73
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA ________________________________________________________________ BỔ SUNG VITAMIN C CHỐNG STRESS CHO GIA CẦM NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI - 2010 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA

________________________________________________________________

BỔ SUNG VITAMIN C

CHỐNG STRESS

CHO GIA CẦM

NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP

HÀ NỘI - 2010 BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Page 2: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

2

TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA _______________________________________________________________

PGS.TS. BÙI HỮU ĐOÀN

BỔ SUNG VITAMIN C

CHỐNG STRESS

CHO GIA CẦM

NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI - 2010

Page 3: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

3

MỞ ĐẦU

I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm

1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress

Stress là phản ứng của cơ thể trước những tác động không có lợi từ bên

trong hay bên ngoài. Trong chăn nuôi gia cầm, các tác nhân stress phổ biến là:

- Nhốt giữ và vận chuyển gà tới nơi tiêu thụ.

- Di chuyển đàn

- Tiêm phòng vaxin

- Thay lông cưỡng bức

- Cắt mỏ

- Thay đổi thời tiết (gặp nóng hoặc lạnh)

- Bệnh tật

- Thay đổi bầy đàn…

Dưới sự tác động của những tác nhân trên, cơ thể gia cầm có nhiều phản

ứng tích cực của hệ thần kinh và thể dịch, nhằm duy trì sự cần bừng của cơ thể,

đó chính là phản ứng stress.

Như vậy, có thể thấy trong suốt quá trình chuăn nuôi gà, người ta gặp rất nhiều

tác nhân gây stress, hậu quả là con vật luôn phải căng mình ra để chống chọi với

các tác nhân đó, hậu quả là cơ thể tốn rất nhiều năng lượng, làm con vật gầy yếu

đi và có thể chết. Đặc biệt, ở những cá thể mà khả năng chống stress kém, sản

phẩm thịt và trứng có chất lượng giảm đi rõ rệt.

Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, khi bổ sung vitamon C cho gia cầm, cơ

thể sẽ trở nên “trơ” với các tác nhân gây stress… do đó, giảm tác hại của các tác

nhân này. Sau đây là cơ chế của quá trình đó.

Sơ đồ hình thành và điều hoà hormon trong phản ứng stress.

Các tác nhân gây stress kích thích tạo nên phản ứng báo động, thông qua

vỏ não tác động đến vùng dưới đồi thị – Hypothlamus, tại đây các yếu tố giải

Page 4: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

4

phóng được tiết ra, chẳng hạn CRF (Corticotropin Releasing Factor) kích thích

tuyến yên sản xuất ACTH, rồi ACTH kích thích vỏ thận thượng tăng cường hoạt

động.

Bản thân adrenalin cũng kích thích làm tăng sản xuất ACTH.

Việc tăng cường sản xuất các hormon vỏ thượng thận giữ vai trò quan

trọng trong cơ thể tự vệ của cơ thể. Selye đã chỉ ra rằng, các kích thích gây nên

phản ứng báo động không chỉ thúc đẩy hoạt động của vỏ thượng thận mà còn

ảnh hưởng đến việc sản sinh nhanh chóng adrenalin để rồi adrenalin lại tiếp tục

ảnh hưởng đến hoạt động của vỏ thượng thận. Sự chỉ đạo bởi ACTH xảy ra

tương đối chậm, nhưng lại kéo dài. Hormon vỏ thượng thận được sản xuất nhiều

hơn trong thời điểm tác nhân stress tác động, đã giúp tạo khuynh hướng thích

ứng cao của cơ thể (xem sơ đồ sau).

Khi có tác động mạnh từ bên ngoài vào cơ thể, cơ thể sẽ phản ứng lại

bằng nhiều phương thức, gồm có 2 nhóm phương thức: đặc hiệu và không đặc

hiệu.

Phản ứng đặc hiệu: thể hiện sự đáp ứng có giới hạn với những kích thích

đặc biệt, thí dụ sự hình thành kháng thể đặc hiệu chống lại kháng nguyên tương

ứng của vi khuẩn.

Phản ứng không đặc hiệu: có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn. Nó thể hiện

qua những dấu hiệu thông thường. Phản ứng cũng có thể xảy ra đồng thời với

phản ứng đặc hiệu trong cơ thể. Các dấu hiệu cơ bản của phản ứng không đặc

hiệu luôn luôn giống nhau và độc lập với chất lượng của tác động.

Selye đã gọi là sự đáp ứng không đặc hiệu thể hiện trong hậu quả bệnh lý

có quy luật này là stress và các tác nhân gây nên trạng thái bệnh lý trên là tác

nhân stress

Page 5: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

5

(Stressor), gọi các phản ứng cơ bản đã thể hiện ra (giúp cơ thể thích ứng được

với các tác động) là “hội chứng thích ứng chung” (G.A.S – General Adaptation

Syndrone).

Cơ chế điều hoà giải phóng các hormon trong phản ứng stress

* Ba giai đoạn của phản ứng st

Selye đã phân chia phản ứng stress làm giai đoạn. Mỗi giai đoạn có những

đặc trưng về sự biến đổi của cơ thể. Đó là giai đoạn phản ứng báo động, giai

đoạn đề kháng và giai đoạn suy kiệt.

Phản ứng báo động được chialàm 2 pha: Shock và kháng Shock. Sự kích

thích đã bắt đầu ngay trong giai đoạn này. Bạch cầu lâm ba giảm (Leucopenia),

bạch cầu ái toán giảm (eosinopenia), thân nhiệt và huyết áp giảm là điển hình

đặc trưng cho pha Shock bắt đầu. Những thay đổi này xảy ra rất nhanh. Sau tác

động của tác nhân stress 3 giờ, hàm lượng vitamin C trong vỏ thượng thận cũng

giảm đáng kể. 17. Cetosteroid trong nước tiểu tăng cao, chứng tỏ sự tăng cường

sử dụng các hormon Steroid.

Page 6: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

6

Ở pha kháng Shock, huyết áp, đường huyết tăng cao, nhiệt độ cơ thể bình

thường trở lại.

Giai đoạn kháng thể các lực lượng tự vệ của cơ thể hoạt động ở mức độ

cao. Vỏ thượng thận sản xuất Glucocorticoid với số lượng lớn kéo theo dài và

duy trì, ưu năng vỏ thượng thận. Các tế bào Basophil sản xuất ACTH ở tuyến

yên hoạt động mạnh.

Giai đoạn suy kiệt nếu cơ thể không còn khả năng đề kháng, sự thích ứng

sẽ giảm sút và có thể chết.

Trong giai đoạn suy kiệt, những thay đổi có dấu hiệu thoái hoá của tuyến

yên và vỏ thượng thận xuất hiện. Sự phân giải protein tăng cao, sút cân, năng lực

sản xuất kém (tiết sữa, đẻ trứng … giảm sút). Cơ thể sử dụng nguồn năng lượng

dự trữ. Cơ chế điều hoà thể hiện mạnh hơn và cuối cùng thì suy giảm thấp hơn

cả mức bình thường, tiến tới hoàn toàn bị phá hoại. Một số các triệu chứng ở

giai đoạn này giống như ở giai đoạn phản ứng báo động.

Selye Jannos gọi toàn bộ quá trình diễn biến của cơ thể trong 3 giai đoạn

nói trên là “Hội chứng thích ứng chung” (General Adaptation Syndrom) và viết

tắt là G.A.S. Nếu phân tích, xem xét kỹ G.A.S. sẽ thấy nổi lên một số ván đề

quan trọng về sức đề kháng của cơ thể. Căn cứ vào sự biến đổi này của các tế

bào vỏ thượng thận trong quá trình stress (được theo dõi liên tục), Selye đã xây

dựng mô hình 3 giai đoạn của stress:

* Stress (được theo dõi liên tục), Selye đã xây dựng mô hình 3 giai đoạn

của Stres

* Sức đề kháng của cơ thể trong mô hình 3 giai đoạn của stress

Về tác dụng của các tác nhân gây stress đến cơ thể, cần xem xét cả 2 loại

yếu tố: yếu tố trong cơ thể và ngoài cơ thể.

Page 7: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

7

Yếu tố cơ thể như đặc điểm di truyền, khả năng có được, thu nhận được

trong quá trình sống. Gà ri có khả năng chống nóng ẩm, ít chịu tác động của

stress nóng là di truyền mà có.

Các yếu tố ngoài cơ thể như yếu tố thức ăn, khí hậu … các yếu tố này là

yếu tố không đặc hiêu, tác động lên cơ thể và cơ thể phải đối phó với chúng.

Cần đánh giá đúng vai trò của các yếu tố cơ thể và ngoài cơ thể, không

nên xem nhẹ yếu tố nào. Có như vậy chúng ta mới hiểu được đầy đủ quá trình

stress và có những giải pháp kỹ thuật toàn diện để chống tác hại của stress ở

người và động vật nuôi.

* Vai trò của tuyến thượng thận trong phản ứng stress

Trong phản ứng cơ thể, tuyến thượng thận có vai trò đặc biệt quan trọng,

nó được cấu tạo bởi hai phần: phần tuỷ thượng và phần vỏ thượng thận.

+ Tuỷ thượng thận

Tuỷ thượng thận tiết ra 2 hormon đặc biệt là Adrenalin và Noradrenalin

(epinephrin và norepinephrin). Về mặt hoá học, adrenalin có nhiều hơn

noradrenalin một nhóm CH3.

Ngoài vùng tuỷ thượng thận, ở các hạch thần kinh giao cảm cũng sản xuất

2 hormon này. Tác dụng sinh lý của chúng hoàn toàn giống nhau (gọi chung là

catecholamin).

Khi cắt bỏ tuỷ thượng thận, các dấu hiệu thiểu năng adrenalin và

noradrenalin không thấy xuất hiện vì các hạch thần kinh giao cảm đã sản xuất

bù. Sự sản xuất các hormon này được điều tiết bởi thần kinh. Ở đoạn tiền hạch

sản xuất ra axetylcolin, chất này kích thích các tế bào tuỷ thượng thận sản xuất

adrenalin và noradrenalin.

Hoạt động của hypothalamus cũng có tác dụng thông qua tuỷ sống để chi

phối tuyến này.

Vai trò sinh lý của 2 hormon này có những điểm khác nhau: khi cơ thể

chịu những tác động đột ngột (gà bị bắt giữ chẳng hạn) sự sản xuất adrenalin sẽ

trội hơn. Nó đổ vào máu với số lượng lớn và tạo nên sự chênh lệch giữa nồng độ

Page 8: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

8

của 2 hormon này. Trong điều kiện nồng độ bình thường, chúng đều làm co

mạch máu (trừ hôn mê, coronaria), làm tăng huyết áp. Nhưng với liều lượng

nhỏ, adrenalin lại làm dãn mạch máu trong cơ thể.

Các hormon tuỷ thượng thận làm tăng số lượng hồng cầu, tăng

Haematocrit và hàm lượng hemoglobin. Khi sản xuất quá thừa 2 hormon này sẽ

gây tăng bạch cầu trung tính và giảm bạch cầu ái toan.

Adrenalin cũng có tá dụng đến hệ thần kinh trung ương, làm tăng huyết áp

tâm thu, tăng nhịp tim, do đó làm tăng lượng máu tuần hoàn.

Noradrenalin ảnh hưởng ít đến lưu lượng máu. Song nó tác động kéo dài

thời gian co bóp tim và nâng cao huyết áp, không chỉ là huyết áp tâm thu mà cả

huyết áp tâm trương (huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu).

+ Vỏ thượng thận

Sản xuất nhiều loại hormon tác động đến sự cân bằng các chất điện giải,

độ dự trữ nước của cơ thể, sự trao đổi các chất hữu cơ và các hoạt động sinh

dục.

+ Các hormon có tác dụng chủ yếu điều tiết trao đổi các chất khoáng gọi

là Mineralocorticoid. Chất quan trọng được biết kỹ nhất là Aldosterol.

- Các hormon có tác dụng điều tiết trao đổi chuyển hoá chất các chất hữu

cơ, trước hết là phân huỷ các hydratcabon gọi là glucocorticoid. Thí dụ cortison;

hydrocortison; conrticosteron.

- Androgen, oestrogen ảnh hưởng đến các chức năng sinh dục. Thí dụ

aldosteron, testosteron, ostradiol.

Các hormon của vỏ thượng thận gọi là các corticoid. Về cấu tạo hoá học,

có một nhân chung là Cycopentano phenanthren, cũng giống như các hormon

sinh dục. Steroid có hoạt tính sinh học cao nhất là chất mà giữ carbon số 4 và số

5 của nhân Phenanthren có 1 nối đôi. Ở carbon số 3 có 1 oxy (nhóm xêto).

Aldrogen và eostogen ở C17 có một nhó oxy (còn gọi 17. xetosteroid).

Glucocorticoid và Mineralocorticoid ở vị trí C17 gắn một chuỗi dài hoặc có một

gốc hydroxyl (-OH).

Page 9: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

9

Các Glucocorticoid được sản xuất do kích thích của ACTH tuyến yên và

sự điều hoà của cơ chế ngược (Feed – back). ACTH ít ảnh hưởng đến việc sản

xuất Mineralocorticoid. Tác dụng điều hoà sự sản xuất của Mineralocorticoid là

do trạng thái hypovolaemia và sự giảm thấp nồng độ các chất khoáng trong

huyết tương. Trạng thái hypovolaemia có các biểu hiện sau: khối lượng mái

không cân đối với khối lượng cơ thể và thấp hơn bình thường. Tỷ lệ giữa thẻ

tích huyết tương và Hematocrit (thể tích hồng cầu) cũng thay đổi. Khi gia súc

mất máu nhiều, cấp tính, hiện tượng hypovolaemia sẽ dẫn đến truỵ tim mạch,

shock. Ở các con gia súc béo quá, mà lượng máu không thay đổi, cũng tạo nên

sự mất cân đối này.

* Hoạt động của các hormon glyucocorticoid và mineralocorticoid

Hoạt động của các hormon vỏ thượng thận đã được nghiên cứu kỹ. Tất cả

các Steroid của vỏ chúng đều tác động đến trao đổi, chuyển hoá của các chất

hữu cơ và vô cơ.

+ Trao đổi chất hữu cơ

Các glucocorticoid về cơ bản có thể coi là chất đối kháng với insulin và

chúng là các hormon nâng cao đường huyết. Nhưng đồng thời chúng kích thích

sản xuất insulin. Khi ưu năng corticoid ta thấy hàm lượng insulin trong máu

cũng tăng cao (Campbell và Rastogi). Tiêm các corticoid, đường huyết sẽ cao

hơn bình thường và tăng cao đáng kể quá trình phân hủy glycogen.

Hàm lượng các hormon này tăng trong máu sẽ dẫn tới sự hấp thụ chất béo

ở ruột, sự phân huỷ các dầu, mỡ để thành chất béo tự do tăng lên, vì vậy nó làm

tăng nồng độ lipoil trong máu, dẫn tới sự lắng đọng, tích luỹ mỡ trong gan sẽ

tăng lên. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sự tổng hợp các chất béo, sự

tích luỹ các chất béo tăng. Nhưng đồng thời cũng còn do hàm lượng

glucocorticoid cao đã kìm hãm, ức chế quá trình tổng hợp lypoptotein.

Do tác dụng của các corticoid nhóm này, hàm lượng các chất thể xeto

tăng lên trong cơ thể. Tác dụng của các corticosteroid cũng ảnh hưởng đến trao

Page 10: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

10

đổi chất của các protein,ức chế tổng hợp protein, tăng cường phân giải protein,

đặc biệt là các protein ở các khu vực cơ và xương.

Nếu duy trì hàm lượng các hormon vỏ thượng thận cao, kéo dài ở trong cơ

thể sẽ gây nên chứng nhược cơ (cơ bị yếu), sút cân và chứng osteoporosis

(chứng mất cân đối tỷ lệ giữa các chất hữu cơ và các chất vô cơ để tạo xương).

Các axit amin được sử dụng ở mức độ cao trong gan, trước hết để tạo

glucogen. Hàm lượng ARN tăng cao đáng kể đã chứng tỏ sự tăng cường hoạt

động của gan. Hoạt độ của các enzym phosphataza kiềm và các transaminaza

tăng là biểu hiện những rối loạn cơ năng của các tế bào gan do dan bị tích mỡ.

Hàm lượng albumin huyết thanh giảm: còn hàm lượng các globulin do tác

dụng của các glucocorticoid, lúc đầu tăng sau đó giảm mạnh.

+ Trao đổi chất vô cơ

Khi có những rối loạn hoạt động của các hormon vỏ thượng thận, hậuquả

rõ nhất và quan trọng nhất là rối loạn chuyển hoá canxi.

Các thí nghiệm cắt bỏ vỏ thượng thận ở động vật cho thấy hàm lượng

canxi tăng trong máu (hypercalcaemia). Ngược lại khi hoạtđộng của tuyến tăng

lên thì sự hấp thụ canxigiảm rất rõ. Cũng do tác dụng hormon vỏ thượng thận,

sự hấp thụ và sử dụng vitamin D giảm. Có lẽ do tuyến phó giáp trạng bị ảnh

hưởng mà đưa tới quá trình này. Cortison còn phá hoại quá trình tái hấp thụ

photpho ở thận, vì thế P được thải nhiều ở nước tiểu. Do vậy mà sự thải canxi ở

thận cũng tăng đáng kể.

Từ các tư liệu trên cho thấy nếu duy trì hàm lượng các hormon vỏ thượng

thận cao kéo dài sẽ làm cạn kiệt các kho dự trữ canxi của cơ thể và hình thành

chứng osteoposis như đã nói ở trên.

Trong đó các steroid, aldosteron có tác dụng ảnh hưởng đến vận chuyển

Na và hàm lượng các chất điện giải nói chung rõ nhất, làm tăng tái hấp thụ Na ở

ống thận, làm tăng thải trừ K+, H+ và NH+4, kết quả là Na+ trong máu cao; K+

trong máu giảm.

Page 11: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

11

Khi thiểu năng vỏ thượng thận, tình trạng trên sẽ ngược lại. Tỷ lệ Na/K

bình thường bị giảm rõ rệt. Do K+ cao nên có hại cho hoạt động của tim, còn khi

thiểu năng vỏ thượng thận, do Na giảm nên mất cân bằng dịch thể trong các tổ

chức. Tiếp theo là chứng mất nước, cân bằng nước lệch trái, nghĩa là tỷ lệ giữa

nước và các chất keo trong huyết tương thay đổi theo hướng máu bị cô đặc, tỷ

trọng nước tiểu sẽ tăng cao.

Tiêm liều cao glucocorticoid làm lượng tiểu thải ra, nhưng tỷ trọng nước

tiểu lại nhỏ hơn. Có lẽ do các glucocorticoid đã cản trở hoạt động của ADH.

* Ảnh hưởng đến các tế bào máu, công thức máu.

Sau khi tiêm glucocorticoid, ngày lập tức số lượng bạch cầu tăng cao

trong máu, chủ yếu là bạch cầu trung tính. Mức độ cortison cao làm phân huỷ

bạch cầu lympho và do đó số lượng bạch cầu này giảm trong máu. Như vậy, khi

ưu năng vỏ thượng thận sẽ gây nên chứng lymphopeina. Số lượng bạch cầu

eosinophil (ái toan) giảm và thông qua sự giảm này có thể đánh giá hoạt động

của vỏ thượng thân. Sau khi tiêm ACTH 4 -7 giờ, số lượng bạch cầu ái toan sẽ

mất giảm mất 70% (nghiệm pháp Thorn).

Theo nhiều kết nghiệm cứu của Jasper và Schalm trong trạng thái ưu năng

corticoid, sẽ xảy ra hiện tượng monocytosis và basophilia.

Do tác dụng của glucocorticoid, số lượng hồng cầu cũng tăng, quá trình

trao đổi chât tăng và do đó tăng tiêu thụ oxygen. Quan trọng hơn là khi số lượng

hồng cầu tăng, máu sẽ đặc lại, hoạt động của thận giảm, nồng độ carbamid trong

máu tăng.

* Các cơ thể khác

Các glucocorticoid có tác dụng chống viêm và chống dị ứng. Nó làm tính

thấm của các thành mao quản do đó không xuất hiện các dịch rỉ viêm.

Ngăn chăn rối loạn hoạt động tim do nó cản trở sự sản sinh ra histamin và

do đó làm tăng tác dụng của noradenalin.

Đẩy lùi sự xuất hiện histamin và các chất loại histamin là yếu tố quan

trọng có ý nghĩa rất lớn trong việc giảm chứng viêm và giảm phản ứng dị ứng.

Page 12: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

12

Với hàm lượng nhỏ glucocorticoid đã nâng hoạt tính của RSH – hệ thống

tế bào liên võng (Reticulo – histiocyta system). Với liều cao hơn, nó lại ngăn

cản thực bảo. Cũng như vậy, sự giảm khả năng di hành của các tế bào hạch cầu

(diapedesis) sẽ đồng thời làm giảm hoặc làm mất đi các phản ứng tự vệ của cơ

thể.

Các hormon vỏ thượng thận cản trở sự hình thành ranh giới viêm. Các quá

trình hồi phục bị chậm lại.

Các hormon của cả hai phần vỏ và tuỷ tuyến thượng thận đều tham gia

vào quá trình đáp ứng cơ thể đối với những tác động có hại của môi trường

sống. Mỗi loại hormon thể hiện theo quy luật riêng, chức năng riêng của chúng,

giúp cho cơ thể động vật duy trì ổn định và hoạt động sống bình thường.

Trong thực tiễn chăn nuôi gia cầm, luôn luôn xuất hiện các tác nhân stress

tác động lên cơ thể ở các mức đọ khác nhau, khi đơn độc, khi đồng thời … và

việc cơ thể phải luôn “gồng” mình lên để đối phó với stress đã dẫn đến những

hậu quả tai hại, làm giảm năng suất, chậm lớn, giảm sản lượng và chất lượng

trứng, giảm chất lượng thân thịt…

Từ những vấn đề nếu trên, chúng ta có thể thấy rằng việc loại bỏ các tác

nhân gây stress khỏi đời sống chăn nuôi là điều bất khả kháng. Tuy nhiên, nếu

như bằng cách nào đấy kiềm chế được sự phản ứng của cơ thể trước các tác

nhân này, chẳng hạn kiềm chế việc tiết ACTH của tuyến yên, từ đó kiềm chế

hoạt động của các tác nhân gây stress, từ đó làm tăng năng suất, chất lượng sản

phẩm, đó chínhlà nguyên lý của nhiều thí nghiệm mà các nhà khoa học và chăn

nuôi đã tiến hành trong thời gian gần đây và họ đã thu được các kết quả rất có ý

nghĩa.

b) Những nghiên cứu sử dụng vitamin C chống stress

Một trong những phương pháp kìm hãm sự hoạt động của tuyến thượng

thận như đã nói ở trên là bổ sung vitamin C, công việc này đã được tiến hành rất

có hiệu quả và được ứng dụng rộng rãi trong chăn nuôi. Sau đây, chúng tôi xin

giới thiệu một số công trình đáng chú ý.

Page 13: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

13

1- Công trình nghiên cứu của S.L. Parduem, Bộ môn chăn nuôi gia

cầm, Trạm thực nghiệm Taxas - Đại học Texas.

Kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã cho thấy hàm lượng

vitamin C ở thượng thận cao hơn rất nhiều so với bất cứ mô bào nào khác. Ở

người, lượng vitamin C trong thượng thận có khoảng từ 400 – 500 mg/100g mô

bào (White và CTV, 1978). Hàm lượng chát này cao ở thượng thận đã thúc đẩy

người ta tìm hiểu chức năng của nó đối với tuyến này. Giroud và CTV (1940)

cho rằng việc tổng hợp các hormon vỏ thượng thận phụ thuộc vào lượng vitamin

C của thượng thận. Giả thiết này đã được chứng minh bằng thực nghiệm, trong

đó việc tiêm ACTH hoặc sự gây thương tích sẽ làm giảm cholesterol và vitamin

C ở chuột cống và chuột lang (Sayers và CTV, 1944, 1945; 1946). Long (1947)

đã xác nhận những phát hiện trên và cho thấy việc giảm vitamin C luôn đi kèm

theo với việc tăng tiết các hormon vỏ thượng thận.

Ở gà, các mô bào sản sinh các chất steroid nói chung và đặc biệt là thượng

thận luôn ó hàm lượng vitamin C cao nhất. Mức vitamin C trong thượng thận gà

đã được công bố trong khoảng 61 – 350 mg/100g mô bào, con số trung bình 178

mg/100g mô bào (Pardue và Thaxton, 1986); tuy nhiên, con số này chỉ bằng 40

– 50% so với hàm lượng vitamin C ở thượng thận người hay chuột; còn nếu so

với cơ gà, lượng này phải gấp tới 40 lần. Hơn nữa, so với động vật có vú thì

mức độ suy giảm vitamin C ở tuyến thượng thận gà thấp hơn và mức độ tái tổng

hợp lại tăng nhanh hơn (Freeman, 1967, 1968). Mặc dù mức độ suy kiệt và tốc

độ tổng hợp có vẻ là khác ở gia cầm, song về cơ bản thì sự thay đổi làm được

vitamin C ở thượng thận do các tác nhân stress khác nhau lại tương tự như

những gì đã được quan sát ở các loài có vú. Sự suy giảm vitamin C ở thượng

thận được coi là biểu hiện cổ điện cho đáp ứng stress ở gà (Siegel, 1971).

* Axit Ascorbic và sự tổng hợp các chất steroid

Sự cạn kiệt vitamin C tại các mô bào sản sinh chất steroid sau sự giải

phóng nội sinh hoặc tiếp nhận từ bên ngoài các hormon tuyến yên xảy ra ở một

số loài. Sự cạn kiệt vitamin C của buồng trứng xảy ra sau khi cung cấp LH hay

Page 14: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

14

kích tố nhau thai người (HCG) (Cleasson và CTV, 1949; Hokfelt, 1950; Noach

và Van Rees, 1958; Parlow, 1958). Hơn nữa, Carballeira et al. (1974) đã chứng

minh rằng lượng vitamin C ở tinh hoàn suy giảm sau khi cung cấp HCG.

Ở mức cơ bản của các hormon tuyến yên (ACTH, LH), các mô bào sản

sinh steroid duy trì nồng độ giảm vitamin C cao và việc giải phóng các hormon

này bắt đầu làm giảm vitamin C cũng có thể thấy rõ rằng sự suy giảm vitamin C

xảy ra trước khi sự tổng hợp các chất Steroid của thận được tăng cường. Trong

các thông bó trước đây, Sayers và CTV (1944, 1945, 1946) đã lưu ý rằng sự

giảm kiệt vitamin C xảy ra trước sự giảm cholesterol ở những cá thể được tiêm

ACTH. Việc đặt ống thông tĩnh mạch thượng thận ở chuột bị cắt bỏ tuyến yên

và được tiêm ACTH cho thấy vitamin C tĩnh mạch tăng trước khi tăng tiết

adrenocortocoid (Lipscomb và Nelson, 1960). Mức vitamin C tăng cũng được

quan sát thấy ở tĩnh mạch dịch hoàn của nó sau khi cung cấp HCG (Koba và

CTV, 1971). Lips comb và Nelson (1960) đã lưu ý rằng một lượng vitamin C

đáng kẻ đã không được giải phóng từ thượng thận khi thiếu sự tiết hormon miền

vỏ. Ở chuột lang bị bệnh hoại huyết do thiếu vitamin C, nồng độ vitamin C ở

thượng thận có thể giảm tới mức chỉ còn 2,5% so với đối chứng và mức

corticosteroid tăng gấp 10lần (Done và CTV, 1953). Cung cấp vitamin C sau đó

liên tục đã làm giảm lượng corticosteroid ở huyết tương tới mức tương đối với

nhóm đối chứng trong vòng 5 ngày. Kết quả tương tự cũng được Jones và CTV

(1958) thông báo. Những kết quả nghiên cứu trên và của những khảo sát tiếp

theo cho phép các nhà khoa học giả định rằng nồng độ vitamin C cao ở thượng

thận có chức năng ức chế sự sản sinh các chất steroid và sự giảm kiệt vitamin

C làm cho sự tổng hợp steroid trở nên dễ dàng hơn.

Sự giải phóng ACTH từ tuyến yên trong quá trình đáp ứng stress làm khởi

đầu sự tổng hợp adrenocorticoid nhờ việc nó gắn vào rexeptơ (receptor) màng

và gây hoạt hoá Adenylatcyclaza được hoạt hoá đã làm tăng lượng chật AMP

vòng nội bào. Chất này đóng vai trò là thông tin viên thứ hai (the second

Page 15: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

15

messenger), làm tăng cường sinh tổng hợp chất steroid (Grhame – Smith và

CTV,1967)

Hình 1 – Mối tương quan giữa hoạt tính của hormon tuyết thượng thận

adenylactcyclase và nồng độ cortisol huyết tương (Doulas, 1987)

Việc ức chế quá trình hoạt hoá adenylat – cyclaza do ACTH hoặc do

fluoride nhờ vitamin C đã được quan sát thấy ở tế bào thượng thận phân lập nuôi

cấy (hình 2)

(Nathans và Kitachi, 1974, Doulas và CTV,1987).

Page 16: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

16

Hình 2 – Mối tương quan giữa Ascorbic axit huyết tương và hoạt tính của men

adenylatcyclase

Hơn nữa, các tế bào thượng thận bò được phân lập đã thể hiện mối tương

quan nghịch giữa sự tổng hợp các chất steroid và nồng động vitamin C sau khi

kích thích bằng ACTH

Hình 3 – Mối tương quan nghịch giữa sự tổng hợp steroid và vitamin C sau khi

kích thích bằng ACTH ở tế bào thượng thận (Finn vaf Johns, 1980)

Kết quả tương tự cũng được quan sát thấy ở nuôi cấy tế bào thượng thận

chuột lang

Page 17: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

17

Hình 4 – Tương quan nghịch giữa cortisol huyeets wowng vaf vitamin C huyeets

twowng (Doulas, 1987)

Doulas và CTV (1987) suy đoán rằng vitamin C ở thượng thận có thể ức chế sự

tổng hợp các chất steroid gây ra do tác động ACTH bởi nó làm thay đổi cấu trúc

hoặc thành phần lipit màng tế bào và như vậy ảnh hưởng tới việc gắn ACTH vào

rexeptơ màng. Người ta cũng chỉ ra rằng vitamin C làm ức chế các enzym tham

gia quá trình tổng hợp các chất steroid ở thượng thận. Sự ức chế C – 21 và 11 -

hydroxylaza ở mô nghiền thượng thận liên quan tới vitamin C (Haynao và

CTV, 1956, Cooper và Rosenthal, 1962, Kitabchi, 1967, a, b). Người ta cũng

thông báo rằng vitamin C ức chế hệ thống enzym cắt mạch nhánh làm biến đổi

cholesterol thành pregnenolon (Sulimorici và Boyd, 1967, 1968, Shimizu, 1970,

Carballeira và CTV, 1974). Các cơ chế kìm hãm liên quan tới vitamin C này

đóng vai trò như chiếc phanh sinh học đối với sự tổng hợp các chất steroid ở

thượng thận (Kitabchi, 1967). Pardue và CTV, (1985) đã chứng minh rằng bổ

sung vitamin C vào khẩu phần gà broiler đã làm thay đổi đáng kể hàm lượng

corticosteroid huyết tương của gà trống bị stress nhiệt cấp (hình 5).

Trong trường hợp nhiệt độ trong môi trường cao, ở gà không được bổ

sung vitamin C hàm lượng corticosteroid cao hơn so với gà được bổ sung là

105% (18,1 so với 8,8mg/ml). Cholesterol ở thượng thận (là cơ chất khởi đầu

Page 18: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

18

cho sự tổng hợp các chất steroid) cũng cao một cách có ý nghĩa ở gà được bổ

sung vitamin (hình 6)

Hình 6 – Cholesterol thượng thận gà được bổ sung vitamin C cao hơn các lô

khác một cách có ý nghĩa (Pardue, 1986)

Các số liệu trên đây và những dẫn chứng về sự giảm thiểu kích thước

tuyến thượng thận liên quantới vitamin C sau này cho phép Pardue và cộng sự

đưa ra giả thuyết là vitamin C ngăn chăn sự tổng hợp các chất adrenocorticoid

ở gà (Pardue và CTV, 1985).

Bổ sung vitamin C không những làm giảm mức corticosteroid ở thượng

thận bị stress nhiệt mà còn giảm tỷ lệ chết (hình 7).

Page 19: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

19

Hình 7 – Tỷ lệ chết của gà broiler giảm mạnh khi được bổ sung Vit.C trong

trường hợp bị stress nhiệt (Pardue et al, 1985)

Tỷ lệ chết ở gà bị stress nhiệt độ cao không được bổ sung vitamin C là

22%, trong khi đó tỷ lệ này ở gà được bổ sung vitamin C chỉ là 7,3%. Đi kèm

với sự giảm tỷ lệ chết và hàm lượng corticosteroid là sự giảm kali huyết tương.

Mức kali giảm 6% ở gà bị stress nhiệt độ bổ sung vitamin C, trong khi ở gà

không được bổ sung là 23%. Kali trước hết là cation nội bào, được biết là bị mất

sau khi xửlý steroid (Randall, 1980). Tính chất chống oxy hoá của vitamin C có

thể hạn chế sự phá huỷ tế bào khi bị stress nhiệt.Hơn nữa, vitamin C có thể làm

biến đổi sự mất mát kali liên quan tới sự hạn ché ỉa chảy do stress nhiệt gây ra.

Krautmann và cộng sự (1988) thông báo rằng sau khi bổ sung vitamin C đã cải

thiện tỷ lệ thân thịt ở broiler. Sự cải thiện này có thể liên quan tới khả năng bảo

vệ của vitamin C đối với sự toàn về màng tế bò (Pardue và CTV, 1985). Việc bổ

sung vitamin C cho gà còn làm giảm hiện tượng ức chế miễn dịch do tác động

của steroid (Pardue và Thaxton, 1984) và làm giảm sự chậm lớn do tác động của

nhiệt (Pardue và CTV, 1985).

2- Công trình nghiên cứu của Tiến sĩ B.A. Krautmann, Hãng Hoffman

– La Roche.

Page 20: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

20

Trong những năm gần đây, người ta quan tâm hơn tới việc sử dụng

vitamin C nhằm khắc phục một số hậu quả có hại của các phản ứng stress cấp

tính. Các số liệu đã thu thập được cho thấy đáp ứng của động vật rất giống nhau

bất kể stress có nguồn gốc gì. Nguồn stress phải chịu có thể là nhiệt độ lạnh, mổ

cắn nhau, nhốt hãm, đói kéo dài, bệnh tật, độc tố hay stress bầy đàn.

Trong điều kiện stress ác tính, gia cầm không thể tổng hợp đủ vitamin C để

làm giảm hậu quả có hại liên quan tới stress. Do đó bổ sung vitamin C phải được

coi là một biện pháp nhằm ngăn ngừa trước khi dự kiến stress có thể xảy ra. Việc

bổ sung vitamin C ó thể phòng chống các loại stress gặp trong các trường hợp:

Nhốt giữ và vận chuyển tới nơi tiêu thụ; di chuyển đàn (theo chế độ nuôi dưỡng);

tiêm phòng vacxin; thay lông cưỡng bức; cắt mỏ; nóng; lạnh; bệnh tật; stress bầy

đàn.

Sau đây là các ví dụ về sử dụng vitamin C phòng chống stress trong chăn

nuôi gia cầm.

Cheng và CTV (1988) bổ sung vitamin C mức 100 hoặc 200 ppm vào

thức ăn đã làm giảm tỷ lệ chết được trên 1% trong chu kỳ theo dõi 3 tháng ở gà

đẻ bị stress nhiệt (bảng 1).

Bảng 1 - Ảnh hưởng của vitamin C đến năng suất gà đẻ

Vit. C (ppm) Tỷ lệ đẻ (%) Hộ Hu SWUSA Tỷ lệ chết

(%)

0 67,1 81,97a 69,22b 2,1a

100 66,8 82,16ab 69,56a 0,93b

200 66,3 82,96b 69,40ab 0,95b

Chú thích: SWUSA – Khối lượng vỏ trứng/1 đơn vị bề mặt vỏ trứng

Các giá trị trong cùng một cột mang các chữ cái khác nhau thì giữa chúng

có sai khác có ý nghĩa thống kê ( 0,05).

Cả hai mức vitamin C đều cải thiện chất lượng bên trong của trứng (đơng

vị Haugh) và chất lượng vỏ trứng (khối lượng vỏ trứng/đơn vị diện tích bề mặt).

Page 21: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

21

Khi theo dõi gà đẻ bị thay lông cưỡng bức, Andrews và CTV (1987) đã công bố

rằng vitamin C bổ sung vào khẩu phần đã giảm 5% tỷ lệ chết (bảng 2).

Bảng 2 - Ảnh hưởng của Vit.C khẩu phần tới tỷ lệ đẻ và tỷ lệ chết của gà đẻ

Chỉ tiêu Vit.C (ppm)

0 50

Sản lượng trứng 61,3 61,4

Tỷ lệ chết (%) 7,5a 2,5b

Gross và CTV (1988) cho thấy việc bổ sung trước vitamin C mức 330

ppm vào thức ăn đã làm giảm rõ rệt tỷ lệ chết và tỷ lệ mắc bệnh viêm bao sụn ở

gà Leghon 6 tuần tuổi trong thí nghiệm tiêm E.Coli (bảng 3).

Bảng 3 - Ảnh hưởng của Vit.C trong khẩu phần tới tỷ lệ mắc bệnh viêm bao sụn

và chết (Gross, 1988)

Vit.C (ppm) Tỷ lệ viêm bao sụn và chết (tổng số)

0 57/73 (78%)

330 10/69 (14%)

Bổ sung vitamin C vào khẩu phần gà trống (gà và gà tây) cũng cho những

kết quả khả quan. Dobrescu (1987) thông báo rằng thể tích tinh dịch, nồng độ

tinh trùng ở gà tây đều tăng khi bổ sung 150 ppm vitamin C vào khẩu phần

(bảng 4).

Page 22: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

22

Bảng 4 - Ảnh hưởng của Vit.C trong khẩu phần tới tinh dịch gà tây trống

(Dobrescu, 1987)

Chỉ tiêu Vit.C (ppm)

0 50

Thể tích tinh dịch (ml) 0,32 0,41 (+28%)

VAC (tỷ) 2,97 3,88 (+31%)

Peebles và Brake (1985) đã khẳng định là sản lượng trứng, tỷ lệ nở/trứng

có phôi và số lượng gà con/mái đều tăng khi bổ sung vitamin C lượng 50 ppm

và 100 ppm cho gà giống bị stress nhẹ trong vụ hè (bảng 5).

Bảng 5. Ảnh hưởng của Vit.C trong khẩu phần tới khả năng sinh sản của gà bị

stress trong vụ hè.

Chỉ tiêu Vit.C (ppm)

0 50 100

Tỷ lệ đẻ (%) 50,9b 52,8a 54,4a

Tỷ lệ thụ tinh (%) 93,6b 97,3a 95,3a

Tỷ lệ nở (%) 88,5b 90,8a 90,7a

Tỷ lệ chết phôi sớm (%) 6,04a 3,43c 4,71b

Số gà con/mái 112,3b 124,3a 125,3a

Trong một số trường hợp, đặc biệt nếu vitamin C bị mất đi trong quá trình

chế biến thức ăn thì mức 50 ppm bổ sung có thể là quá thấp.

Pardue và CTV (1985) đã làm giảm tỷ lệ chết của gà broile bị stress nhiệt

từ 22% xuống 7,3% nhờ bổ sung vitamin C trước khi gây stress (bảng 6).

Page 23: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

23

Bảng 6 - Ảnh hưởng của Vit.C trong khẩu phần tới tỷ lệ gà chết khi bị

stress nhiệt (%)

Điều kiện Vit.C (ppm)

0 1000

Stress 22,0 7,3

Không stress 2,4 2,4

Ảnh hưởng của việc bổ sung vitamin C đến hàm lượng corticosteroid,

protein, K, Na huyết tương trên gà broiler bị stress nhiệt (bảng 7).

Bảng 7 - Ảnh hưởng của Vit.C trong khẩu phần tới hàn lượng corticosteroid,

protein, K, Na huyết tương gà broiler khi bị stress

Stress Vit.C (ppm)

0 1000

Corticosteroid (mg/ml)

Stress nhiệt 18,1 8,8

Bình thường 3,2 4,9

Protein (mg/ml)

Stress nhiệt 3,5 2,9

Bình thường 2,8 3,0

K+ (mM)

Stress nhiệt 4,8 5,6

Bình thường 6,3 5,9

Na+ (mM)

Stress nhiệt 137 128

Bình thường 132 134

Trong cùng nghiên cứu, vitamin C bổ sung đã giảm lượng hormon steroid

thượng thận trong huyết tương từ 18,1 xuống 8,1 mg/ml khi gà bị stress nhiệt.

Họ cũng thông báo lượng K+ huyết tương giảm, Na+ tăng khi hormon steroid

Page 24: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

24

thượng thận tăng, ảnh hưởng tới cân bằng các chát điện giải cho thấy sự mất

nước của mô bào. Bổ sung vitamin C vào khẩu phần trước thời gian bị stress

nhiệt đã ảnh hưởng tốt tới việc cân bằng chất điện giải.

Khi bổ sung vitamin C vào nước uống cho broiler, theo Pardue và CTV

(1994) mức vitamin C huyết tương đã tăng trong khoảng 100 và 250 ppm (bảng

8).

Bảng 8 - Ảnh hưởng của Vit.C trong nước uống đến hàm lượng Vit.C huyết

tương của gà broiler.

Vit.C trong nước uống (ppm) Vit.C huyết tương (ppm)

0 10,4c

5 11,7c

25 12,4c

50 9,8c

100 10,1c

250 15,6b

500 18,0b

1000 18,0b

2000 26,2a

Page 25: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

25

Bảng 9 - Ảnh hưởng của Vit.C bổ sung vào nước uống đến hàm lượng Vit.C

huyết tương của gà broiler.

Vit.C trong nước uống (ppm) Vit.C huyết tương (ppm)

0 16,9c

600 21,0b

1200 23,0a

Họ cũng xác định sự biến động vitamin C huyết tương sử dụng 100 ppm

vitamin C qua nước uống (hình 8)

Hình 8 – Sự giảm Vit.C huyết tương khi bổ sung 1000 ppm vitamin C vào

nước uống sau 24 giờ (Pardue, 1984)

Gần 12 giờ sau khi được cung cấp, nồng độ vitamin C huyết tương đã đạt

mức sàn. Mức sàn cao này kéo dài 16 giờ sau khi rút vitamin C bổ sung, đây

chính là khoảng thời gian cần thiết cho các công đoạn bắt, nhốt, vận chuyển, giết

mổ ở xí nghiệm chế biến gia cầm (hình 9)

Page 26: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

26

Hình 9 - Hàm lượng vitamin C huyết tương sau khi bổ sung vitamin C và nước

uống (Waysek, 1988)

Farr và CTV (1988) đã tiến hành 3 thí nghiệm để xác định xem việc bổ

sung vitamin C ở mức cao vào nước uống 32 giờ trước hết mổ có ảnh hưởng tới

các chỉ tiêu giết mổ hay không. Các thí nghiệm đã bổ sung mức 0,600 và 1200

ppm và lặp lại 3 lần trong mỗi thí nghiệm. Cứ 4 giờ một lần, dung dịch vitamin

C lại được chuẩn bị 12 gà trống 12 gà mái mỗi lô được chọn ngẫu nhiên, được

cân từng con và đánh dấu để giết mổ, không cân gà trước thí nghiệm bổ sung để

tránh hoặc để giảm bớt sự thích nghi với stress nhốt hãm. Những gà đã được

chọn được nhốt và vận chuyển 8 giờ trước khi giết mổ (nhằm bắt chước giống

như vận chuyển tới nơi giết mổ). Các mẫu máu được lấy vào thời điểm giết mổ

và được phân tích để xác định lượng vitamin C, tất cả là 648 gà (216 gà/mỗi thí

nghiệm).

Ảnh hưởng của bổ sung vitamin C lên nồng độ huyết tương được dẫn ra ở

bảng 9. Khi vitamin C bổ sung tăng, nồng độ ở huyết tương cũng tăng. Khối

lượng cơ thể gà thí nghiệm chọn ngẫu nhiên được dẫn ra ở bảng 10.

Page 27: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

27

Bảng 10 - Ảnh hưởng của Vit.C bổ sung vào nước uống đến khối lượng sống của

gà thí nghiệm

Vit.C trong nước uống (ppm) Vit.C huyết tương (ppm)

0 1613b

600 1642b

1200 1672a

Khi so sánh các thí nghiệm, thể trọng của lô nhận 1200 ppm vitamin C

lớn hơn đối với đối chứng và lớn hơn lô nhận 600 ppm. Khối lượng thân thịt làm

lạnh (trừ nội tạng ăn được vào mỡ bụng) được dẫn ra ở bảng 11.

Bảng 11 - Ảnh hưởng của Vit. C bổ sung vào nước uống đến khối lượng thân

thịt của gà thí nghiệm

Vit. C nước uống (ppm) Khối lượng thân thịt của gà (g)

0 1094b

600 1108b

1200 1133a

Kết quả cho thấy sự khác nhau về khối lượng thân thịt lạnh là có ý nghĩa,

cao hơn cả là ở lô gà nhận 120 ppm vitamin C. Các nhóm nhận 600 ppm vitamin

C đã có đáp ứng nhẹ. Khối lượng thân thịt sau 24 giờ làm khô nước được dẫn ra

ở bảng 12.

Page 28: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

28

Bảng 12 - Ảnh hưởng của Vit. C bổ sung vào nước uống đến khối lượng thân

thịt đông lạnh sau 24 giờ làm khô nước

Vit. C nước uống (ppm) Khối lượng thân thịt của gà (g)

0 1064b

600 1076b

1200 1103a

Kết quả này cũng có xu hướng tương tụ như khối lượng thân thịt sau giết

mổ với độ giữ nước không sai khác nhiều. Không có sự sai khác giữa các lô về

độ mềm của thịt lườn. ảnh hưởng của vitamin C trong các thí nghiệm dường như

chỉ thể hiện ở chỗ làm tăng khối lượng sống thông qua quá trình giết mổ.

3- Những nghiên cứu sử dụng vitamin C làm giảm đáp ứng stress ở

gà trước giết mổ của D.G. Satterlee, I. Aguilera – Quintana và B.J.Munn, Trạm

thực nghiệm – Bộ môn chăn nuôi gia cầm, Đại học Nông nghiệp Louisiana

Người ta đánh giá được hiệu quả của vitamin C trong việc cai thiện stress

ở gà liên quan với những điều kiện trước giết mổ. Mức corticosteron huyết

tương và tỷ lệ heterophil/lymphocyt (H/L) được sử dụng để đánh giá trạng thái

stress. Khi gà đáp ứng stress mạnh, corticosteron và tỷ lệ H/L sẽ cao. Ở thí

nghiệm 1 (“điều kiện nghỉ ngơi”), mẫu máu gia cầm được lấy vào 32 và 8 giờ

trước khi giết mổ. Vitamin C không được bổ sung hay được bổ sung (1200 ppm)

vào nước uống giữa các lần lấy mẫu. Ở gà không được bổ sung vitamin C, tỷ lệ

H/L cao hơn ở các mẫu máu được lấy 8 giờ trước khi giết mổ so với các mẫu

máu được lấy 8 giờ trước khi giết mổ so với các mẫu lấy 32 giờ trước giết mở.

Tuy nhiên, tỷ lệ H/L ở mẫu máu lấy 8 giờ trước giết mổ ở gà được bổ sung

vitamin C giảm tới mức ngang như ở các mẫu lấy 32 giờ trước khi giết mổ. Khi

so sánh mẫu máu theo giới tính thì thấy rằng hiệu quả của vitamin C là làm tỷ lệ

H/L ở thời điểm 8 giờ chỉ rõ rệt ở gà trống. Vitamin C không ảnh hưởng tới

mức croticosteron huyết tương trong thí nghiệm 1.

Page 29: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

29

Ở thí nghiệm 2 (điều kiện stress), 24 giờ sau khi được hay không được

cung cấp vitamin C, gà được lấy máu 8 giờ trước giết mổ và ngay trước khi giết

mổ (0 giờ). Gà bị bỏ đói và nhốt trong chuồng giữa các lần lấy máu. Mức

corticosteron huyết tương và tỷ lệ heterophil đã tăng rõ rệt ở 0 giờ.

Thí nghiệm với vitamin C đã làm giảm một cách có ý nghĩa đáp ứng

corticosteron huyết tương đối với stress do bị đói và bị nhốt. Tỷ lệ H/L bị giảm

ở những gà được thí nghiệm với vitamin C ở mọi thời điểm lấy máu. Những

phát hiện trên cho thấy rằng bổ sung vitamin C đã làm giảm đáng kể đáp ứng

stress ở gà chuẩn bị vào giết thịt.

Con người có thể do chính xác cảm nhận của gà đối với stress trong môi

trường hay không, đó còn là vấn đề đang tranh luận giữa các nhà nghiên cứu.

Phương pháp đánh giá stress bao gồm: theo dõi sự biến đổi về hệ tim mạch, nhịp

thở, phân tích các hormon (ACTH, các catecholamin, glucocorticoid,

glucagon..) phát hiện một số thay đổi về trao đổi chất, theo dõi sức sản xuất.

Mỗi phương pháp có những lợi thế riêng. Song phương pháp nào cũng có hạn

chế (xem các bài tổng quan của Freman, 1971, 1976; Siegel, 1971, 1980; Stott,

1981). Tuy nhiên, phần lớn họ đều thống nhất với sự ra đời của kỹ thuật ligand

phóng xạ đặc hiệu và tinh nhạy (gắn cạnh tranh protein và miễn dịch phóng xạ)

thì việc đo hàm lượng corticosteron trong máu đã nhanh tróng được ứng dụng

rộng rãi hơn và có lẽ là chỉ thị có độ tin cậy hợp lý nhất về trạng thái stress ở gia

cầm. Bằng chứng là một loạt các báo cáo gần đây khẳng định rất nhiều tác nhân

gây stress không đặc hiệu đều có khả năng kích thích sự giải phóng

corticosteron vào máu. Một số tác nhân gây stress đã được khảo sát được khảo

sát bao gồm: các thái quá về nhiệt độ (Brow và Nestor, 1973; El – Halawani et

al, 1973, Buckland et al; 1974; Edens và Siegel, 1975; Nir et al; 1975; Edens,

1977, 1978; Benving và Vonder, 1978) bị cắt nguồn thức ăn hay nước uống

(Buckland và CTV, 1974; Nir và CTV; 1975; Beuving và Vonder, 1978;

Freeman và CTV, 1980; Scott và CTV, 1983), nhốt hay không cho vận động

(Zachriasen và Newcomer, 1975; Beuving và Vonder, 1978 và các tác nhân

Page 30: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

30

stress bầy đần (Gross và Siegel; 1973; Satterlee và CTV, 1983; Satterlee và

Johnson, 1988).

Gần đây, Gross và Siegel (1983) cho rằng việc xác định đơn giản tỷ lệ

H/L thậm chí còn chứng tỏ là chỉ thị đáng tin cậy hơn về stress so với mức

corticosteron huyết tương. Ngoài ra, một mối tương quan giữa vitamin C và tỷ lệ

H/L ở gà Leghorn đã được miêu tả. Gross (1988) đã nhận thấy rằng gà đẻ được

cấp vitamin C sống sót sau khi bị stress nhiệt có tỷ lệ H/L thấp hơn so với gà lô

đối chứng còn sống sót. Vitamin C cũng làm giảm một phần sự gia tăng tỷ lệ

H/L khi bị stress lạnh (Gross, 1988 b) và làm giảm sự gia tăng ty lệ H/L ở những

gà bị stress bầy đàn (Gross, 1988 c) xuống mức ngang với đối chứng.

Phòng thí nghiệm của Scolt; 1983 đã chứng minh rằng những công việc

liên quan tới sự chuẩn bị gà để giết mổ (như nhốt, không cho ăn uống) đã làm

nông độ corticosteron ngoại vi năng lên. Nhiều nghiên cứu khác gần đây ở LSU

(Farr et al., 1988) cho thấykhối lượng cơ thể sống, khối lượng thân thịt đạt cao

hơn một cách có ý nghĩa ở những gà được bổ sung vitamin C trước khi giết mổ

so với đối chứng. Ngoài ra Pardue (1987) đã giả định sự ngăn cản của vitamin C

đối với quá trình tổng hợp các chất steroid ở vỏ thượng thận có thể là nguyên

nhân chủ yếu cắt nghĩa tại sao vitamin C có thể cải thiện được ảnh hưởng xấu

của stress. Vì thế họ cho rằng các thao tác trước giết mổ như ngừng cho thức ăn,

nước uống gây stress điển hình như làm tăng lượng corticosteron trong máu là lý

do giải thích các chất thoát sản xuất mà cho đến nay vẫn được coi là điều bí ẩn.

Tất cả những điều đó góp phần giải thích tại sao vitamin C làm tăng tỷ lệ các sản

phẩm ăn được khi cung cấp vitamin C cho gà vào thời gian thích hợp trước giết

mổ. Do đó, mục đích chính của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả của vitamin

C khẩu phần tới việc cải thiện stress do những điều kiện trước giết mổ gây ra.

Để đạt mục đích này, các tác giả chọn việc đo mức corticostero trong máu và tỷ

lệ H/L làm chỉ thị cho trang thái stress.

Vật liệu và phương pháp

Gà và cách xử lý

Page 31: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

31

Đối tượng nghiên cứu là 400 gà thịt broiler chung trống, mái, con lai

Peterson x Arbor Acres, nuôi trên nền có lớp độn dày, tới 42 ngày tuổi, tại trại

nghiên cứu của LSU – gà 1 ngày tuổi được chia đều vào 8 ô (nhốt 50 con/ổ). Gà

được sưởi bằng khí, nhịt độ ban đầu 320C, giảm dần 30C/1 tuần cho tới khi đạt

210C. Khẩu phần khởi động 0 – 14 ngày được xây dựng trên nền ngô và đậu

tương, chứa 23% protein thô, ME 3190 Kcal/kg. Khẩu phần sinh trưởng 15 – 42

ngày chứa 18% protein, ME - 3190 Kcal/kg. Nước uống được cung cấp tự do

(adlibitum). Trong quá trình nuôi, ánh sáng được chiếu 24h/ngày. Mật độ nuôi

đảm bảo 0,08m2/gà.

Vào thời điểm 32 giờ trước giết mổ, 4 ô được chọn ngẫu nhiên và được

xử lý bổ sung với 1200 ppm vitamin C hoặc không bổ sung vào nước uống. Thí

nghiệm với vitamin C kéo dài 24 giờ, gà bị nhốt và nhịn ăn, nhịn uống 8 giờ

trước khi giết mổ. Gà được nhốt trong chuồng có quạt gió làm mát suốt thời

gian, đến tận thời điểm giết mổ thì được chuyển thẳng đến lò mổ xa cách LSU 5

dặm. Những điều kiện trong thời gian trước khi giết mổ được chọn lựa giống

như các thao tác diễn ra trong thực tế đối với gà thương phẩm đem đi xử lý.

Việc nhốt hãm và cho nhịn ăn trong thí nghiệm này chứng tỏ là có hiệu quả gây

stress mạnh cho gà ( đáp ứng cường năng tuyến nhượng thận (Scott và CTV,

1983).

Lấy máu

Các mẫu máu (5ml/gà) được lấy bằng cách hút qua chọc tim vào các thời

điểm 32 giờ và 8 giờ trước giết mổ và ngày trước khi giết mổ (0 giờ). Mỗi tính

biệt lấy 21 con ở thời điểm 32 giờ trước khi giết mổ, lấy mẫu 21 trống và 21

mái. Còn ở thời điểm 8 giờ và 0 giờ sẽ khân thành 2 loại: có bổ sung và không

bổ sung vitamin C, do đó số gà trống và mái (21 mẫu co mỗi tính biệt) lấy máu

được chọn để có thể so sánh thành 2 thí nghiệm độc lập. Ở thí nghiệm 1, sự khác

nhau được đánh giá ở mức corticosteroid huyết tương và tỷ lệ H/L ở gà broiler

trong “điều kiện nghỉ ngơi” trước giết mổ. Đặc biệt, các kết quả từ các mẫu máu

“lúc nghỉ ngơi” mở đầu (32 giờ) được so sánh với các kết quả lấy 8 giờ trước

Page 32: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

32

giết mổ được coi như vẫn ở “điều kiện nghỉ ngơi” (mẫu máu lấy ở thời điểm 8

giờ cả 2 loại, không bổ sung vitamin C hoặc có bổ sung trước mổ 24 giờ)

Ở thí nghiệm 2, corticosteron huyết tương và tỷ lệ H/L được so sánh giữa

các mẫu máu lần 2 của thí nghiệm (1 - lấy ở “điều kiện nghỉ ngơi” lấy trước 8

giờ) và các mẫu lấy từ các gà broiler “ bị stress” (các mẫu lấy ngay trước khi

giết mổ, 0 giờ, nghĩa là sau 8 giờ gà đã bị nhót và nhịn ăn uống). Trong các thí

nghiệm, gà chỉ được lấy máu 1 lần.

Xác định tỷ lệ H/L

Số lượng các loại bạch cầu khác nhau được xác định bằng phết kính máu.

Các tấm kính được nhuộm theo phương pháp Ưright – Giemsa. Đếm và phân

loại theo phần trăm các loại bạch cầu gồm lâm ba cầu (limphocyt), bạch cầu dị

sắc (heterophil), bạch cầu đơn nhân, ái kiềm, ái toan, mỗi phiến kính đếm 200

bạch cầu. Tỷ lệ heterophil/lymphocyte (H/L) xác định bằng cách chia số lượng

heterophil cho số lymphocyte.

Phân tích miễn dịch phóng xạ hàm lượng corticosteron huyết tương tiến

hành theo Satterlee và CTV, 1980.

Thiết kế thống kê: ở thí nghiệm 1, 126 gà được sử dụng bố trí hoàn toàn

ngẫu nhiên (CRD – comphetely randomized design), kiểu 3 x 2 (3 lần gặp x 2

yếu tố TN). Yếu tố thí nghiệm xác định là 3 thời gian lấy mẫu máu 32 giờ trước

giết mổ, 8 giờ trước giết mổ không bổ sung vitamin C, 8 giờ trước giết mổ có bổ

sung vitamin C và tính biệt là những yếu tố chính.

Ở thí nghiệm 2,168 gà được sử dụng trong thí nghiệm dạng 2 x 2 x 2. Các

yếu tố thí nghiệm (bổ sung, không bổ sung vitamin C, đối chứng), thời gian lấy

máu (8h, 0h trước giết mổ), tính biệt là các yếu tố thí nghiệm chính. Khi thích

hợp thì sự sai khác giữa các giá trị trung bình của corticosteron huyết tương, của

tỷ lệ H/L được xác định theo phân bố Duncan (1955).

Kết quả

Trong điều kiện không có stress, việc bổ sung vitamin C không làm thay

đổi nông độ corticosteron, cũng như tỷ lệ H/L, nhưng khi gặp stress, việc bổ

Page 33: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

33

sung vitamin C đã làm giảm đáng kể sự tăng mức corticosteron cũng như tỷ lệ

H/L

Tóm lại, bổ sung vịt C với thời gian thích hợp cho gà broiler bị stress

(trước giết mổ) là có lợi nhờ làm giảm đáp ứng stress sau đó.

II- LƯỢC SỬ PHÁT HIỆN RA VITAMIN C

Vitamin C còn có tên khác là axit ascorbic

Bệnh scorbut và chất gây ra bệnh này đã được biết từ những thế kỷ XI –

XII, bệnh thường xuất hiện trên các thuỷ thủ đi biển dài ngày với triệu chứng

điển hình là xuất huyết nặng ở dưới da, nội tạng và nhiều nhất là ở chân răng,

bệnh sẽ dần khỏi khi họ trở lại đất liền và được ăn thức ăn nhiều rau xanh, quả

tươi…

Khi đó, nguyên nhân và công thức hoá học của chất gây ra bệnh này luôn

là điều bí ẩn. Mãi tới sau này, Holst và Frolich mới nghiên cứu và tìm ra lời giải

đáp: nguyên nhân gây bệnh là do trong khẩu phần ăn của bệnh nhân thiếu

vitamin có bản chất là một axit hữu cơ, đồng thời các nhà khoa học cũng bước

đầu đã tìm ra cơ chế tác dụng của vitamin này. Tiếp theo, Zilva tách được axit

này từ chanh, cam thì sự hiểu biết và sử dụng nó mới có cơ sở chắc chắn. Năm

1920, Drummond đặt tên chất này là vitamin C. Vài năm sau, Her-bert, Hirst và

Kerrer tách được vitamin C từ thượng thận. Năm 1933, Funk rồi Reichstein,

Haworth tổng hợp được vitamin C.

Khi thiếu vitamin C, cũng như ở khỉ và chuột lang, triệu chứng điển hình

ở người là sự suy yếu vách mạch quản và các mô liên kết. Dễ nhận thấy nhất là

ở vùng lợi răng dễ bị chảy máu, lỏng chân răng, xuất huyết thành đám dưới da,

sụn và vách ruột. Từ đó cơ thể suy yếu, da và niêm mạc nhợt nhạt, sức đề kháng

suy giảm, các vết thương chậm lành. Bệnh dễ chứa nhanh chóng bằng cách bổ

sung vitamin C.

Page 34: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

34

Hiện nay người ta điều chế vitamin C bằng cách tổng hợp, rẻ hơn nhiều so

với phương pháp tách chiết từ thực vật.

Vitamin C có nhiều trong cây xanh, rau quả, đặc biệt trong chanh, cam,

bưởi, quýt, bắp cải và trong thịt, đặc biệt ở cây hồng gai và một số giống ớt đỏ

(có thể đạt tới 1 – 2% vật chất khô) và mô động vật.

Nồng độ vitamin C trong cơ thể cao nhất thường gặp ở phần tuỷ của tuyến

thượng thận (đây là một điều hết sức lý thú, sẽ được giải thích kỹ trong phần

sau). Trong huyết tương có thể chứa 0,3 – 1,0 mg%. Đánh chú ý là do đánh giá

mức độ dinh dưỡng vitamin C trong chẩn đoán ở người thường định lượng qua

bạch cầu, vì hàm lượng rất ổn định, dao động trong khoảng 10 – 25 mg/100 g. Ở

người, hàm lượng vitamin C huyết tương chỉ gần mất hẳn sau khi không được ăn

vitamin này liền trong 3 – 6 tuần lễ. Nhưng các triệu chứng của bệnh hoại huyết

quản scorbut (scurvy) chỉ bắt đầu thể hiện sau 4 tháng vào lúc các bạch cầu hoàn

toàn cạn kiệt axit ascorbic.

Nhiều sinh vật có thể tự động được vitamin C cho cơ thể. Tuy nhiên ở

nhiều loài, vitamin C được lấy chủ yếu từ thức ăn bên ngoài vào. Sau khi vào

máu, vitamin C được dự trữ ở thượng thận, thuỷ tinh thể, bạch cầu. Các cơ quan

khác dự trữ ít hơn: hồng cầu, não, tuỵ. Nồng độ vitamin C trong máu vào

khoảng 0,62 mg/100 ml, còn trong huyết thanh là 0,1 – 0,7 mg/100 ml.

Vitamin C bị đào thải nhiều nhất và sớm nhất qua đường nước tiểu, phần

còn lại qua đường phân và mồ hôi. Một số thuốc khác lại làm tăng bài tiết

vitamin C như: bacbituric, salicylat, axit axetylsalicylic, atropin, adrenalin,

oestradiol.

Hàm lượng vitamin C giảm ở người già, trẻ em suy dinh dưỡng. Hàm

ngày chỉ cần 10 mg là đủ phòng bệnh scorbut, nhưng tối đa phải 70 – 75 mg.

Các bệnh nhiễm trùng, thấp khớp, lao làm giảm vitamin C trong huyết thanh.

Trong cơ thể, vitamin C ở trạng thái tự do, ít ở dạng kết hợp. Dạng kết hợp hoạt

tính kém hơn, nhưng lại bền vững hơn.

Page 35: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

35

Nhu cầu hàng này cơ thể cần nhiều vitamin C hơn các loại vitamin khác:

50 – 100 mg/ngày hoặc 1 mg/kg thể trọng. Phụ nữ có thai hoặc trẻ em mỗi ngày

cần 100 – 200 mg.

Thiếu vitamin C, cơ thể bị bệnh scorbut. Sheffield đã làm thí nghiệm này

trên những người tình nguyện bằng cách không cho dùng vitamin C và nhận

thấy 17 tuần đầu nang lông ở da dầy lên, chảy máu từng đốm, 26 tuần sau chảy

máu lợi, đau lương và chi, da bầm máu và có nước máu ở khớp gối. Một số bệnh

nhân tái phát lao cũ hoặc có biến chứng tim, không thấy rối loạn trong hồng cầu

và bạch cầu. Thiếu vitamin C giảm khả năng liền sẹo của vết thương.

Tiêm 10 mg vitamin C/ngày cho người tình nguyện đó, các tổn thương

trên mất dần, tổn thương da mất sau 2 tháng, chảy máu lợi sau 3 tháng. Song

người bệnh vẫn mệt, không đủ đáp ứng khi cần gắng sức. Muốn bình phục

nhanh phải tiêm ít nhất 30 mg/ngày.

Ngày nay người ta biết vitamin C có trong tự nhiên dưới 2 dạng: dạng khử

(axit L. ascorbic) và dạng oxy hoá (axit dehydroascorbic), dạng sau này ít hơn.

Cả hai dạng đều tan trong nước, dễ bị phân huỷ khi tiếp xúc với các chấy oxy

hoá hoặc bazơ. So với các vitamin khác, vitamin C là chất duy nhất không có ở

dạng phức hợp với các mucleotit hoặc coenzym. Đặc tính cơ bản của axit

ascorbic là tác dụng khử. Người ta dùng đặc tính này để định lượng vitamin C

khi cho nó tác dụng với một chất có màu, rồi xác định bằng phương pháp so

màu.

Trong cơ thể người hoàn toàn không tự tổng hợp được vitamin C mà phải

lấy từ các nguồn thức ăn bên ngoài vào. Vitamin C dễ tìm, có nhiều ở rau quả.

Trong cơ thể vitamin C có nồng độ khác nhau ở mô và thể dịch, nơi nào chuyển

hoá mạnh nhất thì nồng độ vitamin C ở đó cao nhất. Nhu cầu vitamin C thay đổi

theo tuổi, khí hậu và cương độ lao động. Người lao động nặng có thể cần 120

mg/ngày, phụ nữ có mang cần 150 mg/ngày, người ở miền núi lạnh cần 140 mg/

ngày.

Page 36: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

36

Nửa đời sống của axit ascorbic khoảng 16 ngày. Sau đó nó biến thành

axalat và bài xuất ra nước tiểu. Khi nồng độ trong máu quá cao (1-1,2

mg/1000ml), vitamin C bị đào thải, do đó không nên tiêm tĩnh mạch nhiều

vitamim C.

Vitamin C dễ bị oxy hoá, nhất là khi thái, rửa, đun sôi thực phẩm. Nếu có

lẫn đồng (Cu), sắt (Fe) hoặc một số kim loại khác trong nước sẽ làm tăng nhanh

sự phá huỷ vitamin C.

Do tính chất oxy hoá - khử mạnh, nên vitamin C tham gia nhiều trong các

quá trình chuyển hoá của cơ thể, có giá trị như một nhóm ngoại của coenzym.

Thực ra, vitamin C không phải là thành phần của coenzym. Một số tài liệu cho

rằng vitamin C phối hợp với glutathion cytocrom C, pyrimidin, nucleotit hoặc

flavin nucleotit để thực hiện chức năng oxy hoá - khử.

Ngày nay, người ta chế được nhiều dạng vitamin C với giá rẻ, rất tiện

dụng dùng cho mọi lứa tuổi để điều trị và phòng các bệnh thiếu vitamin C cho

người mà vật nuôi.

III. CẤU TRÚC HOÁ HỌC CỦA AXIT ASCORBIC

Vitamin C có trúc hoá học giống như cấu trúc của một monosacarit. Axit

ascorbic dễ dàng được oxy hoá thành dạng khử hydro. Cả hai dạng khử và dạng

oxy hoá đều có hoạt tính sinh học và đều tồn tại trong các dịch cơ thể.

Hoạt tính của vitamin C chủ yếu là do nhóm endiol

(-C C-)

OH OH

của axit ascorbic, vì nhóm này làm nhiệm vụ tham gia vận chuyển hydro.

Vitamin C là một trong những axit hữu cơ chuyển hoá từ các hexoza quan

trọng nhất. Về mặt hoá học, axit ascorbic là γ -lacton (lacton là dạng este nội

phân tử: liên kết este xuất hiện giữa nhóm CO và OH của mọt trong những

cacbon, tuỳ vị trí mà đánh dấu α,β,γ … tính từ nhóm carboxyl. Dạng γ lacton

(ở C4 thường bền hơn cả) của axit hexonic với một liên kết kép gắn hai gốc rượi

– OH ở vị trí cacbon 2 và 3. Nó dễ dàng cho và nhận hydro từ hai gốc rượu cho

Page 37: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

37

nên có khả năng tham gia tích cực vào các phản ứng oxi hoá khử. Chỉ có đồng

phân dãy L, tức là axit L – ascorbic mới có hoạt tính vitamin C.

Quá trình sinh tổng hợp axit ascorbic diễn ra trong thực vật và các mô

gan, thận, một số tuyến ở hầu hết các loài động vật, ngoại trừ mấy giống: người

khỉ, chuột lang, dơi ăn quả và ít loài cá. Đây là nguyên cớ khiến người và những

giống động vật vừa nêu phải luôn nhận vitamin từ nguồn bên ngoài để tránh các

bệnh thiếu vitamin C. Các vitamin C sinh vật không chứa vitamin C và hình như

không có nhu cầu đối với chất này.

Axit ascorbic được tinh chế từ nước quả chanh thành dạng tinh thể lần

đầu bởi C.King và W.Waugh vào năm 1932. Do cấu trúc khá đơn giản nên ngày

nay vitamin C được sản xuất nhiều với giá thành thấp, cho phép con người thoả

mãn các nhu cầu dinh dưỡng cũng như dùng trong các ngành chế biến thực

phẩm và chăn nuôi.

Chuỗi phản ứng sinh hoá từ phân tử đường glucoza dẫn đến axit L –

ascorbic trong mô bào diễn ra như sau: Bắt đầu từ chất uridin diphophat –

glucoza (UDP – glucoza, dạng có hoạt tính chuyển hoá của đường):

Page 38: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

38

Sau đó, axit – D – glucuronic được tách khỏi UDP và chuyển hoá tiếp như

sau:

Axit – L-ascorbic là một tác nhân có tính khử mạnh nhờ cặp hydrogen dễ

chuyển nhượng và đây cũng là cơ sở hoạt tính vitamin của nó. Axi L-dehydro

ascorbic cũng còn hoạt tính sinh học, tuy kém hơn. Khi chất này bị thuỷ phân

thành dạng mạch thẳng, có tên là axit diketogulonic thì mất hoàn toàn đặc tính

vitamin C. Đây là nguyên nhân chính của sự giảm vitamin C trong thực phẩm,

rau quả tươi khi nấu nướng. Các ion kim loại Fe, Cu làm tăng hiện tượng này.

Page 39: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

39

IV. VAI TRÒ SINH HỌC CỦA VITAMIN C

Khi nghiên cứu sự chuyển hoá của rất nhiều hợp chất trong cơ thể, người

ta đã phát hiện sự cần thiết của vitamin C, nhưng trong phần lớn của trường hợp

đó, cơ chế phân tử đầy đủ và rõ ràng của vitamin tham gia như thế nào vẫn chưa

được sáng tỏ. Nhìn chung, vitamin C có các chức năng chính sau đây:

- Sinh tổng hợp AND, ARN.

- Chuyển hoá tyrosin

- Tổng hợp glycogen

- Trao đổi canxi

- Chuyển hoá axit Folic

- Tổng hợp colagen

- Trao đổi colesterol

- Oxi hoá hemoglobin

- Tổng hợp cocticosteroit

- Oxi hoá vitamin A

- Oxi hoá NADH và NADPH

- Oxi hoá và khử glutation

- Chuyển hoá adrenalin

- Kích thích phophoril hoá ADP…

Có lẽ vai trò cụ thể của vitamin C trong tất cả các khâu chuyển hoá trung

gian trên là khả năng cho, nhận điện tử và proton, nghĩa là tham gia phản ứng

oxi hoá khử. Ví dụ, ở các protein, giúp vitamin việc khôi phục các liên kết

disulfua và qua đó củng cố cấu trúc không gian của protein, nhất là của các

enzim. Các phản ứng chuyển hoá tyrosin và phenylalanin bắt buộc phải có axit

ascorbic tham gia. Việc giải phóng sắt dự trữ từ feritin trong tế bào để đưa ra

vòng tuần hoàn cũng cần axit ascorbic có mặt.

Phân tích một số chức năng chính của vitamin C.

1. Tham gia chuyển khoá các chất trong cơ thể.

Page 40: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

40

a. Chuyển hoá protein: vitamin C chuyển hoá phenylalanin và tyrosin

bằng cách thúc đẩy oxy hoá axit parahydroxyphenil pyruvic trong sơ đồ ở trang

sau:

Trẻ sơ sinh thiếu tháng

Trẻ sơ sinh thiếu tháng do chưa hình thành phenylalanin hydroxylaza,

hoặc ăn nhiều đạm, thừa tyrosin làm tăng nhu cầu vitamin C.

Vitamin C tham gia tổng hợp colagen của cơ thể, chuyển hoá axit folic

thành axit folinic để xây dựng AND, ARN. Do đó vitamin C có ảnh hưởng tới

các mô đang phát triển về hình thái như xương, răng, mô liền sẹo. Thiếu vitamin

C , răng tự phân huỷ và rụng nhanh.

b. Chuyển hoá gluxit: vitamin C điều hoà aconitaza, chuyển axit xitric

thành axit xisaconitic trong chu trình Kred để chuyển hoá hydratcacbon.

c. Chuyển hoá lipit: vitamin giúp tổng hợp glucocorticoit, photphoryl hoá

vitamin B2, giúp hấp thụ lipit ở ruột.Tiêm ACTH vào lượng thận thì thượng thận

phì đại nhưng lượng vitamin C giảm. mặt khác, nội tiết tố thượng thận muốn trở

thành dạng hoạt động phải kết hợp với vitamin C thành một phức hợp.

d. chuyển hoá sắt: vitamin C C giúp cho cơ thể hấp thu sắt, giữ sắt ở dạng

Fe++ trong ruột.

Page 41: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

41

Sơ đồ chuyển hoá phenylalanin và tyrosin

2. Tạo sức đề kháng

Vitamin C chống nhiễm trùng, nhiễm độc, cảm cúm, tăng đề kháng,

chống các stress do tác dụng say đây:

a. Kích thích thực bào.

b. Làm tan màng polsacarit của vi khuẩn, phá các lớp dày niêm mạc là nơi

ẩn náu của vi khuẩn, giúp tổng hợp kháng thể nhanh.

c. Tăng tổng hợp interferon và tăng hoạt tính của chất này (Pauling).

Pauling khuyên có thể dùng vitamin C với liều rất cao: 7 – 10 g/ngày. Pauling

(1970, 1974) thấy axit ascorbic với liều từ 1 – 5 g/ngày có tác dụng tốt đến các

chỉ số máu và ngừng phát triển chứng cảm lạnh.

Page 42: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

42

Người ta cho rằng axit ascorbic nói chung có tác dụng khánh virus trực

tiếp, kích thích các bạch cầu thực bào, làm tăng tính miễn dịch và hoạt động qua

hệ interferon. Dahl và Degré (1976) thấy axit ascorbic làm tăng cường mức độ

sản xuất interferon trong các tế bào da và nguyên bào sợi phổi. Burke (1973)

cho biết axit ascorbic có ảnh hưởng đến tương tác của chất cảm ứng trên mặt tế

bào hoặc trong tế bào sinh interferon, hoặc ảnh hưởng đến sản xuất và tính bền

vững của mARN của interferon (Vileekm Havell, 1973), hoặc tăng cường tổng

hợp protein và tổng hợp AMP vòng, mà AMP vòng là yếu tố kích thích kháng

virus của interferon (Friedman và Pastan, 1939; Weber vaf Sewart, 1975).

Ngoài ra, Schmidt (1955) phát hiện ở mô tuyến thượng thận – nơi sản sinh

ra một số kháng thể, có vai trò xúc tác sự vận chuyển hydro giữa NADH, hoặc

FADH với hệ cytochrom của axit ascorbic.

Cường độ làm vitamin Việc càng cao, nhu cầu vitamin C càng lớn. Hiện

tương giảm hàm lượng vitamin C trong máu, nước tiểu, dịch vị được coi là

những biểu hiện xấu. Bình thường hàm lượng vitamin C là những biểu hiện xấu.

Bình thường hàm lượng vitamin C ở thượng thận là 140 – 295 mg, gan: 8 – 40

mg, máu: 0,8 – 2,5 mg. Các thầy thuốc cho rằng axit ascorbic có tác dụng ức chế

các khối u, nhất là đối với bệnh bạch cầu cấp.

Vitamin C có vai trò duy trì sắt ở dạng Ferro (Fe++) nên rất cần thiết đối

với oxydaza của axit homogentisic.

Vitamin C C là vitamin vừa giúp chuyển hoá vừa làm tăng sức đề kháng

chống lại các bệnh do nóng lạnh, làm việc quá sức, vì vậy người ta thường dùng

vitamin trong những trường hợp cảm cúm, nhiễm trùng.

Dạng axit dehydroascorbic cũng có tính chất chống bệnh scorbut, nhưng

biến đổi và giảm tác dụng hanh hơn dạng axit L – ascorbic, nên lượng dùng phải

gấp 3 lần dạng axit L-ascorbic. Trong trường hợp nhiễm trùng, người ta thấy

lượng axit L-ascorbic ít hơn axit dehydroascorbic, nên chuột bị bệnh, teo lông,

gan thoái hoá, vỡ gan và chết.

3. Hình thành sợi colagen của protein, tạo mô liên kết

Page 43: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

43

Khi tìm hiểu quá trình xuất hiện bệnh Scorbut, người ta thấy rằng vitamin

C không thể thiếu đối với sự tạo thành các sợi mô liên kết và các chất bao quanh

tế bào. Một trong những khâu quan trọng đã được khảo sát tương đối kỹ là sự

hình thành các bó sợi colagen. Colagen chiếm tới một phần ba tổng số các

protein ở cơ thể động vật và là nền tảng của mô liên kết cấu tạo nên mọi tế bào

và mô: xương, răng, gân, sụn, dây chằng, da, mạch quản... Thuỷ tinh thể của mắt

cũng là một dạng colagen thuần khiết. Đặc biệt nổi bật của colagen là tính bền,

dẻo dai cơ học. Các mô động vật có tới 16 loại colagen, chúng khác nhau ít

nhiều và một số gốc axit amin theo cấu trúc bật một của chuỗi pheptit, nhưng

các loại này đều tương tự nhau về kiểu thiết kế phân tử. Đơn vị cấu tạo cơ bản

của các colagen được gọi là tropocolagen, gồm ba sợi peptít xoắn vào nhau.

Tropocolagen thuộc typ 1 có khối lượng phân tử M 285kD, đường kính 14A0,

chiều dài 3000 A0. Điều quan trọng là quá trình sinh tổ hợp ở tế bào, một số gốc

axit amin prolin (Pro) được chuyển biến thành hydroxyprolin (HyPro), phần còn

lại là những axit amin khác, mà loại này phân bố chủ yếu ở hai đầu phân tử. Ví

dụ ở bò, typ colagen 1 (I) có ba chuỗi dài 1042 gốc axit amin thì đoạn giữa

1011 gốc là lặp đi lặp lại bộ ba axit amin (Gly - X - Y)n trên ba trăm lần, trong

bộ ba này X thường là pro, còn Y thường là Hypro.

Quá trình chuyển hoá prolin thành hydroxyprolin diễn ra trên chuỗi peptit

đã hoàn thành, về mặt hoá sinh di truyền người ta gọi đfây là sự cải biến sau

phiên dịch (post-traslational modification). Enzim thực hiện phản ứng gắn OH

vào vị trí C4 của prolin (thực tế là gốc prolyl) có tên là prolylhydroxylaza. Đây

cũng là một đại diện của hệ thống monooxygenaza, nhưng có đặc điểm là nó cần

Page 44: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

44

một thành viên phụ cho hệ thống oxi hoá khử là axit ascorbic. Các khảo nghiệm

cho thấy prolylhydroxylaza chỉ có hoạt tính cao khi có mặt đầy đủ vitamin C.

Nếu ngược lại, không có hoặc không đủ vitamin C, sự chuyển hoá prolyl sẽ kém

hoặc không diễn ra, số lượng các gốc hydroxyprolyl có vị trí quan trọng trong sự

hình thành liên kết hydrogen nội phân tử của một đơn vị tropocolagen

(intramolecular hydrogen bonds), mà đây là nhân tố bảo đảm độ bền vững gắn

kết ba sợi peptit của những đơn vị này. Nếu số lượng và chất lượng liên kết này

bị giảm sút bì tính bền vững của mỗi tropocolagen cũng như của toàn bộ sợi

colagen bị suy yếu. Trong thực tế người ta thấy colagen bình thường bị mất

nguyên tính ở 39 – 400C (colagen denaturation chuyển sang dạng gelatin), còn

loại colagen do thiếu vitamin C thì ở 240C đã mất nguyên tố. Thực nghiệm còn

cho thấy quá trình tạo OH-Pro chỉ diễn ra trên các gố pro nằm trong chuỗi pep

tit đã tổng hợp xong, bởi vì kh dùng axit amin hydroxyprolin có sẵn cho động

vật thí nghiệm ăn, loại này hoàn toàn bị đào thải ra khỏi cơ thể chứ không được

gắn vào colagen.

Page 45: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

45

Ở động vật, sau khi đơn vị trôpcolagen được tạo nên tại bào tương những

tế bào như sơ nguyên (fibroblast), tạo xương (osteoblast), v.v… nó sẽ được tiết

qua màng ra môi trường quanh tế bào. Tại đây các tropocolagen sẽ được kết hợp

đặc thù với nhau để tạo thành tơ colagen. Dạng vân sọc có tính chu kỳ của tơ

colagen quan sát thấy dưới kính hiển vi có nguyên nhân ở sự nối đuôi nhau của

các tropocolagen chênh lệch khoảng 70mm.

Như đã nói ở trên, colagen là nền tảng của cấu trúc cơ học ở tế bào và mô.

Do đó các trục trặc trong sự sinh tổng hợp colagen, hay đúng hơn là

tropocolagen đều có những hệ quả trực tiếp đến cấu trúc mô bào, nhất là những

mô cần nhiều chất nền tảng này: vách mạch quản mô dưới da, niêm mạc, phần

osseion của xương, sụn.. Quá trình hàn gắn vết thương dựa chủ yếu trên hoạt

động tổng hợp colagen của tế bào fibroblast. Khi tế nào này không được cấp đủ

vitamin C để thực hiện việc chuyển prolin thành hydroxyprolin cho sản phẩm

Page 46: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

46

tropocolagen cùng mucopolysacarit. Qua đó ta thấy axit ascorbic có ảnh hưởng

mạnh mẽ đến sự phát triển bình thường của hệ xương cốt ở động vật, độ bền của

thành mạch máu. Vì thế, khi thiếu vitamin C thường gây chứng loãng xương,

mềm sụn, vỡ thành mạch máu, gây xuất huyết…

4. Tham gia vào quá trình chuyển hoá vitamin D vào canxi.

Theo Balkar S. Bains (1992), tác dụng của vitamin C đến quá trình trao

đổi, hấp thu Ca được thể hiện qua sơ đồ sau:

Vitamin D3

Vitamin C

25(OH)-D3

Enzym

25-hydroxy-Vitamin D3 – hydroxylaza

1,25 (OH)2 – D3

Hấp thu Ca

Nhờ sự hoạt hoá enzym 25-hydroxy-vitamin D3 hydroxylaza, vitamin C

ảnh hưởng đến quá trình trao đổi canxi và chất lượng vỏ trứng. Vì vậy, bênh

cạnh việc cung cấp đủ Ca, P trong khẩu phần thì một vấn đề quan trọng là cần

phải cung cấp đủ vitamin C để quá trình trao đổi khoáng của cơ thể diễn ra bình

thường.

Cũng theo các tá giả trên thì:

- Vitamin C rất cần cho việc tổng hợp 1,25 (OH)2 - D3 ở thận.

- Sự phát triển phôi thai rất cần 1,25 (OH)2 – D3 cho quá trình khoáng hoá

bộ xương.

Trong cơ thể gia cầm có lẽ không loại nguyên tố nào lại có nhiều mối

tương tác chuyển hó điều tiết như nguyên tố canxi (và liên quan với canxi và

photpho). Mặt khác, bản thân canxi máu lại được giữ ở một phạm vị nồng độ

Page 47: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

47

sinh lý khá hẹp, nhờ sự điều tiết của nhiều hệ thống, trong đó ta có thể nêu

những ảnh hưởng chủ yếu có bốn nhóm sau:

- Canxitonin từ tuyến giáp

- Parathormon từ tuyến cận giáp

- Estrogen (và các hormon liên quan)

- Vitamin D và các dẫn xuất của nó.

Trong 4 nhóm trên, các nhà khoa học đặc biệt chú ý đến vai trò của

vitamin D. Tuy nhiên, theo sơ đồ nêu ở trên của Balkar S.Bain (1992) thì hoạt

lực của vitamin D lại chịu ảnh hưởng ca vitamin C, hay nói một cách khác chính

vì vitamin C thông qua vitamin D đã ảnh hưởng đến quá trình trao đổi canxi của

gia cầm. Quá trình ảnh hưởng này được diễn giải cụ thể như sau:

Có nhiều dạng đồng phân của vitamin D, hợp chất có nguồn gốc steroit,

tuy nhiên đối với cơ thể động vật chỉ có hai tiền chất có ý nghĩa vitamin đáng kể

đó là ergocanxiferol và colecanxiferrol. Dưới tác động của tia tử ngoại (với bước

sóng 230 – 313 mm), liên kết 9 – 10 ở vòng B của cấu trúc

cyclopentanperhydrophenantren bị vỡ để thành dãn xuất có hoạt tính vitamin. Ở

thực vật, đặc biệt là tế bào men rượu, tiền chất vitamin D2 có dưới dạng

ergosterol; ở động vật, đặc biệt là trong dầu gan cá thu, dạng tiền vitamin D3

colecanxiferol, với hàm lượng tạo ra vitamin tương ứng như sau:

Cỏ khô (phơi nắng) 620 UI/1kg

Cỏ phơi trong bóng râm 210 UI/1kg

Cỏ mục túc (luzerne) 570 – 300 UI/1kg

Thân lá ngô ủ xanh 150 UI/1 kg

Dầu gan cá 150.000 – 40.106

Sữa bò tươi 250 I/1kg.

Đơn vị hoạt tính quốc tế (UI) = 0,25 g vitamin D2 hay D3.

1mg vitamin D chứa 40000 IU trên động vật có vú. Đối với gà thì 1mg D3

= 4000 UI còn 1 mg D2 = 1000 UI. Gia cầm chỉ chuyển hoá chủ yếu loại

colecanxiferol (vitamin D3), còi loạn ), còi loạn ergocanxiferol (D2) đối với gia

Page 48: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

48

cầm chỉ có được khoảng 5 hoặc ít hơn so với hoạt tính của D3. Nguyên nhân có

thể vì vitamin D2= không có những protein gắn và vận chuyển hữu hiệu trong máu

nên nhanh chóng bị đoà thải ra khỏi cơ thể.

Tiền chất của vitamin D3 là 7-dehydrocolesterol được tổng hợp lại gan

theo con đường chuyển hoá chung của nhóm steroit, sau đó được phân bố nhiều

ở lớp da động vật: hàm lượng 7 – dehydrocolestẻol ở da cao hơn ở gan và máu

gấp 2 – 3 lần. Tại đây, dưới tác động của ita tử ngoại từ ánh sáng mặt trời hoặc

do chiếu xạ nhân tạo, từ tiền chất trên sẽ tạo ra colecanxiferol tức là vitamin D3.

7- dehydrocolesterol Colecanxiferol (vitamin D3)

Từ da, vitamin D3 sẽ gắn vào một protein đặc biệt và quan hệ thống máu

được vận chuyển tới gan. Tại mô gan vitamin D3 sẽ được tích luỹ dự trữ hoặc sẽ

được chuyển hoá tiếp. Nhờ công trình nghiên cứu của Deluca và Lund từ năm

1966 ta biết rằng sản phẩm chuyển hoá đầu tiên của vitamin D3 là chất 25 –

hydroxyvitamin D3 (ký hiệu là 25 – OH.D3), tức là một nhóm hydroxyl (OH)

được gắn vào vị trí cacbon 25 nhờ enzym 25-hydroxylaza có trong màng lưới

nội bào (phần microsom) của tế bào gan. Gần đây có những nghiên cứu cho thấy

ở ruột và thận gà cũng có hoạt lực 25 – hydroxylaza cho vitamin D3, nhưng yếu

hơn ở gan.

Hệ thống enzym thực hiện quá trình hydroxyl hoá thuộc nhóm

monooxygenaza, tức là những enzym sử dụng mọt nửa phân tử oxygen để tạo

OH, còn nửa kia tạo H2O. Đây là một quá trình ôxy hoá khử phức tạp, cho nên

nhóm enzym này cần một cơ chế phụ – cosubstrate - để lấy điện tử và proton

gắn vào nguyên tử oxy tạo ra H2O. Cũng vì vậy, oại enzym này thường được

gọi tên là “các oxygenaza chức năng hỗn hợp” (mixed – function oxygenases).

Mẫu của loại phải ứng rất phổi biến này có thể biểu hiện như sau:

AH + XH2 + O2 A – OH + H2O + X

Cơ chế cơ chất phụ Cơ chất đã dạng oxy hoá

hydroxyl hoá

Page 49: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

49

Trong phản ứng hỗn hợp này, vai trò cơ chế phụ XH2 thường do NADH

(nicotinamidadenin dinucleotit dạng khử) hoặc NADPH (NAD-photphat, dạng

khử) đảm nhiệm. Ngoài ra, thường có thêm những thành viên trung gian giúp sự

vận chuyển điện tử e-) được bố trí giữa O2 và NADPH, ví dụ các flavoprotein

với FAD (flavinadenindinucleotit) hoặc tetrahydrobioprotein, v.v.v…

Trong microsom lưới nội bào của gan, phản ứng hydroxyl hoá thực hiện

do một hệ thống enzym rất điển hình, thường được gọi là hệ thống NADPH –

xytocrom P450 reductaza, trong đó có mặt một xytocrom đặc biệt của microsom

là sắc tố protein xytocrom 450,ký hiệu là P450 (P lf pigment, 450 là bước sóng

hấp phụ tối đa của nó). Ở mỗi số loài động vật hoặc một số mô, có thể có thể

những thành viên phụ tham gia chuỗi phản ứng, ví dụ có thể có các protein sắt –

lưu huỳnh (Fe-S).

Để hydroxyl hoá một hợp chất (ví dụ colecanxiferol mà ta đagn quan

tâm), quá trình vận chuyển điện tử giữa các thành viên tham gia hệ thống phản

ứng có thể diễn ra theo sơ đồ sau đây:

Ở tế bào gan, thận, kiểu phản ứng hydroxyl hoá được dùng vào các cơ

chế trung gian, khử độc tố, hoặc cơ chế tổng hợp của hormon steroit, các axit

béo có hydroxyl…v.v..

Page 50: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

50

Đối với vitamin D3, sự gắn nhóm OH vào vị trí C25 không bị giới hạn. Vì

vậy càng có nhiều vitamin trong khẩu phần hấp thu thì hàm lượng 25-OH-D3

càng tăng tương ứng và việc định lượng chất này của máu có thể dùng đánh giá

mức độ được cung cấp vitamin D của cơ thể gà.

Bước chuyển hoá tiếp theo của 25-OH-D3 diễn ra ở ty lạp thể tế bào thận

và Haussler et al, 1968, Lawson et al, 1969 lần đầu tiên khảo sát trên gia cầm.

Cơ chế của phả ứng hydroxy hoá vị trí cacbon 1 (C1) của dẫn xuất hiện sản

phẩm 1α , 25-dihydroxycolecanxiferol (ký hiệu là 1,25 (OH)2 – D3, do chứa ba

chức rượu nên còn có thể gọi là canxitriol.,

Có thể tóm tắt sự chuyển biến của vitamin D3 theo sơ đồ sau đây.

Microsom gan Ty lạp thể thận

Vitamin D3 25-OH-D3 1,25 (OH)2-D3

ở thận ở thận

24,25 (OH)2-D3 1,24,25 (OH)3 – D3

Sơ đồ tóm tắt sự chuyển biến của vitamin D3

Canxitriol tức là 1α , 25 (OH)2 – D3, là tác nhân chủ yếu cho việc biểu

hiện chức năng sinh học của vitamin D trong việc điều hoà sự hấp thu, sử dụng

canxi ở cơ thể động vật. Tuy nhiên, người ta còn phát hiện thêm một vài dân

xuất chuyển hoá nữa của vitamin D3 do các enzym ở thận tạo nên. Trước hết là

24, 25-đihdroxylaza của ty lạp thể tế bào thận tạo thành. Nhiều thí nghiệm

chứng tỏ chấy này cần thiết để đảm bảo tỷ lệ ấp nở cao của trứng giống. Có lẽ

cũng vấn enzym 24- hydroxylaza ở thận còn tạo ra 1,24,25

trihydroxycolecanxiferol (ký hiệu 1,24,25 (OH)3 – D3), chất này có hoạt tính gần

bằng 60% của 1,25 (OH)2 D3

Page 51: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

51

Trong chuỗi chuyển hoá của vitamin D3 vừa nên, phản ứng hyroxyl hóa

do enzym 1 - hydroxylaza xúc tác ở ty lạp thể tế bào thận có vai trò quyết định

đến tốc độ tiến triển của cả chuỗi.

Hàm lượng canxi và photpho huyết thanh chịu ảnh hưởng điều tiết của hệ

hormon 1,25 (OH)2.D3 và ngược lại, sự chuyển hoá của hệ này cũng chịu sự chi

phối của các ion nói trên.

Trạng thái giảm canxi huyết – hypocalcemia – có tác dụng kích thích hoạt

tính của enzym 1 hypocalcemia ở thận gà, qua đó làm tăng sự tổng hợp 1,25

(OH)2. D3. Đồng thời, trạng thái trên cũng kích thích tuyến cận giáp tiết ra nhiều

parathormon. Đây là một polypeptit với cấu trúc gồm 84 axit amin có tác dụng

làm tăng nồng độ canxi huyết (từ thấp lên mức bình thường) chủ yếu thông qua

cơ quan mục tiêu là xương (nhờ hoạt hoá tế bào tiêu xương, giải phóng canxi,

photpho ra máu) và thận (làm tăng bài tiết photphat đo ức chế tái hấp thu ion

này). Khi hàm lượng photphat cao trong máu, các ion này dễ tạo với ion canxi

những phức hợp khó phân ly, vì vậy góp phần làm sụt giảm phần canxi ion hoá

có hoạt tính sinh học và chuyển hoá cao. Parathormon còn có tác dụng hoạt hoá

enzym 1 hydroxylaza ở thận. Mặt khác, những nghiên cứu của Wecksler et al,

1977 cho thấy trên màng tế bào tuyến cận giáp có các thụ thể (receptor) danhf

cho 1,25 (OH)2.D3 và như vậy chất này có khả năng kích thích sự giải phóng

PTH từ tế bào tuyến.

Trong mấy thập niên vừa qua, nhờ những công trình nghiên cứu mở đầu

do Wasserman, Norman và De Luca thực hiện tại Mỹ, vai trò sinh học của

vitamin D đã được làm sáng tỏ rất nhiều. Sản phẩm chuyển hoá chính của

vitamin D như p hần trên đã nêu là 1,25 (OH)2.D3 hay từ này: “hormon là một

tín hiệu hoá học sản sinh tại mọt cơ quan hoặc một tuyến được máu đưa đến mô

mục tiêu (target tissue) nơi nó thực hiện chức phận điều tiết” Canxitriol đáp ứng

hoàn toàn định nghĩa này và nó chỉ hơi khác những hormon khác ở chỗ: tiền

chất tạo ra nó phải được cung cấp từ nguồn thức ăn nếu động vật không có khả

năng chuyển hoá 7 – dehydrocolesterol nội sinh thành colecanxiferol (ví dụ do

Page 52: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

52

thiếu ánh sáng, thiếu tia tử ngoại). Nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vitamin D

đã cùng nêu lên nhận xét rằng: cần một khoảng thời gian nhất định kể từ khi

được đưa vào cơ thể (qua tiêm hoặc uống) vitamin D mới phát sinh hiệu quả và

như vậy có thể cắt nghĩa rằng khoảng thời gian này cần cho sự chuyển biến

vitamin D thành những dạng có hoạt tính.

Bây giờ, ta đã biết rằng ở trạng thái thấp canxi huyết, canxitriol có tác

dụng làm tăng sự hấp thu tích cực và cả hấp thu thụ động (active and passive

absorption) của canxi và photpho qua vách ruột. Nhiều ý kiến cho rằng khi khẩu

phần ăn có một tỷ lệ đầy đủ và cân đối và canxi và photpho thì kiểu hấp thu thụ

động thuận lợi (filitateb absorption) giữa ưu thế còn khi khẩu phần thiếu canxi

thì kiểu hấp thu tích cực, cần tiêu tốn năng lượng, lại vượt trội. Như vậy

canxitriol có tác dụng đến cả hai kiểu hấp thu canxi ở vách ruột.

Tại tế bào niêm mạc ruột non, Wasserman và cộng tác viên, 1966 đã

chứng minh rằng, hormon 1,25 (OH)2.D3 kích thích làm tăng sự tổng hợp một

loại protein đặc hiệu có ái lực lớn với ion canxi được đặt tên là Ca – binding

protein. Quá trình này diễn ra theo con đường kinh điển của các hormon steroit:

sau khi qua màng tế bào ruột, canxitriol được gắn với rêcptor đặc hiệu ở bào

tương, sau đó được chuyển vào nhân tố tế bào được thực hiện vai trò một nhân

tố điều hoà sao chép mã (transcription factor) cho loại protein gắn canxi nói

trên. Sau khi được tổng hợp, protein này có vai trò gắn canxi và chuyển vận ion

này qua lớp niêm mạc ruột, nhờ vậy tỷ lệ hấp thu canxi ở ruột, đặc biệt ở vùng tá

tràng và phần ruột non gần đó được nâng cao.

Trong những thí nghiệm trên, khi cho tinomyxin D hoặc puromyxin vào

môi trường đều mất tác dụng của vitamin D. Ta biết rằng tinomy xin D là chất

ức chế đặc hiệu quá trình tổng hợp ARN thông tin (mARN), còn puromyxin có

tác dụng gây tê liệt sự kéo dài chuỗi peptit của sự sinh tổng hợp protein. Hiệu

quả ức chế vai trò của vitamin D tại ruột của hai hợp chất nói trên là một căn cứ

quan trọng cho kết luận về chức năng vitamin D, cụ thể là dẫn xuất canxitriol,

như yếu tố điều tiết giai đoạn sao chép mã cho sự hình thành protein gắn và

Page 53: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

53

chuyển vận canxi tại ruột. Bên cạnh các nghiên cứu trên gà của Wasserman,

DeLuca, Norman còn có các kết quả tương đồng do Zull, Czaranowska -9

Misztall, DeLuca thu được trên chuột.

Đối với hoạt tính của hệ enzym adenosintriphotphataza vách ruột gia cầm,

nhiều nghiên cứu cho thấy sự gảim sút khi khẩu phần thiếu vitamin D, đặc biệt ở

gà mái đẻ. Như vậy, sự thiếu canxitriol ảnh hưởng đến cả hai mặt của quá trình

vận chuyển tích cực.

Ngoài cơ quan mục tiêu là vách ruột non, canxitriol (và parathocmon) còn

tác động kích thích các tế bào tiêu xương – osteoclast, làm giải phóng canxi và

photpho vào hệ tuần hoàn. Nhưng khi nồng độ canxi huyết đạt mức sinh lý thì

canxitonin của tuyết giáp sẽ bắt đầu biểu hiện chức năng để giữ canxi huyết ở trị

số cần thiết. Ta biết rằng gà mái đẻ có nồng độ canxi huyết cao gấp 2 – 3 lần

bình thường, nghĩa là từ chỉ số tĩnh 10 – 15mg% lên đến 25 – 35 mg% vào kỳ đẻ

cao độ. Mặc dù cơ chế hoạt động của canxitonin chưa được nghiên cứu đầy đủ

nhưng nhiều số liệu đã cho thấy khi canxi huyết mở mức bình thường hoặc cao

th× ho¹t tÝnh enzym 1 -hydroxylaza ë ty l¹p thÓ tÕ bµo thËn g¶im thiÓu. Điều

đáng chú ý là bên cạnh đó, hoạt tính enzym 24 hydroxylaza lại tăng. Hiện tượng

này chưa được lý giải đầy đủ. Hiệu quả chung là ở máu gia cầm, lượng 1,25

(OH2.D3 hạ xuống mà lượng 24, 50 (OH)2.D3 lại tăng lên (DeLuca, 1974- 1980).

a) Vitamin D và chu kỳ đẻ trứng ở gà mái.

Ở một gà mái đẻ với khối lượng cơ thể trung bình vào khoảng 2kg, toàn

bộ canxi chứa trong xương và các mô chỉ một gà mái đẻ với khối lượng cơ thể

trung bình vào khoảng 2kg, toàn bộ canxi chứa trong xương và các mô chỉ một

gà mái đẻ với khối lượng cơ thể trung bình vào khoảng 2kg, toàn bộ canxi chứa

trong xương và các mô chỉ gồm 20 gam. Mỗi quả trứng chứa trên dưới 2g canxi,

nghĩa là 10% lượng canxi của cơ thể. Nếu xét của phần protein phôphlipit,

hydratcacbon…của quả trứng, ta nhận thấy rõ rằng trong vòng 24 – 26 giờ là

chu kỳ tạo một quả trứng, bộ máy sinh hoá học của cơ thể gà mái đẻ phải hoạt

Page 54: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

54

động với một cường độ rất cao. Sơ đồ chu kỳ tạo một quả trứng có thể p hân ra

như sau:

Nếu một gà mái giống Leghorn một năm cho được 275 trứng, có khối

lượng chung là 16 kg, thì khối lượng protein là 2kg, lipit 1,7 kg và khoảng 550 g

canxi cùng 137g các chất khoáng khác. Nếu một bò sữa có chửa mỗi ngày đêm

góp vào phôi thai chừng 160g để phát triển ( khoảng 0,025% khối lượng cơ thể

mẹ), một gà mái đẻ mỗi ngày đêm tạo ra quả trứng khối lượng 45g (khoảng

1,8% khối lượng cơ thể gà). Như vậy về cường độ chuyển hoá sinh tổng hợp của

gà so với bò cao hơn vài chục lần. Trong sơ đồ chu kỳ hình thành quả trứng nên

trên, hơn nửa thời gian dành cho quá trình canxi hoá phần vỏ, nghĩa là khoảng

12 giờ. Đó là khoảng thời gian mà sự chuyển vận canxi từ các mô qua máu tới tử

cung của gà phải thật đầy đủ và thông suốt. Huyết thanh gà mái đẻ có hàm lượng

canxi dao dộng trong khoảng 20-35mg%,còn ở gà mái không đẻ chỉ có gần một

nửa chỉ số trên. Điều này chỉ ra rằng các hormon sinh dục, trước hết là các

estrogen, có ảnh hưởng lớn đến canxi huyết. Khi tiêm estrogen cho gà không đẻ,

thậm chí cho gà trống, nồng độ canxi huyết thanh đều tăng lên rõ rệt. Trong điều

kiện nuôi dưỡng bình thường, nhu cầu cao về canxi được thoả mãn nhờ sự hấp

Page 55: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

55

thu mạnh mẽ ở ruột non và một phần từ canxi của xương giải phóng ra và quay

vòng nhanh. Theo nghiên cứu của Taylor và Simkiss, 1971, cường độ thu hút

canxi để tạo vỏ trứng của mô tuyến vỏ (tử cung) ở ống dẫn trứng gà mái là 100-

150mg/giờ, nghĩa là nếu không có nguồn cung cấp nhanh và kịp thời thì toàn bộ

canxi ở máu gà mái đẻ sẽ cạn kiệt trong vòng 30 phút. Số liệu nghiên cứu của

Eastin và Spaziani, 1978 cho thấy tốc độ hấp thu canxi khi trứng chưa vào tử

cung chậm, từ 13 - 28 M h-1 g-1 vật chất khô của mô, sẽ tăng nhanh sau khi

trứng đã tới xoang tuyến vỏ và đạt tối đa 150 M h-1 g-1 vào thời điểm 14 – 18

giờ tính từ lần đẻ trước, rồi lại hạ xuống chỉ số chậm ban đầu vào thời điểm 2

giờ trước khi đẻ quả trứng mới. Khối lượng vật chất khô của tuyến vỏ (độ 20g

bình quân) cho thấy nhận xét của Eastin và Spaziani khá phù hợp với tài liệu của

Simkiss và Taylor nói ở trên.

Trong chu kỳ đẻ trứng ở gà, hàm lượng 1,25 (OH)2.D3 huyết thanh cũng

có biến động tương ứng và được thể hiện qua biểu đồ sau:

Page 56: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

56

Hàm lượng 1,25 (OH)2.D3 tăng dần ở huyết tương từ giờ thứ 6 – 7 tính từ

lúc đẻ quả trứng trước. Các thí nghiệm cho thấy hormon 17 -estradiol làm tăng

hàm lượng 1,25 (OH)2.D3 ở gà lên gần 10 lần so với đối chứng (4,5 pmol, g-1

min-1 so với 0,5 pmol), có thể chủ yếu là tác động qua enzym 1 -hydroxylaza ở

thận. Các hormon khác như progesteron, testosteron và PTH chỉ biểu lộ ảnh

hưởng yếu lên enzym nói trên ở gà chưa đến tuổi đẻ và ở gà trống. Điều lý thú là

prolactin ở dạng tiêm 100 g /ngày cho gà chưa trưởng thành có khả năng làm

tăng hàm lượng 1,25 (OH)2.D3 và tăng khá rõ hoạt lực của 1 -hydroxylaza.

Chim cút đẻ trứng cũng có đáp ứng tương tự như gà mái khi được tiêm estradiol.

Một nhận xét đáng nêu là trong các thử nghiệm vừa đề cập, hoạt tính

enzym 24 –hydroxylaza ở thận bị giảm rõ rệt. Điều này cho phép các tác giả

nghĩ rằng 24, 25 (OH)2.D3 hầu như không có ý nghĩa gì đối với quá trình canxi

hoá vỏ trứng.

b) Vitamin D và sự ấp nở

Để nghiên cứ vấn đề này đã có những thí nghiệm sau:

Khi thay vitamin D bằng 1,25 (OH)2.D3 nuôi gà mái đẻ trong 30 tháng thì

tỷ lệ ấp nở của trứng bị giảm, gà con có nhiều dị tật. Tuy nhiên, việc thay thế nói

trên không ảnh hưởng xấu đến mức sản lượng và đến chất lượng vỏ cũng như

khối lượng trứng. Bảng sau đây rút từ thí nghiệm của Sunde và De Luca, 1978:

Tỷ lệ % phôi dị tật từ trứng của gà được ăn các nguồn vitamin D khác

nhau.

Cách xử lý % phôi dị tật

Khẩu phần thiếu D 50

Có vitamin D, 12 mg/kg 15

Thay bởi 1,25 (OH)2.D3,2mg/kg 78

Thay bởi 1,25 (OH)2.D3,4mg/kg 80

Muốn khôi phục tỷ lệ ấp nở cần cho gà mái đầy đủ vitamin D3 hoặc 25-

OH.D3. Sunde và De Luca còn cho thấy. Sunde và De Luca còn cho thấy nếu

Page 57: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

57

dùng canxitriol tiêm trực tiếp vào trứng của gà được nuôi bằng hợp chất này thì

tỷ lệ ấp nở tăng lên mạnh mẽ. Điều này chứng tỏ phôi gà có khả năng sử dụng

canxitriol. Đồng thời hiện tượng này có thể là biểu hiện một sự vận chuyển

không đầy đủ 1,25 (OH)2.D3 (và cả của 1 OH.D3) từ cơ thể mẹ vào trứng trong

quá trình tạo quả trứng.

Bộ xương của phôi gà chứa hơn 120 mg canxi, mà lòng đỏ trứng chỉ có

20mg, do đó phần canxi còn thiếu phải được huy động từ vỏ trứng và quá trình

này khởi sự từ ngày thứ 10 – 12 của giai đoạn áp trứng, đạt tối đa vào ngày 19,

sau đó giảm đi. Enzim 1 -hydroxylaza có hoạt tính cao kể từ ngày phát triển

thứ 8 của phôi gà. Đến ngày thứ 19, huyết tương của phôi chứa 2,3 ng/ml chất

25-OH.D3 0,6 mg/ml chất 24,25 (OH)2D3 và 300 pg/ml chất 1,25 (OH)2D3.

Người ta còn phát hiện ra rằng, ở phôi ngày thứ 21 chất 24,25 (OH)2D3 nhiều

gấp 6 lần chất 1,25 (OH)2D3. Tuy nhiên nhiều tài liệu lại cho rằng ở huyết tương

phôi ngày thứ 15 trở đi, canxitriol đã đạt mức ở gà con sau nở.

Xuất phát từ vai trò sinh học chủ yếu của vitamin D là tăng cường sự hấp

thu canxi, photpho tại ruột, người ta đã thử tìm một số nhân tố thay thế nó trong

chức năng này.

Một đặc tính quan trọng của cơ thể động vật là khả năng điều chỉnh cường

độ hấp thu chất dinh dưỡng tuỳ theo nhu cầu bản thân đối với từng chất và tuỳ

theo nguồn cung cấp chất đó. Ví dụ ở chuột thí nghiệm, tuỳ nhu cầu về canxi

của cơ thể mà sự hấp thu nguyên tố này thay đổi ở ruột. Khi khẩu phần có tỷ lệ

canxi thấp, sự hấp thu được đẩy mạnh, ngược lại khi cơ thể đã bão hào canxi thì

quá trình trên giảm rõ rệt. Ngoài vai trò của các dẫn xuất vitamin D, tác giả

V.K.Bauman cho rằng dịch mật do gàn sản sinh có vai trò nhất định trong sự

hấp thu canxi nhất là trong những trường hợp tỷ lệ nguyên tố này thấp trong

khẩu phần gà. ác thí nghiệm với động vật có trở ngại về tiết mặt cho thấy có

những biến đổi tại xương tương tự trạng thái bệnh còi xương do thức ăn

(Mori.G.1964). Các tác giả cho rằng khi ăn khẩu phần có tỷ lệ canxi thấp, cơ thể

động vật đáp ứng thích ghi bằng cách tăng tiết mật để tận dụng canxi tố hơn.

Page 58: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

58

Điều này cắt nghĩa cho hiện tượng sau: ở gà nuôi khẩu phần nghèo canxi hoặc ít

vitamin D, túi mật tăng rõ rệt về thể tích và phân thường có màu xanh lục do ảnh

hưởng của biliverdin.

Một chất cũng có tác dụng hỗ rợ sự hấp thụ canxi là đường lactoza. Từ lau

người ta biết rằng sữa có tác dụng tốt đối với sự hấp thu canxi ở ống tiêu hoá và

sau đó mới tìm ra nguyên nhân là sự có mặt của lactoza. Các thí nghiệm trên

chuột cho thấy lactoza có khả năng giúp chống bệnh còi xương. Ngaòi lactoza,

các đường khác như galactoza (có trong lactoza), xelobioza, melibioza, các alcol

như sorbitol, mannitol, colin… cũng có tác dụng hỗ trợ sự hấp thu canxi ở ruột:

còn glucoza, fructoza, tìm bột không có hiệu lực này. Saltman 1963, Rubin

1963, Compere 1965 (dẫn theo Bâumn) cho rằng lactoza cvó khả năng tạo với

canxi một phức hợp hoà tan, dễ chuyển vận qua màng ruột.

Người ta đã thử nghiệm nuôi gà con bằng khẩu phần có đầy đủ canxi,

photpho, không có vitamin D, nhưng có thêm các chất trợ gíp hấp thu canxi

(như lactoza, axit xitric…) và gà vẫn phát triển tốt. Điều này một lần nữa chứng

minh vai trò vitamin D ở động vật là tăng cường sự hấp thu canxi tại ruột ở hoàn

toàn có hể dùng những nhân tố khác có tác dụng tương tự để thay thế vitamin D.

Như vậy, để quá trình trao đổi khoáng của cơ thể gà một quá trình mạnh

mẽ và có tốc độ cao hơn gia súc khác hàng chục lần được diễn ra bình thường,

bên cạnh việc cung cấp đủ canxi, photpho, vitamin D, một vấn đề không thể

thiếu là chúng ta phải cung cấp đủ vitamin C.

V. SỬ DỤNG VITAMIN C TRONG CHĂN NUÔI GIA CẦM.

Ở phần trên đã chỉ rằng ngoại trừ một số loài linh trưởng (trong đó có con

người), chuột lang, một loài dơi ăn quả Pycnonutus cafer có nhu cầu được cung

cấp vitamin C còn tuyệt đại bộ phận các giống loài động vật đều có thể tự túc

đối với yếu tố dinh dưỡng này. Sở dĩ mấy loài đã nêu không tổng hợp được axit

ascorbic cho bản thân vì tế bào của chúng thiếu hệ thống oxydaza để thực hiện

bước chuyển cuối cùng của chuỗi phản ứng chuyển khoá đường thành vitamin

C.

Page 59: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

59

Khả năng tổng hợp axit L-ascorbic ở gia cầm được nhiều tác giả nghiên

cứu khá đầy đủ. Họ xác định rằng ở loại chim, gan và thận là nơi phân bố hệ

enzym tổng hợp axit ascorbic (trong phần vi thể microsom). Họ Passerimes có

enzym nằm ở mirosom tế bào gan, còn họ Gallirimes lại có enzym ở microsom

tế bào thận. Con đường tổng hợp cũng đi từ D – glucoza tới D – glucuronolton

L – glulonolton 2 –Keto-L-glulonolon, rồi chất này tự biến thành axit L-

ascorbic. Như vậy về mặt sinh lý bình thường, các đại diện thuộc họ Gallirimes,

trong đó có loài gà, không cần phải được cung cấp vitamin C. Đã có khá nhiều

khảo nghiệm chứng tỏ có thể nuôi gà từ mới nở đến trưởng thành hoàn toàn

không cần thêm vitamin C vào thức ăn, gà mái vẫn đẻ và trứng nở bình thường

(Plimmer và Rosedale 1923), dẫn theo Carrick và Hauge (1925) dùng khẩu

phần gây bệnh scorbut (scorbutic diet) cho gằn mấy tháng liền mà không thấy

bệnh xuất hiện. Barnett và Bourne 1941 tìm thấy axit ascorbic trong phôi gà ấp 4

ngày. Như vậy, khả năng tự cung cấp vitamin C là một thuộc tính di truyền của

gia cầm.

Tuy nhiên, trên thế giới và trong nước thời gian qua đã có rất nhiều công

trình nghiên cứu bổ sung vitamin C cho các loại gia cầm cho hiệu quả rất tốt,

sau đây, chúng tôi xin tổng hợp lại các công trình đã nghiên cứu chính theo

hướng đó.

1. Bổ sung vitamin C cho gà con

Các nhà khoa học trên thế giới khẳng định rằng, gà con không thể tự tổng

hợp đủ vitamin C cho cơ thể, do đó việc bổ sung cho chúng đã mang lại hiệu

quả rất rõ rệt.

Các tác giả F.H Kratzer, H.J Almquis và Pranvohra, 1966 đã nghiên cứu

ảnh hưởng của vitamin C lên sinh trưởng và nồng độ Ca huyết thanh gà con từ

0-24 ngày tuổi khi bổ sung vitamin C liều 0,25 %. Kết quả cho thấy khi bổ sung

vitamin C với liều nói trên đã không làm thay đổi đáng kể khối lượng cơ thể gà

lúc 20 ngày tuổi, nhưng đã làm giảm một cách rõ rệt tỷ lệ gà con chết: 5,6 % so

Page 60: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

60

với 0%, tăng hàm lượng vitamin C trong máu từ 4,6 ppm ở lô đối chứng lên 21.0

ppm ở lô thí nghiệm.

J.E Mc Kee và P.C Rarrison, 1995 đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ

sung vitamin C trong khẩu phần đến sinh trưởng và khả năng chịu đựng các tác

nhân gây stress đồng thời (cắt mỏ, nhiễm cầu trùng nhân tạo và nhiệt độ cao 28

– 330C). Thí nghiệm được tiến hành trên 288 gà con giống Hubbard từ 0-2 tuần

tuổi. Các mức vitamin C bổ sung là 150 và 300 ppm. Kết quả cho thấy liều 150

ppm vitamin C đã làm tăng tốc độ tăng trưởng lên 4,3% so với đối chứng, tăng

thu nhận thức ăn và giảm chi phí 5,8% giá thành, còn liệu 300 ppm vitamin C thì

có hiệu quả thấp hơn. Các tác giả kết luận bổ sung vitamin C, đặc biệt là mức

150 ppm vào khẩu phần đã làm tăng sức sản xuất, tăng khả năng chống chịu các

yếu tố stress tác động đồng thời lên cơ thể gà con.

H.L Stilborn; G.C. Harris đã nghiên cứu ảnh hưởng của các mức vitamin

C khác nhau trong khẩu phần (125, 250, 500, 1000 ppm) lên tăng trọng, tiếu tốn

thức ăn trong điều kiện nhiệt độ ổn định (240C) và nhiệt độ thay đổi (24-350C)

của gà con từ 0 – 42 ngày tuổi. Kết quả cho thấy việc bổ sung vitamin C trong

điều kiện nhiệt độ cao đã làm giảm tốc độ sa sút trọng lượng và có lợi cho sức

khoẻ gia cầm, sau khi chấm dứt các yếu tố gây stress cơ thể ở các lô thí nghiệm

có tốc đột ăng trọng nhanh hơn.

Franchini – A Meluzzi, -A; Manfreda, -G; Tosarelli, - C đã nghiên cứu

ảnh hưởng của vitamin C lên sự phát triển mô xương của gà con từ 0 – 49 ngày

tuổi. Thí nghiệm được tiến hành trên 144 gà Cobb với 3 mức vitamin C khác

nhau là 250, 500 và 1000 ppm. Kết quả thí nghiệm cho thấy việc bổ sung

vitamin C đã làm tăng hàm lượng Ca huyết thanh, tăng tỷ lệ vật chất khô và Ca

trong xương gà. Các giá trị nói trên cao nhất khi bổ sung vitamin C liều 500

ppm.

Grigera at al 1989 cho thấy bổ sung vitamin C liều 130 ppm đã làm tăng

5% khối lượng cơ thể, giảm tỷ lệ chết từ 5% trong lô đối chứng xuống còn 3,8%

ở lô thí nghiệm. Field (USA), 1994 làm thí nghiệm và cho thấy trong điều kiện

Page 61: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

61

gà bị nhiễm bệnh Bursal (Gumboro), việc bổ sung vitamin C với liều 500 ppm

đã làm tăng khối lượng cơ thể lên 10%, giảm tỷ lệ chết từ 5,2% trong lô đối

chứng xuống còn 1,9% trong lô thí nghiệm.

J.I. Orban; D.A Roland; K.Cummins; T.Lovell (1993) đã bổ sung vitamin

C liều cao cho gà con từ 3 – 7 tuần tuổi. Các mức bổ sung là 1000, 2000, 3000

ppm. Kết quả cho thấy việc bổ sung vitamin C đã làm tăng nồng độ Ca huyết

thanh một cách rõ rệt, độ chịu lực của xương đùi tăng từ 11 – 16%. Mức bổ sung

2000 ppm vitamin C đax có hiệu quả cao nhất.

Các tài liệu công bố của hãng ROCHE, 1989 cho thấy bổ sung vitamin C

vào nước uống cũng cho hiệu quả rất tốt. Pardue và cộng sự, 1984 cho thấy với

mức 250 ppm vitamin C bổ sung vào nước uống mới làm tăng một cách rõ rệt:

hàm lượng vitamin C trong huyết thanh (16,5 ppm so với 10,4 ppm) so với bổ

sung vitamin C liều 100 ppm. Parr và cộng sự, 1988 cũng cho thấy bổ sung

vitamin C vào nước uống với liều 600 ppm đã làm tăng đáng kể hàm lượng

vitamin C huyết tanh (từ 16,9 ppm trong lô đối chứng so với 21,0 ppm vitamin

C trong nước uống thì vitamin C huyết thanh chỉ là 23,0 ppm, không chênh lệch

rõ so với mức 600 ppm vitamin C. Ông cũng cho biết liều 1000 ppm vitamin C

trong nước uống đã làm cho khối lượng gà tăng lên rõ rệt (1672 trong lô thí

nghiệm so với 1613 g trong lô đối chứng).

Nhiều tác giả như Pardue, -S; Brake, -J và hãng ROCHE cho rằng chỉ nên

bổ sung vitamin C cho gà con với mức 100 – 150 ppm là đủ, vấn đề là ở chỗ cần

phải ngăn cản quá trình oxy hoá và mất hoạt tính của vitamin C trong và sau khi

bổ sung vào khẩu phần.

Các nghiệm thực tế tại trường ĐHNNI đã cho thấy, khi bổ sung vitamin C

liều 100 ppm vào khẩu phần ăn cho gà con từ 0-4 tuần tuổi đã làm tăng khối

lượng cơ thể ở mức không rõ rệt, nhưng đã làm giảm tỷ lệ chết từ 0,63 – 4,70%,

giảm tỷ lệ con bị khoèo chân từ 1,06 – 2,0%, tăng hàm lượng khoáng tổng sổ

trong tro xương đùi lúc 4 tuần tuổi từ 3,65 – 3,95%, Ca huyết thanh tăng từ 0,5 –

1,6%, P huyết thanh giảm từ 1,6 – 0,7%.

Page 62: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

62

2. Bổ sung vitamin C cho gà sinh sản

a) Bổ sung vitamin C cho gà đẻ

Theo nhiều tác giả, ở gà đẻ cơ thể giảm khả năng tổng hợp vitamin C, do

đó việc bổ sung vitamin này cho chúng rất cần thiết và cho hiệu quả cao …

Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu một số công trình nghiên cứu theo

hướng này.

Trong một số thí nghiệm trên gà mái đẻ gây thay lông được bổ sung 4

mức vitamin C: 0, 100, 250, 500 ppm và 2 mức canxi: 3,0% và 3,5%, các tác giả

Zapata và Genrnat 1995 cho thấy việc dùng 250 – 500 ppm đã có tác dụng làm

tăng sản lượng trứng khoảng 5% và khối lượng vỏ cũng tăng hơn. Họ cũng cho

biết rằng các tác giả khác có nhận định hiệu quả chỉ rõ rệt ở gà đẻ lứa đầu, còn

sang các lứa sau không nổi bật lắm.

Thí nghiệm của Keshavarz, 1996 tại Đại học Cornell (Mỹ) với các khác

nhau của vitamin C (0, 200, 250, 500, 1000ppm), của vitamin D3 (250, 500,

2200, 4400 IU/kg), của canxi (2,8 – 3,5 -3,8%) cũng cho thấy sự bổ sung

vitamin có tác dụng rõ rệt khi có sự mất cân đối trong khẩu phần.

Trong thí nghiệm của J.I. Orban và cộng sự 1993, các tác giả đã xem xét

ảnh hưởng của những liều cao axit ascorbic lên tăng trọng, canxi huyết thanh,

đặc tính của xương và chất lượng vỏ trứng. Gà trống thịt và gà mái đẻ Leghorn

trắng được dùng làm đối tượng khảo sát.

Trên lô gà thịt (144 con) đưa vào nghiên cứu từ 3 tuần tuổi đến kết thúc ở

7 tuần tuổi, ăn khẩu phần ngô - bột đỗ tương với bốn mức bổ sung vitamin C: 0,

1000, 2000, 3000 ppm (thí nghiệm 1). Trong thí nghiệm 2 với số gà 420 con,

chia 7 lô choi 7 mức vitamin C: 0, 500, 1000, 1500, 2000, 2500, 3000 ppm với

chế độ chiếu sáng liên tục, cũng kết thúc ở tuần thứ 7. Thí nghiệm 3 dùng 300

mái đẻ Leghorn White, 96 tuần tuổi, 4 lô với 4 mức vitamin C: 0, 1000, 2000,

3000 ppm kéo dsài theo dõi 4 tuần. Trong thí nghiệm 4, dùng 384 mái Leghorn

White 76 tuần tuổi, thử bốn mức vitamin C như thí nghiệm trước, nhưng chế độ

16 giờ ánh sáng. Ngoài chỉ tiêu tăng trọng, còn phân tích canxi huyết tương,

Page 63: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

63

định lượng khoáng và tỷ trọng (độ đặc) của xương chân, độ bền (đo lực cần đẻ

bẻ gãy xương ống tibia). Ở mái đẻ còn thêm chỉ tiêu: tỷ trọng của trứng. Kết quả

cho thấy, chỉ với liều từ 200 trở lên, việc bổ sung vitamin C mới có kết quả

dương tính rõ rệt. Chỉ tiêu canxi huyết trong thí nghiệm 2 có chiều hướng tăng ở

lô được ăn vitamin C từ 500 ppm và họ cho rằng điều này có thể do hấp thu

canxi tốt hơn. Các tác giả dẫn tài liệu của Weiser (Đức), Schlhter 1988 chứng

minh rằng vitamin C kích thích quá rình hydroxyl hoá ở thận của vitamin D, do

đó làm tăng cao hàm lượng 1,25 (OH)2 D3 ở máu là hợp chất kích thích sự

chuyển vận hấp thu canxi tại ống tiêu hoá. Thornton 1970 lại cho rằng vitamin C

có ảnh hưởng đến quá trình luân hồi khoáng ở xương (tái tạo, tái cấu trúc xương

– bone remodeling, resorption) do đó cũng có thể làm canxi huyết biến động

tăng lên. Về chất lượng xương gà trong thí nghiệm 1 và 2 thấy ở liều vitamin C

là 1000 – 2000 ppm lực chống bẻ gãy tăng 13 – 16% so với đối chứng. Edwards

1989 lại thu được hiệu quả phòng bệnh trên ở gà tốt hơn khi bổ sung vitamin C.

Trong các thí nghiệm 3 và 4 trên gà mái đẻ, các tác giả thấy canxi huyết, khối

lượng và tỷ trọng trứng tăng lên đáng kể ở lô 1000, 2000, 3000 ppm, nhưng

phần canxi ion hoá (Ca2+) lại không đổi. Hiệu quả nổi bật hơn cả là ở liều

3000ppm. Các tác giả cho rằng kết quả có được là do sự tham gia của vitamin C

vào quá trình huy động canxi ở cơ thể gà. Trong thí nghiệm 3, họ nhận thấy có

sự tăng song song giữa liều lượng vitamin C dùng cho ăn với hàm lượng khoáng

và tỷ trọng ở xương gà. Kết luận chung của các tác giả thí nghiệm này là bổ

sung liều cao vitamin C cho gà mái già có ảnh hưởng tốt đến chất lượng vỏ

trứng nhưng tác động không đáng kể đến bộ xương. Họ cho rằng vai trò chính

của vitamin c là giúp chuyển hoá prolin thành hydroxyprolin của colagen và

chất nền ở xương trong quá trình xương đang phát triển.

L.F.Zapata và A.G. Gernat, 1995 đã nghiên cứu ảnh hưởng của 3 mức

vitamin C (100, 250, 500 ppm) lên sản lượng trứng và chất lượng vỏ trứng của

gà Leghorn mào đơn, thí nghiệm được tiến hành trên 640 gà mái đẻ. Kết quả cho

thấy chỉ với mức vitamin C liều cao 250 và 500ppm là làm tăng đáng kể tỷ lệ đẻ

Page 64: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

64

(tăng 5,2% và 6,0% so với lô đối chứng) . Các tác giả này dẫn nhiều thí nghiệm

tương tự của Kechik và Sykes (1974): khi bổ sung vitamin C các liều 25, 75 và

400 ppm thì chỉ có mức 400 ppm là mang lại hiệu quả rõ rệt. Hens bổ sung

vitamin C các liều 100, 250, 500 và cho thấy việc bổ sung vitamin C đã làm tăng

tỷ t rọng trứng trên một cách rõ rệt so với lô đối chứng không bổ sung vitamin C

(các tỷ trọng tương ứng là 1,074, 1,075 và 1,076 so với đối chứng là 1,072). Kết

quả còn cho thấy việc bổ sung vitamin C vào khẩu phần đã làm tăng hàm lượng

Ca, độ dày vỏ trứng. Một số nghiêm cứu của các tác giả Thornton và Moreng,

1959; Sullivan và Kingan, 1962; El – Boushy và ctv, 1968; Orban và ctv 1993

cho thấy khi bổ sung vitamin C đều làm tăng độ dày vỏ trứng do thúc đẩy quá

trình trao đổi canxi theo hướng có lợi: Tăng cường quá trình hấp thu canxi ở

ruột và thúc đẩy quá trình giải phóng canxi từ xương, làm tăng canxi huyết

thanh, điều này có lợi cho gia cầm trong việc cải thiện chất lượng vỏ trứng. Kết

quả nghiên cứu còn cho thấy với liều 250 và 500 ppm đã làm tăng khối lượng vỏ

trứng từ 7,4 g trong lô đối chứng lên 7,6 và 7,9g trong các lô thí nghiệm.

K. Kashavarz, 1996 đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung vitamin C

với liều 125 và 500 ppm lên chất lượng trứng. Thí nghiệm được tiến hành trong

12 tuần trên 960 gà mí 32 tuần tuổi. Kết quả cho thấy liều 250 ppm đã làm tăng

độ dầy vỏ từ 0,36 mm ở lô đối chứng lên 0,37 mm ở lô thí nghiệm, tăng chiều

cao lòng trắng từ 7,3 mm trong lô đối chứng lên 7,5 mm ở lô thí nghiệm. Tương

tự độ Haugh cũng tăng lên từ 77,0 lên 77,8.

D.E Bell, 1990 đã làm thí nghiệm trên 400 gà Leghorn từ 143 đến 310

ngày tuổi để thử các mức vitamin C là 50, 100, 200 và 400 ppm. Kết quả thí

nghiệm cho thấy chỉ ở mức vitamin C bằng 200 và 400 ppm mới có ảnh hưởng

tốt đến tỷ trọng trứng (854 và 860 wt/vol so với đối chứng là 836 wt/vol, nhưng

sự ảnh hưởng này chỉ xảy ra ở giai đoạn sau thời kỳ đẻ trứng (khi gà đã già, cơ

thể không tự tổng hợp được đủ vitamin C).

Tikupandang A. (Indonesia), 1992 đã nghiên cứu bổ sung vitamin C với

liều 55 và 110 ppm trên 234 gà đẻ trứng. Thí nghiệm được tiến hành trong 3

Page 65: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

65

thán. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc bổ sung nói trên đã làm tăng sản lượng

trứng lên 3,2% và 5,7% tương ứng, tuy giá thành của trứng sản xuất ra tăng 0,9

và 1,7% nhưng do làm tăng sản lượng trứng nên hiệu quả bổ sung vitamin C vẫn

cao. Tác giả đề nghị nên bổ sung vitamin C cho gà đẻ ở mức 110 ppm.

Các tác giả Peebles và Brake, 1985 đã nghiên cứu kết quả bổ sung

vitamin C liều 100 ppm cho gà đẻ trứng giống, thí nghiệm được tiến hành trên

160 gà đẻ 32 tuần tuổi. Kết quả cho thấy việc bổ sung vitamin C với liều nói trên

đã làm tăng tỷ lệ đẻ lên 7,2% so với đối chứng, tăng tỷ lệ thụ tinh lên 1,8%, đặc

biệt là làm tăng 10,39% tỷ lệ ấp nở, giảm tỷ lệ chết phôi trong lô đối chứng là

6,04% xuống còn 4,71% trong lô thí nghiệm. Tỷ trọng của trứng cũng được tăng

lên rõ rệt (1,0834 trong lô thí nghiệm so với 1,0825 trong lô đối chứng, số gia

cầm giống/mái của lô thí nghiệm là 125,5 con, trong khi lô đối chứng chỉ có

112,3 con (tăng 11,6%).

Behl và cộng tác viên, 1995 nghiên cứu ảnh hưởng của vitamin C và các

mức canxi khác nhau (3,30 và 3,90%) đến khả năng lưu giữ canxi của gà đẻ ở

điều kiện môi trường nóng. Kết quả cho thấy sự thoái hoá xương và cân bằng

canxi bị giảm không tùy thuộc vào mức canxi trong khẩu phần. Khi bổ sung

vitamin C liều 44 ppm đã làm giảm nhẹ hiện tượng mất canxi và với liều 88 ppm

thì không còn hiện tượng mất canxi nữa. Tác giả cũng cho thấy cùng với việc

tăng canxi trong khẩu phần từ 3,3 đến 3,9% và có bổ sung vitamin C đã cải thiện

rõ độ dày vỏ trứng.

J. Nathan Bird bổ sung vitamin C vào chuối chu kỳ đẻ trứng của gà với

liều 100 ppm đã làm tăng 6,7% sản lựơng trứng; 7,2% tỷ lệ trứng có phôi và

5,9% tỷ lệ nở. Tác giả cũng cho thấy việc bổ sung vitamin C đã làm tăng chất

lượng trứng (tỷ trọng, độ cao lòng trắng) và chất lượng vỏ trứng góp phần làm

tăng năng suất của đàn gà đẻ trứng giống.

Các tác giả J.1 Orban, D.A Roland, K.Cummins, R.T Lovell, 1993 đã nghiên

cứu bổ sung vitamin C liều cao cho gà mái đẻ. Các mức vitamin C được thăm do

là 500, 1000, 1500, 2000, 2500, 3000 ppm. Thí nghiệm được tiến hành trong 4

Page 66: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

66

tuần trên 484 là Leghorn 96 tuần tuổi. Kết quả cho thấy việc bổ sung vitamin C

liều cao (trên 2000 ppm) đã làm tăng 5% khối lượng trứng, 6,2% tỷ trọng trứng.

Mật độ khoáng trong xương chày (0,29g/cm trong lô đối chứng không bổ sung

vitamin C lên 0,31g/cm trong các mức 2000 vitami nào 3000 ppm vitamin C).

Canxi huyết thanh tương tự là 1,55; 1,59 vitamin là 1,58 mmol/L tương ứng với

3 mức vitamin C là 1000, 2000, 3000 ppm so với lô đối chứng không bổ sung

vitamin C là 1,54 mmol/L. Tỷ trọng của trứng trong lô bổ sung 3000 ppm là cao

nhất: 1,0762, trong khi các lô khác là 1,0714 – 1,0725. Tác giả kết luận bổ sung

vitamin C liều cao đã làm tưng trao đổi Ca, ảnh hưởng tốt đến chất lượng xương

và sự khoáng hoá vỏ trứng.

Tác giả Ranut Ramdecha (Thái Lan) cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của

việc bổ sung hai mức vitamin C khác nhau là 250 và 500 ppm vào khẩu phàn

trong điều kiện mùa hè, thí nghiệm được tiến hành trên 180 gà mái đẻ, kết quả

cho thấy vitamin C đã làm tăng sản lượng trứng một cách rõ rệt, tăng vitamin C

đã làm tăng chất lượng vỏ trứng, tăng hàm lượng canxi huyết thanh, giảm

photpho huyết thanh, giảm tỷ lệ hao hụt gà mái đẻ.

Các tác giả Pardue và ctv 1985 cũng cho thấy khi bổ sung vitamin C cho

gà đẻ với liều 1000 ppm vào nước uống, sau 8 giờ thí nghiệm hàm lượng

vitamin C huyết thanh đã tăng lên đến 18 ppm (đối chứng 8 ppm). Vitamin C

huyết thanh cao nhất là 20 giờ sau khi uống, đạt 20 ppm.

Hãng ROCHE, 1994 sau khi dẫn kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả đã

đề nghị nên bổ sung vitamin C cho gà đẻ trứng giống với liều 100 – 200 ppm.

Tại trường ĐHNNI, qua hàng loạt các thí nghiệm bổ sung vitamin C cho

gà mái để cho thấy:

Việc bổ sung vitamin C với liều 250 và 500 ppm đã không làm ảnh hưởng

đáng kể đến khối lượng cơ thể và khối lượng trứng.

- Khu bổ sung vitamin C với các liều 250 và 500 ppm đã làm tăng 6,50 –

10,80% sản lượng trứng; tăng 4,60 – 8,80% tỷ lệ trứng giống, tăng 0,02 – 0,04

mm độ dày vỏ trứng; tăng 0,50 – 0,90 kg/cm2 độ chịu lực của vỏ trứng; tăng

Page 67: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

67

0,40 – 0,80 g khối lượng vỏ trứng; giảm 0,42 – 0,92% tỷ lệ trứng dập vỡ, tăng

5,10 – 11,20% tỷ lệ trứng có phôi; tăng 5,10 – 9,30% tỷ lệ nở, tăng 5,80 – 9,40%

tỷ lệ gà con loại 1; tăng 2,70 – 3,00% khoáng tổng số trong xương chày; tăng

2,80 – 5,50 mg% caxi huyết thanh; tăng 2,90 – 5,70 ppm vitamin C huyết thanh,

các mức chênh lệch trên đều có độ tin cậy cao, đã làm giảm 0,30 – 0,60 mg%

photpho vô cơ huyết thanh, nhưng độ tin cậy thấp.

- Bổ sung vitamin C với mức 500 ppm đã mang lại hiệu quả cao hơn so

với mức 250 ppm về các chỉ tiêu nói trên, nhưng với độ tin cậy thấp. Bổ sung

vitamin C trong vụ đông xuân và hè thu đều cho kết quả tốt.

b) Bổ sung vitamin C cho gà trống sinh sản

Vitamin C có vai trò to lớn đối với các hoạt động sinh sản của gia cầm,

nhưng cơ thể chúng không tự tổng hợp đủ vitamin này cho nhu cầu của cơ thể

(Balka S.Bains, 1992), nhất là ở con trống (Mons và Onichi, 1991). Những

nghiên cứu của nhiều tác giả trong thời gian gần đây cho thấy, trong thức ăn của

gia cầm rất thiếu vitamin C, ngay cả khi được bổ sung thì hàm lượng vitamin

này cũng nhanh chóng giảm đi do quá trình oxy hoá (Vũ Duy Giảng, Bùi Hữu

Đoàn, 2000). Do đó, việc bổ sung vitamin C vào thức ăn hàng ngày cho gà trống

là rất cần thiết.

Tại Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, chúng tôi đã làm thí nghiệm bổ sung 3

mức vitamin C cho gà trống sinh sản: 150, 300, 450 ppm. Kết quả cho thấy: Khi

bổ sung vitamin C cho gà trống, thể tích tinh dịch tăng lên, lô thí nghiệm 1 với

mức bổ sung 450 ppm vitamin C luôn cho thể tích tinh dịch cao nhất, tăng so với

đối chứng 29%, lô thí nghiệm 2 với mức vitamin C bổ sung 300 ppm tăng so với

đối chứng là 11,3&. Bổ sung vitamin C vào khẩu phần ăn cho gà trống đã làm

tăng đáng kể hoạt lực tinh trung, rõ rệt nhất ở các mức 300 ppm và 450ppm

(tăng từ 3,94 – 5,66% so với đối chứng. Việc bổ sung Vitamin C với các mức

450, 300 và 150 ppm vào khẩu phần ăn đã làm tăng từ 0,15 – 0,06 tỷ tinh

trùng/mml tinh dịch (tăng 19,4 – 7,8% so với đối chứng). Việc bổ sung vitamin

C cũng đã làm tăng rõ rệt chỉ số VAC, cao nhất ở lô thí nghiệm 1(0,43 tỷ) và

Page 68: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

68

thấp nhất là lô thí nghiệm 3 (0,32 tỷ), tất cả các lô thí nghiệm đều cho kết quả

cao hơn lô đối chứng một cách rõ rệt. Việc bổ sung vitamin C cho gà trống đã

làm tăng tỷ lệ thụ tinh 4,6 – 9,9% tăng tỷ lệ ấp nở lên từ 3,3 – 11,2% so với đối

chứng.

Các tác giả Mons và Onitchi khi bổ sung vitamin C cho gà trống với các

mức 500; 250 và 125 ppm vitamin C đã làm tăng 0,3 – 0,4 ml tinh dịch; 0,2 –

0,7 tỷ tinh trùng tiến thẳng/1 lần lấy tinh (VAC), tăng tỷ lệ ấp nở lên từ 3,3 –

11,2% so với đối chứng. Các tacs giả Peebles và Brake, (1985) khi bổ sung

vitamin C liều 100 ml/kg thức ăn đã làm tăng tỷ lệ trứng thụ tinh 1,8%, tăng tỷ

lệ ấp nở 10,3%.

VI. HÀM LƯỢNG VITAMIN C TRONG THỨC ĂN, CÁCH BẢO QUẢN, BỔ SUNG

1. Hàm lượng vitamin C trong thức ăn

Ở Việt Nam, nhìn chung hàm lượng vitamin C trong khẩu phần ăn của gà

công nghiệp ở nhiếu xí nghiệp rất thấp. Kết quả phân tích sau đây của chúng tôi

chứng tỏ điều đó.

Tên thức ăn Hàm lượng vitamin C (ppm)

Gà đẻ trại Đại học NNI 10,324

Gà đẻ trại Liên Ninh 22,869

Gà dò trại Liên Ninh 18,392

Gà con trại Liên Ninh 10,031

Gà đẻ trại Cẩm Bình 21,321

Mặt khác, như đã nói ở trên, vitamin C rất không bền khi bảo quản thức

ăn trong điều kiện bình thường ở các xí nghiệp. Kết quả phân tích của chúng tôi

cho thấy sự giảm nhanh chóng hàm lượng vitamin C theo thời gian như sau:

Page 69: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

69

Ngày bảo quản Hàm lượng vitamin C (ppm)

Thứ nhất 356,2

Thứ hai 332,1

Thứ ba 313,6

Thứ tư 269,5

Thứ năm 187,5

Thứ sáu 159,8

Từ kết quả trên , chúng tôi cũng kiến nghị thức ăn sau khi đã phối trộn

không nên để quá 3 – 5 ngày.

2. Cách bảo quản vitamin C

Như trên đã nói, vitamin C rất kém bền vững trong môi trường axit, kiềm,

trong không khí, do đó, nếu không được bảo quản tốt, vitamin C nhanh chóng bị

phân huỷ và mất tác dụng. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến nhiều nhà chăn

nuôi bổ sung vitamin C cho gia cầm mà không có hiệu quả, do đã để vitamin C

bị biến tính. Hiện nay, nhờ các tiến bộ trong công nghệ người ta sản xuất được

vitamin C dưới dạng có vỏ bọc bền vững hơn nhiều, chúng có khả năng bảo toàn

được hoạt tính sinh học cao ngay cả trong điều kiện nhiệt độ cao của công nghệ

sản xuất thức ăn viên gây ra. Tuy nhiên, chế phẩm này còn đắt nên chưa được

phổ biến rộng rãi trong chăn nuôi. Cách tốt nhất bảo quản vitamin C vẫn chưa là

buộc kỹ trong túi nilon, để nơi tối và mát, khi dùng cần thao tác nhanh rồi buộc

kỹ lại.

3. Cách bổ sung vitamin C

Hàm lượng vitamin C của huyết tương và mô bào có sự biến động rất lớn,

tuỳ thuộc vào sự tổng hợp trong cơ thể và nguồn cung cấp từ bên ngoài như hàm

lượng trong khẩu phần hay tốc độ sử dụng. Các tác động kỹ thuật trong chăn

nuôi công nghiệp có ảnh hưởng sâu sắc tới động thái tự nhiên của vitamin C

huyết tương. Ví dụ: việc cắt mỏ, việc phải chịu đựng nhiệt độ thấp làm giảm

Page 70: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

70

mức vitamin C ở gà tay mới nở (Pardue, 1988). Các hoạt động kỹ thuật có thể

làm biến đổi hàm lượng vitamin C bao gồm:

- Các công việc sau ấp nở (cắt móng, cắt mỏ).

- Việc chuyển gia cầm tới nhà mới.

- Vận chuyển tới nơi giết mổ

Ba phương pháp phổ cập có thể làm tăng mức vitamin C nhằm đối phó

với stress gây ra bởi các hoạt động kỹ thuật là C:

1. Tiêm

2. Bổ sung vào khẩu phần

3. Bổ sung vào nước uống

Việc tiêm ascorbat natri hoặc canxi (không dùng axit tự do) chỉ có ý nghĩa

thực hành tại lò ấp, là nơi có thể tác động ngay trước hoặc sau khi cắt mỏ, cắt

móng…. Việc tiêm vitamin C liều 50 mg làm tăng hàm lượng chất này trong

huyết tương gà mái trưởng thành lên gần 250% trong vòng 25 phút (Satterfild và

CTV, 1945), hàm lượng này trở lại mức trước tiêm sau khoảng 2 giờ. Ở gà dò

cũng đã thu được kết quả tương tự (Freeman, 1980).

Nếu bổ sung vitamin C ở mức độ thấp và kéo dài thì cách bổ sung vào

khẩu phần là đáng lựa chọn nhất. Chế phẩm vitamin C vốn có tính không bền,

sự phân huỷ xảy ra khá nhanh cho nên phải pha trộn thường xuyên. Trong đàn

gia cầm đông, nên linh hoạt pha vitamin C vào nước uông.

Trước khi các tác nhân stress gây ra do môi trường hay do liên quan tới

các hoạt động kỹ thuật theo kế hoạch phát huy ảnh hưởng, vitamin C có thể

được cung cấp nhanh vào nước uống cho gia cầm. Khi sử dụng vitamin C với

liều 1000 ppm trong nước uống, mức vitamin C huyết tương của gà broilers đã

tăng dần 200% sau 12 giờ bổ sung (hình 10 – Pardue và CTV, 1984).

Page 71: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

71

Hàm lượng vitamin C huyết tương tăng lên gần 200% sau 12 giờ bổ sung

(Pardue, 1984)

Sau khi cắt bỏ nước uống bổ sung vitamin C thì mức vitamin C vẫn duy

trì ở mức cao hơn so với lô đối chứng trong vòng 15 giờ (hình 11)

Hàm lượng vitamin C huyết tương sau 16 giờ bổ sung vitamin C vào nước

uống (Pardue, 1984)

Các số liệu này cho thấy rằng bổ sung vitamin C vào nước uống là cách

làm biến đổi nhanh mức vitamin C ở huyết tương gia cầm trước khi gây stress.

Bên cạnh việc bổ sung, chúng ta cần hết sức lưu ý đến tính bền vững của

vitamin C. Tính bền của dạng vitamin C kết tinh phụ thuộc vào lượng oxi tự do,

lượng các chất khoáng trong nước và độ pH của dung dịch. Vitamin C tương đối

Page 72: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

72

bền ở môi trường nước cất đậy kín, trong khi nước ở trại chăn nuôi hoặc là ở

môi trường nước không được khử trùng bằng clo lại không được che đậy kín, có

oxy, có hàm lượng kháng và pH thay đổi. Hàm lượng đồng và sắt cao làm

vitamin C nhanh bị phá huỷ. Bởi vì vitamin C vừa là tác nhân ôxi hoá vừa là tác

nhân khử, nó sẽ khử các oxit kim loại thành các dạng hoạt động hơn và bị phá

huỷ. Trong các hệ thống mở, vitamin C bền vững hơn ở độ pH thấp (nhỏ hơn 4).

Nồng độ vitamin C càng cao thì vitamin C càng bền vì nồng độ vitamin C cao

làm pH giảm. Những chất mất mát ban đầu khi cho vitamin C vào nước phần

lớn liên quan tới ôxi tự do trong nước. Kết quả kiểm nghiệm tính bền vững của

vitamin C được tiến hành tại phòng thí nghiệm của Roche PD & A, sử dụng

500 và 1000ppm vitamin C cho vào nước giếng không clo hoá được biểu diễn ở

sơ đồ 3 (Waysek, 1988). Đối với gà chuẩn bị đưa đi giết mổ, việc ngừng cho ăn

thường được thực hiện trước ngừng cho uống, bởi vậy, việc thêm vitamin C vào

nước uống là cách tốt nhất để đạt được hàm lượng vitamin C này ở máu gà

trước khi giết mổ. Dùng nước cũng dễ linh hoạt hơn là dùng thức ăn. Hơn nữa

do vitamin C có tác dụng trong việc duy trì cân đối các chất điện giải, nên chắc

chắn sẽ có tác dụng cải thiện tỷ lệ thân thịt do nhốt và vận chuyển tới nơi tiêu

thụ. Nếu mô bào ở trạng thái cân bằng tối về áp suất thẩm thấu vào thời gian

giết mổ, nước trong mô bào được giữ chắc và mô bào sẽ ít bị teo tóp vào thời

gian sau giết mổ.

Nhóm tác giả Pardue và cộng sự (1993) đã làm thí nghiệm thay việc bổ

sung vitamin C tinh thể dễ bị ôxi hoá bằng L – ascorbil – 2 – photphat (APP)

khó bị ôxi hoá. Kết quả thí nghiệm cho thấy vịêc thay thế nói trên đã có hiệu quả

rất tốt.

Tóm lại, trong điều kiện stress nghiêm trọng, gia cầm không thể tổng hợp

đủ vitamin C để làm giảm tác hại của stress. Bổ sung vitamin C có thể được coi

là một giải pháp để đối phó với các loại stress không thể tránh do công tác chăn

nuôi. Vitamin C nên được bổ sung trước khi xảy ra stress.

Page 73: CHO GIA CẦM...3 MỞ ĐẦU I. Stress và sử dụng vitamin C trong phòng chống stress ở gia cầm 1- Lý thuyết cơ bản về phản ứng stress Stress là phản ứng

73

Mức vitamin C có vỏ bọc bổ sung được khuyến cáo vào khoảng 100 –

300ppm trộn vào thức ăn trước stress và kéo dài 3 – 4 ngày sau stress.

Khi bổ sung vào nước uống, có thể dùng liều 500 ppm hoặc cao hơn vì

phải trừ hao phần bị phá huỷ của Vitamin C trong nước, cứ 4 – 6 giờ một lần lại

cung cấp dung dịch mới pha.

Để tăng các chỉ tiêu sản phẩm giết mổ, khoảng 1000 ppm có thể bổ sung

vào nước uống 24 giờ trước khi bắt gà để chuyển đi, nhằm tăng đủ mức vitamin

C trong máu, đảm bảo cung cấp đủ khoảng thời gian cần cho quá trình bắt, nhốt

chuyên chở và giết thịt.

Chúng ta có thể tóm tắt liều lượng bổ sung vitamin C cho các loại gia cầm

theo bảng sau:

STT Loại gia cầm Điều kiện bình thường

(mg VIT. C/kg thức ăn)

Khi bị stress

(mg VIT. C/kg thức ăn)

1 Gà con 1 – 8tt 300 500 – 1000

2 Gà dò 300 1000 – 15000

3 Gà đẻ 500 1000 – 15000

4 Gà broiler 300 500 – 1000

5 Gà trống sinh sản 500 1000 - 15000