44
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI Trong quan hệ giao dịch hàng ngày, ngoài hợp đồng lao động (xác lập trong quan hệ mua bán sức lao động), từ 01/01/2006, khi áp dụng Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005, các giao dịch khác đươc xếp vào một trong hai loại hợp đồng : hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại Theo điểm 4 LTM 2005, đối với các hoạt động thương mại đặc thù được qui định trong luật khác thì áp dụng theo qui định của luật đó. Trường hợp hoạt động thương mại không được qui định trong Luật thương mại (2005) và trong các luật khác thì áp dụng qui định của Bộ luật dân sự 2005. Ngoài ra, trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có qui định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có qui định khác với qui định của Luật thương mại (2005) thì áp dụng theo qui định của điều ước quốc tế đó. Các bên trong giao dịch có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các

Hop dong thuong mai

Embed Size (px)

Citation preview

HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

Trong quan hệ giao dịch hàng ngày, ngoài hợp đồng

lao động (xác lập trong quan hệ mua bán sức lao

động), từ 01/01/2006, khi áp dụng Bộ luật dân sự

2005 và Luật thương mại 2005, các giao dịch khác

đươc xếp vào một trong hai loại hợp đồng : hợp đồng

dân sự và hợp đồng thương mại Theo điểm 4 LTM 2005,

đối với các hoạt động thương mại đặc thù được qui

định trong luật khác thì áp dụng theo qui định của

luật đó. Trường hợp hoạt động thương mại không được

qui định trong Luật thương mại (2005) và trong các

luật khác thì áp dụng qui định của Bộ luật dân sự

2005.

Ngoài ra, trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam

là thành viên có qui định áp dụng pháp luật nước

ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có qui định

khác với qui định của Luật thương mại (2005) thì áp

dụng theo qui định của điều ước quốc tế đó.

Các bên trong giao dịch có yếu tố nước ngoài được

thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán

thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập

quán thương mại quốc tế đó không trái với các

nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (điểm 5

LTM 2005)

1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM:

1.1. Khái niệm:

LTM 2005 không định nghĩa thế nào là hợp đồng

thương mại nhưng theo điểm 1 và điểm 2 của LTM 2005

(nêu phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh của

LTM 2005) có thể định nghĩa : “hợp đồng thương mại là sự

thỏa thuận để thực hiện các hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt

Nam và hoạt động thương mại ngoài lãnh thổ Việt Nam nếu các bên

thỏa thuận áp dụng luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế

mà Việt Nam là thành viên có qui định áp dụng luật này.”

Có nhiều cách hiểu về khái niệm Hợp đồng Thương mại

được nêu ra, phổ biến là cách hiểu như sau: Hợp

đồng thương mại là hợp đồng mà sự thỏa thuận nhằm

mục đích sinh lợi với ít nhất một bên là thương

nhân.

Để xem xét một hợp đồng thương mại, có hai yếu tố

cơ bản cần lưu tâm gồm: Nội dung và chủ thể ký kết.

Luật Thương mại 2005 đưa ra khái niệm: “Thương nhân

bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt

động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh

doanh.”

Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích

sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch

vu, đầu tư, xúc tiến thương mại (gồm hoạt động

khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới

thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ triển lãm thương

mại) và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác.

Hàng hóa trong hoạt động thương mại gồm tất cả các

loại động sản (kể cả động sản hình thành trong

tương lai) và những vật gắn liền với đất đai.

Ngoài ra, Luật Thương mại cũng có quy định thêm về

những đối tượng cũng thuộc phạm vi điều chỉnh là tổ

chức, cá nhân hoạt động có liên quan đến thương

mại.

Hoạt động thương mại cũng được định nghĩa là “hoạt

động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung

ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm

mục đích sinh lợi khác”. Tức là mục đích của việc hoạt

động thương mại là phải phát sinh lợi nhuận.

Trong khi Hợp đồng Dân sự được quy định như sau:

“Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về

việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa

vụ dân sự”. Với đối tượng điều chỉnh khá rộng là cá

nhân, pháp nhân, tổ chức trong quan hệ dân sự,

thương mại, lao động,... và mục đích sinh lợi không

phải là yếu tố bắt buộc cấu thành quan hệ hợp đồng.

Đành rằng Hợp đồng Dân sự áp dụng Bộ luật Dân sự,

Hợp đồng Thương mại áp dụng Luật Thương mại và các

văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, nhưng về

thực tiễn áp dụng sẽ gây khó khăn trong việc xác

định chính xác loại hợp đồng. Đơn cử đối với quy

định về mức phạt vi phạm hợp đồng đối với hợp đồng

thương mại, mức phạt không được vượt quá 8% giá trị

phần nghĩa vụ bị vi phạm, còn trong hợp đồng dân

sự, mức phạt vi phạm sẽ do các bên thỏa thuận.

Đối với khái niệm Hợp đồng Thương mại, PLF cho

rằng: Hợp đồng Thương mại là sự thỏa thuận giữa các

bên (mà ít nhất một bên là thương nhân hoặc tổ

chức, cá nhân hoạt động có liên quan đến thương

mại) để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và

nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện các hoạt

động thương mại nhằm mục đích sinh lợi.

1.2. Đặc điểm :

Các đặc điểm của HĐDS và HĐTM cũng chính là các căn

cứ để phân biệt hai loại hợp đồng này, đó là xét về

mục đích giao dịch, chủ thể tham gia và hình thức

giao dịch:

1.2.1. Về mục đích :

Mục đích để xác lập hợp đồng thương mại là nhằm

sinh lợi. Sinh lợi được hiểu là nhằm tìm lợi nhuận

(không nhất thiết phải có lợi nhuận). Tuy nhiên,

theo điểm 1 LTM 2005, hoạt động của một bên không

nhằm mục đích sinh lời với thương nhân trên lãnh

thổ VN cũng áp dụng LTM để giải quyết trong trường

hợp được bên đó lựa chọn.

1.2.2. Về chủ thể :

Chủ thể trong HĐTM gồm thương nhân (bao gồm tổ chức

kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động

thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có

ĐKKD), cá nhân, tổ chức khác có hoạt động liên quan

đến thương mại (điểm 2 LTM 2005)

1.2.3. Hình thức :

Theo LTM 2005, HĐTM đươc thể hiện bằng lời nói,

bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.

Trường hợp pháp luật qui định bằng văn bản thì phải

tuân theo hình thức này (TD : HĐ mua bán hàng hóa

quốc tế, HĐ dịch vụ khuyến mại, HĐ dịch vụ quảng

cáo thương mại, HĐ dịch vụ trưng bày, giới thiệu

hàng hóa, HĐ ủy thác mua bán hàng hóa, HĐ đại lý

thương mại, HĐ gia công, …)

2. KÝ KẾT, NỘI DUNG HỢP ĐỒNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO

ĐẢM THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG:

2.1. Ký kết HĐKT :

2.1.1. Đại diện ký kết :

- LTM 2005 không qui định về vấn đề này, vì vậy áp

dụng theo qui định của

BLDS 2005.

- Theo qui định của BLDS 2005, thẩm quyền ký kết

trong hợp đồng dân sự là Người đại diện theo pháp

luật và Người đại diện theo ủy quyền. Người đại

diện theo pháp luật là Người được chọn đứng đầu tổ

chức (tuỳ từng loại tổ chức, người đứng đầu tổ chức

là người giữ một chức vụ cụ thể trong tổ chức hoặc

người được tổ chức lựa chọn và ghi trong điều lệ

của tổ chức). Nguời đại diện theo ủy quyền là người

được Người đại diện theo pháp luật ủy quyền bằng

văn bản.

Việc ủy quyền có thể thực hiện bằng hình thức do

các bên thỏa thuận trừ trường hợp pháp luật qui

định bằng hình thức văn bản. Người được ủy quyền

được ủy quyền lại cho người thứ ba nếu được Người

ủy quyền đồng ý (điểm 583 BLDS).

Đối với giao dịch vượt phạm vi ủy quyền, Người ủy

quyền không chịu trách

nhiệm trừ trường hợp Người ủy quyền đồng ý hoặc

biết mà không phản đối (điểm 146 BLDS)

2.1.2. Thời điểm giao kết :

- Theo điểm 403 và 404 BLDS, thời điểm giao kết hợp

đồng dân sự và hiệu lực hợp đồng được xác định như

sau :

* Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị

nhận được trả lời chấp nhận giao kết.

* Hợp đồng cũng được xem như được giao kết khi hết

thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im

lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp

nhận giao kết.

* Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời

điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp

đồng.

* Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời

điểm bên sau cùng ký vào văn bản.

* Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử

dưới hình thức thông điệp dữ liệu cũng được coi là

giao dịch văn bản (điểm 124 BLDS)

Luật thương mại 2005 không qui định về hình thức

giao kết nhưng cũng xác định các giao dịch qua điện

báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (thông tin được

tạo, gởi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử)

có giá trị giống như hình thức ký kết bằng văn bản

(điểm 3 LTM 2005)

2.2. Nội dung hợp đồng và các biện pháp bảo đảm

thực hiện hợp đồng:

2.2.1. Nội dung hợp đồng:

LTM 2005 không nêu các nội dung cần có trong hợp

đồng (tuỳ thuộc thoả thuận của các bên), BLDS 2005

(điểm 402) gợi ý các nội dung chính gồm :

- Đối tượng hợp đồng (tài sản phải giao, công việc

phải làm hoặc không được làm)

- Số lượng, chất lượng

- Giá , phương thức thanh toán

- Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện HĐ

- Quyền và nghĩa vụ các bên .

- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

- Phạt vi phạm hợp đồng.

- Các nội dung khác.

2.2.2. Các văn bản thỏa thuận khác (kèm theo HĐ) :

LTM 2005 không qui định các vă bản thỏa thuận khác

kèm theo hợp đồng nhưng BLDS 2005 (điểm 408) có nêu

văn bản thỏa thuận kèm hợp đồng là :

* Phụ lục HĐ :

- Nhằm chi tiết một số điều khoản của hợp đồng. Phụ

lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng. Nội dung của

phụ lục không được trái với nội dung của hợp đồng.

- Trường hợp phụ lục có điều khoản trái với nội

dung của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản

này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận

khác. Nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có

điều khoản trái với điều khoản trong HĐ thì coi như

điều khoản đó trong HĐ đã được sửa đổi.

2.2.3. Sửa đổi hợp đồng :

- Theo điểm 423 BLDS, các bên có thể thỏa thuận

sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa

đổi, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.

Trong trường hợp hợp đồng được công chứng, chứng

thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp

đồng cũng phải tuân theo hình thức đó.

- Luật thương mai 2005 không qui định về việc sửa

đổi hợp đồng nên áp dụng theo qui định của BLDS.

2.2.4. Chấm dứt hợp đồng ::

- Theo điểm 424 BLDS, hợp đồng dân sự chấm dứt

trong những trường hợp sau:

+ Hợp đồng đã được hoàn thành

+ Theo thỏa thuận của các bên

+ Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc

chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá

nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện.

+ Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực

hiện

+ Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng

của hợp đồng không còn và các bên có thể thỏa thuận

thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại.

+ Các trường hợp khác do pháp luật qui định.

- Luật thương mai 2005 không qui định về việc sửa

đổi hợp đồng nên áp dụng theo qui định của BLDS.

2.2.5. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng :

Theo BLDS 2005 (LTM 2005 không qui định), các biện

pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ gồm : thế chấp, cầm

cố, đặt cọc,ký cược,ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp.

a). Thế chấp tài sản (điểm 342, 343 BLDS):

Thế chấp tài sản là việc một bên (gọi là bên thế

chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ đối với bên kia (gọi là bên nhận

thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên

nhận thế chấp mà do bên thế chấp giữ hoặc thỏa

thuận giao cho người thứ ba giữ Tài sản thế chấp

cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai.

Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản

riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường

hợp pháp luật có qui định thì văn bản thế chấp phải

được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký.

b). Cầm cố tài sản (điểm 326, 327 BLDS) :

Cầm cố tài sản là việc một bên (gọi là bên cầm cố)

giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên

kia (gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện

nghĩa vụ dân sự.

Việc cầm cố phải được lập thành văn bản, có thể lập

thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính

(không qui định phải có công chứng hoặc chứng thực)

c). Bảo lãnh (điểm 361, 362, 363 BLDS):

Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là bên bảo lãnh)

cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo lãnh)

sẽ thực hiện thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên

được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo

lãnh không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không

đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về

việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi

bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa

vụ của mình.

Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản riêng

hoặc ghi trong hợp đồng chính.

Trong trường hợp pháp luật có qui định thì văn bản

bảo lãnh phải được công chứng, chứng thực

d). Đặt cọc :

Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản

tiền hoặc kim khí quí, đá quí hoặc vật có giá trị

khác trong một thời gian để bảo đảm giao kết hoặc

thực hiện hợp đồng.

Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì

tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc

được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên

đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng

thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu

bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện

hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt

cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản

đặt cọc trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Việc đặt

cọc phải được lập thành văn bản.

đ) Ký cược :

Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản, giao

cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quí,

đá quí hoặc vật có giá trị khác trong một thời gian

để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê.

Trường hợp tài sản thuê được trả lại thì bên thuê

được nhận lại tài sản ký cược sau khi trừ tiền

thuê; nếu bên thuê không trả lại tài sản thuê thì

bên cho thuê có quyền đòi lại tài sản thuê; nếu tài

sản thuê không còn để trả lại thì tài sản ký cược

thuộc về bên kia.

e). Ký quỹ :

Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gởi một khoản tiền

hoặc kim khí quí, đá quí hoặc giấy tờ có giá khác

vào tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng để bảo

đảm việc thực hiện nghĩa vụ.

Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền được

ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt

hại do bên có nghĩa vụ gây ra sau khi trừ chi phí

dịch vụ ngân hàng. Thủ tục gởi và thanh toán do

pháp luật về ngân hàng qui định.

g). Tín chấp :

Tín chấp chỉ việc tổ chức chính trị – xã hội tại cơ

sở bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình

nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức

tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ

theo qui định của Chính phủ .

Việc cho vay có bảo đảm bằng tín chấp phải được lập

thành văn bản có ghi rõ số tiền vay, mục đích vay,

thời hạn vay, lãi suất, quyền và nghĩa vụ, trách

nhiệm của người vay, ngân hàng, tổ chứctín dụng cho

vay và tổ chức bảo đảm.

3. CÁC BIỆN PHÁP CHẾ TÀI VÀ CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN,

GIẢM TRÁCH NHIỆM :

3.1. Các biện pháp chế tài khi thực hiện hợp đồng :

Gồm các hình thức : phạt vi phạm, bồi thường thiệt

hại, hủy bỏ hợp đồng, đình chỉ, buộc thực hiện đúng

hợp đồng, tạm ngưng thực hiện hợp đồng.

a). Huỷ bỏ hợp đồng (điểm 312, 314, 315 LTM 2005):

- Huỷ bỏ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn (hoặc

một phần) việc thực hiện nghĩa vụ ghi trong hợp

đồng

- Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng khi xảy ra hành

vi vi phạm HĐ mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện

hủy bỏ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa

vụ HĐIểM (Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên

gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được

mục đích của việc giao kết hợp đồng – điểm 3LTM 2005)

- Bên muốn hủy bỏ phải thông thông báo ngay cho bên

kia biết. Trường hợp

không thông báo, gây thiệt hại cho bên kia thì phải

bồi thường thiệt hại.

- Khi hợp đồng bị hủy bỏ, xem như hợp đồng không có

hiệu lực từ thời điểm

giao kết, các bên không phải thực hiện các nghĩa vụ

đã thỏa thuận trong hợp đồng trừ thỏa thuận về các

quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về

giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi

ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình

theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả

thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời;

trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã

nhận thì phải hoàn bằng tiền.

- Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt

hại.

b). Đình chỉ thực hiện hợp đồng (điểm 310, 311 LTM 2005):

- Một bên có quyền đình chỉ (chấm dứt thực hiện HĐ)

khi xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận

là điều kiện đình chỉ hoặc một bên vi phạm cơ bản

nghĩa vụ của HĐ nhưng phải thông báo ngay cho bên

kia biết

- HĐ chấm dứt thực hiện từ thời điểm bên kia nhận

được thông báo đình chỉ

- Khi HĐ bị đình chỉ, các bên không phải tiếp tục

thực hiện HĐ, bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền

yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ

đối ứng

- Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt

hại.

c). Tạm ngừng thực hiện HĐ (điểm 308, 309 LTM 2005)

- Một bên có quyền tạm ngừng thực hiện HĐ khi xảy

ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều

kiện tạm ngừng thực hiện HĐ hoặc một bên vi phạm cơ

bản nghĩa vụ của HĐ nhưng phải thông báo ngay cho

bên kia biết

- Khi HĐ bị tạm ngừng thực hiện, HĐ vẫn còn hiệu

lực.

- Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt

hại.

- Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm

không được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp

đồng, đình chỉ thực hiện hoặc hủy bỏ hợp đồng đối

với vi phạm không cơ bản

d). Buộc thực hiện đúng hợp đồng (điểm 297, 299 LTM 2005):

- Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi

phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng HĐ hoặc

dùng các biện pháp khác để HĐ được thực hiện và

chịu các chi phí phát sinh.

- Trong thời gian áp dụng chế tài này, bên bị vi

phạm có quyền yêu cầu bồi

thường thiệt hại và phạt vi phạm nhưng không được

áp dụng các chế tài khác trừ trường hợp có thỏa

thuận khác.

- Bên bị vi phạm có thể gia hạn thời gian hợp lý để

bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Nếu bên vi

phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện HĐ

trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định thì bên bị

vi phạm có quyền áp dụng các chế tài khác.

đ). Phạt hợp đồng :

Phạt hợp đồng là khoản tiền bên vi phạm trả cho bên

bị vi phạm do vi phạm HĐ nếu trong HĐ có thỏa thuận

trừ các trường hợp được miễn trách nhiệm (điểm 300

LTM 2005)

- Mức phạt đối với một vi phạm hoặc tổng mức phạt

đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong

HĐ nhưng không quá 8% tính trên giá trị phần vi

phạm (điểm 301 LTM 2005)

- Trường hợp bên vi phạm HĐ chậm thanh toán thì bên

bị vi phạm có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số

tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình

trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng

với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa

thuận khác hoặc PL có qui định khác (điểm 306 LTM

2005)

e). Bồi thường thiệt hại :

Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường

những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra

cho bên bị vi phạm.

Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn

thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu

do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên

bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi

vi phạm (điểm 302 LTM 2005)

* Căn cứ để đòi BTTH (điểm 303 - 305 LTM 2005)

- Có hành vi vi phạm hợp đồng

- Có thiệt hại thực tế

- Hành vi vi phạm HĐ là nguyên nhân trực tiếp gây

ra sự thiệt hại.

Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh

tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra

và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ

được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.

Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các

biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất; nếu không bên

vi phạm có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị tiền bồi

trường bằng mức tổn thất có thể hạn chế được.

* Quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại (điểm 307

LTM 2005)

- Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi

phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi

thường thiệt hại

- Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì

bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt

hại và phạt vi phạm.

3.2. Các trường hợp miễn trách nhiệm :

Chỉ các trường hợp bên vi phạm không phải chịu

trách nhiệm (miễn) các chế tài khi có một trong số

các căn cứ luật định.

Theo điểm 294 Luật thương mại 2005, bên vi phạm

được miễn trách nhiệm trong những trường hợp sau

đây :

- Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã

thỏa thuận.

- Xảy ra sự kiện bất khả kháng.

- Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của

bên kia.

- Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết

định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà

các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết

hợp đồng Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh các

trường hợp miễn trách nhiệm.

4. HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU VÀ CÁCH XỬ LÝ HỢP ĐỒNG VÔ

HIỆU :

4.1. Khái niệm :

Hợp đồng bị coi là vô hiệu là các trường hợp hợp

đồng kinh tế được xem như không có hiệu lực áp dụng

cho các bên ký kết. Việc xác định hợp đồng kinh tế

vô hiệu thuộc thẩm quyền của Tòa án có thẩm quyền.

Luật thương mại 2005 không qui định các trường hợp

vô hiệu nên áp dụng theo qui định của BLDS 2005

4.2. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu :

4.2.1. Vô hiệu toàn bộ :

Khi tòan bộ hợp đồng không có giá trị thực hiện

trong các trường hợp sau:

a). Khi nội dung giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật, trái

đạo đức xã hội:

Điều cấm của pháp luật là những qui định của pháp

luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi

nhất định

Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa

người với người trong đời sống xã hội, được cộng

đồng thừa nhận và tôn trọng (điểm 128 BLDS)

b) Khi nội dung giao dịch do giả tạo :

Giao dịch này nhằm che dấu một giao dịch khác.

Trường hợp này, giao dịch giả tạo bị coi là vô hiệu

còn giao dịch che dấu vẫn có hiệu lực trừ trường

hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo qui định của

BLDS.

Trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn

tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô

hiệu (điểm 129 BLDS)

c). Khi giao dịch do người chưa thành niên, người mất năng lực

hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác

lập, thực hiện:

Trong trường hợp này, theo yêu cầu của người đại

diện của người đó, Tòa án

tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo qui định của

pháp luật, giao dịch này phải do người đại diện của

họ xác lập, thực hiện (điểm 130 BLDS).

d). Khi giao dịch do bị lừa dối, đe dọa :

Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên

hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai

lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội

dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên

hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải

thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính

mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản

của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.

Trường hợp này bên bị lừa dối, đe dọa có quyền yêu

cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu

(điểm 132 BLDS) .

d). Khi giao dịch do bị nhầm lẫn :

Khi một bên có lỗi do vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn

về nội dung của giao dịch. Bên bị nhầm lẫn có quyền

yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó.

Nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có

quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.

Trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm

lẫn về nội dung của giao dịch thì giải quyết theo

qui định như trường hợp bị lừa dối, đe dọa (điểm

131 BLDS)

đ) Khi giao dịch do người xác lập không nhận thức và làm chủ

được hành vi của mình :

Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập

giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm

chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa

án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu (điểm 133 BLDS).

e). Khi giao dịch không tuân thủ qui định về hình thức:

Trong trường hợp pháp luật qui định hình thức giao

dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các

bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc

các bên, Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

khác quyết định, buộc các bên thực hiện qui định về

hình thức của giao dịch đó trong một thời hạn, quá

hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch là vô hiệu

(điểm 134 BLDS)

g). Khi có đối tượng không thể thực hiện được :

Trong trường hợp ngay từ khi ký kết , hợp đồng có

một hoặc nhiều phần của đối tượng không thể thực

hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng bị vô

hiệu.

Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết

hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không

thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho bên

kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải

bồi thường thiệt hại cho bên kia trừ trường hợp bên

kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối

tượng không thể thực hiện được (điểm 411 BLDS).

4.2.2. Vô hiệu từng phần :

Khi một phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh

hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại của hợp

đồng. (điểm 135 BLDS)

Những hợp đồng ký vượt quá phạm vi ủy quyền thì

phần vượt quá đó bị coi là vô hiệu .

Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu

đối với các trường hợp a và b không bị hạn chế ;

đối với các trường hợp khác là 2 năm kể từ ngày

giao dịch được xác lập.

4.3. Xử lý hợp đồng vô hiệu :

- Giao dịch vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi,

chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời

điểm xác lập. Khi hợp đồng bị coi là vô hiệu thì

các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn

trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả

được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền trừ

trưởng hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu

được bị tịch thu theo qui định của pháp luật. Bên

có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường (điểm 137

BLDS)

- Trong trường hợp giao dịch vô hiệu nhưng tài sản

giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở

hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho

người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ

ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người chiếm hữu

ngay tình có được được động sản này thông qua hợp

đồng không có đền bù với người không có quyền định

đọat tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp

đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động

sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường

hợp khác bị chiếm hữu ngòai ý chí của chủ sở hữu

(điểm 138, 257 BLDS).

- Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động

sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã

được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người

thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị

vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận

được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao

dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản

nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài

sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. (điểm 138

BLDS)

5. THỜI HIỆU KHIẾU NẠI VÀ KHỞI KIỆN :

5.1. Thời hạn khiếu nại (điểm 318 LTM 2005):

Nếu các bên không có thỏa thuận khác thì thời hạn

khiếu nại như sau :

+ 3 tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về

số lượng

+ 6 tháng kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về

chất lượng; trường hợp hàng hóa có bảo hành thì

thời hạn khiếu nại là 3 tháng kể từ ngày hết hạn

bảo hành.

+ 9 tháng kể từ ngày bên vi phạm phải hoàn thành

nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc trong trường hợp có bảo

hành thì kể từ ngày hết thời hạn bảo hành đối với

khiếu nại về các vi phạm khác.

+ 14 ngày kể từ ngày giao hàng cho người nhận đối

với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics

5.2- Thời hiệu khởi kiện (điểm 319 LTM 2005):

Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp

thương mại là 2 năm kể từ thời điểm quyền và lợi

ích hợp pháp bị xâm phạm.

Đối với tranh chấp về kinh doanh dịch vụ logistics,

thời hiệu là 9 tháng kể từ ngày giao hàng

CÁC ĐIỀU KHOẢN QUAN TRỌNG CỦA HỢP ĐỒNG

Thông thường để một văn bản hợp đồng được rõ ràng,

dễ hiểu thì người ta chia các vấn đề ra thành các

điều khoản hay các mục, theo số thứ tự từ nhỏ đến

lớn. Trong phần này, tác giả đưa ra những lưu ý, kỹ

năng khi soạn thảo một số vấn đề (điều khoản) quan

trọng thường gặp trong hợp đồng thương mại.

a) Điều khoản định nghĩa:

Điều khoản định nghĩa được sử dụng với mục đích

định nghĩa (giải thích) các từ, cụm từ được sử dụng

nhiều lần hoặc cần có cách hiểu thống nhất giữa các

bên hoặc các ký hiệu viết tắt. Điều này thường

không cần thiết với những hợp đồng mua bán hàng

hóa, dịch vụ thông thường phục vụ các nhu cầu sinh

hoạt hàng ngày. Nhưng nó rất quan trọng đối với hợp

đồng thương mại quốc tế, hợp đồng chuyển giao công

nghệ, hợp đồng tư vấn giám sát xây dựng; bởi trong

các hợp đồng này có nhiều từ, cụm từ có thể hiểu

nhiều cách hoặc từ, cụm từ chuyên môn chỉ những

người có hiểu biết trong lĩnh vực đó mới hiểu. Ví

dụ: “pháp luật”, “hạng mục công trình”, “quy chuẩn

xây dựng”. Do vậy để việc thực hiện hợp đồng được

dễ dàng, hạn chế phát sinh tranh chấp các bên phải

làm rõ (định nghĩa) ngay từ khi ký kết hợp đồng chứ

không phải đợi đến khi thực hiện rồi mới cùng nhau

bàn bạc, thống nhất cách hiểu. Mặt khác khi có

tranh chấp, kiện tụng xảy ra thì điều khỏan này

giúp cho những người xét xử hiểu rõ những nội dung

các bên đã thỏa thuận và ra phán quyết chính xác.

b) Điều khoản công việc:

Trong hợp đồng dịch vụ thì điều khoản công việc

(dịch vụ) mà bên làm dịch vụ phải thực hiện là

không thể thiếu. Những công việc này không những

cần xác định một cách rõ ràng, mà còn phải xác định

rõ: cách thức thực hiện, trình độ chuyên môn, kinh

nghiệm của người trực tiếp thực hiện công việc, kết

quả sau khi thực hiện dịch vụ. Ví dụ: trong Hợp

đồng tư vấn và quản lý dự án, không những cần xác

định rõ công việc tư vấn, mà còn phải xác định rõ:

cách thức tư vấn bằng văn bản, tư vấn theo quy

chuẩn xây dựng của Việt Nam, người trực tiếp tư vấn

phải có chứng chỉ tư vấn thiết kế xây dựng, số năm

kinh nghiệm tối thiểu là 5 năm, đã từng tham gia tư

vấn cho dự án có quy mô tương ứng. Có như vậy thì

chất lượng của dịch vụ, kết quả của việc thực hiện

dịch vụ mới đáp ứng được mong muốn của bên thuê

dịch vụ. Nếu không làm được điều này bên thuê dịch

vụ thường thua thiệt và tranh chấp xảy ra trong quá

trình thực hiện hợp đồng là khó tránh khỏi.

c) Điều khoản tên hàng:

Tên hàng là nội dung không thể thiếu được trong tất

cả các hợp đồng mua bán hàng hóa. Để thuận lợi cho

việc thực hiện hợp đồng và hạn chế tranh chấp phát

sinh, tên hàng cần được xác định một cách rõ ràng.

Hàng hoá thường có tên chung và tên riêng. Ví dụ:

hàng hoá – gạo (tên chung), gạo tẻ, gạo nếp (tên

riêng). Nên khi xác định tên hàng phải là tên

riêng, đặc biệt với các hàng hoá là sản phẩm máy

móc thiết bị. Tuỳ từng loại hàng hoá mà các bên có

thể lựa chọn một hoặc nhiều cách xác định tên hàng

sau đây cho phù hợp: Tên + xuất xứ; tên + nhà sản

xuất; tên + phụ lục hoặc Catalogue; tên thương mại;

tên khoa học; tên kèm theo công dụng và đặc điểm;

tên theo nhãn hàng hoá hoặc bao bì đóng gói.

Lưu ý: Không phải tất cả các loại hàng hoá đều được

phép mua bán trong thương mại mà chỉ có những loại

hàng hoá không bị cấm kinh doanh mới được phép mua

bán. Ngoài ra đối với những hàng hoá hạn chế kinh

doanh, hàng hoá kinh doanh có điều kiện, việc mua

bán chỉ được thực hiện khi hàng hoá và các bên mua

bán hàng hoá đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy

định của pháp luật. Vấn đề này hiện nay được quy

định tại một số văn bản sau: Luật thương mại 2005

tại các điều: Điều 25, Điều 26, Điều 32, Điều 33;

Nghị định số: 59/NĐ-CP ngày 12/06/2006 về hàng hoá,

dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh

doanh có điều kiện; Nghị định số:12/NĐ – CP ngày

23/01/2006 về mua bán, gia công, đại lý hàng hoá

quốc tế và Thông tư số: 04/TT-BTM ngày 06/04/2006.

d) Điều khoản chất lượng hàng hoá:

Chất lượng hàng hoá kết hợp cùng với tên hàng sẽ

giúp các bên xác định được hàng hoá một cách rõ

ràng, chi tiết. Trên thực tế, nếu điều khoản này

không rõ ràng thì rất khó thực hiện hợp đồng và rất

dễ phát sinh tranh chấp. Dưới góc độ pháp lý “chất

lượng sản phẩm, hàng hoá là: tổng thể những thuộc

tính, những chỉ tiêu kỹ thuật, những đặc trưng của

chúng, được xác định bằng các thông số có thể đo

được, so sánh được phù hợp với các điều kiện hiện

có, thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội và

của cá nhân trong những điều kiện sản xuất, tiêu

dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm

hàng hoá” (Điều 3, Nghị Định số: 179/NĐ-CP ngày

21/10/2004 quy định quản lý Nhà nước về chất lượng

sản phẩm, hàng hoá).

Nói chung chất lượng sản phẩm, hàng hoá được thể

hiện thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật và những đặc

trưng của chúng. Muốn xác định được chất lượng hàng

hoá thì tuỳ theo từng loại hàng hoá cụ thể để xác

định, dựa vào các chỉ tiêu về cơ lý, các chỉ tiêu

về hoá học hoặc các đặc tính khác của hàng hoá đó.

Nếu các bên thoả thuận chất lượng hàng hoá theo một

tiêu chuẩn chung của một quốc gia hay quốc tế thì

có thể chỉ dẫn tới tiêu chuẩn đó mà không cần phải

diễn giải cụ thể. Ví dụ: các bên thoả thuận: “chất

lượng da giầy theo tiêu chuẩn Việt Nam theo Quyết

định số: 15/QĐ- BCN, ngày 26/05/2006 về việc ban

hành tiêu chuẩn ngành Da – Giầy”. Văn bản này có

thể đưa vào mục tài liệu kèm theo của hợp đồng.

e) Điều khoản số lượng (trọng lượng):

Điều khoản này thể hiện mặt lượng của hàng hoá

trong hợp đồng, nội dung cần làm rõ là: đơn vị

tính, tổng số lượng hoặc phương pháp xác định số

lượng. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán đá xây dựng để

xác định số lượng các bên có thể lựa chọn một trong

các cách sau: theo trọng lượng tịnh (kilôgam, tạ,

tấn), theo mét khối, theo toa xe, toa tàu, hay theo

khoang thuyền.

Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì cần

phải quy định cụ thể cách xác định số lượng và đơn

vị đo lường bởi hệ thống đo lường của các nước là

có sự khác biệt. Đối với những hàng hoá có số lượng

lớn hoặc do đặc trưng của hàng hoá có thể tự thay

đổi tăng, giảm số lượng theo thời tiết thì cũng cần

quy định một độ dung sai (tỷ lệ sai lệch) trong

tổng số lượng cho phù hợp.

f) Điều khoản giá cả:

Các bên khi thoả thuận về giá cả cần đề cập các nội

dung sau: đơn giá, tổng giá trị và đồng tiền thanh

toán. Về đơn giá có thể xác định giá cố định hoặc

đưa ra cách xác định giá (giá di động). Giá cố định

thường áp dụng với hợp đồng mua bán loại hàng hoá

có tính ổn định cao về giá và thời hạn giao hàng

ngắn. Giá di động thường được áp dụng với những hợp

đồng mua bán loại hàng giá nhạy cảm (dễ biến động)

và được thực hiện trong thời gian dài. Trong trường

hợp này người ta thường quy định giá sẽ được điều

chỉnh theo giá thị trường hoặc theo sự thay đổi của

các yếu tố tác động đến giá sản phẩm.

Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán sắt xây dựng (sắt cây

phi 16), hai bên đã xác định giá là: 200.000

đồng/cây nhưng loại thép cây này được sản xuất từ

nguyên liệu thép nhập khẩu và giá thép nhập khẩu

bên bán không làm chủ được nên đã bảo lưu điều

khoản này là: “Bên bán có quyền điều chỉnh giá tăng

theo tỷ lệ % tăng tương ứng của giá thép nguyên

liệu nhập khẩu.”

g) Điều khoản thanh toán:

Phương thức thanh toán là cách thức mà các bên thực

hiện nghĩa vụ giao, nhận tiền khi mua bán hàng hoá.

Căn cứ vào đặc điểm riêng của hợp đồng, mối quan

hệ, các điều kiện khác mà các bên có thể lựa chọn

một trong ba phương thức thanh toán sau đây cho phù

hợp:

Phương thức thanh toán trực tiếp: khi thực hiện

phương thức này các bên trực tiếp thanh toán với

nhau, có thể dùng tiền mặt, séc hoặc hối phiếu. Các

bên có thể trực tiếp giao nhận hoặc thông qua dịch

vụ chuyển tiền của Bưu Điện hoặc Ngân hàng. Phương

thức này thường được sử dụng khi các bên đã có quan

hệ buôn bán lâu dài và tin tưởng lẫn nhau, với

những hợp đồng có giá trị không lớn.

Phương thức nhờ thu và tín dụng chứng từ (L/C) là

hai phương thức được áp dụng phổ biến đối với việc

mua bán hàng hoá quốc tế, thực hiện phương thức này

rất thuận tiện cho cả bên mua và bên bán trong việc

thanh toán, đặc biệt là đảm bảo được cho bên mua

lấy được tiền khi đã giao hàng. Về thủ tục cụ thể

thì Ngân hàng sẽ có trách nhiệm giải thích và hướng

dẫn các bên khi lựa chọn phương thức thanh toán

này.

Lưu ý: Việc thanh toán trực tiếp trong các hợp đồng

mua bán hàng hoá giữa các thương nhân Việt Nam với

nhau hoặc với cá nhân, tổ chức khác trên lãnh thổ

Việt Nam chỉ được sử dụng đồng tiền Việt Nam chứ

không được sử dụng các đồng tiền của quốc gia khác,

đồng tiền chung Châu Âu (ngoại tệ), theo Điều 4,

Điều 22 – Pháp lệnh ngoại hối – 2005.

h) Điều khoản phạt vi phạm:

Phạt vi phạm là một loại chế tài do các bên tự lựa

chọn, nó có ý nghĩa như một biện pháp trừng phạt,

răn đe, phòng ngừa vi phạm hợp đồng, nhằm nâng cao

ý thức tôn trọng hợp đồng của các bên. Khi thoả

thuận các bên cần dựa trên mối quan hệ, độ tin

tưởng lẫn nhau mà quy định hoặc không quy định về

vấn đề phạt vi phạm. Thông thường, với những bạn

hàng có mối quan hệ thân thiết, tin cậy lẫn nhau,

uy tín của các bên đã được khẳng định trong một

thời gian dài thì họ không quy định (thoả thuận)

điều khoản này. Còn trong các trường hợp khác thì

nên có thoả thuận về phạt vi phạm.

Mức phạt thì do các bên thoả thuận, có thể ấn định

một số tiền phạt cụ thể hoặc đưa ra cách thức tính

tiền phạt linh động theo % giá trị phần hợp đồng vi

phạm. Theo Bộ luật dân sự (Điều 422): “Phạt vi phạm

là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo

đó bên vi phạm có nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền

cho bên bị vi phạm; mức phạt vi phạm do các bên

thoả thuận”. Nhưng theo Luật thương mại (Điều 301)

thì quyền thoả thuận về mức phạt vi phạm của các

bên bị hạn chế, cụ thể: “Mức phạt đối với vi phạm

nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều

vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng nhưng

không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi

phạm”. Do vậy, các bên khi thoả thuận về mức phạt

phải căn cứ vào quy định của Luật thương mại để lựa

chọn mức phạt trong phạm vi từ 8% trở xuống, nếu

các bên thoả thuận mức phạt lớn hơn (ví dụ 12%) thì

phần vượt quá (4%) được coi là vi phạm điều cấm của

pháp luật và bị vô hiệu.

Các trường hợp vi phạm bị áp dụng chế tài phạt các

bên cũng có thể thoả thuận theo hướng cứ vi phạm

các thoả thuận trong hợp đồng là bị phạt hoặc chỉ

một số vi phạm cụ thể mới bị phạt. Ví dụ: thoả

thuận là: “Nếu bên bán vi phạm về chất lượng hàng

hoá thì sẽ bị phạt 6% giá trị phần hàng hoá không

đúng chất lượng. Nếu hết thời hạn thanh toán mà bên

mua vẫn không trả tiền thì sẽ bị phạt 5% của số

tiền chậm trả”.

j) Điều khoản bất khả kháng:

Bất khả kháng là sự kiện pháp lý nảy sinh ngoài ý

muốn chủ quan của các bên, ảnh hưởng trực tiếp đến

việc thực hiện hợp đồng đã ký. Đó là các sự kiện

thiên nhiên hay chính trị xã hội như: bão, lũ lụt,

hạn hán, động đất, núi lửa, chiến tranh, bạo động,

đình công, khủng hoảng kinh tế. Đây là các trường

hợp thường gặp làm cho một hoặc cả hai bên không

thể thực hiện được hoặc thực hiện không đúng các

nghĩa vụ của mình. Khi một bên vi phạm hợp đồng do

gặp sự kiện bất khả kháng thì pháp luật không buộc

phải chịu trách nhiệm về tài sản (không bị phạt vi

phạm, không phải bồi thường thiệt hại).

Trên thực tế, nếu không thoả thuận rõ về bất khả

kháng thì rất dễ bị bên vi phạm lợi dụng bất khả

kháng để thoái thác trách nhiệm dẫn đến thiệt hại

cho bên bị vi phạm. Trong điều khoản này các bên

cần phải định nghĩa về bất khả kháng và quy định

nghĩa vụ của bên gặp sự kiện bất khả kháng. Ví dụ:

Điều khoản bất khả kháng:

- Định nghĩa “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy

ra một cách khách quan không thể lường trước được

và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi

biện pháp cần thiết và khả năng cho phép;

- Bên gặp sự kiện bất khả kháng phải thông báo ngay

cho bên kia biết và phải cung cấp chứng cứ chứng

minh sự kiện bất khả kháng đó là nguyên nhân trực

tiếp dẫn tới việc vi phạm hợp đồng”.

k) Điều khoản giải quyết tranh chấp:

Đối với việc lựa chọn giải quyết tại Trọng tài hay

tại Toà án thì thoả thuận phải phù hợp với quy định

của pháp luật, cụ thể:

Trường hợp thứ nhất: Hợp đồng mua bán hàng hoá giữa

các thương nhân với các tổ chức, cá nhân khác không

phải là thương nhân khi có tranh chấp thì do Toà án

có thẩm quyền giải quyết. Các bên không thể lựa

chọn Trọng tài để giải quyết theo Điều 1, Điều 7,

Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài ngày 25/02/2003 và Điều

2 Nghị Định số: 25/NĐ-CP ngày 15/01/2004.

Trường hợp thứ hai: Hợp đồng mua bán hàng hoá giữa

thương nhân với thương nhân khi có tranh chấp thì

các bên có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tại

Trọng tài hoặc tại Toà án; nếu có sự tham gia của

thương nhân nước ngoài thì các bên còn có thể lựa

chọn một tổ chức Trọng tài của Việt Nam hoặc lựa

chọn một tổ chức Trọng tài của nước ngoài để giải

quyết.

Khi các bên lựa chọn hình thức giải quyết tranh

chấp tại Trọng tài thì thoả thuận phải nêu đích

danh một tổ chức Trọng tài cụ thể, ví dụ: “Mọi

tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng

này sẽ được giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc

tế bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt

Nam”. Nếu chỉ thoả thuận chung chung là: “trong quá

trình thực hiện hợp đồng nếu có tranh chấp sẽ được

giải quyết tại Trọng tài” thỏa thuận này vô hiệu.

Riêng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá giữa thương

nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài thì các

bên còn phải quan tâm đến việc lựa chọn luật áp

dụng khi giải quyết tranh chấp là: luật của bên

mua, luật của bên bán hay luật quốc tế (các công

ước quốc tế – ví dụ: Công ước Viên năm 1980 về mua

bán hàng hoá). Đây là vấn đề hết sức quan trọng, để

tránh những thua thiệt do thiếu hiểu biết pháp luật

của nước ngoài hay pháp luật quốc tế thì thương

nhân Việt Nam nên chọn luật Việt Nam để áp dụng cho

hợp đồng thương mại.

Tóm lại: Nội dung của hợp đồng hoàn toàn do các bên

thoả thuận và quyết định cho phù hợp với những điều

kiện hoàn cảnh, loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể; tuy

nhiên, những thoả thuận đó phải không vi phạm các

điều cấm của pháp luật. Hợp đồng bằng văn bản là

một hình thức ký kết hợp đồng quan trọng, thậm chí

bắt buộc trong hoạt động thương mại như: hợp đồng

mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng mua bán nhà. So

với hình thức bằng lời nói “lời nói gió bay” thì

hình thức văn bản “giấy trắng mực đen” góp phần hạn

chế việc các bên “trở mặt” trong quá trình thực

hiện hợp đồng. Nhưng ngược lại nếu không chú trọng

việc soạn thảo hợp đồng thì lại “bút sa gà chết”

hoặc tự “mua dây buộc mình”. Để có một văn bản hợp

đồng rõ ràng, chặt chẽ, dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực

hiện, đảm bảo được quyền lợi cho các bên, hạn chế

tranh chấp và giảm thiểu rủ ro trong thương mại.

Đòi hỏi các bên phải thận trọng, hiểu biết pháp

luật và có kỹ năng, kinh nghiệm thực tế trong việc

soạn thảo, đàm phán ký kết hợp đồng thương mại.