Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
0
BÁO CÁO Tình hình kinh tế-xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2018
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
1.1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
Nhiệm vụ trọng tâm của trồng trọt trong tháng là thu hoạch lúa đông
xuân, sắn, ngô, rau đậu và mía.
Diện tích gieo cấy lúa vụ đông xuân ước đạt 38.419,5 ha, giảm 1%
(386,1 ha) so với vụ đông xuân năm 2017. Giống lúa chủ yếu sử dụng trong
vụ đông xuân này là MT10, Thiên ưu 8, OM6976, ĐT45, HT1, Bắc Thịnh,…
Diện tích lúa giảm là do một số địa phương như huyện Bình Sơn, Sơn
Tịnh,.. đã chủ động chuyển một số diện tích chân ruộng cao, không chủ động
nước sang cây trồng khác (chủ yếu là ngô, đậu phụng, dưa hấu,…); một số
diện tích bị sa bồi thủy phá do ảnh hưởng bão số 12 năm 2017 (Ba Tơ: 53 ha
bị sa bồi thủy phá chưa kịp để vào gieo sạ, hiện nay đã cải tạo xong khoảng
40 ha đã chuyển sang trồng cây trồng khác); một số diện tích bị thu hồi phục
vụ khu công nghiệp, dự án VISIP, An Điền Phát… Tổng diện tích chuyển đổi
sản xuất từ đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác là 538,6 ha; trong đó
chuyển sang: ngô 109,8 ha, lạc 115 ha, rau các loại 57 ha, đậu các loại 2 ha,..;
so với vụ đông xuân 2017 giảm 88,4 ha.
Bên cạnh chuyển đổi cây trồng, trong những tháng đầu năm, việc dồn
điền đổi thửa, xây dựng cánh đồng mẫu lớn cũng được tích cực triển khai. Vụ
đông xuân này, toàn tỉnh triển khai xây dựng 78 cánh đồng lớn với tổng diện
tích 1.511 ha. Nhìn chung, năng suất lúa ở các cánh đồng mẫu lớn đều đạt cao
hơn năng suất bình quân. Hiện nay, có 70 ha lúa (30 ha tại Nghĩa Hành, 40 ha
tại Mộ Đức) sản xuất theo hướng hữu cơ, tiêu chuẩn VietGAP.
Nhờ từ giữa vụ thời tiết thuận lợi, sử dụng các loại giống phù hợp,
chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh tốt nên lúa đông xuân năm nay tiếp tục được
mùa và là vụ lúa có năng suất cao nhất từ trước đến nay. Tính đến ngày
15/5/2018, toàn tỉnh đã thu hoạch được 38.204,15 ha, giảm 1,5% so với cùng
thời điểm năm 2017 (do diện tích giảm và gieo sạ muộn hơn). Ước tính năng
suất lúa chung cả vụ đạt 60,6 tạ/ha, tăng 1,1 tạ/ha so với vụ đông xuân năm
1
2017. Diện tích giảm nhưng nhờ năng xuất tăng nên sản lượng lúa ước đạt
232.726,8 tấn, tăng 0,7% (1.717,1 tấn) so với vụ đông xuân năm 2017, và
tăng 11,2% so với vụ đông xuân năm 2016 (23.369,8 tấn).
Diện tích ngô vụ đông xuân ước đạt 4.737,5 ha, tăng 0,6 ha so với vụ
đông xuân năm 2017; trong đó có 109,8 ha chuyển đổi từ đất lúa (Bình Sơn
74,8 ha, Sơn Tịnh 23 ha, Mộ Đức 3,5 ha, Tư Nghĩa 5 ha, Ba Tơ 3,5 ha, Tây
Trà 4,7 ha). Năng suất ngô ước đạt 58,8 tạ/ha, tăng 1,5% (0,9tạ/ha) so với vụ
đông xuân năm 2017. Sản lượng ước đạt 27.837,6 tấn, tăng 1,5% (422,8 tấn).
Diện tích khoai lang ước đạt 218,3 ha, giảm 10,2% (24,8 ha); năng suất
ước đạt 73,9 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha; sản lượng ước đạt 1.612,2 tấn, giảm 10,4%
(187,6 tấn).
Diện tích rau đạt 6.728,4 ha, tăng 5% (322 ha) so với vụ đông xuân
năm 2017. Nhìn chung, diện tích rau tăng chủ yếu do tăng diện tích dưa hấu,
cải, bí, hành củ và một vài loại rau lấy quả khác. Năng suất rau ước đạt 165,8
tạ/ha, tăng 5,5 tạ/ha. Sản lượng rau ước đạt 111.570,1 tấn, tăng 8,6% (8.853,5
tấn) so với vụ đông xuân 2017.
Diện tích đậu các loại ước đạt 1.781,2 ha, tăng 7,5% (124,5 ha) so với
vụ đông xuân năm 2017; năng suất ước đạt 20,6 tạ/ha, tăng 2,7% (0,5 tạ/ha)
so với vụ đông xuân năm trước; sản lượng ước đạt 3.676,5 tấn, tăng 10,2%
(339,8 tấn).
Tình hình sâu bệnh cây trồng: Trên đồng ruộng có các đối tượng sâu
bệnh gây hại như: chuột, sâu năn, bọ trĩ,... nhưng mức độ nhỏ lẻ, không đáng
kể. Cụ thể:
- Cây lúa: Tổng diện tích nhiễm 5.011,0 ha (nhiễm nhẹ 3.205,5 ha,
nhiễm trung bình 1.327,5 ha, nhiễm nặng 478 ha); trong đó, chuột gây hại
1.261,0 ha, nhiễm sâu cuốn lá nhỏ 158 ha, nhiễm rầy nâu - rầy lưng trắng 68
ha, nhiễm bệnh đạo ôn lá 481,0 ha, bệnh đạo ôn cổ bông 4,5 ha, bệnh vàng lá
sinh lý 2.624,5 ha,... Ngoài ra, còn có dòi đục nõn, sâu năn, sâu keo, sâu phao,
bệnh đốm nâu, nghẹt rễ... phát sinh hại cục bộ.
- Cây rau, màu: Tổng diện tích nhiễm 357 ha (nhiễm nhẹ 294,5 ha,
nhiễm trung bình 51,5 ha, nhiệm, nhiễm nặng 11 ha); trong đó, diện tích
nhiễm bệnh lỡ cổ rễ 118 ha, héo xanh lạc 42,5 ha, nhiễm bệnh thối rễ tỏi 9,0
ha. Ngoài ra, còn có sâu xanh, sâu khoang, sâu xám hại lạc; bọ phấn, nhện đỏ
hại ớt; sâu xám hại ngô; tuyến trùng rễ hại tỏi; bệnh khô đầu lá tỏi; sương mai
hại rau... phát sinh gây hại cục bộ.
b) Chăn nuôi
2
Theo kết quả điều tra thời điểm ngày 01/4/2018, đàn trâu toàn tỉnh có
69.714 con, tăng 1,7% so với cùng thời điểm năm 2017; đàn bò có 278.737
con, tăng 0,4%, trong đó tỷ lệ bò lai đạt 63,3% (tăng 0,3%); đàn lợn có
384.951 con, giảm 8,8%; đàn gia cầm có 5.096 ngàn con, tăng 7,9%.
Đàn lợn giảm là do trong thời gian cuối năm 2017 và trong quý I năm
2018, giá thịt lợn hơi giảm ở mức thấp làm ảnh hưởng đến thu nhập của người
nuôi, hạn chế thả nuôi lại sau xuất chuồng và tăng đàn. Hiện nay giá thịt lợn
hơi đang có xu hướng tăng và có lợi cho người nuôi lợn, tuy nhiên đàn lợn
vẫn chưa được phuc hồi như trước đây.
Trong tháng 5, các bệnh thông thường như tụ huyết trùng - tiêu chảy
trâu bò; bệnh tụ huyết trùng, phó thương hàn, dịch tả, tiêu chảy ở heo phát
sinh rải rác và được giám sát, phòng trị kịp thời, không để phát sinh thành
dịch. Trong tháng (tính đến giữa tháng), bệnh lở mồm long móng gia súc tiếp
tục xảy ra1 tại 101 hộ nuôi (xã Trà Thọ huyện Tây Trà; xã Trà Xuân và Trà
Sơn huyện Trà Bồng) với 273 con bò bị mắc bệnh.
Tính từ đầu năm đến nay, bệnh lở mồm long móng gia súc xảy ra tại
243 hộ ở 25 xã thuộc 10 huyện của tỉnh với tổng số trâu bò mắc bệnh 718 con
(trâu 171 con, bò 526 con, heo 21 con); trong đó chết 11 con (07 con bê và
04 con heo con); tiêu hủy bắt buộc 17 con heo (3 heo nái, 14 con heo con);
điều trị khỏi triệu chứng lâm sàng 417 con (171 trâu, 246 bò). Nguyên nhân
xảy ra dịch chủ yếu do gia súc chưa được tiêm phòng vắc xin LMLM hoặc đã
được tiêm phòng nhưng miễn dịch yếu và mua con giống bị nhiễm mầm bệnh
làm lây lan dịch. Bệnh heo tai xanh chưa xảy ra. Bệnh cúm gia cầm xảy ra tại
01 hộ nuôi (xã Tịnh Phong, huyện Sơn Tịnh) làm chết và buộc tiêu hủy 700
con vịt (400 con vịt lớn, 300 con vịt nhỏ); bệnh lở mồm long móng gia súc
xảy ra tại 84 hộ nuôi với tổng số trâu bò mắc bệnh 149 con (trâu con 127, bò
122 con).
1.2. Lâm nghiệp
Năm 2017, khai thác gỗ rừng trồng nguyên liệu giấy tăng mạnh, tạo
quỹ đất cho trồng rừng. Trong những tháng đầu năm 2018, tận dụng thời tiết
thuận lợi, người dân đẩy nhanh tiến độ trồng rừng. Trong tháng 5, mặc dù
nắng nóng nhưng ở miền núi có mưa rải rác nên trồng rừng vẫn được tranh
thủ thực hiện. Diện tích rừng trồng tập trung trong tháng 5 ước đạt 257 ha,
tăng 3,6% so với cùng tháng năm 2017 (do quỹ đất tăng và tháng 5 năm nay
mưa nhiều hơn).
3
Tính chung 5 tháng đầu năm, trồng được 4.468 ha rừng (chủ yếu là
rừng keo nguyên liệu giấy), tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2017.
Sản lượng gỗ khai thác trong tháng 5 ước đạt 112.555 m3, tăng 30,4%
so với tháng 5 năm 2017. Tính chung 5 tháng, sản lượng gỗ khai thác đạt
375.684 m3, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2017; sản lượng củi khai thác đạt
99.639 ster, tăng 4,1%.
Từ đầu năm đến giữa tháng 5/2018, công tác phòng chống cháy rừng
tốt nên không phát sinh cháy rừng. Trong tháng 5, qua tổ chức tuần tra, kiểm
tra và truy quét, phát hiện 25 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, giảm
13 vụ so với cùng tháng năm 2017; trong đó, có 02 vụ phá rừng làm nương
rẫy với diện tích rừng bị phá là 0,25 ha, giảm 03 vụ so với cùng tháng năm
2017; còn lại là vận chuyển trái phép lâm sản và các vi phạm khác. Trong 5
tháng đầu năm, phát hiện 137 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, tăng
16 vụ so với cùng kỳ năm 2017; trong đó, có 11 vụ phá rừng làm nương rẫy
(không tăng/giảm so với cùng kỳ năm 2017) với diện tích rừng bị phá là 2,32
ha, giảm 63,1% so với cùng kỳ năm 2017.
1.3. Thuỷ sản
Hoạt động thuỷ sản trong tháng vẫn duy trì ổn định nhờ thời tiết thuận
lợi, dịch bệnh tuy có xảy ra nhưng ít và không lây lan trên diện rộng. Sản
lượng thủy sản trong tháng 5 ước đạt 25.870,1 tấn, tăng 5,4% so với tháng 5
năm 2017. Tính chung 5 tháng đầu năm, sản lượng thuỷ sản đạt 108.321,7
tấn, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, thuỷ sản khai thác đạt
106.583,8 tấn, tăng 6,6%; thuỷ sản nuôi trồng đạt 1.737,9 tấn, tăng 1,8% so
với cùng kỳ năm 2017.
a) Khai thác
Khai thác tiếp tục duy trì được nhịp độ tăng trưởng nhờ tăng năng lực
đánh bắt và thời tiết ổn định. Sản lượng trong tháng 5 ước đạt 25.393,3 tấn,
tăng 6,1% so với tháng 5 năm 2017. Tính chung 5 tháng, sản lượng khai thác
ước đạt 106.583,8 tấn, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2017.
b) Nuôi trồng
1 Tháng 4, dịch xảy ra tại 30 hộ ở 4 huyện Sơn Tây, Mộ Đức, Tây Trà và Trà Bồng với tổng số gia súc
mắc bệnh 101 con (trâu 24 con, bò 77 con).
4
Trong những tháng đầu năm 2018, các cơ quan chuyên môn đã tuyên
truyền hướng dẫn người nuôi chấp hành lịch thời vụ do Sở Nông nghiệp và
PTNT khuyến cáo; lựa chọn tôm giống đảm bảo chất lượng và đã qua kiểm
dịch nhằm đảm bảo an toàn dịch bệnh; nhắc nhở, giám sát các hộ dân thực
hiện tiêu độc, khử trùng ao hồ và xử lý nguồn nước trước khi thả nuôi để
phòng bệnh; tăng cường công tác kiểm tra giám sát tôm giống nhằm hạn chế
dịch bệnh. Nhờ vậy, nuôi trồng thủy sản ổn định, dịch bệnh tuy có xảy ra
nhưng ít và không lây lan trên diện rộng. Tính từ đầu năm đến nay, có 25,19
ha diện tích nuôi tôm bị bệnh (huyện Bình Sơn 2,19 ha, huyện Tư Nghĩa 23
ha); trong đó, 1,59 ha bị bệnh Đốm trắng (huyện Bình Sơn 1,44 ha, huyện Tư
Nghĩa 0,15 ha); 0,75 ha bị bệnh do yếu tố môi trường (Bình Sơn); 22,85 ha
diện tích bị bệnh còn lại trên địa bàn huyện Tư Nghĩa không rõ nguyên nhân.
Ngoài ra, cá cam, cá bớp nuôi lồng tại xã An Vĩnh (huyện Lý Sơn) có
hiện tượng chết hàng loạt tại 7 bè nuôi, số lượng cá chết khoảng 30.400 con.
Nguyên nhân do môi trường nuôi tại 7 bè có cá chết bị ô nhiễm nặng.
Nhờ thời tiết thuận lợi, ít dịch bệnh nên diện tích thả nuôi cá, tôm tăng
khá so với cùng kỳ năm 2017. Trong khi đó, các đối tượng nuôi khác như ốc
hương, nghêu, sò, giảm sút do chưa có biện pháp khắc phục tình tình trạng ô
nhiễm môi trường gây dịch bệnh, năng suất thấp (chậm lớn).
Diện tích nuôi cá từ đầu năm đến cuối tháng đạt 740,6 ha, tăng 2,5% so
với cùng kỳ năm 2017; trong đó, đã thu hoạch 112,5 ha, giảm 3,6%. Nhìn
chung, cá chủ yếu nuôi quảng canh nên năng suất thấp.
Tổng diện tích nuôi tôm đạt 520,8 ha, tăng 15,2%; trong đó đã thu
hoạch (từ đầu năm) 200,5 ha, giảm 0,4%. Diện tích nuôi ốc hương từ đầu năm
đạt 14 ha, giảm 48,3% (13 ha) so với cùng kỳ năm 2017.
Sản lượng nuôi thu hoạch trong tháng 5 ước đạt 476,8 tấn, giảm 20,6%
so với tháng 5/2017; trong đó, thu hoạch 57 ha tôm (chủ yếu là tôm thẻ chân
trắng) với sản lượng đạt 331 tấn (7 tấn tôm sú), giảm 20,6%; thu hoạch 129,9
tấn cá, giảm 7,8%. Ước tính 5 tháng, sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt
1.737,9 tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó, thu hoạch tôm đạt
1.233,5 tấn (16,1 tấn tôm sú), tăng 9,1%; thu hoạch cá đạt 400,8 tấn, tăng
2,3% (riêng cá mú 9,7 tấn); cua 6,9 tấn.
- Sản xuất giống: Nhu cầu con giống lớn nhưng sản xuất giống còn
khá yếu kém do hạn chế về kỹ thuật. Trong tháng 5, ước sản xuất được 88
ngàn con giống (cá giống nước ngọt như cá mè, trám cỏ, cá bớp...), tăng
263,3% so với cùng tháng năm 2017. Ước 5 tháng, sản xuất 258 ngàn con
5
giống (cá giống nước ngọt 238 ngàn con; cá bớp 20 ngàn con), tăng 32,6% so
với cùng kỳ năm 2017. Tôm giống thả nuôi từ đầu năm đến nay được mua về
từ ngoài tỉnh.
2. Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 5/2018 ước đạt 9.840,97 tỷ đồng
(theo giá SS 2010), giảm 0,7% so với tháng trước nhưng tăng 9,4% so với
tháng cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế nhà nước đạt 8.335,59 tỷ
đồng, giảm 0,8% so tháng trước nhưng tăng 10,4% so cùng kỳ năm trước;
kinh tế ngoài nhà nước đạt 1.189,6 tỷ đồng, tăng 0,3% so tháng trước và tăng
0,4% so cùng kỳ năm trước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 315,78 tỷ
đồng, bằng tháng trước nhưng tăng 22,0% so với cùng kỳ.
Tính chung 5 tháng đầu năm, GTSX công nghiệp ước đạt 48.458,05 tỷ
đồng (theo giá SS 2010), tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu
vực kinh tế nhà nước đạt 40.316,46 tỷ đồng, tăng 3,7%; kinh tế ngoài nhà
nước đạt 6.107,09 tỷ đồng, tăng 3,0%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt
2.034,5 tỷ đồng, tăng 58,1%.
Một số sản phẩm tăng khá so với cùng kỳ 5 tháng năm 2017 như: Thủy
sản chế biến đạt 4.582 tấn, tăng 8,5%; đường RS trên địa bàn tỉnh đạt 13.023
tấn, tăng 15,1%; quần áo may sẵn đạt 5.458 ngàn cái, tăng 9,2%; nước khoáng
và nước tinh khiết đạt 33.571 ngàn lít, tăng 9,3%; đá khai thác đạt 524,75
ngàn m3, tăng 4,2%; nước máy đạt 5.208 ngàn m3, tăng 8,0%; dăm gỗ nguyên
liệu giấy đạt 380.966 tấn, tăng 53,8%; sản phẩm lọc hoá dầu đạt 2.963.578
tấn, tăng 3,7%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm so cùng kỳ: bia đạt
68.809 ngàn lít, giảm 6,7%; gạch xây các loại đạt 175.650 ngàn viên, tăng
2,3%; phân bón đạt 15.795 tấn, tăng 1,4%; bánh kẹo các loại đạt 5.659 tấn,
giảm 2,9%; nước ngọt đạt 14.867 ngàn lít, giảm 15,4%; sữa các loại trên địa
bàn tỉnh đạt 33.233 ngàn lít, giảm 9,0%; tinh bột mỳ trên địa bàn tỉnh đạt
16.921 tấn, giảm 32,6%; điện sản xuất đạt 244,36 triệu kwh, giảm 17,0%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 5/2018
ước tính tương đương với tháng trước nhưng tăng 14,32% so với tháng cùng
kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến,
chế tạo tăng 0,88%, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Dệt
tăng 7,54%; Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 4,54%; Sản
xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 11,03%; Sản xuất sản phẩm điện tử,
máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 29,25%. Một số ngành có chỉ số tiêu
thu giảm: Sản xuất, chế biến thực phẩm giảm 13,64%; sản xuất đồ uống giảm
6
10,16%; sản xuất trang phục giảm 24,64%; Chế biến gỗ và SX SP từ gỗ, tre,
nứa giảm 23,2%;…
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm
31/5/2018 ước tính giảm 4,88% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng
28,95% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn
kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm như: Dệt tăng 16,15%; Sản xuất
trang phục giảm 7,84%; Chế biến gỗ và SX SP từ gỗ, tre, nứa tăng 7,22%; SX
hoá chất và SP hoá chất giảm 22,47%; SX SP từ khoáng phi kim loại khác
giảm 13,08%; SX kim loại giảm 19,12%; SX SP từ kim loại đúc sẵn giảm
38,87%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn mức tăng chung: SX
chế biến thực phẩm tăng 159,17%; SX đồ uống tăng 137,3%; SX SP từ cao su
và plastic tăng 214,36%; SXSP điện tử, máy vi tính và SP quang học tăng
601,98%.
3. Tình hình đăng ky doanh nghiệp
Trong tháng (tính đến ngày 21/5/2018), toàn tỉnh có 56 doanh nghiệp
đăng ký thành lập mới2 với số vốn đăng ký là 199,18 tỷ đồng, tăng 27,3% về số
doanh nghiệp nhưng giảm 56,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước.
Luỹ kê 5 tháng, toàn tỉnh có 296 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới3
với số vốn đăng ký là 1.868,05 tỷ đồng, giảm 4,52% về số doanh nghiệp và
giảm 84,1% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký bình
quân một doanh nghiệp đạt 6,31 tỷ đồng. Bên cạnh đó, có 126 doanh nghiệp
đăng ký tạm ngừng hoạt động; 55 doanh nghiệp hoạt động trở lại và 18 doanh
nghiệp đã giải thể.
4. Đầu tư, xây dựng
Trong tháng, thời tiết thuận lợi cùng với sự chỉ đao quyết liệt, kịp thời,
thường xuyên của các cấp lãnh đạo và các cơ quan chức năng, qua đó những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện thi công đã kịp thời được tháo
gỡ nên tiến độ thi công nhiều công trình được đẩy nhanh, vốn đầu tư thực
hiện tăng khá so tháng trước.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý
trong tháng ước đạt 273,05 tỷ đồng, tăng 5,9% so với tháng trước. Trong đó,
vốn ngân sách nhà nước đạt 269,08 tỷ đồng, tăng 6,0%; vốn vay đạt 2,56 tỷ
2 Trong đo, công ty cô phân 05 đơn vi; công ty TNHH 2TV trơ lên 18 đơn vi; công ty TNHH
1TV 31 đơn vi; doanh nghiêp tư nhân 2 đơn vi; 3 Trong đo, công ty cô phân 25 đơn vi; công ty TNHH 2TV trơ lên 98 đơn vi; công ty TNHH
1TV 169 đơn vi; doanh nghiêp tư nhân 04 đơn vi;
7
đồng, tăng 0,6%; vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước đạt 1,41 tỷ đồng, tăng
0,9%.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2018, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn
vốn nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 1.211,52 tỷ đồng, tăng 0,7% so
cùng kỳ năm 2017. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước đạt 1.192,68 tỷ đồng,
tăng 0,6%; vốn vay đạt gần 12,08 tỷ đồng, tăng 10,0%; vốn tự có của doanh
nghiệp nhà nước đạt 6,75 tỷ đồng, tăng 7,2%.
5. Thương mai, dịch vụ, giá cả
5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng:
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 5/2018
ước đạt 4.268,2 tỷ đồng, tăng 1,37% so với tháng trước và tăng 11,82% so với
tháng cùng kỳ năm trước. Trong đó, kinh tế nhà nước đạt 258,8 tỷ đồng, tăng
tương ứng 0,71% và 20,08%; kinh tế cá thể đạt 3.100,4 tỷ đồng, tăng tương
ứng 1,54% và 11,83%; kinh tế tư nhân đạt 905,8 tỷ đồng, tăng tương ứng
0,97% và 9,65%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1,9 tỷ đồng, không
tăng giảm so với tháng trước và tháng cùng kỳ năm trước (vì khu vực này chỉ
có một doanh nghiệp cho thuê bất động sản và doanh thu ổn định qua từng
tháng). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xét theo
ngành hoạt động thì hoạt động thương nghiệp đạt 3.085,7 tỷ đồng, tăng 0,88%
so với tháng trước và tăng 9,91% so với tháng cùng kỳ năm trước; dịch vụ lưu
trú đạt 28,9 tỷ đồng, tăng tương ứng 2,35% và 18,58%; dịch vụ ăn uống đạt
859,5 tỷ đồng, tăng tương ứng 3,37% và 19,29%; hoạt động du lịch lữ hành
đạt 0,8 tỷ đồng, tăng tương ứng 2,53% và 18,9%; hoạt động dịch vụ đạt 293,3
tỷ đồng, tăng tương ứng 0,74% và 11,10%.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2018, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 20.741,8 tỷ đồng, tăng 10,11% so với cùng kỳ
năm trước. Trong đó, kinh tế nhà nước đạt 1.256,07 tỷ đồng, tăng 15,65%;
kinh tế cá thể đạt 14.991,8 tỷ đồng, tăng 9,74%; kinh tế tư nhân đạt 4.478,05
tỷ đồng, tăng 9,86%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9,6 tỷ đồng, bằng
100% so cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động: hoạt động thương
nghiệp đạt 15.330,6 tỷ đồng, tăng 9,63%; dịch vụ lưu trú đạt 129,8 tỷ đồng,
tăng 12,58%; dịch vụ ăn uống đạt 3.831,9 tỷ đồng, tăng 10,53%, du lịch lữ
hành đạt 3,8 tỷ đồng, tăng 17,16%; doanh thu hoạt động dịch vụ đạt 1.445,8
tỷ đồng, tăng 14,00% so với cùng kỳ năm trước.
8
5.2. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2018 giảm 0,15% so với tháng
trước; tăng 0,41% so với tháng 12/2017; tăng 3,15% so với cùng kỳ năm
trước; CPI bình quân 5 tháng đầu năm tăng 3,08%.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2018 giảm nhẹ so tháng trước,
không có nhóm hàng hoá dịch vụ nào biến động lớn về giá. Trong đó có 5/11
nhóm hàng hoá và dịch vụ có chỉ số giảm hoặc không tăng không giảm: Hàng
ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,06% (lương thực giảm 2,27%, thực phẩm giảm
1,46%; ăn uống ngoài gia đình không tăng không giảm); bưu chính viễn thông
giảm 0,07%; giáo dục giảm 0,11%; văn hoá, giải trí và du lịch giảm 0,41%;
đồ uống và thuốc lá không tăng không giảm. Các nhóm hàng hoá và dịch vụ
còn lại có chỉ số giá tăng: may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,45%; nhà ở, điện
nước, chất đốt và VLXD tăng 0,61%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,06%;
thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,11%; giao thông tăng 2,20%; hàng hoá và dịch vụ
khác tăng 0,45%.
Chỉ số giá vàng tháng 5/2018 giảm 0,70% so với tháng trước; tăng
4,27% so với tháng 12/2017; tăng 6,23% so với cùng kỳ năm trước; bình quân
5 tháng tăng 6,92%. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 5/2018 giảm 0,08% so với
tháng trước; tăng 0,25% so với tháng 12/2017; tăng 0,24% so với cùng kỳ
năm 2017; bình quân 5 tháng tăng 0,15%.
5.3. Hoạt động vận tải
- Vận tải hành khách tháng 5/2018 ước đạt 541,51 nghìn lượt khách
với mức luân chuyển 124.274,9 nghìn lượt khách.km, so với tháng trước tăng
1,75% về vận chuyển và tăng 3,54% về luân chuyển; so với cùng kỳ năm
trước tương ứng tăng 16,28% và 21,07%. Trong đó, vận tải hành khách bằng
đường bộ đạt 503,08 nghìn lượt khách với mức luân chuyển 123.124,16 nghìn
lượt khách.km, tương ứng tăng 1,88% và 3,57% so với tháng trước, tăng
13,56% và 20,75% so với cùng kỳ năm trước; vận tải hành khách bằng đường
thủy đạt 38,43 nghìn lượt khách với mức luân chuyển 1.150,74 nghìn lượt
khách.km, không tăng giảm cả về vận chuyển và luân chuyển so với tháng
trước, nhưng so với cùng kỳ năm trước tăng tương ứng 69,52% và 69,19%.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2018, vận tải hành khách ước đạt 2.634,13
nghìn lượt khách với mức luân chuyển 613.452,93 nghìn lượt khách.km, tăng
12,65% về vận chuyển và tăng 13,83% về luân chuyển so với cùng kỳ năm
trước. Trong đó, vận tải đường bộ đạt 2.472,0 nghìn lượt khách với mức luân
chuyển 608.595,61 nghìn lượt khách.km, tăng tương ứng 10,54% và 13,57%;
9
Vận tải hành khách đường biển đạt là 162,13 nghìn lượt khách với mức luân
chuyển 4.857,32 nghìn lượt khách.km, tăng tương ứng 58,95% và 58,39% so
với cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hóa tháng 5/2018 ước đạt 975,27 nghìn tấn với mức luân
chuyển 163.727,01 nghìn tấn.km, so với tháng trước tăng 2,56% về vận
chuyển và tăng 2,44% về luân chuyển; so với cùng kỳ năm trước tương ứng
tăng 15,31% và tăng 18,49%. Trong đó, vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ
đạt 962,52 nghìn tấn với mức luân chuyển 163.344,55 nghìn tấn.km, tăng
tương ứng 2,56% và 2,44% so với tháng trước, tăng 15,03% và 18,44% so với
tháng cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy đạt 12,75
nghìn tấn với mức luân chuyển 382,46 nghìn tấn.km, tăng tương ứng 2,49%
và 2,53% so với tháng trước, tăng 40,57% và 40,52% so với cùng kỳ năm
trước.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2018, vận tải hàng hóa ước đạt 4.496,03
nghìn tấn với mức luân chuyển 731.124,98 nghìn tấn.km, tăng 10,95% về vận
chuyển và tăng 12,42% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước. Trong đó,
vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 4.439,50 nghìn tấn với mức luân chuyển
729.428,14 nghìn tấn.km, tăng 10,78% về vận chuyển và tăng 12,39% về luân
chuyển so với cùng kỳ năm trước; Vận tải hàng hoá đường biển đạt 56,53
nghìn tấn với mức luân chuyển đạt 1.696,84 nghìn tấn.km, tăng 25,48% về
vận chuyển và tăng 25,33% về luân chuyển so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi tháng 5/2018 ước đạt 328,4 tỷ
đồng, tăng 1,91% so với tháng trước và tăng 16,35% so với tháng cùng kỳ
năm trước. Bao gồm, doanh thu vận tải hành khách đạt 87,4 tỷ đồng, tăng
tương ứng 2,79% và 7,44%; vận tải hàng hoá đạt 160,6 tỷ đồng, tăng tương
ứng 2,38% và 12,59%; hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải đạt 80,5 tỷ đồng,
tăng tương ứng 0,08% và 38,01%.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2018, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch
vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 1.506,0 tỷ đồng, tăng 7,94% so với cùng kỳ năm
trước. Trong đó, hoạt động vận tải hành khách đạt 443,0 tỷ đồng, tăng 6,21%;
vận tải hàng hoá đạt 736,2 tỷ đồng, tăng 7,56 %; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận
tải đạt 326,8 tỷ đồng, tăng 11,30%.
6. Một số tình hình xã hội:
6.1. Tinh hinh dịch bệnh, ngộ độc thưc phâm
Bệnh sốt xuất huyết: Tính đến hết tháng 4/2018, toàn tỉnh ghi nhận 147
trường hợp sốt xuất huyết; không có tử vong.
10
Hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân: Trong 5 tháng đầu
năm phát hiện 04 trường hợp bệnh mới. Các biện pháp can thiệp, giám sát vẫn
đang tiếp tục được triển khai tại cộng đồng.
Bệnh tay chân miệng: Đến ngày 30/4/2018 số ca mắc: 188 ca, không
có tử vong.
Tổng số người nhiễm HIV toàn tỉnh tính đến nay là 773 người, trong
đó 563 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS; số người tử vong do
HIV/AIDS đến nay là 269 người; số người nhiễm HIV/AIDS còn sống là 504
người.
Trong tháng 5 (đến ngày 15/5) và 5 tháng đầu năm không có vụ ngộ
độc thực phẩm nào xảy ra.
6.2. Hoạt động văn hoá, thể thao; phát thanh truyền hinh
- Hoat động văn hoá, thể thao:
Trong tháng 5/2018, Đoàn Ca múa nhạc dân tộc tỉnh tham gia Chương
trình nghệ thuật đón nhận Bằng UNESCO công nhận nghệ thuật Bài chòi
Trung bộ Việt Nam là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại tại
Bình Định. Trung tâm Văn hoá - Nghệ thuật tỉnh phối hợp với Phòng Văn hoá
và Thông tin, Trung tâm Văn hoá – Thể thao các huyện trong tỉnh tổ chức
biểu diễn chương trình văn nghệ phục vụ các điểm vùng dân tộc thiểu số
tuyến biên giới, biển đảo năm 2018 tại xã Phổ Thạnh (huyện Đức Phổ), xã
Bình Hải (huyện Bình Sơn); biểu diễn chương trình văn nghệ ”Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2018” tại các xã Ba Dinh, Ba
Chùa, Ba Bích, Ba Cung, Ba Động (huyện Ba Tơ)...
Trong tháng, tỉnh đăng cai giải cầu lông trung cao tuổi toàn quốc 2018;
tổ chức thành công giải vô địch trẻ võ thuật Cổ truyền tỉnh Quảng Ngãi lần
thứ XVIII năm 2018; chuẩn bị triển khai Kế hoạch tổ chức lễ khai mạc và tổ
chức các môn thi đấu Đại hội TDTT cấp tỉnh; ban hành kế hoạch phối hợp tổ
chức giải bóng chuyền nữ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ I năm 2018. Hiện toàn tỉnh
đang tổ chức Đại hội Thể dục thể thao cấp huyện, tiến tới tổ chức Đại hội
TDTT cấp tỉnh và chuẩn bị tham gia Đại hội TDTT toàn quốc.
- Hoat động phát thanh và truyền hình:
Trong 6 tháng đầu năm 2018, Đài Phát thanh và Truyền hình đã tập
trung tuyên truyền, phản ánh các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội,
quốc phòng - an ninh quan trọng diễn ra trên địa bàn tỉnh:
11
Tuyên truyền việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XIX nhiệm kỳ 2015 – 2020; sơ kết 02 năm thực hiện 4 Kết luận, 5
Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh uỷ khoá XIX; Chương trình hành động của
Tỉnh uỷ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng. Tuyên truyền thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh”, chủ đề năm 2018: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng phong cách, tác phong công tác của
người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên” gắn với giới thiệu điển hình “Những
tấm gương bình dị mà cao quý”; công tác xây dựng Đảng theo Nghị quyết
Trung ương 4 khoá XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiên
nay”, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về “Tăng cương xây dựng, chinh
đốn Đảng; ngăn chăn, đây lui sự suy thoái về tư tương chính tri, đạo đức, lối
sống, nhưng biêu hiên “tự diên biên”, “tự chuyên hoá” trong nội bộ”; Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về “hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tiếp tục cơ cấu lại, đổi
mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ; phát triển kinh tế tư nhân
trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN” gắn với Chương trình hành động của Tỉnh uỷ...
6.3. Tinh hinh tai nạn giao thông
Tình hình tai nạn giao thông trong tháng (tính từ ngày 16/4/2018 đến
15/5/2018), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ TNGT (các vụ có hậu quả từ ít
nghiêm trọng trở lên), chết 11 người, bị thương 09 người. Trong đó TNGT
đường bộ xảy ra 11 vụ, chết 11 người, bị thương 09 người; TNGT đường sắt,
TNGT đường thuỷ nội địa không xảy ra.
So với tháng cùng kỳ năm trước, số vụ TNGT tăng 01 vụ (tăng 10%),
sô người chết tăng 01 người (tăng 10%), số người bị thương tăng 06 người
(tăng 200%). So với tháng 4/2018, số vụ TNGT giảm 01 vụ, sô người chết
giảm 03 người, số người bị thương tăng 01 người.
Va chạm giao thông trong tháng xảy ra 10 vụ, số người bị thương 14
người. So với tháng cùng kỳ năm trước, số vụ giảm 39 vụ; số người bị thương
giảm 50 người. So với tháng 4/2018, số vụ giảm 06 vụ (giảm 79,59%); số
người bị thương giảm 06 người (giảm 78,12%).
Tính chung 5 tháng đầu năm (từ ngày 16/12/2017 đến ngày 15/5/2018),
toàn tỉnh đã xảy ra 64 vụ TNGT (các vụ có hậu quả từ ít nghiêm trọng trở
lên), chết 68 người, bị thương 38 người. Trong đó, TNGT đường bộ xảy ra 61
vụ, chết 65 người, bị thương 38 người; TNGT đường sắt xảy ra 03 vụ, chết 03
12
người, không có người bị thương; TNGT đường thủy nội địa không xảy ra
(không tăng, không giảm).
So với cùng kỳ năm trước, số vụ tăng 5 vụ (tăng 8,5%), số người chết
tăng 7 người (tăng 11,5%), số người bị thương tăng 01 người (tăng 2,7%).
Trong đó, TNGT đường bộ: số vụ tăng 05 vụ (tăng 8,9%), số người chết tăng
07 người (tăng 12,1%), số người bị thương tăng 01 người (tăng 2,7%); TNGT
đường sắt và TNGT đường thủy nội địa không xảy ra (không tăng, không
giảm).
Va chạm giao thông 5 tháng đầu năm xảy ra 103 vụ, số người bị
thương 147 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ giảm 111 vụ (giảm
51,87%); số người bị thương giảm 139 người (giảm 48,6%).
Trên đây là một số tình hình kinh tế – xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu
năm 2018, Cục Thống kê Quảng Ngãi kính báo cáo./.