Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
12/21/2018
1
LOGO
GÓC NHÌN VÀ QUAN ĐIỂM CỦATỈNH HÀ TĨNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNGCỦA MỎ SẮT THẠCH KHÊ VÀ ĐỊNHHƯỚNG TRONG THỜI GIAN TỚI
Đỗ Khoa Văn - TUV, Giám đốc Sở KH&CN Hà Tĩnh
Tham luận tại Hội thảo "Đánh giá và cân nhắc những
vấn đề trước khi thực hiện hoạt động khai thác mỏ sắt
Thạch Khê tỉnh Hà Tĩnh" do Trung tâm con người và
thiên nhiên - LH các Hội KH&KT Việt Nam tổ chức
Một số thông tinI
Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà TĩnhII
Nội dung tham luận:
GÓC NHÌN VÀ QUAN ĐIỂM CỦA TỈNH HÀ TĨNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA
MỎ SẮT THẠCH KHÊ VÀ ĐỊNH HƯỚNG TRONG THỜI GIAN TỚI
12/21/2018
2
I. Một số thông tin
Mỏ sắt Thạch Khê được biết đến là mỏ sắt tự nhiên
lớn nhất Đông Nam Á với trữ lượng 540 triệu tấn, nằm
trên địa bàn 6 xã ven biển thuộc huyện Thạch Hà, tỉnh
Hà Tĩnh.
- Dự án khai thác và tuyển quặng mỏ sắt Thạch
Khê do Công ty Cổ phần sắt Thạch Khê (TIC) làm chủ
đầu tư. Tổng diện tích sử dụng đất 4821ha, gồm 3898ha
đất liền và 923ha lấn biển. Số dân bị ảnh hưởng trực
tiếp là 4437 hộ (18951 nhân khẩu), trong đó phải di dời
tái định cư là 3952 hộ (16861 nhân khẩu). Thời gian xây
dựng cơ bản trong 3 năm, bắt đầu vào khai thác giai
đoạn 1 với công suất 5 triệu tấn/ năm x 7 năm đến -
145m. Giai đoạn 2, tính từ năm thứ 8 đến kết thúc, công
suất 10 triệu tấn/ năm, đến độ sâu - 550m.
- Công nghệ khai thác: lộ thiên, đào xuống sâu dọc 2
bờ công tác vận tải quặng và đổ thải bằng ô tô lên các
bãi chứa quặng, bãi thải trên đất liền và lấn biển.
- Trữ lượng khai thác: Thiết kế 369 triệu tấn. Diện tích
khai trường đến khi kết thúc là 527 ha, đáy mỏ 6,75ha.
- Thời gian tồn tại của mỏ là 52 năm.
- Từ khi khởi công năm 2008 - 2011, chủ đầu tư đã thử
nghiệm công nghệ và bóc đất tầng phủ được 12,7 triệu
m3, đến độ sâu - 34m so với mực nước biển, thu hồi 3000
tấn quặng nguyên khai. Diện tích đã GPMB là 830ha (gồm
741ha khu mỏ và 89ha khu tái định cư).
I. Một số thông tin
12/21/2018
3
Đã ký hợp đồng thuê đất 552ha, di dời 113 hộ. Tổng
chi phí đã đầu tư 1.983.183 triệu đồng. Trong đó đã giải
ngân 1.851.411 triệu đồng (gồm XDCB, mua sắm thiết bị,
GPMB tái định cư, tư vấn quản lý dự án, thuế phí và các
khoản chi khác...)
Do đó có một số vấn đề tồn tại trong quá trình thực
hiện nên Thủ tướng Chính phủ đã tạm dừng hoạt động
của dự án để tái cơ cấu lại DN, vốn đầu tư, hoàn chỉnh
thiết kế dự toán, giải quyết vấn đề GPMB tái định cư
(VB164/TB-VPCP ngày 11/7/2011)
I. Một số thông tin
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
Nhìn lại quá trình thực hiện dự án từ khi có thông
báo 72-TB/TW ngày 09/5/2017 của Bộ Chính trị; tiếp
đó là các thông báo số 119/TB-VPCP ngày 28/5/2007,
TB 153/TB-VPCP ngày 16/8/2007, TB số 164/TB-VPCP
ngày 11/7/2011, QĐ 946/QĐ-TTg ngày 21/6/2011 về
những ý kiến chỉ đạo và quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, Phó thủ tướng Chính phủ; đối chiếu với
tình hình thực tế, nhất là bài học từ sự cố môi trường
và những hệ lụy từ dự án Formosa, tỉnh Hà Tĩnh đã
xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng, tham khảo ý kiến các
chuyên gia, nhà khoa học từ đó đi đến quyết định đề
nghị Bộ Chính trị, Chính phủ cho dừng dự án khai
thác Mỏ sắt Thạch Khê.
12/21/2018
4
Quan điểm, chủ trương đó xuất phát từ những băn
khoăn, lo ngại sau đây:
1. Về công nghệ, kỹ thuật khai thác:
1.1. Cấu trúc địa tầng mỏ phức tạp, lớp mặt đất đến -140
là cát xen sét, tồn tại nhiều nước ngầm; lớp dưới -140 gồm
đá, quặng, xen kẽ có thể hình thành các hang caster chứa
nước. Báo cáo thăm dò tỷ mỷ Mỏ sắt Thạch Khê, Nghệ
Tĩnh - Liên đoàn địa chất 4 đã được Hội đồng xét duyệt trữ
lượng khoáng sản quốc gia phê chuẩn tại Quyết định
153/QĐHĐ ngày 12/4/1985 đã kết luận: Dự tính lượng nước
chảy vào moong khai thác khi mỏ khai thác lộ thiên đến -
400m là: Nước mưa 1.759.550m3/ng và nước dưới đất
1.412.249m3/ng, tương đương gần 3,2 triệu m3/ng (trang
231, 232, tập II);
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
với đặc điểm cấu trúc địa chất thủy văn này dễ gây sạt
trượt khi tiêu thoát nước, dẫn đến nguy cơ sạt lở tầng
khai thác và bờ mỏ trên các tuyến đường vận tải trong
biên giới mỏ, theo đó để có thể mở moong khai thác
được, nhất thiết phải xử lý xây tường chắn để giảm
lượng nước chảy vào mỏ (trang 256- Thuyết minh tập II
Báo cáo thăm dò tỷ mỷ mỏ sắt Thạch Khê 1985).
Trong khi mức độ nghiên cứu địa chất thủy văn - địa
chất công trình ở độ sâu dưới -145m mỏ sắt Thạch Khê
chưa đủ tin cậy để thiết kế khai thác; chưa khẳng định
được có hay không tồn tại hang caster và giải pháp xử
lý nếu có đối với khai thác giai đoạn 2 (từ mức -145m
đến -550m).
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
5
1.2. Tại văn bản số 6253/BTNMT-ĐCKS ngày
16/11/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có
khuyến cáo “Sau 10 năm thực hiện dự án, đã phát sinh
những vấn đề về kỹ thuật - an toàn, môi trường khi
thực hiện các hạng mục của dự án cần được giải quyết
một cách thấu đáo, khoa học và thận trọng như: vấn đề
ổn định bờ mỏ, sạt lở (bờ moong và bãi thải); về giải
pháp tối ưu để thoát nước mỏ; về hạ tầng mực nước
ngầm và giải pháp ngăn chặn, xử lý xâm ngập mặn; về
xử lý sự cố ngập moong khai thác khi gặp các hang
động caster;...”
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
1.3 Các tính toán và giải pháp về ổn định bờ mỏ
và thoát nước mỏ khi khai thác xuống độ sâu -145m
trong Dự án là chưa chắc chắn và chưa an toàn
trong trường hợp rủi ro. Vấn đề này tại mục f điểm
3.2 mục III Văn bản số 20/BCTĐ ngày 28/03/2016 của
Bộ Công Thương về báo cáo kết quả thẩm định Thiết
kế kỹ thuật dự án đã nêu “Trong quá trình khai thác
xuống sâu, các rủi ro tác động bởi nước ngầm, karst
(carter) có thể xẩy ra các thảm họa bất ngờ gây tụt
bờ công tác”.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
6
1.4. Phương án vận tải trong mỏ sử dụng bằng ô tô
để vận chuyển đất đá bóc và quặng. Theo đánh giá của
Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam việc bóc đất đá
chuyển về nơi đổ thải, vận chuyển quặng về kho chứa
sẽ gây ra nhiều hệ lụy về môi trường; khi xuống độ
sâu vào lòng mỏ và khi bãi thải cao dần sẽ làm cho
việc vận chuyển ngày càng phức tạp, dễ xảy ra tai nạn,
năng suất thấp; tài liệu dự án, nhất là trong thiết kế kỹ
thuật của dự án chưa thể hiện rõ hệ thống đường giao
thông trong mỏ, kể cả dự phòng cứu nạn và giải tỏa
ách tắc giao thông trong mỏ.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
2. Về năng lực nhà đầu tư
Tổng mức đầu tư của dự án (gồm giai đoạn 1 và 2)
được lập tại thời điểm năm 2014 là 14.517,2 tỷ đồng (giai
đoạn I: 6.777,4 tỷ đồng; giai đoạn I: 7.739,8 tỷ đồng), trong
đó còn nhiều nội dung chưa được tính toán đầy đủ (như
báo cáo tại mục 6) và nếu cập nhật bổ sung các yếu tố
trượt giá thì tổng mức đầu tư của dự án tại thời điểm hiện
nay có thể lớn hơn nhiều.
Theo dự án điều chỉnh, nguồn vốn đầu tư giai đoạn I
gồm 30% vốn góp cổ đông và 70% vốn vay và huy động
khác. Tuy nhiên, kể từ khi triển khai tái cơ cấu đến nay
các cổ đông của TIC chỉ mới góp được 1.809 tỷ đồng, còn
thiếu 224,137 tỷ đồng. Thực tế này cho thấy tiềm lực tài
chính của các cổ đông không đủ mạnh để đáp ứng một
dự án lớn như Mỏ sắt Thạch Khê.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
7
Hiện tại vốn chủ sở hữu đã giải ngân gần hết vào dự
án, TIC không còn nguồn vốn chủ sở hữu để tiếp tục
đầu tư, trong khi khả năng huy động vốn vay thương
mại chưa chắc chắn, các thỏa thuận tài trợ vốn vay
thương mại thực hiện từ những năm 2014- 2015 hiện
nay đã hết hiệu lực.
Với năng lực tài chính hiện tại, TIC không thể đảm
bảo tiến độ đầu tư dự án theo cam kết; nhất là khi vốn
đầu tư của dự án được bổ sung, tính toán lại một cách
đầy đủ theo các yêu cầu phát sinh, nhu cầu vốn đầu tư
sẽ tăng lên nhiều so với phương án tài chính đã được
tính toán trước đây.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
3. Về phương thức vận chuyển quặng
a) Phương án sử dụng ô tô để vận chuyển trong mỏ
Với công suất giai đoạn 1 là 5 triệu tấn/năm; với hệ số bóc 1,7
thì tổng khối lượng (gồm cả đất, đá thải) đạt 8,5 triệu tấn/năm;
nếu vận chuyện tần suất 300 ngày/năm, mỗi xe có trọng lượng
khoảng 40 tấn thì cần 709 chuyến xe trong 01 ngày, như vậy, cứ
02 phút/chuyến; đồng thời trong mỏ tốc độ đạt khoảng 10km/h
sẽ tạo ra lượng xe lưu thông dày đặc. Với dự án giai đoạn 2 đạt
10 triệu tấn/năm thì khối lượng đạt 17 triệu tấn/năm nên phương
án vận chuyển ô tô trong mỏ là không khả thi. Mặt khác, quá
trình khai thác hệ thống đường vận tải trên các tầng khai thác
thường thay đổi; khi khai thác xuống sâu vào lòng đất và khi bãi
thải cao dần sẽ làm cho việc vận chuyển ngày càng phức tạp,
năng suất thấp. Trong khi đó Dự án chưa thể hiện rõ hệ thống
đường giao thông trong mỏ, kể cả dự phòng cứu nạn và giải tỏa
ách tắc giao thông trong mỏ.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
8
b) Phương án vận chuyển quặng sắt bằng đường bộ
Việc vận chuyển quặng từ mỏ về nơi luyện bằng đường
bộ sẽ rất khó khăn, làm tăng chi phí vận chuyển và giá
thành quặng. Chỉ tính trong thời gian xây dựng mỏ, tổng
khối lượng khai thác được là 4,4 triệu tấn, nếu vận chuyển
bằng đường bộ vào cảng Vũng Áng với tần suất 300
ngày/năm; mỗi xe trọng tải 40 tấn quay vòng được 04
chuyến/ngày thì cần 123 xe ô tô để vận chuyển, đó là chưa
đề cập việc vận chuyển quặng bằng đường bộ từ Hà Tĩnh
đến tỉnh khác (nơi sử dụng quặng sắt Thạch Khê). Với lưu
lượng lớn như vậy, khả năng chịu tải của đường bộ là khó
có thể đáp ứng, chất lượng đường bộ nhanh xuống cấp
dẫn đến quá tải so với năng lực hạ tầng đường bộ, dễ gây
mất an toàn giao thông, ô nhiễm môi trường.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
c) Phương án đầu tư cảng biển để vận chuyển quặng
Vị trí dự kiến xây dựng cảng là vùng biển ngang (xã Thạch
Hải, huyện Thạch Hà) có đặc điểm ven bờ cạn và thoải, chịu
ảnh hưởng gió Đông trực diện, thường xuyên đẩy cát vào bờ
sẽ lấp cạn luồng ra/vào của tàu. Do vậy, phương án xây dựng
cảng tại vùng Dự án này là thiếu tính khả thi. Nếu đầu tư
cảng hiện đại để đáp ứng các yêu cầu trên thì nguồn vốn đầu
tư rất lớn, không thể đảm bảo nguồn lực và hiệu quả kinh tế.
Ngoài ra, tác động ảnh hưởng đến dòng hải lưu, dòng chảy
dọc bờ, hệ môi trường sinh thái, khu du lịch Thiên Cầm, Cửa
Sót khi xây dựng cảng và đê chắn sóng ở vùng biển ngang
chưa được xem xét đề cập.
Đối với nhà đầu tư, việc đầu tư hạ tầng giao thông theo
các phương án trên sẽ nâng giá thành sản phẩm lên rất lớn,
ảnh hưởng đến hiệu quả dự án.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
9
4. Về thị trường tiêu thụ quặng sắt
Theo báo cáo của chủ đầu tư, có một số doanh
nghiệp trong nước (Tập đoàn Hòa Phát, Công ty CP
Thương mại Thái Hưng) ký thỏa thuận nguyên tắc mua
bán quặng sắt Thạch Khê với tổng nhu cầu 5,7 triệu
tấn/năm. Tuy nhiên, mới có Tập đoàn Hòa Phát ký thỏa
thuận (ngày 19/01/2017) nguyên tắc mua bán quặng sắt
Thạch Khê dài hạn với khối lượng giai đoạn 2017-2021
là 3 triệu tấn/năm, giai đoạn từ năm 2022-2027 chưa có
cam kết cụ thể.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
Theo ý kiến của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam, thực tế các nhà máy luyện thép hiện
nay ở Việt Nam chưa có lò cao xử lý được hàm lượng
quặng sắt chứa kẽm cao như quặng sắt Thạch Khê,
có nghĩa là chưa thể có nhà máy luyện kim nào có thể
sẵn sàng sử dụng toàn bộ quặng sắt Thạch Khê; từ
đó, đặt ra tính khả thi đối với cam kết tiêu thụ quặng
của các đối tác. Mặt khác, phương án tiêu thụ quặng
sắt Thạch Khê trong dài hạn là chưa chắc chắn. Việc
khai thác và tuyển quặng sắt Thạch Khê sẽ chịu nhiều
rủi ro trong khâu tiêu thụ.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
10
Vấn đề trên cũng phù hợp với ý kiến của Công ty
FHS tại Văn bản số 1712070/CV-FHS ngày 21/12/2017:
“Hàm lượng kẽm trong quặng sắt này cao hơn 10 lần
so với quặng sắt thông thường, đồng thời cao hơn 4,5
lần so với tiêu chuẩn của Công ty; nguyên tố kẽm trong
quặng sắt dễ ngưng tụ lại trên vách trong Lò cao gây
ảnh hưởng đến việc vận hành, hư hỏng vật liệu chịu
lửa và làm giảm tuổi thọ của Lò cao, nghiêm trọng hơn
nữa sẽ dẫn đến việc rò rỉ gang lỏng gây ra sự cố. Công
ty luôn luôn hi vọng có thể sử dụng một cách hiệu quả
nguồn tài nguyên của địa phương, tuy nhiên với công
nghệ của Công ty hiện tại thì không thể sử dụng loại
quặng sắt này”.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
5. Về hiệu quả kinh tế
- Theo dự án điều chỉnh được phê duyệt năm 2014,
các chỉ số hiệu quả kinh tế (NPV, IRR) được tính toán
khả thi. Tuy nhiên kết quả TIC tính toán hiệu quả kinh tế
dự án khi phê duyệt và sau 2 lần điều chỉnh vẫn chưa
tính hết chi phí liên quan vào tổng mức đầu tư, như: Chi
phí đầu tư nhà máy nước theo cam kết của TIC, chi phí
đầu tư cảng biển, đê chắn sóng (với chiều dài hơn 9km,
đây là hạng mục cần vốn đầu tư lớn, là cấu thành quan
trọng của dự án không thể tách rời thành dự án riêng);
chi đầu tư các công trình bảo vệ môi trường, khảo sát
thăm dò, mở rộng khu vực bồi thường GPMB… phát
sinh sau khi rà soát ĐTM; chi phí lắp đặt các trạm quan
trắc...
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
11
Nếu cập nhật, tính toán một cách đầy đủ thì vốn đầu
tư sẽ tăng cao; chi phí đầu tư dự án nhiều khả năng sẽ
tăng lên gấp từ 1,5 đến 2 lần so với tổng mức đã phê
duyệt, dẫn đến các chỉ số đánh giá hiệu quả tài chính,
kinh tế sẽ thay đổi theo hướng bất lợi là điều tất yếu;
điều này cũng cho thấy, dữ liệu đầu vào để đánh giá
hiệu quả đầu tư của dự án là chưa hoàn toàn chính
xác, thiếu thuyết phục.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
Ngoài ra, quan điểm hiện đại trong khai thác khoáng sản trên
thế giới và Việt Nam là khai thác và sử dụng tổng hợp các tài
nguyên, khoáng sản đi kèm khoáng sản chính. Tuy nhiên, phân
tích Báo cáo đầu tư thì nhận thấy TIC chỉ tập trung vào loại
khoáng sản chính là quặng sắt; chưa nêu đầy đủ tận thu các
loại kim loại quý hiếm có thể đi kèm trong quặng sắt Thạch Khê.
Theo hồ sơ Dự án, trữ lượng mỏ được phê duyệt là 544 triệu
tấn, công nghệ hiện nay chỉ cho phép khai thác được 369,9
triệu tấn. Như vậy, sau khai thác số lượng quặng theo phương
án của TIC thì trong lòng đất vẫn còn lại 174,1 triệu tấn (lớn hơn
tổng trữ lượng và tài nguyên của các mỏ khác trên cả nước gộp
lại), gây tổn thất tài nguyên quá lớn. Vấn đề này, ý kiến của một
số chuyên gia cho rằng, phương thức khai thác trong báo cáo
nghiên cứu khả thi chỉ tập trung khai thác phần quặng giàu, có
điều kiện khai thác thuận lợi, còn quặng khó khai thác thì bỏ lại,
sẽ rất lãng phí tài nguyên.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
12
6. Về các vấn đề rủi ro, nguy cơ đối với dự án
a). Nguy cơ tụt nước ngầm, xâm ngập mặn và sa mạc hóa
- Theo báo Báo cáo địa chất kết quả công tác thăm dò tỉ mỷ
mỏ sắt Thạch Khê - Nghệ Tĩnh năm 1985 (trang 255), đã
đánh giá điều kiện địa chất thủy văn mỏ sắt Thạch Khê như
sau:
+ Quanh mỏ ba phía được bao bọc bằng những khối nước
mặt lớn (phía Đông và Đông Bắc là biển, phía Tây và Tây
Bắc là sông Thạch Đồng, Cửa Sót).
+ Bản thân thân quặng Manhetit và đá vây quanh rất giàu
nước, đặc biệt là đá cacbonnat ở phía Đông gần biển, nơi
phát triển hiện tượng caster, có hệ số dẫn nước cao;
+ Các tầng chứa nước có quan hệ thủy lực với nước mặt
(biển và sông Thạch Đồng).
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
+ Trường hợp mỏ khai thác bằng phương pháp lộ thiên đến -
400m, thì lượng nước chảy vào mỏ được tính toán là: Nước
mưa 1.759.550m3/ngày đêm và nước dưới đất 1.412.249
m3/ngày đêm.
Như vậy trong điều kiện tự nhiên, nếu mở moong khai
thác lượng nước chảy vào mỏ sẽ rất lớn, đặc biệt là dòng
nước từ biển chảy vào, chính vì vậy để có thể mở moong
khai thác được nhất thiết phải xử lý xây tường chắn để giảm
lượng nước chảy vào mỏ: Đối với tầng đất phủ xây tường
chắn bằng hào sét bao quanh bờ moong đến độ sâu giáp bề
mặt đá gốc; đối với tầng đá gốc, xây tường chắn bằng cách
phun xi măng vào các lỗ khoan sâu hết đới nứt nẻ (-400m)
khoanh ngoài giới hạn bờ moong (trang 256, Báo cáo địa
chất năm 1985 - Liên đoàn địa chất 4).
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
13
+ Tuy nhiên, Dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê năm
2014 chưa đề cập, tính toán đến giải pháp nêu trên.
Theo phương án tháo khô và thoát nước mỏ tại
Chương 9 - Dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê năm
2014, đưa ra phương pháp thoát nước là bơm cưỡng
bức bằng các máy bơm thoát nước đặt trong moong
mỏ và các máy bơm tại các giếng khoan hạ mực nước
ngầm được bố trí xung quanh khai trường theo tầng
đợt mở rộng biên giới phía trên của mỏ (Hệ thống
giếng khoan này dự kiến ngăn chặn được khoảng 75-
80% lượng nước ngầm chảy vào mỏ).
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
Nhìn chung phương án này cơ bản giúp tháo khô
moong khai thác, việc bố trí các lỗ khoan hạ mực nước
ngầm làm giảm được lượng nước ngầm chảy quan bờ
mỏ, tuy nhiên không giảm được sự vận động của nước
dưới đất và sự xâm thực của nước ngầm khi đáy mỏ
xuống sâu, trong khi nước dưới đất có quan hệ thủy
lực với nước mặt (biển và sông Thạch Đồng) và có tính
ăn mòn bê tông, ăn mòn kim loại gây guy cơ sụt lở hay
sập bờ tầng. Trường hợp thực hiện phương án xây
tường chắn ngăn nước ngầm chảy vào mỏ nêu trên,
kinh phí đầu tư cho Dự án sẽ tăng cao, từ đó phải xác
định lại tính hiệu quả, tính khả thi khi thực hiện dự án.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
14
- Báo cáo địa chất kết quả công tác thăm dò tỉ mỷ mỏ
sắt Thạch Khê - Nghệ Tĩnh năm 1985 là tài liệu khoa học
được Hội đồng xét duyệt trữ lượng khoáng sản Quốc gia
phê chuẩn tại Quyết định số 153/QĐHĐ ngày 12/4/1985,
việc tính toán lượng nước ngầm chảy vào mỏ được dựa
trên số liệu của của các lỗ khoan tại mỏ (ở mỏ đã thi công
một khối lượng khoan máy khá lớn: 65.736,43m/263 lỗ
khoan, trong đó giai đoạn thăm dò tỉ mỉ là 24.465m/190 lỗ
khoan) và bằng phương pháp “Giếng lớn” theo công thức
DuyPuy: Lượng nước này bao gồm từ 4 đơn vị chứa
nước: Tầng chứa nước không áp trầm tích đệ tứ trên, tầng
chứa nước có áp trầm tích đệ tứ dưới, phức hệ chứa nước
trầm tích Neogen và đới chứa nước nứt nẻ đá gốc (trang
222, Báo cáo địa chất năm 1985 - Liên đoàn địa chất 4).
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
Như vậy, việc viện dẫn kết quả thăm dò, nghiên cứu
bổ sung về địa chất thủy văn năm 2011 mà không nói
rõ về mức độ thăm dò, nghiên cứu và kết quả thống kê
bơm nước của TIC khi moong mỏ đến mức -34m để
đánh giá lượng nước chảy vào mỏ giảm hơn nhiều so
với kết quả thăm dò năm 1985 là chưa đủ cơ sở khoa
học và độ tin cậy.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
15
- Báo cáo ĐTM của dự án điều chỉnh khai thác và
tuyển quặng mỏ sắt Thạch Khê được Bộ TN&MT phê
duyệt năm 2013, trong báo cáo đề cập khi khai thác
xuống độ sâu -550m sẽ bị tụt nước ngầm và bán kính
của vùng bị hạ thấp mực nước ngầm khoảng 3,5 km
(từ tâm mỏ), phạm vi ảnh hưởng nằm trên địa bàn của
6 xã: Thạch Bàn, Thạch Đỉnh, Thạch Khê, Thạch Hải,
Thạch Lạc và Thạch Trị, mức độ hạ thấp nước ngầm
tăng dần về phía tâm mỏ. Giải pháp đưa ra là xây dựng
nhà máy cấp nước công suất 2.000.000m3 để cấp
nước cho nhân dân vùng bị ảnh hưởng do tụt nước
ngầm.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
Như vậy, việc đánh giá về vấn đề tụt nước ngầm trong
báo cáo ĐTM là rất sơ sài, không đề cập đến mức độ,
phạm vi ảnh hưởng do tụt nước ngầm của các giai đoạn
khai thác, chưa nêu được cơ sở khoa học lý giải phạm vi
ảnh hưởng với bán kính là 3,5km, chưa đánh giá được
mức độ thiệt hại do tụt nước ngầm gây ra đối với sản
xuất, cây cối, hoa màu và sinh hoạt của người dân. Việc
xây dựng nhà máy cấp nước sinh hoạt tập trung cho
người dân vùng dự án đây chỉ là một giải pháp về phục
vụ nước sinh hoạt, còn các giải pháp khác chưa được đề
cập đến bởi vì theo quy luật thủy động lực học, khi mực
nước ngầm bị tụt thì sự xâm lấn của nước biển (xâm
nhập mặn) sẽ gia tăng, vì vậy phải thực hiện công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng đối với các hộ dân bị ảnh
hưởng trong khu vực khai thác mỏ.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
16
b) Vấn đề hang caster
- Theo kết quả Báo cáo địa chất kết quả công tác thăm dò tỉ
mỷ mỏ sắt Thạch Khê - Nghệ Tĩnh năm 1985 (trang 206) đã phát
hiện hang caster phát triển tại dải đá hoa ở phía Đông như sau:
“Đá hoa phát triển ở phía Đông, chạy theo bờ biển xuống tận
phía Nam và trải rộng ra phía biển. Bằng tài liệu mô tả lõi khoan,
hiện tượng tụt cần khoan, hiện tượng mất nước trầm trọng khi
khoan, tài liệu địa vật lí lỗ khoan (điện trở suất dung dịch, đường
kính lỗ khoan) và kết quả hút nước thí nghiệm chứng tỏ hiện
tượng cac-tơ nứt nẻ phát triển mạnh: 15 lỗ khoan gặp hang cac-
tơ (theo dấu hiệu tụt cần khoan) kích thước hang theo chiều
thẳng đứng thay đổi từ 5,6m (LK 80 tuyến 84) đến 0,8m (LK 72D
tuyến 80), vị trí các hang cac-tơ theo các cấp độ sâu phân bố
như sau: từ -100m đến -200m: 12 lỗ khoan; từ -200m đến -300m:
02 lỗ khoan và từ -300m đến -400m: 01 lỗ khoan.”
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
Như vậy, hang caster xuất hiện ở độ sâu dưới -100m tại
dải đá hoa ở phía Đông trải rộng ra phía biển và khả năng có
hang cac-tơ thông từ biển vào mỏ cũng như hiện tượng
nước biển chảy vào mỏ là rất cao (do dãy đá hoa không nằm
đồng nhất ở độ sâu -100m trở xuống nên không thể suy luận
trên cơ sở bờ biển tại Thạch Khê có độ dốc thấp, với độ sâu
đến -100m phải xa bờ biển trên 200km mới có hang caster).
- Từ đặc điểm trên, Báo cáo thăm dò tỷ mỷ năm 1985 đã đề
xuất trong giai đoạn tiếp theo cần chính xác hóa hiện tượng
caster nứt nẻ theo diện tích và chiều sâu (trang 232). Theo
khuyến cáo của các nhà khoa học đối với những dự án này
thì hiện tượng caster thường xẩy ra, vì vậy việc nghiên cứu,
đánh giá về hang caster trước khi khai thác là hết sức cần
thiết để đưa ra các cảnh báo và giải pháp khai thác phù hợp
(đặc biệt nơi phát hiện hang caster nằm về phía biển).
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
17
Tuy nhiên, TIC chưa nghiên cứu, đo địa vật lý để xác
định việc phân bố các đới nước ngầm, hang caster và đưa
ra các biện pháp xử lý phù hợp, đảm bảo an toàn mỏ trong
quá trình khai thác; chưa lập phương án cụ thể về các biện
pháp phòng chống, ứng cứu sự cố trôi trượt, sạt lở nền
tầng, ngập mỏ do mưa lớn, lũ quét, thâm nhập nước ngầm,
nước biển dâng cao do bão (đặc biệt lưu ý khi có sự cố
hang caster liên thông với biển) và các sự cố khác. Theo
báo cáo, kết quả khảo sát địa vật lý để dự báo caster với
độ chính xác tương đối ở độ sâu <-200m, trong báo cáo
thẩm định thiết kế kỹ thuật, Bộ Công Thương yêu cầu
trong quá trình khai thác giai đoạn I (đến -145m), TIC cần
tiếp tục có những nghiên cứu chuyên sâu về hang caster
để bổ sung giai pháp thiết kế phù hợp.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
Một trong những giải pháp khi gặp caster là sử dụng
đất sét, đá trong mỏ kết hợp bơm phun xi măng để lấp
là không có khả thi vì thực tế trong giai đoạn thử
nghiệm bóc đất tầng phủ đã gặp vấn đề hang caster với
lượng nước lớn và sâu không thể dùng giải pháp bơm
xi măng để lấp như phương án đề xuất.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
18
c) Về đổ thải trên đất liền; cát bay, cát chảy và sạt lở bãi
thải
Dự án lớn, có nhiều loại và nhiều nguồn chất thải, trong
đó có cả các chất thải nguy hại. Dự án khai thác mỏ lộ thiên
với khối lượng đất, đá bóc phủ đổ ra môi trường xung
quanh là rất lớn (651,4 triệu m3); chiều cao bãi thải phía
Nam và phía Bắc lớn (+99m và +85m, tương ứng dung tích
chứa là 268,21 triệu m3 và 135,428 triệu m3), vị trí nằm sát
biển, nguy cơ sạt lở, trôi cát cao vào mùa mưa bão, cát bay
vào mùa gió Lào khô nóng, ảnh hưởng trực tiếp tới môi
trường sống, môi trường sản xuất của cả khu vực. Thực tế
cho thấy, bãi thải ở xã Thạch Bàn giai đoạn bóc đất tầng
phủ chỉ mới hơn 11 triệu m3 nhưng đã xẩy ra hiện tượng
cát bay, cát chủy và sạt lở bãi thải rất nghiêm trọng. Do vậy
phương án này là không khả thi với khối lượng đổ thải lớn.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
d) Về tác động ảnh hưởng của việc xây dựng bãi thải
ngoài biển
Do mỏ nằm sát biển trong vùng tiềm ẩn rất nhiều
dạng thiên tai (bão, lũ, nước dâng trong bão và khả
năng sóng thần) nên việc xây dựng đê, kè đập chắn
chân bãi thải lấn biển là giải pháp bắt buộc. Để xây
dựng cần khối lượng rất lớn đá hộc và các nguyên vật
liệu xây dựng khác (2,7 triệu m3 đá theo thiết kế trong
dự án đầu tư). Với tổng khối lượng 171 triệu m3 chất
thải (đất, đá, cát) trong phạm vi dọc bờ biển khoảng
5,2km và lấn rộng ra biển khoảng 1,6km, chiều dài đê
chắn cát là 9,183km sẽ gây nguy cơ rất cao về vấn đề
môi trường, sinh thái, dòng chảy ven bờ biển.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
19
Tuy nhiên, Báo cáo ĐTM chưa nêu rõ phương án thi công
xây dựng và chưa đánh giá được hết mức độ phạm vi ảnh
hưởng, tác động tiêu cực của việc xây đê, kè lấn biển đến
môi trường xung quanh; nếu đầu tư tuyến đê chắn sóng đảm
bảo yêu cầu kỹ thuật tương tự như đê chắn sóng của Công
ty Formosa cần khoảng 8.500 tỷ đồng. Nếu xây dựng đê lấn
biển sẽ làm ảnh hưởng đến dòng hải lưu, dòng chảy dọc bờ,
hệ môi trường sinh thái biển, khu du lịch Thiên Cầm, Cửa
Sót, hệ sinh thái 137 km dọc ven biển Hà Tĩnh...
Ngoài ra, chưa có đánh giá tác động ảnh hưởng đến vùng
nuôi trồng, đánh bắt hải sản khu vực bãi ngang, khu du lịch
ven biển (Thiên Cầm, Thạch Bằng, Thạch Hà) và tác động
môi trường, tụt nước ngầm, sụt lở đất (do khai thác đến độ
sâu trên 500m) đến các huyện lân cận.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
e) Về vấn đề đổ nước thải mỏ ra biển gây nhiễm môi
trường
Báo cáo ĐTM xác định có nhiều độc tố; nước thải mỏ khối
lượng lớn được bơm từ moong mỏ, đổ vào hồ chứa diện tích
2ha để lắng tự nhiên, theo kênh dẫn đổ thẳng ra sông Thạch
Đồng, biển Thạch Hải. Trong quặng sắt Thạch Khê, ngoài kim
loại chính được thu hồi, trong nước thải mỏ còn có lưu
huỳnh, các kim loại nặng (Fe, Pb, Cr, Mn) và các nguyên tố vi
lượng khác, trong đó có hàm lượng Zn trung bình là 0,071%.
Nước thải mỏ không qua xử lý được đổ trực tiếp ra biển với
khối lượng vô cùng lớn, chưa thể khẳng định được tác động
tích lũy của các kim loại nặng, độc hại đi kèm quặng sắt trong
cả đời dự án 50 năm có thể gây ra thảm họa môi trường biển
hay không; đây là vấn đề đặc biệt hệtrọng sau bài học về sự
cố môi trường biển miền Trung năm 2016 vừa qua.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
20
Việc Bộ Công Thương đề cập kết quả quan trắc định kỳ
nước thải trong thời gian bóc đất tầng phủ để làm cơ sở
chứng minh là chưa thuyết phục (nước thải của mỏ trong giai
đoạn khai thác xuống sâu sẽ thay đổi nhiều so với thời gian
bóc đất tầng phủ).
Việc xử lý nước thải đảm bảo an toàn trước khi đổ ra biển
sẽ làm tăng chi phí đầu tư. Nếu tính riêng chi phí tuyến đê
chắn bãi thải lấn biển, tuyến đê chắn bãi thải trên đất liền, hệ
thống băng tải vận chuyển cát tới bãi thải lấn biển, 6 hồ xử lý
nước thải thì phải chi phí thêm khoảng 2.700 tỷ đồng (sau sự
cố môi trường biển, Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp
Formosa Hà Tĩnh đã phải đầu tư thêm hơn 346 triệu USD để
xây dựng 7 hạng mục công trình cải thiện môi trường).
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
f) Về tác động của biến đổi khí hậu
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt và công bố
phân vùng bão và xác định nguy cơ bão và nước dâng do
bão khu vực biển Việt Nam trong đó có xác định vùng biển
Hà Tĩnh có nguy cơ chịu ảnh hưởng của bão cấp 15 và cấp
16 nước dâng trong bão có thể lên đến 4,5m, trường hợp có
triều cường thì nước dâng 5,7m đến 6,2 m (tại khu vực
Thạch Khê năm 1990 đã xảy ra bão có cột sóng lên tới từ 3-
5m. Trận mưa lũ vào tháng 10/2010 ở Hà Tĩnh đã gây sự cố
bùn chảy khu vực bãi thải làm ảnh hưởng đến diện tích đất
nông nghiệp của người dân. Đặc biệt, theo tại liệu nghiên
cứu động đất của trung ương thì khu vực Thạch Khê thuộc
vùng có hoạt động động đất mạnh đến cấp 8 và từng xẩy ra
động đất cấp 6 độ richter, do đó trong quá trình khai thác
nếu có động đất thì sẽ hết sức nguy hiểm.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
21
Trong trường hợp triển khai dự án, khi kết thúc khai
thác, moong mỏ được cải tạo thành hồ chứa nước có
diện tích lớn, độ sâu lớn (-500m) với dung tích chứa lên
tới hàng trăm triệu m3 nước sẽ tạo áp lực lên bờ và đáy
mỏ, nguy cơ xẩy ra động đất kích thích là rất cao.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
Từ góc nhìn khá toàn diện ở trên,
khẳng định rằng quan điểm dừng
dự án của Hà Tĩnh là có cơ sở khoa
học và thực tiễn.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
22
Mặt tích cực của việc dừng dự án:
- Môi trường sinh thái, môi trường sống của dân cư
vùng ảnh hưởng sẽ được hoàn trả nguyên trạng; khôi
phục, ổn định đời sống nhân dân vùng ảnh hưởng; đặc
biệt, đảm bảo ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn tỉnh, đây là yếu tố đặc biệt quan trọng
cho phát triển bền vững, nhất là sau sự cố môi trường
xẩy ra trong thời gian vừa qua;
- Tạo điều kiện để phát triển du lịch dịch vụ Khu du
lịch biển Thạch Hải nói riêng và dọc dải ven biển Hà Tĩnh
nói chung; khôi phục sản xuất nông nghiệp, các làng
nghề và nuôi trồng đánh bắt thủy sản;
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
- Cái được lớn nhất là về lâu dài, phát triển kinh tế -
xã hội sẽ bền vững, tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn
đảm bảo được vấn đề môi trường, nhất là môi trường
dọc dải ven biển; sẽ không phải lo đối phó các vấn đề
rủi ro, hệ lụy về môi trường, thảm họa thiên tai có thể
đe dọa nghiêm trọng đến đời sống, môi trường đầu tư,
môi trường biển, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
như đã từng xẩy ra.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
12/21/2018
23
- Đối với phần vốn đã đầu tư của dự án có một phần
đầu tư vào cơ sở hạ tầng, bồi thường GPMB, đào tạo
nghề, nộp ngân sách; khoản đầu tư này người dân
trong vùng bị ảnh hưởng của dự án và nhà nước được
hưởng lợi, có thể xem đây như là khoản bù đắp của
doanh nghiệp và nhà nước cho người dân địa phương
đã chịu nhiều thiệt thòi do việc dừng dự án gần 10 năm
qua; ngoài ra, phần vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết
bị doanh nghiệp vẫn có thể sử dụng cho các dự án
khác hoặc thanh lý thu hồi một phần vốn đã đầu tư,
giảm bớt thiệt hại. Nhà nước có thể hỗ trợ một phần
thiết hại cho doanh nghiệp hoặc thoái một phần vốn
chủ sở hữu của mình chuyển cho doanh nghiệp.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.
Quan điểm tiến bộ ngày nay là bảo vệ môi trường
ngang bằng với phát triển kinh tế, không đánh đổi môi
trường bằng mọi giá; ổn định để phát triển, trong đó
phải xem xét lợi ích toàn cục, nguyện vọng và lợi ích
chính đáng của nhân dân trong vùng dự án. Từ góc
nhìn và quan điểm đã nêu ở trên, tỉnh Hà Tĩnh đã kiến
nghị dừng hẳn dự án này. Kính mong các nhà khoa
học ủng hộ. Các Bộ liên quan cũng có văn bản trình
Chính phủ, cơ bản đồng tình quan điểm của Hà Tĩnh.
Hy vọng Bộ Chính trị và Chính phủ có quyết định sớm
và dứt khoát về việc này trong thời gian tới ./.
II. Góc nhìn và quan điểm của tỉnh Hà Tĩnh.