Upload
le-chi-dung
View
109
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
--------- ---------
LÊ MINH HÙNG
HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THEO QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 62.38.50.01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHAN HUY HỒNG
PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT
TP. HỒ CHÍ MINH - 2010
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung
thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong luận án chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
ii
MỤC LỤC
TrangMỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG........................ 81.1. Khái niệm, bản chất của hợp đồng ......................................................................................... 81.2. Khái niệm hiệu lực hợp đồng, hiệu lực tương đối của hợp đồng ......................................... 161.3. Cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng ...................................................................... 29
Chương 2. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG .......................................... 392.1. Các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực.................................................................. 392.2. Hình thức hợp đồng – điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có qui định ................................................................................................................................... 492.3. Một số bất cập trong các qui định pháp luật hiện hành về hình thức hợp đồng và định hướng hoàn thiện ......................................................................................................................... 66
Chương 3. THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG ......................................... 853.1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: khái niệm và qui định chung .................................... 853.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng ......................................................................................................................... 953.3. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng........ 116
Chương 4. HIỆU LỰC RÀNG BUỘC CỦA HỢP ĐỒNG ............................................ 1254.1. Hiệu lực ràng buộc của hợp đồng: khái niệm và các qui định ........................................... 1254.2. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng..................................................................................................................... 1344.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng ................................ 142
Chương 5. HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI ...................... 1545.1. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi: khái niệm và nội dung cơ bản...... 1555.2. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship clause) trong pháp luật các nước và trong tập quán thương mại quốc tế ................................................................. 1615.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn pháp lý Việt Nam về điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi............................................................................................................... 1715.4. Kiến nghị xây dựng và hoàn thiện các qui định của pháp luật hiện hành về sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi............................................................................................... 186
KẾT LUẬN............................................................................................................................. 198
NHỮNG CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
iii
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật Dân sự
BLDS 1995 Bộ luật Dân sự 1995
BLDS 2005 Bộ luật Dân sự 2005
DLB 1931 Bộ Dân luật Bắc Kỳ 1931
DLSG 1972 Bộ Dân luật Sài Gòn 1972
DLT 1936 - 1939 Bộ Dân luật Trung kỳ 1936 - 1939
HĐND Hội đồng nhân dân
HĐTP Hội đồng thẩm phán
HP 1992 Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết
51/2001/QH10
LNO 2005 Luật Nhà ở 2005
LSHTT 2005 Luật Sở hữu trí tuệ 2005
LTM 1997 Luật Thương mại 1997
LTM 2005 Luật Thương mại 2005
PECL Principles of European Contract Law (Bộ Nguyên tắc Luật
Hợp đồng châu Âu)
PICC Principles of International Commercial Contract (Bộ
Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT)
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân tối cao
UBND Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để cá nhân, tổ chức
trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn các nhu cầu nhân sinh. Hợp đồng cũng đóng vai trò
quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ bản
của sự trao đổi hàng hóa trong xã hội. Trong hầu hết các BLDS cổ điển, hợp đồng
“chiếm một vị trí trung tâm và được chế định với dung lượng lớn nhất so với các chế
định khác” do “vai trò trung tâm của nó đối với trật tự thị trường…”[336, tr.900]. Xã
hội càng phát triển, hợp đồng ngày càng được sử dụng như là một chuẩn mực ứng xử
phổ biến giữa tư nhân với nhau, giữa tư nhân với cơ quan nhà nước, thậm chí là giữa
xã hội với nhà nước (như quan niệm của Rousseau [229]) trong các lĩnh vực dân sự,
kinh doanh, thương mại và trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống.
Ngày nay, chế định hợp đồng và hiệu lực hợp đồng trở thành một chế định quan
trọng trong hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam.Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu,
phân tích về chế định hợp đồng, đặc biệt là những vấn đề hiệu lực hợp đồng. Hiệu lực
của hợp đồng nói ở đây chính là sự tạo lập ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên giao kết
[249, tr.24], là hiệu lực ràng buộc như pháp luật đối với các bên tham gia [299, tr.
1550]. Một hợp đồng được ký kết, nếu không có hiệu lực thì hợp đồng đó chưa thể tạo
ra quyền và nghĩa vụ giữa các bên, chưa ràng buộc các bên với nhau và pháp luật cũng
chưa tác động đến cách xử sự của các bên theo qui định của hợp đồng đó. Vì vậy,
trước khi giao kết hợp đồng, thậm chí ngay trong quá trình thực hiện hợp đồng, các
bên tham gia hợp đồng phải biết về hợp đồng và những qui định của pháp luật liên
quan đến tính hiệu lực của hợp đồng. Có thể nói, pháp luật về hợp đồng và hiệu lực
của hợp đồng càng hoàn thiện thì việc giao kết và thực hiện hợp đồng của các chủ thể
ngày càng thuận lợi.
Tuy vậy, xét trên nhiều phương diện, vấn đề hiệu lực của hợp đồng là một vấn
đề pháp lý rất phức tạp cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật.Về mặt
lý luận, các học giả vẫn chưa thống nhất được với nhau trong việc xác định nội dung
của hiệu lực hợp đồng. Nhận xét về thực tế này, có luật gia cho rằng: “Dù luật gia nào
cũng nói tới hiệu lực của hợp đồng, nhưng khi được hỏi nó là gì và nội dung ra sao thì
phần lớn chỉ nói tới điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng” [38, tr. 37].
2
Trong thực tiễn lập pháp, vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được qui định khá cụ
thể trong Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005). Tuy nhiên, một số quy định về hiệu lực
hợp đồng trong BLDS 2005 cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, gây khó khăn cho công tác
giải quyết các tranh chấp có liên quan. Vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hiện
vẫn là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi trong giới luật học, đặc biệt là điều kiện hình
thức và đường lối xử lý các hợp đồng vi phạm hình thức. Qui định về thời điểm giao
kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực
tế và không khả thi. Những bất cập trên đây cần phải được nghiên cứu làm rõ và đề
xuất các giải pháp pháp lý nhằm khắc phục, hoàn thiện.
So với pháp luật hợp đồng của một quốc gia (Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nga…), các
Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế (PICC, PECL), qui định trong luật Việt Nam về hiệu
lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa tương đồng. Trong bối cảnh Việt Nam hội
nhập kinh tế ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh tế quốc tế đòi hỏi cần phải có sự
cải cách thích ứng hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng, theo hướng
tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật hợp đồng của các nước và của
các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế, làm cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng
hoàn thiện và có sự tương đồng hơn so với pháp luật của các quốc gia trên thế giới.
Từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo qui
định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu vấn đề hiệu lực của hợp đồng đã được nhiều nhà khoa học
pháp lý trong và ngoài nước quan tâm, dưới những góc độ khác nhau.
2.1. Ở nước ngoài: Có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật hợp đồng nói chung,
trong đó có đề cập đến các vấn đề có liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, như: các sách
chuyên khảo về Luật hợp đồng The Modern Law of Contract, 5th ed của Richard Stone
[341], European Contract Law, Vol 1 – Formation, Validity and Content of Contract…
của Hein Kotz & Axel Flessner [321], Elements of the Law of Contract của MacMillan
C.A. & R. Stone [324], The Oxford Handbook of Comparative Law của M. Reinmann
& R. Zimmermann [336], The German Law of Contract – A Comparative Treaties, 2nd
ed. của Basil Markesinis & others [328], Bài báo Competing Approaches to Force
Majeure and Hardship của Catherine Kessedjian [318]…
3
Các công trình này không nghiên cứu chuyên biệt về hiệu lực hợp đồng nói
chung, và hiệu lực hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam, nói riêng.
2.2. Ở trong nước: Có một số Luận án tiến sỹ nghiên cứu các đề tài có liên quan đến
hiệu lực hợp đồng, như đề tài “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay” của TS. Phạm Hữu Nghị; “Hợp đồng kinh tế vô hiệu
và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu” của TS. Lê Thị Bích Thọ [247];
“Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô
hiệu” của TS. Nguyễn Văn Cường [44]...
Hiện còn có một số sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu có liên quan tới
một số khía cạnh pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, như quyển “Việt Nam Dân
luật - luợc khảo” của GS. Vũ Văn Mẫu, [168], “Pháp luật về hợp đồng” của TS.
Nguyễn Mạnh Bách [5], “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS.
Nguyễn Ngọc Khánh [108], “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại
điện tử” của GS.TS. Nguyễn Thị Mơ [174], “Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và
Bình luận bản án”, của TS. Đỗ Văn Đại [54]. Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học
đăng trên các tạp chí, như “Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” của
PGS.TS. Đinh Văn Thanh [240], “Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro
trong pháp luật hợp đồng Việt Nam” của PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa [201], “Thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng” của TS. Phạm Công Lạc [115]…
Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quí báu giúp tác giả có
thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận án, nhưng các công
trình kể trên không nghiên cứu riêng và toàn diện về hiệu lực của hợp đồng theo qui
định của pháp luật Việt Nam. Bởi vậy, việc lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng
theo qui định của pháp luật Việt Nam” để làm luận án tiến sỹ luật là không trùng lặp
với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, khảo sát
thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực hợp đồng ở Việt Nam,
trên cơ sở đối chiếu với qui định về hiệu lực hợp đồng của một số quốc gia trên thế
giới và một số Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế nhằm góp phần làm rõ và làm phong
4
phú thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tiếp thu
có chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật quốc tế về hợp đồng; đồng thời đưa ra
những kiến nghị cụ thể để sửa đổi, bổ sung các qui định còn bất cập, thiếu sót trong
pháp luật hiện hành, hoàn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng theo xu
hướng hiện đại và hội nhập, qua đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật Việt
Nam về hiệu lực của hợp đồng.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau đây:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hiệu lực của hợp đồng, như: làm
rõ khái niệm và bản chất của vấn đề hiệu lực của hợp đồng, xây dựng khái niệm cơ chế
pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng; làm rõ cơ sở lý luận và các vấn đề pháp lý liên
quan đến hiệu lực của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và ảnh hưởng
của nó đối với hiệu lực pháp luật của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng,
hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực
hợp đồng ở Việt Nam, bao gồm cả việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa các văn bản
pháp luật liên quan và những điểm thiếu sót, chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập của pháp
luật về hiệu lực của hợp đồng, đánh giá thực trạng của qui định pháp luật về hiệu lực
của hợp đồng, để từ đó xác định được những điểm cần sửa đổi, bổ khuyết trong các
văn bản pháp luật về hợp đồng hiện hành của Việt Nam.
- Trên cơ sở những bất cập đã được xác định để từ đó đề xuất những kiến nghị,
giải pháp pháp lý cụ thể trong việc sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật Việt Nam
hiện hành về hiệu lực của hợp đồng, đồng thời xác định cơ sở lý luận và thực tiễn cần
thiết làm căn cứ cho việc đề xuất những kiến nghị và giải pháp cụ thể đó.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung: Hiệu lực của hợp đồng là vấn đề rất rộng. Mặt khác, vấn đề
hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính nguyên lý chung của hợp đồng và được qui
định chủ yếu trong BLDS, nên nội dung của Luận án tập trung phân tích các qui định
trong phần chung về hợp đồng trong BLDS 2005. Điều này không có nghĩa Luận án
chỉ nghiên cứu về hợp đồng trong lĩnh vực dân sự. Bởi lẽ, khái niệm hiệu lực hợp đồng
được trình bày trong Luận án là khái niệm chung nhất cho mọi hợp đồng, bao gồm cả
5
hợp đồng dân sự, kinh doanh – thương mại và các hợp đồng khác. Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu, luận án giới hạn việc phân tích chỉ những vấn đề hiệu lực của hợp
đồng theo nghĩa rộng (bao gồm chủ yếu là các hợp đồng kinh doanh – thương mại và
hợp đồng dân sự), như qui định tại Điều 1 BLDS 2005,1 mà không phân tích các hợp
đồng trong lĩnh vực lao động. Bên cạnh đó, luận án còn phân tích về các qui định có
liên quan đến hiệu lực của hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 và các văn bản liên
quan khác, cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực này.
Ngoài ra, nội hàm của khái niệm hiệu lực của hợp đồng là vấn đề pháp lý rất
phức tạp và có mối liên hệ biện chứng với nhiều vấn đề pháp lý quan trọng khác của
pháp luật hợp đồng, như qui định về việc thực hiện hợp đồng, tạm hoãn thực hiện hợp
đồng do có sự vi phạm hoặc dự đoán có sự vi phạm hợp đồng của bên kia, chấm dứt
hợp đồng, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, giải thích hợp đồng, hiệu lực của hợp
đồng đối với người thứ ba, phân chia rủi ro, thông tin bất cân xứng… Tuy nhiên,
đề tài cũng không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề khác có liên quan tới hiệu lực
của hợp đồng, mà chỉ đi sâu tìm hiểu các vấn đề về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, sự hạn
chế hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi.
- Về mặt thời gian: Cùng với việc nghiên cứu các qui định của pháp luật, đề tài
cũng dành một liều lượng thích hợp để nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu
lực của hợp đồng để giải quyết các tranh chấp hợp đồng (dân sự, kinh doanh – thương
mại) trên thực tế, tại Tòa án và Trọng tài Thương mại Việt Nam, tính từ ngày BLDS
1995 được ban hành, đặc biệt là từ khi BLDS 2005 có hiệu lực đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Lê
nin và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý
luận và pháp lý liên quan đến các qui định về hiệu lực của hợp đồng. Trong đó, chú
trọng sử dụng phương pháp lô ghích pháp lý, phương pháp lịch sử và phương pháp so
sánh pháp luật để làm rõ mối quan hệ giữa qui định về hiệu lực của hợp đồng trong
phần chung BLDS với các qui định về hiệu lực của các hợp đồng dân sự thông dụng
1 Điều 1 BLDS 2005 qui định: “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)…”
6
trong BLDS, và với các qui định về hiệu lực của hợp đồng trong các luật chuyên
ngành. Trong một số vấn đề cụ thể (thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực của
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi) cũng có so sánh với pháp luật hợp đồng của một số
nước như Pháp, Đức, Nga, Nhật, Trung Quốc... Đề tài cũng sử dụng phương pháp
phỏng vấn chuyên gia trong một vài vấn đề cụ thể, và phương pháp khảo sát đánh giá
thực tiễn để tìm hiểu thêm quan điểm của các luật gia làm công tác thực tiễn pháp lý,
qua đó góp phần làm rõ thêm thực trạng áp dụng các qui định về hiệu lực của hợp
đồng trong việc giải quyết tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng tại Việt Nam từ khi
BLDS 1995 được ban hành đến nay.
Cách nghiên cứu vấn đề theo “chiều dọc” nhằm làm rõ toàn bộ các nội dung
pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp đồng trong mối quan hệ biện chứng từ khi giao kết,
xác lập, thực hiện hợp đồng đến khi sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, và từ những qui định
mang tính nguyên tắc chung cho đến ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực hợp đồng. Mặt
khác, trong mỗi vấn đề, tác giả cũng sử dụng cách thức truyền thống là đi từ nghiên
cứu lý thuyết cơ bản cho đến thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, và cuối
cùng là các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học
Đề tài nghiên cứu có hệ thống về các vấn đề pháp lý liên quan tới hiệu lực hợp
đồng, đưa ra những định hướng và đề xuất các kiến nghị cụ thể mà kết quả của nó sẽ là
cơ sở khoa học cho việc xây và hoàn thiện pháp luật hợp đồng Việt Nam, góp phần
tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật hợp đồng trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam, trong xu hướng hội nhập quốc tế của hệ thống pháp luật nói riêng
và của đất nước Việt Nam nói chung, vào trào lưu chung của thế giới.
Góp phần làm hoàn thiện pháp luật hợp đồng cũng là góp phần vào việc bảo
đảm cho các quan hệ hợp đồng ở Việt Nam được ổn định, an toàn pháp lý và tránh
được các rủi ro cho các bên chủ thể, bảo đảm quyền tự do giao kết hợp đồng, quyền
được pháp luật bảo vệ khi tham gia các quan hệ hợp đồng và các quyền, lợi ích chính
đáng của các bên trong hợp đồng.
Kết quả nghiên cứu đề tài cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu
ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật hợp đồng trong các trường
đào tạo về luật.
7
7. Những điểm mới của luận án
Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận án có một số điểm mới sau đây:
- Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề hiệu lực hợp đồng, phân tích và
làm rõ nội hàm của các khái niệm hiệu lực tương đối của hợp đồng, hiệu lực ràng
buộc của hợp đồng (chương 1) kiến nghị thay thuật ngữ ‘hợp đồng dân sự’ trong qui
định tại Điều 388 BLDS 2005 bằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (chương 1);
- Hai là, xây dựng các khái niệm mới hiệu lực của hợp đồng (chương 1), cơ chế
pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng (chương 1), điều khoản điều chỉnh hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi theo quan niệm pháp lý Việt Nam (trên cơ sở tiếp thu từ khái niệm
hardship trong thực tiễn thương mại quốc tế), và làm rõ nội hàm của các khái niệm này
(chương 5). Đây là những khái niệm mới chưa được đề cập trong các công trình khoa
học pháp lý trước đây.
- Ba là, trong mỗi chương, tác giả đều chỉ ra những điểm bất cập, thiếu sót của
pháp luật hiện hành và của thực tiễn áp dụng, đồng thời dựa trên những kết quả đó để
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các qui định tương ứng, như các kiến
nghị: hoàn thiện các qui định về hình thức hợp đồng và hậu quả pháp lý khi hợp đồng
vi phạm qui định bắt buộc về hình thức (chương 2) [Xem Phụ lục 12]; sửa đổi, bổ sung
các qui định về thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực hợp đồng
(chương 3) [Phụ lục 13]; bổ sung qui định về nguyên tắc và ngoại lệ của nguyên tắc
hiệu lực ràng buộc hợp đồng, đồng thời hoàn thiện các giải pháp khắc phục do vi phạm
việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng (chương 4) [Phụ lục 14].
- Bốn là, phân tích thực tiễn pháp luật về xu hướng cho phép điều chỉnh hiệu
lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship), tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng
và áp dụng pháp luật về nội dung tương ứng trong pháp luật của nước ngoài và của các
bộ nguyên tắc quốc tế về hợp đồng, từ đó kiến nghị Việt hóa khái niệm này thành khái
niệm ‘sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi’, và đề xuất bổ sung vào trong BLDS
2005 căn cứ cho phép sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi với những tiêu chí,
đường lối, giải pháp cụ thể (chương 5) [Phụ lục 15].
8. Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội
dung của Luận án gồm 5 chương.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG
Vấn đề hiệu lực của hợp đồng bao gồm và liên quan tới nhiều nội dung phức tạp
của hợp đồng như điều kiện có hiệu lực, thời điểm có hiệu lực, hiệu lực ràng buộc của
hợp đồng… Để làm rõ nội dung và ý nghĩa pháp lý của vấn đề hiệu lực hợp đồng, tạo
tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu tiếp các phần sau của luận án, chương này trình
bày khái quát hiệu lực hợp đồng, gồm ba nội dung sau đây: khái niệm và bản chất của
hợp đồng, khái niệm hiệu lực hợp đồng và cơ chế điều chỉnh hiệu lực hợp đồng.
1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT CỦA HỢP ĐỒNG
1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Để có thể tồn tại và phát triển, các chủ thể trong xã hội phải tham gia vào các
giao dịch nhất định thông qua việc trao đổi, dịch chuyển các lợi ích do mình tạo ra và
nhận lại những lợi ích vật chất cần thiết từ các chủ thể khác nhằm thỏa mãn các nhu
cầu chính đáng của mình. Một trong những phương thức cơ bản để thực hiện việc trao
đổi lợi ích trong xã hội chính là sự thỏa thuận giữa các bên, dựa trên các nguyên tắc tự
do, tự nguyện, bình đẳng và được đặt dưới sự bảo trợ của luật pháp. Hiện tượng đó
được định danh trong luật bằng thuật ngữ pháp lý: ‘Hợp đồng’.
Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người
thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu của mình. Tuy vậy, trong
lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra được một thuật ngữ chính xác, như thuật ngữ
“hợp đồng” đang được sử dụng trong pháp luật của hầu hết các quốc gia ngày nay, là
việc không dễ dàng. Nhiều luật gia cho rằng thuật ngữ ‘hợp đồng’ (contractus) được
hình thành từ động từ ‘contrahere’ trong tiếng La-tinh, có nghĩa là ‘ràng buộc’, và
xuất hiện lần đầu tiên ở La Mã vào khoảng thế kỷ V – IV TCN [108, tr.29; 291, tr.162-
3]. Ban đầu, người La Mã cũng không có khái niệm chung ‘contractus’ mà sử dụng
các thuật ngữ riêng biệt để chỉ các hợp đồng cụ thể phổ biến như mua bán (sponsio),
vay mượn (mutuum), gửi giữ (depositum), ủy thác (mandatum)… Mãi đến thời của
luật gia La-be-ôn (thế kỷ 1 sau CN), người La Mã mới chính thức sử dụng thuật ngữ
‘contractus’ trong luật, và quan hệ hợp đồng được pháp luật công nhận và bảo vệ dưới
thời Justinnian [61, tr.81]. Sau này, pháp luật các nước phương Tây đã kế thừa và phát
triển quan niệm pháp lý từ thời La Mã và đã sử dụng chính thức thuật ngữ ‘hợp đồng’,
mà trong tiếng Anh được viết là ‘contract’, và trong tiếng Pháp là ‘contrat’.
9
Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử
dụng để chỉ về hợp đồng: khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ giao ước, tờ
ưng thuận… Trong cổ luật, dựa vào các cứ liệu lịch sử còn lại cho đến ngày nay, thuật
ngữ ‘văn tự’ hay ‘văn khế’[289, Điều 363 và 366], hay mua, bán, cho, cầm đã được sử
dụng khá sớm, trong Bộ Quốc triều Hình luật [167, tr.156; 286, tr.57- 8]. Sau này,
thuật ngữ ‘khế ước’ mới được sử dụng chính thức trong Sắc lệnh ngày 21/7/1925
(được sửa đổi bởi Sắc lệnh ngày 23/11/1926 và Sắc lệnh ngày 06/9/1927) ở Nam phần
thuộc Pháp, trong Bộ Dân luật Bắc 1931 (sau đây viết là DLB 1931), và trong Bộ Dân
luật Trung 1936 – 1939 (DLT 1936 – 1939). Thuật ngữ ‘khế ước’ cũng được sử dụng
trong Sắc lệnh 97/SL của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Hồ Chủ tịch ký ban
hành ngày 22/5/1950 (Điều 13). Thuật ngữ “khế ước” cũng được sử dụng trong Bộ
Dân luật 1972 của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trước 30/4/1975 (DLSG
1972) (Điều 653). Ngoài ra, trong DLB 1931, DLT 1936 - 1939 và DLSG 1972 còn sử
dụng thuật ngữ ‘hiệp ước’, trong đó nhà làm luật xem ‘khế ước’ là một ‘hiệp ước’ [13,
Điều 664; 91, Điều 680] hoặc đồng nhất giữa ‘khế ước’ với ‘hiệp ước’ [14, Điều 653].
Các văn bản pháp luật hiện hành của nhà nước ta không còn sử dụng thuật ngữ
‘khế ước’ hay ‘hiệp ước’ như trước đây mà sử dụng các thuật ngữ có tính “chức năng”,
“công cụ” [110, tr.40] như hợp đồng dân sự [15, Điều 388], hợp đồng lao động [23,
Điều 26-43], hợp đồng thương mại [154, khoản 1 Điều 3]. Trong pháp luật của nhiều
nước (như sẽ trình bày ở các trang 3 – 5 dưới đây) chỉ sử dụng thuật ngữ ‘hợp đồng’,
chứ không sử dụng các thuật ngữ hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, hợp đồng
lao động… như luật Việt Nam.
Ngoài việc chọn ‘hợp đồng’ làm thuật ngữ pháp lý chính thức trong các văn bản
pháp luật, các luật gia cũng quan tâm tới việc làm rõ nội hàm của khái niệm ‘hợp
đồng’. Về mặt học thuật và pháp lý, các luật gia cũng đã gặp nhiều khó khăn trong
việc đưa ra một định nghĩa về hợp đồng. Đúng như một luật gia đã nhận xét, hợp đồng
“dường như là một trong những hiện tượng có thể nhận thức được rất dễ dàng nhưng
thật khó khăn để có thể đưa ra được một định nghĩa về nó” [302, tr.14].
Trên thực tế, sự tiếp cận khái niệm hợp đồng trong các hệ thống pháp luật cũng
khác nhau. Quan niệm của các luật gia thuộc hệ thống Civil Law xem hợp đồng như
một kết quả phức hợp của ý chí tự do cá nhân cùng nhiều nguyên tắc pháp lý cơ bản
của Luật Tư. Theo Geoffrey Samuel,
10
Khái niệm hợp đồng trong hệ thống Civil law bị chi phối bởi ba nguyên tắc. Thứ nhất,
hợp đồng được xem là kết quả chung của sự gặp gỡ ý chí của các bên. Thứ hai, đó là pháp
luật do các bên lập ra để ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp
đồng không chỉ là hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên, mà đó còn là hiệu lực được đảm
bảo bởi pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập
trách nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng. Nguyên tắc thứ ba là tự do
hợp đồng: các bên được tự do, trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công cộng, để
tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể là vô lý theo cách nhìn nhận của
người khác [339, tr.278].
Khác với quan niệm của các nước theo hệ thống Civil Law, trong hệ thống
Common Law (Thông luật), ban đầu người ta xem hợp đồng như là kết quả của các
cam kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên. Sau
này,“các thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatic) ở Anh đã xem xét hợp đồng
như là một nghĩa vụ được tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí giữa các bên” [339, tr.283 - 84].
Có thể nói, thuật ngữ ‘hợp đồng’ là một phạm trù đa nghĩa và có thể được xem
xét nhiều góc độ khác nhau. Các luật gia Việt Nam thường hiểu khái niệm ‘hợp đồng’
theo hai nghĩa: nghĩa khách quan và nghĩa chủ quan. Theo nghĩa khách quan, ‘hợp
đồng’ là một bộ phận của chế định nghĩa vụ trong Luật Dân sự, bao gồm các “qui
phạm pháp luật được qui định cụ thể trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
(chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các
chủ thể với nhau”. Theo nghĩa chủ quan, hợp đồng “là sự ghi nhận kết quả của việc
cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể giao kết hợp đồng” hay “là kết quả của việc thỏa
thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể hiện trong các điều khoản cụ thể về
quyền và nghĩa vụ mỗi bên để có cơ sở cùng nhau thực hiện” [239, tr.19].
Trong phạm vi mục này, tác giả chỉ bàn về khái niệm hợp đồng hiểu theo nghĩa
chủ quan (nghĩa hẹp). Theo đó, ngoài việc được ghi nhận chính thức trong các văn bản
pháp luật của nhiều nước trên thế giới, khái niệm hợp đồng còn được nhiều học giả
đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Một trong những định nghĩa sớm nhất về hợp đồng
thường được nhiều học giả ngày nay nhắc đến và chấp nhận, là định nghĩa của học giả
người Pháp - Pothier trong tác phẩm “Traité des obligations” năm 1761: “Hợp đồng là
sự thỏa thuận theo đó hai hoặc chỉ một bên hứa, cam kết với người khác để chuyển
giao một vật, để làm một công việc hoặc không làm một công việc” [321, tr.3]. Định
nghĩa này không khác gì so với định nghĩa hợp đồng trong các BLDS hiện đại ngày
11
nay. BLDS Pháp cũng có định nghĩa hợp đồng giống gần như hoàn toàn định nghĩa
của Pothier: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người
cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không
làm một công việc nào đó” [19, Điều 1101].
Theo qui định tại Điều 1378 BLDS 1994 của Bang Québec (Canada): “Hợp
đồng là sự thống nhất ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những cam
kết đã định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”. Tuy có tính khái quát hơn,
nhưng định nghĩa này cũng không hoàn toàn “thoát ly” khỏi định nghĩa tại Điều 1101
BLDS Pháp. Cả hai định nghĩa trên đều thể hiện rõ bản chất của hợp đồng là sự “thỏa
thuận” hay “thống nhất ý chí” giữa các bên. Tuy nhiên, nội dung định nghĩa chỉ thể
hiện chức năng của hợp đồng mà chưa chỉ ra được dấu hiệu đặc trưng thứ hai của hợp
đồng: nhằm tạo ra hiệu lực ràng buộc pháp lý về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Định nghĩa “hợp đồng” cũng được qui định tại Điều 1-201 Bộ luật Thương mại
Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code of United State of America, viết tắt là
UCC): “Hợp đồng là tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự ‘thỏa thuận’ của
các bên…”. Văn bản Pháp điển xuất bản lần hai (Restatement 2nd) có nêu một định
nghĩa cụ thể hơn: Hợp đồng là “một hay một tập hợp các cam kết mà nếu vi phạm
những cam kết này thì bị buộc phải thực hiện bằng sự cưỡng chế cuả pháp luật, hoặc
nói cách khác pháp luật công nhận việc thực hiện những cam kết này là một nghĩa
vụ”. Trong Bách Khoa toàn thư về Pháp luật của Hoa Kỳ cũng có định nghĩa hợp
đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai thực thể pháp lý, tạo ra một sự ràng buộc
nghĩa vụ nhằm để làm một việc, hoặc để không làm một việc, giao một vật xác định”
[306, tr.53]. Định nghĩa này thể hiện rõ ràng hơn bản chất và mục đích cơ bản của khái
niệm hợp đồng và nội dung của nó cũng có tính “hội nhập” hơn với khoa học pháp lý
của các quốc gia khác trên thế giới.
Tại Điều 2 của Luật Hợp đồng Trung Quốc (1999) qui định: “Hợp đồng theo
qui định của Luật này là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức khác. Các thỏa
thuận liên quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… thích dụng với qui
định của các luật khác”. Tương tự, theo qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga
(1994): “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Định nghĩa hợp đồng trong Luật Hợp đồng Trung
12
quốc tương đối dài, vì bao hàm cả các nguyên tắc khái quát trong việc giao kết thực
hiện hợp đồng mà người Trung Quốc muốn nhấn mạnh, đó là nguyên tắc “bình đẳng”
giữa các bên tham gia hợp đồng. Định nghĩa “hợp đồng” trong BLDS của Nga cũng có
nội dung tương tự nhưng cách diễn đạt khái quát và ngắn gọn hơn cả. A.L Makovsky
và S.A. Khoklov đã bình luận về định nghĩa này như sau: “Hợp đồng được định nghĩa
ngắn gọn mang tính truyền thống. Đó là sự thoả thuận của hai hay nhiều người về việc
thiết lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 420). Tuy
nhiên, về cơ bản không có điểm gì mới trong định nghĩa này. Quan trọng trên hết, cơ
sở của những thoả thuận như thế này không phải là ý chí cuả một bên, mà là ý chí của
nhiều bên để ràng buộc các bên trong thực hiện nghĩa vụ…” [325, tr. xciv].
Điều 388 BLDS 2005 định nghĩa hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”. Có thể dễ dàng thấy rằng, qui định tại Điều 388 BLDS Việt Nam (2005) cũng gần
giống như qui định của Luật hợp đồng Trung quốc (1999) và đặc biệt là hoàn toàn
giống với qui định tại khoản 1 Điều 420 BLDS Nga (1994).
Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết quả
của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp
luật có qui định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Xét
về vị trí, vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch dân
sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Như vậy, hợp đồng là phương tiện pháp lý để các bên tạo lập quan hệ nghĩa vụ. Có thể
nói, định nghĩa trên đã hàm chứa tất cả dấu hiệu mang tính bản chất của hợp đồng và
thể hiện rõ chức năng, vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quan hệ pháp luật.
Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lý và thuyết phục nhất ở
Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái
quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ ‘hợp đồng’, vừa thể hiện rõ vai trò của
hợp đồng như là một căn cứ pháp lý (phổ biến) làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ (dân sự) của các bên. Đây là định nghĩa được hầu hết các luật gia
đồng tình và chấp nhận, trừ ‘cái đuôi’ ‘dân sự’ kèm theo [86, tr.57; 108, tr.38-41].
13
Tác giả cho rằng, cần bỏ từ ‘dân sự’ kèm theo khái niệm ‘hợp đồng’. Bởi lẽ,
thuật ngữ ‘dân sự’ vừa có thể được hiểu theo nghĩa rộng, nhưng cũng vừa có thể được
hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, khái niệm ‘dân sự’ bao hàm cả các lĩnh vực
khác, như lĩnh vực dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân, gia đình [15, Điều 1]. Còn
theo nghĩa hẹp, khái niệm ‘dân sự’ chỉ được dùng trong các quan hệ dân sự (để phân
biệt với các quan hệ pháp luật khác: hình sự, hành chính…). Trong pháp luật tố tụng,
từ ‘dân sự’ cũng được hiểu theo nghĩa hẹp, nhằm phân biệt giữa các ‘Tòa dân sự’,
‘Tòa Kinh tế’, ‘Tòa lao động’… Trở lại khái niệm ‘hợp đồng dân sự’, câu hỏi đặt ra là,
từ ‘dân sự’ có ý nghĩa gì khi được đặt kèm theo khái niệm ‘hợp đồng’. Về mặt lô
ghích, từ ‘dân sự’ được đặt ở vị trí này là nhằm xác định rõ nghĩa của khái niệm ‘hợp
đồng’, nhằm để chỉ đây là ‘hợp đồng dân sự’ chứ không phải là hợp đồng khác
(thương mại, lao động). Trong khi đó, khái niệm ‘hợp đồng dân sự’ được qui định tại
Điều 388 BLDS 2005 với chủ định xem đây khái niệm chung được sử dụng để chỉ mọi
hợp đồng, chứ không phải chỉ dành cho riêng ‘hợp đồng dân sự’. Do vậy, không nên
đặt từ ‘dân sự’ ngay sau khái niệm ‘hợp đồng’ vì dễ gây hiểu lầm, và không cần thiết.
Tóm lại, định nghĩa hợp đồng (dân sự) tại Điều 388 BLDS 2005 là chấp nhận
được. Tuy vậy, để đảm bảo tính chuẩn xác của thuật ngữ này, tác giả kiến nghị Quốc
hội cần sửa đổi Điều 388 BLDS 2005 theo hướng bỏ hai từ ‘dân sự’ kèm theo sau
thuật ngữ ‘hợp đồng’.
1.1.2. Bản chất của hợp đồng
Như đã được thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng được
tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên.
1.1.2.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp
lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực định và
trong lý luận có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhưng chung qui lại, tất cả
các định nghĩa đó đều thể hiện một quan điểm nhất quán là luôn xem sự thỏa thuận
giữa các bên là một trong các yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng.
Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp đồng.
Không có hợp đồng nào mà không do thỏa thuận và không có hợp đồng nào được tạo
ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng, “yếu tố thỏa thuận của các
chủ thể là tiền đề của hợp đồng và được xem là tuyệt đối” [239, tr.20].
14
Theo nghĩa thông thường, thỏa thuận là “nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn
bạc” [217, tr.1578]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thỏa thuận là “sự nhất trí
chung được thể hiện ở chỗ không có một ý kiến đối lập của bất cứ một bộ phận nào
trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua quá
trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải được xem xét và dung hòa.”
[93, tr.238].
Trên phương diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, pháp luật qui
định các bên tham gia cùng thương lượng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất trí
chung, dựa trên sự đề nghị của một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên kia. Nhưng
sự thỏa thuận với tư cách là một yếu tố thể hiện bản chất của hợp đồng còn có ý nghĩa
tích cực hơn, so với các khái niệm thương lượng, bàn bạc, đồng ý. Nếu khái niệm
‘thương lượng’ hay ‘bàn bạc’ dùng để chỉ quá trình thương thuyết, giao dịch giữa các
bên và khái niệm ‘đồng ý’ dùng để chỉ kết quả của quá trình đó, thì khái niệm ‘thỏa
thuận’ ở đây được hiểu là toàn bộ quá trình, từ sự thương lượng đến sự ‘thống nhất ý
chí’. Đó là quá trình ‘dung hòa’ giữa ý chí các bên, đi từ sự đồng ý của từng bên, đến
sự hiệp ý hay gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên khác nhau, nhằm đạt được ‘sự nhất
trí chung’, hay ‘sự đồng thuận’ giữa hai hay nhiều bên đó.
Bản chất của sự thỏa thuận của là kết quả của sự thống nhất giữa ‘ý chí’ với ‘sự
bày tỏ ý chí’ của mỗi bên, đặt trong mối liên hệ thống nhất với sự ‘ưng thuận’ tương
ứng của một hoặc các bên khác, tạo thành sự ‘đồng thuận’ của các bên, nhằm đạt một
mục đích xác định. Bởi thế, có ý kiến cho rằng, “thỏa thuận là sự trùng hợp ý muốn
của các bên về một điều gì đó mà các bên mong muốn đạt được” [257, tr.10].
Xét về nội dung, sự thỏa thuận không chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung chung mà
còn phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng, tức phải xác định được bản chất của
quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Theo đó, các bên phải thống nhất về mục
đích của hợp đồng là chuyển giao một vật hoặc làm một việc gì cụ thể. Nếu một bên
thể hiện ý chí muốn bán một ngôi nhà mà bên kia chỉ muốn thuê ngôi nhà đó thì không
thể có một sự ‘hiệp ý’. Hơn nữa, nếu các bên đồng ý cùng nhau mua bán một ngôi nhà,
nhưng không nhất trí được với nhau về giá bán, thời điểm giao kết hợp đồng, thời hạn
giao nhà, trả tiền thì hợp đồng chưa chắc được thiết lập.
Tuy vậy, những thỏa thuận thiếu vắng các nội dung cụ thể là chuyện phổ biến
trong thực tế, vì có thể do các bên sơ suất hoặc cố ý để ngỏ những điều khoản như vậy.
15
Trong trường hợp có tranh chấp, những nội dung còn thiếu sẽ được tòa án xem xét và
áp dụng các điều khoản dự phòng của pháp luật, hoặc có thể bổ túc thông qua việc giải
thích hợp đồng. Hợp đồng được coi là hoàn thành, nếu các bên đã thỏa thuận được
những nội dung chủ yếu. Hợp đồng được coi là chưa hoàn thành, nếu thiếu những nội
dung chủ yếu mà tòa án không thể bổ túc được. Một thỏa thuận chỉ được coi là có giá
trị pháp lý, nếu nội dung và mục đích của nó không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội.
Ngoài ra, thỏa thuận chỉ có thể làm phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với các bên
nếu tuân thủ các yêu cầu do pháp luật qui định như điều kiện về chủ thể, điều kiện về
nội dung và mục đích, điều kiện về sự tự nguyện, và điều kiện về hình thức hợp đồng
trong trường hợp pháp luật có qui định. Đây gọi là các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng. Các nội dung này sẽ được trình bày trong chương hai của Luận án.
Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì vậy, thỏa
thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn hợp đồng.
1.1.2.2. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên
Một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng, nếu không tạo nên hiệu lực ràng
buộc giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo ra các
quyền và nghĩa vụ mới, ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định, hoặc làm thay đổi
hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy.
Một sự thỏa thuận mang tính chất xã giao hoặc một lời hứa danh dự, như lời
hứa sẽ tặng quà nhân ngày sinh nhật, hoặc thỏa thuận sẽ đến dự tiệc ở nhà bạn, hay
cùng đi ăn tối với người khác cũng không phải là hợp đồng, vì các thỏa thuận này
không tạo ra sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Sự vi phạm lời hứa
danh dự hoặc các cam kết mang tính chất xã giao như trên có thể làm cho người thất
hứa bị mất uy tín, bị dư luận chê trách, nhưng không làm phát sinh trách nhiệm pháp lý
và không thể bị áp dụng chế tài dân sự như trường hợp vi phạm hợp đồng.
Trong xã hội ngày nay, người ta cũng sử dụng nhiều hình thức cam kết mang
tính chất thỏa thuận nội bộ trong một khu vực dân cư, một đơn vị hành chính, một địa
phương để cùng làm một việc hay cùng thực hiện một cuộc vận động gì đó của địa
phương, đơn vị. Ví dụ như bản cam kết thực hiện cuộc vận động “nói không với tiêu
16
cực” giữa các nhà giáo với lãnh đạo ngành giáo dục, hay cam kết “thực hiện nếp sống
văn minh đô thị” của hộ gia đình với chính quyền địa phương. Những cam kết như vậy
cũng mang tính thỏa thuận, nhưng không phải là hợp đồng, vì không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Các cam kết này có thể mang tính “ràng
buộc”, thậm chí sự “vi phạm” các cam kết ấy có thể bị áp dụng các biện pháp “cưỡng
chế” (về mặt đạo đức) hay chế tài nhất định (như các chế tài hành chính), nhưng sự “vi
phạm” đó không làm phát sinh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng.
Cũng có những thỏa thuận đặt các bên vào một quan hệ nghĩa vụ luật định,
chẳng hạn như các thỏa thuận kết hôn, thỏa thuận về việc nuôi con nuôi. Theo qui định
của pháp luật Việt Nam hiện hành, các cam kết đó không phải là hợp đồng. Quan điểm
của các luật gia cũng thừa nhận đây chỉ là những thỏa thuận tư nhân nhằm “thừa nhận
một qui chế pháp định”, chấp nhận thực hiện các nghĩa vụ “luật định sẵn”, chứ không
phải là hợp đồng [168, tr.59].
Tóm lại, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự
thỏa thuận nào của các bên cũng là hợp đồng [26, tr.96]. Chỉ những thỏa thuận tạo ra
một sự ràng buộc pháp lý mới được coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận” và “sự
tạo ra một ràng buộc pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng.
Nghiên cứu bản chất hợp đồng là tiền đề lý luận để xác định các điều kiện có hiệu lực
(hay tính hợp pháp) của hợp đồng, nguyên tắc tự do hợp đồng, giá trị pháp lý của hợp
đồng, trình tự giao kết hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và các vấn đề
pháp lý quan trọng khác của chế định hợp đồng, đặc biệt là hiệu lực hợp đồng.
1.2. KHÁI NIỆM HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG, HIỆU LỰC TƯƠNG ĐỐI CỦA HỢP
ĐỒNG
Hiệu lực hợp đồng là vấn đề mang tính bản chất của hợp đồng, vì suy cho cùng,
các bên thiết lập hợp đồng là để ràng buộc quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Khi thiết
lập một hợp đồng, người ta luôn hướng đến việc tạo lập “sự ràng buộc pháp lý” đối
với nhau và trông đợi bên kia cùng thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, nhằm
thỏa mãn các lợi ích các bên. Nội dung sau đây làm rõ khái niệm hiệu lực hợp đồng.
1.2.1. Khái niệm hiệu lực hợp đồng
Hiệu lực của hợp đồng đối với sự tồn tại của hợp đồng có thể được ví giống như
là ‘hơi thở’ hay ‘linh hồn’ đối với sự sống của con người. Một hợp đồng không có hiệu
lực cũng có nghĩa là giữa các bên không tồn tại quan hệ hợp đồng. Tuy nhận thức
17
được tính chất quan trọng của hiệu lực hợp đồng là như vậy, nhưng để đưa ra một định
nghĩa chính xác về hiệu lực của hợp đồng, quả là điều không dễ.
Trong hầu hết các quyển Từ điển Tiếng Việt và Từ điển chuyên ngành Luật ở
Việt Nam hiện nay (trừ quyển “Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học” của Trường Đại
học Luật Hà Nội) đều không có mục từ “hiệu lực của hợp đồng” mà chỉ có các mục từ
khác gần với nó, như “hiệu lực pháp luật của di chúc” hay “hiệu lực của các văn bản
pháp luật” [92, tr.289; 225, tr.203-4]. Theo các Từ điển này thì hiệu lực pháp luật (của
văn bản pháp luật nói chung) “là tính bắt buộc thi hành của văn bản…”, “là giá trị
pháp lý của văn bản…, hoặc (giá trị) áp dụng của văn bản đó,… thể hiện phạm vi tác
động hoặc phạm vi điều chỉnh của văn bản về thời gian, không gian và về đối tượng
áp dụng” [225, tr.202; 287, tr.357-58].
Trong Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học có giải thích khái niệm “hiệu lực
của hợp đồng dân sự” là “giá trị bắt buộc thi hành đối các chủ thể tham gia giao kết
hợp đồng” [241, tr.65]. Tuy ngắn gọn, nhưng định nghĩa này cũng phản ánh được bản
chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng. Tuy vậy, nội hàm của định nghĩa này vẫn chưa
đầy đủ, và nếu giải thích rõ ra thì cũng có phần chưa chính xác. Bởi lẽ, hiệu lực của
hợp đồng, hiểu theo đúng bản chất của nó, thì không chỉ là ‘giá trị bắt buộc thi hành’
mà còn bao gồm cả việc sáng tạo ra các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham
gia hợp đồng. Giá trị bắt buộc thi hành còn là đặc điểm chung của nhiều loại giao dịch
pháp lý khác, chứ không phải là đặc trưng riêng có của hiệu lực hợp đồng. Mặt khác,
trong định nghĩa này sử dụng cụm từ “đối với các chủ thể giao kết hợp đồng” là có
phần chưa chính xác. Bởi vì, chủ thể giao kết hợp đồng hoặc chủ thể thực hiện hợp
đồng chưa chắc là chủ thể của hợp đồng đó. Ở đây nếu sử dụng cụm từ “chủ thể tham
gia xác lập và thực hiện hợp đồng” thì đúng hơn và rõ nghĩa hơn.
Khái niệm hiệu lực hợp đồng cũng không được tìm thấy trong một số từ điển
của nước ngoài bằng tiếng Anh, như quyển “Oran’s Dictionary of The Law - 3rd ed.”
[334], “A Oxford Dictionary of Law – 5th ed.” [329] hay quyển “Dictionary of Law -
4th ed.” [307]. Tuy vậy, trong quyển Từ điển Bách khoa pháp luật Hoa Kỳ có đưa ra
định nghĩa về ‘hiệu lực’ (valid): “Hiệu lực là sự ràng buộc; sự cưỡng chế pháp lý…”
[306, tr.203]. Trong quyển “Black’ Law Dictionary – 6th ed.” của Henry Campell
Black cũng không nêu khái niệm hiệu lực hợp đồng mà chỉ nêu khái niệm hợp đồng có
hiệu lực như sau: “Hợp đồng mà trong hợp đồng đó có đầy đủ các yếu tố pháp lý thì
18
có hiệu lực như pháp luật đối với các bên. Khi một hợp đồng được công nhận có hiệu
lực thì có sự ràng buộc pháp lý” [299, tr.1550]. Như vậy, trên phương diện giải thích
thuật ngữ, các từ điển trên đã đưa ra khái niệm hiệu lực hợp đồng với dấu hiệu đặc
trưng cơ bản của nó là giá trị ràng buộc các bên phải thi hành nghiêm túc. Tuy vậy,
chỉ với dấu hiệu này, các khái niệm về hiệu lực hợp đồng trong các từ điển trên vẫn
chưa phản ánh đầy đủ các dấu hiệu thể hiện bản chất của hiệu lực hợp đồng.
Trong luật thực định, khái niệm hiệu lực hợp đồng cũng được qui định trong
các văn bản pháp luật của một số quốc gia. Chẳng hạn, BLDS Pháp có qui định: “Hợp
đồng được giao kết hợp pháp có giá trị là luật đối với các bên”, “chỉ có thể bị hủy bỏ
trên cơ sở có thỏa thuận chung, hoặc theo những căn cứ do pháp luật qui định” và
“phải được thực hiện một cách thiện chí” [19, Điều 1134]. Theo qui định này, hợp
đồng có hiệu lực thì có giá trị là luật đối với các bên, được pháp luật tôn trọng và bảo
vệ, được các bên phải tuân thủ và thực hiện hợp đồng đó một cách nghiêm túc, có
thiện chí. Các bên không thể hủy bỏ hợp đồng nếu không dựa trên ý chí tự nguyện của
tất cả các bên hoặc các căn cứ do pháp luật qui định.
Trong luật thực định Việt Nam, qui định về “hiệu lực hợp đồng” cũng được tìm
thấy trong một số BLDS ở Việt Nam trước đây. Theo Điều 673 DLB 1931 và Điều
713 DLT 1936-1939, “các hợp ước được kết lập theo pháp luật cũng có hiệu lực như
luật pháp đối với các bên kết ước”. Điều 687 DLSG 1972 cũng có qui định về “hiệu
lực của khế ước”, với nội dung cũng tương tự như Điều 1134 BLDS Pháp.
BLDS 1995 từng có qui định về hiệu lực hợp đồng như sau: “1. Hợp đồng được
giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên; 2- Hợp đồng chỉ có thể bị sửa
đổi hoặc huỷ bỏ, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định…” [16, Điều 404].
BLDS 2005 không qui định cụ thể về hiệu lực của hợp đồng, mà chỉ qui định khái quát
là: “hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác” [15, Điều 405]. Có thể nói,
qui định này không thể hiện được bản chất của khái niệm hiệu lực hợp đồng – đó là giá
trị pháp lý ràng buộc đối với các bên, mà chủ yếu là để xác định thời điểm phát sinh
hiệu lực của hợp đồng. Ngoài ra, tại Điều 4 BLDS 2005 cũng có qui định chung về
hiệu lực của các cam kết dân sự: “cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc
thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”.
19
Tóm lại, qua nghiên cứu khía cạnh pháp lý và từ điển của khái niệm hiệu lực
hợp đồng, chúng ta thấy có hai dấu hiệu thể hiện bản chất của nó, đó là: (i) giá trị pháp
lý của hợp đồng giống như pháp luật; và (ii) hiệu lực ràng buộc mang tính cưỡng chế
nhằm buộc các bên phải tôn trọng và thực thi đầy đủ các cam kết trong hợp đồng. Giá
trị pháp lý và hiệu lực ràng buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện đúng hợp đồng
là hai mặt không thể thiếu của hiệu lực hợp đồng. Trên cơ sở nhận thức bản chất của
‘hiệu lực hợp đồng’, tác giả xin đưa ra khái niệm hiệu lực hợp đồng như sau:
Hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia, và giá trị pháp lý ràng buộc các bên tham gia hợp
đồng phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa vụ đó.
Về phương diện lý luận, việc nhận thức đúng khái niệm hiệu lực hợp đồng là cơ
sở để tiếp cận các vấn đề khác có liên quan đến việc nghiên cứu quá trình tạo lập, xác
nhận giá trị pháp lý và thực thi hợp đồng. Khái niệm này cũng thể hiện rõ các yếu tố
quan trọng mang tính bản chất của hiệu lực hợp đồng, đó là sáng tạo ra, làm thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa các bên; đồng thời tạo ra sự ràng buộc pháp lý
nhằm bắt buộc các bên tôn trọng và nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Khi bàn về hiệu lực của hợp đồng, người ta thường nhìn nhận hiệu lực hợp
đồng ở nhiều khía cạnh: điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, và hiệu lực tương đối của hợp đồng. Ba
nội dung đầu sẽ được lần lượt trình bày trong các chương 2, chương 3, chương 4 của
Luận án. Nội dung cuối được trình bày trong mục 1.2.2. dưới đây.
1.2.2. Hiệu lực tương đối của hợp đồng
Xét về phạm vi chủ thể, hiệu lực của hợp đồng chỉ ràng buộc đối với các bên
tham gia. Đây là hiệu lực tương đối của hợp đồng. Tuy nhiên, trong pháp luật hợp
đồng hiện đại, đôi khi hợp đồng còn có giá trị pháp lý đối với một số chủ thể khác.
Thậm chí có ý kiến còn cho rằng, “hợp đồng có hiệu lực áp dụng ngay cả đối với tòa
án” [227, tr.7].
1.2.2.1. Hiệu lực đối với các bên trực tiếp tham gia
Trong quan hệ hợp đồng thường có từ hai bên hoặc nhiều hơn hai bên tham gia, gọi là các bên chủ thể hợp đồng. Các bên chủ thể hợp đồng rất đa dạng, bao gồm cá nhân, pháp nhân, và các loại chủ thể khác theo qui định của pháp luật.
20
Như đã trình bày, bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận nhằm làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Theo đó, trong quan hệ hợp đồng,
quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia; quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng thường đối lập nhau một cách tương xứng.
Thường thì các bên có thể nhân danh chính mình để trực tiếp xác lập, thực hiện
hợp đồng, hoặc có thể gián tiếp tham gia hợp đồng thông qua trung gian là người đại
diện hợp pháp. Tuy vậy, người đại diện hợp pháp không phải là chủ thể của hợp đồng
mà chỉ là người thay mặt và nhân danh chủ thể hợp đồng để xác lập, thực hiện hợp
đồng. Trong trường hợp này, quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng không có giá trị pháp
lý ràng buộc người đại diện (trực tiếp giao kết, thực hiện hợp đồng) mà chỉ có giá trị
ràng buộc đối với người được đại diện.
Riêng đối với những hợp đồng mang tính chất “gia nhập” thì các bên không cần
phải tham gia ngay từ đầu, mà có thể tự nguyện tuyên bố gia nhập sau khi hợp đồng
xác lập. Việc chủ thể tuyên bố ý chí tham gia hợp đồng sau khi hợp đồng đã được xác
lập và được sự “chấp nhận” của các bên có liên quan trong hợp đồng, thì cũng được
xem là chủ thể, có quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng kể từ thời điểm đó. Ví dụ: trong
hợp đồng hợp tác để thành lập tổ hợp tác. Ban đầu, hợp đồng chỉ được ký kết bởi các
thành viên “sáng lập” tổ hợp tác. Sau này, nếu có người muốn gia nhập, thì có thể làm
đơn xin gia nhập gửi cho tổ hợp tác [182, Điều 7]. Khi có sự đồng ý của đa số tổ viên,
thì người đó trở thành thành viên của tổ hợp tác [15, Điều 118], theo đó coi như người
xin “gia nhập” tổ hợp tác đã mặc nhiên chấp nhận nội dung hợp đồng hợp tác mà
không cần trực tiếp tham gia ký kết hợp đồng.
Như vậy, khác với hiệu lực của pháp luật có giá trị bắt buộc chung đối với mọi
người trong xã hội, hiệu lực của hợp đồng có giá trị ràng buộc trước hết và chủ yếu là
đối với các bên trực tiếp tham gia hợp đồng - những người đã tự nguyện thỏa thuận
xác lập hợp đồng. Sở dĩ hợp đồng chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia
là vì hợp đồng được tạo ra bằng sự thỏa thuận của các bên, dựa trên nguyên tắc tự
nguyện và tự do ý chí. Bởi vậy, đối với các bên đã tự nguyện thỏa thuận tạo lập hợp
đồng thì phải chấp nhận sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.
Tóm lại, theo nguyên tắc hiệu lực tương đối, hợp đồng có hiệu lực ràng buộc
chủ yếu đối với các bên tham gia hợp đồng, trừ những trường hợp ngoại lệ sau đây:
1.2.2.2. Hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba là người kế vị pháp lý
21
Khái niệm các bên hợp đồng không phải chỉ dùng để chỉ người trực tiếp tham
gia hợp đồng hoặc người gián tiếp tham gia hợp đồng thông qua người đại diện hợp
pháp, mà các bên hợp đồng nói ở đây còn bao gồm cả những người kế vị pháp lý.
Người kế vị pháp lý không phải là người thứ ba bên ngoài hợp đồng, mà là
người thay thế tư cách pháp lý của chủ thể hợp đồng để trở thành một bên chủ thể của
hợp đồng đó, bao gồm các trường hợp thay thế chủ thể hợp đồng do chuyển nhượng
quyền hoặc chuyển giao nghĩa vụ [15, các Điều 309-317], hoặc do cải tổ các pháp
nhân [15, điểm a khoản 1 Điều 99 và các Điều 94-97], hoặc do thừa kế tài sản có kèm
theo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ [15, Điều 634, 637]. Nhưng tư cách của người
kế vị pháp lý có hai điểm khác biệt so với các bên trực tiếp xác lập hợp đồng:
+ Một là, theo qui định của BLDS 2005, có những loại nghĩa vụ mà theo pháp
luật hoặc theo thỏa thuận, chủ thể phải tự mình thực hiện thì không thể chuyển giao
cho người kế vị pháp lý (Điều 424, khoản 8 & 9 Điều 374, Điều 384, Điều 385). Ví
dụ: khi người ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết thì hợp đồng ủy quyền chấm
dứt (khoản 4 Điều 589); hay trong hợp đồng thuê nhà, khi bên thuê chết mà không có
ai cùng chung sống thì hợp đồng thuê chấm dứt (khoản 3 Điều 499). Trong các trường
hợp này, tuy người thừa kế của người đã chết không kế vị pháp lý đối với hiệu lực hợp
đồng, nhưng lại kế vị pháp lý để giải quyết hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp
đồng. Ví dụ: đòi bồi thường, đòi thực hiện các nghĩa vụ chưa thực hiện hoặc đòi hoàn
lại các khoản thanh toán còn thừa, sau khi trừ đi giá trị của phần nghĩa vụ đã thực hiện.
+ Hai là, sự kế vị pháp lý thông qua việc thừa kế tổng quát hoặc thừa kế đặc
định một tài sản cụ thể có kèm theo nghĩa vụ thích ứng của người tham gia hợp đồng,
thì người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi giới hạn của giá trị phần di
sản mà mình được hưởng [15, Điều 637]. Về nguyên tắc, một bên trong hợp đồng có
thể loại trừ trong hợp đồng việc chuyển giao nghĩa vụ hợp đồng cho người thừa kế
thực hiện. Tuy nhiên, các bên hợp đồng không thể thỏa thuận và qui định trong hợp
đồng điều khoản chuyển giao nghĩa vụ trong hợp đồng đó cho người thừa kế thực hiện,
vì điều này trái với nguyên tắc hiệu lực tương đối của hợp đồng, trừ trường hợp việc
chuyển giao cho người kế vị pháp lý những lợi ích gắn liền với nghĩa vụ hợp đồng. Ví
dụ: khi hợp đồng thuê nhà đang còn hiệu lực, bên cho thuê nhà chết để lại thừa kế ngôi
nhà đang cho thuê. Trường hợp này, người thừa kế được kế vị toàn bộ các quyền và
nghĩa vụ của hợp đồng thuê nhà.
22
Suy cho cùng thì sự chuyển giao nghĩa vụ cũng là một hợp đồng vì đó là sự thỏa
thuận giữa bên có nghĩa vụ với người thứ ba để giao nghĩa vụ cho người thứ ba thực
hiện, trên cơ sở có sự đồng ý của người có quyền. Bởi vậy, đây cũng có thể được xem
là ngoại lệ của sự kế vị pháp lý, tức là thỏa thuận tạo lập nghĩa vụ để người thứ ba thực
hiện. Tuy vậy, nghĩa vụ ở đây không phải là nghĩa vụ mới được tạo ra từ hợp đồng mà
chỉ là nghĩa vụ đã được xác định trước khi hợp đồng “chuyển nghĩa vụ” được thiết lập.
Mặt khác, dựa trên ý chí của các bên trong hợp đồng, ‘hiệu lực tương đối’ của
hợp đồng cũng có sự ràng buộc và ảnh hưởng đáng kể đối với người kế vị pháp lý. Đó
là việc các bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận giới hạn hiệu lực của hợp đồng đối
với người kế vị pháp lý, bao gồm việc hạn chế phạm vi người được kế vị pháp lý, hoặc
loại trừ việc kế vị pháp lý. Điều này có nghĩa, theo lẽ thông thường, đối với nghĩa vụ
có thể chuyển giao được, thì khi một bên chủ thể không còn tồn tại do chết hoặc do
chuyển nhượng tài sản hoặc do cải tổ pháp nhân, thì người thế quyền sẽ được kế vị
pháp lý để tiếp tục thực hiện hợp đồng, nếu hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Nhưng nếu các
bên thỏa thuận không cho kế vị pháp lý hoặc hạn chế phạm vi người được kế vị pháp
lý, thì khi tư cách chủ thể của một bên chấm dứt, hợp đồng sẽ được thanh lý mà không
chuyển giao cho người khác kế vị.
Ví dụ: trong hợp đồng thuê mua nhà có thời hạn thanh toán 15 năm, các bên có
thỏa thuận người thuê mua chết trước khi trả đủ tiền mua nhà, thì hợp đồng chấm dứt
và người thừa kế chỉ được nhận lại tiền mua nhà, sau khi trừ tiền thuê. Do đó, nếu
người thuê mua chết trước khi thanh toán xong tiền mua nhà, thì người thừa kế của họ
sẽ không được kế vị pháp lý đối với hợp đồng thuê mua nói trên. Như vậy, cam kết
này đã có hiệu lực làm hạn chế việc thế quyền của người kế vị pháp lý, theo đó tư cách
kế vị pháp lý của người thừa kế bị hợp đồng “từ chối”. Tuy vậy, trong trường hợp này,
người thừa kế của chủ thể hợp đồng vẫn kế vị pháp lý đối với hậu quả pháp lý của việc
chấm dứt hợp đồng theo qui định chung, như yêu cầu thanh toán tiền còn thiếu, hoặc
hoàn trả khoản tiền được thanh toán thừa, và các hậu quả vật chất khác.
1.2.2.3. Hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba không phải là người kế vị pháp lý
Một trong những vấn đề pháp lý rất đáng được quan tâm là, liệu một hợp đồng
do các bên thiết lập thì có hiệu lực đối với người khác, ngoài các bên trực tiếp tham gia
và người kế vị pháp lý của họ, hay không. Nói ngắn gọn, hợp đồng có hiệu đối với
người thứ ba ngoại cuộc hay không ?
23
Trước hết, nếu chỉ hiểu đơn giản hiệu lực của hợp đồng là “giá trị pháp lý” thì
khi hợp đồng được lập theo thể thức công chứng hoặc đăng ký thì hợp đồng đó có giá
trị pháp lý đối với người thứ ba. Ví dụ: hợp đồng bảo đảm có đăng ký, thì hợp đồng đó
“có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký” [15, khoản 3 Điều
323]. Nếu hiểu hiệu lực hợp đồng đối với người thứ ba theo nghĩa hiệu lực ràng buộc
phải thực thi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, thì vấn đề này không được thể
hiện rõ ràng trong luật thực định.
Về phương diện lịch sử, xuất phát từ câu tục dao La Tinh: “Res inter alios acta,
aliis neque nocere, neque prodesse potest” (một hợp đồng được ký kết giữa các bên
thường không làm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, nhưng cũng
không mặc nhiên làm lợi cho các bên khác), các luật gia theo quan niệm cổ điển xem
hiệu lực tương đối của hợp đồng như là một nguyên tắc hiển nhiên. Tuy vậy, theo GS
Vũ Văn Mẫu, “nguyên tắc ấy, đối với các luật gia ngày nay, chỉ còn có một giá trị
tương đối” [168, tr.271]. Pháp luật hợp đồng hiện đại đã cho phép có những ngoại lệ
để thu hẹp hoặc nới rộng hiệu lực tương đối của hợp đồng [227, tr.6]. Theo đó, ngoài
việc thừa nhận nguyên tắc hiệu lực tương đối của hợp đồng (chỉ có hiệu lực đối với
các bên tham gia), pháp luật còn chấp nhận ngoại lệ: hợp đồng có hiệu lực đối với
người thứ ba trong trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định
khác, nhưng đó là những trường hợp chấp nhận có điều kiện.
Có hai trường hợp hợp đồng được ký kết cho người thứ ba được hưởng lợi:
(i) Ký kết hợp đồng thay cho người thứ ba. Đó là những trường hợp một bên
trong hợp đồng tuy không có tư cách đại diện của bên thứ ba nhưng vẫn nhân danh bên
thứ ba để xác lập hợp đồng với bên kia. Đây là trường hợp vượt quá phạm vi đại diện,
hoặc không có tư cách đại diện. Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết trong trường
hợp này chỉ có hiệu lực đối với các bên tham gia chứ không có hiệu lực đối với người
thứ ba. Tuy vậy, hợp đồng này vẫn có hiệu lực ràng buộc đối với người thứ ba nếu có
hai điều kiện [15, Điều 145, 146]: một là bên xác lập hợp đồng phải thông báo cho
người thứ ba và được người thứ ba tuyên bố chấp nhận hợp đồng (đối với hợp đồng
được ký bởi người không có tư cách đại diện), hoặc người thứ ba biết mà không phản
đối (đối với hợp đồng được ký vượt quá phạm vi đại diện); thứ hai, bên kia là người
ngay tình (không biết và không buộc phải biết người ký hợp đồng với mình không có
tư cách đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện).
24
(ii) Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Khi hợp đồng được ký kết để người
thứ ba hưởng lợi thì được gọi là hợp đồng vì lợi của người thứ ba. “Hợp đồng vì lợi ích
của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa
vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó” [15, khoản 5
Điều 406], chẳng hạn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho người được bảo hiểm là người
thứ ba hoặc chỉ định người thứ ba thụ hưởng, hợp đồng vận chuyển để giao hàng cho
người thứ ba (là bên mua hàng của bên thuê vận chuyển), hợp đồng dịch vụ chăm sóc
khách hàng, hợp đồng đại lý bảo hành sản phẩm hàng hóa…
Có ba dấu hiệu đặc trưng của người thứ ba được hưởng lợi ích từ hợp đồng:
Thứ nhất, người thứ ba phải là những cá nhân, tổ chức hoặc những chủ thể hiện
đang tồn tại và có năng lực pháp lý để thụ hưởng lợi ích mà họ được chỉ định thụ
hưởng. Các chủ thể không tồn tại trên thực tế (trừ trường hợp người đó đã thành thai
và sinh ra còn sống) vào thời điểm phát sinh quyền thụ hưởng, hoặc không có năng lực
pháp lý để thụ hưởng quyền lợi thì không thể trở thành người thứ ba của hợp đồng.
Thứ hai, người thứ ba là người được xác định rõ trong hợp đồng vào thời điểm
hợp đồng được thành lập. Việc xác định ở đây có thể là chỉ rõ danh tính hoặc chỉ rõ
các tính chất, đặc điểm xác định hoặc có thể xác định được vào lúc thực hiện quyền
thụ hưởng của người đó, hoặc vào lúc phát sinh nghĩa vụ của các bên để người đó
hưởng lợi ích. Ví dụ: trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa có thỏa thuận hàng hóa đó
sẽ được giao cho người có quyền sở hữu “sau cùng”2 tính đến thời điểm giao hàng.
Thứ ba, các lợi ích mà người thứ ba được hưởng phải được xác định rõ vào lúc
hợp đồng được xác lập.
Hiệu lực hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba được thể hiện ở các mặt sau:
+ Ngoài hiệu lực ràng buộc các bên tham gia, hợp đồng vì lợi ích của người thứ
ba còn ràng buộc các bên phải thực hiện hợp đồng để mang đến lợi ích cho người thứ
ba. Theo đó, người thứ ba cũng có quyền yêu cầu thực hiện hợp đồng để mang đến lợi
ích cho mình [15, Điều 419]. Ví dụ: hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa doanh
nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm để người thứ ba được thụ hưởng lợi ích, thì
2 Trường hợp này, tuy người được nhận hàng không được chỉ rõ danh tính lúc ký hợp đồng, nhưng có thể xác định được dựa vào đặc điểm: người được nhận hàng sau cùng, có vận đơn để nhận hàng vào thời điểm giao hàng.
25
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm người thụ hưởng có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm
trả tiền bảo hiểm [148, khoản 8 Điều 3].
+ Người thứ ba có quyền từ chối nhận lợi ích từ hợp đồng, trừ trường hợp việc
từ chối đó xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Nếu trước khi hợp
đồng được thực hiện mà người thứ ba từ chối và sự từ chối của người thứ ba là hợp
pháp thì hợp đồng bị coi như hủy bỏ [15, Điều 420]. Nếu sự từ chối của người thứ ba
là trái pháp luật thì hợp đồng đó có thể vẫn được thực hiện theo nguyên tắc chung của
pháp luật. Ví dụ: bên bán ký hợp đồng vận chuyển hàng với bên vận chuyển để giao
cho bên mua, nhưng bên mua lại từ chối nhận hàng hoặc không có mặt để nhận hàng
tại nơi đến mà việc từ chối hoặc việc không có mặt đó không thuộc trường hợp được
pháp luật cho phép, thì việc giao hàng do bên thuê vận chuyển quyết định: việc giao
hàng có thể vẫn được tiếp tục thực hiện bằng cách gửi hàng vào nơi gửi giữ và thông
báo cho người mua biết về việc hàng hóa đã được giao và đã được gửi giữ theo đúng
qui định của pháp luật [15, khoản 1 Điều 376].
+ Khi người thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích thì dù hợp đồng chưa được thực
hiện, các bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi hoặc huỷ bỏ hợp đồng, trừ
trường hợp được người thứ ba đồng ý [15, Điều 421].
+ Khi người thứ ba chấp nhận hợp đồng được ký kết vì lợi ích của mình thì
người thứ ba vẫn phải có những nghĩa vụ nhất định từ hợp đồng. Ví dụ: nếu người thứ
ba là người được bảo hiểm hoặc được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm thì họ phải có
nghĩa vụ thông báo về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, tuân thủ các qui tắc của hợp đồng
bảo hiểm khi tiến hành các thủ tục để hưởng lợi ích bảo hiểm; hoặc trong hợp đồng
vận chuyển hàng hóa cho bên thứ ba nhận hàng thì bên thứ ba phải nhận hàng đúng
thời gian, địa điểm, xuất trình vận đơn hợp lệ, chịu chi phí bốc dỡ hàng…
Nói tóm lại, hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba kế vị pháp lý và người
thứ ba không kế vị pháp lý có sự khác biệt cơ bản. Người thứ ba kế vị pháp lý là người
thay thế vị trí của một bên chủ thể hợp đồng để có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hợp
đồng, kể từ khi bên mà họ kế vị pháp lý chấm dứt tư cách chủ thể hợp đồng. Ngược
lại, người thứ ba không phải là người kế vị pháp lý là một chủ thể độc lập, không có
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của chủ thể hợp đồng, nhưng trong nhiều trường hợp,
người này có thể được hưởng nguyên tắc “song quyền” [108, tr.65] giống như chủ thể
hợp đồng, ngay cả khi chủ thể hợp đồng vẫn còn tồn tại. Ngoài ra, họ còn có những
26
quyền và nghĩa vụ của riêng mình đối với một hoặc các bên của hợp đồng, mà đôi khi
chủ thể trực tiếp của hợp đồng hoặc người kế vị pháp lý không có các quyền đó.
1.2.2.4. Hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba là chủ sở hữu của đối tượng của
hợp đồng
Về nguyên tắc, một hợp đồng không thể làm thiệt hại cho quyền lợi của người thứ ba. Mặt khác, theo nguyên tắc bảo vệ quyền của chủ sở hữu, thì không ai có quyền xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu (Điều 164 và Điều 169 BLDS 2005). Theo đó, các bên không được phép xác lập các hợp đồng đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, nếu không được chủ sở hữu cho phép hoặc đồng ý. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngoại lệ, pháp luật cho phép hoặc thừa nhận chủ thể khác có quyền được xác lập các hợp đồng để chuyển giao các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, với những điều kiện và căn cứ pháp luật xác định. Đó là các trường hợp:
(i) để bảo vệ quyền lợi của chính chủ sở hữu tài sản. Theo qui định của pháp luật, chỉ có chủ sở hữu mới có quyền tự mình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Người khác chỉ được chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu nếu được chủ sở hữu cho phép, hoặc đồng ý, hoặc phải có căn cứ do pháp luật qui định. Ví dụ: Để bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu đối với tài sản hoặc hạn chế những tổn thất có thể gây ra cho tài sản (mà chủ sở hữu hiện không trực tiếp quản lý), pháp luật cũng qui định cho phép bên giữ tài sản có quyền bán tài sản gửi giữ đang có nguy cơ bị hư hỏng hoặc tiêu hủy để bảo vệ quyền lợi của bên gửi (khoản 3 Điều 288, khoản 4 Điều 563 BLDS 2005).
(ii) để bảo vệ quyền lợi của đồng sở hữu chủ tài sản. Đối với việc định đoạt nhà ở thuộc quyền sở hữu chung (theo phần) mà có đồng sở hữu chủ vắng mặt, thì các đồng sở hữu chủ đang quản lý nhà ở đó có thể bán nhà ở mà không cần phải được sự đồng ý của đồng sở hữu chủ vắng mặt, nhưng phải thực hiện theo những trình tự, thủ tục nhất định: yêu cầu tòa án có thẩm quyền tuyên bố mất tích đối với người vắng mặt, sau đó bán nhà ở thuộc sở hữu chung và gửi tiền bán nhà thuộc phần quyền của người đó vào ngân hàng… (Điều 96 Luật Nhà ở 2005, Điều 57 Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ hướng dẫn Luật Nhà ở).
(iii) để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình. Người thứ ba chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình có quyền khai thác, sử dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo qui định của pháp luật (khoản 3 Điều 194 BLDS 2005). Mặt
27
khác, nếu giao dịch dân sự vô hiệu mà tài sản là đối tượng của giao dịch đó đã được chuyển cho người thứ ba ngay tình, thì chủ sở hữu tài sản phải tôn trọng giá trị pháp lý của giao dịch với người thứ ba ngay tình. Theo đó, chủ sở hữu không có quyền đòi lại các tài sản bị người khác chuyển nhượng cho người thứ ba ngay tình (Điều 138 BLDS 2005), trừ các trường hợp được qui định tại các Điều 257 và Điều 258 BLDS 2005.
(iv) để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ khi chủ sở hữu cố tình từ chối thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Theo qui định của Điều 46, Điều 101 Luật Thi hành án dân sự (2008) và các qui định liên quan, nếu bên phải thi hành nghĩa vụ trả nợ theo quyết định, bản án có hiệu lực của tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn qui định, thì bị cưỡng chế thi hành án. Cơ quan thi hành án có quyền ra quyết định bán đấu giá tài sản dùng để thi hành án theo qui định của Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về Bán đấu giá tài sản. Khi hợp đồng bán tài sản đấu giá được xác lập, thì chủ sở hữu tài sản phải chuyển giao tài sản đó cho người mua đấu giá theo thỏa thuận trong hợp đồng bán tài sản đấu giá giữa bên bán đấu giá với người được mua tài sản đó (Điều 41 Nghị định 17/2010/NĐ-CP).
Như vậy, hiệu lực của các hợp đồng do người khác xác lập trong các trường hợp trên phải được chủ sở hữu tôn trọng. Cơ sở pháp lý để buộc chủ sở hữu phải tôn trọng các hợp đồng nói trên là nguyên tắc hạn chế quyền sở hữu - chủ sở hữu thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản của mình không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 165 BLDS 2005) và nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người chiếm hữu ngay tình, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của các bên khác có liên quan.
1.2.2.5. Giá trị pháp lý của hợp đồng được các chủ thể pháp lý khác tôn trọng
Ngoài việc tạo ra hiệu lực ràng buộc các bên tham gia và người thứ ba trong một số trường hợp nhất định như vừa trình bày trên đây, theo quan điểm của nhiều luật gia, giá trị pháp lý của hợp đồng còn có hiệu lực áp dụng đối với các cơ quan tài phán và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác trong việc thực hiện các hành vi pháp lý liên quan tới hợp đồng. Theo ý kiến của một học giả thì ngoài hiệu lực ràng buộc đối với các bên, “hợp đồng có hiện lực ngay cả đối với tòa án” [227, tr.7]. Ý kiến này cũng được nhiều học giả khác đồng tình: “khi giải quyết tranh chấp hợp đồng, xử lý vi phạm hợp đồng, tòa án hoặc trọng tài phải căn cứ vào các điều khoản của hợp đồng để ra bản án hoặc quyết định công bằng, đúng đắn” [177, tr.23]; hoặc: “Nếu trong hợp đồng, các bên đã có những cam kết, thỏa thuận cụ thể về những nội dung cơ bản thì sự
28
ghi nhận cụ thể đó trong hợp đồng là căn cứ pháp lý để tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng khi giải quyết tranh chấp” [239, tr.23].
Luật thực định Việt Nam thừa nhận các cam kết không trái pháp luật và đạo đức, thì được “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ” [154, khoản 1 Điều 11]. Hơn nữa, giá trị pháp lý của giao dịch dân sự nói chung, hợp đồng nói riêng, không chỉ “có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên” mà còn “phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng” [15, Điều 4]. Hiểu rộng ra, giá trị pháp lý của hợp đồng còn được bảo đảm bởi pháp luật nhằm buộc cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác phải tôn trọng. Ví dụ: các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan công chứng, cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất… phải tôn trọng hiệu lực của hợp đồng và phải thực hiện các nghiệp vụ pháp lý cần thiết theo qui định pháp luật để bảo đảm các hợp đồng được tôn trọng và thực thi nghiêm túc.
Giá trị pháp lý của hợp đồng còn có hiệu lực ràng buộc đối với tòa án khi xét xử các tranh chấp liên quan tới quan hệ pháp luật giữa các bên tranh tụng. Ví dụ: Điều khoản của hợp đồng về việc chọn lựa cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp giữa các bên là tòa án Việt Nam; điều khoản chọn lựa luật áp dụng giải quyết tranh chấp hợp đồng là luật Việt Nam; điều khoản xác định trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng; điều khoản miễn trừ trách nhiệm… là những điều khoản mà tòa án phải tôn trọng, và được xem là căn cứ để giải giải quyết tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng.
Hơn nữa, tòa án cũng phải tôn trọng và phải đảm bảo rằng, các hợp đồng được thiết lập hợp pháp thì có giá trị pháp lý và được pháp luật tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Khi giải quyết quyền lợi của các bên, tòa án cần dựa trên căn cứ pháp lý là qui định cụ thể của các điều khoản trong hợp đồng, mà không được can thiệp một cách tùy tiện vào hiệu lực của hợp đồng. Nếu cần thiết phải can thiệp vào hiệu lực của hợp đồng, tòa án phải chỉ ra căn cứ pháp lý được qui định minh thị, và cũng chỉ được can thiệp trong giới hạn mà pháp luật cho phép. Nếu nội dung của hợp đồng không đầy đủ thì tòa án cần áp dụng các qui phạm bổ khuyết của luật để làm căn cứ xem xét việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Nếu có những điều khoản chưa rõ ràng, tòa án cần giải thích hợp đồng, thì tòa án phải giải thích hợp đồng sao cho theo hướng duy trì hiệu lực của hợp đồng hơn là phủ nhận hiệu lực của hợp đồng [15, Điều 409].
Có thể nói, hiệu lực tương đối của hợp đồng và hiệu lực ràng buộc của hợp trong luật thực định Việt Nam là vấn đề phức tạp và hiện vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh cãi. Những bất cập của luật thực định về vấn đề này sẽ được bàn đến trong chương bốn của Luận án này.
29
1.3. CƠ CHẾ PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG
Hiệu lực hợp đồng là vấn đề pháp lý rất phức tạp và có quan hệ biện chứng với
mọi vấn đề còn lại của pháp luật hợp đồng. Bởi vậy, việc điều chỉnh hiệu lực hợp đồng
không chỉ bằng một vài điều luật mà phải bằng cả một cơ chế thích hợp. Đó là cơ chế
pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng. Về mặt lý luận, việc nghiên cứu về hiệu lực hợp
đồng cũng cần được đặt trong mối quan hệ mang tính hệ thống với cơ chế pháp lý điều
chỉnh hiệu lực hợp đồng, vì hiệu lực hợp đồng chính là phần cốt lõi của cả cơ chế đó.
Mục này tập trung nghiên cứu khái niệm và nội dung của cơ chế pháp lý điều chỉnh
hiệu lực hợp đồng để làm cơ sở lý luận cho việc tiếp cận và làm rõ các vấn đề khoa
học và pháp lý được đặt ra từ vấn đề hiệu lực hợp đồng.
1.3.1. Khái niệm cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng
“Cơ chế điều chỉnh” là một khái niệm không mới trong khoa học pháp lý,
nhưng “cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng” là một khái niệm chưa được tìm
thấy trong các tài liệu khoa học pháp lý hiện nay.
‘Cơ chế’, theo nghĩa chung nhất, là “cách thức sắp xếp tổ chức để làm đường
hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện” [294, tr.464]. ‘Điều chỉnh’, hiểu theo nghĩa thông
thường là “xếp đặt cho đúng, cho hợp lý” [294, tr.637]. Hiểu theo nghĩa pháp lý, ‘điều
chỉnh’ là sự tác động, bảo vệ, khuyến khích, hạn chế hay loại trừ của pháp luật đối với
các quan hệ xã hội và hành vi của các chủ thể trong xã hội. Còn ‘điều chỉnh pháp luật’
là “việc nhà nước dùng pháp luật, dựa vào pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội,
tác động theo những hướng nhất định vào các quan hệ xã hội” [277, tr.214]. Trên cơ
sở khái niệm ‘cơ chế’ và khái niệm ‘điều chỉnh pháp luật’, GS. TSKH. Đào Trí Úc đã
đưa ra định nghĩa về cơ chế điều chỉnh pháp luật như sau: “Cơ chế điều chỉnh pháp
luật” được hiểu là “hệ thống các biện pháp pháp luật (…) có quan hệ mật thiết với
nhau, tác động lẫn nhau mà qua đó thực hiện sự tác động của pháp luật lên các quan
hệ xã hội” [278, tr.209].
Cơ chế pháp lý điều chỉnh hợp đồng là một loại cơ chế pháp luật cụ thể trong
một lĩnh vực chuyên ngành hẹp của hệ thống pháp luật - chế định hợp đồng. Cá nhân
tác giả cho rằng, cơ chế này được xây dựng từ hai bộ phận cấu thành: các giải pháp
tác động và các nhân tố đảm bảo hiệu lực ràng buộc của hợp đồng.
Các giải pháp tác động ở đây được hiểu là các giải pháp mang tính tài sản, dựa
trên nguyên tắc tự do hợp đồng, nguyên tắc thiện chí, trung thực, hợp tác, ý chí tự
30
nguyện ràng buộc hợp đồng của các bên, lẽ công bằng và tính nghiêm minh của pháp
luật. Các giải pháp tác động cho phép dự liệu các chế tài mang tính vật chất, khả năng
lựa chọn cách thức xử sự của mỗi bên chủ thể trong hợp đồng để phản kháng lại sự vi
phạm của bên kia, và quyền được pháp luật bảo vệ để chống lại những bất công được
tạo ra bởi hiệu lực hợp đồng. Các giải pháp đó được thể hiện ra bên ngoài thành các
qui phạm pháp luật nhằm qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, hoặc hạn chế
hiệu lực ràng buộc hợp đồng, qui định về trách nhiệm pháp lý mang tính cưỡng chế
hoặc các chế tài dân sự, như buộc phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bị phạt vi
phạm nếu có thỏa thuận, gánh chịu rủi ro, phạt lãi suất quá hạn, buộc phải giảm giá,
cho phép bên có quyền hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng…
Các nhân tố đảm bảo hiệu lực ràng buộc hợp đồng là các thành tố pháp lý tham
gia vào quá trình thiết lập và vận hành cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng.
Các nhân tố đó là: (i) các qui phạm pháp luật - là nhân tố giữ vai trò then chốt - qui
định cơ sở pháp lý cho các chủ thể khác tham gia vào quá trình thiết lập, thực thi hiệu
lực của hợp đồng một cách thuận lợi và có hiệu quả; (ii) các bên chủ thể tham gia hợp
đồng – bằng hành vi và ý chí của mình để tự mình thiết lập, thực hiện hợp đồng phù
hợp với yêu cầu của pháp luật, một cách tự do, trung thực và công bằng; và (iii) các
thủ thuật pháp lý được pháp luật sử dụng để đảm bảo hiệu lực thực thi của hợp đồng,
kể cả việc cho phép có sự can thiệp của tòa án và các cơ quan hữu quan trong việc bảo
đảm hiệu lực của hợp đồng và công bằng xã hội.
Từ nhận thức trên, có thể đưa ra khái niệm về cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu
lực hợp đồng như sau: Cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng là hệ thống các
nguyên tắc, phương pháp, giải pháp được pháp luật sử dụng để tác động tới các nhân
tố tham gia vào quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, nhằm đảm bảo cho hiệu lực
hợp đồng được tôn trọng và được thực thi một cách công bằng và hợp lý.
Có nhiều loại cơ chế điều chỉnh hợp đồng. Dựa vào mức độ can thiệp của nhà
nước đối với quyền tự do hợp đồng, có: cơ chế kinh tế chỉ huy với sự can thiệp sâu của
nhà nước vào hiệu lực hợp đồng (ví dụ cơ chế điều chỉnh mang tính chỉ tiêu pháp lệnh
trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 của Việt Nam [214]); cơ chế tự do thị trường
mà đặc trưng của nó là việc nhà nước đề cao quyền tự do hợp đồng và quyền tự định
đoạt của mỗi bên trong việc thiết lập và thực thi hợp đồng (ví dụ cơ chế tự do hợp
đồng trong luật hợp đồng cổ điển cuối thế kỷ XIX [40, tr. 13-5]); cơ chế kinh tế thị
31
trường có định hướng của nhà nước (ví dụ quan điểm chỉ đạo về việc “bảo vệ quyền tự
do hợp đồng” khi soạn thảo BLDS 2005 [273, tr.17]). Xét về phương pháp tác động
của nhà nước vào quan hệ hợp đồng thì có: cơ chế điều chỉnh cứng qui định về hiệu
lực bất biến của hợp đồng, và cơ chế điều chỉnh linh hoạt cho phép các bên chủ thể có
nhiều quyền lựa chọn hơn, nhưng có sự can thiệp linh hoạt (của nhà nước) vào hiệu
lực hợp đồng trong một số trường hợp cần thiết; qui định về các ngoại lệ cho phép các
bên có quyền yêu cầu điều chỉnh hiệu lực hợp đồng, đồng thời qui định các căn cứ
pháp lý và những giới hạn cụ thể để áp dụng các ngoại lệ đó. Điều chỉnh hiệu lực hợp
đồng bằng cơ chế thị trường có định hướng của nhà nước và cơ chế điều chỉnh linh
hoạt là xu hướng phổ biến và tiến bộ của pháp luật hợp đồng hiện đại.
Tóm lại, cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng bao gồm tất cả các giải
pháp tác động được pháp luật sử dụng nhằm bảo đảm sự công bằng và an toàn pháp lý
của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, qua đó cũng để bảo vệ trật tự pháp luật trong
việc điều chỉnh về hiệu lực hợp đồng phù hợp với sự tiến bộ xã hội và lợi ích của nhà
nước. Mục đích này còn được thể hiện tập trung trong nội dung của cơ chế.
1.3.2. Nội dung của cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng
Nội dung cơ bản của cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng là tập hợp các
nguyên tắc qui định về các giải pháp cụ thể để tác động vào quá trình xác lập, thay đổi
và chấm dứt hiệu lực hợp đồng. Nội dung này thể hiện qua hai nguyên tắc sau:
(i) Nguyên tắc tuân thủ hợp đồng - pacta sunt servanda (hay còn gọi là
nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng). Pacta sunt servanda trong tiếng La
Tinh, có thể diễn đạt ngắn gọn là: đã hứa thì phải làm. Ý niệm về nguyên tắc tuân thủ
hợp đồng - pacta sunt servanda (nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng, còn được
dịch là “nguyên tắc bất khả xâm phạm hợp đồng” [208, tr.19]) cũng gần giống như
‘chữ tín’ trong quan niệm Nho giáo phương Đông. Đây là nguyên tắc được khởi xướng
bởi học giả Grotius, tên thật là Rugo de Groot (1583 – 1645) - Nhà cố vấn luật pháp,
nhà ngoại giao Hà Lan, tác giả của quyển “Code du Droit international public” .
Sau này, trong Thông luật, nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng được
xem là nguyên tắc tôn trọng và bắt buộc thực thi nghĩa vụ phát sinh từ các cam kết tự
nguyện [308, tr.99]. Với ý nghĩa đó, nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng được
biết đến như là một nguyên tắc phổ biến trong cả các lĩnh vực luật tư, đặc biệt là trong
lĩnh vực pháp luật hợp đồng.
32
Nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng có thể được chia thành hai tiểu
nguyên tắc.Tiểu nguyên tắc thứ nhất liên quan đến tính bất biến của hợp đồng. Một
bên ký hợp đồng không thể đơn phương thay đổi hợp đồng. Việc thay đổi hợp đồng
phải là ý nguyện chung của các bên.Tiểu nguyên tắc thứ hai là hợp đồng phải được
tuân thủ nghiêm túc. Một hợp đồng đã được xác lập hợp pháp thì ràng buộc các bên
giống như pháp luật. Cũng theo nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng, hiệu lực
của hợp đồng mang tính ổn định và không thể bị hủy bỏ một cách tùy tiện. Nếu ý chí
của các bên có thiếu sót và cần phải giải thích hợp đồng thì hợp đồng được giải thích
theo hướng ràng buộc các bên.
Có thể nói, nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng là nguyên tắc chính của
cơ chế điều chỉnh hiệu lực hợp đồng. Ý nghĩa của việc áp dụng nguyên tắc này là
“buộc các bên tham gia giao dịch dân sự, khi đưa các cam kết hợp pháp, thì phải có
trách nhiệm thực hiện các cam kết đó một cách trung thực, công bằng và hợp lý [308,
tr.118-9]. Với ý nghĩa đó, nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng được thể hiện
qua các nội dung, giải pháp sau:
- Khẳng định hiệu lực ràng buộc như pháp luật của hợp đồng bằng cách đưa ra
qui định minh thị về hiệu lực của hợp đồng: hợp đồng hợp pháp thì có giá trị làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên; hợp đồng phải được các
bên tôn trọng và nghiêm túc thực hiện theo đúng yêu cầu của nguyên tắc thiện chí.
- Pháp luật bảo vệ các hợp đồng được xác lập hợp pháp và buộc các chủ thể
khác phải tôn trọng giá trị pháp lý của hợp đồng đó.
- Qui định chặt chẽ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, theo hướng thừa
nhận các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng phải phản ánh đúng bản chất của hợp
đồng và phù hợp với thực tiễn giao dịch; coi trọng đúng mức yếu tố hình thức của hợp
đồng: hình thức hợp đồng là chứng cứ chứng minh sự tồn tại của hợp đồng, và là điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng nếu có liên quan tới trật tự công cộng và lợi ích của nhà
nước; tạo khả năng để các hợp đồng tuy được lập không đúng hình thức luật định thì
vẫn có thể được công nhận bởi các cơ quan tư pháp, nếu đủ các điều nhất định.
- Tăng cường qui định những điều khoản bổ khuyết để có thể bổ sung cho các
hợp đồng được soạn thảo có thiếu sót về nội dung, nhằm tạo căn cứ pháp lý cho tòa án
trong việc giải thích hợp đồng, bổ sung ý chí đương sự để thừa nhận giá trị pháp lý của
hợp đồng, làm cho các hợp đồng có thiếu sót về nội dung có thể trở nên có hiệu lực.
33
- Qui định cụ thể về các cơ chế giao kết, xác lập hợp đồng, thời điểm giao kết
và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Đồng thời, để tăng cường hiệu lực hợp đồng,
chống lại những trường hợp bội tín trong quan hệ hợp đồng, pháp luật còn qui định các
cơ chế cụ thể để ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm tiền hợp đồng của những bên tham
gia đàm phán vì dụng ý xấu, cạnh tranh không lành mạnh, gây thiệt hại cho đối tác,
xâm phạm nguyên tắc trung thực, thiện chí.
- Tăng cường kỷ luật hợp đồng; qui định chế tài cụ thể và ngày càng đa dạng
cho các vi phạm hợp đồng nhằm ràng buộc bên không thực hiện, thực hiện không
đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ hợp đồng gánh chịu trách nhiệm tương xứng và bảo
vệ thỏa đáng quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm.
- Hạn chế việc cho phép hủy bỏ hợp đồng vì những lý do chủ quan của chủ thể.
Hạn chế việc sửa đổi, đơn phương chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng bằng cách đưa ra cơ chế
cụ thể, với căn cứ pháp lý rõ ràng, thủ tục chặt chẽ, chế tài nghiêm minh để xử lý các
trường hợp vi phạm nhằm tạo ra cơ chế để các bên thực hiện quyền tự do hợp đồng;
đồng thời cũng hạn chế việc lạm dụng qui định này để đơn phương chấm dứt hoặc hủy
bỏ hợp đồng một cách tùy tiện và giải quyết tốt hậu quả pháp lý khi xảy ra tranh chấp.
- Qui định các cơ chế bảo vệ người thứ ba ngay tình khi hợp đồng bị vô hiệu,
qui định thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng một cách rõ ràng, hợp lý, phù hợp
với thực tế nhằm ổn định các quan hệ hợp đồng trong giao lưu dân sự.
Nói chung, nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng khẳng định tính chất
ràng buộc của hợp đồng, sự bất biến và tính ổn định của hiệu lực hợp đồng, với mục
đích là bảo vệ hiệu lực hợp đồng. Hợp đồng được lập hợp pháp thì có hiệu lực như
pháp luật đối với các bên.
(ii) Nguyên tắc đảm bảo cân bằng lợi ích - rebus sic stantibus (nguyên tắc
nguyên trạng bất biến).Nguyên tắc rebus sic stantibus không phải là vấn đề mới mà
đã được biết đến khá sớm trong lịch sử pháp luật hợp đồng hiện đại. Ban đầu, nguyên
tắc này được sử dụng trong công pháp quốc tế, theo đó: “đối với các hiệp ước được ký
kết giữa các quốc gia, nếu tình trạng lúc kết ước thay đổi sau này, các quốc gia có
quyền chấm dứt những hiệp ước ấy”. Về sau, nguyên tắc này còn được nhiều học giả
xem như là một điều khoản mặc nhiên trong của hợp đồng [168, tr.253]. Thực tiễn cho
thấy, để tránh sự cực đoan trong việc bảo vệ tính bất biến của hiệu lực hợp đồng, pháp
luật nhiều nước cũng như các Bộ nguyên tắc quốc tế về hợp đồng đã tiếp nhận nguyên
34
tắc đảm bảo cân bằng lợi ích trong việc điều chỉnh hiệu lực hợp đồng. Nền tảng cơ
bản về lý luận và pháp lý của nguyên tắc đảm bảo cân bằng lợi ích là nguyên tắc thiện
chí, trung thực, hợp tác và nguyên tắc công bằng.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc đảm bảo cân bằng lợi ích có thể được hiểu là:
sau khi hợp đồng phát sinh hiệu lực, nếu có sự thay đổi lớn và không lường trước được
về hoàn cảnh thực tế so với thời điểm xác lập hợp đồng, thì các bên có thể đàm phán
lại để điều chỉnh các nội dung có liên quan của hợp đồng cho phù hợp với mong muốn
của các bên và lẽ công bằng, thậm chí là chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng [208, tr.19-
20] mà không phải bồi thường, nhằm đảm bảo sự hài hoà về lợi ích giữa các bên trong
quan hệ hợp đồng. Nguyên tắc đảm bảo cân bằng lợi ích còn là cơ sở lý luận để cho
phép cơ quan có thẩm quyền được can thiệp vào hiệu lực hợp đồng thông qua việc giải
thích hợp đồng, hoặc điều chỉnh nội dung của hợp đồng trong các trường hợp hợp
đồng được xác lập một cách bất công, xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng hoặc
bên yếu thế, hoặc xâm phạm tới trật tự công cộng.
Như vậy, với ý nghĩa là cơ chế qui định về các giải pháp phòng vệ nhằm hạn
chế những ảnh hưởng cực đoan của hiệu lực hợp đồng, tái lập sự cân bằng về lợi ích
nhằm bảo đảm sự công bằng cho các bên tham gia hợp đồng, nguyên tắc đảm bảo cân
bằng lợi ích có thể được diễn đạt bởi các nội dung, giải pháp sau:
- Thừa nhận và đề cao nguyên tắc tự do hợp đồng trong việc xác lập hợp đồng,
lựa chọn đối tác, quyết định nội dung hợp đồng, đưa ra các thỏa thuận khác với pháp
luật hoặc ngoài pháp luật, nhưng không trái pháp luật để tạo ra hiệu lực ràng buộc hợp
đồng hoặc hủy bỏ hiệu lực hợp đồng.
- Thừa nhận quyền của các bên được rút lại đề nghị, trả lời chấp nhận đề nghị
khi có căn cứ và điều kiện đã được xác định. Bởi lẽ, pháp luật thừa nhận ý chí cá nhân
có quyền tạo ra sự ràng buộc pháp lý, nên đương nhiên họ cũng có quyền rút lui khỏi
hợp đồng: “người ta có quyền tự do giao kết hợp đồng thì cũng có quyền rút lui khỏi
hợp đồng” [40, tr.11-20]. Trong những trường hợp đặc biệt, pháp luật qui định cho
phép một bên được quyền rút lại cam kết mặc dù hợp đồng đã được xác lập, ví dụ như
trong trường hợp doanh nghiệp bán hàng tại nhà theo qui định của Điều 35 Luật số 78-
23 của Cộng hòa Pháp về bảo hộ và thông tin cho người tiêu dùng sản phẩm và dịch
vụ [208, tr.32 - 48; 227, tr.9]; hay qui định trong BLDS của Cộng hòa liên bang Đức
về quyền được rút lui, hoặc trả lại hàng hóa trong những hợp đồng ký kết trước cửa
35
nhà và các hợp đồng tương tự khác (Haustürgeschäft: tên gọi chung cho các loại hợp
đồng được ký trước cửa nhà, nơi làm việc của người tiêu dùng, trên các phương tiện
giao thông công cộng hay các địa điểm công cộng khác) [17, Điều 312, 355 và 356].
- Qui định cơ chế can thiệp của tòa án trong những trường hợp cần thiết khi hợp
đồng có thiếu sót về nội dung, hợp đồng được lập bởi bên mạnh thế với những điều
khoản bất công, lạm dụng sự ảnh hưởng, xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng,
thông qua việc cho phép tòa án được giải thích hợp đồng hoặc tuyên bố hợp đồng vô
hiệu toàn bộ hay một phần. Đặc biệt, qui định về những căn cứ và điều kiện cho phép
tòa án có quyền can thiệp hợp lý vào hiệu lực hợp đồng, thông qua việc giải thích hoặc
sửa đổi hoặc tuyên bố hủy bỏ các điều khoản hợp đồng bất công trong các điều kiện
giao dịch chung, hoặc các hợp đồng mẫu [15, Điều 407; 130, khoản 5 và 6 Điều 3].
- Thừa nhận quyền tự do hợp đồng trong việc đưa ra các điều khoản miễn trách
nhiệm, giảm trách nhiệm, loại trừ trách nhiệm, hạn chế quyền của bên kia, hạn chế lĩnh
vực hoạt động sản xuất kinh doanh của bên kia, một cách công bằng, hợp lý, ngay tình
và không vi phạm quyền con người, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, quyền
lợi người tiêu dùng. Khi quyền tự do hợp đồng bị lạm dụng để xâm phạm tới trật tự
công cộng hoặc quyền lợi của bên yếu thế thì tòa án có quyền can thiệp và chỉnh sửa
cho phù hợp. Ví dụ: thỏa thuận về lãi suất trong hợp đồng vay vượt quá 1,5 lần lãi suất
qui định thì tòa án có quyền sửa lại cho phù hợp [15, Điều 476], thỏa thuận về mức
phạt vi phạm trong hợp đồng các hợp đồng thương mại không quá 8% tính trên giá trị
của phần nghĩa vụ bị vi phạm [154, Điều 301]...
- Cho phép hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng khi bên kia vi phạm hợp
đồng, thậm chí cho phép một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng trước khi xảy ra các vi
phạm (vi phạm dự đoán trước), khi có căn cứ và điều kiện luật định. Ví dụ: quyền
hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ [15, khoản 1 Điều 415].
- Không thực hiện hợp đồng mà không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong trường hợp bất khả kháng, rủi ro khách quan, hoàn toàn do lỗi của bên có
quyền. Đặc biệt, pháp luật hợp đồng hiện đại còn thừa nhận cho một bên trong hợp
đồng có quyền yêu cầu tòa án cho phép điều chỉnh lại nội dung hợp đồng, hoặc chấm
dứt hợp đồng khi xuất hiện những sự kiện khách quan làm mất sự cân bằng về quyền
lợi một cách nghiêm trọng, với những điều kiện chặt chẽ và có sự hạn chế tối đa các
36
trường hợp được áp dụng. Ví dụ: điều khoản về tình thế đặc biệt khó khăn (hardship
clause) trong Bộ Nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế [25, Điều
6.2.2], hoặc điều khoản về sự thay đổi hoàn cảnh (change of circumstances) trong Bộ
nguyên tắc luật hợp đồng Châu Âu [343, Điều 6:111].
- Dự liệu các căn cứ pháp lý cụ thể làm chấm dứt hợp đồng một cách tự động
mà không cần thông qua các thủ tục tư pháp, ví dụ chủ thể là cá nhân chết hoặc pháp
nhân chấm dứt mà quyền lợi và nghĩa vụ của chủ thể không thể chuyển giao, đối tượng
của hợp đồng không tồn tại vào thời điểm xác lập hợp đồng [15, khoản 5 Điều 424].
Nội dung cốt lõi của nguyên tắc ‘nguyên trạng bất biến’ là tạo ra cơ chế cho
phép điều chỉnh hợp đồng nhằm đảm bảo khả năng tốt nhất để cho hợp đồng tồn tại và
tiếp tục được thực hiện một cách bình thường, trên cơ sở có sự bù đắp cho bên bị thiệt
thòi nghiêm trọng do sự thay đổi hoàn cảnh mang lại, dựa trên nguyên tắc công bằng.
Theo đó, pháp luật nhiều nước “cho phép tòa án có quyền sửa đổi nội dung thực hiện
hợp đồng lúc hoàn cảnh kinh tế biến động mạnh, nếu việc làm đó thỏa mãn tiêu chuẩn
hợp lý, thiện chí và công bằng” [208, tr.20].
Tuy nội dung của hai nguyên tắc kể trên có vẻ đối lập nhau, nhưng hai nguyên
tắc nêu trên không tồn tại biệt lập mà có quan hệ biện chứng, tác động qua lại và bổ
sung cho nhau. Theo một học giả, nguyên tắc ‘nguyên trạng bất biến’ (rebus sic
stantibus) tuy có tính chất mâu thuẫn với nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng
(pacta sunt servanda), nhưng “đây là hai nguyên tắc thay thế cho nhau, luôn cùng tồn
tại, và không một nguyên tắc nào trội hơn nguyên tắc nào” [49, tr.181]. Một học giả
khác cùng quan điểm nói trên khi cho rằng, nguyên tắc ‘nguyên trạng bất biến’ là
nguyên tắc vừa đối lập, vừa bổ sung cho nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng,
và cũng là ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng [208, tr.19]. Trong
mối quan hệ biện chứng đó, vai trò của từng nguyên tắc được xác định như sau:
- Nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng là nguyên tắc giữ vài trò chủ đạo,
mang tính quyết định với hiệu lực hợp đồng. Với mục đích đảm bảo sự ổn định của
quan hệ pháp luật hợp đồng, bảo đảm giá trị pháp lý và hiệu lực ràng buộc của hợp
đồng, giữ gìn sự tôn nghiêm của pháp luật, thực hiện đúng yêu cầu của nguyên tắc tự
do, tự nguyện, trung thực trong giao kết và thực hiện hợp đồng, nguyên tắc hiệu lực
bất biến của hợp đồng cần được đề cao và xem như là nguyên tắc cơ bản của cơ chế
pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng.
37
- Nguyên tắc nguyên trạng bất biến của hợp đồng giữ vai trò bổ sung quan
trọng, nhằm bảo vệ kẻ yếu, bảo vệ sự an toàn pháp lý của các bên trong các hoàn cảnh
có sự lạm dụng sự ảnh hưởng, lạm dụng quyền lực kinh tế và lợi thế của kẻ mạnh hoặc
trong các hoàn cảnh đặc biệt khác, qua đó nhằm đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc
công bằng, hợp lý, trên tinh thần hợp tác. Nhưng nguyên tắc này chỉ là ngoại lệ, là giải
pháp mở, tạo sự linh hoạt cho cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng; đồng thời
đây cũng chỉ được coi là cơ chế phòng ngừa, nhằm chống lại sự cực đoan của nguyên
tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng, nhằm tạo ra sự cân bằng về lợi ích của các bên
tham gia hợp đồng. Việc áp dụng nguyên tắc này cần phải được giới hạn trong những
điều kiện cụ thể, rõ ràng và phải được hạn chế trong những trường hợp luật định.
Trong luật thực định Việt Nam hiện hành, cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực
của hợp đồng cũng đã được thể hiện khá cụ thể trong các qui định về điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng, giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, thay đổi và chấm dứt hợp
đồng, các biện pháp trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, sự can thiệp của cơ quan công
quyền vào hiệu lực hợp đồng. Nhưng cơ chế đó chưa hoàn thiện, còn bộc lộ nhiều bất
cập và hiện nay đã tỏ ra lạc hậu so với yêu cầu của đời sống xã hội. Trong đó, các vấn
đề hiệu lực hợp đồng bị vi phạm hình thức luật định, thời điểm giao kết và thời điểm
có hiệu lực, sửa đổi hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi… là những vấn đề còn nhiều bất
cập, cần phải được nghiên cứu, hoàn thiện thêm.
Thực tế xã hội luôn tồn tại các thành phần chủ thể đại diện cho các lợi ích khác
nhau, với tiềm lực và vị thế kinh tế - xã hội khác nhau. Nếu pháp luật để cho các chủ
thể tự do thỏa thuận bằng ý chí cá nhân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ để tự ràng
buộc mình, mà không qui định những cơ chế pháp lý cần thiết để điều tiết hài hòa lợi
ích giữa các bên, thì đó sẽ là điều vô cùng mạo hiểm. Điều đó có thể sẽ tạo cơ hội để
bên mạnh thế đối xử bất công đối với bên yếu thế, làm cho những người yếu thế trong
xã hội bị càng bị thiệt thòi, nhất là trong các quan hệ hợp đồng giữa người tiêu thụ với
các chủ thể kinh doanh độc quyền trong các lĩnh vực liên quan tới các nhu cầu thiết
yếu của xã hội (như các dịch vụ cung ứng điện hay cấp, thoát nước). Trong những
hoàn cảnh như vậy, pháp luật cần có qui định thích ứng để bảo vệ các bên yếu thế.
Như Lacordaire đã nói: “trong mối quan hệ giữa một bên yếu thế và một bên
mạnh, ý chí sẽ tạo ra sự lệ thuộc còn pháp luật sẽ giải phóng họ”. Ý tưởng cơ bản ở
đây không phải là phủ nhận vai trò của ý chí trong hợp đồng, mà là tránh tuyệt đối hóa
38
vai trò của ý chí của chủ thể [227, tr.8]. Do đó, không thể phó mặc cho mỗi cá nhân tự
bảo vệ quyền tự do ý chí của mình mà cần phải có một hành lang pháp lý an toàn cho
các ý chí đó được phát biểu đúng bản chất tự nguyện đích thực của mỗi bên, trong một
mối quan hệ bình đẳng và công bằng. Đó cũng là lý do phải xây dựng một cơ chế pháp
lý tốt để điều chỉnh hiệu lực hợp đồng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
1. Nội dung mục 1 phân tích về thuật ngữ hợp đồng và khái niệm hợp đồng. Qua đó
khẳng định, khái niệm hợp đồng được ghi nhận trong BLDS 2005 có nội dung ngắn
gọn, nhưng đầy đủ và tương đồng với khái niệm hợp đồng trong BLDS của nhiều quốc
gia trên thế giới. Tuy vậy, với tính chất là thuật ngữ pháp lý chung nhất để chỉ khái
niệm hợp đồng nói chung, thuật ngữ “hợp đồng dân sự” được sử dụng trong BLDS
2005 là chưa thích hợp, vì gây ra sự phân biệt không cần thiết về khái niệm “hợp
đồng”. Từ đó, cần thay đổi thuật ngữ ‘hợp đồng dân sự’ bằng thuật ngữ ‘hợp đồng’.
2. Hiệu lực hợp đồng là một phạm trù pháp lý quan trọng, nhưng các dấu hiệu pháp lý
đặc trưng của khái niệm này chưa được làm sáng tỏ, cả về lý luận cũng như thực tiễn
pháp lý ở Việt Nam. Nội dung mục 2 chương này làm rõ nội hàm của khái niệm ‘hiệu
lực hợp đồng’, và ‘hiệu lực tương đối của hợp đồng’. Đây là tiền đề lý luận để nghiên
cứu, hoàn thiện các qui định cụ thể của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực hợp
đồng, trong các phần sau của luận án.
3. Hiệu lực của hợp đồng là vấn đề pháp lý rất phức tạp, không thể chỉ qui định trong
một vài điều luật là có thể điều chỉnh hết được các vấn đề cần điều chỉnh. Tính chất
phức tạp của vấn đề hiệu lực hợp đồng được thể hiện trên toàn bộ quá trình, từ khi
thiết lập đến khi chấm dứt hợp đồng, tạo thành một cơ chế pháp lý phức hợp. Mục 3
của chương này làm rõ khái niệm cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng. Nội
dung của cơ chế này được thể hiện qua hai nguyên tắc: nguyên tắc hiệu lực bất biến
của hợp đồng và nguyên tắc bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia hợp
đồng. Tuy vậy, cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng trong luật thực định Việt
Nam hiện vẫn chưa hoàn chỉnh. Để giải quyết vấn đề này, nhà làm luật cần xây dựng
một cơ chế pháp lý thích hợp để qui định toàn bộ các vấn đề có liên quan tới hiệu lực
hợp đồng, trong suốt quá trình từ khi xác lập đến khi chấm dứt hợp đồng, như: việc
giao kết, thời điểm có hiệu lực, điều kiện có hiệu lực, thực hiện, sửa đổi, chấm dứt hợp
đồng và chế độ trách nhiệm do vi phạm hiệu lực hợp đồng...
39
Chương 2
ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là tổng hợp những yêu cầu pháp lý nhằm
đảm bảo cho hợp đồng được lập đúng bản chất đích thực của nó. Đây là những điều
kiện cần và cũng là tiền đề pháp lý nhằm đảm bảo cho hợp đồng được xác lập hợp
pháp và có hiệu lực ràng buộc đối với các bên. Trước khi BLDS 2005 được ban hành,
vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong pháp luật Việt Nam đã được nhiều tác
giả nghiên cứu khá đầy đủ và toàn diện, trong đó có cả các đề tài nghiên cứu ở cấp độ
luận án tiến sỹ luật học [44], [247]. Mặt khác, vấn đề này hiện cũng đã được BLDS
2005 qui định tương đối hoàn thiện, trừ điều kiện về hình thức hợp đồng. Bởi vậy, mục
1 chương này chỉ trình bày khái quát các qui định chung nhất về các điều kiện bắt buộc
để hợp đồng có hiệu lực. Mục 2 và mục 3 tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận,
pháp lý về hình thức hợp đồng, làm rõ bất cập và đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm
hoàn thiện các qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hình thức hợp đồng.
2.1. CÁC ĐIỀU KIỆN BẮT BUỘC ĐỂ HỢP ĐỒNG CÓ HIỆU LỰC
Các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực là những yêu cầu pháp lý phải
được tuân thủ khi xác lập, giao kết hợp đồng mà nếu thiếu các điều kiện đó thì hợp
đồng đương nhiên vô hiệu hoặc có thể bị vô hiệu. Tuy cách tiếp cận vấn đề còn nhiều
điểm khác nhau, nhưng hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới đều xem các điều
kiện về chủ thể, nội dung và ý chí tự nguyện của các bên tham gia hợp đồng là những
yêu cầu pháp lý bắt buộc phải tuân thủ khi xác lập hợp đồng.
Theo qui định trong BLDS Pháp, hợp đồng được thừa nhận là có hiệu lực thì
phải thỏa mãn bốn điều kiện chủ yếu (Điều 1108): các bên giao kết hợp đồng phải
hoàn toàn tự nguyện (Điều 1109-22); các bên giao kết phải là người có năng lực (hành
vi dân sự) để giao kết hợp đồng (Điều 1123-5); đối tượng và nội dung chủ yếu của hợp
đồng phải xác định (Điều 1126-30); mục đích, căn cứ của hợp đồng phải hợp pháp
(Điều 1131-3).
BLDS Đức cũng có những qui định tương đồng với Bộ luật Dân sự 2005 trong
việc qui định các điều kiện xác lập giao dịch: về năng lực giao dịch pháp luật của cá
nhân (Điều 104 – 10), không được thiếu yếu tố tự nguyện: nhầm lẫn (Điều 119.1), lừa
dối (Điều 122), nội dung giao dịch không trái pháp luật và đạo đức (Điều 138)...
40
Theo luật Anh – Mỹ, để có hiệu lực thì hợp đồng phải tuân thủ các yêu cầu: (1)
có sự đề nghị; (2) có sự chấp nhận đề nghị; (3) lợi ích đối ứng (consideration); (4) các
bên phải có ý định thực sự muốn giao kết hợp đồng; (5) cam kết chắc chắn và sự thỏa
thuận hoàn chỉnh [324, tr.57-68]; hoặc (6) phải tuân thủ các qui định khác về: (a) các
bên phải có năng lực chủ thể để giao kết hợp đồng, (b) không thiếu những yếu tố mà
thiếu nó có thể làm cho hợp đồng bị vô hiệu, bị hủy bỏ, hoặc không có giá trị pháp lý
[312, tr.3-4]. Về nguyên tắc, một hợp đồng được lập thiếu một trong các điều kiện trên
thì có thể bị xem là không có hiệu lực. Tuy vậy, trong một số trường hợp riêng biệt,
các hợp đồng thiếu yếu tố đối ứng có thể được tòa án công nhận là có giá trị thực thi,
vì một bên bị tước quyền hủy bỏ hợp đồng, do tòa án căn cứ vào thuyết không được rút
lại lời nói hay hành vi đã cam kết (promissory estoppel) [301, tr.9-10]
Xuất phát từ bản chất của hợp đồng, pháp luật của Việt Nam qui định hợp đồng
phải tuân thủ các điều kiện bắt buộc: chủ thể hợp đồng phải có năng lực hành vi dân
sự; nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không
trái đạo đức xã hội; các bên hoàn toàn tự nguyện. Sau đây là các điều kiện cụ thể:
2.1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự
Chủ thể của hợp đồng (hay chủ thể của quan hệ hợp đồng) là những người tham
gia xác lập, thực hiện hợp đồng hợp đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.
Để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, các hệ thống pháp luật đều qui định
chủ thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu về chủ thể tham gia hợp
đồng “có năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp
đồng có hiệu lực. Pháp luật Việt Nam qui định chủ thể tham gia giao dịch dân sự (hợp
đồng) phải “có năng lực hành vi dân sự” [15, điểm a, khoản 1 Điều 122]. Cũng theo
các qui định của BLDS 2005, chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng bao gồm các cá
nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Mặt khác, năng lực hành vi dân sự để tham
gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các chủ thể khác nhau là không giống nhau.
Đối với cá nhân: Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia vào hợp đồng phụ
thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của họ. Theo qui định của BLDS 2005, cá
nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì được tự mình xác lập, thực hiện các hợp
đồng dân sự (Điều 19); người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là người
có một phần năng lực hành vi dân sự thì việc xác lập, thực hiện các hợp đồng của họ
41
phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác; cá nhân từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể
tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác
(Điều 20); người dưới 6 tuổi là người không có năng lực hành vi dân sự và mọi giao
dịch liên quan tới người này đều phải được xác lập, thực hiện thông qua người đại diện
hợp pháp (Điều 21); người bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì phải có
người giám hộ và mọi giao dịch liên quan đều phải được xác lập, thực hiện thông qua
người giám hộ (Điều 22); người bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
các giao dịch liên quan tới tài sản của họ phải được sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật, trừ các giao dịch phục vụ nhu cầu hàng ngày (Điều 23).
Đối với pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác: Pháp nhân là những tổ chức có đủ
các điều kiện được qui định tại Điều 84 BLDS 2005. Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ
của quan hệ pháp luật dân sự, có năng lực chủ thể mang tính chuyên biệt, được tham
gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động của
pháp nhân. Mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân được thể hiện trong điều lệ,
hoặc quyết định thành lập pháp nhân [15, Điều 88]. Hộ gia đình và tổ hợp tác là chủ
thể hạn chế của Luật Dân sự. Hai loại chủ thể này tham gia các giao dịch phù hợp với
phạm vi hoạt động của nó. Phạm vi hoạt động của tổ hợp tác được thể hiện trong hợp
đồng hợp tác [15, Điều 111]. Phạm vi hoạt động của hộ gia đình do pháp luật qui định
[15, 106]. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác là những thực thể xã hội chứ không phải
là một con người tự nhiên, nên năng lực hành vi dân sự của các chủ thể này không
biểu hiện trực tiếp bằng hành vi và ý chí của một con người cụ thể nào đó, mà được
thể hiện bởi ý chung của các thành viên và được thực hiện thông qua hành vi của
người đại diện, nếu hành vi đó được thực hiện nhân danh chủ thể, trong phạm vi đại
diện, và tương ứng với phạm vi hoạt động của chủ thể đó [102, tr.207 – 10; 103, tr.278
– 81; 242, tr.44; 256, tr.147-9].
Nhìn chung, để có thể xác lập, thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân phải
có năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hoặc loại hợp đồng mà chủ thể
đó tham gia. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp đồng thông qua
người đại diện hợp pháp, nhưng phải đúng ‘phạm vi đại diện’ và phải phù hợp với giới
hạn về ‘lĩnh vực hoạt động’ của các chủ thể.
42
2.1.2. Nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội
BLDS 2005 thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận (Điều 4). Nhưng để
bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác, BLDS 2005 cũng qui định một số trường hợp hạn chế quyền tự do của các
bên trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, nội dung và mục đích của hợp đồng (giao
dịch dân sự) “không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã
hội” (Điểm b, khoản 1 Điều 122). Hợp đồng (giao dịch dân sự) “có mục đích và nội
dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” (Điều 128).
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể
tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Mục đích của
của giao dịch dân sự (hay hợp đồng) là “lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt
được khi xác lập giao dịch đó” [15, Điều 123].
Điều cấm của pháp luật “là những quy định của pháp luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định”. Và, “[đ]ạo đức xã hội là những chuẩn mực
ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận
và tôn trọng” [15, Điều 128].
Khái niệm nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất rộng. Thường thì nội
dung của hợp đồng gồm các điều khoản, như: đối tượng của hợp đồng là tài sản hay
công việc; số lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và phương thức thanh toán; thời
hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng… [15, Điều 402]. Bất kỳ điều khoản nào trong số đó
vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì hợp đồng cũng bị coi là vô
hiệu. Ví dụ: trong Quyết định Giám đốc thẩm số 18/2005/DS-GĐT ngày 22/6/2005
của HĐTP –TANDTC [262, tr.206], hợp đồng mua bán nhà được xác lập giữa người
chuyển nhượng (Việt Nam) với người nhận chuyển nhượng (người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, không thuộc diện được phép có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam), thì bị
xem là vô hiệu vì “có nội dung trái pháp luật”.
Để hợp đồng có hiệu lực thì mục đích của hợp đồng cũng phải không vi phạm
điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Hợp đồng có mục đích vi phạm
điều cấm của pháp luật thì vô hiệu. Ví dụ: hợp đồng chuyển quyền sở hữu nhà ở có
mục đích là bán nhà, nhưng thực tế hợp đồng lại ghi là trao đổi nhà ở (nhằm mục đích
43
trốn thuế thu nhập chẳng hạn) thì bị pháp luật cấm [187, khoản 2 Điều 59], nên không
có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết.
Hợp đồng cũng không được trái đạo đức xã hội. Mỗi xã hội có quan niệm của
mình về đạo đức, nên không có đạo đức chung mà chỉ có đạo đức xã hội. Mặc dù khái
niệm “đạo đức xã hội” đã được định nghĩa cụ thể, rõ ràng trong BLDS 2005, nhưng
phạm trù “đạo đức” thì khá trừu tượng và không phải là bất biến, đôi khi phụ thuộc rất
lớn vào nhận thức chủ quan của mỗi người. Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn,
vấn đề như thế nào là hợp đồng trái ‘đạo đức xã hội’, hiện vẫn còn nhiều tranh cãi. Có
quan điểm cho rằng, qui phạm đạo đức là loại qui phạm vừa mang tính chủ quan của
mỗi người, vừa mang tính xã hội và tính giai chấp sâu sắc. Bên cạnh đó, đạo đức còn
mang tính dân tộc và tính hiện đại. Trong xã hội hiện đại, quan niệm xã hội về đạo đức
đã được nâng lên một tầm cao mới [224, tr.13 -17].
Hơn nữa, thực tế vận dụng qui định này để tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong
từng trường hợp cụ thể, là điều không đơn giản. Bởi thế, có nhiều ý kiến cho rằng cần
thay khái niệm ‘đạo đức xã hội’ bằng khái niệm ‘trật tự công cộng’ cho rõ nghĩa, dễ
xác định nội dung hơn khi áp dụng trên thực tế, và cũng phù hợp với thông lệ chung
trên thế giới vì pháp luật của nhiều nước không qui định về hợp đồng trái đạo đức mà
thường qui định là vi phạm ‘trật tự công cộng’ (order public) hay ‘chính sách công’
(public policy); mặt khác, “khái niệm ‘đạo đức’ khó hiểu nếu đưa vào BLDS sẽ gây
tâm lý hoang mang cho các chủ thể tham gia giao dịch, dẫn đến các chủ thể hạn chế
tham gia một số giao lưu dân sự…” [44, tr.29].
Tuy vậy, tác giả cho rằng nhận định như vậy cũng chưa chính xác. Bởi lẽ, pháp
luật hợp đồng của các quốc gia không chỉ sử dụng thuật ngữ ‘order public’ hay ‘public
policy’ mà còn sử dụng khái niệm ‘immoral’ (trái đạo đức). Ví dụ: Điều 1133 BLDS
Pháp. Việc sử dụng cụm từ ‘trái đạo đức’ hay ‘trái trật tự công cộng’ không chỉ là một
vấn đề khó khăn của Việt Nam mà còn là một thử thách đối với hoạt động lập pháp và
xét xử của ‘toàn cầu’, như một Giáo sư người Đức đã từng nhận định: “Câu hỏi cái gì
làm cho hợp đồng trái đạo đức và trái pháp luật là một câu hỏi có thể nhận được
nhiều câu trả lởi khác nhau từ những hệ thống pháp luật khác nhau. Điều khác biệt
đáng nói là, bởi vì quan niệm về đạo đức của các quốc gia khác nhau thì khác nhau,
và việc đánh giá những giá trị truyền thống theo quan niệm của mỗi quốc gia, vẫn còn
đóng một vai trò quan trọng” [347, tr.382]. Thực tiễn pháp lý Việt Nam cũng cho thấy,
44
pháp luật từng có qui định hợp đồng không được trái ‘trật tự công cộng’ hoặc ‘thuần
phong mỹ tục’, mà điển hình là qui định tại Điều 10 DLB 1931 và Điều 10 DLT 1936-
1939: “các sự kết ước trái với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục đều vô hiệu”.
Xét về bản chất, việc đánh giá một hợp đồng có trái ‘trật tự công cộng’ hay trái
‘đạo đức xã hội’ thì cũng khó như nhau, vì đây đều là những khái niệm khá trừu tượng
và tùy vào sự thẩm lượng của từng thẩm phán.
Khái niệm ‘đạo đức xã hội’ có tính mềm dẽo, uyển chuyển hơn, nhưng cũng
khá trừu tượng và dễ bị lạm dụng hoặc dễ bị từ chối áp dụng hơn so với ‘trật tự công
cộng’. Cái khó nhất của việc xác định tính trái ‘đạo đức xã hội’ là do khái niệm vừa
không cụ thể về ‘định lượng’, vừa không rõ ràng về ‘định tính’. Điều này cũng khó
khăn giống như việc người ta phán xét về hành vi vẽ tranh hay chụp ảnh khỏa thân của
một thiếu nữ để cho người khác xem. Có người cho đó là nghệ thuật mang tính nhân
văn, nhưng người khác lại bảo đây là hình ảnh đồi trụy, trái với thuần phong mỹ tục.
Thậm chí, có những nghệ sỹ chụp ảnh nghệ thuật đã từng suýt bị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền truy tố hình sự vì cho rằng việc chụp ảnh người mẫu khỏa thân và lưu giữ
hình ảnh đó là hành vi trái pháp luật, là truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy [175].
Ý nghĩa của khái niệm ‘trật tự công cộng’ tuy được xác định rõ hơn, nhưng việc
đưa khái niệm ‘trật tự công cộng’ vào trong các văn bản pháp luật cũng gặp nhiều trở
ngại và có thể gây ra sự nhầm lẫn, vì pháp luật Việt Nam cũng có qui định khác về bảo
vệ trật tự công cộng, với tính chất là bảo vệ trật tự trị an của xã hội. Ví dụ: theo Điều 2
Nghị định 38/2005/NĐ-CP về các biện pháp bảo đảm trật tự công cộng [191], thì “các
cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của
pháp luật về bảo đảm trật tự công cộng; tôn trọng các quy tắc chung của cuộc sống xã
hội; phát hiện, tố cáo mọi hành vi vi phạm pháp luật về trật tự công cộng hoặc xâm
phạm quyền tự do dân chủ của công dân; tham gia, hỗ trợ các cơ quan chức năng
phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm pháp luật về trật tự công cộng”. Bởi vậy,
khái niệm ‘trật tự công cộng’ với tính chất là sự giới hạn của quyền tự do hợp đồng sẽ
có thể bị hiểu nhầm thành ‘trật tự công cộng’ với tính chất là trật tự trị an của xã hội.
Theo tác giả, không phải việc sử dụng khái niệm ‘đạo đức xã hội’ là tốt hơn hay
không tốt bằng khái niệm ‘trật tự công cộng’, mà vấn đề là khi đã chọn để sử dụng
khái niệm nào thì cũng cần giải thích rõ và xác định cụ thể nội dung và phạm vi áp
dụng của khái niệm đó, trên cả ba phương diện: lập pháp, xét xử và học thuật. Chúng
45
ta cũng có thể thay khái niệm ‘đạo đức xã hội’ hoặc ‘trật tự công cộng’ bằng khái niệm
khác rõ ràng hơn, như khái niệm ‘lợi ích công cộng’, và có thể giải thích cụ thể về nội
dung và giới hạn áp dụng của khái niệm này, như một luật gia đã từng giải thích: “lợi
ích công cộng” được hiểu là các lợi ích liên quan tới: (i) các quyền con người như
quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm…; (ii) bảo vệ lẽ công
bằng, bảo vệ ‘bên yếu thế hơn’ trong hợp đồng nhằm ngăn ngừa những hợp đồng tạo
ra sự bất công quá đáng; (iii) bảo vệ trật tự thị trường, trật tự kinh tế nhằm chống lại
việc cạnh tranh không lành mạnh [166, tr.152]. Đây là cách giải thích hợp lý, có thể
tiếp thu và kế thừa khi luật hóa khái niệm này trong pháp luật Việt Nam hiện hành.
2.1.3. Các bên hoàn toàn tự nguyện trong việc giao kết, xác lập hợp đồng
Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là có
tham gia hay không tham gia vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình, mà
không chịu sự chi phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người khác.
Pháp luật đòi hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự
nguyện. Tự nguyện còn là nguyên tắc pháp lý cơ bản của pháp luật dân sự và pháp luật
thương mại [15, Điều 4; 154, khoản 2 Điều 11].
Ý chí tự nguyện của chủ thể là một dấu hiệu thuộc yếu tố chủ quan, nếu không
được biểu hiện ra bên ngoài, thì người khác không thể biết được. Có tác giả cho rằng,
“tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt của tự nguyện”. Tự nguyện nghĩa là phải có tự
do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và phải có “sự thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí”.
Không có tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí hoặc phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố
này, thì sẽ không có sự tự nguyện [116, tr.7]. Theo quan điểm của TANDTC, thì
“người tham gia giao dịch (hợp đồng) hoàn toàn tự nguyện được hiểu là: các bên
tham gia giao dịch hoàn toàn tự do bày tỏ ý chí, nguyện vọng của mình, tự nguyện
thoả thuận với nhau về các nội dung của giao dịch mà không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng
ép từ phía bên kia hoặc của người khác; các bên tự nguyện thoả thuận các vấn đề
nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình” [265, tr.40].
Quan điểm này cũng thể hiện đúng tinh thần của BLDS 2005.
Hợp đồng do chủ thể xác lập, thực hiện không tự nguyện, thì có thể bị vô hiệu
hoặc đương nhiên vô hiệu. Những trường hợp không có sự tự nguyện là những trường
hợp mà việc xác lập, thực hiện hợp đồng không đúng ý chí đích thực của chủ thể hoặc
không có sự thống nhất giữa ý chí của chủ thể với sự bày tỏ ý chí của chính chủ thể đó
46
ra bên ngoài. Theo qui định của BLDS 2005, hợp đồng bị coi là được xác lập thiếu yếu
tố tự nguyện nếu thuộc một trong năm trường hợp sau đây:
(i) Hợp đồng giả tạo: là hợp đồng được lập ra nhưng không phản ánh đúng bản
chất của quan hệ đích thực giữa các bên, thể hiện ở việc các bên xác lập hợp đồng để
che đậy một giao dịch khác hay một hành vi trái pháp luật của một hoặc các bên. Nói
cách khác, hợp đồng giả tạo là hợp đồng “mà trong đó, việc thể hiện ý chí ra bên ngoài
khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia” [122, tr.280]. Có hai
dạng hợp đồng giả tạo là ‘hợp đồng giả cách’ và ‘hợp đồng tưởng tượng’.
Hợp đồng giả cách là hợp đồng giả tạo do các bên lập ra để che đậy một hợp
đồng khác nhằm “lẩn tránh” pháp luật. Đặc trưng cơ bản của hợp đồng giả cách
thường là do có sự thông đồng giữa các bên để lập cùng một lúc hai hợp đồng (giao
dịch) khác nhau: một hợp đồng (giao dịch) ‘thật’ và một hợp đồng (giao dịch) ‘giả’.
Hợp đồng giả cách chỉ là hình thức bên ngoài chứ không có giá trị đối với các bên.
Hợp đồng thật bị che giấu đi, nhưng đó mới là hợp đồng mà các bên muốn xác lập,
thực hiện. Hợp đồng giả cách thì đương nhiên vô hiệu. Hợp đồng thật có thể được
công nhận, nếu tuân thủ các điều kiện do pháp luật qui định. Ví dụ: trong Bản án số
1701/2005/DS-PT của TAND Tp. Hồ Chí Minh ngày 08/8/2005: bị đơn có ký hợp
đồng thuê nhà của nguyên đơn, thời hạn là 05 năm, giá thuê là 20.000.000 đồng/tháng.
“Sau khi hợp đồng ký kết, theo yêu cầu của nguyên đơn, đôi bên đã ký kết hợp đồng
mượn nhà tại Phòng công chứng nhằm mục đích để bên cho thuê được lợi khi nộp thuế
cho Nhà nước…”. Hợp đồng mượn nhà có công chứng là hợp đồng giả cách, được lập
ra để che đậy hợp đồng thuê nhà, nên đã bị tòa án tuyên xử vô hiệu do “giả tạo”.
Hợp đồng tưởng tượng là hợp đồng không có thật, do các bên thông đồng lập ra
nhằm để hợp thức hóa các thủ tục pháp lý còn thiếu sót, hoặc để che đậy một sự thật
khác trái pháp luật, hoặc trái đạo đức xã hội. Nói cách khác, hợp đồng tưởng tượng là
hợp đồng mang tính hình thức, chứ các bên hoàn toàn không có ý định tạo lập nên sự
ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên nội dung của hợp đồng đó. Ví dụ: trong Quyết
định giám đốc thẩm số 06/2006/KDTM-GĐT ngày 06/7/2006 về vụ án “Tranh chấp
hợp đồng mua bán hàng hóa”: Bị đơn mua mè vàng từ người thứ ba, nhưng do người
thứ ba không có tư cách pháp nhân để xuất hóa đơn giá trị gia tăng. Vì thế, bị đơn ký
hợp đồng ‘giả’ mua của nguyên đơn 500 tấn mè vàng với tổng giá trị hợp đồng là 4,2
tỷ đồng. Trên thực tế, nguyên đơn đã không giao hàng mà chỉ “bán tư cách pháp nhân,
47
bán hóa đơn giá trị gia tăng để hưởng lợi…”. Vì vậy, cấp giám đốc thẩm nhận định
“hợp đồng này là hợp đồng giả tạo”.
(ii) Hợp đồng được xác lập do nhầm lẫn: Nhầm lẫn là “sự không trùng hợp ý
chí được thể hiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí” [122, tr.283]. Hay
nói cụ thể hơn, đó là việc một hoặc các bên hình dung sai về sự việc, chủ thể, đối
tượng hoặc các nội dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp đồng trái với ý nguyện đích
thực của mình. Ví dụ: người mua bảo hiểm tưởng là khi mua bảo hiểm thì được hưởng
tiền bảo hiểm trong mọi trường hợp có rủi ro, nhưng thực tế là điều khoản bảo hiểm
đã có những loại trừ nên một số loại rủi ro sẽ không được bảo hiểm. Pháp luật Việt
Nam chỉ chấp nhận hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng. Hợp
đồng bị nhầm lẫn về nội dung có thể bị vô hiệu theo qui định tại Điều 131 BLDS 2005.
(iii) Hợp đồng xác lập do bị lừa dối: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý
của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể,
tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch
đó” [15, Điều 132]. Biểu hiện của sự lừa dối là hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự
thật khiến cho bên kia tin vào các thông tin đó mà xác lập hợp đồng bất lợi cho họ
hoặc trái với nguyện vọng đích thực của họ.
Pháp luật Việt Nam qui định ba trường hợp lừa dối là lừa dối về chủ thể, lừa dối
về đối tượng và lừa dối về nội dung của hợp đồng. Khi xem xét hành vi lừa dối, tòa án
thường không chỉ dựa vào tính chất “cố ý” cung cấp thông sai sự thật của một bên mà
còn dựa vào hoàn cảnh cụ thể và khả năng nhận thức, hiểu biết của bên kia so với một
người có năng lực nhận thức bình thường. Vấn đề có hay không có sự cố ý cung cấp
thông tin sai sự thật cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Một hành vi cung cấp thông tin
sai sự thật được hiểu là một bên cố ý nói cho bên kia biết những thông tin về chủ thể,
đối tượng, nội dung của hợp đồng mà những thông tin ấy là không đúng với thực tế
khách quan, nhưng mức độ sai biệt tới đâu là lừa dối, thì có nhiều cách hiểu. Theo
UNIDROIT, “một sự khoa trương trong quảng cáo hoặc trong đàm phán hợp đồng
chưa tới mức bị coi là lừa dối” [25, tr.182]. Một sự im lặng thường cũng không bị coi
là lừa dối. Nhưng nếu bên cung cấp thông tin có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin mà
vẫn im lặng nhằm mục đích bỏ qua sự thật thì cũng bị coi là có lừa dối, hoặc chí ít
cũng có lỗi làm bên kia nhầm lẫn giao kết hợp đồng [15, Điều 131 - 132].
48
Hợp đồng giao kết do bị lừa dối có thể bị tòa án tuyên bố vô hiệu khi sự lừa dối
đó “do hành vi cố ý” của một bên hoặc của người thứ ba gây ra và đó là nguyên nhân
“làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung” của
hợp đồng mà giao kết hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực của họ.
(iv) Hợp đồng xác lập bởi sự đe dọa: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý
của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm
tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình
hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình” [15, Điều 132]. Sự đe dọa thường được
hiểu là việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho bên kia bằng hành vi bạo lực vật chất
hoặc sự khủng bố tinh thần, làm bên kia tê liệt ý chí hoặc làm mất khả năng kháng cự
nên đã xác lập hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực của họ.
(v) Xác lập hợp đồng trong lúc không nhận thức, điều khiển được hành vi: “Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu” [15, Điều 133]. Một người bình thường, vào thời điểm giao kết hợp đồng, đã ở trong tình trạng bị bệnh tâm thần, bệnh thần kinh tới mức không nhận thức, điều khiển được hành vi của mình hoặc đang sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích khác dẫn đến việc mất khả năng nhận thức tạm thời… thì được xem là không tự nguyện xác lập, giao kết hợp đồng.Vấn đề pháp lý đặt ra là người này phải chứng minh được là vào lúc xác lập hợp đồng, họ đang ở trong tình trạng không có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình.
Có thể nói rằng, “tự nguyện giao kết hợp đồng là yếu tố cơ bản để các bên xác lập quan hệ hợp đồng” [247, tr.31] vì bản chất của hợp đồng vốn là sự thống nhất ý chí của các bên thông qua sự thỏa thuận tự do và tự nguyện. Do vậy, hợp đồng xác lập thiếu yếu tố tự nguyện thì đương nhiên vô hiệu (nếu được xác lập do giả tạo) hoặc có thể bị vô hiệu (trong các trường hợp còn lại).
Tóm lại, các yếu tố chủ thể, nội dung và mục đích, sự tự nguyện của các bên là những yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình hình thành và tồn tại của hợp đồng. Năng lực hành vi của chủ thể là yếu tố nhằm đảm bảo chủ thể có tư cách độc lập để tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng; nội dung và mục đích là những điều khoản, căn cứ để thực hiện hợp đồng; tự nguyện là yếu tố đảm bảm cho hợp đồng được tạo ra đúng ý chí đích thực của các bên. Bởi vậy, đây là ba yếu tố pháp lý quan trọng được pháp luật qui định là điều kiện bắt buộc của mọi hợp đồng.
49
2.2. HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG - ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
TRONG TRƯỜNG HỢP PHÁP LUẬT CÓ QUI ĐỊNH
Hình thức là một yếu tố pháp lý quan trọng của hợp đồng, có quan hệ biện
chứng với bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, và
là phương tiện để diễn đạt ý chí của các bên, cũng như để chứng minh sự tồn tại của
hợp đồng. Người ta sẽ không biết đến sự tồn tại của hợp đồng, nếu nó không được thể
hiện dưới một hình thức xác định.
Với ý nghĩa đó, hình thức của hợp đồng được thừa nhận và quy định trong pháp
luật của hầu hết các quốc gia [203, tr.177-83; 227, tr.64; 341, tr.73 -4], nhưng cách thể
hiện và vai trò của yếu tố này trong pháp luật hợp đồng ở các quốc gia là không hoàn
toàn giống nhau. Cũng vì lẽ đó mà vấn đề hình thức và sự ảnh hưởng của nó đối với
hợp đồng trở thành một trong những đề tài gây nhiều tranh luận sôi nổi trong giới khoa
học pháp lý Việt Nam và trên thế giới [43] [45] [68] [248, tr.43 -7] [320, tr.74 -5].
Mục này trình bày các vấn đề: khái niệm, các hình thức hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam và những ảnh hưởng của hình thức hợp đồng đối với hiệu lực hợp đồng.
2.2.1. Khái niệm hình thức hợp đồng
Như đã phân tích ở chương 1 Luận án, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự,
mà bản chất của nó là sự thỏa thuận giữa các bên, và hợp đồng chỉ có thể được tạo lập
khi có sự gặp gỡ ý chí giữa các bên. Các yếu tố pháp lý cơ bản tạo nên hợp đồng chính
là ý chí của chủ thể, sự biểu hiện của ý chí đó ra bên ngoài và sự thống nhất giữa các
yếu tố đó với nhau. Trong đó, ý chí là cái bên trong, là nguyện vọng, là mong muốn
chủ quan của chủ thể [217, tr.1127] mà không phải lúc nào người khác cũng có thể
biết hay nhận thấy được. Bởi vậy, để có thể đạt được sự thỏa thuận, tức là để các bên
có thể biết được và chấp nhận ý chí của nhau, chủ thể cần phải thể hiện ý chí đó ra bên
ngoài dưới một hình thức khách quan nhất định. Cũng như vậy, sự thống nhất ý chí
của các bên và nội dung cụ thể của các điều khoản thể hiện sự thống nhất ý chí đó cần
phải được công bố ra bên ngoài. Đó chính là hình thức thể hiện của hợp đồng.
Theo nghĩa thông thường, hình thức được hiểu là “cái bên ngoài, cái chứa đựng
nội dung” [294, tr.809]. Ở góc độ triết học, nội dung và hình thức của các sự vật, hiện
tượng là cặp phạm trù cơ bản, thể hiện “những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật”
và là “phương thức tồn tại và phát triển của sự vật” [290, tr.244]. Cũng như các sự
vật, hiện tượng khác của thế giới khách quan, hình thức biểu lộ ý chí của các bên trong
50
việc tạo lập hợp đồng thường được biểu hiện ở hai cấp độ: hình thức bên trong và hình
thức bên ngoài của nó [290, tr.245].
Hình thức bên trong của hợp đồng là sự thể hiện ra bên ngoài của các quyền và
nghĩa vụ của chủ thể, dưới dạng các điều khoản cụ thể của hợp đồng. Dưới góc độ này,
ý chí của các bên và sự thống nhất ý chí giữa các bên thường được phát biểu dưới dạng
các điều khoản cụ thể của hợp đồng. Trong lý luận pháp luật dân sự và cả trong luật
thực định, các học giả và các nhà làm luật thường đồng hóa các điều khoản cụ thể của
hợp đồng với nội dung hợp đồng [243, tr.98]. Các điều khoản qui định quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hợp đồng lại được trình bày, thể hiện ra bên ngoài dưới những
hình thức bằng lời nói, văn bản và theo những thủ tục nhất định như công chứng, đăng
ký. Đó là hình thức bên ngoài của hợp đồng. Pháp luật của hầu hết các nước khi qui
định về hình thức hợp đồng, chủ yếu là nói đến hình thức bên ngoài của hợp đồng. Nội
dung phần này chỉ nghiên cứu vấn đề hình thức bên ngoài của hợp đồng.
Trong khoa học pháp lý, hình thức của hợp đồng được định nghĩa là “cách thức
thể hiện sự thỏa thuận giữa các bên” [287, tr.363]. Đa số các luật gia cũng đều hiểu
rằng, hình thức của hợp đồng là những biểu hiện bên ngoài của hợp đồng. Có tác giả
cho rằng “hình thức của hợp đồng là phương tiện ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã
xác định” [243, tr.95], hoặc “hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận, lưu
trữ, chuyển tải nội dung của hợp đồng” [256, tr.348]. Có tác giả còn cho rằng hình
thức hợp đồng còn được biểu hiện qua “phương thức ký kết” hợp đồng [68, tr.47]. Có
tác giả khác còn mô tả rõ hơn: “hình thức của hợp đồng không chỉ là hình thức thể
hiện nội dung của hợp đồng mà còn là những thủ tục mà pháp luật qui định bắt buộc
các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ khi giao kết một số loại hợp đồng như phải có
xác nhận của công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép…” [249, tr.48] và ý kiến
này được các tác giả khác đồng tình [108, tr.175 -6].
Nhìn từ góc độ chức năng và vai trò của yếu tố hình thức đối với sự tồn tại của
hợp đồng, ta thấy hình thức hợp đồng là sự công bố ý chí của các bên tham gia hợp
đồng, là cách thức để truyền đạt thông tin giữa các bên tham gia hợp đồng cũng như
với người thứ ba về sự xác lập và tồn tại của hợp đồng đó. Hình thức của hợp đồng
cũng là phương tiện thể hiện nội dung cụ thể của hợp đồng. Theo nghĩa đó, hình thức
hợp đồng bao gồm cả thể thức (cách thức thể hiện) của hợp đồng và thủ tục tạo lập
hợp đồng. Thể thức của hợp đồng là cách thức, phương tiện thể hiện nội dung của hợp
51
đồng dưới dạng vật chất khách quan nhất định. Hợp đồng có thể được thể hiện bằng
các thể thức như lời nói, văn bản, hành vi cụ thể. Còn thủ tục là thủ thuật, cách thức
tiến hành tạo lập hợp đồng theo một trình tự, yêu cầu nhất định. Ví dụ: Hợp đồng bằng
văn bản có thể được tạo lập bằng các thủ tục như văn bản không có người làm chứng,
văn bản có người làm chứng, hoặc văn bản được lập theo thủ tục công chứng, chứng
thực, đăng ký hoặc xin phép. Như vậy, hình thức hợp đồng không chỉ là các thể thức
tồn tại của hợp đồng mà còn bao gồm cả các thủ tục để tạo lập hợp đồng.
Tóm lại, hình thức hợp đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung hợp
đồng, gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để thể hiện và công bố ý chí
của các bên, ghi nhận nội dung hợp đồng và là biểu hiện cho sự tồn tại của hợp đồng.
2.2.2. Các hình thức hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam
Theo qui định của BLDS 2005, hợp đồng có thể được lập bằng một trong 3 hình
thức là “lời nói, văn bản hoặc bằng một hành vi cụ thể” (khoản 1 Điều 124 và khoản 1
Điều 401) trừ những trường hợp pháp luật có qui định hình thức bắt buộc thì phải tuân
theo hình thức đó (khoản 2 Điều 124 và khoản 2 Điều 401).
2.2.2.1. Hình thức bằng lời nói
Hợp đồng bằng lời nói là những hợp đồng được giao kết dưới hình thức ngôn
ngữ nói, bằng lời hay còn gọi là hợp đồng miệng. Theo đó, các bên giao kết hợp đồng
trao đổi với nhau bằng lời nói, trực tiếp hoặc thông qua điện thoại, điện đàm, gửi thông
điệp điện tử bằng âm thanh (tiếng nói)… để diễn đạt tư tưởng và ý muốn của mình
trong việc xác lập, giao kết hợp đồng.
Trừ những loại hợp đồng pháp luật qui định hình thức bắt buộc, các hợp đồng
đều có thể được lập bằng lời nói. Tuy vậy, để tránh trường hợp các bên liên quan phủ
nhận sự tồn tại của hợp đồng, chỉ nên sử dụng hình thức hợp đồng bằng lời nói để giao
kết các hợp đồng có giá trị không lớn, với những người thân quen có sự tin cậy lẫn
nhau, hoặc những hợp đồng được thực hiện và chấm dứt ngay lập tức, như hợp đồng
mua bán tiêu dùng hàng ngày (các hợp đồng bán lẻ), hợp đồng dịch vụ thông thường
trong đời sống (vui chơi, giải trí, sửa chữa nhỏ, vận chuyển nhanh như xe ôm, taxi…).
Thực tiễn pháp lý cho thấy, do việc giao kết hợp đồng bằng lời nói có ưu điểm
là cách thức giao kết đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng và ít tốn kém nên được sử dụng
rất phổ biến trong giao dịch dân sự, nhưng ít được sử dụng hơn trong giao dịch thương
52
mại. Cũng vì sự tiện lợi của cách thức giao kết này mà trên thực tế, có nhiều hợp đồng
đáng lẽ phải được lập bằng văn bản hoặc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng
thực (chẳng hạn như hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng thuê bất động sản), nhưng để
giản tiện, các bên cũng thường lập dưới hình thức lời nói, nên đã dẫn đến những tranh
chấp rất khó giải quyết. Ví dụ: vụ án tranh chấp về “đòi tài sản” trong Quyết định
GĐT số 25/2005/DS- GĐT ngày 16/9/2005 của Hội đồng thẩm phán, các bên đã thỏa
thuận việc mua bán nhà bằng miệng, nên giá trị pháp lý của hợp đồng không được tòa
án thừa nhận [262, tr.259 - 63]. Theo một chuyên gia của TANDTC, có tới 90% các
tranh chấp về hợp đồng mua bán (mà chủ yếu là mua nhà đất mới đặt cọc) bị vô hiệu
về hình thức [159, tr.1]. Điều đó cũng nói lên nhược điểm của loại hình thức này là
không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các bên, giá trị chứng minh không cao và dễ
dẫn đến tình trạng phủ nhận của các bên về sự tồn tại của hợp đồng nếu các bên không
còn bằng chứng khác để chứng minh về sự tồn tại của hợp đồng đó.
2.2.2.2. Hình thức hợp đồng bằng văn bản
Văn bản (truyền thống) là hình thức ngôn ngữ viết, được trình bày trên một chất
liệu hữu hình nhằm thể hiện một nội dung xác định mà người ta có thể đọc, lưu giữ và
bảo đảm được sự toàn vẹn nội dung đó. Khác với hợp đồng bằng lời nói vốn không để
lại bằng chứng (“khẩu thuyết vô bằng”), thì hợp đồng bằng văn bản đảm bảo sự thể
hiện rõ ràng ý chí các bên cũng như nội dung của từng điều khoản hợp đồng mà các
bên muốn cam kết. Ngoài ra, hợp đồng bằng văn bản cũng có thể trở thành bằng chứng
hữu hiệu khi các bên có sự tranh chấp, vì đây là hình thức có khả năng lưu giữ được ở
trạng thái gần như nguyên vẹn, trong một thời gian dài. Bởi vậy, các hợp đồng quan
trọng, hoặc có giá trị lớn, hoặc có nội dung phức tạp, hoặc có thời hạn thực hiện lâu
dài… thì thường được các bên chọn cách thể hiện bằng văn bản.
Thực tiễn pháp lý Việt Nam có sự phân biệt giữa các loại văn bản “công chính
chứng thư” và “tư chứng thư” [165, tr.197-201]. Công chính chứng thư là văn bản
được lập tại cơ quan công quyền, theo thủ tục luật định (chứng nhận hoặc chứng thực),
trước mặt người có thẩm quyền (công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực,
hoặc nhiều khi là quan tòa, thừa phát lại, lục sự, hoặc cơ quan lãnh sự). Tư chứng thư
là văn bản do cá nhân hoặc người đại diện của hộ gia đình, tổ hợp tác tự mình lập ra
bằng văn bản viết tay hoặc đánh máy, có chữ ký hoặc dấu vân tay của người lập ra văn
bản đó, có thể có hoặc không có người làm chứng.
53
Pháp luật Việt Nam hiện hành (như Luật Công chứng 2006, Nghị định
79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007) có qui định cụ thể về thể thức, thủ tục lập các loại
“công chính chứng thư”, nhưng lại không có những qui định rõ ràng, cụ thể về cách
lập “tư chứng thư”, trừ một số trường hợp đặc biệt, như di chúc lập bằng văn bản viết
tay hoặc văn bản nhờ người khác viết hộ trước mặt nhân chứng là có qui định cụ thể,
chi tiết [15, các Điều 649, 650, 652 và Điều 653 – 656]. Về phương diện chứng cứ,
văn bản được công chứng, chứng thực có độ tin cậy cao hơn so với văn bản thông
thường. Bởi vậy, trong thực tiễn, đối với những hợp đồng quan trọng hoặc có giá trị
lớn thì người ta thường lập bằng hình thức văn bản có công chứng, chứng thực.
Về nguyên tắc, việc chọn lựa hình thức nào để ký kết hợp đồng do các bên tham
gia hợp đồng quyết định trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng. Tuy vậy, để bảo vệ trật
tự công cộng hoặc vì lý do quản lý nhà nước, pháp luật thực định hiện hành của Việt
Nam có qui định về những hình thức bắt buộc mà hợp đồng phải tuân thủ. Sau đây là
những thể thức, thủ tục bắt buộc đối với một số loại hợp đồng chuyên biệt:
(i) Những loại hợp đồng bắt buộc phải được lập bằng văn bản
- Các hợp đồng dân sự thông dụng: hợp đồng mua bán tài sản thông qua đấu giá
[15, Khoản 2 Điều 458]; hợp đồng ủy quyền trong trường hợp pháp luật có qui định
[15, Khoản 2 Điều 142]; hợp đồng mua bán, hợp đồng trao đổi, hợp đồng tặng cho tài
sản có đăng ký quyền sở hữu (ví dụ: xe máy, xe ô-tô và các phương tiện cơ giới đường
bộ [252, Điều 1]; tàu thuyền không gắn động cơ có tải trọng toàn phần từ 1 tấn trở lên
hoặc có gắn động cơ từ 5 mã lực trở lên hoặc có sức chở từ 5 người trở lên [144,
Khoản 1, 2, 3 Điều 24]; chuyển quyền sở hữu tàu bay [145, Điều 30], tàu biển [22,
Khoản 1 Điều 15 và Điều 32]), trừ hợp đồng chuyển quyền sở hữu hoặc chuyển quyền
sử dụng nhà ở thì có qui định riêng; hợp đồng thuê tài sản trong trường hợp pháp luật
có qui định (như hợp đồng thuê tàu bay [145, Khoản 3 Điều 35], thuê tàu biển [22,
Khoản 2 Điều 139], thuê nhà dưới 6 tháng [151, điểm a khoản 3 Điều 93]); hợp đồng
dịch vụ tư vấn pháp lý [150, Khoản 2 Điều 26], dịch vụ bảo vệ [180, Khoản 4 Điều 3];
hợp đồng xây dựng [156, Khoản 2 Điều 107]; hợp đồng bảo hiểm [15, Điều 570; 148,
Điều 14]; hợp đồng vận chuyển hàng hóa theo chuyến bằng đường biển [22, Khoản 2
Điều 71].
- Các hợp đồng bảo đảm: BLDS 2005 qui định các hợp đồng: dùng một tài sản
để bảo đảm nhiều nghĩa vụ (Khoản 2 Điều 324), cầm cố tài sản (Điều 327), thế chấp
54
tài sản (Điều 343), hoặc hợp đồng thế chấp tàu bay [145, Điều 32 ], tàu biển [22, Điều
32], đặt cọc (khoản 1 Điều 358), bảo lãnh (Điều 362) phải được lập bằng văn bản…
- Các hợp đồng thương mại: LTM 2005 cũng rất coi trọng hình thức hợp đồng,
nên nhiều hợp đồng thương mại đều bắt buộc phải được lập bằng văn bản: hợp đồng
mua bán hàng hóa mà pháp luật qui định phải lập bằng văn bản (khoản 2 Điều 24), hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế (khoản 2 Điều 27), hợp đồng dịch vụ mà pháp luật qui
định phải được lập thành văn bản (khoản 2 Điều 74), hợp đồng dịch vụ khuyến mại
[Điều 90], hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại (Điều 110), hợp đồng dịch vụ
trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ (Điều 124), hợp đồng dịch vụ tổ chức, tham gia
hội chợ, triển lãm thương mại (khoản 2 Điều 130), hợp đồng đại diện cho thương nhân
(Điều 142), hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá (Điều 159), hợp đồng đại lý (Điều
168), hợp đồng gia công (Điều 179), hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá
(khoản 1 Điều 193), hợp đồng mua bán đấu giá hàng hóa (Điều 203), hợp đồng dịch
vụ quá cảnh (Điều 151), hợp đồng nhượng quyền thương mại (Điều 285)…
- Các loại hợp đồng khác: hợp đồng hợp tác và đầu tư [140][185], hợp đồng
chuyển giao quyền tác giả [15, Điều 743; 152, Điều 46], hợp đồng chuyển giao quyền
liên quan [15, Điều 749; 152, Điều 48], hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công
nghiệp [152, Điều 138], hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp [152, Điều 141], hợp đồng chuyển giao công nghệ [134, Khoản 1 Điều 14] …
Qua nội dung vừa trình bày trên đây cho thấy, rất nhiều loại hợp đồng (hơn 50
loại hợp đồng) được pháp luật qui định phải tuân theo hình thức văn bản. Có thể nói,
những hợp đồng mà pháp luật qui định bắt buộc phải làm bằng văn bản là những loại
hợp đồng có nội dung phức tạp cần phải được thể hiện ra bằng những điều khoản cụ
thể, chi tiết để quá trình thực hiện hợp đồng được thuận lợi, dễ dàng hơn và hạn chế sự
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng. Thông thường, đối
với các loại hợp đồng này, nhà làm luật còn qui định thêm nội dung và các điều khoản
cụ thể của hợp đồng nhằm định hướng cho các bên khi lập hợp đồng, tạo căn cứ pháp
lý cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp giữa các bên sau này.
(ii) Những hợp đồng bắt buộc phải được lập thành văn bản có công chứng,
chứng thực, đăng ký hoặc xin phép
Ngoài việc bắt buộc hình thức hợp đồng bằng văn bản, pháp luật còn qui định
một số loại hợp đồng bắt buộc phải được lảm theo thủ tục đặc biệt, như phải lập thành
55
văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký hoặc xin phép. Khoản 2 Điều
401 BLDS 2005 qui định: “Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải
được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin
phép thì phải tuân theo các quy định đó...”. Các hình thức, thủ tục bắt buộc gồm:
- Hợp đồng lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Theo qui định
của BLDS 2005, các hợp đồng phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực, bao
gồm: hợp đồng hợp tác (Điều 111), hợp đồng mua bán nhà ở (Điều 450), trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác;3 hợp đồng tặng cho bất động sản hoặc động sản có
đăng ký quyền sở hữu (Điều 466, Điều 467); các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
phải được lập thành văn bản có công chứng, trừ các hợp đồng chuyển quyền sử dụng
đất giữa hộ gia đình, cá nhân thì có thể lựa chọn lập theo thủ tục chứng nhận tại phòng
công chứng hoặc chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất
(khoản 2 Điều 689). Trên cơ sở đó, Luật Đất đai 2003 qui định các hợp đồng phải
công chứng, chứng thực và phải đăng ký gồm: hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
(điểm b khoản 1 Điều 126), hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ([điểm b
khoản 1 Điều 127), hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất (điểm b khoản 1 Điều 128),
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất (điểm a khoản 1 Điều 130), hợp đồng góp vốn
bằng quyền sử dụng đất (điểm a khoản 1 Điều 131).
- Những hợp đồng phải đăng ký hoặc xin phép, gồm: các giao dịch bảo đảm qui
định tại khoản 2 Điều 323 BLDS 2005 phải được đăng ký theo qui định của pháp luật;4
hợp đồng cho thuê nhà, hợp đồng cho thuê, góp vốn, thế chấp và bảo lãnh bằng quyền
sử dụng đất [15, khoản 1 Điều 705; 193, Điều 149, 153 & 155], hợp đồng chuyển giao
quyền sở hữu công nghiệp [152, Điểm a khoản 3 Điều 6 và Điều 148] hợp đồng
chuyển giao công nghệ [15, khoản 2 Điều 757], hợp đồng chuyển quyền sở hữu tàu
bay và các quyền khác đối với tàu bay [145, Điều 28, Điều 29 & Điều 30] tàu biển;
3 Theo qui định tại khoản 3 Điều 93 Luật Nhà ở 2005, thì những hợp đồng về nhà ở đều phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực của UBND (đối với hợp đồng về nhà ở tại nông thôn), “trừ những hợp đồng về nhà ở sau đây thì được lập bằng văn bản: a) Cá nhân cho thuê nhà ở dưới sáu tháng; b) Bên bán, bên cho thuê nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở; c) Thuê mua nhà ở xã hội; d) Bên tặng cho nhà ở là tổ chức”. Xem thêm: Điều 63 Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ. 4 Theo khoản 1 Điều 12 Nghị định 163/2006/NĐ-CP, Các trường hợp phải đăng ký bao gồm: a) Thế chấp quyền sử dụng đất; b) Thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; c) Thế chấp tàu bay, tàu biển; d) Thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ; đ) Các trường hợp khác, nếu pháp luật có quy định; Theo qui định tại khoản 1 Điều 64 Nghị định 181/2004/N Đ-CP ngày 29/10/2004 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, thì các hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất phải được đăng ký theo qui định của pháp luật.
56
hợp đồng thế chấp tàu bay [145, Điều 32], tàu biển [22, Điều 35]; hợp đồng chỉ định
đại lý bán vé của hãng hàng không nước ngoài [145, Điều 125]...
Nhìn chung, các hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc
thế chấp có đối tượng là các loại tài sản quan trọng mà việc chiếm hữu, sử dụng của nó
liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng hoặc các tư liệu sản xuất quan trọng
có ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân đều cần phải có sự kiểm soát của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc công bố và ghi chép trong sổ bộ của các cơ quan quản lý nhà
nước trong lĩnh vực có liên quan.
(iii) Thông điệp dữ liệu - một dạng đặc biệt của hình thức bằng văn bản
Ngoài hình thức văn bản truyền thống, pháp luật hiện hành Việt Nam cũng thừa
nhận một thể thức tương đương văn bản, đó là thông điệp dữ liệu. Các hợp đồng, giao
dịch bằng hình thức thông điệp dữ liệu được ghi nhận trong BLDS 2005 (khoản 1 Điều
124), LTM 2005 (khoản 15 Điều 3 & Điều 15). Các nội dung cụ thể được qui định
trong Luật Giao dịch điện tử 2005. Theo khoản 1 Điều 124 BLDS 2005, thì “Giao dịch
dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là
giao dịch bằng văn bản”. Theo qui định tại khoản 15 Điều 3 LTM 2005, thì “Các hình
thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu
và các hình thức khác theo quy định của pháp luật”. Điều 15 LTM 2005 cũng qui định
nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương
mại: “Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu
chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý
tương đương văn bản”.
Theo qui định của Luật Giao dịch điện tử 2005, thông điệp dữ liệu “là thông tin
được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”
(khoản 12 Điều 4). Mặt khác, hình thức của Thông điệp dữ liệu có thể “được thể hiện
dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện
báo, fax và các hình thức tương tự khác” (Điều 10). Giá trị pháp lý của thông điệp dữ
liệu được qui định tại mục 1, chương 2 Luật Giao dịch điện tử 2005. Theo đó, thông
điệp dữ liệu “không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới
dạng thông điệp dữ liệu” (Điều 11), mà nó có “giá trị như văn bản” nếu “thông tin
chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi
57
cần thiết” (Điều 12). Hơn nữa, thông điệp dữ liệu còn “có giá trị như bản gốc” nếu
đáp ứng được các điều kiện luật định (Điều 13), và có “giá trị chứng cứ” (Điều 14).
Cũng theo Luật Giao dịch điện tử 2005, thì “Hợp đồng điện tử là hợp đồng
được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật này” (Điều 33) và
“Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được
thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu.” (Điều 34).
Như vậy, cũng giống như văn bản truyền thống, thông điệp dữ liệu muốn được
công nhận phải đáp ứng được những yêu cầu kỹ thuật và pháp lý nhất định, sao cho
bảo đảm tính nguyên gốc (phản ánh trung thành với bản gốc đã khởi tạo lần đầu tiên)
và sự toàn vẹn về nội dung thông tin (không bị sửa chữa, thay đổi, cắt xén hoặc đưa
thêm thông tin khác vào), có thể lưu trữ và truy cập để tham chiếu khi cần thiết…
Mặc dù pháp luật thực định không qui định cụ thể về chữ ký thường, nhưng với
ý nghĩa là dấu hiệu pháp lý quan trọng xác định sự thừa nhận của chủ thể đối với nội
dung thông điệp dữ liệu đã được lập, chữ ký điện tử cũng được ghi nhận trong Luật
Giao dịch điện tử 2005. Theo đó, chữ ký điện tử được thừa nhận là chữ ký có giá trị
nếu được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác
bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô gích với thông điệp dữ
liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của
người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký (khoản 1 Điều 21) và nếu thỏa
mãn các điều kiện như qui định tại khoản 1 Điều 22. Chữ ký điện tử còn được qui định
chi tiết tại Nghị định 26/2007/NĐ-CP ngày 09/6/2006 về thương mại điện tử. Chữ ký
điện tử có ý nghĩa pháp lý đặc biệt quan trọng, vì qua đó xác định được tác giả của văn
bản, thể hiện sự thừa nhận chính thức của người ký đối với nội dung thông tin chứa
đựng trong văn bản. Trong môi trường giao dịch qua mạng, với các bên không liên
quan hoặc các đối tác là người lạ có ít thông tin về nhau, thì vấn đề bản gốc và sự nhận
dạng chữ ký của nhau trên các văn bản “điện tử” phụ thuộc rất nhiều vào chữ ký điện
tử. Bởi lẽ, việc sử dụng chữ ký điện tử đồng nghĩa với việc mã hóa tài liệu được ký
kết. Do đó, chữ ký điện tử không chỉ có ý nghĩa xác định người ký mà còn chứng minh
cho tính toàn vẹn của nội dung thông tin chứa đựng trong văn bản “điện tử”.
Có thể nói, việc sử dụng hình thức văn bản dưới dạng thông điệp dữ liệu trong
việc thiết lập các giao dịch, hợp đồng có nhiều ưu điểm như nhanh, gọn nhẹ, dễ lưu
trữ, tiết kiệm thời gian và chi phí thấp, nên rất thích hợp cho các hoạt động thương
58
mại, dịch vụ. Tuy vậy, do tính chất “vô hình” và hình thức biểu hiện ra bên ngoài hết
sức đặc thù, chỉ tồn tại trong một môi trường số, điện tử hoặc không gian mạng, mức
độ bảo đảm an toàn, sự toàn vẹn về nội dung của các giao dịch… đòi hỏi một trình độ
kỹ thuật và sự an toàn nhất định, nên hình thức văn bản điện tử không thích hợp cho
mọi loại giao dịch. Do đó, Luật Giao dịch điện tử 2005 đã bị loại trừ áp dụng “đối với
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và các bất động sản
khác, văn bản về thừa kế, giấy đăng ký kết hôn, quyết định ly hôn, giấy khai sinh, giấy
khai tử, hối phiếu và các giấy tờ có giá khác” (Điều 1). Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 1
Nghị định 57/2006/NĐ-CP cũng đã loại trừ đối với các trường hợp cụ thể khác: “Các
quy định của Nghị định này không áp dụng đối với việc sử dụng chứng từ điện tử là
hối phiếu, lệnh phiếu, vận đơn, hoá đơn gửi hàng, phiếu xuất nhập kho hay bất cứ
chứng từ có thể chuyển nhượng nào cho phép bên nắm giữ chứng từ hoặc bên thụ
hưởng được quyền nhận hàng hóa, dịch vụ hoặc được trả một khoản tiền nào đó.”
Như vậy, đối với những chứng từ xác nhận các sự kiện cụ thể liên quan đến
hoặc gắn với quyền nhân thân của cá nhân, xác nhận quan hệ gia đình, các tài sản đặc
biệt như tiền tệ, các chứng từ chứng minh như giấy tờ có giá, chứng từ chứng nhận
quyền sở hữu tài sản có thể chuyển nhượng được, thì không lập bằng chứng từ điện tử
mà phải được lập bằng văn bản truyền thống, được tạo nên từ chất liệu hữu hình và có
những biện pháp kỹ thuật chống làm giả và chống sao chụp, trong những trường hợp
phải xuất trình bản gốc để tham chiếu hoặc chứng minh.
2.2.2.3. Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể
Với ý nghĩa là phương tiện công bố ý chí của các bên hợp đồng, hình thức của
hợp đồng còn bao gồm cả việc biểu hiện ý chí của chủ thể ra bên ngoài bằng một hành
vi cụ thể - đó là hành động, là xử sự có ý thức của các bên.
Hành vi cụ thể là một hình thức thể hiện của hợp đồng, hiểu theo nghĩa hẹp. Bởi
lẽ, việc tuyên bố ý chí bằng lời nói hay bằng chữ viết, suy cho cùng, cũng đều bằng
hành vi của con người. Tuy vậy, hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được nói đến
trong trường hợp này không phải được diễn đạt bằng lời nói hay chữ viết mà chỉ được
thể hiện bằng một hành động thuần túy.
Thông thường, hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được sử dụng khi bên
thực hiện hành vi giao kết hợp đồng đã biết rõ nội dung của hợp đồng và chấp nhận tất
59
cả các điều kiện mà bên kia đưa ra, và bên kia không loại trừ việc trả lời bằng hành vi,
hoặc không đưa ra một yêu cầu rõ ràng về hình thức của sự trả lời chấp nhận.
Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được thể hiện ra bên ngoài khá đa
dạng. Hành vi cụ thể thường được sử dụng để xác lập các hợp đồng thông dụng, được
thực hiện ngay, và trở thành thói quen phổ biến của lĩnh vực hoạt động liên quan, tại
nơi giao dịch được xác lập. Ví dụ: hành vi mua báo hay mua vé số của người bán
“dạo” hay mua hàng của người bán hàng “rong”, hành vi mua hàng trong các quán ăn
tự phục vụ, với món ăn tự chọn được làm sẵn… Trong những trường hợp này, bên có
hành vi xác lập hợp đồng đã hiểu rõ nội dung và các điều kiện của hợp đồng, còn bên
kia cũng chấp nhận cách thức giao dịch bằng hành vi cụ thể đó.
Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể cũng được sử dụng phổ biến trong các
hoạt động dịch vụ dành cho số đông đại chúng mà bên cung cấp dịch vụ đã có qui chế
hoạt động rõ ràng đã được công bố, hoặc giữa các bên đã có sự thỏa thuận về việc một
bên chấp nhận hành vi cụ thể của bên kia như là một hình thức giao kết, thực hiện hợp
đồng theo những qui ước, những điều kiện về pháp lý và kỹ thuật mà các bên đã cam
kết chấp nhận. Ví dụ: hành vi lựa chọn hàng hóa và thanh toán tiền khi mua hàng tại
siêu thị, hay mua hàng qua máy bán hàng tự động, mua vé trên xe buýt bằng máy bán
vé tự động, gọi điện thoại công cộng thanh toán bằng thẻ...
Nhà làm luật cũng thừa nhận và qui định các hợp đồng được giao kết bằng hành
vi, kết hợp với các nghi thức đặc biệt khác do luật định. Ví dụ: nghi thức gõ búa hoặc
rung chuông trong hoạt động bán đấu giá tài sản. Ngay sau khi có người trả giá cao
nhất, người điều khiển phiên bán đấu giá sẽ nhắc lại ba lần giá đã trả mà không có ai
trả giá cao hơn (trong trường hợp đấu giá tăng dần), thì người trả giá cao nhất (nhưng
ít nhất phải bằng giá khởi điểm) là người được mua tài sản đấu giá.
Pháp luật hiện hành cũng thừa nhận hợp đồng được xác lập bằng hành vi cụ thể
trong các trường hợp đặc biệt, gọi là hợp đồng thực tế. Theo đó, hợp đồng thực tế là
những hợp đồng mà hiệu lực của nó phát sinh tại thời điểm các bên thực tế đã chuyển
giao cho nhau đối tượng của hợp đồng [243, tr.105]. Ví dụ: hợp đồng tặng cho tài sản
thông thường – tài sản không đăng ký quyền sở hữu (cũng có ý kiến cho rằng có một
số trường hợp, hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng ưng thuận [231, tr.11 -13]), hợp
đồng mượn tài sản [15, Điều 512; 243, tr.192], hợp đồng cầm cố tài sản [15, Điều 328]
là những hợp đồng thực tế. Trong các hợp đồng này, các bên có thể không dựa trên lời
60
hứa hay văn bản đã được cam kết để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ, vì lời hứa hay văn
bản cam kết xác lập hợp đồng cũng không có giá trị pháp lý chừng nào các bên chưa
giao – nhận tài sản trên thực tế. Hành vi giao - nhận tài sản là hình thức biểu hiện chủ
yếu của các hợp đồng. Hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm tài sản được chuyển giao từ
một bên cho bên kia.
Trong nhiều trường hợp, khi một bên biết rõ nội dung lời đề nghị giao kết hợp
đồng từ phía bên kia và thể hiện đồng ý xác lập hợp đồng bằng một hành vi cụ thể, đã
chuyển tín hiệu đồng ý đến cho bên kia biết, thì hành vi cụ thể đó cũng được coi như
hình thức biểu hiện của hợp đồng. Ví dụ: A hỏi mượn xe của B, tuy B không trả lời
đồng ý bằng lời nói hay văn bản, nhưng B đã tự mang xe đến giao cho A, thì hành vi
của B giao xe cho A là hành vi xác lập hợp đồng; hoặc A muốn gửi xe cho B trông hộ
và mang xe đến chỗ của B, nhưng B không trả lời cụ thể mà chỉ gật đầu. Trong ví dụ
trước, hành vi giao xe là hành vi thể hiện “rõ ràng” ý chí của B. Trong ví dụ sau, hành
vi “gật đầu” của B, theo lẽ thông thường, có thể được hiểu là sự đồng ý, tức hoàn toàn
chấp nhận xác lập hợp đồng và minh thị biểu lộ thái độ không phản đối.
2.2.3. Mối quan hệ giữa hình thức hợp đồng với hiệu lực hợp đồng
Trong qui định của pháp luật hợp đồng của các quốc gia, pháp luật quốc tế và
các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế có liên quan, ở một mức độ nhất định, đều có đề
cập tới vấn đề hình thức của hợp đồng. Qua đó có thể thấy, vai trò của hình thức hợp
đồng đối với hợp đồng, trong pháp luật ngày nay, là rất quan trọng. Theo GS. Vũ Văn
Mẫu, yếu tố hình thức của hợp đồng ngày nay “là một di tích của hình thức chủ nghĩa”
có từ thời La Mã, “khi mà riêng ý chí chưa được nhà làm luật coi là đã có hiệu lực để
ràng buộc các đương sự trước pháp luật” [169, tr.320]. Lý luận và thực tiễn pháp lý
về hình thức hợp đồng ngày nay của Việt Nam đã chứng minh nhận định đó là đúng.
Trên thực tế, khi xác lập hợp đồng, nhất là đối với các hợp đồng liên quan đến nhà ở,
đất đai và các bất động sản, các bên tham gia hợp đồng luôn muốn thiết lập hợp đồng
bằng hình thức long trọng (văn bản công chứng), thậm chí dư luận xã hội cho rằng,
người Việt Nam từng rất “sính công chứng” [2], [204].
61
Tòa án Việt Nam từ trước đến nay cũng đã tuyên xử vô hiệu rất nhiều hợp đồng
mua bán nhà đất có vi phạm về hình thức.5 Tại thời điểm soạn thảo và chuẩn bị thông
qua BLDS 2005, dư luận xã hội cũng như rất nhiều luật gia có ý kiến đề nghị Ban soạn
thảo nên hạn chế sự ảnh hưởng của hình thức đối với hiệu lực của hợp đồng và điều đó
đã có tác động tích cực tới Ban soạn thảo. Bằng chứng là vai trò của yếu tố hình thức
đối với hiệu lực hợp đồng trong BLDS 2005 đã bị giảm đáng kể so với BLDS 1995.6
Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, về phương diện lập pháp, dù muốn hay không, ít hay
nhiều, yếu tố hình thức hợp đồng phải được xem trọng đúng mức nhằm bảo vệ trật tự
công cộng và ổn định các giao lưu dân sự; đồng thời qua đó cũng nhằm để bảo vệ
đúng mức quyền lợi chính đáng của các bên tham gia hợp đồng.
Bàn về vai trò, ý nghĩa, sự ảnh hưởng của hình thức hợp đồng trong khoa học
pháp lý hiện nay, các tác giả cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Theo một tác giả thì hình
thức hợp đồng có hai chức năng: (i) điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, và (ii) là bằng
chứng giao kết hợp đồng [68, tr.48]. Một tác giả khác còn cho rằng, “lý do hạn chế về
hình thức hợp đồng rất khác nhau, tùy quan điểm của mỗi quốc gia. Nhưng tựu trung
lại có ba lý do chủ yếu sau đây: để bảo toàn chứng cứ; để khẳng định “tính nghiêm
túc, tính chắc chắn” của sự thể hiện ý chí các bên, và để bảo vệ trật tự pháp luật, trật
tự công cộng” [108, tr.178 -9]. Theo GS. Vũ Văn Mẫu, vai trò của hình thức hợp
đồng, theo kiểu của “hình thức chủ nghĩa ngày nay” có thể tóm tắt trong bốn điểm: (1)
Các hình thức trọng thể được ấn định cho một số hành vi quan trọng, cốt để các đương
sự chú trọng đặc biệt việc mình sắp làm; (2) Các hình thức chứng cứ để dẫn chứng
trước pháp luật (luật tố tụng trong trường hợp này chỉ chấp nhận hai cách dẫn chứng:
“chứng thư hợp đồng” và “sự thú nhận của đương sự”); (3) Các hình thức cấp-tư-năng
nhằm đảm bảo quyền định đoạt của những người chưa hoàn toàn có tư cách chủ thể
độc lập để tự mình xác lập các giao dịch dân sự (Ví dụ người chưa thành niên từ đủ 15
tuổi đến dưới 18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của
5 Trước khi có Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP và Nghị quyết 02/2004/NQ – HĐTP, khi giải quyết tranh chấp loại này, HĐTP - TANDTC thường áp dụng các qui định của BLDS 1995 để tuyên xử vô hiệu đối với các hợp đồng vi phạm về hình thức. Vấn đề này có thể xem thêm: TAND TC, Tập Quyết định GĐT của TAND TC năm 2003 - 2004; Tập Quyết định GĐT của TAND TC năm 2005; Tập Quyết định GĐT của TAND TC năm 2006, do TAND TC ấn hành tại Hà Nội, vào các năm 2004, 2008. 6 So sánh qui định của khoản 2 Điều 122 BLDS 2005 so với Điều 131 BLDS 1995, thì vai trò của yếu tố hình thức đã có sự suy giảm đáng kể. Theo đó, hình thức không phải là điều kiện bắt buộc của mọi giao dịch dân sự mà chỉ là điều kiện bắt buộc khi pháp luật có qui định.
62
mình [15, Khoản 2 Điều 20]); (4) Các hình thức công bố trong trường hợp có liên
quan đến người thứ ba [169, tr.320 – 1].
Qua khảo sát thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành, tác giả nhận thấy yếu tố
hình thức của hợp đồng còn ảnh hưởng đến hợp đồng trên nhiều phương diện khác
nữa, như: (1) để thể hiện và công bố ý chí của các bên hợp đồng; (2) là cơ sở để xác
định thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng; (3) là điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng nếu pháp luật có qui định; (4) hợp đồng được công chứng, chứng
thực hoặc đăng ký thì làm phát sinh giá trị pháp lý đối với bên thứ ba; (5) hình thức
hợp đồng là bằng chứng cho sự tồn tại của hợp đồng; (6) hợp đồng bằng văn bản là
phương tiện diễn đạt chính xác nội dung hợp đồng; (7) qui định hình thức hợp đồng
chặt chẽ còn giúp hạn chế sai lầm của bên thiếu kinh nghiệm trước bên đối tác là
người hành nghề chuyên nghiệp và giúp họ thận trọng hơn trước những tình huống bất
ngờ; (8) thể hiện sự đồng ý của người đại diện đối với giao dịch của người được đại
diện; hoặc sự đồng ý của người có lợi ích liên quan đối với giao dịch được xác lập bởi
người khác không có quyền hoặc vượt quá phạm vi đại diện; là căn cứ để xác định tư
cách chủ thể giao dịch hoặc để “hợp pháp hóa” các giao dịch được xác lập không đúng
hay vượt quá phạm vi đại diện; (9) hình thức của hợp đồng cũng ảnh hưởng đến giá trị
pháp lý và sự thực thi hợp đồng trên thực tế, giúp cho cơ quan nhà nước quyền thực
hiện các nghiệp vụ cần thiết trong quản lý nhà nước, bảo vệ trật tự công cộng [101].
Xét riêng mối quan hệ giữa hình thức hợp đồng với hiệu lực hợp đồng, thì hình
thức của hợp đồng có ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng trên ba phương diện sau:
2.2.3.1. Hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, nếu pháp luật có
qui định
Một trong những ảnh hưởng quan trọng của hình thức đối với hiệu lực hợp đồng
là việc xem hình thức hợp đồng là một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng,
nếu pháp luật có qui định [15, khoản 2 Điều 122]. Theo đó, hình thức không phải là
điều kiện có hiệu lực đương nhiên của hợp đồng, mà chỉ là điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng khi pháp luật qui định. Trong trường hợp đó, để được coi là hợp đồng hợp
pháp và phát sinh hiệu lực, thì hợp đồng phải được lập tuân thủ các điều kiện luật định,
trong đó phải tuân thủ đúng qui định về hình thức hợp đồng.
Khi pháp luật qui định hợp đồng phải được lập theo một hình thức xác định thì
các bên phải tuân thủ. Nếu hợp đồng không được lập đúng hình thức luật định, thì hợp
63
đồng đó bị coi là vi phạm “điều kiện” về hình thức. Hậu quả pháp lý của hợp đồng bị
vi phạm về hình thức là hợp đồng đó chưa được coi là hợp pháp và có hiệu lực. Ví dụ:
pháp luật qui định hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có
công chứng hoặc chứng thực [15, khoản 2 Điều 689]. Do đó, về nguyên tắc, hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất chưa được lập đúng hình thức do pháp luật qui định thì
chưa có hiệu lực. Nhưng hợp đồng bị vi phạm về hình thức thì cũng không đương
nhiên vô hiệu. Khi đó, các bên có thể yêu cầu tòa án, hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định buộc các bên thực hiện đúng hình thức trong một thời hạn; quá thời
hạn đó mà không thực hiện thì tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả
pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo qui định pháp luật: các bên phải hoàn trả lại cho
nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền...,
bên nào có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia theo
mức độ lỗi của mình [15, Điều 134, 137, 401][198][199]. Thời hiệu khởi kiện để yêu
cầu tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác xem xét hiệu lực của hợp đồng bị vi phạm
hình thức là hai năm, tính từ thời điểm xác lập hợp đồng [15, Điều 136].
Như vậy, hình thức của hợp đồng trong trường hợp này là một trong những yếu
tố pháp lý quyết định hiệu lực của hợp đồng.
2.2.3.2. Hình thức hợp đồng là cơ sở để xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
Cũng vì bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện và sự gặp gỡ ý chí
của các bên, nên khi các bên thỏa thuận xong nội dung của hợp đồng thì hợp đồng
được thiết lập. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc “thể hiện ý chí”, chỉ khi chủ thể bày
tỏ ý chí ra bên ngoài bằng một hình thức khách quan nhất định, thì đó mới được coi là
quyết định cuối cùng. Đối với các loại hợp đồng có liên quan đến các tài sản quan
trọng hoặc liên quan tới trật tự công cộng, pháp luật thường qui định hợp đồng phải
được lập dưới một hình thức trọng thể, như văn bản, văn bản công chứng, chứng thực,
đăng ký (Ví dụ: xem mục 2.2.2.2. Luận án). Đồng thời với qui định bắt buộc về hình
thức thể hiện, pháp luật cũng qui định thời điểm giao kết hoặc thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng dựa trên sự thể hiện ý chí hoàn tất ở một mức độ nhất định, thể hiện qua
các hình thức công bố ý chí bằng những biểu hiện cụ thể của hình thức hợp đồng.
Điều 404 BLDS 2005: hầu hết các trường hợp, pháp luật qui định thời điểm
giao kết hợp đồng đều dựa vào hình thức của hợp đồng: (1) Hợp đồng bằng lời nói
được giao kết vào thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng; (2) Hợp
64
đồng bằng văn bản được giao kết vào thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản; và (3)
Nếu các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời, thì hợp đồng được giao kết vào thời
điểm hết thời hạn trả lời mà bên được đề nghị vẫn im lặng.
Mặt khác, theo qui định của BLDS 2005, hình thức hợp đồng cũng quyết định
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, nhất là đối với những hợp đồng có hình thức bắt
buộc, hoặc thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có qui định
khác. Ví dụ: hợp đồng tặng cho bất động sản hoặc động sản có đăng ký quyền sở hữu
(Điều 466), hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất (Điều 692), chuyển quyền sở hữu tàu
bay [145, Điều 30], tàu biển; hoặc thế chấp tàu biển [22, Khoản 2 Điều 34 và Khoản 2
Điều 35], chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp [152, Điều 148], hoặc chuyển giao
công nghệ [134, Điều 19]… là những hợp đồng có hiệu lực vào thời điểm do pháp luật
qui định. Ngoài ra, nếu các bên thỏa thuận hợp đồng phải được lập theo hình thức văn
bản công chứng, thì hợp đồng có hiệu lực khi đã được công chứng viên ký tên và có
đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng (136, khoản 3 Điều 4).
Thực tiễn pháp lý cũng cho thấy, khi đàm phán hợp đồng, các luật sư tư vấn
thường đưa vào bản cam kết hay thỏa thuận sơ bộ điều khoản “hiệu lực của các cam
kết”. Theo đó, cho đến khi hợp đồng chưa đạt được sự hoàn chỉnh về mặt hình thức thì
hợp đồng chưa được coi là giao kết [25, tr.110]. Như vậy, thực tiễn pháp lý cũng có
những lựa chọn về thời điểm giao kết hợp đồng dựa vào hình thức, thủ tục nhất định.
2.2.3.3. Hợp đồng được công chứng, chứng thực, hoặc đăng ký thì có giá trị pháp lý
‘đối kháng’ với người thứ ba
Về nguyên tắc, hợp đồng được lập bằng văn bản không có công chứng, chứng
thực thì không có giá trị đối kháng với người thứ ba, vì các bên có thể thông đồng để
lập hợp đồng giả tạo nhằm “lẩn tránh” pháp luật, hoặc để “qua mặt” người thứ ba. Ví
dụ: Đối với những hợp đồng chuyển nhượng tài sản có đăng ký quyền sở hữu, các giao
dịch bảo đảm, các hợp đồng chuyển nhượng tài sản đang cho thuê, hoặc tài sản đang
được dùng để bảo đảm, hoặc một tài sản được chuyển nhượng cho nhiều người, hoặc
các tài sản đang bị tranh chấp, hoặc các tài sản đang trong quá trình xử lý phá sản
doanh nghiệp…, nếu được thể hiện bằng lời nói hoặc bằng “giấy tay” thì không có giá
trị ‘đối kháng’ với những người thứ ba có liên quan.
Trên cơ sở bảo vệ người thứ ba ngay tình và lợi ích của xã hội, phòng ngừa các
trường hợp lừa đảo, tẩu tán tài sản, để hợp đồng có giá trị đối kháng với người thứ ba,
65
nhà làm luật qui định một số hợp đồng phải tuân theo những hình thức, thủ tục nhất
định: công chứng, chứng thực hoặc đăng ký. Các hợp đồng được lập theo thủ tục
chứng thực, công chứng, đăng ký thường có giá trị tin cậy cao và an toàn pháp lý.
Khoản 3 Điều 4 Luật Công chứng 2005: “Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ
ngày được công chứng viên ký và có đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng”.
Giá trị của văn bản công chứng cũng được qui định tại Điều 6 của Luật công chứng
2005: “Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong
trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền
yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham
gia hợp đồng, giao dịch có thoả thuận khác” (khoản 1) và “Văn bản công chứng có
giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng
minh, trừ trường hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu” (khoản 2). Theo đó, các hợp đồng
được lập thành văn bản công chứng thì có giá trị đối với các bên, với những người
khác có liên quan, được công nhận có giá trị chứng cứ và không cần phải chứng minh,
tức có giá trị “đối kháng” với người thứ ba. Các hợp đồng được chứng thực tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cũng có giá trị pháp lý tương tự.
Cũng như việc công chứng, chứng thực hợp đồng, việc đăng ký hợp đồng có ý
nghĩa như là sự công bố chính thức hợp đồng và việc này được xác nhận bởi cơ quan
công quyền. Bởi vậy, ngoài giá trị pháp lý đối kháng với các bên tranh chấp khác, việc
đăng ký hợp đồng còn có mục đích nhằm tránh sự xung đột về quyền, lợi ích hợp
pháp, quyền ưu tiên thanh toán giữa các bên, cũng như để bảo vệ người thứ ba ngay
tình. Ví dụ: khoản 3 Điều 323 BLDS 2005 qui định “Trường hợp giao dịch bảo đảm
được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý
đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký”, và theo qui định tại Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ, thì việc thế chấp quyền sử dụng
đất; Thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; Thế
chấp tàu bay, tàu biển; Thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ…là
những trường hợp phải được đăng ký (Điều 11 khoản 1 và Điều 12 khoản 1).
Như vậy, để được người thứ ba thừa nhận và tôn trọng giá trị pháp lý, các giao
dịch bảo đảm phải được lập thành văn bản và phải được đăng ký, nếu pháp luật có qui
định như các trường hợp vừa nêu. Thông qua việc đăng ký, các bên trong hợp đồng đã
thông tin cho người thứ ba biết về tài sản dùng làm đối tượng bảo đảm đã được sử
66
dụng vào việc bảo đảm. Mọi giao dịch về tài sản đó sau thời điểm đăng ký giao dịch
bảo đảm đều không có giá trị pháp lý, hoặc có thứ tự ưu tiên kém hơn so với bên đã
đăng ký giao dịch bảo đảm trước đó.
Tóm lại, hợp đồng không tuân hình thức, thủ tục luật định có thể không làm hợp
đồng mất hiệu lực ràng buộc đối với các bên, nhưng không có hiệu lực “đối kháng”
với người thứ ba trong trường hợp có xung đột lợi ích với người thứ ba.
2.3. MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG CÁC QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN
2.3.1. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật
hiện hành về hình thức hợp đồng
Vấn đề hình thức hợp đồng được qui định trong các phần khác nhau của BLDS
2005, bao gồm các qui định về hình thức của giao dịch dân sự ở phần chung của Bộ
luật, hình thức của hợp đồng trong phần chung của chế định hợp đồng, các qui định
trong các hợp đồng chuyên biệt và các luật chuyên ngành có liên quan. Qua nghiên
cứu các qui định này cho thấy có một số điểm bất cập sau đây:
2.3.1.1. Quy định về hình thức hợp đồng vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, chưa nhất quán,
chưa đảm bảo lô gích pháp lý giữa các điều luật liên quan
Vấn đề hình thức hợp đồng được qui định tại các Điều 122, 124, 401 BLDS
2005. Các qui định có những điểm bất cập cần phải được làm rõ. Cụ thể:
(i) Qui định tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 là chưa đầy đủ
Khoản 2 Điều 122 BLDS 2005 qui định: “Hình thức giao dịch dân sự là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Trong qui
định này, nhà làm luật chỉ đề cập đến ‘trường hợp pháp luật có qui định’, mà không
dự liệu khả năng khi các bên có thỏa thuận lựa chọn hình thức hợp đồng là điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng.
Việc qui định như vậy là thiếu sót. Bởi lẽ, pháp luật không cấm các bên thỏa
thuận xác lập hợp đồng theo một hình thức xác định. Trong luật thực định, đối với
nhiều loại hợp đồng, pháp luật cũng cho phép các bên được tự do lựa chọn hình thức
thích hợp để giao kết hợp đồng. Ví dụ: “Hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ
trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản” [15, khoản
2 Điều 142]. Trên thực tế, đối với các loại hợp đồng pháp luật không qui định hình
67
thức bắt buộc, thì các bên cũng có quyền thỏa thuận hình thức là một điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng. Ví dụ: các bên có thể thỏa thuận hợp đồng đặt cọc mua bán nhà,
hoặc hợp đồng mua bán kim cương… phải được lập bằng văn bản theo thủ tục công
chứng thì mới có hiệu lực, mặc dù pháp luật không qui định bắt buộc các hợp đồng kể
trên phải được lập bằng văn bản có công chứng.
Mặt khác, việc điều luật nói trên bỏ qua quyền lựa chọn hình thức làm điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng, là chưa phù hợp với yêu cầu của nguyên tắc tự do hợp đồng.
Bởi lẽ, bản chất của quan hệ pháp luật hợp đồng là một loại quan hệ pháp luật thuộc
lĩnh vực luật tư, nên quyền tự do của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật này được
pháp luật đề cao [15, Điều 4]. Tự do lựa chọn hình thức hợp đồng là một trong những
nội dung quan trọng của nguyên tắc tự do hợp đồng [108, tr.106, 174 và tiếp]. Trên
tinh thần đó, quyền tự do của các bên trong việc thỏa thuận chọn hình thức là một
trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, là một nội dung cần phải được tôn
trọng và được thừa nhận trong luật.
Tóm lại, hình thức của hợp đồng có thể là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định. Bởi vậy, cần bổ
sung vào qui định tại Điều 401 về khả năng hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng khi các bên có thỏa thuận.
(ii) Qui định tại khoản 1 Điều 401 còn dài dòng, và chưa linh hoạt
Khoản 1 Điều 401 qui định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời
nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp
đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định”. Tinh thần của điều khoản
này là qui định hình thức hợp đồng trong trường hợp pháp luật không có qui định bắt
buộc về hình thức. Tuy nhiên, cách diễn đạt của điều luật như vậy là dài dòng.
Bởi lẽ, trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng, các bên có thể lựa chọn xác lập
hợp đồng bằng bất kỳ hình thức nào. Một khi đã công nhận sự tự do trong việc lựa
chọn hình thức hợp đồng, thì cách thể hiện nội dung điều luật phải theo hướng mở,
chứ không nên ‘gò bó’ các bên phải theo một ‘khuôn dạng định hình’ nào cả. Hơn nữa,
xét về vai trò và chức năng, thì qui định tại khoản 1 Điều 401 là qui định cơ bản về
hình thức hợp đồng, nên cũng được ngầm hiểu đây là qui định về hình thức hợp đồng
trong hoàn cảnh pháp luật không qui định hợp đồng phải được lập theo bất kỳ hình
thức nào. Trong trường hợp này, sự hiện diện của cụm từ “khi pháp luật không quy
68
định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định” là không cần
thiết vì làm cho điều luật trở nên dài dòng. Bởi vậy, cụm từ nói trên cần được bỏ đi.
Mặt khác, phương pháp liệt kê một danh sách đóng các loại hình thức hợp đồng
xác định đã làm cho điều luật kém linh hoạt. Bởi vì, theo lẽ thông thường, khi giao kết
hợp đồng, các bên không bị buộc phải lập hợp đồng theo hình thức nào, trừ những hợp
đồng pháp luật buộc phải lập theo một hình thức xác định (Nhưng đây là ngoại lệ, sẽ
được qui định ở khoản 2). Theo đó, về nguyên tắc, các bên có thể lập hợp đồng bằng
bất kỳ hình thức nào, kể cả bằng sự kết hợp của tất cả các hình thức đó. Thậm chí, sự
‘im lặng’ cũng được xem như là một ‘hình thức’ trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng,
trong trường hợp pháp luật có qui định [15, Điều 404 khoản 2].
Hơn thế nữa, các bên không chỉ xác lập hợp đồng bằng một hình thức duy nhất
là văn bản, lời nói hay hành vi cụ thể mà có thể kết hợp sử dụng đồng thời nhiều hình
thức khác nhau để giao kết hợp đồng. Hiện tượng này cũng được tìm thấy khá phổ
biến trong thực tiễn xét xử. Ví dụ: trong vụ tranh chấp về “hợp đồng bảo hiểm” tại Bản
án số 195/2007/KDTM-PT ngày 09/10/2007 của Tòa Phúc thẩm – TANDTC tại Hà
Nội, giữa nguyên đơn là Công ty Vật tư vận tải và xây dựng công trình giao thông với
bị đơn là Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông. Ngày 20/12/2004, nguyên đơn có ký
hợp đồng với bị đơn để mua bảo hiểm tài sản cho 72 chiếc xe máy hiệu STAR (có giá
trị là 916.363.656 đồng) mà nguyên đơn đang vận chuyển từ Đồng Nai đi Hà Tây.
Việc ký kết hợp đồng được thực hiện bằng cả hai cách: các bên vừa gọi điện thoại trao
đổi để ký hợp đồng, đồng thời cũng vừa giao kết hợp đồng bằng văn bản. Vì các bên
sử dụng đồng thời nhiều hình thức và phương thức khác nhau để giao kết hợp đồng,
nên tòa án các cấp đã khá lúng túng trong việc xác thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Nguyên đơn dựa vào thời điểm gọi điện thoại để cho rằng hợp đồng ký trước 11h00
ngày 20/12/2004. Bị đơn dựa vào thời điểm bên bảo hiểm ký vào đơn bảo hiểm để cho
rằng hợp đồng ký sau 11h00 ngày 20/12/2004. Trong trường hợp này, các bên đã giao
kết hợp đồng đồng thời bằng nhiều hình thức khác nhau.
Như vậy, việc các bên sử dụng bất kỳ hình thức nào, hoặc sử dụng đồng thời
nhiều hình thức khác nhau để giao kết hợp đồng là một thực tế phổ biến. Đây là khả
năng mà khoản 1 Điều 401 BLDS 05 chưa dự liệu. Cách trình bày bằng việc liệt kê
một danh sách đóng các hình thức hợp đồng sẽ làm cho điều khoản này trở nên kém
69
linh hoạt. Bởi vậy, khoản 1 Điều 401 cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các
yêu cầu về nội dung và kỹ thuật như vừa phân tích.
(iii) Quy định về hình thức bắt buộc của hợp đồng tại khoản 2 Điều 401 còn
thiếu sót và chưa nhất quán
Theo qui định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 401: “Trong trường hợp pháp luật có
quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực,
phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”. Trong khi đó, khoản 2
Điều 124 BLDS 2005 lại qui định: “Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch
dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải
đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”. Đối chiếu hai điều luật
này, ta thấy chúng bộc lộ những thiếu sót sau đây:
Thứ nhất, cách diễn đạt của cả hai điều luật này theo phương pháp liệt kê, nên
nội dung của điều luật vẫn còn thiếu sót, vì chưa liệt kê cả các hình thức bắt buộc khác
của hợp đồng, ví dụ hình thức hợp đồng có thể là một hành vi cụ thể. Trong luật thực
định, có những loại hợp đồng mà hình thức thể hiện phải bằng hành vi cụ thể thì hợp
đồng mới có hiệu lực. Ví dụ: theo BLDS 2005, hợp đồng cầm cố tài sản có hiệu lực từ
thời điểm tài sản cầm cố được chuyển giao cho bên nhận cầm cố (Điều 328); “Hợp
đồng tặng cho động sản có hiệu lực khi bên được tặng cho nhận tài sản” (Điều 466);
hoặc “…nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có
hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản” (khoản 2 Điều 467). Trong lý luận, các
luật gia cũng đã thừa nhận các hợp đồng thực tế chỉ có hiệu lực từ thời điểm “khi các
bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng” [243, tr.105]. Sự liệt kê
thường là không đầy đủ, vì sẽ làm cho nội dung của điều luật trở nên dài dòng và
không bao quát hết các trường hợp cần thiết. Trong trường hợp này, điều luật chưa liệt
kê hình thức bắt buộc của hợp đồng là một hành vi cụ thể. Do đó, khoản 2 Điều 401
cần được sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính khái quát hơn.
Thứ hai, so với khoản 2 Điều 124 BLDS 2005, qui định qui định tại đoạn 1
khoản 2 Điều 401 dường như có sự thiếu sót và chưa nhất quán, vì không qui định
hình thức bắt buộc của hợp đồng là văn bản (thường). Bởi lẽ, theo qui định tại khoản 2
Điều 124, các hình thức giao dịch dân sự bắt buộc được liệt kê bao gồm cả hình thức
văn bản thường, nhưng khoản 2 Điều 401 chỉ liệt kê các hình thức hợp đồng bắt buộc
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép, mà không
70
bao gồm hình thức văn bản thường. Do đó, khi pháp luật qui định loại hợp đồng nào
đó phải được lập bằng văn bản, mà các bên không tuân thủ, thì sẽ rất khó giải quyết, vì
thiếu căn cứ pháp lý cần thiết. Trong luật thực định, có nhiều hợp đồng dân sự chuyên
biệt hoặc các hợp đồng thương mại được pháp luật qui định bắt buộc phải được lập
bằng văn bản, như đã được trình bày trong mục 2.2.2.2. của Chương này.
Ví dụ: theo Điều 492 BLDS 2005, hợp đồng thuê nhà ở dưới 6 tháng thì bắt
buộc phải được lập bằng văn bản. Giả sử trên thực tế các bên đã lập hợp đồng thuê nhà
bằng lời nói, thì giải quyết thế nào (?). Có thể thấy, qui định tại Điều 492 BLDS 2005
là qui phạm mệnh lệnh: “hợp đồng thuê nhà phải được lập thành văn bản”. Nếu hình
thức của hợp đồng không tuân theo qui định này thì hợp đồng bị coi là không hợp
pháp, vì khoản 2 Điều 124 BLDS 2005 qui định: “Trong trường hợp pháp luật có qui
định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải công chứng hoặc chứng
thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các qui định đó”. Nhưng theo qui
định tại khoản 2 Điều 401, thì hợp đồng thuê nhà nói trên không bị coi là trái luật, vì
theo qui định tại khoản 2 Điều 401, văn bản không phải là hình thức bắt buộc.
Mặt khác xét về thứ tự ưu tiên áp dụng, thì qui định tại khoản 2 Điều 124
BLDS 2005 là qui định chung về hình thức giao dịch, còn qui định tại khoản 2 Điều
401 là qui định riêng về hình thức hợp đồng - một loại giao dịch dân sự chuyên biệt.
Vì thế, để giải quyết tranh chấp về hình thức hợp đồng, thì khoản 2 Điều 401 phải
được áp dụng ưu tiên hơn, so với khoản 2 Điều 124. Theo lô gích đó, pháp luật có qui
định các hợp đồng chuyên biệt bắt buộc phải lập bằng văn bản, thì theo khoản 2 Điều
401, các bên cũng không bắt buộc phải tuân theo, vì qui định tại khoản 2 Điều 401 chỉ
buộc phải tuân theo khi hợp đồng được lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng
thực, phải đăng ký hoặc phải xin phép, chứ không bắt buộc hợp đồng phải được lập
bằng văn bản như qui định của khoản 2 Điều 124 BLDS 2005.
Phân tích trên cho thấy, khoản 2 Điều 401 BLDS 2005 lặp lại qui định tại khoản
2 Điều 124 BLDS 2005, nhưng nội dung lặp lại không đầy đủ (không đề cập hình thức
hợp đồng bằng văn bản thường). Tuy hai điều luật cùng điều chỉnh về một vấn đề,
nhưng nội dung không nhất quán. Câu hỏi đặt ra là, phải chăng qui định tại khoản 2
Điều 401 đã “vô hiệu hóa” các qui định khác của pháp luật về các hợp đồng có hình
thức bắt buộc bằng văn bản (?). Để có cách hiểu thống nhất và tạo điều kiện thuận lợi,
dễ dàng hơn trong việc nhận thức và áp dụng pháp luật, thiết nghĩ vấn đề này cần phải
71
được làm rõ theo hướng: viết lại nội dung các Điều 124 (khoản 2) và Điều 401 (khoản
2) nhằm bảo đảm tính khái quát, đầy đủ trong nội dung từng điều luật và bảo đảm tính
nhất quán giữa các điều luật này.
2.3.1.2. Qui định về cách thức giải quyết hậu quả pháp lý của các hợp đồng bị vi phạm
về hình thức còn nhiều bất cập
Như đã phân tích ở phần trên, ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng
rất đa dạng, có thể làm hợp đồng vô hiệu, hoặc làm cho hợp đồng không có giá trị
pháp lý đối với người thứ ba, có thể chứng minh được sự tồn tại của hợp đồng, xác
định thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy vậy, qui định tại
Điều 134 BLDS 2005 chỉ đưa ra một cách thức xử lý đối với một trường hợp vi phạm:
“khi hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà các bên không tuân thủ thì
theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời
hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”.
Nghiên cứu qui định này thì thấy có những bất cập sau đây:
(i) Việc xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu về hình thức như trên là chưa
phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và không khả thi
Theo Điều 134 BLDS 2005, khi pháp luật có qui định hình thức là điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng, mà hợp đồng bị vi phạm về hình thức, thì theo yêu cầu của các
bên, tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác ra quyết định buộc các bên thực hiện
đúng hình thức hợp đồng trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì
hợp đồng vô hiệu. Đối với các hợp đồng mua bán nhà ở bị vi phạm về hình thức, thời
hạn nói ở đây là một tháng [198, Mục 2.2.].
Có ý kiến cho rằng, qui định về cách giải quyết hậu quả của hợp đồng vi phạm
hình thức như trên là “lạc lõng, xa lạ” với yêu cầu của công lý [108, tr.207]. Tác giả
cũng đồng tình với ý kiến này. Bởi lẽ, bản chất của việc khởi kiện ra tòa trong trường
hợp này không đơn giản là đòi tòa án xem xét về hình thức của hợp đồng, mà thực chất
các bên, hoặc là muốn được tòa án công nhận hợp đồng có giá trị pháp lý, hoặc là
muốn tòa án bác bỏ (không công nhận) hợp đồng. Thường thì một bên cho rằng, mình
chưa chính thức ký hợp đồng nên hợp đồng chưa có hiệu lực ràng buộc; còn bên kia lại
muốn chứng minh là hợp đồng đã được thiết lập tự nguyện và trên thực tế các bên đã
thực hiện hợp đồng, nên yêu cầu tòa án công nhận hiệu lực của hợp đồng và buộc bên
72
kia phải thi hành nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Bởi vậy, nếu tòa án chỉ buộc các bên
phải tuân thủ hình thức luật định của hợp đồng, tức là đã không phản ánh đúng bản
chất của quan hệ tranh chấp, không giải quyết đúng yêu cầu và mong đợi của các bên.
Mặt khác, qui định này cũng không khả thi vì thực tế cho thấy, cả các bên cũng
như tòa án đều không mấy ‘mặn mà’ trong việc áp dụng qui định này. Nhận định này
được nhiều ý kiến đồng tình [54, tr.194; 68, tr.51]. Thực tế cho thấy, các bên thường
chỉ từ chối thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng khi giá thay đổi nhiều so với giá nhà
lúc giao kết hợp đồng. Trong trường hợp này, bên từ chối công nhận hợp đồng sẽ nhận
được khoản lợi lớn hơn so với việc phải hợp đồng, nên họ sẵn sàng hủy bỏ hợp đồng
và chấp nhận bồi thường thiệt hại, thay vì phải xác lập hợp đồng đúng hình thức luật
định. Mặt khác, do các bên đã không có sự thống nhất với nhau về việc tiếp tục giao
kết và thực hiện hợp đồng, việc bắt buộc các bên phải hoàn tất thủ tục cũng không còn
cần thiết và không khả thi, nên tòa án thường tuyên bố hợp đồng vô hiệu ngay, thay vì
buộc các bên hoàn tất hình thức trong một thời hạn, như qui định tại Điều 134 BLDS
2005. Quan điểm này càng được củng cố bởi thực tiễn xét xử. Ví dụ: Bản án số 1355/
2006/DSST ngày 21/12/2006 về “Hợp đồng mua bán nhà”, TAND Tp. Hồ Chí Minh
đã cho rằng, khi các bên đã không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng, thì cách tốt nhất
là chấp nhận việc chấm dứt hợp đồng, và buộc bên có lỗi làm cho hợp đồng không thể
tiếp tục thực hiện phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.
Tóm lại, qui định tại Điều 134 BLDS 2005 hiện nay là không phù hợp với thực
tế và cũng không khả thi. Hơn nữa, bản chất của vấn đề không chỉ là sự vi phạm hình
thức hợp đồng, mà nguyên nhân sâu xa chính là do sự biến động về giá nhà, mà cách
giải quyết hiện nay là chưa đảm bảo công bằng lợi ích đối với các bên. Thực tế này đặt
ra vấn đề cần phải tìm kiếm một giải pháp khác hợp lý và công bằng hơn cho các bên.
(ii) Qui định giải pháp khắc phục vi phạm hình thức hợp đồng còn nhiều bất
cập, thiếu nhất quán, không phù hợp với thực tiễn
Điều 134 BLDS 2005 không xác định rõ phạm vi áp dụng và mức độ vi phạm
về hình thức của các hợp đồng. Cụ thể, Điều luật chưa xác định: (i) giới hạn phạm vi
áp dụng của điều luật: hình thức thực tế của hợp đồng là hình thức nào (được làm văn
bản, hoặc chỉ bằng lời nói, hành vi), và (ii) sự vi phạm hình thức đang ở giai đoạn nào
(chưa thực hiện, đang thực hiện, hoặc đã thực hiện xong) thì cần được xem xét lại. Từ
73
đó, dẫn đến việc nhận thức khác nhau về qui định này, làm cho hiệu lực áp dụng của
điều luật có phần bị hạn chế.
Thực tiễn xét xử cũng cho thấy, không phải mọi trường hợp vi phạm hình thức
đều được tòa án xem xét cho các bên hoàn thiện về hình thức, mà tùy loại hợp đồng,
và tùy mức độ vi phạm về hình thức. Ví dụ: Bản án số 185/2008/DSPT ngày 17/4/
2008 của TAND tỉnh An Giang về “tranh chấp hợp đồng sang nhượng đất”. Nguyên
đơn thỏa thuận chuyển nhượng cho bị đơn 30 công đất, với giá 7 triệu đồng/ ha. Hợp
đồng được thỏa thuận bằng miệng. Nguyên đơn đã giao đất cho bị đơn canh tác trên
thực địa. Bị đơn đã đặt cọc cho nguyên đơn số tiền 18 triệu đồng, và hẹn sẽ trả hết số
tiền còn lại vào 20/4/2003. Quá hạn, sau nhiều lần yêu cầu bị đơn thanh toán, nhưng
bị đơn không thực hiện, nên nguyên đơn kiện bị đơn ra tòa để đòi hủy bỏ hợp đồng.
Tại Bản án số 100/2007/DSST ngày 29/11/2007, TAND huyện T. chấp nhận yêu cầu
của nguyên đơn, tuyên hủy bỏ hợp đồng nói trên; buộc nguyên đơn hoàn lại cho bị đơn
số tiền chuyển nhượng đất mà bị đơn đã trả, tính theo thời giá là 70 triệu đồng. Bị đơn
kháng cáo yêu cầu công nhận hiệu lực của hợp đồng. Cấp phúc thẩm nhận định hợp
đồng này “không được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo qui định
của pháp luật…”, cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng này “vô hiệu là có căn cứ”, nên đã
tuyên y án sơ thẩm. Như vậy, theo quan điểm của cả hai cấp tòa án, tuy đối tượng của
hợp đồng đã được chuyển giao và tiền chuyển nhượng đã được thanh toán một phần,
nhưng tòa án cũng không buộc các bên phải hoàn tất hình thức hợp đồng.
Tương tự, trong Quyết định GĐT số 25/2005/DS-GĐT ngày 16/9/2005 của
HĐTP – TAND TC xử về vụ án “đòi tài sản”. Nguyên đơn thỏa thuận bằng miệng bán
cho bị đơn ngôi nhà trị giá 130 triệu đồng. Bị đơn trả trước 50 triệu đồng và nguyên
đơn đã giao nhà cho bị đơn. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên nguyên đơn
đã kiện xin hủy hợp đồng, đòi lại nhà và hoàn lại tiền cho bị đơn. Cấp sơ thẩm đã hủy
bỏ hợp đồng mua bán nhà vì hợp đồng được lập “bằng miệng” [262, tr.259-63].
Trong Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP và Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP,
HĐTP-TANDTC cũng chỉ hướng dẫn việc khắc phục hình thức bị vi phạm đối với các
hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển quyền sở hữu đất, mà không hướng dẫn áp
dụng cho các loại hợp đồng khác. Theo đó, khi giải quyết tranh chấp loại này, một số
tòa án chủ yếu cũng chỉ quyết định buộc các bên khắc phục hình thức đối với loại hợp
đồng mua bán, chuyển nhượng nhà ở, đất ở. Còn các loại hợp đồng khác, như các hợp
74
đồng thuê nhà bị vi phạm hình thức, tòa án thường tuyên bố hợp đồng vô hiệu chứ
không buộc các bên thực hiện đúng hình thức theo qui định tại Điều 134 BLDS 2005.
Ví dụ: Bản án số 634/2006/DS-PT ngày 22/6/2006 của TAND Tp. Hồ Chí
Minh, nguyên đơn cho bị đơn thuê nhà với thời hạn 5 năm, tính từ ngày 30/01/2005.
Cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng này vô hiệu kể từ thời điểm giao kết do không tuân thủ
Điều 492 BLDS 2005, mà không buộc các bên thực hiện đúng hình thức luật định.
Quan điểm này được cấp phúc thẩm chấp nhận: “Căn cứ theo Điều 492 BLDS 2005,
cấp sơ thẩm xử hợp đồng này vô hiệu là có căn cứ nghĩ nên chấp nhận”. Tương tự,
theo Bản án số 1178/2006/DS-PT ngày 16/11/2006 của TAND Tp. Hồ Chí Minh, các
bên ký hợp đồng thuê mặt bằng với hình thức văn bản. Tòa án cho rằng, “Tại phiên tòa
hôm nay cả hai bên đều xác nhận biết rõ hợp đồng phải công chứng, chứng thực mới
có hiệu lực. Nhưng hai bên không chứng minh được khi ký hợp đồng đã có yêu cầu đi
công chứng mà không được bên kia thực hiện, đồng thời trong quá trình Tòa án giải
quyết vụ án các bên cũng không có yêu cầu buộc thực hiện qui định về hình thức của
giao dịch. Do đó, giao dịch vô hiệu là do lỗi của hai bên...”.
Thậm chí, ngay cả đối với các hợp đồng mua bán nhà ở hoặc chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ở vi phạm hình thức cũng bị tòa án tuyên vô hiệu ngay mà không
buộc các bên phải thực hiện đúng hình thức do pháp luật qui định. Một số Tòa luận lập
rằng, việc tuyên buộc các bên phải thực hiện đúng hình thức qui định sẽ không khả thi
vì các bên đã thể hiện rõ quan điểm tại tòa là không chấp nhận tiếp tục thực hiện hợp
đồng. Ví dụ: Bản án 1355/2006/DSST ngày 21/12/2006 của TAND Tp. Hồ Chí Minh,
Bản án 187/2006/DSPT ngày 19/6/2006 của TAND tỉnh An Giang...
Cả Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP và Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP hướng
dẫn cùng một vấn đề hợp đồng bị vi phạm hình thức, nhưng đường lối giải quyết rất
khác nhau, và cũng khác cơ bản với qui định tại Điều 134 BLDS 2005. Điều đó chứng
tỏ các cơ quan hữu quan vẫn còn lúng túng, chưa có giải pháp tối ưu cho vấn đề. Cách
giải quyết vấn đề còn mang tính sự vụ mà thiếu nền tảng lý luận chung mang tính học
thuyết. Nhận thức được điều này là tiền đề quan trọng cho việc nghiên cứu, tìm kiếm
các giải pháp thích hợp để xử lý tốt hậu quả pháp lý của hợp đồng vi phạm hình thức.
2.3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện qui định hiện hành về hình thức hợp đồng
75
Như đã phân tích, thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử các tranh chấp liên
quan tới hình thức hợp đồng hiện nay còn nhiều bất cập. Sau đây là một số kiến nghị
nhằm khắc phục tình trạng nói trên và hoàn thiện pháp luật về hình thức hợp đồng:
2.3.2.1. Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005
Như đã phân tích tại tiểu mục 2.3.1.1, nội dung khoản 1 Điều 401 chưa
dự liệu trường hợp các bên thỏa thuận hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng, cũng như chưa thể hiện đúng tinh thần của nguyên tắc tự do, tự nguyện
cam kết thỏa thuận [15, Điều 4]. Mặt khác, khoản 2 Điều 401 còn có những nội dung
không cần thiết, làm điều luật trở nên dài dòng. Hơn nữa, điều luật cũng chưa thể hiện
rõ việc các bên có thể sử dụng đồng thời nhiều hình thức khác nhau để giao kết hợp
đồng. Từ đó, đòi hỏi cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 401 theo hướng mở rộng và
qui định linh hoạt hơn về hình thức hợp đồng, bảo đảm tối đa quyền tự do lựa chọn
hình thức hợp đồng của các bên chủ thể. Cụ thể, khoản 1 Điều 401 BLDS 2005 nên
viết lại như sau (đoạn in nghiêng là phần được kiến nghị sửa đổi, bổ sung):
“1. Hợp đồng có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi cụ
thể, hoặc bằng các hình thức vật chất khác có thể diễn đạt được ý chí của các bên và
chứng minh được sự tồn tại của hợp đồng, hoặc bằng sự kết hợp của hai hay nhiều
hình thức kể trên”.
So với qui định cũ, nội dung khoản 1 Điều 401 (mới) được bổ sung các hình
thức vật chất khác và bằng sự kết hợp của nhiều hình thức khác nhau. Qui định này
thể hiện danh sách hình thức hợp đồng theo hướng mở, để vừa đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn, vừa bảo đảm quyền tự do hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch
dân sự phát triển bình thường, đồng thời cũng để hòa nhập với xu hướng pháp luật tiên
tiến trên thế giới. Cách qui định vừa liệt kê danh sách các hình thức hợp đồng cụ thể,
vừa mô tả các khả năng khác để có thể dễ dàng giải thích bổ sung nội dung điều luật
và làm cho nội dung điều luật ít bị lạc hậu hơn so với thực tiễn cuộc sống. Mặt khác,
cách qui định này cũng đề cao nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận. Tinh thần cơ bản
của nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận thể hiện ở chỗ “các bên tham gia trong quan
hệ dân sự có quyền tự do thể hiện ý chí, tự do lựa chọn đối tác, tự do lựa chọn các
hình thức và các loại giao dịch cũng như tự do lựa chọn các điều kiện của giao dịch
mà mình tham gia…” [256, tr.35].
76
Hơn nữa, cách thể hiện của điều luật cũng trở nên phù hợp hơn với xu hướng
chung của thế giới trong việc qui định về hình thức hợp đồng. Điểm này cần học hỏi
kinh nghiệm của Công ước Viên 19807, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng
thương mại quốc tế8, Bộ nguyên tắc chung của Luật Hợp đồng châu Âu9 về việc công
nhận các hình thức khác có thể diễn đạt được nội dung hợp đồng mà các bên có thể
xuất trình làm bằng chứng khi có tranh chấp. Theo đó, hợp đồng có thể được giao kết
bằng bất kỳ hình thức nào, miễn sao có thể diễn đạt chính xác ý chí đích thực của các
bên trong hợp đồng, chứng minh sự tồn tại thực tế của hợp đồng, và có thể lưu trữ và
tham chiếu khi cần thiết, thậm chí có thể chứng minh bằng lời khai của nhân chứng.
Tuy vậy, lời khai của nhân chứng suy cho cùng không phải là một hình thức riêng biệt
của hợp đồng mà chỉ là một cách thức chứng minh về sự tồn tại của hợp đồng. Do đó,
nội dung của điều luật qui định về hình thức hợp đồng không nhất thiết phải liệt kê cả
vấn đề chứng minh hợp đồng thông qua lời khai của nhân chứng.
Đồng thời trong qui định mới cũng lược bỏ đoạn “khi pháp luật không quy định
loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định”, làm cho nội dung
trở nên ngắn gọn và hợp lý hơn. Bởi lẽ, đây là qui định cơ bản về hình thức của hợp
đồng, nên không cần thiết phải đưa thêm đoạn trên vào. Nếu các bên có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật qui định khác thì đó là những ngoại lệ, sẽ được điều chỉnh trong
điều khoản riêng, cụ thể là khoản 2 Điều 401 BLDS 2005, như mục tiếp theo dưới đây.
2.3.2.2. Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005
Như đã phân tích tại tiểu mục 2.3.1.1, qui định tại khoản 2 Điều 401 còn thiếu
sót, và chưa nhất quán với qui định tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật Dân sự 2005. Mặt
khác, cách qui định mang tính chất liệt kê làm cho khoản 2 Điều 401 vừa dài dòng,
vừa không đầy đủ, vì chưa dự liệu được hết mọi hình thức bắt buộc của hợp đồng. Do
đó, khoản 2 Điều 401 cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
7 Điều 11: “Hợp đồng mua bán hàng hóa không cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ theo một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả những lời khai của nhân chứng”. 8 Điều 1.2: “Bộ Nguyên tắc UNIDROIT không bắt buộc hợp đồng, tuyên bố hay bất kỳ một hành vi nào khác phải được giao kết hay chứng minh bằng một hình thức đặc biệt. Chúng có thể được chứng minh bằng bất kì cách thức nào, kể cả bằng người làm chứng”. 9 Điều 2: 101, khoản 2: “Hợp đồng không cần phải ký kết hoặc làm bằng văn bản, hoặc phải tuân thủ bất kỳ yêu cầu nào khác về hình thức. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng bất kỳ cách thức nào bao gồm cả người làm chứng”.
77
Mặc dù khoản 2 Điều 124 không dự liệu tất cả các hình thức bắt buộc của hợp
đồng, nhưng vì khoản 2 Điều 124 là qui định chung về hình thức bắt buộc các loại giao
dịch dân sự, không nhất thiết phải thể hiện đầy đủ các yêu cầu về hình thức hợp đồng,
nên có thể được giữ nguyên. Còn qui định tại khoản 2 Điều 401 là qui định riêng so
với khoản 2 Điều 124, và là ngoại lệ so với khoản 1 Điều 401 về hình thức của hợp
đồng, nên cần phải sửa đổi, bổ sung theo hướng: vừa ngắn gọn vừa đảm bảo sự nhất
quán so với qui định tại khoản 2 Điều 124 và khoản 1 Điều 401.
Cụ thể, khoản 2 Điều 401 nên được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hợp
đồng phải được thể hiện bằng hình thức nhất định thì hợp đồng phải được giao kết
theo đúng hình thức đó.”
Có thể thấy nội dung khoản 2 Điều 401 (mới) đã mang tính khái quát cao và súc
tích hơn so với qui định cũ, đồng thời nội dung của điều luật cũng trở nên hợp lý, đầy
đủ và nhất quán so với các qui định khác có liên quan.
Ở đây, việc các bên thỏa thuận khác hoặc pháp luật qui định khác là những
trường hợp ngoại lệ so với qui định cơ bản của khoản 1 (vừa được kiến nghị sửa đổi,
bổ sung ở trên). So với khoản 2 (cũ), thì qui định này có tính khái quát cao hơn và súc
tích hơn, vì: thứ nhất, điều luật dự liệu cả trường hợp “các bên có thỏa thuận khác”;
thứ hai, nội dung điều luật tuy không liệt kê các hình thức cụ thể của hợp đồng, nhưng
cụm từ “bằng hình thức nhất định” lại bao hàm cả những hình thức đã được liệt kê tại
khoản 2 Điều 401 hiện hành, như văn bản công chứng hoặc chứng thực, đăng ký, hoặc
xin phép. Ngoài ra, nghĩa của cụm từ này có thể được giải thích mở rộng, bao hàm cả
những hình thức khác không được dự liệu trong khoản 2 Điều 401 hiện hành, như văn
bản (hoặc bằng hành vi cụ thể). Ví dụ: hình thức hợp đồng đặt cọc [15, khoản 1 Điều
358], hợp đồng thuê nhà dưới 6 tháng [15, Điều 492].
Hơn nữa, qui định này cũng cho phép các bên có quyền thỏa thuận hợp đồng
được lập bằng hình thức xác định, nên hình thức các bên thỏa thuận có thể là bất kỳ
hình thức nào mà các bên cho là phù hợp. Bởi vậy, cụm từ “bằng hình thức nhất định”
có ý nghĩa vừa bảo đảm tính khái quát và súc tích của điều luật, vừa đảm bảo sự nhất
quán với các qui định khác có liên quan.
78
2.3.2.3. Bỏ đoạn 2 khoản 2 Điều 401 và bổ sung qui định hình thức là điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định
(i) Bỏ đoạn 2 khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005: Phần trình bày về các
bất cập của pháp luật cũng đã chỉ ra qui định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 401 là một nội
dung gây ra sự mâu thuẫn, và làm vô hiệu hóa các qui định khác về hình thức hợp
đồng. Rà soát các qui định của pháp luật cũng không tìm thấy “qui định khác” nào xác
định rõ ràng trường hợp hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm hình thức. Hơn nữa, đối chiếu
với các qui định tương ứng về hình thức hợp đồng và giải quyết hậu quả do hình thức
bị vi phạm về hình thức, thì qui định này là không chính xác. Bởi lẽ:
Thứ nhất, theo qui định của pháp luật, có nhiều hợp đồng bị vi phạm hình thức
thì không được tòa án công nhận.Ví dụ: việc đặt cọc để bảo đảm giao kết, thực hiện
hợp đồng không lập thành văn bản, thì khi có tranh chấp, tòa án sẽ không công nhận
hợp đồng đặt cọc giữa các bên [15, Điều 358; 198, Mục 1]. Tương tự, hợp đồng tặng
cho nhà ở không được lập đúng hình thức và chưa hoàn tất thủ tục luật định, thì tòa
cũng không thể công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng [15, khoản 2 Điều 467]. Suy
cho cùng thì việc không công nhận hợp đồng cũng có nghĩa là hợp đồng chưa có giá trị
pháp lý, chưa làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên, vì theo các chuyên gia,
trên thực tế không có sự phân biệt đáng kể giữa hợp đồng không có hiệu lực với hợp
đồng không được tòa án công nhận do không chứng minh được sự tồn tại của hợp
đồng [248, tr.44];
Thứ hai, khi pháp luật pháp luật qui định hợp đồng phải được lập bằng hình
thức bắt buộc mà các bên không tuân thủ, thì cũng có thể bị tòa án tuyên bố vô hiệu
sau khi tòa án ra quyết định buộc các bên phải thực hiện đúng qui định về hình thức,
nhưng một hoặc các bên lại không chịu thực hiện [15, Điều 134].
Vì thế, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong các qui định về giải quyết
hậu quả lý của hợp đồng bị vi phạm hình thức, cần bỏ qui định tại đoạn 2, khoản 2,
Điều 401: “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”.
(ii) Bổ sung qui định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng khi các bên có thỏa thuận
Khoản 2 Điều 122 BLDS 2005 chưa liệt kê trường hợp: các bên thỏa thuận
hình thức là một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Trên thực tế, đối với các loại hợp
79
đồng pháp luật không qui định hình thức bắt buộc, thì các bên cũng có quyền thỏa
thuận hình thức là một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Ví dụ: các bên có thể thỏa
thuận hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, hoặc hợp đồng mua bán kim cương… phải được
lập bằng văn bản công chứng thì mới có hiệu lực, mặc dù pháp luật không qui định bắt
buộc các hợp đồng kể trên phải được lập theo hình thức văn bản công chứng.
Trong thực tiễn thương mại, chúng ta cũng thường thấy các bên có thể thỏa
thuận chọn một hình thức hợp đồng xác định làm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Tương tự, các bên cũng có thể thỏa thuận việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng phải được
thể hiện bằng một hình thức xác định thì mới có hiệu lực. Thực tiễn này đã được các
nhà soạn thảo bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế Unidroit (PICC) tổng kết
và dự liệu tại các Điều 2.1.13 “Trong các cuộc đàm phán, khi một bên yêu cầu việc
giao kết hợp đồng phụ thuộc vào thỏa thuận về một số vấn đề liên quan đến nội dung
hoặc hình thức, thì hợp đồng sẽ chỉ được giao kết nếu các bên đạt được thỏa thuận về
những vấn đề này”; hoặc qui định tại Điều 2.1.18 về việc sửa đổi hợp đồng bằng hình
thức đặc biệt. Trong luật thực định của một số quốc gia cũng từng có tiền lệ cho phép
các bên được quyền thỏa thuận hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Ví dụ:
khoản 2 Điều 162 BLDS Nga qui định: “Không tuân thủ hình thức văn bản đơn giản
làm cho hợp đồng vô hiệu nếu pháp luật có quy định hoặc các bên có thoả thuận”.
Tương tự, Điều 11 Luật hợp đồng Trung Quốc cũng có qui định: “…Nếu đương sự
thỏa thuận với nhau sử dụng hình thức hợp đồng bằng văn bản, thì phải xác lập hợp
đồng theo hình thức văn bản”.
Tuy vậy, qui định tại khoản 2 Điều 122 BLDS 2005 là qui định chung về điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, có thể không bao gồm hết các yêu cầu đối với
hình thức của các loại giao dịch khác nhau. Để có qui định riêng xác định rõ hình thức
là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, tôi kiến nghị Quốc hội cần bổ sung qui định này
vào Điều 401 và thiết kế thành khoản 3 Điều 401. Cụ thể:
“3. Hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp
các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hợp đồng phải được lập bằng một
hình thức xác định.”
80
2.3.2.4. Giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vi phạm hình thức
Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật về đường lối
xử lý hợp đồng vi phạm hình thức vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập, vừa rườm rà, vừa
thiếu tính khả thi. Trên thới giới, vấn đề này có ba cách giải quyết khác nhau.
Thứ nhất: Theo luật của Pháp, nếu các bên đã thiết lập hợp đồng, nhưng không
đúng hình thức luật định thì có hai khả năng: (i) về nguyên tắc, tòa án có thể vận dụng
qui định của BLDS để suy đoán rằng, hợp đồng đã được giao kết trên cơ sở thỏa thuận
“tối thiểu” (Điều 1589 BLDS Pháp): bên nào biện luận rằng việc lập văn bản bổ sung
là một điều kiện để hợp đồng hình thành, thì có nghĩa vụ phải chứng minh điều đó trên
cơ sở có sự bày tỏ ý định rõ ràng theo hướng này (thể hiện trong Phán quyết JCP 1993,
1, 1507 của Tòa Dân sự - Tòa án Tư pháp Tối cao, lần 3 ngày 07/4/ 1993]; (ii) nếu
pháp luật qui định một hình thức bắt buộc, hoặc các bên chứng minh được một thỏa
thuận xem văn bản là cần thiết cho sự giao kết hợp đồng, thì cam kết không đúng hình
thức ấy được coi là cam kết “tiền hợp đồng”; cam kết này có giá trị, nhưng không phải
là hợp đồng [230, tr.133]. Bên vi phạm cam kết này sẽ chịu trách nhiệm (ngoài hợp
đồng) do không thực hiện thỏa thuận sơ bộ. Tòa án không có quyền buộc các bên phải
thực hiện cam kết đó như một hợp đồng [230, tr.133 - 4].
Thứ hai: Khác với Pháp, Điều 16 Bộ luật Trái vụ của Thụy Sỹ, Điều 884 BLDS
Áo và Điều 1352 BLDS Italia đều qui định rằng, văn bản mà các bên qui định sẽ ký,
về nguyên tắc, là một yếu tố để hình thành hợp đồng, trừ khi có bằng chứng ngược lại.
Còn theo qui định tại khoản 2 Điều 154 Bộ luật Dân sự CHLB Đức, “nếu các bên thỏa
thuận công chứng hợp đồng, thì trong trường hợp có nghi vấn, hợp đồng xem như
chưa được ký kết, cho đến khi nó được công chứng”.
Thứ ba: Theo luật Anh – Mỹ, dựa vào học thuyết promissory estoppel (hạn chế
rút lại cam kết) [203, tr.181–2; 301, tr.101–2; 317, tr.112–7; 344, tr.11-12], đối với các
hợp đồng chuyển giao các lợi ích liên quan đến các bất động sản bị vi phạm về hình
thức, hoặc các bên đã có thỏa thuận sẽ ký kết hợp đồng, nhưng chưa hoàn tất hình
thức, thủ tục đúng qui định, thì cam kết đó vẫn được tòa án công nhận, nếu thỏa mãn
các yêu cầu sau đây: (1) Lời cam kết của một bên làm cho bên kia có lý do chính đáng
để tin là hợp đồng sẽ được giao kết hoặc cam kết đó sẽ được thực thi; (2) tài sản đã
được chuyển giao cho bên kia và bên kia đã có sự đầu tư đáng kể làm gia tăng giá trị
của tài sản (đã chuyển giao), mà sự tăng giá trị đó không dễ dàng xác định bằng tiền;
81
(3) việc từ chối hợp đồng dẫn đến một thiệt hại đáng kể cho bên kia. Nếu có đủ cả ba
dấu hiệu trên, thì cho dù có sai về hình thức, hợp đồng vẫn được công nhận, xét trên
quan điểm công bằng và niềm tin chính đáng, hợp lý.
Những qui định của pháp luật các nước trên cho chúng ta một kinh nghiệm quí
trong việc sửa đổi, bổ sung các qui định tương ứng trong pháp luật Việt Nam. Từ các
cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung qui định tại
Điều 134 BLDS 2005 theo hướng: Điều 134 (mới) cần được thiết kế làm 3 khoản:
(i) Sửa đổi, bổ sung qui định khoản 1 Điều 134 BLDS 2005 (mới) theo
hướng xác định rõ: khi các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định hình thức là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, thì tùy trường hợp cụ thể mà tòa án xem
xét để công nhận hoặc tuyên bố giao dịch đó vô hiệu, nếu xét thấy cần thiết, công bằng
và có căn cứ. Nội dung khoản 1 Điều 134 (mới) nên được viết như sau:
“1. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hình
thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân
theo, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, tùy từng trường hợp mà toà án, hoặc cơ
quan có thẩm quyền khác có thể công nhận hiệu lực của giao dịch hoặc tuyên bố giao
dịch vô hiệu theo các căn cứ được qui định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.”
Ở đây, nội dung khoản 1 qui định nguyên tắc chung để giải quyết hậu quả pháp
lý của giao dịch vi phạm hình thức, với điều kiện cụ thể được qui định tại các khoản
tiếp theo của điều luật. Mặt khác, nội dung điều luật cũng tương đối linh hoạt vì cho
phép tòa án có thể xem xét, thẩm lượng từng trường hợp cụ thể để trực tiếp công nhận
hoặc không công nhận hiệu lực của các giao dịch, dựa trên những căn cứ cụ thể. Điều
này hạn chế sự máy móc cũng như sự tùy tiện của một số tòa án khi công nhận hoặc
không công nhận giá trị pháp lý của các hợp đồng (giao dịch) vi phạm hình thức.
(ii) Bổ sung các tiêu chuẩn cụ thể để tòa án có căn cứ pháp lý khi xem xét,
công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự nếu giao dịch đó đã được các bên xác lập,
thực hiện trên thực tế một cách ngay tình, công bằng, đủ các điều kiện khác để giao
dịch có hiệu lực, nhưng hình thức không đúng qui định pháp luật. Điều kiện để công
nhận giao dịch dân sự có hiệu lực trong trường hợp này cần chặt chẽ, nhưng thông
thoáng và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn: (1) có bằng chứng hợp pháp khác (biên
nhận, thư từ, lời khai hợp lệ và có cơ sở của người làm chứng): Điều kiện này nhằm
bảo đảm rằng, các bên có bằng chứng hợp pháp để chứng minh một cách chắc chắn là
82
các bên đã xác lập giao dịch với nhau, hoặc có bằng chứng chứng minh một bên đã có
biểu hiện khiến cho bên kia tin rằng mình đã được bên kia đề nghị giao kết hợp đồng;
(2) hợp đồng đã được thực hiện một phần hoặc toàn bộ (tài sản đã được giao, tiền đã
được trả): điều kiện này nhằm xác định rõ tiến độ xác lập thực hiện giao dịch ở giai
đoạn đã thực hiện trên thực tế; (3) nếu tuyên hợp đồng vô hiệu vẫn không khôi phục lại
tình trạng ban đầu của giao dịch nhưng lại làm thiệt hại nghiêm trọng tới quyền lợi
của một hoặc các bên: điều kiện này nhằm xác định sự cần thiết phải thừa nhận hiệu
lực của giao dịch nhằm bảo đảm sự công bằng và ổn định giao lưu dân sự. Tuy vậy,
đối với những giao dịch chưa được thực hiện xong thì cần dự liệu khả năng các bên
tiếp tục thực hiện hoàn tất nghĩa vụ của mình một cách công bằng, có tính đến tình
trạng thay đổi về giá cả trên thị trường. Nội dung này được trình bày thành ba đoạn và
thiết kế thành khoản 2 Điều 134 (mới). Cụ thể như sau:
“2. Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền công nhận hiệu lực của giao dịch dân
sự trong trường hợp giao dịch vi phạm hình thức mà các bên có bằng chứng hợp pháp
khác chứng minh được sự tồn tại của giao dịch, đã chuyển giao cho nhau một phần
hoặc toàn bộ đối tượng của hợp đồng, đã thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền
cần thanh toán, và nếu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng
cho một hoặc các bên.
Trong trường hợp hiệu lực của giao dịch được công nhận mà các bên chưa
thực hiện hoàn tất nghĩa vụ giao vật thì phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ giao vật; nếu
các bên chưa hoàn tất nghĩa vụ trả tiền thì phải tiếp tục trả khoản tiền còn thiếu, theo
tỷ lệ tương ứng tính theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật qui định khác.
Qui định này không áp dụng đối với hợp đồng tặng cho tài sản, di chúc; qui
định này cũng không áp dụng đối với các giao dịch khác nếu pháp luật có qui định
minh thị về việc loại trừ áp dụng qui định tại Điều này với loại giao dịch khác đó.”
Theo đó, Khoản 2 qui định điều kiện để công nhận hiệu lực của giao dịch dân
sự vi phạm hình thức bắt buộc, nếu đáp ứng được những yêu cầu: Nội dung khoản 2
cũng dự liệu trường hợp việc thanh toán chưa được hoàn tất mà công nhận hiệu lực
hợp đồng có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho bên được thanh toán. Qui định này
cũng loại trừ đối với hợp đồng tặng cho tài sản, hoặc di chúc (là những hành vi pháp lý
83
hoàn toàn dựa trên ý chí tự nguyện của cá nhân), và các giao dịch mà pháp luật qui
định minh thị về trường hợp vô hiệu do vi phạm hình thức.
(iii) Bổ sung qui định về căn cứ để tòa án có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Theo đó, nếu giao dịch bị vi phạm hình thức, đồng thời cũng thiếu các điều kiện được
dự liệu tại khoản 2 Điều 134 (mới), thì tòa án có thể tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
theo yêu cầu của các bên và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
theo qui định chung. Nội dung này nên thiết kế thành khoản 3 Điều 134 (mới):
“3. Nếu giao dịch dân sự được lập không đúng hình thức do các bên thỏa thuận
hoặc pháp luật qui định và thiếu một trong các điều kiện qui định tại khoản 2 Điều này
(như vừa được bổ sung ở trên – tác giả chú thích), thì theo yêu cầu của các bên, toà án
hoặc cơ quan có thẩm quyền khác tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu
quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 137 của Bộ luật này.”
Việc tuyên bố hợp đồng (giao dịch dân sự) vô hiệu được xem như là giải pháp
cuối cùng, trong trường hợp hợp đồng không có đủ các điều kiện cần thiết để được
công nhận là có hiệu lực. Khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu, thì tòa án sẽ xử lý hậu quả
pháp lý của hợp đồng (giao dịch dân sự) vô hiệu theo qui định chung.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
1. Dựa vào bản chất hợp đồng, pháp luật Việt Nam qui định ba điều kiện bắt buộc để
hợp đồng có hiệu lực: chủ thể tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự; nội
dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo
đức xã hội; các bên tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện. Điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng là tiền đề pháp lý để hợp đồng có hiệu lực. Nhìn chung, các qui định về vấn
đề này trong pháp luật Việt Nam hiện hành đã hoàn thiện về cơ bản.
2. Hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, nếu pháp luật có qui
định. Hợp đồng có thể được lập bằng văn bản, lời nói, hành vi cụ thể. Một số loại hợp
đồng bắt buộc phải được lập bằng văn bản, văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
Hợp đồng vi phạm qui định về hình thức thì không đương nhiên vô hiệu, mà có thể bị
tòa án ra quyết định buộc thực hiện đúng hình thức luật định trong một thời hạn, nếu
các bên có yêu cầu. Quá thời hạn đó mà hình thức hợp đồng không được hoàn tất thì
tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu
theo qui định chung. Qua nghiên cứu cho thấy, một số qui định của pháp luật hiện
hành về hình thức hợp đồng còn thiếu linh hoạt, chưa dự liệu hết các khả năng của
84
thực tế; đường lối giải quyết tranh chấp đối với các hợp đồng vi phạm hình thức chưa
được khả thi và chưa phân hóa được từng trường hợp vi phạm cụ thể. Thực tiễn xét xử
của các cấp tòa án về hợp đồng vi phạm hình thức còn nhiều bất cập, thiếu nhất quán.
Từ đó, cần phải có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
3. Từ cách tiếp cận vấn đề như trên, mục 3 đã đưa ra một số kiến nghị cụ thể: (i) Sửa
đổi, bổ sung khoản 1 Điều 401 BLDS 2005 để qui định này trở nên linh hoạt, đầy đủ
và tương thích hơn so với qui định về hợp đồng trong BLDS của các quốc gia trên thề
giới và các Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế; (ii) sửa đổi, bổ sung khoản
2 Điều 401 làm cho nội dung Điều luật này trở nên ngắn gọn và thống nhất với các qui
định khác; (iii) bỏ đoạn 2 khoản 2 Điều 401; (iv) bổ sung khoản 3 Điều 401; (v) sửa
đổi, bổ sung Điều 134 BLDS 2005 theo hướng bãi bỏ cách giải quyết hậu quả pháp lý
của giao dịch vô hiệu như hiện nay, và thay vào đó là đường lối giải quyết mới, bằng
cách qui định các căn cứ cụ thể để công nhận, hoặc không công nhận giá trị pháp lý
của giao dịch, nếu giao dịch bị vi phạm hình thức mà các bên có tranh chấp.
85
Chương 3
THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là yếu tố pháp lý quan trọng để xác định
thời hạn có hiệu lực của hợp đồng - một trong những mặt biểu hiện của hiệu lực hợp
đồng. Kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh,
hiệu lực ràng buộc của hợp đồng và giá trị pháp lý của hợp đồng được pháp luật tôn
trọng và bảo đảm thực hiện. Có lẽ vì vậy mà có ý kiến cho rằng: thường thì khi nói tới
hiệu lực của hợp đồng, chủ yếu người ta thường nói tới thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng… [38, tr.37]. Chương này trình bày ba vấn đề: khái niệm, qui định chung về thời
điểm có hiệu lực hợp đồng, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định hiện
hành về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
3.1. THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG: KHÁI NIỆM VÀ QUI
ĐỊNH CHUNG
3.1.1. Khái niệm thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
Hiệu lực của hợp đồng xét về mặt thời gian, là thời hạn mà hợp đồng có hiệu
lực. Đó là khoảng thời gian được xác định từ khi hợp đồng bắt đầu phát sinh hiệu lực
cho đến khi hợp đồng chấm dứt. Trong đó, thời điểm hợp đồng bắt đầu có hiệu lực là
một trong những yếu tố pháp lý quan trọng để xác định hiệu lực của hợp đồng, và là
mốc để xác định thời hạn có hiệu lực của hợp đồng.
Như vậy, có thể hiểu thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là mốc để xác định
thời điểm khởi lưu của hiệu lực của hợp đồng. BLDS 2005 không định nghĩa thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng, mà chỉ qui định cụ thể về các thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Thời điểm giao kết hợp
đồng nói ở đây đã được qui định cụ thể tại Điều 404 BLDS 2005.
Với qui định này, nhà làm luật Việt Nam thừa nhận đồng thời hai loại thời điểm
khác nhau: thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Có thể nói, qui
định này là một điểm pháp lý khá thú vị và đặc thù, vì các BLDS trên thế giới hoặc các
Bộ Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế đều không có qui định tương tự như vậy.
86
Một số ý kiến cho rằng, các qui định của BLDS Việt Nam ít nhiều chịu ảnh
hưởng từ các BLDS của Pháp [10], [122, tr.17 – 8], Đức, Nga [256, tr. 83 – 4], thậm
chí là của Nhật. Nhưng tìm trong BLDS của các nước nói trên, cũng như các Bộ
Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế đều không thấy các qui định tương đồng như
Điều 405 BLDS 2005. Hầu hết các bộ pháp điển về Luật Hợp đồng trên thế giới đều
qui định về một loại thời điểm là thời điểm giao kết hợp đồng, và thời điểm giao kết
cũng là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Việc xác định thời điểm giao kết hợp
đồng trong hầu hết các bộ pháp điển này đều dựa vào phương thức giao kết. Thời điểm
giao kết hợp đồng với người có mặt thường là thời điểm các bên thỏa thuận xong nội
dung của hợp đồng. Tuy nhiên, qui định về thời điểm giao kết hợp đồng với người
vắng mặt trong các bộ pháp điển lại có một sự khác biệt cơ bản.
Theo các luật gia, việc qui định về thời điểm giao kết hợp đồng trong trường
hợp này thường dựa theo một trong các học thuyết: thuyết tuyên bố ý chí, thuyết vận
tống (hay bày tỏ), thuyết tiếp nhận và thuyết thông đạt [168, tr.99 – 100; 227, tr.38].
BLDS Đức không qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, nhưng có
qui định chung về thời điểm có hiệu lực của sự tuyên bố ý chí, và qui định này cũng
được áp dụng cả với việc giao kết hợp đồng: “Tuyên bố ý chí đối với một người vắng
mặt có hiệu lực vào thời điểm người đó nhận được tuyên bố” (khoản 1 Điều 130).
BLDS Nga cũng có qui định tương tự: “hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên đề
nghị nhận được thư trả lời chấp nhận” (khoản 1 Điều 433). Qui định này của BLDS
Nga tương đồng với qui định tại khoản 1 Điều 404 BLDS 2005 của Việt Nam.
Khác với các BLDS của Đức và Nga, BLDS của Pháp không có qui định về
thời điểm giao kết hợp đồng nói chung, mà chỉ có qui định về thời điểm có hiệu lực
của hai hợp đồng cụ thể là hợp đồng tặng cho (Điều 932) và hợp đồng ủy quyền
(khoản 2 Điều 1985). Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng nói chung, án lệ của
Pháp cho rằng, “việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng…thuộc thẩm quyền
của tòa án”, và theo quan điểm mới đây của Tòa Phúc thẩm, “trường hợp các bên
không có ý kiến ngược lại, thì áp dụng thuyết bày tỏ”, tức là khi bên được đề nghị
“trao thư trả lời chấp nhận cho bưu điện” [227, tr.38].
BLDS của Nhật Bản cũng dựa trên thuyết “bày tỏ” (‘vận tống’) khi qui định
rằng: “Hợp đồng giao kết với những người vắng mặt có hiệu lực từ thời điểm trả lời
chấp nhận đã được chuyển đi” (đoạn 1 Điều 526). Qui định này của Nhật cũng tương
87
đồng với nguyên tắc thư được gửi đi - ‘postal rule’ (hay ‘mail-box’ rule) của các nước
theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ: hợp đồng được giao kết tại thời điểm thư trả lời
chấp nhận được gửi đi [108, tr.248 – 9; 335, tr.59 – 61; 341, tr.49 -50].
Xem xét qui định tại khoản 1 Điều 404 BLDS 2005 cho thấy, luật Việt Nam
chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi thuyết “tiếp nhận”: thời điểm hợp đồng giao kết với người
vắng mặt là thời điểm bên đề nghị nhận được thư trả lời chấp nhận.
Nói tóm lại, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm bắt đầu sự ràng
buộc pháp lý giữa các bên, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng, mà kể từ thời điểm đó các bên không được đơn phương thay đổi hoặc rút lại các
cam kết trong hợp đồng và phải chịu trách nhiệm dân sự nếu không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng.
Việc xác định đúng thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa pháp lý quan
trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn sau đây:
(1) Về mặt lý luận, việc xác định hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng là cơ sở phân loại hợp đồng. Dựa vào tiêu chí này, hợp đồng được chia thành hợp
đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế [243, tr.104 – 5]. Theo đó, hợp đồng ưng thuận
là hợp đồng mà theo qui định của pháp luật, quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh
ngay sau khi các bên thỏa thuận xong nội dung chủ yếu của hợp đồng. Ví dụ: hợp
đồng mua bán tài sản, hợp đồng thuê tài sản. Hợp đồng thực tế là hợp đồng mà sau khi
thỏa thuận, hiệu lực của nó chỉ phát sinh tại thời điểm các bên chuyển giao cho nhau
đối tượng của hợp đồng. Ví dụ: hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng cầm cố tài sản…
(2) Về mặt pháp lý, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là cơ sở pháp lý để xác
định thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Kể từ thời
điểm này, các bên đã chính thức tạo lập nên quan hệ pháp luật về hợp đồng, đồng thời
các bên không thể tự ý rút lại, sửa đổi, hủy bỏ cam kết trong hợp đồng. Cũng từ thời
điểm này, hợp đồng có hiệu lực ràng buộc các bên giống như pháp luật. Bên có quyền
được phép yêu cầu bên có nghĩa vụ thi hành nghĩa vụ trong hợp đồng, và được hưởng
mọi quyền lợi hợp pháp phát sinh từ hợp đồng. Còn bên có nghĩa vụ phải thực hiện
đúng các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng, và phải chịu trách nhiệm dân sự trước
bên có quyền về việc vi phạm hợp đồng.
(3) Đối với các hợp đồng được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký theo qui
định của pháp luật, việc xác định đúng thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không chỉ
88
xác định thời điểm hợp đồng có hiệu lực ràng buộc đối với các bên (đối với hợp đồng
được công chứng, chứng thực), mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định hợp
đồng có giá trị pháp lý đối kháng với người thứ ba, thực hiện quyền ưu tiên thanh toán,
bảo vệ người thứ ba ngay tình. Ví dụ: hợp đồng được công chứng thì có giá trị pháp lý
đối với các bên liên quan [136, Khoản 3 Điều 4, và khoản 1, 2 Điều 6]; hoặc một tài
sản dùng để bảo đảm cho nhiều món nợ khác nhau mà giá trị không đủ để thanh toán
cho toàn bộ các món nợ, hợp đồng bảo đảm giữa các chủ nợ với người mắc nợ đều
được đăng ký, áp dụng nguyên tắc ai đăng ký hợp đồng trước thì được ưu tiên thanh
toán trước từ tiền bán tài sản bảo đảm [15, Khoản 3 Điều 323 và Điều 325]; hoặc để
bảo vệ quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm ngay tình [186, khoản 2, 3
Điều 13, và điểm a, b Khoản 1 Điều 20].
(4) Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là căn cứ pháp lý để tòa
án hoặc cơ quan có thẩm quyền xác định thời điểm các bên bị xem là vi phạm hợp
đồng, và đưa ra đường lối xét xử phù hợp nhằm buộc bên vi phạm phải gánh chịu trách
nhiệm dân sự tương ứng. Theo đó, nếu hợp đồng đã có hiệu lực mà các bên không tuân
thủ, thì tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định buộc bên vi phạm phải thực
hiện đúng hợp đồng và/hoặc bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng; nếu hợp đồng
chưa có hiệu lực, thì tùy trường hợp cụ thể mà tòa án có thể công nhận hoặc không
công nhận hợp đồng; nếu hợp đồng chưa phát sinh hiệu lực thì có thể xác định hiệu lực
ràng buộc nghĩa vụ tiền hợp đồng và trách nhiệm dân sự tương ứng: trách nhiệm do đã
từ chối giao kết hợp đồng một cách trái pháp luật, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời gian chờ trả lời làm thiệt hại cho bên
kia, trách nhiệm do sửa đổi hoặc rút lại đề nghị một cách trái pháp luật...
3.1.2. Qui định chung về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
Theo qui định tại Điều 405 BLDS 2005, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
được xác định là một trong ba thời điểm sau đây:
3.1.2.1. Thời điểm giao kết hợp đồng
Về nguyên tắc, khi các bên không có thỏa thuận và pháp luật không có qui định
khác, thì hợp đồng mặc nhiên có hiệu lực vào thời điểm giao kết. Thời điểm giao kết
hợp đồng thường là thời điểm các bên thỏa thuận xong nội của hợp đồng, hay khi bên
89
đề nghị đã nhận được trả lời chấp nhận hợp lệ10 của bên được đề nghị. Như đã phân
tích, pháp luật Việt Nam xác định thời điểm giao kết hợp đồng dựa trên nguyên tắc
tuyên bố ý chí, tức dựa vào hình thức công bố ý chí thể hiện sự thỏa thuận. Cụ thể:
- Hợp đồng được thỏa thuận trực tiếp bằng lời thì thời điểm giao kết hợp đồng
là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận của bên được đề nghị;
- Nếu hợp đồng giao kết bằng văn bản thì thời điểm giao kết là thời điểm bên
sau cùng ký vào văn bản;
- Nếu hợp đồng giao kết bằng thư tín, qua bưu điện thì hợp đồng được giao kết
vào ngày bên đề nghị nhận được thư trả lời chấp nhận hợp lệ;
- Nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định im lặng là đồng ý giao
kết hợp đồng, thì hợp đồng được xem là đã giao kết tại thời điểm hết thời hạn trả lời
mà bên được đề nghị vẫn im lặng. Ví dụ: theo qui định tại khoản 1 Điều 460 BLD
2005, trong hợp đồng mua tài sản sau khi dùng thử, khi hết thời hạn dùng thử mà
người mua dùng thử vẫn im lặng thì coi như chấp nhận giao kết hợp đồng.
- Hợp đồng giao kết bằng phương tiện điện tử thì việc giao kết còn phải tuân
theo các qui định đặc thù của pháp luật về giao dịch điện tử. Theo Luật Giao dịch điện
tử 2005, “trong giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị
giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua
thông điệp dữ liệu” (khoản 2 Điều 36). Theo qui định tại các Điều 18, 19, 20 của Luật
Giao dịch điện tử 2005, và khoản 2 Điều 11 Nghị định 57/2006/NĐ-CP ngày
09/06/2006, thì thời điểm nhận thông điệp dữ liệu là “thời điểm người nhận có thể truy
cập được chứng từ điện tử đó tại một địa chỉ điện tử do người nhận chỉ ra. Thời điểm
nhận một chứng từ điện tử ở địa chỉ điện tử khác của người nhận là thời điểm người
nhận có thể truy cập được chứng từ điện tử tại địa chỉ này và người nhận biết rõ
chứng từ điện tử đã được gửi tới địa chỉ này”. Theo qui định này thì “Người nhận
được coi là có thể truy cập được một chứng từ điện tử khi chứng từ điện tử đó tới được
địa chỉ điện tử của người nhận”.
Có thể thấy, tùy theo hình thức thể hiện sự thỏa thuận giữa các bên mà pháp
luật qui định thời điểm giao kết tương ứng. Nhìn nhận vấn đề này nhiều học giả cho 10 Theo qui định tại Điều 396 và Điều 397 BLDS 2005, có thể hiểu trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng hợp lệ nếu người được đề nghị trả lời “chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị” và nếu đề nghị có nêu thời hạn trả lời thì việc trả lời phải “trong thời hạn đó”.
90
rằng, không nên quá lệ thuộc vào yếu tố hình thức để xác định thời điểm giao kết hợp
đồng vì làm như thế là trái với bản chất của hợp đồng [115, tr.15]. Tuy vậy, tác giả cho
rằng không nên chỉ chú trọng vào ý chí đích thực, vì ý chí là yếu tố chủ quan của mỗi
người. Ý chí sẽ không thể được biết đến, nếu không được công bố ra bên ngoài dưới
một hình thức khách quan nhất định. Khi ý chí của mỗi bên không được công bố thì
cũng không thể tạo ra sự thống nhất ý chí của các bên. Trên thế giới, không có Bộ
pháp điển về Luật Hợp đồng nào thuần túy chỉ dựa trên yếu tố ý chí hoặc hình thức
biểu lộ ý chí để xác định thời điểm giao kết hợp đồng. Ngay cả với BLDS của Đức vốn
được xem là chấp nhận thuyết tuyên bố ý chí và BLDS Pháp được xem là chấp nhận lý
thuyết ý chí đích thực, thì các qui định về giao kết hợp đồng vẫn dựa trên cả hai lý
thuyết trên [168, tr.88 – 9].
Việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng, vì
đây là thời điểm xác định sự gặp gỡ ý chí và sự thống nhất ý chí của các bên. Đây còn
là cơ sở để công nhận hiệu lực của hợp đồng, và nếu hợp đồng mang tính chất ưng
thuận thì sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý ràng buộc các bên tại thời điểm
giao kết hợp đồng. Kể từ thời điểm hợp đồng được giao kết, các bên phải có trách
nhiệm thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước nhằm hoàn tất các yêu cầu pháp lý để
hợp đồng có hiệu lực, như hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sở hữu tài sản hoặc quyền sử
dụng đất, nộp thuế hoặc các khoản lệ phí theo qui định của pháp luật. Trong nhiều
trường hợp, thời điểm giao kết hợp đồng còn là cơ sở để xác định thời điểm chọn luật
áp dụng khi giải quyết tranh chấp hợp đồng, trừ những thỏa thuận có liên quan tới lợi
ích chung hoặc trật tự công cộng, do ảnh hưởng của “nguyên tắc hiệu lực luật pháp bất
hồi tố” trong việc áp dụng pháp luật dân sự [169, tr.393–7]. Theo nhiều văn bản hướng
dẫn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực dân sự, khi xem xét hiệu lực của hợp đồng, hiệu
lực của các điều khoản liên quan trong hợp đồng, tòa án thường căn cứ vào văn bản
pháp luật đang có hiệu lực tại thời điểm giao kết hợp đồng [196, Mục 3; 195, Mục 2].
Mặt khác, thời điểm giao kết hợp đồng còn là cơ sở để xác định năng lực pháp luật dân
sự và năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia hợp đồng. Ngoài ra, thời điểm giao
kết hợp đồng còn là mốc tính thời hiệu khởi kiện trong việc giải quyết các tranh chấp
liên quan tới việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu [15, Điều 136].
91
3.1.2.2. Thời điểm do các bên thỏa thuận
Về nguyên tắc, hợp đồng có hiệu lực tại thời điểm giao kết, nhưng các bên có
thể thỏa thuận hợp đồng phát sinh hiệu lực tại một thời điểm khác. Qui định này dựa
trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng. Vì các bên có quyền tự do thỏa thuận nội dung
hợp đồng, nên cũng có quyền tự do lựa chọn thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tất
nhiên, các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với qui định
của pháp luật, nhưng không được trái pháp luật hoặc trái với bản chất của hợp đồng.
Trong thực tiễn, khi các bên đàm phán và soạn thảo hợp đồng, không ít trường
hợp các bên thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là một thời điểm xác định,
khác với thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu do luật định. Ví dụ: Trong Qui tắc
điều khoản sản phẩm bảo hiểm “Nhất niên gia hạn” của Công ty Bảo hiểm Quốc tế Mỹ
AIA (Việt Nam), có nội dung như sau: “Ngày có hiệu lực của hợp đồng: nếu hồ sơ bảo
hiểm được Công ty chấp thuận, ngày có hiệu lực của hợp đồng là ngày chủ hợp đồng
hoàn tất hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và nộp đủ phí bảo hiểm đầu tiên…”.11 Hay trong Điều
2 của Điều khoản “An khang thịnh vượng” của Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo
Việt) qui định như sau: “Hợp đồng phát sinh hiệu lực khi Bảo Việt nhận được Giấy
yêu cầu bảo hiểm và phí bảo hiểm đầu tiên theo Hóa đơn thu phí bảo hiểm đầu tiên do
Bảo Việt phát hành.”12
Trong thực tiễn thương mại quốc tế, việc các bên thỏa thuận thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng khác với thời điểm giao kết hợp đồng cũng diễn ra khá phổ biến.
Trong nhiều trường hợp, các bên loại trừ một cách có chủ ý hiệu lực của các tuyên bố
giao kết hợp đồng [230, tr.123]. Ví dụ: mặc dù các bên đã giao kết xong toàn bộ nội
dung của hợp đồng, nhưng lại đưa ra điều khoản xác nhận hiệu lực: “cho đến khi hợp
đồng này được phê chuẩn của người có thẩm quyền của công ty, hoặc cho đến khi
được lãnh đạo của hai công ty ký kết chính thức…”. Hệ quả pháp lý của việc này là
hợp đồng chỉ có thể phát sinh hiệu lực vào thời điểm được xác định kể trên. Trong các
bộ nguyên tắc về hợp đồng quốc tế cũng có các điều khoản để dự liệu về những trường
hợp này. Ví dụ: theo Điều 2.1.13 PICC, các bên có thể xác nhận việc giao kết hợp
đồng phụ thuộc vào sự thỏa thuận về một số vấn đề liên quan đến hình thức hay nội
dung của hợp đồng.
11 Được Bộ Tài chính phê chuẩn bởi Công văn số 3365 TC/TCNH ngày 18/8/2000. 12 Được Bộ Tài chính phê chuẩn bởi Công văn số 2755 TC/TCNH ngày 28/3/2001.
92
3.1.2.3. Thời điểm do pháp luật qui định
Nếu pháp luật qui định thời điểm hợp đồng có hiệu lực là thời điểm hợp đồng
được lập theo đúng hình thức nhất định, thì chỉ khi các bên đã tuân theo hình thức đó,
hợp đồng mới có hiệu lực. Trong những trường hợp đặc thù cần có sự kiểm soát chặt
chẽ về thủ tục xác lập hợp đồng và để bảo vệ các bên thiếu kinh nghiệm trước những
quyết định bất ngờ, nhà làm luật thường qui định hợp đồng phải được lập bằng các
hình thức văn bản có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký. Theo pháp luật Việt Nam,
thời điểm có hiệu lực của các hợp đồng sau đây là do pháp luật qui định:
- Hợp đồng tặng cho bất động sản có đăng ký có hiệu lực tại thời điểm hợp
đồng đã được lập bằng hình thức văn bản có công chứng, chứng thực và tài sản tặng
cho đã được đăng ký quyền sở hữu [15, Điều 467, trừ thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng tặng cho nhà ở được xác định theo Luật Nhà ở [151, khoản 5 Điều 93];
- Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất “có hiệu lực từ thời điểm đăng ký quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai” [15, Điều 692] và theo pháp luật
đất đai thì “hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất;
hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp
vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất. Thứ tự ưu tiên thanh toán nghĩa vụ liên quan đến quyền sử dụng
đất được xác định theo thứ tự đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất”
[193, khoản 4 Điều 146];
- Giao dịch bảo đảm có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng hoặc chứng thực
trong trường hợp pháp luật có quy định [15, khoản 2 Điều 323]. Trong một số trường
hợp đặc thù, thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do pháp luật qui định cụ thể, như:
cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố
[15, Điều 328]; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở
hữu rừng sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký
thế chấp [186, khoản 1 Điều 10];
- Hợp đồng chuyển giao công nghệ thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển
giao chỉ có hiệu lực sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy phép
chuyển giao công nghệ [134, khoản 2 Điều 19];
- Đối với các loại quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký
theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 6 của Luật SHTT 2005, hợp đồng chuyển
93
nhượng quyền sở hữu công nghiệp chỉ có hiệu lực khi đã được đăng ký tại cơ quan
quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp [152, khoản 1 Điều 148]…
Thường thì thời điểm hoàn tất thủ tục luật định là thời điểm hợp đồng có hiệu
lực đối với các bên. Trong nhiều trường hợp, thời điểm hoàn tất thủ tục chỉ là thời
điểm hợp đồng có giá trị pháp lý đối với người thứ ba. Ví dụ: giao dịch bảo đảm đó có
giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký [15, khoản 3 Điều 323];
hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thoả thuận giữa các
bên, nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba khi đã được đăng ký tại cơ quan
quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp, nếu đối tượng của hợp đồng đó là loại
quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký theo quy định tại điểm a
khoản 3 Điều 6 của Luật này [152, khoản 2 Điều 148]. Đôi khi, pháp luật còn qui định
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng đối với các bên đồng thời cũng là thời điểm hợp
đồng có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, ví dụ hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất. 13
Nói tóm lại, thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là hai
loại thời điểm khác nhau. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do các bên thỏa thuận.
Nếu các bên không có thỏa thuận thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm
do pháp luật qui định. Nếu các bên không có thỏa thuận và pháp luật cũng không có
qui định thì hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết hợp đồng.
3.1.3. Hợp đồng có điều kiện và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có điều kiện
3.1.3.1. Khái niệm hợp đồng có điều kiện
Ngoài việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dựa vào qui định chung
như vừa trình bày, nguyên tắc tự do hợp đồng còn cho phép các bên thỏa thuận về các
sự kiện, các điều kiện khác làm phát sinh, hoặc chấm dứt hiệu lực hợp đồng. Hợp đồng
có thời điểm phát sinh hay chấm dứt hiệu lực lệ thuộc vào các điều kiện khác như vậy,
được gọi là hợp đồng có điều kiện.
Theo qui định tại khoản 6 Điều 406 BLDS 2005 thì “Hợp đồng có điều kiện là
hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một
13 Xem thêm: Tiểu mục I.8.1 và I.8.4 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 (sửa đổi bởi TTLT số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006: “Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký”; “Việc thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất có giá trị pháp lý đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”.
94
sự kiện nhất định”. Về mặt lý luận, khái niệm hợp đồng có điều kiện còn được hiểu là
“những hợp đồng mà khi giao kết, bên cạnh việc thỏa thuận về nội dung của hợp đồng
các bên còn thỏa thuận để xác định về một sự kiện để khi sự kiện đó xảy ra thì hợp
đồng mới được thực hiện hoặc phải chấm dứt” [243, tr.105]; hoặc “những hợp đồng
trong đó các bên thỏa thuận về một hay nhiều sự kiện là điều kiện mà chỉ khi điều kiện
đó xảy ra hoặc không xảy ra thì hợp đồng mới được coi là phát sinh hay chấm dứt
hiệu lực” [117, tr.29].
Khi nói tới hợp đồng có điều kiện, người ta thường nói tới hai loại là hợp đồng
có điều kiện phát sinh và hợp đồng có điều kiện chấm dứt. Để tạo tiền đề lý luận cho
việc nhận thức về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, mục này chỉ trình bày về hợp
đồng có điều kiện phát sinh. Theo ý kiến của một luật gia thì “Hợp đồng với các sự
kiện là điều kiện phát sinh là hợp đồng đã được giao kết nhưng còn ‘chờ’ điều kiện
mới làm phát sinh hiệu lực, mới làm phát sinh hậu quả pháp lý” [117, tr.29]. Ví dụ: A
thỏa thuận tặng cho B một căn nhà, với điều kiện B phải chăm sóc A lúc tuổi già. Ở
đây, việc “B chăm sóc A lúc tuổi già” là điều kiện làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng
tặng cho tài sản. Sự kiện này hoàn toàn khác với các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, tức là khác với các yêu cầu pháp lý để hợp đồng được coi là hợp pháp.
Một trong những vấn đề pháp lý cơ bản của hợp đồng có điều kiện chính là vấn
đề ‘điều kiện’ - sự kiện làm phát sinh hoặc chấm dứt hiệu lực hợp đồng. BLDS 2005
tuy có qui định về giao dịch có điều kiện (Điều 125) và hợp đồng có điều kiện (khoản
6 Điều 406), nhưng không giải thích khái niệm “điều kiện” là gì. Tuy vậy, “điều kiện”
nói ở đây không phải là “điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự” (Điều 122), mà
“điều kiện” ở đây được hiểu là một hoặc nhiều “sự kiện” thực tế có thể xảy ra hoặc
chấm dứt để làm cơ sở xác định hợp đồng (giao dịch) sẽ phát sinh hiệu lực, được thực
hiện hoặc bị hủy bỏ.
Theo qui định tại khoản 1 Điều 125 BLDS 2005 thì điều kiện bao gồm hai loại
là điều kiện phát sinh và điều kiện hủy bỏ: “Trong trường hợp các bên có thỏa thuận
về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao
dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ”. Nhưng “điều kiện không có nghĩa chỉ là một sự
kiện mà có thể bao gồm nhiều sự kiện, khi hội đủ các sự kiện này thì mới coi là sự kiện
xảy ra”. Hơn nữa, sự kiện nói ở đây không chỉ là những sự kiện “xảy ra” mà còn có cả
những sự kiện “không xảy ra” [117, tr.29].
95
3.1.3.2. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có điều kiện
Thời điểm hợp đồng có điều kiện phát sinh hiệu lực là thời điểm hợp đồng đó
đã được xác lập và điều kiện của hợp đồng đã xảy ra. Thiếu một trong hai yếu tố trên
thì hợp đồng chưa có hiệu lực. Ví dụ: theo qui định tại Điều 470 BLDS 2005, hợp
đồng tặng cho tài sản có điều kiện có hiệu lực tại thời điểm tài sản đã được giao và
công việc (điều kiện của hợp đồng) đã được thực hiện xong. Nếu công việc đã được
thực hiện xong mà tài sản chưa giao thì hợp đồng tặng cho chưa có hiệu lực, và bên đã
làm công việc chỉ có thể “yêu cầu thanh toán nghĩa vụ” chứ không được đòi bên kia
giao tài sản (khoản 2 Điều 470); ngược lại, nếu tài sản đã giao mà công việc không
được thực hiện thì hợp đồng cũng chưa có hiệu lực, “bên tặng cho có quyền lấy lại tài
sản tặng cho và yêu cầu bồi thường thiệt hại” (khoản 3 Điều 470).
Để có giá trị làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng, ‘điều kiện’ của hợp đồng phải
đáp ứng được những yêu cầu sau đây: (i) phải là những sự kiện có thể xảy ra trong
tương lai. Các sự kiện đã xảy ra không thể là sự kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
hiệu lực của hợp đồng có điều kiện; (ii) Nếu điều kiện là hành vi, hoặc công việc cụ
thể thì hành vi hoặc công việc đó không vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo
đức xã hội; (iii) Nếu điều kiện là công việc phải làm thì công việc đó phải khả thi.
Suy cho cùng, hợp đồng có điều kiện phát sinh là hợp đồng mà thời điểm có
hiệu lực của nó là do các bên thỏa thuận, vì điều kiện làm phát sinh hiệu lực của hợp
đồng là sự kiện pháp lý do các bên thỏa thuận, và thời điểm này khác với thời điểm
giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng (do luật định) theo qui định
chung tại Điều 404 và Điều 405 BLDS 2005.
3.2. MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
CÁC QUI ĐỊNH VỀ THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
3.2.1. Qui định về thời điểm giao kết hợp đồng tại Điều 404 Bộ luật Dân sự 2005
vẫn còn nhiều điểm bất cập, thiếu sót và chưa hợp lý
3.2.1.1. Qui định như Điều 404 là chưa lô gích và chưa chặt chẽ
Điều 404 BLDS 2005 qui định thời điểm giao kết hợp đồng dựa vào hình thức
giao kết hợp đồng. Điều này là chưa lô gích và chưa chặt chẽ, bởi các lý do sau đây:
Thứ nhất, trong các bộ pháp điển về hợp đồng trên thế giới, người ta thường xác
định thời điểm giao kết hợp đồng dựa vào hai yếu tố: phương thức giao kết và hình
96
thức trả lời chấp nhận giao kết. Theo đó, trong các bộ pháp điển của các nước Châu
Âu lục địa, cũng như các nước theo Thông luật đều thừa nhận thời điểm giao kết hợp
đồng với người có mặt (giao kết trực tiếp) là thời điểm thỏa thuận xong nội dung hợp
đồng, vì qui định này bắt buộc người được đề nghị phải trả lời ngay hoặc gần như
ngay lập tức (virtually instantaneous) [341, tr.52]. Còn giao kết hợp đồng với người
vắng mặt (giao kết gián tiếp) thì tùy theo truyền thống pháp lý mà công nhận là hợp
đồng giao kết khi thư trả lời được gửi đi, hoặc khi bên đề nghị nhận được thư trả lời
chấp nhận, như đã phân tích trong phần trước.
Trong khoa học pháp lý, các luật gia cũng thừa nhận nguyên tắc của việc xác
định thời điểm giao kết hợp đồng là dựa trên phương thức giao kết của hợp đồng đó
[77, tr.121]. Hợp đồng có thể được giao kết bởi một trong hai phương thức là phương
thức giao kết trực tiếp và phương thức giao kết gián tiếp. Phương thức giao kết trực
tiếp là việc các bên hoặc đại diện hợp pháp của các bên gặp gỡ trực tiếp (hoặc gọi điện
thoại trực tiếp) để bàn bạc và đi đến sự thống nhất các nội dung của hợp đồng. Phương
thức giao kết gián tiếp là việc các bên tham gia giao dịch không cần phải trực tiếp gặp
nhau để đàm phán về nội dung của hợp đồng mà chỉ cần trao đổi thông tin thông qua
các phương tiện thông tin, liên lạc như thư tín, điện tín, mạng Internet [77, tr.119]. Mặt
khác, thời điểm giao kết hợp đồng còn phụ thuộc vào hình thức trả lời chấp nhận.
Như vậy, bất luận bên đề nghị đã sử dụng hình thức đề nghị là gì, thì thời điểm
giao kết hợp đồng vẫn phụ thuộc phương thức giao kết và hình thức của việc trả lời
chấp nhận. Ví dụ: khách hàng A gửi thông điệp dữ liệu cho doanh nghiệp B (bán hàng
trên mạng) đề nghị mua một máy ảnh loại X, với giá Y, phương thức thanh toán Z, và
giao hàng tại địa chỉ K. B đã gửi văn bản (bằng thư bảo đảm) xác nhận sự đồng ý đối
với đơn đặt hàng của A và hứa sẽ giao hàng đúng như đơn đặt hàng. Đây là phương
thức giao kết gián tiếp và hình thức trả lời bằng văn bản, thông qua việc gửi thư bảo
đảm. Như vậy, thời điểm giao kết không phải là “thời điểm bên sau cùng ký vào văn
bản”, mà là thời điểm “bên được đề nghị nhận được trả lời chấp nhận”. Cũng trong
tình huống trên, nếu B không trả lời bằng lời nói, hay gửi thư xác nhận (văn bản), mà
lại im lặng mang hàng hóa hoặc gửi hàng hóa qua bưu điện để giao hàng cho A theo
đúng yêu cầu của đơn đặt hàng. Đây là hình thức trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
bằng hành vi cụ thể. Tuy vấn đề này chưa được Điều 404 qui định rõ, nhưng căn cứ
97
vào phương thức giao kết và hình thức trả lời chấp nhận, thì trường hợp này hợp đồng
được xem là đã giao kết tại thời điểm hành vi giao hàng được thực hiện hoàn thành.
Thứ hai, trong thực tiễn, không phải lúc nào các bên cũng chỉ sử dụng một hình
thức duy nhất để giao kết hợp đồng với nhau, mà có thể sử dụng đồng thời nhiều hình
thức khác nhau để giao kết hợp đồng. Mặt khác, pháp luật cũng không cấm và cũng
không có qui định nào bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng bằng một hình thức
duy nhất. Các bên có thể thực hiện việc giao kết hợp đồng, đề nghị và trả lời chấp nhận
đề nghị bằng một, hoặc bằng nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ: bên đề nghị gửi chào
hàng bằng văn bản, còn bên được đề nghị có thể trả lời bằng lời nói trực tiếp, hoặc
bằng cách gọi điện thoại, bằng văn bản, hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong trường hợp
này, chúng ta không thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng dựa vào hình thức hợp
đồng như qui định tại Điều 404 BLDS 2005, mà phải xác định thời điểm giao kết hợp
đồng dựa trên hình thức của sự trả lời giao kết và phương thức giao kết.
Tóm lại, trong những trường hợp như vậy, nếu dựa vào qui định tại Điều 404
BLDS 2005 thì sẽ không xác định được là hợp đồng đã giao kết vào thời điểm nào, vì
Điều 404 chỉ đề cập đến việc giao kết hợp đồng bằng một hình thức xác định, chứ
không qui định việc giao kết hợp đồng bằng nhiều hình thức khác nhau. Điều này cho
thấy nội dung của Điều 404 BLDS 2005 là chưa chặt chẽ.
Trong thực tiễn xét xử, tòa án cũng đã gặp nhiều lúng túng trong trường hợp
các bên sử dụng đồng thời nhiều hình thức và phương thức khác nhau để giao kết một
hợp đồng. Ví dụ: Bản án số 195/2007/KDTM-PT ngày 09-10-2007 của Tòa Phúc
thẩm TANDTC tại Hà Nội “V/v: tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” giữa nguyên đơn là
Công ty Vật tư vận tải và xây dựng công trình giao thông, với bị đơn là Công ty cổ
phần bảo hiểm Viễn Đông (Xem Phụ lục số 02). Trong vụ án này, các bên đã không
thống nhất được với nhau về thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm. Nguyên đơn (bên
mua bảo hiểm) cho rằng hợp đồng được giao kết vào 11h00 ngày 20/12/2004. Còn bị
đơn (bên bảo hiểm) cho rằng hợp đồng được giao kết sau 11h10 phút ngày 20/12/2004,
tức sau khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra và tài sản bảo hiểm đã không còn tồn tại.
Trên thực tế, vào khoảng 11h00 ngày 20/12/2004, bên mua bảo hiểm đã gọi
điện thoại và gửi văn bản (mẫu đơn yêu cầu bảo hiểm do bên bảo hiểm cung cấp trước
đó) để đề nghị bị đơn cấp đơn bảo hiểm. Còn bên được đề nghị là bị đơn (doanh
nghiệp bảo hiểm) đã trả lời trực tiếp bằng điện thoại về việc đồng ý giao kết hợp đồng
98
bảo hiểm vào cùng thời điểm bên mua bảo hiểm gọi điện thoại. Đồng thời ngay sau đó
(khoảng 11h10 phút cùng ngày), bên bảo hiểm còn thể hiện sự đồng ý bằng cách ký
tên, đóng dấu vào văn bản (đơn bảo hiểm). Tuy nhiên, việc bên bảo hiểm đã gửi văn
bản này cho bên mua bảo hiểm hay chưa, thì không thấy đề cập trong các bản án.
Tại Bản án sơ thẩm số 21/2007/KDTM-ST ngày 05/3/2007, TAND Tp. Hà Nội
kết luận hợp đồng đã được giao kết vào thời điểm bên bảo hiểm ký tên đóng dấu vào
đơn bảo hiểm. Cấp phúc thẩm không phản bác lập luận nói trên của cấp sơ thẩm,
nhưng đã hủy án sơ thẩm vì cho rằng, chưa có căn cứ xác định sự kiện cháy xảy ra
trước hay sau thời điểm giao kết hợp đồng mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung.
Nhận xét:
1. Sự bất đồng của hai bên đương sự chủ yếu là vấn đề thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng phát sinh trước hay sau thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trong hợp đồng bảo
hiểm, yếu tố thời điểm phát sinh hiệu lực là vấn đề pháp lý đặc biệt quan trọng vì đây
không chỉ thuần túy là thời điểm phát sinh quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên
mà còn liên quan đến sự kiện bảo hiểm và trách nhiệm bảo hiểm. Thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng bảo hiểm là điều khoản cơ bản của hợp đồng bảo hiểm. Đáng tiếc là
trong khi thỏa thuận, các bên đã không có sự lưu ý đặc biệt đến nội dung này. Do vậy,
việc xác định thời điểm giao kết và có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm sẽ căn cứ vào
Điều 15 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000: “Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh khi hợp
đồng bảo hiểm đã được giao kết hoặc khi có bằng chứng doanh nghiệp bảo hiểm đã
chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, trừ trường hợp có
thoả thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm”. Nhưng trong vụ án này,“thời điểm giao
kết” và “thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm” thì chưa xác định
được, vì các bên đang tranh chấp, chưa thống nhất.
2. Trong vụ này, cả hai cấp xét xử vẫn còn lúng túng trong việc xác định thời điểm
giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do chưa xem xét kỹ phương thức giao
kết và hình thức trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng. Trên thực tế, cả hai cấp tòa đã
căn cứ vào phương thức giao kết gián tiếp, và dựa vào hình thức hợp đồng bằng văn
bản để xác định thời điểm giao kết hợp đồng. Xác định như vậy là không hợp lý và
cũng không chính xác vì ba lý do:
(i) Nếu căn cứ vào phương thức giao kết hợp đồng trực tiếp bằng điện thoại, thì
theo khoản 3 Điều 404 BLDS 2005 (như khoản 3 Điều 403 BLDS 1995), hợp đồng đã
99
được giao kết vào thời điểm các bên thỏa thuận xong (bằng điện thoại) nội dung của
hợp đồng, chứ không phải là lúc bên bảo hiểm ký tên, đóng dấu vào đơn bảo hiểm;
(ii) Nếu căn cứ vào hình thức giao kết hợp đồng bằng văn bản và phương thức
giao kết hợp đồng gián tiếp, thì hợp đồng vẫn chưa được giao kết vì theo khoản 1 Điều
403 BLDS 1995 (nay là khoản 1 Điều 404 BLDS 2005), hợp đồng được giao kết từ
thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận. Việc đơn bảo hiểm mới được ký
bởi người đại diện bên bảo hiểm và đóng dấu mà chưa được gửi đi thì chưa phải là
quyết định cuối cùng của bên bảo hiểm về việc chấp nhận giao kết hợp đồng, vì bên
bảo hiểm vẫn có quyền không gửi đi, hoặc thay đổi nội dung, hoặc hủy bỏ đơn bảo
hiểm trên;
(iii) Nếu dựa vào hình thức giao kết hợp đồng bằng văn bản để xác định thời
điểm giao kết hợp đồng là khi doanh nghiệp bảo hiểm ký tên, đóng dấu vào đơn bảo
hiểm (bên sau cùng ký vào văn bản), thì sẽ dẫn tới mâu thuẫn với qui định tại khoản 1
Điều 404: thời điểm giao kết hợp đồng với người vắng mặt là thời điểm bên đề nghị
nhận được trả lời chấp nhận. Mặt khác, trong các bản án, tòa đã từ chối áp dụng qui
định tại khoản 4 Điều 404, nên tòa cũng không thể căn cứ vào qui định này để kết luận
hợp đồng đã giao kết vào thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
Như vậy, bất luận dựa vào căn cứ nào được qui định tại Điều 404 BLDS 2005
để xem xét thời điểm giao kết hợp đồng trong trường hợp nói trên, tòa án cũng đều rơi
vào tình huống khó khăn để có thể đưa ra kết luận có căn cứ và thuyết phục. Vì vậy,
Điều 404 BLDS 2005 rất cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Tóm lại, để xác định đúng thời điểm giao kết và có hiệu lực của hợp đồng trong
trường hợp này, cần phải xác định đúng phương thức giao kết hợp đồng giữa các bên,
và hình thức trả lời chấp nhận của bên được đề nghị. Thực tế vụ án trên cho thấy, các
bên đã sử dụng đồng thời hai phương thức khác nhau để giao kết hợp đồng, và bên
được đề nghị đã trả lời bằng hai hình thức khác nhau: bằng điện thoại và bằng văn bản.
Trong trường hợp đó, tòa án nên chọn phương thức giao kết đầu tiên và hình thức trả
lời hợp lệ đầu tiên để xác định đó thời điểm giao kết hợp đồng mới là hợp lý.
Bên cạnh đó, qui định về “thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời
điểm bên sau cùng ký vào văn bản” tại khoản 4 Điều 404 BLDS 2005 cũng chưa chặt
chẽ và cũng chưa phù hợp với thực tế. Bởi lẽ, qui định này chỉ đúng trong một trường
hợp: các bên trực tiếp giao kết, việc giao kết được thực hiện bằng ‘bút đàm’, trên cùng
100
một văn bản truyền thống. Ngoài tình huống trên, khoản 4 Điều 404 khó có thể áp
dụng cho các trường hợp khác. Trên thực tế, không phải lúc nào các bên cũng giao kết
hợp đồng với nhau chỉ bằng một văn bản, mà có thể bằng nhiều văn bản khác nhau, có
thể giao kết qua phương tiện thông tin, liên lạc như qua thư tín, điện tín, fax, telex,
hoặc gửi thông điệp dữ liệu, hoặc thậm chí các bên bàn bạc trực tiếp và giao kết hợp
đồng tại phòng công chứng, trước sự chứng kiến của công chứng viên; hoặc các bên
đàm phán hợp đồng làm nhiều lần, mỗi lần đều có làm biên bản ghi nhớ về nội dung
đàm phán; hoặc một bên có thể đề nghị giao kết hợp đồng bằng văn bản, còn bên kia
trả lời bằng lời nói, bằng hành vi cụ thể, hoặc bằng telex hay thư điện tử (email).v.v.
Cũng có trường hợp một bên cấp cho bên kia một văn bản để xác nhận đồng ý
giao kết hợp đồng, với chữ ký đơn phương của bên đó (ví dụ: giấy vay tiền thường chỉ
do một bên vay lập ra). Do vậy, nếu chỉ dựa vào qui định “bên sau cùng ký vào văn
bản”, thì các trường hợp trên rất khó xác định đâu là thời điểm bên sau cùng ký vào
văn bản. Ví dụ: trong các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc của chủ xe
cơ giới (ví dụ xe gắn máy dùng cho cá nhân), người mua bảo hiểm đề nghị giao kết
hợp đồng bằng việc điền vào phiếu yêu cầu được bảo hiểm, và nộp tiền bảo phí. Đại lý
bảo hiểm (được công ty bảo hiểm ủy quyền hợp pháp) chấp nhận giao kết bằng cách
điền các thông tin liên quan vào Giấy chứng nhận bảo hiểm đã có đầy đủ chữ ký của
giám đốc và đã được đóng dấu của công ty bảo hiểm, và giao giấy đó cho người mua
bảo hiểm. Tại thời điểm đó, hợp đồng bảo hiểm được giao kết. Ở đây, không có việc
“bên sau cùng ký vào văn bản”. Thực tiễn này được doanh nghiệp bảo hiểm, người
tiêu dùng, cơ quan chức năng chấp nhận, và cũng được các luật gia đồng tình [276,
tr.141]. Trong những trường hợp như vậy, qui định “bên sau cùng ký vào văn bản”
không thể áp dụng để xác định thời điểm giao kết hợp đồng. Bởi vậy, qui định này cần
phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Vấn đề chứng minh việc “bên sau cùng ký vào văn bản” cũng gặp nhiều khó
khăn. Thực tiễn pháp lý ở Việt Nam cho thấy, những giấy tờ giao dịch chính thức của
tổ chức, nhất là các doanh nghiệp là pháp nhân, thì phải có chữ ký, ghi rõ họ tên của
người đại diện hợp pháp và phải được đóng dấu [138, Điều 36]. Theo ý kiến của các
luật gia, thực tế cũng có quan niệm cho rằng, hợp đồng bằng văn bản của tổ chức phải
được đóng dấu thì mới có giá trị pháp lý [223, tr.318]. Đôi khi, thực tiễn xét xử cũng
xem việc “đóng dấu là một hình thức ký vào văn bản” [54, tr.367]. Do đó, nội dung
101
cụm từ “bên sau cùng ký vào văn bản” rất cần được làm rõ. Trong thực tiễn xét xử,
nhận thức của các tòa án, cũng như giữa các bên liên quan về vấn đề giao kết hợp đồng
bằng văn bản vẫn chưa có sự nhất quán.
Ví dụ: Quyết định giám đốc thẩm số 08/KDTM-GĐT ngày 08/12/2005 của
HĐTP–TANDTC về vụ án “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ bảo trì
trạm biến áp” (Xem Phụ lục số 03): Bên bán đã fax cho bên mua một văn bản chào
hàng 04 chiếc đồng hồ đo điện vạn năng. Tổng giám đốc của bên mua đã ký tên chấp
nhận trực tiếp lên bản fax nói trên, nhưng không được đóng dấu của công ty. Cùng
ngày ký hợp đồng, bên bán đã giao hàng cho bên mua. Bên mua đã nhận hàng. Sau đó,
bên mua có gửi cho bên bán văn bản với nội dung: hàng có giá quá cao so với giá thị
trường tại cùng thời điểm và yêu cầu bên bán điều chỉnh giá. Nguyên đơn cho rằng,
trên thực tế, bên mua ký tên vào đơn chào hàng và đã nhận hàng, nên hợp đồng đã
được giao kết và có hiệu lực ràng buộc đối với các bên. Tòa cấp sơ thẩm xử hợp đồng
mua bán đã được giao kết và có hiệu lực. Tòa cấp phúc thẩm xử hợp đồng chưa được
giao kết vì cho rằng, bên mua mới chỉ đề nghị giao kết hợp đồng chứ chưa phải đã
chấp nhận đề nghị. Còn việc sau đó, bên mua có văn bản yêu cầu điều chỉnh giá, là
một sự sửa đổi nội dung chào hàng, nên phải xem đây là đề nghị mới. Cấp giám đốc
thẩm đồng ý với quan điểm của cấp sơ thẩm, nên đã hủy Bản án số số 03/KTPT ngày
17/01/2005 của Toà phúc thẩm – TANDTC tại Tp. Hồ Chí Minh.
Nhận xét:
1. Trong vụ án trên, các bên và các cấp tòa án đang xem xét về thời điểm giao kết hợp
đồng, trong đó các bên sử dụng phương thức giao kết gián tiếp, bằng văn bản (fax).
2. Cả nguyên đơn, bị đơn, tòa cấp sơ thẩm, toà cấp phúc thẩm và cấp giám đốc thẩm
không thống nhất với nhau về thời điểm giao kết hợp đồng. Nguyên nhân dẫn đến việc
thiếu thống nhất này là vì các bên liên quan chưa nhất trí với nhau bên nào là bên đề
nghị giao kết và bên nào là bên chấp nhận đề nghị. Vì vậy, các bên cũng chưa thể
thống nhất được với nhau về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Theo bị đơn và tòa phúc thẩm, bên đề nghị giao kết hợp đồng trong vụ này là
bên mua. Bởi vì, việc bên mua gửi trả lại bên bán bản fax báo giá, mới có chữ ký của
tổng giám đốc nhưng chưa được đóng dấu của công ty, thì chưa phải là một chấp nhận
đề nghị, đây cũng chưa phải là một đề nghị giao kết hợp đồng. Sau đó, bên bán không
trả lời mà tự ý mang máy đến giao cho bên mua. Tuy bên mua đã nhận máy, nhưng
102
sau đó, bên mua đã gửi văn bản đề nghị bên bán giảm giá. Đây chưa phải là chấp nhận
giao kết mà chỉ là một đề nghị mới. Do vậy, hợp đồng chưa xem là đã được giao kết.
Nguyên đơn, tòa cấp sơ thẩm, tòa cấp giám đốc thẩm cho rằng fax chào hàng
của bên bán là đề nghị giao kết, còn việc tổng giám đốc của bên mua ký tên vào bản
chào hàng này là đã chấp nhận giao kết hợp đồng. Hơn nữa, sau đó bên bán giao máy
và bên mua nhận máy, nên hợp đồng đã phát sinh hiệu lực.
3. Vấn đề mấu chốt trong vụ này là việc xác định hợp đồng đã được giao kết hay chưa.
Ở đây, cần phải làm rõ bản fax của bên bán đã gửi cho bên mua có đúng là một đơn
chào hàng hay chỉ là một bảng báo giá hoặc catalogue giới thiệu sản phẩm có ghi giá;
và nếu đây đúng là đơn chào hàng, thì sau khi nhận được fax chào hàng, thì bên mua
có gọi điện đặt hàng, hoặc có gửi lại bản fax đã có chữ ký của tổng giám đốc cho bên
bán để đặt hàng hay chưa. Đáng tiếc là các của cấp tòa án đều không có phân tích cụ
thể về bản fax và tiến trình thực hiện việc trao đổi thông tin giữa các bên như vừa phân
tích, nên đã đưa ra những phán quyết có phần trái ngược nhau. Nguyên nhân cơ bản
dẫn đến việc phán xử thiếu nhất quán giữa các cấp tòa án trong vụ án trên là do qui
định tại khoản 4 Điều 403 BLDS 1995 (nay là khoản 4 Điều 404 BLDS 2005) chưa
chặt chẽ. Nội dung của qui định này chỉ điều chỉnh việc giao kết hợp đồng trực tiếp,
bằng văn bản. Còn vụ việc đang phân tích thì vừa được giao kết bằng văn bản, thông
qua việc truyền tín hiệu bằng fax (gián tiếp), vừa trả lời bằng hành vi cụ thể, và không
có việc hai bên cùng ký vào văn bản.
Tóm lại, qui định như Điều 404 BLDS 2005 là chưa lô gích và chưa chặt chẽ,
còn lẫn lộn và nhập nhằng giữa phương thức giao kết với hình thức hợp đồng, dẫn đến
tình trạng thiếu nhất quán trong nhận thức và áp dụng điều luật của một số tòa, và cả
với các bên trong việc giải quyết tranh chấp liên quan. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn
nêu trên, thiết nghĩ nên sửa đổi Điều 404 BLDS 2005 theo hướng xác định thời điểm
giao kết hợp đồng dựa trên phương thức giao kết (có mặt hay vắng mặt) và hình thức
trả lời chấp nhận, chứ không nên dựa vào hình thức hợp đồng nói chung như hiện nay.
3.2.1.2. Điều 404 chưa dự liệu thời điểm giao kết hợp đồng bằng hành vi cụ thể
Thực tế cuộc sống cho thấy, việc các bên giao kết hợp đồng bằng hành vi cụ thể
là rất phổ biến. Ví dụ: việc mua báo hay mua vé số của người bán rong, mua hàng hóa
bằng máy bán hàng tự động, gửi giữ xe máy, mua vé xe buýt và kiểm soát vé bằng các
thiết bị tự động. Trong những trường hợp này, người được đề nghị đã sử dụng hành vi
103
cụ thể để giao kết hợp đồng, mà không cần kèm theo sự diễn đạt ý chí bằng ngôn ngữ
nói hay ngôn ngữ viết.
Ví dụ: Công ty xây dựng X gửi đơn đặt hàng cho Nhà máy xi măng M để đặt
mua T tấn xi măng, theo giá Y, giao hàng vào giờ G, tại địa chỉ Z. Phía nhà máy M
không hồi đáp bằng văn bản, nhưng đã giao xi măng đúng theo các điều kiện của đơn
đặt hàng. Giá xi măng trên thị trường giảm, X không nhận hàng, với lý do hợp đồng
chưa được giao kết. Câu hỏi đặt ra là, hợp đồng giữa X và M đã được giao kết hay
chưa (?). Nếu dựa vào Điều 404 BLDS 2005 thì khó có thể xác định hợp đồng đã được
giao kết hay chưa, và nếu hợp đồng đã được giao kết rồi thì cũng khó xác định thời
điểm giao kết hợp đồng là lúc nào. Bởi lẽ Điều 404 không dự liệu trường hợp các bên
đồng thời nhiều hình thức khác nhau để giao kết hợp đồng, và Điều luật này cũng
không dự liệu trường hợp trả lời giao kết bằng hành vi cụ thể.
Trong luật thực định, nhà làm luật cũng thừa nhận việc giao kết hợp đồng bằng
hành vi cụ thể. Ví dụ: hành vi giao tài sản trong các hợp đồng cầm cố, hợp đồng tặng
cho, hợp đồng cho mượn và hợp đồng vay tài sản. Mặt khác, các Điều 124 và khoản 1
Điều 401 BLDS 2005 cũng đều qui định hành vi cụ thể là một trong ba hình thức của
hợp đồng. Như vậy, Điều 404 BLDS 2005 chưa dự liệu thời điểm giao kết của hợp
đồng bằng một hành vi cụ thể, là thiếu sót. Điều này có thể sẽ gây ra nhiều khó khăn
cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tế liên quan đến việc xác định
thời điểm giao kết hợp đồng bằng hành vi cụ thể, vì thiếu căn cứ pháp lý cần thiết. Đây
là một sự thiếu sót cần phải được nghiên cứu bổ sung.
Điều 404 BLDS 2005 cũng chưa qui định thời điểm giao kết hợp đồng trong
các trường hợp đặc thù. Điều 404 chỉ qui định thời điểm giao kết hợp đồng trong các
trường hợp thông thường mà chưa qui định thời điểm giao kết hợp đồng trong các
trường hợp đặc thù, như thời điểm giao kết hợp đồng trong đấu thầu, giao kết hợp
đồng thông qua điều khoản thương mại chung hoặc hợp đồng mẫu14… Thời điểm giao
kết hợp đồng trong trường hợp giao kết hợp đồng theo điều khoản thương mại chung
hoặc theo hợp đồng theo mẫu, hiện vẫn được pháp luật qui định cụ thể. Đây là những
14 Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Việt Nam) năm 2010, Điều khoản thương mại chung được hiểu là “những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối với người tiêu dùng” (khoản 6 Điều 3), còn hợp đồng mẫu được hiểu là “hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng” (khoản 5 Điều 3). Về các vấn đề này, có thể xem thêm tài liệu số 216, tr.5-17, số 285, tr.36-40, và số 343 (Khoản 3 Điều 2: 209).
104
trường hợp đặc biệt, nhưng lại rất phổ biến trong đời sống, có liên quan mật thiết đến
quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Để bảo vệ tốt quyền lợi của công
chúng nói chung, người tiêu dùng nói riêng, thiết nghĩ cần phải bổ sung những qui
định cụ thể và chặt chẽ hơn về thời điểm giao kết đối với các loại hợp đồng kể trên.
3.2.1.3. Khoản 2 Điều 404 chưa dự liệu trường hợp “im lặng” theo qui định của pháp
luật là chấp nhận giao kết hợp đồng
Bản chất của hợp đồng là sự gặp gỡ ý chí giữa các bên, dựa trên “sự hiệp ý” và
“sự ưng thuận”. Và về nguyên tắc, hợp đồng chỉ có thể được giao kết nếu bên đề nghị
“nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng” (khoản 1 Điều 404). Trong khoa học
pháp lý, quan điểm coi im lặng là đồng ý không phải lúc nào cũng được các luật gia
chấp nhận [168, tr.96]. Tuy vậy, cũng có ý kiến bênh vực cho việc công nhận sự im
lặng là trả lời chấp nhận, nếu có kèm theo những điều kiện khác [54, tr. 76-82].
Trong các Bộ Nguyên tắc quốc tế về hợp đồng và các tập quán hợp đồng
thương mại quốc tế đều không xem sự im lặng là chấp nhận giao kết: “sự im lặng hoặc
bất tác vi không mặc nhiên có giá trị một sự chấp nhận” [37, Đoạn 1 Điều 18], hoặc
“Bản thân sự im lặng hay bất tác vi không có giá trị như một chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng” [25, Khoản 1 Điều 2.1.6 ], hoặc “Im lặng hay bất tác vi tự thân nó
không phải là sự chấp nhận đề nghị” [343, Khoản 2 Điều 2: 204 ].
Theo luật Pháp, về nguyên tắc, im lặng không được coi là chấp nhận giao kết
hợp đồng vì “người ta không thể dựa vào sự im lặng để suy ra ý chí chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng của bên đó”, trừ một số trường hợp ngoại lệ do pháp luật qui định
hoặc do án lệ thừa nhận [227, tr.35-6]. Trong án lệ ở Mỹ, ban đầu, các thẩm phán cũng
không thừa nhận im lặng là đồng ý giao kết hợp đồng. Tuy vậy, đã có một sự thay đổi
tư duy của các thẩm phán, sau khi Văn bản Pháp điển về hợp đồng (Restatement of
Contracts) được ban hành. Tại Đoạn 72 Văn bản này qui định: “…khi người được đề
nghị không trả lời một đề nghị thì sự im lặng hoặc không hành động của họ có thể
được xem như một sự chấp nhận… nếu người đề nghị xác định được hoặc có lý do để
tin rằng sự đồng ý rõ ràng được biểu hiện bằng cách im lặng hoặc không hành động,
và người được đề nghị giữ im lặng nghĩa là có ý định chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng.” Với sự hiện diện của qui định này đã làm cho “nguyên tắc bất di bất dịch im
lặng không phải là đồng ý trở nên khó giải thích thuyết phục” [335, tr.51].
105
Khoản 2 Điều 404 BLDS 2005 công nhận im lặng là chấp nhận giao kết hợp
đồng khi thỏa mãn hai điều kiện là các bên có thỏa thuận trước, và các bên có xác
định thời hạn trả lời nhưng hết thời hạn trả lời mà bên được đề nghị vẫn im lặng. Xuất
phát nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, thiết nghĩ việc công nhận im lặng là chấp
nhận giao kết hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận là cần thiết. Nhưng qui định này vẫn
còn hạn chế vì chưa dự liệu các trường hợp sự im lặng chấp nhận giao kết hợp đồng do
pháp luật qui định. Trong luật thực định, có nhiều trường hợp sự im lặng được qui
định là chấp nhận giao kết hợp đồng. Ví dụ: qui định về trả lời chấp nhận giao kết hợp
đồng mua bán tài sản sau khi dùng thử: “…Trong thời hạn dùng thử, bên mua có thể
trả lời mua hoặc không mua; nếu hết thời hạn dùng thử mà bên mua không trả lời thì
coi như đã chấp nhận mua theo điều kiện đã thỏa thuận trước khi nhận vật dùng thử.”
[15, khoản 1 Điều 460].
Ngoài ra, trong trường hợp pháp luật có qui định một bên có nghĩa vụ phải phát
biểu ý chí về việc từ chối giao dịch, nhưng người có nghĩa vụ đã không hành động như
vậy thì được suy đoán là đồng ý. Ví dụ: khi người đại diện xác lập giao dịch vượt quá
phạm vi đại diện, nhưng người được đại diện “biết mà không phản đối…” thì phần
giao dịch được xác lập vượt quá phạm vi đại diện đó vẫn có hiệu lực đối với người
được đại diện [15, khoản 1 Điều 146].
Bởi vậy, cần bổ sung qui định về trường hợp pháp luật có qui định im lặng là
chấp nhận giao kết hợp đồng tương ứng với các trường hợp vừa nêu.
3.2.2. Qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tại Điều 405 Bộ luật Dân sự
2005 chưa đầy đủ và còn gây nhiều tranh cãi
3.2.2.1. Bộ luật Dân sự 2005 chưa dự liệu hết các thời điểm bắt đầu có hiệu lực của
hợp đồng
Điều 405 qui định: “hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm
giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Theo
tinh thần điều luật thì chỉ những hợp đồng được giao kết hợp pháp mới có hiệu lực.
Còn những hợp đồng chưa được giao kết hợp pháp, thì nội dung điều luật chưa thể
hiện là có hiệu lực hay không. Bởi vậy, ở đây có hai vấn đề cần phải được làm rõ: thế
nào là hợp đồng không hợp pháp, nếu hợp đồng không hợp pháp thì có làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các bên hay không, phát sinh từ lúc nào (?)…
106
Khái niệm ‘hợp đồng hợp pháp’ tuy chưa được nhà làm luật qui định rõ ràng,
nhưng có thể giải thích được, vì “có thể áp dụng Điều 122 (BLDS 2005)” [273,
tr.179]. Theo đó, ‘hợp đồng hợp pháp’ là hợp đồng được xác lập tuân thủ các điều kiện
được qui định tại Điều 122 BLDS 2005. Nếu pháp luật chuyên ngành có qui định các
điều kiện đặc thù cho các hợp đồng chuyên biệt, thì hợp đồng chỉ được coi là giao kết
hợp pháp nếu đáp ứng đồng thời điều kiện có hiệu lực theo qui định của luật chung và
luật chuyên ngành. Trên thực tế, nhiều khi người ta chỉ quan tâm tới luật chuyên ngành
mà không lưu ý qui định chung; hoặc ngược lại, chỉ chú ý tới điều kiện chung của hợp
đồng mà không quan tâm tới qui định của luật chuyên ngành. Vì thế, đã có quan điểm
cho rằng áp dụng pháp luật như vậy là máy móc, phiến diện và sẽ dẫn tới nhiều hệ quả
tiêu cực do áp dụng pháp luật thiếu chính xác [55, tr.12 – 9]. Bởi vậy, qui định về thời
điểm có hiệu lực của ‘hợp đồng hợp pháp’ rất cần được xem xét thận trọng trong thực
tiễn áp dụng BLDS và pháp luật chuyên ngành.
Vấn đề còn lại là khi hợp đồng không được ‘giao kết hợp pháp’ có hậu quả
pháp lý như thế nào, thì nội dung Điều 405 chưa qui định rõ. Để giải quyết vấn đề này,
cần vận dụng qui định tại Điều 122 và Điều 127 BLDS 2005: giao dịch dân sự không
hợp pháp thì vô hiệu. Hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, nên hợp đồng không hợp
pháp thì cũng bị vô hiệu [15, khoản 1 Điều 410].
Về phương diện lý luận, hợp đồng vô hiệu được các luật gia chia làm hai loại là
hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối. Hợp đồng vô hiệu tương
đối thì tùy trường hợp có thể vô hiệu hoặc cũng có thể có hiệu lực [122, tr.72; 168,
tr.217-8; 242, tr.149; 249, tr.60]. Ví dụ: hợp đồng được thiết lập vi phạm sự tự nguyện
(trừ giả tạo), hợp đồng được xác lập bởi người chưa đủ năng lực hành vi dân sự (theo
qui định với loại giao dịch dân sự tương ứng) mà không có sự đồng ý của người đại
diện hợp pháp là những trường hợp vô hiệu tương đối. Vậy, đối với các hợp đồng vô
hiệu tương đối, khi các bên có tranh chấp mà hợp đồng vẫn được tòa án công nhận, thì
vấn đề xác định thời điểm có hiệu lực của nó là như thế nào (?). Đây là vấn đề chưa
được BLDS 2005 dự liệu. Sau đây là các trường hợp cụ thể:
(1) Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khi hợp đồng được lập không đúng
hình thức luật định. Theo qui định của BLDS 2005 thì hình thức hợp đồng là điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng nếu pháp luật có qui định [Khoản 2 Điều 122], và khi hợp
đồng vi phạm hình thức thì có thể bị vô hiệu [Điều 124, 127, 134, khoản 2 Điều 401].
107
Theo đó, nếu pháp luật có qui định hợp đồng phải tuân theo hình thức bắt buộc, đồng
thời cũng qui định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm hợp đồng được lập
đúng hình thức luật định, thì hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được lập đúng hình thức đó.
Ví dụ: hợp đồng mua bán nhà giữa cá nhân với cá nhân “phải được lập bằng
văn bản công chứng hoặc chứng thực” [15, Điều 450; 151, khoản 3 Điều 93; 136,
khoản 1 Điều 6] và có hiệu lực từ thời điểm hợp đồng được công chứng, chứng thực
[136, Khoản 3 Điều 4]; hoặc hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất “phải được lập
thành văn bản có công chứng, chứng thực theo qui định của pháp luật” [15, Khoản 2
Điều 689] và “có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định
của pháp luật về đất đai”, tức “có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký” [15, Điều 692;
193, khoản 4 Điều 146] tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.15 Đây là những hợp
đồng mà thời điểm có hiệu lực là do pháp luật qui định, nếu các bên không có thỏa
thuận khác [15, Điều 405]. Bởi vậy, nếu hợp đồng loại này chưa được lập đúng hình
thức, thì phải được coi là chưa có hiệu pháp luật. Trong trường hợp này, để hợp đồng
có hiệu lực, các bên phải yêu cầu tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trên
cơ sở đó, tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền có thể ra quyết định buộc các bên thực
hiện đúng hình thức, thủ tục luật định trong một thời hạn; nếu quá thời hạn đó mà
không thực hiện thì hợp đồng vô hiệu [15, khoản 1 Điều 410 và Điều 134].
Vấn đề đặt ra là, nếu hợp đồng vi phạm hình thức mà được tòa án hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định buộc thực hiện đúng hình thức, thủ tục luật định,
như ra phòng công chứng để làm lại hợp đồng, thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
là lúc nào (?). Nếu hết thời hiệu khởi kiện thì hậu quả pháp lý như thế nào (?). Đây là
vấn đề hiện còn gây nhiều tranh cãi. Khi bàn về vấn đề hợp đồng không tuân thủ hình
thức, có nhiều ý kiến cho rằng pháp luật chưa xác định rõ thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng bị vi phạm hình thức và kiến nghị “cần quy định thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng trong trường hợp hình thức hợp đồng được khắc phục” [248, tr.43].
Thật vậy, pháp luật hiện hành chưa giải quyết triệt để vấn đề này. Các nhà bình
luận cho rằng, về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết thì có hiệu lực, không phụ thuộc
vào thời điểm công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép. Theo quan điểm này,
khoảng thời gian từ thời điểm giao kết đến khi hợp đồng được công chứng, chứng thực
15 Thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất: Xem khoản 5 Điều 4 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan tới đầu tư xây dựng cơ bản 2009.
108
theo thủ tục luật định là khoảng thời gian hợp đồng có hiệu lực “treo”, và việc công
chứng, chứng thực chỉ là thủ tục xác nhận hợp đồng có hiệu từ khi giao kết chứ không
có ý nghĩa quyết định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng [273, tr.180 – 1].
Tuy vậy theo tác giả, cách giải thích này có phần chưa chính xác, nhất là đối
với các hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó đã được pháp luật qui định minh thị.
Ví dụ: hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng tặng cho bất động sản hoặc
động sản có đăng ký quyền sở hữu… Hơn nữa, pháp luật công chứng chỉ qui định văn
bản công chứng có hiệu lực từ thời điểm văn bản đó được công chứng và đóng dấu của
tổ chức công chứng, chứ không có qui định “hiệu lực hồi tố” của các văn bản này. Mặt
khác, ngày các bên chính thức ký hợp đồng là ngày hợp đồng được lập theo đúng thủ
tục công chứng, chứ không phải là thời điểm giao kết. Xét về mặt lô gích, hợp đồng
thiếu hình thức trong trường hợp này phải được xem là hợp đồng chưa có hiệu lực, vì
các bên chưa có quyết định cuối cùng để xác lập hợp đồng. Tuy vậy, vì hợp đồng đã
được giao kết, nên có thể xem đây là quan hệ tiền hợp đồng [230, tr.125-32; 257, tr.32-
37&39] [305]. Theo đó, hợp đồng tuy chưa có hiệu lực ràng buộc các bên, nhưng các
bên có những nghĩa vụ pháp định vì đã tự nguyện xác lập các cam kết đơn phương
bằng việc đưa ra đề nghị giao kết, hoặc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Vấn đề này cũng được TAND TC giải thích và hướng dẫn áp dụng trong hoạt
động xét xử bằng hai văn bản khác nhau cho hai loai hợp đồng khác nhau: hợp đồng
mua bán nhà ở và hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất. Theo đó: (i) Đối với hợp đồng
mua bán nhà không tuân thủ hình thức luật định mà các bên có tranh chấp, thì Tòa án
“quyết định buộc một hoặc các bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
thời hạn một tháng, kể từ ngày Toà án ra quyết định thực hiện các thủ tục để hoàn
thiện về hình thức của hợp đồng” [198, điểm b mục I.2.2.]; (ii) Đối với hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất được xác lập từ sau ngày 15/10/1993 nhưng có vi phạm
hình thức, thủ tục luật định mà các bên phát sinh tranh chấp và có đơn khởi kiện sau
ngày 01/07/2004 thì Tòa án “không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này”.
Có nghĩa các hợp đồng này vẫn được tòa án công nhận là có hiệu lực, nếu đáp ứng các
điều kiện xác định: đã trả tiền, hoặc đã giao đất [199, điểm b.2, b.3 mục II.2.3]…
Có thể thấy, đối tượng của hai loại hợp đồng đều là bất động sản có đăng ký
(quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng), hình thức của hợp đồng đều không đúng qui định
của pháp luật, nhưng hai văn bản trên lại đưa ra hai đường lối giải quyết không giống
109
nhau. Cách giải thích vấn đề này trong Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP cũng vượt xa ý
chí ban đầu của nhà làm luật, nếu không nói là trái luật. Bởi lẽ, theo qui định của
BLDS 2005, khi hợp đồng vi phạm hình thức, thủ tục luật định thì tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cần “buộc các bên phải thực hiện đúng hình thức của giao dịch
trong một thời hạn…” theo Điều 134 BLDS 2005 mới đúng. Mặt khác, theo qui định
tại Điều 692 BLDS 2005 và khoản 2 Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, hợp đồng
này chỉ có hiệu lực khi đã tuân thủ điều kiện về hình thức và đã được đăng ký quyền sử
dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất. Như vậy, hợp đồng vi
phạm hình thức trong trường hợp này phải được xem là không có hiệu lực. Các bên
phải hoàn trả lại cho nhau các lợi ích đã nhận theo hợp đồng. Nếu không hoàn trả được
bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền.
Tóm lại, việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vi phạm hình thức là
vấn đề pháp lý phức tạp, mà cả về lý luận cũng như thực tiễn pháp lý ở Việt Nam hiện
nay vẫn chưa có hướng giải quyết hợp lý. Sự phức tạp này xuất phát từ nguyên nhân
luật hiện hành chưa xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa hình thức hợp đồng với thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng, cũng như chưa có sự phân biệt rõ ràng hiệu lực ràng
buộc nghĩa vụ của các bên hợp đồng trước và sau khi hợp đồng bắt đầu có hiệu lực.
Chính vì thế, qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo qui định của BLDS
2005 cần phải được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn, đặc biệt là cần bổ sung hiệu
lực của các cam kết ‘tiền hợp đồng’ và hậu quả pháp lý khi các bên vi phạm nghĩa vụ
trong giai đoạn này.
(2) Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác lập bởi người không có
quyền đại diện. Có nhiều hợp đồng được xác lập bởi người không có quyền đại diện,
nhưng vẫn có thể được công nhận là hợp đồng có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện
do pháp luật qui định: (i) người đã giao dịch với người không có quyền đại diện đã
“thông báo cho người được đại diện hoặc người đại diện của người đó để trả lời trong
thời hạn ấn định”, và (ii) “người đại diện hoặc người được đại diện đồng ý”. Vấn đề
đặt ra là trong trường hợp này, hợp đồng bắt đầu có hiệu lực từ lúc nào: khi hợp đồng
thực tế được xác lập, khi người có quyền nhận được thông báo, hay khi người có
quyền thể hiện sự đồng ý. Tương tự, về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác
lập bởi người đại diện, nhưng vượt quá phạm vi đại diện. Một hợp đồng được người
đại diện xác lập vượt quá phạm vi đại diện thì phần vượt quá đó không có hiệu lực đối
110
với người được đại diện. Nhưng nếu “người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không
phản đối” thì phần hợp đồng vượt quá phạm vi đại diện vẫn có hiệu lực [15, khoản 1
Điều 146]. Vấn đề là phần hợp đồng vượt quá phạm vi đại diện đó có hiệu lực từ thời
điểm nào, người được đại diện có thể xác định lại thời điểm có hiệu lực của phần hợp
đồng vượt quá phạm vi đại diện theo ý chí của mình hay không. Đây cũng là vấn đề
mà BLDS 2005 còn để ngỏ, cần phải được làm rõ.
(3) Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác lập bởi người có năng lực
hành vi dân sự chưa đầy đủ hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và cần
phải có sự đồng ý của người đại diện. Đối với các hợp đồng được xác lập bởi những
cá nhân có năng lực hành vi dân sự không tương ứng với yêu cầu pháp lý của hợp
đồng (người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc chưa có năng lực hành vi dân sự
cần thiết để xác lập, thực hiện hợp đồng) thì cần phải có sự đồng ý của người đại diện
hợp pháp, thì hợp đồng đó mới có hiệu lực [15, Điều 20 và khoản 2 Điều 23]. Vấn đề
đặt ra là nếu hợp đồng đã được xác lập bởi người có năng lực hành vi chưa đầy đủ
hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi, rồi sau đó người đại diện hợp pháp mới biết
và thể hiện sự đồng ý, thì có được không, và nếu việc đồng ý thể hiện sau khi hợp
đồng được xác lập, thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm nào: lúc các
bên giao kết hợp đồng, hay khi người đại diện tuyên bố đồng ý. Vấn đề này cũng chưa
được pháp luật qui định rõ, nên cần phải được bổ sung vào BLDS 2005.
Những thiếu sót nêu trên đã phản ánh nội dung điều luật qui định về thời điểm
bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng là quá sơ sài, chưa dự liệu được hết các khả năng đặc
biệt được qui định trong các phần khác của BLDS. Để bảo đảm tính toàn diện và bao
quát của pháp luật, những nội dung trên đây cần được nghiên cứu để đưa vào qui định
trong cơ chế điều chỉnh pháp luật về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng.
3.2.2.2. Qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khi các bên “thỏa thuận
khác” là chưa rõ ràng và còn gây nhiều tranh cãi
Hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật qui định khác [15, Điều 405]. Nhiều luật gia thống nhất
quan điểm xem qui định này là nguyên tắc chung, các trường hợp còn lại (thời điểm do
pháp luật qui định hoặc do các bên thỏa thuận) là ngoại lệ [54, tr.392; 243, tr.97; 256,
tr.357; 276, tr.140]. Do đó, qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do các bên
thỏa thuận hoặc do pháp luật qui định được ưu tiên áp dụng. Chỉ khi nào các bên
111
không thỏa thuận và pháp luật không có qui định thì hợp đồng có hiệu lực tại thời
điểm giao kết. Vấn đề đặt ra là, liệu các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng khác với thời điểm giao kết hợp đồng, hoặc khác với thời điểm có hiệu
lực do luật định (?). Nhận thức vấn đề còn tồn tại ba quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng khác với thời điểm hợp đồng được giao kết, nhưng “việc lựa chọn này bị
loại trừ trong trường hợp pháp luật qui định một hình thức cụ thể, bắt buộc áp dụng
cho loại hợp đồng đó (Điều 404, Điều 405)” [53, tr.10]. Theo đó, về nguyên tắc các
bên có quyền thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, nhưng đối với thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng do pháp luật qui định thì các bên không được phép thỏa
thuận. Quan điểm này cũng được sự đồng thuận của các luật gia khác, gồm cả nhà
nghiên cứu cũng như người làm công tác thực tiễn.
Theo một nhà nghiên cứu, thời điểm do các bên thỏa thuận có thứ bậc ưu tiên
áp dụng thấp hơn thời điểm do pháp luật qui định: “để áp dụng thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng phải tuân thủ theo thứ tự: căn cứ vào qui định riêng của pháp luật,
trong trường hợp không có qui định riêng, nhưng có thỏa thuận, thì phải căn cứ vào
sự thỏa thuận, nếu không có qui định riêng và không có thỏa thuận thì căn cứ vào thời
điểm giao kết” [276, tr.140]. Ý kiến này không trực tiếp nói về việc các bên có thể thỏa
thuận thay đổi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với thời điểm có hiệu lực do
pháp luật qui định hay không, nhưng qua việc nêu lên thứ bậc áp dụng căn cứ chọn
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng như trên, các luật gia đã cho rằng, thời điểm do
pháp luật qui định có thứ bậc ưu tiên áp dụng cao hơn so với thời điểm do các bên thỏa
thuận. Theo nghĩa đó, các bên không được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng nếu thời điểm có hiệu lực của hợp đồng đó đã được pháp luật qui định.
Quan điểm này cũng được đồng thuận của luật gia làm công tác thực tiễn. Bằng
phương pháp phỏng vấn chuyên gia, tác giả cũng đã trao đổi vấn đề này với ông Phan
Văn Ch.- Trưởng phòng Công chứng nhà nước số 1, Tp. Hồ Chí Minh, thì được biết,
quan điểm của cá nhân ông về vấn đề này cũng tương tự như quan điểm vừa nêu. Theo
đó, nếu pháp luật qui định hợp đồng phải được lập bằng văn bản có công chứng, thì
hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp luật khi được công chứng. Các bên không thể thỏa
thuận thay đổi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là một thời điểm khác. Bởi lẽ,
khoản 3 Điều 4 Luật Công chứng 2005 đã qui định: “Văn bản công chứng có hiệu lực
112
kể từ ngày được công chứng viên ký và có đóng dấu của tổ chức hành nghề công
chứng”.16
Quan điểm thứ hai cho rằng, vì pháp luật hợp đồng chịu sự chi phối của nguyên
tắc tự do hợp đồng, nên các bên có thể thỏa thuận bất kỳ vấn đề nào liên quan trong
hợp đồng, miễn sao thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật. Thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng là nội dung cơ bản của hợp đồng. Và hiện cũng chưa tìm
thấy có qui định nào cấm các bên thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác
với thời điểm do pháp luật qui định. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận về thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng sớm hơn hoặc muộn hơn thời điểm giao kết hợp đồng, thậm
chí có thể thỏa thuận sớm hơn hoặc muộn hơn thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do
pháp luật qui định.
Quan điểm thứ ba cho rằng, đối với các hợp đồng mà “pháp luật có qui định về
thời điểm phát sinh hiệu lực” thì “hiệu lực của hợp đồng phát sinh phụ thuộc vào qui
định mang tính bắt buộc đó của pháp luật, các bên không được thỏa thuận thời điểm
hợp đồng phát sinh hiệu lực sớm hơn” [256, tr.357 – 8]. Như vậy, theo quan điểm này,
đối với các loại hợp đồng pháp luật có qui định về thời điểm có hiệu lực, thì các bên
chỉ có quyền thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng sau thời điểm do pháp luật
qui định, mà không được thỏa thuận về một thời điểm có hiệu lực sớm hơn thời điểm
do pháp luật qui định.
Tác giả đồng ý với quan điểm thứ ba. Bởi vì, pháp luật hợp đồng dựa trên nền
tảng của nguyên tắc tự do ý chí, nên không thể ngăn cấm các bên tự do thỏa thuận về
một thời điểm có hiệu lực của hợp đồng phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của mỗi
bên. Để đảm bảo quyền tự do hợp đồng, cần thiết phải cho các bên được thỏa thuận
chọn một thời điểm khác với thời điểm giao kết, hoặc thời điểm luật định. Nhưng tự do
nào cũng có giới hạn bởi lẽ công bằng và luật pháp. Xuất phát từ bản chất của quan hệ
hợp đồng, đề phòng việc ‘lẩn tránh’ pháp luật, phù hợp với các qui định khác về thời
hiệu, năng lực chủ thể, bảo vệ quyền lợi của người thứ ba, chọn luật áp dụng để giải
quyết tranh chấp…, thiết nghĩ nên cho phép các bên được thỏa thuận về thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng, nhưng không được lùi ngược về trước, sớm hơn thời điểm giao
kết hoặc sớm hơn thời điểm có hiệu lực của hợp đồng do pháp luật qui định.
16 Việc phỏng vấn được thực hiện vào 8g45 phút sáng ngày 02/12/2008, tại Phòng công chứng số 01, Tp. Hồ Chí Minh, số 97 Pasteur, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh.
113
Trong thực tiễn xét xử, vấn đề này dường như chưa được quan tâm đúng mức
và hiện vẫn còn chưa nhất quán trong nhận thức giữa các cấp tòa án. Ví dụ thực tế:
Quyết định giám đốc thẩm số 23/2008/DS-GĐT ngày 28 tháng 8 năm 2008 của về vụ
án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” của HĐTP – TANDTC
(Xem Phụ lục số 4). Trong vụ án này, các bên đã lập ra ba hợp đồng khác nhau về việc
chuyển nhượng một mảnh đất. Đầu tiên, nguyên đơn làm hợp đồng với công ty kinh
doanh nhà đất để nhận chuyển nhượng đất nền nhà, trả trước một số tiền. Sau đó,
nguyên đơn lại ký hợp đồng với bị đơn để sang nhượng lại mảnh đất nói trên cho bị
đơn (do ông Th. chồng của bị đơn đứng tên bên nhận) để lấy tiền chênh lệch. Tiếp đó,
nguyên đơn đã đến thương lượng lại với công ty xin chuyển nhượng hợp đồng cho ông
Th, và nhân danh ông Th nộp cho công ty khoản tiền còn lại. Công ty đồng ý cho
nguyên đơn được chuyển nhượng hợp đồng cho ông Th, nhưng yêu cầu nguyên đơn
nhân danh ông Th. ký tên vào hợp đồng mới, đồng thời ghi lùi ngày ký hợp đồng về
ngày tương ứng mà nguyên đơn đã ký hợp đồng lần đầu với công ty trước đây. Số hợp
đồng mới này vẫn giữ nguyên theo số hợp đồng lần đầu giữa nguyên đơn với công ty.
Nhận xét:
(1) Trong cùng một vụ việc, nhưng ba cấp xét xử lại có 03 nhận định khác nhau
về giá trị pháp lý của hợp đồng: cấp sơ thẩm cho rằng hợp đồng 180/HĐCN ngày
15/10/1994 giữa ông Th (do nguyên đơn ký thay) với công ty là hợp đồng vô hiệu, cấp
phúc thẩm cho rằng hợp đồng này là hợp đồng trái pháp luật và tuyên hủy bỏ, còn cấp
giám đốc thẩm cho rằng đây là hợp đồng hợp pháp và có hiệu lực pháp luật. Kết luận
thiếu nhất quán của ba cấp xét xử về cùng một vấn đề với những luận điểm rất khác
biệt, khiến cho người ta không khỏi nghi ngờ về tính nghiêm minh của pháp luật và
của công tác xét xử. Từ đó, vấn đề thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cần phải được
hiểu, giải thích, vận dụng nhất quán hơn.
(2) Một vấn đề pháp lý cần phải được làm rõ là hợp đồng 180/HĐCN ngày
15/10/1994 giữa ông Th (do nguyên đơn ký thay) với Công ty có ghi hiệu lực trước
ngày ký hợp đồng (hiệu lực từ 10/10/1994). Như vậy, các bên đã ghi “lùi ngày có hiệu
lực” của hợp đồng về trước ngày hợp đồng được giao kết, nhưng vẫn được cấp giám
đốc thẩm chấp nhận. Phải chăng điều này là chưa phù hợp với qui định của pháp luật
về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng (?). Hơn nữa, nếu việc chuyển nhượng này
được thực hiện đơn giản như trong vụ án mà vẫn được tòa chấp nhận thì tình trạng ‘lẩn
114
tránh’ pháp luật sẽ rất khó kiểm soát, nhất là trong việc chuyển nhượng quyền mua nền
nhà tái định cư hoặc liên quan đến việc thu thuế chuyển quyền sử dụng đất sẽ không
được đảm bảo thực hiện đúng qui định của pháp luật.17
Thiết nghĩ pháp luật cần qui định rõ về vấn đề này, theo hướng không cho phép
các bên thỏa thuận lùi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về trước thời điểm giao kết
để “lẩn tránh” pháp luật hoặc xâm phạm tới lợi ích công cộng và quyền lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức. Trước mắt khi chưa thể sửa đổi ngay qui định trên đây của
BLDS 2005, TAND tối cao cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để qui định nói trên được
nhận thức và áp dụng nhất quán.
3.2.3. Bất cập trong qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có điều kiện
Như đã phân tích trong phần trên, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có điều
kiện lệ thuộc vào việc giao kết và sự tồn tại của điều kiện hợp đồng. Một vấn đề quan
trọng liên quan đến điều kiện phát sinh hiệu lực của hợp đồng có điều kiện, là sự can
thiệp của ý chí các bên làm cho điều kiện đó xảy ra sớm hơn hoặc muộn hơn, hoặc cản
trở làm cho điều kiện đó không thể xảy ra, hoặc phải xảy ra không đúng bản chất của
nó. Thông thường, mọi sự can thiệp bởi ý chí chủ quan của các bên làm cho sự kiện
xuất hiện (xảy ra) hay mất đi (không xảy ra) trái với bản chất khách quan của chúng,
thì sự kiện đã xảy được coi như đã không xảy ra, và sự kiện đã không xảy ra sẽ được
coi như đã xảy ra. Ngoài ra, pháp luật cũng cần dự liệu trách nhiệm của các bên trong
“thời gian chờ” từ lúc giao kết hợp đồng cho đến khi sự kiện xảy ra hoặc không xảy ra.
Trong thực tiễn xét xử, tòa án các cấp cũng chưa có sự nhận thức nhất quán về
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có điều kiện. Ví dụ: Vụ án về “hợp đồng tặng cho
nhà đất” tại Bản án số 14/GĐT ngày 26/01/1999 của Tòa Dân sự - TANDTC (Xem
Phụ lục số 5). Hợp đồng tặng cho nhà đất giữa cụ T với bị đơn là hợp đồng tặng cho
có điều kiện. Điều kiện ở đây là bên được tặng cho phải làm một số công việc, như
nuôi dưỡng người tặng cho khi còn sống, mai táng và cúng giỗ người tặng cho sau khi
qua đời. Nội dung, hình thức của hợp đồng tặng cho và điều kiện tặng cho là hợp pháp.
17 Vấn đề này hiện đã có các văn bản pháp luật điều chỉnh: Theo Điều 14 Luật Kinh doanh bất động sản 2006, Điều 4 Nghị định 153/2007/NĐ-CP, Điều 39 Luật Nhà ở 2005 thì những trường hợp chuyển quyền góp vốn, quyền mua nền đất, căn hộ là chuyển nhượng bất động sản hình thành trong tương lai. Theo Thông tư 161/TT-BTC ngày 12/8/2009 của Bộ Tài chính, cá nhân góp vốn với các tổ chức, cá nhân xây dựng nhà để hưởng quyền mua căn hộ, nền nhà nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng lại chuyển nhượng cho người khác phần vốn và quyền mua nền, căn hộ đó thì phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản.
115
Thời điểm tặng cho trước 01/7/1980. Quyền sở hữu nhà được chuyển từ cụ T sang cho
bị đơn hoàn tất vào 1994.
Nhận xét:
1. Vấn đề cần phải được xem xét là hợp đồng tặng cho này đã có hiệu lực hay chưa, có
hiệu lực từ khi nào, và nguyên đơn có thể đòi lại nhà đã được tặng cho hay không. Cả
hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều cho rằng hợp đồng này đã có hiệu lực, nên nguyên
đơn không thể đòi lại nhà. Cấp giám đốc thẩm cho rằng hợp đồng này chưa có hiệu lực
và đáng lý phải bị hủy bỏ. Tuy không công nhận hợp đồng đã có hiệu lực, vì “đây là
hợp đồng tặng cho nhà có điều kiện và những điều kiện được đặt ra mới chỉ thực hiện
được một phần”, nhưng cấp giám đốc thẩm lại cho rằng, do “ông Y đã nhận nhà đất,
đã làm lại toàn bộ và thực hiện việc chăm sóc vợ chồng cụ T trên một thời gian dài…”
“nên cần chấp nhận cho ông Y được sở hữu, sử dụng ½ nhà đất của cụ T và xem xét
việc thanh toán nghĩa vụ, thanh toán chênh lệch tài sản thỏa đáng”. Như vậy, cả ba
cấp tòa vẫn chưa có sự thống nhất với nhau về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng này.
2. Theo cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm nhận định vụ việc theo hướng bên được tặng
cho đã hoàn thành phần lớn công việc, nên công nhận hợp đồng tặng cho là có hiệu
lực, nhưng phần nghĩa vụ còn lại chưa thực hiện xong thì thay thế bằng một nghĩa vụ
khác là buộc người có nghĩa vụ phải trả một khoản tiền để nguyên đơn thực hiện thay
nghĩa vụ nuôi dưỡng. Trái lại, cấp giám đốc thẩm cho rằng “nguyên đơn xin hủy hợp
đồng là có căn cứ” vì những điều kiện đặt ra “mới được bị đơn thực hiện một phần”,
có nghĩa theo cấp đốc thẩm, công việc phải được thực hiện hoàn tất thì hợp đồng mới
có hiệu lực. Nhưng cấp giám đốc thẩm cũng thừa nhận là bên được tặng cho đã thực
hiện phần lớn nghĩa vụ, nên vẫn công nhận hợp đồng có hiệu lực một phần.
Bởi vì nội dung của các qui định liên quan chưa bao quát hết các trường hợp
thực tế, nên việc áp dụng pháp luật của tòa án cần phải linh hoạt để phù hợp với yêu
cầu của thực tế và nguyên tắc công bằng. Cách giải quyết của tòa các cấp về vụ án này
tuy có thể xem là khá công bằng và có tình, nhưng lại không hoàn toàn đúng luật.
Đáng lý phải cho phép bên tặng cho hủy hợp đồng và đòi lại tài sản tặng cho mới
đúng. Qua thực tiễn giải quyết vụ này, nếu thừa nhận tính công bằng của hoạt động
thực tiễn xét xử, thì cũng có nghĩa là thừa nhận qui định của pháp luật về vấn đề liên
quan là còn nhiều bất cập và chưa bao quát hết thực tiễn phổ biến của đời sống. Từ đó,
đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung qui định của pháp luật hiện hành về nội dung này.
116
3.3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỜI ĐIỂM
CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
3.3.1. Sửa đổi, bổ sung toàn diện Điều 404 Bộ luật Dân sự 2005
Như đã phân tích, nội dung Điều 404 là chưa chặt chẽ do qui định này chỉ dựa
trên hình thức giao kết mà không dựa trên phương thức giao kết và hình thức trả lời
chấp nhận. Bố cục các khoản trong điều luật này cũng chưa lô gích, vì việc qui định
không theo trình tự đi từ nguyên tắc chung đến các trường hợp cụ thể. Các tình huống
dự liệu trong điều luật là chưa đầy đủ, và có phần chưa phù hợp với thực tế đời sống.
Từ thực trạng đó, tác giả kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Điều 404 như sau:
3.3.1.1. Cần xác định đúng nguyên tắc chung của thời điểm giao kết hợp đồng, và thiết
kế nội dung này thành khoản 1 Điều 404 BLDS 2005
Khoản 1 Điều 404 BLDS 2005 hiện hành qui định về trường hợp giao kết với
người vắng mặt. Để đảm bảo tính lô gích nội tại của Điều 404, trước hết, cần sửa đổi
kết cấu điều luật theo hướng: nguyên tắc chung mang tính phổ biến được qui định
trước, các trường hợp cụ thể, ngoại lệ được qui định sau. Lẽ tất nhiên, trường hợp giao
kết trực tiếp, bằng lời là trường hợp phổ biến nhất của thực tiễn đời sống, cần được
xem là nguyên tắc chung, thì được qui định trước. Các trường hợp giao kết gián tiếp,
hoặc việc trả lời giao kết bằng văn bản, bằng hành vi… là những trường hợp ngoại lệ,
ít phổ biến hơn được qui định sau. Cụ thể, khoản 1 Điều 404 được qui định như sau:
“1. Hợp đồng được giao kết tại thời điểm các bên đã thỏa thuận xong nội dung
của hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phải được giao kết theo
hình thức, thủ tục xác định thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm hoàn tất hình
thức, thủ tục đó.”
Như vậy, nội dung khoản 1 này đã định ra nguyên tắc chung của thời điểm giao
kết hợp đồng là hợp đồng được giao kết khi các bên thỏa thuận xong nội dung của hợp
đồng. Bên cạnh đó, qui định này cũng được trình bày theo hướng mở, làm cơ sở để
thiết kế những khoản tiếp theo của điều luật trong việc điều chỉnh những trường hợp
ngoại lệ. Ví dụ: khi các bên đã thỏa thuận xong nội dung hợp đồng, nhưng lại thỏa
thuận riêng điều khoản giao kết hợp đồng phụ thuộc vào một thủ tục nhất định, như
hợp đồng phải được lập bằng văn bản, hoặc phải được sự phê chuẩn của người có thẩm
quyền của bên tham gia đàm phán, hoặc hợp đồng được giao kết bằng thủ tục công
117
chứng, chứng thực, thì hợp đồng chỉ được giao kết khi văn bản đó đã được lập đúng
thể thức, hoặc đã được phê chuẩn bởi người có thẩm quyền xác định.
3.3.1.2. Sửa đổi, bổ sung qui định về thời điểm giao kết hợp đồng khi hợp đồng được
giao kết gián tiếp hoặc khi các bên dành thời gian chờ bên được đề nghị trả lời
Qui định thời điểm giao kết hợp đồng gián tiếp qua các phương tiện thông tin,
liên lạc được đưa lên khoản 1 Điều 404, như qui định hiện hành là chưa lô gích. Nội
dung của qui định này cũng chưa chặt chẽ. Để khắc phục những bất cập này, cần sửa
đổi theo hướng xác định rõ, đây là ngoại lệ của qui định về thời điểm giao kết hợp
đồng, và cần bổ sung thêm trường hợp các bên giao kết trực tiếp nhưng lại “dành thời
hạn để chờ bên được đề nghị trả lời”, đồng thời thiết kế qui định này thành khoản 2
của Điều 404. Về giải pháp, việc giao kết hợp đồng bằng phương thức gián tiếp
thường được pháp luật các nước xây dựng trên các học thuyết khác nhau, như thuyết
“tống phát”, “tiếp nhận”, “thông đạt” [168, tr.99-100]. Tác giả kiến nghị Quốc hội sửa
đổi, bổ sung khoản 2 Điều 404 theo hướng vẫn xác định thời điểm giao kết hợp đồng
trong trường hợp này vẫn dựa trên nguyên tắc “tiếp nhận”, tức là xác định thời điểm
giao kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận. Cụ thể:
“2. Khi hợp đồng được giao kết gián tiếp thông qua thư tín hoặc các phương
tiện thông tin, liên lạc khác, hoặc tuy được giao kết trực tiếp nhưng một hoặc các bên
dành một thời hạn để chờ bên được đề nghị trả lời, thì thời điểm giao kết hợp đồng là
thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết.”
Qui định như vậy tuy có khác với quan điểm của Nhật và một số nước theo hệ
thống Thông luật (Common Law), do các nước này theo nguyên tắc “tống phát” (hay
‘bày tỏ’) - tức “Postal rule” (hay ‘Mailbox rule’): hợp đồng được giao kết lúc thư trả
lời được gửi đi, nhưng quan điểm này lại phù hợp với quan điểm của nhiều quốc gia
khác theo hệ thống Châu Âu lục địa, Luật Hợp đồng Trung Quốc, và các tập quán
thương mại quốc tế [147, Điều 16; 37, Điều 18; 25, Điều 2.1.6. (2); 343, Điều 2: 205
(1)]. Giải pháp này cũng phù hợp với bản chất của hợp đồng, vì hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên. Hợp đồng chỉ được xác lập khi có sự ưng thuận, tức phải có sự
tuyên bố ý chí và có sự gặp gỡ ý chí giữa các bên. Hơn nữa, theo nguyên tắc công
bằng, bên được đề nghị là bên “lựa chọn phương thức truyền đạt thông tin và biết rõ
phương thức mình chọn có thể có những rủi ro hoặc chậm trễ”, và cũng là bên “có khả
năng hơn trong việc thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm chấp nhận đến nơi nhận”
118
[25, tr.94], nên bên được đề nghị phải là bên phải chịu rủi ro về việc truyền đạt thông
tin. Do đó, nếu việc chuyển thư trả lời chấp nhận không đến được với bên đề nghị thì
việc trả lời đó coi như chưa có hiệu lực.
3.3.1.3. Sửa đổi, bổ sung qui định về thời điểm giao kết hợp đồng khi các bên giao kết
hợp đồng bằng văn bản, hoặc khi bên được đề nghị trả lời bằng văn bản
Việc giao kết hợp đồng bằng văn bản trên thực tế là rất phong phú. Thực tiễn
pháp lý ở Việt Nam cũng từng có quan niệm cho rằng, văn bản không có nghĩa chỉ là
văn bản truyền thống, mà còn bao gồm cả những “tài liệu giao dịch: công văn, điện
báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng”, [214, Đoạn 1 Điều 11] thậm chí khái niệm văn
bản ngày nay còn bao gồm cả các văn kiện dưới dạng “điện báo, telex, fax, thông điệp
dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật” [154, Khoản 15 Điều 3].
Bởi vậy, Điều khoản này cần phân hóa cụ thể, theo hướng xác định các trường hợp
giao kết bằng văn bản khác nhau thì thời điểm giao kết hợp đồng có thể không giống
nhau, chứ không nên chỉ dự liệu bằng cách “bên sau cùng ký vào văn bản”, như khoản
4 Điều 404 BLDS hiện hành. Thiết nghĩ, qui định này nên dự liệu thời điểm giao kết
cả trong các trường hợp giao kết gián tiếp, trên cùng một văn bản; giao kết bằng nhiều
văn bản có nội dung giống nhau được mỗi bên lập ra để giao cho bên kia; và trường
hợp chỉ có bên được đề nghị trả lời chấp nhận bằng hình thức văn bản dựa trên đề nghị
của bên kia (không phân biệt đề nghị có được làm bằng văn bản hay không).
Mặt khác, để tránh sự tranh cãi không cần thiết, qui định này cũng cần giải
thích về văn bản có chữ ký hợp lệ của các bên là đủ, mà không cần phải được đóng
dấu, hoặc bất kỳ một thủ tục nào khác, trừ trường hợp có bằng chứng rõ ràng ngược
lại, theo qui định của pháp luật hoặc thỏa thuận của các bên. Ngoài ra, các hình thức
trả lời bằng thông điệp dữ liệu sẽ được qui định trong luật chuyên ngành. Tất cả các
nội dung này được thiết kế thành khoản 3 Điều 404, cụ thể như sau:
“3. Trong trường hợp việc giao kết hợp đồng được các bên xác lập trực tiếp,
trên cùng một văn bản, thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký
vào văn bản; nếu hợp đồng được lập thành nhiều văn bản có nội dung giống nhau, thì
hợp đồng được giao kết tại thời điểm mỗi bên đã ký vào văn bản của bên kia. Văn bản
được lập chỉ cần các bên hoặc người đại diện hợp pháp của các bên ký tên và ghi rõ
họ tên là đủ mà không cần phải có thêm thủ tục nào khác, kể cả việc phải đóng dấu
của các bên, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định điều này.
119
Nếu các bên giao kết hợp đồng bằng văn bản được gửi qua bưu điện, hoặc
phương tiện thông tin, liên lạc khác, hoặc nếu chỉ có trả lời chấp nhận là được làm
bằng văn bản, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên đề nghị nhận được văn
bản trả lời chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có
qui định khác.
Thời điểm nhận được thông điệp dữ liệu được áp dụng theo qui định của Luật
Giao dịch điện tử.”
3.3.1.4. Bổ sung qui định thời điểm giao kết hợp đồng khi bên được đề nghị trả lời
chấp nhận giao kết bằng hành vi cụ thể
Luật hiện hành không dự liệu trường hợp giao kết hợp đồng và trả lời chấp
nhận giao kết bằng hành vi cụ thể, mặc dù đây là hình thức giao dịch khá phổ biến
trong đời sống. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng nhiều giải pháp khác nhau, với
những hệ quả pháp lý khác nhau, và cần phải được cân nhắc thận trọng. Thiết nghĩ,
việc trả lời chấp nhận giao kết bằng hành vi có ba khả năng: bên được đề nghị trả lời
ngay bằng hành vi cụ thể; bên được đề nghị trả lời sau một thời gian xác định và có
thông báo về việc thực hiện hành vi cụ thể; bên được đề nghị trả lời sau một thời hạn
xác định nhưng không thông báo. Về nguyên tắc, việc giao kết là sự gặp gỡ ý chí giữa
các bên, nên khi các bên không trao đổi bằng lời nói hay văn bản, mà được thực hiện
bằng hành vi cụ thể, thì sự chấp nhận đó phải được thông tin cho bên đề nghị biết, trừ
trường hợp bên kia có thể biết được điều này do tập quán thương mại, hoặc do thói
quen giao dịch giữa các bên. Việc xác định thời điểm giao kết cũng có hai giải pháp có
thể lựa chọn: khi bên được đề nghị đã thực hiện hoàn thành hành vi, hoặc khi bắt đầu
thực hiện hành vi. Thiết nghĩ, cần phân biệt các trường hợp khác nhau như sau:
(i) Trả lời ngay: nếu việc trả lời được thực hiện ngay, bằng hành vi cụ thể thì
thời điểm giao kết là thời điểm bắt đầu hành vi cụ thể. Ví dụ: khách hàng vào quán gọi
thức ăn, tuy không trả lời nhưng chủ quán vẫn vào quán chuẩn bị thức ăn để mang ra
cho khách đúng như yêu cầu; hoặc khách hàng lên xe taxi và thông báo địa chỉ để tài
xế điều khiển xe đến vị trí xác định…, thì thời điểm giao kết là thời điểm bắt đầu thực
hiện hành vi cụ thể đó: chủ quán cho chuẩn bị món ăn, hoặc tài xế cho xe khởi hành.
Nhưng cũng không ít các trường hợp mà do qui ước, hoặc do có thỏa thuận trước, bên
được đề nghị phải thực hiện xong những hành vi cụ thể thì hợp đồng mới được giao
kết. Ví dụ: bên được hứa thưởng phải đạt được kết quả và bàn giao kết quả đó cho bên
120
hứa thưởng, thì sẽ được trả thưởng: “Trong trường hợp một công việc được hứa
thưởng do một người thực hiện thì khi công việc hoàn thành, người thực hiện công
việc đó được nhận thưởng” [15, khoản 1 Điều 592]. Bởi vậy, trong trường hợp này cần
phải qui định theo hướng: nguyên tắc chung là giao kết tại thời điểm bắt đầu thực hiện
công việc, trừ những ngoại lệ do pháp luật qui định, hoặc các bên có thỏa thuận khác.
(ii) Trả lời sau một thời hạn: Trong hoàn cảnh bình thường thì hợp đồng giao
kết tại thời điểm bên được đề nghị đã bắt đầu thực hiện công việc và bên đề nghị đã
nhận được thông báo về thời điểm bắt đầu công việc. Nhưng nếu bên thực hiện công
việc không chịu thông báo về việc bắt đầu thực hiện công việc, thì thời điểm giao kết
hợp đồng là thời điểm công việc được thực hiện hoàn thành.
(iii) Nếu do ấn định trước trong đề nghị, hoặc do thói quen được xác lập giữa
các bên, hoặc do tập quán mà việc chấp nhận bằng hành vi cụ thể không cần phải
thông báo, thì hợp đồng giao kết lúc bắt đầu công việc. Như vậy, nội dung này được
thiết kế thành ba đoạn khác nhau của khoản 4 Điều 404, cụ thể như sau:
“4. Trong trường hợp bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
bằng một hành vi cụ thể, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên được đề nghị
bắt đầu thực hiện hành vi đó, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.
Nếu hợp đồng được giao kết gián tiếp, hoặc tuy giao kết trực tiếp mà một hoặc
các bên dành một thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời, thì hợp đồng được giao kết
tại thời điểm bên đề nghị nhận được thông báo của bên được đề nghị về việc bắt đầu
thực hiện hành vi cụ thể đó. Nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận bằng việc thực
hiện một công việc cụ thể nhưng không thông báo về việc này cho bên đề nghị biết, thì
hợp đồng giao kết vào thời điểm hoàn thành công việc.
Nhưng nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, hoặc theo thói quen đã được xác
lập giữa các bên, hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chấp nhận đề nghị bằng
một hành vi cụ thể mà không cần phải thông báo cho bên đề nghị, thì hợp đồng được
giao kết khi bên được đề nghị bắt đầu thực hiện hành vi này.”
3.3.1.5. Bổ sung qui định về thời điểm giao kết hợp đồng bằng sự im lặng
Im lặng tự nó không phải là sự trả lời chấp nhận. Nhưng có thể do các bên thỏa
thuận trước (qui ước trước), do pháp luật qui định, hoặc do thói quen giữa các bên đã
được xác lập với nhau, thì im lặng cũng được xem như trả lời chấp nhận, với điều
121
kiện: (i) các bên có thỏa thuận ấn định thời hạn trả lời, (ii) hết thời hạn ấn định mà bên
được đề nghị đã không trả lời, và cũng không hành động gì (không phản đối), thì hợp
đồng được giao kết tại thời điểm đó. Trong qui định này, không nên đưa tập quán vào
làm căn cứ để xác định im lặng là giao kết hợp đồng, vì xác định tập quán trong trường
hợp này khá phức tạp. Hơn nữa, đã có qui định chung về việc áp dụng tập quán trong
việc giải quyết các tranh chấp dân sự tại Điều 3 BLDS 2005.
Để tránh sự lạm dụng của các thương gia, hạn chế việc xâm phạm tới quyền lợi
người tiêu dùng và bảo vệ quyền tự do kết ước, qui định này cần được loại trừ áp dụng
đối với việc đề nghị giao kết hợp đồng bằng cách gửi thông tin quảng cáo hàng hóa và
chào mời mua sản phẩm, hoặc bằng việc gửi hàng hóa trực tiếp đến người tiêu dùng.
Mặt khác, thông tin quảng cáo cũng không được xem là một đề nghị giao kết hợp
đồng, vì nội dung, tính chất của nó không đáp ứng các tiêu chuẩn pháp lý cần thiết.
Nhưng để tránh những tranh cãi hoặc sai lầm trong áp dụng pháp luật, trường hợp này
cần được loại trừ một cách minh thị. Theo đó, khoản 2 Điều 404 BLDS 2005 được sửa
đổi, bổ sung và thiết kế thành khoản 5 Điều 404 (mới) như sau:
“5. Theo thỏa thuận, hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên, hoặc
pháp luật có qui định im lặng là sự trả lời, và đề nghị giao kết hợp đồng có ấn định
thời hạn trả lời, thì hợp đồng cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà
bên được đề nghị vẫn im lặng. Qui định này không áp dụng đối với việc doanh nghiệp
bán hàng có gửi các thông tin quảng cáo hoặc gửi hàng hóa đến địa chỉ giao dịch của
người tiêu dùng.”
3.3.2. Sửa đổi, bổ sung qui định tại Điều 405 Bộ luật Dân sự 2005 về thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng
Cần bổ sung qui định về thời điểm có hợp đồng lực của hợp đồng do các bên
thỏa thuận. Nguyên tắc tự do hợp đồng cho phép các bên tự do thỏa thuận nội dung
của hợp đồng, nhưng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã
hội [15, Điều 128 và khoản 1 Điều 389]. Điều 405 BLDS 2005 cũng qui định các bên
có quyền thỏa thuận khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy vậy, việc thỏa
thuận này cụ thể như thế nào thì lại có nhiều ý kiến tranh cãi. Thực tiễn xét xử về vấn
đề này cũng chưa có sự nhất quán. Để có sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng qui
định này, thiết nghĩ cần làm rõ các vấn đề: các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng khác với thời điểm do pháp luật qui định hay không, và nếu có thì
122
giới hạn này là tới đâu (?). Theo tác giả, nên qui định các bên có quyền thỏa thuận thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng theo nguyên tắc tự do hợp đồng, nhưng cần phân biệt
sự khác nhau giữa các trường hợp sau:
- Thứ nhất, thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng muộn hơn thời điểm
giao kết, hoặc muộn hơn thời điểm có hiệu lực do pháp luật qui định: trường hợp này
về nguyên tắc là được, vì pháp luật không cấm. Thực tiễn pháp lý cho thấy, các bên có
thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng lùi về sau thời điểm hợp đồng được
giao kết hoặc sau thời điểm có hiệu do pháp luật qui định với loại hợp đồng đó. Thời
điểm này có thể được cách xác định bằng một mốc thời gian, hoặc bằng một sự kiện
pháp lý có thể xảy ra trong tương lai, hoặc bằng một điều kiện nhất định, trừ trường
hợp vi phạm điều cấm của pháp luật.
- Thứ hai, thỏa thuận lùi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về trước, sớm hơn
thời điểm giao kết. Ví dụ: hợp đồng được giao kết thực tế vào ngày 10/10/2008, nhưng
các bên thỏa thuận trong hợp đồng ngày 10/10/2007 là ngày bắt đầu có hiệu lực của
hợp đồng. Trường hợp này là không thể chấp nhận vì ba lý do sau: (i) Điều này mâu
thuẫn với bản chất pháp lý của hợp đồng vì hợp đồng chỉ được xác lập khi các bên
thỏa thuận xong nội dung của hợp đồng, và vì quan hệ hợp đồng giữa các bên chỉ tồn
tại khi hợp đồng đã được giao kết; (ii) Việc cho phép các bên tham gia thỏa thuận thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng lùi lại trước thời điểm giao kết hợp đồng có thể phát
sinh nhiều hậu quả pháp lý phức tạp, như tạo kẻ hở cho các bên “lẩn tránh” pháp luật
(trốn thuế, hợp thức hóa tài sản có nguồn gốc phạm pháp, hợp pháp hóa chứng từ, hóa
đơn, rút ngắn thời hiệu khởi kiện, lẩn tránh áp dụng pháp luật Việt Nam hiện hành…),
xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của người thứ ba (gây thiệt hại cho người thứ ba
ngay tình), trục lợi bất chính từ hợp đồng (ví dụ: trục lợi từ bảo hiểm); (iii) Thực tiễn
pháp luật của các nước theo hệ thống Anh - Mỹ cũng không chấp nhận các hợp đồng
có các nghĩa vụ đối ứng thuộc về quá khứ, mà thực chất là sự thỏa thuận giao kết hợp
đồng nhằm tái xác nhận công việc đã xảy ra trước đó. Ví dụ: A đã rửa xe cho B. Sau
đó, B đưa ra cam kết nếu A rửa xe cho B thì B sẽ trả cho A 10 USD. Trường hợp này,
B không phải trả cho A 10 USD như đã hứa vì trên thực tế, A đã rửa xe cho B trước
khi B hứa trả tiền. Đây là nghĩa vụ đối ứng đã qua (past consideration) nên không có
hiệu lực ràng buộc đối với các bên [324, tr.46; 301, tr.8]. Đây là một kinh nghiệm rất
đáng quan tâm khi xem xét sửa đổi các qui định liên quan nói trên.
123
Cần phân biệt thỏa thuận dời ngày có hiệu lực của hợp đồng về trước với việc
ghi lùi ngày ký hợp đồng. Ví dụ: A cho B thuê nhà với thời hạn 1 năm. Hợp đồng
được thỏa thuận bằng miệng. A đã giao nhà cho B sử dụng ngày 01/01/2008. Để hợp
thức hóa giấy tờ và làm thủ tục nộp thuế, nên đến ngày 30/10/2008, các bên đã làm
hợp đồng thuê nhà bằng văn bản, và ghi lùi ngày ký hợp đồng về trước đúng thời điểm
giao nhà trên thực tế. Trong trường hợp này, nếu các bên không có tranh chấp và
không xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người thứ ba, thì hợp đồng có thể được chấp
nhận, và pháp luật cũng không cần phải điều chỉnh. Nhưng nếu việc ghi lùi ngày ký
hợp đồng sớm hơn về trước ngày thực tế ký hợp đồng nhằm lập hợp đồng giả tạo,
nhằm “lẩn tránh” pháp luật, hoặc vi phạm điều cấm của pháp luật mà các bên có tranh
chấp, thì hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu theo qui định chung.
- Thứ ba, việc thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng khác với thời
điểm do pháp luật ấn định. Đây là vấn đề pháp lý phức tạp và hiện có nhiều ý kiến
khác nhau. Tuy nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng là nguyên tắc tự do hợp
đồng, nhưng việc thừa nhận quyền tự do hợp đồng không có nghĩa là cho phép các bên
xác lập các thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, hoặc xâm
phạm tới lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác. Hơn nữa, đối với các cơ quan có thẩm quyền công chứng, chứng thực hợp
đồng, thì việc kiểm tra tính hợp pháp của hợp đồng có thỏa thuận lùi ngày phát sinh
hiệu lực trở về trước thời điểm công chứng, chứng thực là vượt quá khả năng nghiệp
vụ, cũng như làm tăng nặng trách nhiệm nghề nghiệp của các cơ quan, tổ chức này và
gây ra các hậu quả pháp lý phức tạp, khó lường. Bởi vậy, không nên cho phép thỏa
thuận lùi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về sớm hơn thời điểm mà pháp luật đã ấn
định cho loại hợp đồng đó. Ví dụ: hợp đồng tặng cho nhà ở giữa cá nhân với nhau
được công chứng vào ngày 10/8/2008, thì không thể thỏa thuận lùi ngày có hiệu lực là
01/01/2008 vì đây là yêu cầu pháp lý tối thiểu để hợp đồng tặng cho nhà có hiệu lực;
hoặc hợp đồng cầm cố tài sản được xác lập vào ngày 01/01/2009 (ngày giao tài sản
cầm cố), thì không thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực là ngày 01/10/2008.
Từ nhận thức trên, tác giả kiến nghị bổ sung qui định cho phép các bên được
thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và thiết kế thành khoản 2 Điều 405:
“2. Các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là một thời
điểm xác định, nhưng không được sớm hơn thời điểm giao kết hợp đồng theo qui định
124
tại Điều 404 của Bộ luật này. Nếu pháp luật có qui định hợp đồng có hiệu lực tại một
thời điểm xác định, thì các bên không được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng sớm hơn thời điểm đó. ”
Theo qui định này, các bên được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
khác với thời điểm có hiệu lực mà pháp luật đã ấn định cho loại hợp đồng đó, nhưng
không được thỏa thuận hiệu lực hồi tố của hợp đồng về sớm hơn thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng do pháp luật qui định.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là vấn đề pháp lý quan trọng xác định thời điểm
khởi lưu của hiệu lực hợp đồng. Điều 405 BLDS 2005 qui định nguyên tắc: hợp đồng
được giao kết hợp pháp thì có hiệu lực đối với các bên từ thời điểm giao kết, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác, hoặc pháp luật có qui định khác. Ngoài ra, để
xác lập căn cứ pháp lý cho việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, BLDS
2005 cũng qui định chi tiết về trình tự giao kết hợp đồng, và đặc biệt là xác định rõ
thời điểm giao kết hợp đồng, dựa trên các hình thức khác nhau của hợp đồng.
2. Nhưng qua nghiên cứu cũng cho thấy, thực trạng các qui định này vẫn còn bộc lộ
nhiều thiếu sót, bất cập như: việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng dựa trên yếu tố
hình thức của hợp đồng là chưa khoa học, chưa chặt chẽ; nội dung điều luật chưa dự
liệu hết các tình huống của thực tiễn đời sống và bố cục điều luật cũng chưa hợp lý;
qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo thỏa thuận của các bên vẫn chưa
cụ thể nên còn gây ra nhiều cách hiểu khác nhau.v.v. Thực tiễn xét xử liên quan đến
việc xác định thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong một số
vụ án vẫn còn lúng túng và chưa có sự nhất quán giữa các cấp tòa án. Từ đó, đòi hỏi
cần phải xem xét lại một số qui định tại các Điều 404, Điều 405 BLDS 2005 về việc
xác định thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
3. Từ nhận thức đó, mục 3 trình bày ý kiến đề xuất sửa đổi, bổ sung toàn diện qui định
tại Điều 404 BLDS 2005, và sửa đổi, bổ sung một phần qui định tại Điều 405 BLDS
2005, với những gợi ý cụ thể về nội dung của từng điều khoản kèm theo, như: kiến
nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 404 về giao kết hợp đồng trong trường hợp bên
được đề nghị im lặng (thành khoản 5 mới), bổ sung qui định về giao kết hợp đồng
thông qua việc bên được đề nghị trả lời bằng hành vi cụ thể (thành khoản 4 mới)...
125
Chương 4
HIỆU LỰC RÀNG BUỘC CỦA HỢP ĐỒNG
Hiệu lực ràng buộc của hợp đồng là hệ quả pháp lý tất yếu thể hiện bản chất của
hiệu lực hợp đồng [227, tr.77].Trong hoàn cảnh thông thường thì bất kỳ ai tham gia
xác lập, giao kết hợp đồng cũng đều kỳ vọng các bên đối tác phải tôn trọng và thực
hiện đúng hợp đồng. Như một học giả đã từng nhận xét: “Chức năng của pháp luật
hợp đồng, suy cho cùng là tạo ra sự tự do cho các bên định đoạt và các cơ chế hỗ trợ
để sự tự định đoạt đó được tuân thủ, góp phần biến các thỏa ước giữa các cá nhân
hoặc tổ chức trở thành có hiệu lực như là luật” [200, tr.48-9]. Với ý nghĩa đó, vấn đề
hiệu lực ràng buộc hợp đồng luôn được xem là một trong những nội dung pháp lý quan
trọng được pháp luật của các quốc gia qui định cụ thể trong phần chung về hợp đồng,
và trong các qui định khác có liên quan. Chương này trình bày ba vấn đề: Khái niệm
và các qui định chung về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng; Một số bất cập trong pháp
luật và thực tiễn áp dụng các qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng; Kiến nghị
hoàn thiện các qui định của pháp luật về vấn đề này.
4.1. HIỆU LỰC RÀNG BUỘC CỦA HỢP ĐỒNG: KHÁI NIỆM VÀ CÁC QUI
ĐỊNH
4.1.1. Khái niệm hiệu lực ràng buộc của hợp đồng
Hợp đồng được giao kết, xác lập hợp pháp thì được pháp luật thừa nhận và bảo
đảm thực hiện, tức được pháp luật công nhận là có giá trị pháp lý. Các học giả cũng
cho rằng, khi hợp đồng đã được thiết lập, các bên tham gia phải tôn trọng và coi hiệu
lực của hợp đồng giống như sự ràng buộc của pháp luật [123, tr.173]. Điều này cho
phép lý giải vì sao BLDS Pháp lại chính thức thừa nhận “hợp đồng được giao kết hợp
pháp có giá trị là luật giữa các bên” [19, Điều 1134]. Giống như các nghĩa vụ pháp
định, nghĩa vụ trong hợp đồng cũng có thể được pháp luật bảo đảm thực hiện bằng sự
cưỡng chế của nhà nước. Vì thế, có thể ví hợp đồng như là ‘một phần’của pháp luật tư,
hay là một hình thức pháp luật ‘nối dài’ trong lĩnh vực luật tư.
Như vậy, có thể hiểu hiệu lực ràng buộc của hợp đồng là giá trị pháp lý của
hợp đồng, được pháp luật bảo vệ và bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp chế tài
thích hợp, nhằm buộc các bên tham gia phải tôn trọng, thực hiện đúng hợp đồng. Một
hợp đồng hợp pháp có hiệu lực ràng buộc và có giá trị như luật đối với các bên.
126
Sở dĩ nói hợp đồng có giá trị như luật đối với các bên, là nói đến việc thỏa
thuận trong hợp đồng giữa các bên đã tạo ra quyền và nghĩa vụ để ràng buộc giữa họ
với nhau, và các bên cũng bị buộc phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó giống như
các quyền và nghĩa vụ luật định. Như vậy, tuy các bên tham gia hợp đồng không phải
là những người có thẩm quyền sáng tạo luật (ví dụ như nhà lập pháp trong các nước
theo Luật thành văn, hoặc Tòa án trong các nước theo Luật án lệ), nhưng lại có thể tự
nguyện thỏa thuận làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý để ràng buộc lẫn nhau.
Các quyền và nghĩa vụ này được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện bằng các
biện pháp cưỡng chế mang tính pháp lý. Theo đó, hành vi của các bên vi phạm nghĩa
vụ trong hợp đồng cũng bị coi là hành vi trái pháp luật, và có thể bị buộc phải chịu
trách nhiệm pháp lý với những chế tài thích hợp.
Giá trị pháp lý giống như luật của hợp đồng còn được thể hiện ở chỗ nó đã tạo
ra sự ràng buộc mang tính pháp lý đối với các bên tham gia, nhằm buộc các bên tham
gia phải nghiêm túc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Nội dung
này đòi hỏi các bên phải tôn trọng và thực hiện đúng những gì mà các bên đã cam kết
trong hợp đồng một cách trung thực, thiện chí. Điều này cho phép suy rộng ra, hiệu
lực ràng buộc của hợp đồng có nghĩa là kể từ khi hợp đồng phát sinh hiệu lực, các bên
không được từ chối thực hiện hợp đồng, không được rút lại những gì đã cam kết, và tự
chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, nếu
không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp
luật [15, Điều 7].
Nhưng cũng cần phải xác định rõ hợp đồng không phải là luật. Bởi lẽ, hiệu lực
ràng buộc của hợp đồng không hoàn toàn giống hiệu lực của pháp luật, mà chỉ là giá
trị pháp lý hay sự ràng buộc mang tính pháp lý được pháp luật thừa nhận và bảo đảm
thực hiện. Nói chính xác, giá trị pháp lý của hợp đồng không thể được coi là “pháp
luật”, theo đúng bản chất của phạm trù này. Bởi vì, suy cho cùng, bất kỳ hợp đồng nào
được lập ra đều phải tuân thủ các giới hạn, các điều kiện pháp lý do pháp luật qui định
và có thể bị hủy bỏ, nếu hợp đồng được lập không hợp pháp.
Cũng có lúc các điều khoản của hợp đồng được áp dụng ưu tiên hơn pháp luật.
Pháp luật cho phép các bên tham gia hợp đồng được thỏa thuận xác lập hợp đồng với
bất kỳ nội dung và mục đích gì mà luật không cấm. Theo đó, các bên tham gia hợp
đồng cũng có quyền tự do định đoạt nội dung cụ thể của hợp đồng khác với pháp luật,
127
thậm chí ngoài pháp luật, miễn sao không trái luật. Khi xảy ra tranh chấp, cơ quan áp
dụng pháp luật sẽ căn cứ vào nội dung hợp đồng để giải quyết: chọn tòa án hoặc trọng
tài, chọn luật để làm căn cứ giải quyết tranh chấp, chọn lựa biện pháp trách nhiệm và
chế tài áp dụng cho những vi phạm hợp đồng…
Tuy vậy, hiệu lực của hợp đồng không thể so sánh được với hiệu lực của pháp
luật, vì pháp luật là tổng thể các “qui tắc xử sự chung” được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định, có tầm hiệu lực bao quát và có có giá
trị bắt buộc chung với mọi người [235, tr.66; 277, tr.126 -7]. Còn hợp đồng được giao
kết hợp pháp thì “có hiệu lực như pháp luật” [247, tr.11], nhưng “là pháp luật của các
bên” [4, tr.7]. Có nghĩa, hiệu lực của hợp đồng là tạo ra quyền và nghĩa vụ “riêng” cho
các bên chứ không có hiệu lực bắt buộc chung như pháp luật. Nói cách khác, hợp đồng
như các qui phạm tư nhân được tạo ra từ “ý chí của tư nhân” [168, tr.244] để ràng
buộc chỉ đối với các bên tham gia hợp đồng đó mà thôi. Bởi vậy, hiệu lực của hợp
đồng không phải là hiệu lực vượt lên trên pháp luật mà chỉ là hiệu lực được bảo đảm
bởi pháp luật. Sự bảo đảm của pháp luật được thể hiện ở nhiều khía cạnh, nhưng nổi
bật nhất là việc qui định cụ thể về các điều kiện, yếu tố pháp lý cần thiết để hợp đồng
có hiệu lực thi hành, và qui định về cơ chế pháp lý cần thiết để bảo đảm cho giá trị
pháp lý của hợp đồng được các bên tham gia, các cá nhân, tổ chức và cả cơ quan nhà
nước có thẩm quyền liên quan, phải tôn trọng và tuân thủ.
Tóm lại, có ba điểm khác biệt cơ bản giữa hiệu lực ràng buộc của hợp đồng so
với hiệu lực của pháp luật: một là, hợp đồng do ý chí tư nhân tạo ra còn pháp luật do ý
chí của nhà làm luật tạo ra; hai là, hợp đồng chỉ có hiệu lực với các bên liên quan còn
pháp luật có tính quyền lực bắt buộc chung đối với mọi chủ thể trong xã hội, kể cả với
nhà làm luật; ba là, hợp đồng được xác lập tuân theo các điều kiện luật định và hợp
đồng sẽ không có giá trị pháp lý nếu vi phạm các điều kiện đó.
Nhận thức và xác định đúng mức vấn đề hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn to lớn trong việc xây dựng và thực thi pháp luật. Trên cơ sở lý luận
này, nhà làm luật có thể đưa ra các qui định phù hợp về điều kiện có hiệu lực hợp
đồng, thời điểm có hiệu lực hợp đồng, các điều khoản thường lệ có tính chất bổ khuyết
cho các thiếu sót của hợp đồng, các căn cứ và các qui tắc giải thích hợp đồng, các biện
pháp pháp lý nhằm buộc các bên tham gia thực hiện đúng hợp đồng, cũng như các loại
trách nhiệm dân sự và các chế tài thích hợp khi có sự vi phạm hợp đồng…
128
4.1.2. Qui định chung của pháp luật về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng
Hiệu lực ràng buộc của hợp đồng không chỉ là sự tuân thủ hợp đồng một cách
chung chung mà là một hệ thống các nguyên tắc, các giải pháp mang tính cưỡng chế
phức tạp. Toàn bộ nội dung của hiệu lực ràng buộc hợp đồng được qui định rải rác
trong nhiều phần khác nhau của BLDS 2005 và các qui định khác của các luật chuyên
ngành về hiệu lực ràng buộc của các hợp đồng chuyên biệt. Nội dung mục này không
trình bày tất cả các qui định liên quan về việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng nói chung,
hay hiệu lực ràng buộc của các hợp đồng cụ thể nói riêng, mà chỉ tập trung làm rõ
những vấn đề pháp lý cơ bản nhất về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng trong phần các
qui định chung của BLDS 2005 về hợp đồng. Các nội dung cơ bản này được thể hiện
trong các nội dung cụ thể sau đây:
4.1.2.1. Các nguyên tắc chung của qui định về hiệu lực ràng buộc hợp đồng
Các qui định pháp luật về hiệu lực thi hành bắt buộc của hợp đồng là một bộ
phận quan trọng của chế định hợp đồng và chịu sự chi phối bởi tập hợp các nguyên tắc
pháp lý có liên quan, trong đó có các nguyên tắc chung sau đây:
(1) Nguyên tắc tôn trọng hiệu lực ràng buộc của hợp đồng: Đây là nguyên tắc
cơ bản nhất của qui định pháp luật về hiệu lực hợp đồng. Trước đây, nguyên tắc này
được chính thức ghi nhận tại Điều 404 BLDS 1995: “Hợp đồng được giao kết hợp
pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên”. Hiện Điều 404 BLDS 1995 đã được sửa
đổi bởi Điều 405 BLDS 2005, nhưng Điều 405 BLDS 2005 đã không giữ lại nội dung
tương ứng vừa nêu. Tuy vậy, tinh thần của nguyên tắc này cũng được thừa nhận trong
một qui định khác của BLDS 2005: “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt
buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn
trọng” (Đoạn 3 Điều 4). Theo tinh thần đó, không chỉ hợp đồng mà mọi cam kết, thỏa
thuận do các bên chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự tạo ra dựa trên sự tự do, tự
nguyện thì có hiệu lực thực hiện đối với các bên liên quan. Ngoài ra, các cam kết đó
còn được cá nhân, tổ chức khác tôn trọng. Đây là nguyên tắc cơ bản mang tính định
hướng và thể hiện bản chất của hiệu lực ràng buộc của hợp đồng.
(2) Ngoài nguyên tắc cơ bản nói trên, BLDS 2005 còn qui định các nguyên tắc
chung khác chi phối việc thực hiện nghĩa vụ dân sự và thực hiện hợp đồng dân sự nói
chung. Đó là các nguyên tắc: “Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng,
số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác” (khoản 1 Điều
129
412); “Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các
bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau” (khoản 2 Điều 412) và “Không được xâm phạm đến
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”
(khoản 3 Điều 412). Đồng thời, việc thực hiện nghĩa vụ nói chung còn phải tuân theo
qui định: “Bên có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung
thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không trái pháp luật, đạo đức xã hội”
(Điều 283). Việc cam kết thỏa thuận và thực hiện các quyền, nghĩa vụ cũng phải tôn
trọng nguyên tắc chung nhất của pháp luật dân sự là nguyên tắc tự do, tự nguyện cam
kết thỏa thuận (Điều 4).
Tóm lại, các qui định chung về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng chịu sự chi
phối của nhiều nguyên tắc. Trong đó, nguyên tắc tự do, nguyên tắc thiện chí, trung
thực, ngay thẳng, và nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng là các nguyên tắc quan trọng
chi phối việc xác lập, thực hiện hợp đồng. Hệ quả của nguyên tắc tự do ý chí là hợp
đồng được tạo lập hợp pháp thì có hiệu lực ràng buộc đối với các bên đã tự nguyện
chấp nhận nó. Hệ quả của nguyên tắc trung thực, thiện chí, ngay thẳng là hiệu lực
cưỡng chế buộc các bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng và không bên
nào được quyền đơn phương rút lui khỏi hợp đồng [247, tr.11]. Hệ quả của nguyên tắc
buộc thực hiện đúng hợp đồng là cơ sở pháp lý chung nhất cho việc xây dựng các qui
định về các giải pháp pháp lý tương ứng để thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng.
4.1.2.2. Buộc các bên tham gia phải thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng
Bên cạnh những qui định trực tiếp về các nguyên tắc thực hiện hợp đồng nêu
trên, pháp luật hiện hành còn có nhiều qui định khác liên quan để điều chỉnh việc thực
hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng, như qui định trong phần chung của BLDS 2005
(Điều 9), qui định tại mục 7 chương XVII (Điều 412 – 422), mục 2 chương XVII
(Điều 283 – 301), các qui định về thực hiện các hợp đồng cụ thể trong chương XVIII
về các hợp đồng thông dụng và các qui định về việc thực hiện hợp đồng chuyên biệt
trong các luật chuyên ngành. Trên tinh thần đó, BLDS qui định các bên tham gia hợp
đồng phải nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, và còn phải thực hiện đúng nội
dung của các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Theo BLDS 2005, việc thực hiện đúng
nội dung nghĩa vụ hợp đồng nghĩa là thực hiện đúng các yêu cầu sau đây:
- Thực nghĩa vụ hợp đồng đúng đối tượng. Đối tượng của hợp đồng có thể là tài
sản, công việc phải thực hiện, công việc không được thực hiện. Các điều kiện và yêu
130
cầu cụ thể về việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đúng đối tượng được qui định tại các
Điều 289 – Điều 291 BLDS 2005 và các qui định khác có liên quan.
- Thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đúng thời hạn. Thời hạn thực hiện hợp đồng là
khoảng thời gian do các bên thỏa hoặc pháp luật qui định mà trong khoảng thời gian
đó các bên có nghĩa vụ phải thực hiện xong nghĩa vụ của mình. Các điều kiện để việc
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được coi là đúng thời hạn được qui định tại các Điều 285
– Điều 287 BLDS 2005.
- Thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đúng địa điểm. Địa điểm thực hiện hợp đồng là
nơi diễn ra việc thực nghĩa vụ hợp đồng giữa bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền.
Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đúng các qui định về địa điểm thực
hiện nghĩa vụ tại Điều 284 BLDS 2005 và các qui định khác có liên quan.
- Thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đúng phương thức. Phương thức thực hiện hợp
đồng là cách thức, phương pháp hoặc biện pháp thích hợp tương ứng với bản chất, yêu
cầu của từng loại nghĩa vụ xác định mà bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng, nhằm
thỏa mãn quyền lợi của bên có quyền. Nội dung, điều kiện thực hiện nghĩa vụ đúng
phương thức được qui định tại các Điều 292 – 293, và Điều 297 – 301 BLDS 2005.
- Việc thực hiện đúng hợp đồng cũng có nghĩa phải thực hiện đúng tất cả các
nội dung, các điều kiện và điều khoản khác mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.
- Ngoài ra, BLDS 2005 cũng qui định về các nguyên tắc riêng biệt để thực hiện
các hợp đồng đơn vụ (Điều 413); thực hiện hợp đồng song vụ (Điều 414 & Điều 415);
thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba (Điều 419 – 421) và thực hiện hợp
đồng có thỏa thuận phạt vi phạm (Điều 422)…
Trên cơ sở có sự bảo đảm của pháp luật, bên có quyền được yêu cầu và bên có
nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh thực thi các nghĩa vụ của mình trong hợp đồng và theo
đúng các yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, hợp tác và ngay thẳng: “hợp đồng được lập
hợp pháp thì phải được các bên thực hiện nghiêm chỉnh và ngay tình” [227, tr.77].
Giá trị ràng buộc của hợp đồng còn được bảo đảm bởi pháp luật, bằng việc qui
định các chế tài pháp lý cần thiết khi các bên không thực hiện, thực hiện không đúng,
không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng. Bên vi phạm hợp đồng trong những trường hợp
không được pháp luật cho phép thì phải chịu trách nhiệm dân sự trước bên có quyền bị
vi phạm. Như vậy, hiệu lực cưỡng chế thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng được
131
thể hiện ở hai khía cạnh: sự bắt buộc phải thực hiện đúng các điều khoản của hợp đồng
và những biện pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng được tuân thủ.
4.1.2.3. Không được từ chối thực hiện nghĩa vụ và không được rút khỏi hợp đồng
Về mặt lô gích pháp lý, khi hợp đồng có hiệu lực, các bên không được từ chối thực hiện nghĩa vụ và không có quyền đơn phương rút khỏi hợp đồng, nếu điều đó không được qui định minh thị trong luật hoặc không được dự liệu trong hợp đồng. Nguyên tắc không đơn phương rút khỏi hợp đồng vừa là hệ quả tất yếu của hiệu lực bắt buộc của hợp đồng, vừa là mặt thứ hai của hiệu lực hợp đồng [227, tr.77]. Bởi lẽ, một khi hợp đồng đã được xác lập và có hiệu lực pháp luật thì không chỉ có giá trị pháp lý làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên, buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện, mà còn ngăn cản và không cho phép các bên được từ chối thực hiện nghĩa vụ hay hay rút lui khỏi hợp đồng. Đây chính là bản chất cốt lõi của hiệu lực hợp đồng.
Thông thường, khi nghiên cứu về hiệu lực hợp đồng, người ta thường chỉ chú
trọng tới hiệu lực ràng buộc các bên phải thực thi hợp đồng, chứ ít chú ý tới hiệu lực
ngăn cản các bên không được rút lui khỏi hợp đồng. Mặc dù nguyên tắc hiệu lực ràng
buộc các bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ của hợp đồng dường như đã bao hàm cả
việc các bên không được từ chối thực hiện và không được quyền rút lui khỏi hợp đồng.
Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, nguyên tắc không đơn phương rút lui khỏi hợp đồng
lại có tính độc lập tương đối và có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là trong các hợp
đồng song vụ, khi một bên không chịu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng vì cho rằng
bên kia vi phạm nghĩa vụ tương ứng đối với mình.
Ngược lại, một khi đã xem hiệu lực ngăn cản các bên không được rút lui khỏi
hợp đồng như là nguyên tắc thứ hai của hiệu lực hợp đồng, thì cũng có nghĩa là nhà
làm luật cần phải qui định những căn cứ hay những trường hợp ngoại lệ cho phép các
bên được quyền đơn phương rút khỏi hợp đồng, nếu có căn cứ hợp pháp.
Cùng với các nguyên tắc và các giải pháp cụ thể buộc các bên phải thực hiện
đúng hợp đồng và không được rút lui khỏi hợp đồng nếu không có căn cứ hợp pháp,
pháp luật hiện hành còn qui định về các biện pháp chế tài tương ứng để đảm bảo cho
việc tuân thủ nghiêm túc hợp đồng.
132
4.1.2.4. Hiệu lực ràng buộc của hợp đồng được bảo đảm bằng các biện pháp chế tài
thích hợp
Sự đảm bảo thực hiện của nghĩa vụ thường gắn với chế tài nhất định, vì khi “nói
tới sự ràng buộc pháp lý có nghĩa là nói tới sự cưỡng chế thi hành, và chế tài phải
được nhắc đến trong sự cưỡng chế đó” [38, tr.17]. Điều 7 BLDS 2005 cũng qui định
nếu các bên “không tự nguyện thực hiện (nghĩa vụ) thì có thể bị cưỡng chế thực hiện
theo quy định của pháp luật”. Để hiệu lực ràng buộc của hợp đồng được tôn trọng và
nghĩa vụ trong hợp đồng được thực hiện đúng, nhà làm luật thường qui định những chế
tài nhất định tương ứng với từng loại nghĩa vụ bị vi phạm. Chế tài là cơ sở pháp lý để
buộc bên vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu trách nhiệm dân sự nhất định. Nội dung của
trách nhiệm dân sự thường thể hiện dưới các hình thức cưỡng chế cụ thể mang tính tài
sản. Tùy vào đối tượng của hợp đồng mà pháp luật qui định những biện pháp cưỡng
chế khác nhau đối với bên vi phạm nghĩa vụ đó, như: buộc phải tiếp tục thực hiện
đúng các công việc đã được xác định trong hợp đồng, buộc phải bồi thường thiệt hại,
bị phạt vi phạm, bị phạt cọc (mất tài sản đặt cọc hoặc trả lại tài sản cọc và số tiền
tương đương), buộc sửa chữa tài sản, thay thế vật khác, buộc phải chịu giảm thu nhập,
buộc phải chịu chi phí và chịu rủi ro…
Theo qui định của pháp luật Việt Nam, các biện pháp trách nhiệm nhằm cưỡng
chế thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và hợp đồng nói riêng, được qui định cụ thể
trong mục 3, chương XVII, Phần thứ ba của BLDS 2005, từ các Điều 302 – Điều 308.
Ngoài ra, việc cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ trong các loại hợp đồng cụ thể còn được
qui định trong Chương XVIII, Phần thứ ba BLDS 2005 về các hợp đồng thông dụng
và trong các luật chuyên ngành. Nguyên tắc chung là: “Bên có nghĩa vụ mà không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên
có quyền” (khoản 1 Điều 302). Theo đó, BLDS 2005 qui định các chế tài cụ thể là:
- Nếu đối tượng của nghĩa vụ là một vật đặc định thì bên có nghĩa vụ phải giao
đúng vật đó hoặc phải thanh toán giá trị vật trong trường hợp vật giảm sút giá trị hoặc
vật bị mất mát hay bị tiêu hủy, đồng thời phải bồi thường thiệt hại (khoản 1, 3 Điều
303); nếu “bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại thì phải
thanh toán giá trị của vật”, đồng thời phải bồi thường thiệt hại (khoản 2, 3 Điều 303).
- Nếu đối tượng là công việc phải thực hiện mà bên có nghĩa vụ không thực
hiện “thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình
133
thực hiện hoặc giao cho người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ
thanh toán chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại” (khoản 1 Điều 304); nếu đối tượng
là công việc không được thực hiện mà bên có nghĩa vụ “lại thực hiện công việc đó thì
bên có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc thực hiện, khôi
phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại” (khoản 2 Điều 304).
- Đối với nghĩa vụ có thời hạn mà bên có nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ thì
“bên có quyền có thể gia hạn để bên có nghĩa vụ hoàn thành nghĩa vụ; nếu quá thời
hạn này mà nghĩa vụ vẫn chưa được hoàn thành thì theo yêu cầu của bên có quyền,
bên có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại; nếu việc thực
hiện nghĩa vụ không còn cần thiết đối với bên có quyền thì bên này có quyền từ chối
tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại” (khoản 1 Điều 405);
“Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền
chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời
gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác” (khoản 2 Điều 405).
- Nếu do bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự làm phát
sinh thiệt hại cho bên có nghĩa vụ “thì phải bồi thường thiệt hại cho người đó và phải
chịu mọi rủi ro xảy ra kể từ thời điểm chậm tiếp nhận, trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác” (Điều 406).
- Ngoài ra, khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ mà gây thiệt hại cho bên có
quyền thì bên vi phạm nghĩa vụ còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
bên có quyền bị vi phạm (Điều 407 và Điều 408).
Nhìn chung, pháp luật Việt Nam đã qui định rất cơ bản về các biện pháp cưỡng
chế cụ thể tương ứng với từng loại nghĩa vụ khi nghĩa vụ đó bị vi phạm; các giải pháp
cưỡng chế được đưa ra là khá toàn diện và tương đối cụ thể. Theo đó, nhà làm luật
Việt Nam qui định biện pháp cưỡng chế thực hiện đúng nội dung các nghĩa vụ trong
hợp đồng là biện pháp ưu tiên. Trong trường hợp nghĩa vụ hợp đồng không thể thực
hiện được thì có thể sử dụng những biện pháp cưỡng chế khác thay thế, như phạt vi
phạm nếu các bên có thỏa thuận (Điều 422), phạt cọc (khoản 2 Điều 358), bồi thường
thiệt hại (Điều 307), chịu rủi ro đối với tài sản (Điều 306, khoản 5 Điều 498, khoản 3
Điều 546, Điều 533…).
134
Ngoài các qui định chung vừa trình bày, BLDS 2005 còn dự liệu một số trường
hợp ngoại lệ để đảm bảo cho hiệu lực ràng buộc của hợp đồng được tôn trọng dựa trên
nguyên tắc trung thực, thiện chí, hợp tác và nguyên tắc công bằng. Ví dụ: theo BLDS
2005, một bên có quyền hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng theo các căn cứ
và điều kiện do pháp luật qui định (Điều 425 & Điều 426); quyền hoãn thực hiện nghĩa
vụ trong hợp đồng song vụ (Điều 414); không thể thực hiện nghĩa vụ do lỗi của bên có
quyền (Điều 417); không thể thực hiện được nghĩa vụ nhưng không do lỗi của bên nào
(Điều 418)… Tuy vậy, do giới hạn về phạm vi và dung lượng của Luận án nên phần
này không trình bày về các ngoại lệ nêu trên.
4.2. MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
CÁC QUI ĐỊNH VỀ HIỆU LỰC RÀNG BUỘC CỦA HỢP ĐỒNG
4.2.1. Hiệu lực ràng buộc của hợp đồng chưa được pháp luật hiện hành qui định cụ
thể
Vấn đề hiệu lực ràng buộc của hợp đồng từng được qui định trong BLDS 1995
(Điều 404). Tuy vậy, qui định này không được đưa vào trong Điều luật tương ứng –
Điều 405 BLDS 2005. Thoạt nhìn, có thể lầm tưởng BLDS 2005 cũng có qui định về
hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, vì tiêu đề của Điều luật này là “Hiệu lực của hợp
đồng”. Tuy vậy, nội dung của Điều 405 BLDS 2005 không phản ánh điều đó, vì qui
định này chỉ điều chỉnh về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: “Hợp đồng được giao
kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác”. So với BLDS 1995 thì BLDS 2005 đã bỏ đi các qui
định cụ thể về hiệu lực hợp đồng.
Như vậy, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng hiện là vấn đề còn bị ‘bỏ ngỏ’ trong
luật hiện hành. Riêng đối với cách qui định hiện nay tại Điều 405 BLDS 2005, theo tác
giả, vẫn còn những điểm cập sau đây:
Thứ nhất, về kỹ thuật pháp lý, giữa nội dung với tiêu đề của điều luật chưa
có sự thống nhất. Có thể thấy, với tiêu đề là “Hiệu lực của hợp đồng dân sự”, thì nội
dung tương ứng của điều luật phải là những qui định phản ánh đúng bản chất của vấn
đề hiệu lực của hợp đồng, đó là hiệu lực ràng buộc của hợp đồng và hiệu lực ngăn cấm
việc đơn phương chấm dứt hợp đồng. Tuy vậy, nội dung thực tế của điều luật chỉ thuần
túy đề cập đến thời điểm có hiệu lực của hợp đồng: “Hợp đồng được giao kết hợp
pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp
135
luật có quy định khác”. Với nội dung này, thì tiêu đề tương ứng của điều luật phải là
“Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng”. Như thế cũng vừa sát với nội dung, vừa thể
hiện tính thống nhất liên tục với qui định liền kề trước đó (Điều 404) về thời điểm giao
kết hợp đồng. Đây là sự thiếu sót về mặt kỹ thuật lập pháp, vì nội dung điều luật diễn
đạt chưa đúng với tinh thần mà điều luật đáng lẽ phải thể hiện. Vì thế, hiệu quả điều
chỉnh của điều luật bị giảm đi đáng kể. Tác giả cho rằng, tiêu đề của điều luật như trên
là không phù hợp, vì mục đích của điều luật này chỉ điều chỉnh về thời điểm có hiệu
lực của hợp đồng. Nếu muốn giữ lại nội dung như trên, thì tiêu đề của điều luật cần
phải được diễn đạt lại cho phù hợp.
Thứ hai, Điều 405 BLDS 2005 đã không qui định rõ giá trị pháp lý của hợp
đồng. Nguyên tắc cơ bản của hiệu lực ràng buộc hợp đồng là hợp đồng được giao kết
hợp pháp thì có hiệu lực làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được pháp
luật bảo vệ. Tuy nhiên Điều 405 lại không qui định trực tiếp nguyên tắc này, mà chỉ
qui định về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Sự ngắn gọn quá mức của điều luật đã
làm cho nó trở nên thiếu những thông tin cần thiết để có thể diễn đạt đúng tinh thần mà
nhà làm luật cần thể hiện. Để hiểu được giá trị pháp lý hợp đồng là gì, các chủ thể liên
quan cần phải quay trở lại phần nguyên tắc chung của BLDS 2005 để “giải mã” khoản
3 Điều 4: “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các
bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”. Nhưng qui định tại
khoản 3 Điều 4 BKDS 2005 cũng chỉ là nguyên tắc chung, nên nội dung của nó chưa
thật rõ ràng và cụ thể để có thể vận dụng trực tiếp vào việc xác định giá trị pháp lý của
hợp đồng.
Cách qui định như vậy cũng gây khó khăn cho việc nhận thức và áp dụng pháp
luật. Bởi lẽ, Điều 405 BLDS 2005 là qui định trực tiếp về hiệu lực hợp đồng, nhưng
qui định này lại không xác định rõ hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, và những ai là
người phải tuân thủ hiệu lực ràng buộc đó. Còn khoản 3 Điều 4 lại qui định về hiệu lực
của các “cam kết, thỏa thuận” nói chung. Phạm vi ràng buộc hiệu lực của các cam kết,
thỏa thuận được qui định tại khoản 3 Điều 4 là quá rộng, không chỉ là hiệu lực bắt
buộc đối với các bên tham gia hợp đồng, mà còn “có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối
với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”.
Có thể thấy, các thuật ngữ cam kết, thỏa thuận là những khái niệm chung dùng
để chỉ mọi cam kết thỏa thuận trong lĩnh vực dân sự. Còn thuật ngữ hợp đồng là khái
136
niệm dùng để chỉ một loại giao dịch cụ thể, có những điều kiện và những yêu cầu pháp
lý đặc thù. Hơn nữa, khoản 3 Điều 4 qui định về nguyên tắc chung áp dụng cho mọi
cam kết, thỏa thuận, và được đặt trong phần chung của bộ luật. Trong khi Điều 405 là
qui định riêng biệt, chỉ dùng để điều chỉnh riêng về vấn đề hiệu lực hợp đồng, áp dụng
riêng cho chế định pháp luật hợp đồng. Cách qui định như vậy làm cho nội dung điều
luật trở nên chưa rõ ràng minh bạch, thiếu tính lô gích, làm cho người đọc có cảm giác
như bị “đánh đố” trong việc tra cứu và áp dụng pháp luật.
Tóm lại, cùng là cơ sở pháp lý để qui định về cùng một vấn đề pháp lý - hiệu
lực của sự ràng buộc, nhưng hai điều luật lại thể hiện phạm vi điều chỉnh và mức độ
tác động khác nhau, lại được đặt ở vị trí cách xa nhau như vậy đã gây nhiều khó khăn
cho việc nhận thức, tra cứu, giải thích và áp dụng các qui định của pháp luật.
Thứ ba, Điều 405 BLDS 2005 không xác định hiệu lực tương đối của hợp
đồng và cũng không qui định nghĩa vụ không được đơn phương sửa đổi, chấm dứt
hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng được pháp luật tôn trọng và bảo đảm thực hiện như
pháp luật. Nhưng hiệu lực hợp đồng không ràng buộc quyền và nghĩa vụ đối với tất cả
mọi người mà chỉ ràng buộc chủ yếu đối với các bên tham gia hợp đồng. Hơn nữa,
hiệu lực hợp đồng cũng không cho phép các bên tự ý sửa đổi hoặc đơn phương chấm
dứt thực hiện hợp đồng. Vì vậy, hiệu lực ngăn cấm việc từ chối thực hiện hợp đồng
hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng là một nội dung cơ bản của hiệu lực ràng buộc
hợp đồng. Đây chính là căn cứ pháp lý để qui định các nội dung khác như: hoãn thực
hiện nghĩa vụ, căn cứ pháp lý và hậu quả của việc hủy hợp đồng hoặc đơn phương
chấm dứt hợp đồng.v.v.
Trong thực tiễn xét xử, đôi khi tòa án còn phải tìm kiếm và vận dụng cả các qui
phạm đạo đức như ý niệm “uy tín”, “lương tâm” để giải thích về hiệu lực ràng buộc
của hợp đồng. Ví dụ: Tại Bản án số 54/2006/KDTM của TAND Tp. Hồ Chí Minh, tòa
đã có nhận định: “xét việc bị đơn thừa nhận ngày 27/6/2005 bị đơn mới giao tiền cho
nguyên đơn nhưng cũng không giao đủ là có vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nhưng do
tình hình công ty của bị đơn khó khăn, nợ nần chồng chất, yêu cầu nguyên đơn làm ăn
phải lấy lương tâm giải quyết, là không chấp nhận được, vì hai bên đã giao kết hợp
đồng, quyền và nghĩa vụ phát sinh, lương tâm hoặc uy tín chính là việc thực hiện đúng
hợp đồng đã ký kết” [54, tr.376]. Lập luận này nói lên nhu cầu xác định cơ sở pháp lý
để xác nhận hiệu lực ràng buộc hợp đồng là nhu cầu có thật. Điều này chứng tỏ việc
137
qui định về hiệu lực hợp đồng để làm căn cứ pháp lý chính thức cho việc giải quyết
các tranh chấp có liên quan tới hiệu lực hợp đồng, là rất cần thiết.
Như vậy, Điều 405 BLDS 2005 chưa thể hiện đúng yêu cầu điều chỉnh pháp
luật về hiệu lực hợp đồng. Hơn thế nữa, nếu vẫn muốn Điều 405 BLDS 2005 giữ vai
trò qui định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, thì tiêu đề Điều luật này cần phải
được sửa đổi cho phù hợp; đồng thời cần bổ sung một Điều luật mới để qui định minh
thị về nguyên tắc hiệu lực ràng bắt buộc của hợp đồng và các ngoại lệ của nó.
4.2.2. Một số qui định về các biện pháp chế tài do không thực hiện hợp đồng là
chưa phù hợp với bản chất của nghĩa vụ, và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế
Pháp luật qui định buộc bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm về việc không tôn trọng, không thực hiện đúng các nghĩa vụ trong hợp đồng. Sự vi phạm hiệu lực của hợp đồng dẫn tới hậu quả người vi phạm bị buộc phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế thích hợp. Thực tiễn pháp luật cho thấy các qui định này có một số bất cập sau đây:
4.2.2.1. Qui định tại khoản 1 Điều 303 về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ giao vật
đặc định, là chưa đầy đủ và chưa bao quát hết các trường hợp thực tế
Khoản 1 Điều 303 BLDS 2005 qui định: “khi bên có nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ
phải giao đúng vật đó; nếu vật không còn hoặc bị hư hỏng thì phải thanh toán giá trị
của vật”. Khái niệm vật đặc định được qui định tại khoản 2 Điều 179 BLDS 2005:
“Vật đặc định là vật phân biệt được với các vật khác bằng những đặc điểm riêng về ký
hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, vị trí”. Theo đó, điều luật dự liệu hai giải
pháp cưỡng chế cho ba trường hợp vi phạm nghĩa vụ giao vật đặc định: không giao vật
thì phải giao đúng vật đó; vật không còn, hoặc vật bị hư hỏng thì phải thanh toán giá
của vật. Theo tác giả, các qui định này chưa hợp lý và chưa bao quát hết các trường
hợp vi phạm cũng như các giải pháp cưỡng chế thích ứng đối với việc vi phạm nghĩa
vụ giao vật đặc định. Các thiếu sót đó là:
(i) Thứ nhất, đối với trường hợp vi phạm nghĩa vụ giao vật đặc định, nhà làm
luật dự liệu ba trường hợp là: không thực hiện nghĩa vụ, hoặc không thể thực hiện
được do vật không còn, hoặc do vật đã bị hư hỏng. Vấn đề cần làm rõ ở đây là khái
niệm “vật không còn”, bởi vì vật không còn thông thường được hiểu là vật đã bị mất
mát, hoặc bị tiêu hủy mà không còn tồn tại trên thực tế. Tuy nhiên, trong nhiều trường
138
hợp vật tuy còn trên thực tế, nhưng đã bị chuyển giao cho người khác, thì được xem là
vật hiện còn hay vật không còn. Đây là vấn đề hiện còn nhiều cách hiểu và rất cần
được giải thích, làm rõ. Xác định đúng vấn đề này có ý nghĩa quyết định tới việc chọn
biện pháp cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ thích hợp.
Trong thực tiễn xét xử, việc xác định biện pháp cưỡng chế trong những trường
hợp như vậy cũng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ: tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ
giao kios trong Bản án số 583/2007/DSPT ngày 06/11/2007 của TAND tỉnh An Giang,
V/v tranh chấp “Hợp đồng Sử dụng kios” (Xem Phụ lục số 6): bị đơn và nguyên đơn
có hợp đồng thuê mặt bằng kinh doanh. Theo đó, bị đơn phải giao cho nguyên đơn một
kios ở một vị trí xác định trên bản đồ đã được công bố công khai. Sau đó, bị đơn đã tự
ý thay bản đồ này bằng một bản đồ khác không được công bố, làm thay đổi vị trí của
kios mà nguyên đơn đã chọn. Dựa vào bản đồ mới, bị đơn đã giao cho nguyên đơn một
kios trên thực địa ở một ví trí khác với thỏa thuận ban đầu (so với bản đồ đã công bố)
và rất bất lợi cho nguyên đơn trong việc kinh doanh.
Tòa cấp sơ thẩm cho rằng, tuy bị đơn có lỗi giao không đúng kios, nhưng kios
đã giao cho người khác, nên không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi thực hiện
đúng hợp đồng, mà chỉ có thể buộc bị đơn phải trả lại tiền chuyển nhượng và bồi
thường thiệt hại. Tuy nhiên, cấp phúc thẩm lại cho rằng cách giải quyết như cấp sơ
thẩm là chưa phù hợp, và cho rằng vụ án cần được xử lại theo hướng “Nhằm bảo đảm
quyền lợi cho ông Phước không bị mất việc kinh doanh quần áo may sẵn là ngành
nghề chính của gia đình ông Phước từ trước đến nay, cần phải xem xét việc tiếp tục
thực hiện hợp đồng giao kios số 45 lô B vị trí tiếp giáp lối đi chính vào chợ trung tâm
cho ông Phước. Hoặc nếu không thể giao kios được thì phải định giá kios ở vị trí này
theo giá sang nhượng thực tế trong các hộ kinh doanh để bồi thường thiệt hại cho ông
Phước”. Như vậy, trong vụ án này, quan điểm giữa hai cấp tòa án có sự khác biệt trong
việc chọn lựa giải pháp cưỡng chế thực hiện hợp đồng.
Có thể khẳng định kios 45 lô B trong hợp đồng nói trên là một vật đặc định vì
có đặc điểm, vị trí xác định trên bản đồ đã được công bố. Nhưng bị đơn đã không giao
đúng kios đó cho nguyên đơn, vì kios đó đã được giao cho người thứ ba, bằng một hợp
đồng khác. Vấn đề vướng mắc trong vụ án này là, cần phải xác định rõ kios đã được
giao cho người thứ ba là vật hiện còn hay vật không còn (?). Các bản án của hai cấp
tòa không xác định kios này là gì, nên không phân tích theo hướng vật hiện còn hay
139
vật không còn. Nhưng theo cách lập luận của cấp sơ thẩm, có thể suy đoán là cấp sơ
thẩm xem kios trong trường hợp này là vật không còn vì cấp sơ thẩm chỉ buộc bị đơn
thanh toán giá trị của kios (20 triệu đồng) và buộc bị đơn bồi thường do đã vi phạm
hợp đồng, chứ không buộc phải tiếp tục giao đúng đối tượng của hợp đồng.
Ngược lại, cấp phúc thẩm chú trọng vào việc tuân thủ nghiêm túc hợp đồng,
nên buộc bị đơn phải giao đúng kios 54 lô B nhằm đảm bảo cho nguyên đơn không bị
mất việc kinh doanh vì đây là ngành nghề chính của nguyên đơn. Theo đó, có thể suy
đoán quan điểm của cấp phúc thẩm xem đây là trường hợp vật hiện còn, cần phải “tiếp
tục thực hiện hợp đồng giao kios số 45 lô B vị trí tiếp giáp lối đi chính vào chợ trung
tâm cho ông Phước”. Nhưng chính cấp phúc thẩm cũng không hoàn toàn chắc chắn, vì
còn đồng thời đưa ra hướng cưỡng chế khác: “Hoặc nếu không thể giao kios được thì
phải định giá kios ở vị trí này theo giá sang nhượng thực tế trong các hộ kinh doanh
để bồi thường thiệt hại cho ông Phước”. Theo đó, cấp phúc thẩm cho rằng, nếu không
thể giao được đúng kios đã xác định thì có thể bồi thường thiệt hại theo thời giá.
Qua phân tích nội dung vụ án trên cho thấy, cách nhìn nhận của cơ quan xét xử
về vấn đề thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định khi vật không còn trong trường hợp vật
đã được chuyển giao cho người khác bằng một giao dịch hợp pháp, hiện vẫn chưa nhất
quán. Nguyên nhân chủ yếu có lẽ là do qui định tại khoản 1 Điều 303 BLDS 2005 về
vật đặc định không còn (do đã được chuyển giao cho người thứ ba) chưa rõ ràng, gây
ra nhiều cách hiểu khác nhau. Bởi vậy, nội dung này rất cần được qui định cụ thể,
nhằm bảo đảm có sự nhất quán trong nhận thức và áp dụng pháp luật.
(ii) Thứ hai, đối với trường hợp vật đặc định bị hư hỏng hoặc giảm sút một
phần giá trị (có nghĩa vật vẫn còn tồn tại trên thực tế), luật chỉ qui định một giải pháp
cưỡng chế: buộc phải thanh toán giá trị. Qui định như vậy là chưa đầy đủ vì còn nhiều
giải pháp khác để lựa chọn, chứ không nhất thiết trường hợp nào cũng cần phải thanh
toán giá trị. Bởi lẽ, tuy vật bị hư hỏng, giảm sút giá trị, nhưng mức độ hư hỏng, giảm
sút giá trị không đáng kể, và nếu tình trạng của vật vẫn bảo đảm đầy đủ tính chất, tính
năng, công dụng như bình thường (trừ trường hợp việc hư hỏng hoặc giảm sút giá trị
đó làm cho việc khai thác, sử dụng vật vào một việc nhất định là không thể thực hiện
được). Bởi vậy, nếu điều luật chỉ qui định một giải pháp cưỡng chế như trên thì vô tình
tước bỏ cơ hội được lựa chọn theo hướng có lợi hơn của bên có quyền bị vi phạm.
Trong trường hợp bên nếu có quyền vẫn tự nguyện chấp nhận buộc bên vi phạm vẫn
140
phải giao vật và bồi thường, thì tòa án sẽ không có căn cứ pháp lý cụ thể để xem xét.
Thiết nghĩ, trong qui định này, nhà làm luật cần mở rộng hơn danh sách các giải pháp
cưỡng chế nhằm đảm bảo tối ưu quyền lợi của bên có quyền bị vi phạm.
4.2.2.2. Giải pháp cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ giao vật cùng loại qui định tại khoản
2 Điều 303 BLDS 2005 là chưa linh hoạt
Khoản 2 Điều 303 qui định “Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa
vụ giao vật cùng loại thì phải thanh toán giá trị của vật”. Theo khoản 1 Điều 179 thì
“…Vật cùng loại có cùng chất lượng có thể thay thế cho nhau”. Có lẽ theo quan điểm
của nhà làm luật, các vật cùng loại là vật có thể dễ dàng tìm thấy trên thị trường, hoặc
dễ dàng thay thế, nên không cần thiết buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ
giao đúng vật đó. Trên thực tế, có những vật tuy là cùng loại, nhưng lại khó có thể tìm
thấy vật khác trên thị trường tự do ở Việt Nam để thay thế. Điều này cũng đã từng xảy
ra giữa bên bán là một công ty độc quyền cung cấp xăng máy bay với bên mua.
Vụ việc: tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng cung ứng xăng dầu giữa Công
ty Xăng dầu Hàng không (Vinapco) và Pacipfic Airlines (PA): ngày 31/12/2007
Vinapco ký hợp đồng để cung ứng xăng loại JET A-1 cho PA, với mức phí nạp xăng là
593 nghìn đồng/tấn, ngoài việc thanh toán theo giá mua xăng thực tế, chi phí vận
chuyển, bảo hiểm, thuế nhập khẩu. Sau nhiều lần đơn phương gửi văn bản yêu cầu PA
tăng giá thanh toán tiền mua xăng lên 750 nghìn đồng/tấn, nhưng không được PA đồng
ý, ngày 01/4/2008, Vinapco đã đơn phương ngừng tiếp nhiên liệu cho các máy bay
tuyến nội địa của PA trong 3 giờ liền, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của PA
bị đình trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi người tiêu dùng. Lý do Vinapco
tăng giá xăng vì cho rằng, vào “lúc ký hợp đồng, giá nhiên liệu thế giới là 76,2
USD/thùng. Tuy nhiên, hiện giá này đã lên 110-130 USD/thùng, Vinapco lỗ hơn 10
USD/tấn muốn ngừng việc cung cấp xăng do yêu cầu được tăng giá xăng không được
bên mua chấp nhận” [176] [295]. Nhưng ngày 01/4/2008, Cục Hàng không đã có công
văn số 985/CHK-TC yêu cầu Vinapco “không được đơn phương ngừng thực hiện hợp
đồng cung cấp xăng dầu cho các hãng hàng không nếu không được phép của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền” [52]. Như vậy, trong vụ này, tuy xăng máy bay là vật cùng
loại, nhưng cơ quan có thẩm quyền vẫn buộc bên vi phạm vẫn phải tiếp tục cung cấp
xăng cho bên mua. Đây là trường hợp ngoại lệ vì việc cung ứng xăng máy bay ở Việt
Nam là hoạt động độc quyền của Vinapco và việc ngừng cung cấp xăng cho PA là xâm
141
phạm tới trật tự công cộng do lạm dụng vị trí độc quyền (Điều 14 Luật Canh tranh
2004) mà hậu quả thực tế của vụ việc này là gây thiệt hại cho người tiêu dùng và làm
ách tách giao thông công cộng.
Trong án lệ của Anh cũng từng có những phán quyết tương tự, như trong vụ Sky
Petroleum Ltd v VIP Petroleum Ltd [1974] All ER 954: nguyên đơn đồng ý mua dầu
và nhiên liệu xe máy từ phía bị đơn, trong suốt khoảng thời gian xác định. Bị đơn có ý
định từ chối thực hiện hợp đồng. Vì vậy, nguyên đơn đã kiện bị đơn và yêu cầu tòa án
ra quyết định để ngăn ngừa việc bị đơn không cung cấp hàng. Có bằng chứng thương
mại cho rằng, nguyên đơn hầu như là không có cơ hội để tìm nguồn cung cấp thay thế.
Thị trường xăng dầu rơi vào tình trạng bất thường tại thời điểm đó. Vì vậy, tòa phán
quyết là bên bán phải tiếp tục giao hàng, mặc dù hàng hóa này không phải là hàng hóa
đặc định. Bởi vì theo tòa, “có bằng chứng cho rằng, số tiền bồi thường thiệt hại không
phải là biện pháp bồi thường đầy đủ”.
Các phân tích thực tiễn trên cho thấy, không chỉ đối với vật đặc định mới cần
bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó, mà cả đối với vật cùng loại, trong nhiều trường
hợp, cơ quan tài phán vẫn buộc bên giao vật phải thực hiện đúng hợp đồng. Từ đó có
căn cứ để khẳng định, giải pháp được thiết kế tại khoản 2 Điều 303 BLDS 2005 cũng
chưa dự liệu hết các trường hợp khác có thể xảy ra trong thực tế. Bởi vậy, nội dung
này cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
4.2.2.3. Điều 304 vẫn chưa dự liệu những ngoại lệ đối với nghĩa vụ phải thực hiện
công việc hoặc nghĩa vụ không được thực hiện công việc
Điều 304 qui định khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ thực hiện công việc
phải thực hiện, “thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện
hoặc tự mình thực hiện hoặc giao cho người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu
bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại”; nếu “bên có nghĩa
vụ không được thực hiện một công việc mà lại thực hiện công việc đó thì bên có quyền
được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc thực hiện, khôi phục tình
trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại”. Tuy vậy, trong trường hợp này, có thể có sự
xung đột giữa nghĩa vụ phải làm một công việc hoặc không làm một việc (theo hợp
đồng) và quyền tự do lao động của con người (được pháp luật bảo vệ). Có những việc
thuộc về hoạt động mang tính tự do cá nhân như sáng tác âm nhạc, hội họa, văn
chương, biểu diễn nghệ thuật, thì ngoài việc tuân thủ nghĩa vụ đã được xác lập theo
142
hợp đồng, bên có nghĩa vụ còn có quyền tự do cá nhân. Theo HP 1992 thì công dân có
quyền tự do kinh doanh theo qui định của pháp luật (Điều 57), quyền tự do sáng tạo
(Điều 60) và các quyền tự do khác tự do ngôn luận, tự do đi lại, tự do lựa chọn chỗ
ở… (Điều 68 – Điều 71). Tại Điều 6 Luật Cạnh tranh 2004 cũng cấm các hành vi: thỏa
thuận hạn chế cành tranh (Điều 8- Điều 10) hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh hay vị trí
độc quyền trong kinh doanh thương mại (Điều 11- Điều 15). Bởi vậy, trong nhiều
trường hợp, tòa án không thể cưỡng chế bên có nghĩa vụ làm công việc phải thực hiện
hoặc cấm bên có nghĩa vụ không được làm một việc, vì như vậy là xâm phạm tới
quyền tự do cá nhân được hiến pháp và pháp luật bảo vệ.
Về vấn đề này, tác giả cũng đồng ý với ý kiến của một luật gia khi cho rằng,
“không nên cưỡng chế thi hành những nghĩa vụ hợp đồng trực tiếp gắn với nhân thân
người mắc nợ”, vì như thế là “buộc cá nhân một người phải làm ‘nô lệ’ trái với ý chí
của họ” và “giải pháp cưỡng chế chưa chắc đã đem lại kết quả như mong muốn”,
thậm chí có thể phản tác dụng vì “không mang tính khả thi và không được dư luận
đồng tình” [108, tr.278 – 80 và 282]. Bởi vậy, qui định tại khoản 1 Điều 303 BLDS
2005 cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và cần tính
đến các trường hợp ngoại lệ như vừa phân tích trên đây.
4.3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HIỆU LỰC RÀNG BUỘC
CỦA HỢP ĐỒNG
4.3.1. Sửa đổi, bổ sung các qui định trong Bộ luật Dân sự 2005 về hiệu lực ràng
buộc của hợp đồng
Như đã phân tích trong phần 4.1 và phần 4.2 trên đây, nguyên tắc hiệu lực ràng
buộc của hợp đồng là nguyên tắc pháp lý rất quan trọng thể hiện bản chất của hợp
đồng, nhưng qui định của pháp luật hiện hành về vấn đề này hiện vẫn còn nhiều bất
cập. Sự bất cập thể hiện ở chỗ nội dung Điều 405 BLDS 2005 chưa thể hiện đúng tinh
thần của nguyên tắc hiệu lực ràng buộc của hợp đồng như tiêu đề của Điều luật này;
đồng thời nguyên tắc hiệu lực ràng buộc của hợp đồng chưa được Điều luật nào trong
BLDS 2005 trực tiếp điều chỉnh. Khắc phục những bất cập này, thiết nghĩ cần sửa đổi,
bổ sung các qui định sau đây:
4.3.1.1. Sửa đổi tiêu đề và nội dung Điều 405 BLDS 2005
Như đã phân tích trên đây, giữa nội dung và tiêu đề của Điều 405 BLDS 2005
là chưa phù. Để đảm bảo tính thống nhất nội tại giữa nội dung với tiêu đề của Điều
143
luật và với các qui định khác có liên quan, đồng thời phù hợp với nội dung chủ định
mà nhà làm luật muốn thể hiện trong Điều luật, thiết nghĩ cần sửa tiêu đề Điều 405
BLDS 2005, cụ thể là: “Điều 405. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng”.
Mặt khác, nội dung của Điều luật cũng cần phải được sửa đổi cho phù hợp, theo
hướng như đã được trình bày trong kiến nghị tại mục 3.3.2. của Luận án.
4.3.1.2. Bổ sung Điều luật qui định trực tiếp về hiệu lực bắt buộc của hợp đồng
Do Điều 405 BLDS 2005 (sửa đổi) đã được sửa đổi theo hướng chỉ qui định
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, nên hiệu lực ràng buộc của hợp đồng hiện không
được qui phạm pháp luật nào điều chỉnh trực tiếp. Bên cạnh đó, Điều 4 BLDS 2005
tuy có qui định nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận (đoạn 3) nhằm xác
định “cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và
phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”. Nhưng qui định này có nội
dung và phạm vi áp dụng rất rộng, không thể áp dụng cho việc xác định hiệu lực hợp
đồng.
Với tính chất là nguyên tắc cơ bản của pháp luật tư và được qui định trong phần
chung của BLDS, nên mức độ tác động của qui định tại Điều 4 BLDS 2005 đối với
vấn đề hiệu lực hợp đồng là không lớn và không hiệu quả. Bởi lẽ, Điều 4 BLDS 2005
là nguyên tắc chung nhất áp dụng cho mọi cam kết dân sự, còn hiệu lực ràng buộc của
hợp đồng là một qui định riêng điều chỉnh một vấn đề pháp lý cụ thể. Và, nguyên tắc
chung không phải lúc nào cũng có thể hoàn toàn thay thế được cho các qui định cụ thể.
Từ nguyên tắc chung đến các điều luật cụ thể là một khoảng cách; và từ nguyên tắc
chung đến thực tiễn áp dụng pháp luật còn là khoảng cách xa hơn. Nhất là trong bối
cảnh Việt Nam, khi “thói quen dẫn chiếu” còn được coi trọng [201, 21] và khi thẩm
phán không phải là chủ thể có quyền sáng tạo, thậm chí không có thẩm quyền giải
thích pháp luật (vì theo Hiến pháp Việt Nam, quyền này chỉ thuộc Ủy ban Thường vụ
Quốc hội [82, khoản 3 Điều 91]), thì qui định nói trên sẽ khó mà được người ta nhắc
đến trong các văn bản áp dụng pháp luật, với tư cách là một căn cứ pháp lý trực tiếp
qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng. Theo qui định của Luật Ban hành văn
bản qui phạm pháp luật 2008, thì “Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định trực tiếp
nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung…” (khoản 2 Điều 5).
Như vậy, theo cách tiếp cận vừa trình bày, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng
hiện vẫn là vấn đề bị pháp luật ‘bỏ ngỏ’ trong luật hiện hành. Thực trạng đó đòi hỏi
144
cần phải bổ sung Điều luật qui định trực tiếp về vấn đề này. Sự bổ sung qui định này là
cần thiết vì những lý do sau đây:
Một là, hiệu lực ràng buộc là hệ quả tất yếu, là nội dung pháp lý cốt lõi thể
hiện bản chất của hợp đồng, cần phải được pháp luật qui định minh thị.
Bởi lẽ, có rất nhiều lý do để người ta bênh vực cho hiệu lực ràng buộc của các
hợp đồng, nhưng cũng có quá nhiều lý do để người ta từ chối sự ràng buộc này. Điều
đó đòi hỏi nội dung này cần phải được ghi nhận minh thị trong luật. Trên thế giới, vấn
đề tại sao cần phải xác định hiệu lực ràng buộc của hợp đồng có giá trị đối với các bên
giống như pháp luật trong khi đây chỉ là những cam kết của tư nhân, là một đề tài học
thuật vô cùng lý thú trong lĩnh vực luật học. Các học giả đã đưa ra rất nhiều học thuyết
kinh tế - pháp lý khác nhau để lý giải về vấn đề này [309, tr.16- 20].
Các ý kiến xuất phát từ quan niệm đạo đức và tôn giáo cho rằng hiệu lực ràng
buộc của hợp đồng là vấn đề đạo đức mang tính “thiêng liêng và thần thánh”, và rằng
“người có nghĩa vụ mà không tôn trọng lời nói và nguyên tắc thiện chí thì bị coi là
phạm một tội có thể gây tổn hại đến sự giải thoát linh hồn của mình” [4, tr.4-5]. Theo
Atiyah, việc thực thi cam kết vừa là một yêu cầu mang tính đạo đức, thể hiện sự tôn
trọng quyền tự do ý chí của con người trong việc đưa ra các cam kết tự nguyện; vừa là
một đòi hỏi của nguyên tắc công bằng [297, tr.184-202].
Cooke và Oughton thì cho rằng có hai lý do để các bên mong muốn tạo ra hiệu
lực ràng buộc từ các cam kết: đạo đức và kinh tế. Về mặt đạo đức, một cam kết cần
phải được thực thi, vì khi xác lập các cam kết người ta thường mong đợi được nhận từ
đó một lợi ích gì đó, và nếu bất kỳ ai đã cam kết đều thực hiện đúng cam kết của mình
thì càng khuyến khích sự thành tín trong xã hội nhiều hơn, qua đó thúc đẩy xã hội phát
triển. Về mặt kinh tế, sự chuyển dịch lợi ích cũng như các rủi ro trong hợp đồng cho
người có điều kiện quản lý tốt, từ đó làm gia tăng giá trị xã hội của các lợi ích và giảm
thiểu các rủi ro cho nền kinh tế. Hơn nữa, nếu các bên đều tôn trọng và thực hiện đúng
các cam kết thì sẽ nhận được từ bên kia cam kết và sự thực thi ngược lại nhằm thỏa
mãn các lợi ích của mình. Bởi vậy, việc pháp luật thừa nhận hiệu lực của hợp đồng là
điều cần thiết [309, tr. 16 – 9; 335, tr. 91-2].
Theo GS. Vũ Văn Mẫu, cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng là: (i) Nguyên tắc tự do ý chí, uy lực của ý chí cá nhân được sự bảo trợ của luật pháp có thể có ràng buộc họ ngang hàng với luật pháp; (ii) Về phương diện
145
luân lý, khi người ta đã hứa với ai điều gì thì cần phải thực hiện nhằm giữ chữ “tín”; (iii) sự ổn định xã hội và sự thành tín trong kinh doanh, vì “sự thành tín là căn bản của sự thịnh vượng” [168, tr.244-5]. Còn theo GS. Denis Mazeaud, việc thừa nhận nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng là “nhằm mục đích bảo đảm an toàn pháp lý trong quá trình thực hiện hợp đồng” [164, tr.21].
Tóm lại, tuy còn có nhiều quan điểm tranh luận khác nhau về vấn đề cơ sở lý luận nào để thừa nhận hiệu lực của hợp đồng, nhưng các luật gia đều có chung quan điểm nhất quán là vấn đề hiệu lực ràng buộc của hợp đồng là vấn đề pháp lý mang tính chất nền tảng của pháp luật hợp đồng, cần phải được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Hai là, việc thừa nhận hiệu lực của hợp đồng trong pháp luật thực định không
phải mới lần đầu tiên được đặt ra mà đã có nhiều tiền lệ rất đáng lưu ý.
Xét về mặt lịch sử và nhìn từ góc độ so sánh, vấn đề hiệu lực hợp đồng đã từng
được đề cập trong luật thực định của Việt Nam và của nhiều quốc gia trên thế giới.
Xã hội phong kiến Việt Nam từng chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học và
Khổng giáo, nên quan niệm pháp lý về hiệu lực hợp đồng trong pháp luật của các triều
đại phong kiến Việt Nam cũng bị cuốn theo dòng chảy của các trào lưu tư tưởng Nho
giáo. Pháp luật về hợp đồng của Việt Nam thời bấy giờ không qui định các nguyên tắc
chung về công nhận hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, mà dường như vấn đề này được
nhường lại cho các qui phạm đạo đức phong kiến Nho giáo điều chỉnh, với quan niệm
chữ tín trong lời hứa luôn được đề cao. Người xưa xem lời hứa và việc giữ chữ “tín” là
đạo đức mẫu mực của “người quân tử”, nên mới có những câu nói dùng để chỉ sự ràng
buộc của chữ tín của lời hứa: “nhất ngôn thuyết quá, tứ mã nan truy” (một lời đã nói,
bốn ngựa khó theo) hay “xuất ngôn như phá thạch”… GS Vũ Văn Mẫu từng có nhận
xét: Đối với hiệu lực các khế ước, nhà làm luật không cần phải can thiệp trong các
trường hợp thông thường vì các đương sự thường tôn trọng sự thành tín, theo quan
niệm của người quân tử, vì “trong ý thức hệ của người quân tử ngày xưa biết tôn
trọng lời hứa, và không làm điều gì mà mình không muốn người khác thi hành đối với
mình (Khổng Tử: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân)” [166, tr.148].
Nhưng quan niệm chỉ dựa trên đạo đức của người quân tử để bảo đảm hiệu lực
hợp đồng cũng không hoàn toàn xác đáng, vì trên thực tế, xã hội phong kiến cũng chia
con người làm nhiều hạng, trong đó có “người quân tử” và “kẻ tiểu nhân”, mà “kẻ tiểu
nhân” lại không phải lúc nào cũng tôn trọng lời hứa. Bởi vậy, để bảo vệ trật tự pháp
luật, nhà làm luật thời phong kiến cũng chú trọng đến những trường hợp phải can thiệp
146
vào để tạo cơ chế pháp lý bảo đảm hiệu lực hợp đồng. Bằng chứng là trong Bộ luật
Hồng Đức, có các qui định ràng buộc hiệu lực hợp đồng, như: cấm không được đem
bán đoạn những ruộng đất đã cầm cho người khác (Điều 383); cấm những người đã
bán ruộng mà lấn sang ruộng đất đã bán. Người lấn phải trả gấp đôi tiền chỗ ruộng đất
đã chiếm… (Điều 383 đoạn cuối); cầm cố ruộng mà bị ép phải chuộc dù không muốn
chuộc hoặc muốn chuộc mà người cầm không cho chuộc thì phạt 80 trượng (Điều
384); vay nợ thì phải trả, quá hạn không trả thì phải tội trượng tùy theo việc nặng nhẹ.
Nếu vẫn cố tình không trả thì giáng hai bậc, bồi thường gấp đôi (Điều 588); nếu chủ
nợ đã nhận tiền trả nợ rồi mà còn cố tình không trả văn tự và không chịu cấp giấy
chứng nhận cho người trả nợ hoặc đã cấp giấy chứng nhận trả nợ rồi mà vẫn cố tình
đem giấy nợ để tiếp tục đòi nợ nữa thì phạt 50 roi, giáng một bậc và bồi thường gấp
đôi tiền nợ cho người đã trả nợ (Điều 589)… Trong Bộ luật Gia Long cũng có qui định
tương tự, chỉ khác biệt trong chi tiết về hình phạt [166, tr.171]. Như vậy, mặc dù hệ tư
tưởng phong kiến không chủ định tạo ra cơ chế điều chỉnh hiệu lực hợp đồng, song
nhà làm luật cũng có đưa ra những qui định cụ thể trong văn bản pháp luật để qui định
về hiệu lực thực thi của một số loại hợp đồng.
Về sau, vấn đề hiệu lực ràng buộc của hợp đồng đã được qui định trong nhiều
văn bản pháp luật Việt Nam, như DLB 1931 [Điều 673], DLT 1936-1939 [Điều 713],
DLSG 1972 [Điều 678], BLDS 1995 [Điều 404]. Đặc biệt, Điều 404 BLDS 1995 qui
định rất đầy đủ về vấn đề hiệu lực hợp đồng được thể hiện ở hai khía cạnh: (1) Hiệu
lực ràng buộc của hợp đồng: hợp đồng hợp pháp “thì có hiệu lực bắt buộc đối với các
bên”; (2) Không được rút lại hợp đồng: “Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ,
nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
Pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng có các qui định trực tiếp về nguyên
tắc hiệu lực ràng buộc của hợp đồng. Điển hình là BLDS của các nước có nền pháp
luật có nhiều điểm chung với pháp luật Việt Nam, như BLDS Pháp (Điều 1134),
BLDS Nga (Điều 425). Luật Hợp đồng 1999 của Trung Quốc cũng có qui định về hiệu
lực hợp đồng: “Hợp đồng được lập hợp pháp, có hiệu lực ràng buộc như pháp luật đối
với đương sự, đương sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình đúng cam kết, và không
được đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng. Hợp đồng được lập hợp pháp thì
được pháp luật bảo vệ” (Điều 8). Không chỉ được thừa nhận và qui định trong luật
pháp của nhiều quốc gia, nguyên tắc hiệu lực ràng buộc hợp đồng còn được chính thức
147
ghi nhận trong các bộ qui tắc chung về hợp đồng thương mại quốc tế. Theo PICC,
“Hợp đồng được hình thành hợp pháp ràng buộc các bên giao kết. Các bên chỉ có thể
sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng, thoả thuận
giữa các bên hoặc bởi những lý do được quy định trong Bộ Nguyên tắc này” [Điều
1.3]. Theo các nhà bình luận về các qui định của PICC, thì đây là một nguyên tắc cơ
bản của luật hợp đồng – nguyên tắc pacta sunt servanda. Cũng theo ý kiến bình luận
này, thì “tính chất ràng buộc của hợp đồng hiển nhiên chỉ tồn tại” khi hợp đồng đã
được giao kết một cách hợp pháp [25, tr. 45].
Như vậy, vấn đề công nhận chính thức hiệu lực ràng buộc của hợp đồng bằng
các qui phạm trong luật thực định không còn là việc mới mẻ, nhưng đây lại luôn được
xem là vấn đề rất cần thiết. Vấn đề còn lại cần phải bàn là công nhận những nội dung
nào và công nhận như thế nào.
Như đã khẳng định, nguyên tắc hiệu lực ràng buộc của hợp đồng là vấn đề quan
trọng nhất, thể hiện bản chất của hiệu lực hợp đồng, là hệ quả tất yếu của hợp đồng,
nên cần phải được qui định trực tiếp trong BLDS. Từ nhận thức đó, tác giả kiến nghị
Quốc hội bổ sung một Điều luật mới để qui định cụ thể về nguyên tắc hiệu lực ràng
buộc của hợp đồng, theo những yêu cầu sau đây:
(1) Vị trí và tiêu đề của Điều luật qui định về hiệu lực của hợp đồng
Hiện nay, nguyên tắc hiệu lực ràng buộc của các cam kết dân sự nói chung mới
được qui định trong phần nguyên tắc chung của BLDS, nhưng hiệu lực của hợp đồng
thì chưa được BLDS qui định cụ thể. Như đã phân tích, cách qui định này là chưa phù
hợp vì hiệu lực ràng buộc của hợp đồng và ai bị ràng buộc bởi hợp đồng là những vấn
đề cốt lõi của hiệu lực hợp đồng, cần phải được thừa nhận chính thức trong luật và
nên được qui định trực tiếp trong phần chung của pháp luật hợp đồng, chứ không nên
chỉ qui định ở phần nguyên tắc cơ bản của BLDS. Thiết nghĩ, bên cạnh việc phải xây
dựng hoàn thiện một thống các nguyên tắc đầy đủ và đồng bộ để điều chỉnh vấn đề
hiệu lực hợp đồng, nhà làm luật cũng nên cụ thể hóa các nguyên tắc này bằng các điều
khoản qui định trực tiếp, chứ không nên chỉ dừng lại ở các qui định có tính nguyên tắc
chung, như thực trạng vừa nêu.
Hơn nữa, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng không phải là nguyên tắc “bất thành
văn” mà cần phải được qui định minh thị bằng một Điều luật trong phần các qui định
148
chung về hợp đồng, nhằm làm căn cứ để xác định giá trị ràng buộc của hợp đồng, nhất
là khi các bên chối bỏ việc thực hiện hợp đồng hoặc khi các bên có tranh chấp.
Vị trí của Điều luật này cần được đặt trong mối quan hệ tổng thể với các điều
luật khác có liên quan tới vấn đề hiệu lực hợp đồng. Xem xét cơ cấu hiện tại của
BLDS 2005, thì vị trí của Điều luật nên đặt sau Điều 405 BLDS 2005 hiện nay là hợp
lý, vì các Điều luật trước đó qui định về giao kết hợp đồng (Điều 390 – 400), các điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng (Điều 401 – 403), thời điểm giao kết và thời điểm có
hiệu lực của hợp đồng (Điều 404 – 405), và phía sau điều luật này còn có các qui định
liên quan tới việc giải thích hợp đồng (Điều 409), hợp đồng vô hiệu (Điều 410 – 411).
Điều luật qui định về hiệu lực của hợp đồng nên đặt liên tục, ngay sau qui định về thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng, và thiết kế thành Điều 405a BLDS 2005. Tiêu đề của
Điều luật này nên là “Điều 405a. Hiệu lực của hợp đồng (dân sự)”. Với sự kết hợp
giữa qui định này với các qui định khác hiện có, sẽ tạo nên một tập hợp các qui phạm
pháp luật có hệ thống và mang tính chỉnh thể làm thành cơ chế điều chỉnh hiệu lực hợp
đồng hoàn chỉnh.
(2) Nội dung và bố cục của Điều luật: Cần xác định rõ nguyên tắc chung của
hiệu lực ràng buộc hợp đồng và những ngoại lệ cần thiết của nguyên tắc này
Các phân tích về khái niệm hiệu lực ràng buộc của hợp đồng và cơ chế điều
chỉnh hiệu lực hợp đồng cho thấy, nguyên tắc hiệu lực hợp đồng thể hiện ở hai khía
cạnh là hiệu lực bất biến của hợp đồng và sự hạn chế việc từ chối hoặc rút lại hợp
đồng. Có thể ví hiệu lực ràng buộc, và hiệu lực ngăn cấm việc từ chối thực hiện hợp
đồng hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng, là hai mặt của hiệu lực hợp đồng. Từ đó
đòi hỏi nội dung của Điều luật mới khi điều chỉnh vấn đề này cần phải chuyển tải được
tư tưởng trên.
Như vậy, hiệu lực hợp đồng bao gồm giá trị pháp lý làm phát sinh quyền, nghĩa
vụ của các bên và bắt buộc các bên phải thực hiện đúng mà không được quyền rút lui
khỏi sự ràng buộc của hợp đồng. Đây vừa là nguyên tắc chung thể hiện hiệu lực ràng
buộc của hợp đồng giống như pháp luật đối với các bên mà các bên không được phép
chối bỏ hoặc vi phạm, nhưng lại cũng vừa thể hiện ngoại lệ của nguyên tắc này là các
bên có thể làm điều đó khi có những căn cứ do pháp luật qui định.
Với nội dung vừa trình bày, bố cục của Điều 405a (mới) nên được thiết kế
thành hai khoản khác nhau, mỗi khoản qui định về một nội dung tương ứng. Cụ thể:
149
Khoản 1 qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng; Khoản 2 qui định về nguyên tắc
hạn chế quyền từ chối hoặc rút lui khỏi hợp đồng cũng như ngoại lệ của qui định này.
+ Khoản 1: Nguyên tắc hiệu lực bất biến và hiệu lực tương đối của hợp đồng.
Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính minh bạch và cụ thể của pháp luật, nội dung
của điều luật cần phải xác định rõ phạm vi những ai bị ràng buộc bởi hợp đồng, từ đó
làm cơ sở pháp lý cho việc xác định những ai là người có quyền hoặc có nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng. Đây là nội dung thể hiện cụ thể nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp
đồng. Như một luật gia đã từng nhận xét: Hợp đồng “là pháp luật do các bên lập ra để
ràng buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp đồng không chỉ là
hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên, mà đó còn là hiệu lực được đảm bảo bởi
pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập trách
nhiệm thực thi hợp đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng” [339, tr.278]. Như vậy,
nội dung khoản 1 này phải khẳng định được giá trị ràng buộc như pháp luật của hợp
đồng, nếu hợp đồng đó được lập hợp pháp.
Mặt khác, nội dung điều luật cũng xác định rõ hiệu lực của hợp đồng chỉ mang
tính tương đối. Như đã khẳng định trong các phần trên, hiệu lực của hợp đồng khác với
hiệu lực của pháp luật. Bởi vậy, pháp luật cần phải có các qui định cụ thể nhằm phân
biệt rạch ròi hiệu lực ràng buộc của hợp đồng so với sự ràng của pháp luật, vì hợp
đồng chỉ ràng buộc các bên, còn pháp luật là qui tắc xử sự mang tính ràng buộc chung
đối với tất cả mọi người.
+ Khoản 2: Hạn chế quyền từ chối và quyền rút lui khỏi hợp đồng.
Yêu cầu của nguyên tắc hiệu lực ràng buộc hợp đồng đòi hỏi hợp đồng phải
được tuân thủ và phải được thực hiện đúng. Tuy vậy, nguyên tắc tự do hợp đồng cho
phép các bên được tự do giao kết hợp đồng, nhưng cũng thừa nhận các bên có quyền
tự do không giao kết hợp đồng [168, tr.88], thậm chí có quyền thỏa thuận về những
căn cứ để có thể đơn phương rút lui khỏi hợp đồng. Nguyên tắc thiện chí, trung thực
và hợp tác cũng là cơ sở pháp lý quan trọng cho phép các bên được từ chối thực hiện
hoặc rút lui khỏi hợp đồng trong những hoàn cảnh thích hợp, phù hợp với lẽ công
bằng. Hơn nữa, việc thực hiện các hợp đồng dài hạn không phải là bất biến mà là một
quá trình luôn gắn với nhiều yếu tố rủi ro, sự thay đổi của hoàn cảnh làm mất cân bằng
lợi ích của các bên, làm thay đổi cơ bản tới nền tảng của quan hệ hợp đồng. Từ đó, đòi
hỏi phải dự liệu về các ngoại lệ, như qui định những căn cứ cho phép các bên được yêu
150
cầu điều chỉnh lại hợp đồng, qui định căn cứ cho tòa án được can thiệp vào nội dung
hợp đồng, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng có sự thay đổi hoàn cảnh làm mất
cân bằng lợi ích của các bên [207, tr. 6; 227, tr.89-91]. Đây là xu hướng chung của các
hệ thống pháp luật hợp đồng hiện đại trên thế giới [201, tr.21; 208, tr. 21].
Tóm lại, điều khoản qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng có thể được
định chế thành hai khoản khác nhau tương ứng với hai nội dung cơ bản của hiệu lực
hợp đồng. Về điểm này, cần tiếp thu kinh nghiệm từ các qui định tại khoản 1 Điều 404
BLDS 1995, đoạn 1 Điều 687 DLSG 1972, Điều 1134 BLDS Pháp, và Điều 8 Luật
Hợp đồng 1999 của Trung Quốc. Nội dung cụ thể của Điều 405a (mới) như sau:
“Điều 405a. Hiệu lực của hợp đồng (dân sự) [Mới]
1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực như pháp luật đối với các bên tham gia hợp đồng.
2. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định.”
Nội dung khoản 1 Điều này có sửa đổi, bổ sung bằng cách thay cụm từ “hiệu
lực bắt buộc” bằng cụm từ “hiệu lực như pháp luật” và thêm cụm từ “tham gia hợp
đồng”, nhằm diễn đạt rõ hơn bản chất của hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, và làm
cho hệ quả tác động của điều luật trở nên mạnh hơn so với cách diễn đạt tại khoản 1
Điều 404 BLDS 1995. Ngoài ra, khoản 2 Điều luật tuy vẫn giữ nguyên nội dung của
khoản Điều 404 BLDS 1995, nhưng nội hàm của Điều khoản này đã có sự thay đổi cơ
bản, đó là dự liệu các trường hợp ngoại lệ mới của nguyên tắc hiệu lực bất biến của
hợp đồng: cho phép các bên có thể xin sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi, nếu
có những căn cứ do pháp luật qui định.
4.3.2. Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1 Điều 303 Bộ luật Dân sự 2005 về trách
nhiệm đối với có nghĩa vụ giao vật đặc định bị hư hỏng
Theo qui định tại khoản 1 Điều 303 BLDS 2005, đối với trường hợp vật đặc định bị hư hỏng, nhà làm luật chỉ dự liệu một giải pháp khắc phục duy nhất là “thanh toán giá trị của vật”. Qui định này chưa dự liệu hết những trường hợp khác có thể xảy ra trên thực tế. Bởi lẽ, đối với trường hợp vật đặc định bị mất mát, tiêu hủy thì qui định như vậy là đủ và cần thiết. Nhưng đối với trường hợp vật đặc định bị hư hỏng, thì qui định như trên là chưa đầy đủ vì có những trường hợp bị hư hỏng nhỏ, không làm giảm sút đáng kể giá trị của vật, hoặc tuy vật có hư hỏng nhất định nhưng bên có quyền vẫn muốn nhận vật.
151
Để bảo đảm quyền lợi của bên có quyền bị vi phạm, pháp luật nên qui định cho phép bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ vẫn phải tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ giao vật. Bởi vậy, khoản 1 Điều 303 rất cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng thêm các giải pháp khắc phục phù hợp đối với trường hợp vật đặc định bị hư hỏng mà bên có quyền vẫn có thể muốn nhận vật đó. Các giải pháp khắc phục đó có thể là cho phép bên có quyền được lựa chọn một trong các cách thức sau: buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán giá trị của vật; hoặc phải giao vật kèm theo nghĩa vụ sửa chữa, khắc phục; hoặc giao vật và giảm giá; hoặc giao vật và bù đắp cho bên kia bằng việc thực hiện một nghĩa vụ khác tương ứng với phần giá trị bị giảm sút của vật, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Cụ thể, khoản 1 Điều 303 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó; nếu vật không còn thì phải thanh toán giá trị của vật; nếu vật bị hư hỏng thì bên có quyền có thể từ chối nhận vật và yêu cầu thanh toán giá trị của vật, hoặc nhận vật đồng thời yêu cầu bên có nghĩa vụ sửa chữa hoặc thanh toán tiền sửa chữa hoặc thanh toán thêm phần giá trị của vật bị giảm sút, hoặc nhận vật và yêu cầu giảm giá tương ứng với phần giá trị của vật bị giảm sút, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”
Trên thực tế, việc giao vật đặc định có thể là nghĩa vụ của bên bán, bên gia công, bên vận chuyển, bên cho thuê… nên việc qui định chỉ buộc bên có nghĩa vụ thanh toán giá trị của vật trong trường hợp vật bị hư hỏng là chưa đầy đủ và không thích hợp. Do đó, qui định bổ sung nhiều khả năng lựa chọn như trên nhằm bảo đảm quyền lợi của bên có quyền bằng cách qui định quyền tự do lựa chọn các giải pháp khắc phục thích hợp khi vật đặc định bị hư hỏng, mà bên có quyền vẫn muốn nhận vật đó. Như vậy, bên có quyền nhận vật có thể lựa chọn không nhận vật để được thanh toán giá trị, hoặc nhận vật nhưng kèm theo các giải pháp thích hợp. Các qui định này không chỉ phù hợp với nghĩa vụ giao vật đặc định trong hợp đồng mua bán tài sản mà còn thích dụng với nghĩa vụ giao vật trong các loại hợp đồng khác.
4.3.3. Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 2 Điều 303 Bộ luật Dân sự 2005 về trách
nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật cùng loại
Theo qui định này, khi bên có nghĩa vụ không giao vật cùng loại thì chỉ phải thanh toán giá trị của vật. Qui định này chưa dự liệu được trường hợp tuy đối tượng hợp đồng vật cùng loại, nhưng là vật cùng loại khan hiếm trên thị trường mà bên bị vi phạm không thể tìm được nguồn hàng hóa khác để thay thế. Điều này là không công bằng đối với bên có quyền bị vi phạm, trái nguyên tắc trung thực, thiện chí, thậm chí
152
điều này còn có thể gây ra ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động sản xuất kinh doanh của bên bị vi phạm, gây thiệt hại cho quyền lợi chính đáng của người lao động, và nhiều trường hợp có thể dẫn đến gây thiệt hại cho lợi ích của nhiều người khác trong xã hội.
Do đó, một mặt vẫn thừa nhận nguyên tắc cho phép bên có nghĩa vụ được thay thế nghĩa vụ bằng biện pháp thanh toán giá trị của vật, đồng thời cần qui định buộc bên có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ giao vật cùng loại trong một số trường hợp ngoại lệ. Như vậy, khoản 2 Điều 303 BLDS 2005 nên được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại thì phải thanh toán giá trị của vật. Trong trường hợp vật cùng loại là các hàng hóa đặc biệt không dễ dàng tìm thấy trên thị trường và bên có quyền bị vi phạm không có khả năng tìm được nguồn hàng hóa khác để thay thế, thì tòa án có thể buộc bên vi phạm nghĩa vụ phải giao đúng vật đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”
Qui định này vẫn ghi nhận nguyên tắc thanh toán giá trị của vật khi không thực hiện nghĩa vụ giao vật cùng loại, bởi theo lẽ thông thường thì vật cùng loại có thể dễ dàng tìm thấy trên thị trường. Tuy vậy, cũng có những vật cùng loại là không thể tìm được nguồn hàng thay thế, nếu bên có nghĩa vụ phải giao là nhà sản xuất, cung ứng hoặc nhập khẩu và phân phối độc quyền. Ví dụ điển hình là vụ Vinapco là bên cung cấp xăng máy bay độc quyền tại Việt Nam nhưng đã không chịu cung cấp xăng cho PA vì PA đã từ chối yêu cầu tăng giá xăng của Vinapco. Thực tế cũng có những hàng hóa là vật cùng loại, lúc bình thường thì có thể dễ dàng tìm được nguồn hàng thay thế, nhưng trong những hoàn cảnh đặc biệt thì không thể tìm được nguồn hàng để thay thế.
Ví dụ: trong một số thời điểm nhất định thì sẽ có một số mặt hàng bị khan hiếm, như thời gian gần đây (tháng 7 - 8/2009) các nhà thuốc và ngành y tế đang bị khan hiếm khẩu trang y tế, khan hiếm sinh phẩm y tế để xác định người bị nhiễm cúm do nguy cơ dịch cúm bùng phát, khiến Bộ y tế phải vào cuộc chấn chỉnh [127]. Thỉnh thoảng người ta cũng nghe nói tới những trường hợp khan hiếm tạm thời các vật phẩm thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu, như việc khan hiếm rau xanh ở Hà Nội sau trận lũ lịch sử trong hơn một tuần hồi tháng 11/2008 [255], hoặc tình trạng thiếu nước sạch ở Trung Quốc do hạn hán trong thời gian qua [267]…
Trong những trường hợp này, nếu bên cung ứng hàng hóa từ chối giao hàng để thanh toán giá trị của vật thì sẽ gây ra những hậu quả ngoài sự kiểm soát của các bên và có ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều đối tượng khác trong xã hội. Bởi vậy, cần cho phép tòa án can thiệp nhằm buộc bên vi phạm phải thực hiện đúng nghĩa vụ giao vật. Chỉ khi nào bên vi phạm cũng không có khả năng tìm đủ nguồn hàng để giao thì mới áp dụng biện pháp thanh toán giá trị vật và bồi thường thiệt hại theo qui định chung.
153
Do dung lượng không cho phép, nên còn một số vấn đề bất cập khác như, nội hàm khái niệm “vật không còn” là chưa rõ ràng, hoặc việc trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện liên quan tới quyền tự do cá nhân, hoặc do vi phạm nghĩa vụ không được thực hiện một công việc… không được trình bày trong phần này mà sẽ được trình bày trong một nghiên cứu khác khi điều kiện cho phép.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
1. Hiệu lực hợp đồng không phải là một khái niệm đơn nhất mà là khái niệm phức hợp có liên quan đến nhiều qui định khác nhau của pháp luật hợp đồng, và được đặt trong mối liên hệ biện chứng với những tác động của nhiều yếu tố khách quan. Bởi vậy, cần nhìn nhận các qui định của pháp luật về hiệu lực hợp đồng như là một cơ chế hoàn chỉnh, bao gồm sự ràng buộc và sự cho phép phá vỡ hợp đồng. Việc cho phép phá vỡ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng không phải nhằm chống lại hiệu lực ràng buộc của hợp đồng mà là một cơ chế pháp lý để bảo vệ, củng cố hiệu lực hợp đồng.
2. Qua khảo cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng đã xác định được rằng, qui định của pháp luật hiện hành về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam hiện còn một số vấn đề bất cập: (i) Pháp luật hiện vẫn còn thiếu qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng; (ii) Các biện pháp khắc phục do vi phạm nghĩa vụ giao vật trong trường hợp vật đặc định bị hư hỏng, hoặc vật cùng loại khan hiếm trên thị trường… Trên cơ sở nhận thức những bất cập đó, mục 4. 3 chương này có đưa ra một kiến nghị, trong đó có các kiến nghị quan trọng như:
+ Bổ sung Điều 405a về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng gồm hai khoản để qui định hai nội dung là hiệu lực bắt buộc như pháp luật của hợp đồng, và hạn chế quyền đơn phương rút lui khỏi hợp đồng đã có hiệu lực;
+ Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 303 BLDS 2005 theo hướng bổ sung thêm các giải pháp khắc phục trong trường hợp vật đặc định phải giao bị hư hỏng;
+ Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 303 BLDS 2005 qui định về trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ giao vật cùng loại để ghi nhận các trường hợp ngoại lệ khi vật cùng loại bị khan hiếm trên thị trường và khi người bị vi phạm không có khả năng tìm nguồn khác thay thế, thì bên có nghĩa vụ bị cưỡng chế phải giao vật cùng loại thay vì chỉ phải thanh toán giá trị vật và bồi thường thiệt hại…
154
Chương 5
HIỆU LỰC HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI
Như đã phân tích trong các chương trước, bản chất của hiệu lực hợp đồng chính
là sự ràng buộc như pháp luật đối với các bên từ thời điểm giao kết mà các bên không
được tự ý sửa đổi, hoặc hủy bỏ. Nhưng hiệu lực ràng buộc của hợp đồng không phải là
hoàn toàn bất biến, bởi vì việc thực hiện hợp đồng “ngày càng mang tính chất của một
quá trình” và “hàm chứa nhiều loại rủi ro” [201, tr.19]. Nhất là trong các hợp đồng
quốc tế dài hạn, các bên thường đối mặt với những rủi ro bất thường từ thiên nhiên, xã
hội, kinh tế, chính trị, kỹ thuật, thông tin, chính sách, thậm chí là rủi ro về con người,
làm đảo lộn sự cân bằng vốn có của hợp đồng, làm cho việc thực hiện nghĩa vụ trong
hợp đồng trở nên rất khó khăn tốn kém, thậm chí không thể thực hiện được. Trong
những hoàn cảnh như vậy, Luật hợp đồng cổ điển [340, tr.9; 341, tr.1&3] sử dụng cơ
chế cho phép chấm dứt hợp đồng dựa trên điều khoản bất khả kháng. Về sau, người ta
thấy rằng, cơ chế này không còn thích hợp để giải quyết nhiều vấn đề được đặt ra từ
thực tiễn vì điều kiện để một sự kiện khách quan được công nhận là sự kiện bất khả
kháng thì quá “nghiêm ngặt”, mà hậu quả pháp lý của nó thì lại quá cực đoan do được
thực hiện theo cơ chế hoặc ‘được tất cả’, hoặc là ‘không có gì’ [341, 404]. Trong
nhiều trường hợp, cách giải quyết như vậy là không bảo đảm sự công bằng cho các
bên.
Để có cơ chế thích hợp hơn trong việc giải quyết tình thế khó khăn, vừa bảo vệ
hiệu lực hợp đồng, vừa bảo đảm lợi ích các bên, nhằm phân chia hợp lý rủi ro và tái
lập sự cân bằng của hợp đồng, các nhà kinh doanh thương mại quốc tế thường đưa vào
hợp đồng của họ một điều khoản cho phép bên gặp khó khăn đặc biệt được yêu cầu
bên kia đàm phán lại hợp đồng, với các tên gọi khác nhau như điều khoản tình thế đặc
biệt khó khăn (hardship), hay sự thay đổi hoàn cảnh (change of circumstances). Việc
này đã giúp cho họ kiểm soát tốt các rủi ro, cũng như quản lý có hiệu quả các quan hệ
hợp đồng trong hoạt động kinh doanh của mình.
Vì được sử dụng có hiệu quả trong thực tiễn thương mại quốc tế, điều khoản nói
trên đã được chấp nhận và tiếp thu trong thực tiễn xét xử, được pháp điển hóa thành
các qui định cụ thể trong pháp luật của nhiều nước; và cũng được đưa vào các bộ qui
tắc về hợp đồng thương mại quốc tế, mà điển hình là Bộ Nguyên tắc Unidroit về Hợp
đồng thương mại quốc tế và Những nguyên tắc chung của Luật Hợp đồng châu Âu.
155
Ở Việt Nam, điều khoản bất khả kháng đã được biết đến và thừa nhận cả trong
luật thực định cũng như thực tiễn thương mại, nhưng cơ chế cho phép sửa đổi hiệu lực
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi như trên đây vẫn chưa được biết đến một cách sâu
rộng trong thực tiễn pháp lý. Trong bối cảnh trên và trong xu thế Việt Nam ngày càng
hội nhập sâu rộng mọi mặt vào các thể chế kinh tế quốc tế, việc tìm hiểu để tiếp thu và
đưa qui định về điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship hay
change of circumstances) vào pháp luật thực định Việt Nam, là một yêu cầu cần thiết.
Với nhận thức đó, nội dung chương này nghiên cứu về khái niệm, nội dung cơ
bản của điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship clause hay
change of circumstances), với ý nghĩa là một ngoại lệ của hiệu lực hợp đồng. Từ đó,
đề xuất một số kiến nghị trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật liên quan tới
điều khoản này.
5.1. ĐIỀU KHOẢN SỬA ĐỔI HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI:
KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN
5.1.1. Khái niệm điều khoản sửa đổi hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi
Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết hợp pháp thì có hiệu lực như pháp luật
đối với các bên. Nhưng trên thực tế, vì những lý do khách quan hoặc chủ quan, một
hoặc các bên không thể thực hiện được các nghĩa vụ hợp đồng. Theo pháp luật Việt
Nam cũng như của nhiều quốc gia khác trên thế giới, nếu việc không thực hiện hợp
đồng là do hành vi trái pháp luật và có lỗi của bên vi phạm hợp đồng, thì bên vi phạm
bị buộc phải gánh chịu trách nhiệm dân sự trước bên có quyền bị vi phạm [15, Khoản
1 Điều 302]. Nhưng nếu việc không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng là do nguyên
nhân bất khả kháng (hoặc hoàn toàn do lỗi của bên có quyền), thì bên không thực hiện
hợp đồng không phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện đó [15, Khoản 2 và
khoản 3 Điều 302 ].
Tuy vậy, qui định về điều khoản bất khả kháng có phạm vi áp dụng rất hạn chế
và cũng chưa bao quát hết các trường hợp cản trở thực hiện hợp đồng phát sinh từ thực
tiễn đời sống, nên không thể là căn cứ pháp lý phù hợp để giải quyết các tranh chấp
này. Thực tiễn cho thấy trong nhiều trường hợp, do gặp những trở ngại khách quan
không lường trước được vào thời điểm giao kết hợp đồng, nên hợp đồng không thể
thực hiện được hoặc nếu cố gắng tiếp tục thực hiện hợp đồng thì một hoặc cả hai bên
sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn bất lợi, hoặc sẽ bị thiệt hại rất lớn.
156
Ví dụ như việc xây dựng Cảng hàng không Quốc tế Phú Quốc18 do Tổng công
ty Cảng hàng không Miền Nam (Southern Airports Corporation- SAA) làm chủ đầu tư,
Liên danh CPG- PAE (Singapore và Mỹ) là nhà thầu tư vấn, và Tổng công ty ACC Bộ
Quốc phòng là nhà thầu thi công [128][259]. Trong quá trình thi công, ACC phát hiện
vùng đất nền của công trình có địa chất rất phức tạp, không giống như kết quả mà
CPG- PAE đã khảo sát trước đó. Mặc dù vậy, cả SAA và CPG- PAE đều không có lỗi,
vì việc khảo sát đã được thực hiện đúng tiêu chuẩn xây dựng theo qui định của luật
pháp Việt Nam. Nếu tiếp tục thi công theo phương án ban đầu sẽ không đảm bảo an
toàn cho công trình khi sử dụng, và chi phí xây dựng sẽ tăng lên rất cao so với dự kiến,
gây ra thiệt hại rất lớn cho nhà thầu. Trên thực tế, trở ngại này phát hiện sau khi hợp
đồng xây dựng đã có hiệu lực, và ACC đã tiến hành một phần công đoạn của dự án. Vì
thế, phía nhà thầu ACC muốn đàm phán lại nội dung hợp đồng. Tuy nhiên, vấn đề khó
khăn về mặt pháp lý ở đây là, việc phát hiện nền đất công trình có địa chất phức tạp,
gây khó khăn rất lớn cho việc thi công và làm tăng giá thành của công trình lên rất
nhiều lại không phải là bất khả kháng đối với việc thực hiện hợp đồng. Đây cũng
không phải là căn cứ để chấm dứt hợp đồng, hay để đàm phán lại hợp đồng. Nhưng
nếu không đàm phán lại hợp đồng, thì việc tiếp tục thi công sẽ gặp khó khăn trở ngại
rất lớn về kỹ thuật, tăng đáng kể chi phí và cũng là sự bất công đối với ACC.
Ví dụ vừa nêu cho thấy, vấn đề thay đổi hoàn cảnh làm cho việc thực hiện hợp
đồng gặp khó khăn trở ngại là vấn đề pháp lý không hiếm gặp trên thực tế, và rất cần
được dự liệu trong luật để làm cơ sở giải quyết các tranh chấp liên quan.
Trong thực tiễn thương mại quốc tế, các nhà kinh doanh quốc tế đã đưa vào hợp
đồng của họ điều khoản qui định quyền được yêu cầu đàm phán lại hợp đồng dựa trên
nguyên tắc trung thực, thiện chí khi có sự thay đổi lớn về hoàn cảnh, làm mất cân bằng
lợi ích cơ bản giữa các bên tham gia hợp đồng. Điều khoản này được gọi ngắn gọn là
“hardship clause”, hay “change of circumstances”. Trên bình diện quốc tế, điều khoản
này được chấp nhận rộng rãi trong luật thực định, thực tiễn thương mại, thực tiễn xét
xử của nhiều quốc gia, cũng như trong các bộ nguyên tắc tập quán thương mại quốc tế.
Về phương diện lý thuyết, khái niệm ‘hardship’ xuất hiện trong thực tiễn
thương mại vào những năm 1960, và được trình bày lần đầu tiên trong các nghiên cứu
18 Xem thêm: Quyết định số 1608/QĐ-TTg ngày 10/11/2008 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch Cảng Hàng không quốc tế Phú Quốc, giai đoạn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
157
của Marcel Fontaine in trong quyển “Pháp luật hợp đồng quốc tế”, xuất bản năm 1989
[49, tr.181-2]. Nội dung của điều khoản hardship cũng được thể hiện trong các hợp
đồng thương mại quốc tế, dưới nhiều dạng điều khoản khác nhau. Theo GS. Marcel
Fontain, từ những năm 1975, Nhóm nghiên cứu của ông tập hợp được hơn 120 điều
khoản hardship từ thực tiễn thương mại [66, tr.117-22]. Một số điều khoản loại này đã
được GS. Henry Lesguillons khái quát lại và trình bày trong Hội thảo quốc tế tổ chức
ở Hà Nội năm 2004 [119, tr.86 -94]. Khái niệm ‘hardship’ và các khái niệm tương tự
cũng đã được thừa nhận trong nhiều hệ thống pháp luật, như thuật ngữ ‘commercial
impracticcability’, ‘frustration of purpose’ [301, tr.275] hay ‘change of circumstances’
trong Thông luật [341, tr.403-4; 317, tr. 302-3], ‘Wegfall der Geschäftsgrundlage’
trong tiếng Đức [339, tr.378], hoặc được các học giả người Đức dùng với thuật ngữ
khác là ‘the foundation of the transaction’ [328, tr.319 – 48, đặc biệt xem tr.318 &
381], hoặc những thuật ngữ khác tương tự như ‘impossibility’, ‘imprévision’,
‘eccessiva onerosit à sopravvenuta’[318, tr.415].
Trong chương này, chúng tác giả không nghiên cứu mọi vấn đề liên quan tới
bất khả kháng và hardship, mà chỉ tập trung làm rõ các vấn đề cơ bản của điều khoản
sửa đổi (điều chỉnh) hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi.
Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi là điều khoản qui định cho
phép một bên trong hợp đồng có quyền xin điều chỉnh hợp đồng, khi có những tác
động khách quan làm thay đổi về hoàn cảnh và môi trường kinh tế tới mức gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của một hoặc các bên, làm mất đi cân bằng kinh tế
của hợp đồng, làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kỳ khó khăn và tốn kém
[100, tr.42].
Theo đó, điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi qui định những
cơ chế can thiệp hợp lý vào hiệu lực hợp đồng, như cho phép các bên yêu cầu tòa án
điều chỉnh hợp đồng, hoặc nếu không điều chỉnh được thì cho chấm dứt hợp đồng,
nhằm tái lập sự cân bằng về lợi ích giữa các bên trong hợp đồng, theo những căn cứ,
thủ tục, điều kiện chặt chẽ và hạn chế. Đây được xem là là nguyên tắc vừa đối lập, vừa
bổ sung cho nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng; đồng thời cũng là một ngoại lệ
quan trọng và không thể thiếu của nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng.
Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi được định chế trong luật
nhằm xác lập căn cứ pháp lý để sửa đổi hợp đồng đang có hiệu lực với điều kiện: khi
158
có sự thay đổi không thể lường trước được của hoàn cảnh; nằm ngoài sự kiểm soát
của các bên; ảnh hưởng tới hợp đồng với mức độ làm đảo lộn sự cân bằng trong hợp
đồng. Vì thế, vai trò của điều khoản này sẽ là: (i) duy trì sự cân bằng về mặt kinh tế và
đảm bảo sự tiếp tục thực hiện hợp đồng; (ii) phân chia rủi ro giữa các bên; và (iii)
thiết lập một cơ chế điều chỉnh hợp đồng phù hợp với lợi ích của các bên [119, tr.87].
Cũng cần lưu ý, giữa điều khoản qui định về sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh
thay đổi và điều khoản qui định về sự kiện bất khả kháng có sự khác biệt rõ rệt. Trong
pháp luật Việt Nam, sự kiện bất khả kháng được định nghĩa là “sự kiện xảy ra một
cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã
áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” [15, khoản 1 Điều 161]. Sự
kiện bất khả kháng thường có các đặc điểm là xảy ra một cách khách quan, không
lường trước được, không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết. Pháp luật của các nước và cả trong các bộ pháp điển quốc tế đều xem sự kiện bất
khả kháng là căn cứ để miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng, hoặc cho phép
chấm dứt việc thực hiện hợp đồng [37, Điều 79] [25, Điều 7.1.7] [227, tr.110; 317,
tr.403 – 4], thậm chí là “tước đoạt khả năng thực hiện hợp đồng” [119, tr.78]. Điều
khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi có những đặc điểm gần giống với sự
kiện bất khả kháng như cả hai đều là sự kiện khách quan, xảy ra sau khi các bên xác
lập hợp đồng, ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình thực hiện hợp đồng. Nhưng điều khoản
sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cũng khác với sự kiện bất khả kháng ở nhiều
điểm quan trọng, như: có phạm vi áp dụng rộng rãi hơn; thường được dành cho việc
điều chỉnh các hợp đồng dài hạn; và mục đích của điều khoản này là đề xuất việc đàm
phán lại và tu chỉnh các điều khoản hợp đồng sao cho việc thực hiện hợp đồng có thể
được tiếp tục, thay vì sự kiện bất khả kháng là làm chấm dứt hợp đồng hoặc để miễn
trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng.
5.1.2. Nội dung cơ bản của điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi
Qua nghiên cứu pháp luật của một số nước và các bộ qui tắc về hợp đồng quốc
tế có qui định về điều khoản hardship hoặc các điều khoản tương đồng, có thể thấy nội
dung cơ bản của qui định này thường dự liệu về ba vấn đề sau đây:
5.1.2.1. Quy định khái niệm điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi và
hạn chế áp dụng
159
Nội dung quan trọng nhất và là căn cứ để áp dụng điều khoản sửa đổi hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi chính là qui định về khái niệm và nội dung cơ bản của điều
khoản này, cũng như những điều kiện áp dụng và phạm vi áp dụng chúng. Tuy vậy,
nội dung này được qui định trong pháp luật của các nước là không giống nhau. Theo
các chuyên gia quốc tế về vấn đề này, thì vấn đề xác định như thế nào là hoàn cảnh
thay đổi (hay sự kiện hardship), dường như còn là câu chuyện riêng của pháp luật mỗi
quốc gia [296, tr.319 – 22; 318, tr.415 -33] vì qui định về vấn đề này trong pháp luật
các nước vẫn còn có sự khác biệt nhất định. Điều này cũng không phải là khó hiểu, vì
pháp luật là sự phản ánh của kiến trúc thượng tầng và dựa trên các điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội đặc thù của mỗi nước. Ngay cả các qui định về cùng vấn đề này trong
các bộ nguyên tắc về hợp đồng quốc tế là PICC và PECL cũng không hoàn toàn giống
nhau. Trong thực tiễn thương mại quốc tế cũng vậy, tùy hoàn cảnh và mục đích cụ thể
trong mỗi hợp đồng mà các bên có thể thỏa thuận những điều khoản sửa đổi hợp đồng
khi hoàn cảnh thay đổi thích hợp. Qua nghiên cứu và tổng kết từ thực tiễn, GS. Henry
Lesguillons cũng đã chỉ ra có gần 10 cách qui định khác nhau về điều khoản sửa đổi
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (hardship clause) thường thấy trong các hợp đồng
quốc tế [119, tr.88].
Nhìn chung, điều khoản này thường qui định các nội dung chủ yếu sau đây:
- Khái niệm hoàn cảnh thay đổi: thường thì khái niệm hoàn cảnh thay đổi được
xác định dựa trên hai yếu tố cơ bản để điều khoản này ra đời, đó là sự xuất hiện của
các sự kiện khách quan ngoài ý chí và ngoài sự dự liệu của các bên, sau khi xác lập
hợp đồng, mà hậu quả của nó là làm thay đổi cơ bản sự cân bằng về lợi ích giữa các
bên trong hợp đồng (điển hình như cách tiếp cận của PICC).
- Những dấu hiệu bổ sung kèm theo để nhận biết về hoàn cảnh thay đổi và/hoặc
những sự kiện bị loại trừ (không được coi là hoàn cảnh thay đổi). Người ta có thể loại
trừ các trường hợp như: tình trạng rủi ro về đối tượng của hợp đồng, những biến động
về chính trị, sự tăng giá của một mặt hàng xác định nào đó được sử dụng trong việc
thực hiện hợp đồng, hoặc thậm chí là loại trừ cả sự mất giá của đồng tiền thanh toán
trong hợp đồng…
160
5.1.2.2. Nghĩa vụ thương thảo lại hợp đồng và các thủ tục pháp lý cần thiết của việc
thương thảo lại hợp đồng
Theo qui định trong luật hợp đồng của nhiều nước, các sự kiện bất khả kháng
thường đưa đến hệ quả là làm cho hợp đồng chấm dứt hiệu lực và bên không thực hiện
hợp đồng thường được miễn trừ trách nhiệm dân sự trước bên kia [339, tr.378]. Theo
Richard Stone, thì “sự kiện bất khả kháng” được thực hiện theo cơ chế “tất cả” hoặc
là “không có gì”, và không có một cách thức nào được đưa ra để làm thay đổi hợp
đồng [341, tr.304].
Khác với việc xử lý hậu quả của việc vi phạm hợp đồng do sự kiện bất khả
kháng, các giải pháp để điều chỉnh tình trạng mất cân đối lợi ích giữa các bên trong
hợp đồng do thay đổi hoàn cảnh thường cho phép các bên thương thảo lại hợp đồng.
Điều này thậm chí được chấp nhận ngay cả đối với các nước như “Đức, Hà Lan, Ý, Hy
Lạp, Bồ Đào Nha và Đan Mạch, mặc dù ở một vài quốc gia trong những quốc gia này
thì chỉ có thẩm phán mới có thể chỉnh sửa hợp đồng, chứ không phải là các bên”, như
GS. Catherine Kessedjian đã từng nhận xét [318, tr.426 – 7].
Tóm lại, để xử lý hậu quả của hoàn cảnh thay đổi mang lại, người ta thường qui
định về cách thức và thủ tục để các bên có thể thương thảo lại với nhau về việc sửa đổi
nội dung hợp đồng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế và sự công bằng giữa các bên.
Một vấn đề gây băn khoăn của nhiều học giả là, nên qui định cơ chế thương thảo tự
động sau khi một bên chứng minh được sự kiện hoàn cảnh thay đổi cản trở thực hiện
hợp đồng, hay phải nhờ đến một cơ chế khác thích hợp. Cách chọn lựa của PICC [Điều
6.2.2], PECL [Điều 6: 111]và qui định trong pháp luật của nhiều nước [Ví dụ : Khoản
3 Điều 1467 BLDS Italia] là thông qua cơ chế yêu cầu tòa án xem xét trong thời gian
không chậm trễ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
5.1.2.3. Thương thảo lại không thành công và hậu quả pháp lý của nó.
Một trong những nội dung rất cần được dự liệu là hậu quả pháp lý khi các bên
không tự nguyện thương thảo, hoặc việc thương thảo lại nội dung của hợp đồng không
thành công. Đây là vấn đề khó và gây nhiều tranh cãi. Thực tiễn thương mại và các tổ
chức tham gia soạn thảo PICC đã đề xuất nhiều phương án để lựa chọn cho qui định
này trong PICC, như Điều khoản do Phòng Thương mại Paris đề xuất là:
161
Nếu các Bên không thoả thuận được với nhau về việc sửa đổi hợp đồng trong thời hạn 90 ngày sau khi có yêu cầu sửa đổi hợp đồng, thì hợp đồng tiếp tục có hiệu lực theo quy định ban đầu.
hoặc Điều khoản do Phòng Thương mại Quốc tế đề xuất: Nếu các Bên không thể thoả thuận được với nhau về việc sửa đổi hợp đồng trong thời hạn 90 ngày sau khi có yêu cầu sửa đổi hợp đồng thì một trong các Bên có quyền đưa vụ việc ra Uỷ ban thường trực điều tiết quan hệ hợp đồng của Phòng Thương mại [Q]uốc tế giải quyết, để Uỷ ban này chỉ định một bên thứ ba (hoặc một hội đồng gồm ba thành viên) theo quy định của Quy chế điều tiết quan hệ hợp đồng của Phòng Thương mại [Q]uốc tế.
Vì quyền lợi của các Bên trong hợp đồng, bên thứ ba xác định xem các điều kiện sửa đổi hợp đồng quy định tại khoản 1 đã hội đủ chưa. Nếu các điều kiện này đã hội đủ thì bên thứ ba sẽ sửa đổi hợp đồng một cách công bằng nhằm đảm bảo không một Bên nào bị thiệt hại một cách thái quá. Các quyết định của bên thứ ba ràng buộc các Bên trong hợp đồng và được nhập vào hợp đồng.
Tuy vậy, các giải pháp này đều không thành công [119, tr.93]. Trên thực tế,
PICC và PECL đều chọn giải pháp là, tùy trường hợp, một cách hợp lý và có căn cứ,
tòa án hoặc cho phép chấm dứt hợp đồng, hoặc buộc các bên phải đàm phán lại hợp
đồng trên cơ sở của nguyên tắc trung thực, thiện chí [25, Khoản 3, 4 Điều 6.2.3; 343,
Khoản 2, 3 Điều 6.111].
5.2. ĐIỀU KHOẢN SỬA ĐỔI HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI
(HARDSHIP CLAUSE) TRONG PHÁP LUẬT CÁC NƯỚC VÀ TRONG TẬP
QUÁN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
5.2.1. Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trong thực tiễn pháp lý
của một số nước chịu ảnh hưởng của hệ thống luật Châu Âu lục địa - Civil law
Điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (điều khoản hardship) để
điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi được các nước theo hệ
thống luật châu Âu lục địa chấp nhận ở những mức độ khác nhau:
Ở Pháp: Trong vụ tranh chấp về hợp đồng cung cấp khí đốt giữa Công ty khí
gas Bordeaux với Tòa Thị chính thành phố, do Tham chính viện (Tòa Hành chính tối
cao Pháp) xử ngày 30/3/1916. Tham chính viện đã khẳng định rằng, khi hoàn cảnh
thay đổi không lường trước được đối với một hợp đồng hành chính (khái niệm hợp
đồng hành chính [Xem 228, tr.134]) một bên có thể được bồi thường để xác lập lại sự
cân bằng về tài chính trong hợp đồng và để tránh việc cung cấp dịch vụ công cộng bị
gián đoạn. Mặc dù các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng một giá cung cấp khí đốt cố
định trong một khoảng thời gian dài, nhưng do giá khí đốt tăng đột biến, nếu tòa không
162
sửa đổi các điều kiện (hoặc tăng giá) cung cấp khí đốt, chắc chắn công ty khí đốt sẽ đi
đến bờ vực phá sản và việc cung cấp khí đốt sẽ phải dừng lại. Do đó, Tham chính viện
đã cho rằng, các bên có thể thỏa thuận để thay đổi hợp đồng, nhưng nếu bên mua khí
đốt từ chối việc này thì công ty khí đốt có quyền đòi một khoản tiền bù đắp tổn thất,
gọi là tiền bồi thường cho khoản tổn thất không thể dự đoán, do cơ quan hành chính
được cung cấp khí đốt trả.19
Tuy được án lệ hành chính chấp nhận, nhưng lý thuyết này đã bị các tòa án tư
pháp của Pháp bác bỏ gần như tuyệt đối. Trong vụ Kênh đào Craponne (S. 1876, I,
trang 161; D.1876, I, trang 193) do Toà án tư pháp tối cao xử ngày 06/3/1876: “Trong
mọi trường hợp, toà án không thể căn cứ vào thời gian và hoàn cảnh để thay đổi các
thoả thuận của các bên và thay thế các thoả thuận đã được các bên tự do chấp thuận
bằng những điều khoản mới, dù toà án cho rằng quyết định của mình có công bằng thế
nào chăng nữa” [268, tr.154]. Và, các toà án tư pháp đã luôn trung thành với định
hướng này, bất chấp những biến động kinh tế và tiền tệ xảy ra sau Đại chiến thế giới
lần thứ hai. Bản án của Toà án tư pháp tối cao ngày 18/1/1950 (D. 1950, tr. 227), một
lần nữa đã khẳng định: “Thẩm phán không thể viện dẫn việc tăng giá, kể cả khi điều đó
đã được xác nhận, để giải phóng một bên khỏi những cam kết rõ ràng và chính xác mà
bên đó đã tự do chấp thuận” [268, tr.14]. Mặc dù vậy, Tòa Paris cũng đã từng dẫn
“Điều khoản tự vệ” của hợp đồng để cho phép các bên được “tiến hành thương lượng
để xem xét khả năng thay đổi hợp đồng (về giá hoặc một điều khoản khác)” nếu giá
xăng tăng hơn 6 francs một tấn so với giá quy định trong hợp đồng (Paris, 28/9/1976,
JCP 1978, II, 18810, ghi chú J.Robert) [268, tr.154].
Các phán quyết của Tòa án Tư pháp tối cao bị nhiều học giả nhận xét là cứng
nhắc, và cho rằng cần phải thay đổi cách nhìn nhận này [268, tr.154]. Thực tiễn thương
mại ở Pháp cũng đã phản ứng lại các phán quyết này bằng cách, khi ký kết hợp đồng,
các bên thường đưa vào các hợp đồng của mình điều khoản cho phép đàm phán lại hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Michel Trochu đã nhận xét về thực tế này như sau: “Có
lẽ điều này giải thích vì sao có ít phán quyết được đưa ra trong lĩnh vực này, bởi vì
các bên đã tự tìm ra những giải pháp khác cho những vấn đề của họ” [268, tr.154].
Nhìn nhận lại vấn đề này, có ý kiến cho rằng: “Pacta sunt servanda vẫn là nguyên tắc
19 Xem: CE. 30-3-1916 Gaz de Bordeaux, Rec. 125 Les Grands errêtts No. 34.
163
thống trị nghiêm cấm sự thích ứng của hợp đồng tư đối với hoàn cảnh thay đổi.”
Nhưng qua phán quyết gần đây của Tòa Phúc thẩm ngày 16/3/2004 (Dalloz 2004, Jur.
P. 1754, note D. Mazeaud.), thì “nguyên tắc này rõ ràng là đã bị mài giũa và có lẽ là
dần dần phải thay đổi… Và rất rõ ràng là học thuyết hardship cuối cùng lại được
chấp nhận” [318, tr.426].
Trái ngược với án lệ, luật thực định của Pháp lại qui định minh thị cho phép
điều chỉnh nội dung hợp đồng khi hoàn cảnh có sự thay đổi, như khoản 1 và khoản 2
Điều 900 BLDS Pháp cho phép bên tặng cho tài sản có quyền yêu cầu tòa án điều
chỉnh lại hợp đồng trong trường hợp có sự thay đổi của tình hình làm cho việc thực
hiện nghĩa vụ trở nên khó khăn, hoặc có thể gây thiệt hại nghiêm trọng, hoặc lý do để
duy trì điều khoản của hợp đồng tặng cho không còn nữa [227, tr. 91-2]. Sau Đại chiến
1914 – 1918, do đồng tiền của Pháp bị mất giá, Quốc hội đã ban hành đạo luật Failliot
ngày 21/01/1918 cho phép các thẩm phán được chấm dứt các hợp đồng xác lập trước
1914 mà việc thực hiện là quá bất công đối với người có nghĩa vụ. Sau Đại chiến thế
giới thứ hai, Quốc hội Pháp cũng đã ban hành đạo luật ngày 22/4/1949 cho phép tòa án
chấm dứt các hợp đồng ký kết trước ngày 02/9/1939 mà việc thực hiện (giao hàng hay
làm một công việc) trở nên quá nặng nhọc cho người có nghĩa vụ, vì tình hình chiến
tranh hay do sự thay đổi kinh tế không thể dự đoán được khi giao kết hợp đồng [168,
tr.256]. Như vậy, điều khoản hardship tuy không được thừa nhận rộng rãi trong án lệ,
nhưng lại được ghi nhận trong luật thực định khi xảy ra những biến cố đặc biệt, ví dụ
khi có sự mất giá đồng tiền trong thời kỳ hậu chiến, như vừa nêu trên, và được chấp
nhận khá phổ biến trong thực tiễn thương mại tại Pháp.
Ở Đức: BLDS Đức cũng có những điều khoản qui định gián tiếp liên quan đến
vấn đề này, thể hiện trong Điều 313 BGB qui định về “Interference with the basis of
the transaction”, hay Điều 242 BGB “Performance in good faith”. Trong Luật về Điều
kiện thương mại chung của CHLB Đức (AGBG)20 [208, tr.55], một mặt nhà làm luật
cho phép điều chỉnh nội dung hợp đồng, nhưng mặt khác cũng cấm các bên tuyệt đối
không được bảo lưu “Điều khoản nhằm tăng khoản thù lao đối với hàng hóa hoặc dịch
vụ đã được thực hiện trong vòng 4 tháng sau khi ký hợp đồng. Tuy vậy, “Qui định này
không áp dụng cho những hàng hóa hoặc dịch vụ đã thực hiện trong phạm vi các quan
20 Luật này đã hết hiệu lực từ ngày 31/12/2001. Các nội dung liên quan này hiện đã được đưa vào trong BLDS Đức, quy định tại các Điều 305-310.
164
hệ nghĩa vụ lâu dài, cũng như các dịch vụ có liên quan tới giá cả, áp dụng theo khoản
1 thuộc mục 99 Luật về hạn chế cạnh tranh không lành mạnh.”[208, tr.58]. Đây là cơ
sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp hợp đồng liên quan đến sự khó khăn hoặc sự
thay đổi hoàn cảnh, làm cho hợp đồng không thể thực hiện, hoặc nếu thực hiện thì tốn
kém chi phí lớn, hoặc làm giảm nghiêm trọng thu nhập của bên có nghĩa vụ. Có thể
xem các án lệ, như: RGZ 112, 329, 333–4; RGZ 119, 133 (sale of land); RGZ 147, 286
(sale of cotton) [328, tr.340].
Ở Italia: Theo các Điều 1467 - Điều 1469 BLDS Italia, các cam kết hợp đồng
có thể bị huỷ bỏ khi có sự kiện bất ngờ xảy ra một cách bất thường, không thể lường
trước được, sau khi hợp đồng được ký kết và trước khi thực hiện hợp đồng, và sự kiện
này làm cho việc thực hiện hợp đồng của một bên trở nên vô cùng khó khăn. Nhưng
các bên cam kết có thể tránh việc huỷ bỏ hợp đồng bằng cách đề nghị chỉnh sửa hợp
đồng một cách công bằng (khoản 3 Điều 1467) [310, tr.211], hoặc áp dụng Điều 1374
BLDS và Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự để yêu cầu thẩm phán “thiết lập lại sự cân
bằng trong hợp đồng theo một số điều kiện do pháp luật qui định” [4, tr.8-9]. Tuy
nhiên, các quy định này không phải là bắt buộc và các bên có thể thoả thuận với nhau
không phải áp dụng chúng. Án lệ của các tòa án ở Italia cũng từng có phán quyết về
vấn đề này, ví dụ: xem các án lệ Cass. civ., sez. II, 20/6/1996, no. 5690 (Roccheri c.
Mazzara); Cass. civ., 9/4/1994, no. 3342 (Soc. Arbos c. Com. Piacenza)…
Ở Bồ Đào Nha: cơ sở của việc thỏa thuận nội dung hợp đồng trong BLDS Bồ
Đào Nha dựa trên hai điều luật như: khoản 2 Điều 252 nói về sự sai sót trong việc xác
định ý chí, động cơ để ký hợp đồng, và các Điều 437 – 439 để giải quyết hoặc sửa đổi,
bổ sung hợp đồng dựa trên cơ sở là có hoàn cảnh thay đổi. Mặt khác, Khoản 1 Điều
437 cũng qui định: “Khi có hoàn cảnh mà các bên dựa trên hoàn cảnh đó để quyết
định giao kết hợp đồng bị thay đổi bất thường và đó không phải là rủi ro hợp lý trong
hợp đồng, thì bên bất lợi có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng, hoặc sửa đổi hợp đồng
dựa trên cơ sở công bằng, khi nghĩa vụ mà người đó buộc phải thực hiện vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc trung thực, thiện chí”. Còn theo Điều 438 thì “bên bị thiệt
hại không được yêu cầu sửa đổi bổ sung hợp đồng, nếu bên đó vi phạm hợp đồng tại
thời điểm có sự thay đổi hoàn cảnh”. Điều 439 còn qui định thêm rằng: “nguyên tắc
chung liên quan đến hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng thì vẫn áp dụng, kể
cả việc chấm dứt hợp đồng dựa trên hoàn cảnh thay đổi.” [296, tr.323 - 25].
165
Ở Hà Lan: Tương tự như qui định Điều 437 BLDS Bồ Đào Nha, Điều 258
BLDS Hà Lan cũng cho phép thẩm phán có quyền can thiệp, chỉnh sửa các điều khoản
của hợp đồng dựa trên sự thay đổi của hoàn cảnh mà các bên không lường trước được
khi giao kết hợp đồng [314, tr.202 & 204]. Ngoài ra, việc sửa đổi hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi (hoàn cảnh hardship) còn được chấp nhận bởi các nước khác như Hy
Lạp và Đan Mạch [318, tr.427].
Ở Nhật Bản: Luật thực định cũng thừa nhận điều khoản sửa đổi hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi. Điều 415 BLDS Nhật Bản qui định bên đã cam kết phải có trách
nhiệm với bên kia do việc không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Có ý kiến cho rằng
“Điều này cho phép suy luận ngược lại là, một bên trong hợp đồng sẽ không phải chịu
trách nhiệm gì nếu việc không thực hiện hợp đồng là do những sự kiện khách quan
ngoài ý muốn” [333, tr.398]. Các luật gia Nhật Bản cũng chấp nhận học thuyết “thay
đổi hoàn cảnh” khi chi phí thực hiện hợp đồng hay giá cả thị trường có sự thay đổi lớn.
Theo Luke Nottage, “học thuyết này phát triển trước hết là do các nhà nghiên cứu
pháp luật Nhật Bản đề xướng, do rút ra từ lý luận pháp lý của Đức, có nguồn gốc từ
tình trạng lạm phát sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất và được đưa vào BLDS Đức,
thể hiện minh thị trong qui định về nguyên tắc thiện chí và trung thực”. Học thuyết này
cũng được tòa án Nhật Bản chấp nhận và áp dụng từ sau thế chiến thứ hai, đến nhiều
thập niên sau này [333, tr.385 – 418], cụ thể là từ sau Sắc lệnh kiểm soát hóa được ban
hành (Bản án của Tòa án Tối cao 06/12/1944), “và sau đó trở thành nguyên tắc chung
của hợp đồng” (Bản án Tòa án Tối cao ngày 28/01/1954) [283, tr.500 -1].
Ở một số nước thuộc Châu Phi như Ai Cập, Syrie, Algérie đều có những quy
phạm điều chỉnh các hợp đồng, công hoặc tư, trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi bất
ngờ. Những điều khoản do các bên thỏa thuận trái với các quy phạm này đều vô giá trị
[268, tr.153].
5.2.2. Điều khoản hardship trong thực tiễn pháp lý ở một số nước theo hệ thống
Thông luật - Common law
Các nước có pháp luật chịu ảnh của hệ thống Thông luật, điển hình là Anh và
Mỹ, cũng có những cách tiếp cận khác nhau đối với điều khoản hardship.
Ở Anh: theo Richard Stone, việc thay đổi hoàn cảnh không được xem là căn cứ
để điều chỉnh hay đàm phán lại hợp đồng [341, tr.404]. Một tác giả khác cũng có cùng
quan điểm: “ở Anh – theo quan điểm luật truyền thống thì người mắc nợ chỉ phải đảm
166
bảo trả đủ cho chủ nợ một số tiền nào đó, chứ không phải thực hiện nghĩa vụ theo thực
chất.” [208, tr.20]. Nhưng theo Ewan McKendrick thì nhận định này không đúng:
“người ta thường nói rằng luật Anh không khuyến khích việc chỉnh sửa việc thoả thuận
trong trường hợp việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn hơn. Điều này không hoàn
toàn chính xác.” [317, tr.303]. Cũng theo McKendrick, trong những trường hợp này,
tòa án Anh có thể cho phép điều chỉnh hợp đồng và chính các bên ký kết hợp đồng
phải thực hiện việc chỉnh sửa. Toà án không thực hiện việc chỉnh sửa hợp đồng đã ký
giữa các bên, cũng không đưa ra bất kỳ trở ngại nào khi các bên cố gắng chỉnh sửa
thoả thuận của họ để phù hợp với hoàn cảnh thay đổi, như quyết định của Thượng
Viện trong vụ Walford v. Miles [1992] 2 AC 128 [317, tr.61 & 303].
Án lệ Anh cũng chấp nhận một cách hiếm hoi việc thay đổi hoàn cảnh dẫn đến
chấm dứt hợp đồng, như phán quyết của Tòa Phúc thẩm, trong vụ Krell v. Henry
[1903] 2 KB 740: Bị đơn thuê một căn hộ tại Pall Mall trong vòng 2 ngày. Mục đích
khi ký kết hợp đồng là nhìn thấy lễ diễu hành đăng quang của Edward VII, mặc dù
mục đích này không được nêu ra trong hợp đồng. Sau khi hợp đồng được ký kết, lễ
đăng quang bị hoãn do nhà vua bị bệnh nên hợp đồng không thể thực hiện được. Tòa
đã tuyên cho phép bên thuê được từ chối thực hợp đồng mà không phải bồi thường.
Nhưng thực chất phán quyết này không dựa trên điều khoản sửa đổi hợp đồng do hoàn
cảnh thay đổi (hardship) mà lại căn cứ vào điều khoản không thể thực hiện hợp đồng
do mục đích của hợp đồng không còn tồn tại (Frustration of purpose).
Ở Mỹ: án lệ có những phán quyết không nhất quán về vấn đề này. Trong vụ
Transatlanic Corp. v United States, CA Dis Col 363 F2d 312 (1966): Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ (A) thuê Công ty xuyên Đại tây dương (B) chở tàu chiến qua kênh đào Suez,
Ai Cập. Nhưng do kênh đào này bị đóng cửa, nên B phải đi đường vòng quanh Châu
Phi, làm tăng chi phí rất lớn. B đòi A phải thanh toán chi phí tăng lên ngoài dự kiến.
Mặc dù tòa nhận xét: “nghĩa vụ không thể thực hiện được” không cần phải hiểu theo
nghĩa tuyệt đối mà chỉ dựa trên các lý do kinh tế là đủ, nhưng tòa lại kết luận rằng, rủi
ro này có thể phải do một bên dự liệu và phải tự gánh chịu. Trái lại, các án lệ Mineral
Park land Co. v. Howard, 156 P. 458 Cal. 1916 và án lệ Waegemann v. Montgomary
Ward & Co., Inc. CA9 Cal 713 F2d 452 (1983) cũng như Điều 2 – 609 UCC lại thừa
nhận và cho áp dụng điều khoản đàm phán lại hợp đồng do thay đổi hoàn cảnh. Theo
đó, “nếu chi phí để thực hiện nghĩa vụ trong thực tế đã thay đổi đáng kể, lớn hơn gấp
167
10 lần chi phí đã dự kiến vào thời điểm giao kết hợp đồng, thì bên phải thực hiện
nghĩa vụ có thể yêu cầu tòa án tuyên bố chấm dứt quan hệ hợp đồng vì lý do không thể
thực hiện được” [203, tr.204–5] hoặc cho phép điều chỉnh hợp đồng.
Trong vụ Waegemann kiện Montgomary Ward & Co., Inc., bị đơn thuê nhà của
nguyên đơn, thời hạn 10 năm, với số tiền là 16.703 USD/năm gồm cả tiền thuế bất
động sản, đáo hạn sau mỗi 5 năm. Sau 5 năm lần thứ nhất, nguyên đơn yêu cầu chấm
dứt hợp đồng vì chính phủ Bang California quyết định giảm thuế bất động sản dẫn đến
giảm giá trị bất động sản. Điều này dẫn đến tiền thuê nhà (được tính theo bảng giá lũy
tiến) cũng giảm xuống còn 15.854,49 USD/năm, nên bị đơn yêu cầu nguyên đơn phải
tính lại tiền thuê theo giá này. Nguyên đơn đã kiện bị đơn ra tòa yêu cầu tòa án cho
chấm dứt hợp đồng vì cho rằng, hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện được là do bất
khả kháng. Nhưng cả tòa Sơ thẩm và Phúc thẩm đều bác yêu cầu của bên nguyên đơn
vì cho rằng, đây là hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, không phải là bất khả kháng, và buộc
các bên phải tiếp tục hợp đồng theo giá mà bị đơn đề xuất. Tòa sơ thẩm đã lập luận
rằng: “các bên đã giao kết hợp đồng thì phải thực hiện cam kết đó dựa trên niềm tin
chắc chắn là hợp đồng sẽ được thực hiện, nhưng qui tắc này sẽ phải bị giới hạn trong
một số trường hợp gọi là extreme hardship (hoàn cảnh khó khăn tột cùng).”21 Tương
tự quan điểm này, có thể xem thêm các án lệ khác, như: Cutter Laboratories, Inc. v.
Twining, 221 Cal.App.2d 302, 34 Cal.Rptr. 317 (1963); Lloyd v. Murphy, 25 Cal.2d
48, 153 P.2d 47 (1944); Davidson v. Goldstein, 58 Cal.App.2d Supp. 909, 136 P.2d
665 (1943); Grace v. Croninger, 12 Cal.App.2d 603, 55 P.2d 940 (1936)...
Như vậy, những thông tin trên cho thấy bằng nhiều cách thể hiện khác nhau,
pháp luật hợp đồng của các nước phát triển phương Tây và nhiều quốc gia khác trên
thế giới hiện nay đều có xu hướng chấp nhận cơ chế cho phép một bên được quyền
yêu cầu bên kia đàm phán lại, hay điều chỉnh nội dung hợp đồng khi “hoàn cảnh kinh
tế biến động” so với thời điểm xác lập hợp đồng, “nếu việc làm đó thỏa mãn tiêu
chuẩn hợp lý và công bằng” [208, tr.21].
5.2.3. Qui định về hardship trong các bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế
Trên bình diện quốc tế, trong thực tiễn thương mại, điều khoản điều chỉnh hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi thường được các thương gia đưa vào hợp đồng để chia sẻ
21 Waegemann v. Montgomary Ward & Co., Inc. CA9 Cal 713 F2d 452 (1983).
168
rủi ro khi có sự biến động lớn về kinh tế. Các Bộ qui tắc quốc tế, như điều kiện của
Hiệp hội các kỹ sư tư vấn quốc tế (FIDIC) trong văn bản về xây dựng (“Sách đỏ”)
hoặc trong văn bản về các hoạt động điện lực và cơ khí (“Sách vàng”), đều có qui định
về các điều khoản “rủi ro ngoại lệ”, “rủi ro đặc biệt” nhằm làm cơ sở giải quyết các
trường hợp khó khăn đặc biệt khi thực hiện các hợp đồng xây dựng, tương tự như điều
khoản “hardship” hay “bất khả kháng” [49, 185]. Ngày nay, điều khoản này càng trở
nên phổ biến hơn trong thực tiễn thương mại quốc tế, và đã trở thành cơ sở thực tiễn
quan trọng để được “pháp điển hóa” trong các Bộ nguyên tắc về hợp đồng quốc tế,
như Bộ Nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Bộ nguyên
tắc Luật hợp đồng chung Châu Âu (PECL).
Theo định nghĩa của UNIDROIT trong PICC 2004, “hoàn cảnh hardship được
xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp
đồng, hoặc chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ
giảm xuống...” và thỏa mãn bốn điều kiện được qui định trong đoạn tiếp theo của Điều
6.2.2: các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp
đồng; bên bị bất lợi đã không tính đến một cách hợp lý các sự kiện đó khi giao kết hợp
đồng; các sự kiện đó nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi; và, rủi ro về các sự
kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu [25, tr.295-301].
Tuy vậy, PICC cũng không thừa nhận một cách dễ dãi quyền đàm phán lại hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi đặc biệt. Những người soạn thảo văn kiện này khá là khắt
khe, bởi điều 6.2.1 PICC quy định “Các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình ngay
cả khi việc thực hiện hợp đồng trở nên tốn kém hơn, trừ các quy định liên quan dưới
đây về hardship”. Điều này cho thấy, việc áp dụng hardship để cho phép điều chỉnh lại
hợp đồng là một ngoại lệ của nguyên tắc pacta sunt servanda và phải được áp dụng rất
hạn chế.
Cũng theo Điều 6.2.3 PICC, hệ quả của việc áp dụng điều khoản hardship cho
phép: (i) bên bị bất lợi được đưa ra yêu cầu đàm phán lại hợp đồng (một cách không
chậm trễ và có căn cứ) và nếu đã yêu cầu đàm phán lại hợp đồng thì không được tạm
đình chỉ thực hiện nghĩa vụ; (ii) nếu các bên không thể thỏa thuận lại được hợp đồng
trong thời gian hợp lý thì mỗi bên có thể yêu cầu tòa án giải quyết; tòa án nếu xét thấy
hợp lý thì có thể hoặc cho chấm dứt hợp đồng theo điều kiện và thời điểm do tòa ấn
định, hoặc cho sửa đổi nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng.
169
Điều khoản hardship được thể hiện trong Bộ nguyên tắc luật hợp đồng chung
Châu Âu (PECL phiên bản 1999 - 2002), với tên gọi “Sự thay đổi hoàn cảnh” (change
of circumstances) tại Điều 6:111. Theo nhận xét của GS. Michel Trochu thì “Các
nguyên tắc của pháp luật hợp đồng Châu Âu cũng có những qui định gần giống,
nhưng rộng hơn” khái niệm hardship trong Bộ nguyên tắc Unidroit [268, tr.156].
Theo qui định tại Điều 6: 111 PECL, “Mỗi bên phải hoàn thành các nghĩa vụ
của mình, ngay cả khi việc thực hiện hợp đồng trở nên tốn kém hơn, do chi phí thực
hiện tăng hoặc do giá trị của khoản thanh toán giảm” (khoản 1), và khoản 2: “Tuy
nhiên, nếu việc thực hiện hợp đồng trở nên quá khó khăn bởi vì có sự thay đổi về hoàn
cảnh, các bên buộc phải tiến hành thoả thuận với quan điểm là chỉnh sửa hợp đồng
hoặc chấm dứt hợp đồng, với điều kiện là: (a) Việc thay đổi hoàn cảnh xảy ra sau thời
gian ký kết hợp đồng; (b) khả năng xảy ra sự thay đổi về hoàn cảnh không phải là một
trong những tình huống mà các bên buộc phải tính đến khi ký kết hợp đồng; và (c) rủi
ro về sự thay đổi không phải là một tình huống, theo như hợp đồng, bên bị ảnh hưởng
bị yêu cầu là phải gánh chịu”. PECL cũng xử lý hậu quả của việc áp dụng qui định về
sự thay đổi hoàn cảnh, như qui định tại khoản 3 Điều 6:111:
Nếu các bên không đạt được thoả thuận trong khoảng thời gian hợp lý, toà án có thể: (a) chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo những điều kiện do toà án xác định; hoặc (b) sửa đổi hợp đồng nhằm phân chia thiệt hại và lợi ích phát sinh do hoàn cảnh thay đổi cho các bên theo một cách thức công bằng và bình đẳng.
Trong bất kỳ trường hợp nào kể trên, toà án có thể buộc bên từ chối thỏa thuận hoặc vi phạm thoả thuận trái với nguyên tắc trung thực và thiện chí phải bồi thường thiệt hại mà bên kia phải gánh chịu [343, khoản 3 Điều 6 :111].
Như vậy, mặc dù trong PECL, điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh
thay đổi được sử dụng với tên gọi khác với PICC, nhưng vấn đề được qui định trong
hai văn kiện này tương đối đồng nhất về khái niệm, phạm vi áp dụng, cũng như các
giải pháp xử lý hệ quả pháp lý của nó. So với PICC, qui định trong PECL có phần đầy
đủ và hợp lý hơn vì khoản 3 Điều 6:111 qui định trách nhiệm các bên phải điều chỉnh
hợp đồng trước, và chỉ khi các bên không điều chỉnh thì tòa án “cho chấm dứt” hoặc
“sửa đổi hợp đồng theo một cách thức công bằng”.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp về vấn đề này tại các tổ chức tài phán quốc tế
cũng chấp nhận nguyên tắc rebus sic stantibus và điều khoản hardship một cách thận
trọng, ngay cả khi nội dung của điều khoản này chưa được qui định rõ ràng trong các
văn bản pháp điển. Theo đó, các trọng tài quốc tế đã từng công nhận và áp dụng
170
nguyên tắc rebus sic stantibus và điều khoản hardship, thậm chí xem đây như là một
điều khoản ngầm hiểu của hợp đồng, nếu điều khoản này đã không được các bên qui
định cụ thể trong hợp đồng. Điều này được thể hiện trong một quyết định của trọng tài
năm 1972, khi xem xét tới việc chuyển một hợp đồng đại lý bán hàng sang hợp đồng
đại lý sản xuất. “Các trọng tài cũng xác định những tiêu chí áp dụng nguyên tắc rebus
sic stantibus khi nhận định việc áp dụng nguyên tắc này là cần thiết “trong những
trường hợp có lý do bắt buộc, nếu nhìn vào tính chất căn bản của việc sửa đổi cũng
như vào tính chất đặc biệt của chính hợp đồng, của đòi hỏi trung thực và công bằng
và tất cả những hoàn cảnh xung quanh hợp đồng” (ICC, Quyết định trọng tài số 1512,
Clunet 1974, tr. 897, Y.D) [268, tr.115]. Một phán quyết khác - Phán quyết của ICC
(trong vụ số 2291 (1975), trang 989) đã chỉ ra điều này một cách rõ ràng rằng:
Tất cả các giao dịch thương mại đều được diễn ra trên cơ sở cân bằng về nghĩa vụ với nhau và phủ nhận nguyên tắc này sẽ khiến cho hợp đồng trở thành một hợp đồng tạm bợ, được giao kết trên cơ sở đầu cơ hoặc sự ngẫu nhiên. Đó chính là nguyên tắc lex mercatoria theo đó nghĩa vụ của các bên luôn phải cân bằng về mặt tài chính…, hợp đồng phải được giải thích trên cơ sở ngay tình, mỗi bên có nghĩa vụ đối xử với bên kia sao cho không gây hại cho bên đó và việc đàm phán lại hợp đồng một cách hợp tình hợp lý là một tập quán về các hợp đồng kinh tế quốc tế. [268, tr.154-5].
Tóm lại, mặc dù vẫn còn nhiều điểm khác biệt, nhưng nguyên tắc rebus sic
stantibus và điều khoản hardship đã được cân nhắc thận trọng và tiếp nhận ở những
mức độ khác nhau trong pháp luật của nhiều nước cũng như trong các bộ qui tắc
thương mại quốc tế và thực tiễn tài phán quốc tế theo phương thức trọng tài. Tuy vậy,
hầu hết các nước và các bộ qui tắc về hợp đồng quốc tế có sự chấp nhận áp dụng
nguyên tắc này đều đề cập đến ba nội dung cơ bản là:
(i) Các quốc gia được đề cập chấp nhận một cách thận trọng và không rời xa
hoặc phủ nhận các nguyên tắc pacta sunt servanda, nguyên tắc thiện chí và ngay tình.
(ii) Cơ sở nền tảng của việc áp dụng nguyên tắc này là sự thay đổi lớn của hoàn
cảnh mà các bên không thể biết và không thể lường trước được, và sự xuất hiện của nó
làm ảnh hưởng tới sự cân bằng lợi ích của hợp đồng;
(iii) Hầu hết các quốc gia và các bộ pháp điển quốc tế về hợp đồng đều có xu
hướng xem hardship như là một điều khoản mặc nhiên của pháp luật hợp đồng, cho dù
các bên không có thỏa thuận trước trong hợp đồng về việc lựa chọn áp dụng nguyên
tắc này. Qui định này cho phép các thẩm phán có thể viện dẫn điều khoản hardship để
giải thích hợp đồng, hoặc có thể áp dụng các chế tài buộc các bên thương thảo lại nội
171
dung hợp đồng trong trường hợp xảy ra sự thay đổi hoàn cảnh, làm thay đổi nền tảng
cơ bản của hợp đồng;
(iv) Các giải pháp được đưa ra là chủ yếu nhằm tái cấu trúc lại sự cân bằng lợi
ích giữa các bên trong hợp đồng, đảm bảo cho hợp đồng được tiếp tục thực thi bằng
cách để các bên tự thương thảo lại nội dung hợp đồng và cơ quan tài phán chỉ can
thiệp khi các bên có sự vi phạm nguyên tắc thiện chí, hợp tác.
Đây là những kinh nghiệm quí báu đáng được lưu ý và cân nhắc khi đưa ra các
kiến nghị pháp điển hóa điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi -
hardship vào trong luật thực định Việt Nam hiện hành.
5.3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN PHÁP LÝ VIỆT NAM VỀ
ĐIỀU KHOẢN SỬA ĐỔI HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI
5.3.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về điều khoản sửa
đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi - hardship
5.3.1.1. Qui định trong pháp luật Việt Nam trước 1975
Ở Việt Nam trước 1975, pháp luật thực định công nhận nguyên tắc “các hợp
ước phải được thi hành với sự thành ý” [13, khoản 3 Điều 673; 91, khoản 3 Điều 713].
Theo GS. Vũ Văn Mẫu, “một sự thi hành thành ý không thể nào trái với sự công
bằng”. Bởi vậy, “khi sự thi hành quá lợi cho người trái chủ và quá thua thiệt cho
người phụ trái, sự thi hành ấy trái với sự công bằng, và không thành ý”. Dựa theo
nguyên tắc này, thẩm phán có quyền can thiệp vào hợp đồng nếu các thỏa thuận đó là
không công bằng, gây ra sự bất lợi quá đáng cho một bên. Nhưng GS. Vũ Văn Mẫu
cũng cho rằng, hiểu và giải thích quá rộng rãi các điều khoản trên đây là một sai lầm.
Thế nên, trong bản án ngày 27/12/1946, Tòa Thượng thẩm Sài Gòn đã không chấp
nhận sự thay đổi hiệu lực hợp đồng chỉ vì bên có nghĩa vụ lâm vào hoàn cảnh khó
khăn do xuất hiện sự kiện không lường trước được: “mặc dù nhà thầu phải thi hành
khế ước thầu khoán trong những điều kiện tốn kém hơn vì giá vật liệu do tình trạng
chiến tranh đã tăng hơn 300%, các thẩm phán cũng không thể thay đổi khế ước.”
[168, tr.250 & 254].
Điều này cho thấy, theo luật thực định Việt Nam thời bấy giờ, tòa án có thể cho
phép các bên điều chỉnh hợp đồng khi gặp khó khăn đặc biệt, nhưng án lệ đã không
chấp nhận giải pháp này.
172
5.3.1.2. Qui định về hardship trong pháp luật thực định Việt Nam hiện hành
Trong qui định chung của pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện hành, điều khoản
‘hardship’ qui định việc đàm phán lại hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi làm mất cân
bằng kinh tế nghiêm trọng giữa các bên, vẫn chưa được chấp nhận. Nhìn chung, khái
niệm hardship chưa được biết đến nhiều trong thực tiễn pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
Trong các văn bản pháp luật chuyên ngành và trong các chính sách điều hành
của Chính phủ, điều khoản hardship cũng đã được đề cập đến ở một mức độ nhất định.
Có thể kể đến một số qui định cụ thể trong một vài lĩnh vực sau đây:
Trong lĩnh vực hợp đồng bảo hiểm: Khoản 1 Điều 20 Luật Kinh doanh bảo
hiểm 2000 qui định: Khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm,
dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh
nghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm thì bên
mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng
phải thông báo ngay bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm. Và theo khoản 2 Điều
20 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 thì: Khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để
tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm
có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong
trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì doanh nghiệp
bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải
thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm. Theo đó, pháp luật kinh doanh
bảo hiểm qui định minh thị cho phép các bên có thể yêu cầu bên kia điều chỉnh lại phí
bảo hiểm khi xảy ra những biến cố làm tăng, hoặc giảm mức độ rủi ro của đối tượng
được bảo hiểm.
Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và lĩnh vực đấu thầu: Pháp luật về xây dựng
cơ bản cho phép điều chỉnh giá trong hợp đồng xây dựng hình thức “giá cố định” và
hình thức “giá trọn gói” do “giá vật liệu xây dựng biến động ngoài khả năng kiểm soát
của chủ đầu tư và nhà thầu.”.22
22 Xem Nghị định 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình và Thông tư 05/2008/TT-BXD ngày 22/02/2008 của Bộ Xây dựng hướng dẫn điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng do biến động giá nguyên liệu, nhiên liệu và vật tư xây dựng.
173
Luật Đấu thầu 2005 cũng cho phép các bên được thỏa thuận để “điều chỉnh hợp
đồng”(mà chủ yếu là điều chỉnh về giá hợp đồng) khi có những thay đổi của nhà nước
về chính sách tiền lương, chính sách giá các mặt hàng do nhà nước kiểm soát giá.
Theo đó, 3 căn cứ làm phát sinh việc điều chỉnh hợp đồng là: “Nhà nước thay đổi
chính sách về thuế, tiền lương ảnh hưởng trực tiếp đến giá hợp đồng”; “khối lượng, số
lượng tăng hoặc giảm trong quá trình thực hiện hợp đồng nhưng trong phạm vi của hồ
sơ mời thầu và không do lỗi của nhà thầu gây ra”; “giá nhiên liệu, vật tư, thiết bị nêu
trong hợp đồng do Nhà nước kiểm soát có biến động lớn ảnh hưởng trực tiếp đến việc
thực hiện hợp đồng” (các điểm a, b, c khoản 1 Điều 57). Điều kiện và thủ tục để điều
chỉnh giá hợp đồng là “việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng trong thời gian thực hiện
hợp đồng theo hợp đồng đã ký và phải được người có thẩm quyền xem xét, quyết
định”(khoản 2 Điều 57). Hậu quả của việc thỏa thuận không thành: “Trường hợp thoả
thuận không thành thì nội dung công việc phát sinh đó hình thành một gói thầu mới và
tiến hành lựa chọn nhà thầu” theo qui định của Luật Đấu thầu 2005 (k .3 Điều 57).
Trong lĩnh vực hợp đồng mua hóa giá nhà của nhà nước: chính phủ cho phép
điều chỉnh phương thức thanh toán tiền mua nhà thuộc quyền sở hữu nhà nước bằng
vàng sang thanh toán bằng tiền, khi giá vàng tăng đột biến. Theo khoản 2 Điều 9 Nghị
định 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ, bên mua nhà của nhà nước phải trả tiền mua
nhà theo phương thức trả trước 20% trị giá nhà bằng tiền, số còn lại trả bằng vàng,
nhưng không quá 10 năm: “Thời hạn thanh toán không quá 10 năm. Mức trả lần đầu
khi ký kết hợp đồng không dưới 20% tổng số tiền phải trả, số tiền còn lại qui ra vàng
98% để làm căn cứ thanh toán các lần sau và mỗi năm tiếp theo phải trả không dưới
8% tổng số tiền phải trả. Nếu trả hết một lần ngay khi ký kết hợp đồng thì được giảm
10%, nếu trả trong thời hạn 1 năm thì dược giảm 2% giá bán.” Nhưng do giá vàng
tăng đột biến từ hơn 8 triệu đồng/lượng (vào giữa năm 2004) lên đến gần 11 triệu
đồng/lượng (vào đầu năm 2005) [64] [293], nên Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
23/2006/NQ-CP, cho phép các cá nhân chưa trả xong tiền mua nhà, thì được trả bằng
tiền đồng Việt Nam phần còn lại: “Từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực, người mua nhà
áp dụng phương thức trả dần trong 10 năm thì số tiền còn lại được thanh toán trong
mỗi năm tiếp theo bằng tiền đồng Việt Nam (không quy đổi ra vàng) cộng với tiền lãi
tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của dân cư tại Ngân hàng Thương mại vào
thời điểm thanh toán. Trường hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà người mua
174
chưa trả hết tiền thì phần còn nợ đã quy ra vàng, nay được thanh toán bằng tiền cộng
với tiền lãi theo quy định trên.”(mục 3 Nghị quyết 23/2006/NQ-CP).
Như vậy, trên phương diện quản lý nhà nước, Chính phủ chấp nhận việc điều
chỉnh nội dung hợp đồng (phương thức thanh toán), khi giá vàng tăng lên đột biến vào
năm 2005.
Có thể nói, ở một mức độ nhất định, việc điều chỉnh nội dung hợp đồng cũng
được pháp luật chấp nhận khi có những lý do hợp lý và bảo đảm sự cân bằng lợi ích
của các bên. Tuy nhiên, trên đây chỉ là những qui định chuyên biệt liên quan trong các
loại hợp đồng đặc thù mang tính chất hành chính (xây dựng cơ bản, đấu thầu, mua nhà
của nhà nước…), và việc chỉnh sửa hợp đồng cũng chủ yếu là thông qua các thủ tục
hành chính, nên không phải là căn cứ chung để giải quyết các tranh chấp liên quan
trong các hợp đồng khác. Điều này đòi hỏi cần phải có các qui định tương ứng và được
áp dụng chung cho các lĩnh vực dân sự và thương mại.
Trong các qui định chung của BLDS 2005: Tuy không có khái niệm tương
đồng với khái niệm hardship hay change of circumstances như các nước, nhưng
BLDS 2005 có qui định về các khái niệm “trở ngại khách quan”, “không thực hiện
được nghĩa vụ nhưng không bên nào có lỗi”, “nguyên tắc thiện chí, trung thực” trong
giao kết và thực hiện hợp đồng...
Trong các khái niệm được nêu ở trên, khái niệm “trở ngại khách quan” trong
BLDS 2005 có phần gần giống như khái niệm hardship đang được nghiên cứu. Theo
qui định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 161: “Trở ngại khách quan là những trở ngại do
hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể
biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện
được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình.” Theo các qui định này, thì trở ngại khách
quan cũng là những sự kiện không lường trước được mà hậu quả của nó là cản trở các
bên thực hiện các quyền yêu cầu và quyền khởi kiện.
Tuy vậy, khái niệm “trở ngại khách quan” không đủ để làm cơ sở cho việc giải
quyết các tranh chấp liên quan đến sự thay đổi của hoàn cảnh làm mất cân bằng lợi ích
các bên trong hợp đồng, bởi vì khái niệm chỉ nêu đặc điểm rất chung và mơ hồ về “trở
ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động”, mà không chỉ
rõ những chi tiết quan trọng của điều khoản hardship, như phải có dấu hiệu “làm mất
cân bằng lợi ích”, “hoặc do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên”, “hoặc do giá trị của
175
nghĩa vụ đối trừ giảm xuống”, và các dấu hiệu phụ trợ khác như “xảy ra sau khi xác
lập hợp đồng”, “các bên không thể tính đến vào lúc ký hợp đồng”, “không phải là rủi
ro mà một bên phải gánh chịu hợp lý”… Hơn nữa, hậu quả của “trở ngại khách quan”
không làm các bên chấm dứt hợp đồng, không làm bên vi phạm được miễn thực hiện
nghĩa vụ hoặc cho phép các bên được điều chỉnh lại nội dung hợp đồng giống như yêu
cầu của điều khoản hardship. Trong các căn cứ làm chấm dứt hợp đồng, đơn phương
chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng được qui định tại các Điều 423 – 427 BLDS 2005,
không có qui định nào điều chỉnh về việc sửa đổi hay chấm dứt hợp đồng do “trở ngại
khách quan”. Thêm nữa, vị trí của điều luật qui định về “trở ngại khách quan” là một
phần rất nhỏ trong Chương IX của BLDS 2005 qui định về thời hiệu khởi kiện. Với
nội dung, vị trí, vai trò vừa nêu, khái niệm ‘trở ngại khách quan’ khó có thể được sử
dụng giống như khái niệm hardship để làm căn cứ cho việc đàm phán lại hợp đồng.
Khái niệm “không thực hiện được nghĩa vụ nhưng không bên nào có lỗi” được
qui định tại Điều 418: “Trong hợp đồng song vụ, nếu một bên không thực hiện được
nghĩa vụ mà các bên đều không có lỗi thì bên không thực hiện được nghĩa vụ không có
quyền yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trường hợp một bên đã thực
hiện được một phần nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu bên kia thực hiện phần nghĩa vụ
tương ứng đối với mình”. Nội dung này chủ yếu qui định về khả năng ứng xử của các
bên trong hợp đồng song vụ, khi các bên không thể thực hiện được hợp đồng nhưng
không bên nào có lỗi. So với BLDS 1995, đây là một điều luật hoàn toàn mới. Tuy
vậy, nội dung điều luật này còn “nửa vời” và chưa giải quyết triệt để các vấn đề có liên
quan, như hậu quả của việc không thực hiện được hợp đồng nhưng không do bên nào
có lỗi sẽ được giải quyết như thế nào: Bên không thực hiện hợp đồng có phải chịu hậu
quả bất lợi gì không (?) Việc không thực hiện này có sự khác biệt và liên quan gì với
trường hợp bất khả kháng (?); hoặc do lỗi của người thứ ba vì hai trường hợp này đều
không có lỗi của các bên (?).
Ví dụ: trong vụ sập cầu Bến Lức (Long An) vào ngày 06/01/2000, làm rất nhiều
hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng vận chuyển tài sản từ Miền Tây lên thành phố
Hồ Chí Minh bị gián đoạn, thậm chí không thể thực hiện được do xe chở hàng không
thể vượt qua cầu Bến Lức trong mấy ngày liền. Phải vài ngày sau sự cố, lực lượng
công binh mới làm cầu phao tạm để cho các loại xe thuộc nhóm ưu tiên qua sông.
Trong vụ này, nguyên nhân sập cầu gây ra sự cản trở thực hiện hợp đồng không phải
176
do lỗi của các bên, và cũng không phải là sự kiện bất khả kháng, mà do lỗi của người
thứ ba gây ra (người lái xà lan đã ngủ gật làm xà lan đâm vào trụ cầu). Ở đây, nếu vụ
việc nói trên xảy ra sau năm 2006 và có tranh chấp về việc cản trở thực hiện hợp đồng,
thì liệu chúng ta có thể áp dụng qui định tại Điều 418 nói trên để giải quyết (?).
Quan điểm của tác giả cho rằng, nếu xảy ra sau 2006, thì vụ việc trên có thể áp
dụng Điều 418 BLDS 2005 để giải quyết. Tuy vậy, vì Điều 418 BLDS 2005 vừa nêu
hoàn toàn không nói về trách nhiệm của các bên khi không thực hiện hợp đồng. Điều
306 BLDS 2005 chỉ miễn trách nhiệm khi một bên vi phạm là do nguyên nhân bất khả
kháng. Nhưng như vừa phân tích, vụ việc trên không phải là sự kiện bất khả kháng; do
đó, giả sử có sự tranh chấp về việc không thực hiện hợp đồng, thì bên không thực hiện
hợp đồng sẽ không được miễn trách nhiệm. Tuy nhiên, bên vi phạm phải chịu trách
nhiệm gì, thì Điều 418 cũng không thể hiện rõ. Vì vậy, Điều 418 nói trên không phải
là căn cứ thích hợp để giải quyết vấn đề hardship đang được xem xét.
Một căn cứ quan trọng có thể được vận dụng để giải quyết vấn đề hardship là
nguyên tắc “Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng” trong
giao kết hợp đồng (khoản 2 Điều 389), và nguyên tắc “trung thực, theo tinh thần hợp
tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau” trong thực hiện hợp đồng
(khoản 2 Điều 412). Nội dung cơ bản của nguyên tắc này đòi hỏi các bên tham gia hợp
đồng phải có thái độ hợp tác, thiện chí, và trung thực trong việc giao kết, thực hiện hợp
đồng. Sự trung thực, thiện chí đòi hỏi các bên phải cùng nhau hợp tác để giải quyết
những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng, trên cơ sở công bằng, có
lợi nhất cho các bên. Xét về bản chất thì nguyên tắc này rất phù hợp cho việc giải thích
và áp dụng trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi dẫn đến làm mất cân bằng lợi ích cho
các bên. Ở một vài nước như Đức (xem các Điều 313 và Điều 242 BGB), Ý (xem các
Điều 1467 – 1469 BLDS Ý), thẩm phán có thể vận dụng tinh thần của nguyên tắc này
để xử lý vấn đề hardship, vì thực ra, một trong những nền tảng lý thuyết cơ bản của
hardship cũng chính là sự thiện chí và hợp tác. Vì thế, nội dung của điều khoản
hardship ở các quốc gia này giống như là sự giải thích mở rộng của nguyên tắc thiện
chí, trung thực.
Nhưng điều này sẽ rất khó áp dụng ở Việt Nam vì qui định này cũng chỉ là
nguyên tắc chung, nội dung của nó chưa thật rõ ràng và cụ thể để có thể vận dụng trực
tiếp vào việc giải quyết vấn đề điều chỉnh nội dung hợp đồng. Hơn nữa, nguyên tắc
177
chung không phải lúc nào cũng có thể hoàn toàn thay thế được các qui định cụ thể. Bởi
lẽ, từ nguyên tắc chung đến các điều luật cụ thể là một khoảng cách.Và từ nguyên tắc
đến thực tiễn áp dụng pháp luật còn là khoảng cách xa hơn, nhất là trong bối cảnh Việt
Nam, khi mà thói quen dẫn chiếu [201, tr.18-24] vẫn còn được coi trọng và thẩm phán
không phải là chủ thể có quyền sáng tạo pháp luật, thậm chí không có thẩm quyền giải
thích pháp luật. Ở Việt Nam, chỉ có Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới có thẩm quyền
giải thích pháp luật.23 Đây không chỉ là một trở ngại cho việc áp dụng các nguyên tắc
pháp luật khi xét xử (đặc biệt là trong lĩnh vực xét xử tranh chấp dân sự - loại quan hệ
pháp luật rất đa dạng và phức tạp mà điều chỉnh của pháp luật không phải lúc nào cũng
đầy đủ và phát triển kịp với yêu cầu thực tế), mà còn là một rào cản rất lớn cho quá
trình cải cách tư pháp ở Việt Nam. Để tinh thần của nguyên tắc trung thực, thiện chí và
hợp tác được phát huy và được vận dụng đúng đắn khi giải quyết vấn đề liên quan tới
hardship, không còn cách nào khác là nội dung của nó phải được cụ thể hóa thành
những điều luật, với nội dung qui định minh thị về vấn đề này.
Tóm lại, giải pháp cho phép các bên điều chỉnh lại nội dung của hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi đã được đề cập trong một số qui định của pháp luật chuyên ngành
điều chỉnh việc thực hiện một số loại hợp đồng chuyên biệt, đặc thù. Tuy vậy, nội
dung này đã không được qui định trong BLDS 2005. Sự bỏ ngỏ điều khoản này trong
BLDS 2005 chắc chắn sẽ gây ra khó khăn nhất định cho tòa án trong việc giải quyết
các tranh chấp có liên quan phát sinh trong thực tiễn cuộc sống.
5.3.2. Thực tiễn pháp lý liên quan tới điều khoản điều chỉnh nội dung hợp đồng do
hoàn cảnh thay đổi
Thực tiễn pháp lý ở Việt Nam từng phát sinh nhiều vụ tranh chấp có liên quan
tới yêu cầu cần áp dụng điều khoản điều chỉnh nội dung hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi. Nhưng do pháp luật hiện hành chưa qui định về điều khoản này, nên đã gây nhiều
khó khăn cho các bên liên quan trong việc giải quyết tranh chấp. Sau đây là một số vụ
tranh chấp có liên quan đến việc thay đổi hoàn cảnh ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp
đồng và đã làm cho các bên liên quan, các nhà tư vấn và cả tòa án trở nên lúng túng:
5.3.2.1. Thiếu căn cứ xác định hoàn cảnh thay đổi và yêu cầu đàm phán lại hợp đồng
23 Theo Điều 91 (3) Hiến pháp 1992 (sửa đổi, sung bởi Nghị quyết 51/2001/QH10), thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thuộc về Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
178
Hai vụ án sau đây phản ánh thực trạng thiếu căn cứ pháp lý để xác định những
tranh chấp thực tế có thuộc trường hợp hoản cảnh thay đổi hay không, và bên bị thiệt
hại có thể yêu cầu tòa án buộc đối tác đàm phán lại hợp đồng hay không.
Vụ thứ nhất: Tháng 11/2007, bà Trương Thị H. (Đồng Nai) ký hợp đồng mua
một ôtô tải của Công ty T., với giá gần 120 triệu đồng. Theo thỏa thuận, bà H. phải đặt
cọc số tiền 20 triệu đồng (số tròn), và công ty sẽ giao xe vào cuối tháng 4/2008. Đến
hạn, công ty mời bà H. đến nhận xe nhưng đòi tăng giá xe lên thêm hơn 30 triệu đồng
so với giá ban đầu. Bà H. không chấp nhận và đã khởi kiện công ty ra tòa để đòi công
ty giao xe theo đúng giá ghi trong hợp đồng. Theo người đại diện công ty: “Công ty có
cam kết không tăng giá xe nhưng đến thời điểm giao xe thì nhà nước áp dụng quản lý
khí thải xe theo quy chuẩn mới nên công ty buộc phải điều chỉnh giá xe. Nếu bà H.
không chịu nhận xe giá cao hơn vì chất lượng tốt hơn, công ty sẵn sàng trả lại tiền cọc
cộng lãi suất ngân hàng đối với số tiền mà bà H. đã nộp cho công ty”. Theo Luật sư
Nguyễn Văn H., công ty có trách nhiệm bán xe cho bà H. theo đúng giá đã thỏa thuận
trong hợp đồng. Những lý do nêu ra như nguồn xe của công ty bị cắt, nhà nước quản lý
khí thải xe theo quy chuẩn mới tại thời điểm giao xe… chỉ là những vướng mắc của
công ty, không phải là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan để công ty
được quyền giao xe chậm và tăng giá xe [63].
Nhận xét:
1. Cả bên mua và luật sư đều cho rằng, bên bán phải có trách nhiệm thực hiện đúng
hợp đồng, vì ở đây không có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Tuy
không xác định đây có phải sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan, nhưng
quan điểm của bên bán là trong trường hợp này, bên mua phải chịu khoản chi phí tăng
lên.Vấn đề đặt ra: là khi nhà nước đưa ra qui định mới về tiêu chuẩn khí thải dẫn đến
việc thay đổi, làm giá thành của xe tăng lên có phải là sự kiện bất khả kháng hoặc trở
ngại khách quan hay không (?). Thật ra, nói đây là sự kiện bất khả kháng hay trở ngại
khách quan đều thiếu căn cứ pháp lý thích hợp, bởi lẽ việc nhà nước qui định tiêu
chuẩn khí thải mới không phải là việc có thể làm cho hợp đồng mua bán xe trở nên
không thể thực hiện được. Nên nếu bên bán lấy lý do này để từ chối thực hiện hợp
đồng là không thuyết phục.
2. Việc nhà nước ra văn bản qui định tiêu chuẩn khí thải mới, sau khi hợp đồng mua
bán xe giữa các bên đã được ký kết, là ngoài dự kiến của các bên, và trên thực tế chi
179
phí sản xuất tăng là một thực tế khách quan mà các bên đã không lường trước được
vào thời điểm ký hợp đồng. Điều này làm cho bên mua nhận được lợi ích và bên bán
bị thiệt hại. Nếu biết được sự kiện trên, có thể bên bán xe đã không ký hợp đồng với
giá như đã nêu trong hợp đồng. Trong trường hợp này, vấn đề sẽ được giải quyết hợp
lý nếu áp dụng nguyên tắc thiện chí; theo đó thì bên mua phải chia sẻ chi phí tăng lên
cùng với bên bán. Bởi lẽ, khi bên bán giao xe cho bên mua theo tiêu chuẩn mới, thì
bên mua cũng đã nhận được những lợi ích nhất định do chất lượng xe tăng lên so với
cam kết ban đầu, và điều này cũng có lợi cho xã hội.
3. Có thể cả bên mua và bên bán đều không muốn chấm dứt hợp đồng. Do đó, việc
thỏa thuận lại giá để hợp đồng được thực hiện tiếp tục sẽ có lợi và phù hợp với nguyện
vọng của cả hai bên. Nhưng cả tòa án và các bên sẽ không có căn cứ để yêu cầu một
hoặc cả hai bên phải làm điều đó. Để có căn cứ giải quyết vụ việc này, đòi hỏi pháp
luật cần phải có những qui định cụ thể về nghĩa vụ đàm phán lại hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi làm mất cân bằng lợi ích, mà các bên không thể lường trước và các bên
đều không có lỗi.
Vụ thứ hai: tranh chấp giữa nguyên đơn là VINAWACO, kiện bị đơn là MSC:
Năm 1995, bị đơn ký hợp đồng thuê nguyên đơn đào một luồng tàu và một vũng quay
tàu tại dự án xây dựng nhà máy xi-măng Sao Mai ở Hòn Chông, Kiên Giang. Sau đó,
được sự cho phép của bị đơn, nguyên đơn đã ký hợp đồng thầu phụ với DI để thực
hiện hợp đồng này. Thực tế khi thực hiện hợp đồng, “hệ thống nạo vét luồng gặp sự
trở ngại, hao mòn nặng cho máy móc và đường ống dẫn cũng như giảm năng suất thi
công”. Nguyên đơn và DI đã phải thuê và mua sắm thêm các thiết bị mới, chuyên dụng
hơn để tiếp tực thực hiện hợp đồng, nên đã làm phát sinh chi phí tăng thêm so với cam
kết ban đầu trong hợp đồng, với số tiền là 2.866.650 USD. Vì thế, nguyên đơn đã gửi
khiếu nại cho bị đơn để đòi khoản tiền tăng thêm này, nhưng bị đơn đã không phản
đối. Sau đó, nguyên đơn và DI đã ký văn kiện thỏa thuận tăng giá thành thi công, trước
sự chứng kiến và đồng ý của đại diện của bị đơn. Sau khi thực hiện xong hợp đồng,
nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán chi phí phát sinh dựa trên kết quả giám định của
một bên thứ ba độc lập, nhưng bị đơn từ chối. Nguyên đơn khởi kiện bị đơn ra tòa đòi
khoản tiền nói trên. Vụ kiện đã kéo dài hơn 12 năm [76] và phiên xử giám đốc thẩm
của HĐTP là phiên tòa thứ 7 (Xem Phụ lục số 07).
180
Xử sơ thẩm lần thứ nhất, TAND Tp. Hồ Chí Minh chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn. Sau đó Tòa Phúc thẩm TAND TC tại Tp. Hồ Chí Minh xử hủy án theo
hướng không công nhận quyền yêu cầu của nguyên đơn. Sơ thẩm tiếp theo, TAND Tp.
Hồ Chí Minh xử không công nhận bị đơn có nghĩa vụ thanh toán khoản tiền tăng
thêm... Đến phiên xử phúc thẩm (phiên xử lần thứ sáu) của Tòa Phúc thẩm - TAND
TC tại Tp. Hồ Chí Minh vẫn tuyên bị đơn không có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên
đơn khoản tiền nói trên, vì đây là thỏa thuận riêng của nguyên đơn với DI; bị đơn
không có trách nhiệm gì. Hơn nữa, việc nguyên đơn và DI tự yêu cầu giám định viên
độc lập là do các bên này “đơn phương tổ chức giám định một cách không khách quan
và sử dụng kết quả này làm chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Hiện tại,
tòa án cũng không thể trưng cầu giám định vì hiện trường không còn nguyên trạng”
(Bản án Phúc thẩm số 04/2007/KDTM – PT ngày 17/01/2007 Tòa Phúc thẩm – TAND
TC tại Tp. Hồ Chí Minh).
Trong Quyết định số 07/2008/QĐ-GĐT ngày 20/6/2008, cấp giám đốc thẩm
cho rằng, việc Vinawaco và DI lập văn kiện thỏa thuận lại giá cả hợp đồng với sự
chứng kiến và ký tên xác nhận của đại diện MSC là văn kiện ba bên có hiệu lực, làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Từ đó, cấp giám đốc thẩm hủy các bản án
của cấp sơ thẩm và phúc thẩm để trả hồ sơ về TAND Tp. Hồ Chí Minh xử lại sơ thẩm
theo thủ tục chung, theo hướng: bị đơn phải có trách nhiệm thanh toán cho nguyên
đơn và DI khoản tiền tăng thêm so với thỏa thuận ban đầu của hợp đồng nói trên.
Nhận xét:
1. Đây là tranh chấp về khoản tiền và chi phí tăng thêm so với cam kết ban đầu trong
hợp đồng, do hoàn cảnh khó khăn khách quan mà các bên không lường trước được.
Điều thú vị là vấn đề này tuy không được qui định cụ thể trong pháp luật Việt Nam
hiện hành, nhưng tòa án vẫn cố gắng tìm những căn cứ thích hợp để giải quyết và quan
điểm của các cấp tòa án, cũng như của các bên là không có sự thống nhất ngay từ đầu.
2. Quá trình thực hiện hợp đồng đã phát sinh khó khăn khách quan không lường trước
được. Nguyên đơn đã đúng khi gửi văn bản khiếu nại yêu cầu bị đơn thương lượng lại
hợp đồng (tăng giá hợp lý) để nguyên đơn bù đắp những thiệt hại tăng thêm do hoàn
cảnh khách quan mang lại. Vấn đề đặt ra là, bản án sơ thẩm lần thứ hai trở đi đến bản
án phúc thẩm lần ba (phiên xét xử lần thứ sáu), tòa án và cả phía bị đơn đều nhất trí
không coi đây là nghĩa vụ của bị đơn, vì không có cơ sở pháp lý nào qui định nghĩa vụ
181
này. Nhưng nếu xem điều đó là bình thường, thì rõ ràng đã gây ra sự bất công đối với
nguyên đơn vì sự khó khăn này tuy không do lỗi của các bên, nhưng là sự việc nằm
ngoài dự liệu của hợp đồng, mà nguyên đơn hoàn toàn có thể tuyên bố chấm dứt hợp
đồng ngay tại thời điểm gặp sự cố ngoài ý muốn. Điều này sẽ gây khó khăn bất lợi cho
cả hai bên, vì nếu vẫn muốn thực hiện công trình, bị đơn vừa phải trả tiền cho phần
việc mà nguyên đơn đã thực hiện, và còn phải ký hợp đồng mới với nhà thầu khác để
làm lại từ đầu. Hơn nữa, nếu bác bỏ quyền yêu cầu được thương lượng lại hợp đồng
cũng như bác bỏ toàn bộ khoản tiền tăng thêm, thì cũng có thể bị xem là vi phạm
nguyên tắc trung thực, thiện chí và hợp tác trong việc thực hiện hợp đồng.
3. Nhưng theo quan điểm của cấp giám đốc thẩm, thì việc buộc bị đơn phải thương
lượng lại nội dung hợp đồng, đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm về hậu quả do chi
phí của hợp đồng tăng lên, thì có thể nói là chưa có căn cứ pháp lý. Mặc dù thừa nhận
Quyết định giám đốc thẩm hay, có tình, nhưng lại thiếu căn cứ pháp lý thuyết phục, vì
vấn đề này hiện vẫn chưa được pháp luật qui định rõ ràng.
4. Vấn đề đặt ra là, nếu ngay từ đầu bị đơn vẫn một mực từ chối việc thương lượng lại
hợp đồng, thì liệu nguyên đơn có quyền yêu cầu tòa án buộc bị đơn phải ngồi vào bàn
thương lượng lại hợp đồng được hay không (?); và nếu sau khi yêu cầu này được tòa
án chấp nhận, nhưng phía bị đơn vẫn không chấp hành thì liệu chế tài tiếp theo đối với
bị đơn là gì (?). Đây là những câu hỏi mà qui định pháp luật Việt Nam hiện hành vẫn
chưa có câu trả lời thỏa đáng. Điều này nói lên sự thiếu sót của pháp luật và rất cần
phải được nghiên cứu, bổ sung.
Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, HĐTP - TANDTC cũng đã từng có phán
quyết tương tự. Vụ thứ ba: Năm 2004, Công ty TNHH Đài Việt Hưng (viết tắt là bên
A) thuê Công ty TNHH Xây dựng Song Hui (viết tắt là B) ký hợp đồng giao thầu trọn
gói thiết kế và xây dựng công trình nhà xưởng, gồm cả thủ tục xin giấy phép xây dựng,
giấy phép sử dụng công trình, với giá trị 15.9 tỷ đồng (bao trọn gói, bao gồm thuế).
Bên B đã làm xong hơn 95% các hạng mục công trình, nhưng bên A chậm thanh toán,
nên B đình chỉ việc thi công. Các bên đã lập Biên bản bàn giao và xác nhận giá thành
thực tế của công trình. Trong quá trình thi công, B gặp nhiều khó khăn do không tiên
lượng được những khó khăn về địa chất, chi phí vận chuyển, giá nguyên vật liệu tăng
đột biến… nên làm giá thành tăng lên thêm 5.111.499.565 đồng. Bên B đòi bên A
thanh toán, nhưng bên A không đồng ý vì cho rằng khoản tiền tăng lên không thuộc
182
trách nhiệm của bên A, nên bên B đã kiện bên A ra tòa. Cả tòa sơ thẩm, phúc thẩm và
cấp Giám đốc thẩm đều chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (bên B) và buộc bị đơn
(bên A) phải thanh toán cho nguyên đơn khoảng chi phí tăng lên thêm. Lý do chấp
nhận: khoản chi phí tăng lên mà bên B đưa ra là có cơ sở chấp nhận vì bên A đã
không phản đối khi ký Biên bản nghiệm thu công trình.24
Như vậy, phải chăng quan điểm của HĐTP trong vụ án này là tạo ra một tiền lệ
cho phép các bên được yêu cầu bên kia thương lượng lại giá cả của hợp đồng khi có
hoàn cảnh thay đổi dẫn đến việc gia tăng chi phí cao hơn trong quá trình thực hiện hợp
đồng. Dù sao, đây cũng có thể được xem như những tín hiệu lạc quan từ thực tiễn để
đề xuất sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật có liên quan.
3.2.2. Xác định “trở ngại khách quan” để cho phép bên bị thiệt hại được hủy hợp
đồng là chưa thuyết phục
Trong nhiều tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà - đất, tòa đã xem việc nhà đất
bị giải tỏa sau khi các bên đã ký hợp đồng mua bán là “trở ngại khách quan”, để làm
căn cứ cho các bên hủy bỏ hợp đồng. Có thể thấy quan điểm này qua các vụ việc cụ
thể sau đây. Ví dụ: Theo Bản án số 613/2007/DS-ST ngày 13/6/2007 của TAND Tp.
Hồ Chí Minh, nguyên đơn ký hợp đồng nhận sang nhượng quyền sử dụng đất từ bị
đơn để làm nền xây nhà ở. Hợp đồng đang được thực hiện thì nguyên đơn mới biết khu
đất này vừa được cấp có thẩm quyền ra quyết định giải tỏa (quyết định giải tỏa có sau
thời điểm ký hợp đồng). Cơ quan có thẩm quyền có văn bản trả lời rõ là: nếu bị giải
tỏa thì diện tích đất sẽ không đủ chuẩn để cấp phép xây dựng nhà ở.25 (Xem Phục lục
số 8). Tương tự, trong Bản án số 1132/2006/DS-PT ngày 09/11/2006 của TAND Tp.
Hồ Chí Minh về “hợp đồng mua bán nhà ở” (Xem Phụ lục số 9) và vụ “Tranh chấp
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” tại Bản án số 412/DS-PT ngày
15/3/2003 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh (Xem Phụ lục số 10).
24 Xem Bản án sơ thẩm số 04/2006/KDTM-ST ngày 31/8/2006 của TAND tỉnh Sóc Trăng, Bản án phúc thẩm số 119/2006/KDTM-PT ngày 29/12/2006 của Tòa Phúc thẩm TAND TC tại Tp. HCM, Quyết định Giám đốc thẩm số 09/2007/KDTM-GĐT ngày 04/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao. 25 Theo qui định tại Điều 6 khoản 1 Quyết định số 135/2007/QĐ-UBND ngày 08/12/2007 của UBND Tp. Hồ Chí Minh Ban hành Quy định về kiến trúc nhà liên kế trong khu đô thị hiện hữu trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh, thì diện tích đất tối thiểu để được cấp phép xây dựng mới nhà ở là 36 m2, chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với chỉ giới xây dựng không nhỏ hơn 3,0 m…
183
Nhận xét:
1. Những tranh chấp loại này không phải là hiếm gặp trong thực tiễn qui hoạch đô thị
tại Tp. Hồ Chí Minh. Ba trường hợp nêu trên có thể xem là thực tế điển hình. Trong cả
ba trường hợp, tòa án đều xác định cho phép bên mua được hủy bỏ hợp đồng, vì cho
rằng đây là “trở ngại khách quan”, hoặc “là nguyên nhân khách quan cả hai bên đều
không lường trước được” khi giao kết hợp đồng. Thiết nghĩ nhận định này là thiếu cơ
sở. Bởi lẽ, theo qui định tại Điều 425 BLDS 2005, bên mua muốn hủy hợp đồng thì
phải chứng minh được là có sự vi phạm của bên bán, và sự vi phạm đó là điều kiện để
hủy bỏ hợp đồng. Nhưng ‘sự kiện trở ngại khách quan’ trong trường hợp này đã không
được dự liệu trong hợp đồng nói trên, cũng như trong luật thực định. Như vậy, việc tòa
án cho phép bên mua dựa vào lý do nhà, đất bị qui hoạch để hủy bỏ hợp đồng là chưa
thuyết phục.
2. Trong các qui định khác về việc chấm dứt hợp đồng hoặc chấm dứt nghĩa vụ, không
có qui định nào xác định nghĩa vụ hoặc hợp đồng có thể chấm dứt là do “trở ngại
khách quan”, mà chỉ có trường hợp miễn trách nhiệm dân sự do sự kiện bất khả kháng
(khoản 2 Điều 302 BLDS 2005). Do đó, việc tòa án dựa vào căn cứ “trở ngại khách
quan” để cho bên mua hủy bỏ hợp đồng, cũng là không đúng.
3. Ở đây, có thể áp dụng căn cứ chấm dứt hợp đồng do đối tượng của hợp đồng không
còn (khoản 5 Điều 424 BLDS 2005) và qui định về chuyển quyền sở hữu và chuyển
rủi ro trong hợp đồng mua bán (Điều 439 & Điều 440 BLDS 2005) thì hợp lý hơn. Bởi
vì: (i) trong các trường hợp trên, các bên đều chưa chuyển quyền sở hữu và quyền sử
dụng đất từ bên bán sang cho bên mua. Do đó, theo Điều 440 BLDS 2005, thì bên bán
vẫn phải là bên phải chịu rủi ro đối với vật bán (nhà, đất); và (ii) trong trường hợp này,
bên bán cũng không có lỗi làm cho đối tượng hợp đồng bị tiêu hủy, nên hợp đồng
chấm dứt theo khoản 5 Điều 424 BLDS 2005, các bên hoàn trả lại cho nhau như ban
đầu, và hợp đồng chấm dứt.
4. Nhưng vấn đề đặt ra là, nếu nhà, đất bị cơ quan có thẩm quyền đưa vào diện qui
hoạch một phần, hoặc chỉ qui hoạch giới hạn một số tiêu chuẩn về chiều cao, hoặc tầng
hầm, hoặc giới hạn mục đích sử dụng (ví dụ: không cho sử dụng lại theo mục đích ban
đầu của tòa nhà như không cho tiếp tục mở rộng và đăng ký lại quán bia, quán
Karaoké, Casino…) thì vấn đề sẽ trở nên khó giải quyết hơn. Ví dụ: A bán cho B một
căn nhà diện tích 250m2 để B cải tạo lại và xây thành một khách sạn 20 tầng tại đây.
184
Nhưng sau khi ký hợp đồng và trước khi giao căn nhà, quyền sử dụng đất từ A sang
cho B, cơ quan có thẩm quyền đã có quyết định qui hoạch và giải tỏa hết 2/3 căn nhà,
diện tích còn lại không phải là 250m2, mà là chỉ hơn 80m2. Tuy đối tượng của hợp
đồng vẫn còn, nhưng tình trạng và giá trị của đối tượng hợp đồng bị giảm đi đáng kể.
Như vậy, liệu tòa án có căn cứ để có thể đưa ra phán quyết như các tranh chấp trong ba
vụ án vừa nêu trên hay không? Và nếu B vẫn cứ muốn mua lô đất đó, nhưng yêu cầu A
thương lượng lại giá cả, thì có căn cứ hay không? Thiết nghĩ, đây là những câu hỏi khó
trả lời, nếu chỉ căn cứ vào các qui định hiện hành.
5.3.2.3. Việc thiếu những qui định về cơ chế điều chỉnh hợp đồng là một rủi ro pháp lý
đối với các bên tham gia
Trong nhiều trường hợp, việc thiếu các qui định về việc cho phép các bên được
thương lượng lại hợp đồng có thể là những rủi ro pháp lý rất nguy hiểm cho các bên
tham gia quan hệ hợp đồng. Ví dụ: Ngân hàng VP Bank và VPTU có ký hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất thời hạn 49 năm, với số tiền thuê là 433 tỷ đồng. VP Bank đã
đặt cọc 43,3 tỷ đồng để bảo đảm thực hiện hợp đồng này. Sau khi ký hợp đồng, tình
hình kinh doanh bất động sản ở Việt Nam bị “đóng băng”, giá bất động sản bị sụt giảm
nghiêm trọng, nguồn vốn vay từ các ngân hàng để đầu tư vào lĩnh vực này bị các ngân
hàng thắt chặt. Vì thế, VP Bank không có khả năng thanh toán số tiền thuê còn lại cho
VPTU. Nếu vi phạm hợp đồng, VP Bank sẽ mất 43,3 tỷ đồng. Nếu hủy bỏ hợp đồng,
VPTU được hưởng 43,3 tỷ đồng tiền cọc, nhưng sẽ bị mất hàng trăm tỷ đồng, vì nếu
đem mảnh đất trên để cho thuê với thời hạn tương ứng, thì cao lắm cũng chỉ nhận được
tiền thuê khoảng 300 tỷ đồng (giảm 133 tỷ đồng). Bởi vậy, giải pháp tốt nhất cho các
bên là thương lượng lại nội dung hợp đồng. Thực tế các bên đều muốn làm điều đó,
nhưng lại bị “trở ngại” là không có cơ chế thích hợp (Xem Phụ lục số 11).
Nhận xét:
1. Như ý kiến của Sở Tư pháp (Phụ lục 11), các bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận
lại để điều chỉnh điều khoản xử lý tiền cọc và thời hạn thanh toán, trên cơ sở qui định
tại Điều 423 BLDS 2005. Sự chỉ dẫn này có cơ sở để thực hiện.
2. Cách làm này sẽ không có vấn đề gì đối các doanh nghiệp tư nhân, nhưng đối với
các doanh nghiệp sử dụng vốn của nhà nước, thì thỏa thuận như vậy có thể sẽ gặp phải
những rủi ro pháp lý. Bởi lẽ, đối với các vụ việc tương tự, nếu làm đúng theo qui định
của hợp đồng, trước mắt sẽ mang lại lợi ích khá lớn cho đơn vị, nhưng sẽ gặp khó
185
khăn trong giao dịch làm ăn với đối tác trong tương lai (ví dụ bị khách hàng từ chối ký
hợp đồng mới, không cung ứng thêm hàng hóa, ứng xử theo cách “có đi có lại”…).
Ngược lại, nếu giảm tiền phạt, giảm giá trong hợp đồng… có lợi cho đối tác để duy trì
quan hệ làm ăn tốt đẹp giữa các bên (cũng giữ đúng nguyên tắc thiện chí, hợp tác), thì
người quyết định thỏa thuận lại hợp đồng rất có thể sẽ bị truy tố về tội cố ý làm trái qui
định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, theo Điều 165 Bộ
luật Hình sự 1999, với mức án cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù từ 1-5 năm nếu làm
thiệt hại cho tài sản của nhà nước đến dưới 300 triệu đồng (khoản 1); và cao nhất có
thể là 20 năm tù nếu làm thiệt hại tài sản nhà nước từ 1 tỷ đồng trở lên (khoản 3).
Có thể nói, việc thiếu cơ chế, thủ tục cần thiết để điều chỉnh nội dung hợp đồng
trong nhiều trường hợp sẽ làm hạn chế sự linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, hoặc đơn vị có sử dụng tài sản, nguồn vốn của nhà nước.
Bởi vậy, nếu không có qui định rõ ràng về cơ chế điều chỉnh hợp đồng, sẽ gây cản trở
cho việc thực hiện có hiệu quả các hợp đồng kinh doanh thương mại lâu dài với đối
tác. Nhưng nếu để mặc cho các đơn vị này tự do thỏa thuận lại hợp đồng thì có thể sẽ
dẫn đến sự lạm dụng để làm thất thoát tài sản của nhà nước, đồng thời có thể bản thân
các chủ thể trực tiếp ra các quyết định này cũng sẽ gặp những rủi ro pháp lý rất nguy
hiểm. Điều này đòi hỏi cần sớm qui định cơ chế cho phép các bên tham gia hợp đồng
được thỏa thuận lại nội dung của hợp đồng khi hoàn cảnh có thay đổi, với những thủ
tục chặt chẽ, hợp lý.
Tóm lại, vấn đề thay đổi hoàn cảnh làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên
khó khăn hơn không phải là tình huống hiếm gặp trong thực tiễn pháp lý Việt Nam.
Nhưng sự thiếu vắng các qui định loại này trong pháp luật hiện hành đã cho thấy sự
phản ứng quá thận trọng (nếu không nói là quá chậm chạp) của nhà lập pháp Việt
Nam, làm cho các tranh chấp loại này không có căn cứ pháp lý để giải quyết thỏa đáng
và đó cũng là nguyên nhân làm cho việc quyết vấn đề này của tòa án hiện vẫn còn
chưa nhất quán. Tác giả hoàn toàn đồng ý với quan điểm của một học giả khi cho rằng,
sự thiếu sót trên đây có thể được xem như là một trong những biểu hiện của sự “lạc
hậu” của pháp luật hợp đồng nước ta vì “không đáp ứng được nhu cần quản lý rủi ro
thời nay” [201, tr.22]. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần phải khẩn trương hành động để
xác lập cơ chế giải quyết cho vấn đề này.
186
5.4. KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH VỀ SỬA ĐỔI HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI
Những phân tích trên đây về thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử tranh chấp
về hợp đồng tại Việt Nam cho thấy điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi (hardship clause) thật sự cần thiết và có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh
các quan hệ pháp luật có liên quan đến sự thay đổi hoàn cảnh sau khi hợp đồng được
ký kết. Thực tế đó đòi hỏi nhà làm luật cần sớm có những quyết định thích hợp trong
việc tiếp thu và qui định điều khoản này trong pháp luật Việt Nam. Sau đây, tác giả xin
đề xuất một số kiến nghị bước đầu nhằm góp phần thiết thực vào tiến trình đó.
5.4.1. Cần thiết phải qui định về hardship, Việt hóa khái niệm này và đưa nó vào
phần chung của pháp luật về hợp đồng
Tại buổi Tọa đàm “Tổng kết tình hình thi hành các qui định về hợp đồng trong
BLDS 2005” do Bộ Tư pháp tổ chức tại Hà Nội vào các ngày 28 – 29/7/2009, khái
niệm hardship đã được các luật gia, những người được giao nhiệm vụ sửa đổi BLDS
2005 về phần hợp đồng, quan tâm và đặt ra [87, tr.3]. Đây có thể được xem như là một
tín hiệu đáng mừng đối với tiến trình luật hóa điều khoản sửa đổi hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi. Nhưng như vậy là chưa đủ.
Vấn đề điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi đang diễn ra khá nhiều ở
Việt Nam và ngày càng trở nên phổ biến, nhất là trong các hợp đồng về xây dựng, hợp
đồng cung ứng các hàng hóa hoặc dịch vụ dài hạn, hợp đồng phát triển các hoạt động
sản xuất kinh doanh ở những ngành nghề mới, có nhiều rủi ro: nhu cầu thị trường thay
đổi, khó khăn đặc biệt do điều kiện sự thay đổi của tự nhiên, công nghệ, hay sự mất giá
trầm trọng của đồng tiền (như ở Zimbabwe vừa qua, “Tháng 3/2008, người ta chỉ mất
15 triệu đô Zimbabwe để mua 1 ổ bánh mì, thì nay người ta đã mất tới 600 triệu…”
[125]), sự can thiệp của nhà nước về tiêu chuẩn kỹ thuật mới, hoặc hạn chế trong chính
sách ngoại thương, tăng thuế, hoặc tăng lương tối thiểu cho người lao động…
Bởi vậy, yêu cầu của thực tiễn đòi hỏi chúng ta cần phải sớm bổ sung những cơ
chế pháp lý cho phép điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp thay đổi hoàn cảnh dẫn
đến khó khăn đặc biệt cho việc thực hiện hợp đồng. Nhất là trong bối cảnh của toàn
cầu hóa hiện nay, khi mà “nền kinh tế bất ổn” ở nhiều nước trên thế giới “đã làm gia
tăng nhiều trường hợp khiến cho các bên khi thực hiện hợp đồng phải theo những điều
kiện mới về thực chất mà các bên không thể lường trước được và càng không thể trù
187
tính được vào lúc ký hợp đồng”, và khi mà việc tuân thủ vô điều kiện nguyên tắc ‘hiệu
lực bất biến của hợp đồng’ có thể dẫn đến “quyết định sai lầm khiến một số người giàu
lên bằng những tổn thất phi lý của người khác” [208, tr.19], thì việc tìm cơ chế pháp lý
thích hợp để giải quyết vấn đề này càng trở nên cách cấp bách hơn bao giờ hết.
Cơ chế hợp tác là nguyên tắc quan trọng của hoạt động pháp lý thương mại giữa
các bên trong hợp đồng, cũng là nguyên tắc quan trọng trong việc giao kết và thực hiện
hợp đồng [Xem 15, các khoản 2 Điều 389, khoản 2 Điều 412]. Việc chấm dứt hợp
đồng không phải lúc nào cũng có lợi đối với các bên và là điều mà không phải lúc nào
các bên cũng muốn. Để không lãng phí các khoản tiền đầu tư đã bỏ ra cho việc thực
hiện hợp đồng trước đó, và để đạt được các lợi ích mong đợi khi hợp đồng hoàn tất,
các bên cần phải hợp tác giải quyết các khó khăn, cùng vượt qua khủng hoảng bằng
cách đàm phán lại hợp đồng tìm ra một giải pháp thỏa đáng cho cả hai bên.
Trên bình diện quốc tế, thậm chí còn có ý kiến đề xuất “cần đưa điều khoản
hardship trong PICC trở thành một phần của Bộ luật Dân sự toàn cầu (The Global
Code)” [322, tr.20]. Cơ sở lý luận để các luật gia đề xuất điều chỉnh vấn đề này chủ
yếu là dựa trên nguyên tắc rebus sic stantibus - một nguyên tắc đối lập với nguyên tắc
pacta sunt servanda. “Một bên là nguyên tắc pacta sunt servanda qui định rằng, hợp
đồng phải được thực hiện trên cơ sở ngay tình, phù hợp với các điều khoản trong hợp
đồng. Một bên là nguyên tắc rebus sic stantibus, theo đó hợp đồng sẽ được xem xét lại
khi có những thay đổi lớn và không lường trước được của hoàn cảnh” [268, tr.152].
Các luật gia cho rằng, có nhiều lý do để chứng minh sự cần thiết phải áp dụng
nguyên tắc rebus sic stantibus: cơ chế hợp tác hiệu quả giữa các bên, nguyên tắc ngay
tình, sự giải thích hợp đồng theo ý chí ban đầu của các bên khi ký hợp đồng [268,
tr.152]. Nguyên tắc ngay tình cũng là một trong những cơ sở quan trọng để bênh vực
cho việc áp dụng nguyên tắc rebus sic stantibus. Bởi lẽ, các bên giao kết hợp đồng
xuất phát từ nền tảng cân bằng lợi ích vào thời điểm giao kết hợp đồng. Một khi có sự
tác động của hoàn cảnh ngoài ý muốn, nền tảng lợi ích cân bằng ban đầu đã bị phá vỡ,
dẫn đến làm thiệt hại nghiêm trọng cho một bên hoặc có thể làm cho bên kia nhận
được một khoản lợi một cách không công bằng.
Từ góc độ giải thích ý chí của các bên trong hợp đồng, có thể thấy người ta
thường chỉ ký kết các hợp đồng xuất phát từ hoàn cảnh mà họ biết rõ. Việc các bên
không biết trở ngại khách quan xảy ra sau ngày ký hợp đồng tuy không phải là sự giao
188
kết hợp đồng do nhầm lẫn, nhưng lại là một điều kiện nằm ngoài ý chí đích thực của
các bên vào lúc ký hợp đồng. Nếu biết chắc chắn thua thiệt nghiêm trọng sẽ xảy ra, các
bên đã không ký hợp đồng, hoặc ký hợp đồng với những điều kiện khác thích hợp.
“Như vậy, hợp đồng được đặt dưới điều khoản ngầm định là rebus sic stantibus.”
[268, tr.153].
Những lập luận trên cho thấy, nguyên tắc rebus sic stantibus và hardship có thể
được xem như là điều khoản ngầm định (hay điều khoản thông thường) của hợp đồng.
Việc áp dụng nguyên tắc rebus sic stantibus không những không mâu thuẫn [268,
tr.152] mà còn là một phương thức bổ sung và đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc hiệu
lực bất biến của hợp đồng - pacta sunt servanda. Mặt khác, cơ chế quản lý hợp đồng
và quản lý rủi ro hiện đại đòi hỏi nhà làm luật và các bên liên quan “cần phải nhìn
nhận hợp đồng không phải là một giá trị bất biến mà nó là một công cụ linh hoạt, uyển
chuyển. Quá trình thực hiện hợp đồng có thể phát sinh những tình tiết mà các bên cần
phải xem xét.” [81, tr.19].
Vì vậy, việc đưa các qui định về hardship vào phần qui định chung trong pháp
luật hợp đồng của Việt Nam cũng rất cần thiết và phù hợp với xu hướng quốc tế hiện
nay. Từ những phân tích trên, có thể đề xuất việc tiếp nhận thận trọng và có chọn lọc
các qui định về hardship từ pháp luật của các nước và các bộ nguyên tắc quốc tế về
hợp đồng để đưa vào qui định ở phần chung về hợp đồng trong BLDS 2005.
Tuy nhiên, nếu giữ nguyên thuật ngữ hardship để đưa vào luật Việt Nam là
chưa thuyết phục. Bởi vậy, cần Việt hóa khái niệm cho phù hợp với hoàn cảnh của luật
Việt Nam. Thực tế, bên cạnh khái niệm “bất khả kháng”, BLDS 2005 còn có một khái
niệm khá gần với hardship được qui định trong phần thời hiệu – khái niệm “trở ngại
khách quan”. Theo đó, “Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách
quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền,
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc
nghĩa vụ dân sự của mình” (đoạn 2 khoản 1 Điều 161). Tuy vậy, nội hàm của khái
niệm “trở ngại khách quan” được thể hiện trong định nghĩa này chưa tương đồng với
nội hàm của khái niệm “hardship” đang được đề cập, nên việc sử dụng khái niệm trở
ngại khách quan là không phù hợp.
Để có thể chọn một thuật ngữ thích hợp cho trường hợp này, cần xuất phát từ bố
cục hiện hữu của BLDS 2005 và vị trí dự kiến mà điều khoản này được bố trí. Mục
189
đích cơ bản của qui định về điều khoản này là làm thay đổi hiệu lực thực hiện hợp
đồng, mà hậu quả của nó có thể làm cho hợp đồng bị điều chỉnh về nội dung hoặc làm
hợp đồng chấm dứt, nên vị trí thích hợp nhất để bố trí điều khoản này là tiết III, mục 7,
chương XVII, Phần thứ ba BLDS 2005: “III - SỬA ĐỔI, CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG
DÂN SỰ”. Tên gọi của điều khoản này nên là “Sửa đổi hợp đồng dân sự khi hoàn
cảnh thay đổi”. Vị trí cụ thể của điều khoản này có thể là Điều 423a, và nên đặt ngay
sau Điều 423 BLDS 2005 hiện hành. Để đảm bảo tính lô gích giữa hai qui định này,
tiêu đề của Điều 423 cần sửa lại là “Sửa đổi hợp đồng dân sự theo thỏa thuận”.
Ngoài ra, qui định về điều khoản này cũng cần phải được đặt trong mối quan hệ
biện chứng với các điều khoản khác như Điều 405 (về thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng), và Điều 424 (về căn cứ làm chấm dứt hợp đồng). Mục đích của việc này nhằm
thể hiện rõ quan điểm xem đây chỉ là một ngoại lệ của nguyên tắc hiệu lực bất biến
của hợp đồng, và điều khoản mới bổ sung này sẽ bị hạn chế áp dụng. Các nội dung
này có đặc điểm tương tự như nội dung được qui định tại Điều 6.2.2. PICC:
Hoàn cảnh hardship được xác lập khi xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm xuống, và: a) các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng; b) bên bị bất lợi đã không thể tính một cách hợp lý đến các sự kiện đó khi giao kết hợp đồng; c) các sự kiện này nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi; và d) rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu.
Thiết nghĩ, qui định của Điều 6.2.2. PICC cần được tiếp thu và chỉnh sửa lại
cho rõ ràng hơn và phù hợp hơn với hoàn cảnh áp dụng tại Việt Nam. Cụ thể, nội dung
của khái niệm ‘hardship’ tương ứng với khái niệm “Sửa đổi hợp đồng (dân sự) khi
hoàn cảnh thay đổi”, và được thiết kế thành khoản 1 Điều 423a (mới) như sau (những
từ in đậm - nghiêng là phần nội dung mới được tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung):
“Điều 423a. Sửa đổi hợp đồng (dân sự)26 khi hoàn cảnh thay đổi
1. Một bên có quyền yêu cầu bên kia sửa đổi hợp đồng khi xảy ra sự kiện khách quan làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên bất thường, hoặc do giá trị của khoản thu nhập đáng lẽ nhận được từ hợp đồng giảm xuống bất thường, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác.
26 Hai từ “dân sự” để trong ngoặc đơn nói trên nhằm phù hợp với Điều 423 BLDS 2005 hiện hành. Hai từ này được dự kiến sẽ phải bỏ đi cho phù hợp với các qui định khác mang tính hệ thống của pháp luật hợp đồng, tạo sự thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng nói chung.
190
Được coi là ‘sự kiện khách quan’ nếu thỏa mãn các điều kiện sau đây:
- Xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng, trừ những sự kiện bên đó đã biết hoặc đáng lẽ phải biết;
- Xảy ra khách quan, nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị thiệt hại;
- Rủi ro về các sự kiện này không thuộc trường hợp qui định tại các Điều 440 BLDS 2005, Điều 57 đến Điều 62 Luật Thương mại 2005 và các qui định tương tự trong BLDS 2005 và Luật Thương mại 2005;
Được coi là ‘bất thường’ nếu chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc giá trị của khoản thu nhập đáng lẽ thu được từ hợp đồng giảm xuống đáng kể, ngoài dự kiến và vượt ngoài phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán của lĩnh vực tương ứng.”
Có thể nói, trong các qui định về hardship, thì điều khoản qui định về khái niệm
là khó nhất, vì vừa phải đảm bảo tính khái quát cao, nhưng vừa phải rõ ràng để có thể
áp dụng được vào từng trường hợp cụ thể. Điều khoản đề xuất trên vừa khái quát được
sự thay đổi hoàn cảnh, nhưng cũng vừa nêu được định nghĩa khá cụ thể về “sự kiện
khách quan” và tính chất “bất thường” của việc tăng chi phí hay giảm thu nhập. Việc
đưa thêm tính chất “bất thường” là để loại trừ các trường hợp thay đổi giá cả thông
thường, trong phạm vi tập quán của lĩnh vực tương ứng. Nội dung chính của điều
khoản cũng dự liệu khả năng “các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định
khác”. Sự loại trừ này là cần thiết và phù hợp với nguyên tắc tự do hợp đồng và giới
hạn của nguyên tắc này. Các bên có thể loại trừ áp dụng điều khoản này phù hợp với
nguyên tắc thiện chí, trung thực hoặc cũng có thể thỏa thuận các điều kiện khác với qui
định này. Mặt khác, qui định như vậy cũng nhằm đưa ra qui tắc áp dụng điều khoản
này là: “loại trừ thì không áp dụng” (Theo kinh nghiệm của Ủy ban Châu Âu trong
quá trình thảo luận và xây dựng Luật Hợp đồng Châu Âu, thì hiệu lực áp dụng của văn
bản pháp điển này được chia làm ba mức: “chọn thì áp dụng”, “loại trừ thì không áp
dụng” và “áp dụng bắt buộc”) [Xem thêm 94, tr.62]. Theo đó, khi các bên không có
thỏa thuận trong hợp đồng về việc loại trừ áp dụng điều khoản này, nếu các bên có
tranh chấp thì điều khoản này được mặc nhiên áp dụng.
Ngoài ra, có những loại hợp đồng mà pháp luật có qui định khác hoặc minh thị
không cho áp dụng qui định này, thì qui định này cũng bị loại trừ áp dụng khi giải
quyết các tranh liên quan tới loại hợp đồng đó. Ví dụ: các hợp đồng hành chính liên
quan tới một bên là nhà nước, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng trong lĩnh vực tài chính…
191
Nội dung giải thích sự kiện khách quan cũng loại trừ những thay đổi là do rủi
ro. Có những trường hợp nguyên nhân khách quan gây ra thiệt hại cho đối tượng của
hợp đồng, như sét đánh cháy nhà, tàu bị bão đánh chìm trên đường vận chuyển làm
trôi mất hàng hóa… thì không áp dụng qui định về “sửa đổi hợp đồng dân sự do hoàn
cảnh thay đổi” được qui định ở đây, mà sẽ áp dụng các qui định về giải quyết rủi ro
được qui định trong các văn bản pháp luật tương ứng.
Qui định này có quan hệ biện chứng với qui định về hiệu lực của hợp đồng. Bởi
vậy, nguyên tắc hiệu lực bất biến của hợp đồng cần phải được đề cao như là nguyên
tắc chung, và qui định cho phép sửa đổi hợp đồng trong trường hợp này phải được
xem là trường hợp ngoại lệ. Với vai trò đó, để điều khoản này không bị lạm dụng để
điều chỉnh bất hợp lý các hợp đồng đang có hiệu lực, một mặt cần qui định những điều
kiện và thủ tục chặt chẽ để thực hiện, mặt khác cần xác định rõ hiệu lực bất biến của
hợp đồng. Do đó, thiết nghĩ nên duy trì qui định tại khoản 2 của Điều 404 BLDS 1995:
“Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui
định” và bổ sung qui định này trở lại thành khoản 2 (mới) của Điều 405 BLDS 2005
(như đã đề xuất tại mục 3.3.2 của Luận án). Có như vậy, thì qui định của Điều 423a
(mới) mới đảm bảo an toàn pháp lý cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng.
5.4.2. Bổ sung qui định về thủ tục yêu cầu bên kia sửa đổi hợp đồng và thiết kế
thành khoản 2 của Điều 423 a (mới)
Để có cơ sở cho bên kia xem xét thương lượng lại nội dung hợp đồng và tạo căn
cứ cần thiết cho việc thực hiện các thủ tục tư pháp tiếp theo khi yêu cầu này không
được đáp ứng, luật cần qui định về quyền của bên bị thiệt hại yêu cầu bên kia sửa đổi
hợp đồng. Việc này phải được tiến hành trong những điều kiện chặt chẽ về thời gian,
và phải có căn cứ cụ thể. Nội dung này tương tự qui định tại khoản 1, khoản 2 Điều
6.2.3 PICC:
1. Trong trường hợp hardship, bên bị bất lợi có quyền yêu cầu tiến hành đàm phán lại hợp đồng. Yêu cầu này phải được đưa ra không chậm trễ và phải có căn cứ.
2. Yêu cầu đàm phán lại hợp đồng, bản thân nó, không cho phép bên bị bất lợi có quyền tạm đình chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ngoài ra, nội dung này có thể gộp lại, chỉnh sửa thích hợp với các qui định hiện hành của luật Việt Nam, và thiết kế thành khoản 2 của Điều 423 a (mới). Cụ thể:
192
“2. Quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng theo khoản 1 Điều này phải được bên bị thiệt hại đưa ra không chậm trễ và phải có căn cứ. Việc yêu cầu sửa đổi hợp đồng không cho phép các bên được đơn phương tạm ngừng thực hiện, chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng, trừ trường hợp có căn cứ do hợp đồng hoặc do pháp luật qui định để áp dụng các quyền đó.”
Việc một bên yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng rất có thể dẫn tới bất đồng
và mỗi bên có thể đơn phương ngừng thực hiện hợp đồng, chấm dứt hợp đồng hoặc
hủy bỏ hợp đồng. Nguyên tắc thiện chí, trung thực và hợp tác cũng như nguyên tắc
hiệu lực bất biến của hợp đồng không cho phép các bên được làm điều đó, trừ trường
hợp có căn cứ rõ ràng mà các bên đã thỏa thuận (trong hợp đồng) hoặc pháp luật có
quy định. Điều này vừa bảo đảm quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng của mỗi bên có căn
cứ, đồng thời bảo đảm tính ổn định và an toàn pháp lý cho các quan hệ hợp đồng.
5.4.3. Bổ sung qui định về thủ tục yêu cầu tòa án hoặc trọng tài giải quyết khi thỏa
thuận không thành, và thiết kế thành khoản 3 và khoản 4 của Điều 424a (mới)
Có nhiều khả năng bên được đề nghị điều chỉnh, sửa đổi hợp đồng không chấp
nhận yêu cầu này. Để có cơ chế giải quyết tranh chấp và xác định rõ căn cứ cụ thể để
tòa án đưa ra các quyết định hợp lý, luật cần qui định rõ thời hạn các bên yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền xem xét, phân xử về tính hợp pháp của yêu cầu sửa đổi hợp đồng
của bên bị thiệt hại và lý do từ chối của bên được yêu cầu. Qui định của luật cần xác
định cụ thể thẩm quyền, thủ tục, thời hạn và hậu quả pháp lý của tình huống này. Nội
dung này có thể tiếp thu qui định tương tự tại khoản 3, khoản 4 Điều 6.2.3. PICC:
3. Nếu các bên không thỏa thuận được trong một thời hạn hợp lý thì mỗi bên có quyền yêu cầu toà án giải quyết.
4. Nếu xác định có hoàn cảnh hardship và nếu thấy hợp lý, tòa án có thể:
a. Chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo các điều kiện do tòa án quyết định; hoặc
b. Sửa đổi hợp đồng nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng.
Thiết nghĩ qui định tại các khoản 3 và khoản 4 Điều 6.2.2. PICC đã dự liệu khá
hợp lý tình huống này, nên có thể tiếp thu để đưa vào qui định trong BLDS 2005. Nội
dung này có thể được chỉnh sửa và thiết kế thành khoản 3, khoản 4 Điều 423a (mới):
“3. Nếu bên được đề nghị sửa đổi hợp đồng từ chối, hoặc không trả lời, hoặc các bên không thỏa thuận được việc sửa đổi hợp đồng trong một thời gian hợp lý, thì mỗi bên có quyền yêu cầu tòa án hoặc trọng tài (nếu hợp đồng có thỏa thuận chọn thủ tục trọng tài) giải quyết.”
193
Ở đây, ngoài trường hợp không thỏa thuận được việc sửa đổi hợp đồng, có thể
còn nhiều khả năng khác: bên được đề nghị không trả lời, hoặc thậm chí trả lời từ chối
ngay lập tức. Bởi vậy, cần phải dự liệu trong điều luật những khả năng này. Ngoài ra,
cơ chế giải quyết bằng thủ tục tố tụng tòa án có thể sẽ mất nhiều thời gian. Hơn nữa,
pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật hợp đồng quốc tế không cấm các bên được
chọn lựa trọng tài và thủ tục trọng tài để giải quyết tranh chấp hợp đồng. Bởi vậy, cần
dự liệu khả năng hợp đồng có thỏa thuận quyền được yêu cầu trọng tài giải quyết.
Về xử lý hậu quả khi việc yêu cầu sửa đổi hợp đồng không thành công: cần cho
phép tòa án, hoặc trọng tài can thiệp vào hiệu lực hợp đồng bằng cách quyết định
chỉnh sửa nội dung hợp đồng, hoặc cho phép chấm dứt hợp đồng, và thiết kế thành
khoản 4 Điều 423a (mới). Cụ thể:
“4. Nếu tòa án hoặc trọng tài xác định sự kiện khách quan xảy ra là có căn cứ để cho phép bên bị thiệt hại được quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng như qui định tại khoản 1 Điều này, và nếu thấy hợp lý, thì tòa án hoặc trọng tài có thể đưa ra một trong các quyết định sau đây:
a. Sửa đổi hợp đồng nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng; hoặc
b. Chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo các điều kiện do tòa án quyết định.
Bên từ chối thỏa thuận hoặc vi phạm thoả thuận trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”
Qui định này cho phép tòa án, trọng tài được can thiệp vào hiệu lực hợp đồng
gần giống như cơ chế giải thích hợp đồng hoặc áp dụng nguyên tắc thiện chí, trung
thực và hợp tác và nguyên tắc công bằng để điều chỉnh nội dung hợp đồng. Trong
trường hợp xét thấy không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng do trở ngại không thể vượt
qua hoặc việc thực hiện hợp đồng là không cần thiết, hoặc các bên đều không có
nguyện vọng tiếp tục thực hiện hợp đồng, thì tòa án có thể cho phép các bên chấm dứt
hợp đồng tại một thời điểm, và theo những điều kiện thích hợp, đồng thời giải quyết
hậu quả pháp lý của nó theo qui định chung về chấm dứt hợp đồng. Để tăng hiệu quả
của qui định về quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng, đoạn cuối điều luật còn dự liệu cả
trường hợp một bên từ chối đàm phán lại hợp đồng trái pháp luật hoặc trái với nguyên
tắc trung thực, thiện chí thì phải bồi thường thiệt hại do hành vi đó gây ra, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác: loại trừ áp dung qui định này hoặc tự thỏa thuận chấm
194
dứt hợp đồng và tự giải quyết hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đó phù hợp với pháp
luật và nguyên tắc thiện chí, trung thực và nguyên tắc công bằng.
5.4.5. Các kiến nghị khác
Việc kiến nghị Quốc hội “luật hóa” và bổ sung vào BLDS điều khoản sửa đổi
hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi là một hành trình không dễ dàng, vì còn phải thông
qua nhiều trình tự, thủ tục phức tạp do pháp luật qui định. Trong khi chờ đợi có sự
thay đổi từ phía các nhà lập pháp, có lẽ giải pháp hiệu quả và khả thi nhất là kiến nghị
TANDTC đưa điều khoản này vào trong văn bản hướng dẫn ngành tòa án (Nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán) và khuyến nghị các bên tham gia hợp đồng cần đưa các điều
khoản loại này vào các hợp đồng của mình.
5.4.5.1. Cần đưa điều khoản “sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi” vào văn bản
hướng dẫn áp dụng pháp luật của ngành tòa án
Suy cho cùng, luật pháp dù có hay và có “kín kẻ” tới đâu đi nữa mà việc nhận
thức và áp dụng không tốt thì cũng không thể phát huy hiệu quả của pháp luật. Thông
qua “kênh” thực tiễn xét xử của ngành tư pháp, những tư tưởng và thành tựu nghiên
cứu của khoa học pháp lý sẽ dễ dàng được chấp nhận và dễ dàng được luật hóa.
Trong thực tế, trước khi nhà làm luật ban hành các văn bản pháp luật qui định
chính thức các chế định của Luật Dân sự, ngành tòa án từng có nhiều văn bản hướng
dẫn đường lối xét xử làm căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh trên
thực tế. Sau đó, các cơ quan được phân công soạn thảo các văn bản luật mới tổng kết
kinh nghiệm từ thực tiễn xét xử đó để phục vụ cho hoạt động lập pháp dân sự. Ví dụ:
trước khi chế định quyền thừa kế được qui định chính thức trong Pháp lệnh Thừa kế
1990 và BLDS 1995, thì TANDTC đã có Thông tư số 594-NCPL ngày 27/8/1968 và
Thông tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981 qui định đường lối giải quyết các tranh chấp về
thừa kế; hoặc hướng dẫn áp dụng các qui định của pháp luật về mức bồi thường thiệt
hại tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong
Nghị quyết 01/2004/NQ-HĐTP ngày 24/4/2004 của Hội đồng thẩm phán đã được đưa
vào qui định chính thức tại khoản 2 Điều 609, khoản 2 Điều 610 và khoản 2 Điều 611
BLDS 2005. Những ví dụ như vậy không hiếm gặp trong tiến trình lập pháp ở Việt
Nam (và cả trên thế giới).
Thông qua bài học kinh nghiệm đó, trên cơ sở của nguyên tắc thiện chí, trung
thực, hợp tác và nguyên tắc công bằng, tác giả kiến nghị HĐTP – TANDTC cần sớm
195
ban hành Nghị quyết hướng dẫn đường lối giải quyết các tranh chấp loại này, với
những nội dung như đã được nêu trong các kiến nghị ở trên. Ngoài ra, thông qua việc
tập huấn và hội nghị báo cáo tổng kết hàng năm của ngành, TANDTC cần tuyên
truyền, phổ biến sâu rộng về đường lối này cho các thẩm phán để việc nhận thức và áp
dụng được nhất quán và đạt hiệu quả tốt. Kết quả khả quan từ thực tiễn áp dụng qui
định này sẽ là cơ sở thực tiễn để thuyết phục nhà làm luật chấp nhận và chính thức qui
định điều khoản này trong BLDS 2005, khi BLDS này được xem xét sửa đổi, bổ sung.
5.4.5.2. Các bên tham gia hợp đồng cần đưa điều khoản “sửa đổi hợp đồng khi hoàn
cảnh thay đổi” vào trong các hợp đồng để xử lý tốt các rủi ro trong kinh doanh
Trong bối cảnh có sự thay đổi không ngừng của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã
hội, kỹ thuật, thông tin, chính sách và các yếu tố khác làm cho các quan hệ hợp đồng
ngày càng gặp nhiều rủi ro và pháp luật hợp đồng cũng luôn thay đổi, thì việc tự bảo
vệ mình bằng hợp đồng là một trong những cách thức khôn ngoan của những thương
gia giàu kinh nghiệm. Còn nhớ năm 2007, một số tờ báo lấy thông tin từ báo nước
ngoài, nhưng do nhầm lẫn trong dịch thuật, nên đã đưa tin “ăn bưởi bị ung thư”.
Thông tin sai lệch này đã khiến cho các hợp đồng mua bán trái bưởi ở Việt Nam bị ảnh
hưởng, “nông dân thiệt hại hơn 50 tỷ đồng” [283].
Điều này cho thấy, trong điều kiện hội nhập và phát triển, khi mà chỉ cần một
thông tin thất thiệt cũng có thể gây ra những tổn thất lợi ích nghiêm trọng cho các bên,
hoặc làm cản trở việc thực hiện hợp đồng, làm tăng các nguy cơ gây ra tổn thất cũng
như các rủi ro cho các bên trong hợp đồng. Từ đó, vấn đề xử lý rủi ro do thay đổi hoàn
cảnh trong quan hệ hợp đồng là nhu cầu cần thiết, đặc biệt là trong các hợp đồng dài
hạn, hoặc hợp đồng mua bán các hàng hóa có liên hệ mật thiết tới điều kiện tự nhiên
như đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản, thu hoạch từ sản xuất nông lâm nghiệp (hoa,
trái, rau, củ, tôm, cá, cà-phê, bông vải…).
Trong những hoàn cảnh đó, các thương gia quốc tế đã đưa vào hợp đồng của
mình điều khoản hardship nhằm làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý rủi ro và giải quyết
tranh chấp của các bên khi hoàn cảnh thay đổi. Thực tiễn thương mại đã chỉ ra có hàng
chục kiểu điều khoản loại này đã được soạn thảo [119], với nội dung cơ bản là để qui
định về khái niệm hardship, điều kiện áp dụng (có sự thay đổi hoàn cảnh ngoài ý
muốn, dẫn đến việc thực hiện hợp đồng sau này trở nên đặc biệt khó khăn và tốn kém,
làm tăng chi phí rất lớn đối với bên phải thực hiện hợp đồng, hoặc làm giảm thu nhập
196
nghiêm trọng cho bên kia, và làm mất cân bằng lợi ích của các bên tham gia); đồng
thời qui định về cách thức giải quyết hậu quả của hoàn cảnh hardship, phương thức
giải quyết tranh chấp khi các bên không thể thương lượng để thay đổi nội dung của
hợp đồng. Đây là những bài học quí báu giúp cho các thương gia Việt Nam có thêm
kinh nghiệm trong việc ký kết, thực hiện các hợp đồng, đặc biệt là các hợp đồng
thương mại quốc tế.
Trong khi chờ đợi sự hoàn thiện của pháp luật và sự hoàn bị của ngành tư pháp,
thiết nghĩ các bên tham gia hợp đồng ở Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm từ các
thương gia quốc tế trong việc xử lý các rủi ro do hoàn cảnh thay đổi mang lại trong
hợp đồng của họ. Từ những nhận thức đó, tác giả xin được khuyến nghị các cá nhân,
tổ chức khi đàm phán hoặc soạn thảo các hợp đồng, cần phải đưa vào hợp đồng của
mình điều khoản hardship với những nội dung vừa trình bày ở trên.
Điều khoản hardship tuy còn khá ‘xa lạ’ ở Việt Nam, nhưng không phải là điều
gì quá mới mẻ trong thực tiễn thương mại quốc tế, vì nguồn gốc đầu tiên của điều
khoản này không phải là sáng kiến của nhà lập pháp mà chính là kết quả sự sáng tạo
của thương gia và các nhà tư vấn pháp lý trong thực tiễn thương mại. Với cách tiếp cận
đó, tác giả cho rằng, để cho điều khoản hardship được biết đến và được sử dụng phổ
biến tại Việt Nam, thì cách làm hiệu quả nhất vẫn là tuyên truyền, hướng dẫn các
thương gia sử dụng thường xuyên các điều khoản này trong các giao dịch thương mại
của mình. Nhưng đem lý thuyết trừu tượng này đến được với thực tiễn thương mại quả
là điều không dễ. Để làm được điều này, thiết nghĩ cần sử dụng một trong những ‘kênh
trung chuyển’ hiệu quả nhất, đó là thông qua hoạt động tư vấn của các luật sư và thông
qua việc đào tạo các sinh viên luật - những luật gia đảm nhận vai trò tư vấn pháp lý
cho các doanh nghiệp trong tương lai. Trong đó, việc đào tạo gián tiếp cho các thương
gia thông qua việc đưa điều khoản này vào giảng dạy trong chương trình pháp luật về
hợp đồng cho các sinh viên luật, là nhu cầu cấp thiết hiện nay. Tin rằng, từ những “hạt
giống” đầu tiên được gieo trồng trong “vườn ươm” của các trường luật, điều khoản
hardship sẽ được các thương gia và xã hội biết đến nhiều trong một vài năm tới.
197
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5
1. Mặc dù hợp đồng được giao kết có hiệu lực thì phải được tôn trọng và phải được
thực hiện đúng. Nhưng việc thực hiện hợp đồng là một quá trình có nhiều rủi ro mà
các bên không lường trước được. Để xử lý vấn đề này, không chỉ trong thực tiễn
thương mại, mà cả trong luật thực định và trong án lệ của nhiều nước cũng thừa nhận
và áp dụng điều khoản hardship để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tế.
2. Điều khoản hardship chưa được biết đến nhiều trong luật thực định Việt Nam. Sự
thiếu vắng các qui định này đã làm cho cả cơ quan tư pháp lẫn các bên liên quan lúng
túng khi giải quyết các tranh chấp. Thực tiễn xét xử cũng xuất hiện các tranh chấp loại
này, nhưng cách giải quyết giữa các tòa án là chưa nhất quán, và điều khoản này cũng
chưa được đề cập đến như là một trong những căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp.
3. Trên cơ sở tiếp thu những kinh nghiệm của quá trình soạn thảo điều khoản hardship
trong pháp luật của các nước và trong các bộ nguyên tắc về hợp đồng quốc tế, tác giả
đã đưa ra những khuyến nghị là cần bổ sung vào BLDS 2005 một điều luật mới (Điều
423a) về “Sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi” nhằm qui định rõ khái niệm và
điều kiện của quyền sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi (khoản 1); thủ tục yêu
cầu bên kia sửa đổi hợp đồng, nhưng các bên không được tạm ngừng hay hủy bỏ hợp
đồng vì lý do khi một bên có yêu cầu sửa đổi hợp đồng (khoản 2); quyền yêu cơ quan
tư pháp giải quyết khi việc yêu cầu sửa đổi hợp đồng không thành công (khoản 3); và,
hướng xử lý của cơ quan tư pháp khi giải quyết tranh chấp loại này (khoản 4). Ngoài
ra, tác giả cũng kiến nghị HĐTP - TANDTC ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng
điều khoản này để giải quyết các tranh chấp trên cơ sở vận dụng nguyên tắc thiện chí,
trung thực, ngay thẳng và nguyên tắc công bằng; khuyến nghị các bên liên quan thận
trọng đưa vào hợp đồng các điều khoản thích hợp để xử lý linh hoạt rủi ro loại này.
4. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh tế thế
giới, nền pháp luật Việt Nam cũng không thể là “người ngoài cuộc” mà cần phải có sự
tiếp thu có chọn lọc các qui định tiên tiến của pháp luật các nước và các nguyên tắc,
tập quán thương mại về hợp đồng, làm cơ sở cho việc bổ sung và hoàn thiện pháp luật
hợp đồng Việt Nam. Việc tiếp thu phải tính đến yếu tố tổng thể và tính có hệ thống của
chế định hợp đồng, đồng thời làm cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng trở nên
hiện đại, tương thích với pháp luật của các nước và của các tổ chức quốc tế, nhưng
cũng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.
198
KẾT LUẬN
1. Hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng nhằm làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia, và hiệu lực ràng buộc mang tính cưỡng chế của hợp
đồng nhằm buộc các bên phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và
nghĩa vụ đó. Hiệu lực của hợp đồng cũng là nội dung cốt lõi thể hiện bản chất của hợp
đồng. Đây là vấn đề pháp lý rất phức tạp và có mối liên hệ biện chứng với nhiều vấn
đề pháp lý quan trọng khác của pháp luật hợp đồng, như điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, thời điểm giao kết hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, hiệu lực ràng
buộc thực hiện đúng hợp đồng, hiệu lực tương đối của hợp đồng, hiệu lực của hợp
đồng đối với người thứ ba, giải thích hợp đồng, sửa đổi và chấm dứt hợp đồng… Các
nội dung đó không phải là những vấn đề độc lập mà là một tổng thể có mối liên hệ
thống nhất với nhau, tạo thành một chỉnh thể gọi là cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực
hợp đồng. Do vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện qui định pháp luật về hiệu lực hợp đồng
cũng có nghĩa là hoàn thiện toàn bộ cơ chế đó.
2. Luận án tập trung nghiên cứu những nội dung trọng tâm của vấn đề hiệu lực hợp
đồng, như vấn đề điều kiện có hiệu lực, thời điểm có hiệu lực, hiệu lực ràng buộc của
hợp đồng, và hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Mỗi nội dung vừa nêu
được thiết kế thành một chương, kết hợp với chương lý luận chung về hiệu lực hợp
đồng, tạo thành năm chương của luận án.
3. Nội dung chương 1 tập trung làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản về hiệu lực hợp đồng,
như trình bày khái niệm hợp đồng, phân tích bản chất của hợp đồng. Nội dung trọng
tâm của chương 1 là làm rõ khái niệm hiệu lực hợp đồng và nội hàm của khái niệm
này. Kết quả nghiên cứu của chương 1 là: kiến nghị sửa đổi thuật ngữ ‘hợp đồng dân
sự’ thành “hợp đồng” để đảm bảo tính chính xác của khái niệm này; xây dựng được
các khái niệm mới ‘hiệu lực hợp đồng’, ‘cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng’
làm tiền đề lý luận để tiếp cận và nghiên cứu các vấn đề pháp lý tiếp theo.
4. Nội dung chương hai nghiên cứu về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng với tính
chất là điều kiện để bảo cho hợp đồng được lập hợp pháp và có giá trị pháp lý. Vấn đề
các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đã được qui định khá cụ thể trong luật thực
định, đồng thời cũng được nhiều học giả nghiên cứu khá hoàn thiện, trừ vấn đề hình
thức hợp đồng (giao dịch dân sự) và hậu quả pháp lý do hợp đồng bị vi phạm hình
199
thức vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận và chưa thống nhất. Bởi vậy, nội dung chương
hai chỉ trình bày nội dung của các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ở mức độ căn
bản, và dành trọng tâm nghiên cứu đối với vấn đề hình thức hợp đồng.
Kết quả nghiên cứu các qui định về hình thức hợp đồng cho thấy thực trạng
pháp luật và thực tiễn xét xử liên quan tới vấn đề hợp đồng bị vi phạm hình thức và
hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị vi phạm về hình thức vẫn còn nhiều điểm bất cập,
chưa nhất quán. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến nghị cụ thể, như kiến nghị sửa đổi,
bổ sung khoản 1 Điều 134 BLDS 2005; bổ sung khoản 2, 3 Điều 134 (mới); sửa đổi,
bổ sung khoản 1 Điều 401; sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 401; bãi bỏ đoạn 2, khoản
2, Điều 401;bổ sung khoản 3 Điều 401. Các nội dung cụ thể: xem Phụ lục số 12.
5. Nội dung chương 3 nghiên cứu về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Pháp luật
Việt Nam hiện hành xem thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là
hai loại thời điểm khác nhau, có ý nghĩa pháp lý khác nhau. Thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng là thời điểm giao kết hợp đồng trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có qui định khác. Thực trạng pháp luật về thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng cũng bộc lộ nhiếu bất cập, như nội dung Điều 404 là chưa lô gích và chưa
chặt chẽ, khoản 2 Điều 404 chưa dự liệu trường hợp sự im lặng là đồng ý giao kết hợp
đồng khi pháp luật có qui định; Điều 405 có tiêu đề chưa phù hợp, nội dung của Điều
405 chưa đầy đủ và còn gây nhiều tranh cãi. Từ đó, kiến nghị: sửa đổi cơ bản và bổ
sung một số qui định mới vào Điều 404 về thời điểm giao kết hợp đồng; bổ sung qui
định về việc thỏa thuận thời điểm có hiệu lực hợp đồng và thiết kế thành khoản 2
(mới) của Điều 405 BLDS 2005. Cụ thể: Xem Phụ lục 13.
6. Chương 4 nghiên cứu cơ bản về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng. Đây là nội dung
phức tạp, có liên quan tới nhiều qui định khác của pháp luật về nghĩa vụ dân sự, về
thực hiện hợp đồng và trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng hợp đồng. Nghiên
cứu lý luận và thực tiễn cho thấy có một số bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung. Cụ
thể: bổ sung Điều luật (Điều 405a) qui định trực tiếp về hiệu lực ràng buộc của hợp
đồng; sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1 Điều 303 BLDS 2005 về trách nhiệm đối
với có nghĩa vụ giao vật đặc định bị hư hỏng; Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1
Điều 303 BLDS 2005 về trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật cùng loại.
Các nội dung cụ thể: Xem Phụ lục 14.
200
7. Tuy thừa nhận nguyên tắc công bằng và nguyên tắc trung thực, thiện chí và hợp tác,
nhưng pháp luật Việt Nam hiện hành vẫn chưa dự liệu khả năng hạn chế sự cực đoan
của nguyên tắc ‘hiệu lực bất biến’ của hợp đồng, nên điều khoản ‘hardship’ chưa được
biết đến một cách rộng rãi trong thực tiễn pháp lý ở Việt Nam hiện nay, mặc dù điều
khoản này đã được chấp nhận trong luật thực định và thực tiễn tư pháp ở nhiều quốc
gia trên thế giới, và đã được đưa vào các bộ nguyên tắc quốc tế về hợp đồng (như
PICC, PECL). Chương 5 tập trung nghiên cứu về điều khoản sửa đổi hợp đồng khi
hoàn cảnh thay đổi (hardship clause), thông qua việc khảo sát thực tiễn pháp lý về vấn
đề này ở một số nước trên thế giới để tìm hiểu về những kinh nghiệm thích hợp phục
vụ cho việc xây dựng, bổ sung các qui định tương ứng vào BLDS 2005. Trên cơ sở đó
đề xuất một số kiến nghị cụ thể: Việt hóa khái niệm hardship để đưa vào qui định
trong luật Việt Nam, với tên gọi là điều khoản “sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi” và thiết kế thành Điều 423a BLDS 2005; đồng thời bổ sung các căn cứ, các tiêu
chí cụ thể để cho phép các bên được yêu cầu tòa án, trọng tài can thiệp buộc các bên
phải thương lượng lại hợp đồng trong một thời hạn và theo thủ tục xác định; nếu các
bên không chịu thương lượng lại, hoặc thương lượng không thành công, hoặc nếu hợp
đồng không thể thương lượng lại được, thì tùy trường hợp mà tòa có thể can thiệp để
sửa hợp đồng hoặc tuyên bố chấm dứt hợp đồng. Nội dung cụ thể: Xem Phụ lục số 15.
8. Trong bối cảnh ngày càng gia tăng xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa của các nền
kinh tế, sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế thương mại giữa các quốc gia
đã tác động và làm thay đổi sâu rộng trong nhận thức đối với các học thuyết pháp lý về
hiệu lực hợp đồng, sự khẳng định ngày càng rõ rệt của xu hướng nhất thể hóa, hài hòa
hóa giữa các hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật hợp đồng, thì việc
cần sớm tìm một cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng linh hoạt, phù hợp với
hoàn cảnh của Việt Nam và đáp ứng các yêu cầu của tình hình mới, là một yêu cầu cấp
bách của khoa học pháp lý, và cơ chế hardship là một sự bổ sung hợp lý và quan trọng
cho cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng.
9. Như đã khẳng định, hiệu lực của hợp đồng là một đề tài có nội dung phức tạp và
phạm vi nghiên cứu rất rộng liên quan tới nhiều nội dung phức tạp khác, nên trong quá
trình nghiên cứu, tác giả chưa có điều kiện để giải quyết hết được, tác giả coi đó như
hướng nghiên cứu tiếp khi có điều kiện, như vấn đề hiệu lực tương đối của hợp đồng,
hiệu lực của hợp đồng đối với người thứ ba, giải thích hợp đồng…
201
NHỮNG CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN
1. Ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng (2009), Tạp chí Khoa học
Pháp lý, số 02/2009, tr. 12 – 22.
2. Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (Hardship) trong
pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam (2009), tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 6, tháng 3/2009, tr. 41- 51.
3. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo qui định tại Điều 405 Bộ luật Dân
sự 2005 (2009), tạp chí Nhà nước – Pháp luật, số 6/2009, tr. 45 – 55.
1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Đức Anh, Các qui định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự và Luật Thương
mại năm 2005, Kiểm sát, số 05 tháng 3/2006, tr. 34-36.
2. Việt Anh, “Bộ Tư pháp cam kết giải quyết 'nỗi khổ' công chứng” - http://
www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2006/06/3B9EA91B/ (truy cập ngày 21/8/2008).
3. Alexandre, Vanwijck, Điều khoản chấm dứt và điều khoản duy trì hợp đồng, Kỷ
yếu hội thảo “Hợp đồng Thương mại Quốc tế”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức
tại Hà Nội, ngày 13, 14/12/2004, tr. 229-258.
4. Amoussou – Guénou, Roland, Triển vọng phát triển các nguyên tắc pháp luật
hợp đồng ASEAN (hoặc Châu Á), Kỷ yếu hội thảo “Hợp đồng Thương mại Quốc
tế”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội, ngày 13, 14/12/2004, tr. 2-19.
5. Nguyễn Mạnh Bách, Pháp luật về hợp đồng, Nxb. CTQG, H. 1995.
6. Nguyễn Mạnh Bách, Dân luật Việt Nam: Nghĩa vụ, Nxb. Trường Thọ, Sài Gòn,
1974.
7. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 07 – NQ/TW
ngày 27/11/2001 về Hội nhập kinh tế quốc tế.
8. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu
Toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H. 2001.
9. Ban Soạn thảo BLDS (Sửa đổi), Bản thuyết minh Dự thảo BLDS (sửa đổi), Hà
Nội tháng 11/2004.
10. Bézard, Pierre, Hai trăm năm BLDS Pháp và ảnh hưởng đối với BLDS Việt Nam,
trích Kỷ yếu Hội thảo “Hai trăm năm Bộ luật Dân sự Pháp”, tổ chức tại Hà Nội, từ
ngày 03/11 – 05/11/2004, tr. 47 - 69.
11. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020.
12. Bộ Công Thương, Một số điều ước đa phương thường được sử dụng trong
thương mại quốc tế: Giải thích của Ban Thư ký (UNCITRAL) về Công ước của
Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Nxb. Đại học Sư phạm, H.
2007, tr. 43-50.
2
13. Bộ Dân luật Bắc kỳ 1931.
14. Bộ Dân luật Sài Gòn 1972, Nxb. Thần Chung, Sài Gòn, 1973.
15. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005.
16. Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995.
17. Bộ luật Dân sự Cộng hòa Liên bang Đức (Bản dịch sang tiếng Anh - 28
September 2009, I 3161, © 2010 juris GmbH, Saarbrücken, xem: www.juris.de).
18. Bộ luật Dân sự Liên bang Nga 1994.
19. Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp, Nxb. Tư pháp, H. 2006.
20. Bộ luật Dân sự Nhật Bản (Bản dịch của Văn phòng Quốc hội, khóa IX, 1994).
21. Bộ luật Dân sự – Thương mại Thái Lan, Nxb. CTQG, H. 1995.
22. Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005.
23. Bộ luật Lao động 1994, sửa đổi ngày 02/4/2002 và ngày 29/11/2006.
24. Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004.
25. Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004, Dg:
Nguyễn Minh Hằng, Đào Thu Hiền và các Dgk, Nxb. Tư pháp, H. 2005.
26. Bộ Tư pháp, Những nội dung cơ bản của BLDS nước CHXHCN Việt Nam, Tài
liệu nghiên cứu, H. 1996.
27. Canivet, Guy, Tham luận đề dẫn, Kỷ yếu Hội thảo “200 năm Bộ luật Dân sự
Pháp”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp, H. ngày 03, 04, 05/ 11/2004, tr. 5-12.
28. Castaldo, André, Bộ luật Dân sự trong tiến trình lịch sử, Kỷ yếu “200 năm Bộ
luật Dân sự Pháp”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp, H. ngày 03, 04, 05/11/2004, tr. 13-22.
29. Nguyễn Bá Chiến, Bàn về một số yêu cầu đối với việc xây dựng hệ thống các qui
phạm pháp luật xung đột và việc áp dụng đối với hợp đồng dân sự có yếu tố nước
ngoài, Nhà nước và Pháp luật, số 08 (184) tháng 8/2003, tr. 67-72.
30. Nguyễn Bá Chiến, Pháp luật triệt tiêu pháp luật, Nghiên cứu Lập pháp, số 04
tháng 4/2006, tr. 51-57 & 64.
31. Chính phủ, Tờ trình số 1443/CP-PC ngày 04/10/2004 trước Quốc hội khóa XI,
Kỳ họp thứ 6 về dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi).
3
32. Đỗ Văn Chỉnh, Tặng cho quyền sử dụng đất - Thực tiễn và tồn tại, Tòa án Nhân
dân, số 02 tháng 01/2008, tr. 23-30.
33. Nguyễn Chúng, Kinh nghiệm thực tế Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại
– hàng hải, Nxb. CTQG, H. 2008.
34. Công ước của Liên hiệp quốc về sử dụng giao dịch điện tử trong thương mại
quốc tế (ngày 23/01/2005), trong quyển “Một số điều ước đa phương thường được
sử dụng trong thương mại quốc tế”, Nxb. Đại học Sư phạm, H. 2007, tr. 53-67.
35. Công ước của Liên hiệp quốc về vận chuyển bằng đường biển (các Qui tắc
Hamburg 1978), trong quyển “Một số điều ước đa phương thường được sử dụng
trong thương mại quốc tế”, Nxb. Đại học Sư phạm, H. 2007, tr. 87-111.
36. Công ước quốc tế thống nhất một số qui tắc liên quan đến vận tải hàng không
quốc tế (Công ước Montréal 25/5/1999), trong quyển “Một số điều ước đa phương
thường được sử dụng trong thương mại quốc tế”, Nxb. Đại học Sư phạm, H.
2007, tr. 124-149.
37. Công ước của Liên hiệp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế (CISG),
Viên 1980.
38. Ngô Huy Cương, Khái niệm hiệu lực của nghĩa vụ và vấn đề thực hiện nghĩa vụ,
Nhà nước và Pháp luật, số 8/2008, tr. 37 – 48.
39. Ngô Huy Cương, Nghĩa vụ dân sự và quan niệm nghĩa vụ dân sự ở Việt Nam,
Nghiên cứu lập pháp, số 121, tháng 4/2008, tr.17 – 26 & 32.
40. Ngô Huy Cương, Tự do ý chí và sự tiếp nhận tự do ý chí trong pháp luật Việt
Nam hiện nay, Nghiên cứu Lập pháp, số 02/2008, tr. 11-20.
41. Ngô Huy Cương, Nghĩa vụ và hợp đồng – Một số vấn đề cơ bản, trong quyển
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay”,
Nguyễn Như Phát & Lê Thu Thủy (Cb), Nxb. CAND, H. 2003, tr. 52-80.
42. Bùi Ngọc Cường, Các điều khoản độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền
thuơng mại, Nhà nước và Pháp luật, số 7 (231) tháng 7/2007, tr. 38-45.
43. Bùi Ngọc Cường, Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam,
Nhà nước và Pháp luật, số 5 (205) tháng 5/2005, tr. 47-53&63.
4
44. Nguyễn Văn Cường, Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự vô hiệu, Luận án TS Luật học, ĐH Luật Hà Hội, H. 2005.
45. Nguyễn Văn Cường, Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ về hình thức,
Tòa án Nhân dân, số 01/2002, tr. 29-31.
46. Nguyễn Văn Cường, Giải quyết vụ kiện về hợp đồng mua bán nhà ở tại tòa án,
Nhà nước và Pháp luật, số 5 (157) tháng 5/2001, tr. 69-71.
47. Dely, Filip, Thực tiễn soạn thảo hợp đồng quốc tế, Kỷ yếu hội thảo “Hợp đồng
Thương mại Quốc tế”, H. ngày 13, 14/12/2004, tr. 281-294.
48. Nguyễn Bá Diến, Về bản chất và các loại hình của hợp đồng li-xăng, Nhà nước
và Pháp luật, số 7 (135)/1999, tr. 52-63.
49. Draetta, Ugo, Điều khoản về trường hợp bất khả kháng và điều khoản về
hardship trong hợp đồng quốc tế, Kỷ yếu hội thảo “Hợp đồng Thương mại Quốc
tế”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp, H. ngày 13, 14/12/2004, tr. 181-190.
50. Trần Văn Dũng, Khi đương sự thỏa thuận tự nguyện bồi thường trong giao dịch
dân sự vô hiệu, Dân chủ & Pháp luật, số 1/2006, tr. 54 -55.
51. Nguyễn Sỹ Dũng, Bàn về triết lý của lập pháp, Nghiên cứu Lập pháp, số 06
tháng 6/2003, tr. 6-8 .
52. Trần Duy, Ngày 2/4 Vinapco đã nối lại việc bán xăng cho Pacific Airlines,
http://vietnamnet.vn/kinhte/2008/04/776451/, truy cập lúc 19:39' ngày 02/4/2008.
53. Chế Mỹ Phương Đài, Những điểm mới cơ bản trong phần III – Nghĩa vụ dân sự
và hợp đồng dân sự - BLDS 2005, Khoa học Pháp lý, 6/2006, tr. 8-13.
54. Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án, Nxb.
CTQG, H. 2008.
55. Đỗ Văn Đại, Vị trí của Bộ luật Dân sự trong lĩnh vực hợp đồng, Nhà nước &
Pháp luật, số 7/2008, tr. 12 – 19
56. Đỗ Văn Đại, Thực hiện hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, Khoa học Pháp lý, số
5/2006, tr. 15-19.
57. Đỗ Văn Đại, Về điều chỉnh nguy cơ không thực hiện hợp đồng trong Bộ luật Dân
sự, Nhà nước và Pháp luật, số 1 (201) tháng 1/2005, tr. 21-24.
5
58. Đỗ Văn Đại, Vấn đề hủy bỏ, đình chỉ hợp đồng do vi phạm Bộ luật Dân sự Việt
Nam, Khoa học Pháp lý, số 3/2004, tr. 35, 36.
59. Đỗ Văn Đại, Hợp đồng không thể thực hiện được do yếu tố khách quan, Tòa án
Nhân dân, số 02/2004, tr. 10-13.
60. Đỗ Văn Đại và Đỗ Văn Hữu, Nội dung của hợp đồng trong giao dịch dân sự,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 01/2006, tr. 34 - 7 .
61. Nguyễn Ngọc Đào, Luật La Mã, Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội, H. 1994.
62. Từ Điển, Thương mại Việt Nam trước thềm hội nhập, Nghiên cứu Lập pháp,
2(56) tháng 8/2005, tr. 25- 7.
63. Văn Đoàn, Bể hợp đồng mua xe, có được bồi thường?,
http://www.phapluattp.vn/news/ban-doc/view.aspx?news_id=223953, truy cập lúc
23:02’ ngày 10/8/2008.
64. Vũ Viết Đoàn, Giá vàng tăng đột biến, bất động sản “tê liệt”, Diễn đàn Doanh
nghiệp, http://dddn.com.vn/5042cat117/gia-vang-tang-dot-bien-thi-truong-bat-
dong-san-te-liet.htm, truy cập 15/3/2009.
65. Favret, Jean Marc, Những vấn đề cơ bản về Liên minh Châu Âu và pháp luật
Cộng đồng Châu Âu, Nxb. VH – TT, H. 2002.
66. Fontaine, Marcel, 25 năm nghiên cứu về thực tiễn hợp đồng thương mại quốc tế,
Kỷ yếu hội thảo “Hợp đồng Thương mại Quốc tế”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp, H.
ngày 13, 14/12/2004, tr. 117-122.
67. Fromont, Michel, Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới Dg: Dương Trung
Dũng, Nxb. Tư pháp, H. 2006.
68. Phạm Hoàng Giang, Ảnh hưởng của điều kiện hình thức hợp đồng đến hiệu lực
của hợp đồng, Nhà nước và Pháp luật, số 3, tháng 3/2007, tr. 41-51.
69. Phạm Hoàng Giang, Sự phát triển của pháp luật hợp đồng: Từ nguyên tắc tự do
giao kết hợp đồng đến nguyên tắc công bằng, Nhà nước và Pháp luật, số 10, tháng
10/2006, tr. 28-31.
70. Nguyễn Đức Giao, Vị trí, vai trò của chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam, Thông tin Khoa học Pháp lý - Số chuyên đề: Nghiên cứu so sánh pháp
luật về hợp đồng giữa Việt Nam và Nhật Bản, số 2/2000, tr. 34-46.
6
71. Groussot, Xavier & Nguyễn Thanh Tú, Nguyên tắc cân bằng - hợp lý trong tự do
hóa thương mại, Khoa học Pháp lý, số 5 (36)/2006, tr. 3 - 14.
72. Guilenchmidt, Jacqueline de, B.O.T và hợp đồng giao thầu công chính, Kỷ yếu
Hội thảo Các dự án lớn về hạ tầng cơ sở (Khía cạnh pháp lý, kinh tế và tài chính),
do Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội, ngày 19 – 21/5/1997, tr. 32-9.
73. Lê Thu Hà, Thời hiệu của văn bản pháp luật – Căn cứ đánh giá hợp đồng vô
hiệu, Nghiên cứu Lập pháp, chuyên đề Hiến kế lập pháp số 22 tháng 4/2007, tr.
56-57&62.
74. Lê Thu Hà, Ai có thể làm người đại diện cho chị M?, Nhà nước và Pháp luật, số
9, tháng 9/2006, tr. 81-83.
75. Lê Thu Hà, Bình luận khoa học về Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử, Nxb. Tư
pháp, H. 2005.
76. Ng. Hải, Gần 10 năm kiện đòi 5,5 triệu USD, http://vnexpress.net/SG/Phap-
luat/2007/01/3B9F2711/, truy cập ngày 12/03/2008.
77. Lê Hồng Hạnh, Những nền tảng pháp lý cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Dự án TA 2853-VIE, Hà Nội, 2002.
78. Lê Hồng Hạnh (cb), Đạo đức và kỹ năng của luật sư trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb. Đại học Sư phạm, H. 2002.
79. Trần Đình Hảo, Các qui định về giao dịch dân sự trong Dự thảo Bộ luật Dân sự
(sửa đổi), Khoa học Pháp lý, số 02/2005, tr. 9-13.
80. Nguyễn Minh Hằng, Các nguyên tắc của Unidroit: Án lệ và kinh nghiệm đối với
Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo “Hợp đồng Thương mại Quốc tế”, Nhà Pháp luật Việt –
Pháp, H. ngày 13, 14/12/2004, tr. 102- 113.
81. Hà Thị Mai Hiên, Sửa đổi Bộ luật Dân sự Việt Nam và vấn đề hoàn thiện chế
định hợp đồng, Nhà nước và Pháp luật, số 3 (203) tháng 3/2005, tr. 10-19.
82. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung
bởi Nghị quyết 51/2001/NQ-QH11 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa XI.
83. Đinh Ngọc Hiện, Thực tiễn áp dụng các qui định của Bộ luật Dân sự Việt Nam
trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng tại tòa án, Thông tin Khoa học
7
Pháp lý - Số chuyên đề “Nghiên cứu so sánh pháp luật về hợp đồng giữa Việt Nam
và Nhật Bản”, số 2/2000, tr. 58-85.
84. Hoàng Phước Hiệp, Hoàn thiện pháp luật Việt Nam để thực hiện có hiệu quả quy
chế thành viên WTO, Nhà nước và Pháp luật, số 2 (226), tháng 2/2007, tr. 9-
17&43.
85. Hiệp định WTO, Nxb. Giao thông Vận tải, Tp. Hồ Chí Minh, 2007.
86. Phan Chí Hiếu, Hoàn thiện chế định hợp đồng, Nghiên cứu Lập pháp, tháng
04/2005, tr. 56-60.
87. Nguyễn Am Hiểu, Đề xuất sửa đổi BLDS phần Nghĩa vụ và Hợp đồng, trích Kỷ
yếu Tọa đàm “Tổng kết tình hình thi hành các qui định về hợp đồng trong BLDS
2005”,tổ chức tại Hà Nội vào các ngày 28 – 29/7/2009, tr. 3-11.
88. Nguyễn Am Hiểu, Bàn về đối tượng điều chỉnh và tính thống nhất trong Dự thảo
Luật Thương mại (sửa đổi), Nhà nước và Pháp luật, số 2 (202) tháng 2/2005, tr.
24-27.
89. Nguyễn Am Hiểu, Một số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi pháp luật Việt Nam
về hợp đồng, Nhà nước và Pháp luật, số 4 (192), 4/2004, tr. 32-39.
90. Nguyễn Am Hiểu, Một số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi pháp luật hợp đồng
ở Việt Nam, Tài liệu số 9 trong Kỷ yếu Hội thảo “Pháp luật hợp đồng”, do Ủy ban
Pháp luật của Quốc hội Việt Nam, tổ chức tại Hà Nội, Ngày 29/04/2004.
91. Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật (Bộ Dân luật Trung kỳ), Nxb. Viễn Đệ, Huế, 1947.
92. Hội đồng Chỉ đạo quốc gia biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển
Bách khoa Việt Nam, Tập 2, Nxb. TĐBK, H. 2002.
93. Hội đồng Chỉ đạo quốc gia biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển
Bách khoa Việt Nam, Tập 4, Nxb. TĐBK, H. 2005.
94. Phan Huy Hồng, Về quá trình thảo luận và xây dựng Luật Hợp đồng Châu Âu,
Khoa học Pháp lý, số 5 – 2006, tr. 56 – 63.
95. Phan Huy Hồng, Bàn về năng lực pháp luật của pháp nhân kinh doanh, Nhà
nước và Pháp luật, số 5 (205) 2005, tr. 54 - 59.
8
96. Dương Đăng Huệ, Pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam – Thực trạng và hướng
hoàn thiện, Kỷ yếu Hội thảo “Pháp luật hợp đồng”, Ủy ban Pháp luật của Quốc
hội Việt Nam, H. ngày 29/04/2004.
97. Dương Đăng Huệ, Một điển hình của việc xây dựng pháp luật theo hướng hội
nhập, Nghiên cứu Lập pháp, số 6 /2003, tr. 58 - 67.
98. Dương Đăng Huệ, Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam, Nhà nước và
Pháp luật, số 6 (170) / 2002, tr. 13 - 22.
99. Nguyễn Huy Hùng, Hợp đồng dân sự hay hành vi phạm tội?, Dân chủ & Pháp
luật, số 9/2002, tr. 30-31.
100. Lê Minh Hùng, Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi
(Hardship) trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam, NCLP, số 6,
tháng 3/2009, 41 - 51.
101. Lê Minh Hùng, Sự ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng, KHPL, số
1, tháng 2/2009, tr. 12 - 22.
102. Lê Minh Hùng, Pháp nhân - chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, trong
“Những vấn đề chung về Luật Dân sự”, Tập bài giảng, Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh 2008, tr. 140 – 244.
103. Lê Minh Hùng, Hộ gia đình, tổ hợp tác, trong “Những vấn đề chung về Luật Dân
sự”, Tập bài giảng, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh 2008, tr. 245-313.
104. Trần Hải Hưng, Đổi mới pháp luật về hợp đồng của Bộ luật Dân sự 2005, Nxb.
Tư pháp, H. 2006.
105. Đỗ Văn Hữu, Vi phạm về hình thức có là căn cứ để xác định hợp đồng vô hiệu?,
Nghiên cứu Lập pháp, Chuyên đề Hiến kế Lập pháp, số 33 Tháng 3/2008, tr. 55-57.
106. Thu Hương, Hành trình 18 năm của một vụ án mua bán nhà và việc áp dụng
Nghị quyết số 58, Dân chủ và Pháp luật, số 11/1999, tr. 18-20.
107. Đỗ Hữu Kha, Xác định thời điểm có hiệu lực chuyển quyền sở hữu tài sản từ các
qui định khác nhau của pháp luật, Hiến kế Lập pháp, Số 30 (112), Tháng 12/2007,
tr. 50-53.
108. Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb.
Tư pháp, H. 2007.
9
109. Nguyễn Ngọc Khánh, Thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trên thực tế, Nghiên cứu
Lập pháp, số 02 tháng 02/2007, tr. 40-44.
110. Nguyễn Ngọc Khánh, Hợp đồng: thuật ngữ và khái niệm, Nhà nước và Pháp luật,
số 8 (220)/2006, tr. 38-43.
111. Nguyễn Ngọc Khánh, Những điểm mới cơ bản về hợp đồng trong Bộ luật Dân
sự 2005, Kiểm sát, số 02 tháng 01/2006, tr. 17-25.
112. Nguyễn Ngọc Khánh, Giao kết hợp đồng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
trong quyển “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam
hiện nay” (Nguyễn Như Phát và Lê Thu Thủy - Cb), Nxb. CAND, H. 2003, tr.
102-113.
113. Vũ Khiêu và Thành Duy, Đạo đức và Pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt
Nam, Nxb. KHXH, H. 2000.
114. Kohl, Benoit, Điều khoản chấm dứt và điều khoản duy trì, kéo dài hợp đồng, Kỷ
yếu hội thảo “Hợp đồng Thương mại Quốc tế”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp, H.
ngày 13, 14/12/2004, tr. 259-280.
115. Phạm Công Lạc, Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, Báo Pháp luật Việt Nam,
Số chuyên đề 01 tháng 11/2004, tr. 15.
116. Phạm Công Lạc, Ý chí trong giao dịch dân sự, Luật học, số 5/1998, tr. 6-9&24.
117. Phạm Công Lạc, Về “điều kiện” trong hợp đồng có điều kiện, Luật học, số
2/1998, tr. 29-32.
118. Lecuyer, Hervé & Christophe Caron, Sự phát triển của các chế định cơ bản trong
pháp luật dân sự, Kỷ yếu Hội thảo, Nhà Pháp luật Việt – Pháp, H. ngày 30/06 và
01/07/1998.
119. Lesguillons, Henry, Các điều khoản Hardship, Kỷ yếu Hội thảo Luật Thương
mại quốc tế, Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội, từ 13 – 14/12/2004, tr.
86 – 94.
120. Vũ Lê, Khu đất vàng chỉ một khách hàng đấu giá, http://www.vnexpress.net/
GL/Kinh-doanh/2008/08/3BA05140/, truy cập lúc 10:15’ ngày 15/12/2008.
121. Hoàng Xuân Liêm, Luật so sánh và vấn đề nhất thể hóa pháp luật, Nhà nước và
Pháp luật, Số 7/1998, tr. 57-63.
10
122. Hoàng Thế Liên (Cb), Bình luận BLDS Việt Nam (1995), tập 1, Nxb. CTQG, H.
1996.
123. Hoàng Thế Liên, Nguyễn Đức Giao, Nguyễn Xuân Anh và các tgk, Bình luận
khoa học Một số vấn đề cơ bản của Bộ luật Dân sự 1995, Nxb. CTQG, H. 1997.
124. Hoàng Thế Liên, Phạm Văn Lợi và các tgk, Bàn về cơ sở pháp lý của thương mại
điện tử ở Việt Nam, Viện NC Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp, H. 2000.
125. Phương Linh, Từ chuyện “Hợp đồng vô hiệu đến niềm tin vào pháp luật, Nghiên
cứu Lập pháp, số 4 2003/4, tr. 12-19.
126. Song Linh, “Zimbabwe lạm phát 2.000.000 %”, Vnexpress.net:
http://www.vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/Quoc-te/2008/06/3BA030CF/ , truy cập
ngày 15/3/2009.
127. L.Th.Hà - Tr.Cường - B.Chi, Khan hiếm khẩu trang y tế, Tuổi trẻ online,
http://www.tuoitre.com.vn/tianyon/Index.aspx?ArticleID=328908&ChannelID=3,
truy cập 29/07/2009.
128. Kinh Luân, Khởi công cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, Thời Báo Kinh Tế
Sài Gòn, http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/12445/, truy cập lúc
21:59’ ngày 23/11/2008.
129. Luật An ninh Quốc gia 2004.
130. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.
131. Luật Các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2004).
132. Luật Cạnh tranh 2004.
133. Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá 2007.
134. Luật Chuyển giao công nghệ 2006.
135. Luật Chứng khoán 2006.
136. Luật Công chứng 2006.
137. Luật Dầu khí 1993 (sửa đổi bổ sung năm 2000 và 2008).
138. Luật Doanh nghiệp 2005.
139. Luật Đấu thầu 2005.
11
140. Luật Đầu tư 2005.
141. Luật Đất đai 2003.
142. Luật Điện lực 2001.
143. Luật Giao dịch điện tử 2005.
144. Luật Giao thông đường thủy Nội địa 2004.
145. Luật Hàng không Dân dụng Việt Nam 2006.
146. Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006.
147. Luật Hợp đồng của nước CHND Trung Hoa, năm 1999 (Bản dịch, in trong Phụ
lục của Kỷ yếu hội thảo “Pháp luật về Hợp đồng”, do Ủy ban Pháp luật của Quốc
hội và Dự án Star – Việt Nam USAID tổ chức tại Hà Nội, ngày 29/4/2004).
148. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2001.
149. Luật Kinh doanh bất động sản 2006.
150. Luật Luật sư 2006.
151. Luật Nhà ở 2005.
152. Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
153. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ
bản (số 38/2009/QH12 ngày 19/6/2009).
154. Luật Thương mại 2005.
155. Luật Thương mại 1997.
156. Luật Xây dựng 2003.
157. Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ & Dương Anh Sơn, Luật Hợp đồng
Thương mại quốc tế, Nxb. ĐHQG, TP. HCM 2005.
158. Nguyễn Kim Lượng, Về áp dụng Điều 139 Bộ luật Dân sự (1995), Tòa án Nhân
dân, Số 6/2002, tr. 12, 13.
159. Tưởng Bằng Lượng, Khi nào giao dịch đặt cọc có hiệu lực pháp luật và khi nào
thì vô hiệu, Tòa án nhân dân, số 12/2002, tr. 1 – 3.
12
160. Tưởng Duy Lượng, Hướng xử lý việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua
nhà đất, nhưng nhờ người khác đứng tên hộ, Tòa án Nhân dân, Số 6 Tháng
3/2008, 17-20.
161. Tưởng Duy Lượng, Bình luận Một số vụ án dân sự và hôn nhân gia đình, Nxb.
CTQG, H. 2001.
162. Ngô Đức Mạnh, Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm thực thi các cam kết gia
nhập WTO, Nhà nước và Pháp luật, số 2 (226)/2007, tr. 18 - 23.
163. Matsumoto Tsuneo, Nghiên cứu về Luật Hợp đồng Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo
“Pháp luật hợp đồng”, do Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Việt Nam, tổ chức tại Hà
Nội, Ngày 29/04/2004.
164. Mazeaud, Denis & Hervé Lecuyer, Sự phát triển của pháp luật dân sự và thương
mại Pháp, Kỷ yếu Hội thảo do Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội,
ngày 23-24/9/1997.
165. Vũ Văn Mẫu, Pháp luật diễn giảng, quyển thứ nhất, tập 2, Đại học Luật khoa,
Sài Gòn 1975.
166. Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử, Quyển thứ hai, Đại học Luật
khoa, Sài gòn 1973.
167. Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam thông khảo, Nxb. Đại học Luật khoa, Sài Gòn
1971.
168. Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật - luợc khảo, Quyển II “Nghĩa vụ và khế ước”,
Phần thứ nhất: Nguồn gốc của nghĩa vụ, Nxb. Bộ QGGD, Sài Gòn 1963.
169. Vũ Văn Mẫu, Dân luật khái luận, Nxb. Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn 1958.
170. Mikazuki Akira, Lịch sử cấu trúc chế độ pháp luật của Nhật Bản sau khi bắt đầu
hiện đại hóa (năm 1868), Thông tin Khoa học Pháp lý, Số chuyên đề “Nghiên cứu
so sánh pháp luật về hợp đồng giữa Việt Nam và Nhật Bản”, số 2/2000, tr.5 - 33
171. Montesquieu, Charles-Louis de Secondat de La Brède et de, Tinh thần pháp luật,
Dg: Trần Thanh Đạm, Nxb. Giáo dục, H. 1996.
172. Morishima Akio, Nguyên lý của pháp luật hợp đồng và Bộ luật Dân sự Nhật
Bản, Thông tin Khoa học Pháp lý - Số chuyên đề “Nghiên cứu so sánh pháp luật
về hợp đồng giữa Việt Nam và Nhật Bản”, số 2/2000, tr. 47-57.
13
173. Một số khía cạnh pháp lý của Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, Thông tin Khoa
học Pháp lý, Chuyên đề số 3 + 4/2002.
174. Nguyễn Thị Mơ (Cb), Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện
tử, Nxb. LĐ-XH, H. 2006.
175. Nguyễn Mỹ, Nghệ sỹ nhiếp ảnh lão thành Mai Nam - Từng suýt “mắc vạ” vì
mẫu nude, Báo Thể thao & Văn hóa, http://www.thethaovanhoa.vn/327N2009
0708103629339T133/tung-suyt-mac-va-vi-mau-nude!.htm, truy cập 08/7/2009.
176. Hồng Ninh, Hoãn 30 chuyến bay vì bị ngừng nạp nhiên liệu,
http://vietnamnet.vn/kinhte/2008/04/776451/ (02/04/2008, 09:22' - GMT+7).
177. Phạm Hữu Nghị, Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) với vấn đề cải cách pháp luật
hợp đồng, Nhà nước và Pháp luật, số 4 (204)/2005, tr. 22-27.
178. Nghị định 71/2010/NĐ – CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ Qui định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở.
179. Nghị định 17/2010/NĐ – CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài
sản.
180. Nghị định 52/2008/NĐ-CP ngày 22/4/2008 của Chính phủ về quản lý kinh doanh
dịch vụ bảo vệ.
181. Nghị định số 153/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 của Chính phủ Qui định chi tiết
Luật Kinh doanh bất động sản.
182. Nghị định 151/2007/ NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về tổ chức hoạt
động của tổ hợp tác.
183. Nghị định 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu
tư xây dựng công trình.
184. Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/05/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ
gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.
185. Nghị định 78/2007/NĐ-CP ngày 11/5/2007 của Chính phủ về đầu tư theo hình
thức hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao, hợp đồng xây dựng –
chuyển giao – kinh doanh, hợp đồng xây dựng – chuyển giao.
14
186. Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo
đảm.
187. Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 6/9/2006 của Chính phủ Qui định chi tiết
Luật Nhà ở 2005 (được thay thế bằng Nghị 71/2010/NĐ-CP nêu trên).
188. Nghị định số 59/2006/NĐ-CP Ngày 12/06/2006 của Chính phủ qui định chi tiết
Luật Thương mại (2005) về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh và kinh doanh có điều kiện.
189. Nghị định số 57/2006/NĐ-CP Ngày 09/06/2006 của Chính phủ qui định chi tiết
một số điều của Luật Thương mại điện tử.
190. Nghị định 20/2006/NĐ-CP ngày 20/02/2006 của Chính phủ qui định chi tiết Luật
Thương mại về kinh doanh dịch vụ giám định thương mại.
191. Nghị định số 38/2005/NĐ-CP Ngày 18/03/2005 của Chính phủ qui định một số
biện pháp bảo đảm trật tự công cộng.
192. Nghị định số 05/2005/NĐ-CP Ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
193. Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai
2003.
194. Nghị quyết số 71/2006/NQ-QH11 ngày 29/11/2006 của Quốc hội khóa XI về
việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của
Nước CHXHCN Việt Nam và Phụ lục.
195. Nghị quyết 45/2005/NQ-QH11 ngày 14/6/2005 của Quốc hội khóa XI về việc thi
hành BLDS 2005.
196. Nghị quyết ngày 28/10/1995 của Quốc hội khóa IX về việc thi hành BLDS 1995.
197. Nghị quyết 23/2006/NQ-CP ngày 07/9/2006 của Chính phủ về một số giải pháp
nhằm đẩy nhanh tiến độ bán nhà thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê theo
qui định tại Nghị định 61-CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ.
198. Nghị quyết 01/2003/NQ - HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC về hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh
chấp dân sự và hôn nhân gia đình.
15
199. Nghị quyết 02/2004/NQ - HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC về hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự
và hôn nhân gia đình.
200. Phạm Duy Nghĩa, Luật Kinh tế - Chuyên khảo (chương trình sau đại học), Nxb.
Đại học Quốc gia, H. 2004.
201. Phạm Duy Nghĩa, Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong
pháp luật hợp đồng Việt Nam, trong quyển “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, Nguyễn Như Phát & Lê Thị Thu Thủy
(Cb), Nxb. CAND, H. 2003, tr. 18-24.
202. Phạm Duy Nghĩa, Tiếp nhận pháp luật nước ngoài - Thời cơ và thách thức mới
cho nghiên cứu lập pháp, Nghiên cứu Lập pháp, số 5/2002, tr. 50 - 57.
203. Phạm Duy Nghĩa (Cb), Tìm hiểu Pháp luật Hoa Kỳ trong điều kiện Việt Nam hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới, Nxb. CTQG, H. 2001.
204. Khánh Nguyên, “Các Phòng công chứng Hà Nội đều quá tải”- http://vietbao.vn
/Trang-ban-doc/Cac-phong-cong-chung-o-Ha-Noi-deu-qua-tai/75011757/513/,
(truy cập ngày 21/ 08/2008).
205. Nhà Pháp luật Việt – Pháp, Bộ luật Dân sự (Sửa đổi), Kỷ yếu Hội thảo, H. ngày
23, 24, 25/8/2004.
206. Nhà Pháp luật Việt – Pháp, Bộ luật Dân sự (Sửa đổi), Kỷ yếu Hội thảo, H. ngày
28, 29, 30/10/2002.
207. Nhà Pháp luật Việt – Pháp, Sự phát triển của pháp luật về hợp đồng, trong
quyển “Sự phát triển của pháp luật dân sự và thương mại Pháp”, Kỷ yếu hội thảo,
H. ngày 23, 24/9/1997.
208. Những qui định chung của Luật Hợp đồng ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Dg: Phạm
Thái Việt, Nxb. CTQG, H. 1993.
209. Nguyễn Tấn Pháp, Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự vô hiệu do không tuân thủ hình thức, Tòa án Nhân dân, Số 06/2002, 29-30.
210. Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13/12/2005.
211. Pháp lệnh Tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam số
42/2002/PL-UBTVQH10 ngày 11/6/2002.
16
212. Pháp lệnh Bảo vệ bí mật Nhà nước số 30/2002/PL-UBTVQH10 ngày
28/12/2000.
213. Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 13/1999/PL-UBTVQH10 ngày
27/4/1999.
214. Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989.
215. Nguyễn Như Phát, Minh Bạch hóa pháp luật và yêu cầu đặt ra đối với hệ thống
pháp luật trong quá trình hội nhập kinh tế, Nhà nước và Pháp luật, số 1
(201)/2005, tr. 16-20.
216. Nguyễn Như Phát, Điều kiện thương mại chung và nguyên tắc tự do khế ước,
Nhà nước và Pháp luật, trong quyển “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp
luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, Nguyễn Như Phát & Lê Thị Thu Thủy (Cb),
Nxb. CAND, H. 2003, tr. 5 - 17.
217. Hoàng Phê (Cb), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng 1996.
218. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) & Chương trình hỗ trợ
doanh nghiệp (DANIDA), Cẩm nang Hợp đồng thương mại, H. 2008.
219. Tào Hữu Phùng, Pháp luật kinh tế trong thời kỳ đổi mới: Thực trạng và hướng
hoàn thiện, Nghiên cứu Lập pháp, số 7/2002, tr. 55 - 60.
220. Đinh Thị Mai Phương, Thống nhất Luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, H.
2005.
221. Đinh Thị Mai Phương, Đổi mới pháp luật hợp đồng ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay - Những yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn, Nhà nước và Pháp luật, số 4
(204)/2005, tr. 49 - 53.
222. Đinh Thị Mai Phương, Một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về hợp đồng dân
sự Việt Nam, Thông tin Khoa học Pháp lý, Chuyên đề 11+12 /2001, tr. 158 – 173.
223. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật Dân sự Việt Nam,
Nxb. ĐHQG, Tp. HCM 2007.
224. Hoàng Thị Kim Quế, Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong hệ thống điều chỉnh xã hội, Nhà nước và Pháp luật, số 7 (135)/ 1999, tr. 9 – 19.
17
225. Nguyễn Hữu Quỳnh (Chủ nhiệm), Nguyễn Hữu Đắc (Trưởng ban biên tập) &
Tgk, Từ điển Luật học, Nxb.Từ điển Bách khoa, H.1999.
226. Rajski, Jerzy, Các điều khoản giới hạn và miễn trách nhiệm trong hợp đồng quốc
tế, Kỷ yếu hội thảo “Hợp đồng Thương mại Quốc tế”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp
tổ chức, H. ngày 13, 14/12/2004, tr. 158-165.
227. Renault – Brahinsky, Corinne, Đại cương về pháp luật hợp đồng, Dg: Trần Đức
Sơn, Nxb. VH-TT, H. 2002.
228. Ricci, Jean Claude, Nhập môn Luật học, Nxb. VH-TT, H. 2002.
229. Rousseau, Jean Jacques, Bàn về khế ước xã hội, Dg: Thanh Đạm, Nxb. Tp. Hồ
Chí Minh, 1992.
230. Schmidt, Johanna Thư bày tỏ ý định giao kết hợp đồng, Kỷ yếu hội thảo “Hợp
đồng Thương mại Quốc tế”, H. ngày 13, 14/12/2004, tr. 123-134.
231. Dương Anh Sơn, Bản chất của hợp đồng tặng cho, Tạp chí KHPL, số
4(47)/2008, tr. 11-9.
232. Dương Anh Sơn, Các qui định của Bộ luật Dân sự 2005 về chào hàng và chấp
nhận chào hàng – nhìn từ góc độ luật học so sánh, Khoa học Pháp lý, số 6/2006,
tr. 36-40.
233. STAR -Việt Nam, Bình luận về nội dung và trình tự sửa đổi Bộ luật Dân sự và
Luật Thương mại và hủy bỏ Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế, Tài liệu số 8 trong Kỷ
yếu Hội thảo “Pháp luật hợp đồng”, H. ngày 29/04/2004.
234. Suzuki Ken, Đặc điểm và lý luận cơ bản của Luật Hợp đồng thống nhất Trung
Quốc, Thông tin Khoa học Pháp lý, số 2/2000, tr. 115-124.
235. Lê Minh Tâm (cb), Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, H. 2007.
236. Quách Hữu Thái, Một số vướng mắc khi giải quyết các tranh chấp dân sự, Tòa
án Nhân dân, số 01, tháng 01/2008, tr. 22-27.
237. Hoàng Thị Thanh, Qui định “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân theo thủ
tục qui định về hình thức” – Những vướng mắc và kiến nghị, Tòa án Nhân dân, Số
9/1999, tr. 14 - 15.
18
238. Trần Hồng Thanh, Qui định về hình thức của giao dịch dân sự trong Dự thảo Bộ
luật Dân sự (sửa đổi), Kiểm sát, số 06 tháng 3/2005, tr. 15-17.
239. Đinh Văn Thanh, Đặc trưng pháp lý của hợp đồng dân sự, Luật học, số 4/1999,
tr. 19, 20&23.
240. Đinh Văn Thanh, Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, Luật học, số
Chuyên đề về Bộ luật Dân sự, 1996, tr. 52 - 55.
241. Đinh Văn Thanh & Phạm Công Lạc (Cb), Thuật ngữ Luật Dân sự, trong bộ Từ
điển Giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb. CAND, H. 1999.
242. Đinh Văn Thanh & Nguyễn Minh Tuấn (Cb), Luật Dân sự Việt Nam (Giáo
trình), tập 1, Nxb. CAND, H. 2006.
243. Đinh Văn Thanh & Nguyễn Minh Tuấn (Cb), Luật Dân sự Việt Nam (Giáo
trình), Tập 2, Nxb. CAND, H. 2006.
244. Hoàng Ngọc Thiết, Vận dụng bất khả kháng để miễn trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Luật học, số 6/1998, tr. 24-29.
245. Phạm Văn Thiệu, Về những qui định mới của Bộ luật Dân sự 2005, Tòa án Nhân
dân, số 23 tháng 12/2005, tr. 14 -22.
246. Lê Thị Bích Thọ, Tự do ý chí trong giao kết hợp đồng, trong quyển “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Như
Phát và Lê Thị Thu Thủy (Cb), Nxb. CAND, H. 2003, tr. 35-49.
247. Lê Thị Bích Thọ, Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng
kinh tế vô hiệu, Luận án Tiến sỹ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, H. 2002.
248. Lê Thị Bích Thọ, Hình thức của hợp đồng kinh tế và điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng, Tạp chí Luật học, số 02/2002, tr. 43-47.
249. Lê Thị Bích Thọ, Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng
kinh tế vô hiệu, Thông tin Khoa học Pháp lý, Số Chuyên đề, số tháng 5/2002.
250. Lê Minh Thông, Một số vấn đề pháp lý của quá trình toàn cầu hóa, Nghiên cứu
Lập pháp, số 1/2003, tr. 65 - 71.
19
251. Thông tư 09/2008/TT-BXD ngày 17/04/2008 của Bộ Xây dựng hướng dẫn điều
chỉnh giá và hợp đồng xây dựng do biến động giá nguyên liệu, nhiên liệu và vật tư
xây dựng.
252. Thông tư 15/2000/TT-BCA (C11) ngày 08/12/2000 của Bộ Công an hướng dẫn
về thủ tục, hồ sơ đăng ký, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
253. Phan Hương Thủy, Xử lý hợp đồng vô hiệu qua một vụ án, Nghiên cứu Lập pháp,
số 4/2003, tr. 72 - 75.
254. Lê Thị Thu Thủy (Cb), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ
chức tín dụng (chuyên khảo), Nxb. Tư pháp, H. 2006.
255. Anh Thư, Hà Nội sẽ khan rau trong vòng 1 tháng, http://www.vtv.vn/
VN/TrangChu/TinTuc/CKX/2008/11/14/195092/, 14/11/2008 10:46.
256. Phan Hữu Thư & Lê Thu Hà (Cb), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb. CAND, H.
2007.
257. Phan Hữu Thư (cb), Kỹ năng hành nghề luật sư, Tập 3 – Hợp đồng và tư vấn
pháp luật, Nxb. CAND, H. 2002.
258. Vũ Thư, Về nội dung của mệnh đề: “Viên chức nhà nước chỉ được làm những gì
mà pháp luật cho phép” và “Công dân được làm tất cả những gì pháp luật không
cấm”, Nhà nước và Pháp luật, số 10/2007, tr. 17-21 &50.
259. Nam Tiến, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Xây dựng Cảng hàng không quốc tế là
bước đột phá đối với Phú Quốc, http://www.chinhphu.vn, truy cập 24/11/2008.
260. Nguyễn Trung Tín, Mấy ý kiến về Phần thứ Bảy “Quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài” trong Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi, Nhà nước và Pháp luật, số 3
(203)/2005, tr. 24-32.
261. Tòa án Nhân dân Tối cao, Các Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm
phán Tòa án Nhân dân Tối cao năm 2006, H. 2008.
262. Tòa án Nhân dân Tối cao, Các Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm
phán Tòa án Nhân dân Tối cao năm 2005, H. 2008.
263. Tòa án Nhân dân Tối cao, Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và Phương
hướng nhiệm vụ công tác năm 2007 của ngành tòa án nhân dân, H. tháng
01/2007.
20
264. Tòa án Nhân dân Tối cao, Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán
Tòa án Nhân dân Tối cao, Quyển 1, Đặc san của Tạp chí Tòa án Nhân dân, H.
2004.
265. Tòa án Nhân dân Tối cao, Công văn số 177/2002/KHXX ngày 05/12/2002.
266. Bùi Ngọc Toàn, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam, Nhà nước và Pháp luật, số 04/2006, tr. 23-30.
267. Bảo Trâm, Tình trạng khan hiếm nước sạch ở Trung Quốc,
http://www.antd.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=55538&ChannelID=7, ngày
20/08/2009.
268. Trochu, Michel, Các điều khoản chào hàng cạnh tranh, điều khoản khách hàng
ưu đãi nhất và điều khoản từ chối đầu tiên trong các hợp đồng quốc tế, Kỷ yếu hội
thảo Hợp đồng thương mại quốc tế, Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức tại Hà Nội,
từ 13 – 14/12/2004, tr. 144-157.
269. Nguyễn Xuân Trọng, Tìm hiểu một số vấn đề pháp lý và thực tế của các giao
dịch liên quan đến đất đai ở Việt Nam, Nhà nước và Pháp luật, số 4 (156)/2001, tr.
47-56.
270. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) – Bên cạnh Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam, 50 Phán quyết Trọng tài Quốc tế chọn lọc, H. 2002.
271. Nguyễn Thanh Tú & Phan Huy Hồng, Pháp luật cạnh tranh và quyền tự do giao
kết hợp đồng của doanh nghiệp, Nhà nước và Pháp luật, số 03/2008, tr.34-45.
272. Đinh Trung Tụng, Bộ luật Dân sự 2005 đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
(bài phỏng vấn của Nguyễn Đức), Báo Pháp luật Việt Nam, chuyên đề 2, tháng
12/2005, tr. 12, 13.
273. Đinh Trung Tụng (Cb), Bình luận những nội dung mới của Bộ luật Dân sự 2005,
Nxb. Tư pháp, H. 2005.
274. Đinh Trung Tụng, Một số ý kiến về phương hướng sửa đổi Bộ luật Dân sự 1995,
Dân chủ và Pháp luật, số 7/2002, tr. 1-5.
275. Đinh Trung Tụng, Một số vấn đề về hợp đồng dân sự trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam, Thông tin Khoa học Pháp lý, Chuyên đề số tháng 11+12/2001, tr. 156 - 173.
21
276. Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam,
Nxb. Tư pháp, H. 2007.
277. Đào Trí Úc (Cb), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật, Nxb.
CTQG, H. 1995.
278. Đào Trí Úc, Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb. KHXH, H. 1993.
279. Đào Trí Úc, Nhà nước và Pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb.
KHXH, H. 1987.
280. Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Việt Nam và Star – VIETNAM USAID, Bài 3.
Dự kiến sửa đổi một số vấn đề cụ thể về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, Kỷ yếu
hội thảo “Pháp luật về hợp đồng”, H. ngày 29/04/2004.
281. Ủy ban Pháp luật của Quốc hội VN và Star – VIETNAM USAID, Pháp luật về
hợp đồng, Kỷ yếu Hội thảo, Nhà Pháp luật Việt – Pháp tổ chức, H. ngày
29/04/2004.
282. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Tuyển tập các văn bản pháp luật cơ
bản về Thương mại của Cộng hòa Pháp, Nxb. CTQG, H. 2005.
283. V.TR., Tin đồn ăn bưởi bị ung thư làm thiệt hại hàng trăm tỉ,
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=216359&ChannelID=1
1, Thứ Ba, 21/08/2007, 07:02 (GMT+7).
284. Vacaxum, Xaca & Tori Aritdumi, Bình Luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản,
Dg: Nguyễn Đức Giao, Lưu Tiến Dũng, Nxb. CTQG, H. 1995.
285. Nguyễn Văn Vân, Hợp đồng theo mẫu và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, Khoa học Pháp lý, số 04/2000, tr. 36-40.
286. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp, Một số vấn đề về Pháp luật
dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc (sách tái bản), Nxb. CTQG, H.
2008.
287. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, Nxb. TĐBK
& Nxb. Tư pháp, H. 2006.
288. Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý- Bộ Tư pháp, Chuyên đề: Tổng hợp ý kiến
đóng góp của ngành Tư pháp về Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Thông tin
Khoa học Pháp lý, số tháng 2/2005.
22
289. Viện Sử học Việt Nam, Bộ Quốc triều Hình luật, Nxb. Khoa học Pháp lý, H.
1991.
290. Nguyễn Hữu Vui & Nguyễn Ngọc Long (Cb), Giáo trình triết học Mác – Lênin
(Dùng trong các trường Đại học, cao đẳng), Tái bản lần thứ hai, Nxb. CTQG, H.
2005.
291. Wiez, W. Wolodkie và M. Zabocka, Luật La Mã, Dg: Lê Nết, Trường Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh, 1999.
292. Witz, Claude, Bộ luật Dân sự Pháp và pháp luật Châu Âu, Kỷ yếu hội thảo “200
năm Bộ luật Dân sự Pháp”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp, H. ngày 03, 04,
05/11/2004, tr. 37-47.
293. Thanh Xuân, Vì sao giá vàng tăng đột biến, Việt Báo, tại địa chỉ
http://vietbao.vn/Kinh-te/Vi-sao-gia-vang-tang-dot-bien/45180349/87/, truy cập
ngày 15/3/2009.
294. Nguyễn Như Ý (Cb), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, H. 1998.
295. Hà Yên, Vinapco ngừng cung cấp xăng để tự vệ?,
http://vietnamnet.vn/kinhte/2008//04/776462, (02/04/2008, 23:36'-GMT+7).
TÀI LIỆU BẰNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI
296. Antonio Pinto Monteiro & Júlio Gomes, Rebus Sic Stantibus – Hardship clauses
in Portuguese Law, European Review of Private Law, 3 (1998), tr. 319 – 32.
297. Atiyah, Patrick S., Promises, Morals, And Law, Oxford University Press,
Oxford, 1981.
298. Attree, Rebecca, A specially commissioned report - International Commercial
Agreements, Thorogood, London 2002.
299. Black, Henry Campbell & others, Black’s Law Dictionary (with
pronunciations), 6th ed., West Publishing Co., St. Paul, Minn. 1990.
300. Bogdan, Michael (ed.), Swedish Law in The New Millennium, Norstedts Juridik-
Elanders, Gobtab, Stockholm 2006.
301. Brain, Robert D., Contract – Quick Review, 6th ed., West Group, CA 1999.
23
302. Brownsword, Roger, Contract Law – Themes for the Twenty – first Century, 2nd
ed., OUP, Oxford 2006.
303. Buckley, F. H., Just Exchange – A Theory of Contract, Routledge, Milton Park
2005. 304. Burrows, Andrew, Understanding the Law of Obligation- Essays on Contract,
Tort and Restitution, Hart Publishing, Oxford, 1998.
305. Cartwright, John & Martijn Hesselink (Editers), Precontractual Liability in
European Private Law, CUP, Cambridge 2008.
306. Claps, Andrew C., West’s Encyclopedia of American Law, 2nd Edition, 2nd
Edition, Volumm 13, Dictionary & Indexes, Thomson Gale, MI, 2005.
307. Collin, P. H., Dictionary of Law - Fourth edition, Bloomsbury Publishing Plc,
London 2004.
308. Connor, John F. O’, Good faith in International Law, Dartmouth, MA 1991.
309. Craswell, Richard, Contract Law: General Theories, Vol. 5, in Budewijn
Bouckeert & Gerrrit De Geest, Encyclopedia of Law and Economic, Edward
Elgar, MA 2000.
310. Criscuoli, Giovanni & David Pugsley, The Italian Law of Contract, Jovene,
Napoli 1991.
311. Dawson, John P., William Burnett Harvey & Stanley D. Henderson, Contracts –
Case and Comment, 6th ed., The Foundation Press, Inc., Mineola, NY 1990.
312. Dobson, Paul, Charlesworth’ s Business Law, 6th ed., Sweet & Maxwell, London
1997.
313. Furmston, M.P., Law of Contract, 10th ed., Butterworths, London 1981.
314. Gordley, James, The Enforceability of Promise in European Contract Law, CUP,
Cambrige 2001.
315. Green, Ruht Sefton & others, Mistake, Fraud and Duties to Inform in European
Contract Law (The Common Core of European Private law), CUP, Cambridge
2005.
24
316. Kaser, Max, Roman Private Law, 4th ed., University of South Africa, Pretoria
1993.
317. Kendrick, Mc E., Contract Law, 4th ed., Macmillan, London 2000.
318. Kessedjian, Catherine, Competing Approaches to Force Majeure and Hardship,
International Review of Law and Economics 25 (2005), pp. 415– 33.
319. Kimel, Dori, From Promise to Contract – Towards a Liberal Theory of
Contract, Hart Publishing, Oxford 2003.
320. Knapp, Charles L. & Nathan M. Crystal, Problems in Contract Law – Case and
Materials, 2nd ed., Little Brown & Company, Boston 1987.
321. Kotz, Hein & Axel Flessner, European Contract Law, Vol 1 – Formation,
Validity and Content of Contract; Contract and Third Parties, Clarendon, Oxford
1997.
322. Lando, Ole, A Vision of a Future World Contract Law: Impact of European and
Unidroit Contract Principles,UCC Law Journal, Fall 2004.
323. Lewinson, Kim, The Interpretation of Contract, 4th ed., Sweet & Maxwell,
London 2007.
324. MacMillan C.A. & R. Stone, Elements of the Law of Contract, University of
London, London 2004.
325. Makovsky A.L. and S.A. Khokhlov (edited and translated by Peter B. Maggs &
A.N. Zhiltsov), The Civil Code of the Russian Federal, Part 1 & 2, Introductory
Commentary, ME Sharpe Inc., 1997.
326. Mallor Jane P., A. James Barnes & others, Business Law and the Regulatory
Environment – Concepts and Case, 7th ed., Mc Graw – Hill/Irwin, NY 2001.
327. Mann, Richard A. & Barry S. Roberts, Business Law and the Regulation of
Business, 8th ed., Thomson, South – Western West 2005.
328. Markesinis, Basil & others, The German Law of Contract – A Comparative
Treaties, 2nd ed., Hart, Oxford 2006.
329. Martin, Elizabeth A., A Oxford Dictionary of Law - Fifth edition, OUP, Oxford
2003.
25
330. Merryman, John Henry, The Civil Law Tradition - An Intronduction to the Legal
Systems of Western Europe and Latin America, 2nd ed., Stanford University Press,
Stanford 1985.
331. Mitchell, Catherine, Interpretation of Contract – Current Controversies,
Roudtledge – Cavendish, New York 2007.
332. North, Peter & J. J. Fawcett, Private International Law, 3rd ed., OUP, Oxford
2004.
333. Nottage, Luke, Changing Contract Lenses: Unexpected SuperveningEvents in
English, New Zealand, U.S., Japanese, and International Sales Law and Practice,
Indiana Journal of Global Legal Studies, Indiana University - School of Law, Vol.
14#2 (2007), pp. 385 – 418.
334. Oran, Daniel & Mark Tosti, Oran’s Dictionary of The Law - 3rd Edition, West
Legal Studies, Canada 2000.
335. Oughton, David & Martin Davis, Sourcebook on Contract Law, 2nd ed.,
Cavendish, London 2000.
336. Reinmann, Mathias & Reinhard Zimmermann, The Oxford Handbook of
Comparative Law, OUP, Oxford 2006.
337. Ribeiro, Robert, A Specially Commissioned Report - Commercial Litigation:
Damages and Other Remedies for Breach of Contract, a Specially Commissioned
Report, Thorogood, London 2005.
338. Robert, William J. & others, Principles of Business Law, 8th ed., Prentice Hall,
New Jersey 1979.
339. Sammuel, Geoffrey, Law of Obligations and legal Remedies, 2nd ed., Cavendish,
London 2001.
340. Slawson, David, Binding Promises – The late 20th Century Reform of Contract
Law, PUP, New Jersey 1996.
341. Stone, Richard, The Modern Law of Contract, 5th ed., Cavendish, London 2002.
342. Sweeney, Brendan & Jennifer O’Reilly, Law in Commerce, Butterworths,
Sydney 2001.
26
343. The Principles of European Contract, http://www.jus.uio.no/lm/eu.
contract.principles.part1.1995/, accessed on 25 Oct. 2007.
344. Tobin, Philip Chase, 25 Doctrines of Law You Should Know, Algora Publishing,
New York 2007
345. Unfair Contract Terms Act of England – UCTA, 1977.
346. Uniform Commercial Code of United State of America (UCC).
347. Zweigert, Konrard & Hein Kotz, An Introduction to Comparative Law
(Translater from German: Tony Weir), 3rd ed., Clarendon, Oxford 1998.
27
PHẦN PHỤ LỤC
TÓM TẮT
CÁC VỤ VIỆC TRANH CHẤP ĐƯỢC TRÌNH BÀY TRONG LUẬN ÁN
Phụ lục số 01
Quyết định số 43/2006/DS-GĐT ngày 08/11/2006 của HĐTP – TAND TC
về Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”27
Nguyên đơn: cụ Trịnh Thị Lộc (sinh 1915) với bị đơn là bà Đỗ Xuân Nhị.
Nội dung tóm tắt: nguyên đơn (cụ L – sinh 1915, sống độc thân) thỏa thuận bán cho
ông Bổn mảnh đất 10.002 m2 tại huyện Nhà Bè, với giá 2.31 tỷ đồng. Sau đó, được phép của
nguyên đơn, ông Bổn đã chuyển nhượng lại mảnh đất trên cho ông Tài với giá 3.2 tỷ đồng.
Sau khi làm hợp đồng nói trên, ông Tài đã dùng mảnh đất trên thế chấp cho NH HH để vay số
tiền 3.6 tỷ đồng, và có nhờ nguyên đơn (cụ L) ký tên cam kết bảo lãnh bằng mảnh đất nói
trên, vì mảnh đất này vẫn còn đứng tên cụ L. Sau đó, ông Tài không có khả năng trả vốn và
lãi cho ngân hàng với số tiền lên đến hơn 4.5 tỷ đồng. Vì thế, bị đơn (bà Nhị) đã đồng ý mua
nợ của ông Tài tại Ngân hàng HH, theo đó bà sẽ thanh toán toàn bộ nợ của ông Tài cho Ngân
hàng HH, ngân hàng HH trả toàn bộ hồ sơ đất và văn tự bảo lãnh của cụ L để bị đơn được hợp
thức hóa quyền sử dụng đối với mảnh đất nói trên theo luật định.
Để hợp thức hóa thương vụ này, ngày 27/11/1997, bị đơn đã yêu cầu cụ L lập hợp
đồng tại Phòng Tư pháp huyện Nhà Bè để chuyển nhượng cho bị đơn mảnh đất nói trên. Hợp
đồng này có chữ ký xác nhận của ông Trưởng phòng Tư pháp và có đóng dấu của Phòng Tư
pháp huyện Nhà Bè. Sau đó, do khoản tiền mà các bên còn thiếu cụ L chưa được thanh toán
đủ, nên cụ L yêu cầu hủy hợp đồng vì cho rằng mình bị lừa dối và bị ép buộc phải ký văn bản
bảo lãnh cho ông Tài; nếu cụ không chịu ký tên bảo lãnh cho ông tài thì sẽ cụ bị mất đất và sẽ
không được thanh toán tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Đây là vụ án phức tạp kéo dài nhiều năm, được xét xử qua nhiều cấp, với nhiều phán
quyết trái ngược nhau liên quan tới hình thức hợp đồng.
Tại án sơ thẩm số 2397/DSST ngày 05/11/2004, TAND Tp. Hồ Chí Minh đã bác yêu
cầu của nguyên đơn và công nhận bị đơn có quyền sử dụng hợp pháp mảnh đất nói trên. Bản
án này bị kháng cáo. Tại Bản án số 134/DSPT ngày 27/4/2005, Tòa Phúc thẩm – TANDTC
27TANDTC, Các Quyết định GĐT của HĐTP – TANDTC năm 2006, Hà Nội 2008 , tr. 460 – 8. Vụ việc này đã được xử sơ thẩm lại trong Bản án số 445/2008/DSST ngày 04/4/2008 của TAND Tp. Hồ Chí Minh về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
28
tại Tp. Hồ Chí Minh xử y án sơ thẩm, theo hướng công nhận hợp đồng nói trên là có hiệu lực.
Bản án phúc thẩm bị Chánh án TANDTC kháng nghị. Tại Quyết định số 43/2006/DS-GĐT
của HĐTP nhận định cụ L (nguyên đơn) đã bị thiệt hại quyền lợi chính đáng và thỏa thuận
chuyển nhượng nợ của ông Tài đối với Ngân hàng sang cho bị đơn là “thỏa thuận bốn bên” để
cụ L được nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng thực chất “cụ L không được
nhận tiền chuyển nhượng đất và tiền do bà Nhị trả cho Ngân hàng…”. Cũng theo HĐTP, hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập tại Phòng Tư pháp Nhà Bè là không có giá trị
pháp lý, vì “theo các Điều 24, Điều 26 Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996 … thì các hợp đồng
chuyển nhượng quyền sở hữu bất động sản phải được chứng nhận tại Phòng Công chứng Nhà
nước hoặc UBND huyện nơi có bất động sản đó. Trong khi đó, Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng 10.002 m2 đất (lô đất này thuộc địa hạt quản lý của UBND Quận 7, Tp. Hồ
Chí Minh từ ngày 1/4/1997), ngày 27/11/1997 giữa cụ L và bà Nhị lại do ông Vương Huy
Ngh, Trưởng phòng Tư pháp huyện Nhà Bè, Tp. Hồ Chí Minh ký tên, đóng dấu Phòng Tư
pháp huyện Nhà Bè để chứng thực là không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.”
Bởi vậy, HĐTP đã hủy án phúc thẩm và giao về TAND Tp. Hồ Chí Minh xử lại theo trình tự
luật định.
Tại bản án số 445/2008/DSST ngày 04/4/20008 của TAND Tp. Hồ Chí Minh “công
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký vào ngày 27/11/1997 giữa bà Trịnh
Thị L. (bên chuyển nhượng) và bà Đỗ Thị Xuân Nh (bên nhận chuyển nhượng) và hai bên
phải tiếp tục thực hiện hợp đồng…” với lý do “hợp đồng đã thể hiện ý chí tự nguyện của các
bên, kéo dài từ 1997 và là hợp đồng có hiệu lực đối với các bên ký kết. Hiện nay, các điều
kiện công nhận hợp đồng giữa hai bên đã đầy đủ: bà Nhị đã thanh toán 98,43% giá trị của
hợp đồng…”; đồng thời tách quan hệ tranh chấp giữa bà Nhị với ông Tài để giải quyết bằng
vụ án khác theo thủ tục chung khi có yêu cầu.
Phụ lục số 02
Bản án số 195/2007/KDTM-PT ngày 09/10/2007
của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội về “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm”
Nguyên đơn là Công ty Vật tư vận tải và xây dựng công trình giao thông với bị đơn là
Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông.
Nội dung tóm tắt: Ngày 20/12/2004, nguyên đơn có ký hợp đồng với bị đơn để mua
bảo hiểm tài sản cho 72 chiếc xe máy hiệu STAR. Bị đơn đã cấp cho nguyên đơn Đơn bảo
hiểm hàng hóa vận chuyển số 04/01/KD2/91130/0011. Nội dung: bị đơn đã đồng ý nhận bảo
hiểm cho lô hàng của nguyên đơn vận chuyển là 72 chiếc xe hiệu STAR nguyên chiếc 100%,
với quãng đường vận chuyển từ kho VMEP Đồng Nai đến kho VMEP Hà Tây. Số tiền được
29
bảo hiểm là 916.363.656 đồng. Điều kiện bảo hiểm theo quy tắc bảo hiểm hàng hoá vận
chuyển trong lãnh thổ Việt Nam và không bảo hiểm cho mọi rủi ro xảy ra trước 11h00 ngày
20/12/2004. Tỷ lệ bảo hiểm là 0,1% đã bao gồm VAT với số tiền phải nộp là 916.000 đồng.
Nguyên đơn xác định đơn bảo hiểm đã được bị đơn chấp nhận trước 11h00’ ngày
20.12.2004.
Phía bị đơn cho rằng: Theo báo cáo của nhân viên công ty, khoảng 11h10’, bị đơn mới
nhận được điện thoại của nguyên đơn xin mua bảo hiểm. Thời gian bị đơn giao đơn bảo hiểm
cho nguyên đơn là khoảng 11h30 phút. Lúc này, lô xe 72 chiếc STAR đã phát cháy trong Bình
Định. Như vậy phía nguyên đơn có dấu hiệu trục lợi bảo hiểm. Ngoài lời trình bày trên, phía
bị đơn cũng xác định không có tài liệu nào khác để chứng minh về thời điểm các bên giao kết
hợp đồng.
Cùng ngày, trên đường vận chuyển đến địa phận xã Mỹ Trinh, huyện Phù Mỹ, tỉnh
Bình Định, số hàng hóa 72 chiếc xe máy đã bị cháy. Theo các chứng cứ mà nguyên đơn xuất
trình thì sự kiện cháy xe chở hàng và cháy cả 72 chiếc máy nói trên xảy ra sau 11h cùng ngày
20/12/2004. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường trị giá lô hàng đã được bảo hiểm là
916.363.656 đồng, nhưng bị đơn không đồng ý, với các lý do: Đơn bảo hiểm được giao kết
vào 11h ngày 20/12/2004. Tại thời điểm này tài sản được bảo hiểm không còn tồn tại vì đã
cháy trước 11h ngày 20/12/2004.
Tại bản án số 21/2007/KDTM-ST ngày 05/3/2007 của TAND Tp. Hà Nội đã quyết
định: Đơn bảo hiểm hàng hóa vận chuyển số 04/01/KD2/91139/0011 ngày 20/12/2004 có
hiệu lực; Buộc bị đơn chi trả cho nguyên đơn số tiền bảo hiểm là 916.363.656 đồng và
233.580.000 đồng tiền lãi, vì theo theo nhận định của tòa cấp sơ thẩm thì Đơn bảo hiểm ngày
20/12/2004 có nội dung thể hiện hợp đồng được giao kết lúc 11h00: “Theo quy trình nêu trên
thì thời điểm bị đơn ký đóng dấu chấp nhận vào đơn có nội dung yêu cầu của nguyên đơn
chính là thời điểm giao kết hợp đồng. Do đó, thấy cần dựa trên cơ sở điều kiện thời gian bảo
hiểm tại đơn yêu cầu để xác định thời điểm giao kết hợp đồng là 11h00’ ngày 20/12/2004”;
còn thời điểm xảy ra vụ cháy là 11h3’ và “có đủ cơ sở để khẳng định 72 chiếc xe máy STAR
được vận chuyển trên ô tô biển kiểm soát 29S-1059 xẩy ra cháy sau 11h00’ ngày 20/1/.2004”.
Do đó, bị đơn có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng ngày 20/12/2004.
Tuy nhiên bản án sơ thẩm này đã bị Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội xử hủy vì
chưa đủ các chứng cứ cần thiết để có thể đưa ra một phán quyết như vậy. Tuy không nói rõ là
hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực hay chưa, nhưng quan điểm của cấp phúc thẩm dường như
cũng công nhận hợp đồng bảo hiểm này là đã có hiệu lực. Bản án phúc thẩm không đưa ra nào
lập luận nào phản bác việc cấp sơ thẩm xác định thời điểm có hiệu lực của hợp bảo hiểm là
30
11h ngày 20/12/2004 là đúng hay sai. Tòa cấp phúc thẩm chỉ băn khoăn về thời điểm xảy ra
sự kiện bảo hiểm: “Đặc biệt xác định thời điểm cháy là một chứng cứ quan trọng để quyết
định đường lối xét xử vụ kiện. Do đó cần phải có thực nghiệm điều tra để xác định: từ khi lái
xe (ông Nhân) và chủ quán cơm (ông Phương) bắt đầu phát hiện thấy cháy, rồi ông Phương
chạy vào nơi để điện thoại để báo cháy là thời gian bao lâu ? (theo tài liệu điều tra thì tin ban
đầu báo cháy được gọi lúc 11 giờ 3 phút 6 giây”. Từ đó cấp phúc thẩm yêu cầu cấp sơ thẩm
khi xử lại vụ án cần chứng minh được thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Phụ lục số 03
Quyết định GĐT số 08/KDTM-GĐT ngày 08/12/2005 của HĐTP – TANDTC
về vụ án “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ bảo trì trạm biến áp”
Nguyên đơn là Công ty TNHH thương mại - xây dựng, bảo trì, dịch vụ kỹ thuật điện
Sài Gòn (sau đây viết tắt là Công ty SEECOM), với bị đơn là Công ty phát triển khu công
nghiệp Long Bình (sau đây viết tắt là Công ty LOTECO).
Nội dung tóm tắt: Trong vụ án này, các bên tranh chấp về 3 hợp đồng lắp đặt đường
dây tải diện và trạm biến áp và một hợp đồng mua bán 04 đồng hồ đo điện vạn năng. Ở đây,
chúng ta chỉ khảo cứu khía cạnh pháp lý của hợp đồng mua bán 04 đồng hồ đo điện vạn năng.
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ngày 22/4/2003, Công ty SEECOM có bản fax
chào hàng 04 đồng hồ đo điện vạn năng cho Công ty LOTECO, tổng giá trị theo đơn đặt hàng
là 6.006 USD tương đương 92.942.850 VNĐ. Cùng ngày, Tổng Giám đốc Công ty LOTECO
là ông KAZUMASA FUJITA ký chấp nhận trực tiếp vào “giấy chào hàng” (?) của bên bán
(Bản fax của Công ty SEECOM ).
Theo phía SEECOM, hai bên đã giao nhận 04 đồng hồ đo điện vào ngày 22/4/2003.
Ngày 26/6/2003 Công ty LOTECO có văn bản gửi Công ty SEECOM về việc thanh toán nợ
tồn đọng của các hợp đồng. Trong đó có nêu việc báo giá đối với 04 đồng hồ đo điện vạn
năng của Công ty SEECOM là quá cao so với thị trường và Công ty LOTECO đã tính lại giá
thấp hơn so với giá ban đầu.
Ngoài ra, LOTECO không có khiếu nại gì khác. Do Công ty LOTECO vi phạm nghĩa
vụ thanh toán số tiền còn lại, nên ngày 6/6/2004 Công ty SEECOM có đơn khởi kiện đến
TAND thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu Công ty LOTECO phải thanh toán khoản tiền mua
đồng hồ đo điện vạn năng là: 42.942.850 đồng, và tiền phạt quá hạn thanh toán cùng các thiệt
hại kinh tế khác. Phía LOTECO không thừa nhận việc tổng giám đốc ký tên vào bản fax là
giao kết hợp đồng, mà chỉ thừa nhận đó là đề nghị giao kết hợp đồng. Việc trả tiền nói trên
không phải là thanh toán 50 triệu đồng cho 04 đồng hồ đo điện vạn năng, mà là thanh toán
31
cho các hợp đồng trước đó, nhưng phía Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã tự ý hạch toán
số tiền 50 triệu đồng trong 100 triệu đồng để chi thanh toán cho 04 đồng hồ, chứ bản chất của
khoản tiền nói trên không phải là thanh toán cho 04 đồng hồ.
Tại bản án kinh tế sơ thẩm số 239/KTST ngày 21/9/2004, TAND thành phố Hồ Chí
Minh đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu của Công ty SEECOM: Công ty phát triển khu công
nghiệp Long Bình (LOTECO) có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH thương mại - xây
dựng - vận hành - bảo trì - dịch vụ kỹ thuật điện Sài Gòn (SEECOM) số tiền còn lại do chưa
thanh toán tiền 04 đồng hồ đo điện vạn năng: 42.942.850 đồng.
Ngày 23/9/2004, Công ty LOTECO có đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định
của bản án kinh tế sơ thẩm nêu trên (trừ hợp đồng số 9-2003/SEECOM-HĐKT). Tại bản án
kinh tế phúc thẩm số 03/KTPT ngày 17/01/2005, Toà phúc thẩm TAND tối cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh xác định fax chào hàng của SEECOM có chữ ký chấp nhận chào hàng của
LOTECO không phải là hợp đồng mà chỉ là đề nghị giao kết hợp đồng, nên đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của LOTECO, sửa bản án kinh tế sơ thẩm như sau:
Công ty SEECOM phải nhận lại 04 đồng hồ đo điện vạn năng (Power -Monitor Unit) như ghi
trong biên bản giao nhận hàng hoá ngày 22/4/2003 do LOTECO giao trả và có trách nhiệm
hoàn cho LOTECO số tiền 50.000.000 đồng.
Bản án của cấp phúc thẩm đã bị Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bởi
Quyết định kháng nghị số 04/2005/KT-TK ngày 15/8/2005, với lý do Toà án cấp phúc thẩm
đã nhận định không đúng về việc xác lập quan hệ hợp đồng mua bán đối với 04 đồng hồ đo
điện vạn năng qua bản fax và đề nghị HĐTP - TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm theo
hướng huỷ một phần bản án kinh tế phúc thẩm nêu trên.
Cấp giám đốc thẩm xác định việc mua bán 04 đồng hồ đo điện vạn năng vào ngày
22/4/2003 giữa LOTECO với SEECOM có giá trị pháp lý vì việc tổng giám đốc của
LOTECO ký tên vào bản fax của SEECOM đã thể hiện là đã giao kết hợp đồng. Toà án cấp
phúc thẩm nhận định đây không phải hợp đồng viết, chỉ là phiếu đặt mua hàng và không đóng
dấu của Công ty, nên mới chỉ là đề nghị giao kết hợp đồng chứ chưa phải là hợp đồng, để
buộc Công ty SEECOM nhận lại 04 đồng hồ đo điện vạn năng; trong khi chưa kiểm tra đối
chiếu với các quy định tại Điều 11 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Điều 51, Điều 55 Luật
thương mại, là chưa đúng pháp luật. Bởi vậy, HĐTP đã tuyên huỷ bản án kinh tế phúc thẩm
số 03/KTPT ngày 17/01/2005 của Toà phúc thẩm TAND tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
và giữ nguyên bản án kinh tế sơ thẩm số 239/KTST ngày 21/9/2004 của TAND Thành phố
Hồ Chí Minh.
32
Phụ lục số 04
Quyết định GĐT Số: 23/2008/DS-GĐT ngày 28/8/2008 của HĐTP - TANDTC
Về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Nguyên đơn là Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, với bị đơn là bà Ngô Thị Thu Hoa.
Nội dung tóm tắt: Đầu tháng 10/1994, nguyên đơn nhận chuyển nhượng lô đất 2000
m2 của Công ty Xây dựng và Phát triển nhà quận 4 (sau đây gọi tắt là Công ty) với giá 390
lượng vàng (Hợp đồng không ghi ngày tháng, chỉ ghi năm 1994). Nguyên đơn đã đóng tiền
đợt 1 cho công ty là 240 lượng vàng, còn thiếu 150 lượng và nguyên đơn đã chuyển nhượng
lại lô đất này cho bị đơn với giá 540 lượng vàng (chênh lệch 150 lượng so với giá của Công
ty).
Theo sự tự thỏa thuận của hai bên, ngày 10/10/1994 bị đơn đã giao lại cho bà 240
lượng vàng để thanh toán số vàng mà bà đã giao đợt 1 cho Công ty. Ngày 15/10/1994 nguyên
đơn có đơn gửi Công ty xin đổi tên của nguyên đơn trong hợp đồng chuyển nhượng đất sang
tên ông Hồ Văn Thuận (chồng của bị đơn). Cùng ngày, Công ty đã ký “hợp đồng chuyển
nhượng nhà đất” số 180/HĐCN với bên mua đứng tên ông Hồ Văn Thuận, nội dung tương tự
như hợp đồng đã ký với nguyên đơn (bà Hành); nguyên đơn ký thay ông Thuận ở mục đại
diện bên mua. Hợp đồng này có hiệu lực từ ngày 10/10/1994. Ông Thuận đã được công ty tạm
giao đất ngày 29/8/2005. Sau nhiều lần yêu cầu bị đơn trả số vàng còn thiếu, nhưng bị đơn lẩn
tránh, không chịu thanh toán, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết.
Bản án số 194/2007/DS-ST ngày 30/01/2007, TAND thành phố Hồ Chí Minh quyết
định: hợp đồng giữa ông Thuận giao kết với Công ty ngày 15/10/1994 (có hiệu lực từ
10/10/1994) là hợp đồng vô hiệu, nguyên đơn trả lại cho bị đơn số vàng đã nhận; ông Thuận
trả lại phần đất đã được Công ty tạm giao để nguyên đơn được tiếp tục thực hiện hợp đồng
với công ty. Bị đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm. Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Tp. Hồ Chí
Minh xử phúc thẩm tại Bản án số 122/2007/DSPT ngày 24/4/2007: tuyên hủy hợp đồng số
180/HĐCN giữa ông Thuận (do bà Hạnh ký thay) với Công ty; hủy tờ Đơn xin đổi tên chuyển
nhượng điền ngày 15/10/1994 của bà Hạnh; các vấn đề khác giải quyết như phán quyết của
cấp sơ thẩm.
Quyết định giám đốc thẩm số 23/2008/DS-GĐT ngày 28 tháng 8 năm 2008, HĐTP -
TANDTC đã phán xử: Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 122/2007/DSPT ngày 24/4/2007 của
Toà phúc thẩm TANDTC tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số
194/2007/DS-ST ngày 30/01/2007 của TAND Tp. Hồ Chí Minh về vụ án dân sự tranh chấp
33
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh với
bị đơn là bà Ngô Thị Thu Hoa.
Theo tòa cấp giám đốc thẩm, “Hợp đồng sang nhượng nhà đất giữa Công ty với bà
Hạnh là hợp pháp, nhưng bà Hạnh đã tự nguyện chấm dứt hợp đồng và được Công ty đồng ý,
nên lô đất 2000m2 vẫn thuộc quyền sử dụng của Công ty”. Về hợp đồng (bà Hạnh ký thay ông
Thuận), cấp giám đốc thẩm cho rằng, “tuy không có văn bản về việc ông Thuận ủy quyền cho
bà Hạnh ký thay tại hợp đồng nêu trên, nhưng bà Hạnh là người đóng dùm vàng cho Công ty
để ông Thuận nhận chuyển nhượng nhà đất, ông Thuận không phản đối việc bà Hạnh ký thay
và vẫn thực hiện hợp đồng sang nhượng nhà đất với Công ty (ông Thuận được Công ty tạm
giao đất vào ngày 29/8/2005), nên việc bà Hạnh ký thay ông Thuận tại hợp đồng sang
nhượng đất với Công ty không vi phạm Điều 154, Điều 155 Bộ luật dân sự có hiệu lực từ
ngày 01/7/1996”. Về số tiền chênh lệch, theo cấp giám đốc thẩm nhân định: “bà Hạnh chưa
có quyền sử dụng đất, còn vợ chồng ông Thuận không thực hiện thỏa thuận miệng về việc trả
số tiền chênh lệch cho bà Hạnh; do đó, cả hai bên đều có lỗi, nên số vàng chênh lệch (150
lượng) phải được chia đôi, mỗi bên chịu 1/2”.
Bởi vậy, tòa giám đốc thẩm phán xử: công nhận hiệu lực của hợp đồng số 180/HĐCN
giữa ông Thuận (do bà Hạnh ký thay) với Công ty; buộc bị đơn tiếp tục thanh toán cho
nguyên đơn khoản chênh lệch 75 lượng vàng.
Phụ lục số 05
Bản án số 14/GĐT ngày 26/01/1999 của Tòa Dân sự TANDTC
về “hợp đồng tặng cho nhà đất”
Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Dung với bị đơn là ông Nguyễn Đại Ý.
Nội dung tóm tắt: Năm 1979, cụ Tặng có làm văn bản có đầy đủ chữ ký của hai bên là
cụ Tặng và ông Ý với sự chứng kiến của bà Dung (con gái cụ Tặng) để chuyển nhượng 2 căn
nhà 7 gian diện tích 325 m2 cho bị đơn, với điều kiện là bị đơn phải chăm sóc nuôi dưỡng cụ;
khi cụ chết thì mai táng cụ, chăm lo giỗ tết và cúng giỗ cho cụ và ông bà của cụ. Cụ Tặng đã
giao nhà; bị đơn đã nhận và hoàn tất thủ tục quyền sở hữu nhà vào năm 1994. Sau khi nhận
nhà, bị đơn đã sửa chữa, làm lại thành nhà mới (4 gian lợp ngói và hai chái bếp) và giao nhà
cho con tên là Dương ở để chăm sóc vợ chồng cụ Tặng. Năm 1986, cụ ông chết, Dương lo
mai táng, cúng giỗ đầy đủ. Năm 1993, Dương vào Nam sinh sống, không có ai chăm sóc cụ
bà. Vì thế, nguyên đơn (bà Dung là con gái hai cụ) đã đón cụ bà về để trực tiếp nuôi dưỡng,
chăm sóc. Năm 1995, nguyên đơn khởi kiện đòi lại nhà đất, vì cho rằng bị đơn đã không chăm
sóc cụ bà đầy đủ như cam kết.
34
Vụ việc được TAND huyện Nam Ninh xét xử sơ thẩm tại Bản án số 60/DSST ngày
29/3/1996: công nhận hợp đồng tặng cho giữa cụ Tặng với bị đơn có hiệu lực; buộc bị đơn
phải thanh toán 7 triệu đồng tiền chi phí để nguyên đơn thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng
cụ bà. Bản án sơ thẩm bị kháng cáo. Ngày 23/5/1996, TAND tỉnh Nam Hà (cũ) đã xử phúc
thẩm tại Bản án số 39/DSPT, tuyên bác kháng cáo của nguyên đơn, ghi nhận sự tự nguyện của
bị đơn thanh toán cho nguyên đơn 9 triệu đồng. Bản án phúc thẩm bị kháng nghị. Tòa Dân sự
TANDTC đã xét xử lại theo thủ tục giám đốc thẩm tại Quyết định số 14/GĐT-DS ngày
26/01/1999, tuyên hủy bản án phúc thẩm, giao vụ án về TAND tỉnh Nam Định xử lại theo
hướng: đáng lý phải hủy hợp đồng tặng cho nhà giữa cụ Tặng với bị đơn, vì theo cấp Giám
đốc thẩm “đây là hợp đồng tặng cho nhà có điều kiện và những điều kiện được đặt ra mới chỉ
thực hiện được một phần”. Nhưng do “ông Ý đã nhận nhà đất, đã làm lại toàn bộ và thực
hiện việc chăm sóc vợ chồng cụ Tặng trên một thời gian dài…” “nên cần chấp nhận cho ông
Ý được sở hữu, sử dụng ½ nhà đất của cụ Tặng và xem xét việc thanh toán nghĩa vụ, thanh
toán chênh lệch tài sản thỏa đáng”.
Phụ lục số 06
Bản án số : 583/2007/DSPT ngày 06/11/2007 TAND tỉnh AN GIANG
V/v tranh chấp”Hợp đồng Sử dụng kios”
Nguyên đơn: Ông NGUYỄN HỮU PHƯỚC với bị đơn: ông NGUYỄN BÌNH XÊ -
chủ Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Như Ý
Nội dung tóm tắt: Giữa nguyên đơn với bị đơn đã thỏa thuận giao kết hợp đồng sử
dụng kios ngày 21/10/2006. Theo đó, nguyên đơn được nhận sử dụng 01 kios số 45 lô B (theo
phương thức bốc thăm) là lô bán vải, quần áo may sẵn tại Trung tâm thương mại – Du lịch
Núi Sam thuộc Phường Núi Sam, Thị Xã Châu Đốc và có trách nhiệm trả cho bị đơn
20.000.000đ. Tuy nội dung hợp đồng không thể hiện vị trí kios số 45 lô B, nhưng các bên đều
thừa nhận kios này có vị trí được xác định theo Bản đồ phân lô chợ được dán tại chợ Đầu Bờ
và UBND Phường Núi Sam. Theo bản đồ phân lô này thì vị trí kios số 45 lô B ông Phước bốc
thăm được nằm ở vị trí tiếp giáp lối đi chính vào chợ. Đến khi giao kios, bị đơn đã dựa trên
một bản đồ khác để giao cho nguyên đơn một kios có vị trí hoàn toàn khác với vị trí đã được
xác trong Bản đồ ba đầu. Kios 45 lô B (theo Bản đồ ban đầu) đã được giao cho một người
khác vài ngày trước khi nguyên đơn tới nhận kios. Do bị đơn không giao đúng kios đã xác
định khi bốc thăm, nên nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
Phía bị đơn cho rằng Bản đồ phân lô được niêm yết khi bốc thăm không phải là bản đồ
chính thức được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, có sự sai lệch về vị trí lô sạp so với bản đồ
35
chính thức, trong đó có kios số 45 lô B. Bởi vì, sau khi bốc thăm xong, bị đơn phát hiện Bản
đồ phân lô chợ được niêm yết không đúng với bản đồ gốc, và có báo với UBND TX. Châu
Đốc, UBND Phường Núi Sam. Đồng thời, bị đơn cũng đã liên hệ với Công ty Ngọc Khánh,
đơn vị lập dự án di dời chợ để thay đổi Bản đồ phân lô chợ cho đúng. Sai sót trong việc vẽ
bản đồ phân lô trong phương án di dời chợ là do Công ty Ngọc Khánh. Các cơ quan hữu quan
khi ký phê duyệt cũng thiếu kiểm tra nên không phát hiện ra sai sót. Tuy vậy, theo ông
Nguyễn Văn Phát – Trưởng Phòng Kinh tế TX. Châu Đốc có văn bản xác định: UBND
Phường Núi Sam có niêm yết Bản đồ phân lô chợ, bản đồ có chữ ký, xác nhận của UBND
Phường Núi Sam, Phòng Kinh tế, DNTN Như Ý và UNBD Thị Xã Châu Đốc. Đó là bản đồ
phân lô chợ như nguyên đơn đã nêu ở trên (Bút lục 64).
Tại bản án số 100/2007/DS-ST ngày 08/08/2007 của TAND Tx. Châu Đốc đã xử: Bác
yêu cầu của nguyên đơn đòi tiếp tục thực hiện hợp đồng sử dụng kios ký kết ngày 21/10/2006
giữa ông Nguyễn Hữu Phước với ông Nguyễn Bình Xê – Chủ DNTN Như Ý; Ông Xê có trách
nhiệm hoàn trả lại cho ông Phước số tiền 20 triệu đồng; buộc ông Xê bồi thường cho ông
Phước số tiền 3.615.000 đồng.
Bản án trên đã bị nguyên đơn kháng cáo và đã bị TAND tỉnh An Giang xử hủy bởi
Bản án phúc thẩm số 583/2007/DSPT 06/11/2007. Theo quan điểm của cấp phúc thẩm, thì
“ông Phước hoàn toàn không có lỗi trong việc thay đổi vị trí kios. Nhằm bảo đảm quyền lợi
cho ông Phước không bị mất việc kinh doanh quần áo may sẵn là ngành nghề chính của gia
đình ông Phước từ trước đến nay, khi giải quyết lại vụ án cần phải xem xét việc tiếp tục thực
hiện hợp đồng giao kios số 45 lô B vị trí tiếp giáp lối đi chính vào chợ trung tâm cho ông
Phước. Hoặc nếu không thể giao kios được thì phải định giá kios ở vị trí này theo giá sang
nhượng thực tế trong các hộ kinh doanh để bồi thường thiệt hại cho ông Phước”.
Phụ lục số 07
Quyết định Giám đốc thẩm số 07/2008/QĐ – GĐT ngày 20/6/2008 của HĐTP –
TANDTC về việc “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”
Nguyên đơn là Tổng công ty xây dựng đường thủy (Vinawaco) kiện bị đơn là Công ty
Liên doanh Xi măng Holcim Việt Nam (MSC); Người có quyền lợi liên quan là Công ty
Dredging International V.N. (gọi tắt là DI).
Nội dung tóm tắt: Ngày 20/5/1995, Tổng công ty xây dựng đường thủy (Vinawaco)
thỏa thuận với Công ty Liên doanh Xi măng Holcim Việt Nam (MSC) để ký “Hợp đồng đào,
nạo vét kênh và xây dựng” (gọi tắt là hợp đồng thầu chính) để nạo vét một luồng tàu (kênh
dẫn) dài 16,5 km và vũng quay tàu cho tàu biển vào lấy hàng và chở nguyên vật liệu. Ngày
08/9/1995, VINAWACO ký hợp đồng thầu phụ với Công ty Dredging International V.N. (gọi
36
tắt là DI) để thực hiện công việc trên. Hợp đồng thầu phụ này đã được MSC chấp nhận (theo
đúng Điều 4.1 của hợp đồng chính). Ngày 15/11/ 1995, khi DI đang thi công thì hệ thống thiết
bị nạo vét (máy đào và cả ông dẫn) gặp trở ngại, bị hao mòn nặng vì gặp đá ong và san hô.
Điều này trái với những thông tin ban đầu mà phía MSC cung cấp tại văn bản số S.572/94/4
làm cơ sở mời dự thầu và ký hợp đồng xây dựng. Theo văn bản này, lớp đất được nạo vét
không có đá, sỏi mà chỉ là đất sét mềm. Cũng căn cứ vào văn bản này, Vinawaco đã báo giá
tương ứng với yêu cầu về địa chất và xác định loại thiết bị chuyên dùng phù hợp đào đất sét
mềm để thực hiện công trình.
Ngày 05/3/1996, Vinawaco đã gửi văn bản khiếu nại số 1 đến MSC yêu cầu trả thêm
chi phí do thiết bị bị hao mòn, hư hỏng; chi phí bảo trì, sửa chữa gia tăng; năng suất giảm,
thời gian thi công kéo dài, chi phí vận chuyển phụ trội từ tình trạng thay đổi nêu trên của thực
tế so với cam kết trong hợp đồng.
Ngày 25/3/1996, Vinawaco có văn bản thông báo cho MSC về việc thiết bị của mình
không thể tiếp tục thi công được loại địa chất của công trình, đồng thời đề nghị cho thương
lượng lại giá hợp đồng tăng lên 2,97 USD/m3 cho phù hợp.
Ngày 01/04/1996, Vinawaco, MSC và DI đã có cuộc họp 3 bên tại Hà Nội. Các bên
thông nhất theo sáng kiến của Vinawaco chỉ định một giám định viên độc lập để giám định
giá trị tổn thất xảy ra do công trình có đá, sỏi.
Ngày 02/4/1996, được sự đồng ý của MSC, Vinawaco và DI đã ký Phụ lục hợp đồng
số 01. Theo đó, DI sẽ dùng thiết bị Rubens để đào thử đoạn luồng bên ngoài và được thanh
toán trên cơ sở ngày công (55.500 USD/ngày). Ngày 09/6/1996, với sự chấp nhận của MSC,
Vanawaco và DI ký Phụ lục hợp đồng số 02. Theo đó, DI thi công đoạn còn lại và sẽ được
thanh toán trên cơ sở m3 thi công. Trong hai bản phụ lục đều ghi rõ, trong khi thi công, nếu
thiết bị của DI gặp đá và san hô/đất sét cứng gây thiệt hại máy móc, tăng phí tổn thì DI được
trả thêm chi phí căn cứ vào giám định viên độc lập. Các văn kiện phụ lục 01 và 02 đều có chữ
ký của đại diện MSC (Phó TGĐ).
Ngày 12/7/1996, MSC chỉ định Xí nghiệp Khảo sát Xây dựng số 4 (viết tắt Xí nghiệp
số 4) và DI chỉ định công ty Van Woerkom (WT) làm giám định viên độc lập để cùng giám
định sự việc và tổn thất xảy ra cho DI. Nhưng đến ngày 03/8/1996, Xí nghiệp số 4 rút lui với
lý do là không có thiết bị chuyên dùng. Vì vậy, chỉ còn WT tiếp tục công việc giám định.
Ngày 15/11/1996, Công ty WT hoàn tất báo cáo giám định gửi cho các bên, trong đó xác định
chi phí thực tế tăng thêm của DI do các thiết bị gặp phải lớp đất có nhiều đá và sỏi là
2.866.650 USD. Ngày 19/7/1996, công trình hoàn tất. Ngày 24/7/1996, các bên ký biên bản
37
bàn giao. Ngày 25/7/1996, ký biên bản bàn giao toàn bộ công trình và MSC đưa vào sử dụng.
Ngày 28/7/1996, Vinawaco gửi thư yêu cầu MSC thanh toán chi phí tăng thêm là 2.866.650 USD.
Do phía MSC không chịu thanh toán, nên Vinawaco đã khởi kiện MSC ra tòa yêu cầu
tòa án buộc MSC phải thanh toán các khoản 2.866.650 USD và tiền lãi phát sinh…; Phía
MSC phản đối yêu cầu của Vinawaco, với các lý do: (i) Thiệt hại nói trên không phải là thiệt
hại của Vinawaco, mà của một bên khác và khoản này chưa được bất kỳ cơ quan có thẩm
quyền nào công nhận; (ii) Tồn tại của đá ong và sỏi không phải là trở ngại khách quan và
không dự liệu được với Vinawaco, vì Sổ tay thiết kế và thi công công trình có ghi chú là có
thể có đá ong khi thi công ở khu vực địa chất này; (iii) Phụ lục 01 và Phụ lục 02 của hợp đồng
không ràng buộc nghĩa vụ với MSC, vì theo MSC việc ký tên xác nhận vào Phụ lục chỉ là
thực hiện theo qui định tại Điều 4.1 của hợp đồng chính để thể hiện sự có biết việc Vinawaco
ký hợp đồng với DI, chứ không có nghĩa là chấp nhận giá tiền mà Vinawaco đã thỏa thuận với
DI. Ngoài ra, MSC cũng không thừa nhận báo cáo của tổ chức giám định vì cho rằng báo cáo
này không khách quan và không hợp lệ vì đây là tổ chức do DI đơn phương chỉ định. Từ đó,
từ chối tất cả các yêu cầu của phía Vinawaco và của DI.
Bản án Kinh tế sơ thẩm số 291/KTST ngày 13/12/2004 của TAND Tp. Hồ Chí Minh
buộc MSC thanh toán cho Vinawaco các khoản gồm 3.766.650 USD (gồm cả 2.866.650 USD
do giá trị thiệt hại gia tăng trong hợp đồng); Bản án Kinh tế phúc thẩm số 55/KTPT ngày
30/3/2005 của Tòa Phúc thẩm TAND TC tại Tp. Hồ Chí Minh xử hủy toàn bộ Bản án số
291/KTST ngày 13/12/2004 của TAND Tp. Hồ Chí Minh để “cho tiến hành giám định lại”;
Bản án số 342/2006/KDTM-ST ngày 12/7/2006 của TAND Tp. Hồ Chí Minh đã tuyên bác
toàn bộ yêu cầu của Vinawaco, vì: Kết quả giám định của Công ty Van Woerkom là không
hợp lệ vì không được thực hiện theo thủ tục luật định, nên không có hiệu lực ràng buộc với
MSC; việc giám định lại là không thể thực hiện được nữa (theo xác nhận của cả hai bên), nên
không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của phía nguyên đơn.
Bản án Phúc thẩm số 04/2007/KDTM – PT ngày 17/01/2007 Tòa Phúc thẩm: các bản
Phụ lục số 01, số 02 giữa Vinawaco ký với DI không có giá trị ràng buộc đối với MSC; đây
không phải là trở ngại khách quan; thiệt hại do hao mòn máy móc thiết bị của DI là có thật,
nhưng MSC không có lỗi dẫn đến thiệt hại này. Tòa còn giải thích việc ông Nguyễn Ngọc
Anh (Phó tổng giám đốc MSC) ký xác nhận của phía MSC vào các phụ lục nói trên như sau:
“Đây là cam kết của nhà thầu chính với nhà thầu phụ,… không phải là sự cam kết giữa nhà
thầu chính với nhà đầu tư. Việc ông Nguyễn Ngọc Anh ký chấp nhận cho nhà thầu chính và
nhà thầu phụ thực hiện phụ lục chứ không cam kết thanh toán cho nhà thầu chính.” Từ đó,
bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
38
Theo Tòa cấp Giám đốc thẩm: “Tòa cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã không xác định
đúng trách nhiệm của MSC trong việc thực hiện Phụ lục 01 và 02, mà cho là phụ lục 01, 02
chỉ đơn thuần là thỏa thuận giữa nhà thầu chính với nhà thầu phụ, ông Phó Tổng Giám đốc
Nguyễn Ngọc Anh ký là không được ủy quyền đại diện MSC ký vào Phụ lục này. Nhận định
này không đúng”. Do Phụ lục này được lập ra và thực hiện, các bên không có khiếu nại gì,
nên “phải coi phụ lục hợp đồng với nhà thầu phụ DI là thỏa thuận giữa ba bên, Vinawaco,
MSC, DI và cả ba bên đều có trách nhiệm, nghĩa vụ phải thi hành cac thỏa thuận trong các
phụ lục”…Từ đó, Cấp giám đốc thẩm đã hủy cả án sơ thẩm và án phúc thẩm để giao hồ sơ vụ
án về TAND Tp. Hồ Chí Minh xử lại sơ thẩm theo thủ tục chung.
Phụ lục số 8
Bản án dân sự phúc thẩm số 613/2007/DS-ST ngày 13/6/2007 của TAND Tp. Hồ Chí
Minh về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
Nguyên đơn là bà Nguyễn Tường Minh, với bị đơn là ông Phạm Văn Út và bà Nguyễn
Thị Kim Phượng.
Nội dung tóm tắt: ngày 09/6/2005, nguyên đơn có lập giấy tay để nhận sang nhượng
của bị đơn một miếng đất diện tích 6 m x 14 m, tọa lạc tại thửa 14 – 1 tờ Bản đồ số 21, ấp
Nam Lân, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn (nay là thửa 14 tờ bản đồ số 21), với giá 394,8 triệu
đồng, đặt cọc 80 triệu đồng. Hợp đồng cũng thỏa thuận phía bị đơn có trách nhiệm làm thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nguyên đơn. Các bên đã thực hiện hợp đồng: lập bản
đồ hiện trạng, vị trí đất, tiến hành các thủ tục chuyển nhượng, hợp đồng chuyển nhượng đã
được UBND xã Bà Điểm chứng thực ngày 19/8/2005. Tuy vậy, đến ngày 05/9/2005, UBND
huyện Hóc Môn trả lời cho nguyên đơn biết là không chấp nhận hồ sơ chuyển nhượng vì
“Diện tích đất chuyển nhượng có chiều dài vi phạm lộ giới, không đủ qui chuẩn xây dựng
nhà.”28
Nguyên đơn cho rằng, mình mua đất để làm nhà ở, mà nếu cơ quan chức năng từ chối
việc cấp phép xây dựng thì mục đích hợp đồng không thể đạt được. Vì thế, nguyên đơn yêu
cầu được hủy hợp đồng và lấy lại tiền cọc 80 triệu đồng. Bị đơn không đồng ý, vì cho rằng,
việc cơ quan chức năng qui hoạch lộ giới thế nào, bị đơn hoàn toàn không biết, vì bị đơn đã
được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, và trên giấy chứng nhận này hoàn
28 Diện tích chuẩn để xây dựng nhà được qui định tại: Theo qui định tại Điều 6 khoản 1 Quyết định số 135/2007/QĐ-UBND ngày 08/12/2007 của UBND Tp. Hồ Chí Minh Ban hành Quy định về kiến trúc nhà liên kế trong khu đô thị hiện hữu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, thì diện tích đất tối thiểu để được cấp phép xây dựng mới nhà ở là 36 m2, chiều rộng mặt tiền và chiều sâu so với chỉ giới xây dựng không nhỏ hơn 3,0m…
39
toàn không có thông tin gì về việc lô đất bị vi phạm lộ giới. Hơn nữa, các bên không có thỏa
thuận việc mua đất là để cất nhà. Nguyên đơn tự nguyện mua thì bị đơn tự nguyện bán; việc
sử dụng đất làm gì là việc của nguyên đơn.
Trên thực tế, sau ngày các bên giao kết hợp đồng tại UBND xã Bà Điểm, thì Phòng
Quản lý Đô thị huyện Hóc Môn có công văn số 259/TT-QLĐT ngày 03/10/2005 để hỏi về
trường hợp trên, và UBND huyện Hóc Môn có Công văn số 204/UBND-QLĐT ngày
14/7/2006 trả lời như sau: Phần diện tích mà các đương sự tranh chấp tại hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 19/8/2005 có vị trí 02 mặt tiền đường là Nam Lân 5 và Bà
Điểm 8. Hiện nay, đường Nam Lân đã được UBND huyện Hóc Môn phê duyệt lộ giới là 12
mét, còn đường Bà Điểm đang trình UBND Tp. Hồ Chí Minh duyệt lộ giới 20 mét. Và ngày
05/9/2005, Phòng Quản lý đô thị huyện Hóc Môn cũng có Văn bản số 653/QLĐT – ĐC trả lời
cho nguyên đơn như sau: Cạnh dài, diện tích thửa đất nhận chuyển nhượng không đủ qui
chuẩn xây dựng, do diện tích còn lại của thửa đất sau khi đã qui hoạch là 12,40m2.
Bản án dân sự sơ thẩm số 115/2007/DSST của TAND huyện Hóc Môn tuyên xử: hủy
hợp đồng sang nhượng đất ngày 19/82005 giữa các bên; buộc bị đơn trả lại tiền cọc cho
nguyên đơn.
Bản án dân sự phúc thẩm số 613/2007/DS-PT của TAND Tp. Hồ Chí Minh: y án sơ
thẩm, hủy hợp đồng sang nhượng đất giữa các bên và buộc bị đơn phải trả lại tiền cọc cho
nguyên đơn. Lý do: (i) hợp đồng mới được xác nhận của UBND xã “là chưa hoàn tất thủ tục
theo qui định”; (ii) “Việc một phần diện tích đất nằm trong qui hoạch lộ giới khi giao dịch và
ký kết, các bên đương sự không biết, nên đây là lỗi khách quan của hai bên đương sự.”29 Bởi
vậy, Tòa cấp phúc thẩm y án sơ thẩm.
Phụ lục số 9
Bản án số 1132/2006/DS-PT ngày 09/11/2006 của TAND Tp. Hồ Chí Minh về “hợp đồng
mua bán nhà ở”
Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Bời, bà Nguyễn Thị Kim Tiên, với bị đơn là ông
Nguyễn Hồng Khanh, bà Võ Thị Bích Thuận.
Nội dung tóm tắt: bị đơn lập hợp đồng (chưa được công chứng) ngày 13/9/2005 để
bán cho nguyên đơn căn nhà số 8 đường số 10, phường 16, quận Gò Vấp, với 850 triệu đồng.
Hai bên cũng đã tiến hành đặt cọc 100 triệu đồng. Trong hợp đồng cũng có nói rõ là “toàn bộ
diện tích nhà 117,10m2 không nằm trong khu qui hoạch phải giải tỏa, bên mua có nghĩa vụ
29 Trích nguyên văn bản án.
40
thanh toán tiền đúng tiến độ”; “Nếu bên bán không bán thì đền gấp đôi, bên mua không mua
thì bị mất cọc.” Giấy chủ quyền căn nhà được cấp cho nguyên đơn ngày 24/7/2003 cũng
không thể hiện là nhà bị qui hoạch mở rộng lộ giới. Sau khi ký kết hợp đồng và đặt cọc cho
bên bán, nguyên đơn mới được UBND quận Gò Vấp (ủy quyền cho Phòng QLĐT quận) trả
lời bằng Công văn số 169/UBND- QLĐT ngày 14/7/2006: căn nhà số 8 đường số 10, phường
16, quận Gò Vấp có diện tích 117,10m2 thuộc khu vực bị qui hoạch giải tỏa, nên căn nhà này
không đủ điều kiện cấp phép để xây dựng nhà mới.
Vì thế, nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng và lấy lại tiền cọc, nhưng bị đơn không
đồng ý, vì cho rằng mình không có lỗi trong việc này.
TAND Quận Gò Vấp xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, hủy hợp đồng mua bán
nhà ngày 13/9/2005 và buộc bị đơn hoàn trả tiền cọc cho nguyên đơn.
Bị đơn kháng cáo. TAND Tp. Hồ Chí Minh xử phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm. theo
quan điểm của tòa cấp phúc thẩm: “khi kết kết hợp đồng ngày 13/9/2005, các bên đều không
biết đến tình trạng căn nhà bị qui hoạch giải tỏa mở rộng lộ giới, điều đó được thể hiện trong
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở của căn nhà số 8 đường số 10,
phường 16, quận Gò Vấp được cấp ngày 24/7/2003… nên tất cả các vấn đề trên đã không
được thể hiện trong hợp đồng. Đây là nguyên nhân khách quan cả hai bên đều không lường
trước được sự việc nêu trên. Do đó, việc ông Bời, bà Tiên không đồng ý tiệp tục mua nhà với
những lý do nêu trên là hoàn toàn chính đáng.”
Phụ lục số 10
Bản án DSPT số 412/DSPT ngày 15/3/2003 của TAND Tp. Hồ Chí Minh
xét xử về việc "Tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất"
Nguyên đơn là Công ty cổ phần Sài gòn ITTC và các nhân chứng: ông Phương, bà
Thanh, bà Thuận, ông Châu; với các bị đơn là Ông Lưu Văn Sáu, và các cá nhân khác như bà
Tuyết, bà Tiền, bà Tuyến, bà Tâm, bà Chi, ông Hoàng, ông Văn.
Tóm tắt nội dung: Ngày 20/12/2001 các bị đơn và các nguyên đơn ký Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các nguyên đơn, diện tích 5.000m2 với giá 280.000
đồng/m2. Đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên bán đã nhận tổng cộng là
600.000.000 đồng tiền cọc và giao cho bên mua một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên
ông Sáu. Trong số tiền 600.000.000 đồng ông Sáu bà Tuyết nhận 300.000.000 đồng, bà Tiền
và các con nhận 300.000.000 đồng.
41
Tháng 02/2003 bà Tiền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bên bán
không làm được thủ tục sang tên cho bên mua do đất nằm trong khu quy hoạch với diện tích
6.214.328m2, và bị nhà nước thu hồi được thể hiện bởi Quyết định số 1997/QĐ -UB ngày
10/5/2003 của Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh.
Do đó bên mua kiện xin hủy hợp đồng đòi lại tiền cọc và tiền lãi theo khoản 2, 3 Điều
3 của hợp đồng. Ông Sáu đại diện cho các cá nhân bên bán không đồng ý và yêu cầu được
thực hiện tiếp hợp đồng hoặc ủy quyền cho bên mua nhận tiền đền bù, không đồng ý trả tiền
lãi. Riêng bà Tiền và các con đồng ý hủy hợp đồng, trả lại cho bên mua 150.000.000 đồng,
không đồng ý trả lãi.
Tòa cấp sơ thẩm tuyên xử: cho rằng “Cả hai bên bán và bên mua đều xác định khi ký
hợp đồng không biết đất nằm trong khu quy hoạch không được phép sang tên. Do đó việc
không làm được thủ tục là do yếu tố khách quan, không bên nào có lỗi trong việc huỷ hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, nên cho phép nguyên đơn (bên mua) được hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, và buộc các bị đơn phải hoàn trả lại khoản tiền đã
nhận cộng với khoản lãi tính trên số tiền đã nhận…
Phán quyết của Tòa cấp phúc thẩm: cho phép nguyên đơn được hủy hợp đồng, buộc
các bên hoàn lại cho nhau những gì đã nhận, và bên bán không phải trả thêm tiền lãi tính trên
số tiền đã nhận. Lý do: “Hợp đồng không thực hiện được vì phần đất các bên chuyển nhượng
nằm trong khu vực quy hoạch 6.214.328m2 đã có quyết định số 1997/QĐ -UB ngày 10/5/2003
của Chủ tịch UBND Thành phố thu hồi”; “Hợp đồng vô hiệu do lỗi khách quan không làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, các bên không có lỗi chỉ phải trả cho nhau những gì
đã nhận.”
Phụ lục số 11
Công văn 519/STP – VB ngày 27/02/2009 của Sở Tư pháp Tp. Hồ Chí Minh
“Về hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất tại địa chỉ 2 – 6 bis Điện Biên Phủ, Quận 1”
Giữa: Văn phòng Thành ủy Tp. Hồ Chí Minh (VPTU) với Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Dầu khí Toàn Cầu (GP Bank).
Nội dung tóm tắt: Dựa trên cơ sở trúng đấu giá, ngày 19/8/2008, VPTU và GP Bank
đã ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất (hợp đồng được công chứng cùng ngày) đối với lô đất
của VPTU, diện tích 2.944 m2, địa chỉ 2 – 6 bis Điện Biên Phủ, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh, với
42
giá tiền thuê là 433 tỷ đồng cho thời hạn 49 năm để GP Bank xây dựng cao ốc 24 tầng.30 Theo
qui định của hợp đồng, GP Bank đã đặt cọc, đồng thời thanh toán đợt 1 cho VPTU một khoản
tiền 30 tỷ đồng. Số tiền còn lại trả nốt sau 3 tháng tính từ ngày ký hợp đồng. Quá thời hạn nói
trên, VPTU có quyền hủy hợp đồng và GP Bank sẽ bị mất số tiền đặt cọc nói trên.
Vào thời điểm từ khi ký hợp đồng cho đến khi tới hạn thanh toán đợt 2 theo qui định
của hợp đồng giữa các bên, do giá nhà đất bị giảm mạnh, thị trường nhà đất bị “đóng băng”,
các ngân hàng đều từ chối cấp tín dụng cho các dự án bất động sản, nên GP Bank không có
khả năng thanh toán số tiền còn lại đúng hạn. Trước hoàn cảnh đó, phía VP Bank có văn bản
đề nghị VPTU gia hạn thanh toán cho VP Bank thêm một thời gian và không tính lãi trên số
tiền chậm trả. Dựa vào nội dung của hợp đồng và qui định của pháp luật về xử lý tài sản đặt
cọc, VPTU hoàn toàn có thể hủy bỏ hợp đồng với VP Bank và đương nhiên được hưởng toàn
bộ số tiền cọc 30 tỷ đồng mà VP Bank đã nộp trước đó. Nhưng ngược lại, nếu hủy hợp đồng,
VPTU có nguy cơ cũng bị mất 133 tỷ đồng và chi phí đấu giá lại (khoảng 1,6 tỷ đồng). Bởi vì,
theo định giá của các chuyên gia và theo giá công bố trên các sàn bất động sản, giá hiện tại
của lô đất trên là khoảng 300 tỷ đồng. So với giá trị đã cam kết trong hợp đồng, giá này đã bị
giảm đến 133 tỷ đồng.
VPTU vẫn muốn tiếp tục thỏa thuận lại với phía VP Bank để gia hạn hợp đồng và
không tính lãi trên số tiền chậm trả, nhưng lại không tìm thấy cơ chế và căn cứ thích hợp. Nên
ngày 26/02/2009, VPTU đã có Công văn số 2829 – CV/VPTU gửi Sở Tư pháp Tp. Hồ Chí
Minh để hỏi về việc: (1) Về việc gia hạn thời hạn thanh toán và không tính lãi suất phạt đối
với thời gian chậm nộp tiền thuê quyền sử dụng đất thì có được không (?); và (2) Nếu câu trả
lời cho câu hỏi (1) là được, thì thủ tục thực hiện là như thế nào (?).
Trên cơ sở Văn bản của VPTU, Sở Tư pháp có Công văn 519/STP – VB ngày
27/02/2009, trả lời cụ thể như sau:
1. Về việc gia hạn thời hạn thanh toán và không tính lãi suất phạt đối với thời gian
chậm nộp tiền thuê quyền sử dụng đất:
Hiện nay, VPTU và VP Bank đã ký hợp đồng cho thuê đất, hợp đồng này được công
chứng chứng nhận vào ngày 19/8/2008. Do vậy, quan hệ giữa VPTU và VP Bank dựa trên cơ
sở hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất mà hai bên đã ký kết...
30 Vũ Lê, Khu đất vàng chỉ một khách hàng đấu giá, Báo tin nhanh Việt Nam online, http://www.vnexpress.net/GL/Kinh-doanh/2008/08/3BA05140/, truy cập ngày 25/3/2009.
43
Việc VP Bank xin gia hạn thời hạn nộp tiền và không tính lãi phạt đối với số tiền
chậm nộp, pháp luật hiện hành về đất đai, về quản lý nhà nước không qui định…, quyền và
nghĩa vụ của các bên được thể hiện trong hợp đồng thuê quyền sử dụng đất do các bên ký kết
và theo thỏa thuận thống nhất giữa các bên.
Theo Điều 423 BLDS 2005, các bên có thể thỏa thuận việc sửa đổi hợp đồng đã ký
kết… Việc có đồng ý cho VP Bank được gia hạn và không tính lãi suất hay không là thuộc
thẩm quyền của VPTU.
2. Thủ tục thực hiện việc gia hạn và không tính lãi suất:
Hợp đồng cho thuê đất được lập bằng văn bản công chứng, thì việc việc sửa đổi nội
dung hợp đồng cũng cần phải được công chứng.
44
Phụ lục số 12
Sửa đổi, bổ sung các qui định về hình thức hợp đồng
BLDS 2005 Đề xuất sửa đổi, bổ sung:
Đ iều 134. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
BLDS 2005 không qui định khoản 2
Điều 134. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức 1. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, tùy từng trường hợp mà toà án, hoặc cơ quan có thẩm quyền khác có thể công nhận hiệu lực của giao dịch hoặc tuyên bố giao dịch vô hiệu theo các căn cứ được qui định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Bổ sung khoản 2 Điều 134 (mới): 2. Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền công nhận hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp giao dịch vi phạm hình thức mà các bên có bằng chứng hợp pháp khác chứng minh được sự tồn tại của giao dịch, đã chuyển giao cho nhau một phần hoặc toàn bộ đối tượng của hợp đồng, đã thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền cần thanh toán, và nếu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một hoặc các bên.
Trong trường hợp hiệu lực của giao dịch được công nhận mà các bên chưa thực hiện hoàn tất nghĩa vụ giao vật thì phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ giao vật; nếu các bên chưa hoàn tất nghĩa vụ trả tiền thì phải tiếp tục trả khoản tiền còn thiếu, theo tỷ lệ tương ứng tính theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật qui định khác.
Qui định này không áp dụng đối với hợp đồng tặng cho tài sản, di chúc; qui định này cũng không áp dụng đối với các giao dịch khác nếu pháp luật có qui định minh thị về việc loại trừ áp dụng qui định tại Điều này với loại giao dịch khác đó.
45
BLDS 2005 không qui định khoản 3 Bổ sung khoản 3 Điều 134 (mới): 3. Nếu giao dịch dân sự được lập không đúng hình thức do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật qui định và thiếu một trong các điều kiện qui định tại khoản 2 Điều này (như vừa được bổ sung ở trên – tác giả chú thích), thì theo yêu cầu của các bên, toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 137 của Bộ luật này.
Đ iều 401. Hình thức hợp đồng dân sự 1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định. 2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó. Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
BLDS 2005 Không qui định khoản 3.
Điều 401. Hình thức hợp đồng 1. Hợp đồng có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi cụ thể, hoặc bằng các hình thức vật chất khác có thể diễn đạt được ý chí của các bên và chứng minh được sự tồn tại của hợp đồng, hoặc bằng sự kết hợp của hai hay nhiều hình thức kể trên.
2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng hình thức nhất định thì hợp đồng phải được giao kết theo đúng hình thức đó.
Bãi bỏ đoạn 2, khoản 2, Điều 401. Bổ sung khoản 3 (mới) : 3. Hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hợp đồng phải được lập bằng một hình thức xác định.
Phụ lục số 13
Sửa đổi, bổ sung các qui định về thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
BLDS 2005 Đề xuất sửa đổi, bổ sung:
Đ iều 404. Thời điểm giao kết hợp đồng… 3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
Điều 404. Thời điểm giao kết hợp đồng 1. Hợp đồng được giao kết tại thời điểm các bên đã thỏa thuận xong nội dung của hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
46
1. Hợp đồng dân sự được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. 4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
hợp đồng phải được giao kết theo hình thức, thủ tục xác định thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm hoàn tất hình thức, thủ tục đó. 2. Khi hợp đồng được giao kết gián tiếp thông qua thư tín hoặc các phương tiện thông tin, liên lạc khác, hoặc tuy được giao kết trực tiếp nhưng một hoặc các bên dành một thời hạn để chờ bên được đề nghị trả lời, thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. 3. Trong trường hợp việc giao kết hợp đồng được các bên xác lập trực tiếp, trên cùng một văn bản, thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản; nếu hợp đồng được lập thành nhiều văn bản có nội dung giống nhau, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm mỗi bên đã ký vào văn bản của bên kia. Văn bản được lập chỉ cần các bên hoặc người đại diện hợp pháp của các bên ký tên và ghi rõ họ tên là đủ mà không cần phải có thêm thủ tục nào khác, kể cả việc phải đóng dấu của các bên, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định điều này.
Nếu các bên giao kết hợp đồng bằng văn bản được gửi qua bưu điện, hoặc phương tiện thông tin, liên lạc khác, hoặc nếu chỉ có trả lời chấp nhận là được làm bằng văn bản, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên đề nghị nhận được văn bản trả lời chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác.
Thời điểm nhận được thông điệp dữ liệu được áp dụng theo qui định của Luật Giao dịch điện tử. 4. Trong trường hợp bên được đề nghị trả
lời chấp nhận giao kết hợp đồng bằng một hành vi cụ thể, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên được đề nghị bắt đầu thực hiện hành vi đó, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.
Nếu hợp đồng được giao kết gián tiếp, hoặc tuy giao kết trực tiếp mà một hoặc
47
2. Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.
các bên dành một thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời, thì hợp đồng được giao kết tại thời điểm bên đề nghị nhận được thông báo của bên được đề nghị về việc bắt đầu thực hiện hành vi cụ thể đó. Nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận bằng việc thực hiện một công việc cụ thể nhưng không thông báo về việc này cho bên đề nghị biết, thì hợp đồng giao kết vào thời điểm hoàn thành công việc.
Nhưng nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên, hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chấp nhận đề nghị bằng một hành vi cụ thể mà không cần phải thông báo cho bên đề nghị, thì hợp đồng được giao kết khi bên được đề nghị bắt đầu thực hiện hành vi này. 5. Theo thỏa thuận, hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên, hoặc pháp luật có qui định im lặng là sự trả lời, và đề nghị giao kết hợp đồng có ấn định thời hạn trả lời, thì hợp đồng cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên được đề nghị vẫn im lặng. Qui định này không áp dụng đối với việc doanh nghiệp bán hàng có gửi các thông tin quảng cáo hoặc gửi hàng hóa đến địa chỉ giao dịch của người tiêu dùng.
Đ iều 405. Hiệu lực của hợp đồng dân sự
Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
(BLDS 2005 không qui định khoản 2)
Đ iều 405. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự 1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 2. Các bên có thể thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là một thời điểm xác định, nhưng không được sớm hơn thời điểm giao kết hợp đồng theo qui định tại Điều 404 của Bộ luật này. Nếu pháp luật có qui định hợp đồng có hiệu lực tại một thời điểm xác định, thì các bên không được thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của hợp đồng sớm hơn thời điểm đó.
48
Phụ lục số 14
Sửa đổi, bổ sung các qui định về hiệu lực ràng buộc của hợp đồng
BLDS 2005 Đề xuất sửa đổi, bổ sung:
Không qui định Điều 405a. Hiệu lực của hợp đồng (dân sự) 1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực như pháp luật đối với các bên tham gia hợp đồng. 2. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định.
Đ iều 303. Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật 1. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó; nếu vật không còn hoặc bị hư hỏng thì phải thanh toán giá trị của vật. 2. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại thì phải thanh toán giá trị của vật.
3. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này... (giữ nguyên).
Điều 303. Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật 1. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó; nếu vật không còn thì phải thanh toán giá trị của vật; nếu vật bị hư hỏng thì bên có quyền có thể từ chối nhận vật và yêu cầu thanh toán giá trị của vật, hoặc nhận vật đồng thời yêu cầu bên có nghĩa vụ sửa chữa hoặc thanh toán tiền sửa chữa hoặc thanh toán thêm phần giá trị của vật bị giảm sút, hoặc nhận vật và yêu cầu giảm giá tương ứng với phần giá trị của vật bị giảm sút, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 2. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại thì phải thanh toán giá trị của vật. Trong trường hợp vật cùng loại là các hàng hóa đặc biệt không dễ dàng tìm thấy trên thị trường và bên có quyền bị vi phạm không có khả năng tìm được nguồn hàng hóa khác để thay thế, thì tòa án có thể buộc bên vi phạm nghĩa vụ phải giao đúng vật đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 3. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này... (giữ nguyên).
49
Phụ lục số 15
Sửa đổi, bổ sung các qui định về sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi
Theo PICC Kiến nghị bổ sung vào BLDS 2005
Điều 6.2.2. PICC Hoàn cảnh hardship được xác lập khi
xảy ra các sự kiện làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc do giá trị của nghĩa vụ đối trừ giảm xuống, và: a) các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng; b) bên bị bất lợi đã không thể tính một cách hợp lý đến các sự kiện đó khi giao kết hợp đồng; c) các sự kiện này nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi; và d) rủi ro về các sự kiện này không được bên bị bất lợi gánh chịu.
Điều 423a. Sửa đổi hợp đồng (dân sự)31 khi hoàn cảnh thay đổi 1. Một bên có quyền yêu cầu bên kia sửa đổi hợp đồng khi xảy ra sự kiện khách quan làm thay đổi cơ bản sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng, hoặc do chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên bất thường, hoặc do giá trị của khoản thu nhập đáng lẽ nhận được từ hợp đồng giảm xuống bất thường, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác.
Được coi là ‘sự kiện khách quan’ nếu thỏa mãn các điều kiện sau đây:
- Xảy ra hoặc được bên bị thiệt hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng, trừ những sự kiện bên đó đã biết hoặc đáng lẽ phải biết;
- Xảy ra khách quan, nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị thiệt hại;
- Rủi ro về các sự kiện này không thuộc trường hợp qui định tại các Điều 440 BLDS 2005, Điều 57 đến Điều 62 Luật Thương mại 2005 và các qui định tương tự trong BLDS 2005 và Luật Thương mại 2005;
Được coi là ‘bất thường’ nếu chi phí thực hiện nghĩa vụ tăng lên, hoặc giá trị của khoản thu nhập đáng lẽ thu được từ hợp đồng giảm xuống đáng kể, ngoài dự kiến và vượt ngoài phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán của lĩnh vực tương ứng.
Điều 6.2.3 PICC 1. Trong trường hợp hardship, bên bị bất lợi có quyền yêu cầu tiến hành đàm phán lại hợp
2. Quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng theo khoản 1 Điều này phải được bên bị thiệt hại
31 Hai từ “dân sự” để trong ngoặc đơn nói trên nhằm phù hợp với Điều 423 BLDS 2005 hiện hành. Hai từ này được dự kiến sẽ phải bỏ đi cho phù hợp với các qui định khác mang tính hệ thống của pháp luật hợp đồng, tạo sự thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng nói chung.
50
đồng. Yêu cầu này phải được đưa ra không chậm trễ và phải có căn cứ. 2. Yêu cầu đàm phán lại hợp đồng, bản thân nó, không cho phép bên bị bất lợi có quyền tạm đình chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình.
đưa ra không chậm trễ và phải có căn cứ. Việc yêu cầu sửa đổi hợp đồng không cho phép các bên được đơn phương tạm ngừng thực hiện, chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng, trừ trường hợp có căn cứ do hợp đồng hoặc do pháp luật qui định để áp dụng các quyền đó.
3. Nếu các bên không thỏa thuận được trong một thời hạn hợp lý thì mỗi bên có quyền yêu cầu toà án giải quyết.
3. Nếu bên được đề nghị sửa đổi hợp đồng từ chối, hoặc không trả lời, hoặc các bên không thỏa thuận được việc sửa đổi hợp đồng trong một thời gian hợp lý, thì mỗi bên có quyền yêu cầu tòa án hoặc trọng tài (nếu hợp đồng có thỏa thuận chọn thủ tục trọng tài) giải quyết.
4. Nếu xác định có hoàn cảnh hardship và nếu thấy hợp lý, tòa án có thể: a. Chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo các điều kiện do tòa án quyết định; hoặc b. Sửa đổi hợp đồng nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng.
4. Nếu tòa án hoặc trọng tài xác định sự kiện khách quan xảy ra là có căn cứ để cho phép bên bị thiệt hại được quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng như qui định tại khoản 1 Điều này, và nếu thấy hợp lý, thì tòa án hoặc trọng tài có thể đưa ra một trong các quyết định sau đây: a. Sửa đổi hợp đồng nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp đồng; hoặc b. Chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo các điều kiện do tòa án quyết định.
Bên từ chối thỏa thuận hoặc vi phạm thoả thuận trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.