15
CÁI CHT CA CHÚ NGA CON John Steinbeck Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB

CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck

Making Ebook Project

BOOKAHOLIC CLUB

Page 2: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

2

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

• Tên sách: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON • Tác giả: John Steinbeck • Nguyên tác: The Red Pony • Dịch giả: Phạm Chu Sa • Nhà xuất bản: Trẻ • Năm xuất bản: 1992 • Số trang: 117 • Khổ sách: 11 x 16 cm • Giá bìa: -- ñồng

ðánh máy: Phan Nga, Phương Trang Kiểm tra: Hồng Sơn Chế bản ebook: Thảo ðoàn Ngày thực hiện: 08/7/2011 Making Ebook Project #152 - www.BookaholicClub.com

Page 3: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

3

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

MỤC LỤC

GIỚI THIỆU TÁC GIẢ .....................................................................................4

I. QUÀ TẶNG....................................................................................................8

II. LỜI HỨA ................................................................................................... 39

Page 4: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

4

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

GIỚI THIỆU TÁC GIẢ

John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 - 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ ñược biết ñến như là ngòi bút ñã miêu tả sự ñấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh ñất của mình ñể sinh tồn.

Sinh ra trong một gia ñình chủ xưởng bột mì ở Salinas, California, John Steinbeck học ở ðại học Stanford. Thuở thiếu thời, ông phụ giúp việc trong nông trại, thu hái nông phẩm, và chịu ảnh hưởng sâu sắc văn học Hy Lạp cổ ñiển, Kinh Thánh và văn học châu Âu cổ ñiển ngay trong những ngày niên thiếu.

Năm 1918 John Steinbeck hoàn thành bậc học trung học. Từ năm 1920 ñến 1925 ông chọn môn văn học Anh và sinh vật học hải dương ở trường ñại học Standford.

Trong cuộc ñời ông ñã làm rất nhiều nghề nghiệp khác nhau, ñặc biệt là việc hay tiếp xúc với người lao ñộng ñã tích lũy những tư liệu hết sức phong phú cho công việc sáng tác của ông sau này.

Page 5: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

5

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Tác phẩm ñầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Of Mice and

Men (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh ñất cho riêng mình ñể canh tác.

Tác phẩm ñược ñánh giá cao nhất là The Grapes of Wrath (1939; ñoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia ñình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của bang Oklahoma, phải chuyển ñến California trong giai ñoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, ñược xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội ñầy cảm ñộng, ñã trở nên một tác phẩm kinh ñiển trong nền văn học Mỹ.

Là một trong những “tượng ñài” văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ ñề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người ñầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục.

John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962.

Tác phẩm:

- Cup of Gold: A Life of Sir Henry Morgan, Buccaneer, With Occasional Reference

to History 1929

- The Pastures of Heaven 1932

- The Red Pony 1933

- To a God Unknown 1933

- Tortilla Flat 1935

- In Dubious Battle 1936: Tên sách là dựa vào tiểu thuyết Paradise Lost của John Milton

- The Harvest Gypsies: On the Road to the Grapes of Wrath [tác phẩm ñăng trên báo, 1936]

- Of Mice and Men 1937: Tên sách là dựa vào bài thơ To a Mouse của Robert Burns

Page 6: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

6

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- The Long Valley 1938

- The Chrysanthemums 1938

- The Grapes of Wrath 1939: Tên sách là dựa vào bài hát The Battle Hymn of the

Republic trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ

- Forgotten Village 1941

- Sea of Cortez: A Leisurely Journal of Travel and Research 1941 (cùng với Ed Ricketts)

- The Moon Is Down 1942: Tên sách là dựa vào vở kịch Macbeth của William Shakespeare

- Bombs Away: The Story of a Bomber Team 1942

- Cannery Row 1945

- The Pearl 1947

- The Wayward Bus 1947

- A Russian Journal 1948 (với hình ảnh của nhiếp ảnh gia Robert Capa)

- Burning Bright: A Play in Story Form 1950

- Log from the Sea of Cortez 1951

- East of Eden 1952: Tên sách là dựa vào Kinh Thánh, ñặc biệt là Genesis 4:16

- Sweet Thursday 1954

- The Short Reign of Pippin IV 1957

- Once There Was A War 1958

- The Winter of Our Discontent 1961: Tên sách là dựa vào vở kịch Richard

III của William Shakespeare

Page 7: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

7

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

- Travels With Charley: In Search of America 1962 (một hồi ký về cuộc du hành của ông, và con chó Charley, tại nhiều nơi trong Hoa Kỳ)

- America and Americans 1966

Tiểu thuyết của John Steinbeck ñã ñược dịch ra tiếng Việt gồm có:

- Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937)

- Chùm nho nổi giận, còn ñược dịch Chùm nho phẫn nộ hay “Chùm nho uất hận”, (The Grapes of Wrath, 1939) ðoạt Giải Pulitzer năm 1940

- Phía ñông vườn ñịa ñàng (East of Eden, 1952)

- ðồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932)

Page 8: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

8

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

I

QUÀ TẶNG

Page 9: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

9

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Rạng sáng, Billy Buck bước ra khỏi căn nhà nhỏ làm nơi ngủ của anh và ñứng ở cổng trong giây lát, ngước mắt nhìn trời. Anh nhỏ người, chân vòng kiềng, vẻ thẳng tính, râu mép quặp xuống, bàn tay vuông vức, thịt u lên từng mảng. ðôi mắt anh màu xám ướt át, cái nhìn trầm ngâm, phần tóc bị lộ ra dưới chiếc mũ rộng vành kiểu Stetson của anh bện lại, bạc ñi vì mưa gió. Billy vẫn ñang nhét chiếc áo sơmi vào chiếc quần jean xanh khi anh ñứng bên cổng. Anh nới lỏng chiếc thắt lưng và lại thắt chặt lại chiếc thắt lưng có nhiều chỗ da bị mòn, bóng nhẵn, bởi trước ñây ñược cài móc, cho thấy bụng anh ngày càng phệ ra. Sau khi nghe ngóng thời tiết, Billy dùng ngón tay trỏ ấn vào một bên mũi ñồng thời xổ mạnh ra ñể hỉ mũi. Rồi anh ñi xuống trại gia súc, vừa ñi vừa xoa hai bàn tay vào nhau. Anh chải lông cho hai con ngựa trong chuồng, luôn miệng nói chuyện thầm thì với chúng. Và khi vừa xong thì tiếng kẻng vang lên từ miếng sắt có ba góc ở nhà chính. Billy xếp bàn chải và lược chải lông ngựa vào nhau và ñặt chúng lên giá treo rồi ñi ăn ñiểm tâm. ðộng tác của anh thận trọng nhưng nhanh gọn ñến nỗi khi anh ñến nhà ăn thì bà Tiflin vẫn còn gõ kẻng. Bà gật ñầu với anh rồi rút vô bếp. Billy Buck ngồi xuống bên bực thềm, vì anh chỉ là người chăn gia súc, nên thật không thích hợp khi anh là người ñầu tiên vô phòng ăn. Anh nghe thấy tiếng ông Tiflin ở trong nhà, ñang dậm chân với ñôi giày ống.

Tiếng kẻng chói tai làm cậu bé Jody cựa mình. Cậu là ñứa bé 10 tuổi, có bộ tóc như ñám cỏ vàng ñầu bụi bậm, ñôi mắt màu xám ánh lên vẻ lễ ñộ và nhút nhát, cái miệng luôn cử ñộng như suy nghĩ. Tiếng kẻng ñã kéo cậu bé ra khỏi giấc ngủ. Cậu chưa bao giờ bất tuân sự báo hiệu gay gắt ñó. Chưa bao giờ có ai trong số cậu biết lại không tuân theo nó. Cậu vuốt mớ tóc rối bù vương vào mắt và cởi bỏ bộ áo ngủ. Trong giây lát cậu ñã thay xong áo quần. Cậu mặc áo sơmi, và quần liền yếm che ngực. Lúc ñó, ñang ñộ cuối Hè, nên chẳng phải băn khoăn gì về giày dép nữa. Trong bếp, chờ ñến khi mẹ ra khỏi bồn rửa bát ñi về phía lò, cậu mới rửa ráy và dùng tay chải tóc ra sau. Mẹ cậu ñột ngột quay lại khi cậu rời bồn rửa. Jody ngượng ngùng quay ñi.

- Mẹ phải cắt tóc con kẻo dài lắm. Bữa ăn sáng trên bàn ấy, vào mà ăn ñi, kêu Billy vào ăn luôn.

Jody ngồi xuống chiếc bàn dài phủ một tấm vải dầu trắng, do giặt giũ nhiều nên nhiều chỗ lộ cả thớ vải ra. Trứng rán xếp trong chỗ ñĩa gỗ. Jody ăn ba quả trứng trong

Page 10: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

10

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

ñĩa mình và ba lát dày thịt heo muối xông khói rán giòn. Cậu cẩn thận vét hết lòng ñỏ trứng còn sót. Billy Buck nặng nề bước vào.

- Nó sẽ chẳng làm ñau ông ñâu - Billy giải thích gì ñó - Nó chỉ là cái dấu vết con gà trống ñể lại.

Người bố cao ráo và nghiêm khắc của Jody bước vào, và Jody nghe thấy tiếng giày của bố nện trên sàn, nhưng cậu vẫn nhìn xuống gầm bàn ñể chắc rằng mình ñúng. Bố cậu thổi tắt ñèn dầu treo phía trên bàn vì ánh nắng ñã hắt qua cửa sổ.

Jody không hỏi xem bố và Billy hôm nay ñi ñâu, nhưng mong là mình ñược ñi theo. Bố cậu là người rất nghiêm túc. Jody vâng lời Bố trong mọi việc mà không bao giờ thắc mắc ñiều gì cả. Bây giờ ông Tiflin mới ngồi xuống và với lấy ñĩa trứng.

- Lũ bò ñã sẵn sàng ñi chưa, Billy?

- Ở bãi dưới ấy - Billy nói - Tôi vừa ñưa chúng vào ñó một mình.

- Chắc là vậy. Nhưng con người ta cần có bầu bạn. Hơn nữa giọng anh hơi khàn ñấy.

Sáng nay ông Tiflin thật vui vẻ.

Mẹ Jody ló ñầu vào cửa:

- Anh tính mấy giờ thì về, anh?

- Anh không thể biết chắc ñược. Anh phải gặp vài người Salinas ñã. Có lẽ ñến tối mới về.

Trứng, cà phê và bánh bích qui chẳng mấy chốc ñã hết. Jody theo hai người ra khỏi nhà. Cậu xem họ cưỡi ngựa và lùa sáu con bò sữa già ra khỏi bãi rào và bắt ñầu băng qua ñồi ñi về phía Salinas. Họ ñem bán những con bò già cho hàng thịt.

Sau khi họ mất hút sau dãy ñồi hẹp và dài, Jody ñi lên ñồi phía sau nhà. Mấy con chó vui thích chạy lon ton quanh góc nhà cong người lại và nhe răng ra trông thật dữ tợn. Jody vỗ ñầu chúng. Mutt có cái ñuôi to, dày và mặt vàng, còn Smasher, tên chăn cừu, ñã có lần giết chết một con sói ñồng hoang và bị mất một cái tai trong vụ này. Cái tai còn nguyên của nó ñứng thẳng lên cao hơn cả cái tai giống chó Côli. Billy nói rằng ñó là

Page 11: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

11

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

chuyện bình thường. Sau khi ñón mừng, mấy con chó hạ thấp mõm xuống và ñi trước một cách thuần thục, chốc chốc lại quay nhìn ñể tin chắc rằng cậu chủ vẫn theo mình. Chúng ñi qua sân nuôi gà con và thấy con chim cút ñang ăn cùng với lũ gà con. Smasher khẽ ñuổi lũ gà con như kiểu ñang chăn cừu vậy. Jody tiếp tục ñi qua khoảng ñất rộng trồng rau, ở ñó bắp ñã mọc cao hơn ñầu cậu. Bí ngô còn nhỏ và xanh. Cậu ñi tiếp ñến chỗ cây ngải ñắng, nơi có một dòng nước mát lạnh chảy ra và ñổ vào một cái bồn gỗ tròn. Cậu tựa người vào bồn uống ước chỗ rêu phủ ñầy, ở ñó nước có vị ngon nhất. Rồi cậu quay nhìn lại phía sau, nơi trại nuôi gia súc, ngôi nhà thấp quét vôi trắng nằm giữa những cây phong lữ ñỏ thắm và nhà ngủ dài cạnh cây bách, Billy ở một mình. Ở ñó Jody có thể nhìn thấy cả cái ấm ñun nước màu ñen to lớn dưới gốc cây bách. ðó chính là nơi cạo lông heo. Mặt trời ñang lên cao trên dãy ñồi, chiếu sáng lóa lớp vôi trắng những căn nhà, những chuồng gia súc, làm những ngọn cỏ ướt ánh lên dìu dịu. Sau lưng cậu, trong các cây ngải cao, lũ chim ñang chạy nhảy tung tăng trên mặt ñất, làm ồn ào trong ñám lá khô, lũ sóc kêu lên inh tai nhức óc trên những ngọn ñồi gần ñấy. Jody nhìn dọc theo các dãy nhà trong các trang trại, cậu cảm thấy một ñiều gì ñó không rõ ràng trong không trung, một cảm giác ñổi thay mất mát trong sự nảy sinh những ñiều mới mẻ và xa lạ. Trên sườn ñồi, hai con ó ñen lượn thấp và bóng của chúng lướt nhẹ trước chúng. Có con thú nào ñó ñã chết quanh ñây, Jody biết chắc vậy. Có thể là một con bò hay phần sót lại của một con thỏ. Bọn chim ó này không bao giờ bỏ sót cái gì. Jody căm ghét chúng như mọi ñiều tốt lành ñều ghét chúng, nhưng không làm gì ñược vì chúng bay ñi ngay với xác chết.

Một lúc sau cậu bé lững thững xuống ñồi. Mấy con chó ñã bỏ cậu ở ñó nãy giờ và chui vào bụi cây ñùa giỡn với nhau. Cậu quay về ñi ngang qua vườn rau, dừng lại trong chốc lát, dùng gót nghiền nát một quả dưa xanh, nhưng chẳng thú vị gì khi làm ñiều ñó. Cậu biết rõ ñó là ñiều xấu xa. Cậu ñá vung ñất lên ñể lấp quả dưa lại và xóa dấu ñi.

Khi về nhà, mẹ cậu nhìn bàn tay sần sùi, kiểm tra các ngón và móng tay của cậu. ðó là việc tốt ñể cậu ñến trường sạch sẽ, vì có thể sẽ xảy ra lắm chuyện lôi thôi trên ñường ñến trường. Mẹ cậu thở dài ngao ngán khi thấy những vết nứt màu ñen trên những ngón tay của con, nhưng rồi bà ñưa tập vở và thức ăn trưa cho con và cậu bé ñi bộ ñến trường. Bà lưu ý rằng sáng nay miệng cậu làm việc hơi nhiều.

Page 12: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

12

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Jody bắt ñầu ñi. Cậu bé nhét ñầy túi những mẩu thạch anh nhỏ màu trắng nhặt ñược trên ñường. Thỉnh thoảng cậu bắn vào một con chim hay một con thỏ nằm phơi nắng quá lâu bên ñường. Tại ngã tư khi băng qua cầu, cậu gặp hai ñứa bạn và cả ba cùng ñi, bước những bước dài ngộ nghĩnh và buồn cười. Trường học chỉ vừa khai giảng ñược hai tuần. ðám học sinh vẫn chưa vào nề nếp.

***

Khi Jody lên ñến ñỉnh ñồi và lại nhìn xuống nhà trại lần nữa thì ñã bốn giờ chiều. Cậu bé ñưa mắt tìm những con ngựa, nhưng bãi rào vẫn trống. Vậy là bố cậu chưa về. Sau ñó cậu lại ñi chầm chậm về phía nhà, tính làm những công việc lặt vặt buổi chiều. ðến nhà, cậu thấy mẹ ñang ngồi bên cổng vá bít tất.

- Trong bếp có hai cái bánh rán dành cho con ñấy - Bà nói.

Jody chạy vào bếp, và quay ra với cái bánh chỉ còn một nửa, miệng ñầy bánh. Mẹ cậu hỏi hôm ấy ở trường học những gì, nhưng bà không nghe trả lời bởi cậu bị nghẹn vì bánh. Bà nói tiếp:

- Jody, tối nay xếp củi thật ñầy vào thùng nhé. Tối qua con xếp chồng chéo lung tung nên chưa ñầy ñược nửa. Phải xếp cho ngay ngắn. Còn việc nữa, Jody, mấy con gà ñang ñẻ giấu trứng ñâu ñó, sợ lũ chó ăn hết, còn tìm xem trong ñám cỏ có cái ổ nào nữa không?

Jody ñi làm việc, miệng vẫn ñang ăn. Cậu thấy con chim cun cút sà xuống ăn cùng với ñám gà con khi cậu ném thóc ra. Và không biết vì một lý do nào mà bố cậu lấy làm tự hào khi con cun cút ñến, bởi vậy ông không bao giờ cho phép ai bắn chúng gần nhà vì ông sợ con cun cút có thể sợ hãi bỏ ñi.

Sau khi chất ñầu thùng củi Jody xách khẩu súng săn 22 của cậu ñến chỗ có dòng nước ở bụi cây. Cậu lại uống nước và nhắm súng vào mọi thứ: vào ñá, vào chim trên chái nhà, vào cái ấm to bự màu ñen dưới cây bách, nhưng cậu không bắn vì không có ñạn. Phải ñợi ñến ñúng 12 tuổi mới ñược phép có ñạn. Nếu Bố mà thấy cậu nhắm súng về phía nhà, ông sẽ hoãn lại thêm một năm nữa. Jody ghi nhớ ñiều này và cậu không chĩa súng xuống ñồi nữa. Hầu như tất cả mọi món quà của Bố cho ñều kèm những ñiều kiện làm hạn chế phần nào giá trị thực của chúng. Dù sao ñó cũng là một kỷ luật tốt.

Page 13: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

13

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Bữa tối còn ñợi Bố về mới bắt ñầu. Cuối cùng khi Bố cậu cùng Billy Buck bước vào, Jody có thể ngửi thấy mùi rượu Brandy thơm ngon qua hơi thở của họ. Trong thâm tâm cậu cảm thấy vui sướng vì Bố cậu khi ñã uống rượu vào thì lại hay trò chuyện với cậu, ñôi khi ông kể những việc ñã làm trong những ngày cuồng nổi xưa kia, khi ông còn là một cậu bé.

Sau bữa ăn, Jody ngồi bên lò sưởi, ñôi mắt hiền lành e thẹn của cậu nhằm vào các góc nhà và cậu chờ ñợi Bố cậu sẽ kể cái gì ñó. Nhưng rồi cậu thất vọng. Bố cậu nghiêm khắc chỉ vào cậu:

- Con nên ñi ngủ ñi, Jody. Sáng mai có việc cần ñến con.

ðiều ñó cũng không ñến nỗi nào. Jody thích làm những việc cậu phải làm cho ñến khi nó không còn là những việc vặt hằng ngày nữa. Cậu nhìn xuống sàn nhà, miệng cậu như hỏi một câu gì ñó trước khi cậu cất tiếng:

- Sáng mai chúng ta sẽ làm gì hả Bố, giết lợn à?

- ðừng bận tâm. Tốt hơn là con ñi ngủ ñi.

Khi cánh cửa khép lại sau lưng, Jody nghe thấy Bố và Billy Buck cười khúc khích và cậu biết rằng có một câu ñùa tếu nào ñó. Sau khi nằm trong giường, cố gắng ñoán những tiếng thì thầm vọng ra, cậu nghe thấy bố cậu phản ñối:

- Mà này, Ruth, tôi ñã cho nó cái gì nhiều ñâu.

Jody nghe thấy tiếng cú kêu săn chuột dưới chuồng gia súc, tiếng một cành cây nào ñó ñập ñập vào mái nhà. Một con bò ñang rống lên khi cậu thiếp ñi.

***

Buổi sáng, khi tiếng kẻng vang lên, Jody thay quần áo nhanh hơn lệ thường. Trong bếp, lúc cậu rửa mặt, chải ñầu, mẹ cậu càu nhàu.

- ðừng có ñi ñâu khi chưa ăn sáng ñàng hoàng ñấy nhé.

Page 14: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

14

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

Cậu ñi vào phòng ăn và ngồi xuống cái bàn dài màu trắng. Cậu lấy một miếng bánh nóng, xếp hai quả trứng chiên lên ñó, rồi lấy một miếng bánh khác ñè lên trên và dùng nĩa ép chặn tất cả lại.

Bố cậu và Billy bước vào. Nghe tiếng chân trên sàn nhà, Jody biết cả hai người ñi giầy ống ñẹp. Nhưng cậu vẫn liếc nhìn xuống gầm ñể biết chắc. Bố cậu tắt ñèn vì sáng rõ rồi, và ông có vẻ nghiêm nghị và giữ kỷ luật. Billy Buck không nhìn Jody chút nào cả. Anh tránh cặp mắt dò hỏi ngượng nghịu của cậu bé và nhúng cả miếng bánh mì nướng vào cốc cà phê của mình.

Ông Tiflin gắt gỏng nói:

- Ăn sáng xong ñi với bố và Billy.

Jody bỗng thấy khó mà nuốt trôi thức ăn tiếp, vì cậu cảm thấy như có cái gì ñó sắp sụp ñổ hoàn toàn. Sau khi Billy nghiêng cái ñĩa uống hết cà phê bị ñổ vào trong ñó, rồi chùi sạch tay vào quần, hai người ñàn ông ñứng dậy và ñi ra ngoài. Jody kính cẩn ñi theo họ. Cậu cố giữ mình ñể khỏi chạy lên trước, cố giữ cho ñầu óc hoàn toàn không bị xáo trộn.

Mẹ cậu gọi theo:

- Carl, ñừng ñể nó trễ học nhé!

Họ ñi qua cây bách, nơi có một ñòn ngang ñược ngáng qua cành cây ñể mổ heo và qua luôn cái ấm sắt ñen, vậy là không phải giết heo rồi. Mặt trời tỏa sáng khắp khu ñồi, tạo ra những bóng cây và tòa nhà dài sẫm màu. Họ vượt qua một cánh ñồng ñã gặt chỉ còn trơ gốc ñến một con ñường tắt dẫn ñến trại gia súc. Bố Jody mở cửa và họ bước vào. Trên ñường tới ñây, họ ñã ñi dưới ánh mặt trời. Cái trại gia súc này thì tối ñen như mực, trái ngược hẳn với bên ngoài, và nó còn hừng hực mùi cỏ khô và mùi gia súc. Bố của Jody tiến tới một ngăn chuồng.

- Lại ñây - ông ra lệnh.

Giờ ñây Jody có thể nhìn thấy các thứ. Cậu nhìn vào chuồng và bỗng lùi lại, một chú ngựa con màu ñỏ trong chuồng ñang nhìn cậu. Hai cái tai dựng ñứng của nó ñưa ra trước

Page 15: CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

John Steinbeck CÁI CHẾT CỦA CHÚ NGỰA CON

15

BO

OK

AH

OL

IC

C

LU

B

|

Ma

ki

ng

E

bo

ok

P

ro

je

ct

hai mắt ánh lên vẻ bướng bỉnh. Bộ lông của nó bờm xờm và dầy như lông con chó Airedale và bờm thì dài và rối tung. Cổ họng Judy như nghẹn lại và thở ñứt quãng.

- Nó cần ñược chải lông rất kỹ - Bố cậu nói - và nếu bố mà nghe nói con không cho nó ăn hay ñể chuồng nó dơ, bố sẽ bán nó ñi ngay ñấy!

Jody không thể nhìn mãi ñôi mắt của chú ngựa ñược nữa. Cậu liếc nhìn xuống bàn tay giây lát và hỏi với vẻ bẽn lẽn:

- Của con à?

Không ai trả lời cậu. Cậu chìa tay ra phía con ngựa. Cái mõm xám của nó dí lại gần hít hít thật mạnh, môi nó cong lên và những cái răng chắc, khỏe của nó kề vào những ngón tay của Jody. Chú ngựa con rung rung cái ñầu lên xuống và dường như nó khoái trá vì cái trò tiêu khiển này. Jody nhìn những ngón tay bị thâm tím của mình. Cậu hãnh diện nói:

- Ồ, con ñoán là nó có thể cắn ra trò lắm ñây!

Hai người ñàn ông cười cho nhẹ nhõm ñôi chút.

Ông Tiflin ra khỏi chuồng và ñi lên ñồi bên ñể ñược ñứng một mình vì ông cảm thấy bối rối, nhưng Billy Buck vẫn ở lại. Nói chuyện với Billy thì dễ hơn. Jody hỏi lại:

- Của em à?

Billy nói với giọng nhà nghề:

- ðúng ñấy, có ñiều là phải trông nom và tập luyện cho nó thuần thục. Anh sẽ chỉ cách. Nó mới chỉ là một con ngựa còn non nớt. Chưa thể cưỡi lúc này ñược ñâu.

Jody lại chìa bàn tay thâm tím của mình ra, và lần này chú ngựa ñỏ cọ cọ mõm vào tay cậu.

- Em sẽ tìm cho nó một củ cà rốt - Jody nói và hỏi thêm - Chúng ta mua nó ở ñâu vậy, Billy?