và giá cổ phiểu mang lại kết quả tốt hơn sử dụng một trong 2 tiêu

chí riêng lẻ.) Trên thực tế hầu hết các công ty lớn ở những nước có thị trường

chứng khoán phát triển đều sử dụng đồng thời hai chỉ tiêu này trong việc xây dựng

cơ chế thù lao cho giám đốc điều hành.

Yêu cầu thứ hai đối với cơ chế thù lao là phải khuyến khích nhà quản lý đồng

thời quan tâm đến lợi ích ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp. Cần lưu ý là cả

lợi nhuận kế toán và giá trị cổ phiếu đều có thể bị phản ánh sai lệch trong ngắn hạn

nếu nhà quản lý cố tình lợi dụng tình trạng thông tin không cân xứng để bóp méo

thông tin về kết quả hoạt động của doanh nghiệp (earnings management). nhà quản

lý cố tình lợi dụng tình trạng thông tin không cân xứng để bóp méo thông tin về kết

quả hoạt động của doanh nghiệp có thể được thực hiện bằng cách thay đổi các

chính sách kế toán áp dụng nhằm làm thay đổi bức tranh tài chính của doanh

nghiệp, “đánh lừa” các nhà đầu tư (ví dụ: vốn hoá các chi phí không đủ điều kiện

vốn hoá nhằm tăng lợi nhuận), không hợp nhất các công ty con nhằm che giấu các

khoản nợ). Bóp méo kết quả hoạt động của doanh nghiệp cũng có thể được thực

hiện bằng cách cố tình dàn xếp các giao dịch nhằm thay đổi kết quả hoạt động của

doanh nghiệp trong năm (ví dụ: để đạt kế hoạch doanh thu, các công ty sản xuất

ôtô có thể công bố kế hoạch tăng giá bán xe đầu năm sau nhằm tăng số lượng xe

24

Page 25: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

bán ra cuối năm hiện tại; để tăng lợi nhuận năm hiện tại doanh nghiệp có thể giảm

bớt chi tiêu cho nghiên cứu phát triển). Đặc điểm chung của các biện pháp bóp

méo kết quả hoạt động của doanh nghiệp này là làm tăng kết quả hoạt động kinh

doanh năm hiện tại, nhưng sẽ làm giảm kết quả hoạt động trong tương lai (chi phí

vốn hoá năm nay sẽ được ghi nhận vào chi phí năm sau; số xe bán ra tăng thêm

trong tháng cuối năm nay sẽ làm giảm số xe bán ra năm sau; cắt giảm chi phí

nghiên cứu phát triển có thể hạn chế những cơ hội đầu tư tốt trong tương lai). Kết

quả là lợi ích của nhà đầu tư trong dài hạn bị tổn hại. Để ngăn chặn nguy cơ này,

thông thường một phần thù lao của nhà quản lý sẽ được xác định theo kết quả hoạt

động của doanh nghiệp trong một số năm (ví dụ: 3 năm liên tiếp) thay vì một năm

hiện tại. Một biện pháp nữa cũng thường được sử dụng là trả thù lao cho nhà quản

lý bằng chính cổ phiếu, hoặc yêu cầu các nhà quản lý nắm giữ một tỷ lệ nhất định

cổ phiếu của doanh nghiệp. Bằng cách đó nhà đầu tư khuyến khích nhà quản lý nỗ

lực trong việc tăng giá trị của doanh nghiệp trong dài hạn.

Một yếu tố rất quan trọng nữa cần phải tính đến trong xây dựng một cơ chế thù

lao là phải bảo đảm một mức độ rủi ro hợp lý đối với doanh nghiệp. Rủi ro luôn

tiềm tàng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Do thù lao của nhà quản lý gắn với

kết quả hoạt động của doanh nghiệp (lợi nhuận) và giá trị cổ phiếu nên thu nhập

cũng biến động tỷ lệ thuận với các chỉ tiêu này. Như vậy, rủi ro của doanh nghiệp

kéo theo sự không chắc chắn về mức thu nhập, chính là rủi ro mà nhà quản lý phải

gánh chịu. Các nhà quản lý, cũng như những người bình thường, nói chung không

ưa thích rủi ro (risk-averse). Vì vậy, cơ chế thù lao có thể ảnh hưởng tới hành vi

của nhà quản lý. Nếu thù lao của nhà quản lý hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả kinh

doanh của doanh nghiệp thì nhà quản lý có xu hướng hạn chế rủi do cho mình bằng

cách từ bỏ những dự án có lợi nhuận tiềm năng cao nhưng mức rủi ro cũng cao để

tập trung vào những dự án có mức lợi nhuận vừa phải nhưng ít rủi ro hơn. Điều

25

Page 26: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

này đi ngược lại mong muốn của nhà đầu tư (thường có xu hướng chấp nhận rủi ro

cao hơn với mong muốn thu được lợi nhuận cao). Nguy cơ này có thể được hạn

chế bằng cách trả cho nhà quản lý một mức lương tối thiểu (base salary), không

phụ thuộc vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Tức là nhà quản lý sẽ được

hưởng một mức thu nhập cố định nếu kết quả hoạt động trong năm đạt dưới mức

tối thiểu nào đó. Nếu kết quả hoạt động vượt trên mức tối thiểu thì thu nhập sẽ tăng

tỷ lệ thuận với kết quả hoạt động. Tuy nhiên, việc áp dụng lương cơ bản như vậy

có thể khiến cho nhà đầu tư phải đối mặt với nguy cơ rủi ro quá cao (so với mức

rủi ro mà nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận). Nhà quản lý, được hạn chế thiệt hại (tối

thiểu cũng được hưởng mức lương cơ bản) trong khi không bị hạn chế lợi ích tối

đa, sẽ có xu hướng lựa chọn những dự án có mức lợi nhuận tiềm năng cao (hứa hẹn

thù lao cao) nhưng đồng thời mức rủi ro cũng rất cao. Ý thức được nguy cơ này,

cùng với lương cơ bản thông thường các doanh nghiệp cũng xác định một mức thù

lao tối đa. Khi mức thù lao thực tế của giám đốc (xác định theo kết quả hoạt động

của doanh nghiệp) đạt tới mức tối đa này thì sẽ không có thưởng nữa. Bên cạnh đó,

các doanh nghiệp thường sử dụng một hội đồng chuyên trách (compensation

committee) như là một biện pháp kiểm soát rủi ro. Hội động này có trách nhiệm

quyết định mức thù lao cuối cùng cho nhà quản lý, dựa trên cơ sở đánh giá một số

tiêu chí mang tính định tính (khả năng lãnh đạo, sáng kiến…), đồng thời rà soát lại

các tiêu chuẩn định lượng để bảo đảm mức thù lao là hợp lý và công bằng. Trong

nhiều trường hợp nếu hội đồng này xác định doanh nghiệp không đạt chỉ tiêu kế

hoạch nhưng do những nguyên nhân khách quan chứ không phải do lỗi của nhà

quản lý thì nhà quản lý vẫn có thể được thưởng cho những nỗ lực của mình.

Tóm lại, có thể thấy một cơ chế thù lao cho giám đốc hợp lý cần phải kết hợp

được tối thiếu các yếu tố: có tính khuyến khích cao; kết hợp lợi ích ngắn và dài

hạn; và bảo đảm mức rủi ro hợp lý cho nhà đầu tư.

26

Page 27: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

2. Trong các Doanh nghiệp Nhà nước

Qua những thực tế cho thấy, chi phí đại diện trong hoạt động doanh nghiệp nhà

nước là rất lớn, vậy đâu là giải pháp?

Giải pháp đầu tiên cho vấn đề này là đoạn tuyệt hoàn toàn với cơ chế “bổ

nhiệm” các quan chức trong hội đồng quản trị, ban giám đốc và các nhà quản lý.

Điều này đòi hỏi trong số những thành viên cấp cao trong DNNN - ngoài những

viên chức Chính phủ đại diện cho phần vốn của nhà nước - phải có sự tham gia của

các nhà đầu tư bên ngoài, các chuyên gia và đại diện các định chế tài chính. Ở

những nền kinh tế mà thị trường chứng khoán vẫn còn kém phát triển như Việt

Nam, vai trò của các ngân hàng thương mại vẫn có một tầm quan trọng về lâu dài

trong huy động vốn cho các DNNN. Chính vì thế, việc tạo ra những chính sách và

cơ chế để cho các ngân hàng thương mại tham gia vào hội đồng quản trị trong các

DNNN hiện nay là điều cần được Chính phủ quan tâm nghiên cứu. Các ngân hàng

thương mại quốc doanh hiện là những nhà tài trợ “các khoản nợ xấu” lớn nhất cho

các DNNN ở nước ta nhưng chẳng thấy ai là thành viên trong hội đồng quản trị

thực hiện chức năng giám sát.

Nhưng nếu chỉ cải cách cấu trúc bên trong của DNNN không thôi cũng chưa đủ.

Còn phải có những cấu trúc kiểm soát bên ngoài, đó là một thị trường hàng hóa, thị

trường vốn cạnh tranh và năng động, một hệ thống các thể chế pháp lý thật minh

bạch, những quy định về trách nhiệm giải trình của các thành viên trong hội đồng

quản trị và vấn đề phá sản DNNN. Ngoài ra, phải đoạn tuyệt hoàn toàn với việc

cấp vốn ngân sách cho các DNNN, cải tổ toàn diện hệ thống ngân hàng thương mại

quốc doanh và phát triển một thị trường chứng khoán năng động.

27

Page 28: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

Ngoài vấn đề minh bạch hóa thông tin trong các DNNN cũng như tạo ra những

áp lực kiểm soát của thị trường lên các doanh nghiệp, Chính phủ cần phải buộc các

DNNN tiến hành các chương trình IPO - phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng

- và niêm yết trên thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế, như Trung Quốc

đã và đang thực hiện một cách thành công. Đây chính là việc đặt các áp lực kiểm

soát của thị trường lên các DNNN và cũng để thu hút thêm các nhà đầu tư chiến

lược vào trong hội đồng quản trị. Các nhà đầu tư chiến lược này cùng với các ngân

hàng thương mại và các thành viên đại diện vốn của nhà nước tiến hành bầu ra chủ

tịch hội đồng quản trị và các thành viên có năng lực, chứ không phải chỉ là các

viên chức nhà nước hoàn toàn do Chính phủ chỉ định như hiện nay. Có thể nói cổ

phần hóa công ty nhà nước - để các hoạt động cũng như năng lực của giám đốc

được thị trường giám sát và đánh giá - là một trong các giải pháp chống tham

nhũng ở công ty nhà nước. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tức là cụ thể hóa

chủ sở hữu, làm tăng khả năng giám sát của cổ đông, nhà nước đối với hoạt động

của doanh nghiệp. Đây là giải pháp hiệu quả nhất mà nhà nước ta đang thực hiện.

Thế nhưng, nếu chưa cổ phần hóa công ty nhà nước được, thiết nghĩ nhà nước

cũng nên chấp nhận quy luật thị trường, ở đây là chấp nhận khuynh hướng tư lợi

của giám đốc, để tìm ra giải pháp chống tham nhũng.

Sau đây, một vài biện pháp nhằm hạn chế chi phí đại diện trong các DNNN:

Trước hết, nên tăng cường giám sát giám đốc. Đối với giám đốc của các

tổng công ty, nếu cần, buộc phải định kỳ giải trình hoạt động của mình với Quốc

hội hay các tiểu ban của Quốc hội.

Thứ hai, nên tăng cường việc thuê giám đốc từ bên ngoài dựa trên năng lực

thực sự để quản trị các công ty nhà nước. Các nghiên cứu cho thấy năng lực của

giám đốc tỷ lệ nghịch với việc bòn rút công ty vì các giám đốc có năng lực không

ngại tìm việc có lương bổng hậu trên thị trường. Mặt khác, họ rất ngại các xì căng

28

Page 29: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

đan sẽ ảnh hưởng uy tín của họ trên thị trường lao động bậc cao.Vì thế có khuynh

hướng cố gắng thể hiện mình qua việc làm tăng hiệu quả kinh doanh, đầu tư của

công ty. Trong khi đó, các giám đốc yếu kém thì ngược lại và thường cố “bám”

công ty, và nếu được che chắn bởi quan hệ từ các quan chức nhà nước thì các giám

đốc năng lực kém nhưng thế lực mạnh sẽ càng có cơ hội tham nhũng.

Thứ ba, cải thiện, nâng cao mức sống của người quản lý bằng cách nâng cao

mức lương, tiền thưởng để kích thích người quản lý cố gắng vì lợi ích chung,

không tạo điều kiện để họ lợi dụng quyền hạn chiếm đoạt tài sản công. Ngoài

ra,cần có chính sách lương bổng, khen thưởng bằng văn bản cụ thể khi công ty

hoàn thành những mục tiêu nhất định, nhằm động viên giám đốc hành xử vì lợi ích

của công ty.

Thứ tư, cần giám sát chặt chẽ việc đầu tư cá nhân của giám đốc (giám đốc

phải chấp nhận điều này như một điều kiện để được bổ nhiệm, đề bạt) vì thực tế

cho thấy, giám đốc sẽ không toàn tâm toàn ý với công ty khi thu nhập của họ chủ

yếu đến từ việc đầu tư (cổ phiếu) vào các công ty cổ phần khác, thậm chí là công ty

cạnh tranh với công ty họ làm giám đốc. Trong trường hợp như vậy, có thể thấy

rằng giám đốc sẵn sàng hy sinh lợi ích của công ty nhà nước để hưởng lợi từ công

ty mà họ có cổ phần.

29

Page 30: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

LỜI KẾT

Theo đà phát triển của nền kinh tế, việc thành lập các công ty, các tập đoàn kinh

tế là vấn đề hết sức phổ biến, cần thiết để mở rộng quy mô hoạt động và khai thác

hết các thế mạnh tiềm năng của quốc gia. Chi phí đại diện cho dù đã có nhiều biện

pháp để hạn chế, giảm thiểu xuống mức thấp nhưng nó vẫn tồn tại cùng với doanh

nghiệp. Vấn đề chi phí đại diện được xem xét, phân tích cũng như tìm hướng giải

quyết tương đối ổn ở nước ngoài trong thời gian qua. Do đó, chúng ta có thể tận

dụng những biện pháp mà họ đã sử dụng để áp dụng vào nước ta, tuy nhiên cần

chú ý đến sự linh hoạt, sự phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam với một nền

kinh tế thị trường vốn còn non trẻ.

Một hướng gợi mở cho vấn đề này là tăng cường tính hiệu quả của hệ thống

quản trị doanh nghiệp để việc quản lý và điều hành doanh nghiệp đi theo cách mà

tất cả quyền lợi của cổ đông luôn được bảo vệ, đồng thời có thể nâng cao tính minh

bạch trong quản lý và điều hành, tạo ra sự tin tưởng cho cổ đông, nhà đầu tư, nhân

viên…và giúp doanh nghiệp ngăn ngừa và phát hiện những gian lận tài chính và

các hành vi tham nhũng.

Nhận ra được sự tồn tại của chi phí đại diện và tìm các khắc phục nó, các công

ty cổ phần cũng như các doanh nghiệp nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp, tuy

vậy đây vẫn còn là một vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu để tìm ra

được những hướng đi tích cực cho việc hạn chế chi phí này, có như vậy hoạt động

của doanh nghiệp mới được nâng cao và người chủ sở hữu mới yên tâm, mạnh dạn

trong việc đầu tư vào sản xuất, phát triển kinh tế vươn cao và vươn xa hơn nữa.

30

Page 31: Tailieu.vncty.com   chi-phi-dai-dien-trong-cac-cong-ty-co-ph

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS Trần Ngọc Thơ (chủ biên): Giáo trình Tài chính doanh nghiệp hiện

đại – Nhà xuất bản Thống Kê năm 2007.

2. http://www.saga.vn/Hoidap_KT

3. http://www.dpi.danang.gov.vn/tiengviet/bangtin

4. http://cfo.com.vn/index

5. http://www.vnlawfind.com.vn

31