46
1 MĐẦU. Lãi sut là mt phm trù kinh tế quan trng được đề cp trên nhiu lĩnh vc ca đời sng kinh tế ttiết kim, đầu tư, kim soát lm... Nhà nước sdng lãi sut làm công cca chính sách tin tđiu tiết các quan hkinh tế nhm mc tiêu tăng trưởng phát trin. Do tm quan trng và cách thc tác động vào lãi sut ca nhà nước hình thành nên nhiu quan đim, xu hướngkhác nhau vlãi sut và điu hành lãi sut. Trong tp chuyên đề này stp trung vào phân tích hai định hương cơ bn ca chính sách điu hành lãi sut là kim soát lãi sut và tdo hoá lãi sut. Kim soát lãi sut và cgng duy trì mt cơ chế n định lã sut áp đặt vào thtrường. Đây là cong cmang tính hành chính.Tdo hoá lãi sut đề cao sưu vit ca cơ chế thtrường trong vic hình thành lãi sut. Các công cphc phcho quà trình tiến tư do hoá cũng được đề cp ti mc độ nht định. Để tiếp tc ci cách chính sách lãi sut hướng ti mc tiêu lãi sut da trên cơ sthtrường, chuyên đề phân tích thc trng điu hành chính sách lãi sut thi gian qua Vit Nam. Vic phân tích sđúc rút ra nhng ưu nhược đim nhm thc hin trit để hơn linh hot hơn vai trò ca ngân hàng nhà nước và tvic nghiên cu thc trng để đề ra nhng bin pháp hu hiu đẩy nhanh hơn quá trình hoà nhp ca Vit Nam vi mt bng lãi sut thế gii và theo thông lquc tế. Tôi mong mun rng, tp đề án này smang li nhng hu ích trong quá trình hc tp và có thgóp phn nhbé vào quá trình hoch định chính sách, xây dng các quy chế vn hành qun lý lãi sut ca ngân hàng nhà nước ngày mt tt hơn.

chinh sach lai suat

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: chinh sach lai suat

1

MỞ ĐẦU. Lãi suất là một phạm trù kinh tế quan trọng được đề cập trên nhiều lĩnh vực

của đời sống kinh tế từ tiết kiệm, đầu tư, kiểm soát lạm... Nhà nước sử dụng lãi

suất làm công cụ của chính sách tiền tệ điều tiết các quan hệ kinh tế nhằm mục

tiêu tăng trưởng phát triển. Do tầm quan trọng và cách thức tác động vào lãi

suất của nhà nước hình thành nên nhiều quan điểm, xu hướngkhác nhau về lãi

suất và điều hành lãi suất. Trong tập chuyên đề này sẽ tập trung vào phân tích

hai định hương cơ bản của chính sách điều hành lãi suất là kiểm soát lãi suất và

tự do hoá lãi suất. Kiểm soát lãi suất và cố gắng duy trì một cơ chế ấn định lã

suất áp đặt vào thị trường. Đây là cong cụ mang tính hành chính.Tự do hoá lãi

suất đề cao sự ưu việt của cơ chế thị trường trong việc hình thành lãi suất. Các

công cụ phục phụ cho quà trình tiến tư do hoá cũng được đề cập tới ở mức độ

nhất định.

Để tiếp tục cải cách chính sách lãi suất hướng tới mục tiêu lãi suất dựa trên

cơ sở thị trường, chuyên đề phân tích thực trạng điều hành chính sách lãi suất

thời gian qua ở Việt Nam. Việc phân tích sẽ đúc rút ra những ưu nhược điểm

nhằm thực hiện triệt để hơn linh hoạt hơn vai trò của ngân hàng nhà nước và từ

việc nghiên cứu thực trạng để đề ra những biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh hơn

quá trình hoà nhập của Việt Nam với mặt bằng lãi suất thế giới và theo thông lệ

quốc tế.

Tôi mong muốn rằng, tập đề án này sẽ mang lại những hữu ích trong quá

trình học tập và có thể góp phần nhỏ bé vào quá trình hoạch định chính sách,

xây dựng các quy chế vận hành quản lý lãi suất của ngân hàng nhà nước ngày

một tốt hơn.

Page 2: chinh sach lai suat

2

CHƯƠNG I

LÃI SUẤT VÀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT.

I. Lãi suất 1. Những khãi niệm về lãi suất

Lãi suất là giá của vốn, chi phí phải trả cho việc thuê vốn.

Trong nền kinh tế luôn có những chủ thể tạm thời dư thừa vốn, cùng lúc đó

có những người có cơ hội đầu tư sinh lợi, cần vốn song lại thiếu vốn, thị trường

tài chính ra đời làm thông suốt quá trình chuyển vốn từ người thừa vốn sang

người cần vốn, các chủ thể qua quan hệ vay mượn tín dụng hoặc mua bán các

công cụ nợ đều đạt được mục đích của mình; người thừa vốn vừa bảo đảm được

vốn vừa thu được lợi, người thiếu vốn vừa dược đáp ứng đủ cho đàu tư. Từ thị

trường đó, lãi suất được hình thành như giá cả của một loại hàng hoá(ở đây là

vốn), nó là chi phí mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được quyền

sử dụng vốn, nó vận động tuân theo quy luật cung cầu, xác định trên cơ sở cân

bằng giữa nhu cầu về vốn vá cung về vốn trên thị trường.

Như vậy, lãi suất chính là tín hiệu thị trường tham gia vào việc nâng cao

hiệu quả sử dụng vốn và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý.

Ở trên là khái niệm lãi suất theo nguyên tắc thị trường, song lãi suất còn

được hiểu là công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia, nó do

ngân hàng trung ương - cơ quan thay mặt nhà nước thực thi chính sách tài chính

tiền tệ - nắm giữ, và sử dụng nhằm điều chỉnh và can thiệp vào thị trường giúp

hạn chế và khắc phục những yếu kém của nền kinh tế.

Page 3: chinh sach lai suat

3

Ngoài ra khái niệm lãi suất như là chi phí cơ hội của việc giữ tiền cũng

tương đối phổ biến.

Trong đời sống hàng ngày chúng ta cũng gặp rất nhiều loại lãi suất khác

nhau như lãi suất các chứng khoán, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn,

lãi suất danh nghĩa-lãi suất thực, lãi suất trần-sàn. Sự phân biệt các loại lãi suất

này dựa trên sự liên quan đến vai trò công cụ của chính sách tiền tệ, chỉ số lạm

phát hoặc kỳ hạn và rủi ro của mỗi loại chứng khoán. Tuy nhiên một điều quan

trọng là hầu hết các loại lãi suất này đều diễn biến theo nhau. Vì vậy, nếu không

ghi cụ thể gì khác thì thuật ngữ lãi suất đề cập trong tập chuyên đề này mang ý

nghĩa phổ quát chung.

2. Cơ chế xác định lãi suất

Từ những khái niệm trên về lãi suất, ta có thể mô hình hoá những yếu tố

tham gia vào việc hình thành nên lãi suất trong nền kinh tế.

Tài chính gián tiếp (NHTM) Lãi suất

NHTƯ

Người cho vay

Người đi vay

Tài chính trực tiếp

Lãi suất

Page 4: chinh sach lai suat

4

Dựa vào mô hình chúng ta thấy có hai nhóm lực lượng tham gia vào việc

xác định lãi suất.

a. Những yếu tố thuộc lực lượng thị trường.

Thành phần thuộc nhóm này gồm :

* Người cho vay : những người dư thừa vốn.

* Người đi vay: những người cần vốn để kinh doanh, tiêu dùng.

* Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trung gian: những chủ thể

tham gia vào thị trường tài chính, hoạt động tín dụng, huy động vốn để cho vay

nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Họ có những vai trò, vị trí, lợi thế mà

tài chính trực tiếp không có được.

Lãi suất

NHTƯ

NHTM

Người đi vay

Người cho vay

Page 5: chinh sach lai suat

5

Những thành phần này tham gia vào việc xác dịnh lãi suất tuân theo theo

quy luật thị trường. Khi nhu cầu về vốn được đáp ứng bằng cung về vốn ở mức

toàn dụng vốn thì lãi suất cân bằng được hình thành. Những biến động của các

biến số kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến hành vi của các thành phần này, thay

đổi cung cầu về vốn và lãi suất cân bằng được điều chỉnh cho phù hợp.

Lãi suất Cung về vốn

Lscb Cầu về vốn

Vốn b. Nhóm yếu tố thuộc chính sách tiền tệ :

Thành phần: Duy nhất là NHTƯ. Cơ quan có nhiệm vụ phát hành tiền,

quản lý hành chính hệ thống ngân hàng, vai trò người cho vay cuối cùng, xây

dựng chính sách tiền tệ. Nó tác động đến lãi suất bằng các công cụ mang tính

quyền lực nhà nước hoặc các công cụ mang tính thị trường.

NHTƯ sử dụng công cụ lãi suất để tác động vào lượng tiền cung ứng và các

biến số kinh tế vĩ mô khác nhằm đạtđược các mục tiêu của chính sách tiền tệ:

* Ổn định tiền tệ.

* Tạo việc làm.

* Tăng trưởng kinh tế.

Page 6: chinh sach lai suat

6

Cách sử dụng công cụ lãi suất phụ thuộc vào chính sách điều hành lãi suất

của NHTƯ ở mỗi giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Xây dựng chính sách lãi

suất đúng đắn nhằm hướng dẫn phân bổ hợp lí nguồn vốn, huy động được tất

cả các nguồn lực tiềm năng trong nền kinh tế, kích thích đầu tư, phù hợp tỷ giá

và tạo thuận lợi cho hoạt động ngoại thương, mang lại đà phát triển vững mạnh

cho nền kinh tế là một yêu cầu bức thiết luôn được đặt ra cho mỗi quốc gia

cũng như các nhà hoạch định chính sách của nó.

Các học thuyết , nhgiên cứu về cơ chế điều hành lãi suất chỉ ra rằng,

NHTƯcó thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động (qua hệ thốngNHTM) lên lãi

suất.

Cơ chế tác động trực tiếp: NHTƯ sử dụng lãi suất với vai trò là một công cụ

trực tiếp của chiính sách tiền tệ. NHTƯ với hành động mang tính chủ quan áp

đặt một khung lãi suất, chênh lệch lãi suất tiền gửi- tiền vay hoặc trần- sàn lãi

suất và buộc các tổ chức tín dụng phải tuân theo. Công cụ này mang tính cưỡng

bức với sự đảm bảo bằng quyền lực nhà nước, đặc trưng của cơ chế kiểm soát

lãi suất .

Cơ chế tác động gián tiếp: NHTƯ sử dụng công cụ gián tiếp- mang tính thị

trường- của chính sách tiền tệ để tác động đến lãi suất thông qua hành vi của hệ

thống ngân hàng.

Các công cụ đó là:

- Dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ. Các ngân

hàng thương mại được yêu cầu phải giữ lại một tỉ lệ phần trăm các khoản

tiền gửi của họ dưới dạng dự trữ hoặc là bằng tiền mặt tại quỹ hoặc là bằng

tiền gửi tại quỹ dự trữ của NHTƯ. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có tác

động mạnh mẽ lên khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng và cho cả hệ

thống tài chính.

Page 7: chinh sach lai suat

7

Thí dụ, khi NHTƯmuốn kiềm chế lạm phát, họ có thể nâng tỉ lệ dự trữ

bắt buộc, hạn chế khả năng mở rộng tín dụng ủa cá tổ chức tín dụng và buộc

các ngân hàng thương mại phải nâng lãi suất cho vay. Ngược lại,khi NHTƯ

muốn đẩy mạnh tăng trưởng, họ giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc do đó các tổ chức tín

dụng có thể mở rộng tín dụng và hạ lãi suất cho vay.

- Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất NHTƯ cho các tổ

chức tín dụng vay trên cơ sở những chứng từ có giá của ngân hàng thương

mại. Đây là lãi suất phạt đối với ngân hàng thương mại khi thiếu hụt khả

năng thanh toán. NHTƯ thông qua lãi suất tía chiết khấu tác động vào lãi

suất thị trường.

Thí dụ, việc NHTƯ nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng

thương mại phải tăng dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán. Đồng thời ngân

hàng thương mại cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp những chi phí cho

những khoản tăng thêm dự trữ, do vậy mà lãi suất thị trường tăng lên. Ngược

lại, việc giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ cho phép các ngân hàng thương

mại giảm dự trữ và hạ lãi suất cho vay, do đó mà hạ lãi suất thị trường.

- Nghiệp vụ thị trường mở: nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán

chứng khoán (thường là chứng khoán nhà nước) trên thị trường tiền tệ

ngắn hạn. NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trưởng, mở rộng tín dụng, bằng

cách mua vào các chứng khoán có giá làm cho cung về tiền tệ tăng lên, dẫn

tới làm giảm lãi suất. Ngược lại, khi NHTƯ muốn thu hẹp tín dụng bằng

cách bán ra các chứng khoán có giá làm cho cung tiền tệ giảm xuống dẫn

tới tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ.

- Hợp đồng mua lại: hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những chứng

khoán, trong đó người bán cam kết sẽ mua lại chứng khoán này vào một

thời điểm trong tương lai với mức giá được xác định trước trong hợp đồng.

Như vậy, thực chất hợp đồng mua bán lại là hợp đồng cho vay có thế chấp,

Page 8: chinh sach lai suat

8

trong đó chứng khoán đóng vai trò thế chấp. Khi mua thế chấp (tức cho

vay), NHTƯ bơm tiền vào thị trường tài chính và do vậy làm giảm lãi suất

ngắn hạn. Khi bán thế chấp từ tài khoản của mình NHTƯ rút tiền ra khỏi

thị trường tiền tệ và do đó tạo ra sức ép làm tăng lãi suất ngắn hạn.

3. Mối quan hệ giữa lãi suất và các biến số kinh tế vĩ mô khác

Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất

trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo

chí vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta

và có những hệ quả quan trọng đối với sức khoẻ của nền kinh tế.

Nó tác động to lớn đối với việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông,

thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích

hay cản trở đầu tư, tạo lợi nhuận hay khó khăn cho hoạt đọng ngân hàng.

Tóm lại, lãi suất là một phạm trù phức tạp có liên quan và tác động trực tiếp

hoặc gián tiếp tới nhiều nền kinh tế vĩ mô khác.

a. Lãi suất và đầu tư.

Lượng cầu về hãng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất, để một dự án đầu tư có lãi,

lợi nhuận thu được phải cao hơn chi phí. Vì lãi suất phản ánh chi phí vốn để tài

trợ cho đầu tư, việc tăng lãi suất làm giảm số lượng dự án đầu tư có lãi, bởi vậy

nhu cầu về hãng đầu tư giảm do đó đầu tư tỷ lệ nghịch với lãi suất.

Lãi suất thực tế phản ánh chi phí thực sự của tiền vay do vậy chúng ta nhận

định đầu tư phụ thuộc vào lãi suất thực tế chứ không phải lãi suất là lãi suất

danh nghĩa. Mối quan hệ giữa lãi suất thực tế (r) và đầu tư có thể biểu thị bằng

phương trình sau: I = I(r).

Phương trình này hàm ý đầu tư phụ thuộc vào lãi suất.

r

Page 9: chinh sach lai suat

9

I = I(r)

0 lượng đầu tư I

Đồ thị biểu thị hàm đầu tư, nó dốc xuống vì khi lãi suất tăng lượng cầu về

đầu tư giảm.

Mặt khác kinh tế học Macxit trong phân tích về tư bản cho vay và chỉ rõ

rằng:

lãi suất < tỷ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội

Nếu mối quan hệ này bị vi phạm lợi ích của người đi vay sản xuất không

được giải quyết thoả đáng sẽ làm giảm ý muốn đầu tư sản xuất, không mở rộng

được quy mô, tốc độ phát triển của nền kinh tế. Đồng thời người ta thích gửi

tiền hơn và hình thành một lớp người thực lợi, sống vào lãi suất tiết kiệm.

b. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm.

Thu nhập của cá nhân bao giờ cũng được chia làm hai phần là tiêu dùng và

tiết kiệm. Hành vi tiết kiệm với kỳ vọng phòng ngừa rủi ro, mở rộng sản xuất,

tích luỹ và tiêu dùng trong tương lai chính là cung về vốn vay trong nền kinh tế.

Tiêu dùng là một hàm phụ thuộc vào thu nhập khả dụng. Ở mỗi giai đoạn

của chu kỳ kinh doanh, sự thắt chặt hay nới lỏng của chính sách thuế mà ngân

sách dành cho chi tiêu bị tác động. Tiết kiệm bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố

như thu nhập, tập quán tiết kiệm và lãi suất. Khi lãi suất tăng làm tăng ý muốn

tiết kiệm và sự sẵn sàng chi tiêu giảm xuống.

Tiết kiệm là một hàm phụ thuộc thuận vào lãi suất : S =S (r) .

Page 10: chinh sach lai suat

10

r

Khi lãi suất tăng người

dân sẽ tích cực tiết kiệm

hơn.

S = S(r).

0 S

c. Lãi suất và lạm pháp :

Lạm pháp là sự tăng lên liên tục của mức giá, là hiện tượng mất giá của

đồng tiền. Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữ lãi suất

và lạm phát. Fisher chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát cao. Có

nhiều nguyên nhân gây nên lạm phát và cũng có nhiều biện pháp để kiểm soát

lạm phát, trong đó công cụ lãi suất là một giải pháp công hiệu khá nhanh.

Trong thời kỳ lạm pháp, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể

thu hút phần lớn số tiền có trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông

giảm; cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế.

d. Lãi suất và tỷ giá

Lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ với nhau. Đây là hai công

cụ song hàng quan trọng của chính sách tiền tệ, việc cải cách chính sách điều

hành ngân hàng hai yếu tố này đòi hỏi phải được tiền hành đồng thời. Trong

điều kiện một nền kinh tế mở, với nguồn được tự do vận động, nếu lãi suất

trong nước tăng lên nguồn vốn nước ngoài sẽ đổ vào đẩy cầu nội tệ lên cao, với

mức cung tiền nhất định tỷ giá sẽ bị nâng lên ảnh hưởng đến hoạt động ngoại

thương của quốc gia. Ngược lại, khi lãi suất giảm xuống, vốn trong nước khoác

áo ra đi làm cho cầu ngoại tệ cao tỷ giá tụt xuống.

e. Lãi suất với cầu tiền

Page 11: chinh sach lai suat

11

Tiền là một loại tài sản, cũng là một cách mà mỗi người sử dụng cho việc

tích sản của mình. Nhu cầu về tiền phụ thuộc nhiều yếu tố trong đó có thu nhập

và lãi suất. Khi thu nhập tăng, theo lý thuyết lượng cầu tài sản, nhu cầu nắm giữ

tiền của dân chúng tăng lên. Người ta cần nhiều tiền hơn cho chi tiêu. Lãi suất

như đã đề cập từ đầu là chi phí cơ hội cho việc giữ tiền. Vì vậy khi lãi suất tăng

người ta ít có ý muốn nắm giữ tiền hơn mà chuyển sang mua các loại chứng

khoán hoặc gửi tiết kiệm để thu lợi. Cầu tiền tỷ lệ nghịch với lãi suất.

II. Tự do hoá lãi suất 1. Khái niệm về tự do hoá lãi suất

Tự do hoá lãi suất xuất phát từ những cơ chế điều hành chính sách lãi suất

và sử dụng công cụ lãi suất trong chính sách tiền tệ.

Như phần đầu của chuyên đề đã nêu ra ,NHTW có thể tác động vào lãi suất theo

trong hai cách sau:

* Dùng qui định hành chính.

* Dùng tác động kinh tế .

Ở nhiều nước, NHTW đã không còn quản lý lãi suất bằng các công cụ hành

chính mà chủ yếu sử dụng công cụ kinh tế là lãi suất cho vay của NHTW đối

với ngân hàng thương mại. Cùng với sự phát triển cao của hệ thống tài chính

ngân hàng quốc tế, quan điểm về điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế tự do

hoá lãi suất tác động bằng công cụ thị trường tới lãi suất như của:Anh, Mỹ là

mục tiêu mà các quốc gia đều hướng tới. Tự do hoá lãi suất -hạt nhân của tự do

hoá tài chính -là để cho lãi suất tự hình thành thị trườngtrên cơ sở: cung cầu về

vốn; mức tiết kiệm; thu nhập và chi tiêu của cá nhân và những nhân tố khác;

loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính nên quá trình hình thành lãi suất;

cho phép các tổ chức tín dụng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất.

NHTW chỉ gián tiếp tác động lên lãi suất thông qua các công cụ có tính định

Page 12: chinh sach lai suat

12

hướng, dấu hiệu cho thị trường là các công cụ công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ

thị trường mở, hợp đồng mua lại và dự trữ bắt buộc.

Nó ngược với những quan điểm về điều hành chính sách lãi suất một cách

cứng nhắc thông qua các biện pháp ấn định lãi suất chủ quan, làm mất đi những

tính năng ưu việt của lãi suất. Cơ chế này được gọi là cơ chế kiểm soát lãi suất

trực tiếp.

Làn sóng tự do hóa lãi suất bắt đầu vào những thập kỷ 80- 90.Vậy nguyên

nhân từ đâu ?

a. Những bất lợi của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp.

Trước hết phải thừa nhận rằng, kiểm soát trực tiếp lãi suất có một số ưu

điểm và thuận lợi sau:

* Dễ thực hiện.

* Phù hợp với mức thị trường tài chính sơ khai và mức độ canh tranh kém.

* Chưa có công cụ kiểm soát tiêng tệ gián tiếp.

* Hạn chế trong năng lực quản lý.

* Nguồn vốn tín dụng từ NHTW chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn

của nền kinh tế. Nhưng đối với nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị

trường và với quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng, thì không thể

duy trì lâu cách kiểm soát lãi suất. Kiểm soát lãi suất tỏ ra kém hiệu quả do dễ

bị các tổ chức tín dụng lẩn tránh, khả năng cạnh tranh thấp, dẫn đến suy giảm

chức năng tài chính của hệ thống ngân hàng.

Kiểm soát lãi suất dẫn đến suy giảm chức năng trung gian tài chính của hệ

thống ngân hàng:

- Nguồn tiết kiệm và tích luỹ sẽ chảy ra thị trường tài chính phi tổ chức

và không bị quản lý chúng biểu hiện dưới dạng :

* Ngân hàng kiểu chính sách tăng lên.

* Cho vay qua thị trường không chính thức.

Page 13: chinh sach lai suat

13

* Nắm giữ ngoại tệ, tích luỹ kim loại quí hàng lâu bền.

- Kiểm soát lãi suất kém hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền

tệ:

Kiểm soát lãi suất sẽ khuyến kích kiểm soát chi tiết các chi điều kiện tiền tệ

bằng cách áp đặt cơ cấu lãi suất phức tạp như tồn tại nhiều loại trần lãi suất cho

vay gây kém hiệu quả và biến dạng hơn.Việc kiểm soát lãi suất sẽ giảm hiệu

quả của việc kiểm soát tiền tệ, bởi vì sự gia tăng và mở rộng của các thị trường

ngoài thị trường được kiểm soát. Các tổ chức kinh tế và ngân hàng thương mại

thừơng tìm cách để tránh sự kiểm soát, do đó ngày càng nhiều hoạt động kinh tế

diễn ra ngoài tài chính chính thức, các ngân hàng thương mại cố gắng tìm cách

tránh sự kiểm soát của ngân hàng trung ương bằng cách tạo ra các sản phẩm

mới hoặc các kỹ thuật tài trợ mà nằm ngoài tầm kiểm soát hoặc phạm vi quy

định trần lãi suất. Trong thực tế, khi các công cụ này bị các ngân hàng lẩn tránh

thì các mục tiêu của chính sách tiền tệ sẽ không thể thực hiện được.

- Kiểm soát lãi suất không có lợi cho cạnh tranh:

Các tổ chức tín dụng kém hiệu quả có thể được bảo vệ từ sức ép của tự do

cạnh trnh khiến cho quá trình giải quyết khó khăn của họ tồn tại kéo dài. Những

khó khăn lớn gắn với sự kiểm soát lãi suất là vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi

ro đạo đức. Những vấn đề này khi trở nên nghiêm trọng, thì các doanh nghiệp

lành mạnh và các doanh nghiệp tư nhân mới sẽ bị loại khỏi thị trường tín dụng,

bởi vì không sẵn sàng trả mức giá cao như các doanh nghiệp đang gặp khó

khăn.

b. Tại sao phải tự do hoá lãi suất.

Bất kỳ cơ cấu lãi suất dựa trên cơ sở thị trường nào cân bằng được cung cầu

tiền tệ và tín dụng trên thị trường tiền tệ và toàn bộ nền kinh tế thì bản thân nó

đã là một cơ chế kiểm soát tiền tệ hiệu quả nhất và giảm đáng kể sự cần thiết

Page 14: chinh sach lai suat

14

phải dựa vào bất kỳ công cụ kiểm soát nào khác. Lãi suất do thị trường tự do

xác định mang lại những thuận lợi sau:

+ Đảm bảo điều chỉnh tự động và tức thì, do đó giảm rủi ro đối với những

sai lầm về chính sách.

+ Truyền tải các tín hiệu chính sách và tác động tới tất cả các bộ phận của

nền kinh tế.

+ Đảm bảo việc phân bổ tiền tệ và tín dụng tối ưu trên cơ sở lãi suất, mức

độ rủi ro tương đối và lợi nhuận thu được.

+ Đảm bảo nhất quán giữa chính sách tiền tệ, ngân sách và tỷ giá.

+ Làm cho áp lực thị trường tiền tệ thể hiện rõ tức thì.

+ Hỗ trợ và bổ sung cho việc quản lý tỷ giá hối đoái.

+ Làm giảm sự nhạy cảm chính trị đối với những thay đổi lãi suất.

+ Cho phép NHTƯ rút về sau thị trường mà không mất khả năng kiểm soát.

Trên đây là những thuận lợi của lãi suất tự do hoá, song cơ sở lý luận của

quá trình tiến hành tự do hoá là nhữg điểm trình bày dưới đây:

+ Ở đây, lãi suất tự do hoá, biến động theo cung cầu thị trường về vốn có

ý nghĩa phân bổ nguồn vốn khan hiếm cho những người vay cạnh tranh nhau,

đáp ứng nhu cầu của họ và có hiệu quả nhất; đồng thời có tác dụng thu hút tiền

gửi từ các nguồn lực trong nền kinh tế với chi phí hợp lý nhất được cả ngân

hàng và người gửi chấp nhận. Có thể nói rằng lập luận phân bổ nguồn vốn hiệu

quả là trung tâm của vấn đề. Điều này không thể thực hiện trong điều kiện lãi

suất bị kiểm soát hành chính, làm cho các hoạt đọng đầu tư bị biến dạng. Lãi

suất được tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so với khi bị kiểm soát, có khả năng điều

tiết, thích nghi với điều kiện thay đổi, tạo sự kích thích cho tăng trưởng tài

chính, cải tiến và thay đổi cơ cấu mà chính phủ hoặc là không thể quản lý hoặc

là chậm thu được kết quả.

Page 15: chinh sach lai suat

15

+ Tự do hoá lãi suất cũng suất phát từ một thực tế là không một chính phủ

hay một NHTƯ nào có đủ khả năng để phân bổ và kiểm soát sự phân bổ nguồn

vốn một cách có hiệu quả cho hàng ngàn nhu cầu sử dụng vốn khác nhau.

Những tranh cãi về lời giải cho bài toán lãi suất bởi cơ chế kiểm soát lãi suất đặt

ra nhu một váan đề không thống nhất được giữa ý kiến của các tầng lớp khác

nhau. Để giảm thiểu những tranh luận này, cách tốt nhất là để lãi suất do thị

trường quyết định, tức là tự do hoá, tự do hoá lãi suất cũng buộc NHTƯ phải

thay đổi cách làm việc, tư duy và đặc biệt là thay đổi các công cụ điều hành

chính sách tiền tệ, chủ yếu dựa vào các công cụ gián tiếp để khống chế lãi suất.

+ Trên thế giới đang diễn ra quá trình toà cầu hoá nhanh chóng mà toàn cầu

hoá tài chính là điển hình nhất của quá trình này. Trong lĩnh vực kinh tế, theo

nhiều nhà kinh tế, thì kẻ thù lớn nhất của chúng ta chính là toàn cầu hoá. Trong

quá trình này, nhờ những phát triển vượt bậc của công nghệ và những nỗ lực

của các nước đang phát triển cạnh tranh thu hút các nguồn vốn quốc tế, các

luồng vốn quốc tế đã chảy từ nước này qua nước khác tự do hơn rất nhiều. Nói

chung, lợi ích của toàn cầu hoá là rất lớn mà mỗi quốc gia phải nắm lấy, không

thể bỏ qua. Trong lĩnh vực tài chính, toàn cầu cầu hoá đặt ra những cơ hội và

thách thức mới, trong đó một thách thức lớn là việc làm xói mòn và giảm hiệu

quả của việc kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp, như các quy định trần

sàn lãi suất; thay vào đó để đảm bảo kiểm soát tiền tệ các nước dần chuyển sang

thực hiện công cụ kiểm soát lãi suất gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái

chiết khấu, hợp đồng mua lại..., tức là các công cụ định hướng thị trường để

đảm bảo hội nhập thành công trong lĩnh vực tài chính, trước hết lãi suất phải

được tự do hoá.

+ Tự do hoá lái suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính. Chủ

thuyết Mc Kinnon- Shaw (1973) đã đi tới kết luận là các nước phát đang phát

triển cần tránh can thiệp và chỉ đạo trên thị trường tài chính, thực hiện tự do hoá

Page 16: chinh sach lai suat

16

thị trường tài chính để chúng tự phản ứng theo các lực lượng thị trường. Chủ

thuyết này phản đối cơ chế kiềm chế tài chính. Theo Mc Kinnon thì cơ chế

kiềm chế tài chính được đặc trưng bởi những bóp méo do chính sách trong hệ

thống tài chính quốc gia. Những chính sách kiềm chế tài chính bao gồm: quy

định trần lãi suất dưới mức lãi suất thị trường, xác định hạn mức tín dụng,

quyđịnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao và quản lý vốn để ngăn chặn các đồng tiền ra.

Mc Kinnon và Shaw còn giải thích những động cơ để thực hiện các chính sách

này là: khuyến khích đầu tư vào khu vực ưu tiên cũng như làm giảm các chi phí

tài trợ cho thâm hụt ngân sách.

Biểu hiện của một nền kinh tế có cơ chế kiềm chế tài chính là: huy đọng

vốn chủ yếu và sự thiếu hụt vốn; phân bổ vốn không hiệu quả, sự tồn tại của thị

trường tài chính phi chính thức. Khi kết luận Shaw nhấn mạnh:” khu vực tài

chính của một nền kinh tế có vai trò trong phát triển kinh tế. Nếu nó bị kiềm chế

và bó méo, nó có thể ngăn cản và phá hoại những động lực cho sự phát triển.

Như vậy những hạn chế của cơ chế tài chính bị kiềm chế tạo ra những cơ sở

cho sự phát triển của cơ chế tài chính mang tính tự do hơn. Tự do hoá cho phép

hệ thống ngân hàng tự chủ hơn và điều đó dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền vay

cao hơn. Những thay đổi như vậy trong lĩnh vực tài chính sẽ tác động đến các

doanh nghiệp và các hộ gia đình, khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đàu tư

của mình theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tăng lãi suất tiền gửi sẽ

làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa, thay thế được nguồn vốn đi vay nước ngoài để

tài trợ cho đầu tư. Nguồn vốn tiết kiệm được truyền tải qua hệ thống tải qua hệ

thống tài chính ngân hàng chính thức , mà không phải qua thị trường tiền tệ

không chính thức. Tiết kiệm trong nước tăng lên và mức lãi suất thực cao làm

mở rộng đầu tư và tăng hiệu quả đầu tư.Kết quả tạo ra một tỷ lệ tăng trưởng

rộng hơn.

Page 17: chinh sach lai suat

17

Quan điểm tự do hoá lãi suất đối với việc kích thích tiết kiệm nội địa ở

trên còn rất nhiều tranh cãi và ý kiến khác nhau.Trong khi đó vai trò của tự do

hoá lãi suất mang lại sự cải thiện việc phan bổ tín dụng và cải thiện hiệu quả

đầu tư lại được thống nhất cao. Điều này là rất cơ bản để đảm bảo cho nền kinh

tế tăng trưỏng bền vững.

2. Những hạn chế của việc tự do hoá lãi suất đối với các nước đang phát

triển

Tự do hoá lãi suất là mục tiêu của chính sách tiền tệ, song với các quốc gia

đang phát triển việc ngay lập tức từ thái cực này - kiềm chế sang thái cực khác

- tự do là một việc làm không khả thi. Tự do hoá lãi suất cần có một trình tự

bước đi hợp lý , nếu không sẽ gây ra những đổ vỡ to lớn cho nền kinh tế.

Nguyên nhân của việc cần có một bước trung gian là:

Thứ nhất, những thuận lợi do tự do hoá lãi suất mang lại là rất cơ bản ,

nhưng cũng tồn tại những trường hợp mà ở đó tự do hoá lãi suất không được

thực hiện tốt vai trò của mình, như:

(1) Các nước đang phát triển luôn phải đối mặt với hệ thống tài chính còn

kém phát triển và tình trạng thiếu thông tin về thị trường tài chính , các

sản phẩm tài chính. Do đó để tự do hoá lãi suất làm tròn chức năng của

mình thì thị trường tài chính cần được củng cố và phát triển. Hơn nữa

trong nền kinh tế, thị trường tín dụng không phải lúc nào cũng đủ nhanh

để điều chỉnh cân bằng cung cầu thị trường khi điều kiện thay đổi, và

tình trạng mất cân bằng vẫn là phổ biến của các nên kinh tế đang phát

triển.

(2) Tự do hoá lãi suất sẽ kém hiệu quả nếu áp đặt vào hệ thống tài chính quá

nhiều các mục tiêu quốc gia. ở các nước đang phát triển những chính

sách ưu đãi và tạo điều kiện lại luôn cần phải.

Page 18: chinh sach lai suat

18

Thứ hai, các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như lãi suất tái triết khấu

còn chưa có để thay thế cho vai trò cuả lãi suất trong việc điều hành chính sách

tiền tệ. Do đó, công cụ kiểm soát lãi suất vẫn được coi là một công cụ duy nhất

và khả thi để thực hiện chính sách tiền tệ.

Thứ ba, các nước đang phát triển có nền tảng kinh tế vĩ mô chưa thực sự

vững chắc đủ để chịu những áp lực của việc tự do hoá lãi suất hoàn toàn: chúng

có thể làm mất ổn định vĩ mô qua việc tăng lạm phát, nợ nước ngoài và làm suy

giảm tăng trưởng kinh tế.

III. KINH NGHIỆM THẾ GIỚI TRONG VIỆC THỰC HIỆN TỰ DO HOÁ LÃI

SUẤT. Sự ra đời của lý thuyết tự do hoá tài chính mà một trong những nội dung

cơ bản là tự do hoá lãi suất đã tạo ra trào lưu tự do hoá lãi suất trên thế giới.

Bên cạnh một số nước đã thực hiện thành công như Đài Loan, Singapore, lại có

hàng loạt nước đã rơi vào khủng hoảng như Phillipine, Chille, Achentina.....Tuy

nhiên, tự do hoá lãi suất vẫn là mục tiêu cần đạt tới, không chỉ vì những ưu

điểm lý thuyết của nó, mà là tính hiệu quả của các nền kinh tế thị trường phát

triển ở đó lãi suất dược tự do hoá .

Kiểm soát lãi suất rất phổ biến ở hầu hết các nước châu á trước những

năm 80. Những hạn chế thường áp đặt dưới dạng quy định trần lãi suất đối với

tiền gửi và cho vay của các ngân hàng thương mại ;các tổ chức tài chính phi

ngân hàng ít chịu các hạn chế này hơn. Việc áp đặt này là nhằm mục đích cung

cấp vốn với chi phí thấp để khuyến khích đầu tư, đặc biệt là những lĩnh vực ưu

tiên và để tránh tình trạng lãi suất tăng quá mức, điều được coi là rất khó chấp

nhận về mặt chính trị và xã hội.

Tuy nhiên, việc kiểm soát như vậy đã làm giảm vai trò trung gian tài

chính của các ngân hàng khi những người tiết kiệm và những nhà đầu tư tìm

Page 19: chinh sach lai suat

19

cách khác ngoài thị trường tài chính chính thức. Do vậy, thị trường ngoài kiểm

soát và trung gian phi ngân hàng phát triển mạnh dẫn đến sự kém hiệu quả

trong kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Cơ chế kiềm chế này hạn

chế việc chuyển tải vốn tới các hoạt động có hiệu quả nhất, làm méo mó và

ngăn cản sự phát triển của thị trường tài chính.

Trong những năm 80-90, các nước châu Á đã thực hiện sự thay đổi quan

trọng, bắt đầu thi hành chính sách tự do hoá lãi suất trong chính sách tiền tệ.

Tuy vậy, mức độ thành công của các quốc gia khác nhau lại không giống nhau

thậm chí gây hiệu quả tiêu cực. Câu trả lời nằm trong cách thức và tiến trình tự

do hoá. Đến lượt mình, cách thức và tiến trình tự do hoá lại phụ thuộc vào xuất

phát điểm của mỗi nước (mức độ kiểm soát tài chính , đặc điểm và tính chất hệ

thống tài chính , khả năng và trình độ quản lý của các cấp quản lý vĩ mô...) , vào

điều kiện quốc tế trong tưng giai đoạn tự do hoá ( xu hướng chung về cải cách

tài chính, quyền lợi và mâu thuẫn của các cường quốc tài chính , trạng thái tài

chính quốc tế như khủng hoảng, suy thoái hay đang phát triển ).

Kinh nghiệm của các nước cho thấy khi tự do hoá lãi suất trong một môi

trường không có kiểm soát cùng với một thị trường tài chính không hoàn hảo và

độc quyền, lãi suất thực đã tăng lên mức rất cao. Sự tăng lên như vậy không

những không khuyến khích đầu tư và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà

còn dẫn đến phá sản của hàng loạt doanh nghiệp, sau đó gây ra khủng hoảng

trong hệ thống tài chính, và làm trầm trọng hơn tình trạng bất ổn vĩ mô. Đồng

thời việc loại bỏ kiểm soát cán cân vốn trong bối cảnh kinh tế vĩ mô bất ổn lại

làm cho lãi suất tăng lên hơn nữa do có những dự đoán tiếp tục phá giá bản tệ.

Giảm giá mạnh bản tệ làm cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào nhiều hơn, làm

tăng áp lực lạm phát và làm giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ.

Cho nên, những tác động bên trong và bên ngoài đòi hỏi tự do hoá tài

chính phải rất thận trọng, bất kỳ sự nhảy vọt nào từ cực này sang cực kia đều

Page 20: chinh sach lai suat

20

dẫn tới khủng hoảng và tình trạng vô chính phủ. Tự do hoá phải tiến hành từng

bước, gắn liền với đổi mới kinh tế , với tự do hoá các lĩnh vực khác, với củng

cố hành lang pháp lý, nhận thức của nhân dân , trình độ quản lý nền kinh tế và

cả với thói quen và truyền thống của dân tộc.

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA VIỆT NAM

I. BỐI CẢNH CHUNG

Năm 1988 là năm mở đầu thời kì chuyển hướng từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Với cơ chế kinh tế mới, tất cả các tổ chức kinh tế được tự chủ về tài chính, sản xuất, kinh doanh và tung ra hoạt động theo cơ chế thị trường. Phối hợp với xu hướng của hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu chuyển đổi. Đặc trưng của quá trình này là: Tách hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai cấp. - Ngân hàng nhà nước ( NHNN ): Thực hiện nhiệm vụ phát hành tiền, quản

lý vĩ mô hoạt động ngân hàng.

Page 21: chinh sach lai suat

21

- Hệ thống ngân hàng thương mại: Kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng.

Sự chuyển đổi diễn ra 3 năm 1988 – 1990 song chưa có những chuyển biến rõ nét, vẫn mang dáng dấp ngân hàng thời bao cấp. Trong giai đoạn này, sự đổ vỡ hàng loạt các quỹ tín dụng nhân dân đã gây cho nền kinh tế những tổn thất lớn. Nhưng cũng từ đó chúng ta đã có những bài học kinh nghiệm quý báu và tiếp tục kiên trì con đường đôỉ mới. Từ năm 1990 đến nay là giai doạn đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển hướng nhanh để hoà nhập nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Trong năm 1990, hai pháp lệnh hoạt động ngân hàng được ban hành trong đó khẳng định: - Vị trí chức năng của ngân hàng nhà nước: Là ngân hàng trung ương, cơ

quan ngang bộ thuộc chính phủ, thay mặt nhà nước thực thi chính sách tiền tệ; làm nhiệm vụ quản lý hành chính đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Xác lập rõ quan hệ giữa ngân hàng nhà nước và ngân sách là quan hệ vay trả chứ không phải là quan hệ cấp phát.

- Hệ thống ngân hàng thương mại: Kinh doanh tiền tệ và tương đối độc lập với ngân hàng nhà nước trong hoạt động kinh doanh.

Chính sách tiền tệ bắt đầu được hình thành:

Trong thời kì bao cấp, lượng tiền phát hành là bao nhiêu, phục vụ mục

đích gì đều do chính phủ quyết định. Nhưng do suy thoái kinh tế, ngân sách

quốc gia bị thâm hụt. Nhằm bù đắp vào những khoản chi tiêu ngân sách, nhà

nước tăng lượng tiền phát hành vào lưu thông dẫn đến nạn lạm phát phi mã, nền

kinh tế lâm vào khủng hoảng. Do vậy không thể duy trì cơ chế này.

Năm 1991 ngân hàng nhà nước Việt Nam bắt tay vào xây dựng chính

sách tiền tệ với mục tiêu ổn định đồng tiền Việt Nam, tăng trưởng kinh tế. Việc

xác định lượng tiền cung ứng hàng năm phục vụ hai mục tiêu đó sao cho lượng

tiền cung ứng đủ, vừa đảm bảo phương tiện lưu thông sản xuất không bị ách tắc

vừa kiềm chế lạm phát.

Page 22: chinh sach lai suat

22

Kết quả được minh hoạ qua bảng sau :

Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994

Chỉ số lạm phát 34.7% 67.5% 68% 17.5% 5.2% 14.4%

Chỉ số phát triển

kinh tế

6.8% 5.1% 6% 8.3% 8% 8.5-9%

Hệ thống các tổ chức tín dụng phát triển đa thành phần theo pháp lệnh

ngân hàng và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Hệ thống ngân hàng thương

mại QD đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các tổ chức tín dụng. Hoạt động

kinh doanh tiền tệ, vàng bạc đá quý ngày càng được mở rộng.

Sau khi tổng kết và đánh giá đến tháng 10/1998, hai pháp lệnh ngân hàng

cũ đã được thay thế bằng hai luật ngân hàng mới. Luật ngân hàng nhà nước và

luật các tổ chức tín dụng và ngân hàng đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa hai

pháp lệnh và phản ánh kịp thời những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân

hàng.

i. CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM :

1. Trước tháng 3/1989: Là thời kì điều hành theo cơ chế lãi suất âm

Tuy từng thời gian ngân hàng nhà nước có điều chỉnh lãi suất, nhưng do

lạm phát phi mã, lãi suất luôn trong tình trạng âm. Điều này có nghĩa là:

- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.

- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.

Hệ thống lãi suất âm có nhiều tiêu cực :

Page 23: chinh sach lai suat

23

- Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giảm bớt áp

lực của tiền đối với giá của hàng hoá bị hạn chế nhiều.

- Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho các

doanh nghiệp.

- Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho

ngân hàng, ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế

thị trường.

- Không có tác dụng khuyến khích khu vực dân cư gửi tiền tiết kiệm vào hệ

thống ngân hàng, họ tăng nắm giữ vàng bạc và ngoại tệ. Ngân hàng thiếu

vốn, lợi nhuận thấp nên không có khả năng cho vay ra nền kinh tế.

Năm 1986 1987

Lãi suất thực - 6,6% - 5,8%

2. Từ tháng 3/1989:

Ngân hàng nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi

suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút tiền trong lưu thông và kiềm chế được

lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất, ngân hàng nhà nước đã nâng lãi suất huy

động lên một mức rất cao trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kì

hạn 9%/tháng – tức là 109%/năm ; Lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng – túc là

144%/năm).

Nhờ vậy đã :

- Thu hút một khối lượng lớn tiền trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng,

gỉm lạm phát, kích thích tăng trưởng phát triển.

- Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lạm

phát, lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, xử lý hài hoà lợi ích người

gửi tiền người vay vốn và tổ chức tín dụng.

Page 24: chinh sach lai suat

24

- Hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và tiền vay:

Đối với ngành kinh tế (công, nông, thương nghiệp) có mức lãi suất riêng ;

Đối với các thành phần kinh tế (quốc doanh, ngoài quốc doanh) còn phân

biệt lãi suất.

- Mức thực dương phi thực tế (năm 1991 – lãi suất thực 25,6% ; năm 1992 –

17,9%) đã kích thích nạn đầu cơ tiền tệ, khan hiếm tiền mặt trong lưu thông

và làm tê liệt hoạt động tín dụng đầu tư phát triển.

3. Từ 1/10/1993:

Ngân hàng nhà nước vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi

suất thoả thuận.

a) Trần : Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8%/tháng ; Kinh tế ngoài quốc

doanh 2,1%/tháng.

b) Thoả thuận : Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay

theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được

áp dụng lãi suất thoả thuận.

Trên thực tế khoảng 30-60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho

vay bằng lãi suất thoả thuận mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông

dân với lãi suất 2,3-3,5%/tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu là đủ

tự do hoá một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất cứng đi đôi

với một biên độ dao động nhất định.

Từ cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng thương mại đã

cho vay theo lãi suất khá cao với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông

dân. Điều đó cũng nói lên một tất yếu khách quan la lãi suất đã theo nhu cầu

Page 25: chinh sach lai suat

25

vốn ở nông thôn lớn hơn và chi phí hoạt động ngân hàng ở nông thôn cao thì lãi

suất cho vay sẽ cao hơn các khu vực khác.

Thời kì cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng đạt được mức

chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao, phổ biến là từ 0,7 –

1%/tháng, cho nên hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao

trong khi các doanh nghiệp và hộ nông dân lại gặp khó khăn về tài chính. Từ

thực trạng này, quốc hội khoá IX, kì họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua nghị

quyết bỏ thuế doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời khống chế

chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động 0,35%/tháng.

Đây là duyên cớ để ra đời cơ chế lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất

cho vay thoả thuận từ 01/01/1996.

4. Từ 01/01/1996:

a) Trên cơ sở nghị quyết của quốc hội về mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng,

nên ngân hàng nhà nước đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo

trần lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các ngân hàng thương

mại chỉ được hưởng chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả chi phí, thuế, lợi

nhuận thay cho việc quy định các mức lãi suất tiền gửi cụ thể và xoá bỏ lãi

suất cho vay thoả thuận. Chính sách điều hành lãi suất vừa quy định trần lãi

suất vừa khống chế chênh lệch 0,35%/tháng nên có quan điểm cho rằng thực

chất của nó là vừa quy định trần vừa quy định sàn lãi suất.

Trần lãi suất cho vay được quy định thành nhiều mức khác nhau, xuất

phát từ đặc điểm có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn

khác nhau, cung cầu vốn khác nhau, quy, mô khác nhau và do đó chi phí khác

nhau, nên quy định nhiều mức trần lãi suất cho vay khác nhau, lúc đầu có 4 trần

:

Page 26: chinh sach lai suat

26

- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn : Là lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực

thành thị.

- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn : Cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một

chút do thời hạn dài dễ gặp rủi ro.

- Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn : Cao hơn trần lãi suất ngắn hạn

và trung dài hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn hơn

thành thị.

- Trần lãi suất của quỹ tín dụng đối với các thành viên : Là trần lãi suất cao

nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, quy mô nhỏ lẻ, chi phí hoạt động cao.

Ưu điểm:

- Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa của các tổ chức tín dụng không ngừng giảm

theo cùng sự giảm về tỷ lệ lạm phát.

- Lãi suất cho vay trung dài hạn giảm nhưng tăng tương đối so với lãi suất

ngắn hạn, tăng dần và dẫn đến cao hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn tối

đa, phù hợp dần với thông lệ quốc tế và nguyên lý chung.

- Các quyết đinh đảm bảo được cả 3 lợi ích : Nền kinh tế quốc dân, tổ chức tín

dụng và người gửi tiền.

- Việc quy định chênh lệch lãi suất đã thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào

cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ. Thay vì sự quy định từng loại lãi suất cụ

thể như trước đây, ngân hàng nhà nước chỉ khống chế mức chênh lệch giữa

lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân, các tổ chức tín

dụng được tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất huy động cụ thể.

- Chính sách lãi suất này đã kích thích hoạt động tín dụng phát triển, tăng

trưởng kinh tế, tạo việc làm, góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại

hoá đất nước.

Hạn chế:

Page 27: chinh sach lai suat

27

- Việc ấn định mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng gây khó khăn cho hoạt

động của ngân hàng và các biện pháp để giám sát sự thực hiện quy định này

là hầu như không có.

- Trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị tạo động lực cho các ngân

hàng thương mại mở rộng hoạt động song lại bị cản trở trong việc thực hiện

chính sách ưu đãi nông nghiệp, khuyến khích nông nghiệp phát triển.

b) Từ 21/01/1998 đến 08/2000:

Tại kì họp thứ hai, tháng 12/1997 quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức

chênh lệch 0,35%/tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất

cho vay giữa thành thị và nông thôn, ngân hàng nhà nước với quyết định số

39/1998_QĐ_NHNH1, quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3

trần và khoảng cách giữa các trần cũng không còn xa nhau như trước.

- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/tháng.

- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25%/tháng.

- Trần lãi suất cho vay quỹ tín dụng cho vay các thành viên 1,5%/tháng.

Việc quản lý lãi suất theo trên có những ưu điểm sau:

- Trong phạm vi trần, các tổ chức tín dụng được tự do hoá ấn định mức lãi

suất cho vay tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh, thực

hiện điều kiện kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do

hoá lãi suất.

- Phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động ngân hàng ở các vùng khác nhau.

- Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận,

vượt quá xa mức lãi suất do ngân hàng nhà nước quy định.

- Có trần khống chế sẽ bảo vệ lợi ích người vay, tổ chức tín dụng và người gửi

tiền.

- Đảm bảo vai trò quản lý của ngân hàng nhà nước về lãi suất trong giai đoạn

đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trường.

Page 28: chinh sach lai suat

28

- Lãi suất tiền gửi được hoàn toàn tự do.

Tuy nhiên, quản lý theo trần lãi suất là cách quản lý hành chính trong giai

đoạn nền kinh tế thị trường còn sơ khai, chưa phát huy được hết mặt tích cực,

nhạy cảm của nó. Lợi dụng mức khống chế "cứng" nhiều tổ chức tín dụng cho

vayngay theo mức tối đa, đụng trần lãi suất để tối đa hoá lợi nhuận. Nó ít linh

hoạt, không được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu vốn và điều kiện khó khăn

thuận lợi của từng vùng.

5. Từ 8/2000 đến nay :

Đang thực hiện điều hành chính sách lãi suất bằng công cụ lãi suất cơ

bản.

Ngày 02/08/2000 thống đốc ngân hàng nhà nước đã ban hành các quyết

định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất có hiệu lực thi hành từ ngày

05/08/2000.

- Quyết định số 241/2000_QĐ_NHNH1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi

suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.

- Quyết định số 242/2000_QĐ_NHNH1 công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở cho

các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối voứi

khách hàng.

- Quyết định số 243/2000_QĐ_NHNH1 công bố biên độ lãi suất đô la Mỹ

làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ.

- Quyết định số 244/2000_QĐ_NHNH1 về việc cung cấp thông tin tham khảo

về lãi suất của các ngân hàng thương mại cho ngân hàng nhà nước.

Đây chính là giai đoạn cụ thể hoá những quyết sách chiến lược đã được

nêu ra trong trong luật ngân hàng nhà nước, khoản 2 điều 19 xác định "lãi suất

cơ bản là lãi suất do ngân hàng nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín

Page 29: chinh sach lai suat

29

dụng ấn định làm lãi suất kinh doanh" ; Điều 18 quy định "ngân hàng nhà nước

xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn".

Việc chuyển hướng này có nhiều lí do, song về cơ bản là bởi lãi suất trần

đã trở thành một công cụ chỉ còn tính hình thức, xơ cứng mất hết tác dụng đối

với nền kinh tế. Nền tảng kinh tế vĩ mô trong nước chưa cho phép thực hiện tự

do hoá lãi suất, do vậy thực hiện chính sách lãi suất theo lãi suất cơ bản là bước

chuyển giao từ việc điều hành hành chính sang việc để thị trường xác định và

nhà nước chỉ tác động qua các công cụ kinh tế.

Nội dung chủ yếu của cơ chế điều hành lãi suất mới :

Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở nguyên tắc thị trường nhưng

với bước đi thích hợp thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường

tiền tệ ; từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính

trong nước, đồng thời với các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao

năng lực điều hành của các tổ chức tín dụng, xử lý lãi suất đồng Việt Nam trong

mối quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối. Cụ thể

là:

Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam : Ngân hàng nhà nước bãi

bỏ quy định trần lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng, chuyển

sang xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ biên độ %, dựa trên việc tham

khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường các ngân hàng thương mại áp

dụng với khách hàng vay có uy tín trong việc sử dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro

thấp.

Lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng gắn với lãi suất cơ

bản. Theo đó lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng cao nhất = lãi suất cơ bản +

tỷ lệ %. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố hàng tháng, trường hợp cần

Page 30: chinh sach lai suat

30

thiết ngân hàng nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời, tại thời điểm hiện nay

là:

- Lãi suất cơ bản là 0,73%/tháng.

- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/tháng.

- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn là 0,5%/tháng.

Với lãi suất cơ bản và biên độ như trên là phù hợp với mặt bằng lãi suất

đã và đang được hình thành trên thị trường nông thôn và thầnh thị hiện nay,

không tác động làm thay đổi lãi suất thị trường và không tạo ra tâm lý về việc

ngân hàng nhà nước Việt Nam tăng trần lãi suất.

Đối với lãi suất cho vay bằng đồng ngoại tệ :

- Cho vay bằng đồng đô la Mỹ : Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của

ngân hàng thương mại đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh

hoạt phù hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn còn sự kiểm soát của nhà

nước, cụ thể là lãi suất cho vay ngắn hạn ( từ 1 năm trở xuống ) không vượt

quá mức SIBOR (lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore ) kì hạn

3 tháng + 1%/năm ; lãi suất cho vay dài hạn ( từ 1 năm trở lên ) không vượt

quá mức SIBOR kì hạn 6 tháng + 2,5%/năm.

- Cho vay bằng ngoại tệ khác : Do chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động tiền

gửi và tín dụng trên thị trường nên cho phép các ngân hàng thương mại tự

xem xét quyết định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ

này trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung – cầu vốn tín dụng của

từng loại ngoại tệ ở trong nước.

Việc cung cấp thông tin tham khảo của các ngân hàng thương mại cho

ngân hàng nhà nước về lãi suất, bao gồm: ngân hàng ngoại thương Việt Nam,

ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và phát triển, ngân hàng

Page 31: chinh sach lai suat

31

nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng thương mại cổ phần á châu,

ngân hàng thương mại và cổ phần quân đội, ngân hàng ANZ, ngân hàng HSBC

và ngân hàng VID PUBLIC.

Để xác định đúng đắn mức lãi suất cơ bản, quá trình xác định cần phải

quán triệt các yêu cầu:

- Từng bước tự do hoá lãi suất nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của nhà

nước đối với thị trường, phù hợp với mục tiêu và diễn biến kinh tế vĩ mô,

tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, điều kiện thực tế thị trường tiền

tệ trong nước và hạn chế đến mức tối đa rủi ro và tác động xấu của biến

động thị trường tiền tệ thế giới.

- Phù hợp với mức độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và quỗc tế, lãi

suất trong nước cần theo sát lãi suất thị trường quốc tế, nghiên cứu và tiếp

thu có chọn lọc quá trình tự do hoá lãi suất của các nước từ đó áp dụng cho

phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Như vậy, so với cơ chế trần lãi suất tín dụng, cơ chế lãi suất cơ bản có một số

ưu việt sau:

- Nền tảng thị trường đã được đưa vào cơ chế xác định lãi suất cơ bản .

- Môi trường cho việc ấn định lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng

được mở rộng tạo khuôn khổ linh hoạt cho các tổ chức tín dụng khi áp dụng

lãi suất.

- Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có thể

thoả thuận để lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi có điều chỉnh, có

lợi cho các bên khuyến khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn và cho

vay trung và dài hạn.

- Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VND – tỷ giá lãi suất ngoại tệ linh hoạt

hơn, phản ánh được chính xác hơn cung – cầu vốn, ngoại tệ tạo cơ sở cho

ngân hàng nhà nước khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường.

Page 32: chinh sach lai suat

32

Tuy đã có yếu tố thị trường, song lãi suất cơ bản là mức lãi suất được

ngân hàng nhà nước ổn định một cách hành chính. Do vậy, chuyển sang cơ chế

tự do hoá lãi suất là một mục tiêu cần tích cực nỗ lực để đạt tới.

III. NHỮNG ĐÁNH GIÁ TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT THỜI

GIAN QUA :

Từ năm 1986 đến nay, ngân hàng nhà nước đã có những bước thay đổi về

điều hành lãi suất trong nền kinh tế để đảm bảo cho chính sách lãi suất phù hợp

với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Chính phủ trong mỗi thời kì.

Gần 15 năm đổi mới hoạt động ngân hàng, chính sách lãi suất đối với nền

kinh tế đã có nhiều đổi mới tiến dần đến một chính sách lãi suất theo thị trường,

cụ thể:

- Chuyển từ lãi suất qua lãi suất dương, xoá bỏ bao cấp qua lãi suất.

- Thực hiện lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn

hạn theo thông lệ quốc tế và phù hợp với rủi ro do thời hạn.

- Rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay nội tệ và ngoại tệ

phù hợp chính sách quản lý ngoại hối và lãi suất trên thị trường quốc tế.

- Từ việc quy định lãi suất cụ thể, ngân hàng nhà nước với việc công bố trần

lãi suất đã thực hiện ở một mức độ nhất định ( so với trần ) sự tự do hoá lãi

suất tiền gửi và tiền vay.

Nhờ những quyết sách đúng đắn về điều hành lãi suất, mối quan hệ 3 bên

giữa người gửi, người vay, tổ chức tín dụng được giải quyết hài hoà. Nguồn vốn

huy động được ngày càng tăng trưởng, lạm phát kiềm chế ở mức thấp, hoạt

động tín dụng ngân hàng diễn ra nhộn nhịp hơn.

Tuy nhiên, trong điều hành chính sách lãi suất cũng bộc lộ nhiều tồn tại,

cụ thể là:

Page 33: chinh sach lai suat

33

- Có thời kỳ mức lãi suất dương phi thực tế đã khiến các doanh nghiệp phải

lao đao vì khoản nợ ngân hàng.

- Việc quy định mức chênh lệch 0,35%/tháng tạo nên sự gò bó, cứng nhắc

trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng.

Ngoài những tồn tại trên ứng với mỗi giai đoạn cụ thể, còn có những tồn

tại xuyên suốt cả quá trình điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước:

1. áp đặt mệnh lệnh hành chính để điều hành các tổ chức tín dụng, không phù

hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.

2. Việc xác định mức trần lãi suất chưa được tiến hành một cách khoa học:

- Cơ sở xác định mức trần lãi suất không đủ: Chỉ căn cứ vào lãi suất huy động

và dự kiến mức phí của các tổ chức tín dụng.

- Liên tục điều chỉnh mức trần lãi suất.

- Mối liên hệ giữa lạm phát, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Lợi nhuận bình quân

của khách hàng không hợp lý.

Đáng lẽ mối quan hệ phải đảm bảo:

Lạm phát < lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn <lợi nhuận bình quân.

Thì với cách điều hành chính sách lãi suất hiện nay, mối quan hệ này có xu

hướng:

Lạm phát < lợi nhuận bình quân <lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.

Page 34: chinh sach lai suat

34

CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NHẰM CHUYỂN SANG TỰ DO HOÁ LÃI

SUẤT Ở VIỆT NAM

I. NHỮNG CẢN TRỞ CHƯA CHO PHÉP VIỆT NAM TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT:

Quá trình cải cánh hệ thống tài chính ở Việt Nam đã đưa chính sách lãi suất tiệm cận với thị trường hơn, sự cần thiết và xu hướng quốc tế hoá buộc Việt Nam phải chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất. Nhưng ở thời điểm này, đề án tự do hoá lãi suất chưa khả thi ở Việt Nam vì những yếu tố sau:

Thứ nhất, cũng như các nước đang phát triển bước đầu chuyển sang cơ chế thi trường, Việt Nam sẽ gặp những hạn chế chung như các kinh nghiệm của các nước đã được đề cập ở chương I của chuyên đề này. Đó là những khó khăn cơ bản nên ngay bây giờ khi các điều kiện tiền đề chưa cho phép nếu chúng ta thực hiện tự do hoá lãi suất thì tổn hại cho nền kinh tế sẽ rất nghiêm trọng. Ngoài ra, Việt Nam còn có những khó khăn đặc thù riêng.

Thứ hai, phân tích thực trạng Việt Nam cho thấy khả năng chống đỡ của khu vực sản xuất hiện nay đối với việc tăng lãi xuất thực rất thấp, tính thụ động của hệ thống Ngân hàng đối với môi trường kinh tế còn ở mức cao trong một cơ chế lãi suất mở – chỉ có trần lãi suất tín dụng – nhưng hầu như các tổ chức tín dụng vẫn không tự điều chỉnh lãi suất kinh doanh theo diễn biến giảm phát liên tục của nền kinh tế năm 1999, mà thường chỉ điều chỉnh khi Ngân hàng nhà nước can thiệp và hầu như cho vay ở mức kịch trần, thậm chí còn vượt trần bằng cách tăng các chi phí lãi suất. Trong khi đó, việc nới lỏng dần hoạt động quản lí lãi suất hướng tới tự do hoá có khuynh hướng làm tăng lãi suất thực trong nước, khiến luồng vốn quốc tế đổ vào. Đồng nội tệ bị lên giá cộng với gánh nặng lãi suất sẽ gây khó khăn cho khu vực doanh nghiệp và khu vực Ngân hàng và sự chạy trốn của các luồng tư bản là kết quả cuối cùng của quá trình này nếu sự tự do hoá tài khoản vốn được thực hiện.

Page 35: chinh sach lai suat

35

Thứ ba, thị trường tài chính của nước ta – nơi mà từ đó lãi suất thị trường được hình thành và là nơi điều tiết vốn – còn kém phát triển. Thị trường tiền tệ vẫn trong giai đoạn quá độ với trình độ hết sức sơ khai. Tham khảo một số tài liệu của IMF, thuộc chương trình ESAF dành cho Việt Nam ( giai đoạn 2 ) qua mấy năm đổi mới, chỉ số phát triển chiều sâu tài chính ( Financial deeping ) của Việt Nam vẫn ở xu hướng giảm và còn thấp. Chỉ số M2/GDP chỉ là 12,5% so với mức bình quân trên 60% của nhiều nước đang phát triển; chỉ số Mo/tiền gửi Ngân hàng còn cao là 61,2%, trong khi khối các nước ASEAN phổ biến chỉ khoảng 12% - có nghĩa là trong lúc mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế (Monetization) ( điều quyết định kích cỡ thị trường tiền tệ ) còn rất thấp thì chủng loại “hàng hoá” cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ ( liên quan đến kết cấu tiền tệ, bán tiền tệ, các công cụ tiền tệ ngắn hạn ... ) còn hết sức nghèo nàn, phương thức giao dịch còn thô sơ và mức độ rủi ro tiền tệ còn lớn. Đặc trưng của thị trường tiền tệ Việt Nam là các quan hệ cung cầu vốn, tiền tệ hình thành một cách hết sức khó khăn diễn ra không bình thường.

Thị trường vốn, mới hình thành một trung tâm giao dịch chứng khoán ở thành phố Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2000. lưu lượng vốn giao dịch theo thống kê đến tháng 1 năm 2001 mới có 40 tỷ đồng Việt Nam. Tình trạng đóng băng của trung tâm này thời gian gần đây cùng với sự nghèo nàn hàng hoá niêm yết chưa cho phép nó trở thành một cửa ngõ quan trọng để các doanh nghiệp có thể huy động được vốn.

Chúng ta đã có thị trường Liên Ngân hàng, tuy nhiên hoạt động của thị trường này hiện nay đang ở trình độ thấp, quy mô nhỏ.

Và một số tồn tại sau đang cản trở những bước hội nhập trong tiến trình tự do hoá: - Nền tảng kinh tế vĩ mô vẫn chưa ổn định: nguy cơ lạm phát vẫn còn tiềm ẩn

( lạm phát tăng từ 3,6% năm 1991 lên 9,2% năm 1999 ); ngân sách vẫn còn căng thẳng: tích luỹ nội địa thấp, vốn đầu tư còn thiếu và phụ thuộc khá lớn vào vốn đầu tư nước ngoài ( đến 50%).

- Xuất phát điểm của nền kinh tế ở mức quá thấp.

Page 36: chinh sach lai suat

36

- Khu vực sản xuất ( nhất là khu vực nhà nước) hoạt động kém hiệu quả, đang trong giai đoạn chấn chỉnh, sắp xếp, cổ phần hoá ...

- Hiện nay, các công cụ tài chính như thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác để thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu, chiết khấu chưa được phổ biến. Luật thương mại đã có những điều khoản quy định về thương phiếu song lại thiếu những văn bản hướng dẫn thực hiện cho nên từ đó đến nay chưa có sự sử dụng thương phiếu để thanh toán. Nghiệp vụ tái cấp vốn của ngân hàngnhà nước chưa thực hiện đúng nội dung kinh tế của nó, chủ yếu còn mang tính chất cho vay trực tiếp, chưa thể thực hiện được tinh thần “người cho vay cuối cùng”. Do đó công cụ lãi suất tái chiết khấu chưa đủ sức mạnh chi phối lãi suất thị trường.

- Nghiệp vụ thị trường mới chưa ra đời cũng gây khó khăn cho việc điều tiết cung ứng tiền và lãi suất.

- Hệ thống Ngân hàng thương mại, nhất là các Ngân hàng thương mại cổ phần vẫn còn yếu kém: vốn nhỏ, trình độ quản lý, đội ngũ cán bộ còn bất cập so vớiđòi hỏi khách quan.

- Tình hình kinh tế, tài chính các nước trong khu vực và trên thế giới, sau cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế năm 1997 đang phải đối đầu với nhiều khó khăn thách thức.

- Trình độ quản lý nền kinh tế của các cơ quan vĩ mô trong những năm qua đã có nhiều bước tiến khá dài, nhưng so với yêu cầu đặt ra vẫn chưa thể đáp ứng ngay được.

Tóm lại, để tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay là chưa có đủ điều kiện. Đó là một quá trình cần có một sự chuẩn bị cân nhắc cẩn thận trình tự từng bước đi, sao cho có thể tự do hoá được dần dần đạt tới và hạn chế những tác động ngược mà nó có thể gây ra.

II. GIẢI PHÁP CHUYỂN SANG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT:

1. Thiết kế và đưa vào sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ:

Page 37: chinh sach lai suat

37

1.1/ Dự trữ bắt buộc: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ

chức và mọi loại tài sản nợ. Việc không tuân thủ cần bị xử phạt nghiêm khắc

thông qua việc áp dụng mức lãi suất phạt cao trên số thiếu hụt bình quân cả kỳ.

Ngân hàng Trung ương phải có quyền quy định cách thức tính toán và loại tài

sản nợ cũng như loại hình tổ chức áp dụng dự trữ bắt buộc.

Cùng với xu thế chung của thế giới, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được giảm

thấp hơn, nên xem xét việc trả lãi toàn phần hay một phần do dự trữ bắt buộc

vượt quá mức nhất định.

1.2/ Lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn:

Cần hợp nhất các thể thức tái cấp vốn thành một thể thức với một lãi suất

cho vay tái cấp vốn duy nhất. Thường cần có một thể thức chiết khấu chung để

cung cấp vốn khả dụng cho thị trường và ngăn chặn biến động quá mức của lãi

suất ngắn hạn, đặc biệt là lãi suất liên ngân hàng. Thể thức này cần áp dụng

thống nhất với mọi ngân hàng và cho phép được vay tự động với các quy tắc và

hạn mức quy định trước.

Đối với thể thức tái chiết khấu, biến số chủ chốt là lãi suất chiết khấu.

Nếu không có thị trường tiền tệ phát triển thì có thể quy định lãi suất này theo

cách hành chính. Một số Ngân hàng Trung ương tổ chức đấu giá tín dụng của

Ngân hàng Trung ương để xác định lãi suất chiết khấu. Quy tắc căn bản là phải

luôn giữ lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tiền gửi để buộc các Ngân hàng

phải huy động tiền gửi trước khi vay vốn của Ngân hàng Trung ương. Ngay khi

có thể, cần đặt lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất tham chiếu tiêu chuẩn của thị

trường tiền tệ.

1.3/ Nghiệp vụ thị trường mở:

Page 38: chinh sach lai suat

38

Hoạt động thị trường mở đòi hỏi phải có thị trường thứ cấp với khối

lượng giao dịch lớn. Để thực hiện nghiệp vụ này, cả Ngân hàng Trung ương và

Ngân hàng thương mại cần phải nắm giữ và sẵn sàng nắm giữ trái phiếu. Nếu

không có thị trường chứng khoán thứ cấp sôi động, thì trên thực tế, các Ngân

hàng Trung ương sẽ bị hạn chế và khả năng sử dụng thị trường mở một cách có

hiệu quả trên thị trường sơ cấp. Điển hình là các nghiệp vụ đó bao gồm đấu

thầu chứng khoán được phát hành mới để thu hút tiền dự trữ hoặc đấu thầu tín

dụng của Ngân hàng Trung ương để cung ứng tiền dự trữ. Để thu hút lượng vốn

thanh khoản dư thừa, thì thị trường mở được sử dụng phổ biến là phát hành

chứng khoán mới của Ngân hàng Trung ương hoặc của Kho bạc.

2. Xây dựng thị trường tiền tệ và thị trường vốn:

Điều hành chính sách tiền tệ bằng các công cụ gián tiếp, tự do hoá lãi

suất đòi hỏi phải có thị trường tiền tệ hoặc thị trường liên ngân hàng tốt để

truyền tải những biến số chính sách và lãi suất. Do vậy, cần phải thiết lập những

thị trường này có khả năng hình thành nên lãi suất thị trường, cho phép Ngân

hàng Trung ương can thiệp để thực hiện chính sách tiền tệ và Ngân hàng

thương mại có cơ chế quản lý vốn khả dụng dôi dư một cách tích cực.

Phát triển thị trường Liên ngân hàng theo hướng để các Ngân hàng

thương mại đủ tiêu chuẩn tham gia thị trường tự do giao dịch, trao đổi tiền

Trung ương với nhau. Ngân hàng Nhà nước chỉ can thiệp với tư cách người cho

vay cuối cùng và lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước phải căn cứ vào

điều kiện thị trường, dần dần hình thành cặp lãi suất chỉ đạo gồm lãi suất chiết

khấu và lãi suất cho vay lưu phiếu ( thế chấp tín phiếu, hối phiếu ... ).

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng thoả thuận với kho

bạc Nhà nước tổ chức ngay việc đấu giá tín phiếu kho bạc theo hình thức ghi

sổ, để các Ngân hàng thương mại có công cụ trao đổi, thế chấp nhằm phát triển

Page 39: chinh sach lai suat

39

các hoạt động thị trường của họ và từ đó Ngân hàng Nhà nước có thể xây dựng

thị trường tiền tệ và sử dụng tín phiếu kho bạc trong nghiệp vụ thị trường mở để

điều tiết thị trường.

Mặt khác, chúng ta cần củng cố các Ngân hàng thương mại, nhất là các

Ngân hàng thương mại quốc doanh để chúng trở thành những đối tác tin cậy

trên thị trường tiền tệ, trên cơ sở đó các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu Ngân hàng

do các Ngân hàng phát hành mới có tính chuyển nhượng cao và trở thành công

cụ được giao dịch trên thị trường.

Muốn mở rộng quy mô và tính sôi động của thị trường tiền tệ cần phải có

mức độ tiền tệ hoá ( Monetization) cao. Chúng ta chỉ thực hiện được điều này

khi kiểm soát được lạm phát, nâng cao chỉ số phát triển chiều sâu về tài chính

(Financial deeping) bằng cách tăng chỉ số M2/GDP và giảm chỉ số Mo/Tiền gửi

Ngân hàng.

Đa dạng hoá chủng loại “hàng hoá” cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ trên thị

trường tiền tệ. Ban hành những văn bản hướng dẫn thanh toán qua thương phiếu

được quy định trong luật thương mại. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế tái chiết

khấu các giấy tờ thương mại có giá ngắn hạn theo thông lệ quốc tế.

Sự có mặt của thị trường tiền tệ sẽ đóng góp hữu ích vào việc xây dựng

và củng cố bầu không khí lành mạnh và an toàn hoạt động của các Ngân hàng.

Mối lo âu thường xuyên của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng về khả năng thanh

khoản của mình sẽ được giải toả, các nguồn tiền sẽ được sử dụng đúng mức và

hiệu quả hơn. Kết quả là các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng được cung

cấp nhiều vốn với “giá” phải chăng hơn trước đây.

Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi một nguồn vốn trung

hạn và dài hạn lớn. Với phương châm dựa vào nguồn vốn nội lực là chính, thị

trường chứng khoán ra đời tạo thêm một kênh huy động vốn quan trọng cho nền

kinh tế. Để thị trường này hoạt động có hiệu quả cần thiết ban hành những văn

Page 40: chinh sach lai suat

40

bản pháp quy phù hợp, triển khai hệ thống thông tin điện tử hiện đại bảo đảm

các giao dịch được kịp thời. Vấn đề tạo hàng hoá và chủ thể tham gia thị trường

này gắn liền với tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Trong những năm tới, số

lượng các doanh nghiệp cần cổ phần hoá lên tới 2000 – 3000 doanh nghiệp.

Song càng về sau quá trình này diễn ra chậm chạp hơn do quy mô các doanh

nghiệp lớn hơn. Nhà nước nên có những ưu đãi ban đầu đối với những doanh

nghiệp vừa tiến hành cổ phần.

3. Cải cách hơn nữa hệ thống ngân hàng:

Ngân hàng Trung ương phải tiếp tục củng cố và phát huy vai trò điều

hành chính sách tiền tệ của mình. Với việc sử dụng các công cụ và cơ chế thị

trường để can thiệp, Ngân hàng Trung ương cần phải có được thông tin cập

nhật và tiếp xúc thường xuyên với thị trường. Điều này đòi hỏi phải có sự thay

đổi trong phương thức hoạt động của Ngân hàng Trung ương, chuyển từ theo

dõi thụ động và định kì việc tuân thủ các quy định bắt buộc sang tham gia một

cách tích cực và thường xuyên. Việc theo dõi hàng ngày các diễn biến và tỉ giá,

lãi suất và vốn khả dụng trên thị trường tiền tệ sẽ cho biết thời điểm có sự căng

thẳng trên thị trường và mức độ can thiệp. Ngân hàng Trung ương có thể can

thiệp khi cần thiết trên thị trường tiền tệ hoặc ngoại hối một cách công khai

hoặc gián tiếp thông qua các đại lý.

Cần có sự phân chia quyền lực hợp lý giữa các bộ phận ra quyết định, cơ

cấu lại tổ chức của Ngân hàng Trung ương - đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa

các vụ chuyên môn. Hệ thống kế toán cũng cần được hợp lý hoá và hiện đại hoá

để cung cấp các thông tin cập nhật cần thiết để quản lý ngắn hạn các hạng mục

chủ yếu trên bảng cân đối của Ngân hàng Trung ương.

Ngoài Ngân hàng Trung ương, cũng cần phải có những thay đổi trong hệ

thống Ngân hàng nói chung. Điểm xuất phát để cải tổ hệ thống Ngân hàng là

phải đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng

Page 41: chinh sach lai suat

41

và việc gia tăng các yếu tố vật chất chỉ được thực hiện trên cơ sở chất lượng

quản trị. Đồng thời, việc quản lý hệ thống ngân hàng phải theo hướng hỗ trợ các

ngành kinh doanh có hiệu quả, không phải theo hướng nuôi dưỡng các ngân

hàng yếu kém.

Trước hết của việc cải tổ là phải bắt đầu từ nhân sự, tức là các nhà quản

trị ngân hàng. Để có những nhà quản trị giỏi, trước hết phải có cơ chế lựa chọn

và đào thải. Tiêu chuẩn trước hết để lựa chọn một nhà quản trị ngân hàng là

chất lượng công việc và tính sáng tạo, đương nhiên phải trên cơ sở đạo đức

nghề nghiệp. Mặt khác, cần có cơ chế sàng lọc bao gồm: thay thế người có năng

lực hơn, thay đổi vị trí đánh giá lại. Một nhà quản trị có thể bị thay thế trong

các trường hợp sau: năng lực quản trị yếu, phạm những sai lầm nghiêm trọng

trong quản trị và cạn kiệt các ý tưởng mới trong quản trị làm ảnh hưởng đến sự

phát triển ngân hàng.

Mở rộng quyền tự chủ của ngân hàng trong kinh doanh phải gắn liền với

hệ thống kiểm soát chặt chẽ. Chính sách của Ngân hàng Trung ương đối với các

Ngân hàng thương mại cần tập trung vào các lĩnh vực có ảnh hưởng đến kinh tế

vĩ mô và hệ thống Ngân hàng, không can thiệp quá sâu vào kỹ thuật nghiệp vụ

– lĩnh vực cần phải tự chủ trong cạnh tranh. Tập trung thanh tra và kiểm soát

chặt chẽ các khâu trọng yếu và các địa bàn trọng điểm, đặc biệt là các trung tâm

tài chính.

Thành lập Ngân hàng chính sách hoặc có biện pháp tách rời hoạt động có

tính chính sách trong các Ngân hàng thương mại để tạo ranh giới rõ ràng hơn

giữa chức năng kinh doanh của Ngân hàng thương mại với chức năng cơ quan

thực hiện các chính sách của Nhà nước.

Tiến hành cổ phần hoá hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh

nhằm tạo điều kiện tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng theo hướng cắt giảm chi

phí hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như chuẩn bị cho tiến trình

Page 42: chinh sach lai suat

42

hội nhập với khu vực và trên thế giới. Do tầm quan trọng của hệ thống ngân

hàng nên Nhà nước chỉ cần giữ quyền kiểm soát với trên 50% vốn là đủ.

4. Chuyển lãi suất cơ bản từ lãi suất cho vay sang lãi suất tiền gửi:

Bước sang trung gian để chuyển sang tự do hoá lãi suất là cần phải điều

hành lãi suất qua việc điều hành lãi suất cơ bản của Ngân hàng Trung ương.

Hiện nay lãi suất cơ bản đưa ra cho các tổ chức tín dụng là lãi suất cho vay. Tuy

nhiên vì một sự cạnh tranh lành mạnh và an toàn hệ thống, chúng ta cần chuyển

dần sang cơ chế khống chế lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi suất cơ bản theo thông

lệ quốc tế. Cụ thể:

Lãi suất tiền gửi tối đa = Lạm phát dự kiến + Lãi thực của người gửi tiền

Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi mức

khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ thể phù

hợp với cung cầu vốn. Thực chất của lãi suất cơ bản theo loại này là Ngân hàng

Trung ương chỉ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi

suất cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất cho vay thông qua điều hành

lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ.

Lãi suất cơ bản theo cách này có ưu điểm là tạo ra một bước tiến mới

trong chính sách lãi suất tiến sát tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn ( là tự do hoá

lãi suất cho vay và tự do hoá lãi suất tiền gửi dưới mức tối đa ), là cơ chế lãi

suất linh hoạt theo quan hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trường và

thông lệ quốc tế, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng, giảm

thiểu sự quản lí của nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính.

Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức tín dụng

huy động vốn với bất kì lãi suất nào chạy đua về lãi suất tiền gửi để huy động

mới bù đắp bù đắp nợ cũ. đảm bảo an toàn hệ thống và bảo vệ được lợi ích của

Page 43: chinh sach lai suat

43

người gửi tiền. Đồng thời, lãi suất cơ bản loại này thì hình thành nhiều khu vực

lãi suất theo quan hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau.

- Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp quyết định nâng cao hoặc hạ

lãi suất tiền gửi tối đa tương ứng.

- Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền

tệ tác động vào khối lương vốn trên thị trường như : ngân hàng mua bán các

loại giấy tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức tín dụng ...

Vì vậy, khi ngân hàng trung ương xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ,

chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ trực tiếp sang kết hợp điều

chỉnh bằng công cụ trực tiếp với công cụ gián tiếp, đưa nghiệp vụ thị trường mở

vào hoạt động để mua bán các chứng khoán ngắn hạn của các tổ chức tín dụng,

thực hiện tái chiết khấu các chứng từ của các tổ chức tín dụng; Củng cố kiểm

soát thị trường liên ngân hàng, tiếp tục củng cố và mở rộng việc mở và sử dụng

tài khoản cá nhân, để trên cơ sở đó một chính sách lãi suất cơ bản linh hoạt hơn

trần lãi suất như công bố lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa có sự kiểm

soát của nhà nước bằng cả trực tiếp lẫn gián tiếp.

Và sau quá trình thực hiện thành công lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi

tối đa thì ta sẽ tiến hành thêm một bước nữa để tự do hoá lãi suất hoàn toàn khi

đã có và chủ động về các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và các điều kiện

khác về kinh tế và tiền tệ ổn định.

Page 44: chinh sach lai suat

44

KẾT LUẬN

Việc chuyển đổi chính sách điều hành lãi suất sang cơ chế tự do hoá lãi suất là một su thế tất yếu. Song cách thức chuyển đổi có hiệu quả nhằm hạn chế những tiêu cực, kích thích nền kinh tế phát triển, huy động tích tụ tập trung vốn cho công phát triển bền vững lại không có một khuôn mẫu đồng nhất. Tuỳ theo điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, nền tảng kinh tế vĩ mô, mức độ mở cửa tập quán tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư mà lộ trình tự do hoá lãi suất phải có thích ứng phù hợp.

Tuy nhiên để vận dụng lãi suất thị trường, yếu tố chung cho cải cách ở mỗi quốc gia là phải phát triển được thị trường,. Trên cơ sở thị trường lãi suất được hình thành và tác động vào các biến số kinh tế vĩ mô khác. các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương cũng phải được chuyển từ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp mang tính thị trường. Thông qua các công cụ định hướng thị trường điều hành diễn biến lãi suất nhằm đạt các mục tiêu tổng thể của nền kinh tế. Muốn có một thị trường phát triển, có các công cụ thị trường hữu hiệu phải có sự chuẩn bị kĩ càng về cơ sở vật chất và con người. Hệ thống ngân hàng cần được tiếp tục cải tổ, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng nhằm làm giảm chi phí và tăng hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế.

Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, nền kinh tế mới chuyển đổi của nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội và nhiều khó khăn thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập. Duy trì chính sách lãi suất bị kiểm soát thời gian qua ngày càng tỏ ra kém hiệu quả : vốn ứ đọng trong các ngân hàng, các biện pháp kích cầu qua lãi suất không đạt hiệu quả mong muốn. Hơn mười năm sau đổi mới, những cải cách mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng, trong điều hành chính sách tiền tệ và thu chi ngân sách đã tạo ra những tiền đề vững chắc cho quá trình tự do hoá lãi suất.

Page 45: chinh sach lai suat

45

Vì nhiều lí do hạn chế về kiến thức và khả năng thu thập số liệu liên quan tôi mong các bạn có nhiệt tâm đóng góp, bổ xung, sửa chữa cho chuyên đề của tôi.

NỘI DUNG

Mở đầu

Chương I Lãi suất và tự do hoá lãi suất

I. Lãi suất

II. Tự do hoá lãi suất

III. Kinh nghiệm thé giới trong việc thực tự do hoá lãi suất

Chương II Thực trạng chính sách lãi suất ở Việt Nam

I. Bối cảnh chung

II. Các giai đoạn thực hiện chính lãi suất ở Việt Nam

III. Những đánh giá trong điều hành chính sách lãi suất thời gian qua

Chương III Giải pháp nhằm chuyển sang tự do hoá lãi suất

ở Việt Nam

I. Những cản trở chưa cho phép Việt Nam tự do hoá lãi suất

II. Giải pháp chuyển sang tự do hoá lãi suất

Page 46: chinh sach lai suat

46

Kết luận.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, Vấn đề đổi mới chính sách tiền tệ , kiểm soát lạm phát ở Việt Nam

và kinh nghiệm của Nhật Bản.

Nxb Chính trị quốc gia, 1995

2, Frederic. S.Mishkin Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính

Nxb Khoa học kỹ thuật, 1994

3, N.Gregory.Mankiw Kinh tế vĩ mô

Nxb Thống kê, 1999

4,Một số tạp chí chuyên ngành các năm 1997, 1998, 1999, 2000

-Tạp chí Ngân hàng

-Tạp chí Tài chính

-Tạp chí Thị trường tiền tệ

-Tạp chí Nghiên cứu kinh tế