24
Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong PHẦN MỞ ĐẦU Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, mục tiêu xoá đói giảm nghèo không chỉ có ở nước ta mà còn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Nghèo đói không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội được hưởng thụ thành quả văn minh tiến bộ của loài người mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về vấn đề kinh tế xã hội đối với sự phát triển, sự tàn phá môi trường sinh thái. Vấn đề nghèo đói không được giải quyết thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế cũng như quốc gia định ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hoà bình ổn định, đảm bảo các quyền con người được thực hiện. Đặc biệt ở nước ta, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn và lạc hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi. Theo số liệu thống kê mới nhất, hiện nay cả nước có khoảng trên 2 triệu hộ nghèo đói chiếm 11% tổng số hộ trong cả nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói nhưng phải kể hơn cả là thiếu vốn và kỹ thuật làm ăn. Vốn cho người nghèo đang là một nghị sự nóng hổi trên diễn đàn kinh tế. Giải quyết vốn cho người nghèo để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Vậy, nhà nước đã quan tâm tới người nghèo như thế nào? Nguồn vốn đó xuất phát Võ Thị Lan Thanh K7 – NH3 1

chi ngan sách

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

PHẦN MỞ ĐẦU

Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, mục tiêu xoá đói giảm nghèo không

chỉ có ở nước ta mà còn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Nghèo đói không chỉ

làm cho hàng triệu người không có cơ hội được hưởng thụ thành quả văn minh tiến bộ

của loài người mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về vấn đề kinh tế xã hội đối

với sự phát triển, sự tàn phá môi trường sinh thái. Vấn đề nghèo đói không được giải

quyết thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế cũng như quốc gia định ra như

tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hoà bình ổn định, đảm bảo các quyền con người

được thực hiện. Đặc biệt ở nước ta, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường với xuất phát

điểm nghèo nàn và lạc hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi. Theo số

liệu thống kê mới nhất, hiện nay cả nước có khoảng trên 2 triệu hộ nghèo đói chiếm 11%

tổng số hộ trong cả nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói nhưng phải kể hơn cả

là thiếu vốn và kỹ thuật làm ăn. Vốn cho người nghèo đang là một nghị sự nóng hổi trên

diễn đàn kinh tế. Giải quyết vốn cho người nghèo để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm

nghèo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Vậy, nhà nước đã quan tâm tới

người nghèo như thế nào? Nguồn vốn đó xuất phát từ đâu? Đó là lý do mà hôm nay em

chọn đề tài: “Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo” để làm bài tiểu luận.

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 1

Page 2: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

NỘI DUNG

⪧CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1. Khái quát về ngân sách nhà nước (NSNN) và chi ngân sách nhà nước:

Ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã

được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để

bảo đảm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước

Thu ngân sách nhà nước: Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế,

phí,lệ phí, các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản đóng góp của các

tổ chức và cá nhân, các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật

Là một trong hai nội dung cơ bản của ngân sách nhà nước:

-Chi NSNN thể hiện các quan hệ Tài chính – Tiền tệ được hình thành trong quá trình

phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm bảo đảm các nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà

nước và thực hiện các chức năng chính trị, kinh tế, xã hội của Nhà nước.

-Chi NSNN là sự kết hợp hài hoà giữa quá trình phân phối quỹ NSNN để hình thành

các quỹ tài chính của các cơ quan, đơn vị và quá trình sử dụng các quỹ tài chính này.

-Chi NSNN là các khoản cấp phát, thanh toán từ quỹ NSNN cho các cơ quan, đơn vị

và cá nhân có tính không hoàn lại. Quy mô của chi NSNN phụ thuộc vào quy mô các

khoản thu của NSNN và những nhiệm vụ chi mà nhà nước cần phải thực hiện

-Chi NSNN gắn chặt với bộ máy quản lý nhà nước và việc triển khai thực hiện

những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội mà nhà nước phải đảm nhận.

-Chi NSNN là một quá trình liên tục, gắn bó mật thiết với sự tồn tại và phát triển của

nền kinh tế và đời sống xã hội, việc xây dựng dự toán và quyết toán chi NSNN được thực

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 2

Page 3: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

hiện theo đúng niên độ. Cuối năm ngân sách có số kết dư để chuyển sang năm sau, nếu có

thâm hụt, phải xác định rõ nguồn bù đắp và sẽ được xử lý vào năm ngân sách tiếp theo.

*Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, là chủ thể duy nhất có quyền

quyết định quy mô, nội dung, cơ cấu chi NSNN; quyết định tổng dự toán và tổng quyết

toán NSNN; quyết định bổ sung, điều chỉnh chi NSNN giữa các nhiệm kì, kể cả tổng mức

chi đối với những công trình lớn, đặc biệt quan trọng của quốc gia.

-Chi NSNN được phân cấp cho chính quyền địa phương quản lý và điều hành. Ở

Trung Ương do Chính Phủ trực tiếp quản lý, ở các cấp chính quyền địa phương do Uỷ

Ban Nhân Dân quản lý dưới sự giám sát của Hội Đồng Nhân Dân

Việc bố trí các khoản chi NSNN thường được xem xét đến tính hiệu quả ở tầm vĩ

mô, có tính đến lợi ích quốc gia, các vùng lãnh thổ, các khu vực, các địa phương trên cơ

sở thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và nâng cao đời sống nhân

dân đã được Quốc Hội và Hội Đồng Nhân Dân các cấp thông qua.

Các khoản chi NSNN nói chung thường không mang tính bồi hoàn trực tiếp; ngoại

trừ một số khoản chi NSNN cho vay hỗ trợ, ưu đãi thông qua tổ chức tín dụng đặc biệt

của Nhà nước mang tính đặc thù của mỗi quốc gia trong từng thời kì nhất định.

Các khoản chi NSNN gắn liền với các phạm trù kinh tế như đầu tư phát triển, lợi

nhuận, tiền lương, viện trợ... và thường chịu sự tác động trực tiếp của các phạm trù giá trị

như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền tệ, tín dụng...

2. Phân loại chi ngân sách nhà nước

Phân loại chi NSNN là việc sắp xếp các khoản chi NSNN vào các nhóm, các loại chi

khác nhau theo những tiêu chí nhất định.

- Theo mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi:

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 3

Page 4: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

Chi NSNN được chia thành chi tiêu dùng và chi đầu tư phát triển

- Theo tính chất các khoản chi:

Chi NSNN được chia thành chi cho Y tế; chi cho Giáo dục; chi Phúc lợi; chi quản lý

Nhà nước; chi đầu tư Kinh tế...

- Theo chức năng của Nhà nước:

Chi NSNN được chia thành chi nghiệp vụ và chi phát triển

- Theo tính chất pháp lý:

Chi NSNN được chia thành các khoản chi theo luật định; các khoản chi đã được cam

kết; các khoản chi có thể điều chỉnh.

- Theo yếu tố các khoản chi:

Chi NSNN được chia thành chi đầu tư phát triển; chi thường xuyên và chi khác.

Trong đó:

Chi đầu tư phát triển bao gồm các khoản chi về: đầu tư, xây dựng các công trình kết

cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn; đầu tư và hỗ trợ cho các

doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần,

liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo

quy định của pháp luật; bổ sung dự trữ của Nhà nước; đầu tư phát triển các chương trình

mục tiêu Quốc gia, dự án Nhà nước; các khoản chi đầu tư phát triển theo quy định của

pháp luật.

Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi về: các hoạt động sự nghiệp, giáo dục, đào

tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và

công nghệ; các sự nghiệp xã hội khác; các hoạt động sự nghiệp về kinh tế, quốc phòng, an

ninh và trật tự an toàn xã hội; hoạt đông của các cơ quan Nhà nước; hoạt động của Đảng

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 4

Page 5: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

Cộng sản Việt Nam, Uỷ Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt

Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam...; trợ giá

theo chính sách của Nhà nước; phần chi thường xuyên thuộc các chương trình mục tiêu

quốc gia, dự án Nhà nước; hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội, trợ cấp cho các đối tượng chính

sách xã hội các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật; trả nợ gốc và

lãi các khoản tiền do Chính phủ vay.

3. Vai trò của ngân sách nhà nước và chi ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển

sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.

- Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế

Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát

triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.

Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ

đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho

nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.

Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết

cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi

trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi

thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng

không đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình

thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc

quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong

những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ

trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị

cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy

động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định

hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh

- Giải quyết các vấn đề xã hội

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 5

Page 6: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như

chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu,

các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ

trợ đồng bào bão lụt.

- Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường hàng hoá

Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến

lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ

quốc gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của

chính phủ. Kiềm chế lạm phát: cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ

thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ.

Dân giàu thì nước mới mạnh, vì vậy việc thực hiện xóa đói giảm nghèo rất được đảng và

nhà nước quan tâm. Các chương trình xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam bắt đầu được triển

khai thực hiện từ đầu thập kỷ 90, với các mục tiêu tăng thu nhập cho người nghèo, cải

thiện mức sống và gia tăng phúc lợi xã hội thông qua các dịch vụ công thiết yếu và trao

quyền nhiều hơn cho người nghèo. Chi NSNN cung cấp nguồn lực tài chính cho việc thực

hiện những mục tiêu trên... Vậy chi ngân sách được nhà nước thực hiện như thế nào?

Tình hình ra sao?

⪧CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG XÓA ĐÓI

GIẢM NGHÈO:

Đói nghèo không chỉ là thách thức đối với các nước nghèo và các nước đang phát triển,

mà luôn là mối quan tâm hàng đầu của cả thế giới. Nghèo đói là tình trạng một bộ phận

dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người. Những nhu

cầu này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội, phong tục tập quán của từng

vùng được xã hội thừa nhận. Chuẩn nghèo tuyệt đối do Ngân hàng Thế giới xác định là 1

USD và 2 USD/người/ngày tính theo sức mua ngang giá (PPP) năm 1993. Trên thế giới

hiện có hơn 1 tỷ người đang phải sống trong cảnh nghèo khổ với mức thu nhập dưới 1

USD/ngày. Song nếu xét theo chuẩn nghèo tương đối - thể hiện ở tình trạng một bộ phận

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 6

Page 7: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương tại một thời kỳ

nhất định - thì ngay cả ở các nước phát triển cũng có người nghèo. Chẳng hạn, các nước

EU xác định người nghèo là người có mức thu nhập ít hơn 60% mức thu nhập bình quân

đầu người ở quốc gia đó.

Ở Việt Nam, tuy mức chênh lệch giàu nghèo không lớn, song quá trình phân hoá diễn ra

khá rõ nét. Năm 2006 thu nhập của 20% người giàu nhất gấp 8,37 lần so với thu nhập của

20% người nghèo nhất,trong khi đó tỷ lệ này là 6,99 lần vào năm 1995. Sự chênh lệch

giàu nghèo còn được phản ánh trong việc hưởng thụ các hàng hoá và dịch vụ, bao gồm cả

dịch vụ công – là những dịch vụ thiết yếu cho cuộc sống của tất cả mọi người, trong đó

có người nghèo. Chi tiêu của nhóm 20% người giàu nhất cho chăm sóc sức khoẻ năm

2006 gấp 3,9 lần chi tiêu của nhóm người nghèo cho dịch vụ này, đối với giáo dục, tỷ lệ

này là 5,75 lần.

Chương trình xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam bắt đầu được triển khai thực hiện từ đầu

thập kỷ 90 và đến năm 2002, Chính phủ đã đưa ra Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và

giảm nghèo. Trong những năm qua, Việt Nam đã thu được những thành tựu quan trọng

trong xoá đói giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo theo ngưỡng nghèo mới năm 2009 là 12,3% so

với mức 34,4% năm 1995 và 18,10% năm 2004.

Chi tiêu ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng nhằm cung cấp nguồn lực tài

chính cho việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Chi NSNN dưới các hình thức

như chi đầu tư, chi thường xuyên tự thân nó đã hướng đến thúc đẩy sự phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước, nâng cao thu nhập cho dân cư, trong đó có người nghèo. Hơn thế

nữa, trong bố trí các loại chi nói trên, Chính phủ đã thể hiện sự quan tâm đến mục tiêu

xoá đói giảm nghèo. Các định mức phân bổ chi thường xuyên và chi đầu tư cho các địa

phương đều tính đến yếu tố nghèo. Tiêu chí phân bổ chi đầu tư cho các địa phương có

tính đến tỷ lệ hộ nghèo, với mức 1 điểm cho 10% tỷ lệ hộ nghèo. Định mức phân bổ chi

thường xuyên cũng ưu tiên cho các vùng núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu và vùng

cao. Chẳng hạn, mức chi cho giáo dục trên 1 người dân ở vùng sâu cao hơn ở vùng đô thị

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 7

Page 8: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

là 1,5 lần, tương tự, mức chi cho y tế chênh lệch giữa hai vùng này gấp 1,7 lần. Đồng

thời, định mức chi cho các dịch vụ công thiết yếu này đối với vùng núi, vùng đồng bào

dân tộc, vùng sâu, vùng núi cao-hải đảo giai đoạn 2007 -2010 tăng so với giai đoạn 2004-

2006 với tốc độ cao hơn so với định mức chi cho vùng đô thị và đồng bằng. Chẳng hạn,

định mức chi cho y tế miền núi cao, hải đảo giai đoạn 2007-2010 tăng 2,8 lần so với thời

kỳ 2004-2006, trong khi đó tỷ lệ này đối với vùng đồng bằng là 2,2 lần.

Bên cạnh các nội dung chi cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói

chung, trong chi tiêu công có một nội dung chi riêng biệt tập trung vào mục tiêu xoá đói

giảm nghèo – đó là chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia. Các chương trình mục

tiêu quốc gia này bao gồm: Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó

khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135), Chương trình mục tiêu quốc gia

giảm nghèo (Chương trình 143), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối

với 61 huyện nghèo theo Nghị quyết 30A/2008, các chương trình trong lĩnh vực y tế, văn

hoá, giáo dục, vệ sinh môi trường… Chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho các chương

trình này đã tăng lên nhanh chóng. Tổng chi tiêu cho các chương trình mục tiêu quốc gia

năm 2009 đã tăng gấp 9 lần so với năm 1998. Hàng năm, chương trình mục tiêu quốc gia

về giảm nghèo đã hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho hàng trăm xã thuộc vùng đặc biệt

khó khăn và hải đảo, năm 2006 và 2007 mỗi năm xây dựng 347 công trình, năm 2008 là

550 công trình. Các chương trình nói trên đã góp phần quan trọng vào mục tiêu xoá đói

giảm nghèo, đặc biệt là tăng sự hưởng thụ dịch vụ công của người nghèo như cải thiện cơ

sở hạ tầng cho các vùng nghèo, vùng núi, vùng sâu, tăng cường các dịch vụ giáo dục, y tế

cho người nghèo, cải thiện môi trường sống và sinh hoạt cho người nghèo… Nhờ đó, khả

năng tiếp cận của người nghèo đối với một số dịch vụ công đã gần tương đương với

nhóm người giàu, chẳng hạn số người ở nhóm giàu nhất được sử dụng điện lưới là

96,7%, trong khi số người nghèo nhất được sử dụng nguồn điện này là 90,7%.

Chi NSNN nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo còn được thực hiện thông qua các chính

sách hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước đối với người nghèo. Từ đầu những năm 1990, Chính

phủ đã thực hiện miễn giảm viện phí và học phí cho người nghèo. Số người nghèo nhất

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 8

Page 9: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp khác đã tăng từ 20,5% năm 1998 lên

59,5% tổng số người thuộc nhóm này vào năm 2006. Năm 1999, Chính phủ đã thiết lập

Chương trình thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) miễn phí cho 4 triệu người nghèo nhất

Việt Nam. Tính đến năm 2006, tổng số đối tượng được cấp thẻ BHYT đã lên đến 15,2

triệu người. Mệnh giá các thẻ BHYT cũng tăng liên tục: năm 2002 là 50.000

đồng/người/năm; năm 2005 – 60.000 đồng, năm 2007 – 80.000 đồng, năm 2008 –

130.000 đồng và hiện được nâng lên tương tương 3% mức lương tối thiểu chung.

Tuy nhiên, bên cạnh các thành công nói trên, thực tế cho thấy sự cách biệt giữa người

giàu và người nghèo vẫn đang ngày càng lớn. Trong việc bảo đảm các dịch vụ công thiết

yếu cho xã hội, mặc dù Việt Nam được đánh giá là nước có các chính sách thực hiện

công bằng khá tốt, song vẫn còn không ít vấn đề đặt ra.

Chi NSNN cho y tế ở Việt Nam chỉ chiếm khoảng 5% tổng chi của Nhà nước, trong khi

tỷ lệ này ở các nước cùng nhóm thu nhập (PPP bình quân đầu người ở mức 3.300 USD)

là 9%. Trên thực tế, tỷ lệ chi tiêu từ tiền túi của người dân trong tổng chi tiêu cho y tế

chiếm tới trên 70% là một tỷ rất cao. Kết quả phân tích điều tra y tế quốc gia 2002 cho

thấy, nếu người nghèo phải nằm viện mà không được Nhà nước hỗ trợ thì trung bình mỗi

đợt ốm phải chi một số tiền tương đương 17 tháng chi tiêu phi lương thực, thực phẩm của

hộ gia đình . Tình hình phân cấp ngân sách trong chi cho y tế cũng chưa bảo đảm hướng

đến đối tượng người nghèo. Tỷ lệ NSNN cấp cho y tế tại tuyến trung ương là 36,8%,

tuyến tỉnh là 44,7%, tuyến huyện là 16,2% và tuyến xã là 2,3%. Điều đáng lưu ý nữa là tỷ

lệ chi từ NSNN cho đầu tư phát triển hầu hết tập trung tại tuyến trung ương và tuyến tỉnh

(chiếm đến 97%), như vậy mạng lưới y tế cơ sở hầu như không có kinh phí cho đầu tư

phát triển từ nguồn ngân sách. Điều đó dẫn đến thực trạng nghèo nàn, lạc hậu về cơ sở

vật chất và trang thiết bị của y tế cấp huyện và cấp xã. Trong khi đó người nghèo thường

sử dụng các dịch vụ y tế chủ yếu ở các trung tâm y tế xã và huyện.

Chi cho giáo dục của nhóm người giàu nhất năm 2006 gấp 5,75 lần mức chi của nhón

nghèo nhất, trong đó ở cấp tiểu học là 5,12 lần, đối với giáo dục trung học cơ sở là 3,55

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 9

Page 10: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

lần. Trong khi đó, chi tiêu ngân sách cho việc cung ứng dịch vụ công vẫn có xu hướng

đem lại lợi ích nhiều hơn cho người giàu. Càng lên các bậc học cao hơn thì chi tiêu của

ngân sách phân bổ cho giáo dục càng đem lại lợi ích lớn hơn cho người giàu, chẳng hạn

26% trong tổng lợi ích do giáo dục phổ thông trung học đem lại là dành cho 20% người

giàu nhất, trong khi chỉ có 9% trong tổng lợi ích là đến với nhóm người nghèo nhất.

Hệ thống giao thông liên thôn ở các vùng nghèo còn rất hạn chế, đặc biệt ở Tây Bắc,

Đông Bắc và Tây Nguyên. Ở những vùng này, số xã có đường liên thôn được nhựa hoá,

bê tông hoá trên 50% chỉ chiếm dưới 20%, riêng Tây Bắc là 7,1%. Tỷ lệ dân số được

dùng nước sạch ở thành thị là 80%, ở nông thôn là 38,9%, số dân ở nhóm nghèo nhất

được dùng nước sạch là 32,4% .

Không phải toàn bộ nguồn lực của các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm

nghèo đến được với người nghèo, một số khoản chi có hiệu quả không cao. Nguồn vốn bị

phân tán, không tập trung để giải quyết dứt điểm mục tiêu đặt ra. Chi phí quản lý các

chương trình này còn khá lớn, chiếm khoảng 8% tổng kinh phí của chương trình. Một số

công trình đầu tư có hiệu quả sử dụng kém, tình trạng rò rỉ nguồn lực từ trung ưong

xuống địa phương, các sai phạm trong quản lý tài chính còn khá phổ biến.

*Từ thực trạng trên cần có những biện pháp gì để phát huy tốt hơn tác động của chi

tiêu công tới mục tiêu giảm nghèo?

Để phát huy tốt hơn tác động của chi tiêu công tới mục tiêu giảm nghèo, trong giai đoạn

tới, Chính phủ cần cải cách chi tiêu công theo các hướng sau đây:

Thứ nhất, cải cách cơ cấu chi tiêu công theo hướng tập trung ngày càng nhiều hơn vào

những loại dịch vụ công thiết yếu nhất của xã hội nhằm tạo cơ hội lớn hơn cho người

nghèo trong hưởng thụ các dịch vụ này. Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế đều

khuyến cáo rằng Chính phủ nên hỗ trợ ngân sách ở mức tối đa cho việc cung cấp các dịch

vụ giáo dục tiểu học và chăm sóc sức khoẻ ban đầu - là những dịch vụ thiết yếu cho tất cả

mọi người - để tăng cơ hội hưởng thụ của người nghèo. Ở Việt Nam, mục tiêu chi ngân

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 10

Page 11: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

sách cho giáo dục và y tế cũng được coi trọng, chẳng hạn Chính phủ dự kiến duy trì ngân

sách chi cho giáo dục ở mức 20% tổng chi ngân sách và tăng tỷ trọng chi cho y tế trong

tổng chi NSNN từ 5% hiện nay lên 12% vào năm 2015. Điều này là cần thiết để bảo đảm

có đủ kinh phí thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Chẳng hạn, theo chủ trương của Chính

phủ về việc trợ cấp tài chính cho khám chữa bệnh đối với người nghèo và hỗ trợ một

phần cho người cận nghèo, ước tính, diện bao phủ của chính sách BHYT miễn phí cho

người nghèo năm 2008 là khoảng 27 triệu người, nếu tính cả số người cận nghèo dự kiến

được trợ cấp 50% mệnh giá BHYT thì số người được nhận trợ cấp lên đến 41 triệu người.

Để trợ cấp được toàn bộ số đối tượng nói trên, dự kiến NSNN phải chi 6,6 ngàn tỷ

đồng/năm, gấp hơn 2 lần số chi thực tế từ NSNN thông qua BHYT hiện nay.

Thứ hai, tăng cường phân cấp ngân sách cho các cấp chính quyền địa phương để nâng

cao khả năng đáp ứng các dịch vụ công cho dân cư địa phương, đặc biệt là người nghèo.

Thực tế cho thấy nguồn lực tài chính cho hoạt động của bộ máy nhà nước ở địa phương

sẽ phục vụ chủ yếu cho việc cung ứng các dịch vụ công, trong khi cấp trung ương tập

trung nhiều hơn vào việc hoạch định chính sách và các chức năng quản lý nhà nước. Do

đó, việc tăng cường phân cấp ngân sách cho cấp dưới sẽ tạo điều kiện cho các cấp này

thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ công tốt hơn. Các dịch vụ công do cấp chính

quyền càng gần dân cung ứng thì càng có điều kiện sát hợp hơn với nhu cầu của người

dân, đồng thời do cấp chính quyền này nắm vững hơn về dân cư trên địa bàn nên sẽ tăng

khả năng phục vụ đúng các đối tượng mà nhà nước quan tâm, đặc biệt là người nghèo. 

Chính quyền cấp dưới chỉ có thể chủ động cung ứng dịch vụ công cần thiết ở địa phương

khi có nguồn thu xác định, đầy đủ và ổn định, đồng thời được giao các nhiệm vụ chi rõ

ràng và phù hợp. Mặc dù cơ chế phân cấp hiện nay thực hiện theo mô hình tập trung

quyền lực ở trung ương và bảo đảm sự điều hoà của trung ương cho các tỉnh, song việc

tập trung quá mức các nguồn thu ở trung ương sẽ dẫn đến chỗ hình thành một cơ chế

chuyển giao phức tạp và dễ bị yếu tố chủ quan làm cho sai lệch. Cần bảo đảm để địa

phương có đủ nguồn để trang trải khoảng 2/3 nhiệm vụ chi tiêu của địa phương, còn 1/3

còn lại là dựa vào sự điều tiết và chuyển giao của trung ương.

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 11

Page 12: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

Cần thống nhất về nguyên tắc trong phương thức phân bổ ngân sách ở các tỉnh. Luật ngân

sách nhà nước năm 2002 đã trao cho các tỉnh thẩm quyền tương đối rộng trong phân bổ

ngân sách cho các cấp thấp hơn. Điều đó cho thấy, khi tính công bằng trong phân bổ ngân

sách giữa các tỉnh được cải thiện, cũng chưa bảo đảm rằng sẽ khắc phục được tình trạng

phân bổ không đồng đều giữa các cấp tỉnh, huyện và xã nếu cấp tỉnh không chú trọng đến

tính công bằng trong phân bổ nguồn lực. Vì vậy, ngay tại từng tỉnh cũng cần có cơ chế

phân cấp hợp lý giữa cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã, sao cho các cấp cơ sở có điều kiện

đáp ứng tốt nhất dịch vụ công cho các đối tượng dân cư trên địa bàn và chú trọng đến

người nghèo.

Thứ ba, cải tiến cách thức phân bổ ngân sách để khắc phục tình trạng bất bình đẳng giữa

các khu vực về các dịch vụ công thiết yếu. Cùng với việc phân cấp nhiều hơn cho địa

phương, cần đề phòng xu hướng do phân cấp mà làm sâu sắc thêm bất bình đẳng giữa các

khu vực. Theo đó, khu vực nào có tiềm năng lớn hơn sẽ có điều kiện chi tiêu nhiều hơn,

trong khi đó những vùng nghèo khó do thiếu kinh phí nên thường có xu hướng cắt giảm

các chi tiêu về dịch vụ công để đảm bảo kinh phí cho các hoạt động thiết yếu khác của bộ

máy.

Vì vậy, cần tính đến mức thu nhập bình quân đầu người của các địa phương trong việc

phân bổ NSNN, kể cả chi đầu tư và chi thường xuyên. Việc phân bổ ngân sách hiện chưa

tính đầy đủ đến yếu tố mức thu nhập của dân cư. Chính mức thu nhập của dân cư tác

động rõ nét đến quy mô chi tiêu công của tỉnh đó, đặc biệt trong lĩnh vực y tế thì chi y tế

từ tiền túi của gia đình (chiếm trên 70% tổng chi cho y tế) mới là nguyên nhân chính dẫn

đến sự bất bình đẳng trong lĩnh vực này. Khi kinh phí từ NSNN còn hạn hẹp thì chính sự

đóng góp của dân cư sẽ giúp chính quyền nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ công

ở địa phương mình. Nếu không tính đến yếu tố này thì sự phân bổ ngân sách của Chính

phủ mới chỉ mang tính phiến diện và bất bình đẳng về tài chính giữa các địa phương sẽ

ngày càng rộng.

Từng bước đổi mới phương thức phân bổ NSNN cho các cơ sở cung ứng dịch vụ công

dựa theo các chỉ tiêu đầu vào như hiện nay sang phương thức phân bổ dựa trên kết quả

công việc, số lượng và chất lượng dịch vụ công, kèm theo cơ chế giám sát, đánh giá mức

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 12

Page 13: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

độ hoàn thành các chỉ tiêu được giao. Từng bước chuyển từ việc giao dự toán ngân sách

cho các đơn vị sự nghiệp công lập như hiện nay sang thực hiện phương thức đấu thầu, đặt

hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp, không phân biệt cơ sở công lập, ngoài

công lập, cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài.

Thứ tư, tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo. Xu hướng chung hiện nay là Chính

phủ chuyển từ việc hỗ trợ gián tiếp thông qua các cơ sở cung ứng dịch vụ công sang hỗ

trợ trực tiếp cho đối tượng hưởng thụ dịch vụ đó. Cách thức này tránh được những rủi ro

do cơ sở cung ứng không chi cho đúng đối tượng được ưu đãi và sự lạm dụng nguồn lực

để mưu lợi riêng.

Nhà nước cần tiếp tục dành một nguồn kinh phí thoả đáng để hỗ trợ học sinh nghèo thông

qua chính sách miễn giảm học phí. Số kinh phí này nên phân bổ cho các địa phương căn

cứ vào số lượng học sinh, sinh viên và mức độ khó khăn của từng vùng. Hội đồng nhân

dân (HĐND) các cấp quyết định phân bổ quỹ này cho các địa phương cấp dưới trực tiếp.

HĐND cấp cơ sở xem xét, quyết định danh sách học sinh, sinh viên trong xã, phường

được cấp học bổng dưới hình thức phiếu thanh toán chỉ có giá trị trả học phí. Việc sử

dụng quỹ khuyến học ở các cấp phải được công khai hoá cho nhân dân địa phương biết

để giám sát và kiểm tra thực hiện.

Để tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận nhiều hơn đến dịch vụ khám chữa bệnh,

Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ chi phí y tế cho người nghèo và cận nghèo bằng cách

cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo và hỗ trợ một phần cho người cận nghèo, đồng

thời có cơ chế hỗ trợ tiền ăn ở, đi lại cho người nghèo khi họ phải điều trị nội trú tại các

bệnh viện. Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm y tế để chia sẻ rủi ro cho các đối tượng thiệt

thòi trong xã hội, đặc biệt là người nghèo.

Thứ năm, nâng cao hiệu quả của các chương trình chi tiêu nhằm mục tiêu xoá đói giảm

nghèo. Cần tăng mức cấp vốn từ ngân sách trung ương cho các chương trình mục tiêu

quốc gia nhằm giảm đói nghèo, bởi vì số kinh phí hiện tại còn nhỏ bé để tạo ra sự thay

đổi cơ bản về cơ sở hạ tầng, việc làm và bảo đảm các dịch vụ công quan trọng khác.

Việc xây dựng các chương trình trợ cấp cần có sự định hướng vừa theo vùng địa lý, vừa

theo loại hàng hoá. Định hướng theo vùng địa lý sẽ bảo đảm chương trình trợ cấp đến với

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 13

Page 14: chi ngan sách

Chi ngân sách nhà nước trong xóa đói giảm nghèo GVHD: Phạm Ngọc Phong

các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa là nơi có nhiều người nghèo sinh sống. Định

hướng theo loại hàng hoá sẽ giúp cho các chương trình trợ cấp đưa được những loại hàng

hoá, dịch vụ mà người nghèo sử dụng nhiều hơn các nhóm dân cư khác đến được với họ.

Các chương trình cần tập trung hơn nữa vào đối tượng nghèo nhất thông qua việc tăng

định mức phân bổ ngân sách cho các vùng nghèo đói và bảo đảm phân bổ đúng cho các

đối tượng nghèo. Việc xây dựng năng lực cho các hộ nghèo để họ có thể tham gia vào

quá trình thực thi và giám sát các chương trình mục tiêu quốc gia nói trên là một đòi hỏi

quan trọng để nâng cao hiệu quả của các chương trình. Ngoài ra, các vấn đề nghiệp vụ

trong quản lý tài chính các chương trình phải được quan tâm đầy đủ hơn, chẳng hạn như

phải cải tiến quy chế điều hành và các thủ tục quản lý tài chính hợp lý hơn, bảo đảm thời

hạn cấp phát kinh phí phù hợp với tiến độ công việc...

⪧ CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN:

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, mỗi quốc gia có nhiều cơ hội để phát triển,

đồng thời, phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, cuộc sống của người dân luôn chứa

đựng những nguy cơ rủi ro bất ngờ. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh

xã hội cũng như thực hiện tốt chính sách xóa đói giảm nghèo là một yêu cầu bức thiết

đảm bảo ổn định chính trị xã hội và phát triển đất nước hiện nay. Với sự lãnh đạo của

Đảng, quản lý của Nhà nước và quyết tâm của toàn xã hội, với những giải pháp chi ngân

sách đúng đắn thiết thực, kịp thời, hệ thống an sinh xã hội sẽ ngày càng hoàn thiện, góp

phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đẩy lùi sự nghèo đói để đưa đất

nước phát triển nhanh và bền vững, tích cực, chủ động hội nhập với thế giới.

Võ Th Lan Thanh K7 – NH3ị ⪧ 14