38
SIX TO FIVE AGAINST SÁU CHỌI NĂM Sunday, 26 July, to Monday, 27 July, 1936 Chủ nhật, 26 tháng 7, đến thứ hai, 27 tháng 7, 1936 Chapter Twenty Chương 20 He had been in his office at the Alex for an hour, since 5 A . M ., painstakingly writing out the English- language telegram that he had composed in his mind as he lay sleepless in bed beside peaceful Heidi, fragrant with the powder she dusted on before retiring. Hắn ở trong văn phòng của mình tại Alex khoảng một giờ, từ 5h sáng, cẩn thận viết một điện tín bằng tiếng anh

Chuong 20 Six to Five Against New

  • Upload
    ntan234

  • View
    11

  • Download
    0

Embed Size (px)

DESCRIPTION

garden of the beast

Citation preview

Page 1: Chuong 20 Six to Five Against New

SIX TO FIVE AGAINST

SÁU CHỌI NĂM

Sunday, 26 July, to Monday, 27 July, 1936

Chủ nhật, 26 tháng 7, đến thứ hai, 27 tháng 7, 1936

Chapter TwentyChương 20

He had been in his office at the Alex for an hour, since 5 A . M ., painstakingly writing out the English-language telegram that he had composed in his mind as he lay sleepless in bed beside peaceful Heidi, fragrant with the powder she dusted on before retiring.Hắn ở trong văn phòng của mình tại Alex khoảng một giờ, từ 5h sáng, cẩn thận viết một điện tín bằng tiếng anh báo rằng hắn đã bình tĩnh sau khi ngả lưng trên chiếc giường bình yên bên cạnh Heidi, với bột thơm mà cô đã rắc lên trước khi về.

Willi Kohl now looked over his handiwork:

Willi Kohl nhìn lại bức điện tín mình viết:

Page 2: Chuong 20 Six to Five Against New

I AM BEING SENIOR DETECTIVE INSPECTOR WILLI

KOHL OF THE KRIMINALPOLIZEI (CRIMINAL POLICE) IN

BERLIN STOP WE SEEK INFORMATION REGARD AMERI

CAN POSSIBLY FROM NEW YORK PRESENTLY IN

BERLIN PAUL SCHUMANN IN CONNECTION OF

HOMICIDE STOP

ARRIVED WITH AMERICAN OLYMPIC TEAM STOP PLEASE

TO REMIT ME INFORMATION ABOUT THIS MAN AT KRIM

INALPOLIZEI HEADQUARTERS ALEXANDERPLA

Tôi là thám tử thanh tra cấp cao Willi Kohl của Kriminalpolizei

(cảnh sát phòng chống tội phạm) tại Berlin Stop chúng tôi tìm

được thông tin về Ameri có khả năng từ New York đến Berlin

Paul schumann để kết nối với tên sát nhân Stop

Đã đến nơi cùng với đội tuyển Olympic Mỹ làm ơn dừng lại

Hãy chuyển cho tôi thông tin về gã này tại Krim

Inalpolizei trung tâm hành chính Alexanderpla

Page 3: Chuong 20 Six to Five Against New

BERLIN TO DIRECTION OF INSPECTOR WILLI KOHL STOP

MOST URGENT STOP THANKING YOU REGARDS

Berlin với sự chỉ huy của thanh tra Willi Kohl Stop

Stop đang rất cấp bách, Rất cảm ơn sự quan tâm của Ngài.

He’d struggled hard with the wording. The department had translators but none worked on Sunday and he wanted to send the telegram immediately. It would be earlier in America; he wasn’t sure about the time zones and he guessed the hour to be about midnight overseas but he hoped that the law enforcers there would keep the same long shifts as police in most coun- tries.Hắn đang vật lộn cách khổ sở với những từ ngữ tiếng anh. Bộ phận hành chính có phiên dịch nhưng không ai làm việc vào chủ nhật cả và vì hắn muốn điện tín này được gởi đi ngay lập tức. Vẫn còn sớm tại Mĩ, hắn không chắc về múi giờ và hắn đoán giờ này có lẽ là nửa đêm bên kia bán cầu nhưng hắn hi vọng những người thi hành án ở đó sẽ giữ nguyên thời lượng của các ca như những cảnh sát tại các nước khác.

Kohl read the telegram once again and decided that, though flawed, it was good enough. On a separate sheet of paper he wrote instructions to send it to the International Olympic Committee, the New York City Police Depart- ment and the Federal Bureau of Investigation. He walked down to the tele- graph office. He was disappointed to find that no one was as yet on duty. Angrily, he returned to his desk.

Kohl đọc lại bức điện tín một lần nữa và quyết đinh, dù có một vài lỗi nhưng vậy là khá tốt rồi. Trên một tờ giấy khác, hắn viết chỉ dẫn để gửi đến Ủy ban Olympic Quốc Tế, Sở Cảnh Sát thành phố New York và Cục Điều Tra Liên Bang. Hắn cuốc bộ xuống văn phòng điện tín và thất vọng tràn trề khi biết không một ai ở đó. Giận dữ, hắn quay trở lại bàn làm việc.

After a few hours’ sleep, Janssen was presently en route back to the Olympic Village to see if he could pick up any more leads there. What else could Kohl himself do? Nothing occurred to him, except hounding the med- ical examiner for the autopsy and FPE for the fingerprint analysis. But they,

Page 4: Chuong 20 Six to Five Against New

of course, were not in their offices yet either and might not come in at all on Sunday.

Sau vài giờ chợp mắt, bây giờ Janssen trở lại Làng Olympic để xem liệu hắn có thể kiếm thêm vài viên đạn chì ở đó không. Còn gì Kohl có thể làm nữa? không có gì có thể xảy đến với anh ta, trừ lũ chó giám định pháp y khám nghiệm tử thi và FPE phân tích dấu vân tay. Nhưng tất nhiên chúng không có ở văn phòng và cũng không ai vào đó vào chủ nhật cả.

He felt the frustration acutely.

Hắn cảm thấy hụt hẫn vô cùng.

His eyes dropped down to the hard-worked-on telegram.

Mắt hắn đã rụng xuống để cố gắng hoàn thành bức điện tín.

“Ach, this is absurd.” He would wait no longer. How difficult could it be to man a Teletype machine? Kohl rose and hurried back to the department, figuring he would do the best he could to transmit the telegram to the United States himself. And if, because of his clumsy fingers, it ended up being sent by mistake to a hundred different places in America, well, so much the bet- ter.

“Ach, thật là ngu xuẩn” Hắn không thể đợi được nữa. Thật khó khăn để trở thành nhân viên đánh máy điện tín? Kohl đứng dậy và nhanh chóng trở về căn hộ, suy tính hết mức có thể để tự mình gửi bức điện tín đến Mĩ. Và nếu vì những ngón tay vụng về của hắn chấm dứt bằng việc sơ suất gửi đến một trăm nơi khác nhau tại Mĩ. Thì cũng tốt thôi, càng nhiều càng tốt.

Page 5: Chuong 20 Six to Five Against New

She had returned to her own room not long before, around 6 A.M., and was now back in his, wearing a dark blue housedress, pins holding her hair flat to her head, a little blush on her cheeks. Paul stood in the doorway, wiping the remnants of the shaving froth from his face. He put the cover on his safety razor and dropped it into his stained canvas bag.

Cô ta trở về phòng mình, không lâu sau đó, khoảng tầm 6 giờ sáng, trở lại phòng hắn, cô ta diện một chiếc váy ngủ màu xanh đậm, bới tóc cao và hai má cô ta ửng đỏ. Paul đứng trong ô cửa, chùi bọt cạo râu còn sót lại trên mặt hắn. Hắn đậy dao cạo cách cẩn thận và bỏ nó vào chiếc túi vải màu của mình.

Käthe had brought coffee and toast, along with some pale margarine, cheese, dried sausage and soupy marmalade. She walked through the low, dusty light streaming into the front window of his living room and set the tray on the table near the kitchen.

Kathe đã mua cà phê và bánh mì nướng, cùng với một ít bơ, phô mai, xúc xích khô và mứt cam. Cô bước qua luồng ánh sáng thấp lờ mờ đến trước cửa sổ phòng khách của hắn và bày khay đồ lên chiếc bàn gần bếp.

“There,” she announced, nodding at the tray. “No need for you to come to the breakfast room.” She looked at him once quickly. Then away. “I have chores.”

“Đó” cô ra hiệu về phía khay đồ. “Anh không cần phải đến nhà ăn”. Cô lướt nhìn hắn. “Tôi có việc phải làm” rồi bỏ đi.

“So, you still game?” he asked in English.

“Cô vẫn còn chơi?” Hắn hỏi bằng

t iếng anh.

“What is ‘game’?”

“Chơi gì?”

He kissed her. “It means what I asked you last night. Are you still willing to come with me?”Hắn hôn cô. “Tức là điều tôi đã hỏi cô tối qua. Cô vẫn bằng lòng đi với tôi

Page 6: Chuong 20 Six to Five Against New

chứ?

She ordered the china on the tray, which had seemed to him already per- fectly ordered. “I’m game. Are you?”

Cô xếp lại bộ đồ sứ trên khay, cái mà dường như hắn đã xếp rất gọn gàng. “Tôi chơi, còn anh?”

He shrugged. “I wouldn’t have let you change your mind. It would be Kakfif.Out of the question.”Hắn nhún vai, “Tôi sẽ không để cô đổi ý đâu, đó chắc là Kakfif. Vậy là hết đường rồi.”

She laughed. Then a frown. “One thing I wish to say.”

Cô cười lớn, nhưng sau đó vẻ mặt nghiêm nghị. “Tôi có

điều muốn nói.”

“Yeah?”

“Được”

“I give opinions quite often.” She looked down. “And quite strongly. Michael called me a cyclone. I want to say, regarding the subject of sports: I could learn to like them too.”“Tôi thường hay nhượng bộ”. Cô cuối xuống. “Và khá mạnh mẽ. Michael gọi tội là cơn lốc xoáy. Tôi muốn nói là, về các môn thể thao: tôi cũng có thể học cách thích chúng.”

Paul shook his head. “I’d rather you didn’t.”

Paul lắc đầu. “Dĩ nhiên là không

phải vậy rồi”

“No?”

Không!

“Then I’ll feel I had to like poetry.”“Vậy thì, chắc tôi sẽ thích thơ ca rồi.”

She pressed her head to his chest. He believed she was smiling.

Page 7: Chuong 20 Six to Five Against New

Cô nép đầu mình vào ngực hắn. Hắn nghĩ rằng cô đang mĩm cười.

Page 8: Chuong 20 Six to Five Against New

“You will like America,” he said. “But if you don’t, when all this blows over you can come back. You aren’t necessarily leaving the country forever.”

“Rồi cô sẽ thích Mĩ”, hắn nói. “Nhưng nếu cô không thích, khi mọi chuyện đáng nguyền rủa này kết thúc, cô có thể trở về. Cô không nhất thiết phải rời bỏ đất nước này mãi mãi.”

“Ah, my wise writer-man. You think this will — the expression? — will blow over?”

“À, bút tích uyên thâm của tôi. Cô nghĩ nó sẽ diễn tả được ý tôi muốn nói chứ? – hay là sẽ bị quên lãng vậy?”

“Yes, I do. I think they won’t be in power much longer.” He looked at the clock. The time was nearly seven-thirty. “Now I have to meet my associate.”

“Vâng, tôi nghĩ vậy. Tôi nghĩ họ sẽ không còn nắm quyền lâu nữa đâu.” Hắn nhìn đồng hồ. Đã gần 7h30 rồi. “Bây giờ tôi phải đi gặp đối tác.”

“On Sunday morning? Ach, I finally understand your secret.”

“Vào sáng chủ nhật ư? À, cuối cùng thì tô i đã h iểu

bí mật của anh”.

He looked at her with a cautious smile.

Hắn nhìn cô bằng một nụ cười thận trọng

“You’re writing about priests who play sports!” She laughed. “That’s your big story!” Then her smile faded. “And why must you leave so quickly if you are writing about sports or the cubic meters of concrete used for the stadi- um?”“Anh đang viết về những thầy tu chơi thể thao hả” Cô phá cười. “Đó hẳn là việc lớn nhất của anh rồi!” rồi nụ cười của cô tắt lịm. “Vậy tại sao anh phải vội vã rút đi nếu anh viết về thể thao hay những mét khối bê tông được dùng trong sân vận động?”

“I don’t have to leave quickly. I have some important meetings back in the United States.” Paul drank his coffee quickly and ate one piece of toast

Page 9: Chuong 20 Six to Five Against New

and sausage. “You finish what’s left. I’m not hungry now.”

“Tôi không cần phải rút đi ngay. Tôi có một vài cuộc gặp quan trọng ở Mĩ.” Paul nhanh chóng uống ly ca phê của mình và ăn một mẩu bánh mì với xúc xích. “Anh ăn hết những thứ còn lại đi, tôi không đói”.

“Well, hurry back to me. I will pack. But only one bag, I think. If I take too many, perhaps a ghost will try to hide in one.” A laugh. “Ach, I am sounding like someone out of a story by our macabre friend E.T.A. Hoffmann.”

“Vâng, tôi nghĩ mình sẽ đói lại. Tôi sẽ gói theo. Nhưng chỉ có một cái túi, tôi nghĩ. Nếu tôi mang quá nhiều có lẽ ma sẽ giấu bớt đi mất.” Hắn cười lớn. “Haiz, nghe như ai đó muốn thoát ra khỏi chuyện này vì anh bạn E.T.A. Hoffmann rùng rợn của chúng ta.”

He kissed her and left the boardinghouse, stepped out into the morning, already hot, already painting a damp coat on the skin. With a glance up and down the empty street, he made his way north, over the canal, and into the Tiergarten, the Garden of Beasts.

Hắn hôn cô và rời khỏi nhà khách, mới sáng ra mà đã nóng đẫm mồ hôi rồi. Liếc nhìn ngang dọc, không bóng người, hắn tiến về phía bắc, băng qua kênh và đi vào sở thú, vườn quái vật.

Paul found Reggie Morgan sitting on a bench in front of the very pond where Käthe Richter’s lover had been beaten to death three years ago.Paul đã thấy Reggie Morgan ngồi trên hàng ghế ngay trước hồ nơi người tình của Käthe Richter bị đánh cho đến chết ba năm trước.

Even at this early hour, dozens of people were here. A number of walkers and bicyclists. Morgan’s jacket was off and his shirt sleeves partly rolled up.

Dù còn rất sớm, nhưng có hàng tá người đã đến đây. Một số người đi bộ và đạp xe đạp. Morgan cởi áo khoác ra và xoăn tay áo lên.

Paul sat down beside him. Morgan flicked an envelope inside his jacket pocket. “Got the greenbacks okay,” he whispered in English.

Page 10: Chuong 20 Six to Five Against New

Paul ngồi xuống bên cạnh ông. Morgan kéo ra một phong bì bên trong túi áo khoác của mình. “Hãy lấy những đồng bạc xanh nhé,” ông thì thầm bằng tiếng anh.

Page 11: Chuong 20 Six to Five Against New

They reverted to German. “They cashed a check on Saturday night?” Paul asked, laughing. “I’m living in a whole new world.”

Chúng đã trở lại Đức. “Chúng đã lĩnh tiền bằng séc vào tối thứ bảy?” Paul hỏi, hắn cười lớn. “Tôi đang sống trong một thế giới hoàn toàn mới”.

“You think Webber will show up?” Morgan asked skeptically.

Morgan hỏi đầy hoài nghi “Anh nghĩ Webber sẽ xuất hiện chứ?”

“Oh, yes. If there’s money involved he’ll be here. But I’m not sure how help- ful he’ll be. I looked over Wilhelm Street last night. There are dozens of guards, hundreds maybe. It’d be far too risky to do the job there. We’ll have to see what Otto says. Maybe he’s found another location.”

“Oh, có chứ nếu đính đến tiền, hắn sẽ ở đây. Nhưng tôi không chắc hắn sẽ giúp ích được gì. Tôi đã kiểm tra đường Wihelm tối qua. Có hàng tá bảo vệ, à không có lẽ là hàng trăm. Thật mạo hiểm để hành động tại đó. Để xem Otto nói gì đã. Có lẽ hắn đã tìm ra một địa điểm khác.

They sat in silence for a moment.

Họ ngồi im lặng một lúc.

Paul watched him look around the park. Morgan seemed wistful. He said, “I will miss this country very much.” For a moment the man’s face lost its keenness and the dark eyes were sad. “There are good people here. I find them kinder than the Parisians, more open than the Londoners. And they spend far more time enjoying life than New Yorkers. If we had time I’d take you to the Lustgarten and Luna Park. And I love to walk here, in the Tier- garten. I enjoy watching birds.” The thin man seemed embarrassed at this. “A foolish diversion.”

Paul quan sát Morgan nhìn quanh công viên. Morgan có vẻ buồn bã. Ông nói, “Tôi sẽ nhớ đất nước này lắm.” Một lúc sau, khuôn mặt người đàn ông đã mất đi vẻ sắc bén và đôi mắt ngâm đen trở nên rầu rĩ. “Người dân ở đây thật tốt. Tôi thấy họ tử tế hơn dân Pari, cởi mở hơn dân London. Và họ dành nhiều thời gian để tận hưởng cuộc sống hơn dân New York. Nếu chúng ta có thời gian, tôi sẽ dẫn anh đến Lustgarten and công viên Luna. Tôi rất thích đi bộ ở đây, trong Tiergarten này. Tôi thích quan sát những

Page 12: Chuong 20 Six to Five Against New

loài chim.” Người đàn ông gầy gò dường như ngượng nghịu. “Một ngã rẽ thật ngu xuẩn.”

Paul laughed to himself, thinking of the model airplanes sitting on his book- shelf in Brooklyn. Foolishness is in the eye of the beholder.

Paul tự cười với chính mình, nghĩ về mô hình máy bay đặt trên kệ sách của hắn tại Brooklyn. Sự ngu muội nằm trong đôi mắt của kẻ si tình.

“So you’ll leave?” Paul asked.

“Vậy nên ông sẽ rời đi chứ?” Paul hỏi.

“I can’t stay. I’ve been here far too long. Every day there’s another chance of a mistake, some carelessness that will tip them off to me. And after what we’re about to do they’ll look very closely at every foreigner who’s had busi- ness here recently. But after life returns to normal and the National Social- ists are gone I can return.”

“Tôi không thể ở lại. Tôi đã ở đây quá lâu rồi. Mỗi ngày lại có thêm một cơ hội nữa để phạm sai lầm, sự cẩu thả sẽ khiến chúng cảnh giác tôi. Và sau những điều chúng ta làm, bọn chúng sẽ để mắt đến tất cả người nước ngoài, những người có những phi vụ làm ăn gần đây. Nhưng sau khi cuộc sống trở lại bình thường và chủ nghĩa quốc xã chấm dứt, tôi có thể trở lại.”

“What will you do when you come back?”

“Ông sẽ làm gì khi ông trở lại?”

Morgan brightened. “I would like to be a diplomat. That’s why I am in this business. After what I saw in the trenches…” He nodded at a bullet scar on his arm. “After that, I decided I was going to do whatever I could to stop war. The diplomatic corps made sense. I wrote the Senator about it. He suggested Berlin. A country in flux, he called it. So here I am. I hope to be a liaison officer in a few years. Then ambassador or a consul. Like our Am- bassador Dodd here. He’s a genius, a true statesman. I won’t be posted

Morgan hào hứng. “Tôi muốn trở thành một nhà ngoại giao. Đó là lý do tại sao tôi tham gia phi vụ này. Sau những gì tôi thấy trong những hầm hố…” Ông cúi đầu xuống vết sẹo trên cánh tay mình. “Sau đó, tôi quyết định tôi

Page 13: Chuong 20 Six to Five Against New

sẽ làm bất kì điều gì tôi có thể để chấm dứt chiến tranh. Ngoại giao đoàn có ý nghĩa. Tôi đã viết cho thượng nghị sĩ về điều đó. Ông ta gợi ý đến Berlin. Ông ta gọi nó là một đất nước không ổn định. Vì vậy tôi ở đây. Tôi hi vọng sẽ trở thành một sĩ quan liên lạc trong vài năm. Sau đó là đại sứ hoặc một lãnh sự. Giống như đại sứ quán Dodd của chúng ta tại đây. Ông ta là một thiên tài, một chính khách thật sự.

Page 14: Chuong 20 Six to Five Against New

here, of course, not at first. Too important a country. I could start out in Hol- land. Or maybe Spain, well, after their civil war is over, of course. If there’s any Spain left. Franco’s as bad as Hitler. It’ll be brutal. But, yes, I would like to come back here when sanity returns.”

Tôi sẽ không được bổ nhiệm ở đây, tất nhiên, không phải lần đầu cho một đất nước quan trọng. Tôi có thể bắt đầu ở Hà Lan hay là Tây Ban Nha, và tất nhiên là sau khi cuộc nội chiến chấm dứt. Nếu có bất kì nước Tây Ban Nha nào sót lại. Franco cũng tệ như Hitler vậy. Chắc hẳn sẽ rất tàn bạo. Nhưng, đúng, tôi muốn quay lại đây khi tinh thần tỉnh táo trở lại.”

Page 15: Chuong 20 Six to Five Against New

A moment later Paul spotted Otto Webber coming down the path, walking slowly, a bit unsteadily and squinting against the powerful sunlight.

Một lát sau Paul phát hiện Otto Webber bước xuống đường, đi bộ cách chậm chạp, chao đảo và nheo mắt vì ánh nắng mặt trời.

“There he is now.”

“Hắn ta đây rồi.”

“Him? He looks like a Bürgermeister. And one who spent the evening in his cups. We’re relying on him? ”

Hắn? Hắn trông giống như một thị trưởng, và như đã trải qua một buổi tối say sưa. Chúng ta đang dựa vào hắn sao?”

Webber approached the bench and sat down, breathing hard. “Hot, hot day. I didn’t know it could be this hot in the morning. I’m rarely up at this hour. But neither are the dung-shirts so we can meet without much concern. You are Mr. John Dillinger’s associate?”

Webber tiến lại băng ghế, ngồi xuống, và thở dốc. “Nóng quá, một ngày thật nóng. Tôi không biết là buổi sáng lại nóng như thế này. Tôi hiếm khi đi vào giờ này. Nhưng dù sao thì những chiếc áo sơ mi này cũng không đến nỗi bốc mùi vì thế chúng ta có thể gặp nhau mà chẳng cần phải bận tâm. Ông là phụ tá của ngài John Dillinger có phải không?

“Dillinger?” Morgan asked.

“Dillinger?” Morgan hỏi.

“I am Otto Webber.” He shook Morgan’s hand vigorously. “You are?”

“Tôi là Otto Webber” Hắn bắt tay Morgan cách nồng nhiệt. “Anh là?”

“I’ll keep my name to myself if you don’t mind.”

“Tôi sẽ giữ tên cho riêng mình tôi, nếu ông không phiền.”

“Ach, me, yes, that’s fine.” Webber examined Morgan closely. “Say, I have some nice trousers, several pair. I can sell them to you cheap. Yes, yes, very cheap. The best quality. From England. I can have one of my girls

Page 16: Chuong 20 Six to Five Against New

alter them to fit you perfectly. Ingrid is available. And very talented. Quite pretty too. A real pearl.”“Ấy, tôi, thôi được.” Webber tiến lại gần Morgan. “Nói này, tôi có vài cái quần còn tốt. Tôi có thể bán chúng cho cậu với giá rẻ, rất rẻ. Chất lượng thì khỏi chê, xuất sứ từ Anh. Một trong số những đứa con gái của tôi có thể sửa chúng lại rất vừa vặn với cậu. Ingrid vẫn còn độc thân, nó rất có tài và khá xinh xắn, thật sự là một viên ngọc quý.”

Morgan glanced down at his gray flannel slacks. “No. I don’t need any clothes.”

Morgan liếc xuống chiếc quần màu xám của lão. “Ồ không, tôi không cần thêm quần áo nữa đâu.”

“Champagne? Stockings?”

Thế sâm banh và tất thì sao?

“Otto,” Paul said. “I think the only transaction we’re interested in involves what we were talking about yesterday.”

“Otto”, Paul nói. “Tôi nghĩ vụ giao dich duy nhất mà chúng ta có hứng tham gia là vụ mà chúng ta đã bàn hôm qua thôi.”

“Ach, yes, Mr. John Dillinger. Except I have some news you may not like. All of my contacts report that a veil of silence has descended on Wilhelm Street. Something has made them cautious. Security has become higher than ever. And all this in the last day. There is no information anyone has about this person you were mentioning.”

“Ach, vâng thưa ông John Dilinger. Ngoài ra tôi còn có một vài tin tức có lẽ ông không muốn nghe. Tất cả các đầu mối giao dịch của tôi báo cáo rằng sự im lặng bất ngờ bao trùm trên con phố Wilhelm. Có điều gì đó khiến chúng trở nên cẩn trọng. An ninh trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Và tất cả đều dồn về ngày cuối cùng. Không một ai có bất kì thông tin nào về người mà ông đang nhắc đến.”

Page 17: Chuong 20 Six to Five Against New

Paul’s face twisted in disappointment.

Mặt Paul nhăn nhó thất vọng

Morgan muttered, “I spent half of last night coming up with the money.”

Morgan khẽ nó i , “ tô i đã thức cả đêm và nẩy ra ý tưởng về

t iền. ”

“Good,” Webber said brightly. “Dollars, correct?”

“Tốt” Webber hân hoan nói. “Đô la đúng không?”

“My friend,” the slim American added caustically, “you don’t get paid if we don’t get results.”“Ông bạn à”, người mỹ có câu rất thâm, “anh không được trả công nếu chúng tôi không có được kết quả”.

“But the situation is not hopeless. I can still be of some assistance.”

“Nhưng tình hình cũng không hẳn là vô vọng. Tôi có thể vẫn còn một vài sự giúp đỡ.”

“Go on,” Morgan said impatiently. He looked down again at his slacks, brushing at a smudge.

“Đi đi”, Morgan sốt ruột nói. Hắn nhìn lại cái quần của hắn và phủi sạch vết bẩn.

The German continued. “I can’t tell you where the chicken is but what would you say if I can get you into the henhouse and you could find out for your- self?”

Lão người Đức tiếp tục. “Tôi không thể nói cho anh biết lũ gà đang ở đâu nhưng điều tôi muốn nói với anh là liệu rằng khi tôi đưa anh vào chuồng gà, anh có thể tự mình tìm chúng không?

“The—”

“Cái….”

He lowered his voice. “I can get you into the Chancellory. Ernst is the envy of all the ministers. Everyone tries to snuggle close to the Little Man and

Page 18: Chuong 20 Six to Five Against New

get offices in the building but the best that most of them can do is to find space nearby. That Ernst abides there is a source of anguish to many.”

Hắn hạ giọng. “Tôi có thể đưa anh vào phủ thủ tướng. Ernst làm cho tất cả các bộ trưởng phải ganh tị. Mọi người đều cố quấn quýt quanh Little Man và giành lấy những văn phòng trong phủ nhưng điều giỏi nhất mà hầu hết bọn chúng có thể làm là tìm một chỗ lân cận. Điều mà Ernst chờ đợi lại là cội nguồn đau khổ cho nhiều người.”

Paul scoffed. “I looked it over last night. There’re guards everywhere. You couldn’t get me in there.”

Paul chế nhiễu. “Tôi đã để ý nó suốt tối qua. Bọn lính canh ở khắp mọi nơi. Ông không thể nào đưa tôi vào đó được.”

“Ah, but I am of a different opinion, my friend.”

“Ah, nhưng tôi có ý khác, ông bạn.”

“How the hell can you do it?” Paul had lapsed into English. He repeated the question in German.

“Làm thế quái nào ông có thể làm được điều đó?” Vốn tiếng anh của Paul đã hết đát, hắn lặp lại câu hỏi bằng tiếng Đức.

“We have the Little Man to thank. He is obsessed with architecture. He has been renovating the Chancellory since he came to power. Laborers are there seven days a week. I will provide a workman’s outfit, a forged identi- fication card and the two passes that will get you into the building. One of my contacts is doing the plastering there and he has access to all the doc- umentation.”

“Chúng ta phải cảm ơn Little Man. Hắn bị ám ảnh bởi kiểu kiến trúc nên khi lên nắm quyền hắn phải sửa chữa lại phủ thủ tướng. Thợ làm ở đó bảy ngày một tuần. Tôi sẽ chuẩn bị một bộ đồ nghề làm việc, một thẻ chứng minh thư giả và hai mật mã để đưa anh vào tòa nhà. Một người của tôi đang trán thạch cao ở đó và anh ta sẽ truy cập vào mọi dữ liệu.”

Morgan considered this and nodded, now less cynical about the idea.

Morgan suy nghĩ về điều này và gật đầu đồng ý, có lẽ giờ đã bớt hoài nghi về ý tưởng này.

Page 19: Chuong 20 Six to Five Against New

“My friend tells me that Hitler wishes rugs in all the offices on the important floors. That will include Ernst’s. The carpet suppliers are measuring the of-

“Bạn tôi nói với tôi rằng Hitler ước thảm sẽ được trải đầy khắp các văn phòng ở những tầng quan trọng. Kể cả Ernst cũng vậy. Những nhà cung cấp thảm đang đo đạc các văn phòng,

Page 20: Chuong 20 Six to Five Against New

fices. Some have been measured, some have not. We will hope Ernst’s has not. In the event it has been, you can make some excuse about having to measure again. The pass I will give you is from a company that is known for, among other things, its fine carpeting. I will also provide a meter stick and a notebook.”

Một số phòng đã đo xong, còn một số chưa. Chúng ta hi vọng phòng của Ernst chưa được đo. Trong trường hợp đã đo rồi, thì anh có thể tìm cớ nào đó để đo lại. Mật khẩu, tôi sẽ đưa cho anh từ một công ty mà tôi biết, trong số những thứ khác, thảm thì có khả quan hơn. Tôi cũng sẽ chuẩn bị thêm một cái gậy bằng kim loại và một quyển sổ.”

“How do you know you can trust this man?” Paul asked.

“Làm thế nào anh biết anh có thể tin tưởng người này?” Paul hỏi.

“Because he’s been using cheap plaster and pocketing the difference between its cost and what the state is paying him. That’s a death offense when you’re building Hitler’s seat of power. So I have some leverage with him; he wouldn’t lie to me. Besides, he thinks only that we’re running some scam to undercut the price of carpets. Of course, I did promise him a bit of egg.”

“Bởi vì hắn đã dùng loại thạch cao rẻ tiền, bỏ túi chi phí chênh lệch và cả khoản mà nhà nước đang trả cho hắn nữa. Đó là hành vi đáng tội chết khi anh đang xây trụ sở quyền lực cho Hitler. Vì vậy tôi có một số đòn bẩy cho hắn ta; hắn sẽ không nói dối tôi đâu. Ngoài ra, hắn chỉ nghĩ rằng chúng ta đang gian lận để cắt xén giá thành của những cái thảm. Tất nhiên, tôi đã hứa cho anh ta hưởng một ít trứng.”

“Egg?” Morgan asked.

“Trứng hả?” Morgan hỏi.

It was for Paul to interpret. “Money.”

“T iền” theo Paul d iễn g iả i .

Whose bread I eat is whose song I

sing….

Page 21: Chuong 20 Six to Five Against New

Là bánh mì tô i ăn, là bài hát tô i

hát…

“Take it out of the thousand dollars.”

“Vượt xa cả ngàn đô la”

“I wish to point out that I don’t have the thousand dollars.”“Tôi muốn nói rằng tôi không hề có cả ngàn đô”

Morgan shook his head, reached into his pocket and counted out a hun- dred.

Morgan lắc đầu, thò tay vào túi và đếm được một trăm.”

“That’s fine. See, I’m not greedy.”

“Hay thật, nhìn này tôi không hề tham lam đâu nhé.”

Morgan rolled his eyes at Paul. “Not greedy? Why, he’s like Göring.”

Morgan mở to mắt nhìn Paul. “Không tham lam ư? Tại sao, ông giống Goring”

“Ach, I take that as a compliment, sir. Our air minister is a very resourceful businessman.” Webber turned to Paul. “Now, there will be some officials in the building, even on Sunday. But my man tells me they will be senior people and will be mostly in the Leader’s portion of the building, to the left, which you will not be allowed near. To the right are the lower-level-officials’ offices — that’s where Ernst’s is. They, and their secretaries and aides, will most likely not be there. You should have some time to browse through his office and, with luck, find his calendar or a memo or notation about his ap- pointments in the next few days.”

“Ach, tôi coi đó là một lời khen, thưa ông. Bộ trưởng hàng không của chúng tôi là một doanh nhân rất có tài xoay sở.” Webber quay sang Paul. “Bây giờ, sẽ có một số quan chức trong tòa nhà, thậm chí là chủ nhật. Nhưng người của tôi nói rằng họ sẽ là những người cấp cao và sẽ chủ yếu nằm ở vị trí lãnh đạo của tòa nhà, bên trái, nơi mà ông không được phép lại gần. Phía bên phải là những quan chức cấp thấp hơn- đó là chổ của Ernst. Họ cùng thư ký và trợ lý của mình rất có thể sẽ không có mặt ở đó. Ông cần có thời gian để lướt qua văn phòng của hắn nếu may mắn, cố tìm

Page 22: Chuong 20 Six to Five Against New

lịch trình hoặc sổ ghi nhớ hoặc bản ghi chú về các cuộc hẹ của hắn trong vài ngày tới.”

“This is not bad,” Morgan said. “Điều này không tệ đâu” Morgan nói

Page 23: Chuong 20 Six to Five Against New

Webber said, “It will take me an hour or so to put everything in place. I will pick up the coveralls and your papers and a truck. I’ll meet you by that statue there, the woman with the large bosom, at ten A . M . And I’ll bring some pants for you, ” he added to Morgan. “Twenty marks. Such a good price.” He smiled then said to Paul, “Your friend here eyes me with a very particular look, Mr. John Dillinger. I don’t believe he trusts me.”

Webber nói, “Sẽ mất một giờ hoặc lâu hơn để sắp đặt mọi thứ về đúng vị trí. Tôi sẽ lượm đồng phục, giấy tờ của ông và một chiếc xe tải. Tôi sẽ gặp ông tại bức tượng đằng kia, tượng người phụ nữ với bộ ngực lớn, vào lúc 10h sáng. Và tôi sẽ mang một vài bộ đồ cho ông”, Hắn nói thêm với Morgan. “Hai mươi điểm. Một mức giá hời.” Hắn cười và nói với Paul, bạn của ông nhìn tôi với một ánh mắt rất đặc biệt, Ông John Dillinger. Tôi không tin hắn ta tin tưởng tôi.”

Reggie Morgan shrugged. “I will tell you, Otto Wilhelm Friedrich Georg Webber.” A glance at Paul. “My colleague here told you about the precau- tions we’ve taken to make certain you don’t betray us. No, my friend, trust is not the issue. I’m looking at you this way because I wish to know what the hell you think is wrong with these trousers of mine?”

Reggie Morgan nhún vai. “Tôi nói cho ông nghe này, Otto Wilhelm Friedrich Georg Webber.” Liếc nhìn Paul. “Đồng nghiệp của tôi ở đây bảo tôi phải đề phòng, chúng tôi đã làm vậy để chắc chắn rằng ông không phản bội chúng tôi. Không đâu anh bạn, tin tưởng không phải là vấn đề. Tôi đang nhìn ông theo cách này bởi vì tôi muốn biết cái quái gì ông nghĩ là sai với cái quần của tôi?”

He saw Mark’s face in the young boy’s before him. Hắn nhìn thấy khuôn mặt của Mark trong hình hài của cậu bé đang đứng trước mặt hắn.

This was to be expected, of course, seeing the father in the son. But it was still unsettling.

Tất nhiên, đây là điều đáng được mong đợi, khi nhìn thấy cha trong con. Nhưng vẫn hơi đáng lo ngại.

“Come here, Rudy,” Reinhard Ernst said to his grandson.

Page 24: Chuong 20 Six to Five Against New

“Lạ i đây nào Rudy, ” Ee inhard Ernst nó i vớ i

cháu t ra i mình.

“Yes, Opa.”

“Dạ, thưa ông”

The hour was early on Sunday and the housekeeper was removing break- fast dishes from the table, on which sunlight fell as yellow as pollen. Ger- trud was in the kitchen, examining a plucked goose, which would be dinner later that day. Their daughter-in-law was at church, lighting candles to the memory of Mark Albrecht Ernst, the very same young man the colonel saw now echoed in his grandson.Giờ đó vẫn còn sớm vào chủ nhật và người quản gia đã thu dọn bữa sáng khỏi bàn, trong ánh nắng chiếu vàng như phấn hoa. Gertrud đang ở trong bếp, kiểm tra món gan ngỗng sẽ được dùng cho bữa tối trễ hôm đó. Con dâu của họ đang ở nhà thờ, để thắp những ngọn nến tưởng niệm đến Mark Albrecht Ernst, người rất giống cậu thanh niên đại tá đã thấy giờ lại là cháu trai của mình.

He tied the laces of Rudy’s shoes. He glanced once more at the boy’s face and saw Mark again, though noted a different look on his face this time: curious, discerning.

Ông buột dây giày cho Rudy. Liếc nhìn mặt cậu bé một lần nữa và ông lại thấy Mark, mặc dù chú ý đến một cái nhìn khác trên khuôn mặt của cậu bé lúc này: sự tò mò và nhận thức.

It was uncanny really.

Thật sự rất kì lạ

Oh, how he missed his son…

Oh, ông nhớ con trai ông làm sao…

It was eighteen months since Mark had said good-bye to his parents, wife and Rudy, all of them standing behind the rail at Lehrter Station. Ernst had given the twenty-seven-year-old officer a salute — a real salute, not the

Đã 18 tháng kể từ khi Mark nói lời tạm biệt ba mẹ mình, vợ và Rudy, tất cả đều đứng về phía sau đường sắt ở bến tàu Lehrter. Ernst đã dành cho

Page 25: Chuong 20 Six to Five Against New

nhân viên 27 tuổi một lời chào – một lời chào thật, không phải kiểu phát xít -

Page 26: Chuong 20 Six to Five Against New

fascist one — as his son had boarded the train to Hamburg to take com- mand of his ship.

- Là con trai ông đã bước lên chuyến tàu đến Hamburg để chỉ huy tàu của mình.

The young officer was fully aware of the dangers of the ramshackle vessel yet he’d wholly embraced them.

Người sĩ quan trẻ hoàn toàn nhận thức được sự nguy hiểm của chiếc tàu xiêu vẹo nhưng anh vẫn chấp nhận nắm chặt lấy chúng.

Because that is what soldiers and sailors do.

Bởi vì đó là những gì mà những người lính và thủy thủ làm.

Ernst thought about Mark daily. But never before had the spirit of his son come so close to him as now, seeing these familiar expressions in his own grandson’s face, so direct, so confident, so curious. Were they evidence that the boy had his father’s nature? Rudy would be subject to the draft in a decade. Where would Germany be then? At war? Peace? Back in pos- session of the lands stolen away by the Treaty of Versailles? Would Hitler be gone, an engine so powerful that it quickly seizes and burns? Or would the Leader still be in command, burnishing his vision of the new Germany? Ernst’s heart told him he should be vitally concerned about these questions. Yet he knew he couldn’t worry about them. All he could focus on was his duty.

Ernst nghĩ về Mark mỗi ngày. Nhưng trước đó, chưa bao giờ cảm xúc về con trai ông lại tràn về dữ dội như lúc này, khi nhìn thấy những biểu cảm quen thuộc trên chính khuôn mặt của đứa cháu nội mình, rất trực tiếp, rất chắc chắn và rất kì lạ. Phải chăng những điều đó minh chứng rằng cậu bé có những bản tính của cha mình? Rudy sẽ là đối tượng cho chế độ quân dịch trong một thập kỉ. Người Đức sẽ ở đâu sau đó? Trong thời chiến? hay trong thời bình? Trở lại sống trong cảnh các vùng đất bị cướp mất bởi hiệp ước Versailles? Hitler sẽ ra đi, một động cơ mạnh mẽ như vậy sẽ nhanh chóng bị thâu tóm và lụi tàn? Hay là những nhà lãnh đạo vẫn còn điều khiển, đánh bóng tầm nhìn của mình về một nước Đức tươi mới? Sự nhiệt huyết của Ernst nói với ông rằng, ông thật sự nên bận tâm đến những câu hỏi này. Tuy nhiên, ông biết ông không thể lo nghĩ về chúng. Tất cả ông có thể là tập trung vào nhiệm vụ của mình.

One had to do one’s duty.

Mỗi người phải làm nhiệm vụ của mình

Even if that meant commanding an old training ship not meant to carry powder and shells, whose jerry-rigged magazine was too close to the gal- ley or engine room or a sparking wire (no one would ever know), the conse- quences being that one moment the ship was practicing war maneuvers in the cold Baltic and the next she was a cloud of acrid smoke over the water, her shattered hull dropping through the

Page 27: Chuong 20 Six to Five Against New

blackness of water to the sea floor.

Thậm chí nếu đó là việc chỉ huy một con tàu huấn luyện cũ kĩ thì không có nghĩa là phải mang lấy tất cả, tạp chí về con buồm của Jerry đã quá quen thuộc với bếp ăn, phòng động cơ hay một sợi dây đánh lửa (không ai biết ), hậu quả là trong một phút chốc con tàu đã được tập chiến tại vùng Baltic lạnh lẽo và tiếp theo đó là một đám mây khói cay xè trên mặt nước, thân tàu bị vỡ rơi rớt xuống đáy biển đen xì.

Duty…

Nghĩa vụ ư…

Even if that meant spending half one’s days battling in the trenches of Wil- helm Street, all the way to the Leader, if necessary, to do what was best for Germany.

Thậm chí nếu đó có nghĩa là bỏ ra nửa ngày để chiến đấu trong chiến hào của Wilhelm Street, tất cả mọi cách để trở thành bậc cầm quyền, nếu cần thiết, để làm những gì tốt nhất cho nước Đức.

Ernst gave a final tug on Rudy’s shoelace to make sure it wouldn’t come undone and trip the boy. Then he stood and looked down at this tiny version of his son. Acting on impulse, very unusual for Ernst, he asked, “Rudy, I have to see someone this morning. But later, would you like to come with me to the Olympic stadium? Would you like that?”

Ernst đã kéo dây giầy của Rudy lần cuối để chắc rằng nó sẽ không bung ra giữa chừng khi cậu đi. Sau đó ông đứng lên và nhìn xuống phiên bản nhỏ bé của cậu con trai mình. Có điều gì đó thôi thúc ông, rất không bình thường với Ernst, ông hỏi, “Rudy, ta phải gặp một vài người vào sáng nay. Nhưng sau đó, cháu có thể cùng ta đến sân vận động Olympic được không? Cháu có thích không?

“Oh, yes, Opa.” The boy’s face blossomed into a huge smile. “I could run around the tracks.”

“Ồ, dạ có thưa ông”. Mặt cậu bé nở một nụ cười thật lớn. “Cháu có thể chạy quanh đường ray”.

“You run quickly.”

“Cháu chạy nhanh lắm”.

“Gunni at my child-school and I ran a race from the oak tree to the porch and he’s two years older than I but I won.”

“Ở trường Gunni và cháu đã chạy đua từ cây sồi đến cổng. Anh ấy lớn hơn cháu hai tuổi nhưng cháu đã thắng.”

“Good, good. Then you will enjoy the afternoon. You’ll come with me and you can run on the same track that our Olympians will race on. Then when we see the Games next week you can tell everyone that you ran on the same track. Won’t that be fun?”

Page 28: Chuong 20 Six to Five Against New

“Giỏi lắm, sau này để tận hưởng buổi chiều. Cháu có thể đến với ta và cháu có thể chạy trên cùng đường đua mà những vận động viên Olympic của chúng ta thường chạy. Sau đó, khi chúng ta xem những trận đấu vào tuần tới, cháu có thể nói với tất cả mọi người rằng cháu đã chạy trên cùng đường đua đó. Chắc hẳn sẽ vui lắm?

“Oh, yes, Opa.”

“Vâng ạ”

“I have to go now. But I’ll return at noontime and pick you up.”

“Giờ ta phải đi rồi. Nhưng ta sẽ trở lại vào buổi chiều và

đón cháu.”

“I’ll practice running.”

“Cháu sẽ tập chạy”

“Yes, you do that.”“Ừ, hãy tập đi”

Ernst walked to his den, collected several files on the Waltham Study, then found his wife in the pantry. He told her that he would pick up Rudy later that day. And for now? Yes, yes, it was Sunday morning but still he had to attend to some important matters. And, no, they couldn’t wait.

Ernst bước về căn phòng nhỏ hẹp của mình,thu thập một số tập tài liệu điều tra về Waltham, sau đó ông thấy vợ mình trong nhà bếp. Ông nói với bà rằng ông sẽ đón Rudy sau hôm đó. Và bây giờ? ừm, đó là buổi sáng chủ nhật nhưng ông vẫn phải có mặt vì một số vấn đề quan trọng. Và nếu không, họ không thể đợi được.

Whatever else they said about him, Hermann Göring was tireless.

Bất kể điều gì họ nói về ông, Hermann Goring cũng chẳng hề mệt mỏi

Today, for instance, he’d arrived at his desk in the air ministry at 8 A.M. A Sunday, no less. And he’d had a stop to make on the way.

Ví dụ như hôm nay, ông tới bàn làm việc của mình trong bộ hàng không lúc 8 giờ sáng chủ nhật không kém. Và ông đã dừng lại để tìm lối đi.

Sweating furiously, he had marched into the Chancellory a half hour before that, making his way to Hitler’s office. It was possible that Wolf was awake— still awake, that is. An insomniac, the man often stayed up past dawn. But, no, the Leader was in bed. The guard reported that he’d retired about five, with instructions not to be disturbed.Mồ hôi đổ dữ dội, ông đã hành quân vào phủ thủ tướng nửa giờ trước đó, tiến hành mở đường đến văn phòng của Hitler. Có thể là Wolf đã tỉnh dậy hoặc vẫn còn thức do chứng mất ngủ, hắn thường thức đến rạng sáng. Nhưng không, người chỉ huy

Page 29: Chuong 20 Six to Five Against New

đang nằm trên gường. Người bảo vệ đã báo cáo rằng hắn không được khỏe lúc 5 giờ, và lệnh không được quấy rầy.

Göring had thought for a moment then jotted a note and left it with the guard.

Goring suy nghĩ một lát rồi viết một mảnh giấy nhỏ và để đó cho người bảo vệ.

My Leader,I have learned of a matter of concern at the highest level. Betrayal might be involved. Significant future plans are at stake. I will relate this inform- ation in person as soon as it suits.GöringGởi chỉ huy của tôi, Tôi đã nhận ra một vấn đề đáng được quan tâm nhất. Sự phản bội có thể bị dính vào. Những kế hoạch quan trọng trong tương lai đang bị đe dọa. Tôi sẽ thuật lại thông tin này- cho người ngay khi có dịp tiện. Good choice of words. “Betrayal” was always a trigger. The Jews, the Com- munists, the Social Democrats, the Republicans — the backstabbers, in short — had sold out the country to the Allies at the end of the War and still threatened to play Pilate to Hitler’s Jesus.Cách chọn từ rất tốt. “Phản bội” luôn là một cò súng. Người Do Thái, những người cộng sản, Đảng dân chủ xã hội, đảng cộng hòa, backstabbers nói cách ngắn gọn – đã bán đứng đất nước cho đồng minh vào cuối chiến tranh và vẫn có nguy cơ đóng vai Pilate đến với Chúa Jesus của Hitler.

Oh, Wolf got hot when he heard that word.

Oh, Wolf đã nổi điên khi nghe từ đó.

Oh, Wolf đã nóng khi nghe từ đó.

“Future plans” was good, as well. Anything that threatened setbacks to Hitler’s vision of the Third Empire would get the man’s immediate attention.

“Những kế hoạch trong tương lai” cũng rất tốt. Bất cứ điều gì đe dọa đến tầm nhìn của Hitler về đế chế thứ ba sẽ ngay lập tức được hắn để ý đến.

Though the Chancellory was merely around the corner, it had been un- pleasant to make the trip, a large man on a hot morning. But Göring’d had no choice. He couldn’t telephone or send a runner; Reinhard Ernst wasn’t a competent enough intriguer to have his own intelligence network to spy on colleagues but any number of others would be delighted to steal Göring’s revelation about Ludwig Keitel’s Jewish background and hand it to the Leader as if it were their own discovery. Goebbels, for instance, Göring’s chief rival for Wolf’s attention, would do so in a heartbeat.

Mặc dù thủ tướng chỉ quanh quẩn trong xó, nhưng không bằng lòng sắp xếp cho chuyến đi, một người đàn ông to lớn vào một buổi sáng nóng bức. Nhưng Goring không có sự lựa chọn nào khác. Ông không thể điện thoại hay gửi người báo tin; Reinhard Ernst không có đủ thẩm quyền vận động ngầm để có mạng lưới tình báo

Page 30: Chuong 20 Six to Five Against New

của riêng mình để theo dõi các đồng nghiệp nhưng rất nhiều người khác sẽ rất vui mừng để đánh cắp điều bí mật của Goring về nền Do Thái Ludwig Keitel và giao nó cho nhà lãnh đạo như thể chính họ đã khám phá ra nó. Ví dụ như Goebbels, đối thủ chính của Goring vì sự thu hút của Wolf, sẽ làm vậy trong giây lát.

Now, close to 9 A.M., the minister was turning his attention to a discour- agingly large file about Aryanizing a large chemical company in the west and folding it into the Hermann Göring Works. His phone buzzed.

Giờ đã gần 9 giờ sáng, bộ trưởng đã quay sang chú ý đến tập tin lớn gây thoái chí về Aryanizing một công ty hóa chất lớn tại phía tây và xếp nó vào trong công việc của Hermann Goring. Điện thoại của ông reo lên.

From the anteroom his aide answered. “Minister Göring’s office.”

Từ phòng chờ, trợ lý của ông trả lời. "Văn phòng của Bộ trưởng Göring xin nghe."

The minister leaned forward and looked out. He could see the man stand- ing to attention as he spoke. The aide hung up and walked to the doorway. “The Leader will see you in a half hour, sir.”

Bộ trưởng ngả người về phía trước và nhìn ra ngoài. Ông có thể nhìn thấy người đàn ông đang đứng chú ý khi ông nói. Người trợ lý gác máy và tiến về phía cửa. “Bộ trưởng sẽ gặp ông trong vòng nửa giờ nữa thưa ông.”

Göring nodded and walked to the table across his office. He sat and served himself food from the heaped-high tray. The aide poured coffee. The air minister flipped through the financial information on the chemical company but he had trouble concentrating; the image that kept emerging from the charts of numbers was of Reinhard Ernst being led from the Chancellory by two Gestapo officers, a look of bewilderment and defeat on the colonel’s otherwise irritatingly placid face.

Goring gật đầu và bước về phía bản trên văn phòng mình. Ông ngồi xuống và tự lấy thức ăn từ khay chất đống cao. Người trợ lý rót cà phê cho ông. Bộ trưởng hàng không lướt qua những thông tin về tài chính của các công ty hóa chất nhưng ông rất khó tập trung; những hình ảnh đó cứ liên tục nổi lên từ các biểu đồ số của Reinhard Ernst được dẫn từ thủ tướng bởi hai sĩ quan Gestapo, một cái nhìn bối rối và thất bại về mặt những mặt tĩnh lặng khác của đại tá.

A frivolous fantasy, to be sure, but it provided some pleasant diversion while he scarfed down a huge plate of sausage and eggs.

Một hình ảnh phù phiếm, để chắc chắn, nhưng nó cung cấp một số dòng vừa ý, trong khi ông ghép một miếng xúc xích lớn và trứng.