Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN DỊCH TỄ HỌC
I. KHÁI NIỆM
Bệnh tật đã ảnh hưởng tới một số lượng lớn các cá thể trong quần thể động vật, đó là
mục tiêu khảo sát từ lâu của dịch tễ học. Dịch tễ học hiện đại là kết quả của một quá
trình phát triển dần dần, có thể thấy được tiến trình phát triển đó thông qua một số định
nghĩa về dịch tễ học kế tiếp nhau của một số tác giả như sau:
Dịch tễ học (Epidemiology) là môn học
Nghiên cứu sự phân bố của bệnh hoặc tình trạng sức khỏe trong quần thể hoặc sự tác
động của các yếu tố quyết định sức khỏe đến sự phân bố bệnh (Lilienfeld, 1958).
Nghiên cứu về bệnh trong quần thể (Schwabe, 1977).
Phương pháp lập luận về bệnh và đề cập đến suy luận sinh học bắt nguồn từ quan sát
hiện tượng bệnh trong quần thể và các nhóm cá thể (Lilienfeld, 1978).
Nghiên cứu về tần số, sự phân bố, và yếu tố quyết định sức khỏe và bệnh trong quần
thể (Martin, 1987).
Tóm lại: Dịch tễ học là môn khoa học nghiên cứu về tình trạng phân bố bệnh tật, cùng
các yếu tố quyết định sự phân bố đó. Vì vậy môn dịch tễ học có thể được xem là môn
học nghiên cứu về sức khỏe và bệnh tật của quần thể, mặc dầu quan tâm đến quần thể,
nhưng những hiểu biết về sức khỏe và bệnh tật của quần thể lại là cơ sở khoa học cho
các quyết định y học trên từng cá thể.
Dịch tễ học đang dần dần trở thành môn khoa học lý luận cơ bản của ngành Thú y và
của các ngành khoa học khác nghiên cứu về sức khỏe động vật, được ứng dụng rộng
rãi trong các nghiên cứu cũng như trong các công tác thực tiễn hằng ngày, đã có một
sự biến đổi sâu sắc trong khoảng thời gian gần đây. Cần phải phân biệt trường hợp một
cá thể bị bệnh và trường hợp một tập hợp các cá thể mắc bệnh trong quần thể (còn gọi
là hiện tượng bệnh hàng loạt). Không chỉ riêng các bệnh truyền nhiễm mới gây nên
hiện tượng bệnh xảy ra hàng loạt, mà gần như tất cả các loại bệnh, các hiện tượng sinh
lý, rối loạn sự tăng trưởng cũng xảy ra có tính chất đồng loạt. Hiện tượng sức khỏe bất
thường xảy ra đồng loạt, thì chỉ riêng tiếp cận lâm sàng sẽ không đủ sức giải quyết, mà
cần phải có phương pháp tiếp cận dịch tễ. Hai phương pháp có những đặc điểm giống
và khác nhau như sau: cả hai đều có các bước tiến hành như nhau, gồm chẩn đoán, giải
thích nguyên nhân, chọn phương pháp can thiệp hợp lý nhất và theo dõi sự diễn biến
tiếp tục. Nhưng nội dung của từng bước tiến hành thì có sự khác nhau, vì đối tượng
tiếp cận khác nhau. Đối tượng của lâm sàng là trường hợp một cá thể bị bệnh, còn của
dịch tễ học là tập hợp nhiều thú mắc bệnh, có những tính chất riêng về đặc điểm cá
thể, về thời gian, địa điểm.
2
Phương pháp Thú y truyền thống đề cập đến bệnh trên cá thể động vật, với mục đích
phát hiện và chữa trị bệnh trên mỗi cá thể, nhưng thực sự cá thể đó đã bị nhiễm bệnh
từ trước.
Phương pháp dịch tễ học nghiên cứu về bệnh trên quần thể, mô tả nó bằng tần số bệnh,
nhưng tần số bệnh hay bệnh xảy ra, chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự tác động lẫn nhau
của nhiều yếu tố khác nhau hoặc các yếu tố quyết định dịch bệnh và những yếu tố cơ
học có thể làm giảm tần số bệnh xảy ra trong quần thể.
Nhiệm vụ của nghiên cứu dịch tễ học, lâm sàng học: Người nghiên cứu dịch tễ ghi
nhận thông tin trên những thành viên của quần thể bất chấp nếu có bệnh hoặc khỏe
mạnh hơn với xác suất xảy ra. Còn nhà nghiên cứu lâm sàng làm việc bằng bảng tiêu
chuẩn lâm sàng. Nhà dịch tễ thì quan tâm nhiều hơn đến một vấn đề gì đó (hiện tượng
sức khỏe) xảy ra hơn là hiện tượng đó xảy ra như thế nào ở lúc phát sinh, cấp độ cơ
học. Nhà dịch tễ có thể làm việc với giả thuyết xảy ra hiện tượng đó, nếu cơ chế bệnh
học chưa được hiểu biết đầy đủ.
Đối tượng chẩn đoán của chẩn đoán lâm sàng dựa trên cá thể bệnh; Chẩn đoán thí
nghiệm dựa trên cá thể chết, một phần cá thể chết, hoặc cá thể bệnh. Còn chẩn đoán
dịch tễ dựa trên quần thể (chết, bệnh, khỏe).
Địa điểm thực hiện việc chẩn đoán lâm sàng thường được thực hiện ở bệnh viện hoặc
phòng mạch thú y; chẩn đoán thí nghiệm thường được thực hiện ở trong phòng thí
nghiệm. Còn chẩn đoán dịch tễ được thực hiện chủ yếu ở thực địa và các thiết bị hỗ trợ
chức năng.
Mục đích chủ yếu của việc chẩn đoán lâm sàng là điều trị cho cá thể; chẩn đoán thí
nghiệm là điều trị cho cá thể hoặc cá thể tương lai; còn chẩn đoán dịch tễ nhằm mục
đích khống chế bệnh, hoặc phòng bệnh xảy ra trong tương lai.
Quy tắc của chẩn đoán lâm sàng đưa ra được tên bệnh trên cơ sở dấu hiệu lâm sàng;
chẩn đoán thí nghiệm đưa ra được tên bệnh, hoặc mầm bệnh, trên cơ sở phản ứng của
ký chủ liên quan đến tác nhân gây bệnh. Còn chẩn đoán dịch tễ thì đưa ra được tần số
bệnh, mô hình dịch bệnh xảy ra, và các yếu tố có thể quyết định dịch bệnh xảy ra để
phân tích mối liên quan đó với dịch bệnh.
Mục đích chẩn đoán lâm sàng là đưa ra được tên bệnh, bệnh này điều trị như trị như
thế nào? Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm với kết quả là gọi được tên bệnh (xác định
được mầm bệnh), cơ chế gây bệnh như thế nào? Còn chẩn đoán dịch tễ cho biết quần
thể đó có bị bệnh (dịch bệnh) hay không; cá thể mắc bệnh có đặc điểm gì? Bệnh xảy ra
ở đâu (không gian), và khi nào (thời gian) ? Vì sao quần thể đó mắc bệnh? Tại sao
bệnh lại xảy ra? Khống chế và phòng bệnh như thế nào? Bảng 1.1 sẽ tóm tắt sự so
sánh giữa tiếp cận lâm sàng và dịch tễ học
3
Bảng 1.1. So sánh sự tiếp cận của lâm sàng và dịch tễ học
Các bước Lâm sàng học Dịch tễ học
Đối tượng Một thú bệnh Một hiện tượng sức khỏe/quần thể
Chẩn đoán Xác định một ca bệnh Xác định một hiện tượng sức khỏe/quần
thể (hiện tượng xảy ra hàng loạt)
Tìm nguyên
nhân
Nguyên nhân gây bệnh
cho một cá thể
Nguyên nhân làm xuất hiện và lan tràn
bệnh / quần thể
Điều trị Điều trị cho một thú
bệnh bằng phác đồ
Một chương trình can thiệp TY, giám
sát, thanh toán hiện tượng bệnh hàng
loạt/ quần thể
Đánh giá kết quả Chẩn đoán sự cải thiện
sức khỏe của một thú
bệnh. Theo dõi tiếp tục
sau điều trị
Phân tích sự thành công (kết quả) của
chương trình can thiệp. Giám sát dịch tễ
học tiếp tục
Cho nên có thể coi người làm công tác lâm sàng là người nghiên cứu chi tiết, còn
người làm công tác dịch tễ học là người nghiên cứu tổng quát.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CỦA DỊCH TỄ HỌC
Phương pháp tiếp cận của dịch tễ học là phương pháp tiếp cận toàn diện. Sử dụng phối
hợp các mô tả khoa học và kỹ thuật khác nhau trong điều tra dịch bệnh cùng nhau đưa
ra kết quả tổng hợp, như là một bức tranh toàn diện về một căn bệnh cụ thể, phát triển
và duy trì trong tự nhiên. Biết được quá trình phát triển tự nhiên của bệnh trong quần
thể là chưa đủ, chưa phải là mục đích, mà chỉ mới là một phần của dịch tễ học. Quan
trọng là vấn đề can thiệp. Các biện pháp kiểm tra, giám sát và loại trừ các hiện tượng
bệnh xảy ra hàng loạt phải được đặt ra để chống lại nhiều bệnh (dịch). Cách tiếp cận
dịch tễ học sẽ cho những nhận xét, đánh giá chính xác đối với các phương pháp chẩn
đoán do đó sẽ có một sự chuyển đổi giữa phương pháp chẩn đoán và đưa ra các
phương pháp định hướng cho việc phát hiện và nghiên cứu dịch bệnh. Các tiếp cận
dịch tễ học sẽ làm cho khoa học về các phương pháp chẩn đoán đó phát triển nhanh
chóng. Không được đánh giá một hiện tượng sức khỏe ngoài bối cảnh tự nhiên của nó,
mà phải xét nó trong mối quan hệ với các vấn đề sức khỏe khác.
Như vậy, dịch tễ học không phân tích một yếu tố căn nguyên riêng lẽ, mà phải tiến
hành phân tích đồng thời các bệnh quan trọng và tất cả các yếu tố liên quan tới nó.
Phải gắn liền một hiện tượng sức khỏe với phức hợp các điều kiện phương thức chăn
nuôi và kinh tế xã hội. Mỗi quần thể đều có những tính chất đặc trưng, những tính chất
4
đó là những yếu tố quan trọng góp phần quyết định đặc điểm của các hiện tượng sức
khỏe trong quần thể. Việc can thiệp đối với quần thể nào đó như dự phòng, trị liệu, các
chương trình can thiệp phòng chống,..cũng xuất phát từ khả năng của cộng đồng xã
hội, gắn liền với các điều kiện khoa học, kinh tế, chính trị xã hội, gắn liền với trình độ
tổ chức quản lý của ngành Thú y.
Dịch tễ học chú trọng đến những vấn đề như sau: Quan sát bệnh xảy ra như thế nào
trong điều kiện tự nhiên mà không phải trong điều kiện thí nghiệm. Nghiên cứu bệnh
diễn ra trên quần thể mà không phải trên cá thể. Phát hiện mối quan hệ giữa nguyên
nhân gây bệnh và bệnh thông qua các phương pháp suy luận mà không nghiên cứu tìm
cơ chế sinh bệnh.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA DỊCH TỄ
HỌC THÚ Y
3.1. Nội dung nghiên cứu
Bao gồm các nội dung sau:
- Dịch tễ học mô tả: bao gồm việc quan sát và ghi chép lại những bệnh và những yếu
tố nguyên nhân có thể, nó thường là một phần của nghiên cứu điều tra.
- Dịch tễ học phân tích: là phân tích các kết quả quan sát được bằng cách dùng các
chẩn đoán và phép kiểm thống kê phù hợp.
- Dịch tễ học thực nghiệm: quan sát và phân tích dữ liệu từ một nhóm động vật được
lựa chọn với những thay đổi quan hệ liên quan đến nhóm.
- Dịch tễ học lý thuyết: dùng phương pháp toán học để xây dựng lên mô hình dịch
bệnh.
Ngoài ra, còn có thể phân loại dịch tễ học chi tiết hơn như dịch tễ học lâm sàng, dịch
tễ học di truyền…
3.2. Các khái niệm cơ bản
Quan điểm cơ bản của dịch tễ học cho rằng bệnh không xảy ra một cách ngẫu nhiên
mà bệnh là kết quả do sự tác động lẫn nhau của các yếu tố như mầm bệnh, ký chủ, và
môi trường.
3.2.1. Bệnh xảy ra trên cá thể
Bệnh có xảy ra hay không xảy ra trên một cá thể phụ thuộc sự tác động lẫn nhau của 3
yếu tố là ký chủ, mầm bệnh và môi trường.
Ký chủ là động vật (hoặc người) có thể mắc một căn bệnh. Tuổi tác, di truyền học, đặc
điểm sinh lý, mức độ tiếp xúc, và tình trạng sức khỏe, tất cả các đặc điểm trên ảnh
hưởng đến tính nhạy cảm của ký chủ để phát triển thành bệnh. Tính nhạy cảm với
bệnh của từng cá thể là yếu tố quyết định thứ nhì để gây nên bệnh. Sự khác biệt tự
nhiên giữa các cá thể sẽ đưa đến các đáp ứng khác nhau. Sức đề kháng tự nhiên đối
với tình trạng nhiễm trùng hay bệnh là do bởi dòng giống, giới tính hoặc tuổi.
5
Nguyên nhân gây bệnh: mầm bệnh là yếu tố gây bệnh (vi khuẩn, virus, ký sinh trùng,
nấm, hóa chất độc, thiếu dinh dưỡng ...) hoặc do một hoặc nhiều nguyên nhân có thể
tham gia vào quá trình sinh bệnh như vi khuẩn lao sẽ gây bệnh khi sức đề kháng bị
giảm sút do làm việc hoặc khai thác động vật quá mức.
Môi trường bao gồm môi trường xung quanh và các điều kiện hoặc là bên trong, hoặc
bên ngoài của cơ thể ký chủ để gây bệnh, gây ra hoặc cho phép các bệnh lây truyền
xảy ra. Môi trường có thể làm suy yếu sức đề kháng của ký chủ hoặc làm tăng tính
nhạy cảm của ký chủ với căn bệnh, hoặc cung cấp điều kiện có lợi cho sự sống còn của
mầm bệnh.
Yếu tố môi trường bao gồm nhiều đặc điểm rất khó định lượng. Môi trường và yếu tố
quản lý là những yếu tố quyết định quan trọng đối với sự xảy ra dịch bệnh.
Yếu tố môi trường gồm 3 thành phần chủ yếu: Lý học môi trường, sinh học môi
trường và môi trường kinh tế xã hội; Thành phần vật lý của môi trường gồm có: Đại
môi trường (Macro) và tiểu môi trường (Micro); Thành phần sinh học của môi trường
gồm có con người và động vật; Môi trường kinh tế xã hội bao gồm trình độ dân trí, tập
quán sinh hoạt và trình độ phát triển chăn nuôi.
3.2.2. Bệnh xảy ra trong quần thể
Mức độ bệnh xảy ra trong quần thể phụ thuộc sự tác động lẫn nhau của 3 yếu tố sau:
- Yếu tố cá thể: loại cá thể nào có khả năng bị mắc bệnh và nó có khả năng làm lan
tràn dịch bệnh ?
- Yếu tố không gian: bệnh xảy ra phổ biến hoặc hiếm gặp ở đâu ? những chỗ này khác
nhau như thế nào ?
- Yếu tố về thời gian: tần số bệnh thay đổi như thế nào theo thời gian và những yếu tố
khác có liên quan gì đến sự thay đổi này ?
3.2.2a. Yếu tố cá thể
Dựa vào một số đặc điểm ta có thể phân biệt các cá thể trong quần thể thành từng
nhóm, như: giống, tuổi, giới tính, và phương thức chăn nuôi…Một nhiệm vụ quan
trọng của nghiên cứu dịch tễ học là nhằm mục đích xác định ảnh hưởng của các đặc
điểm cá thể với các nguy cơ mắc bệnh.
3.2.2b. Yếu tố không gian - nơi cư trú
Các mô hình không gian của bệnh thường là hậu quả của các yếu tố môi trường. Yếu
tố môi trường bao gồm các đặc tính của khí hậu (nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa) cũng
như các đặc điểm công tác quản lý sử dụng động vật (quản lý động vật trong một khu
vực nhất định của một đất nước có thể dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh cao mà có thể không
được nhìn thấy trong các khu vực khác). Hệ thống thông tin địa lý và dễ dàng truy cập
tiếp cận các dữ liệu không gian (ví dụ như hình ảnh vệ tinh) đã tạo điều kiện cho khả
năng tiến hành phân tích dịch tễ học không gian trong những năm gần đây.
6
3.2.2c. Yếu tố thời gian
Khi nói về yếu tố thời gian ảnh hưởng đến các mô hình của bệnh chúng ta cần phải
phân biệt giữa thời gian ám chỉ động vật và thời gian lịch. Thời gian ám chỉ cho động
vật là dùng để chỉ thời gian của các sự kiện liên quan đến các sự kiện được xác định
xảy ra trong đời sống của động vật. Ví dụ, chúng ta có thể nói về một nguy cơ gia tăng
bệnh sốt sữa trong suốt 7 ngày đầu tiên của một con bò sau khi sinh. Ở đây, thời gian
được đo liên quan đến một sự kiện đẻ. Thời gian theo lịch dùng để chỉ thời gian tuyệt
đối của các sự kiện. Chúng ta có thể nói về số lượng các trường hợp sốt sữa xảy ra vào
tháng tám nhiều hơn nếu so sánh với tháng mười hai.
Các quần thể cũng có tính nhạy cảm khác nhau. Sức đề kháng của quần thể tùy thuộc
vào tỷ lệ thú có sức đề kháng bệnh ở trong quần thể đó. Gia tăng khả năng miễn nhiễm
của quần thể có tác dụng hữu hiệu trong việc giới hạn sự truyền lây, đồng thời cũng
làm giảm sự vấy nhiễm môi trường. Khi sức đề kháng của cá thể cao, cộng với khả
năng đề kháng cao của quần thể thì tốc độ sinh sản của tác nhân gây bệnh có thể giảm
thấp dưới mức giúp nó tồn tại trong môi trường, khi ấy tác nhân gây bệnh sẽ bị loại bỏ.
3.2.3. Nguyên nhân
Một số quan điểm về nguyên nhân gây bệnh
3.2.3a. Quan điểm Koch và Henle: cho rằng nguyên nhân gây bệnh là những vi sinh
vật, một khi chúng đáp ứng các tiêu chí như sau:
- Có mặt trong mọi ca bệnh mà không có mặt ở bệnh khác hoặc ở vật lành bệnh.
- Phải phân lập được từ mô động vật bệnh.
- Phải gây được bệnh trong điều kiện thực nghiệm sau đó vi sinh vật gây bệnh phải
được phát hiện từ các thú được truyền bệnh này.
Tuy nhiên trong thực tế bệnh lại do nhiều nguyên nhân gây nên. Quan điểm trên đã
đơn nhất hoá nguyên nhân gây bệnh và cho rằng chỉ sự có mặt của vi sinh vật là điều
kiện cần và đủ để bệnh xảy ra. Để khắc phục sự thiếu hụt đó nhiều quan điểm khác đã
ra đời.
3.2.3b. Quan điểm của Evans (1987): một yếu tố được coi là nguyên nhân gây bệnh
phải thỏa mãn 10 tiêu chí sau:
- Tỷ lệ mới mắc và tỷ lệ hiện mắc ở quần thể được phơi nhiễm trước nguyên nhân giả
định phải cao hơn so với quần thể không phơi nhiễm một cách có ý nghĩa.
- Sự phơi nhiễm trước nguyên nhân giả định ở quần thể mắc bệnh phải ở mức độ lớn
hơn quần thể không mắc bệnh khi các nguy cơ khác đồng đều nhau cho cả hai nhóm cá
thể.
- Số mới mắc bệnh ở quần thể phơi nhiễm phải cao hơn một cách có ý nghĩa số mới
mắc bệnh ở quần thể không phơi nhiễm trong nghiên cứu hướng tương lai.
7
- Về mặt thời gian, bệnh phải xảy ra sau khi phơi nhiễm trước nguyên nhân giả định và
thời gian ủ bệnh phải có sự phân bố chuẩn.
- Ký chủ phải có phản ứng từ nhẹ đến nghiêm trọng sau khi phơi nhiễm trước nguyên
nhân giả định theo một gradient logic về mặt sinh học.
- Khi phơi nhiễm trước nguyên nhân giả định, phải xuất hiện phản ứng đo lường được
(kháng thể, tế bào ung thư) ở các cá thể chưa có, hoặc tăng lên về mức độ ở các cá thể
trước đó đã có phản ứng này.
- Khi được tạo lập một cách thích hợp, bệnh thực nghiệm phải xảy ra ở động vật được
phơi nhiễm trước nguyên nhân giả định, và tần số mắc bệnh phải cao hơn so với động
vật không được phơi nhiễm.
- Sự loại bỏ (tác nhân truyền nhiễm) hoặc thay đổi (khẩu phần thức ăn) nguyên nhân
giả định phải làm giảm tần số mắc bệnh.
- Phòng ngừa hoặc thay đổi phản ứng của ký chủ (tiêm phòng) phải làm giảm hoặc
triệt tiêu bệnh mà thông thường xảy ra khi phơi nhiễm trước nguyên nhân giả định.
- Mọi mối liên hệ và kết hợp phải đáng tin cậy về mặt sinh học và dịch tễ học.
Đây là một phương pháp tiếp cận mới với bệnh tật, với quan điểm này không phủ định
các quan điểm trên mà nó xem xét bệnh theo một góc độ khác và nó bổ xung cho các
quan điểm trên.
3.2.3c. Quan điểm nhiều nguyên nhân
Hiện tại, có một số tác giả đề xuất quan điểm đa nguyên nhân trong vấn đề phát sinh
bệnh. Theo đó, các yếu tố quyết định một bệnh bao gồm tác nhân trực tiếp gây bệnh và
các yếu tố khác giúp cho tác nhân gây bệnh xâm nhập, sinh sôi và phát tán trong quần
thể. Tất cả các yếu tố này được xếp loại là tác nhân gây bệnh, ký chủ và môi trường
(hoặc quản lý). Với quan điểm trên người ta sắp xếp nguyên nhân làm 3 nhóm là
nguyên nhân đủ; nguyên nhân cần và nguyên nhân thành phần.
Có thể coi dịch tễ học là một bộ phận của sinh thái học ở động vật, bởi vì nó quan tâm
tới sự tương tác giữa cơ thể động vật và môi trường. Sự tương tác giữa các yếu tố bên
trong (cơ thể) và các yếu tố bên ngoài (môi trường). Sức khỏe là sản phẩm của mối
tương tác đó. Sự tương tác mà kết quả có thể thành công (khỏe mạnh) và có thể là thất
bại (bệnh, chết). Dịch tễ học có nhiệm vụ khảo sát, trình bày các hiện tượng đó, cho
nên có thể nhấn mạnh rằng: Dịch tễ học không phải chỉ có liên quan tới truyền nhiễm;
Không phải chỉ là khoa học của các vụ đại dịch; Không phải chỉ là vi sinh học hay
thống kê ứng dụng; và không phải chỉ là quan tâm tới vấn đề tìm nguyên nhân. Dịch tễ
học có một tầm nhìn tổng quát, quan tâm tới tất cả các yếu tố sinh học, xã hội học liên
quan tới động vật; cố gắng hiểu rõ nó để nhằm tìm ra sự can thiệp tốt nhất có lợi cho
quần thể động vật, vấn đề này được thể hiện qua các chiến lược dịch tễ học. Các
nghiên cứu về bệnh truyền nhiễm đã cho thấy: mối quan hệ giữa tác nhân gây bệnh và
vật chủ (quần thể) có một sự biến đổi tùy thuộc vào các tính chất của môi trường
chung quanh. Phức hợp của các mối tương tác giữa các yếu tố bên ngoài và các yếu tố
8
bên trong hình thành tập hợp căn nguyên gây bệnh. Các phức hợp đó có thể được hiểu
như là các mạng lưới. Tồn tại một số mạng lưới như sau: Mạng lưới về nguyên nhân,
mạng lưới về hậu quả, và mạng lưới về tương tác giữa các yếu tố căn nguyên.
Tác động của các yếu tố có thể là gây bệnh tức thời, mà cũng có thể là gây bệnh sau
một khoảng thời gian khá dài. Các yếu tố tác động không đơn lẽ, mà là tác động đồng
thời dẫn tới kết quả hợp lực, có thể là hợp lực tổng cộng (bằng tổng các tác động riêng
lẻ); có thể là hợp lực tiềm tàng (hậu quả lớn hơn tổng các tác động riêng lẻ). Hiện
tượng tác động hợp lực tiềm tàng xảy ra ngày càng nhiều trong mối quan hệ giữa động
vật và môi trường.
Tránh việc chỉ sử dụng toán thống kê đơn thuần để xác lập mối quan hệ nhân quả. Phải
có đầy đủ lý luận chặt chẽ và khoa học để giải thích mối quan hệ từ nguyên nhân dẫn
đến hậu quả (mối quan hệ nhân quả) các nghiên cứu thực nghiệm thường khó thực
hiện được trong quần thể. Các căn cứ của mối quan hệ nhân quả phải được rút ra từ
các nghiên cứu phân tích.
Phải giải thích được mối quan hệ nhân quả bằng các hiểu biết sinh học và xã hội học.
Chỉ mới biết được sự phân bố các hiện tượng sức khỏe trong quần thể là chưa đủ. Mà
phải giải thích được tại sao lại có sự phân bố đó. Đây là yếu tố quan trọng để phân biệt
dịch tễ học, một môn học của y học với việc sử dụng toán thống kê đơn thuần trong
các nghiên cứu mô tả và phân tích. Nhưng không có toán thống kê thì không có mối
tương quan nào cả.
Nghiên cứu thực nghiệm trong điều kiện tự nhiên sẵn có là tốt nhất. Chỉ trong điều
kiện tự nhiên mới có đầy đủ các yếu tố, các mối tương tác, như vậy mới có thể hiểu
biết được quá trình xuất hiện, diễn biến, tồn tại và tàn lụi của một bệnh trong một sinh
cảnh.
IV. DỊCH TỄ HỌC PHÂN TỬ
4.1. Khái niệm
Dịch tễ học phân tử là một phân ngành của khoa học sự sống liên quan chặc chẽ với
dịch tễ học hiện đại, được nghiên cứu ứng dụng ngày càng nhiều trong y học và thú y.
Xuất phát từ thực tế cần tìm hiểu sự phân bố của dịch bệnh trong địa bàn của một quốc
gia và mối liên quan đến địa dư quốc tế, dịch tễ học phân tử ngày càng chứng tỏ là một
lĩnh vực nghiên cứu quan trọng trong công tác giám sát và phòng - chống dịch bệnh
toàn cầu.
Dựa vào sự phát triển của dịch tễ học, cũng như yêu cầu giám sát dịch bệnh và bảo vệ
sức khỏe của quần thể, dịch tể học có thể chia làm 2 loại là dịch tễ học cố điển và dịch
tễ học hiện đại.
Dịch tễ học cổ điển giải quyết vấn đề sức khỏe của quần thể và phân bố của dịch bệnh
theo gốc độ dữ liệu kiểu hình, nghĩa là căn cứ vào các biểu hiện lâm sàng, sự phân bố,
tần số xuất hiện, mối tương quan giữa mầm bệnh với túc chủ trong sự tương tác với
môi trường ngoại cảnh theo không gian và thời gian.
9
Dịch tễ học phân tử là một phân ngành không thể thiếu của dịch tễ học hiện đại, hỗ trợ
đắc lực cho dịch tễ học về phương diện kiểu gen (genotypic data) để góp phần trả lời
các câu hỏi về sự phát sinh, phát triển, sự tồn tại, xu hướng, tương quan di truyền học,
quan hệ phả hệ và nguồn gốc, xác định xu hướng phát triển của dịch bệnh (truyền
nhiễm hoặc không truyền nhiễm) theo chu kỳ thời gian và không gian.
Dịch tễ học hiện đại bao gồm cả dịch tễ học phân tử, ngoài những yêu cầu cần có của
dịch tễ học cổ điển để giải quyết vấn đề dịch bệnh, còn bao hàm thêm nhiều vấn đề cơ
bản, đó là các yếu tố di truyền của mầm bệnh có liên quan đến bệnh/dịch bệnh ngay tại
thời điểm xảy ra, thậm chí đối với thời gian trước đó hoặc dự báo khả năng dịch bệnh
xảy ra sau này.
Tóm lại, dịch tễ học phân tử kết hợp các nguyên tắc và ứng dụng của sinh học phân tử
đối với dịch tể học. Cả hai lĩnh vực này đều dùng các phương pháp phân tích để làm
sáng tỏ những quan sát, từ đó thiết lập các quan niệm mới và đưa ra các dự đoán. Phân
tích sinh học phân tử thường tiến hành ở phòng thí nghiệm, còn dịch tễ học thường
dùng các kỹ thuật quan sát, định lượng (mô tả) và thử nghiệm lâm sàng.
4.2. Một số định nghĩa về dịch tễ học và dịch tễ học phân tử
Theo Last (1995), “Dịch tễ học là môn học ứng dụng thống kê và nhiều ngành khoa
học khác để nghiên cứu về sự phân bố bệnh, các yếu tố liên quan đến bệnh trong một
quần thể xác định. Ứng dụng trong việc xác định nguyên nhân gây bệnh và kiểm soát
dịch bệnh”.
Còn dịch tễ học phân tử được hiểu là “Dịch tễ học phân tử là khoa học nghiên cứu sự
phân bố và các yếu tố có tính quyết định liên quan đến bệnh tật và sức khỏe của một
quần thể trên cơ sở ứng dụng sinh học phân tử”.
Theo Higginson (1977), định nghĩa “Dịch tễ học phân tử là khoa học áp dụng các kỹ
thuật tiên tiến nghiên cứu dịch tễ học của các vật chất sinh học”.
Còn Tompkins (1994), “Dịch tễ học phân tử là áp dụng sinh học phân tử nghiên cứu
dịch tễ học bệnh truyền nhiễm”.
Đến năm 1999, Levin đưa ra một định nghĩa cụ thể và rõ ràng hơn về dịch tễ học phân
tử “Mục đích thực dụng của dịch tễ học phân tử là thẩm định nguyên nhân gây bệnh
ký sinh có vai trò nổi trội trong bệnh truyền nhiễm và xác định nguồn gốc, mối quan
hệ sinh học, đường truyền lây và những gen xác định chịu trách nhiệm về yếu tố độc
lực xác định, về kháng nguyên liên quan vaccine và kháng thuốc”.
Theo Nguyễn Như Thanh (2011) “Dịch tễ học phân tử là một phân ngành không thể
thiếu được của dịch tễ học hiện đại, là khoa học nghiên cứu tìm kiếm dữ liệu kiểu gen
(genotypic data) bằng kỹ thuật sinh học phân tử để hỗ trợ đắc lực cho phân tích dịch
tễ học, góp phần giải quyết sự phát sinh, phát triển, tồn tại, xu hướng, tương quan di
truyền học, mối quan hệ phả hệ và nguồn gốc, cũng như xác định chiều hướng tiến
triển của dịch bệnh truyền nhiễm hoặc không truyền nhiễm theo chu kỳ thời gian và
không gian”.
10
4.3. Hướng ứng dụng của dịch tễ học phân tử
Phân bố của một bệnh - dịch bệnh và những nhân tố quyết định sự phân bố đó có thể
được xác định bằng kỹ thuật sinh học phân tử. Tuy nhiên phân bố của bệnh trong một
cộng đồng xác định còn phụ thuộc vào dặc tính di truyền của nhân gây bệnh, mà đặc
tính này có thể tiến hóa (biến chủng) để đáp ứng với khả năng đề kháng của ký chủ
cũng như điều kiện ngoại cảnh. Như vậy, cơ chế về cách truyền lây của một vi sinh vật
có thể được quyết định bởi di truyền và môi trường. Vì vậy, dịch tễ học phân tử bao
gồm cả việc nghiên cứu về các yếu tố di truyền mà chúng quyết định và điều khiển
phương cách truyền lây của mầm bệnh.
Hướng ứng dụng Vấn đề dịch tễ phân tử quan tâm
Xác dịnh đường truyền
lây trong một vùng địa lý
Nghiên cứu sự xâm nhập và lan truyền của một tác nhân
trong một cộng đồng; xác định lý do của những thay đổi
về tỷ lệ nhiễm hoặc kháng thuốc; nghiên cứu các yếu tố
(vật chủ, môi trường, mầm bệnh) đóng góp vào sự
truyền lây
Nhận diện yếu tố nguy
cơ và định lượng tỷ phần
nguy cơ thuộc tính trong
dịch rời rạc của một bệnh
truyền nhiễm
Phân biệt dịch (epidemic) với dịch nội vùng (endemic),
xác định các dòng mới của tác nhân gây bệnh, vật mang
trùng chuyên biệt và các yếu tố nguy cơ của bệnh rời rạc
Phân lớp số liệu và cải
tiến nghiên cứu dịch tễ
Nhận diện yếu tố nguy cư mà phương pháp truyền thống
không thể dùng được hoặc khi dung lượng mẫu quá nhỏ,
tính được tỷ phần nguy cơ thuộc tính, xác định cách can
thiệp mới
Phân biệt chủng gây
bệnh và chủng không
gây bệnh
Nghiên cứu các biến thể gây bệnh từ môt hệ vi sinh vật
bình thường hoặc vi sinh vật hoại sinh, nhận diện yếu tố
độc lực mới
Quan tâm đến bệnh
truyền nhiễm từ bệnh xá
Nghiên cứu tác nhân gây bệnh có tính kháng thuốc xảy ra
ở bệnh xá, phân biệt ổ dịch do bệnh xá với nhóm thú
bệnh không từ ổ dịch, nghiên cứu điểm đa dòng
Xác định yếu tố quyết
định về mặt di truyền
trong truyền lây bệnh
Nhận diện lý do mà một chủng vi sinh vật chiếm ưu thế
hoặc lan truyền trong một vùng, xác định sự khác biệt về
di truyền giữa các tác nhân gây bệnh, xác định tại sao
một tác nhân truyền nhiễm mới xuất hiện
11
V. DỊCH TỄ HỌC PHÂN TỬ THÚ Y
5.1. Đặc điểm
Dịch tễ học phân tử thú y là một phân ngành của dịch tễ học thú y, đối tượng nghiên
cứu là các bệnh/dịch bệnh trên động vật, trong đó có những bệnh riêng của động vật
(dịch tả heo, dịch tả vịt..) và có những bệnh truyền lây từ động vật sang người và
ngược lại (bệnh dại, bệnh lao, bệnh thương hàn,…).
Dịch tễ học phân tử thú y giải quyết những vấn đề dịch tễ học về bệnh/dịch bệnh thú y
bằng cách sử dụng các phương pháp sịnh học phân tử để xác định và thẩm định các
loài gây bệnh từ đó áp dụng các dữ liệu di truyền của loài gây bệnh trong dịch bệnh để
đánh giá và phân tích dịch tễ học của chúng.
Dịch tễ học phân tử thú y có thể khái quát theo định nghĩa sau: “Dịch tễ học phân tử
thú y là một phân ngành không thể thiếu được của dịch tễ học hiện đại và là khoa học
nghiên cứu tìm kiếm dữ liệu kiểu gen (genotypic data) để hỗ trợ đắc lực cho phân tích
dịch tễ học trong lĩnh vực thú y, góp phần giải quyết sự phát sinh, phát triển, tồn tại,
xu hướng, tương quan di truyền học, mối quan hệ phả hệ và nguồn gốc, cũng như xác
định chiều hướng tiến triển của dịch bệnh truyền nhiễm hoặc không truyền nhiễm ở
động vật và động vật sang người theo chu kỳ thời gian và không gian”.
Trước đây, nghiên cứu dịch tễ học thú y chỉ dừng lại ở việc quan sát phát hiện phạm vi
phân bố, nghiên cứu yếu tố quyết định dịch bệnh và chỉ là sự xác nhận loại tác nhân
gây bệnh ở cấp độ loài/chủng vì thế các phương pháp hỗ trợ cho nghiên cứu dịch tễ có
thể chỉ cần có tính đặc hiệu theo nhóm, loài, giống, type của tác nhân gây bệnh để xác
định kiểu hình (xét nghiệm huyết thanh học bằng phản ứng Elisa, …). Những dữ liệu
kiểu hình như thế chỉ cho phép phân tích tổng thể về lượng hơn là về chất đối với tác
nhân gây bệnh trong quần thể nhiễm bệnh.
Ngày nay, nghiên cứu dịch tễ học thú y đã có những tiến bộ vượt bậc, đã có khả năng
xác định loại tác nhân gây bệnh ở cấp độ sâu hơn, tìm kiếm dữ liệu kiểu gen phân cấp
(xác định tác nhân gây bệnh theo chủng/dưới chủng… bằng các phương pháp sinh học
phân tử như PCR, phân tích trình tự acid nucleic…Những dữ liệu kiểu gen như thế cho
phép phân tích chi tiết về chất hơn là về lượng đối với tác nhân gây bệnh.
5.2. Nội dung
Dịch tễ học thú y có thể chia làm 2 phần là dịch tễ học cơ bản và dịch tễ học phân tử.
Muốn hiểu về dịch tễ học phân tử cần có kiến thức của dịch tễ học cơ bản. Sự khác
biệt giữa dịch tễ học cơ bản và dịch tễ học phân tử là:
Dịch tễ học cơ bản tập trung khai thác biểu hiện lâm sàng, bệnh tích và qui luật phát
triển của dịch bệnh, đó chính là các thông số kiểu hình của tác nhân gây bệnh nhờ vào
các phương pháp nghiên cứu protein có được hay nói cách khác dịch tễ học thông
thường khai thác sự biểu hiện protein học của bệnh.
Dịch tễ học phân tử chủ yếu nghiên cứu acid nucleic (ADN/ARN) của gen ở các vùng
gen được chọn lựa làm chỉ thị sinh học phân tử, đó là tìm kiếm dữ liệu kiểu gen của tác
12
nhân gây bệnh thông qua các kỹ thuật sinh học phân tử hay nói khác đi dịch tễ học
phân tử khai thác sự phân bố và biểu hiện kiểu gen của tác nhân gây bệnh, chịu trách
nhiệm chính trong dịch bệnh đó.
Do đó, dịch tễ học thú y, ngoài kiến thức chung của dịch tễ học cơ bản còn phát triển
thêm những vấn đề dịch tễ học phân tử, đó là những kiến thức cơ bản về sinh học phân
tử của tác nhân gây bệnh truyền nhiễm, đề cập những vấn đề cơ bản về di truyền học
(gen, protein…) của tác nhân gây bệnh, áp dụng phương pháp tối ưu của sinh học phân
tử nhằm thu thập và phân tích dữ liệu kiểu gen của vi sinh vật gây bệnh.
Phạm vi môn học dịch tễ học phân tử thú y bao gồm những vấn đề cơ bản của việc
khai thác dữ liệu kiểu gen trong phân tích dịch tễ học của một dịch bệnh của động vật.
5.3. Ứng dụng dịch tễ học phân tử thú y trong nghiên cứu dịch bệnh động vật
Quan điểm dịch tễ học cơ bản cho rằng một bệnh phát sinh được cần phải có 3 yếu tố
đó là nguồn bệnh (có chứa mầm bệnh); gia súc cảm thụ và yếu tố ngoại cảnh (bao gồm
cả yếu tố môi giới truyền lây).
Mầm bệnh: tác nhân gây bệnh phải có độc lực hoặc tính gây bệnh cao.
Gia súc cảm thụ: vật chủ hay đối tượng bệnh phải cảm thụ với bệnh.
Yếu tố ngoại cảnh: điều kiện môi trường thuận lợi cho sự tồn tại của mầm bệnh, bao
gồm cả yếu tố truyến lây (vector).
Quan điểm dịch tễ học phân tử cũng thống nhất cần phải có 3 nhân tố này. Tuy nhiên
dịch tễ học cơ bản thường xem xét 3 yếu tố này để bệnh phát sinh, phát triển ở trạng
thái tĩnh, tức là chỉ xem xét biểu hiện lâm sàng của bệnh (triệu chứng, bệnh tích, nguy
cơ thực tại) của bệnh và mầm bệnh với giới hạn hẹp trong phạm vi trong một dòng,
serotype/loài gây bệnh.
Ngược lại, dịch tễ học phân tử giải quyết những yếu tố cơ bản của dịch bệnh ở trạng
thái động, nghĩa là ngoài việc xác định hồ sơ gen học của mầm bệnh tại thời điểm gây
bệnh, còn truy cứu nguồn gốc phả hệ liên quan đến mầm bệnh/dịch bệnh trước đó.
Đồng thời, dịch tễ học phân tử còn dự báo khả năng tiến hóa hoặc biến đổi di truyền
của mầm bệnh trong tương lai và khả năng cảm thụ của vật chủ trong thời gian sắp tới.
Như vậy, dịch tễ học phân tử không chỉ giải quyết dữ liệu về gen của yếu tố gây bệnh
mà còn nghiên cứu dữ liệu gen của yếu tố nhiễm bệnh (vật chủ), cũng như các yếu tố
ngoại cảnh, vật chủ trung gian…. Yếu tố nguy cơ trong dịch tễ học phân tử còn có
thêm nguy cơ biến đổi gen của cả 3 nhân tố của quá trình phát sinh bệnh/dịch bệnh, đó
là sự tăng, giảm độc lực qua biến đổi di truyền của mầm bệnh, sự biến đổi gen trong tế
bào vật chủ (tăng hay giảm tính cảm thụ bệnh) và sự biến đối của các yếu tố truyền lây
(vector).
VI. MỤC ĐÍCH THỰC TIỂN CỦA DỊCH TỄ HỌC
Hiện nay, dịch tễ học phải đối mặt với các vấn đề khó khăn khác nhau như duy trì và
cải thiện tình hình sức khỏe của một đàn gia súc. Đánh giá và phân tích được lợi ích/
13
chi phí của một chương trình khống chế và tiêu diệt dịch bệnh, trong một chương trình
khống chế dịch bệnh. Phải đối mặt với các bệnh tổng hợp âm ỉ đang tồn tại và những
bệnh gọi là “mới” lại do nhiều nguyên nhân tổng hợp gây nên và giải quyết các vấn đề
của chăn nuôi tập trung cao độ. Yêu cầu dịch tễ học là phải nhận biết và phân tích,
đánh giá được sự tác động của các nguyên nhân trưc tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến
nền kinh tế chăn nuôi và bảo vệ sức khỏe con người.
Quan tâm tới tình trạng sức khỏe của động vật và bảo vệ sức khỏe cho con người, cùng
với sự phát triển của các ngành khoa học, mục đích của dịch tễ học có thể được tóm tắt
như sau:
- Chống dịch bệnh xảy ra một cách kịp thời.
- Xây dựng một chiến lược và biện pháp phòng bệnh có hiệu quả.
- Làm giảm tác động của bệnh.
- Cung cấp thông tin chỉ đạo về tình hình dịch bệnh để bảo vệ sức khỏe cho đàn gia
súc, bảo đảm an toàn về vệ sinh thực phẩm cho con người, bảo đảm an ninh của quốc
gia, thương mại mậu dịch, bảo đảm một môi trường an toàn cho động vật.
Ý nghĩa của môn học
- Dịch tễ học cung cấp một phương pháp tiếp cận mới về bệnh tật, phương pháp này tỏ
ra có hiệu quả về kinh tế và có tính chất phòng bệnh một cách toàn diện.
- Trang bị cho cán bộ thú y phương pháp quan sát dịch bệnh một cách khoa học và
luận giải chúng một cách khách quan, để đưa ra những kết luận có giá trị phục vụ cho
công tác phòng chống dịch bệnh một cách toàn diện. Dịch tễ học có trách nhiệm phát
hiện và tìm cách loại bỏ hay làm giảm ảnh hưởng hoặc cắt đứt mối quan hệ căn
nguyên và bệnh tật trong quần thể.
VII. MỘT SỐ TRANG WEB VỀ CHUYÊN NGÀNH DỊCH TỄ HỌC
Internet ngày nay trở thành một công cụ phổ biến trong việc trao đổi và cung cấp
thông tin. Nhu cầu đọc tài liệu không chỉ ở sách vở mà còn đòi hỏi từ nhiều nguồn
khác nhau và đặc biệt là các thông tin mới cũng như các hoạt động của các tổ chức liên
quan đến lĩnh vực nghiên cứu. Do đó chúng tôi xin giới thiệu một số website cung cấp
khá nhiều thông tin bổ ích trong nghiên cứu về dịch tễ học.
http://www.ausvet.com.au/epitools/content.php?page=epitools
http://courses.vetmed.wsu.edu/courses-jmgay/EpiLinks.htm
http://www.ped.med.utah.edu/genpedscrr/Epibio.htm#FREE
http://www.pitt.edu/~super1
http://netvet.wustl.edu/vschool.htm
http://www.vetschools.co.uk/EpiVetNet
http://www.epibiostat.ucsf.edu/epidem/epidem.html
14
http://www.qgis.org
http://dichte.jimdo.com/
www.cucthuy.gov.vn.
http://www.nihe.org.vn/
Tài liệu tham khảo
1. Đinh Thanh Huề (2006). Giáo trình Dịch tễ học. Đại học Y khoa Huế.
2. Đỗ Trung Giã (2009). Bài giảng Dịch tễ Thú Y. Khoa Nông nghiệp & SHƯD - Đại
học Cần Thơ.
3. Kiz Fathman (2003). Veterinary Epidemiology. Elsevier Science (USA).
4. Nguyễn Như Thanh (2001). Dịch tễ học Thú y. NXB Nông nghiệp.
5. Trần Thị Dân và Lê Thanh Hiền (2007). Giáo trình Dịch tễ học Thú y. NXB Nông
nghiệp.
Câu hỏi
1. Phương pháp tiếp cận của dịch tễ học ?
2. Trình bày các khái niệm và nội dung nghiên cứu của dịch tễ học Thú y ?
3. Dịch tễ học phân tử Thú y là gì ?
15
CHƯƠNG 2
DỊCH BỆNH TRONG QUẦN THỂ VÀ QUÁ TRÌNH SINH BỆNH
I. QUÁ TRÌNH TỰ NHIÊN CỦA BỆNH
Là quá trình diễn biến của bệnh không có sự can thiệp điều trị. Bất kỳ một bệnh nào
cũng có thời gian tiến triển nhất định trên cơ thể động vật từ trạng thái khỏe mạnh
chuyển sang bệnh, rồi sau đó khỏi bệnh, chết hoặc để lại di chứng (mãn tính). Trong
cùng một bệnh có thể khác nhau về diễn tiến và mức độ của bệnh và điều đó tùy thuộc
vào rất nhiều yếu tố như sức đề kháng của cơ thể vật chủ, yếu tố môi trường và bản
thân mầm bệnh.
Bệnh là kết quả của sự tương tác giữa 3 yếu tố chủ yếu, bao gồm vật chủ (con thú,
người); yếu tố gây bệnh (sinh học hoặc các yếu tố vật lý, hóa học...) và môi trường
(chẳng hạn sự ô nhiễm thức ăn). Mặc dù một số bệnh có nguồn gốc từ di truyền nhưng
nhìn chung sự biểu hiện bệnh này cũng liên quan đến môi trường, tuy nhiên mối quan
hệ giữa các yếu tố này ở mỗi bệnh khác nhau. Rất nhiều nguyên lý về sự truyền bệnh
được đề ra để giải thích sự xuất hiện các bệnh trong quần thể. Những nguyên lý này
thường đề cập đến những bệnh truyền nhiễm như là những mô hình minh họa.
Hình 2.1. Mối tương quan các yếu tố hình thành bệnh
Quá trình tự nhiên của bệnh gồm có 4 giai đoạn
Nguồn bệnh Gia súc cảm thụ
Yếu tố truyền lây
Mầm bệnh
Mầm bệnh Mầm bệnh
Dịch
Bệnh
16
1.1. Giai đoạn cảm nhiễm (phơi nhiễm)
Là giai đoạn bệnh chưa phát triển nhưng cơ thể đã bắt đầu có phơi nhiễm với yếu tố
nguy cơ, có thể làm cho cơ thể sẽ xuất hiện bệnh tương ứng. Các yếu tố nguy cơ là
những yếu tố lý, hoá, sinh học, xã hội, quản lý, dinh dưỡng đàn gia súc… mà tác động
của chúng làm tăng khả năng có thể phát triển một bệnh nhất định.
Trong các bệnh nhiễm khuẩn, nguyên nhân gây bệnh là do các vi sinh vật gây nên.
Tuy nhiên, ngày nay khái niệm này được mở rộng nó bao gồm tất cả các yếu tố bên
trong và bên ngoài có liên quan, ảnh hưởng đến việc hình thành, diễn biến của bệnh
trong một quần thể. Chúng đều được nhìn nhận là những yếu tố nguy cơ của bệnh
nhưng ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào kết quả xác định đó là yếu tố nguy cơ
nghi ngờ hay yếu tố nguy cơ căn nguyên.
Nguy cơ: là khả năng mắc một bệnh nào đó. Nguy cơ được định nghĩa là xác suất làm
xuất hiện một biến cố không có lợi cho sức khỏe của một cá thể hoặc của một quần
thể. Có thể nhận thấy khái niệm nguy cơ là một khái niệm xác suất trừu tượng có thể
xảy ra và cũng có thể không xảy ra.
Ví dụ: yếu tố nuôi nhốt thú là yếu tố nguy cơ đối với bệnh viêm phổi địa phương, vì
góp phần vào việc tăng tỷ lệ bệnh ở nhóm thú này. Những con thú này có xác suất mắc
bệnh (ví dụ như 0,45) cao hơn xác suất mắc bệnh ở những con thú nuôi thả (ví dụ
0,15). Lúc này ta có thể nói con thú nuôi nhốt có nguy cơ mắc bệnh cao hơn con thú
nuôi thả gấp 3 lần.
Yếu tố nguy cơ: bất kỳ một yếu tố nào, có bản chất gì (vật lý, hóa học, sinh học, xã
hội...) góp phần làm cho một cơ thể đang khỏe mạnh chuyển sang mắc bệnh thì yếu tố
đó được gọi là yếu tố nguy cơ.
Như vậy, khác hẳn với nguy cơ, yếu tố nguy cơ là một khái niệm vật chất cụ thể. Nên
khi nói đến nguy cơ chúng ta bao giờ cũng phải gắn liền với yếu tố nguy cơ, nếu
không sẽ không có ý nghĩa gì về mặt dịch tễ học và cũng sẽ không mang lại một lợi
ích gì khi muốn can thiệp để bảo vệ cá thể hoặc quần thể đó. Nếu không khắc phục
được yếu tố nguy cơ thì hậu quả tất nhiên là dịch bệnh sẽ xảy ra.
Trong giai đoạn này có những yếu tố không thay đổi: tuổi, giới, loài, giống... và những
yếu tố có thể thay đổi: điều kiện vệ sinh môi trường, khả năng miễn dịch, chế độ dinh
dưỡng, nước uống, các bệnh khác... chính những yếu tố này có thể làm tăng hoặc giảm
nguy cơ phát bệnh.
Như vậy, cần phải xác định được các yếu tố nguy cơ để có thể làm giảm khả năng phát
triển bệnh. Biện pháp tốt nhất để ngăn chặn các yếu tố nguy cơ là cần chăm sóc, nuôi
dưỡng tốt, tăng cường sức đề kháng của vật nuôi để làm giảm khả năng phơi nhiễm
với các yếu tố nguy cơ.
17
1.2. Giai đoạn tiền lâm sàng
Giai đoạn này cơ thể chưa có triệu chứng của bệnh nhưng bắt đầu có những thay đổi
bệnh lý do tác động qua lại giữa cơ thể và các yếu tố nguy cơ, tuy nhiên những thay
đổi này ở dưới ngưỡng bệnh lý.
Ví dụ: tăng men gan trong các bệnh về gan nhưng chưa có những xáo trộn về chức
năng sinh lý bình thường của cơ thể của chó bệnh về gan.
1.3. Giai đoạn lâm sàng
Trong giai đoạn này cơ thể đã có những thay đổi về chức năng, các triệu chứng và dấu
hiệu đặc trưng của bệnh đã thể hiện ra bên ngoài. Do vậy, có thể chẩn đoán bệnh qua
những biểu hiện lâm sàng. Trong giai đoạn lâm sàng người ta có thể chia ra hai giai
đoạn tiền phát và toàn phát.
Ví dụ: Khi heo bị bệnh do Mycoplasma ở giai đoạn này có biểu hiện khó thở, thở
nhanh, thở khó khi vận động nhiều; trâu bò mắc bệnh LMLM ở giai đoạn thấy mụn
nước xuất hiện ở mép, mũi, lưỡi, chân răng, vành móng, kẽ móng…
1.4. Giai đoạn hậu lâm sàng (giai đoạn kết thúc)
Có 3 trường hợp sau:
- Nhiều trường hợp bệnh tiến tới khỏi hoàn toàn do tự khỏi hoặc do điều trị, sau một
giai đoạn phục hồi ngắn có hoặc không có những biến chứng.
- Nhiều trường hợp con vật bệnh bị chết do cơ thể không chống chịu được những tác
động của tác nhân gây bệnh.
- Một số trường hợp bệnh dưới những điều kiện nhất định, sau giai đoạn lâm sàng có
thể để lại di chứng nhất thời (Newcastle gà, Tụ huyết trùng gia cầm, Lao bò sữa…)
hoặc vĩnh viễn (Brucellosis, Đậu mùa...). Con vật mang mầm bệnh và có thể lây nhiễm
cho các con vật khác.
II. QUẦN THỂ TRONG NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ
Quần thể là tất cả những con thú sống trong cùng một khu vực cụ thể trong một thời
gian nhất định. Khái niệm về quần thể là khái niệm được đề cập rất nhiều trong nghiên
cứu dịch tễ vì đây chính là đối tượng nghiên cứu của môn học. Người có thể nói tỷ lệ
nhiễm một bệnh nào đó, ví dụ tỷ lệ nhiễm vi khuẩn Salmonella trên quần thể gia cầm
nuôi tại tỉnh Hậu Giang. Hoặc giới hạn cụ thể hơn là quần thể (đàn) gà Tàu vàng tại
trại chăn nuôi gà X trong một thời gian cụ thể.
Quần thể: là một tập hợp các cá thể có chung những đặc điểm, tính chất nhất định
trong một thời gian và không gian nhất định.
Quần thể định danh: là một tập hợp những cá thể có chung những tính chất nhất định,
hình thành một xác suất mắc tương tự đối với một bệnh nào đó trước những yếu tố
nguy cơ nhất định. Trong quần thể định danh lại chia ra quần thể có nguy cơ và quần
thể có miễn dịch.
18
Quần thể có nguy cơ: là quần thể gồm những động vật nhạy cảm với bệnh, nếu có
mầm bệnh xuất hiện thì có thể sẽ xảy ra dịch bệnh tại quần thể đó. Ví dụ, quần thể heo
nuôi tại một trại chưa được chủng ngừa bệnh PRRS là quần thể có nguy cơ mắc bệnh
PRRS. Tuy nhiên, không thể nói quần thể bò nuôi tại khu vực nào đó là quần thể có
nguy cơ đối với bệnh này vì bệnh này chỉ xảy ra cho loài heo, mà đặc biệt là heo nái và
heo con.
Quần thể có miễn dịch: là quần thể mà phần lớn các cá thể trong đó có khả năng đề
kháng lại bệnh. Sự đề kháng này có thể thu được từ quá trình tiêm phòng vaccine hoặc
do quần thể đã từng mắc bệnh và miễn dịch thu được tự nhiên (phơi nhiễm) vẫn còn
khả năng đề kháng chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh lần sau.
Một con thú không có miễn dịch khi đặt trong một môi trường nhiễm khuẩn hay đặt
trong một đàn không có miễn dịch thì rất dễ mắc bệnh, tuy nhiên nếu đặt nó vào một
đàn có miễn dịch thì nguy cơ mắc bệnh của nó sẽ thấp hơn nhiều. Người ta cho rằng
nếu từ 80% cá thể trong đàn có miễn dịch đối với một bệnh nào đó thì xem như quần
thể đó là quần thể miễn dịch đối với bệnh đó.
Quần thể có nguy cơ được sử dụng để tính các thông số của bệnh như sự lưu hành, tỉ lệ
phát bệnh. Như vậy quần thể có nguy cơ là số con vật có thể bị mắc bệnh, không tính
số con bị mắc và có thể đã chết của quần thể ban đầu.
2.1. Thời điểm phát bệnh
Xác định thời điểm phát bệnh là rất cần thiết trong việc thiết lập các tỷ lệ mắc bệnh, tỷ
lệ chết và đặc biệt là tỷ lệ mới mắc. Có bệnh có thể xác định được thời điểm phát bệnh
một cách dễ dàng và chính xác. Có bệnh thì khó xác định hơn hoặc nhiều khi không
xác định được chính xác. Trong trường hợp này, ta có thể coi thời điểm phát hiện
những triệu chứng đầu tiên sớm nhất hoặc là lúc có chẩn đoán chính xác là thời điểm
phát bệnh. Muốn xác định được thời điểm phát bệnh của một bệnh nào đó cần phải
biết được thời gian ủ bệnh (nung bệnh) của bệnh đó.
Thời gian ủ bệnh được định nghĩa là khoảng thời gian từ khi con thú tiếp nhận (nhiễm)
mầm bệnh cho tới khi con thú biểu hiện những triệu chứng lâm sàng của bệnh. Nếu
con thú nhiễm mầm bệnh ngày hôm nay và 3 ngày sau mới có triệu chứng bệnh thì
thời gian ủ bệnh là 3 ngày. Trong suốt thời gian này con thú hoàn toàn khoẻ mạnh và
không có bất cứ biểu hiện nào.
Thời gian này chính là thời gian mà mầm bệnh từ lúc tấn công vào cơ thể, di chuyển
đến cơ quan hoặc vị trí thích hợp rồi nhân lên đủ số lượng cần thiết để gây thành bệnh.
Thời gian ủ bệnh liên quan đến thuật ngữ cách ly (quarantine) khá nổi tiếng trong lịch
sử của dịch tễ học. Vào năm 1374, người dân thành Venie (Ý) đối mặt với một bệnh
dịch Black death. Chính quyền thành phố đã ra lệnh bất cứ tàu nào muốn cập bến vào
thành phố phải được kiểm soát và đảm bảo không có bệnh trong 30 ngày (tiếng Ý là
trentini giorni). Sau đó, người ta nâng thời gian này lên 40 ngày (quarante giorni). Đây
cũng là nguồn gốc của từ quarantine trong tiếng Anh, có nghĩa là cách ly để theo dõi
xem có bệnh hay không, đây cũng là thời gian ủ bệnh tối đa của nhiều bệnh.
19
2.2. Thời kỳ quan sát
Khi khảo sát các tỷ lệ, luôn luôn phải theo dõi trong một khoảng thời gian nhất định,
thường là: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm... hoặc có thể bao gồm một khoảng thời
gian dài ngắn bất kỳ nào đó. Nói chung, khoảng thời gian đó phải đủ dài để có thể đảm
bảo được sự ổn định của tử số khi tính các tỷ lệ.
Thời kỳ quan sát là khoảng thời gian được tính từ ngày phát bệnh đến ngày có con vật
mắc bệnh cuối cùng trong một vụ dịch.
2.3. Đặc điểm tử số của tỷ lệ
Trong một số trường hợp có hơn một lần sự kiện xảy ra trên cùng một đối tượng động
vật trong thời gian nghiên cứu theo dõi, điều này sẽ dẫn đến 2 loại tỷ lệ đối với cùng
một sự kiện.
Ví dụ, động vật có thể bị tái nhiễm nhiều lần đối với một bệnh nào đó trong thời gian
nghiên cứu kéo dài, ta có thể tính đuợc 2 loại tỷ lệ sau:
Số động vật mắc bệnh
Tỷ lệ 1 = ---------------------------------------------- x 100
Tổng số động vật có nguy cơ mắc bệnh
Tỷ lệ này cho biết xác suất của bất kỳ động vật nào trong quần thể có nguy cơ sẽ có
thể bị mắc bệnh trong thời gian nghiên cứu.
Số lần động vật bị mắc bệnh
Tỷ lệ 2 = ------------------------------------------------- x 100
Tổng số động vật có nguy cơ mắc bệnh
Tỷ lệ này ước tính số lần con vật có thể bị mắc bệnh trong quần thể có nguy cơ trong
thời gian nghiên cứu.
Chú ý: cả 2 tỷ lệ này đều được tính cùng trong một thời gian nghiên cứu, khi có số sự
kiện khác nhau như trên thì trong cả hai trường hợp tử số phải được xác định rõ ràng.
Khi không có sự khác biệt thì tử số thường được tính là số động vật mắc bệnh và tỷ lệ
mắc bệnh là biểu thị xác suất đối với một đối tượng động vật.
2.4. Đặc điểm mẫu số của tỷ lệ
Mẫu số của tỷ lệ (nhiễm, mắc, chết…) là tổng số các cá thể có trong quần thể được
tính một cách chính xác trong thời gian theo dõi.
Tuy nhiên, vì số cá thể bệnh và số chết phải nằm trong thời gian theo dõi nên tổng số
động vật trong quần thể có thể có những thay đổi, nhất là trong khoảng thời gian
nghiên cứu dài. Do vậy, khi tính mẫu số thì cách đơn giản nhất là lấy tổng số động vật
trong quần thể vào thời điểm giữa của thời kỳ khảo sát hoặc lấy số trung bình cộng của
các đợt biến động trong thời kỳ theo dõi.
20
III. ĐIỀU KIỆN ĐỂ BỆNH - DỊCH BỆNH XUẤT HIỆN
3.1. Quan niệm về nguyên nhân đa yếu tố
Trong quan niệm và phương pháp dịch tễ học hiện đại người ta không nhấn mạnh về
một yếu tố nào trong các điều kiện để bệnh phát triển. Trong quá trình nghiên cứu về
dịch tễ của một bệnh nào đó không chỉ liên quan đến một yếu tố đơn thuần mà liên
quan đến nhiều yếu tố khác nhau. Cho nên, trong quá trình phân tích dịch tễ học của
bất kỳ bệnh nào phải tiến hành tìm hiểu nguyên nhân, đó phải bao gồm một chuỗi
những yếu tố tác động phối hợp qua lại lẫn nhau. Như vậy, sự phát sinh và phát triển
của một bệnh nào đó liên quan đến nhiều yếu tố căn nguyên khác nhau và sự tác động
qua lại của các yếu tố đó, gọi đó là nguyên nhân đa yếu tố.
Do đó: “Một nguyên nhân đầy đủ” có thể được xem như một tập hợp những hiện
tượng, những điều kiện, những đặc tính tối thiểu không thể tránh khỏi để gây nên
bệnh. Tối thiểu có nghĩa là không thể bỏ qua bất cứ hiện tượng nào, điều kiện nào, đặc
tính nào.
3.2. Những yếu tố cơ bản cần thiết để bệnh xuất hiện
3.2.1. Yếu tố gây bệnh hay tác nhân gây bệnh gồm: các yếu tố sinh học, lý học, hóa
học, dinh dưỡng, xã hội... Là điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ để gây nên bệnh vì nó
còn cần phải có các điều kiện hỗ trợ của yếu tố bên trong là vật chủ và yếu tố bên
ngoài là môi trường ngoại cảnh thì bệnh mới phát sinh. Tuy nhiên yếu tố gây bệnh là
một yếu tố bắt buộc phải có, là điều kiện cần thiết để cho bệnh phát sinh, phát triển.
3.2.2. Yếu tố bên trong (vật chủ): là cơ thể động vật với những đặc trưng của chúng
như loài, giống, tuổi, giới tính, đặc tính di truyền, trạng thái sinh lý, trạng thái bệnh lý,
thể chất, sức đề kháng ....
Tình trạng của vật chủ ở bất kỳ lúc nào cũng là kết quả của tác động qua lại của các
yếu tố nội sinh di truyền với điều kiện ngoại cảnh trong suốt cuộc sống mà ngày nay
người ta mới biết rõ một số điểm, còn nhiều điểm khác chưa được biết rõ ràng, đầy đủ.
Tuy nhiên, qua những hiểu biết ít ỏi đó, cũng cho phép chúng ta ít nhất là xác định ra
những cá thể có khả năng dễ mắc (nhiễm) một số bệnh và đề ra những biện pháp
phòng chống dự phòng. Ví dụ, gà dễ mắc bệnh Gumboro ở giai đoạn 3 - 6 tuần tuổi.
3.2.3. Yếu tố bên ngoài (môi trường ngoại cảnh)
Các yếu tố bên ngoài hay các yếu tố ngoại cảnh có rất nhiều và đều có thể ảnh hưởng
đến sự xuất hiện bệnh trên động vật, gồm có:
- Yếu tố tự nhiên: khí hậu, thời tiết, địa lý, địa hình, nhiệt độ, ánh sáng, không khí, độ
ẩm, tốc độ gió...
- Các yếu tố do con người tạo ra (nhân tạo): chuồng trại, vệ sinh, chăm sóc, dụng cụ
nuôi dưỡng, quản lý, mật độ nuôi, độ thông thoáng...
21
3.3. Các dạng liên kết của các yếu tố gây bệnh
Mục tiêu của nghiên cứu các dạng liên kết này nhằm xác định tác nhân liên quan tới sự
phát sinh bệnh. Sau khi tác nhân đã được xác định ta có thể đánh giá tác nhân đó gây
bệnh như ra sao ? Nếu thấy có sự phối hợp nguyên nhân giữa tác nhân và bệnh đang
tồn tại, thì tác nhân đó được gọi là yếu tố (nhân tố) quyết định.
Như vậy, sự liên kết giữa các yếu tố có thể được hiểu nếu mức độ phối hợp của các tác
nhân càng cao thì dịch bệnh sẽ xảy ra thường xuyên hơn trong quần thể. Ngược lại nếu
chúng ta loại trừ chính xác sự phối hợp của các tác nhân gây bệnh đó thì dịch bệnh sẽ
giảm hoặc không xảy ra.
3.3.1. Nguyên nhân trực tiếp
Dạng phối hợp này đòi hỏi phải xác định được nguyên nhân gây nên dịch bệnh không
những phải xác định về tính chất mà còn xác định cả về số lượng.
Tác nhân → Nguyên nhân trực tiếp → Dịch bệnh
Sự phối hợp nguyên nhân trực tiếp chỉ là tương đối, nó phụ thuộc vào khả năng phát
hiện của người làm công tác thú y về sự phối hợp trực tiếp này để từ đó có thể tác
động làm thay đổi nguyên nhân theo hướng có lợi.
3.3.2. Nguyên nhân gián tiếp
Tác nhân → Nguyên nhân gián tiếp → Dịch bệnh
Có nhiều nghiên cứu bố trí thí nghiệm để phát hiện nguyên nhân phối hợp gián tiếp
hay các yếu tố trung gian giữa tác nhân và dịch bệnh.
IV. CÁC MÔ HÌNH CỦA DỊCH BỆNH
4.1. Mô hình sinh thái học
Mô hình sinh thái học chính là sự tương tác của tất cả các yếu tố với nhau cùng tác
động lên cơ thể vật chủ. Mô hình này được thiết lập nhằm tìm ra cơ chế, hậu quả của
tất cả những tác động đó đối với việc hình thành, xuất hiện bệnh như thế nào ? Tìm ra
được nguyên nhân nào là chủ yếu ảnh hưởng tới tình trạng sức khỏe của quần thể đàn
gia súc hay của một cá thể ở một thời điểm nhất định để điều chỉnh kịp thời và giữ
thăng bằng cho cơ thể.
Có những yếu tố trong hệ sinh thái thay đổi, nhưng không gây ảnh hưởng tới sức khỏe
quần thể đàn gia súc, thì không cần phải điều chỉnh, vì có các yếu tố khác trong hệ
sinh thái đó có khả năng tự bù đắp, tự điều chỉnh lại những ảnh hưởng đó. Ngược lại
có những thay đổi dù nhỏ nhưng lại ảnh hưởng tới sức khỏe của quần thể đàn gia súc,
dẫn tới bệnh tật thì phải điều chỉnh ngay.
4.1.1. Mô hình tam giác
Gồm 3 thành phần: Tác nhân – Vật chủ – Môi trường
22
Hình 2.2. Mô hình tam giác
Mô hình này cho rằng trong bất cứ dịch bệnh nào cũng phải phân tích đầy đủ 3 thành
phần trên, nếu có bất kỳ một thành phần nào thay đổi sẽ kéo theo sự gia tăng hoặc
giảm thấp tần số của bệnh.
Tuy nhiên với quan niệm về các yếu tố bên trong và bên ngoài, ứng với tính cảm thụ
của cơ thể và khả năng phơi nhiễm đối với các yếu tố của môi trường bên ngoài thì
“tác nhân” chỉ là một trong các yếu tố của môi trường bên ngoài.
Khi nghiên cứu dịch tễ học của các bệnh truyền nhiễm thì việc tách riêng các vi sinh
vật gây bệnh ra khỏi các yếu tố của môi trường thành loại tác nhân là chính xác, nhằm
làm sáng tỏ nguyên nhân chính gây ra bệnh. Nhưng với quan niệm và phương pháp
nghiên cứu dịch tễ học hiện nay áp dụng cho mọi loại bệnh, người ta sẽ không nhấn
mạnh vào yếu tố đặc thù nào, ngay cả đối với các bệnh đã biết được “tác nhân” gây
bệnh.
Mô hình sinh thái học được hình thành, không nhấn mạnh đến “tác nhân” mà quan
tâm đến các tác động qua lại giữa vật chủ và môi trường, nghĩa là quan tâm đến tác
động giữa yếu tố bên trong và bên ngoài.
4.1.2. Mô hình bánh xe
Mô hình bánh xe là mô hình được đề cập để phát hiện những mối quan hệ giữa cơ thể
và môi trường, đó là các vòng tròn lớn, nhỏ khác nhau được lồng vào nhau. Ở giữa là
một vòng tròn biểu thị cho cơ thể vật chủ (số 1) với hệ thống thông tin di truyền của nó
(G). Xung quanh là môi trường, chia thành 3 mảnh, biểu thị cho các loại môi trường:
môi trường sinh học (a), môi trường lý học (b) và môi trường xã hội (c).
Độ lớn của từng thành phần của “bánh xe” phụ thuộc vào từng bệnh cụ thể, ví dụ bệnh
do di truyền thì nhân tố di truyền (G) ở giữa tương đối rộng, với bệnh truyền nhiễm
như bệnh Dịch tả vịt thì nhân tố (a) lớn, bệnh CRD thì (b) lớn, bệnh nhiệt thán thì
(c) lớn.
Mô hình này xác định được nhiều yếu tố căn nguyên của bệnh mà không cần nhấn
mạnh đến tác nhân. Ví dụ trong bệnh Dại không cần nhấn mạnh đến virus Dại, mà
phải nhấn mạnh đến gia súc mắc bệnh là ổ chứa virus đó và môi trường.
23
Sự phân chia ra các yếu tố của vật chủ và các yếu tố của môi trường rất có lợi trong
phân tích dịch tễ học.
Hình 2.3. Sơ đồ mô hình bánh xe
4.2. Mô hình Reed Frost
Mô hình phát triển của dịch bệnh có thể được sử dụng để đánh giá, để dự đoán và đề ra
những chiến lược không chế, ngăn chặn sự phát triển của các dịch bệnh khác nhau.
Mô hình Reed Frost là một trong những mô hình đơn giản nhất, nhưng lại rất hữu ích
trong nghiên cứu dịch tễ học, mô hình Reed Frost nhận xét rằng sự nhiễm bệnh trực
tiếp từ cá thể bị nhiễm sang cá thể mẫn cảm bằng một loạt các tiếp xúc nhất định được
gọi là “tiếp xúc đầy đủ”.
Bất cứ cá thể nào chưa được miễn dịch hoặc mẫn cảm trong nhóm, đàn, quần thể tiếp
xúc với một cá thể mắc bệnh truyền nhiễm trong một giai đoạn nhất định sẽ phát triển
thành bệnh và có khả năng lây lan cho các cá thể khác trong nhóm, đàn, quần thể và
trong giai đoạn tiếp theo, sau đó chúng sẽ có khả năng miễn dịch.
Mỗi một cá thể có một xác suất cố định để “tiếp xúc đầy đủ” và hoàn toàn ngẫu nhiên
với cá thể đặc biệt khác trong nhóm, đàn, quần thể trong một khoảng thời gian nhất
định, xác suất này cũng tương ứng cho mỗi thành viên trong nhóm, đàn, quần thể khác.
Những cá thể đã bị nhiễm “được coi như tách khỏi” những cá thể trong nhóm, đàn,
quần thể.
Khoảng cách thời gian cho giai đoạn nhiễm bệnh bằng bình quân độ dài của khoảng
cách tiền phát. Mô hình Reed Frost mô tả dịch bệnh bằng phương trình sau:
C (t+1) = St (1- Qct)
Trong đó:
t là giai đoạn thời gian xác định bởi thời kỳ nung bệnh của tác nhân (được đo bằng
đơn vị giờ, ngày, tháng)
24
C(t+1) là số trường hợp bệnh bị nhiễm trong thời gian t
St là số động vật dễ phơi nhiễm trong thời gian t
Q là khả năng của một cá thể không được tiếp xúc đầy đủ trong một giai đoạn thời
gian. Giá trị của Q được xác định bằng 1 - P, mà P là khả năng của một cá thể được
tiếp xúc đầy đủ, nên: Q = 1 - P
Khả năng tiếp xúc đầy đủ P có thể được xác định bằng K/(N – 1)
K là số lượng tiếp xúc có hiệu quả của một cá thể trong một giai đoạn xác định, còn N
là quy mô của quần thể
Mô hình Reed Frost có thể xác định được số động vật mới bị nhiễm trong giai đoạn về
sau, nếu chúng ta biết được số lượng hiện tại những động vật dễ nhiễm, số lượng các
ca bệnh hiện tại và khả năng tiếp xúc có hiệu quả.
Mô hình Reed Frost nghiên cứu dịch tễ học hiện hành, chứng minh rằng dịch bệnh sẽ
tàn lụi hay kết thúc khi sự tiếp xúc đầy đủ (P) ở mức độ thấp và khi số lượng động vật
dễ nhiễm (S) giảm:
Khi mà P x S > 1 thì dịch bệnh có thể xảy ra
Ngược lại khi P x S < 1 thì dịch bệnh sẽ không xảy ra hoặc kết thúc
Còn nếu như dịch bệnh không mất hết, có thể là do có sự thay đổi về độc lực của vi
sinh vật gây bệnh.
Mô hình Reed Frost cho biết nếu số động vật dễ nhiễm trong quần thể giảm do tăng tỷ
lệ động vật được miễn dịch thì mức độ của dịch bệnh và thời gian của dịch bệnh có thể
sẽ giảm nhiều. Điều này nêu lên khái niệm về “miễn dịch đàn”.
V. TRUYỀN LÂY DỊCH BỆNH VÀ CHUỖI TRUYỀN NHIỄM
Hình 2.4. Sơ đồ của quá trình truyền lây
Sơ đồ của quá trình truyền lây gồm 3 khâu là nguồn bệnh, nhân tố truyền lây và súc
vật cảm thụ
25
Gia súc bệnh là nơi mầm bệnh sinh sôi nảy nở và được bài ra ngoài, được gọi với tên
chung là nguồn bệnh.
Mầm bệnh được bài ra ngoài và tạm thời tồn tại trên nhiều nhân tố ngoại cảnh, các
nhân tố này sẽ làm trung gian truyền bệnh cho gia súc khoẻ và được gọi là nhân tố
trung gian truyền bệnh.
Gia súc phải cảm thụ bệnh thì quá trình truyền lây mới được thực hiện, nên được gọi
là động vật cảm thụ.
Mầm bệnh là một sinh vật ký sinh tự nó không tạo được điều kiện sống cho nó mà
phải sống nhờ vào sinh vật khác. Ở đó, nó sinh sản và nhân lên để duy trì nòi giống và
đồng thời gây bệnh.
Động vật mắc bệnh có thể khỏi bệnh hoặc chết, trong cả 2 trường hợp mầm bệnh đều
bị tiêu diệt. Trong một số trường hợp, mầm bệnh có thể tồn tại nhưng không duy trì
được bản chất gây bệnh ban đầu nên nó phải tìm mọi cách xâm nhập vào một cơ thể
khác, một sinh vật khác. Ở đó, nó lại nhân lên và được bài xuất ra bên ngoài rồi lại
xâm nhập vào cơ thể khác để duy trì nòi giống và tăng cường khả năng gây bệnh. Một
số động vật mắc bệnh khác có thể sống sót nhưng trở thành con bệnh mạn tính mang
trùng.
Như vậy, bệnh truyền nhiễm là một chuỗi dài không dứt của những ca bệnh liên tục
tạo ra một quá trình dịch tễ. Trong quá trình đó, không nhất thiết phải trải qua những
thể bệnh rõ rệt mà có cả những mắc xích không rõ rệt.
VI. CÁC NHÂN TỐ NGUY CƠ TIỀM TÀNG VÀ QUAN HỆ NHÂN QUẢ
6.1. Các nhân tố nguy cơ tiềm tàng
Trong các bệnh nhiễm khuẩn, nguyên nhân gây bệnh là do các vi sinh vật gây nên.
Tuy nhiên ngày nay khái niệm này được mở rộng nó bao gồm tất cả các yếu tố bên
trong và bên ngoài có liên quan, ảnh hưởng đến việc hình thành, diễn biến của bệnh
trong một quần thể. Chúng đều được nhìn nhận là những yếu tố nguy cơ của bệnh
nhưng ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào kết quả xác định đó là yếu tố nguy cơ
nghi ngờ hay yếu tố nguy cơ căn nguyên.
Nếu không khắc phục được yếu tố nguy cơ thì hậu quả tất nhiên là dịch bệnh sẽ xảy ra.
6.2. Quan hệ nhân quả
Một bệnh xảy ra là hậu quả tác động của nhiều yếu tố nguyên nhân khác nhau, trong
dịch tễ học, người ta gọi các hiện tượng đó là “lưới nguyên nhân”. Bởi vì, một bệnh
có thể được hình thành do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngược lại, một yếu tố
nguyên nhân cũng có thể gây tác động hình thành nhiều hậu quả khác nhau, người ta
gọi đó là “lưới hậu quả”.
Vì vậy, trong các giả thuyết nhân quả không chỉ quan sát những “diễn biến” của bệnh
mà phải nắm được “chất tác động” lên “diễn biến” đó cũng như biểu hiện của các
“diễn biến” đó.
26
Ngoài ra, trong khái niệm lưới nguyên nhân và lưới hậu quả, còn cần phải chú ý tới
những tác động hiệp đồng của các yếu tố nguy hại đối với cơ thể, cũng như sự cân
bằng giữa các phản ứng của cơ thể với môi trường xung quanh. Sự hiệp đồng này có
khi chỉ là một tác động phối hợp đơn thuần (bằng tổng các tác động) có khi lại là một
sự phối hợp tăng hoặc giảm (lớn hơn hoặc nhỏ hơn tổng các tác động).
Trong mối tương tác quan hệ nhân quả, một vấn đề không thể bỏ qua được đó là các
quan hệ về liều đáp ứng và thời gian đáp ứng.
VII. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA MIỄN DỊCH QUẦN THỂ
Nếu số động vật dễ nhiễm trong quần thể giảm do tăng tỷ lệ động vật được miễn dịch
thì mức độ của dịch bệnh và thời gian của dịch bệnh có thể sẽ giảm nhiều. Điều này
nêu lên khái niệm về “miễn dịch đàn” hay “miễn dịch quần thể”.
Vai trò của Miễn dịch đàn được coi như sự bảo vệ của quần thể khỏi nhiễm dịch bệnh
bằng miễn dịch của các cá thể trong quần thể. Nếu như tỷ lệ động vật được miễn dịch
trong quần thể giảm dưới mức quy định, thì dịch bệnh sẽ tăng cao, đó là điều tất yếu.
Do vậy, tiêm vaccine phòng bệnh cho đàn gia súc là phương pháp tạo và duy trì những
động vật có miễn dịch trong quần thể, bảo vệ từng cá thể gia súc khỏi mắc phải dịch
bệnh, đem lại lợi ích cho cộng đồng, đem lại lợi ích cho cá nhân. Đây chính là những
lý do tại sao chúng ta phải tiêm các loại vaccine phòng bệnh cho đàn gia súc.
Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Trung Giã (2009). Bài giảng Dịch tễ Thú Y. Khoa Nông nghiệp & SHƯD - Đại
học Cần Thơ
2. Dương Đình Thiện (2001). Dịch tễ học các bệnh truyền nhiễm. NXB Y học
3. Trần Ngọc Bích (2012). Giáo trình Miễn dịch học đại cương. NXB Đại học Cần
Thơ
4. Trần Thị Dân và Lê Thanh Hiền (2007). Giáo trình Dịch tễ học Thú y. NXB Nông
nghiệp
Câu hỏi
1. Trình bày quá trình tự nhiên của bệnh, cho ví dụ minh họa ?
2. Giới thiệu các mô hình của dịch bệnh ?
3. Truyền lây dịch bệnh và chuỗi truyền nhiễm, cho ví dụ minh họa ?
4. Trình bày khái nhiệm và vai trò của miễn dịch quần thể, cho ví dụ minh họa ?
27
CHƯƠNG 3
ĐO LƯỜNG TẦN SUẤT CỦA DỊCH BỆNH ĐỘNG VẬT
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC ĐO LƯỜNG TẦN SUẤT BỆNH
Các số đo tần suất dịch bệnh là công việc tiên quyết bắt buộc phải có cho bất kỳ một
nghiên cứu dịch tễ học nào. Việc đo lường tần suất bệnh là nhiệm vụ trung tâm của
dịch tễ học.
Do đó, đo lường tần suất dịch bệnh của động vật là hết sức cần thiết và quan trọng.
Người làm công tác dịch tễ phải hiểu và nắm được những sự việc, những hiện tượng đó
xảy ra trong quần thể và trên cơ sở những thông tin, những dữ liệu thu thập được trong
quá trình điều tra, giám sát dịch bệnh có thể thiết lập được các số đo tần số bệnh và cũng
trên cơ sở các số đo này có thể khái quát được tính chất của dịch, khả năng kiểm soát và
đề ra chiến lược phòng chống dịch bệnh phù hợp.
Đơn giản nhất và cơ bản nhất là đếm số mắc bệnh, số chết một cách chính
xác (tử số), nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì không có tác dụng về dịch tễ học, bởi vì
trong dịch tễ học bao giờ cũng phải quan tâm tới cả quần thể mà động vật đó sống, chứ
không phải quan tâm tới từng cá thể riêng biệt.
Ngoài ra, số động vật không bệnh hoặc số động vật khoẻ cũng quan trọng như số
động vật bệnh, động vật chết, vì nếu không có số liệu này thì không tính được các số
đo về tần suất dịch bệnh.
Do đó, dịch tễ học cần phải biết cả kích thước quần thể (mẫu số) trong đó bệnh đó xảy
ra và cả khoảng thời gian trong đó bệnh đó xảy ra nữa, từ đó mới có thể so sánh sự xuất
hiện bệnh ở những quần thể có kích thước khác nhau và cũng từ đó mới có được
những luận cứ để đánh giá tính xác thực về bệnh và biểu thị chúng dưới dạng những
tỷ lệ hoặc tỷ suất.
Có 3 loại số đo lường trong dịch tễ học
Những số đo lường về tần số bệnh: dùng để đo lường sự xuất hiện của bệnh hoặc chết
trong một quần thể. Đây là những số đo lường cơ bản dùng trong những điều tra mô tả
hoặc tìm nguyên nhân. Những số đo thường dùng là số hiện mắc và số mới mắc.
Những số đo lường về sự kết hợp: dùng để lượng giá độ mạnh của một sự kết hợp
thống kê giữa một yếu tố nguyên nhân và một bệnh nào đó. Bệnh là kết cuộc hoặc
điểm cuối cùng của một điều mà chúng ta quan tâm.
Những số đo lường về tác động: phản ánh sự góp phần của những yếu tố nguyên nhân
vào tần số bệnh trong một quần thể cụ thể. Những số đo này hữu dụng trong lĩnh vực y
tế công cộng để tiên đoán hiệu quả và hiệu năng của một biện pháp điều trị hoặc can
thiệp trong một quần thể cụ thể. Ví dụ chúng ta muốn biết số hoặc tỉ lệ những ca bệnh
viêm vú trên bò sữa tại TP. Cần Thơ là do sự xâm nhập của vi trùng (trong khi bệnh
viêm vú trên bò sữa có thể được gây ra do nhiều nguyên nhân khác ngoài sự xâm nhập
28
của vi trùng, chẳng hạn như là do kỹ thuật vắt sữa); hoặc sự giảm tỉ lệ bệnh Gumboro
trên đàn gà tại trại X là do tác động của vaccine phòng bệnh Gumboro (trong khi số
mắc bệnh này có thể giảm do nhiều yếu tố khác, chứ không chỉ nhờ vào việc vaccine
như mật độ nuôi, vệ sinh - sát trùng, độ tuổi,..). Những số đo tác động là kết hợp của
những số đo tần số và số đo kết hợp.
II. TỶ SỐ, TỶ LỆ, TỶ SUẤT
Tỷ số, tỷ lệ, tỷ suất là các khái niệm thống kê, nó có những điểm chung, nhưng cũng
có những sự khác biệt khi sử dụng chúng trong dịch tễ học, do đó cần chú ý sử dụng
cho đúng trong từng hoàn cảnh nghiên cứu cụ thể.
Đặc điểm chung của các chỉ số này là chúng đều là phân số, có nghĩa là mỗi chỉ số
đều có tử số và mẫu số, nhưng khác biệt về ý nghĩa giữa các chỉ số này là ở mẫu số.
2.1. Tỷ số (ratio)
Tỷ số là một phân số mà tử số có thể không có liên hệ với mẫu số, tỷ số có giá trị từ 0
đến vô hạn. Tỷ số là biểu thị mối tương quan của 2 đại lượng, hai đại lượng này có thể
liên quan với nhau hoặc hoàn toàn độc lập với nhau.
Ví dụ, trong một mẫu nghiên cứu về gia súc trong đó có 400 vịt; 200 gà, do đó tỷ số vịt/gà
là 2 hoặc gà/vịt là 0,5 hoặc 1/2.
Tỷ số ít được dùng trong dịch tễ học mà thường dùng các biến thể của nó là tỷ lệ, tỷ suất,
trong đó thường dùng nhất là tỷ lệ phần trăm.
2.2. Tỷ lệ (proportion)
Tỷ lệ là một dạng đặc biệt của tỷ số, mà sự kiện được nêu đều xảy ra trong một khoảng
thời gian xác định, trong đó số đo của tử số là một bộ phận của mẫu số, cả 2 đại lượng
này được đo lường đồng thời. Tỷ lệ có giá trị dao động từ 0 đến 1 hay từ 0 đến 100%
Tỷ lệ là một phân số mà sự biến đổi giữa tử số và mẫu số có quan hệ chặt chẽ với nhau
Một tỷ lệ có dạng: {a/(a + b)} x k
Trong đó:
a là tần số xuất hiện sự kiện, hiện tượng cần quan tâm ví dụ số con nhiễm, ốm, mắc bệnh,
chết...
b là tần số không xuất hiên sự kiện, hiện tượng cần quan tâm trong quần thể xảy ra sự
kiện, hiện tượng đó trong thời gian đó, ví dụ số con không nhiễm, không mắc bệnh, số con
khoẻ.
k thường là 100
Ví dụ: tỷ lệ vịt bị nhiễm salmonella ở trại X trong quý 1, được tính bằng số vịt của trại
X bị nhiễm salmonella trong quý 1 (300 con)/tổng số vịt của trại X có trong quý 1 (900
con):
(300/900) x 100 = 33,3%.
29
2.3. Tỷ suất hoặc mức độ (Rate)
Tỷ suất là một trị số có được khi ta đem chia một đại lượng này cho một đại lượng khác,
như vậy tỷ suất là một số để diễn tả sự liên quan giữa tử số và mẫu số, trong khi cả tử số
và mẫu số là những đại lượng riêng biệt khác nhau, tức là số đo của mẫu số không bao
gồm số đo của tử số và ngược lại.
Tỷ suất trong dịch tễ học dùng để đo lường xác suất xảy ra một sự kiện đặc biệt, trong
đó tử số là sự kiện (ốm, chết, bệnh tật...) và mẫu số là số lượng cá thể có trong các sự kiện
đó (tổng đàn động vật ...) trong một khoảng thời gian nhất định (mẫu số bao giờ cũng có
yếu tố thời gian và cả đối tượng). Như vậy tỷ suất là một đại lượng có giá trị từ 0 đến vô
hạn và phải có đơn vị thời gian (ngày, tháng, quý, năm,..).
Ví dụ: theo dõi 10 con bò sữa nhiễm bệnh lao tại trại Y trong tổng thời gian bao lâu thì
đơn vị phải là thời gian-con. Tổng thời gian theo dõi 10 con bò sữa là 24 tháng, phát
hiện 4 con có bệnh, nên tỷ suất mắc bệnh là 4/24 = 0, 167 hay tỷ suất mắc bệnh là 16,7%
tháng-con.
III. PHƯƠNG PHÁP CHỌN QUẦN THỂ LÀM MẪU SỐ
Quần thể được hiểu một cách khái quát là tập hợp của nhiều cá thể, là tổng số cá thể có
trong một quần thể xuất hiện bệnh hoặc các cá thể bị phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ của
một bệnh cần nghiên cứu. Có nhiều khái niệm về mức độ và tính chất của quần thể tùy
theo loại bệnh cần nghiên cứu mà xác định phạm vi quần thể như là quần thể toàn bộ hay
quần thể định danh.
Quần thể toàn bộ: là tập hợp các cá thể có cùng đặc điểm và tính chất nhất định trong
một thời gian và không gian cụ thể.
Quần thể định danh: là tập hợp các cá thể có chung những tính chất nhất định, hình thành
một xác suất tương tự đối với một bệnh (vấn đề sức khỏe) nào đó trước những yếu tố
nguy cơ nhất định. Trong quần thể định danh có thể chia ra các nhóm quần thể sau: quần
thể có nguy cơ, quần thể có nguy cơ cao, quần thể mắc bệnh (quần thể mục tiêu).
Chọn quần thể tùy theo mục đích nghiên cứu, tùy theo tính chất lây lan của từng bệnh
nhưng phải xác định được số cá thể có trong quần thể đó hoặc số cá thể có trong thời
điểm nghiên cứu (nghiên cứu ngắn hạn) hoặc số cá thể trung bình có trong thời gian
nghiên cứu hoặc giai đoạn nghiên cứu (nghiên cứu dài hạn), vì số cá thể này sẽ được
dùng làm mẫu số cho các tỷ lệ sau này.
Đối với quần thể lớn (nghiên cứu dài hạn trên phạm vi rộng) thì không nên tính tổng số
cá thể có nguy cơ vì sẽ không chính xác, trong trường hợp này nên lấy số trung bình tổng
số cá thể có trong khu vực nghiên cứu ở đầu kỳ và cuối kỳ nghiên cứu.
Đối với quần thể nhỏ mà phạm vi nghiên cứu hẹp và trong một khoảng thời gian ngắn thì
tử số của các tỷ lệ cần phải chính xác (số động vật bệnh, chết,..) và mẫu số là tổng số cá
thẻ có trong thời gian nghiên cứu.
30
\IV. ĐO LƯỜNG SỰ XUẤT HIỆN BỆNH – DỊCH BỆNH
Đây là những nghiên cứu dùng để mô tả thực trạng một bệnh hay dịch bệnh nào đó
xảy ra trong quần thể. Như vậy để mô tả thì cần phải đáp ứng đủ các thông tin như con
thú nào mắc bệnh, số lượng mắc bệnh, tỷ lệ nhiễm bệnh, nhóm thú mắc bệnh, phân bố
bệnh ở đâu... Tùy thuộc vào điều kiện thực tế mà sự phân chia nhóm thú có thể khác
nhau khi mô tả bệnh. Ví dụ, người ta có thể mô tả bệnh theo khu vực, theo nhóm tuổi,
theo giới tính, theo giống...
4.1. Tỷ lệ bệnh (prevalence)
Tỷ lệ bệnh đôi khi được dùng với tên tỷ lệ nhiễm hay tỷ lệ mắc. Tỷ lệ này được
định nghĩa là số con thú có cùng tính chất đang khảo sát (bệnh, nhiễm bệnh, mang
trùng, có rối loạn bất thường về sức khỏe...) trong một quần thể tại một thời điểm nhất
định chia cho tổng số thú trong quần thể đó. Đại lượng này thường được tính theo
phần trăm.
Số động vật mắc bệnh
P (%) = ------------------------------------------------------ x 100
Tổng số động vật trong quần thể nghiên cứu
Ví dụ, muốn biết tỷ lệ nhiễm bệnh cầu trùng trên đàn gà tại trại X (một quần thể xác
định) thì phải lấy mẫu phân gà của trại X đem xét nghiệm. Số gà cho kết quả dương
tính sẽ là tử số của công thức và tổng số gà trong trại X sẽ là mẫu số. Lưu ý việc lấy
mẫu và phân tích mẫu phải được thực hiện cùng một thời điểm để kết quả khảo sát có
giá trị.
Trong các nghiên cứu về y học, người ta thường dùng 2 loại thuật ngữ về tỷ lệ nhiễm,
đó là tỷ lệ nhiễm tại một thời điểm (point prevalence) và tỷ lệ nhiễm trong khoảng thời
gian (period prevalence). Sự phân loại này dựa theo thời gian thu thập số liệu và phân
tích mẫu. Nếu thời gian phân tích mẫu hay kết quả nghiên cứu thực hiện trong một
khoảng thời gian ngắn thì có thể được coi là tỷ lệ nhiễm tại thời điểm còn nếu thời
gian nghiên cứu kéo dài theo đơn vị năm thì thường được dùng là tỷ lệ nhiễm trong
khoảng thời gian.
Hình 3.1. Tỷ lệ bệnh theo mẫu xét nghiệm
Vòng tròn màu trắng là gà khỏe, vòng tròn màu đen là gà bệnh
31
P = 7 /30 x 100 = 23,33%
Tỷ lệ nhiễm cho kết quả tổng quát về sự phổ biến, sự lưu hành của một bệnh, một tính
chất khảo sát nào đó trong quần thể. Nó có giá trị nhất định trong việc đánh giá mức
độ chi phí mà người chăn nuôi phải chịu về một bệnh nào đó. Từ đó sẽ có những chiến
lược thích hợp trong phòng bệnh.
Tuy nhiên, đôi khi tỷ lệ nhiễm không thể hiện rõ diễn tiến nhanh hay chậm của bệnh,
không phân biệt được bệnh mới hay bệnh cũ, bệnh một lần hay nhiều lần. Đặc biệt
trong các bệnh được chẩn đoán bằng phản ứng huyết thanh học, kết quả tỷ lệ nhiễm có
thể cao hơn nhiều so với thực tế. Ví dụ, đối với bệnh hô hấp mãn tính (CRD) trên gà
đẻ thì tỷ lệ nhiễm có thể đạt tới 100% khi dùng phản ứng huyết thanh học để chẩn
đoán.
4.2. Xác định tỷ lệ bệnh (nhiễm) trong quần thể
Khi muốn xác định tỷ lệ nhiễm trong quần thể, người ta không thể lấy tất cả các cá thể
trong quần thể để xét nghiệm hay phân tích ngoại trừ một số quần thể nhỏ. Trong
trường hợp đó, việc chọn mẫu và và dung lượng mẫu khảo sát hết sức quan trọng. Kết
quả phân tích từ các mẫu đã chọn được sử dụng làm cơ sở để ước tính tỷ lệ nhiễm của
cả quần thể. Để thực hiện điều này có thể dùng phương pháp ước lượng thống kê như
sau:
Tỷ lệ nhiễm của quần thể (P)
P = tỷ lệ nhiễm của dung lượng mẫu được chọn ± {Z(1-α)× SE}
Trong đó Z(1-α) là hệ số tin cậy, và SE (Standard Error) là sai số chuẩn
Hình 3.2. Cách lấy mẫu để xác định tỷ lệ nhiễm của quần thể gà
32
Gọi n là số mẫu lấy từ quần thể và a là số cá thể có tính chất khảo sát (bệnh, giới tính,
độ tuổi, cân nặng,..); p là tỷ lệ nhiễm của mẫu (p = a/n)
Ước tính tỷ lệ nhiễm trong quần thể ở độ tin cậy 95% theo công thức sau
Việc xác định tỷ lệ bệnh cho quần thể tùy thuộc rất nhiều vào dung lượng (cở) mẫu.
Để ước lượng số cá thể cần thiết người ta phải dựa vào các dự đoán về tỷ lệ và sai số
mong muốn. Công thức tính dung lượng mẫu để xác định tỷ lệ bệnh như sau:
Trong đó, z là giá trị phân phối chuẩn ở độ tin cậy nhất định, chẳng hạn như z = 1,96
với độ tin cậy 95%. Trị số "d" được gọi là khoảng giới hạn cho phép, được tính là một
nửa của khoảng biến thiên giới hạn trên và giới hạn dưới của tỷ lệ ước tính. Ví dụ, ước
tính tỷ lệ nhiễm là 20% -30% thì d =(0,3 - 0,2)/2 = 0,05. Giá trị p là tỷ lệ nhiễm theo
mong muốn. Có nghĩa là người nghiên cứu phải giả định tỷ lệ nhiễm để có thể dự kiến
số mẫu khảo sát. Số liệu ước tính này có thể dựa vào các nghiên cứu trước đây hoặc
những khảo sát ở những quần thể tương tự khác. Đôi khi, số liệu liên quan không có
thì người nghiên cứu cần làm một khảo sát thử để đánh giá sơ bộ tình hình nhiễm, kết
quả này sẽ làm tham khảo cho việc tính toán dung lượng mẫu. N là tổng đàn thú khảo
sát. Bên cạnh đó, chúng ta cũng rất thường khảo sát quần thể rất lớn (n/N ≤5%) hoặc
không biết chính xác số lượng cá thể trong quần thể, trong trường hợp đó có thể dùng
theo công thức sau:
Nếu muốn biết đàn thú có bệnh hay không (không phải xác định tỷ lệ bệnh), chúng ta
có thể tính dung lượng mẫu tối thiểu cần khảo sát. Vấn đề này thường được quan tâm
trong các chương trình thanh toán hay kiểm soát bệnh. Chúng ta cần hạn chế bớt lỗi
loại II (Pb), đó là xác suất cho rằng đàn thú không bệnh trong khi nó thật sự có bệnh
(âm tính giả).
Ví dụ: Giả sử một đàn heo có 10% nhiễm virus PRRS và bệnh được phát hiện bằng
huyết thanh học. Nếu một mẫu huyết thanh được lấy từ một heo chọn ngẫu nhiên trong
đàn, xác suất mà heo đó ở trong nhóm không nhiễm virus là 0,9. Như thế Pb = 0,9 và
chúng ta có đến 90% cơ hội không phát hiện được tình trạng nhiễm bệnh trong đàn
33
heo. Nếu hai heo được lấy mẫu thì xác suất mà hai heo đó từ nhóm không nhiễm virus
là 0,9×0,9 = 0,81. Công thức tổng quát để ước tính Pb trong ví dụ này là:
Với Pb là cơ hội mà những động vật lấy mẫu không mang bệnh và n = dung lượng
mẫu. Công thức này có thể được sắp xếp lại để tính dung lượng mẫu với bất kỳ Pb.
Trong đó, n là dung lượng mẫu lấy từ quần thể lớn (hoặc quần thể rất lớn so với dung
lượng mẫu được lấy, lượng mẫu lấy dưới 10% quần thể thì lượng mẫu đó là nhỏ).
Trong ví dụ trên, nếu muốn Pb = 0,05 thì phải lấy máu của khoảng 29 heo để 95%
chắc chắn là có ít nhất 1 heo được phát hiện mang mầm bệnh PRRS, từ đó có thể kết
luận là đàn heo có bệnh. Công thức trên chỉ dùng cho quần thể lớn. Trong các chương
trình thanh toán hay kiểm soát bệnh của tỉnh, thành phố hay quốc gia, cách tính dung
lượng mẫu phải được điều chỉnh theo tổng đàn gia súc. Ngoài ra, dung lượng mẫu còn
tùy thuộc vào độ nhạy (sensitivity) và độ chuyên biệt (specificity) của xét nghiệm chẩn
đoán. Yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định dung lượng mẫu vẫn là mức độ chính
xác của tỷ lệ bệnh (prevalence) được ước tính. Vì dung lượng mẫu tăng khi tỷ lệ bệnh
thấp, cho nên chúng ta nên ước đoán một tỷ lệ bệnh thấp nhất có thể xảy ra.
Công thức có thể áp dụng cho một quần thể nhất định là:
Với N = Tổng đàn thú
d = số thú mắc bệnh trong đàn
n = dung lượng mẫu
P1 = xác suất có được 1 con bệnh trong mẫu lấy
Ví dụ, trong một chương trình kiểm soát bệnh dịch viêm gan virus trên vịt, người ta
thực hiện phản ứng huyết thanh trên nhiều đàn vịt để biết rằng liệu những vịt không
chủng ngừa có mắc bệnh tự nhiên không ? Thông thường, trong một đàn bị nhiễm
bệnh thì ít nhất 5% thú có huyết thanh dương tính. Do đó, số mẫu sẽ được lấy sao cho
có thể phát hiện bệnh ở mức tỷ lệ huyết thanh dương tính 5%. Nếu P1 = 0,95 và quần
thể có 200 vịt, dung lượng mẫu là:
n = {1 - (1 - 0,95)1/10} x {200 - 10/2} + 1 = 51
34
(d = 10 vì là 5% của 200)
Như thế, nếu tỷ lệ huyết thanh dương tính là 5%, 51 thú phải được lấy mẫu để phát
hiện 1 thú có huyết thanh dương tính với xác suất 0,95.
3. Tỷ lệ mắc bệnh (incidence)
Như phần trên đã đề cập, tỷ lệ bệnh (nhiễm) chỉ đánh giá sơ bộ tình hình bệnh nào đó
trong quần thể, tỷ lệ này không phân biệt được những bệnh cũ, bệnh mới hay bệnh
nhiều lần. Trong các nghiên cứu dịch tễ học, để đánh giá chính xác sự xuất hiện bệnh,
người ta định nghĩa thêm một thông số khác, đó là tỷ lệ mắc bệnh. Có 2 loại tỷ lệ
(mới) mắc bệnh đó là tỷ lệ mắc bệnh tích lũy (cumulative incidence - CI) và tốc độ
(mức độ) mắc bệnh (incidence density rate - IR).
Tỷ lệ mắc bệnh tích lũy (CI) là tỷ lệ giữa số thú mắc bệnh trong một khoảng thời gian
nhất định và số con thú khỏe có nguy cơ mắc bệnh trong quần thể ở đầu thời gian khảo
sát. Như vậy CI là một đại lượng đặc trưng cho nguy cơ mắc bệnh của quần thể trong
một thời gian khảo sát. Đây là đại lượng thường được dùng trong các nghiên cứu dịch
tễ học phân tích. CI có giá trị từ 0 đến 1.
Khi khảo sát tỷ lệ mắc bệnh tích lũy, khoảng thời gian khảo sát nhất định phải được đề
cập vì có ảnh hưởng đến giá trị của CI. Tất cả những thú khỏe (có nguy cơ) phải được
đưa vào khảo sát cùng một thời điểm bắt đầu khảo sát. Những quần thể thú như vậy
được gọi là quần thể tĩnh. Tuy nhiên trên thực tế các quần thể khảo sát thời ở dạng
quần thể động, có nghĩa là có những thú mới đưa vào thêm quần thể, có những thú loại
ra khỏi quần thể. Trong trường hợp đó, để có giá trị CI đối với một bệnh nào đó cho
quần thể, người ta dùng giá trị quần thể trung bình làm mẫu số cho việc tính CI. Giá trị
trung bình này được tính là tổng số con thú khỏe ở đầu khảo sát và cuối thời gian khảo
sát chia cho 2.
Ví dụ: Quan sát một đợt dịch bệnh giả dại xảy ra trên đàn heo con sau cai sữa gồm 100
con, kết quả ghi nhận số heo con mắc bệnh theo ngày và tỷ lệ mới bệnh được tính theo
bảng 3.1.
Bảng 3.1. Khảo sát số heo bệnh giả dại để tính CI
Tuần Số thú bệnh Số thú có
nguy cơ
Tỷ lệ mắc bệnh
theo tuần
Số thú bệnh
tích lũy
Tỷ lệ bệnh mới
tích lũy (CI)
1 20 100 0,2 20 0,2
2 15 80 0,19 35 0,35
3 10 65 0,15 45 0,45
4 5 55 0,09 50 0,5
5 1 50 0,02 51 0,51
35
Có thể kết luận là tỷ lệ mắc bệnh tích lũy (CI) trong thời gian 5 tuần của quần thể là
0,51. Hay nói cách khác, 51% là xác suất mà một con trong đàn có thể mắc bệnh trong
giai đoạn 5 tuần.
Tốc độ mắc bệnh (Incidence Density Rate: IR) là tỷ số giữa số ca bệnh mới của một
quần thể có nguy cơ trong suốt một khoảng thời gian xác định và tổng số đơn vị thời
gian có nguy cơ của tất cả những thú trong quần thể đó. Người ta đưa ra khái niệm này
với mục đích mô tả mức độ bệnh, chẳng hạn như bệnh lặp đi lặp lại nhiều lần hay
không, bệnh kéo dài hay không ?
Đơn vị thời gian ở đây thường dùng là năm, tháng, hay tuần của động vật theo dõi.
Trong ví dụ trên, tổng số ca mắc bệnh trong suốt thời gian khảo sát là 51 ca. Tổng số
tuần có nguy cơ được tính như sau.
Trong tuần đầu tiên, 20 heo bị bệnh, như vậy tổng số tuần có nguy cơ mà chúng đóng
góp cho quần thể sẽ là 20/2 = 10 tuần (trung bình phát bệnh ở giữa tuần khảo sát).
Tuần thứ hai tiếp tục có 15 con phát bệnh, sẽ đóng góp 15+15/2 = 22,5 tuần
Tương tự tuần thứ ba có 10+10+10/2 = 25 tuần
Tuần thứ tư: 5+5+5+5/2 = 17,5
Tuần thứ năm 1+1+1+1+1/2 = 4,5 tuần
Có tất cả 49 con khoẻ mạnh sẽ đóng góp 49 x 5 = 245 tuần
Vậy tổng cộng số tuần có nguy cơ của cả quần thể là
10 + 22,5 + 25 + 17,5 + 4,5 + 245 = 324,5tuần (324,4/52 = 6,24 năm).
Áp dụng công thức tính tốc độ bệnh mới (IR) ta có kết quả là 51/324,5 = 0,157
(heo con/tuần heo con có nguy cơ).
Giá trị này thể hiện độ mạnh của bệnh và tốc độ của bệnh trong quần thể có giá trị
trong các nghiên cứu dịch tễ về bệnh học có liên quan đến thời gian, đặc biệt là các
nghiên cứu trên các quần thể động (dynamic population). Lưu ý, giá trị này biến đổi từ
0 đến ∞ tùy theo giá trị thời gian đề cập, ví dụ 0,157 (heo con/tuần heo con có nguy
cơ) = 8,173 (heo con/năm heo con có nguy cơ).
Về mặt lý thuyết có thể ước tính CI từ IR bằng công thức sau:
CI(t) = 1 - e(-IR×t)
Trong đó t là thời gian khảo sát
Ví dụ, từ kết quả trên ta có IR = 0,157 (con/tuần heo con có nguy cơ), muốn tính CI
trong 5 tuần ta được kết quả là 0,54 (trong khi thực tế là 0,51).
4. Mối liên quan giữa tỷ lệ bệnh (prevalence) và tỷ lệ mắc bệnh (incidence)
Các chỉ số thể hiện sự xuất hiện bệnh trong quần thể bệnh vừa trình bày trên có giá trị
nhất định cho chăn nuôi.
36
Hình 3.3. Mối liên hệ giữa tỷ lệ bệnh và tỷ lệ mắc bệnh
Một số vấn đề cần lưu ý như sau:
Tỷ lệ bệnh (prevalence) chỉ liên quan đến sự phổ biến của bệnh.
Tỷ lệ mắc bệnh (incidence) cho thấy diễn tiến của bệnh, cho thấy cái gì sẽ xảy ra trong
tương lai cũng như cho biết nguy cơ có bệnh của quần thể.
Diễn biến bệnh tùy thuộc cách theo dõi tỷ lệ bệnh. Nếu tỷ lệ bệnh được tính dựa trên
sự hiện diện của dấu hiệu bệnh thì tỷ lệ bệnh có thể giảm dần qua thời gian; điều này
không phải do bởi giảm nguy cơ bệnh mà do số thú nhạy cảm đã ít đi. Mặt khác, nếu
tỷ lệ bệnh được tính dựa vào sự hiện diện của một kháng thể đặc hiệu, tỷ lệ bệnh có
thể tăng dần qua thời gian bởi vì tăng số thú có chuyển đổi huyết thanh.
Ví dụ, virus gây viêm não và viêm khớp ở dê là nguyên nhân đưa đến viêm đa khớp
trên dê trưởng thành hoặc thỉnh thoảng gây viêm chất trắng của não trên dê con.
Điều tra huyết thanh học với phương pháp khuếch tán miễn dịch trên agar-gel (agar-
gel immunodiffusion test) cho thấy tỷ lệ huyết thanh dương tính là 81% ở Hoa kỳ
(Crawford and Adams, 1981). Tác nhân gây bệnh có thể truyền qua sữa đầu và sữa. Do
đó vài nhà chăn nuôi dùng sữa đầu đã xử lý nhiệt và sữa thanh trùng cho dê con để
giảm nhiễm trùng. Dùng những loại sữa này đã giảm sự truyền bệnh (huyết thanh
dương tính giảm ở nhóm dùng sữa thanh trùng). Tuy nhiên huyết thanh học cho thấy
huyết thanh dương tính (tỷ lệ bệnh) tăng khi tuổi tăng ở cả nhóm dùng sữa thanh trùng
và nhóm dùng sữa không thanh trùng. Điều này có thể do sự truyền ngang của virus và
xảy ra trong quá trình vắt sữa. Điều quan trọng cần ghi nhận là gia tăng tỷ lệ huyết
thanh dương tính theo tuổi không có nghĩa là nguy cơ nhiễm trùng xảy ra nhiều trên
thú lớn tuổi. Gia tăng tỷ lệ huyết thanh dương tính chỉ phản ánh rằng có thêm thú mới
nhiễm bệnh trong đàn đã mắc bệnh.
Tỷ lệ mới mắc bệnh của mỗi nhóm tuổi có thể được ước tính sơ khởi bằng cách trừ tỷ
lệ huyết thanh dương tính của nhóm tuổi này với nhóm tuổi ngay trước đó. Có một
37
mối liên quan tương đối giữa các đại lượng này thông qua công thức sau
P = IR × D
Trong đó D là thời gian kéo dài trung bình của một bệnh
Từ công thức này, có thể tính tỷ lệ mới mắc bệnh. Ví dụ, đàn bò sữa có tỷ lệ viêm vú
là 4.5% bằng phương pháp California Mastitis Test (CMT).
Nếu khoảng thời gian bệnh là 3 tháng (0,25 năm), tỷ lệ mới mắc bệnh viêm vú hằng
năm sẽ là 4,5%/0,25 hoặc 18% mỗi năm. Nói cách khác, 18% số bò trong đàn sẽ mắc
bệnh viêm vú trong một năm, nhưng chỉ 4,5% bò được phát hiện bệnh (tỷ lệ bệnh) ở
bất kỳ thời điểm. Sự chính xác của cách ước tính này cho tỷ lệ mới mắc bệnh tùy thuộc
phần lớn vào độ chính xác trong ước tính thời gian bệnh.
Tài liệu tham khảo
1. B. Toma (1997). Épidémiologie Appliquée à la lutte collective contre les
maladies animales transmissible majeures. Maison-Alfort, France.
2. Đinh Thanh Huề (2005). Phương pháp Dịch tễ học. NXB Y Học. Hà Nội
3. Kiz Fathman (2003). Veterinary Epidemiology. Elsevier Science (USA).
4. Nguyễn Như Thanh, Lê Thanh Hòa và Trương Quang (2011). Giáo trình
phương pháp nghiên cứu Dịch tễ học thú y. NXB Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ
5. Stephen C. Newman (2001). Biostatistical methods in epidemiology. John
Wiley & Sons, Inc. USA.
6. Trần Thị Dân và Lê Thanh Hiền (2007). Giáo trình Dịch tễ học Thú y. NXB
Nông nghiệp
Câu hỏi
1. Trình bài tỷ số, tỷ lệ và tỷ suất
2. Tỷ lệ bệnh (prevalence) và tỷ lệ mắc bệnh (incidence) là gì ? ví dụ cụ thể để
phân biệt tỷ lệ bệnh và tỷ lệ mắc bệnh ?
38
CHƯƠNG 4
DỊCH TỄ HỌC MÔ TẢ VÀ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU
I. TỔNG QUÁT
1.1. Dịch tễ học mô tả
Công việc mà các nhà dịch tễ cần qua tâm thực hiện bằng cách xác định những đặc
điểm của cá thể có tỷ lệ bệnh cao và những cá thể có tỷ lệ bệnh thấp trong cùng một
quần thể. Bên cạnh đó, các nhà dịch tễ cũng đặt ra những câu hỏi để giúp họ tiến hành
tìm hiểu và xác định các yếu tố liên quan đến những cá thể có tỷ lệ bệnh cao và cũng
như những cá thể có tỷ lệ bệnh thấp. Qua đó, các yếu tố (yếu tố nguy cơ) sẽ được xác
định và sử dụng cho việc xây dựng các biện pháp không chế. Quá trình này thường
hay được áp dụng đối với những bệnh mà tác nhân gây bệnh chưa được hiểu biết một
cách đầy đủ.
Dịch tễ học mô tả có thể phân biệt với dịch tễ học phân tích. Dịch tễ học mô tả liên
quan đến việc nghiên cứu xác định tần xuất của bệnh, trong khi đó dịch tễ học phân
tích tập trung vào việc phân tích các yếu tố gây nên bệnh. Dịch tễ học mô tả thường
xác định sự phân bố của bệnh thông qua các cá thể gia súc, gia cầm, thời gian và địa
điểm mắc bệnh, cũng như tần suất của bệnh như thế nào ? Khi diễn giải kết quả, dịch
tễ học mô tả có thể đưa ra những giả thuyết: như thế nào ? tại sao ? để từ đó tiến hành
điều tra cụ thể thông qua các phương pháp dịch tễ học phân tích. Những nghiên cứu
thường được thiết lập để kiểm tra và đánh giá những giả thuyết nêu lên từ dịch tễ học
mô tả. Loại hình bệnh đề cập đến sự xuất hiện những sự kiện có liên quan đến sức
khỏe với các yếu tố về cá thể, không gian và thời gian vì vậy cần thảo luận một số câu
hỏi liên quan như loài gia súc, gia cầm nào mắc bệnh? khi nào? và ở đâu?
1.2. Các đặc điểm cá thể
Các đặc điểm cá thể bao gồm cả các yếu tố về tuổi, giới tính, loài, giống, mầu sắc lông
da,.... Đặc biệt, tuổi và loài thường có mối liên quan mật thiết đến bệnh. Ví dụ, một số
bệnh thường xuyên xảy ra ở gia súc, gia cầm ở một độ tuổi nhất định (Bệnh Gumboro
của gà, bệnh E.coli của heo cai sữa). Các yếu tố cá thể có thể phân tích dựa trên các
nhóm dữ liệu theo những đặc điểm cả thể và so sánh tần suất bệnh giữa các nhóm đặc
điểm này (nhóm tuổi, nhóm loài).
1.3. Các đặc điểm về thời gian
Dịch bệnh có thể diễn biến lên xuống trong khoảng thời gian ngắn (dịch tăng mạnh),
hoặc dịch bệnh xảy ra rải rác trong thời gian dài, ví dụ do ảnh hưởng thời tiết (mùa).
Trong giai đoạn dịch tăng mạnh, các ca bệnh thường tập trung thành chùm/nhóm,
trong khi đó ở giai đoạn dịch ổn định (dịch địa phương), các ca bệnh thường xảy ra rải
rác. Diễn biến dịch bệnh theo thời gian có thể thể hiện bằng biểu đồ hay bản đồ để mô
phỏng một cách hiệu quả hơn trong quá trình phân tích. Ví dụ, đối với đường cong
39
dịch tễ, chúng ta có thể thể hiện số ca mới nhiễm bệnh tại trục tung (trục Y) và thời
gian xuất hiện các ca bệnh ở trục hoành (trục X).
Sơ đồ 4.1 Đường cong dịch tễ các đợt dịch cúm gia cầm tại Việt Nam, giai đoạn
2003-2007 (Trích dẫn Phạm Thành Long, 2010)
1.4. Các đặc điểm về không gian
Các đặc điểm về không gian bao gồm các yếu tố liên quan đến địa lý, sự khác nhau
giữa thành thị và nông thôn, giữa đường đi và chợ tập trung. Các loại hình dịch bệnh
theo không gian thường liên quan đến các yếu tố về môi trường: đặc điểm địa lý (rừng
núi, sông ngòi), thời tiết (nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa) và quản lý gia súc, gia cầm. Các
bản đồ dịch tễ rất có ý nghĩa trong việc đánh giá loại hình dịch bệnh theo không gian.
Hệ thống thông tin địa lý và việc truy cập dễ dàng các dữ liệu không gian (hình ảnh
qua vệ tinh, Google Earth,...) đã và đang giúp chúng ta phân tích các đặc điểm dịch
bệnh theo không gian một cách dễ dàng và rất có hiệu quả. Những công nghệ này ngày
càng được ứng dụng nhiều trong dịch tễ học.
1.5. Nhóm/chùm
Với các bệnh truyền nhiễm, các tác nhân gây bệnh và những ca phơi nhiễm với mầm
bệnh không phải lúc nào cũng phân bố một cách ngẫu nhiên mà nó liên quan đến các
đặc tính về cá thể, thời gian và không gian và thường xảy ra ở nhóm/chùm gia súc, gia
40
cầm. Một chùm bệnh thường được đề cập đến những ca bệnh tập trung theo địa điểm
và thời gian mà sự tập trung này là lớn hơn sự mong đợi của chúng ta. Trong dịch tễ
học mô tả, các loại hình như vậy có thể so sánh với những loại hình thông thường.
Trong trường hợp các ca bệnh tập trung cùng nhau:
Theo không gian = chùm ca bệnh không gian
Theo thời gian = chùm ca bệnh thời gian
Theo ca không gian và thời gian = chùm ca bệnh không gian-thời gian.
II. CHUẨN BỊ DỮ LIỆU ĐỂ PHÂN TÍCH
Trước khi tiến hành phân tích bất kỳ dữ liệu gì, việc làm đầu tiên đó là chuyển đổi
thông tin thu thập được sang dạng dữ liệu để phân tích nhằm có được những thông tin
dịch tễ theo đúng mục đích. Công việc nay còn được gọi là sắp xếp và kiểm tra dữ liệu
cũng như để xác định những thiếu sót trong việc mã hóa dữ liệu (chính là làm sạch dữ
liệu). Việc chuẩn bị dữ liệu không đúng mức có thể dẫn đến những vấn đề phải đối
diện trong quá trình phân tích và diễn giải kết quả. Việc chuẩn bị dữ liệu bao gồm 8
bước sau:
Sàng lọc trước khi nhập dữ liệu và điều chỉnh những sai sót trong quá trình ghi chép
Rà soát các biểu mẫu ghi chép và chuẩn bị kế hoạch mã hóa dữ liệu
Xây dựng cơ sở dữ liệu dựa vào máy tính
Chuẩn bị quy trình nhập dữ liệu
Kiểm tra sai sót và tính rõ ràng của dữ liệu
Làm sạch dữ liệu
Cần phải lưu ý để xử lý đối với những dữ liệu bị thất lạc hoặc không đầy đủ
Lưu trữ dữ liệu và cơ sở dữ liệu
III. PHÂN TÍCH MÔ TẢ
Khi dữ liệu đã được sắp xếp và các kết quả hợp lý đã được trình bày, yêu cầu của dịch
tễ liên quan đến việc phân tích và diễn giải các kết quả đó để giải thích về bệnh có
những đặc trưng gì ?
3.1. Mô tả bảng dữ liệu
Trước khi tiến hành phân tích, dữ liệu nên được mô tả để những người xem kết quả có
thể hiểu rõ từ khâu thu thập dữ liệu, quản lý và phân tích, các điểm sau đây cần phải
được nêu ra khi mô tả dữ liệu:
Định nghĩa ca bệnh (đối với dữ liệu của bệnh đang phân tích)
Khung thời gian được tổng hợp trong dữ liệu
Dữ liệu được thu thập từ đâu
41
Nguồn dữ liệu: Dữ liệu được thu thập như thế nào
Đơn vị phân tích dữ liệu
Số lượng quan sát trong bản dữ liệu gốc
Số lượng quan sát phải loại bỏ (do bất kỳ lý do gì) và lý do loại bỏ thế nào
Mô tả các biến đã được sử dụng để phân tích
Các công cụ máy tính cần thiết cho việc lưu trữ và quản lý dữ liệu
Sau khi quyết định cách phân tích dữ liệu, việc phân tích dữ liệu mô tả nên có thêm:
Các tiêu chí phân tầng (dữ liệu)
Các phương pháp phân tích dữ liệu được áp dụng
3.2. Tạo bảng thống kê tóm tắt
Bước tiếp theo là tạo bảng thống kê tóm tắt cho mỗi biến quan tâm. Bảng tóng tắt giúp
cho người xem nắm được cũng như làm quen với số liệu để tiết kiệm thời gian cho
quá trình phân tích dữ liệu cũng như để hỗ trợ diễn giải kết quả.
3.2.1. Đối với các biến liên tục
Số quan sát có giá trị và số quan sát bị thất lạc.
Đánh giá mức độ tập trung (giá trị trung bình của các biến được phân bố chuẩn và
số trung vị cho những biến phân bố không chuẩn).
Đánh giá mức độ biến động (độ lệch chuẩn đối với những biến có phân bố
chuẩn thông thường hoặc phạm vi các biến có phân bố chuẩn thông thường
và/hoặc các biến có phân bố lệch).
3.2.2. Các biến phân loại
Số lượng các biến có giá trị và thất lạc
Điếm số hoặc tỷ lệ quan sát cho mỗi loại
3.2.3. Các biến rời rạc
Số lượng các biến có giá trị và thất lạc
Số lượng các biến có giá trị và thất lạc đáp ứng lại là “yes = có” và “no = không”
Bảng 4.1. Thống kê tóm tắt của dữ liệu có sự phân bố không đồng đều.
Biến Số quan sát có
giá trị
Số trung bình Phạm vi giao
động (min; max)
Số quan sát bỏ
sót
X1 40 30.2 25.3 (17.5- 30.0) 6
X2 44 2.4 0.4 (2.1 - 2.5) 2
42
3.3. Xác định đặc điểm của các ca bệnh
Dựa vào các đặc điểm của cá thể, đặc điểm về không gian và thời gian
3.3.1. Các đặc điểm cá thể: Những cá thể nào mắc bệnh, những cá thể nào không mắc
bệnh, sự khác biệt giữa các cá thể này như thế nào ?
3.1.1.a. Phân tầng (nhóm)
Các đặc điểm cá thể được mô tả bằng các so sánh tình hình bị bệnh (ví dụ: dựa vào tỷ
lệ lưu hành, số mắc mới) giữa các nhóm cá thể mà chúng ta quan tâm. Các biến định
lượng thường được chia theo nhóm một cách tự nhiên khi phân loại. Nếu có quá
nhiều biến định lượng, chúng ta cần phải chia thành các nhóm gồm những biến có
liên quan đến nhau.
3.1.2.b. So sánh tần suất của bệnh
Sau khi phân tầng, chúng ta có thể đếm số cá thể bị bệnh của mỗi nhóm sau đó so sánh
tần suất của bệnh của từng nhóm. Để đánh giá sự khác nhau giữa các nhóm, chúng ta
cần phải tính toán với khoảng tin cậy là 95% cho so sánh đó.
3.1.3.c. Đánh giá mối liên hệ
Trong dịch tễ học, việc phơi nhiễm và kết quả có thể được xác định bằng các đặc đính
dựa trên các biến nhị phân (ví dụ có bệnh hay khỏe). Mối liên hệ giữa phơi nhiễm và
bệnh có thể được tính toán dựa vào bảng 4.2 dưới đây. Tình trạng có bệnh hay không
có bệnh được thể hiện ở hàng trên cùng, trong khi đó có phơi nhiễm hay không phơi
nhiễm thể hiện ở cột bên trái. Các chữ cái a, b, c và d được sử dụng thay cho số cá thể
mà chúng ta quan tâm. Dựa vào bảng 4.2, chúng ta sẽ đánh giá được mối quan hệ
thống kê giữa phơi nhiễm và có bệnh.
Bảng 4.2. Bảng 2 x 2 mối quan hệ giữa phơi nhiễm và bệnh
Có bệnh Không có bệnh Tổng số
Phơi nhiễm a b a + b
Không phơi nhiễm c d c + d
Tổng số a + c b + d a + b + c + d
Nguy cơ ở nhóm phơi nhiễm = RE = a/(a+b)
Nguy cơ ở nhóm không phơi nhiễm = R0 = c/(c+d)
Nguy cơ tổng số = RT = a + c/ a + b + c + d
Đánh giá mối quan hê
Tỷ suất (hệ số) nguy cơ (RR)
43
Tỷ suất nguy cơ (Risk Ratio = RR): là số nguy cơ bị phơi nhiễm chia cho số nguy cơ
không bị phơi nhiễm
Tỷ suất nguy cơ giá trị từ 0 đến vô cùng.
RR = 1: Nguy cơ bị bệnh của nhóm phơi nhiễm và không phơi nhiễm là giống nhau
RR > 1: Càng tăng nguy cơ phơi nhiễm thì giá trị RR càng lớn, và nguy cơ bị bệnh
càng cao.
RR < 1: Nguy cơ bị bệnh giảm
Diễn giải: Tỷ suất nguy cơ (RR) cung cấp một cách ước lượng số lần cá thể bị phơi
nhiễm có khả năng bị bệnh so với số cá thể không bị phơi nhiễm.
Tỷ suất (hệ số) chênh (OR)
Tỷ suất chênh (odds ratio = OR): là số có bệnh của nhóm phơi nhiễm. Tỷ suất chênh
là phép tính xấp xỉ của tỷ suất rủi ro nếu số cá thể có nguy cơ không được biết. Khi đó
số ca bệnh khá nhỏ so với số không có bệnh (trong trường hợp bệnh hiếm khi xảy ra),
khi đó tỷ suất chênh cũng giống như tỷ suất nguy cơ.
Trong nghiên cứu bệnh - chứng, chúng ta sử dụng tỷ suất chênh, nhưng không sử
dụng tỷ suất nguy cơ.
Vì vậy, nếu
OR = 1: Không có ảnh hưởng, khác nhau giữa hai nhóm
OR > 1: Nguy cơ tăng khả năng gây bệnh
OR < 1: Nguy cơ giảm (khi đối tượng nghiên cứu được bảo vệ)
3.3.2. Đặc điểm về thời gian: Bệnh thay đổi theo thời gian như thế nào và những yếu
tố nào liên quan đến sự thay đổi đó?
Xác định các trường hợp đặc biệt hoặc các tình huống chắc chắn có liên quan đến
những đặc điểm thay đổi theo thời gian có thể giúp chúng ta đưa ra những giả thuyết.
Việc thể hiện các dữ liệu trên biểu đồ sẽ giúp chúng ta dự đoán về độ lớn, chiều
hướng đã và đang diễn ra cũng như trong tương lai như thế nào, tác động của các sự
44
kiện đó ra sao. Tùy thuộc vào tình hình, giai đoạn theo dõi (có thể là hàng năm, hàng
tháng, hàng tuần, hàng ngày và thậm chí cả hàng giờ).
Đường cong dịch tễ
Xây dựng đường cong dịch tễ là phương pháp phổ biến được sử dụng để mô tả diễn
biến dịch bệnh theo thời gian.
Một đường cong dịch tễ thường có những đặc điểm sau: Hình dạng biểu đồ (biểu đồ
hình cột và không có khoảng trống giữa các cột); Trục X thường diễn đạt ngày xuất
hiện ca bệnh đầu tiên; Trục Y là số ca bệnh; Ghi chú để thể hiện số ca bệnh, số ổ dịch
mà chúng ta muốn đánh giá.
Đường cong dịch tễ của một đợt dịch có thể cho chúng ta biết những thông tin về: thời
điểm xuất phát của đợt dịch và chiều hướng tiến triển của đợt dịch trong tương lai;
Thời điểm phơi nhiễm; Dịch đã lây lan trong quần thể như thế nào; Diễn biến dịch
theo thời gian giữa các vùng.
Các loại đường cong dịch tễ có thể mô tả được mức độ lan truyền của dịch bệnh từ
điểm xuất phát.
Sơ đồ 4.2. Sơ đồ các loại hình của đường cong dịch tễ (http://www. cdc. gov/cosh/dsvhcd/mữdules/MiniModules/Evidemíc Curve/)
45
Ghi chú: nguồn điểm (phải trên ở bên trái), nguồn thông liên tục (phía trên ở bên
phải), nguồn bùng nổ phát triển (phía dưới ở bên trái và phía dưới ở bên phải).
Lưu ý rằng: thời gian ủ bệnh của bệnh viêm dạ dày truyền nhiễm là khoảng vài giờ, bệnh tiêu chảy
khoảng 1-3 ngày, bệnh sởi từ 7-18 ngày và bệnh đậu mùa từ 7-14 ngày.
Một đợt dịch có nguồn gốc điểm thường phát triển từ việc phơi nhiễm với một tác
nhân duy nhất trong một giai đoạn ủ bệnh. Các đường dịch tễ của các ổ dịch có nguồn
gốc điểm thường có độ dốc ban đầu với một điểm cực đại, sau đó nhanh chóng giảm
xuống về phía đuôi. Đôi khi, các ca bệnh có thể xuất hiện ở đợt dịch thứ 2. Đây được
gọi là nguồn gốc điểm với quá trình truyền lây thứ cấp.
Một ổ dịch có nguồn gốc phổ biến liên tục xảy ra nếu phơi nhiễm trong một thời gian
dài và có thể kéo dài hơn cả giai đoạn ủ bệnh. Đường cong dịch tễ có dạng tăng lên
đột biến với một nguồn điểm, nhưng không có điểm cực đại mà chỉ ở dạng không ổn
định (lúc tăng, lúc giảm). Dốc đi xuống của đường cong có thể là rất thẳng nếu nguồn
gốc gây bệnh được loại bỏ hoặc giảm dần do những nguyên nhân khác nhau của ổ dịch
làm giảm mức độ phát triển.
Một dịch có nguồn gốc phát triển xảy ra nếu mầm bệnh được lan truyền trong toàn bộ
quần thể, từ động vật này sang động vật khác (điển hình là các bệnh truyền nhiễm).
Đường cong thường bắt đầu với một số ca bệnh, sau đó tăng dần giống như một đường
thẳng đứng. Sau khi lên đến đỉnh điểm của ổ dịch, do không còn số cá thể mẫn cảm
nên đường cong lại đi xuống một cách nhanh chóng. Đường cong lên càng cao thì số
cá thể mẫn cảm bị phơi nhiễm với mầm bệnh càng cao. Đôi khi, đường cong cũng tăng
lên đột ngột do việc báo cáo dịch bệnh, lúc ban đầu do không quan sát được các triệu
chứng lâm sàng hoặc không biết có mầm bệnh tấn công nên việc báo cáo có thể còn
chậm, sau khi đã xác định được mầm bệnh, số lượng báo cáo có thể tăng lên một cách
nhanh chóng. Ví dụ: các ổ dịch cúm gia cầm, LMLM, PRRS,...
3.2.3. Đặc điểm về không gian (địa điểm): Dịch bệnh xảy ra ở nơi nào là chủ yếu và
nơi nào ít khi xảy ra, sự khác nhau giữa các địa điểm ra sao và tại sao ?
3.4. Tính tần suất bệnh
3.4.1. Tỷ lệ lưu hành (Prevalance) và số mới mắc bệnh (Incidence)
Những ca bệnh lưu hành phản ánh tình trạng của cá thể về sức khỏe/nguy cơ, không
nghiễm/nhiễm bệnh tại một thời điểm. Các ca bệnh lưu hành được xác định bằng cách
đánh giá các cá thể tại một thời điểm nào đó. Khi một quần thể có lưu hành bệnh cao
hơn một quần thể khác thì cá thể thuộc quần thể có lưu hành bệnh cao có nguy cơ bị
bệnh cao hơn những cá thể khác vào tại thời điểm đó.
Ví dụ, trong tổng số 216 con heo được kiểm tra, 25 con dương tính với virus PRRS. Vì
vậy, nguy cơ lưu hành bệnh PRRS = 25/216 = 11,6%.
Những ca bệnh mới mắc là số ca bệnh được xác định mới mắc của một quần thể cảm
nhiễm trong một thời gian nhất định. Nguy cơ mới mắc là xác suất mắc bệnh trong
một khoảng thời gian xác định. Khi một quần thể có mức độ mới mắc bệnh cao hơn so
46
với quần thể khác thì chúng ta cho rằng quẩn thể đó có nguy cơ mắc bệnh cao hơn so
với quần thể khác.
Tỷ lệ mới mắc đề cập đến những cá thể mới nhập vào hoặc rời khỏi quần thể trong
suốt thời gian nghiên cứu (đối với những quần thể mở). Cụ thể hơn, tỷ lệ này là số ca
bệnh mới mắc trong tổng số cá thể mẫn cảm theo đơn vị thời gian trong suốt giai đoạn
nghiên cứu đã được xác định.
Lưu hành có thể xác định được dựa vào số ca bệnh tại một thời điểm xác định. Khi có
sự thay đổi trong lưu hành bệnh có thể phản ánh những thay đổi trong tình hình mới
mắc bệnh (tỷ lệ số ca bệnh mới mắc) và/hoặc trong thời gian có bệnh (tỷ lệ số chết và
số bình phục). Mối quan hệ giữa lưu hành bệnh và mới mắc bệnh là khác nhau ở các
bệnh khác nhau. Ví dụ, bệnh đái đường có tỷ lệ mới mắc bệnh thấp nhưng lại có mức
độ lưu hành bệnh cao (và cả kéo dài), trong khi đó cảm cúm thông thường lại có tỷ lệ
mới mắc bệnh cao, nhưng mức độ lưu hành thấp (diễn ra trong thời gian ngắn hơn).
Khống chế dịch bệnh là những hoạt động diễn ra liên tục hoặc các chương trình cụ thể
nhằm giảm thiểu số mắc bệnh mới và/hoặc tỷ lệ lưu hành bệnh. Nếu các biện pháp
khống chế bệnh có hiệu quả thì sẽ làm giảm mức độ xảy ra bệnh. Cụ thể bệnh giảm
xuống mức thấp hơn, sau đó các biện pháp thanh toán bệnh mới được xem xét và có
tính khả thi.
Bảng 4.3. So sánh nguy cơ lưu hành, nguy cơ mắc mới và tỷ lệ mới mắc bệnh
47
3.4.2. Tỷ lệ tấn công
Nếu giai đoạn nguy cơ mà ngắn, tỷ lệ tấn công được sử dụng thay cho tỷ lệ mới mắc
để mô tả tỷ lệ gia súc, gia cầm bị bệnh. Tỷ lệ tấn công thường được thể hiện ở đơn
vị phần trăm (%) cho một đơn vị thời gian cụ thể. Tỷ lệ tấn công là đơn vị đo lường
xác suất hoặc nguy cơ gia súc, gia cầm mắc bệnh.
Tỷ lệ tấn công có công thức như sau:
Số mới mắc bệnh của quần thể ở thời gian cụ thể nào đó
Tỷ lệ tấn công = x 100
Tổng số cá thể có nguy cơ của quần thể tại thời điểm đầu dịch bệnh
Tỷ lệ tấn công kế phát là tỷ lệ các ca bệnh của một bệnh truyền nhiễm mới được
phát hiện do tiếp xúc với các ca bệnh đầu tiên. Tỷ lệ tấn công kế phát là đơn vị đo
lường hữu ích để đánh giá mức độ truyền nhiễm.
Công thức như sau:
Số cá thể bị bệnh do phơi nhiễm /tiếp xúc với ca bệnh
đầu tiên trong khoảng thời gian ủ bệnh của bệnh đó
Tỷ lệ tấn công = x 100
kế phát Tổng số cá thể bị phơi nhiễm trước ca bệnh đầu tiên
Nếu các ca bệnh được phát hiện vào lúc nằm ở ngoài khoảng thời gian ủ bệnh của
bệnh đó, chúng thường là hậu quả do tiếp xúc với các ca bệnh tiếp theo, vì vậy
những ca bệnh này được gọi là các ca bệnh thứ ba trở đi. Tỷ lệ tấn công kế phát
được áp dụng đối với một nhóm gia súc, gia cầm nhất định nào đó. Ví dụ như số gia
súc, gia cầm này được nhốt ở cùng một chuồng, trang trại hay một hộ chăn nuôi.
Cụ thể, giả sử có 70 con bò được đưa đến chợ, trong đó có 10 con bị nhiễm bệnh
LMLM nhưng không được thông báo và cũng không được bán. Sau đó, số bò này
(10 con đã nhiễm trùng) được vận chuyển về một trang trại có tổng đàn bò là 200
con, sau đó phát hiện thấy có 40 con bị nhiễm bệnh, khi đó ta có:
X = số ca bệnh LMLM đầu tiên trong số bò ở chợ là 10 con
Y = số bò bị nguy cơ tại chợ là 70-10 = 60con.
Vì vậy, tỷ lệ tấn công (tiên phát) là 10/70 = 14,3%.
Tỷ lệ tấn công thứ phát:
x = số ca bệnh LMLM tiếp theo trong số bò ở trại là 40 con
y = số bò bị nguy cơ tại trại = 200 - 10 con = 190 con
Khi đó tỷ lệ tấn công thứ phát = x/y*100 = 40/190*100 = 21.1%.
48
Tài liệu tham khảo
1. Đinh Thanh Huề (2005). Phương pháp Dịch tễ học. NXB Y Học. Hà Nội
2. Đỗ Trung Giã (2009). Bài giảng Dịch tễ Thú Y. Khoa Nông nghiệp & SHƯD - Đại
học Cần Thơ.
3. Nguyễn Như Thanh, Lê Thanh Hòa và Trương Quang (2011). Giáo trình phương
pháp nghiên cứu Dịch tễ học thú y. NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ
4. Nguyễn Văn Long, Chu Đức Huy, Nguyễn Ngọc Tiến , Phạm Thành Long , Phan
Quang Minh (2011). Tài liệu hướng dẫn Báo cáo dịch bệnh theo biểu mẫu, xây
dựng bản đồ dịch tễ và phân tích số liệu. Cục Thú y – Phòng Dịch tễ
5. Phạm Thành Long (2010). Chương trình đào tạo Dịch tễ học ứng dụng. AVET Hà
Nội
6. Stephen C. Newman (2001). Biostatistical methods in epidemiology. John Wiley &
Sons, Inc. USA.
7. Trương Hà Thái (2011). Bài giảng Dịch tễ học Thú y. Đaị học Nông nghiệp Hà Nội
Câu hỏi
1. Trình bày dịch tễ học mô tả ?
2. Trong bảng 2x2, trình bày cách tính yếu tố nguy cơ (RR) và tỷ số chênh (OR) bằng
cách một ví dụ cụ thể để minh họa ?
3. Cho ví dụ cụ thể để trình bày cách tính tỷ lệ tấn công và tỷ lệ tấn công kế phát của
một bệnh truyền nhiễm ở động vật ?
49
CHƯƠNG 5
GIÁM SÁT DỊCH TỄ
I. ĐỊNH NGHĨA
Dịch tễ học được định nghĩa là một khoa học nghiên cứu sự phân bố các bệnh tật cùng
với những yếu tố căn nguyên quy định sự phân bố đó, nhằm đề xuất ra được những
biện pháp hữu hiệu để can thiệp, thì giám sát dịch tễ học là một nội dung hoạt động
thường xuyên bám sát mục tiêu của dịch tễ học.
Định nghĩa chung nhất “Giám sát dịch tễ là một quá trình theo dõi, khảo sát tỉ mỉ, liên
tục để đánh giá được bản chất của bệnh tật cùng với những nguyên nhân xuất hiện,
lưu hành và lan tràn của bệnh đó, nhằm tìm ra được những biện pháp khống chế, ngăn
chặn có hiệu quả đối với bệnh đó”.
Hay nói cách khác, giám sát là công việc thu thập các thông tin dịch tễ để đề ra
phương án hành động, nhằm tìm ra được những biện pháp khống chế, ngăn chặn có
hiệu quả đối với bệnh đó, với nội dung cụ thể là:
Tìm ra các biện pháp ngăn chặn hoặc làm đình chỉ sự lan tràn dịch bệnh.
Mỗi trường hợp mắc bệnh, phải được xác định bằng chẩn đoán, mô tả quá trình tiến
triển của bệnh, các đặc điểm triệu chứng, các thông tin về đặc tính cá thể của thú.
Dựa vào hệ thống giám sát sẽ phân tích các quy luật theo mùa, xu hướng theo năm.
Các địa điểm tăng giảm bệnh, các nhóm quần thể có nguy cơ như tuổi, giới, giống,
phương thức chăn nuôi....
Hệ thống giám sát gồm có 3 loại hệ thống giám sát:
Giám sát chủ động: tiến hành thu thập dữ kiện về bệnh quy ước khai báo định kỳ, cả
khi không có dịch.
Giám sát điểm: dựa vào báo cáo các trường hợp bệnh xảy ra, làm cơ sở khoa học cho
việc cải thiện chất lượng phòng và điều trị.
Giám sát thụ động: nằm giữa 2 loại giám sát chủ động và giám sát điểm: được tiến
hành với các dữ kiện ngoài kế hoạch quy ước, có thể do nhân viên giám sát hoặc địa
phương xảy ra dịch khởi xướng.
II. MỤC TIÊU VÀ CHỨC NĂNG GIÁM SÁT DỊCH TỄ
2.1. Mục tiêu
Có 2 mục tiêu chính
50
2.1.1. Xác định quy mô của bệnh
Theo dõi liên tục thường xuyên về bệnh với các tỷ lệ cần thiết và những yếu tố môi
trường xung quanh với những diễn biến tương ứng của chúng là nhằm xác định được
quy mô lan tràn của bệnh đang khảo sát dưới 3 góc nhìn của dịch tễ học.
Ký chủ: con vật nào? quần thể? tuổi ? giới tính ? phương thức chăn nuôi ?
Không gian: bệnh xảy ra ở đâu, theo thời gian như thế nào ?
Thời gian: bệnh xảy ra bao giờ, trước đây bệnh có xảy ra hay không, với con vật và
không gian tương ứng ?
2.1.2. Đánh giá hiệu quả của các biện pháp can thiệp tại khu vực giám sát
Theo dõi tỷ lệ tăng giảm của bệnh song song với các biện pháp đã áp dụng nhằm đánh
giá hiệu quả của các biện pháp can thiệp đó. Nếu các biện pháp can thiệp có hiệu quả
thì tỷ lệ mắc bệnh sẽ giảm và ngược lại. Chú ý đến thời gian tác dụng của các
biện pháp.
2.2. Chức năng
Giám sát có 4 chức năng chủ yếu sau
- Thu thập một cách có hệ thống các dữ kiện dịch tễ học đối với quần thể theo khu vực
hành chính.
-Tập hợp, diễn giải: xếp đặt, trình bày các dữ kiện thu thập được thành các bảng phân
phối, biểu đồ, bản đồ có ý nghĩa.
- Xử lý, phân tích theo phương pháp thống kê: nhằm trả lời được hàng loạt các câu hỏi
đã được đặt ra theo góc nhìn của dịch tễ học và xem xét với các giả thuyết đã đưa ra
trước đó.
- Thông báo kết quả: sau khi đã thu thập, diễn giải, phân tích xử lý nhận định các kết
quả đó cần viết báo cáo gửi đến cơ quan và nơi có trách nhiệm.
Ta có thể mô hình hóa quy trình giám sát dịch tễ như một chu kỳ gồm 4 công đoạn
sau: (1) Lập kế hoạch giám sát; (2) Thu thập biên soạn; (3) Phân tích diễn giải; (4)
Giải pháp hành động.
Theo Tổ chức y tế thế giới, chức năng của giám sát dịch tễ học là:
- Ghi chép và báo cáo tỷ lệ chết
- Ghi chép và báo cáo tỷ lệ bệnh tật
- Điều tra các trường hợp bệnh
- Điều tra dịch
- Báo cáo dịch
- Xét nghiệm
51
- Nghiên cứu
- Số liệu về số lượng của quần thể
- Số liệu về môi trường bao gồm cả các vector
- Phân phối thuốc, vaccine phòng chống bệnh
Qua đó có thể thấy được những ứng dụng chính của công tác giám sát như sau:
- Để xác định những vụ dịch và để đảm bảo rằng những hành động can thiệp có hiệu
quả để kiểm soát bệnh đã được tiến hành.
- Để theo sát việc tiến hành và hiệu quả của một chương trình kiểm soát dịch bệnh
bằng cách so sánh sự lan tràn của bệnh trước và sau khi tiến hành chương trình kiểm
soát.
- Để hỗ trợ trong việc lập kế hoạch cho những chương trình sức khỏe cho đàn gia súc
bằng cách chỉ ra những vấn đề bệnh tật và dịch bệnh nào là quan trọng và những can
thiệp đặc biệt, có giá trị. Điều này cũng giúp cho lựa chọn vấn đề ưu tiên.
- Để xác định nhóm nguy cơ cao, những khu vực địa lý có những bệnh tật chung, và
các thay đổi theo thời gian như theo mùa, hàng năm, hàng chục năm, điều này cũng
giúp cho việc lập kế hoạch cho các chương trình.
- Để làm tăng những hiểu biết về các vector trung gian truyền bệnh.
III. NGUỒN GỐC DỮ LIỆU PHỤC VỤ GIÁM SÁT DỊCH TỄ
3.1. Tỷ lệ chết
Thường được ghi chép chính xác tuy nhiên về nguyên nhân thường ít chính xác. Nếu
được chẩn đoán rõ thì ghi chép rất chính xác, nhưng với các bệnh khó chẩn đoán nhất
là những trường hợp chết đột ngột, việc ghi chép thường là những triệu chứng sau
cùng ít thông tin cho công tác giám sát.
Với các bệnh thông thường không gây chết, nhưng các dữ kiện về tỷ lệ chết có thể là
một chỉ số đáng được đánh giá về sự phát sinh của bệnh. Tuy nhiên, khi có hiện tượng
chết trội hơn mức lý thuyết có thể đánh giá là một chỉ số nhạy của bệnh đó.
3.2. Tỷ lệ mắc bệnh
Báo cáo mắc bệnh đã được thực hiện ở nhiều nước và ở nước ta cũng đã áp dụng các
quy định báo cáo bệnh.
- Ưu điểm: các báo cáo đa phần chính xác do các bác sĩ Thú y chẩn đoán, có xét
nghiệm và có các tổ chức thu thập tập hợp báo cáo.
- Nhược điểm: một số bệnh không có trong danh mục báo cáo, tỷ lệ thấp hơn so với
thực tế của quần thể; báo cáo không kịp thời nên làm tăng thời gian lưu hành của bệnh.
52
3.3. Báo cáo dịch
Ngày càng được chính xác nhờ hoạt động của các Trung Tâm Thú Y vùng với các
phòng xét nghiệm. Tuy nhiên với những bệnh khó cần thiết phải có các chuyên gia
hoặc các kỹ thuật cao cấp thì lại là điểm hạn chế ở các trung tâm này.
3.4. Chẩn đoán xét nghiệm
Bao giờ cũng là đòi hỏi của chẩn đoán chính xác một thú bệnh và một bệnh trong quần
thể. Tốt nhất là phân lập được tác nhân gây bệnh, trong nhiều trường hợp có thể sử
dụng các kết quả huyết thanh.
3.5. Điều tra các trường hợp bệnh
Chú ý các bệnh nguy hiểm, nhất là những nơi chưa có bệnh đó bao giờ. Cần chú ý đến
các giống mới nhập vào trong nước hoặc ở những nơi có dịch nhập cư vào nước ta.
Hoặc những người từ vùng đang có dịch di chuyển qua những vùng khác.
3.6. Điều tra dịch tại thực địa
Khi có sự gia tăng tỷ lệ mới mắc, chết cần thiết phải lập đội điều tra. Thông thường đội
điều tra bao gồm nhà dịch tễ học, các chuyên gia về xét nghiệm, ...Trong trường hợp
này, nên dùng các kỹ thuật chẩn đoán nhanh như Elisa, test da,... để có thể xác định
được tác nhân gây bệnh và có kết quả ngay.
3.7. Điều tra thường xuyên
Để có thể xác định được những trường hợp bất thường hoặc dịch xảy ra trong quần
thể. Có nghĩa là có thể phát hiện sớm những trường hợp bất thường đó.
3.8. Nghiên cứu các ổ chứa mầm bệnh
Giám sát các ổ chứa mầm bệnh, nhất là các bệnh từ súc vật truyền sang người, và các
vector trung gian truyền bệnh. Phải thu thập các dữ kiện về bệnh cũng như về các
vector đó.
3.9. Sử dụng các chế phẩm sinh vật và thuốc
Điều này không chỉ giúp ích cho vấn đề tạo miễn dịch mà nó còn có thể nói lên được
tình trạng bệnh trong quần thể nói chung hoặc những bệnh mới xuất hiện.
3.10. Các dữ kiện về quần thể và môi trường
Các dữ kiện về quần thể và môi trường cũng giúp ích rất nhiều như về:
- Con thú, tuổi, giới tính, giống dòng, phương thức chăn nuôi...để có thể lý giải xu thế
của bệnh tật.
- Môi trường: chuồng trại, quy trình vệ sinh, tập quán chăn nuôi,...
Các thông tin bổ sung:
Cơ sở thú y: số bệnh, số ngày bị bệnh,.. là những chỉ số có ích cho công tác
giám sát đặc biệt những vụ dịch.
53
Các phòng xét nghiệm cũng có ích trong những trường hợp có thể phát hiện
sớm nhưng ca bệnh sớm.
IV. NHIỆM VỤ THƯỜNG XUYÊN CỦA HỆ THỐNG GIÁM SÁT
Gồm có 10 nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Xác định mục tiêu cụ thể của mỗi cuộc giám sát, các thông tin cần có và kế hoạch
cho giám sát:
-Tập hợp các dữ kiện: sắp xếp theo các đặc trưng về con thú, không gian, thời gian,
tính các tỷ lệ, tỷ suất, trình bày kết quả bằng các bảng biểu, đồ thị, bản đồ,…
-Xử lý số liệu: theo quy luật và có ý nghĩa thống kê.
-Phân tích phiên giải theo mục tiêu: xác định quần thể có nguy cơ; xác định mức trầm
trọng của bệnh.
- Hình thành giả thuyết nhân - quả.
- Kiểm định giả thuyết.
- Đề xuất biện pháp can thiệp.
- Đánh giá hiệu quả của các biện pháp đó.
- Làm báo cáo về một giám sát.
- Đánh giá hệ thống giám sát: về dữ kiện giám sát cần chính xác, đầy đủ, thời gian,
hiệu quả thực tế của các dữ kiện giám sát, mục tiêu giám sát, những yêu cầu mới sau
khi giám sát.
V. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG GIÁM SÁT
Gồm 10 nội dung sau
5.1. Dữ kiện về dân cư, môi trường
Cơ cấu dân cư ở khu vực giám sát, tình hình kinh tế xã hội, thu nhập chủ yếu của cộng
đồng, nguồn nước, thực phẩm, những yếu tố về công nghiệp, tình trạng vệ sinh môi
trường, những thói quen tốt và không tốt.
Điều kiện địa lý, khí hậu, thời tiết cũng có ảnh hưởng đến tình hình phân bố bệnh tật,
các ổ chứa tự nhiên.
Giám sát các bệnh do động vật truyền sang người.
Các thông tin về cơ cấu tổ chức mạng lưới thú y cơ sở.
5.2. Thu thập số liệu thích hợp để giám sát bệnh
Ở nước ta hiện nay đang chỉ giới hạn về thông báo các bệnh truyền nhiễm, phát hiện
báo cáo dịch bằng hệ thống chuyên ngành Thú y cơ sở. Thông báo giám sát theo dõi
đặc biệt: như bệnh cúm gia cầm, bệnh tai xanh. Báo cáo tỷ lệ mắc, chết và khả năng
lan truyền của dịch, đồng thời đánh giá kết quả thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên.
54
5.3. Giám sát theo dõi trên thực địa
Phối hợp các chuyên khoa khác nhau để quan sát, phát hiện đầy đủ tình hình phát triển
của bệnh dịch tại địa phương hay khu vực hoặc tiên lượng trong tương lai. Kiểm tra
nguồn gốc dịch bệnh, đường lan truyền, và tình trạng cảm thụ trong quần thể động vật.
5.4. Giám sát trong phòng xét nghiệm
Phân lập, định loại, tính chất sinh thái học tác nhân gây bệnh; tìm đường lây lan. xét
nghiệm nước, thực phẩm; phát hiện sự biến đổi kháng nguyên, sự xuất hiện kháng thể
mới; nghiên cứu sự thay đổi tính chất sinh thái học của tác nhân; Sự đáp ứng với
phương pháp điều trị mới; Xác định mức độ lưu hành và lan rộng của tác nhân gây
bệnh: bằng các xét nghiệm huyết thanh, xem xét tình trạng miễn dịch tự nhiên và nhân
tạo phương pháp điều trị bằng vaccine.
5.5. Nghiên cứu Sinh thái học
Nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ thể sống với môi truờng bên ngoài.
5.6. Giám sát trong công trình nghiên cứu
Có thể sử dụng các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học để thu thập thêm
thông tin cho công tác giám sát.
5.7. Giám sát dự báo
Dựa vào các số liệu dịch tễ học, huyết thanh học có thể dự báo được dịch có khả năng
xảy ra ở đâu, khi nào để có thể có các biện pháp can thiệp kịp thời.
5.8. Giám sát phòng bệnh
Khả năng phòng ngừa sự xuất hiện của một bệnh có thể thực hiện được nếu người ta
có những số liệu dịch tễ về bệnh đó. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các trang trại
hay một vùng, một quốc gia. Nếu người ta biết được những bệnh hoặc các dữ kiện
khác có thể xuất hiện khi đưa các giống mới từ vùng khác đến hoặc những giống mới
đến có nguy có mang những bệnh gì cho quần thể hiện tại để từ đó có biện pháp dự
phòng cho cả hai phía.
5.9. Sử dụng kết quả giám sát
Để phòng và chống các bệnh nhiễm khuẩn.
5.10. Trình bày dự án khống chế và phòng bệnh
Khi có kết quả giám sát, người ta có thể đưa ra các biện pháp dự phòng và đánh giá
hiệu quả cho một dự án can thiệp nào đó.
55
Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Hữu Dũng (2010). Chương trình đào tạo Dịch tễ học ứng dụng. AVET Hà Nội
2. Đỗ Trung Giã (2009). Bài giảng Dịch tễ Thú Y. Khoa Nông nghiệp & SHƯD - Đại
học Cần Thơ.
3. Guy Bodin (1996). Cours d’Immunologie. Ecole Nationale Veterinaire de
Toulouse, France
4. Nguyễn Văn Long, Chu Đức Huy, Nguyễn Ngọc Tiến , Phạm Thành Long , Phan
Quang Minh (2011). Tài liệu hướng dẫn Báo cáo dịch bệnh theo biểu mẫu, xây
dựng bản đồ dịch tễ và phân tích số liệu. Cục Thú y – Phòng Dịch tễ
5. Trương Hà Thái (2011). Bài giảng Dịch tễ học Thú y. Đaị học Nông nghiệp Hà Nội
Câu hỏi
1. Định nghĩa giám sát dịch tễ, giới thiệu 3 loại hình giám sát dịch tễ ?
2. Nguồn gốc dữ liệu phục vụ giám sát dịch tễ là gì ?
3. Trình bày các nội dung hoạt động của hệ thống giám sát dịch tễ ?
56
CHƯƠNG 6
ĐIỀU TRA Ổ DỊCH
I. Ổ DỊCH
1.1. Định nghĩa
Ổ dịch là nơi đang có đầy đủ các khâu của vòng truyền lây, tức là có nguồn bệnh, có
các yếu tố truyền lây và động vật đang phát bệnh.
Sự có mặt của động vật bệnh chứng tỏ mầm bệnh đang được bài thải, nhiễm vào các
yếu tố của ngoại cảnh.
Pháp lệnh thú y quy định: “Ổ dịch là nơi có một hoặc nhiều động vật ốm, chết vì bệnh
truyền nhiễm”.
Theo Dương Đình Thiện (2001), “Một bệnh truyền nhiễm trở thành một vụ dịch, khi
trong một thời gian ngắn có tỷ lệ mắc hoặc chết vượt quá tỷ lệ mắc hoặc chết trung
bình trong nhiều năm liền tại khu vực không gian đó”.
Một ổ dịch ở gia súc thường lan rộng thành nhiều ổ dịch tiếp nối nhau được gọi là quá
trình sinh dịch, chủ yếu do con vật bệnh, con nghi lây và sản phẩm của gia súc bệnh,
trong đó nguy hiểm nhất là con nghi lây và sản phẩm gia súc bệnh.
Trong ổ dịch có thể có ít hay nhiều con bệnh, đây là trung tâm của ổ dịch vì nó là
nguồn bệnh và báo hiệu sự có mặt tiềm tàng của các nguồn bệnh khác. Do vậy biện
pháp trước tiên nhằm dập tắt ổ dịch là phải chú ý tới con vật bệnh.
Những con tiếp xúc với con bệnh gọi là con nghi lây, những con vật này có thể nhiễm
bệnh và đang trong thời kỳ nung bệnh hoặc mang mầm bệnh và sinh vật môi giới trên
cơ thể. Những con này cần đặc biệt chú ý vì nó có khả năng làm cho ổ dịch ngày càng
lây lan rộng và là đối tượng thứ 2 cần đối phó tại ổ dịch.
Quá trình dịch của các bệnh truyền nhiễm là sự nối tiếp nhau liên tục với sự có mặt
của các vi sinh vật gây bệnh, xảy ra trong những điều kiện tự nhiên và xã hội
nhất định.
Quá trình sinh dịch là một loạt những ổ dịch có liên quan với nhau, ổ dịch này phát
sinh từ ổ dịch khác với mối liên quan bên trong của chúng, được quyết định bởi các
điều kiện sống của xã hội. Có những quá trình dịch phát triển tương đối đơn giản, dễ
thấy, nhưng cũng có quá trình dịch phát triển phức tạp hơn, khó thấy hơn.
Chính vì vậy, nhận thức, trình độ của người chăn nuôi, người làm công tác thú y, của
toàn xã hội nói chung có thể làm cho dịch xảy ra ít hoặc nhiều, phát sinh hoặc không
phát sinh.
1.2. Các loại ổ dịch
1.2.1. Về thời gian phát sinh
Có thể chia ra ổ dịch mới và ổ dịch cũ.
57
Ổ dịch mới: là nơi nguồn bệnh đang nhân lên, đang phát triển, số gia súc bệnh và chết
tăng lên, các triệu chứng bệnh tích đều điển hình, sự lây lan đang mạnh.
Ổ dịch cũ: là nơi trước mắt không có nguồn bệnh dưới dạng con bệnh, nhưng mầm
bệnh vẫn tồn tại trong gia súc mang trùng hoặc ở ngoại cảnh vì chưa qua đủ thời gian
cần thiết để bị tiêu diệt, do đó sự đe doạ nổ ra dịch vẫn còn.
1.2.2. Về trình tự phát sinh
Có thể chia thành ổ dịch tiên phát và ổ dịch thứ phát
Ổ dịch tiên phát xảy ra trước rồi do các yếu tố truyền lây làm cho dịch bệnh lan rộng ra
các nơi khác tạo thành các ổ dịch thứ phát.
1.2.3. Về tần số xuất hiện và cường độ dịch
Loại ổ dịch lẻ tẻ hoặc dịch vùng: là khi ổ dịch thỉnh thoảng mới xảy ra trong phạm vi
hẹp và cố định trong những vùng nhất định với một số ít động vật mắc bệnh và chết.
Loại ổ dịch lan rộng: là khi dịch lan ra nhiều vùng với một số lượng lớn động vật bị
bệnh và chết.
Loại ổ dịch lớn: là khi dịch lây lan nhanh ra những vùng rộng lớn kèm theo số lượng
động vật ốm và chết rất cao, gây thiệt hại lớn về kinh tế.
1.3. Tính chất dịch
Phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên, xã hội.
1.3.1. Tính chất mùa
Nhiều dịch bệnh của gia súc có tính chất mùa rõ rệt, có bệnh chỉ lẻ tẻ quanh năm
nhưng đến một mùa nào đó lại rộ lên, có bệnh chỉ tới mùa nhất định mới phát sinh.
Ở nước ta, miền Bắc thường xảy ra dịch nặng vào vụ Hè – Thu và vụ Đông – Xuân, ở
miền Nam thường xảy ra dịch vào đầu mùa mưa và đầu mùa khô. Do vào những mùa
này cơ thể gia súc chịu ảnh hưởng của thời tiết thay đổi đột ngột, sức đề kháng giảm
sút. Trong cơ thể gia súc có những biến đổi về hằng số sinh lý theo mùa. Cũng theo
mùa mà các yếu tố truyền lây sinh vật thay đổi về loài, về số lượng, về hoạt động (tụ
huyết trùng gia cầm).
Hoạt động xã hội cũng góp phần tạo ra tính chất mùa của dịch như các lễ hội, phương
thức chăn nuôi thay đổi theo mùa, các sinh hoạt khác theo mùa, đều kết hợp với các
yếu tố tự nhiên để tạo ra tính chất mùa cho dịch bệnh của gia súc.
Nắm được tính chất mùa của dịch có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán bệnh, phòng
bệnh và nghiên cứu khoa học.
1.3.2. Tính chất vùng
Nhiều dịch bệnh gia súc xuất hiện ở những vùng nhất định do các yếu tố tự nhiên như
thời tiết, khí hậu, đất đai, quần thể thực vật ở một vùng thường có liên quan tới sự phát
triển của một loài gia súc hoặc liên quan tới sự tồn tại của một loại mầm bệnh hoặc có
58
liên quan đến sự phát triển của một loại yếu tố truyền lây sinh vật nào đó. Vì vậy một
số bệnh có khả năng phát sinh tồn tại trong những vùng hoặc một khu vực nhất định.
Các yếu tố xã hội, tập quán từng vùng-miền, các cơ sở chăn nuôi tập trung từng khu
vực… cũng góp phần tạo ra tính chất vùng của dịch bệnh.
Tuy nhiên, cùng với việc mở rộng thông thương buôn bán gia súc và các sản phẩm thú
sản ở trong nước, cũng như với nước ngoài, có thể làm cho tính chất vùng có thay đổi
trong một chừng mực nào đó.
1.3.3. Tính chất chu kỳ
Trong điều kiện chưa có tác động của con người, một số dịch bệnh của động vật nuôi
xuất hiện theo chu kỳ nhất định. Đối với tiểu gia súc, thường là chu kỳ ngắn, dịch xảy
ra trong phạm vi một năm, nó trùng với tính chất mùa. Nhưng đối với đại gia súc,
thường là chu kỳ dài, thường khoảng 3-5 năm dịch bệnh lại tái phát một lần.
Cho đến nay, sự hiểu biết về nguyên nhân của tính chu kỳ chưa được đầy đủ. Một cách
giải thích đó là dựa vào sự biến đổi tính cảm thụ của quần thể động vật trong vùng
dịch.
Tính chu kỳ cũng rõ rệt đối với dịch bệnh của dã thú, nhiều loại dã thú có chu kỳ phát
triển và chu kỳ chết dịch.
Tuy nhiên, các tính chất nói trên không phải cố định, mà con người có thể bằng các
hoạt động của mình để xoá bỏ các tính chất đó.
1.4. Các dạng hình thái dịch
1.4.1. Dịch lẻ tẻ (Sporadic)
Chỉ trạng thái dịch có tính chất lẻ tẻ, bệnh xảy ra không thường xuyên, dạng bệnh
không rõ ràng, không dự đoán trước được bệnh. Dịch thường xảy ra trong những
trường hợp sau:
Bệnh dịch vẫn tồn tại trong đàn, nhưng không có biểu hiện lâm sàng, nhưng trong một
điều kiện nào đó dịch mới xuất hiện.
Trong đàn không có dịch bệnh tồn tại, dịch có thể xảy ra khi có một con mang mầm
bệnh nhập vào đàn.
Mầm bệnh khu trú trong một loài động vật nào đó, cùng chung sống trong một môi
trường với nhiều loài động vật khác, nên đôi khi có thể truyền lây cho đàn động vật
phơi nhiễm.
Dạng dịch có tính chất lẻ tẻ có thể cho thấy tác nhân gây bệnh được bảo tồn trong một
vật chủ khác và không thường xuyên tiếp xúc với vật chủ. Tác nhân được bảo tồn
trong vật chủ, thường không thể hiện rõ sự nhiễm bệnh. Triệu chứng lâm sàng của
bệnh chỉ xuất hiện khi có yếu tố phá vỡ sự cân bằng giữa tác nhân gây bệnh và vật
chủ, tạo điều kiện để tác nhân gây bệnh.
59
1.4.2. Dịch địa phương (Endemic)
Dịch có tính chất địa phương, khi trong địa phương đó bệnh dịch này xảy ra đều đặn
và có thể sự đoán trước được về thời gian, địa điểm, có nghĩa là dịch bệnh xảy ra có
hạn chế về không gian, nhưng không hạn chế về thời gian.
Dịch địa phương có mức độ nhiễm rất khác nhau.
Nếu hầu hết đàn gia súc mắc bệnh gọi là Holoendemic.
Nếu đa số động vật trong đàn mắc bệnh gọi là Hyperendemic
Nếu đàn động vật mắc với một tỷ lệ trung bình gọi là Mesoendemic.
Nếu chỉ có một số nhỏ trong đàn mắc bệnh gọi là Hypoendemic.
Dạng dịch địa phương có thể cho thấy dịch xảy ra khi sự cân bằng giữa tác nhân, vật
chủ và môi trường trong một không gian nhất định bị phá vỡ. Sự khác nhau của điều
kiện môi trường sinh thái, có thể giải thích vì sao bệnh xuất hiện lẻ tẻ ở một vùng lại là
dịch địa phương so với một vùng khác.
1.4.3. Dịch lưu hành (Epidemic)
Khi số lượng động vật mắc bệnh trung bình vượt quá con số mắc bệnh thường xảy ra
như được dự đoán trước xảy ra ở một đàn động vật hoặc một địa phương mà đã từ lâu
không có bệnh này. Số động vật mắc bệnh tăng lên rõ rệt, có thể chỉ trong một thời
điểm hoặc trong một thời gian, tức là bệnh phát tán trong một khoảng không gian vào
cùng một thời điểm.
Dạng dịch lưu hành cho thấy có sự mất cân bằng trầm trọng có lợi cho “tác nhân” gây
bệnh. Sự mất cân bằng này thường phổ biến khi có một chủng vi sinh vật mới được
sinh ra (thường là đột biến từ một chủng vi sinh vật nào đó) hay trong sự tiếp xúc lần
đầu giữa vật chủ và vi sinh vật.
1.4.4. Dịch đại lưu hành (Pandemic)
Là dịch phát tán, lan tràn trên diện rộng cùng một lúc nhưng không cùng một khoảng
thời gian.
Tức là, dịch có thể xảy ra trong phạm vi một số nước không hạn chế về không gian.
Ví dụ: Đại dịch cúm gia cầm xảy ra ở Việt Nam và một số nước trên thế giới năm
2003 - 2005, Đại dịch cúm Type A ở người các năm 1914 - 1918…
1.5. Mức độ dịch
Một bệnh truyền nhiễm trở thành một vụ dịch, khi trong một thời gian ngắn có tỷ lệ
mắc hoặc chết vượt quá tỷ lệ mắc hoặc chết trung bình trong nhiều năm liền tại khu
vực không gian đó.
1.5.1. Hệ số năm dịch
Để xác định dịnh, người ta tính hệ số năm dịch (HSND):
60
Trong đó:
- Chỉ số mắc bệnh trung bình tháng trong một năm được tính bằng: Số mới mắc trong
năm đó/12 tháng
- Chỉ số mắc bệnh trung bình tháng trong nhiều năm được tính bằng: Số mới mắc
trong nhiều năm đó/Số tháng trong thời kỳ nhiều năm đó.
Nếu năm nào có hệ số năm dịch lớn hơn 100 thì năm đó được coi là có dịch. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là thời kỳ bao nhiêu năm là hợp lý?
Bởi đối với những bệnh truyền nhiễm có chu kỳ năm dịch rõ rệt thì rất dễ xác định,
nhưng ít nhất cũng phải có đủ số năm của một chu kỳ, nếu nhiều hơn sẽ có giá trị xác
thực hơn, nhưng phải lấy gọn trong một hay nhiều chu kỳ mới chính xác (Chú ý tính
chu kỳ này sẽ mất đi khi có sự can thiệp của con người). Còn đối với những bệnh
truyền nhiễm không biểu hiện chu kỳ theo quan điểm hiện nay của dịch tễ học, thì thời
kỳ nhiều năm kể trên phải dài, đôi khi rất dài, có khi hàng chục năm, dựa trên căn cứ
vào diễn biến của từng loại dịch bệnh.
1.5.2. Hệ số mùa dịch
Với đa số các bệnh truyền nhiễm, dịch có những diễn biến khá đều đặn theo các tháng
trong năm. Dịch theo mùa chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố thiên nhiên, nhưng
cũng có những can thiệp của các yếu tố xã hội.
Trong đó:
- Chỉ số mắc bệnh trung bình ngày/tháng được tính bằng: Số mới mắc của một
tháng/Số ngày của tháng đó (28, 29, 30, 31 ngày)
- Chỉ số mắc bệnh trung bình ngày/năm được tính bằng: Số mới mắc bệnh của một
năm/365 ngày
Nếu tháng nào có hệ số tháng dịch lớn hơn 100, được coi là tháng dịch. Nếu thấy có
nhiều tháng dịch liền nhau, được coi là mùa dịch.
61
II. ĐIỀU TRA XỬ LÝ MỘT VỤ DỊCH
2.1. Điều tra dịch
Đây là một công tác quan trọng hàng đầu khi có một vụ dịch xảy ra, vì nó là cơ sở
khoa học chính xác cho việc phòng chống dịch kịp thời. Bất cứ một biểu hiện dịch nào
trên thực địa dù quy mô to hay nhỏ cũng cần điều tra để chứng minh: Nguồn gốc của
tác nhân gây dịch và hoàn cảnh xảy ra dịch; Phương thức lây truyền dịch; Sự phân bố
dịch theo thời gian, không gian, quần thể động vật. Để đi đến xây dựng được biện
pháp phòng chống dịch thích hợp.
Vì vậy, điều tra dịch tức là khảo sát sự phân bố của bệnh theo thời gian, không gian
(địa điểm), động vật với các đặc tính: giống, loài, tuổi, tính biệt... để từ đó quy ra mối
tương quan có thể có giữa các yếu tố trên và sự phát sinh của vụ dịch.
Trước kia thuật ngữ "Dịch" chỉ để mô tả sự bùng nổ cấp của các bệnh nhiễm khuẩn,
các định nghĩa gần đây đã nhấn mạnh vào khái niệm gia tăng tần số mắc. Vậy một vụ
dịch của bệnh truyền nhiễm hay ký sinh trùng là sự xuất hiện nhiều trường hợp đột
ngột và bất thường đối với một không gian và thời gian cụ thể. Các trường hợp này có
nguy cơ lan truyền, chúng có một quan hệ logic đặc biệt.
Các bệnh dịch có khả năng xảy ra là: Bệnh dịch hay gây tình trạng khẩn cấp như đã
xảy ra trước kia, bệnh dịch lưu hành tại địa phương này gây dịch đột xuất, bệnh nhập
từ ngoài vào
2.2. Các yêu cầu điều tra một vụ dịch
Điều tra một vụ dịch đòi hỏi một cách đề cập hệ thống nhận biết tất cả những gì cần
thiết, đôi khi phải tập trung huy động tất cả các lực lượng theo đúng ý nghĩa của sự
khẩn cấp.
2.2.1. Xác định sự thật là có một vụ dịch
Một vụ dịch có thể là rõ ràng ngay khi thấy có sự gia tăng tần số mắc, chết của quần
thể hơn mức bình thường trong một khoảng thời gian ngắn.
Tuy nhiên có thể có sự gia tăng không rõ ràng, trong trường hợp này sự tồn tại của một
vụ dịch chỉ có thể được kiểm tra bằng cách so sánh với sự lưu hành của bệnh đó trong
cùng một thời điểm ở khu vực đó trong những năm trước (Cúm gia cầm, LMLM, Dịch
tả heo).
Một vụ dịch không nhất thiết phải có số lượng lớn các trường hợp bệnh, có những
bệnh đã vắng mặt nhiều năm thì chỉ một trường hợp bệnh xuất hiện cũng được coi là
có dịch (Cúm gia cầm, Nhiệt thán, Ung khí thán).
2.2.2. Xác định chẩn đoán
Nhiệm vụ đầu tiên của việc điều tra một vụ dịch là phát hiện được nguồn truyền
nhiễm, nghĩa là phải chẩn đoán chính xác căn nguyên của bệnh và các yếu tố lan
truyền bệnh trong quần thể động vật, từ đó mới có biện pháp phòng chống hữu hiệu.
62
Chẩn đoán trong một vụ dịch thường dựa vào:
- Thăm khám lâm sàng: với các triệu chứng điển hình hoặc không điển hình; các triệu
chứng chuyên biệt.
- Dịch tễ học: phát hiện nguồn lây từ đâu? Phương thức lây lan, các yếu tố truyền bệnh
(chú ý côn trùng, tiết túc.), cường độ lan truyền bệnh. Đặc điểm của động vật bệnh:
loài, giống, tuổi, tính biệt.
- Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm: đây là yêu cầu cực kỳ quan trọng đối với các
bệnh do vi sinh vật gây nên, nó cho ta biết một cách chắc chắn tác nhân gây bệnh của
vụ dịch đó. Trong những trường hợp khó khăn về nuôi cấy vi sinh vật, ta phải dựa vào
chẩn đoán huyết thanh học, dị ứng học.
Tuy nhiên, không nhất thiết phải đợi kết quả chẩn đoán phòng thí nghiệm mới tiến
hành điều tra và thực hiện các biện pháp phòng chống. Tốt hơn hết là tiến hành song
song. Thậm chí vẫn thực hiện các hiện pháp khống chế dịch ngay cả khi chẩn đoán
mới dựa trên nhận xét "nghi ngờ" về một bệnh nào nó
2.2.3. Tiến hành chẩn đoán nhanh các ca bệnh đầu tiên
Muốn dập tắt nhanh vụ dịch phải biết được một cách nhanh chóng tác nhân gây bệnh
và các yếu tố lan truyền dịch, nên cần xem xét cẩn thận những phát hiện lâm sàng của
các ca bệnh đầu tiên và phải có những nhận xét, kết luận thật cẩn thận, đặc biệt khi
xuất hiện các trường hợp có triệu chứng không điển hình.
Phải nắm vững định nghĩa trường hợp bệnh và những tiêu chuẩn ổ dịch để kết luận các
ca bệnh trong vụ dịch đó.
2.2.4. Xét các truờng hợp có sự tiếp xúc chung
Đây là phần cực kỳ quan trọng trong quá trình phân tích vụ dịch. Phải tập hợp các ca
bệnh lại theo thời gian - địa điểm - đặc điểm của động vật giống nhau.
- Giới hạn: Biết về thời gian khởi điểm của mỗi ca bệnh có thể giúp ích cho xác định
thời kỳ ủ bệnh. Ở đây, điều rất quan trọng là việc thu thập các triệu chứng phải thật
cẩn thận, nhất là các triệu chứng xảy ra trước khi xuất hiện triệu chứng điển hình.
- Địa điểm: Nên cố gắng tìm sự liên hệ giữa những trường hợp bệnh với thức ăn, nước
uống, đồng cỏ, khu vực chăn thả, phương thức chăn nuôi. trong những vùng nhất định.
- Động vật: lưu ý đến các đặc điểm như loài, giống, tuổi, tính biệt, số lượng, tỷ lệ ốm,
chết. đây có thể là những biến số dịch tễ học có ích khi phân tích.
2.2.5. Hình thành giả thuyết
Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, giả thuyết phải được dựa trên các nhận xét trực
giác. Cần điều tra tập trung vào việc làm sáng tỏ, chứng minh và phủ nhận giả thuyết
này nếu hình thành giả thuyết khác.
Ban đầu phải có giả thuyết tạm thời về nguyên nhân và bản chất bệnh, Nguồn gốc vụ
bùng nổ và phương thức lây.
63
Giả thuyết đặt trên những thông tin ban đầu chưa đầy đủ, nhưng cần phải có nó để
hướng dẫn điều tra thực địa. Nó có thể được bổ sung, hoàn thiện hay thay đổi hẳn khi
điều tra sâu hơn.
2.2.6. Lập kế hoạch và chỉ đạo điều tra dịch tễ học
Một điều quan trọng nữa là sử dụng những mẫu điều tra chuẩn mực để điều tra ở
những vùng có dịch. Phương thức điều tra toàn bộ vụ dịch trên thực địa có thể được
tiến hành theo thể thức sau:
- Bản chất bệnh: Tìm kiếm, thăm khám lâm sàng, chẩn đoán trong phòng thí nghiệm
(phân lập mầm bệnh, làm huyết thanh học...), tập hợp các cá thể bị bệnh.
- Độ lớn vụ dịch và các nhóm động vật bị tấn công: Thành lập các biểu đồ dịch, thành
lập các bản đồ dịch tễ, xác định các chỉ số mắc bệnh trong các nhóm động vật, điều tra
hồi cứu, điều tra huyết thanh học.
- Nguồn lây và phương thức lây: Tìm kiếm động vật tiếp xúc, xác định về xét nghiệm
các chất lây từ các nguồn lây.
- Vùng và động vật có thể bị đe doạ: Thông tin về các vụ dịch sau, tình hình miễn dịch,
tiêm chủng, điều tra miễn dịch học (huyết thanh học).
2.2.7 Phân tích số liệu
Sau khi điều tra theo mẫu có sẵn thì tiến hành phân tích, tính toán và lập các bảng
biểu, tính các chỉ số cần thiết trong dịch tễ học.
2.2.8. Đưa ra các kết luận
Các kết luận phải đưa ra tất cả các dữ kiện thích hợp và rõ ràng để chỉ ra được:
- Tác nhân gây bệnh.
- Phương thức lây lan bệnh.
- Tình hình miễn dịch trong quần thể động vật với bệnh đó.
2.2.9. Thực hiện những biện pháp kiểm soát
Nhiều biện pháp kiểm soát được sử dụng trong điều tra dịch.
Trong trường hợp dịch xảy ra ở khu vực đã được tiêm phòng bằng vaccine phải tiến
hành đánh giá tình trạng vaccine. Nếu có nghi ngờ về chất lượng vaccine, phải tiến
hành tiêm chủng lại càng sớm càng tốt.
2.2.10. Viết báo cáo
Soạn thảo báo cáo kết quả điều tra và đề xuất những biện pháp phòng chống dịch. Đây
là bước quan trọng cung cấp tư liệu điều tra, kết quả điều tra và những khuyến cáo cần
thiết. Bản báo cáo này được coi là kết quả của một quá trình nghiên cứu nên lý lẽ phải
xác đáng, phân tích phải dựa trên cơ sở khoa học của những kết quả thu được về các
dữ kiện, về lâm sàng, xét nghiệm, dịch tễ học. Từ đó làm sáng tỏ nguồn gốc dịch, các
yếu tố truyền lây, thời gian, địa điểm xảy ra dịch cùng loài động vật có nguy cơ và các
64
vấn đề quan tâm khác. Báo báo cũng phải đề xuất được các biện pháp phòng và chống
dịch một cách cụ thể dựa trên cơ sở khoa học và thực tễ điều tra của vùng xảy ra dịch.
Bản báo cáo này còn có thể giúp ích cho việc giảng dạy môn dịch tễ học và dùng làm
tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu sau này.
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN TRONG Ổ DỊCH
Căn cứ vào Pháp lệnh thú y, trong vùng dịch cần thi hành các biện pháp kỹ thuật sau
3.1. Báo cáo có dịch
Khai báo dịch là điều đầu tiên phải làm để thông báo phát hiện dịch bệnh với các cấp
có trách nhiệm.
Khi biết có dịch hoặc nghi ngờ có dịch bệnh thì cơ sở chăn nuôi, chủ vật nuôi, người
quản lý, cán bộ chuyên môn, người lãnh đạo cơ sở phai thông báo ngay với cơ quan
Thú y gần nhất. Khi nhận được thông báo, cơ quan Thú y địa phương phải nhanh
chóng xác định nguyên nhân, tiến hành chữa trị hoặc xử lý, đồng thời báo cáo lên
chính quyền và cơ quan chuyên môn cấp trên.
3.2. Xác định bệnh, xác định phạm vi ổ dịch
Khi nhận được báo cáo của UBND phường, xã về tình hình dịch bệnh, UBND huyện-
thị xã phải báo cáo lên tỉnh và cử cán bộ chuyên môn đến nơi có dịch để xác minh
bệnh và để quy định khoanh vùng phạm vi có dịch bệnh xảy ra, đồng thời thực hiện
các biện pháp bước đầu phòng chống dịch bệnh. Sau khi đã xác định có dịch, UBND
huyện đề nghị UBND tỉnh hoặc cấp tương đương ra lệnh công bố dịch. Quyết định
công bố dịch phải nêu rõ tên bệnh, phạm vi ổ dịch và các biện pháp đặc biệt phải thi
hành, tùy theo mức độ của dịch mà cho thành lập ban chống dịch ở tỉnh, huyện và xã.
UBND tỉnh cũng phải báo cáo lên Bộ Nông nghiệp và PTNT để có ý kiến chỉ đạo
trong công tác phòng chống dịch.
3.3. Thi hành quyết định công bố dịch
Theo pháp lệnh Thú y: khi đã có quyết định công bố dịch, Chủ tịch UBND cấp tỉnh
nơi có dịch xảy ra có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp với các
tổ chức xã hội trong địa phương tiến hành thực hiện theo hướng dẫn của pháp lệnh
Thú y về phòng chống dịch bệnh, chủ yếu bao gồm các biện pháp cách ly con bệnh,
con nghi lây; Bao vây ổ dịch, cấm thu mua, xuất, nhập, vận chuyển, giết mổ thịt gia
súc; Cắm biển báo dịch, lập trạm kiểm dịch ở nơi ra vào ổ dịch; Tiêu độc, tiêu diệt côn
trùng, chuột. Đồng thời phải tiêm phòng chống dịch, chữa bệnh, xử lý gia súc bệnh,
chết một cách triệt để theo đúng quy định của pháp lệnh Thú y.
3.4. Bãi bỏ quyết định công bố dịch
Khi đã hết dịch cán bộ chuyên môn phải đề nghị UBND cấp tỉnh hoặc cấp tương
đương ra công bố hết dịch, khi có đủ 3 điều kiện sau:
65
- Những động vật dễ nhiễm bệnh đã công bố trong vùng có dịch và vành đai bảo vệ đã
được tiêm phòng hoặc áp dụng các biện pháp dự phòng khác và đã có đủ thời gian để
tạo miễn dịch chắn chắn đối với bệnh đó.
- Từ 15 đến 30 ngày tùy theo từng bệnh, kể từ ngày động vật chết hoặc động vật lành
bệnh cuối cùng hoặc động vật bị bắt buộc giết mổ cuối cùng, mà không có động vật
nào mắc bệnh hoặc chết vì bệnh dịch đã công bố (hoặc tùy theo thời gian nung bệnh
dài nhất của bệnh dịch).
- Đã thực hiện tổng vệ sinh tiêu độc toàn bộ ổ dịch, đảm bảo yêu cầu vệ sinh thú y.
Khi có quyết định công bố dịch, mọi biện pháp kể trên đều bải bỏ.
IV. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CÓ THỂ DÙNG ĐỂ KHỐNG CHẾ VÀ THANH
TOÁN DỊCH BỆNH TRUYỀN NHIỄM
4.1. Để tự nhiên
Có thể để bệnh phát triển tự nhiên, thì sự lưu hành của bệnh cũng sẽ tự giảm mà không
cần tác động gì bởi tỷ lệ bệnh có thể giảm do sự thay đổi của tổng đàn giảm vì những
con mắc bệnh đã bị chết hoặc bị diệt hoặc do môi trường ngoại cảnh thay đổi mà
không cần sự can thiệp của con người.
Nhưng đây không phải là biện pháp hoàn chỉnh.
4.2. Cách ly
Đối với động vật nhiễm bệnh hoặc nghi ngờ nhiễm bệnh hoặc chưa nhiễm bệnh, khi
nhập đàn cần có thời gian cách ly.
Thời gian cách ly này phụ thuộc vào thời gian nung bệnh của từng bệnh.
Phải đủ thời gian để sự nhiễm bệnh được bộc lộ, để động vật nhiễm bệnh trở thành
không nhiễm bệnh. Có thể điều trị hoặc không đối với động vật này.
4.3. Giết hoặc tiêu huỷ
Việc giết hoặc tiêu huỷ áp dụng cho những động vật mắc bệnh ở thể mạn tính, những
động vật mang trùng, những động vật mắc bệnh mà sự lây lan làm nguy hiểm cho
người và các động vật khác, những động vật phơi nhiễm với bệnh nguy hiểm.
4.4. Tiêm phòng vaccine tạo miễn dịch
Đối với vaccine chết có thuận lợi là an toàn, sản xuất nhanh khi có mầm bệnh mới.
Nhưng hạn chế là giá thành cao, tạo miễn dịch chậm, thời gian miễn dịch ngắn, hiệu
quả kinh tế không cao.
Đối với vaccine sống có ưu điểm là tạo miễn dịch nhanh, thời gian miễn dịch duy trì
được lâu, hiệu quả kinh tế cao, giá thành hạ. Nhưng nguy hiểm vì dễ làm lây lan bệnh,
nếu không cẩn thận có thể trở thành cường độc. Khi kiểm tra không phân biệt được
chủng do vaccine hay do chủng cường độc gây bệnh trong tự nhiên.
66
4.5. Điều trị dự phòng
Điều trị những động vật mang trùng bằng các loại thuốc để hạn chế sự lây lan của
bệnh. Dùng kháng sinh diệt mầm bệnh hoặc trộn vào thức ăn để tăng khả năng chống
bệnh và tăng khả năng sản xuất của động vật nuôi.
Điều trị các vết thương, các vết cắn có thể là nguyên nhân gây nên nhiễm trùng, dùng
thuốc diệt ký sinh trùng trên cơ thể động vật và chuồng trại.
Nhược điểm là nếu sử dụng không đúng liều lượng kháng sinh và thuốc diệt ký sinh
sinh trùng có thể gây nên tính kháng thuốc của vi sinh vật và ký sinh trùng gây bệnh.
Dùng kháng huyết thanh để tạo miễn dịch nhanh và tăng khả năng miễn dịch của cơ
thể, nhất là đối với những bệnh nguy hiểm.
4.6. Cấm vận chuyển
Trong thời gian có dịch, tuyệt đối không được vận chuyển động vật ra vào vùng dịch.
Nếu bắt buộc phải vận chuyển cần chú ý tránh xa những vùng đang có dịch bệnh, tránh
không cho phơi nhiễm với những nơi nghi có ô nhiễm mầm bệnh.
4.7. Bãi chăn thả
Không để động vật nghi mắc bệnh chăn thả chung với động vật khoẻ hoặc động vật đã
có miễn dịch.
Nên tách đàn nhỏ để chăn thả, vì động vật trưởng thành thường thích nghi và có miễn
dịch cao hơn so với động vật non, do đó không nên chăn thả chung giữa động vật non
và động vật trưởng thành.
Áp dụng các biện pháp cơ học, sinh học, vật lý, hoá học để làm giảm sự ô nhiễm của
bãi chăn, đồng cỏ tới mức cho phép.
Có chế độ luân phiên bãi chăn thả theo mùa và theo thời gian, vì như vậy đồng cỏ sẽ
có thời gian phục hồi, lại vừa phòng bệnh tốt.
4.8. Khử trùng, tiêu độc
Đối với các bệnh truyền qua loài côn trùng hút máu, có thể diệt bằng các loại hoá chất
diệt côn trùng hoặc làm thay đổi môi trường ngoại cảnh.
Khử trùng, tiêu độc chuồng trại bằng các hoá chất, thường xuyên vệ sinh tiêu độc dụng
cụ, đồ dùng chăn nuôi, thức ăn, nước uống.
Thức ăn nước uống có thể xử lý bằng nhiệt hoặc bằng kháng sinh. Với nước uống có
thể cho chất sát trùng nhẹ vào để tiêu độc.
4.9. Chọn giống
Lựa chọn đàn giống tốt, vừa có tính sản xuất cao lại vừa có khả năng đề kháng với
ngoại cảnh và có tính chống bệnh tốt.
67
Hiện nay, do áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, con người đã chọn lọc,
lai tạo được nhiều giống gia súc, gia cầm mới có khả năng chống đỡ, không mẫn cảm
đối với một số bệnh.
Tài liệu tham khảo
1. B. Toma (1997). Épidémiologie Appliquée à la lutte collective contre les maladies
animales transmissible majeures. Maison-Alfort, France.
2. Đỗ Trung Giã (2009). Bài giảng Dịch tễ Thú Y. Khoa Nông nghiệp & SHƯD - Đại
học Cần Thơ.
3. Dương Đình Thiện (2001). Dịch tễ học các bệnh truyền nhiễm. NXB Y học
4. Kiz Fathman (2003). Veterinary Epidemiology. Elsevier Science (USA).
5. Nguyễn Ngọc Tiến (2010), Chương trình đào tạo Dịch tễ học ứng dụng. AVET
Hà Nội
6. Nguyễn Như Thanh (2001). Dịch tễ học Thú y. NXB Nông nghiệp.
Câu hỏi
1. Định nghĩa ổ dịch, tính chất của dịch, cho ví dụ minh họa cụ thể ?
2. Giới thiệu các dạng hình thái của dịch, cho ví dụ minh họa cụ thể ?
3. Giải thích rõ các biện pháp thực hiện trong ổ dịch ?
68
CHƯƠNG 7
LẤY MẪU TRONG ĐIỀU TRA DỊCH TỄ HỌC THÚ Y
I. QUẦN THỂ VÀ MẪU
Đối tượng nghiên cứu của môn dịch tễ là các thuộc tính của một quần thể; Dịch tễ học
không nghiên cứu đặc tính của từng cá thể hoặc ca bệnh riêng biệt. Thông thường,
người ta không thể nghiên cứu một thuộc tính nào đó ở tất cả các cá thể trong một
quần thể, việc nghiên cứu được thực hiện chỉ ở một số lượng cá thể nhất định gọi là
mẫu, và suy luận từ kết quả của nhóm mẫu đại diện cho quần thể này, người ta có thể
biết về đặc tính cần nghiên cứu ở cả quần thể.
Quần thể trong một nghiên cứu là nhóm đối tượng mà chúng ta muốn khái quát hóa về
một đặc điểm nào đó, nó có đầy đủ các đối tượng nghiên cứu mong muốn, cho phép
thu thập một bộ dữ liệu đầy đủ để nghiên cứu về quần thể đó.
Mẫu là một phần của quần thể đích, được rút ra như một nhóm đại diện từ tổng thể.
Trong thực tế, thường không thể thu thập mẫu ở bất kỳ cá thể nào trong quần thể cần
nghiên cứu, nên quần thể đích này được coi là quần thể lý thuyết; một phần trong tập
hợp này thỏa mãn các điều kiện và nguyên tắc thu thập mẫu gọi là quần thể lấy mẫu.
Ví dụ, vào tháng 10 năm 2011, để đánh giá tỷ lệ phơi nhiễm vi khuẩn Salmonella ở
đàn gà Nòi giống thả vườn 1200 (quần thể lý thuyết) ở tại Huyện Phụng Hiệp, Tỉnh
Hậu Giang, người ta đã thu thập mẫu phân của 10% số gà Nòi giống.
Quá trình lấy mẫu và yêu cầu mẫu trong điều tra dịch tễ học, nhìn chung phải qua 4
bước cơ bản sau:
- Xác định câu hỏi cần trả lời hay đặc tính cần nghiên cứu và đồng thời xác định quần
thể đích.
- Xác định các tiêu chí thu thập mẫu và quần thể lấy mẫu.
- Thiết lập cách thức thu thập mẫu và xác định khung mẫu.
- Xác định đối tượng mẫu cụ thể và thu thập mẫu nghiên cứu.
Để suy luận đặc tính của quần thể từ kết quả phân tích mẫu, cần tuân thủ 2 nguyên tắc
cơ bản sau:
Mẫu phải đủ ý nghĩa thống kê và đại diện cho quần thể mẫu.
Đặc tính của quần thể đích chỉ có thể được suy luận từ mẫu khi quần thể đích và
quần thể lấy mẫu là đồng nhất.
II. PHƯƠNG PHÁP LẤY MẪU
Có nhiều phương pháp lấy mẫu khác nhau, mỗi phương pháp đều có những thuận lợi
và hạn chế nhất định, ứng dụng tùy câu hỏi đặt ra và tình huống cụ thể của quần thể.
69
2.1. Phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên
Lấy mẫu ngẫu nhiên là một thuật ngữ để chỉ một phương pháp bất kỳ thu thập mẫu
một cách nhẫu nhiên hay mẫu được chọn một cách ngẫu nhiên. Trong phương pháp
lấy mẫu ngẫu nhiên, mọi cá thể trong quần thể mẫu có đồng khả năng lựa chọn. Trước
đây, con người đã sử dụng nhiều cách lấy mẫu ngẫu nhiên như bốc tên từ hộp giấy, rút
que ngắn dài, từ khi có máy vi tính, người ta sử dụng các chương trình tạo số ngẫu
nhiên làm cơ sở cho việc chọn mẫu ngẫu nhiên.
Một số ký hiệu cơ bản thường được sử dụng trong lấy mẫu bao gồm:
N: Số lượng cá thể trong quần thể
n: Số lượng mẫu
NC
n: tổ hợp chập n của N
F = n/N: tỷ lệ mẫu
2.1.1 Lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản
Phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản nhất gọi là phương pháp lấy mẫu ngẫu
nhiên đơn giản.
Đặc tính của phương pháp này là chọn ngẫu nhiên n mẫu từ quần thể mẫu có N đơn vị
sao cho mỗi tổ hợp trong số NC
n tổ hợp đều có cùng cơ hội được lựa chọn như nhau.
Quy trình chọn mẫu: Sử dụng tiến trình ngẫu nhiên, bảng số ngẫu nhiên hoặc số từ
chương trình máy tính hoặc máy chuyên dụng để chọn ngẫu nhiên.
Sơ đồ 7.1. Minh họa lấy mẫu ngẫu nhiên
70
Ví dụ minh họa: Lấy ngẫu nhiên 10% số heo từ 1 trại heo 300 con. F=10, N=300,
n=30, số cách lấy mẫu là 300C30 có cùng khả năng.
Hệ thống hóa số liệu có trước bằng cách liệt kê toàn bộ số heo (300) trong trại, in ra,
cắt nhỏ mỗi mảnh có tên hoặc số tai một con, cho vào hộp lắc lên và bốc phiếu 30 lần.
Mã hóa bảng danh sách heo trong tập mẫu, đánh số ví dụ từ 1-N trong bảng danh sách,
dùng máy tính tạo bảng ngấu nhiên n số, sau đó chép lại từ bảng danh sách những heo
sẽ lấy mẫu.
Đưa bảng số liệu vào máy tính, dùng thuật toán máy tính tạo danh sách ngẫu nhiên
n=30 heo cần lấy mẫu.
Những ưu điểm và hạn chế của kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản
Thuận lợi: Đây là phương pháp đơn giản nhất dễ cắt nghĩa, dễ thực hiện với quần thể
có kích thước nhỏ và giới hạn trong phạm vi hẹp. Do tính đơn giản và thực sự ngẫu
nhiên, số liệu thống kê với độ tin cậy cao, dễ dàng luận giải đặc điểm của quần thể từ
đặc điểm của mẫu.
Hạn chế: lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản đôi khi không có hiệu quả tối ưu, có rủi ro vì
hoàn toàn phụ thuộc vào sự may rủi, nên đôi khi không cho đúng bức tranh tổng thể
của quần thể cần phân tích.
Trước khi chọn mẫu ngẫu nhiên, cần phải lập danh sách tất cả các cá thể trong quần
thể, đây là một việc rất khó thực hiện đối với quần thể lớn.
Lấy mẫu ngẫu nhiên đơn có thể là phương pháp tốn kém nhất khi áp dụng vào quần
thể lớn, có địa bàn rất rộng do chi phí tương ứng cho đi lại và công lao động.
2.1.2 Phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên theo nhóm
Lấy mẫu ngẫu nhiên theo nhóm, đôi khi còn gọi là lấy mẫu ngẫu nhiên từng phần
(propotional/ quota random sampling) là một phương pháp lấy mẫu kép trong đó quần
thể mẫu được ra thành nhiều nhóm nhỏ sau đó mỗi kỹ thuật lấy mẫu đơn thuần ngẫu
nhiên được tiến hành độc lập ở từng nhóm.
Sơ đồ 7.2. Lấy mẫu ngẫu nhiên theo nhóm
71
Đặc tính của phương pháp này là thiết kế thu thập mẫu bao gồm 2 bước. Chia quần thể
thành các nhóm riêng lẽ, độc lập và đồng đặc điểm (thường được ký hiệu là những
strata) N1, N2, N3, ... Ni sao cho N1 + N2 + N3 + ... + Ni = N. Sau đó, thực hiện chọn
mẫu đơn thuần ngẫu nhiên ở mỗi nhóm nhỏ (strata).
Quy trình: Sắp xếp theo một đặc tính nào đó, tất cả các cá thể của quần thể mẫu vào
các nhóm nhỏ, mỗi cá thể chỉ thuộc về một nhóm và không nằm ở nhóm khác. Sau đó
tiến hành lấy mẫu đơn thuần ngẫu nhiên.
Thực hành:
Bước đầu tiên trong phương pháp chọn mẫu nhóm ngẫu nhiên là phải xác định được
các thông số và đặc điểm của nhóm mẫu.
Sau đó, dựa trên căn cứ đặc điểm phân nhóm đã lựa chọn, xác định trong quần thể có
bao nhiêu nhóm nhỏ, mô tả đặc tính, kích cỡ và định dạng mỗi nhóm.
Cuối cùng, xác định số mẫu cần được độc lập thu thập từ mỗi nhóm.
Thuận lợi:
Thiết kế lấy mẫu này đảm bảo mẫu không chỉ đại diện cho quần thể mà còn đại diện
cho các nhóm, đặc biệt trong trường hợp có những nhóm với kích cỡ rất nhỏ. Phương
pháp này có thể là phương pháp không thể thay thế nếu câu hỏi dịch tễ đặt ra là cần
biết đặc điểm của cả những nhóm nhỏ. Tỷ lệ lấy mẫu ở mỗi nhóm (mỗi strata) theo
nguyên tắc là như nhau, cách lấy mẫu này được gọi là lấy mẫu theo nhóm ngẫu nhiên
theo tỷ lệ (proportionate stratified random sampling), hoặc không theo tỷ lệ
(disproportionate stratified random sampling) khi rút tỷ lệ mẫu khác nhau từ những
strata khác nhau.
Cho độ chính xác thống kê cao hơn phương pháp lấy mẫu đơn thuần ngẫu nhiên. Tuy
nhiên, tính ưu vệt này chỉ có thể đúng khi mỗi nhóm quần thể mẫu là đồng nhất. Khi
đó, độ phân tán của số liệu trong nhóm sẽ thấp hơn phân tán số liệu trong toàn bộ quần
thể mẫu. Đây chính là ưu điểm cơ bản của phương pháp phân nhóm rồi mới lấy mẫu
ngẫu nhiên.
Hạn chế: phương pháp này có vài điểm hạn chế như:
Đòi hỏi biến số có ý nghĩa để phân nhóm, đôi khi khó có thể tìm thấy.
Không thể áp dụng khi không có các nhóm thuần nhất.
Có thể giá thành cũng lớn.
Phương pháp này đòi hỏi các thông tin về quần thể có độ chính xác cao vì nếu không
đủ độ chính xác, phương pháp có thể có sai số đo lường lớn và sai lầm trong bước lựa
chọn.
Ví dụ minh họa: để nghiên cứu tỷ lệ mang virus cúm A H1N5 ở gà, có thể chia đàn gà
thành 3 nhóm tùy theo giống: nhóm giống địa phương, nhóm giống lai và nhóm gà
ngoại Lương Phượng. Trong 3 nhóm này, nhóm gà lai chiếm đa số (850 con), nhóm gà
72
nội (100 con), và gà Lương Phượng (50 con) được coi là các nhóm thiểu số. Nếu
chúng ta muốn lấy mẫu theo phương pháp lấy mẫu đơn thuần ngẫu nhiên với 100 gà
(10% tổng đàn), chúng ta sẽ thu thập ngẫu nhiên chỉ 10 và 5 gà (hoặc thậm chí số
lượng mẫu nhỏ hơn trong trường hợp khác) ở 2 nhóm thiểu số tương ứng. Nếu chúng
ta phân nhóm, trước hết chúng ta cũng xác định số mẫu cần thu thập cho tổng đàn, ví
dụ chúng ta cũng sẽ lấy 100 mẫu trong tổng đàn 1000 gà, nhưng đồng thời cũng quy
định ít nhất 30 gà cho mỗi nhóm để có thể nói về tỷ lệ nhiễm của mỗi nhóm gà. Với
những thông số này, chúng ta sẽ lấy mẫu ngẫu nhiên 30 gà nội (30%), 30 gà ngoại
Lương Phượng (60%). Chúng ta không nhất thiết phải lấy 85 mẫu gà lai như lúc đầu
đã xác định khoảng 10% tổng đàn (85/850) vì nhóm gà này thực ra khá đồng nhất mà
chỉ cần lấy số mẫu là (100-30-30 = 40 mẫu hoặc 40/850 = 4,7%). Do tính đồng nhất ở
mỗi nhóm gà là cao hơn so với tính đồng nhất của cả đàn gà, chúng ta có thể thu được
kết quả thống kê có độ chính xác cao hơn (độ lệch chuẩn/độ phân tán thấp hơn).
Tương tự, sau khi đã phân nhóm, chúng ta có đủ số mẫu thống kê, cho phép nói về
tình trạng của mỗi nhóm với độ tin cậy cao.
2.1.3. Phương pháp lấy mẫu hệ thống
Lấy mẫu hệ thống là một phương pháp chọn mẫu từ một quần thể có khung mẫu đã
được ngẫu nhiên sắp xếp theo thứ tự trong khung mẫu xác định.
Đặc điểm của phương pháp thu thập mẫu này là chọn lựa một cách có hệ thống n mẫu
từ một quần thể có N cá thể đã được sắp xếp theo 1 trật tự nhất định.
Sơ đồ 7.3. Minh họa lấy mẫu hệ thống
Quy trình: Trong phương pháp lấy mẫu hệ thống, cần tuần tự thực hiện các bước sau:
Đánh số mỗi đơn vị cá thể của quần thể mẫu từ 1 đến N.
Quyết định số mẫu cần lấy (cỡ mẫu).
Tính khoảng cách giữa 2 mẫu.
73
Chọn ngẫu nhiên 1 số trong khoảng từ 1 đến k.
Lấy tất cả các mẫu trong dãy thứ k (nghĩa là mẫu tương ứng với các số thứ tự
trong dãy [x, x+1k, x+2k… x+ (n-1)k].
Ví dụ minh họa: Giả sử chúng ta có một đàn heo nái 100 con tại trại A và chúng ta
muốn lấy một nhóm mẫu gồm 20 con.
Quần thể heo nái này cần được liệt kê theo thứ tự 1-100 một cách ngẫu nhiên.
Tỷ lệ nhóm mẫu được xác định là f = 20/100 = 20%.
Khoảng cách giữa các mẫu [k] được tính bằng tỷ số N/n: k-100/20=5.
Chọn ngẫu nhiên 1 số trong dãy số từ 1 đến 5, giả sử số 2 được bốc ngẫu nhiên.
Để chọn mẫu, chúng ta bắt đầu bằng số 2, sau đó cứ sau 5 số lại lấy 1 số, nghĩa là các
số 2, 7, 12, 17 và cứ thế đến 97 sẽ tạo ra một danh sách 20 số trong bộ mẫu cần lấy.
Thuận lợi:
Trong phương pháp này, điều thiết yếu duy nhất cần làm đó là sắp xếp các cá thể trong
quần thể một cách ngẫu nhiên, theo thứ tự. Phần còn lại rất đơn giản, dễ làm và không
tốn nhiều thời gian.
Phương pháp này đôi khi cũng chính xác hơn so với phương pháp lấy mẫu đơn thuần
ngẫu nhiên vì phân bố mẫu trải khắp quần thể.
Phương pháp này cũng dễ dàng thực hiện với những quần thể có kích cỡ lớn, không
thể thực hiện được với phương pháp lấy mẫu đơn thuần ngẫu nhiên.
Hạn chế: Chỉ thực hiện được với quần thể khá đồng nhất, ít nhất với đặc tính cần xem
xét vì mẫu hệ thống có phân bố trải khắp quần thể. Khi tính đồng nhất giảm, ước
lượng có độ phân tán cao.
2.1.4 Phương pháp lấy mẫu cụm
Vấn đề nảy sinh khi chúng ta thực hiện phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên ở quần thể
phân bố trên một vùng địa lý rộng lớn. Hãy thử tưởng tượng trong một điều tra, chúng
ta phải phỏng vấn nông dân ở cả nước. Khi kết quả sử dụng phương pháp lấy mẫu
ngẫu nhiên cho danh sách những người cần phỏng vấn ở khắp cả nước, có lẽ cần một
thời gian rất dài để thực hiện việc điều tra. Trong trường hợp này, người ta sử dụng kỹ
thuật lấy mẫu cụm ngẫu nhiên. Trong phương pháp lấy mẫu cụm ngẫu nhiên, quần thể
nghiên cứu được chia thành các cụm (ví dụ như ranh giới quốc gia, tỉnh) sau đó thực
hiện lấy mẫu ngẫu nhiên ở mỗi cụm đã được chọn lọc.
Quy trình: Lấy mẫu cụm ngẫu nhiên bao gồm các bước sau:
Chia quần thể thành các cụm (thường dọc theo biên giới địa lý).
Chọn ngẫu nhiên các cụm để lấy mẫu.
Đo lường tất cả các cá thể trong cụm cần lấy mẫu.
74
Sơ đồ 7.4. Minh họa lấy mẫu theo cụm
Ví dụ minh họa: Mẫu cụm thường được dùng trong các nghiên cứu điều tra dịch tễ học
của một quần thể trên một phạm vi lớn như toản tỉnh, khu vực, huyện…Để giảm thiểu
phạm vi điều tra, có thể sử sụng khái niệm cụm theo đơn vị hành chính. Mục đích của
một điều tra là xác định tỷ lệ nhiễm virus cúm A H1N5 ở một tỉnh.
- Cụm mẫu được xác định là gia cầm của một xã.
- Trong tỉnh cần xác định có 2700 xã nghĩa là có 2700 cụm.
- Chọn ngẫu nhiên 14 cụm (0,5%).
- Xác định cá thể gia cầm trong mỗi xã nhiễm virus cúm A H1N5.
Thuận lợi: Lấy mẫu cụm được sử dụng nhiều trong nghiên cứu điều tra dịch tễ học trên
một phạm vi địa dư rộng do giảm được chi phí đi lại, giảm thủ tục hành chánh, dễ tổ
chức thực hiện và do vậy ít tốn kém hơn các phương pháp khác.
Hạn chế: lấy mẫu cụm ngẫu nhiên có thể tạo ra sai số lớn hơn so với lấy mẫu không
phân cụm.
75
2.1.5 Lấy mẫu nhiều tầng
Bốn phương pháp lấy mẫu giải thích ở trên (lấy mẫu đơn thuần ngẫu nhiên, nhóm ngẫu
nhiên, hệ thống và cụm) là những chiến lược đơn giản nhất. Trong những nghiên cứu
thực tế, chúng ta sẽ sử dụng các chiến lược thu thập mẫu phức tạp hơn những phương
pháp cơ bản này. Nguyên tắc quan trọng nhất ở đây là chúng ta sẽ phối hợp các
phương pháp đơn giải thành phương pháp phức hợp, gọi là phương pháp nhiều tầng
theo nhiều cách hữu dụng, làm cho việc thu thập mẫu mong muốn có hiệu quả cao.
Sơ đồ 7.5. Minh họa phương pháp lấy mẫu nhiều tầng
Ví dụ minh họa: Trong giám sát tỷ lệ nhiễm virus cúm gia cầm H5N1, ở phạm vi cả
nước, chúng ta có thể thiết kế một chiến lước lấy mẫu nhiều tầng bao gồm các tầng/
giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Thực hiện kỹ thuật lấy mẫu cụm để lựa chọn 6 trong số 64 tỉnh
(10%) để thu thập mẫu.
Giai đoạn 2: Tiến hành cũng bằng phương pháp lấy mẫu cụm để lựa chọn
huyện trong mỗi 6 tỉnh đã lựa chọn.
Giai đoạn 3: Ở mỗi huyện, thực hiện kỹ thuật lấy mẫu nhóm để lựa chọn các
nhóm gia cầm sẽ lấy mẫu: gà, vịt, chim trời, ngỗng…
Giai đoạn 4: thực hiện kỹ thuật lấy mẫu hệ thống để xác định số đàn cụ thể sẽ
lấy mẫu.
76
Giai đoạn 5: thực hiện kỹ thuật lấy mẫu ngẫu nhiên, tiến hành thu thập mẫu ở
các đàn có kích cỡ nhỏ và phương pháp lấy mẫu hệ thống ở các đàn gia
cầm lớn.
2.2. Phương pháp lấy mẫu phi xác suất
Nhìn chung, cho đến nay các nhà nghiên cứu đều muốn sử dụng các phương pháp xác
suất trong lấy mẫu vì nó cho kết quả đúng và chính xác hơn. Tuy nhiên trong thực tế, ở
những hoàn cảnh cụ thể không phải dễ dàng, cả về thực tế lẫn lý thuyết để áp dụng các
phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên. Trong trường hợp như vậy có thể sử dụng phương
pháp thay thế phi xác suất. Sự khác biệt giữa lấy mẫu xác suất và phi xác suất là ở chỗ
lấy mẫu phi xác suất không liên quan đến chọn lọc ngẫu nhiên như trong lấy mẫu
xác suất.
Điều này không có nghĩa là mẫu phi xác suất không đại diện cho quần thể, ngược lại
chúng luông đại diện nhưng ở các mức độ thấp khác nhau. Bất luận trong trường hợp
nào, điều quan trọng đáng lưu ý là mẫu theo cách phi xác suất không thể dùng trong
suy diễn của lý thuyết xác suất.
Chúng ta có thể chia lấy mẫu phi xác suất thành 2 loại là tình cờ và mục đích. Hầu hết
các phương pháp lấy mẫu phi xác suất thuộc nhóm có mục đích vì chúng ta luôn luôn
tiếp cận việc lấy mẫu với kế hoạch, ý đồ cụ thể.
2.2.1. Lấy mẫu tiện ích
Định nghĩa: lấy mẫu tiện ích chọn những cá thể dễ tiếp cận và dễ lấy mẫu nhất. Lấy
mẫu tiện ích không đại diện cho toàn bộ quần thể và được coi là thiên lệch.
Ví dụ, để giám sát sự lưu hành của virus cúm gia cầm, chúng ta có thể chỉ việc đứng ở
đường có vận chuyển gia cầm, dừng xe vận chuyển và lấy mẫu khi gặp. Đây là kiểu
lấy mẫu dễ nhất và đơn giải nhất, không liên quan đến bất kỳ một cơ chế ngẫu
nhiên nào.
Sơ đồ 7.6. Minh họa lấy mẫu tiện ích
77
2.2.2. Lấy mẫu chủ kiến
Trong lấy mẫu chủ kiến, chúng ta thu thập mẫu có chủ đích sẵn với một hoặc vài tiêu
chí cụ thể mà chúng ta cần tìm kiếm. Do lấy mẫu chủ kiến bắt đầu với mục đích có
sẵn, quá trình lấy mẫu chỉ lựa chọn những mẫu mong muốn, loại bỏ tất cả những mẫu
không phù hợp. Do vậy, lấy mẫu chủ kiến là phương pháp lấy mẫu phi xác suất, luôn
có thiên lệch và có sai số lớn
Sơ đồ 7.7. Minh họa lấy mẫu chủ kiến
Ví dụ minh họa: Một cán bộ Thú y đến thực địa để điều tra một đặc điểm nào đó của
bệnh LMLM. Có sẵn trong đầu ý tưởng và mục đích, nhóm những gia súc có biểu hiện
triệu chứng điển hình được lựa chọn, số khác có triệu chứng nhưng không đáp ứng tiêu
chí bị loại trừ. Tương tự, nghiên cứu khác đến lấy mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm virus
LMLM, người này chỉ lấy những mẩu bệnh phẩm mới, còn tươi và loại bỏ những mẫu
đã cũ, không phù hợp mục đích.
III. ƯỚC LƯỢNG CỠ MẪU
Mỗi công trình nghiên cứu dịch tễ thường dựa vào một bộ mẫu (sample), trong đó một
câu hỏi quan trọng trước khi tiến hành nghiên cứu là cần bao nhiêu mẫu hay bao nhiêu
đối tượng cho nghiên cứu ? “Đối tượng” ở đây là đơn vị căn bản của một nghiên cứu,
là số bệnh nhân, bệnh súc, số đối chứng không mắc bệnh.…
Việc tính số lượng mẫu cần thiết cho một công trình nghiên cứu đóng vai trò cực kì
quan trọng, có thể quyết định sự thành công hay thất bại của nghiên cứu. Trong thiết
kế nghiên cứu dịch tễ học, việc ước lượng kích cỡ mẫu phù hợp cũng là một phần quan
trọng. Số mẫu quá ít, suy luận logic không đủ ý nghĩa thống kê, số mẫu quá nhiều sẽ
dẫn đến chi phí cao và đôi khi không thực hiện được. Số lượng mẫu tùy thuộc vào loại
thiết kế nghiên cứu và thông số dự báo biết trước. Thông thường ước tính cơ số mẫu
78
“vừa đủ” dựa vào 3 số liệu: xác suất sai sót loại I và II; độ dao động của đo lường (thể
hiện bằng độ lệch chuẩn); và độ ảnh hưởng. Việc xác định cơ số mẫu là một việc khó,
đòi hỏi việc sử dụng khá thành thạo những hiểu biết về thống kê, sác xuất; bài giảng
này sẽ chỉ giới thiệu một số công thức tính phổ biến.
3.1. Ước tính cỡ mẫu để ước tính một tỉ lệ
Nhiều nghiên cứu có mục đích khá đơn giản là ước tính một tỉ lệ, ví dụ như tỉ lệ một
bệnh Gumboro trong quần thể gà nghiên cứu. Cách tính cơ số mẫu như trong một điều
tra cắt ngang. Trong một điều tra cắt ngang, cơ số mẫu cho lấy mẫu đơn thuần ngẫu
nhiên được tính theo công thức sau:
Ví dụ: Ước tính số mẫu cần thu thập và phân tích để đánh giá tỷ lệ nhiễm virus cúm A
H5N1 ở một đàn gà sao cho số liệu có độ tin cậy là 95% tương ứng với giá trị của hệ
số giới hạn tin cậy là 1,96; Sai số ước lượng (d) là 0,04 (hay độ chính xác mong muốn
là 0,96 tức 96%); Đã ước đoán sự lưu hành (Pexp=0.1, hoặc ước tính từ tỷ lệ nhiễm có
được từ một nghiên cứu khác) của virus cúm A H5N1 ở gà thuộc khu vực này là
khoảng 10%?
Thay các số liệu vào công thức trên ta có: 1.962*0.1*(1-0.1)/0.42=216.
3.2. Ước lượng cỡ mẫu cho 2 tỷ lệ
Trong nhiều trường hợp, ví dụ chúng ta muốn so sánh 2 nhóm thí nghiệm để đánh giá
hiệu quả của các sản phẩm thuốc thú y, ước lượng kích cỡ mẫu là rất phức tạp.
Những thông số sau đây cần biết trước.
Khả năng sai lầm loại I alpha (giá trị α, 2 bên), nghĩa là khả năng loại bỏ giả
thiết H0 khi giải thuyết là đúng.
Khả năng sai lầm loại II beta (giá trị β), nghĩa là khả năng chấp nhận giả thiết
H0 khi giải thuyết là sai.
P1 = tỷ lệ thứ nhất: tỷ lệ ước đoán/giả định của mẫu 1.
P2 = tỷ lệ thứ hai: tỷ lệ ước đoán/giả định của mẫu 2.
79
Lượng mẫu tối thiểu cần giám định ở mỗi nhóm mẫu được tính theo công thức sau:
Ví dụ: Trong phép thử so sánh hiệu quả bảo hộ của 2 nhóm vaccine (vaccine ngoại
nhập và nội địa), ví dụ vaccine phòng bệnh cúm A do H5N1 (sản phẩm 1 nhập ngoại
từ công ty A, so sánh với sản phẩm 2 nội địa từ công ty B), hiệu quả bảo hộ mong đợi
tương ứng là 70 và 60% (p1=70%, p2=60%). Chúng ta muốn phát hiện nếu 2 sản
phẩm này có độ bảo hộ khác nhau đến 15% (P1 – P2 =0.15), ở độ tin cậy sai lầm loại I
ở mức α = 0.05 và cho phép chấp nhận sai lầm loại II ở mức β=0.10.
Thay các trị số vào công thức trên ta được số mẫu cần thu thập để xét nghiệm cho mỗi
nhóm gia cầm tiêm vaccine tối thiểu là 211.
3.3. Ước lượng kích cỡ mẫu xác định sự có mặt của bệnh
Trong điều tra dịch bệnh gia súc thường có câu hỏi đặt ra là cần bao nhiêu mẫu xét
nghiệm để xác định sự có mặt của con vật mắc bệnh (không quan tâm đến việc xác
định tỷ lệ nhiễm). Trong trường hợp này chúng ta biết số lượng của tổng đàn và biết
được số động vật mắc bệnh trong đàn ta có thể tính được số mẫu cần thu thập theo
công thức sau:
Ví dụ, trong chiến dịch tiêm phòng bệnh LMLM, khi giám sát huyết thanh học, cần
biết trong số gia súc đã tiêm phòng có bao nhiêu trâu, bò có mang trùng bằng cách
kiểm tra nếu huyết thanh cho kết quả dương tính với kit 3ABC, số lượng mẫu tối thiểu
cần được tính toán (nghĩa là số đã phơi nhiễm với virus tự nhiên, không mắc bệnh
80
nhưng cho 3ABC dương tính, có thể coi là mang trùng). Một khi đã phơi nhiễm với
virus trong tự nhiên, số lượng gia súc nhiễm virus và mang trùng có thể phổ biến (giả
sử 5% sẽ dương tính trong xét nghiệm sử dụng kit 3 ABC). Quy trình lấy mẫu giám sát
được thiết kế cho việc phát hiện ít nhất có 5% số gia súc dương tính huyết thanh học.
Giả sử, với độ tin cậy P1 là 5%, đàn gia súc có 200 con bò, thay các trị số (N=200, d=
10 (5% của 200) và p1 = 0.95 vào công thức chúng ta có:
Như vậy, khi dự kiến trước số mẫu cho 3 ABC dương tính, 51 trong số 200 bò cần
được lấy mẫu để có thể phát hiện ít nhất 1 trường hợp dương tính (mang trùng) với độ
tin cậy 0.95%.
IV. LẤY MẪU, BẢO QUẢN, ĐÓNG GÓI VÀ GỬI MẪU
4.1. Khái niệm chung về công tác lấy mẫu
4.1.1. Mẫu vật
Mẫu dùng để xét nghiệm, chẩn đoán có thể là máu, tổ chức, sữa, chất tiết, chất chứa
lấy từ con vật (bệnh lâm sàng hoặc không bệnh) hoặc cả con vật cần xét nghiệm hay
xác chết của thú bệnh để xác định tác nhân gây bệnh.
4.1.2. Tầm quan trọng của việc lấy mẫu
- Mẫu được lấy để chẩn đoán-xét nghiệm phải đảm bảo tính chính xác.
- Là cơ sở pháp lý khi có kết luận chẩn đoán khác nhau.
- Phải đảm bảo an toàn, tránh lây nhiễm dịch bệnh thông qua việc lấy mẫu và gửi mẫu.
4.1.3. Nguyên tắc lấy mẫu
Đúng qui trình kỹ thuật: đảm bảo vô trùng, trình tự lấy bệnh phẩm (mẫu) phải
lấy từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từ sạch đến dơ, từ phủ tạng đến các
giác quan.
Mẫu phải mang tính đại diện (ổ dịch hoặc con bệnh).
Mẫu phải đủ số lượng và đạt tiêu chuẩn của mẫu để xét nghiệm (thời điểm lấy
mẫu, ví trí lấy mẫu trên cơ thể vật bệnh).
Tránh để các yếu tố ngoại cảnh làm biến đổi hoặc hư hỏng mẫu vật. Không để
tạp nhiễm, lấy nhiễm và nhầm lẫn giữa các mẫu vật (bệnh phẩm) trong quá
trình lấy mẫu, bảo quản và vận chuyển về xét nghiệm.
81
Đảm bảo sức khỏe của người lấy mẫu không bị lây nhiễm do tiếp xúc con bệnh
hoặc khi lấy bệnh phẩm.
4.2. Chuẩn bị các vật dụng cần thiết để lấy mẫu
4.2.1. Phiếu thu thập thông tin của mẫu bệnh phẩm
Nội dung của phiếu thu thập thông tin của mẫu bệnh phẩm tùy thuộc vào mục đích và
thiết kế điều tra nhưng nhất thiết phải có các thông tin để nhận diện được mẫu như ký
hiệu mẫu, tên chủ gia súc, địa chỉ ... Trong đó, ký hiệu mẫu là rất quan trọng nhất cần
phải đơn giản, có tính hệ thống, dễ phân biệt, nhận dạng và thường sử dụng ký tự (A,
B, C..) hoặc chữ số (1, 2, 3..) hoặc kết hợp cả hai.
4.2.2. Bảo hộ lao động
Dựa vào tính chất nguy hiểm của mầm bệnh và loại mẫu phải lấy để chuẩn bị bảo hộ
lao động phù hợp nhưng tối thiểu phải có áo blouse, găng tay, kính bảo hộ, khẩu trang,
mũ trùm đầu, ủng cao su, chất sát trùng phù hợp, bông gòn và giấy có khả năng
hút nước.
4.2.3. Dụng cụ lấy mẫu
- Dụng cụ để lấy mẫu huyết thanh, máu kháng đông: kim và serynge phù hợp với loài
gia súc được lấy mẫu. Ống nghiệm để chứa mẫu máu. Chất kháng đông máu nếu lấy
mẫu là máu kháng đông, tốt nhất nên dùng EDTA (chuẩn bị dung dịch kháng đông
như sau: 1gram EDTA pha trong 10ml PBS; dùng 0,1 ml dung dịch kháng đông cho 1
ml máu).
- Dụng cụ để lấy mẫu mô: Ống nghiệm, lọ bằng nhựa có nắp xoắn hoặc túi nylon để
chứa mẫu. Dao mỗ, kéo, kẹp có kích thước và số lượng các loại phải phù hợp với loài
gia súc được lấy mẫu và số lượng mẫu cần lấy. Dung dịch bảo quản mẫu phải phù hợp
với loại mẫu và mục đích xét nghiệm, ví dụ mẫu để xét nghiệm bệnh lý vi thể phải bảo
quản trong dung dịch PBS có 10% formol; mẫu để xét nghiệm nhằm xác định serotype
virus LMLM phải bảo quản trong dung dịch PBS có 50 % glycerol, với tỷ lệ trọng
lượng mô/thể tích dung dịch bảo quản là 1/ 9.
- Dụng cụ để lấy mẫu swab: ống nghiệm, lọ bằng nhựa có nắp xoắn đã có dung dịch
bảo quản để chứa mẫu, dung dịch bảo quản mẫu thông thường là PBS + 0,01% BSA
(bovine serum albumine) + kháng sinh, trong những trường hợp chuyên biệt phải dùng
dung dịch bảo quản phù hợp theo khuyến cáo của phòng thí nghiệm. Tăm bông
(tampon) phải là loại tăm bông chuyên dùng để lấy mẫu.
- Dụng cụ để lấy mẫu là dịch tiết, phân: ống nghiệm, lọ bằng nhựa có nắp xoắn để
chứa mẫu. Serynge, pipette... Nói chung, các dụng cụ này phải phù hợp với loài gia
súc và loại chất tiết cần phải lấy mẫu.
Ngoài các dụng cụ nêu trên cần phải có bút phù hợp để ghi ký hiệu mẫu trên ống
nghiệm, mực phải không phai khi tiếp xúc với nước. Có thể dùng nhãn để dán lên ống
82
nghiệm, lọ, túi nylon chứa mẫu và chất lượng giấy và keo của nhãn phải tốt để bảo
đảm không bị bong, tróc, nhoè mực trong quá trình bảo quản lạnh và vận chuyển.
4.2.4. Dụng cụ bảo quản trong quá trình lấy mẫu và vận chuyển mẫu
- Hộp bảo vệ mẫu bằng nhựa hoặc kim loại: dùng để chứa các ống nghiệm, lọ, túi
nylon đã có mẫu; đây là lớp bảo vệ thứ hai để bảo đảm dù ống nghiệm chứa mẫu có bị
nứt, vở trong quá trình vận chuyển thí bệnh phẩm cũng không thể thoát ra làm nhiễm
bẩn thùng chứa mẫu. Do đó, các hộp bảo vệ phải hoàn toàn kín sau khi đậy nắp và
kích thước phải phù hợp để đủ chứa các ống nghiệm, lọ, túi nylon chứa mẫu.
- Giấy có khả năng thấm nước cao: dùng để gói, chèn giữa các ống nghiệm đã có mẫu.
- Thùng chứa mẫu: thành thùng phải dầy, có khả năng chịu được va đập ở mức độ
trung bình và cách nhiệt để giữ được độ lạnh bên trong thùng.
- Hộp lạnh, túi lạnh (cool box, cool pack): dùng để làm lạnh, giữ ổn định nhiệt độ bên
trong thùng chứa mẫu (4oC - 8
oC). Nhất thiết phải sử dụng túi lạnh, hộp lạnh chuyên
dùng để bảo đảm chất lượng và an toàn trong quá trình bảo quản, vận chuyển mẫu.
4.3. Một số hướng dẫn chung trong công tác lấy mẫu
4.3.1. Lấy mẫu xét nghiệm: tùy theo đặc tính của từng loại bệnh mà chúng ta sẽ lấy
mẫu bệnh phẩm ở cơ quan tổ chức chức nào của cơ thể bệnh hoặc xác chết cho phù
hợp. Nguyên lý chung là lấy bệnh phẩm ở những cơ quan, tổ chức có bệnh tích điển
hình thì việc xét nghiệm-chẩn đoán sẽ thuận lợi hơn.
Cụ thể:
- Động vật nghi mắc bệnh LMLM thì lấy mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm là niêm mạc
lưỡi, biểu bì móng hoặc vú. Có thể lấy huyết thanh kiểm tra đáp ứng miễn dịch sau khi
tiêm vaccine.
- Heo nghi mắc bệnh dịch tả lấy máu, huyết thanh, hạch amidal, lách, thận để
xét nghiệm.
- Gà để xét nghiệm bệnh Gumboro nên lấy túi Fabricius (nên lấy cả con bệnh hay xác
chết) để xét nghiệm.
- Động vật nghi mắc bệnh nhiệt thán thì tuyệt đối không được mổ xác chết, chỉ dùng
tăm bông vô trùng thấm máu ở các lỗ tự nhiên hoặc cắt một mẫu đuôi hoặc mẫu tai,
sau đó phải sát trùng và đốt vết cắt.
- Các bệnh mãn tính như Leptospirosis, Brucellosis, Salmonellosis, Mycoplasma, …thì
lấy huyết thanh và phủ tạng.
4.3.2. Thời gian lấy mẫu
- Đối với động vật sống tốt nhất là đang bệnh hoặc ủ bệnh.
- Đối với bệnh mãn tính nên định kỳ 6 tháng lấy máu (huyết thanh) kiểm tra.
83
- Đối với xác súc vật chết nên lấy càng sớm càng tốt, không để qua 2 giờ vì bị nhiễm
tạp khuẩn và thối rữa.
4.3.3. Phương pháp lấy mẫu sữa và mẫu xương để xét nghiệm
- Mẫu sữa: trước khi lấy sữa các núm vú phải được rửa bằng nước ấm và lau khô bằng
khăn sạch các đầu núm vú, vắt bỏ những tia sữa đầu, sau đó mỗi mẫu sữa của từng bầu
vú (núm vú) được chứa trong những bình riêng, khi lấy sữa cần giữ bình thẳng đứng
với tia sữa. Sữa là môi trường rất thuận lợi cho sự phát triển của các vi sinh vật, vì vậy
phải đặc biệt chú ý khi bảo quản, vận chuyển để sữa không bị tạp nhiễm hoặc hư hỏng,
vì thế khi lấy xong cần chuyển đến phòng xét nghiệm ngay.
Mẫu xương: nếu động vật đã chết lâu hoặc nghi ngờ đã bị phân hủy bởi các vi khuẩn
yếm khí hoặc tạp nhiễm thì phải lấy tủy xương vì đây là vị trí cuối cùng bị nhiễm trong
xương. Các loại xương thường lấy là xương hàm, xương cánh, xương đùi, xương sườn,
xương ống.
4.4. Lấy mẫu bệnh phẩm .
Trước khi tiến hành lấy mẫu bệnh phẩm cán bộ điều tra thực địa cần phải xác định
được các vấn đề sau:
- Mục đích của việc lấy mẫu và các chỉ tiêu cần phải xét nghiệm: lấy mẫu để phát hiện
mầm bệnh, kháng thể; xác định tỷ lệ lưu hành của mầm bệnh, kháng thể; xem xét tổ
thương của mô ở mức độ vi thể. . .(tại sao phải lấy mẫu, lấy mẫu để làm gì ?)
- Loại mẫu phải lấy: tuỳ thuộc vào mục đích điều tra, loại mầm bệnh, giai đoạn nhiễm
bệnh và chỉ tiêu xét nghiệm; Nói chung, loại mẫu để phát hiện mầm bệnh khác với loại
mẫu để phát hiện kháng thể, mẫu để phát hiện các mầm bệnh tấn công vào hệ tiêu hóa
sẽ khác với mẫu để phát hiện các mầm bệnh tấn công vào hệ thần kinh; Loại mẫu để
phát hiện các cá thể mang trùng sẽ khác với loại mẫu để xác chẩn ca bệnh cấp tính
(loại mẫu gì là phù hợp với mục đích điều tra và kỹ thuật xét nghiệm sẽ áp dụng ?).
- Số lượng mẫu phải lấy: tùy thuộc mục đích và độ nhạy của điều tra theo thiết kế,
thông thường số lượng mẫu điều tra được tính theo các trường hợp sau:
Điều tra để phát hiện mầm bệnh, kháng thể: dùng công thức tính dung lượng
mẫu để phát hiện bệnh (Detection of diseases).
Điều tra để xác định tỷ lệ lưu hành của mầm bệnh, kháng thể: dùng công thức
ước tính tỷ lệ lưu hành (Estimate percentage).
Trong những nghiên cứu chuyên biệt thì phải dùng công thức tính số lượng mẫu
phù hợp với mô hình nghiên cứu (nghiên cứu bệnh-chứng, nghiên cứu đoàn hệ,.
.).
Trong trường hợp lấy mẫu để xác định và chẩn đoán ca bệnh, ổ dịch thì lấy các
loại mẫu phù hợp của từ 3-5 cá thể có triệu chứng và bệnh tích điển hình.
84
4.4.1. Lấy mẫu để phát hiện kháng thể.
Để phát hiện hoặc định lượng kháng thể mẫu phải lấy là huyết thanh, hầu hết các kỹ
thuật xét nghiệm huyết thanh học nhằm phát hiện kháng thể đều thực hiện với mẫu
huyết thanh. Trong trường hợp cá biệt như phát hiện kháng thể bệnh Brucellosis, ngoài
huyết thanh, có thể lấy mẫu sữa nhưng phải áp dụng phương pháp xét nghiệm phù
hợp.
- Lượng huyết thanh: tối thiểu 3 ml / mẫu; đủ để thực hiện lập lại các xét nghiệm, lưu
mẫu tại phòng thí nghiệm và gửi đi nước ngoài để xác chẩn hoặc nghiên cứu thêm khi
cần thiết. Tỷ lệ huyết thanh/tổng thể tích máu là từ 40 - 60%, do đó lượng máu phải
lấy là không ít hơn 7ml máu/mẫu. Trong trường hợp chỉ cần thực hiện 1 xét nghiệm để
phát hiện kháng thể thì mẫu huyết thanh tối thiểu là 1ml.
- Mẫu sữa: tối thiểu 10ml/ mẫu, bảo quản ở điều kiện nhiệt độ từ 4oC - 8
oC. Do sữa có
nhiều chất dinh dưỡng, là môi trường tốt cho vi trùng phát triển nên tốt nhất là chuyển
ngay về phòng thí nghiệm.
- Bảo quản: mẫu huyết thanh có thể bảo quản được 7 ngày ở điều kiện nhiệt độ từ 4oC
- 8oC. Với mẫu huyết thanh muốn bảo quản lâu hơn phải ở nhiệt độ - 25
oC.
4.4.2. Lấy mẫu để phát hiện vi sinh vật gây bệnh (mầm bệnh)
Các vi sinh vật sẽ sinh sản sau khi nhiễm được vào cơ thể ký chủ, tùy thuộc vào tốc độ
sinh sản và các loại mô thích hợp để vi sinh vật sinh sản mà ký chủ có thời gian ủ bệnh
và triệu chứng bệnh khác nhau.
Triệu chứng bệnh là biểu hiện của sự rối loạn chức năng, thay đổi về hình thái tổ chức
của các cơ quan, phủ tạng tương ứng; Chức năng của các cơ quan này bị rối loạn, hình
thái tổ chức bị thay đổi là do bị tổn thương khi có vi sinh vật xâm nhập, sinh sản và sự
tương tác giữa vi sinh vật với hệ thống miễn dịch. Có nhiều vi sinh vật khi xâm nhập
vào cơ thể chỉ có thể sinh sản tốt ở một số cơ quan, phủ tạng nhất định từ đó tạo ra các
tổn thương (bệnh tích) và triệu chứng rất đặc trưng, đó là cơ sở cho các kết luận chẩn
đoán dựa trên triệu chứng và bệnh tích đặc trưng của từng bệnh riêng biệt.
Cũng dựa trên cơ sở đó, khi lấy mẫu để xét nghiệm nhằm phát hiện vi sinh vật gây
bệnh phải tập trung lấy mẫu tại các cơ quan, phủ tạng, vùng mô có tổn thương.
Tóm lại, tất cả các cơ quan, phủ tạng, vùng mô có tổn thương đều có thể là mẫu thích
hợp để xét nghiệm nhằm mục đích phát hiện vi sinh vật gây bệnh. Thông thường lấy
mẫu từ các cơ quan, phủ tạng để phát hiện hầu hết các vi sinh vật được thực hiện như
sau:
- Phổi, gan, lách, thận, não: mỗi mẫu lấy từ 10 - 20 gram.
- Hạch lympho: lấy cả hạch lymbo còn nguyên màng bao.
- Tonsil (hạnh nhân): lấy cả tonsil.
- Tim: nên lấy nguyên quả tim, dùng chỉ buột chặt cuốn động mạch và tĩnh mạch để
giữ nguyên máu trong tim.
85
- Ruột: nên lấy một đoạn ruột thích hợp, dài khoảng 10cm, dùng chỉ buột chặt hai đầu
để giữ nguyên chất chứa bên trong đoạn ruột lấy mẫu.
- Nếu nghi ngờ bệnh LMLM: mẫu phải lấy là dịch trong mụn nước, niêm mạc lưỡi, lợi
bị bong ra do mụn nước bị vở; lớp da bị bong ra do mụn nước bị vở ở kẻ chân, vành
móng. Mẫu phải bảo quản trong dung dịch PBS có 50% glycerol.
- Mẫu để xét nghiệm ký sinh trùng đường máu: lấy máu ở tĩnh mạch tai, làm ngay tiêu
bản phiết kính để nhuộm bằng thuốc nhuộm phù hợp và xem bằng kính hiển vi.
- Mẫu để xét nghiệm ký sinh trùng đường ruột: lấy mẫu phân (10 gram/mẫu) hoặc mẫu
ruột như mô tả ở trên.
- Mẫu để thực hiện các xét nghiệm bằng kỹ thuật vi thể phải bảo quản trong dung
dịch PBS có 10% formol, kích thước mỗi mẫu không quá 0,5cm x 0,5cm x 0,5cm.
- Bảo quản: các mẫu kể trên nên chứa trong các ống nghiệm, lọ riêng biệt và có ký
hiệu rõ ràng; phải bảo quản ở điều kiện nhiệt độ từ 4oC - 8
oC và chuyển về phòng thí
nghiệm trong vòng 3- 4 ngày là tốt nhất. Các mẫu để phát hiện vi khuẩn không được
bảo quản ở nhiệt độ âm vì tế bào vi khuẩn sẽ bị phá vở trong quá trình đông – rã đông.
Các mẫu để phát hiện mầm bệnh là virus khi cần bảo quản lâu dài thì phải bảo quản ở
điều kiện nhỏ hơn - 85oC.
Nếu trong thiết kế điều tra có sử dụng các xét nghiệm thì lấy mẫu là khâu khởi đầu của
các xét nghiệm, do đó cần phải thảo luận với phòng thí nghiệm để thống nhất phương
án lấy mẫu, các chỉ tiêu cần xét nghiệm để đạt được mục đích điều tra và kế hoạch lấy
mẫu để các bên liên quan có kế hoạch chuẩn bị chu đáo trước khi thực hiện.
4.5. Bảo quản bệnh phẩm trong quá trình vận chuyển mẫu
Các bệnh phẩm chứa trong dung dịch bảo quản có thể đông lạnh ở nhiệt độ từ
0 – 40C đối với các bệnh phẩm xét nghiệm virus, còn các bệnh phẩm xét
nghiệm vi khuẩn là 8-120C.
Các bệnh phẩm nghi có virus thường được bảo quản trong các dụng cụ bằng
thủy tinh trung tính, với bệnh phẩm xét nghiệm vi khuẩn, ký sinh trùng, nấm
mốc thì thường chứa trong các dụng cụ thủy tinh, nhựa hoặc đựng trong bọc ni
lông.
Số lượng các mẫu bệnh phẩm cần lấy thường là máu, dịch thể thì lấy 300ml; cơ
quan, tổ chức, phủ tạng, phân lấy 30 gram; huyết thanh lấy 5ml; xương lấy 1
ống.
4.6. Bao gói bệnh phẩm
Bệnh phẩm là máu, dịch thể, phủ tạng, phân phải chứa đựng trong dụng cụ bằng
thủy tinh có nắp vặn hoặc nút cao su được cột chặt không cho rỉ thấm dịch ra
ngoài.
Bệnh phẩm là xương bao gói bằng ni lông (có thể bọc trong mùn cưa đã sấy
khô hoặc phơi nắng), băng kín, cột chặt không cho rỉ dịch ra ngoài.
86
Bệnh phẩm được bọc lót bằng một lớp bông thấm nước đệm và đựng trong hộp gỗ,
nhựa hoặc hộp bằng kim loại.
Bảo quản bệnh phẩm đã bao gói trong nhiệt độ thích hợp theo qui định tùy theo loại
bệnh phẩm cần xét nghiệm virus hay vi khuẩn.
Bên ngoài hộp đựng bệnh phẩm phải ghi rõ địa chỉ cơ quan gửi bệnh phẩm và cơ quan
nhận bệnh phẩm.
4.7. Gửi mẫu
Mỗi mẫu bệnh phẩm khi gửi đi xét nghiệm đều phải gửi kèm theo 1 phiếu gửi mẫu,
với nội dung kèm theo:
PHIẾU GỬI MẪU
Tên tổ chức, cơ quan, cá nhân gửi mẫu:
Địa chỉ số điên thoại: Fax: E.mail:
Cơ quan nhận mẫu:
Địa chỉ số điện thoại: Fax: E.mail:
Loại mẫu: ghi đầy đủ từng loại bệnh phẩm, số lượng cụ thể
Mã ký hiệu của từng loại bệnh phẩm
Dung dịch bảo quản (nếu có)
Thông tin về ổ dịch:
Nơi xảy ra:
Ngày phát dịch:
Tổng số động vật bệnh:
Tổng số động vật chết:
Ngày lấy mẫu:
Người lấy mẫu:
Mô tả triệu chứng, bệnh tích ghi nhận được (có biên bản mổ khám gửi kèm) :
Hướng chẩn đoán ban đầu và đề nghị xét nghiệm:
Ngày gửi mẫu:
V. YẾU TỐ SAI LỆCH KHI LẤY MẪU THỰC TẾ
Thu thập mẫu có thể không hoàn toàn được như thiết kế do các lý do mang tính thực
tiễn như sau:
87
5.1. Kinh phí cho việc thu thập mẫu
Thu thập mẫu theo thiết kế là một hoạt động dịch tễ quan trọng nhưng không phải khi
nào cũng như thiết kế đề ra do rất tốn kém.
5.2. Chi phí trực tiếp đi thu thập mẫu
Chi phí thu thập mẫu hạn hẹp đôi khi ảnh hưởng rất lớn đến số lượng và chất lượng
của mẫu thu thập ở bước triển khai. Chi phí thu thập mẫu tại thực địa cần bao gồm:
Tổ chức thu thập mẫu ở địa phương.
Chi phí cho người đi thu thập mẫu.
Chi phí cho người trả lời câu hỏi điều tra cũng như cung cấp gia súc lấy mẫu.
Chi phí hỗ trợ cho gia súc khi thực hành lấy mẫu.
5.3. Sai lệch do sự cộng tác các bên liên quan trong thu thập mẫu
Các chương trình thu thập mẫu trong nghiên cứu, điều tra dịch tễ học chỉ thuận lợi khi
gắn liền với các chương trình y tế/thú y. Trong trường hợp thực thi riêng, chương trình
thu thập mẫu cần được giải thích rõ ràng đối với các cơ quan hữu quan và những nhóm
đối tượng, cần được chính quyền địa phương và người dân ủng hộ. Việc thu thập mẫu
đôi khi phụ thuộc nhiều vào nhận thức của người dân.
Tài liệu tham khảo
1. B. Toma (1997). Épidémiologie Appliquée à la lutte collective contre les maladies
animales transmissible majeures. Maison-Alfort, France.
2. Cục Thú y (2007). Hướng dẫn sử dụng hệ thống thông tin dịch bệnh động vật
3. Nguyễn Như Thanh, Lê Thanh Hòa và Trương Quang (2011). Giáo trình phương
pháp nghiên cứu Dịch tễ học thú y. NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ
4. Nguyễn Viết Kông (20010). Chương trình đào tạo Dịch tễ học ứng dụng. AVET
Hà Nội
5. Stephen C. Newman (2001). Biostatistical methods in epidemiology. John Wiley
& Sons, Inc. USA.
6. Trương Hà Thái (2011). Bài giảng Dịch tễ học Thú y. Đaị học Nông nghiệp Hà
Nội
Câu hỏi
1. Trình bày phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên và lấy mẫu phi xác suất ?
2. Giải thích các cách ước tính cở mẫu, cho ví dụ minh họa từng trường hợp ?
3. Giải thích các yếu tố sai lệch khi lấy mẫu thực tế ?
88
CHƯƠNG 8
BIỆN PHÁP PHÒNG - CHỐNG DỊCH BỆNH ĐỘNG VẬT
I. NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Theo cảnh báo của tổ chức bảo tồn động vật hoang dã (WCS), khoảng 70% các bệnh
truyền nhiễm tác động đến con người có nguồn gốc từ các loài động vật hoang dã
(Leanne Clark, 2011).
Dịch bệnh động vật hay các bệnh truyền nhiễm của động vật xảy ra là do các mầm
bệnh ở trong các nguồn bệnh được truyền sang gia súc cảm thụ, thông qua các mối liên
hệ giữa nguồn bệnh, yếu tố truyền lây và gia súc cảm thụ.
Do đó, quá trình dịch là do 3 khâu là nguồn bệnh, yếu tố truyền lây, động vật cảm thụ
và có sự liên hệ giữa 3 khâu, nếu thiếu 1 trong 3 khâu, nhất là thiếu khâu thứ nhất thì
không thể nào xảy ra bệnh truyền nhiễm được. Nếu có đủ 3 khâu nhưng không có sự
liên hệ giữa 2 trong 3 khâu thì bệnh cũng không thể xảy ra được.
Vì thế, biện pháp cơ bản của các phương pháp phòng chống bệnh truyền nhiễm là xoá
bỏ một hay nhiều khâu cuả quá trình truyền lây hoặc xoá bỏ mối quan hệ của các khâu
đó.
Nguồn bệnh là khâu đầu tiên là điểm xuất phát của quá trình dịch bệnh, nếu xoá bỏ
được khâu này là xoá bỏ hoàn toàn được bệnh là biện pháp lý tưởng nhất vì bệnh sẽ
không thể xảy ra được nữa, nhưng nếu tác động cùng một lúc đến cả 3 khâu thì hiệu
quả phòng chống bệnh sẽ nhanh chóng hơn, nếu tác động đến khâu thứ 3 là gia súc
cảm thụ nghĩa là đã gián tiếp tác động đến khâu thứ nhất của quá trình truyền lây là
nguồn bệnh, vì gia súc cảm thụ sau khi mắc bệnh sẽ trở thành nguồn bệnh, số nguồn
bệnh tăng lên sẽ thúc đẩy quá trình truyền lây, do đó nếu giảm được số lượng gia súc
cảm thụ thì sẽ ngăn chặn quá trình phát sinh dịch bệnh, hạn chế số lượng nguồn bệnh
tức là làm giảm số mầm bệnh.
Tuy nhiên, chúng ta thấy cả 3 khâu của quá trình sinh dịch có liên quan ảnh hưởng tới
nhau, tác động đến khâu này sẽ ảnh hưởng đến khâu kia. Cho nên các biện pháp phòng
chống dịch bệnh phải là các biện pháp tổng hợp để mang lại hiệu quả cao nhất.
Sau đây, là một số thuật ngữ thường dùng trong bệnh truyền nhiễm
- Thời kỳ nung bệnh hay ủ bệnh (incubation period): là khoảng cách thời gian giữa khả
năng bị lây từ một tác nhân truyền nhiễm và sự xuất hiện những triệu chứng đầu tiên
của một ca bệnh.
- Thời kỳ tiền phát (prepatent period): là khoảng thời gian giữa sự nhiễm tới khi bài
xuất mầm bệnh truyền nhiễm.
- Động vật mang trùng (carrier): là động vật bị nhiễm chứa một tác nhân gây nhiễm
đặc biệt mà không thể hiện triệu chứng lâm sàng rõ rệt nhưng là nguồn dịch cho các
89
động vật khác. Trạng thái mang trùng có thể là không rõ rệt trong suốt quá trình bị
nhiễm hay có thể xảy ra trong thời kỳ nung bệnh hoặc trong thời kỳ hồi phục.
- Động vật nhiễm bệnh: là động vật chưa có những triệu chứng điển hình của bệnh đó,
nhưng có những biểu hiện tương tự như động vật mắc bệnh.
- Động vật nghi nhiễm bệnh: là động vật dễ nhiễm đã tiếp xúc hoặc ở gần động vật
mắc bệnh hoặc nghi mắc bệnh.
- Nguồn dịch (reservoir): là vi sinh vật sống ký sinh trên cơ thể động vật hay trong môi
trường ngoại cảnh (đất, nước, không khí…) mà ở đó chúng có khả năng tồn tại, duy trì
sự sống, nhân lên và chúng có thể gây bệnh làm lây lan bệnh.
- Sự nhiễm (infection): là tác nhân truyền nhiễm có khả năng xâm nhập, phát triển và
nhân lên trong cơ thể động vật sống.
- Sự vấy nhiễm (contamination): là sự có mặt của các tác nhân gây nhiễm trong môi
trường với một số lượng vượt quá giới hạn cho phép.
- Tính cường độc hay độc lực (virulence): là khả năng của một tác nhân có thể gây
bệnh nặng cho động vật.
II. BIỆN PHÁP ĐỐI VỚI NGUỒN BỆNH
Khi dịch bệnh chưa xảy ra, nguồn bệnh là động vật mang trùng bao gồm động vật lành
bệnh mang trùng và động vật khoẻ mang trùng. Khi dịch đã phát ra trong phạm vi ổ
dịch, nguồn bệnh có thêm động vật đang mắc bệnh và động vật nghi lây.
2.1. Động vật mang trùng
Phải tìm mọi cách phát hiện bằng cách xét nghiệm vi sinh học, huyết thanh học, phản
ứng dị ứng...Khi đã phát hiện được cần phải cách ly, không cho tiếp xúc với động vật
khoẻ. Nếu số lượng động vật mang trùng ít nên xử lý nhanh theo hướng dẫn của cơ
quan Thú y và Luật thú y. Nếu mang trùng nhiều thì đem nuôi nhốt tập trung vào một
chỗ riêng biệt để chờ hướng dẫn xử lý của cơ quan Thú y.
2.2. Động vật bệnh
Động vật bệnh là trung tâm của ổ dịch vì nó là nguồn bệnh, nó có thể báo hiệu sự có
mặt của các nguồn bệnh tiềm tàng khác. Muốn dập tắt ổ dịch cần phải nhằm đối tượng
chủ yếu và trước tiên là động vật bệnh, phải phát hiện sớm bằng mọi cách, nếu chưa
xác định được hoặc nghi ngờ vẫn phải có biện pháp phòng ngừa lây lan. Nguyên tắc
nếu một động vật bệnh sốt chưa rõ nguyên nhân phải được nghi là mắc bệnh
truyền nhiễm.
Động vật bệnh được phát hiện phải được cách ly tại chỗ, kịp thời và triệt để. Trường
hợp nhận thấy điều trị khó có kết quả hoặc tốn kém, hoặc khi con vật lành bệnh nhưng
không có tác dụng kinh tế hoặc thành con mang trùng thì nên xử sớm.
Ví dụ như bệnh Lao của bò sữa, bệnh CRD của gia cầm…
90
2.3. Động vật nghi mắc bệnh
Động vật nghi mắc bệnh là động vật có triệu chứng, bệnh tích chưa rõ và chưa xác
định được nguồn bệnh hoặc là động vật ở trong vùng dịch mà có biểu hiện triệu chứng
mệt mõi, bỏ ăn, sốt… cũng phải được xử lý như động vật mắc bệnh.
2.4. Động vật nghi lây
Động vật nghi lây là động vật đã tiếp xúc với động vật bệnh hoặc với môi trường có
mầm bệnh: nuôi chung, chăn chung, dùng chung đồ vật, đã tiếp xúc với các môi giới,
với người có nhiễm mầm bệnh…Về nguyên tắc, mọi động vật cảm thụ với bệnh ở
trong ổ dịch phải coi là động vật nghi lây.
2.5. Điều trị động vật bệnh
Điều trị bệnh truyền nhiễm là một biện pháp tích cực vừa có tác dụng chống vừa có tác
dụng phòng vì vừa tiêu diệt mầm bệnh vừa tiêu diệt nguồn bệnh, hạn chế lây lan, hạn
chế hiện tượng mang trùng và ngăn ngừa được một số bệnh mãn tính. Trong khi điều
trị phải vừa tiêu diệt mầm bệnh và độc tố vừa nâng cao sức đề kháng.
Nguyên tắc điều trị
- Điều trị sớm để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan.
- Điều trị mọi mặt, bằng nhiều biện pháp.
- Điều trị căn nguyên cơ chế là chủ yếu, kết hợp điều trị triệu chứng và tăng cường
công tác hộ lý.
- Điều trị lành bệnh, nếu những gia súc trở thành mang trùng thì không nên điều trị.
- Điều trị phải có quan điểm kinh tế.
- Những bệnh nguy hiểm cho người thì không điều trị.
- Những cơ sở dùng để chữa bệnh truyền nhiễm phải được cách ly tốt với môi trường
xung quanh.
III. BIỆN PHÁP ĐỐI VỚI YẾU TỐ TRUYỀN LÂY
Các biện pháp này có mục đích làm cho yếu tố có khả năng truyền lây không mang
mầm bệnh. Khi có dịch cũng như khi chưa có dịch, với các yếu tố truyền lây là sinh
vật, bên ngoài gia súc nuôi và người phải dùng các biện pháp tiêu diệt hoặc ngăn cản
không cho chúng tiếp xúc với gia súc nuôi. Trong trường hợp có dịch cần có biện pháp
đối phó với xác chết và một số thú sản.
Tóm lại, đối với yếu tố truyền lây chúng ta phải thường xuyên thực hiện các biện pháp
vệ sinh thức ăn, nước uống, vệ sinh thân thể, chuồng trại, khu vực chăn nuôi, tiêu độc
trong và ngoài khu vực chuồng nuôi. Đồng thời phải tiến hành tiêu diệt dã thú, chuột,
côn trùng, tiết túc và xử lý xác chết động vật.
91
3.1. Tiêu độc
Tiêu độc là biện pháp nhằm loại trừ và tiêu diệt mầm bệnh ở môi trường bên ngoài cơ
thể động vật như vệ sinh tiêu độc chuồng trại, phương tiện dụng cụ chăn nuôi và các
dụng cụ khác có thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm lây lan bệnh cho động vật hoặc gián
tiếp gây ô nhiễm cho sản phẩm động vật. Có các phương pháp tiêu độc sau:
Tiêu độc cơ giới: gồm quét dọn, lau chùi, cọ rửa hoặc cạo lớp ngoài của dụng cụ, nền
chuồng… Mục đích giảm bớt số mầm bệnh, giảm bớt những chất thích hợp cho sự tồn
tại của mầm bệnh và giúp phát huy tác dụng của phương pháp tiêu độc khác. Vì vậy,
tiêu độc cơ giới phải đi trước các phương pháp khác.
Tiêu độc vật lý: có rất nhiều biện pháp để tiêu độc như dùng sức nóng khô (đốt, phơi
khô, hấp khô…), sức nóng ướt (đun sôi, hấp Pasteur, hấp ướt), dùng tia cực tím, tia tử
ngoại…
Tiêu độc hoá học: là biện pháp thường dùng nhất, có chất sát trùng tác động bằng cách
làm vón protein của vi sinh vật hoặc phá huỷ protein hoặc hoá hợp protein làm thành
những chất không hoà tan được. Các chất sát trùng thường chia làm 3 dạng: dạng bột,
dạng khí, dạng lỏng. Các chất sát trùng đòi hỏi phải có một nồng độ nhất định và thời
gian tác động nhất định mới có tác dụng và tác dụng sẽ tăng lên khi nhiệt độ được
nâng cao.
Tiêu độc sinh vật học: thường dùng phương pháp nhiệt sinh vật học. Do trong phân,
nước tiểu, chất độn chuồng có nhiều loại vi khuẩn lên men, làm cho nhiệt độ của phân
ủ tăng lên cao, có khi tới 750C. Với nhiệt độ đó kéo dài khoảng 10-15 ngày, có thể tiêu
diệt phần lớn các vi khuẩn gây bệnh không có nha bào, virus, một số loại nấm, trứng
giun sán và ấu trùng của chúng.
3.2. Tiêu diệt côn trùng tiết túc
Côn trùng tiết túc ngoài vai trò là yếu tố tryền lây, một số còn là nguồn bệnh. Chính vì
thế, tiêu diệt chúng hoặc ngăn cản chúng tiếp xúc với động vật nuôi có tác dụng lớn
trong việc phòng và chống bệnh truyền nhiễm.
3.3. Tiêu diệt chuột
Chuột vừa yếu tố truyền lây vừa là nguồn bệnh, do vậy cần có biện pháp tiêu diệt và
ngăn cản chúng tiếp xúc với gia súc, thức ăn và các dụng cụ chăn nuôi khác.
3.4. Xử lý xác chết
Một trong những yếu tố truyền lây quan trọng của ổ dịch chính là xác chết của động
vật mắc các dịch bệnh truyền nhiễm. Do vậy, phải có những biện pháp xử lý thích
đáng mới ngăn chăn dịch lây lan. Xác động vật chết do bệnh truyền nhiễm phải đem
chôn, đốt ở những nơi xa khu dân cư, xa nguồn nước, bải chăn thả…
IV. BIỆN PHÁP BẢO VỆ ĐỘNG VẬT CẢM THỤ
Các biện pháp này đều nhằm mục đích tăng cường sức đề kháng của gia súc chống lại
mầm bệnh. Trong chăn nuôi và thú y người ta thường dùng các biện pháp sau:
92
4.1. Tăng cường sức đề kháng không đặc hiệu
Bằng cách giải quyết tốt khâu vệ sinh, thức ăn, nước uống, chăm sóc, nuôi dưỡng, sử
dụng gia súc hợp lý, định kỳ tẩy trừ giun sán.
4.2. Chọn lọc và tạo giống có sức đề kháng
Con người bằng các phương pháp khoa học và tiên tiến hiện nay đã và đang tìm ra
những giống – dòng vật nuôi có năng xuất cao và sức chống chịu với bệnh tốt.
4.3. Tạo miễn dịch chủ động bằng vaccine
Đây là biện pháp chủ động, tích cực, mang lại hiệu quả cao đặc biệt là đối với những
nơi hay xảy ra dịch, nơi có nguồn dịch thiên nhiên. Tiêm vaccine được thực hiện khi
chưa có dịch (tiêm phòng) hoặc khi đã có dịch (chống dịch).
Danh mục các bệnh phải tiêm phòng bắt buộc theo Quyết định số 63/2005/QĐ- BNN
ngày 13/10/2005 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT bao gồm 8 bệnh: bệnh
LMLM, bệnh nhiệt thán, bệnh tụ huyết trùng trâu, bò, heo, bệnh dịch tả heo, bệnh dại,
bệnh Newcastle, bệnh dịch tả vịt.
Tổ chức tiêm phòng: công tác tiêm phòng phải được tiến hành theo một kế hoạch dài
hạn, nhằm hạn chế và tiến tới thanh toán một số bệnh truyền nhiễm. Khi lập kế hoạch
tiêm phòng cần dựa vào tình hình dịch đã điều tra được qua nhiều năm và khả năng
phát triển đàn gia súc, kế hoạch cần phải nêu lên được:
- Số lượng động vật nuôi cần tiêm phòng định kỳ theo kế hoạch chung của cả nước.
- Tình hình dịch bệnh động vật của địa phương và các vùng lân cận.
- Số lượng và chủng loại vaccine cần tiêm phòng.
- Các vùng cần tiêm phòng gồm các ổ dịch cũ, vùng biên giới, nơi tập trung động vật
nuôi, các vùng bị dịch đe doạ, các trại chăn nuôi tập trung.
- Lịch tiêm phòng căn cứ vào mùa phát bệnh, độ dài miễn dịch của vaccine, thời gian
sử dụng gia súc và thời vụ có biến động nhiều nhất của đàn gia súc.
Nói chung, cần phải tiêm phòng trước 1 tháng vào mùa dịch bệnh của động vật thường
xảy ra. Ngoài các đợt tiêm phòng chính, còn có các đợt tiêm phòng bổ sung. Các đợt
tiêm phòng phải thực hiện nhanh gọn, làm xong trong một thời gian ngắn. Phải đạt tỷ
lệ tiêm phòng cao (thường phải trên 90% số động vật trong diện tiêm phòng bắt buộc)
và đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật.
4.4. Tạo miễn dịch bằng kháng huyết thanh
Tiêm kháng huyết thanh để tạo miễn dịch thụ động cho động vật bởi ngay sau khi tiêm
kháng huyết thanh, cơ thể gia súc đã có khả năng chống được bệnh. Vì vậy, kháng
huyết thanh thường được sử dụng trong trường hợp phòng bệnh một cách khẩn cấp
cho gia súc chưa phát bệnh ở trong ổ dịch, gia súc ở vùng trực tiếp bị dịch uy hiếp.
93
Tuy nhiên, do thời gian miễn dịch sau khi tiêm kháng huyết thanh ngắn (kéo dài từ 1 -
3 tuần), nên sau khoảng 10 ngày cần tiêm vaccine để tạo miễn dịch chủ động, lâu dài.
Tiêm kháng huyết thanh thường áp dụng cho những giống gia súc quý, phòng bệnh
gấp, hay trước khi vận chuyển sang vùng khác,…Do giá thành cao nên chỉ sử dụng khi
thật cần thiết và phải tiêm đúng cách, đúng liều lượng của nhà sản xuất khuyến cáo.
V. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN TRONG Ổ DỊCH ĐỘNG VẬT
5.1. Cơ sở để đề ra biện pháp phòng chống bệnh
- Dựa vào đặc điểm của từng bệnh: căn bệnh, cách truyền lây, tính chất dịch tễ học,
ảnh hưởng của bệnh đến kinh tế-xã hội và sức khoẻ con người, qua đó đề ra các biện
pháp phòng chống khác nhau.
- Tình hình dịch bệnh trong nước và trên thế giới (quá khứ và hiện tại).
Ví dụ, bệnh dịch tả trâu-bò xảy ra ở nước ta lần cuối vào năm 1968 nhờ vào các biện
pháp phòng chống dịch tích cực đến nay bệnh đã được thanh toán. Trên thế giới vào
năm 1999, chỉ còn có Afganistan xảy ra bệnh này
Bệnh LMLM, năm 2000-2001 tái xuất hiện trở lại tại một số nước từ lâu đã thanh toán
được bệnh này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh Quốc và một số nước Châu Âu.
- Để đề ra các biện pháp phòng chống bệnh có hiệu quả, những người làm công tác
phòng chống bệnh phải hiểu biết về tình hình và diễn biến dịch bệnh của địa phương
mình quản lý, trên cơ sở đó mà đề ra các biện pháp phòng chống bệnh khác nhau, tuỳ
theo từng bệnh, theo điều kiện, thời gian và hoàn cảnh của từng địa phương.
- Dựa vào các văn bản liên quan đến phòng chống dịch bệnh: Luật Thú y Quốc tế,
Pháp lệnh Thú y, Nghị định, Điều lệ. Một số quy định đã ban hành như Quy định số
63, 64/2005/QĐ-BNN ngày 13/10/2005 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT về
các bệnh bắt buộc phải công bố dịch và các bệnh phải tiêm phòng bắt buộc, Quy định
38/2006/QĐ-BNN ngày 16/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn về phòng chống bệnh LMLM gia súc….
5.2. Các biện pháp phòng bệnh
5.2.1. Biện pháp chung
- Thực hiện tốt các qui trình vệ sinh thú y cơ sở chăn nuôi, bao gồm kết cấu chuồng
trại, thức ăn, nước uống, hệ thống thông gió, hệ thống xử lý chất thải, quy định ra vào
cơ sở chăn nuôi, hệ thống tiêu độc, khử trùng, quản lý đàn, cách ly kiểm dịch.
- Kiểm dịch động vật và sản phẩm động vật.
Kiểm dịch vận chuyển gia súc: để làm tốt công tác kiểm dịch động vật, phải tiến hành
kiểm dịch tận gốc, đảm bảo gia súc vận chuyển được lấy từ vùng an toàn dịch bệnh,
củng cố các trạm kiểm dịch đầu mối giao thông.
Kiểm soát giết mổ: từng bước xây dựng các lò mổ, điểm giết mổ, để đảm bảo các sản
phẩm gia súc bán trên thị trường phải được kiểm tra đóng dấu.
94
- Tiêm phòng: tuỳ theo quy định của từng bệnh, phải tiến hành tiêm phòng định kỳ,
đúng tiến độ, tỷ lệ tiêm phòng phải đạt 80% trở lên. Vaccine phải được bảo quản, sử
dụng đúng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
5.2.2. Các biện pháp khác
Tùy theo đặc tính của từng loại mầm bệnh và đường truyền lây…, người ta có thể đề
ra biện pháp riêng. Ví dụ, để phòng bệnh Tiên mao trùng phải tiến hành diệt côn trùng
hút máu, phòng bệnh Viêm não Nhật bản phải diệt muỗi, khơi thông cống rãnh, chống
nước tù đọng, ngăn cản chồn, thú hoang tiếp xúc với vật nuôi.
5.3. Biện pháp cụ thể trong ổ dịch
Căn cứ vào điều lệ phòng, chống dịch bệnh động vật, người ta phải thi hành nhiều biện
pháp kỹ thuật được quy định thành pháp lệnh, gồm các điểm sau đây:
5.3.1. Danh sách các bệnh phải công bố dịch
Trong các bệnh truyền nhiễm có những bệnh lây lan nhanh, mạnh, gây nhiều thiệt hại
về kinh tế, ảnh hưởng lớn đến đời sống và sức khoẻ con người, nên phải thực hiện theo
đúng Pháp lệnh Thú y.
Danh mục các bệnh phải công bố dịch, các bệnh nguy hiểm của động vật, các bệnh
phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh bắt buộc theo Quyết định số 64/2005/QĐ-
BNN ngày 13/10/2005 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT
Danh mục các bệnh phải công bố dịch
- Bệnh thuộc danh mục bảng A của Luật Thú y thế giới bao gồm 7 bệnh: bệnh LMLM,
bệnh cúm gia cầm chủng độc lực cao (HPAI), bệnh dịch tả heo, bệnh dịch tả trâu bò,
bệnh lưỡi xanh, bệnh Newscatle, bệnh đậu dê-cừu và những bệnh khác thuộc bảng A
khi xuất hiện ở Việt Nam.
- Bệnh thuộc danh mục bảng A của Luật Thú y thế giới gồm 4 bệnh: bệnh nhiệt thán,
bệnh dại, bệnh tụ huyết trùng trâu bò và bệnh bò điên.
Danh mục các bệnh nguy hiểm của động vât: gồm 24 bệnh
- Bệnh của trâu, bò, dê, cừu: bệnh LMLM, bệnh dịch tả trâu bò, bệnh lưỡi xanh, bệnh
nhiệt thán, bệnh dại, bệnh tụ huyết trùng trâu bò, bệnh bò điên, bệnh ung khí thán,
bệnh tiên mao trùng, bệnh biên trùng, bệnh lê dạng trùng, bệnh giả dại, bệnh đậu dê-
cừu.
- Bệnh của heo: Bệnh dịch tả, bệnh xoắn khuẩn do Leptopira, bệnh rối loạn sinh sản
hô hấp (PRRS), bệnh giun bao.
- Bệnh gia cầm, thỏ: Bệnh cúm gia cầm chủng độc lực cao (HPAI), bệnh Newscatle,
bệnh Gumboro, bệnh dịch tả vịt, bệnh xuất huyết ở thỏ và các bệnh mới xuất hiện.
Danh mục các bệnh phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh bắt buộc gồm 8 bệnh:
bệnh LMLM; bệnh nhiệt thán; bệnh tụ huyết trùng trâu bò; bệnh dịch tả heo; bệnh dại,
bệnh cúm gia cầm; bệnh Newcastle, bệnh dịch tả vịt.
95
5.3.2. Báo cáo có dịch
Khai báo dịch là điều đầu tiên phải làm để phát hiện bệnh với các cấp có trách nhiệm.
Khi biết có dịch hoặc nghi có dịch thì cơ sở chăn nuôi, chủ vật nuôi, người quản lý,
cán bộ chuyên môn, người lãnh đạo, phải khai báo ngay với cơ quan Thú y gần nhất.
Khi nhận được khai báo, cơ quan thú y địa phương phải nhanh chóng xác định nguyên
nhân, tiến hành chữa trị hoặc xử lý, đồng thời báo cáo lên chính quyền và cơ quan
chuyên môn cấp trên.
5.3.3. Xác định bệnh và khoanh vùng nơi có dịch
Khi nhận được báo cáo của xã, UBND huyện phải báo cáo lên tỉnh và cử cán bộ
chuyên môn đến nơi có dịch để xác minh bệnh, để quy định khoanh vùng phạm vi có
dịch xảy ra, đồng thời thực hiện những biện pháp bước đầu phòng chống dịch.
Riêng đối với bệnh lây lan nhanh, mạnh (dịch đại lưu hành như dịch LMLM, cúm gia
cầm, dịch tả heo hoặc dịch nguy hiểm như nhiệt thán, dại) thì việc báo cáo dịch cần
phải nhanh chóng và áp dụng các biện pháp khẩn trương, nghiêm ngặt hơn như:
- Xử lý toàn bộ số gia súc chết, tốt nhất là đốt xác hoặc chôn sâu.
- Tiêm phòng bao vây ổ dịch, đối với vaccine LMLM thì phải tiêm từ ngoài vào trong
ổ dịch (tuỳ theo mức độ dịch mà vùng tiêm phòng có bán kính rộng hay hẹp).
- Cấm vận chuyển gia súc ra vào ổ dịch và đi qua vùng có dịch.
- Tiêu độc và xử lý môi trường bằng các loại hóa chất mạnh như NaOH 1-2% hoặc
formol 1- 2%.
Đối với dịch nguy hiểm có thể lây lan sang người như bệnh nhiệt thán và bệnh dại gia
súc thì phải xử lý:
- Bệnh nhiệt thán, xác chết phải để nguyên không được mổ để tránh vi khuẩn tạo thành
nha bào.
- Đào hố hình chữ nhật, chiều dài 2 m, rộng 0,6 m, sâu 1 m.
- Đốt xác thành tro sau đó đổ vôi cục hoặc vôi bột, xút lên lớp tro xác và lấp chặt hố
lại. Chú ý trước khi mang súc vật đi đốt phải đốt hoặc nút kỹ các lỗ tự nhiên mồm,
mũi, tai, hậu môn...
- Tiêm phòng xung quanh ổ dịch, trước khi tiêm phòng phải kiểm tra nhiệt độ gia súc
(chỉ tiêm phòng cho trâu, bò, ngựa).
- Vệ sinh tiêu độc nơi ô nhiễm bằng các loại thuốc sát trùng với nồng độ cao.
- Đối với bệnh dại hoặc gia súc nghi bị bệnh dại tuyệt đối không được mổ xác chết mà
phải đốt hoặc chôn.
96
5.3.4. Thẩm quyền về việc công bố dịch
Khi có dịch bệnh nguy hiểm của động vật thuộc danh mục phải công bố dịch xảy ra
trong địa phương thì Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết
định công bố dịch với điều kiện:
- Bệnh dịch đang xảy ra trên động vật và có chiều hướng lây lan mạnh.
- Có báo cáo bằng văn bản của UBND cấp dưới về diễn tiến tình hình dịch bệnh.
- Có kết luận chẩn đoán xác định là bệnh truyền nhiễm nguy hiễm thuộc danh mục
phải công bố dịch và có văn bản đề nghị công bố dịch của Chi cục Thú y hoặc Cục
Thú y.
Khi ra quyết định công bố dịch, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương phải báo cáo ngay với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT, đồng thời phải báo
cáo lên Thủ tướng Chính phủ, trong quyết định phải ghi rỏ tên bệnh và những địa
phương có dịch.
5.3.5. Thi hành quyết định có dịch
Theo pháp lệnh Thú y khi đã có Quyết định công bố dịch, Chủ tịch UBND cấp tỉnh nơi
có dịch có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các ngành, các cấp, phối hợp với các tổ chức
xã hội trong địa phương thực hiện các biện pháp sau:
Xác định và thông báo giới hạn vùng có dịch, vùng vành đai bảo vệ quanh vùng dịch
(vùng uy hiếp), đặt biển báo hiệu, trạm gác.
Cấm người không có nhiệm vụ ra - vào nơi có dịch, cấm đưa vào hoặc mang ra khỏi
vùng có dịch, cấm lưu thông và vận chuyển qua vùng có dịch những động vật thuộc
loại dễ nhiễm bệnh dịch đã công bố.
Khẩn cấp tổ chức tiêm phòng hoặc áp dụng các phương pháp phòng tránh khác cho
toàn bộ động vật dễ nhiễm bệnh.
Khử trùng tiêu độc chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi, chất thải, thực hiện các biện pháp
vệ sinh thú y cần thiết theo quy định.
Tóm lại, mọi người, mọi ngành có liên quan phải thực hiện các quy định của Pháp lệnh
Thú y, chủ yếu bao gồm cách ly con bệnh, con nghi lây, bao vây ổ dịch, cấm thu mua,
xuất nhập, vận chuyển, mổ thịt gia súc, cắm biển báo dịch, lập trạm kiểm dịch ở chỗ ra
vào ổ dịch, tiêu độc, tiêu diệt côn trùng, chuột, đồng thời phải tiêm phòng chống dịch,
chữa bệnh, xử lý con bệnh, con chết một cách triệt để.
5.3.6. Bãi bỏ quyết định có dịch
Khi đã hết dịch, cán bộ chuyên môn phải đề nghị UBND cấp tỉnh hoặc cấp tương ra
công bố hết dịch khi có đủ 3 điều kiện sau đây:
Những động vật dễ nhiễm bệnh đã công bố trong vùng có dịch và vành đai bảo
vệ đã được tiêm phòng hoặc áp dụng các phương pháp dự phòng khác và đã đủ
thời gian để có miễn dịch chắc chắn đối với bệnh đó.
97
Từ 15 đến 30 ngày tùy theo từng bệnh, kể từ ngày con vật chết hoặc con vật
lành bệnh cuối cùng hoặc con vật bị giết mổ bắt buộc cuối cùng, mà không có
con vật nào bị bệnh hoặc chết nữa vì bệnh dịch đã công bố.
Đã thực hiện tổng vệ sinh tiêu độc toàn bộ ổ dịch, đảm bảo yêu cầu vệ sinh
Thú y.
Khi có quyết định công bố hết dịch, mọi biện pháp nói trên đều bãi bỏ.
Phương pháp chống dịch bằng biện pháp tiêm phòng vaccine, phải tiêm cho cả 3 vùng
dịch là vùng dịch, vùng bị uy hiếp và cả vùng đệm. Ở cả 3 vùng dịch nói trên, điều trị
động vật bệnh và đang sốt (hoặc tiêu hủy), còn lại tất cả động vật mẩn cảm với bệnh
đều phải được tiêm phòng vaccine, phương pháp này thuận tiện vì những động vật
đang ủ bệnh sẽ nhanh chóng phát bệnh nhờ đó mà có thể dập tắt được ổ dịch trong thời
gian ngắn.
Ở một số nước, đối với một số bệnh nguy hiễm hoặc đặc biệt mới xuất hiện trong nước
do nhập động vật thì người ta sẽ thực hiện biện pháp giết hết động vật nhiễm bệnh
trong ổ dịch hoặc trong lô nhập khẩu đó và xác chết phải được xử lý triệt để.
Tài liệu tham khảo
1. B. Toma (1997). Épidémiologie Appliquée à la lutte collective contre les
maladies animales transmissible majeures. Maison-Alfort, France.
2. Dương Đình Thiện (2001). Dịch tễ học các bệnh truyền nhiễm. NXB Y học
3. Guy Bodin (1996). Cours d’Immunologie. Ecole Nationale Veterinaire de
Toulouse, France
4. Nguyễn Văn Long, Chu Đức Huy, Nguyễn Ngọc Tiến , Phạm Thành Long ,
Phan Quang Minh (2011). Tài liệu hướng dẫn Báo cáo dịch bệnh theo biểu
mẫu, xây dựng bản đồ dịch tễ và phân tích số liệu. Cục Thú y – Phòng Dịch tễ
5. Trần Ngọc Bích (2012). Giáo trình Miễn dịch học đại cương. NXB Đại học
Cần Thơ .
6. Văn Đăng kỳ (2010). Chương trình đào tạo Dịch tễ học ứng dụng. AVET Hà
Nội
Câu hỏi
1. Nguyên tắc cơ bản phòng-chống dịch bệnh động vật ?
2. Trình bày các biện pháp thực hiện đối với nguồn bệnh, cho ví dụ minh họa ?
3. Giới thiệu biện pháp bảo vệ động vật cảm thụ ?
4. Giới thiệu biện pháp cụ thể trong ổ dịch ?
98
CHƯƠNG 9
XÉT NGHIỆM & ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM
I. XÉT NGHIỆM
Trên thực tế chẩn đoán lâm sàng (quan sát, sờ nắn, gõ, nghe); mổ khám trên thực địa
hay xét nghiệm trong phòng thí nghiệm đều ít khi cho kết quả giống nhau, nhưng kết
quả chẩn đoán qua xét nghiệm tại phòng thí nghiệm luôn được coi là cơ sở chẩn đoán
tương đối chính xác và được xem là bằng chứng có giá trị pháp lý (cơ sở xét nghiệm
đã được chứng nhận về năng lực).
Có 2 loại xét nghiệm là xét nghiệm bệnh lý và xét nghiệm thay thế (lâm sàng)
1.1. Xét nghiệm bệnh lý
Là xét nghiệm để phát hiện những dấu hiệu, những chất sản sinh ra trong quá trình
bệnh hay là những biến đổi của các mô và tổ chức của cơ thể bệnh. Xét nghiệm bệnh
lý cho biết sự tồn tại của bệnh hay tác nhân bệnh.
Ví dụ, nghi ngờ vịt bị bệnh do vi khuẩn Salmonella, lấy bệnh phẩm là phân đem nuôi
cấy phân lập có vi khuẩn Salmonella thì có thể kết luận vịt bị nhiễm bệnh, đây chính là
xét nghiệm bệnh lý.
1.2. Xét nghiệm thay thế (lâm sàng)
Là xét nghiệm để phát hiện những biến đổi kế tiếp trong quá trình bệnh nhằm đoán
trước sự có mặt hay không có mặt của tác nhân gây bệnh.
Ví dụ, lấy máu những con vịt nghi mắc bệnh do vi khuẩn Salmonella, trích lấy huyết
thanh rồi làm phản ứng ngưng kết nhanh trên phiến kính với kháng nguyên chuẩn
salmonella để tìm kháng thể chống vi khuẩn Salmonella, đây là xét nghiệm thay thế vì
bản thân xét nghiệm không nhằm xác định sự hiện diện của vi khuẩn Salmonella mà
tìm kháng thể của cơ thể động vật phản ứng chống lại tác nhân gây bệnh ở đây là vi
khuẩn Salmonella.
Hoặc để xác định đàn gà mắc bệnh Gumboro, ngoài các thông số về dịch tễ như độ
tuổi, phương thức nuôi, tỷ lệ bệnh,…có thể dựa vào triệu chứng lâm sàng (tiêu chảy
phân trắng xanh có nhiều nước, có hiện tượng cắn mỗ hậu môn,…) và bệnh tích đặc
trưng (xuất huyết cơ đùi, cơ ngực, bệnh tích ở túi Bursa Fabricius,..).
Xét nghiệm thay thế có thể có kết quả dương tính giả còn trong xét nghiệm bệnh lý thì
không. Cả 2 xét nghiệm này đều có thể có kết quả âm tính giả, để tránh hiện tượng âm
tính và dương tính giả bệnh phẩm cần phải xét nghiệm lần thứ 2 khi gặp hiện
tượng đó.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM
Tất cả các xét nghiệm chẩn đoán không hẳn là hoàn hảo với độ chính xác 100%, do đó
việc kết luận con thú có bệnh hay không có bệnh cũng không hoàn toàn chính xác.
99
Điều này, dẫn đến những con thú dương tính giả (xét nghiệm là có bệnh nhưng thực
chất là khoẻ mạnh) và ngược lại là âm tính giả. Sự sai biệt này được đánh giá thông
qua các chỉ số "độ nhạy" (sensitivity) và "độ chuyên biệt" (specificity).
Để xác định các chỉ số này người ta so sánh kết quả chẩn đoán của phương pháp cần
xác định với phương pháp chuẩn (được gọi là chuẩn vàng, gold standard). Phương
pháp chuẩn là phương pháp được xem như độ chính xác cao, tuy nhiên không phải là
tuyệt đối hoàn toàn. Do việc sử dụng phương pháp chuẩn đôi khi rất tốn kém về thời
gian cũng như tiền bạc nên người ta thực hiện các phương pháp có độ chính xác thấp
hơn và xác định độ chuyên biệt cũng như độ nhạy của phương pháp chuẩn.
2.1. Độ nhạy và độ đặc hiệu
Định nghĩa:
Độ nhạy (sensitivity) của xét nghiệm là tỉ lệ thú thật sự mắc bệnh trong quần thể được
xác định là thú bị bệnh (dương tính) bằng xét nghiệm đó.
Độ đặc hiệu hay chuyên biệt (Specificity) của xét nghiệm là tỉ lệ thú không mắc bệnh
được xác định là không mắc bệnh (âm tính) bằng xét nghiệm đó.
Để cụ thể hóa công thức tính độ nhạy (Se) và độ đặc hiệu (Sp) của một xét nghiệm,
chúng ta hãy tham khảo bảng kết quả xét nghiệm của một phương pháp chuẩn đoán so
với phương pháp chuẩn bên dưới
Bảng 9.1. Các kết quả có thể có của một xét nghiệm chẩn đoán
Phương pháp chuẩn
Bệnh
(bị nhiễm)
Không bệnh
(không bị nhiễm)
Tổng
Phương pháp
xét nghiệm
XN (+) A (TP) B (FP) A + B
XN (-) C (FN) D (TN) C + D
Tổng Dương tính thật
(TP) = A + C
Âm tính thật (TN) =
B + D
N
Ghi chú: TP: true positive FP: false positive
TN: true negative FN: false negative
Theo bảng trên ta có công thức tính:
Độ nhạy Se = A / (A+C)
Độ đặc hiệu Sp = D / (B+D)
Thông thường, Se và Sp liên quan nghịch, có nghĩa là phương pháp nào có Se cao thì
có thể có Sp thấp và ngược lại. Điều này được giải thích bằng cách chọn điểm cắt (cut-
100
off). Để đánh giá thú bệnh hay không trong quần thể có nhóm bệnh và nhóm không
bệnh, thường người ta đo lường một chỉ số liên tục nào đó (ví dụ mật độ quang trong
phương pháp ELISA) và thiết lập một giá trị được gọi là điểm cắt (cut-off). Điểm cắt
sẽ là giới hạn để phân biệt thú có bệnh hay không (ví dụ giá trị lớn hơn điểm cắt được
cho là dương tính).
Một ví dụ về phương pháp chẩn đoán bệnh viêm vú trên bò sữa bằng tổng số tế bào
bản thể (SCC: somatic cell count), người ta chọn điểm cắt là 300 (ngàn tế bào/ml sữa)
để đánh giá bò có viêm vú hay không. Như vậy trong quần thể sẽ có 2 nhóm bò: bò
viêm vú và bò khoẻ mạnh. Số lượng bò và giá trị SCC được khái quát trong sơ đồ sau.
Sơ đồ 9.1. Phân bố kết quả SCC trong đàn bò
Như vậy, độ nhạy và độ đặc hiệu của một xét nghiệm được xác định bởi số động vật
có kết quả xét nghiệm dương tính hay âm tính trên tổng số động vật được xét nghiệm
của nhóm thú bệnh (bị nhiễm) hay nhóm thú không bệnh (không bị nhiễm).
Muốn cho độ nhạy và độ đặc hiệu có giá trị thì nhóm động vật được chọn để đánh giá
phải đại diện cho quần thể thú bệnh (bị nhiễm) và nhóm thú không bệnh (không bị
nhiễm).
Quần thể có bệnh phải bao hàm tất cả các ca bệnh mới xuất hiện, ca bệnh mãn tính
cũng như các ca bệnh lâm sàng và khi tính độ nhạy phải bao gồm cả những trường hợp
động vật có thể có phản ứng chéo khi xét nghiệm.
Quần thể không có bệnh phải bao hàm những động vật bình thường, không có biểu
hiện lâm sàng và những dấu hiệu nghi ngờ của bệnh nhưng khi đánh giá độ đặc hiệu
cũng phải bao gồm cả những trường hợp động vật có thể có phản ứng chéo khi
xét nghiệm.
101
Như vậy mỗi phương pháp chẩn đoán có độ nhạy và độ chuyên biệt riêng. Vấn đề
là quyết định dùng phương pháp chẩn đoán nào thì thích hợp. Thông thường các
phương pháp có độ nhạy cao được sử dụng khi cần để phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm,
hoặc trong một số tình huống mà việc phát hiện những cá thể bệnh là rất quan trọng,
và khi tỷ lệ nhiễm thấp. Ngược lại, phương pháp có độ chuyên biệt cao được sử dụng
khi muốn chắc chắn rằng kết quả dương tính đã được chẩn đoán ở giai đoạn sớm, hoặc
khi kết quả dương tính giả gây hậu quả không tốt (ví dụ phải tiêu hủy con vật nếu kết
quả dương tính như trong bệnh cúm gia cầm chủng độc lực cao HPAI).
Ngoài các chỉ tiêu trên, hai loại tỷ lệ còn được tính để đánh giá một xét nghiệm. Tỷ lệ
dương tính giả là khả năng cho kết quả giống dương tính trên bệnh nhân không bệnh.
Tỷ lệ dương tính giả bằng 1 trừ cho độ chuyên biệt. Tỷ lệ âm tính giả là khả năng cho
kết quả âm tính trên cá thể đã được biết là có bệnh (bằng 1 trừ độ nhạy).
Tóm lại, độ nhạy và tỷ lệ âm tính giả diễn đạt khả năng của một xét nghiệm chẩn đoán
đối với thú có bệnh. Độ chuyên biệt và tỷ lệ dương tính giả diễn đạt khả năng của một
xét nghiệm chẩn đoán trên thú không bệnh.
Trong thực tế, muốn chọn động vật sạch bệnh khi ta nhập hay muốn mua động vật
khỏe ta phải dùng phương pháp xét nghiệm có độ nhạy cao để loại bỏ những con âm
tính giả (có bệnh). Ngược lại, khi muốn xuất - bán động vật hay muốn thực hiện một
chiến dịch khống chế tiêu diệt một dịch bệnh nào đó thì phải dùng phương pháp xét
nghiệm có độ đặc hiệu cao để phát hiện số động vật dương tính giả (không bệnh).
Ví dụ cụ thể: Để đánh giá một phương pháp xét nghiệm huyết thanh học nhằm xét
nghiệm kháng thể chống kháng bệnh rối loại sinh sản hô hấp của heo (PRRS). Để tiến
hành đánh giá, 20 mẫu huyết thanh heo được xét nghiệm, trong 20 mẫu có 10 mẫu
được lấy từ đàn heo đã được nhiễm virus PRRS trong điều kiện thí nghiệm và có hàm
lượng kháng thể cao, 10 mẫu còn lại được lấy từ heo ở vùng sạch bệnh và không có
kháng thể kháng bệnh PRRS. Kết quả xét nghiệm của phòng thí nghiệm cho thấy trong
10 mẫu từ heo đã bị nhiễm PRRS có 8 mẫu được xác định là có kháng thể và 2 mẫu có
kết quả âm tính. Trong 10 mẫu của heo từ vùng sạch bệnh có 7 mẫu được xác định là
âm tính, 3 mẫu có kết quả dương tính. Chúng ta có thể tóm tắt các kết quả trong bảng
9.2 dưới đây.
Bảng 9.2. Tóm tắt các kết quả xét nghiệm
Phương pháp chuẩn
Bệnh (bị nhiễm) Không bệnh (không bị nhiễm) Tổng
Phương pháp
xét nghiệm
kháng thể
XN (+) 8 (TP) 3 (FP) 11
XN (-) 2 (FN) 7 (TN) 9
Tổng Dương tính thật
(TP) = 10
Âm tính thật (TN) = 10 20
102
Sử dụng những số liệu trên, chúng ta có thể tính toán độ nhạy và độ đặc hiệu của
phương pháp xét nghiệm này.
Độ nhạy Se = A / (A+C)
Độ nhạy = 8 / 10 x 100 = 80%
Giá trị ước đoán dương tính ( PPV) = [A / (A+B)] x 100
= [8 / (8+3)] x 100 = 72,73%
{72,73% số mẫu có kết quả xét nghiệm dương tính là dương tính thật}
Độ đặc hiệu Sp = D / (B+D)
Độ đặc hiệu = 7 / 10 x 100 = 70%
Giá trị ước đoán âm tính (NPV) = [D / (C+D)] x 100
= [7 / ( 2+7 ) ] x 100 = 77,78%
{77,78% số mẫu có kết quả xét nghiệm âm tính là âm tính thật}
Nếu mục tiêu chính của xét nghiệm là nhằm phát hiện thú bệnh thì số lượng mẫu âm
tính giả cần phải được giảm thiểu. Một vài mẫu dương tính giả có thể được chấp nhận.
Xét nghiệm bắt buộc phải có độ nhạy “cao” (“high” sensitivity) và độ đặc hiệu ở mức
độ “khá” (“good” specificity).
Nếu mục tiêu chính của xét nghiệm là nhằm đảm bảo rằng mỗi kết quả xét nghiệm
dương tính có nghĩa là con thú đó mắc bệnh thực sự thì xét nghiệm cần phải có độ đặc
hiệu “cao “ (“high” specificity) và độ nhạy “khá” (“good” sensitivity.). Trong trường
hợp này, mẫu dương tính giả cần phải tránh nhưng một vài mẫu âm tính giả có thể
được chấp nhận.
2.2. Giá trị ước đoán (Predictive Value -PV)
Giá trị ước đoán của kết quả xét nghiệm huyết thanh học
Khi sử dụng các phương pháp xét nghiệm huyết thanh học hoặc các phương pháp xét
nghiệm khác để xác định sự hiện diện của bệnh trong quần thể, điều quan trọng là cần
phải biết xác suất của một cá thể có kết quả xét nghiệm “dương tính” là thực sự dương
tính; hoặc cá thể có kết quả xét nghiệm “âm tính” là thực sự âm tính.
Các xác suất này là các giá trị ước đoán của phương pháp xét nghiệm. Thông số giá trị
ước tính thường được gọi là giá trị ước đoán dương tính và giá trị ước đoán âm tính
của một kết quả xét nghiệm.
Giá trị ước đoán phụ thuộc vào độ đặc hiệu (Sp), độ nhạy (Se) và sự lưu hành của bệnh
(P). Độ đặc hiệu và độ nhạy là những đặc trưng cơ bản của một xét nghiệm và không
thay đổi, nhưng sự lưu hành của bệnh trong quần thể được xét nghiệm sẽ ảnh hưởng
đến tỉ lệ dương tính thật của phương pháp xét nghiệm.
103
2.2.1. Giá trị ước đoán của một kết quả xét nghiệm dương tính / Predictive Value of a
Positive test result (PPV)- “dương tính thật”
Giá trị ước đoán của một kết quả xét nghiệm dương tính phụ thuộc vào sự lưu hành
của bệnh trong quần thể được xét nghiệm và có thể được định nghĩa là tỉ lệ dương tính
thật trong tổng số các kết quả dương tính thu được từ một xét nghiệm hay nói một
cách khác, đó là xác suất của cá thể có kết quả xét nghiệm dương tính là thực sự bị
bệnh trong thực tế.
P x Se
PPV = --------------------------------------
[P x Se] + [ (1- P) x (1-Sp)]
Trong đó:
PPV: Giá trị ước đoán dương tính
P: Tỉ lệ lưu hành của bệnh trong quần thể được xét nghiệm.
Se: Độ nhạy của phương pháp xét nghiệm.
Sp: Độ đặc hiệu của phương pháp xét nghiệm.
Ở bảng trên, giả sử 20 mẫu được xét nghiệm là mẫu được lấy từ một quần thể.
Tóm tắt các kết quả xét nghiệm từ bảng trên sẽ là:
Tỉ lệ lưu hành-tỉ lệ mắc bệnh thực sự ( P) = 50% ( 0,5)
Độ nhạy (Se) = 80% (0,8)
Độ đặc hiệu (Sp) = 70% (0,7)
Giá trị ước đoán dương tính (PPV)
=[0,5x 0,8] / [ (0,5 x 0,8) + [(1-0,5) x ( 1- 0,7)] = 0,7273
Số lượng mẫu xét nghiệm dương tính (Te-P) = 11
Số lượng mẫu dương tính thực sự (Tr-P) = ( Te-P) x PPV = 11 x 0,7273 = 8
2.2.2 .Giá trị ước đoán của một kết quả xét nghiệm âm / Predictive value of a negative
test result (NPV)- “ Âm tính thật”
Giá trị ước đoán của một xét nghiệm âm tính phụ thuộc vào sự lưu hành (P) của bệnh
trong quần thể được xét nghiệm và có thể được định nghĩa là tỉ lệ âm tính thật trong
tổng số cá thể có kết quả xét nghiệm âm tính thu được từ một xét nghiệm hay nói cách
khác, đó là xác suất của cá thể có kết quả xét nghiệm âm tính là thực sự không bị bệnh
trong thực tế. Công thức tính như sau:
(1-P) x Sp
NPV = --------------------------------
[(1-P) x Sp] + [P x ( 1-Se)]
104
Trong đó:
NPV: Giá trị ước đoán âm tính
P: Tỉ lệ lưu hành của bệnh trong quần thể được xét nghiệm.
Se: Độ nhạy của phương pháp xét nghiệm.
Sp: Độ đặc hiệu của phương pháp xét nghiệm.
Ở bảng trên, giả sử 20 mẫu được xét nghiệm là mẫu được lấy từ một quần thể.
Tóm tắt các kết quả xét nghiệm từ bảng trên sẽ là:
Tỉ lệ lưu hành ( P) = 50% ( 0,5)
Độ nhạy (Se) = 80% (0,8)
Độ đặc hiệu (Sp) = 70% (0,7)
Giá trị ước đoán âm tính (NPV)
NPV =[(1-0,5)x 0,7] / [ (1-0,5) x 0,7) + [0,5 x (1-0,8)] = 0,7778
Số lượng mẫu xét nghiệm dương tính (Te-P) = 9
Số lượng mẫu dương tính thật (Tr-P) = ( Te-P) x NPV = 9 x 0,7778 = 7
2.2.3. Ý nghĩa các giá trị ước đoán / predictive values ( PVs)
Giá trị ước đoán là tỉ lệ lưu hành của bệnh, phụ thuộc vào đặc điểm của phương pháp
tính toán các kết quả xét nghiệm hơn là phương pháp xét nghiệm.
Giá trị ước đoán có thể được dùng để chỉ ra khả năng (xác suất) mắc bệnh của một cá
thể dựa trên kết quả xét nghiệm của cá thể đó.
Giá trị ước đoán có thể được dùng để ước tính tỉ lệ kết quả xét nghiệm dương tính giả
và âm tính giả khi áp dụng một phương pháp xét nghiệm cho một quần thể nhất định.
Giá trị ước đoán rất quan trọng để biết rằng các kết quả xét nghiệm có thể có nhiều ý
nghĩa khác nhau đối với các nhóm khác nhau (sub- groups) trong một quần thể
(population) được xét nghiệm.
2.2.4. Tỉ lệ lưu hành thực/true prevalence và tỉ lệ lưu hành biểu kiến/apparent
Prevalence.
Tỉ lệ lưu hành thực là tổng số cá thể mắc bệnh, bao gồm cá thể có kết quả xét nghiệm
là dương tính thật (TP) và âm tính giả (FN) trong quần thể (N) và được tính toán theo
công thức sau:
TP+FN
Tỉ lệ lưu hành thực = ------------ x 100
N
Thông thường, tỉ lệ lưu hành thực của quần thể là không được biết. Tuy nhiên, từ các
kết quả xét nghiệm sẽ tính được tỉ lệ lưu hành theo kết quả xét nghiệm, tỉ lệ lưu hành
105
này gọi là tỉ lệ lưu hành biểu kiến (apparent prevalence), tỉ lệ lưu hành biểu kiến dựa
vào tổng số các kết quả dương tính thu được, bao gồm cả kết quả dương tính thật (TP)
và dương tính giả (FP), được tính toán theo công thức sau:
TP+FP
Tỉ lệ lưu hành biểu kiến ( Pa Rt) = -----------------
N
Trong đó:
Pa Rt : tỉ lệ lưu hành biểu kiến
Se: độ nhạy của phương pháp xét nghiệm
Sp: độ đặc hiệu của phương pháp xét nghiệm
Vì thế, tỉ lệ lưu hành biểu kiến rất hữu ích để ước tính giá trị của tỉ lệ lưu hành thực
trong trường hợp đã biết độ nhạy và độ đặc hiệu của phương pháp xét nghiệm. Tỉ lệ
lưu hành thực có thể được tính toán theo công thức sau:
Pa Rt + ( Sp-1)
Tỉ lệ lưu hành thực ( Pt Rt) = -------------------------
Se + Sp -1
Trong đó:
Pt Rt : tỉ lệ lưu hành thực
Se: độ nhạy của phương pháp xét nghiệm
Sp: độ đặc hiệu của phương pháp xét nghiệm
Pa Rt : tỉ lệ lưu hành biểu kiến
Ở bảng trên, giả sử 20 mẫu xét nghiệm được lấy từ 20 thú trong một quần thể.
Tóm tắt các kết quả xét nghiệm từ bảng trên sẽ là:
Tỉ lệ lưu hành biểu kiến (Pa Rt) = 11 /20 = 0,55 hoặc 55%
Se = 80% (0,8)
Sp = 70% (0,7)
0,55+ ( 0,7 - 1)
Tỉ lệ lưu hành thực tế ( Pt Rt) = ------------------ = 0,50 hoặc 50%
0,8 + 0,7 -1
106
Tài liệu tham khảo
1. Dương Đình Thiện (2001). Dịch tễ học các bệnh truyền nhiễm. NXB Y học
2. Guy Bodin (1996). Cours d’Immunologie. Ecole Nationale Veterinaire de
Toulouse, France
3. Kiz Fathman (2003). Veterinary Epidemiology. Elsevier Science (USA).
4. Ngô Thanh Phong (2010). Chương trình đào tạo Dịch tễ học ứng dụng. AVET Hà
Nội
5. Nguyễn Như Thanh, Lê Thanh Hòa và Trương Quang (2011). Giáo trình phương
pháp nghiên cứu Dịch tễ học thú y. NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ
6. Stephen C. Newman (2001). Biostatistical methods in epidemiology. John Wiley
& Sons, Inc. USA.
7. Trần Thị Dân và Lê Thanh Hiền (2007). Giáo trình Dịch tễ học Thú y. NXB Nông
nghiệp
Câu hỏi
1. Giới thiệu và giải thích rõ xét nghiệm bệnh lý và xét nghiệm thay thế ?
2. Trình bày cách tính độ nhạy, độ đặc hiệu, cho ví dụ cụ thể ?
3. Trình bày cách tính giá trị ước đoán, cho ví dụ minh họa trong từng trường hợp ?
107
CHƯƠNG 10
ỨNG DỤNG PHẦN MỀM WIN EPISCOPE TRONG NGHIÊN CỨU VỀ
DỊCH TỄ HỌC THÚ Y
Hiện nay có khá nhiều phần mềm sử dụng trên máy tính hỗ trợ các nghiên cứu về dịch
tễ học. Mỗi phần mềm có những điểm mạnh khác nhau. Như đã đề cập, dịch tễ học
hiện đại là môn học gắn liền với thống kê học nên các phần mềm chuyên dùng trong
thống kê đã và đang được sử dụng rất nhiều trong nghiên cứu dịch tễ là các phần mềm
Minitab, SPSS SAS ... được sử dụng khá rộng rãi.
Ngoài các phần mềm về thống kê, một số phần mềm chuyên dụng khác cũng đang
được sử dụng trong nghiên cứu dịch tễ học, ví dụ EpiInfo, EpidataStat, Win Episcope,
EpiCal... Trong tài liệu này, chúng ta giới thiệu phần mềm Win Episcope để minh họa
cho các cách tính thông số của dịch tễ học Thú y.
I. GIỚI THIỆU
Win Episcope là phần mềm được phát triển từ chương trình EPIDEMO của trường Đại
học Nông nghiệp và Thú y Hoàng gia Copenhagen (Đan Mạch) và Đại học Utrecht
(Hà Lan) giúp cho việc tính toán, xử lý dữ liệu liên quan đến dịch tễ học. Phần mềm
này tiếp tục được trường Đại học Nông nghiệp Wagningen (Hà Lan) và Đại học
Zaragoza (Tây Ban Nha) cải tiến và trở thành phiên bản Win Episcope 2.0 với 2 ngôn
ngữ được sử dụng là tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha.
Win Episcope 2.0 được cung cấp miễn phí cho người có nhu cầu sử
dụng thông qua các địa chỉ website như: http://www.clive.ed.ac.uk hoặc
http://www.zod.wau.nl hoặc http://www.infercepi.unizar.es. Cách khác có thể
download nhanh trên internet là gõ từ khoá “Win Episcope 2.0” trong cửa sổ tìm kiếm
của Google sau đó kết nối với website cung cấp các file cài đặt. Người dùng có thể
sao chép các file cài đặt Win Episcope 2.0 từ máy tính này sang máy tính khác mà không
cần kết nối mạng internet.
II. ỨNG DỤNG WIN EPISCOPE TRONG NGHIÊN CỨU DỊCH TỄ HỌC
THÚ Y
2.1. Khởi động chương trình Win Episcope 2.0
Vào Start\All Programs\WinEpi, nháy đơn chuột vào biểu tượng “Win Episcope 2.0”.
Người dùng có thể đưa Shortcut biểu tượng này ra Desktop để thuận tiện cho việc sử
dụng thường xuyên.
Sau đó màn hình sẽ xuất hiện giao diện như bên dưới trong vài giây, phần tên chương
trình sẽ biến mất và giao diện trống sẽ là giao diện chúng ta có thể thực hiện tính toán
dịch tễ.
108
2.2. Sử dụng chương trình Win Episcope 2.0
Trên thanh công cụ phía trên giao diện có các menu: File, Tests, Samples, Analysis,
Models, Window và Help.
File: lưu trữ thư mục đã được sử dụng tương tự như các phần mềm khác.
Windows: sắp xếp các cửa sổ làm việc theo thứ tự hoặc theo biểu tượng.
Help: file trợ giúp. Trong mục này, chúng ta có thể tìm hiểu lịch sử của chương trình
Win Episcope, các tác giả thiết kế phần mềm, hướng dẫn sử dụng phần mềm. Toàn bộ
được trình bày bằng tiếng Anh.
Sau đây chúng ta hướng dẫn các sử dụng phương pháp tính toán dịch tễ trong các mục
Tests, Samples, Analysis, Models.
2.2.1. Tests.
Mục này liên quan đến các phép thử (hay còn gọi là các xét nghiệm) trong
phòng thí nghiệm.
2.2.1a .Tests/Agreement: Có thể dùng phím tắt “Ctrl + 1”
109
Trong một số trường hợp, việc xác định tình trạng “thực” của một bệnh rất khó khăn
và tốn kém do việc chúng ta sử dụng phương pháp xét nghiệm “không hoàn hảo –
imperfect test” làm phương pháp xét nghiệm “chuẩn – standard”. Với phương pháp xét
nghiệm không hoàn hảo này, chúng ta không thể xác định chính xác độ nhạy và độ đặc
hiệu của nó, tuy nhiên chúng ta có thể tạm chấp nhận các kết quả dự đoán của nó để
đánh giá. Tiếp theo, chúng ta dùng một phương pháp xét nghiệm khác để so sánh với
phương pháp xét nghiệm “không hoàn hảo” này. Sự trùng hợp về kết quả xét nghiệm
của cả 2 phương pháp được diễn giải qua giá trị của thông số Kappa (Tỷ lệ trùng hợp
do ngẫu nhiên). Nếu Kappa = 0 có nghĩa là không có sự trùng hợp, nếu Kappa = 1 thì
cho thấy hoàn toàn trùng hợp. Hai phương pháp xét nghiệm khác nhau trên cùng một
mẫu nếu có Kappa ≥ 0,6 thì giá trị của 2 phương pháp này được xem là tương đương
nhau.
Tính toán 2 loại sai số chuẩn (Standard Error – SE):
SE(0) kiểm nghiệm giả thuyết: Kappa = 0. Xác định tỷ lệ trùng hợp này có nằm trong
đường phân bố chuẩn hay không bằng cách tra bảng z với z = Kappa/SE(0)
SE(1) kiểm nghiệm giả thuyết: Kappa ≠ 0. Xác định giá trị Kappa có nằm trong
khoảng tin cậy (Confidence Interval) hay không.
Nhập số liệu trong bảng có 16 ô, hàng dọc có 4 ô A, B, C, D thể hiện cho phương pháp
xét nghiệm thứ nhất. Ở đây có thể mặc định ô A là số dương tính, ô B là số âm tính, ô
C là nghi ngờ, ô D là sự sai khác số mẫu nghi ngờ giữa 2 phương pháp.
110
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp có thể gộp số mẫu nghi ngờ của 2 ô C và D lại làm
một hoặc nếu xét nghiệm không có mẫu nghi ngờ thì điền số 0. Tương tự bố trí hàng
ngang với 4 ô a, b, c, d thể hiện cho phương pháp xét nghiệm thứ hai với mặc định kết
quả tương tự như hàng dọc.
Ví dụ: xét nghiệm 100 mẫu huyết thanh virus dịch tả heo với 2 bộ kit ELISA của 2
hãng khác nhau. Kết quả là số mẫu dương tính đối với cả 2 phương pháp (Aa) là 45
mẫu; dương tính với bộ kít 1 và âm tính với bộ kít 2 (Ab) là 5 mẫu; âm tính với bộ kít
1 và dương tính với bộ kít 2 (aB) là 10 mẫu; âm tính với cả 2 phương pháp (Bb) là 37
mẫu; số mẫu nghi ngờ của cả 2 phương pháp (Cc) là 1 mẫu; và số mẫu nghi ngờ của
bộ kít 1 mà âm tính với bộ kít 2 (Cd) là 2 mẫu. Chúng ta có bảng sau:
Hình trên cho thấy: Kappa = 0,678 với:
- Tỷ lệ trùng hợp quan sát được là 0,83 (83%).
- Tỷ lệ trùng hợp mong muốn là 0,473 (47,3%).
- Tỷ lệ trùng hợp quan sát được trừ đi tỷ lệ trùng hợp do ngẫu nhiên là 0,357 (35,7%).
- Tỷ lệ trùng hợp tối đa loại trừ tỷ lệ trùng hợp ngẫu nhiên là 0,527 (52,7%).
2.2.1b. Tests/Evaluation: Có thể dùng phím tắt “Ctrl + 2”
Đánh giá phương pháp xét nghiệm.
Ví dụ: Một công ty vừa mới sản xuất nguyên vật liệu chẩn đoán bệnh viêm phế quản
truyền nhiễm ở gà (Infectious Bronchitis-IB) bằng ELISA, họ lấy huyết thanh của 100
111
con gà gây bệnh IB và 100 con gà sạch bệnh (Specific Pathogen Free-SPF) để xét
nghiệm với bộ kit ELISA mới này. Kết quả cho thấy:
+ Với 100 mẫu huyết thanh gà gây bệnh IB, có 95 mẫu dương tính và 5 mẫu âm bằng
ELISA.
+ Với 100 mẫu huyết thanh gà đối chứng sạch bệnh, có 98 mẫu âm tính và 2 mẫu
dương tính. Chúng ta có kết quả sau:
Với độ tin cậy 95% trong thống kê sinh học, chúng ta có thể nhận xét về bộ kit ELISA
này như sau:
+ Độ nhạy (Sensitivity - Se) đạt 95%
+ Độ đặc hiệu (Specificity - Sp) đạt 98%
+ Tỷ lệ dương tính thực (còn gọi là tỷ lệ lưu hành thực – True Prevalence - TP) là 50%
+ Tỷ lệ lưu hành quan sát được (Apparent Prevalence - AP) là 48,5%
+ Tỷ lệ dự đoán dương tính (Apparent Value +): 97,94%
+ Tỷ lệ dự đoán âm tính (Apparent Value -): 95,15%.
112
2.2.1c. Tests/Advanced Evaluation: Có thể dùng phím tắt “Ctrl + 3”
Đánh giá phương pháp xét nghiệm chuyên sâu
Phương pháp này giúp cho việc ước lượng tương quan giữa tỷ lệ lưu hành thực, tỷ lệ
lưu hành quan sát được và các tỷ lệ dự đoán khi biết rõ độ nhạy, độ đặc hiệu và tỷ lệ
lưu hành từ phương pháp xét nghiệm. Có thể phân tích qua sơ đồ bằng cách nháy vào
nút dưới cùng bên trái của bảng diễn giải
2.2.1d. Tests/Cut-Off Value: Có thể dùng phím tắt “Ctrl + 4”
Trong một test chẩn đoán, giá trị ngưỡng (Threshold value hoặc Cut-off value) được
dùng để phân biệt kết quả xét nghiệm dương tính hay âm tính.
Ví dụ: xét nghiệm kháng thể kháng virus cúm gia cầm H5N2 bằng phương pháp HI
113
cho 100 mẫu huyết thanh lấy từ 100 con gà đã tiêm vaccine cúm H5N2 và 100 con gà
đối chứng không tiêm vaccine, ta có kết quả như bảng sau:
Với kết quả này khi phân tích trong chương trình Win Episcope cho thấy, nếu chọn giá
trị ngưỡng là 2 log2, nghĩa là mẫu huyết thanh có HI≥ 3log2 mới được xem là dương
tính thì độ nhạy của phương pháp này đạt 92%, độ đặc hiệu đạt 80%.
Nếu muốn xem tương quan giữa độ nhạy và độ đặc hiệu thì ấn vào nút “ROC curves”.
114
2.2.1e. Tests/Multiple Tests: Có thể dùng phím tắt “Ctrl + 5”
Chẩn đoán dựa trên kết quả của nhiều phương pháp xét nghiệm (sau đây gọi tắt là đa
phương pháp): được thực hiện khi muốn tăng hiệu lực của phương pháp chẩn đoán đối
với một bệnh, lúc này cần có hơn 1 phương pháp xét nghiệm để kết quả tổng hợp có
độ tin cậy cao khi mà độ nhạy hoặc độ đặc hiệu của phương pháp xét nghiệm đầu tiên
không cao. Có 2 loại xét nghiệm đa phương pháp:
+ Xét nghiệm cùng lúc (Parallel tests): Mẫu được kết luận dương tính khi ít nhất 1
trong 2 xét nghiệm cho kết quả dương tính. Phương pháp này sẽ tăng độ nhạy của xét
nghiệm chẩn đoán. Trong thực tế thường dùng phương pháp này để phát hiện các ca
bệnh mới.
Ví dụ: Trong chương trình giám sát cúm gia cầm H5N1 tại một số quốc gia, mẫu bệnh
phẩm nghi cúm gia cầm có thể được xét nghiệm cùng lúc với nhiều phương pháp như
phân lập trên tế bào MDCK rồi giám định bằng HI, làm Real- time RT-PCR,…
+ Xét nghiệm sàng lọc (Serial tests): Mẫu được kết luận dương tính khi cả 2 xét
nghiệm đều cho kết quả dương tính. Phương pháp này sẽ làm tăng độ đặc hiệu của
chẩn đoán.
Ví dụ: Chẩn đoán huyết thanh học bệnh sảy thai truyền nhiễm ở bò (Bovine
brucellosis), trước tiên mẫu huyết thanh bò chưa tiêm vaccine phòng bệnh sảy thai
truyền nhiễm được xét nghiệm bằng phản ứng ngưng kết hoa hồng (Rose Bengal test -
RBT), nếu dương tính với RBT thì huyết thanh đó sẽ được xét nghiệm tiếp bằng
phương pháp kết hợp bổ thể (Complement fixation test -CFT). CFT dương tính thì kết
luận con bò đó mắc bệnh sảy thai truyền nhiễm.
Độ nhạy và độ đặc hiệu của đa phương pháp được tính toán như sau:
Chú thích: (1) là phương pháp xét nghiệm thứ nhất; (2) là phương pháp xét nghiệm thứ hai.
Giả sử đã biết tỷ lệ lưu hành bệnh sảy thai truyền nhiễm tại trại bò A có 100 con là
10%; độ nhạy của RBT (Test 1) là 95% và độ đặc hiệu là 90%; với CFT (Test 2) độ
nhạy là 98% và độ đặc hiệu là 87%. Nếu xét nghiệm cùng lúc (PARALELL Tests) thì
độ nhạy chẩn đoán sẽ tăng lên 99,9%; nếu xét nghiệm sàng lọc (SERIAL Tests) thì độ
đặc hiệu của chẩn đoán sẽ tăng lên 98,7%.
115
2.2.2. Samples
Mục này liên quan đến tính toán cỡ mẫu dùng trong các nghiên cứu dịch tễ.
2.2.2a. Samples/Estimate Mean: Có thể dùng phím tắt “Alt + 1”
Tính toán cỡ mẫu dùng để xác định giá trị trung bình của sản lượng.
Nghiên cứu một quần thể gia súc, tính toán số lượng mẫu cần xét nghiệm đủ lớn để đại
diện được cho quần thể đó là một điều quan trọng. Để tính toán được cỡ mẫu thì chúng
116
ta phải có được thông số của độ lệch chuẩn (Standard deviation) và sai số có thể chấp
nhận được (Accepted error) đối với giá trị trung bình.
+ Nếu biết số lượng toàn bộ cá thể trong quần thể, cỡ mẫu cần lấy được tính theo công
thức:
+ Nếu không biết số lượng toàn bộ cá thể trong quần thể, cỡ mẫu cần lấy được tính
theo công thức:
Trong đó:
n: Cỡ mẫu cần phải tính
N: Tổng số gia súc trong quần thể cần nghiên cứu
Z: Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với khoảng tin cậy đã chọn.
SD: Độ lệch chuẩn
d: Sai số có thể chấp nhận được đối với giá trị trung bình.
Ví dụ:
Theo hồ sơ của trại bò sữa, sản lượng trung bình đạt 455 lít/ngày. Điều tra viên muốn
kiểm tra với sai số cho phép là 80 lít.
Số mẫu cần lấy để xét nghiệm sẽ là:
Nếu dùng Win Episcope:
117
2.2.2b. Samples/Estimate Difference between Means: Có thể dùng phím tắt “Alt + 2”
Tính toán cỡ mẫu để so sánh 2 giá trị trung bình.
Trong đó:
n: Số mẫu cần lấy của từng nhóm
SD: Độ lệch chuẩn
X1: Sản lượng trung bình ước lượng của nhóm 1
X2: Sản lượng trung bình ước lượng của nhóm 2
Z: Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại I là α và sai số loại II là β.
Ví dụ: so sánh sản lượng sữa của 2 nhóm bò sữa trong một trại bò A. Nhóm 1 ước
lượng sản lượng sữa trung bình là 455 lít/ngày, nhóm 2 là 520 lít/ngày, độ lệch chuẩn
ước lượng là 80 lít/ngày. Khoảng tin cậy là 95% (hay chấp nhận sai số loại I α=0,05)
và lực của mẫu là 80% (hay còn gọi là chấp nhận sai số loại II là 20%, nghĩa là β=0,2).
Chúng ta tính trong Win Episcope như sau:
Nếu đã xác định năng suất nhóm 2 cao hơn nhóm 1 và kiểm tra 2 nhóm bò sữa một
cách độc lập thì cỡ mẫu cần lấy ở mỗi nhóm sẽ là 21 mẫu (Independent samples, One-
Tailed).
2.2.2c. Samples/Estimate Percentage: Có thể dùng phím tắt “Alt + 3”
Phương pháp tính cỡ mẫu dùng để xác định tần suất bệnh (tính tỷ lệ lưu hành).
118
Trong đó:
n: Số mẫu cần lấy
p: Tỷ lệ lưu hành ước đoán
e: Sai số cho phép với giá trị p
Z 0,05= 1,96 (tra từ bảng Z phân bố 2 đuôi với độ tin cậy 95%)
Ví dụ: Tỷ lệ lưu hành bệnh LMLM tại huyện B năm ngoái là 30%, sai số cho phép là
5% hay 0,05 (p = 25% đến 35% với độ tin cậy 95%). Số mẫu cần lấy để xét nghiệm là:
Tính trong Win Episcope:
Nếu quần thể nghiên cứu nhỏ (ví dụ có 900 con) thì có thể điều chỉnh số mẫu bằng
công thức:
Trong đó:
nad j là số mẫu cần lấy đã điều chỉnh
n là số mẫu dự tính trước đó
N là tổng số gia súc của huyện A
Với Win Episcope, ta có:
119
2.2.2d. Samples/Estimate Difference between Percentages:
Có thể dùng phím tắt “Alt + 5”
Phương pháp tính cỡ mẫu dùng để so sánh tỷ lệ lưu hành bệnh giữa 2 nhóm gia súc.
Trong đó:
n: Số mẫu cần lấy của từng nhóm
Z(a): Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại I là α
Z(b) : Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại II là β
p1: Tỷ lệ lưu hành của nhóm 1; q1= 1 –p1
p2: Tỷ lệ lưu hành của nhóm 2 ; q2= 1 –p2.
Ví dụ: Đầu năm 2011, tỷ lệ mắc bệnh PRRS ở xã M là 15% trong khi ở xã N là 21%.
Cán bộ dịch tễ muốn biết liệu tỷ lệ mắc bệnh trên 2 xã này có thực sự khác nhau hay
không? Với việc chấp nhận sai số loại I (α) là 0,05 và sai số loại II (β) là 0,2 thì số mẫu
bệnh phẩm heo cần lấy tại mỗi xã sẽ là 641 mẫu.
120
2.2.2e. Samples/Threshold value: Có thể dùng phím tắt “Alt + 6”
Mục này giúp tính toán cỡ mẫu để xác định tỷ lệ lưu hành một bệnh nào đó trong quần
thể nghiên cứu so với “Giá trị ngưỡng – Threshold value” do chuyên gia dịch tễ đặt ra,
nếu tỷ lệ lưu hành lớn hơn giá trị ngưỡng này thì cần áp dụng các biện pháp mạnh
nhằm giảm nguy cơ mắc bệnh trong quần thể.
Công thức tính cỡ mẫu như sau:
Trong đó:
n: Số mẫu cần lấy
Z(a): Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại I là α
Z(b: Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại II là β
Po: Tỷ lệ lưu hành của ngưỡng
Pa: Tỷ lệ lưu hành dự đoán trong quần thể
d: Giá trị ngưỡng đối với gia súc dương tính từ đó suy luận là tỷ lệ lưu hành trong nhóm lấy mẫu
không vượt quá ngưỡng đã đặt ra.
Ví dụ: Trong điều tra dịch tễ Salmonella tại các trại gà giống, tỷ lệ lưu hành ước đoán
Pa (dựa vào kết quả giám sát của năm trước) là 20%. Trong khi chuyên gia dịch tễ xác
định tỷ lệ lưu hành của ngưỡng Po là 40%. Chấp nhận sai số α=0,05 và β=0,2; số mẫu
cần lấy tại mỗi trại giống sẽ là 33, giá trị ngưỡng d là 8.
121
Nếu trong số 33 mẫu/trại gà có từ 8 mẫu dương tính trở lên thì tỷ lệ lưu hành Salmonella
trong trại đó sẽ > 40% (cao hơn nhiều so với tỷ lệ lưu hành ước đoán là 20%). Như vậy đàn
gà này cần có biện pháp xử lý (như thay đàn, chú trọng tiêu độc khử trùng, dùng kháng sinh
dự phòng, …).
2.2.2f. Samples/Unmatched Case-Control: Có thể dùng phím tắt “Alt + 7”
Tính cỡ mẫu trong nghiên cứu bệnh chứng không ghép cặp. Có nghĩa là các mẫu ở
nhóm đối chứng không nhất thiết phải có điều kiện giống như ở nhóm bệnh. Ví dụ: có
thể phân tích yếu tố nguy cơ trên 2 nhóm heo mắc bệnh dịch tả, tuy nhiên 2 nhóm này
không nhất thiết phải cùng lứa tuổi, cùng giống heo,… Công thức tính cỡ mẫu như
sau:
Với:
Trong đó:
n: Số mẫu cần lấy
Z(a): Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại I là α
Z(b): Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại II là β
p0: Tỷ lệ phơi nhiễm của nhóm đối chứng (được ước lượng dựa vào lý thuyết hoặc ý kiến chuyên gia)
p1: Tỷ lệ phơi nhiễm của nhóm bệnh đã tính
pm: Tỷ lệ phơi nhiễm trong quần thể
1-pm: Tỷ lệ không phơi nhiễm trong quần thể
c: Số đối chứng trên một ca bệnh
OR: Tỷ số chênh lệch ước đoán
Ví dụ: Nghiên cứu bệnh chứng đối với bệnh tụ huyết trùng heo liên quan đến vệ sinh
chăn nuôi (yếu tố nguy cơ) tại xã X. Cán bộ dịch tễ dự định chọn 1 ca bệnh thì sẽ lấy 3
ca đối chứng (không bệnh). Giả sử, nhóm đối chứng cũng có khoảng 10% heo được
nuôi trong điều kiện vệ sinh kém, ước đoán tỷ số chênh lệch giữa 2 nhóm ít nhất sẽ là
4 lần. Chấp nhận sai số α=0,05 và β=0,2. Vì chúng ta cho rằng tỷ lệ phơi nhiễm ở
nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng nên cỡ mẫu sẽ chọn theo phân bố 1 đuôi (One-
Tailed). Số mẫu cần lấy ở nhóm bệnh sẽ là 28 mẫu, số mẫu của nhóm đối chứng sẽ là
84 mẫu. Tổng số mẫu cần lấy của cả 2 nhóm là 112.
122
2.2.2g. Samples/Matched Case-Control: Có thể dùng phím tắt “Alt + 8”
Tính cỡ mẫu trong nghiên cứu bệnh chứng ghép cặp. Có nghĩa là các mẫu ở nhóm đối
chứng cần có một số tiêu chí giống như ở nhóm bệnh. Ví dụ: phân tích bệnh chứng
bệnh dịch tả vịt trên vịt cùng tháng tuổi, cùng là loại vịt thịt, cùng được nuôi thả rông.
Công thức tính cỡ mẫu như sau:
Với:
Trong đó:
n: Số mẫu cần lấy
Z(a): Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại I là α
Z(b) : Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại II là β
p0: Tỷ lệ phơi nhiễm của nhóm đối chứng (được ước lượng dựa vào lý thuyết hoặc ý kiến chuyên gia)
p1: Tỷ lệ phơi nhiễm của nhóm bệnh đã tính
OR: Tỷ số chênh lệch ước đoán
M : Số cặp cần thiết để có thể phát hiện được m cặp không phù hợp
m : Số cặp không phù hợp tối thiểu
Ví dụ: Nghiên cứu bệnh chứng ghép cặp bệnh tụ huyết trùng heo liên quan đến vệ sinh
chăn nuôi (yếu tố nguy cơ) tại xã B. Cán bộ dịch tễ dự định chọn 1 ca bệnh thì sẽ lấy 3
ca đối chứng (không bệnh). Giả sử, nhóm đối chứng cũng có khoảng 10% heo được
nuôi trong điều kiện vệ sinh kém, ước đoán tỷ số chênh lệch giữa 2 nhóm ít nhất sẽ là
4 lần. Chấp nhận sai số α=0,05 và β=0,2; số mẫu cần lấy ở mỗi nhóm sẽ là 56 mẫu,
tổng số mẫu của 2 nhóm là 112.
123
2.2.2h. Samples/Cohort: Có thể dùng phím tắt “Alt + 9”
Tính cỡ mẫu trong nghiên cứu thuần tập theo công thức:
Trong đó:
n: Số mẫu cần lấy
Z(a): Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại I là α
Z(b): Giá trị tra từ bảng phân phối Student’s value với sai số loại II là β (phân bố 2 đuôi – Two
Tailed)
K = [Z(a) + Z(b)]2
p1: Tỷ lệ mắc mới ở nhóm không phơi nhiễm(phải dựa vào lý thuyết, các dữ liệu trước đó hoặc ý kiến
chuyên gia); q1 = 1 – p1
p2: Tỷ lệ mắc mới tối thiểu ở nhóm phơi nhiễm (dựa trên RR); q2 = 1 – p2
RR: Tỷ số tương quan ước đoán
Ví dụ: Nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn mua tại công ty A (yếu tố nguy cơ) đến
bệnh E.coli trên heo con trên địa bàn huyện Y. Giả sử tỷ lệ mắc mới của nhóm heo con
không ăn cám của công ty A là 5%. Nguy cơ tối thiểu dự kiến mắc bệnh E.coli do ăn
cám công ty A cao gấp 4 lần (RR=4). Chấp nhận sai số α=0,05 và β=0,2. Số mẫu cần
lấy tại mỗi nhóm thuần tập sẽ là 73, tổng số mẫu sẽ lấy của cả 2 nhóm phơi nhiễm và
không phơi nhiễm là 146.
124
2.2.3. Analysis
Mục này liên quan đến các phân tích dùng trong các nghiên cứu dịch tễ.
2.2.3a. Analysis/Cross-Sectional: Có thể dùng phím tắt “Shift + F1”
Phân tích cắt ngang: xác định đồng thời tình trạng bệnh trong quần thể và các yếu tố
nguy cơ tiềm ẩn tại một thời điểm cụ thể. Do đó, nghiên cứu này không có tính chất
tiên cứu hoặc hồi cứu. Thông số đánh giá là Tỷ số của tỷ lệ mắc (Prevalence Ratio –
PR) được tính theo công thức sau:
Trong đó:
A: Số gia súc phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ mắc bệnh
B: Số gia súc không phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ mắc bệnh
125
C: Số gia súc phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ nhưng không mắc bệnh
D: Số gia súc không phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ và cũng không mắc bệnh
N1 = A+B; M0 = C+D; N1 = A+C; N0 = B+D
Nếu:
- PR = 1 thì không có sự kết hợp giữa hiện tượng xảy ra bệnh và sự phơi nhiễm
- PR >1 có sự kết hợp dương giữa bệnh và sự phơi nhiễm (yếu tố nguy cơ)
- PR <1 có sự kết hợp âm giữa bệnh và sự phơi nhiễm (yếu tố phòng vệ)
Hoặc đánh giá Nguy cơ thành phần (Attributable Risk - AR): AR = A/N1 – B/N0.
Nếu:
- AR = 0 thì không có sự kết hợp giữa hiện tượng xảy ra bệnh và sự phơi nhiễm
- AR >0 có sự kết hợp dương giữa bệnh và sự phơi nhiễm (yếu tố nguy cơ)
- AR <0 có sự kết hợp âm giữa bệnh và sự phơi nhiễm (yếu tố phòng vệ)
Ví dụ: Kết quả khảo sát bệnh sán lá gan của bò tại xã Q trong tháng 10 năm 2011 cho
thấy trong tổng số 100 bò được xét nghiệm phân thì có 60 con có trứng sán lá gan
(Fasciola hepatica), và 40 con âm tính. Tuy nhiên, trong số 60 bò dương tính thì có 35
con nuôi thả rông và 25 con nuôi nhốt. Với 40 bò âm tính thì có 15 bò nuôi thả rông và
25 con nuôi nhốt. Ở đây, sự kết hợp giữa bệnh sán lá gan và sự phơi nhiễm với môi
trường thả rông được tính toán. Kết quả là PR = 1,4 (lớn hơn 1), do đó có thể kết luận
rằng việc thả rông bò có nguy cơ mắc bệnh sán lá gan cao gấp 1,4 lần so với bò được
nuôi nhốt tại xã Q trong tháng 10/2011.
Với Win Episcope ta được:
126
+ PR = 1,4 (95%CI: 1,005 – 1,950).
+ Nguy cơ thành phần (Attributable Risk - AR): AR = A/N1 – B/N0 = 35/50 – 25/50 =
0,2. Vì AR>0 nên chăn thả rông được xem là yếu tố nguy cơ gây bệnh sán lá gan bò.
+ Tỷ lệ thành phần đối với quần thể bị phơi nhiễm (Attributable Propotion among
exposed-AP(e)): AP(e) = (PR-1)/PR = (1,4 – 1)/1,4 = 0,286 (đã làm tròn). Điều này có
nghĩa là khoảng 28,6 con bò mắc sán lá gan trong 100 con thả rông.
+ Tỷ lệ thành phần (Attributable Propotion-AP(t)):
AP(t)= AP(e) *A/(A+B) = 0,286*35/(35+25) = 0,167. Điều này có nghĩa là cứ 100 con
bò mắc sán lá gan do mọi nguyên nhân thì có 16,7 con mắc là do nguyên nhân thả
rông.
2.2.3b. Analysis/Stratified Cross-Sectional: Có thể dùng phím tắt “Shift + F2”
Khi nghiên cứu không ghép cặp (như khác về tuổi, trọng lượng trung bình, quy mô đàn
gia súc,…) thì trong nghiên cứu cắt ngang, các kết quả tính toán (như PR, AR) sẽ thiếu
chính xác. Lúc này, tuổi hay trọng lượng trung bình của gia súc có thể xem là các yếu
tố gây nhiễu (Confounder). Nghiên cứu cắt ngang phân lớp (Stratified Cross Sectional)
sẽ kiểm soát được các yếu tố gây nhiễu bằng cách tạo từng phân lớp (Stratum) cho
từng mức độ của biến số gây nhiễu. PR điều chỉnh mới sẽ được tính trung bình từ giá
trị của các thông số trong mỗi phân lớp, phương pháp này được gọi là “Gộp –
Pooling”. Sự khác biệt giữa số liệu thô và số liệu điều chỉnh chính là mức độ gây
nhiễu.
Ví dụ: Nghiên cứu dịch tễ học bệnh PRRS trên heo liên quan đến nguồn gốc con giống
tại xã Y trong tháng 6 năm 2011. Việc mua con giống từ cơ sở không có giấy chứng
nhận (phơi nhiễm) được xem là yếu tố nguy cơ làm phát sinh dịch. Ta có bảng tóm tắt
kết quả như sau:
Phân lớp theo loại
heo nuôi
Heo bệnh Heo khoẻ
Phơi nhiễm Không Phơi nhiễm Không
Heo nái 15 4 1 10
Heo sữa 22 6 4 8
Heo vố béo 12 2 11 5
Tổng số 49 12 16 23
127
Với PR gộp = 2,283 (95%CI: 1,434 – 3,635), có thể kết luận rằng trong tháng 6/2011,
heo tại xã Y mua từ những cơ sở giống không có giấy chứng nhận có nguy cơ mắc
bệnh PRRScao gấp 2,283 lần so với heo được mua từ các cơ sở có giấy chứng nhận.
2.2.3c. Analysis/Case - Control: Có thể dùng phím tắt “Shift + F3”
Trong nghiên cứu bệnh chứng (Case-Control), nhóm gia súc mắc bệnh (Case) sẽ được
so sánh với nhóm không mắc bệnh (Control – Đối chứng) liên hệ với yếu tố nguy cơ từ
đó phát hiện được yếu tố nguy cơ có liên quan đến bệnh. Đây là nghiên cứu hồi cứu
khi mà chúng ta đã biết được kết quả chẩn đoán bệnh, sau đó truy ngược lại các yếu tố
nguy cơ (có thể từ hồ sơ lưu hoặc tiến hành điều tra khu vực đã xảy ra ổ dịch với các
phiếu điều tra dịch tễ). Thông số đánh giá là Tỷ số chênh lệch (Odds Ratio – OR) được
tính theo công thức sau:
Trong đó:
A: Số gia súc phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ mắc bệnh
B: Số gia súc không phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ mắc bệnh
C: Số gia súc phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ nhưng không mắc bệnh
D: Số gia súc không phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ và cũng không mắc bệnh
128
Nếu:
- OR = 1 thì không có sự kết hợp giữa bệnh và sự phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ
- OR >1 có sự kết hợp dương giữa bệnh và yếu tố nguy cơ
- OR <1 có sự kết hợp âm giữa bệnh và yếu tố nguy cơ (yếu tố phòng vệ)
Ví dụ: Theo hồ sơ bệnh LMLM (LMLM) trên trâu bò tại huyện K năm 2010 cho thấy
trong 1.000 con trâu bò kiểm tra thì có 250 con mắc bệnh (chỉ 30 con được nuôi nhốt,
còn 220 con thả rông) và 750 con không mắc bệnh (trong đó 250 con được nuôi nhốt,
500 con nuôi thả rông).
Trong Win Episcope ta tính được:
+ OR = 3,667 (95%CI: 2,432 – 5,528). Điều này có nghĩa là trâu bò huyện K thả rông
năm 2010 có nguy cơ mắc bệnh LMLM cao gấp 3,667 lần so với trâu bò được nuôi
nhốt.
+ Tỷ lệ thành phần đối với quần thể bị phơi nhiễm (Attributable Propotion among
exposed-AP(e)): AP(e) = (OR-1)/OR = (3,667 – 1)/3,667 = 0,727 (đã làm tròn). Điều
này có nghĩa là khoảng 72,2 trâu bò mắc LMLM trong 100 con thả rông.
+ Tỷ lệ thành phần (Attributable Propotion-AP(t)):
AP(t)= AP(e) *A/(A+B) = 0,727*220/(220+30) = 0,64. Điều này có nghĩa là cứ 100
con trâu bò mắc LMLM do mọi nguyên nhân thì có 64 con mắc là do nguyên nhân thả
rông.
2.2.3d. Analysis/Stratified Case - Control: Có thể dùng phím tắt “Shift + F4”
Phân tích dịch tễ học bệnh chứng phân lớp (Stratified Case Control) về nguyên lý cũng
tương tự như nghiên cứu cắt ngang phân lớp, mục đích là giảm sai số trong nghiên cứu
do các yếu tố gây nhiễu, nhưng ở đây là tính tỷ số chênh lệch gộp (OR).
129
Ví dụ: Nghiên cứu dịch tễ học bệnh cúm gia cầm liên quan đến nguồn gốc gia cầm
giống tại huyện S trong 2011. Việc mua con giống từ chợ buôn bán gia cầm sống được
xem là yếu tố nguy cơ làm phát sinh dịch. Ta có bảng tóm tắt kết quả như sau:
Phân lớp theo quy mô
chăn nuôi
Số hộ bị dịch H5N1 Số hộ không bị dịch
Phơi nhiễm Không Phơi nhiễm Không
Hộ gia đình (<200 con) 110 10 16 95
Bán CN (200-1.000 con) 21 5 7 24
Công nghiệp (>1.000 con) 3 2 1 6
Tổng số 134 17 24 125
Theo Win Episcope:
Với OR gộp = 38,038 (95%CI: 19,268 – 75,091), có thể kết luận rằng năm 2011, gia
cầm tại huyện S mua từ chợ buôn bán gia cầm sống có nguy cơ mắc cúm gia cầm cao
gấp 38 lần so với gia cầm không mua từ chợ.
2.2.3e. Analysis/Matched Case - Control: Có thể dùng phím tắt “Shift + F5”
Phân tích bệnh chứng ghép cặp (Matched Case- Control) khi nhóm bệnh và nhóm đối
chứng có cùng hoàn cảnh hay tiêu chí giống nhau hoặc gần giống nhau. Ví dụ: cùng
quy mô sản xuất, cùng lứa tuổi, cùng loại thức ăn,…Phương pháp này sẽ nâng cao
hiệu quả (efficiency) của nghiên cứu khi thông tin cần thiết của từng con gia súc
130
không được đầy đủ, tuy nhiên mặt hạn chế của phương pháp là làm gia tăng các yếu tố
gây nhiễu.
2.2.3f. Analysis/Cohort (Cum. Incidence): Có thể dùng phím tắt “Shift + F6”
Trong nghiên cứu dịch tễ học thuần tập tính tỷ lệ mắc tích lũy (Cohort study,
cumulative incidence), nhóm gia súc phơi nhiễm sẽ được so sánh với nhóm không
phơi nhiễm, trong từng nhóm sẽ xác định số gia súc mắc bệnh và không mắc bệnh.
Thông số đánh giá yếu tố nguy cơ là Nguy cơ tương đối (Relative Risk – RR) được
tính theo công thức sau:
Trong đó:
A: Số gia súc phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ và mắc bệnh
B: Số gia súc không phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ nhưng mắc bệnh
C: Số gia súc phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ, không mắc bệnh
D: Số gia súc không phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ và cũng không mắc bệnh
Nếu:
- RR = 1 thì không có sự kết hợp giữa bệnh và sự phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ
- RR >1 có sự kết hợp dương giữa bệnh và yếu tố nguy cơ
- RR <1 có sự kết hợp âm giữa bệnh và yếu tố nguy cơ (yếu tố phòng vệ)
Ví dụ: Nghiên cứu thuần tập bệnh Newscatle trên gà tại thôn N cho thấy trong 1.000
con gà kiểm tra thì có 700 con đã tiêm phòng Newscatle (trong đó 150 con mắc bệnh
và 550 con không mắc bệnh); 300 con không tiêm phòng (gồm 260 con mắc
Newscatle và 40 con không mắc bệnh).
Trong Win Episcope ta tính được:
131
Kết luận: gà của thôn N nếu không tiêm phòng Newscatle sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao
gấp 23,83 lần so với gà đã được tiêm phòng.
2.2.3g. Analysis/Cohort (Incidence Rate): Có thể dùng phím tắt “Shift + F7”
Trong nghiên cứu dịch tễ học thuần tập tính tỷ lệ mắc mới (Cohort study, incidence
rate), nhóm gia súc phơi nhiễm sẽ được so sánh với nhóm không phơi nhiễm, trong
từng nhóm sẽ xác định tỷ lệ mắc mới theo đơn vị thời gian (ngày, tuần hoặc tháng).
Thông số đánh giá yếu tố nguy cơ là Nguy cơ tương đối (Relative Risk – RR) được
tính theo công thức sau:
Trong đó:
A: Số gia súc phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ và mắc bệnh
B: Số gia súc không phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ nhưng mắc bệnh
N1: Tổng số thời gian có nguy cơ mắc bệnh của nhóm phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ.
N0: Tổng số thời gian có nguy cơ mắc bệnh của nhóm không phơi nhiễm.
Nếu:
- RR = 1 thì không có sự kết hợp giữa bệnh và sự phơi nhiễm với yếu tố nguy cơ
- RR >1 có sự kết hợp dương giữa bệnh và yếu tố nguy cơ
- RR <1 có sự kết hợp âm giữa bệnh và yếu tố nguy cơ (yếu tố phòng vệ)
Ví dụ: Theo dõi bệnh suyễn heo ở một hộ chăn nuôi nhà ông A cho thấy có 20 con heo
mắc bệnh trong 2 ô chuồng khác nhau. Ô chuồng 1 là nơi heo những lứa nuôi trước đã
từng bị suyễn có 15 con mắc, thời gian có nguy cơ mắc tính được là 300 ngày. Ô
chuồng 2 (mới xây) cũng có 5 con heo bị suyễn, tổng thời gian có nguy cơ mắc là 125
ngày.
Trong Win Episcope ta tính được:
132
Kết luận: heo nhà ông A nuôi tại ô chuồng đã từng có bệnh suyễn có nguy cơ mắc
suyễn cao gấp 1,25 lần so với heo nuôi ở ô chuồng mới.
2.2.3h. Analysis/Stratified Cohort (Cum. Incidence)
Có thể dùng phím tắt “Shift + F8”
Cũng với nguyên nhân giảm yếu tố gây nhiễu, nghiên cứu thuần tập phân lớp tính tỷ lệ
mắc mới tích lũy (Stratified Cohot, cumulative incidence) sẽ kiểm soát được các yếu
tố gây nhiễu bằng cách tạo từng phân lớp (Stratum) cho từng mức độ của biến số gây
nhiễu. RR điều chỉnh mới sẽ được tính trung bình từ giá trị của các thông số trong mỗi
phân lớp, phương pháp này được gọi là “Gộp – Pooling”. Sự khác biệt giữa số liệu thô
và số liệu điều chỉnh chính là mức độ gây nhiễu.
Ví dụ: Nghiên cứu dịch tễ học bệnh PRRS trên heo liên quan đến nguồn gốc con giống
tại xã Y trong năm 2010. Việc mua con giống từ cơ sở không có giấy chứng nhận
(phơi nhiễm) được xem là yếu tố nguy cơ làm phát sinh dịch. Ta có bảng tóm tắt kết
quả như sau:
Phân lớp theo loại
heo nuôi
Heo bệnh Heo khoẻ
Phơi nhiễm Không Phơi nhiễm Không
Heo nái 15 4 1 10
Heo sữa 22 6 4 8
Heo vố béo 12 2 11 5
Tổng số 49 12 16 23
133
Kết luận: Với RR gộp = 2,283 (95%CI: 1,434 – 3,635), có thể kết luận rằng trong năm
2011, heo tại xã Y mua từ những cơ sở giống không có giấy chứng nhận có nguy cơ
mắc bệnh PRRScao gấp 2,283 lần so với heo được mua từ các cơ sở có giấy chứng
nhận.
2.2.3i. Analysis/Stratified Cohort (Incidence rate): Có thể dùng phím tắt “Shift + F9”
Trong nghiên cứu dịch tễ học thuần tập phân lớp tính tỷ lệ mắc mới (Stratified Cohort
study, incidence rate), nhóm gia súc phơi nhiễm sẽ được so sánh với nhóm không phơi
nhiễm, trong từng nhóm sẽ xác định tỷ lệ mắc mới theo đơn vị thời gian (ngày, tuần
hoặc tháng), đồng thời tạo từng phân lớp (Stratum) của các nhóm gia súc cho từng
mức độ của biến số gây nhiễu. RR điều chỉnh mới sẽ được tính trung bình từ giá trị
của các thông số trong mỗi phân lớp, phương pháp này được gọi là “Gộp – Pooling”.
Sự khác biệt giữa số liệu thô và số liệu điều chỉnh chính là mức độ gây nhiễu.
Ví dụ: Nghiên cứu dịch tễ học bệnh đóng dấu heo liên quan đến nguồn gốc con giống
tại xã Y trong năm 2010. Việc mua con giống từ cơ sở không có giấy chứng nhận
(phơi nhiễm) được xem là yếu tố nguy cơ làm phát sinh dịch. Ta có bảng tóm tắt kết
quả như sau
Phân lớp theo loại
heo nuôi
Heo bệnh Thời gian có nguy cơ
Phơi nhiễm Không Phơi nhiễm Không
Heo nái 15 4 250 100
Heo sữa 22 6 310 180
Heo vố béo 12 2 140 70
Tổng số 49 12 700 350
Trong Win Episcope, ta có:
134
Kết luận: Với RR gộp = 2,017 (95%CI: 1,071 – 3,799), có thể kết luận rằng trong năm
2010, heo tại xã Y mua từ những cơ sở giống không có giấy chứng nhận có nguy cơ
mắc bệnh đóng dấu cao gấp 2,017 lần so với heo được mua từ các cơ sở có giấy chứng
nhận.
2.2.4. Models
Mục này liên quan đến xây dựng mô hình dịch bệnh.
Models/Reed-Frost: Đây là một mô hình mô tả đường cong dịch bệnh đơn giản nhất
trong một quần thể đóng, trong đó quần thể gia súc được chia làm 3 nhóm. Nhóm 1
gồm những gia súc mắc bệnh; nhóm 2 gồm các gia súc mẫn cảm nhưng chưa mắc
bệnh; và nhóm 3 gồm các gia súc đã có miễn dịch. Công thức toán học của mô hình
này sẽ là:
Trong đó:
C: Số gia súc mắc bệnh
S: Số gia súc mẫn cảm
P: Xác suất một con gia súc chỉ tiếp xúc 1 lần duy nhất mà mắc bệnh
Q = 1-P: Xác suất tránh được một lần tiếp xúc có thể dẫn đến mắc bệnh
t: Khoảng thời gian (ủ bệnh hoặc hồi phục). Đối với ca bệnh đầu tiên thì t = 0.
Nếu P*S>1 thì đường cong dịch bệnh sẽ xuất hiện
Nếu P*S≤1 thì sẽ không có đường cong dịch bệnh.
Ví dụ: Diễn biến bệnh tụ huyết trùng trong một trại heo thương phẩm có 101 con giả
định theo mô hình của Reed-Frost được tóm tắt như bảng sau:
Thời gian
(t)
Số heo
mắc bệnh
(C)
Số heo
mẫn cảm
(S)
Số heo có
miễn dịch
(I)
Tổng đàn
(con)
Xác suất
tiếp xúc
(P)
P*S
Tuần 0 1 100 0
101 0,06
6,00
Tuần 1 6 94 1 5,64
Tuần 2 29 65 7 3,89
Tuần 3 54 11 36 0,65
Tuần 4 11 0 90 0,02
Tuần 5 0 0 101 0,00
Với C(t+1) = 100*(1 – 0,941) = 6; S(t+1) = 100 – 6 = 94
C(t+2) = 94*(1 – 0,946) = 29; S(t+2) = 94 – 29 = 65
C(t+3) = 65*(1 – 0,9429) = 54; S(t+3) = 65 – 54 = 11
135
C(t+4) = 11*(1 – 0,9454) = 11; S(t+4) = 11 – 11 = 0
C(t+5) = 0*(1 – 0,9411) = 0; S(t+5) = 0 – 0 = 0
Trong Win Episcope:
Nếu nháy vào nút bên tay phải phía trên cửa sổ (gần nút “Close”) thì sẽ có đồ thị:
136
Tài liệu tham khảo
1. Cục Thú y (2007). Hướng dẫn sử dụng hệ thống thông tin dịch bệnh động vật
2. Đỗ Thị Mơ (2007). Giáo trình tin học chuyên ngành Chăn nuôi-Thú y. Đại học
Nông nghiệp Hà Nội
3. Nguyễn Như Thanh, Lê Thanh Hòa và Trương Quang (2011). Giáo trình phương
pháp nghiên cứu Dịch tễ học thú y. NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ
4. Nguyễn Văn Long, Chu Đức Huy, Nguyễn Ngọc Tiến , Phạm Thành Long , Phan
Quang Minh (2011). Tài liệu hướng dẫn Báo cáo dịch bệnh theo biểu mẫu, xây
dựng bản đồ dịch tễ và phân tích số liệu. Cục Thú y – Phòng Dịch tễ
5. Stephen C. Newman (2001). Biostatistical methods in epidemiology. John Wiley
& Sons, Inc. USA.
6. Trần Thị Dân và Lê Thanh Hiền (2007). Giáo trình Dịch tễ học Thú y. NXB Nông
nghiệp
Câu hỏi
1. Giới thiệu sơ lược về phần mềm Win Episcope 2.0, có thể ứng dụng phần mềm
này như thế nào trong nghiên cứu dịch tễ học Thú y ?
2. Trình bày cách sử dụng phần mềm này trong từng trương hợp cụ thể ?
137
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Chương trình đào tạo Dịch tễ học ứng dụng (2010). AVET Hà Nội
2. Cục Thú y (2007). Hướng dẫn sử dụng hệ thống thông tin dịch bệnh động vật
3. Đinh Thanh Huề (2005). Phương pháp Dịch tễ học. NXB Y Học. Hà Nội
4. Đinh Thanh Huề (2006). Giáo trình Dịch tễ học. Đại học Y khoa Huế.
5. Đỗ Thị Mơ (2007). Giáo trình tin học chuyên ngành Chăn nuôi-Thú y. Đại học
Nông nghiệp Hà Nội
6. Đỗ Trung Giã (2009). Bài giảng Dịch tễ Thú Y. Khoa Nông nghiệp & SHƯD -
Đại học Cần Thơ.
7. Dương Đình Thiện (2001). Dịch tễ học các bệnh truyền nhiễm. NXB Y học
8. Nguyễn Như Thanh, Lê Thanh Hòa và Trương Quang (2011). Giáo trình
phương pháp nghiên cứu Dịch tễ học thú y. NXB Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ
9. Nguyễn Như Thanh (2001). Dịch tễ học Thú y. NXB Nông nghiệp.
10. Nguyễn Văn Long, Chu Đức Huy, Nguyễn Ngọc Tiến , Phạm Thành Long ,
Phan Quang Minh (2011). Tài liệu hướng dẫn Báo cáo dịch bệnh theo biểu
mẫu, xây dựng bản đồ dịch tễ và phân tích số liệu. Cục Thú y – Phòng Dịch tễ
11. Trần Ngọc Bích (2012). Giáo trình Miễn dịch học đại cương. NXB Đại học
Cần Thơ .
12. Trần Thị Dân và Lê Thanh Hiền (2007). Giáo trình Dịch tễ học Thú y. NXB
Nông nghiệp
13. Trương Hà Thái (2011). Bài giảng Dịch tễ học Thú y. Đaị học Nông nghiệp Hà
Nội
Tiếng Anh, Tiếng Pháp
4. B. Toma (1997). Épidémiologie Appliquée à la lutte collective contre les
maladies animales transmissible majeures. Maison-Alfort, France.
5. Guy Bodin (1996). Cours d’Immunologie. Ecole Nationale Veterinaire de
Toulouse, France
6. Kiz Fathman (2003). Veterinary Epidemiology. Elsevier Science (USA).
7. Stephen C. Newman (2001). Biostatistical methods in epidemiology. John
Wiley & Sons, Inc. USA.
138
TỪ ĐIỂN THỰC NGỮ DỊCH TỄ HỌC
VIỆT-ANH
Thuật ngữ Tiếng Anh
Âm tính giả False negative
Âm tính thật True negative
Ý nghĩa thống kê Statistical significance
Bán lâm sàng Subclinical
Báo cáo trường hợp Case report
Bùng phát Outbreak
Bảng 2x2 Two by two table
Bảo hiểm y tế Health-insurance
Bắt cặp To match
Bắt cặp đôi Pair matched
Bệnh trạng Morbidity
Biến số Variables
Biến số gây nhiễu Confounding variable, Confounder
Biến số gây nhiễu tiềm tàng Potential confounder
Biến số nhị giá Binary (Dichotomous) variable
Biến số phụ thuộc Dependent variable
Biến số độc lập Independent variable
Biểu đồ hình bánh Pie Chart
Biểu đồ hình thanh Bar Chart
Biểu đồ thời gian Timeline
Can thiệp cộng đồng Community intervention
Câu hỏi nghiên cứu Research question
Cảm nhiễm Susceptible
Cộng đồng Community
Cỡ mẫu Sample size
Chỉ tố Indicator
Chọn mẫu cụm Cluster Sampling
Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống Systematic random sampling
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn Simple random sampling
Chọn mẫu phân tầng Stratified sampling
Chi phí Cost
139
Chi phí - Hữu dụng Cost - Utility
Chi phí - Hiệu quả Cost - Effectiveness
Chi phí - Lợi ích Cost - Benefit
Chi phí bệnh tật Cost of Illness
Chi phí biên Marginal cost
Chi phí cơ hội Opportunity Cost
Chi phí gián tiếp Indirect cost
Chi phí kinh tế Economic cost
Chi phí nguyên vật liệu Material cost
Chi phí nhân công Labor cost
Chi phí phi y tế trực tiếp Direct non-medical cost
Chi phí tài chính Financial cost
Chi phí trực tiếp Direct cost
Chi phí vốn đầu tư Capital cost
Chi phí y tế trực tiếp Direct medical cost
Chi phí điều trị Treatment Cost
Chi phí đơn vị Unit cost
Chuẩn hóa Standardize
Cơ hội Chance
Dàn ý Conceptual framework
Dân số Population
Dây chuyền lây Chain of infection
Dịch Epidemic
Dịch bùng phát nguồn chung Common source outbreak epidemic
Dịch bùng phát nguồn điểm Point source outbreak epidemic
Dịch lẻ tẻ Sporadic epidemic
Dịch lưu hành Endemic epidemic
Dịch tễ học Epidemiology
Dương tính giả False positive
Dương tính thật True positive
Gây nhiễu Confounding
Gây nhiễu âm Negative confounding
Gây nhiễu dương Positive confounding
Giá trị p p-value
Giá trị tiên đoán âm Negative predictive value
Giá trị tiên đoán dương Positive predictive value
140
Giả dược Placebo
Giả thuyết bất dị Null hypothesis
Giả thuyết thay thế Alternative hypothesis
Hai chiều Two-sided
Hàng loạt ca Case series
Hạn chế Restriction
Hồi cứu Retrospective
Hồi qui đa Multiple regression
Hiện tượng tảng băng Iceberg phenomenon
Hiệu năng Efficiency
Hiệu quả Efficacy
Kết cuộc Outcome
Kỹ thuật chọn mẫu Sampling technique
Không phơi nhiễm Nonexposed
Khả năng khái quát hóa Generalizability
Khả năng lập lại Repeatability
Khả năng tái tạo Reproducibility
Khoảng tin cậy Confidence interval
Kiểm soát nhiễm khuẩn Infection control
Kiểm định giả thuyết Hypothesis testing
Kinh tế y tế Health Economics
Lịch thời vụ Seasonal calendar / diagram
Lực bệnh trạng Force of morbidity
Liên quan nhân quả Causal relationship
Loại trừ Exclusive
Lượng giá Evaluating
Mẫu đại diện Representative sample
Mối liên quan Relationship
Mục tiêu nghiên cứu Study objective
Mức độ kết hợp Magnitude of association
Miễn dịch chủ động Active immunity
Miễn dịch thụ động Passive immunity
Ngân sách Budget
Ngẫu nhiên Random
Nghiên cứu bệnh-chứng Case-control study
Nghiên cứu can thiệp Intervention study
141
Nghiên cứu cắt ngang Cross-sectional study
Nghiên cứu cắt ngang mô tả Descriptive cross-sectional study
Nghiên cứu cắt ngang phân tích Analytical cross-sectional study
Nghiên cứu mô tả Descriptive study
Nghiên cứu phân tích Analytic study
Nghiên cứu quan sát Observational study
Nghiên cứu sinh thái Ecological study
Nghiên cứu thử Pilot study
Nghiên cứu tương quan Correlational study
Nghiên cứu định lượng Quantitative Research
Nghiên cứu định tính Qualitative Research
Nghiên cứu đoàn hệ Cohort study
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu Retrospective cohort ctudy
Nghiên cứu đoàn hệ lịch sử Historical cohort study
Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu Prospective cohort study
Nguy cơ Risk
Nguyên nhân thành phần Component cause
Nguyên nhân đủ Sufficient cause
Người mang trùng Carrier
Nhị giá Dichotomous
Nhiễm khuẩn huyết (BSI) Bloodstream Infections
Phân bổ chi phí Cost allocation
Phân loại giàu nghèo Wealth ranking
Phân tích chi phí Cost analysis
Phân tích dữ kiện Data analysis
Phân tích tác động ngân sách (BIA) Budget Impact Analysis
Phân tích đa biến Multivariate analysis
Phân tầng To stratify
Phòng ngừa bậc 1 Primary prevention
Phẫu thuật tử thi bằng lời Verbal Autopsy
Phỏng vấn những người biết nhiều thông tin Key Informants
Phỏng vấn sâu Deep-Interview
Phơi nhiễm Exposed
Phương pháp phân loại Classification
Quan điểm của cộng đồng Societal perspective
Rút lui Withdraw
142
Sai lầm hệ thống Systemic error
Sai lệch Bias
Sai lệch chọn lựa Selection bias
Sai lệch hồi tưởng Recall bias
Sàng lọc Screening
Số hiện mắc Prevalence
Số hiện mắc thời khoảng Period prevalence
Số hiện mắc thời đểm Point prevalence
Số mới mắc Incidence
Số mới mắc tích lũy Cummulative incidence
Sức mạnh Power - Năng lực
Sự kết hợp Association
Sự phân bố Distribution
Suy diễn nguyên nhân Causal inference
Tam giác dịch tễ học Epidemiologic triad
Tác động Impact
Tính biến thiên Variability
Tính chi phí vi mô Micro-costing
Tính miễn dịch quần thể Herd immunity
Túc chủ Host
Tần số Frequency
Tỉ lệ Proportion
Tỉ số Ratio
Tỉ số chết bào thai Fetal death ratio
Tỉ số số chênh hiệu chỉnh Adjusted odds ratio
Tỉ số số chênh thô Crude odds ratio
Tỉ số sinh nhẹ cân Low birth weight ratio
Tỉ số tỉ lệ hiện mắc Prevalence ratio
Tỉ suất Rate
Tỉ suất chết bào thai Fetal death rate
Tỉ suất chết bệnh Case fatality rate (Death-to-Case ratio)
Tỉ suất chết chu sinh Perinatal mortality rate
Tỉ suất chết mẹ Maternal mortality rate
Tỉ suất chết nguyên nhân cụ thể Cause-specific death rate
Tỉ suất chết sau sơ sinh Postneonatal mortality rate
Tỉ suất chết sơ sinh Neonatal mortality rate
143
Tỉ suất chết thô Crude death rate
Tỉ suất chết trẻ em Infant mortality rate
Tỉ suất mới mắc Incidence rate
Tỉ suất sinh Birth rate
Tỉ suất tấn công Attack rate
Tỉ suất tấn công nguyên phát Primary attack rate
Tỉ suất tấn công thứ phát Secondary attack rate
Tỉ trọng mới mắc Incidence density
Tổ chức đồ Histogram
Tứ phân vị Quartile
Tỷ lệ hiện mắc Prevalance
Tham số Parameter
Thảo luận nhóm tập trung Focus group discusion
Thời gian nguy cơ Time at risk
Thời gian-người Person-time
Thời kỳ ủ bệnh Incubation period
Thời kỳ tiềm ẩn Latency period
Thời khoảng tham chiếu Period referent/Referred period
Thử nghiệm can thiệp cộng đồng Community intervention trial
Thử nghiệm lâm sàng Clinical trial
Thử nghiệm thực địa Field trial
Thiết kế nghiên cứu Study design
Thu thập dữ kiện Data collection
Tiêu chí Criterion
Tiền mãn kinh Premenopause
Trường hợp có khả năng Probable case
Trường hợp nghi ngờ Suspect case
Trường hợp xác định Confirmed case
Tương tác Interaction
Tương đồng Concordant
Vật chủ Reservoir
Xác suất Probability
Yếu tố bảo vệ Protective factor
Yếu tố gây nhiễu Confounding factor
Yếu tố nguy cơ Risk factor
Yếu tố phơi nhiễm Exposure
144
Yếu tố quyết định Determinant
Đa giác tần số Frequency polygone
Đào tạo dựa vào cộng đồng Community based training
Đánh giá nhanh có sự tham gia (PRA) participatory rapid assessment
Đánh giá nhanh nông thôn (RRA) Rapid Rural Appraisal
Đại dịch Pandemic
Đặc điểm dân số học Demographic characteristics
Định nghĩa trường hợp Case definition
Đồ thị phân tán Scattergram
Độ nhạy Sensitivity
Độ đặc hiệu Specificity
Điểm cắt đoạn Cut-off point
Đoàn hệ Cohort
Đường xu hướng Trendline
Ước lượng Estimate
145
GLOSSARY OF EPIDEMIOLOGY TERMS
1. Aetiology (Etiology)
(The study of) the causes of disease.
2. Acquired immunity
The inherited potential to resist a disease or infection. See also immunity.
3. Analytic Epidemiology
A focused study of the determinants of disease or reasons for high or low frequency of
disease in specific groups.
4. Antibody
A protein produced in the blood of vertebrates following exposure to an antigen. The
antibody binds specifically to the antigen and thus stimulates its inactivation by other
parts of the immune system.
The major classes of antibody are immunoglobulin A, or IgA, found predominantly in
bodily secretions like saliva; IgM and IgG which are typically produced sequentially in
response to microparasitic infections; and IgE which is often elevated in the response
to helminth infections. Only IgG is able to cross the placenta to provide maternal
immunity.
5. Antigen
A protein, typically foreign, that elicits a specific immune response.
6. Anthelmintic
A drug, for example praziquantal, used specifically against helminth or worm
infections.
7. Arbovirus
A virus which uses Arthropods as vectors and is transmitted in their saliva to the
definitive host. For example, yellow fever.
(From Arthropod borne virus.)
B
8. B cell
A white blood cell which produces antibody.
9. Bacteraemia
The presence of bacteria in the blood.
C
10. Carrier
146
An individual who is infected but has no symptoms of disease.
There are two types of carrier state: silent carriers retain their infectiousness, while
latent carriers are not infectious. For example, many of those infected with
tuberculosis are silent carriers, while infection with herpes virus may create latent
carriers.
11. Case-control study
A study in which the risk factors of people with a disease are compared with those
without a disease.
12. Chemotherapy
Drug treatment of a diseased individual.
13. Chemoprophylaxis
Drug treatment designed to prevent future occurrences of disease. Treatment may be
chemotherapy as far as an individual is concerned but chemopropylactic for the
population as a whole.
14. Classical epidemiology
Our term for the varieties of epidemiology primarily concerned with the statistical
relationships between disease agents, both infectious and non-infectious; for example a
study to establish the relative risk of lung cancer associated with smoking.
We contrast this with ecological epidemiology.
15. Close contact infection
An infection which requires close contact, other than sexual contact, between
susceptible and infectious individuals, for transmission.
16. Cohort
A subsection of a population with a common feature, usually age. For example, all
those individuals in the UK born in 1964 form a birth cohort.
17. Contact rate
The rate at which susceptible meet infecteds. Usually measured as individuals per unit
time.
18. Cross-sectional study
Same as a horizontal study.
19. Crude birth rate
The number of live births in a year divided by the population size.
20. Crude death rate
The number of deaths in a year divided by the population size.
147
D
21. Definitive host
The host in which a parasite reproduces sexually.
22. Direct life cycle
A life cycle in which a parasite is transmitted directly from one host to the next
without an intermediate host or vector of another species.
E
23. Ecological epidemiology
A branch of epidemiology which views disease as a result of the ecological
interactions between populations of hosts and parasites. We contrast this with classical
epidemiology.
24. ELISA
A technique using the antigen binding properties of antibodies to detect specific
antigens or antibodies. Visualization is typically made possible by enzyme induced
color formation.
From Enzyme Linked ImmunoSorbent Assay.
25. Endemic
A term to describe levels of infection which do not exhibit wide fluctuations through
time in a defined place.
For microparasites like measles, the term is used slightly differently to indicate an
infection which can persist in a population in the long term without needing to be
reintroduced from outside.
26. Epidemic
A rapid increase in the levels of an infection. Typical of the microparasitic infections
(with long lasting immunity and short generation times) an epidemic is usually
heralded by an exponential rise in the number of cases in time and a subsequent
decline as susceptible numbers are exhausted. Epidemics may arise from the
introduction of a novel pathogen (or strain) to a previously unexposed (naive)
population or as a result of the regrowth of susceptible numbers some time after a
previous epidemic due to the same infectious agent. Contrast endemic, pandemic.
27. Epidemiology
The study of the distribution and determinants of diseases and injuries in human (or
animal) host populations.
28. Epizootic
148
An epidemic in an animal host population. (But while there may be scientific reasons
for distinguishing a human epidemic from an epizootic, the use of epizootic is not
required on linguistic grounds any more than a demographer is required to count only
people:
29. Epiphytotic
An epidemic in a plant host population.
30. Helminths
Worms, in particular the five groups of parasitic worms: Monogeneans (flukes),
Digeneans (flukes, schistosomes), Cestodes (tapeworms), Nematodes (roundworms)
and Acanthocephalans (spiny-headed worms).
31. Herd immunity
Specifically, the mechanism by which an infection may be eradicated from a
population although some susceptibles still remain, because the remainder of the
population is immune and thus transmission is reduced.
More generally, the immunological status of a population of hosts and its effect on
transmission rates.
32. HI test
Hemagglutination inhibition test, a serological test used to detect antibodies specific to
a particular family of viruses which possess the ability to agglutinate red blood cells
e.g. measles, rubella and influenza.
33. Horizontal transmission
Transmission occurring generally within a population, but not including vertical
transmission.
I
34. Immunity
1) A state in which a host is not susceptible to infection or disease, or
2) the mechanisms by which this is achieved. Immunity is achieved by an individual
through one of three routes: natural or innate immunity genetically inherited or
acquired through maternal antibody, acquired immunity conferred after contact with a
disease, and artificial immunity after a successful vaccination. Also termed specific
immunity, resistance or specific resistance.
Specific immunity is divided into cellular immunity acting via the direct involvement
of T cells and humoral immunity involving antibodies and B cells.
35. Immunogenicity
149
The ability of a vaccine to stimulate the immune system, as measured by the
proportion of individuals who produce specific antibody or T cells, or the amount of
antibody produced, say. Not the same as efficacy.
36. Immunopathology
Damage to the host caused by its own immune response against a pathogen.
37. Immunosuppression
A reduction in the capacity of the immune system. Caused by infection (e.g. HIV),
drug treatment, pregnancy and malnutrition among others. Immunosuppressed
individuals are commonly referred to as immunocompromised.
38. Incidence
The rate at which new cases of infection arise in a population. Classically measured as
an attack rate.
39. Incubation period
The time that elapses between infection and the appearance of symptoms of a disease.
Not the same as the latent period.
40. Indirect life cycle
A life cycle which requires one or more intermediate hosts before the definitive host
species is reinfected. Compare direct, nondirect.
41. Indirect transmission
Transmission of a parasite through an indirect life cycle.
42. Infection
The presence of a parasite within a host where it may or may not cause disease.
43. Infectious period
The time period during which infecteds are able to transmit an infection to any
susceptible host or vector they contact. Note that the infectious period may not
necessarily be associated with symptoms of the disease.
44. Intermediate host
See vector.
L
45. Latent period
The time from infection to when the individual is infectious to others. In helminths it is
termed the pre-patent period. Not the same as the incubation period.
46. Longitudinal study
150
A study taking place over time. If individuals are followed, this is a longitudinal cohort
study. If individuals are not followed, but classes (usually age classes) are restudied,
this is a longitudinal cross-sectional study.
M
47. Macroparasites
Typically, the parasitic helminths and arthropods. In general, parasites which do not
multiply within their definitive hosts but instead produce transmission stages (eggs and
larvae) which pass into the external environment. Immune responses elicited against
macroparasites generally depend on the number of parasites present in a given host
and tends to be of a relatively transient nature. The key epidemiological measurement
is generally the number of parasites per host.
Such parasites are often found in a highly aggregated distribution.
Contrast microparasites.
48. Maternal immunity
Immunity for a neonate provided by IgG antibody generated by a mother and passed
across the placenta to the unborn offspring. This provides short lived protection (with a
typical half life of 3-6 months) to the neonate. Also known as immunity.
49. Mathematical model
A formal framework to convey ideas about the components of a host-parasite
interaction. Construction requires three major types of information: (a) a clear
understanding of the interaction within the individual host between the infectious
agent and the host, (b) the mode and rate of transmission between individuals, and (c)
host population characteristics such as demography and behavior.
Mathematical models can aid exploration of the behavior of the system under various
conditions from which to determine the dominant factors generating observed patterns
and phenomena. They also aid data collection and interpretation and parameter
estimation, and provide tools for identifying possible approaches to control and for
assessing the potential impact of different intervention measures.
50. Microparasites
Typically, viruses, bacteria, fungi and protozoa. More generally, parasites which
multiply within their definitive hosts. Microparasites are characterized by small size,
short generation times, and a tendency to induce immunity to reinfection in those hosts
that survive. The duration of infection is usually short in relation to the lifespan of the
host, but there are important exceptions, such as the slow viruses. The key
epidemiological variable, by contrast with macroparasites, is whether or not the
individual host is infected.
51. Morbidity
151
State of ill-health produced by a disease.
52. Mortality rate
The per capita death rate in a population. The mortality rate is the reciprocal of the
population life expectancy.
53. Multiple infection
An infection in which an individual is infected by parasites of more than one species.
N
54. Notifiable disease
Diseases, usually of an infectious nature, whose occurrence is required by law to be
made known to a health officer or local government authority.
55. Non-direct transmission
A mode of transmission that differs in some mysterious way from indirect
transmission; we don't make a distinction in this course.
O
56. Odds ratio
A comparison of the presence of a risk factor for disease in a sample of diseased
subjects and non diseased controls. The number of people with disease who were
exposed to a risk factor (I.e.) over those with disease who were not exposed (Io)
divided by those without disease who were exposed (Ne) over those without who were
not exposed (No). Thus OR=(I.e./Io)/(Ne/No)= I.e. No / Io Ne. This measure should be
used for case control studies where we retrospectively look at risks in those with and
without disease. Also known as exposure odds ratio.
P
57. Pandemic
An epidemic widely distributed in space.
58. Panzootic
A widely distributed epizootic, often one affecting more than one host species.
59. Passive immunity
Immunity which has been acquired through the transfer of maternal or other
antibodies. Passive immunization does not induce immunological memory.
60. Parasite
1) Any disease causing organism. 2) An organism exhibiting an obligatory dependence
on another organism, its host, which is detrimental to the host.
61. Pathogen
152
Same as a parasite.
62. Pathogenicity
The degree to which a pathogen debilitates its host.
63. Pre-patent period
The time from infection until when a female starts to produce eggs in helminth
infections, equivalent to latent period in micro-parasitic infections.
64. Predator
An animal that kills its prey and then feeds on it to subsist until the next kill.
65. Prevalence
The proportion of the host population infected (or with some marker of past or present
infection) at a particular time.
66. Prospective study
A study in which people are initially enrolled and then followed up at subsequent
times.
67. Protozoan
A unicellular eukaryote.
R
68. Rate
The number of events happening divided by the length of time over which they
happen. A rate of change is the amount of change happening in a interval divided by
the length of the interval; for small intervals the rate of change might be given by a
simple rule (a differential equation).
69. Reproductive ratio
(1) Basic reproductive ratio, Ro, a dimensionless parameter which encapsulates the
biological details of different transmission mechanisms. For microparasites, Ro, is
defined as the average number of secondary cases of infection to which one primary
case gives rise throughout its infectious period if introduced into a defined population
consisting solely of susceptible individuals. For macroparasites, Ro, is the average
number of female offspring (or just offspring in the case of hermaphroditic species)
produced throughout the lifetime of a mature female parasite, which themselves
achieve reproductive maturity in the absence of density-dependent constraints on the
parasite establishment, survival or reproduction.
Also known as the basic reproduction rate, number.
(2) Effective reproductive ratio, R, The number of secondary cases (microparasites) or
female offspring (macroparasites) produced in a host population not consisting entirely
153
of susceptible individuals (microparasites) or within which density dependent
constraints limit parasite population growth (macroparasites). Under conditions of
stable endemic infection, R=1.
70. Relative risk (RR)
The proportion of diseased people amongst those exposed to the relevant risk factor
divided by the proportion of diseased people amongst those not exposed to the risk
factor. This should be used in those cohort studies where those with and without
disease are followed to observe which individuals become diseased.
71. Resistance
1) The reduction, due to genetic selection, of susceptibility of a parasite or its vector to
chemotherapy.
2) The ability of a host to resist a pathogen. Compare immunity.
72. Retrospective study
A study in which people are enrolled and then have their history of risks, infections or
disease measured.
S
73. Sensitivity
The ability of a test to work on people you know have the infection. More precisely
TP/(TP+FN), where TP is the number of true positives and FN is the number of false
negatives
74. Serology
The study of antigen-antibody reactions. More generally, the use of serotype data to
infer an individual's history of infection.
75. Seropositive
n., an individual whose serotype suggests that they have experienced infection in the
past.
76. Seroprevalence
The proportion of a population who are seropositive.
77. Serotype
The range of antibodies which an individual possesses, usually based on sampling
from blood serum or saliva.
Different strains of a pathogen can sometimes be distinguished by the different
antibodies they induce in a host, or with which they can be made to react in vitro; thus
the word serotype has also come to be applied to a particular strain (`the virulent
serotype'). This is the more common clinical usage.
154
The range of antibodies used to define a serotype obviously depends on those available
to the researcher. Sometimes, as for measles, the presence of a known antibody within
the serum of an individual correlates extremely well with the clinical observation that
that individual is protected against any further infections. But sometimes, as for
malaria, there is as yet no definite relationship between a given serotype and the
presence of a functional immunity, which may make the use of the word serotype
unhelpful when trying to distinguish between different parasites for the purposes of
understanding transmission.
78. Specificity
The ability of a test to fail on people you know don't have the infection. More
precisely TN/(TN+FP), where TN is the number of true negatives and FP is the
number of false positives
79. Subclinical infection
An infection in which symptoms are sufficiently mild or unapparent to escape
diagnosis other than by positive confirmation of the ability to transmit the infection or
serologically.
80. Susceptible
An individual accessible to or liable to infection by a pathogen.
81. Symptom
A condition of the body reported by an individual when suffering from a disease; here
used more loosely to include signs: any evidence used in diagnosis or identification of
infected individuals.
T
82. T cell
A white blood cell responsible for cell-mediated immunity in particular and
immunoregulation in general.
83. Transmission
The process by which a pathogen passes from a source of infection to a new host.
There are two major types: horizontal and vertical transmission. The majority of
transmission processes operate horizontally.
V
84. Vaccine
A drug intended to induce active artificial immunity against a pathogen. Vaccines may
be live or dead. Live vaccines are usually attenuated versions of the wildtype
pathogen, such as the MMR vaccines, which are strains of measles mumps and rubella
viruses repeatedly passed through cell lines until non-pathogenic. Typically, live
155
vaccines need only be given as a single dose to induce a full immunological response,
inducing specific memory. Dead vaccines are either killed whole parasite, as with the
Salk polio strain and pertussis vaccine, or some highly immunogenic fraction of the
parasite, as in toxoid vaccines. Killed vaccines and toxoids which do not multiply in
the host must usually be administered in multiple doses to induce a full immunological
response.
Vaccination should be distinguished from passive immunization in which concentrated
specific antibodies which can be used therapeutically to abrogate an ongoing infection
or to provide short term protection (of the order of months), for example against
hepatitis A. Passive immunization does not induce immunological memory.
85. Vector
1) The intermediate hosts of parasites with indirect life cycles.
2) Anything which transmits parasites.
86. Vertical transmission
Vertical transmission occurs when a parent conveys an infection to its unborn
offspring, as occurs in syphilis in man or in many arboviruses of arthropods. Perinatal
infection is a special form of vertical transmission.
87. Viraemia
The presence of virus in the blood.
88. Virion
A mature and infectious virus particle.
89. Virulence
(1) The case mortality rate of an infection. (2) The extent to which a pathogen harms
its host. These are different usages: what they have in common is that they refer to the
effect on an already infected host, not to the degree of transmissibility to a subsequent
susceptible.
Z
90. Zoonosis
A parasite naturally transmitted between man and other vertebrate species