Upload
independent
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
Trong quan hệ giao dịch hàng ngày, ngoài hợp đồng
lao động (xác lập trong quan hệ mua bán sức lao
động), từ 01/01/2006, khi áp dụng Bộ luật dân sự
2005 và Luật thương mại 2005, các giao dịch khác
đươc xếp vào một trong hai loại hợp đồng : hợp đồng
dân sự và hợp đồng thương mại Theo điểm 4 LTM 2005,
đối với các hoạt động thương mại đặc thù được qui
định trong luật khác thì áp dụng theo qui định của
luật đó. Trường hợp hoạt động thương mại không được
qui định trong Luật thương mại (2005) và trong các
luật khác thì áp dụng qui định của Bộ luật dân sự
2005.
Ngoài ra, trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên có qui định áp dụng pháp luật nước
ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có qui định
khác với qui định của Luật thương mại (2005) thì áp
dụng theo qui định của điều ước quốc tế đó.
Các bên trong giao dịch có yếu tố nước ngoài được
thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán
thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập
quán thương mại quốc tế đó không trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (điểm 5
LTM 2005)
1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM:
1.1. Khái niệm:
LTM 2005 không định nghĩa thế nào là hợp đồng
thương mại nhưng theo điểm 1 và điểm 2 của LTM 2005
(nêu phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh của
LTM 2005) có thể định nghĩa : “hợp đồng thương mại là sự
thỏa thuận để thực hiện các hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt
Nam và hoạt động thương mại ngoài lãnh thổ Việt Nam nếu các bên
thỏa thuận áp dụng luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên có qui định áp dụng luật này.”
Có nhiều cách hiểu về khái niệm Hợp đồng Thương mại
được nêu ra, phổ biến là cách hiểu như sau: Hợp
đồng thương mại là hợp đồng mà sự thỏa thuận nhằm
mục đích sinh lợi với ít nhất một bên là thương
nhân.
Để xem xét một hợp đồng thương mại, có hai yếu tố
cơ bản cần lưu tâm gồm: Nội dung và chủ thể ký kết.
Luật Thương mại 2005 đưa ra khái niệm: “Thương nhân
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh.”
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vu, đầu tư, xúc tiến thương mại (gồm hoạt động
khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới
thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ triển lãm thương
mại) và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác.
Hàng hóa trong hoạt động thương mại gồm tất cả các
loại động sản (kể cả động sản hình thành trong
tương lai) và những vật gắn liền với đất đai.
Ngoài ra, Luật Thương mại cũng có quy định thêm về
những đối tượng cũng thuộc phạm vi điều chỉnh là tổ
chức, cá nhân hoạt động có liên quan đến thương
mại.
Hoạt động thương mại cũng được định nghĩa là “hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác”. Tức là mục đích của việc hoạt
động thương mại là phải phát sinh lợi nhuận.
Trong khi Hợp đồng Dân sự được quy định như sau:
“Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”. Với đối tượng điều chỉnh khá rộng là cá
nhân, pháp nhân, tổ chức trong quan hệ dân sự,
thương mại, lao động,... và mục đích sinh lợi không
phải là yếu tố bắt buộc cấu thành quan hệ hợp đồng.
Đành rằng Hợp đồng Dân sự áp dụng Bộ luật Dân sự,
Hợp đồng Thương mại áp dụng Luật Thương mại và các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, nhưng về
thực tiễn áp dụng sẽ gây khó khăn trong việc xác
định chính xác loại hợp đồng. Đơn cử đối với quy
định về mức phạt vi phạm hợp đồng đối với hợp đồng
thương mại, mức phạt không được vượt quá 8% giá trị
phần nghĩa vụ bị vi phạm, còn trong hợp đồng dân
sự, mức phạt vi phạm sẽ do các bên thỏa thuận.
Đối với khái niệm Hợp đồng Thương mại, PLF cho
rằng: Hợp đồng Thương mại là sự thỏa thuận giữa các
bên (mà ít nhất một bên là thương nhân hoặc tổ
chức, cá nhân hoạt động có liên quan đến thương
mại) để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và
nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện các hoạt
động thương mại nhằm mục đích sinh lợi.
1.2. Đặc điểm :
Các đặc điểm của HĐDS và HĐTM cũng chính là các căn
cứ để phân biệt hai loại hợp đồng này, đó là xét về
mục đích giao dịch, chủ thể tham gia và hình thức
giao dịch:
1.2.1. Về mục đích :
Mục đích để xác lập hợp đồng thương mại là nhằm
sinh lợi. Sinh lợi được hiểu là nhằm tìm lợi nhuận
(không nhất thiết phải có lợi nhuận). Tuy nhiên,
theo điểm 1 LTM 2005, hoạt động của một bên không
nhằm mục đích sinh lời với thương nhân trên lãnh
thổ VN cũng áp dụng LTM để giải quyết trong trường
hợp được bên đó lựa chọn.
1.2.2. Về chủ thể :
Chủ thể trong HĐTM gồm thương nhân (bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
ĐKKD), cá nhân, tổ chức khác có hoạt động liên quan
đến thương mại (điểm 2 LTM 2005)
1.2.3. Hình thức :
Theo LTM 2005, HĐTM đươc thể hiện bằng lời nói,
bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Trường hợp pháp luật qui định bằng văn bản thì phải
tuân theo hình thức này (TD : HĐ mua bán hàng hóa
quốc tế, HĐ dịch vụ khuyến mại, HĐ dịch vụ quảng
cáo thương mại, HĐ dịch vụ trưng bày, giới thiệu
hàng hóa, HĐ ủy thác mua bán hàng hóa, HĐ đại lý
thương mại, HĐ gia công, …)
2. KÝ KẾT, NỘI DUNG HỢP ĐỒNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG:
2.1. Ký kết HĐKT :
2.1.1. Đại diện ký kết :
- LTM 2005 không qui định về vấn đề này, vì vậy áp
dụng theo qui định của
BLDS 2005.
- Theo qui định của BLDS 2005, thẩm quyền ký kết
trong hợp đồng dân sự là Người đại diện theo pháp
luật và Người đại diện theo ủy quyền. Người đại
diện theo pháp luật là Người được chọn đứng đầu tổ
chức (tuỳ từng loại tổ chức, người đứng đầu tổ chức
là người giữ một chức vụ cụ thể trong tổ chức hoặc
người được tổ chức lựa chọn và ghi trong điều lệ
của tổ chức). Nguời đại diện theo ủy quyền là người
được Người đại diện theo pháp luật ủy quyền bằng
văn bản.
Việc ủy quyền có thể thực hiện bằng hình thức do
các bên thỏa thuận trừ trường hợp pháp luật qui
định bằng hình thức văn bản. Người được ủy quyền
được ủy quyền lại cho người thứ ba nếu được Người
ủy quyền đồng ý (điểm 583 BLDS).
Đối với giao dịch vượt phạm vi ủy quyền, Người ủy
quyền không chịu trách
nhiệm trừ trường hợp Người ủy quyền đồng ý hoặc
biết mà không phản đối (điểm 146 BLDS)
2.1.2. Thời điểm giao kết :
- Theo điểm 403 và 404 BLDS, thời điểm giao kết hợp
đồng dân sự và hiệu lực hợp đồng được xác định như
sau :
* Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị
nhận được trả lời chấp nhận giao kết.
* Hợp đồng cũng được xem như được giao kết khi hết
thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im
lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp
nhận giao kết.
* Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời
điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp
đồng.
* Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời
điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
* Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử
dưới hình thức thông điệp dữ liệu cũng được coi là
giao dịch văn bản (điểm 124 BLDS)
Luật thương mại 2005 không qui định về hình thức
giao kết nhưng cũng xác định các giao dịch qua điện
báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (thông tin được
tạo, gởi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử)
có giá trị giống như hình thức ký kết bằng văn bản
(điểm 3 LTM 2005)
2.2. Nội dung hợp đồng và các biện pháp bảo đảm
thực hiện hợp đồng:
2.2.1. Nội dung hợp đồng:
LTM 2005 không nêu các nội dung cần có trong hợp
đồng (tuỳ thuộc thoả thuận của các bên), BLDS 2005
(điểm 402) gợi ý các nội dung chính gồm :
- Đối tượng hợp đồng (tài sản phải giao, công việc
phải làm hoặc không được làm)
- Số lượng, chất lượng
- Giá , phương thức thanh toán
- Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện HĐ
- Quyền và nghĩa vụ các bên .
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
- Phạt vi phạm hợp đồng.
- Các nội dung khác.
2.2.2. Các văn bản thỏa thuận khác (kèm theo HĐ) :
LTM 2005 không qui định các vă bản thỏa thuận khác
kèm theo hợp đồng nhưng BLDS 2005 (điểm 408) có nêu
văn bản thỏa thuận kèm hợp đồng là :
* Phụ lục HĐ :
- Nhằm chi tiết một số điều khoản của hợp đồng. Phụ
lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng. Nội dung của
phụ lục không được trái với nội dung của hợp đồng.
- Trường hợp phụ lục có điều khoản trái với nội
dung của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản
này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác. Nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có
điều khoản trái với điều khoản trong HĐ thì coi như
điều khoản đó trong HĐ đã được sửa đổi.
2.2.3. Sửa đổi hợp đồng :
- Theo điểm 423 BLDS, các bên có thể thỏa thuận
sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa
đổi, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.
Trong trường hợp hợp đồng được công chứng, chứng
thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp
đồng cũng phải tuân theo hình thức đó.
- Luật thương mai 2005 không qui định về việc sửa
đổi hợp đồng nên áp dụng theo qui định của BLDS.
2.2.4. Chấm dứt hợp đồng ::
- Theo điểm 424 BLDS, hợp đồng dân sự chấm dứt
trong những trường hợp sau:
+ Hợp đồng đã được hoàn thành
+ Theo thỏa thuận của các bên
+ Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc
chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá
nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện.
+ Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực
hiện
+ Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng
của hợp đồng không còn và các bên có thể thỏa thuận
thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại.
+ Các trường hợp khác do pháp luật qui định.
- Luật thương mai 2005 không qui định về việc sửa
đổi hợp đồng nên áp dụng theo qui định của BLDS.
2.2.5. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng :
Theo BLDS 2005 (LTM 2005 không qui định), các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ gồm : thế chấp, cầm
cố, đặt cọc,ký cược,ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp.
a). Thế chấp tài sản (điểm 342, 343 BLDS):
Thế chấp tài sản là việc một bên (gọi là bên thế
chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ đối với bên kia (gọi là bên nhận
thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên
nhận thế chấp mà do bên thế chấp giữ hoặc thỏa
thuận giao cho người thứ ba giữ Tài sản thế chấp
cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai.
Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản
riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường
hợp pháp luật có qui định thì văn bản thế chấp phải
được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký.
b). Cầm cố tài sản (điểm 326, 327 BLDS) :
Cầm cố tài sản là việc một bên (gọi là bên cầm cố)
giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
kia (gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự.
Việc cầm cố phải được lập thành văn bản, có thể lập
thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính
(không qui định phải có công chứng hoặc chứng thực)
c). Bảo lãnh (điểm 361, 362, 363 BLDS):
Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là bên bảo lãnh)
cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo lãnh)
sẽ thực hiện thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên
được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo
lãnh không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về
việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi
bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa
vụ của mình.
Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản riêng
hoặc ghi trong hợp đồng chính.
Trong trường hợp pháp luật có qui định thì văn bản
bảo lãnh phải được công chứng, chứng thực
d). Đặt cọc :
Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản
tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc vật có giá trị
khác trong một thời gian để bảo đảm giao kết hoặc
thực hiện hợp đồng.
Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì
tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc
được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên
đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng
thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu
bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện
hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt
cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản
đặt cọc trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Việc đặt
cọc phải được lập thành văn bản.
đ) Ký cược :
Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản, giao
cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quí,
đá quí hoặc vật có giá trị khác trong một thời gian
để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê.
Trường hợp tài sản thuê được trả lại thì bên thuê
được nhận lại tài sản ký cược sau khi trừ tiền
thuê; nếu bên thuê không trả lại tài sản thuê thì
bên cho thuê có quyền đòi lại tài sản thuê; nếu tài
sản thuê không còn để trả lại thì tài sản ký cược
thuộc về bên kia.
e). Ký quỹ :
Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gởi một khoản tiền
hoặc kim khí quí, đá quí hoặc giấy tờ có giá khác
vào tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng để bảo
đảm việc thực hiện nghĩa vụ.
Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền được
ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt
hại do bên có nghĩa vụ gây ra sau khi trừ chi phí
dịch vụ ngân hàng. Thủ tục gởi và thanh toán do
pháp luật về ngân hàng qui định.
g). Tín chấp :
Tín chấp chỉ việc tổ chức chính trị – xã hội tại cơ
sở bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình
nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức
tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ
theo qui định của Chính phủ .
Việc cho vay có bảo đảm bằng tín chấp phải được lập
thành văn bản có ghi rõ số tiền vay, mục đích vay,
thời hạn vay, lãi suất, quyền và nghĩa vụ, trách
nhiệm của người vay, ngân hàng, tổ chứctín dụng cho
vay và tổ chức bảo đảm.
3. CÁC BIỆN PHÁP CHẾ TÀI VÀ CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN,
GIẢM TRÁCH NHIỆM :
3.1. Các biện pháp chế tài khi thực hiện hợp đồng :
Gồm các hình thức : phạt vi phạm, bồi thường thiệt
hại, hủy bỏ hợp đồng, đình chỉ, buộc thực hiện đúng
hợp đồng, tạm ngưng thực hiện hợp đồng.
a). Huỷ bỏ hợp đồng (điểm 312, 314, 315 LTM 2005):
- Huỷ bỏ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn (hoặc
một phần) việc thực hiện nghĩa vụ ghi trong hợp
đồng
- Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng khi xảy ra hành
vi vi phạm HĐ mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện
hủy bỏ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa
vụ HĐIểM (Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên
gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được
mục đích của việc giao kết hợp đồng – điểm 3LTM 2005)
- Bên muốn hủy bỏ phải thông thông báo ngay cho bên
kia biết. Trường hợp
không thông báo, gây thiệt hại cho bên kia thì phải
bồi thường thiệt hại.
- Khi hợp đồng bị hủy bỏ, xem như hợp đồng không có
hiệu lực từ thời điểm
giao kết, các bên không phải thực hiện các nghĩa vụ
đã thỏa thuận trong hợp đồng trừ thỏa thuận về các
quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về
giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi
ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình
theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả
thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời;
trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã
nhận thì phải hoàn bằng tiền.
- Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại.
b). Đình chỉ thực hiện hợp đồng (điểm 310, 311 LTM 2005):
- Một bên có quyền đình chỉ (chấm dứt thực hiện HĐ)
khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận
là điều kiện đình chỉ hoặc một bên vi phạm cơ bản
nghĩa vụ của HĐ nhưng phải thông báo ngay cho bên
kia biết
- HĐ chấm dứt thực hiện từ thời điểm bên kia nhận
được thông báo đình chỉ
- Khi HĐ bị đình chỉ, các bên không phải tiếp tục
thực hiện HĐ, bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền
yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ
đối ứng
- Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại.
c). Tạm ngừng thực hiện HĐ (điểm 308, 309 LTM 2005)
- Một bên có quyền tạm ngừng thực hiện HĐ khi xảy
ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều
kiện tạm ngừng thực hiện HĐ hoặc một bên vi phạm cơ
bản nghĩa vụ của HĐ nhưng phải thông báo ngay cho
bên kia biết
- Khi HĐ bị tạm ngừng thực hiện, HĐ vẫn còn hiệu
lực.
- Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại.
- Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm
không được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp
đồng, đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ hợp đồng đối
với vi phạm không cơ bản
d). Buộc thực hiện đúng hợp đồng (điểm 297, 299 LTM 2005):
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi
phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng HĐ hoặc
dùng các biện pháp khác để HĐ được thực hiện và
chịu các chi phí phát sinh.
- Trong thời gian áp dụng chế tài này, bên bị vi
phạm có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được
áp dụng các chế tài khác trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.
- Bên bị vi phạm có thể gia hạn thời gian hợp lý để
bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Nếu bên vi
phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện HĐ
trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định thì bên bị
vi phạm có quyền áp dụng các chế tài khác.
đ). Phạt hợp đồng :
Phạt hợp đồng là khoản tiền bên vi phạm trả cho bên
bị vi phạm do vi phạm HĐ nếu trong HĐ có thỏa thuận
trừ các trường hợp được miễn trách nhiệm (điểm 300
LTM 2005)
- Mức phạt đối với một vi phạm hoặc tổng mức phạt
đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong
HĐ nhưng không quá 8% tính trên giá trị phần vi
phạm (điểm 301 LTM 2005)
- Trường hợp bên vi phạm HĐ chậm thanh toán thì bên
bị vi phạm có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số
tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình
trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng
với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc PL có qui định khác (điểm 306 LTM
2005)
e). Bồi thường thiệt hại :
Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường
những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra
cho bên bị vi phạm.
Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn
thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu
do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên
bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi
vi phạm (điểm 302 LTM 2005)
* Căn cứ để đòi BTTH (điểm 303 - 305 LTM 2005)
- Có hành vi vi phạm hợp đồng
- Có thiệt hại thực tế
- Hành vi vi phạm HĐ là nguyên nhân trực tiếp gây
ra sự thiệt hại.
Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh
tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra
và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ
được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các
biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất; nếu không bên
vi phạm có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị tiền bồi
trường bằng mức tổn thất có thể hạn chế được.
* Quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại (điểm 307
LTM 2005)
- Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi
phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại
- Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì
bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại và phạt vi phạm.
3.2. Các trường hợp miễn trách nhiệm :
Chỉ các trường hợp bên vi phạm không phải chịu
trách nhiệm (miễn) các chế tài khi có một trong số
các căn cứ luật định.
Theo điểm 294 Luật thương mại 2005, bên vi phạm
được miễn trách nhiệm trong những trường hợp sau
đây :
- Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã
thỏa thuận.
- Xảy ra sự kiện bất khả kháng.
- Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của
bên kia.
- Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết
định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà
các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết
hợp đồng Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh các
trường hợp miễn trách nhiệm.
4. HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU VÀ CÁCH XỬ LÝ HỢP ĐỒNG VÔ
HIỆU :
4.1. Khái niệm :
Hợp đồng bị coi là vô hiệu là các trường hợp hợp
đồng kinh tế được xem như không có hiệu lực áp dụng
cho các bên ký kết. Việc xác định hợp đồng kinh tế
vô hiệu thuộc thẩm quyền của Tòa án có thẩm quyền.
Luật thương mại 2005 không qui định các trường hợp
vô hiệu nên áp dụng theo qui định của BLDS 2005
4.2. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu :
4.2.1. Vô hiệu toàn bộ :
Khi tòan bộ hợp đồng không có giá trị thực hiện
trong các trường hợp sau:
a). Khi nội dung giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội:
Điều cấm của pháp luật là những qui định của pháp
luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi
nhất định
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa
người với người trong đời sống xã hội, được cộng
đồng thừa nhận và tôn trọng (điểm 128 BLDS)
b) Khi nội dung giao dịch do giả tạo :
Giao dịch này nhằm che dấu một giao dịch khác.
Trường hợp này, giao dịch giả tạo bị coi là vô hiệu
còn giao dịch che dấu vẫn có hiệu lực trừ trường
hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo qui định của
BLDS.
Trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn
tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô
hiệu (điểm 129 BLDS)
c). Khi giao dịch do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác
lập, thực hiện:
Trong trường hợp này, theo yêu cầu của người đại
diện của người đó, Tòa án
tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo qui định của
pháp luật, giao dịch này phải do người đại diện của
họ xác lập, thực hiện (điểm 130 BLDS).
d). Khi giao dịch do bị lừa dối, đe dọa :
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên
hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai
lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên
hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải
thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản
của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.
Trường hợp này bên bị lừa dối, đe dọa có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu
(điểm 132 BLDS) .
d). Khi giao dịch do bị nhầm lẫn :
Khi một bên có lỗi do vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn
về nội dung của giao dịch. Bên bị nhầm lẫn có quyền
yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó.
Nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm
lẫn về nội dung của giao dịch thì giải quyết theo
qui định như trường hợp bị lừa dối, đe dọa (điểm
131 BLDS)
đ) Khi giao dịch do người xác lập không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình :
Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập
giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa
án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu (điểm 133 BLDS).
e). Khi giao dịch không tuân thủ qui định về hình thức:
Trong trường hợp pháp luật qui định hình thức giao
dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các
bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc
các bên, Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
khác quyết định, buộc các bên thực hiện qui định về
hình thức của giao dịch đó trong một thời hạn, quá
hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch là vô hiệu
(điểm 134 BLDS)
g). Khi có đối tượng không thể thực hiện được :
Trong trường hợp ngay từ khi ký kết , hợp đồng có
một hoặc nhiều phần của đối tượng không thể thực
hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng bị vô
hiệu.
Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết
hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không
thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho bên
kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải
bồi thường thiệt hại cho bên kia trừ trường hợp bên
kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối
tượng không thể thực hiện được (điểm 411 BLDS).
4.2.2. Vô hiệu từng phần :
Khi một phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh
hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại của hợp
đồng. (điểm 135 BLDS)
Những hợp đồng ký vượt quá phạm vi ủy quyền thì
phần vượt quá đó bị coi là vô hiệu .
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
đối với các trường hợp a và b không bị hạn chế ;
đối với các trường hợp khác là 2 năm kể từ ngày
giao dịch được xác lập.
4.3. Xử lý hợp đồng vô hiệu :
- Giao dịch vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời
điểm xác lập. Khi hợp đồng bị coi là vô hiệu thì
các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả
được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền trừ
trưởng hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu
được bị tịch thu theo qui định của pháp luật. Bên
có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường (điểm 137
BLDS)
- Trong trường hợp giao dịch vô hiệu nhưng tài sản
giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở
hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho
người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ
ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người chiếm hữu
ngay tình có được được động sản này thông qua hợp
đồng không có đền bù với người không có quyền định
đọat tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp
đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động
sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường
hợp khác bị chiếm hữu ngòai ý chí của chủ sở hữu
(điểm 138, 257 BLDS).
- Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động
sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã
được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người
thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị
vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận
được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao
dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản
nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài
sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. (điểm 138
BLDS)
5. THỜI HIỆU KHIẾU NẠI VÀ KHỞI KIỆN :
5.1. Thời hạn khiếu nại (điểm 318 LTM 2005):
Nếu các bên không có thỏa thuận khác thì thời hạn
khiếu nại như sau :
+ 3 tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về
số lượng
+ 6 tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về
chất lượng; trường hợp hàng hóa có bảo hành thì
thời hạn khiếu nại là 3 tháng kể từ ngày hết hạn
bảo hành.
+ 9 tháng kể từ ngày bên vi phạm phải hoàn thành
nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc trong trường hợp có bảo
hành thì kể từ ngày hết thời hạn bảo hành đối với
khiếu nại về các vi phạm khác.
+ 14 ngày kể từ ngày giao hàng cho người nhận đối
với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
5.2- Thời hiệu khởi kiện (điểm 319 LTM 2005):
Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp
thương mại là 2 năm kể từ thời điểm quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm.
Đối với tranh chấp về kinh doanh dịch vụ logistics,
thời hiệu là 9 tháng kể từ ngày giao hàng
CÁC ĐIỀU KHOẢN QUAN TRỌNG CỦA HỢP ĐỒNG
Thông thường để một văn bản hợp đồng được rõ ràng,
dễ hiểu thì người ta chia các vấn đề ra thành các
điều khoản hay các mục, theo số thứ tự từ nhỏ đến
lớn. Trong phần này, tác giả đưa ra những lưu ý, kỹ
năng khi soạn thảo một số vấn đề (điều khoản) quan
trọng thường gặp trong hợp đồng thương mại.
a) Điều khoản định nghĩa:
Điều khoản định nghĩa được sử dụng với mục đích
định nghĩa (giải thích) các từ, cụm từ được sử dụng
nhiều lần hoặc cần có cách hiểu thống nhất giữa các
bên hoặc các ký hiệu viết tắt. Điều này thường
không cần thiết với những hợp đồng mua bán hàng
hóa, dịch vụ thông thường phục vụ các nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày. Nhưng nó rất quan trọng đối với hợp
đồng thương mại quốc tế, hợp đồng chuyển giao công
nghệ, hợp đồng tư vấn giám sát xây dựng; bởi trong
các hợp đồng này có nhiều từ, cụm từ có thể hiểu
nhiều cách hoặc từ, cụm từ chuyên môn chỉ những
người có hiểu biết trong lĩnh vực đó mới hiểu. Ví
dụ: “pháp luật”, “hạng mục công trình”, “quy chuẩn
xây dựng”. Do vậy để việc thực hiện hợp đồng được
dễ dàng, hạn chế phát sinh tranh chấp các bên phải
làm rõ (định nghĩa) ngay từ khi ký kết hợp đồng chứ
không phải đợi đến khi thực hiện rồi mới cùng nhau
bàn bạc, thống nhất cách hiểu. Mặt khác khi có
tranh chấp, kiện tụng xảy ra thì điều khỏan này
giúp cho những người xét xử hiểu rõ những nội dung
các bên đã thỏa thuận và ra phán quyết chính xác.
b) Điều khoản công việc:
Trong hợp đồng dịch vụ thì điều khoản công việc
(dịch vụ) mà bên làm dịch vụ phải thực hiện là
không thể thiếu. Những công việc này không những
cần xác định một cách rõ ràng, mà còn phải xác định
rõ: cách thức thực hiện, trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm của người trực tiếp thực hiện công việc, kết
quả sau khi thực hiện dịch vụ. Ví dụ: trong Hợp
đồng tư vấn và quản lý dự án, không những cần xác
định rõ công việc tư vấn, mà còn phải xác định rõ:
cách thức tư vấn bằng văn bản, tư vấn theo quy
chuẩn xây dựng của Việt Nam, người trực tiếp tư vấn
phải có chứng chỉ tư vấn thiết kế xây dựng, số năm
kinh nghiệm tối thiểu là 5 năm, đã từng tham gia tư
vấn cho dự án có quy mô tương ứng. Có như vậy thì
chất lượng của dịch vụ, kết quả của việc thực hiện
dịch vụ mới đáp ứng được mong muốn của bên thuê
dịch vụ. Nếu không làm được điều này bên thuê dịch
vụ thường thua thiệt và tranh chấp xảy ra trong quá
trình thực hiện hợp đồng là khó tránh khỏi.
c) Điều khoản tên hàng:
Tên hàng là nội dung không thể thiếu được trong tất
cả các hợp đồng mua bán hàng hóa. Để thuận lợi cho
việc thực hiện hợp đồng và hạn chế tranh chấp phát
sinh, tên hàng cần được xác định một cách rõ ràng.
Hàng hoá thường có tên chung và tên riêng. Ví dụ:
hàng hoá – gạo (tên chung), gạo tẻ, gạo nếp (tên
riêng). Nên khi xác định tên hàng phải là tên
riêng, đặc biệt với các hàng hoá là sản phẩm máy
móc thiết bị. Tuỳ từng loại hàng hoá mà các bên có
thể lựa chọn một hoặc nhiều cách xác định tên hàng
sau đây cho phù hợp: Tên + xuất xứ; tên + nhà sản
xuất; tên + phụ lục hoặc Catalogue; tên thương mại;
tên khoa học; tên kèm theo công dụng và đặc điểm;
tên theo nhãn hàng hoá hoặc bao bì đóng gói.
Lưu ý: Không phải tất cả các loại hàng hoá đều được
phép mua bán trong thương mại mà chỉ có những loại
hàng hoá không bị cấm kinh doanh mới được phép mua
bán. Ngoài ra đối với những hàng hoá hạn chế kinh
doanh, hàng hoá kinh doanh có điều kiện, việc mua
bán chỉ được thực hiện khi hàng hoá và các bên mua
bán hàng hoá đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy
định của pháp luật. Vấn đề này hiện nay được quy
định tại một số văn bản sau: Luật thương mại 2005
tại các điều: Điều 25, Điều 26, Điều 32, Điều 33;
Nghị định số: 59/NĐ-CP ngày 12/06/2006 về hàng hoá,
dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh
doanh có điều kiện; Nghị định số:12/NĐ – CP ngày
23/01/2006 về mua bán, gia công, đại lý hàng hoá
quốc tế và Thông tư số: 04/TT-BTM ngày 06/04/2006.
d) Điều khoản chất lượng hàng hoá:
Chất lượng hàng hoá kết hợp cùng với tên hàng sẽ
giúp các bên xác định được hàng hoá một cách rõ
ràng, chi tiết. Trên thực tế, nếu điều khoản này
không rõ ràng thì rất khó thực hiện hợp đồng và rất
dễ phát sinh tranh chấp. Dưới góc độ pháp lý “chất
lượng sản phẩm, hàng hoá là: tổng thể những thuộc
tính, những chỉ tiêu kỹ thuật, những đặc trưng của
chúng, được xác định bằng các thông số có thể đo
được, so sánh được phù hợp với các điều kiện hiện
có, thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội và
của cá nhân trong những điều kiện sản xuất, tiêu
dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm
hàng hoá” (Điều 3, Nghị Định số: 179/NĐ-CP ngày
21/10/2004 quy định quản lý Nhà nước về chất lượng
sản phẩm, hàng hoá).
Nói chung chất lượng sản phẩm, hàng hoá được thể
hiện thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật và những đặc
trưng của chúng. Muốn xác định được chất lượng hàng
hoá thì tuỳ theo từng loại hàng hoá cụ thể để xác
định, dựa vào các chỉ tiêu về cơ lý, các chỉ tiêu
về hoá học hoặc các đặc tính khác của hàng hoá đó.
Nếu các bên thoả thuận chất lượng hàng hoá theo một
tiêu chuẩn chung của một quốc gia hay quốc tế thì
có thể chỉ dẫn tới tiêu chuẩn đó mà không cần phải
diễn giải cụ thể. Ví dụ: các bên thoả thuận: “chất
lượng da giầy theo tiêu chuẩn Việt Nam theo Quyết
định số: 15/QĐ- BCN, ngày 26/05/2006 về việc ban
hành tiêu chuẩn ngành Da – Giầy”. Văn bản này có
thể đưa vào mục tài liệu kèm theo của hợp đồng.
e) Điều khoản số lượng (trọng lượng):
Điều khoản này thể hiện mặt lượng của hàng hoá
trong hợp đồng, nội dung cần làm rõ là: đơn vị
tính, tổng số lượng hoặc phương pháp xác định số
lượng. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán đá xây dựng để
xác định số lượng các bên có thể lựa chọn một trong
các cách sau: theo trọng lượng tịnh (kilôgam, tạ,
tấn), theo mét khối, theo toa xe, toa tàu, hay theo
khoang thuyền.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì cần
phải quy định cụ thể cách xác định số lượng và đơn
vị đo lường bởi hệ thống đo lường của các nước là
có sự khác biệt. Đối với những hàng hoá có số lượng
lớn hoặc do đặc trưng của hàng hoá có thể tự thay
đổi tăng, giảm số lượng theo thời tiết thì cũng cần
quy định một độ dung sai (tỷ lệ sai lệch) trong
tổng số lượng cho phù hợp.
f) Điều khoản giá cả:
Các bên khi thoả thuận về giá cả cần đề cập các nội
dung sau: đơn giá, tổng giá trị và đồng tiền thanh
toán. Về đơn giá có thể xác định giá cố định hoặc
đưa ra cách xác định giá (giá di động). Giá cố định
thường áp dụng với hợp đồng mua bán loại hàng hoá
có tính ổn định cao về giá và thời hạn giao hàng
ngắn. Giá di động thường được áp dụng với những hợp
đồng mua bán loại hàng giá nhạy cảm (dễ biến động)
và được thực hiện trong thời gian dài. Trong trường
hợp này người ta thường quy định giá sẽ được điều
chỉnh theo giá thị trường hoặc theo sự thay đổi của
các yếu tố tác động đến giá sản phẩm.
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán sắt xây dựng (sắt cây
phi 16), hai bên đã xác định giá là: 200.000
đồng/cây nhưng loại thép cây này được sản xuất từ
nguyên liệu thép nhập khẩu và giá thép nhập khẩu
bên bán không làm chủ được nên đã bảo lưu điều
khoản này là: “Bên bán có quyền điều chỉnh giá tăng
theo tỷ lệ % tăng tương ứng của giá thép nguyên
liệu nhập khẩu.”
g) Điều khoản thanh toán:
Phương thức thanh toán là cách thức mà các bên thực
hiện nghĩa vụ giao, nhận tiền khi mua bán hàng hoá.
Căn cứ vào đặc điểm riêng của hợp đồng, mối quan
hệ, các điều kiện khác mà các bên có thể lựa chọn
một trong ba phương thức thanh toán sau đây cho phù
hợp:
Phương thức thanh toán trực tiếp: khi thực hiện
phương thức này các bên trực tiếp thanh toán với
nhau, có thể dùng tiền mặt, séc hoặc hối phiếu. Các
bên có thể trực tiếp giao nhận hoặc thông qua dịch
vụ chuyển tiền của Bưu Điện hoặc Ngân hàng. Phương
thức này thường được sử dụng khi các bên đã có quan
hệ buôn bán lâu dài và tin tưởng lẫn nhau, với
những hợp đồng có giá trị không lớn.
Phương thức nhờ thu và tín dụng chứng từ (L/C) là
hai phương thức được áp dụng phổ biến đối với việc
mua bán hàng hoá quốc tế, thực hiện phương thức này
rất thuận tiện cho cả bên mua và bên bán trong việc
thanh toán, đặc biệt là đảm bảo được cho bên mua
lấy được tiền khi đã giao hàng. Về thủ tục cụ thể
thì Ngân hàng sẽ có trách nhiệm giải thích và hướng
dẫn các bên khi lựa chọn phương thức thanh toán
này.
Lưu ý: Việc thanh toán trực tiếp trong các hợp đồng
mua bán hàng hoá giữa các thương nhân Việt Nam với
nhau hoặc với cá nhân, tổ chức khác trên lãnh thổ
Việt Nam chỉ được sử dụng đồng tiền Việt Nam chứ
không được sử dụng các đồng tiền của quốc gia khác,
đồng tiền chung Châu Âu (ngoại tệ), theo Điều 4,
Điều 22 – Pháp lệnh ngoại hối – 2005.
h) Điều khoản phạt vi phạm:
Phạt vi phạm là một loại chế tài do các bên tự lựa
chọn, nó có ý nghĩa như một biện pháp trừng phạt,
răn đe, phòng ngừa vi phạm hợp đồng, nhằm nâng cao
ý thức tôn trọng hợp đồng của các bên. Khi thoả
thuận các bên cần dựa trên mối quan hệ, độ tin
tưởng lẫn nhau mà quy định hoặc không quy định về
vấn đề phạt vi phạm. Thông thường, với những bạn
hàng có mối quan hệ thân thiết, tin cậy lẫn nhau,
uy tín của các bên đã được khẳng định trong một
thời gian dài thì họ không quy định (thoả thuận)
điều khoản này. Còn trong các trường hợp khác thì
nên có thoả thuận về phạt vi phạm.
Mức phạt thì do các bên thoả thuận, có thể ấn định
một số tiền phạt cụ thể hoặc đưa ra cách thức tính
tiền phạt linh động theo % giá trị phần hợp đồng vi
phạm. Theo Bộ luật dân sự (Điều 422): “Phạt vi phạm
là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo
đó bên vi phạm có nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền
cho bên bị vi phạm; mức phạt vi phạm do các bên
thoả thuận”. Nhưng theo Luật thương mại (Điều 301)
thì quyền thoả thuận về mức phạt vi phạm của các
bên bị hạn chế, cụ thể: “Mức phạt đối với vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều
vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng nhưng
không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm”. Do vậy, các bên khi thoả thuận về mức phạt
phải căn cứ vào quy định của Luật thương mại để lựa
chọn mức phạt trong phạm vi từ 8% trở xuống, nếu
các bên thoả thuận mức phạt lớn hơn (ví dụ 12%) thì
phần vượt quá (4%) được coi là vi phạm điều cấm của
pháp luật và bị vô hiệu.
Các trường hợp vi phạm bị áp dụng chế tài phạt các
bên cũng có thể thoả thuận theo hướng cứ vi phạm
các thoả thuận trong hợp đồng là bị phạt hoặc chỉ
một số vi phạm cụ thể mới bị phạt. Ví dụ: thoả
thuận là: “Nếu bên bán vi phạm về chất lượng hàng
hoá thì sẽ bị phạt 6% giá trị phần hàng hoá không
đúng chất lượng. Nếu hết thời hạn thanh toán mà bên
mua vẫn không trả tiền thì sẽ bị phạt 5% của số
tiền chậm trả”.
j) Điều khoản bất khả kháng:
Bất khả kháng là sự kiện pháp lý nảy sinh ngoài ý
muốn chủ quan của các bên, ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thực hiện hợp đồng đã ký. Đó là các sự kiện
thiên nhiên hay chính trị xã hội như: bão, lũ lụt,
hạn hán, động đất, núi lửa, chiến tranh, bạo động,
đình công, khủng hoảng kinh tế. Đây là các trường
hợp thường gặp làm cho một hoặc cả hai bên không
thể thực hiện được hoặc thực hiện không đúng các
nghĩa vụ của mình. Khi một bên vi phạm hợp đồng do
gặp sự kiện bất khả kháng thì pháp luật không buộc
phải chịu trách nhiệm về tài sản (không bị phạt vi
phạm, không phải bồi thường thiệt hại).
Trên thực tế, nếu không thoả thuận rõ về bất khả
kháng thì rất dễ bị bên vi phạm lợi dụng bất khả
kháng để thoái thác trách nhiệm dẫn đến thiệt hại
cho bên bị vi phạm. Trong điều khoản này các bên
cần phải định nghĩa về bất khả kháng và quy định
nghĩa vụ của bên gặp sự kiện bất khả kháng. Ví dụ:
Điều khoản bất khả kháng:
- Định nghĩa “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy
ra một cách khách quan không thể lường trước được
và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết và khả năng cho phép;
- Bên gặp sự kiện bất khả kháng phải thông báo ngay
cho bên kia biết và phải cung cấp chứng cứ chứng
minh sự kiện bất khả kháng đó là nguyên nhân trực
tiếp dẫn tới việc vi phạm hợp đồng”.
k) Điều khoản giải quyết tranh chấp:
Đối với việc lựa chọn giải quyết tại Trọng tài hay
tại Toà án thì thoả thuận phải phù hợp với quy định
của pháp luật, cụ thể:
Trường hợp thứ nhất: Hợp đồng mua bán hàng hoá giữa
các thương nhân với các tổ chức, cá nhân khác không
phải là thương nhân khi có tranh chấp thì do Toà án
có thẩm quyền giải quyết. Các bên không thể lựa
chọn Trọng tài để giải quyết theo Điều 1, Điều 7,
Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài ngày 25/02/2003 và Điều
2 Nghị Định số: 25/NĐ-CP ngày 15/01/2004.
Trường hợp thứ hai: Hợp đồng mua bán hàng hoá giữa
thương nhân với thương nhân khi có tranh chấp thì
các bên có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tại
Trọng tài hoặc tại Toà án; nếu có sự tham gia của
thương nhân nước ngoài thì các bên còn có thể lựa
chọn một tổ chức Trọng tài của Việt Nam hoặc lựa
chọn một tổ chức Trọng tài của nước ngoài để giải
quyết.
Khi các bên lựa chọn hình thức giải quyết tranh
chấp tại Trọng tài thì thoả thuận phải nêu đích
danh một tổ chức Trọng tài cụ thể, ví dụ: “Mọi
tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng
này sẽ được giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc
tế bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam”. Nếu chỉ thoả thuận chung chung là: “trong quá
trình thực hiện hợp đồng nếu có tranh chấp sẽ được
giải quyết tại Trọng tài” thỏa thuận này vô hiệu.
Riêng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá giữa thương
nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài thì các
bên còn phải quan tâm đến việc lựa chọn luật áp
dụng khi giải quyết tranh chấp là: luật của bên
mua, luật của bên bán hay luật quốc tế (các công
ước quốc tế – ví dụ: Công ước Viên năm 1980 về mua
bán hàng hoá). Đây là vấn đề hết sức quan trọng, để
tránh những thua thiệt do thiếu hiểu biết pháp luật
của nước ngoài hay pháp luật quốc tế thì thương
nhân Việt Nam nên chọn luật Việt Nam để áp dụng cho
hợp đồng thương mại.
Tóm lại: Nội dung của hợp đồng hoàn toàn do các bên
thoả thuận và quyết định cho phù hợp với những điều
kiện hoàn cảnh, loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể; tuy
nhiên, những thoả thuận đó phải không vi phạm các
điều cấm của pháp luật. Hợp đồng bằng văn bản là
một hình thức ký kết hợp đồng quan trọng, thậm chí
bắt buộc trong hoạt động thương mại như: hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng mua bán nhà. So
với hình thức bằng lời nói “lời nói gió bay” thì
hình thức văn bản “giấy trắng mực đen” góp phần hạn
chế việc các bên “trở mặt” trong quá trình thực
hiện hợp đồng. Nhưng ngược lại nếu không chú trọng
việc soạn thảo hợp đồng thì lại “bút sa gà chết”
hoặc tự “mua dây buộc mình”. Để có một văn bản hợp
đồng rõ ràng, chặt chẽ, dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực
hiện, đảm bảo được quyền lợi cho các bên, hạn chế
tranh chấp và giảm thiểu rủ ro trong thương mại.
Đòi hỏi các bên phải thận trọng, hiểu biết pháp
luật và có kỹ năng, kinh nghiệm thực tế trong việc
soạn thảo, đàm phán ký kết hợp đồng thương mại.