Upload
dinhliem
View
216
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
22
CChhưươơnngg 11 .............................................................................................................................................................................................................. 33 II.. ĐĐốốii ttưượợnngg nngghhiiêênn ccứứuu ccủủaa ttââmm llíí hhọọcc xxãã hhộộii ................................................................................................ 33 IIII.. NNhhiiệệmm vvụụ nngghhiiêênn ccứứuu ccủủaa ttââmm llíí hhọọcc xxãã hhộộii,, ttââmm llýý hhọọcc xxãã hhộộii qquuâânn ssựự........ 1100 CChhưươơnngg 22 .......................................................................................................................................................................................................... 1133 II.. PPhhưươơnngg pphháápp nngghhiiờờnn ccứứuu ttààii lliiệệuu ............................................................................................................................ 1133 IIII.. PPhhưươơnngg pphháápp qquuaann ssáátt .......................................................................................................................................................... 1166 IIIIII.. PPhhưươơnngg pphháápp pphhỏỏnngg vvấấnn .................................................................................................................................................. 1199 IIVV.. PPhhưươơnngg pphháápp ttrrưưnngg ccầầuu ýý kkiiếếnn bbằằnngg bbảảnngg hhỏỏii ................................................................................ 2233 VV.. PPhhưươơnngg pphháápp tthhựựcc nngghhiiệệmm.. ............................................................................................................................................ 2266 VVII.. PPhhưươơnngg pphháápp ttrrắắcc đđạạcc xxóó hhộộii .................................................................................................................................... 2299 VVIIII.. PPhhưươơnngg pphháápp đđáánnhh ggiiáá ccủủaa nnhhúúmm đđốốii vvớớii nnhhõõnn ccỏỏcchh ccỏỏ nnhhõõnn ................................ 3333 CChhưươơnngg 33 .......................................................................................................................................................................................................... 3377 II.. nnhhữữnngg ttiiềềnn đđềề ttrriiếếtt hhọọcc ............................................................................................................................................................ 3377 IIII.. NNhhữữnngg ttrrưườờnngg pphhááii đđầầuu ttiiêênn ttrroonngg xxãã hhộộii hhọọcc vvàà ttââmm llíí hhọọcc .......................................... 4411 IIIIII.. TTââmm llíí hhọọcc xxãã hhộộii ttrrởở tthhàànnhh mmộộtt kkhhooaa hhọọcc đđộộcc llậậpp.. .................................................................. 4488 CChhưươơnngg 44 .......................................................................................................................................................................................................... 5544 II.. KKhhááii nniiệệmm,, ccơơ ccấấuu ttââmm llýý nnhhóómm llớớnn ...................................................................................................................... 5544 IIII.. ĐĐặặcc đđiiểểmm ttââmm llýý ccủủaa ccáácc nnhhóómm llớớnn .................................................................................................................... 5566 CChhưươơnngg 55 .......................................................................................................................................................................................................... 6600 II.. KKhhááii nniiệệmm nnhhóómm nnhhỏỏ.. TTââmm llíí nnhhóómm nnhhỏỏ .......................................................................................................... 6600 IIII.. ĐĐặặcc ttrrưưnngg ttââmm llýý ccủủaa nnhhóómm nnhhỏỏ .............................................................................................................................. 6633
33
Chương 1
Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu
của tâm lí học xã hội- tâm lí học xã hội quân sự
Xác định đối tượng nghiên cứu là vấn đề đầu tiên đặt ra cho bất cứ một
khoa học nào, bởi vì nó trả lời cho câu hỏi: nghiên cứu cái gì? Đối tượng của
một khoa học nằm ở bản chất của các hiện tượng mà khoa học ấy coi là khách
thể nghiên cứu, do vậy, việc xác định đối tượng của tâm lí học xã hội cần phải
đi từ tìm hiểu hiện tượng tâm lí xã hội là gì, bản chất của nó như thế nào.
I. Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học xã hội
1. Hiện tượng tâm lí xã hội
a. Hiện tượng tâm lí xã hội là gì?
Sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân bao giờ cũng thuộc vào các
nhóm xã hội. Trong cuộc sống, hoạt động và sinh hoạt, mỗi nhóm xã hội
thường nảy sinh những hiện tượng tâm lý chung cho tất cả mọi người và điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với cộng đồng. Trên nền tảng tâm lý cá
nhân, các hiện tượng tâm lý chung của nhóm, cộng đồng xã hội như dư luận
xã hội, tâm trạng xã hội, truyền thống, nhu cầu xã hội được hình thành.
Những hiện tượng tâm lí xã hội là hiện tượng được xuất hiện ở số đông
người, do kết quả giao tiếp, tác động qua lại giữa người với người thuộc các
nhóm xã hội khác nhau trong cuộc sống và hoạt động cùng nhau, cùng phản
ánh những điều kiện lịch sử- xã hội như nhau.
b. Phân loại hiện tượng tâm lí xã hội.
Hiện tượng tâm lí xã hội đa dạng, phong phú và phức tạp, bởi nó là sự
phản ánh sinh động thực tế cuộc sống. Người ta phân loại các hiện tượng tâm
lí xã hội dựa trên những căn cứ khác nhau. Khi nghiên cứu các hiện tượng
tâm lí xã hội có thể căn cứ vào mức độ ảnh hưởng nhiều hay ít của các hiện
tượng tâm lí xã hội; tính chất tác động mạnh yếu của chúng; sự bền vững hay
tạm thời; phạm vi ảnh hưởng rộng hay hẹp theo đó có:
44
- Nhóm thứ nhất bao gồm các hiện tượng tâm lí xã hội của nhóm như
tâm lý nhóm lớn, tâm lý nhóm nhỏ, tâm lý nhóm vừa.
- Nhóm thứ hai gồm các hiện tượng tâm lí xã hội tạo ra bản sắc dân tộc,
cộng đồng, thực hiện chức năng duy trì tồn tại xã hội như truyền thống, phong
tục tập quán, thói quen, tín ngưỡng, nghi lễ giao tiếp xã hội...
- Nhóm thứ ba là các hiện tượng tâm lí xã hội hình thành do tác động
tổng hợp chung, có ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội, tạo ra sắc thái cảm xúc cho
xã hội như dư luận xã hội, tâm trạng xã hội, bầu không khí tâm lý chung, uy
tín trong xã hội, tâm thế, định hướng giá trị xã hội...
- Nhóm thứ tư gồm các quá trình tâm lí xã hội có ảnh hưởng mạnh về
cường độ nhưng thiếu tính ổn định và bền vững trong đời sống của nhóm và
cộng đồng như bắt trước, lây lan tâm lý, thi đua, tranh đua, đồng cảm ác cảm,
ám thị...
2. Bản chất, quy luật hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm
lí xã hội
a.Bản chất hiện tượng tâm lí xã hội.
Mỗi một cá nhân bao giờ cũng tồn tại trong một nhóm, một xã hội nhất
định và hoạt động giao tiếp của họ luôn diễn ra trong các điều kiện xã hội lịch
sử nhất định. Do đó, tâm lý cá nhân là cơ sở để hình thành tâm lí xã hội.
Nhưng hiện tượng tâm lí xã hội không phải là sự cộng lại của tâm lý cá nhân
mà nó mang bản chất xã hội sâu sắc, là sản phẩm của hoạt động chung, những
điều kiện xã hội lịch sử chung.
Hiện tượng tâm lí xã hội bao giờ cũng là tâm lý chung của nhiều người,
chủ thể của tâm lí xã hội là nhóm xã hội: có nhóm lớn, nhóm nhỏ; nhóm
chính thức - nhóm không chính thức; nhóm đặc biệt là đám đông. ở trong
nhóm xã hội, hoạt động xã hội, quan hệ qua lại và giao tiếp có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng quyết định sự biểu hiện về nội dung cũng như hình thức của
tâm lí xã hội. Hiện tượng tâm lí xã hội tồn tại và biểu hiện sinh động trong
nhóm xã hội. ở trong nhóm xã hội diễn ra quá trình xã hội hoá, mỗi cá nhân
chịu sự tác động ảnh hưởng của nhóm, của cái chung. Đồng thời cá nhân cũng
55
tác động ảnh hưởng tới cá nhân khác và toàn nhóm, cộng đồng. Sự tác động
qua lại diễn ra trong nhóm xã hội, chi phối điều chỉnh thái độ hành vi tâm lý
nói chung của cá nhân, thành viên của nhóm, dẫn đến kết quả là hình thành
nên tâm lý chung, tâm lí xã hội. Do đó có thể kết luận rằng, tâm lí xã hội là
tâm lý của một nhóm xã hội nhất định phản ánh những điều kiện xã hội lịch
sử chung nhất định nảy sinh từ sự tác động qua lại trong hoạt động và giao
tiếp giữa các cá nhân trong nhóm. Chừng nào còn tồn tại xã hội, các nhóm xã
hội với các mối quan hệ qua lại giao tiếp của những cá nhân thì chừng đó còn
sự tồn tại và phát triển của hiện tượng tâm lí xã hội - hiện tượng tâm lý đặc
trưng của các nhóm xã hội.
b.Quy luật hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lí xã hội
Sự hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lí xã hội có tính quy
luật, đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt, làm rõ cơ sở cho nghiên cứu và vận dụng
để định hướng, điều khiển nó phục vụ cho thực tiễn cuộc sống.
- Các hiện tượng tâm lí xã hội được hình thành và phát triển từ nguồn
gốc tồn tại xã hội, từ thực tiễn cuộc sống.
Đây là quan điểm duy vật lịch sử về sự nảy sinh và phát triển của tâm lí
xã hội. Tồn tại xã hội là cái có trước, tâm lí xã hội là cái có sau. Tâm lý xã hội
là biểu hiện cụ thể của sự phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh những điều kiện
xã hội lịch sử cụ thể vào các nhóm và cộng đồng xã hội. Nội dung của tồn tại
xã hội của thực tiễn cuộc sống là nguồn gốc khách quan quyết định đến nội
dung và các hình thức biểu hiện của các hiện tượng tâm lí xã hội. Tồn tại xã
hội đựơc hiểu là toàn bộ các mối quan hệ người - người trong xã hội như quan
hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, tôn giáo, dân tộc... Các quan hệ xã hội
đảm bảo cho một xã hội tồn tại và phát triển. Tồn tại xã hội nào thì có tâm lí
xã hội tương ứng, phản ánh thực tại xã hội sinh động, trung thực, phức tạp
như thực tiễn cuộc sống vậy.
- Cái chung, cái riêng và cái đơn nhất thống nhất trong các hiện tượng
tâm lí xã hội.
Cái chung được hiểu là những hiện tượng tâm lí xã hội có tính nhân loại,
chi phối đến tất cả loài người trên hành tinh và chúng mang tính phổ biến,
66
tính thời đại, tính nhân bản trong tâm lí xã hội, là nét chung của các dân tộc.
Cái chung của xã hội như nhu cầu, lợi ích, tình cảm, định hướng giá trị... là
những hiện tượng tâm lí xã hội phổ biến của các hình thái xã hội, của các mức
độ phát triển xã hội.
Cái riêng được hiểu là những hiện tượng tâm lí xã hội của một dân tộc,
nhóm, tập thể mang đặc trưng riêng của dân tộc, nhóm, tập thể nhất định.
Cái đơn nhất: mỗi hiện tượng tâm lí xã hội vận động và phát triển khác
nhau ở các nhóm xã hội, không lặp lại. Sở dĩ có như vậy là vì mỗi nhóm xã
hội có qui mô, tính chất khác nhau, mỗi hiện tượng tâm lí xã hội mỗi nhóm
được hình thành chịu sự chi phối của điều kiện xã hội lịch sử cụ thể. Ví dụ:
cùng phản ánh một sự kiện xã hội, nhưng dư luận xã hội trong đơn vị quân
đội có đặc trưng riêng khác với các tập thể của xã hội.
- Qui luật về mối quan hệ qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau giữa người với người
trong quá trình giao tiếp - là nhân tố hình thành các hiện tượng tâm lí xã hội.
Nội dung của quy luật này thể hiện ở chỗ: nguồn gốc của mọi hiện tượng
tâm lý thuộc về mỗi cá nhân, không thể có hiện tượng tâm lý nằm ngoài cá
nhân, tập thể và nhóm người nhất định. Không thể có hiện tượng tâm lí xã hội
nếu chỉ xét ở bình diện cá nhân riêng lẻ hoặc cộng từng cá nhân mà thành.
Hiện tượng tâm lí xã hội chỉ nảy sinh, hình thành, phát triển trong mối quan
hệ qua lại giữa các cá nhân trong lao động, giao tiếp xã hội vì một mục đích
hoạt động chung nào đó.
Trên nền tảng của mối liên hệ liên nhân cách, thông qua giao tiếp, quan hệ
mà tâm lý cá nhân này ảnh hưởng đến cá nhân khác... cứ tiếp diễn liên tục trong
quan hệ nhiều người, các hiện tượng tâm lí xã hội được hình thành và phát triển
nhằm duy trì sự ổn định của nhóm xã hội. Tạo cho nhóm xã hội phát triển với
những nội dung và hình thức mới phù hợp với quan hệ xã hội có thực trong
nhóm xã hội. Khi đã xuất hiện các hiện tượng tâm lí xã hội thì chúng lại tác động
vào nhóm xã hội, các quan hệ xã hội, đến mỗi cá nhân trong nhóm bằng con
đường giao tiếp để định hướng, điều chỉnh hành vi của mọi người phù hợp với
chuẩn hành vi của toàn nhóm xã hội. Đó là mối quan hệ biện chứng của sự hình
thành và phát triển, vận động của các hiện tượng tâm lí xã hội.
77
Những ảnh hưởng giữa các cá nhân trong giao tiếp có thể bằng nhiều
phương pháp, cách thức như thông báo, truyền tin, trao đổi cá nhân, thuyết
phục, ám thị, hướng dẫn, nêu gương...; ảnh hưởng của cá nhân đến người
khác có thể bằng tự khẳng định, uy tín, đạo đức, tài năng... và sự đánh giá,
thừa nhận của xã hội về họ.
- Qui luật kế thừa, lây lan và bắt chước trong nhóm xã hội.
Trong đời sống và hoạt động của nhóm xã hội sẽ luôn luôn diễn ra sự kế
thừa, lây lan và bắt chước lẫn nhau về những phương thức sống, hành vi, hoạt
động của con người. Sự kế thừa những tinh hoa, di sản quý báu của quá khứ
hay của các nhóm xã hội khác được diễn ra một cách thường xuyên, tích cực,
tự giác, sáng tạo và ngày càng cao hơn. Trong các điều kiện cụ thể của quan
hệ qua lại, giao tiếp xã hội, những hiện tượng tâm lý luôn lan truyền từ người
này sang người khác, từ nhóm tập thể này sang nhóm tập thể khác làm cho
các hiện tượng tâm lí xã hội càng phong phú, phức tạp hơn. Trên cở đó, quá
trình bắt chước lẫn nhau, là sự phản ánh nguyên mẫu hành vi phản ứng của
người khác, một sự mô phỏng lại đối tượng của các hoạt động xã hội và giao
tiếp xã hội đó cũng được nảy sinh. Qui luật bắt chước là hiện tượng không
phụ thuộc vào ý muốn cá nhân. Bởi vì nhóm xã hội là tập hợp nhiều người
cùng hoạt động theo những mục đích, nhiệm vụ cụ thể để cùng nhau hoạt
động, cần được thống nhất hành động theo một phương thức nào đó mà trong
nhiều trường hợp con người chưa kịp nhận thức đầy đủ ý nghĩa của hoạt động
mà làm theo người khác. ở mỗi lứa tuổi khác nhau trong quá trình phát triển
cá thể mức độ bắt chước cũng khác nhau: từ bắt chước thao tác đến hành vi,
hành động; từ bắt chước vô thức đến có ý thức. Bắt chước trong nhóm diễn ra
trong suốt quá trình xã hội hoá con người, là một phương thức tâm lí xã hội
cần thiết đảm bảo cho con người tiếp thu và lĩnh hội những kinh nghiệm sống
và hoạt động của người khác.
3. Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học xã hội-tâm lý học xã hội quân sự
Với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học của thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, cùng với thành tựu của tâm lí học và xã hội học ảnh hưởng, chi
phối đến mọi lĩnh vực của cuộc sống làm cho tâm lí học xã hội hình thành và
88
phát triển. Việc xem xét đối tượng của tâm lí học xã hội đòi hỏi chúng ta phải
tính đến bối cảnh của sự phát triển kinhh tế - xã hội và sự tác động ảnh hưởng
của khoa học nói chung cũng như tâm lí học nói riêng. Do ở trong những điều
kiện xã hội lịch sử khác nhau, lập trường giai cấp và phương pháp luận khác
nhau cho nên trong lịch sử tâm lí học xã hội có những quan điểm khác nhau
xoay quanh vấn đề đối tượng của tâm lí học xã hội.
Người đưa ra thuật ngữ tâm lí học xã hội đầu tiên là Tarde (1903). Theo
ông, đối tượng nghiên cứu của tâm lí học xã hội là những ứng xử cá nhân do
những quy định xã hội chi phối. Ông là người đặt nền móng cho những
nghiên cứu về dư luận xã hội, thái độ và bắt chước trong xã hội. Tiếp theo
Lebon cho rằng đám đông, tâm lý của đám đông là đối tượng quan trọng của
tâm lí học xã hội.
Durkheim (1897), một nhà xã hội học Pháp với cách tiếp cận “xã hội
phát sinh” cho rằng hành vi của cá nhân là kết quả của ảnh hưởng môi trường
xã hội, các quy tắc xã hội. Ông cũng cho rằng xã hội không thể qui thành các
cá nhân hợp thành nó, cũng hệt như những biểu tượng tập thể khác với những
biểu tượng và những xúc cảm cá nhân.
Trong tâm lí học đã từng có cách tiếp cận tâm lí xã hội của cá nhân, với
cách xem xét này đối tượng của tâm lí học xã hội là tâm lý xã hội của cá
nhân, là con người trong mối liên hệ với toàn bộ các quan hệ xã hội. Theo đó,
bản chất liên hệ của con người không có gì khác là giao tiếp ứng xử. Từ giao
tiếp ứng xử tạo ra những hiện tượng tâm lí xã hội.
Nhiều nhà tâm lí học Mĩ như E.Miler, J.Dollar nghiên cứu quá trình xã
hội hoá của con người. Allport( 1924 ) xác định đối tượng của tâm lí học xã
hội là những liên hệ của con người với môi trường - đó là những liên hệ hiện
thực hoặc được tưởng tượng ra hoặc truyền từ người này sang người khác
trong bối cảnh xã hội nhất định, khi những liên hệ đó tác động vào những
người trong hoàn cảnh đó. Theo họ, liên hệ được hiểu chủ yếu là liên hệ giữa
các cá nhân (liên nhân cách).
Gergen (1981) cho rằng đối tượng của tâm lí học xã hội chính là “nghiên
cứu có hệ thống những tác động qua lại của con người và những cơ sở tâm lý
99
của chúng”. Sự nghiên cứu có hệ thống theo ông có ba yếu tố: Sự phát triển
của một lý luận, chỗ dựa kinh nghiệm cho lý luận và khuyến khích hành
động.
Worcher và Cooper (1976) coi đối tượng của tâm lí học xã hội là nghiên
cứu về những điều kiện, trong đó có cá nhân chịu tác động bởi hoàn cảnh nhất
định. Theo tác giả, hoàn cảnh thể hiện ở hai khía cạnh: một là, trong đó một
hành vi ứng xử được thể hiện ra; hai là, gắn liền với bối cảnh, là sự lý giải vì
sao lại có hành vi ứng xử như vậy... Từ đó, họ đi đến khẳng định rằng bằng
cách thay đổi hoàn cảnh thì người ta có thể làm thay đổi cá nhân.
Một hướng tiếp cận của tâm lí học xã hội Mác xít là của H.Hipsơ và
M.Phorvee với quan điểm cho rằng: “Sự hợp tác giữa con người với con
người- là điểm xuất phát cơ bản của sự nghiên cứu tâm lí học xã hội, còn đối
tượng nghiên cứu của khoa học này là sự tác động có tính xã hội”
Tóm lại, trong quá trình phát triển của khoa học đối tượng của tâm lí học
xã hội dù trình bày theo quan điểm nào thì nhân tố con người xã hội, bản chất
xã hội của con người, con người và tâm lý con người sống và hoạt động trong
các nhóm xã hội là vấn đề được coi trọng và xem xét một cách cơ bản nhất.
Kế thừa những cách tiếp cận nói trên có thể khẳng định rằng: Đối tượng
nghiên cứu của tâm lí học xã hội chính là các hiện tượng tâm lí xã hội, các
quy luật tâm lí xã hội được hình thành và phát triển trong các nhóm xã hội.
Tuy nhiên các hiện tượng tâm lí xã hội có nhiều loại và phong phú, đa dạng;
tâm lí học xã hội tập trung vào những hiện tượng tâm lí xã hội chung nhất,
điển hình có tác dụng điều chỉnh hành vi của toàn bộ cá nhân và cộng đồng xã
hội tham gia trong quá trình hoạt động của nhóm, của xã hội.
Tâm lí học xã hội là một khoa học đang phát triển mạnh mẽ và xâm nhập
vào nhiều lĩnh vực của cuộc sống hình thành nên các chuyên ngành của tâm lí
học xã hội như tâm lí học xã hội trong sản xuất kinh doanh, tâm lý học xã hội
trong lãnh đạo quản lý xã hội, tâm lý học xã hội quân sự... Tâm lý học xã hội
quân sự là một chuyên ngành của tâm lí học xã hội, một lĩnh vực của tâm lý
học quân sự nghiên cứu sự hình thành phát triển của các hiện tượng tâm lí xã
1100
hội, các quy luật tâm lí xã hội trong các nhóm, tập thể quân nhân trong điều
kiện hoạt động quân sự.
II. Nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lí học xã hội, tâm lý học xã hội
quân sự.
1. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận
Đây là những nhiệm vụ cơ bản, xác định sự tồn tại và phát triển của khoa
học tâm lí học xã hội nói chung và tâm lý học xã hội quân sự nói riêng.
- Xây dựng hệ thống các phạm trù, khái niệm khoa học cơ bản của tâm lí
học xã hội, tâm lý học xã hội quân sự, đồng thời hoàn thiện và phát triển
chúng. Tâm lí học xã hội là khoa học còn non trẻ, do vậy những phạm trù,
khái niệm cơ bản cũng phải nghiên cứu và xác định rõ ràng. Việc xây dựng
một hệ thống phạm trù, khái niệm khoa học của tâm lí học xã hội nằm trong
một cấu trúc khoa học hợp lý và phải phản ánh đặc thù riêng của khoa học
này. Những phạm trù khái niệm như tâm lí xã hội, tác động qua lại, mối quan
hệ qua lại, quan hệ liên nhân cách, giao tiếp, hoạt động cùng nhau, các cơ chế
tâm lí xã hội v.v.. cần phải có sự thống nhất, cần hoàn thiện đảm bảo tính
khoa học cơ bản, hiện đại, cập nhật thành tựu mới của tâm lí học xã hội. Hiện
nay cũng còn một số khái niệm phạm trù và cấu trúc logic của tâm lí học xã
hội, tâm lý học xã hội quân sự còn có chỗ chưa phân định rõ ràng với xã hội
học hoặc tâm lí học. Ví dụ: truyền thống, phong tục, tập quán... thuộc xã hội
học nhưng xét nó là khái niệm của tâm lí học xã hội thì nội hàm biểu hiện của
nó phải mang đặc trưng riêng của tâm lí học xã hội. Tương tự như vậy, vấn đề
nhân cách, thái độ, định hướng giá trị vốn là khái niệm của tâm lí học đại
cương, khi tiếp cận ở góc độ tâm lí học xã hội phải xác định rõ nội hàm của
chúng trong hệ thống phân loại, cấu trúc tổng thể của các hiện tượng tâm lí xã
hội như thế nào.
1111
- Phát hiện những qui luật hình thành và phát triển của tâm lí học xã hội,
tâm lý học xã hội quân sự: Tập trung vào tìm kiếm qui luật của sự tác động
qua lại giữa các nhóm xã hội trong cộng đồng dân tộc, quốc gia; những điều
kiện khách quan và chủ quan quy định, chi phối đến các hiện tượng tâm lí xã
hội; quá trình vận động và phát triển của các hiện tượng tâm lí xã hội trong
điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện hoạt động quân sự hiện nay.
- Xây dựng và hoàn thiện phương pháp nghiên cứu đặc thù của tâm lí
học xã hội, khắc phục sự vận dụng máy móc các phương pháp nghiên cứu của
tâm lí học và xã hội học vào tâm lí học xã hội, tâm lý học xã hội quân sự. Khi
đã có hệ thống phương pháp đặc thù (cả lý thuyết, thực nghiệm...) thì kết quả
nghiên cứu sẽ mang tính khoa học, tính thực tiễn phù hợp với các mục tiêu
nghiên cứu của tâm lí học xã hội.
2. Những nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng
Tâm lí học xã hội phải tiến hành những nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng
đáp ứng với yêu cầu phát triển tâm lí xã hội đặt ra hiện nay đó là:
- Nghiên cứu những đặc điểm tâm lý dân tộc và những biến đổi của tâm lí
dân tộc... làm cơ sở cho các chính sách phù hợp với nhu cầu của từng dân tộc,
sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của các tộc người trong xã hội.
- Nghiên cứu những qui luật tâm lý của nhóm xã hội, động lực hoạt động
của nhóm xã hội trong sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt xã hội.
- Nghiên cứu khía cạnh tâm lí xã hội trong hoạt động lãnh đạo, quản lý
xã hội; khía cạnh tâm lí xã hội của công tác giáo dục, tuyên truyền trong thời
đại bùng nổ thông tin và mở rộng giao tiếp xã hội.
- Nghiên cứu các vấn đề truyền thống, tập quán tín ngưỡng, nếp sống
văn hóa trong các cộng đồng xã hội, trong gia đình...
Tâm lý học xã hội quân sự phát triển trên nền tảng của tâm lí học xã hội
và tâm lý học quân sự có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
1122
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các đặc điểm tâm lí xã hội của dân tộc, giai
cấp, nghề nghiệp quân sự đến hành vi, lối sống của quân nhân, hoạt động của
tập thể quân nhân từ đó phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Nghiên cứu tâm lý của tập thể quân nhân, các nhóm trong đơn vị quân
đội; dự đoán những biến động của tâm lý tập thể; định hướng điều khiển các
hiện tượng tâm lí xã hội trong tập thể quân nhân phục vụ cho công tác huấn
luyện , quản lý và giáo dục bộ đội.
- Nghiên cứu vấn đề xã hội hóa nhân cách quân nhân trong môi trường
quân sự và điều kiện hoạt động quân sự; sự tác động ảnh hưởng của tập thể
quân sự đối với nhân cách quân nhân và sự phát triển của nhân cách quân
nhân trong các tập thể quân sự.
- Nghiên cứu các khía cạnh tâm lí xã hội của công tác lãnh đạo, chỉ huy,
quản lý bộ đội như cơ sở tâm lý của công tác cán bộ, công tác tổ chức, công
tác tuyên truyền cổ động; các khía cạnh tâm lý lứa tuổi, giới tính của cán bộ,
chiến sĩ trong quân đội.
-Nghiên cứu khía cạnh tâm lí xã hội của quân nhân và tập thể quân nhân
trong chiến tranh hiện đại, từ đó xây dựng trạng thái tâm lý-tinh thần tích cực
cho bộ đội, phòng chống có hiệu quả tác động ảnh hưởng của chiến tranh có
sử dụng vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc.
1133
Chương 2
Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học xã hội
Một trong những vấn đề cú tầm quan trọng hàng đầu của tõm lớ học xó
hội là phương pháp nghiờn cứu. Ngay từ khi ra đời, tõm lớ học xó hội đó
được xỏc định là một khoa học cú tớnh thực nghiệm cao. Điều này đó quy
định nội dung, tớnh chất và hỡnh thức của cỏc phương pháp nghiờn cứu đối
với ngành khoa học này.
Để nghiờn cứu cỏc hiện tượng tõm lớ xó hội của con người, đặc biệt là
cỏc hành vi xó hội, tõm lớ học xó hội đó sử dụng nhiều phương pháp nghiờn
cứu khỏc nhau. Cú thể chia cỏc phương pháp nghiờn cứu của tõm lớ học xó
hội thành hai nhúm: a/ Nhúm cỏc phương pháp chung - Đú là nhúm cỏc
phương pháp chung với tõm lớ học đại cương và một số ngành khoa học
khỏc. Tõm lớ học sử dụng cỏc phương pháp này trờn cơ sở đặc thự về nội
dung nghiờn cứu của mỡnh. Nhúm này gồm cỏc phương pháp: Nghiờn cứu
tài liệu, phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn, phương pháp bảng
hỏi, phương pháp thực nghiệm, phương pháp trắc nghiệm. b/ Nhúm cỏc
phương pháp đặc thự - Đú là cỏc phương pháp riờng của tõm lớ học xó hội.
Nhúm này gồm cỏc phương pháp trắc nghiệm xó hội, phương pháp đánh giá
nhõn cỏch của nhúm, phương pháp chuẩn đoỏn tõm lớ xó hội…
I. Phương pháp nghiờn cứu tài liệu
Phương pháp nghiờn cứu tài liệu xuất hiện ở Mỹ vào đầu thế kỉ XX. Đầu
tiờn phương pháp này được sử dụng trong lĩnh vực bỏo chớ và nghiờn cứu
văn học dưới dạng phõn tớch định tớnh và định lượng nội dung. Từ những
năm 20 của thế kỉ XX trở đi phương pháp nghiờn cứu tài liệu được sử dụng
rộng rói trong cỏc ngành xó hội học.
1144
1. Một số nguyờn tắc nghiờn cứu tài liệu trong tõm lớ học xó hội.
Trong tõm lớ học xó hội việc nghiờn cứu tài liệu được thực hiện trờn cơ
sở một số nguyờn tắc sau:
- Đảm bảo tớnh đối tượng trong nghiờn cứu tài liệu: Đõy là phương pháp
đặc biệt nghiờn cứu nội dung thụng tin. Trong tõm lớ học xó hội, phương
pháp nghiờn cứu tài liệu được sử dụng để nghiờn cứu giao tiếp giữa người với
người. Ở đõy đối tượng của nghiờn cứu tài liệu khụng phải đơn thuần là
những tài liệu mà những tài liệu đú được xem như là cỏc “thụng tin”. Khi xem
đối tượng của phương pháp này là cỏc thụng tin là muốn nhấn mạnh đến tớnh
năng động của đối tượng, tớnh hoà nhập của nú trong hệ thống giao tiếp.
- Đảm bảo nghiờn cứu một cỏch tổng hợp. Điều này cú nghĩa là nghiờn
cứu tài liệu khụng chỉ là nghiờn cứu nội dung thụng tin mà đồng thời phải
nghiờn cứu cỏc khớa cạnh khỏc của giao tiếp.
- Nguyờn tắc kết hợp: Phải kết hợp đồng thời một số phương pháp trong
nghiờn cứu về một vấn đề nào đú. Cú thể sử dụng phương pháp này như một
phương pháp bổ trợ để kiểm tra cỏc kết quả thu được từ cỏc phương pháp khỏc.
2. Cỏc giai đoạn tiến hành
Phương pháp nghiờn cứu tài liệu được thực hiện qua một số giai đoạn
chớnh sau:
a. Giai đoạn chuẩn bị.
- Xõy dựng đề cương.
Trong đề cương phải nờu rừ được lớ do nghiờn cứu, mục đớch, nội dung
và cỏc giai đoạn nghiờn cứu.
- Xỏc định tư liệu nghiờn cứu.
Để nghiờn cứu tài liệu, chỳng ta cần xỏc định được cỏc tài liệu chớnh để
nghiờn cứu. Việc xỏc định này dựa trờn mục đớch, nội dung của vấn đề được
nghiờn cứu. Để xỏc định cỏc tư liệu cần thiết, cú thể xem cỏc danh mục tạp
chớ, sỏch bỏo cú liờn quan, chọn ra cỏc tư liệu cần thiết.
- Xỏc định tiến độ thực hiện.
1155
Cần xỏc định được quỹ thời gian dành cho việc nghiờn cứu tài liệu: Thời
gian để xỏc định cỏc tài liệu cần thiết, thời gian đọc, nghiờn cứu tài liệu, thời
gian để xỏc định độ tin cậy của tài liệu.
- Xỏc định nguồn nhõn lực cho nghiờn cứu.
Trờn cơ sở mục tiờu, nội dung và khối lượng cụng việc và thời gian
nghiờn cứu cần xỏc định được số người tham gia thực hiện. Điều quan trọng
là phải tỡm được những người phự hợp với cụng việc(dựa vào năng lực, trỡnh
độ chuyờn mụn ngoại ngữ và tinh thần trỏch nhiệm của cỏ nhõn)
- Xỏc định kinh phớ để nghiờn cứu.
Kinh phớ là điều kiện khụng thể thiếu được để đảm bảo cho nghiờn cứu
được thực hiện. Trong xỏc định kinh phớ cần nờu rừ chi phớ cho mỗi loại
cụng việc (càng cụ thể, chi tiết, chớnh xỏc càng tốt)
b. Giai đoạn kiểm tra độ tin cậy của cỏc tài liệu nghiờn cứu
Trước khi bước vào phõn tớch nội dung tài liệu, chỳng ta cần phải kiểm
tra độ tin cậy của cỏc tài liệu này. Bởi vỡ, khi phõn tớnh cỏc tài liệu cỏ nhõn
ta cú thể gặp một số khú khăn như: độ mộo mú của tài liệu (tức là động cơ cỏ
nhõn của người viết…); mức độ chớnh xỏc của cỏc tài liệu (những căn cứ để
đặt giả thuyết khoa học…)
c. Giai đoạn phõn tớch nội dung tài liệu
Việc phõn tớch nội dung tài liệu được thực hiện theo cỏc bước sau:
- Xỏc định tiờu chớ
Việc xỏc định tiờu chớ sẽ đảm bảo cho việc nghiờn cứu tài liệu được
chớnh xỏc, hiệu quả. việc xỏc định tiờu chớ phụ thuộc vào mục đớch, nội
dung của vấn đề nghiờn cứu. (vớ dụ như tiờu chớ về phạm vi của cỏc tài liệu;
về nội dung, thời gian của tài liệu…)
- Phõn tớch cỏc yếu tố chủ quan và khỏch quan của tài liệu
Trong quỏ trỡnh nghiờn cứu tài liệu rất cú thể những người nghiờn cứu
đưa những ý kiến chủ quan của mỡnh vào cỏc nhận định làm sai lệch nội
dung của tài liệu. Do vậy, việc phõn tớch phải đảm bảo tớnh chõn thực, khỏch
1166
quan của tài liệu, hạn chế những ý kiến chủ quan của người nghiờn cứu trong
phõn tớch, nhận định, đánh giá tài liệu.
- Xử lớ số liệu nhận được
Việc xử lớ cỏc số liệu cú thể sử dụng cỏch tớnh phần trăm cỏc hệ so
sỏnh khỏc nhau, cỏc chỉ số, biểu bảng, cỏc cột, biểu đồ, sơ đồ, ma trận…
d. Diễn đạt kết quả và đưa ra kết luận
Từ kết quả phõn tớch cỏc thụng tin và số liệu của cỏc tài liệu, người
nghiờn cứu tổng hợp lại trong một bỏo cỏo. Điều quan trong của bỏo cỏo là
phải trỡnh bày dễ hiểu, logic, đưa ra được cỏc thụng tin cần thiết phục vụ cho
mục đớch và nội dung của vấn đề nghiờn cứu.
II. Phương pháp quan sát
Quan sát là sự tri giác chủ động và cú hệ thống cỏc hiện tượng tõm lớ
nhằm tỡm ra cỏc đặc điểm đặc trưng và ý nghĩa của chỳng. Trong tõm lớ học
xó hội phương pháp quan sát được sử dụng để nghiờn cứu hành vi xó hội.
1. Cỏc nguyờn tắc chung.
Trong tõm lớ học xó hội, quan sát cần được tuõn thủ theo một số nguyờn
tắc sau:
- Quan sát phải dựa trờn mục đớch, nội dung nghiờn cứu
- Lập kế hoạch quan sát
- Xõy dựng sơ đồ quan sát sự tương tỏc giữa cỏc cỏ nhõn
- Diễn tả cỏc sự kiện và hiện tượng quan sát
- Lựa chọn phương pháp quan sát thớch hợp
Kiểm tra tớnh khỏch quan và độ tin cậy của những thụng tin đó quan sát
được bằng cỏc nghiờn cứu khỏc hay kết quả nghiờn cứu của cỏc nhà tõm lớ học
khỏc
2. Cỏc bước tiến hành quan sát.
Quan sát gồm cú những bước tiến hành cơ bản sau:
a) Xỏc định mục đớch, nhiệm vụ quan sát (quan sát cỏi gỡ)
1177
b) Lựa chọn khỏch thể quan sát, tỡnh huống quan sát và đối tượng quan
sát (quan sát ai, quan sát cỏi gỡ?)
c) Lựa chọn cỏch thức quan sát để ớt ảnh hưởng đến khỏch thể quan sát
và thu được những thụng tin cần thiết (quan sát như thế nào?)
d) Lựa chọn phương thức ghi chộp cỏc thụng tin trong quỏ trỡnh quan
sát (ghi chộp như thế nào?)
đ) Xử lớ và phỏn đoỏn cỏc thụng tin ghi được (Kết quả như thế nào?)
3. Kỹ thuật quan sát
Quan sát được chia thành hai hỡnh thức cơ bản: quan sát khụng can thiệp
và quan sát cú can thiệp.
a) Quan sát khụng can thiệp.
Quan sát này khụng cú tỏc động của người quan sát đến khỏch thể quan
sát (quan sát tự nhiờn).
Người quan sát ghi chộp những gỡ xảy ra một cỏch thụ động. Cỏc sự
kiện diễn ra một cỏch tự nhiờn, khụng bị thay đổi bởi người quan sát.
Trong điều kiện tự nhiờn cỏc hành vi xảy ra khụng theo trỡnh tự, theo sự
sắp xếp để phục vụ mục đớch quan sát. Quan sát tự nhiờn được sử dụng khi
xỏc định giá trị thực của cỏc kết quả nghiờn cứu.
Mục đớch chớnh của quan sát tự nhiờn là miờu tả hành vi như nú thường
xảy ra và tỡm hiểu mối quan hệ giữa cỏc biến số khỏc nhau thường diễn ra
trong cuộc sống.
b) Quan sát cú can thiệp.
Đặc trưng của phương pháp này là người nghiờn cứu muốn can thiệp vào
tự nhiờn nhằm làm sỏng tỏ một vấn đề nào đú. Phương pháp này được sử
dụng nhiều hơn phương pháp quan sát khụng can thiệp. Việc sử dụng phương
pháp này khỏ phổ biến vỡ cỏc lớ do sau đõy:
Tạo ra cỏc tỡnh huống quan sát ớt xảy ra trong tự nhiờn hoặc cú xảy ra
nhưng khú quan sát
Để thõm nhập vào một tỡnh huống thường khú quan sát về mặt khoa
học.
1188
Để tạo ra những điều kiện khiến cho những hiện tượng quan trọng được
kiểm soỏt và tạo ra những hành vi cú thể quan sát được một cỏch thuận lợi...
c) Ghi chộp lại hành vi của khỏch thể quan sát.
Một khớa cạnh quan trọng trong kĩ thuật quan sát là ghi chộp lại hành vi
của khỏch thể bị quan sát. Cỏch thức ghi chộp hành vi quy định sự khỏc nhau
của cỏc phương pháp quan sát.
Trong phương pháp quan sát, cú một số cỏch thức ghi chộp hành vi cơ
bản sau:
- Ghi chộp mụ tả về hành vi
- Mục đớch của ghi chộp này là nhằm tỏi hiện lại hành vi như nú
đó xảy ra trong thực tế.
- Thu thập những số đo định lượng về hành vi.
Ngoài việc miờu tả lại hành vi, người nghiờn cứu cú thể định lượng hoỏ
về hành vi quan sát.
3. Một số phương pháp quan sát đặc thự của tõm lớ học xó hội.
a. Quan sát tỡnh huống cú ý nghĩa.
Phương pháp quan sát này dựng để nghiờn cứu cỏc nhúm nhỏ. Vớ dụ,
khi quan sát một đỏm đụng ta cần quan sát cỏc biểu hiện: Số lần tiếp xỳc của
cỏc thành viờn, sự di chuyển của nhúm, số lượng theo giới tớnh, màu sắc
quần ỏo, phương hướng, tốc độ chuyển động, cử chỉ, lời núi, mức độ ồn ào
của nhúm.
b. Quan sát bằng cỏch đưa ra cỏc cõu hỏi.
Đú là sự quan sát thụng qua việc đưa ra cỏc cõu hỏi cho khỏch thể và
người nghiờn cứu tự quan sát. Để cỏc cõu hỏi đảm bảo tớnh chớnh xỏc khi
mụ tả hành vi cần chỳ ý một số điểm sau:
- Cỏc cõu hỏi cần mụ tả hành động đặc thự của hành vi chứ khụng phải
đặc điểm chung của hành vi.
- Cỏc cõu hỏi cú thể sử dụng cho những cấu trỳc nhúm khỏc nhau và
tỡnh huống khỏc nhau.
- Cõu hỏi cú ý nghĩa đối với khỏch thể.
1199
- Cõu hỏi phải phự hợp với mục đớch nghiờn cứu...
c. Tự quan sát.
Cỏc nhà tõm lớ học xó hội sử dụng phương pháp tự quan sát để nghiờn
cứu hành vi của khỏch thể. Khỏch thể cú thể viết tiểu sử, nhật kớ, thư, tự phõn
tớch cỏc cõu hỏi... hoặc cú thể trả lời cỏc cõu hỏi trong bảng hỏi do người
nghiờn cứu đưa cho.
III. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn được sử dụng rộng rói trong tõm lớ học. Nú cú
thể dựng cho nhiều loại nghiờn cứu khỏc nhau.
Trước đõy thường cú xu hướng đồng nhất giữa phỏng vấn và đàm thoại.
Thực tế khụng phải như vậy. Bởi lẽ, phỏng vấn và đàm thoại cú sự khỏc biệt
lớn. Đàm thoại là sự trao đổi ý kiến giữa cỏc cỏ nhõn với nhau, cũn phỏng
vấn là sự thu thập thụng tin từ phớa người được hỏi.
Ngày nay trong tõm lớ học xó hội phương pháp phỏng vấn được sử dụng
phổ biến. Bởi vỡ:
- Phỏng vấn cú thể giỳp những người nghiờn cứu cú được những thụng
tin cần thiết để thiết kế bảng hỏi, xõy dựng giả thiết khoa học, xỏc định lại
cỏc vấn đề nghiờn cứu. Mặt khỏc nú cú thể giỳp cho người nghiờn cứu điều
chỉnh lại cấu trỳc của bảng hỏi cho thớch hợp
-Phỏng vấn là cụng cụ chớnh của việc lựa chọn dữ liệu nghiờn cứu. Đối
với việc tiến hành cỏc thực nghiệm, phỏng vấn cú thể giỳp kiểm tra lại cỏc
nhúm trước khi tiến hành thực nghiệm.
- Phỏng vấn cú khả năng lựa chọn cỏc số liệu nổi bật từ việc sử dụng cỏc
phương pháp nghiờn cứu khỏc.
1. Cỏc hỡnh thức phỏng vấn.
a. Phỏng vấn lõm sàng.
Đõy là loại phỏng vấn nhằm tỡm hiểu ở mức độ sõu những đặc tớnh của
cỏ nhõn, và những biểu hiện độc đỏo về nhõn cỏch của người đú. Phương
pháp này gần tương tự như phương pháp đàm thoại của người thầy thuốc với
bệnh nhõn trong chuẩn đoỏn bệnh.
2200
Phỏng vấn lõm sàng được thực hiện trong bầu khụng khớ tõm lớ cởi mở
giữa người phỏng vấn và người bị phỏng vấn. Người bị phỏng vấn hoàn toàn
thoải mỏi trong quỏ trỡnh trũ chuyện
Trong phỏng vấn lõm sàng, người phỏng vấn cần định hướng để cõu
chuyện khụng đi ra ngoài mục đớch và nội dung nghiờn cứu. Phương pháp
này đó được S.Freud và cỏc cộng sự của ụng sử dụng rất thành cụng trong
điều trị cỏc bệnh tõm lớ cho bệnh nhõn.
Phỏng vấn lõm sàng thường được thực hiện bởi nhiều lần phỏng vấn
khỏc nhau (theo kiểu phỏng vấn sõu) để tỡm ra những đặc điểm đặc trưng của
nhõn cỏch người được phỏng vấn.
b. Phỏng vấn tiờu chuẩn hoỏ.
Phỏng vấn tiờu chuẩn hoỏ cũn gọi là phỏng vấn cú cấu trỳc hay phỏng
vấn chớnh quy. Đõy là loại phỏng vấn mà người nghiờn cứu bắt buộc phải
thực hiện theo một trỡnh tự nội dung cõu hỏi đó được thể hiện trong phiếu
phỏng vấn. Người phỏng vấn khụng được thay đổi trỡnh tự cõu hỏi trong
phiếu phỏng vấn.
Trong quỏ trỡnh phỏng vấn người nghiờn cứu khụng gợi ý, giải thớch
hay đưa thờm cõu hỏi (ngoài cỏc phương ỏn đó cú) cho người được phỏng
vấn. Cấu trỳc bảng hỏi là thống nhất với tất cả cỏc khỏch thể nghiờn cứu.
Phương pháp này cú nhược điểm: nú quỏ cứng nhắc, khụng tạo được
khụng khớ thoải mỏi giữa người phỏng vấn và người bị phỏng vấn, thụng tin
thu được khụng thật phong phỳ.
c. Phỏng vấn phi tiờu chuẩn hoỏ.
Đõy là loại phỏng vấn tự do, khụng theo một cấu trỳc vạch sẵn, người
phỏng vấn khụng cần bảng hỏi chuẩn.
Để thu được những thụng tin cần thiết, người phỏng vấn tự đưa ra những
cõu hỏi, cỏch thức hỏi (mà khụng cần theo thứ tự nào cả).
Phỏng vấn phi tiờu chuẩn hoỏ cú ưu điểm: Tớnh hiệu quả cao, kớch
thớch được người bị phỏng vấn trả lời một cỏch tự nhiờn, cú tớnh mềm dẻo,
2211
linh hoạt, tạo được khụng khớ thõn thiện giữa người nghiờn cứu và khỏch thể
nghiờn cứu.
Những khú khăn của hỡnh thức phỏng vấn này là: Đũi hỏi người phỏng
vấn phải am hiểu nhiều về lĩnh vực của đời sống xó hội và am hiểu về lĩnh
vực mà mỡnh đang nghiờn cứu. Người phỏng vấn phải cú nghệ thuật dẫn dắt
cõu chuyện, khai thỏc thụng tin, tạo được bầu khụng khớ thuận tiện, thoải mỏi
giữa người nghiờn cứu và người trả lời.
d. Phỏng vấn sõu cỏ nhõn.
Trong tõm lớ học xó hội, phỏng vấn sõu cỏ nhõn cú hiệu quả cao. Đặc
điểm đặc trưng của phỏng vấn sõu cỏ nhõn là cuộc đàm thoại được tiến hành
trờn cơ sở một - một, tức là cuộc phỏng vấn chỉ xảy ra giữa người hỏi và
người trả lời. Phỏng vấn sõu cú thể tiến hành bằng nhiều cuộc phỏng vấn
khỏc nhau trờn cựng một khỏch thể.
Phỏng vấn sõu được thực hiện khi: vấn đề nghiờn cứu rất phức tạp; vấn đề
nghiờn cứu cú tớnh nhạy cảm cao; khỏch thể nghiờn cứu trờn một diện rộng.
Trong phỏng vấn sõu, người phỏng vấn cú vai trũ đặc biệt, điều này thể
hiện ở chỗ: người phỏng vấn phải cú kĩ thuật cao, biết hướng khỏch thể đến
vấn đề mỡnh nghiờn cứu, biết tạo ra hoàn cảnh, tỡnh huống tốt để khai thỏc
được thụng tin cần thiểt. Mặt khỏc, người phỏng vấn cũn phải: thu nhận
chớnh xỏc thụng tin, đánh giá một cỏch phờ phỏn thụng tin và trờn cơ sở cỏc
thụng tin điều chỉnh lại cuộc phỏng vấn nếu cần thiết.
2. Một số yờu cầu trong kỹ thuật phỏng vấn
a. Cỏch đặt cõu hỏi.
Đặt cõu hỏi, diễn đạt và truyền đạt cõu hỏi đến khỏch thể nghiờn cứu như thế
nào để đạt kết quả tốt là một vấn đề quan trọng hàng đầu của phỏng vấn sõu.
Để tạo ra được bầu khụng khớ đầm ấm, thoải mỏi giữa người hỏi và
người được hỏi cần chỳ ý một số yờu cầu sau:
- Cõu hỏi đưa ra phải rừ ràng dễ hiểu.
- Trỏnh đưa ra cỏc cõu hỏi quỏ trực tiếp, hoặc quỏ chung chung. Cõu hỏi
phải cụ thể, đơn giản.
2222
- Cỏc cõu hỏi phải phự hợp, sát với khỏch thể nghiờn cứu (về trỡnh độ,
học vấn, điều kiện sống, văn hoỏ)
Theo cỏc nhà nghiờn cứu thỡ khi đặt cõu hỏi cần thực hiện một số
nguyờn tắc sau:
- Cần trỏnh đặt những cõu, những từ nhiều nghĩa vỡ nú cú thể làm cho
người được hỏi hiểu sai lệch vấn đề đưa ra.
- Trỏnh đưa ra cỏc cõu hỏi quỏ dài, làm cho người được hỏi khụng nhớ
hết cỏc thụng tin, dễ quờn cỏc thụng tin quan trọng.
- Đối với cỏc cõu hỏi về thời gian, địa điểm... cần ghi rừ thời gian, nơi
chốn xảy ra sự việc.
- Cú thể đưa ra cõu hỏi với một hay một số phương ỏn trả lời, tuỳ theo
vấn đề đưa ra.
- Khi cuộc phỏng vấn liờn quan đến vấn đề tế nhị, khiến người được hỏi
khụng tự nhiờn, người phỏng vấn cú thể bắt đầu bằng những cõu chuyện thõn
thiện, khộo lộo đi vào nội dung chớnh của cuộc phỏng vấn.
- Phỏng vấn thường cú hiệu quả khi cỏc cõu hỏi đưa ra liờn quan đến
thời gian gần nhất đối với người được hỏi.
b.Cỏc yếu tố đảm bảo cho phỏng vấn đạt hiệu quả.
Để đảm bảo cho cuộc phỏng vấn đạt hiệu quả, cần chỳ ý một số vấn đề
cú tớnh chất kỹ thuật sau đõy:
- Khi tiến hành cuộc phỏng vấn, người phỏng vấn cần hẹn trước thời
gian, địa điểm làm việc.
- Trước khi vào phỏng vấn, người phỏng vấn cần giới thiệu về bản thõn
và cụng vịờc của mỡnh đang nghiờn cứu.
- Trong thời gian phỏng vấn, nếu khụng khớ phỏng vấn nặng nề, khụng
thoải mỏi, người phỏng vấn cú thể núi vài cõu chuyện ngoài lề như cụng việc,
sở thớch xó hội của người được phỏng vấn.
- Trong quỏ trỡnh phỏng vấn luụn duy trỡ quan hệ thõn thiện giữa người
phỏng vấn và người được phỏng vấn, trỏnh cỏc cõu hỏi về những vấn đề tế
nhị liờn quan đến người được hỏi.
2233
- Trong quỏ trỡnh phỏng vấn cú thể sử dụng mỏy ghi õm để ghi lại cuộc
núi chuyện, trường hợp khụng cú mỏy ghi õm, người phỏng vấn cần ghi lại
một cỏch trung thực, nguyờn văn cỏc cõu trả lời(khụng thờm, khụng bớt).
IV. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
Trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi là một phương pháp được tõm lớ học xó
hội sử dụng rộng rói để nghiờn cứu một vấn đề nào đú thụng qua cụng cụ là
bảng hỏi.
Bảng hỏi là một tập hợp nhiều cõu hỏi, mỗi cõu trong đú cú quan hệ
logic với nhiệm vụ nghiờn cứu. Trong tõm lớ học xó hội, phương pháp trưng
cầu ý kiến bằng bảng hỏi dựng để nghiờn cứu cỏc hiện tượng tõm lớ xó hội
của cỏc nhúm xó hội.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được thực hiện dưới nhiều hỡnh
thức như: trưng cầu ở diện rộng (thống kờ dõn số, điều tra cơ bản trờn toàn
quốc); trưng cầu từng phần (theo lứa tuổi hoặc nghề nghiệp); trưng cầu bằng
cỏch hỏi trực tiếp hay trưng cầu gián tiếp (gửi qua bưu điện); trưng cầu theo
cỏ nhõn hay theo nhúm...
1. Kỹ thuật tiến hành.
a. Cỏc dạng cõu hỏi thường được dựng trong phương pháp trưng cầu ý
kiến bằng bảng hỏi.
- Cõu hỏi nhằm làm rừ thụng tin thực về bản thõn và hoàn cảnh xó hội
của người được hỏi (tuổi, trỡnh độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập...)
- Cỏc cõu hỏi làm rừ ý kiến của người được hỏi về thỏi độ, động cơ,
chuẩn mực hành vi của bản thõn họ.
- Cỏc cõu hỏi nhằm làm rừ về hành vi của người được hỏi trong quỏ khứ
và hiện tại.
- Cỏc cõu hỏi (trưng cầu bằng cỏch hỏi trực tiếp) nhằm đánh giá về suy nghĩ,
thỏi độ, cử chỉ, giọng núi, nột mặt, phản ứng hành vi... của người được hỏi.
b. Cỏc nguyờn tắc đặt cõu hỏi.
- Trong một cõu hỏi chỉ cần tỡm hiểu một khớa cạnh, khụng nờn chứa
đựng nhiều nội dung nghiờn cứu.
2244
- Trỏnh sử dụng cỏc thuật ngữ nước ngoài khụng được sử dụng rộng rói,
trỏnh cỏc thuật ngữ chuyờn mụn quỏ hẹp, trỏnh cỏc từ đa nghĩa.
- Khụng nờn đưa ra cỏc cõu hỏi quỏ dài, đặc biệt là khi hỏi trực tiếp.
- Nếu trong cõu hỏi cú sử dụng cỏc thuật ngữ khụng phổ biến thỡ phải
giải thớch thờm cho khỏch thể hiểu.
- Cỏc cõu hỏi càng đơn giản, cụ thể bao nhiờu càng tốt, trỏnh đặt cõu hỏi
một cỏch chung chung, khú hiểu (rườm rà, tối nghĩa).
- Khi đặt cõu hỏi cú thể đưa ra tất cả cỏc phương ỏn trả lời cú thể xảy ra,
hoặc để ở dạng cõu hỏi mở hoàn toàn.
- Chỉ nờn đưa ra những phương ỏn trả lời mà mọi người đều cú thể hiểu
được như nhau.
- Cần trỏnh đặt những cõu hỏi khuụn mẫu, sỏo rỗng hay kiểu “đánh đố”
đối với khỏch thể nghiờn cứu.
- Cần trỏnh đưa ra cỏc cõu hỏi cú thể tạo nờn thỏi độ tiờu cực đối với
người được hỏi.
- Cỏc cõu hỏi khụng nờn mang tớnh chất ỏm thị. Vớ dụ, “Anh (chị) cú
đồng ý với...”, “Anh (chị) cú cảm thấy rằng...”
c. Cõu hỏi đúng và cõu hỏi mở trong bảng hỏi.
Cõu hỏi đúng: là cỏc cõu hỏi đưa ra cỏc phương ỏn trả lời, đũi hỏi khỏch thể
nghiờn cứu phải chọn một hay một số trong cỏc phương ỏn trả lời đú.
Cõu hỏi đúng cú hai loại: Cõu hỏi đúng phõn đụi và cõu hỏi đúng cú
nhiều phương ỏn trả lời.
- Cõu hỏi đúng phõn đụi là cõu hỏi đúng cú hai phương ỏn trả lời đối lập
nhau (“cú” hoặc “khụng”).
- Cõu hỏi đúng cú nhiều phương ỏn trả lời là cõu hỏi cú nhiều thang độ
đánh giá khỏc nhau (vớ dụ: Tốt, khỏ , trung bỡnh, yếu...)
Nhược điểm của cõu hỏi đúng là khụng làm cho khỏch thể nghiờn cứu
bộc lộ được hết suy nghĩ, tỡnh cảm, thỏi độ của họ.
Cõu hỏi mở là dạng cõu hỏi khụng đưa ra phương ỏn trả lời. Theo yờu
cầu cõu hỏi, khỏch thể tự bộc lộ suy nghĩ của mỡnh.
2255
Nhược điểm của cõu hỏi mở là người được hỏi cú thể trả lời sơ sài hoặc
khụng nhớ hết được cỏc sự kiện đó xảy ra trong quỏ khứ.
Để khắc phục nhược điểm của cõu hỏi đúng và cõu hỏi mở, trong nhiều
bảng hỏi ngưũi nghiờn cứu đó sử dụng đồng thời cả hai hỡnh thức này.
d.Cỏch thức trỡnh bày bảng hỏi .
Khi xõy dựng bảng hỏi cần chỳ ý một số điểm sau đõy:
- Ở trang đầu bảng hỏi ghi rừ cơ quan, tổ chức tiến hành điều tra.
- Tiếp theo là lời mở đầu (nờu mục đớch, yờu cầu bảng hỏi).Trong lời
mở đầu cần thiết nờu cam kết giữ bớ mật tờn, tuổi cho người hỏi. Lời mở đầu
phải viết ngắn gọn, lịch sự.
- Ở phần cuối bảng hỏi nờn cú lời cảm ơn người được hỏi.
- Cần chỳ ý đến hỡnh thức trỡnh bày bảng hỏi: Kiểu chữ, cỏch trỡnh bày,
in ấn, loại giấy in, khoảng cỏch giữa cỏc cõu hỏi, cỏc phương ỏn trả lời.
- Để giảm bớt sự mệt mỏi của người được hỏi trong qỳa trỡnh trả lời, cú
thể đưa vào bảng hỏi những cõu cú nội dung húm hỉnh tạo ra sự thoải mỏi cho
khỏch thể.
2. Một số ưu điểm và nhược điểm của phương pháp trưng cầu ý kiến
bằng bảng hỏi.
a) Ưu điểm.
- Cho phộp tiến hành nghiờn cứu trờn một địa bàn rộng với số lượng lớn
khỏch thể nghiờn cứu.
- Cú thể thu được thụng tin về nhiều sự kiện khỏc nhau.
- Trong tõm lớ học xó hội cú những vấn đề mà ta khụng thể khụng dựng
bảng hỏi để nghiờn cứu, chẳng hạn như tỡm hiểu động cơ, tỡnh cảm, hứng
thỳ, thỏi độ của con người. Cỏc số liệu thu được khụng chỉ thể hiện cỏc biểu
hiện tõm lớ trong hiện tại mà cả trong quỏ khứ và tương lai.
b) Nhược điểm.
- Số liệu điều tra chủ yếu dựa vào sự đánh giá của khỏch thể.
2266
- Độ tin cậy của cỏc thụng tin phụ thuộc rất nhiều vào trỡnh độ, khả năng
tự trỡnh bày cỏc vấn đề của khỏch thể.
- Độ tin cậy của thụng tin và cỏc thụng tin thu được phụ thuộc vào khả
năng thiết kế bảng hỏi của người nghiờn cứu, vào sự hợp tỏc của khỏch thể.
Để khắc phục những hạn chế của phương pháp nghiờn cứu này, chỳng ta
cần kết hợp với một số phương pháp khỏc trong nghiờn cứu vấn đề.
V. Phương pháp thực nghiệm.
Trong tõm lớ học xó hội, thực nghiệm cú vai trũ to lớn. Nhà tõm lớ học
người Nga E.X.Kuzơmin đó nhận xột “Sự xuất hiện và phỏt triển của tõm lớ
học xó hội được bắt đầu bằng sự xuất hiện của phương pháp thực nghiệm”.
Mục đớch quan trọng nhất của phương pháp thực nghiệm trong tõm lớ
học xó hội là tỡm hiểu nguyờn nhõn cỏc quan hệ xó hội bằng cỏch điều khiển
một hay một vài nhõn tố, trong khi đú kiểm soỏt cỏc nhõn tố khỏc (khụng
thay đổi chỳng), dự đoỏn cỏc hiện tượng và quỏ trỡnh tõm lớ của con người.
Phương pháp thực nghiệm trong tõm lớ học xó hội cú một số đặc trưng
khỏc biệt với cỏc phương pháp nghiờn cứu khỏc như:
- Cỏc nhà nghiờn cứu tạo ra tỡnh huống cần thiết để quan sát và nghiờn
cứu. Chớnh và vậy họ cú thể kiểm soỏt được tỡnh huống, thay đổi cỏc tỏc
nhõn trong tỡnh huống, cú thể tiến hành thực nghiệm nhiều lần để kiểm tra.
Đõy là ưu điểm chớnh của phương pháp này, song cũng là nhược điểm của
nú. Vỡ cỏc khỏch thể nghiờn cứu biết rằng mỡnh đang tham gia vào một quỏ
trỡnh thực nghiệm, chứ khụng phải cuộc sống tự nhiờn.
- Cỏc nhà nghiờn cứu cú thể đo đạc được cỏc phản ứng của nghiệm thể
một cỏch kĩ lưỡng.
Cỏc nhà nghiờn cứu cú quyền quyết định cỏc khỏch thể tham gia vào
nhúm thực nghiệm (ai tham gia, tham gia nhúm nào?). Trong thực nghiệm
nhiều khi người ta chọn mẫu một cỏch ngẫu nhiờn để cho tất cả mọi người
đều cú cơ hội ngang nhau trong việc tham gia vào thực nghiệm.
-Thực nghiệm là cỏch kiểm tra giả thuyết khoa học do nhà nghiờn cứu
đưa ra.
2277
1. Một số đặc điểm cơ bản của thực nghiệm
a. Biến số độc lập và biến số phụ thuộc.
- Biến số độc lập là cỏc yếu tố mà nhà nghiờn cứu kiểm soỏt hay điều
khiển được.
- Cỏc đo lường về đánh giá tỏc động của cỏc biến số độc lập gọi là cỏc
biến số phụ thuộc.
- Giá trị của biến số độc lập mà nhà nghiờn cứu lựa chọn gọi là điều kiện
thớ nghiệm. Trong nghiờn cứu, chỳng ta cần it nhất hai điều kiện để xỏc định
xem biến số độc lập đú tỏc động đến khỏch thể như thế nào.
b. Kiểm soỏt thực nghiệm.
Một ưu thế lớn nhất của phương pháp thực nghiệm là nú cho phộp cỏc
nhà nghiờn cứu cú thể kiểm soỏt được thực nghiệm ở mức độ cao. Kiểm soỏt
thực nghiệm thể hiện ở ba khớa cạnh: Điều khiển, giữ nguyờn cỏc điều kiện
khỏc, cõn bằng.
c.Tiêu chí một thớ nghịờm đạt tiờu chuẩn.
Một thớ nghiệm đạt tiờu chuẩn là thớ nghiệm cú độ ứng nghiệm bờn
trong, cú độ tin cậy, nhạy cảm và cú độ ứng nghiệm bờn ngoài.
- Thớ nghiệm cú độ ứng nghiệm bờn trong là thớ nghiệm trong đú cỏc
nguyờn nhõn khỏc (ngoài biến số độc lập) gõy ra kết quả đều bị loại.
- Một thớ nghiệm cú độ tin cậy là thớ nghiệm cho ta kết quả như nhau
trong cỏc lần thực nghiệm khỏc nhau.
- Một thớ nghiệm nhạy cảm là thớ nghiệm cú thể khỏm phỏ ra hiệu ứng
của biến số độc lập ngay cả khi hiệu ứng đú cú nhỏ đi chăng nữa.
- Một thớ nghiệm cú độ ứng nghiệm bờn ngoài khi kết quả của nú cú thể
khỏi quỏt được đối với cỏc cỏ nhõn, đối với cỏc điều kiện nhất định khỏc.
Để đạt được cỏc yờu cầu khoa học của mụt thớ nghiệm cỏc nhà khoa học cú
kinh nghiệm thường cố gắng khắc phục sự thiờn lệch của người làm thớ nghiệm.
Những mong đợi của người làm thớ nghiệm cú thể ảnh hưởng lớn tới kết quả thớ
nghiệm. Cỏc thiờn lệch này thường xuất hiện khi những người tiến hành thớ
2288
nghiệm vụ tỡnh gõy ảnh hưởng tới phản ứng của cỏc khỏch thể nghiờn cứu hoặc
hiểu hành vi của nghiệm thể theo hướng phự hợp với giả thuyết của mỡnh.
2. Cỏc kiểu loại thiết kế thực nghiệm.
Cỏc nhà tõm lớ học chia ra ba loại thực nghiệm:
Thiết kế thực nghiệm kiểu nhúm độc lập; kiểu cựng nghiệm thể và kiểu
thiết kế phức tạp.
a. Thiết kế thực nghiệm kiểu nhúm độc lập.
Trong thớ nghiệm kiểu này cú hai nhúm: Nhúm thực nghiệm và nhúm
kiểm soỏt. Nhúm thực nghiệm bị tỏc động bởi cỏc biến số, cũn nhúm kiểm
soỏt thỡ khụng.
b. Thiết kế kiểu cựng nghiệm thể.
Thiết kế kiểu cựng nghiệm thể (khỏch thể thớ nghiệm) là thớ nghiệm được
thực hiện trờn cựng một nghiệm thể. việc thiết kế này xuất phỏt từ cỏc lớ do sau:
- Phương pháp này đũi hỏi một số lượng nhỏ khỏch thể nghiờn cứu, nờn
trong trường hợp khụng cú nhiều khỏch thể ta vẫn thực hiện được.
- Phương pháp này tiện lợi và cú hiệu quả.
- Độ nhạy cảm cao hơn so với phương pháp cỏc nhúm độc lập
- Cựng một biến số độc lập cú thể tỏc động khỏc nhau đối với hành vi
của khỏch thể khi cỏc biến số này được nghiờn cứu trong điều kiện khỏc nhau
của cỏc thiết kế nhúm độc lập.
c.Thiết kế phức tạp.
Thiết kế phức tạp trong thớ nghiệm là thiết kế cú từ hai biến số độc lập
trở lờn, được nghiờn cứu trong cựng một lỳc.
3.Các giai đoạn tiến hành
Quỏ trỡnh tiến hành một thực nghiệm trong tõm lớ hoc xó hội gồm bốn
giai đoạn sau:
a. Giai đoạn lớ luận (đặt vấn đề nghiờn cứu)
- Hỡnh thành vấn đề và đề tài nghiờn cứu
- Xỏc định đối tượng và khỏch thể nghiờn cứu
2299
- Xỏc định nhiệm vụ và giả thuyết nghiờn cứu
b. Giai đoạn xỏc định phương pháp nghiờn cứu.
Xỏc định phương pháp nghiờn cứu (thực nghiệm phải thực hiện bằng
cỏch nào, kiểu thiết kế nào, tại sao?)
Giai đoạn này cỏc nhà nghiờn cứu cũng xỏc định biến số độc lập và biến
số phụ thuộc, chọn mẫu nghiờn cứu, xỏc định cỏc điều kiện thớ nghiệm, cỏc
nhúm khỏch thể, việc kiểm soỏt thớ nghiệm, lập kế hoạch, chương trỡnh thớ
nghiệm, cỏc bước tiến hành…
c. Giai đoạn thớ nghiệm.
Giai đoạn tiến hành thớ nghiệm trực tiếp, xỏc định cỏc điều kiện thớ
nghiệm ỏp dụng, điều khiển, đo đạc…
Trong giai đoạn này phải làm cho cỏc khỏch thể hiểu một cỏch thống
nhất nhiệm vụ của họ trong thớ nghiệm. Điều này được thực hiện thụng qua
kiểm soỏt của cỏc nhà nghiờn cứu (điều khiển, giữ nguyờn cỏc điều kiện thớ
nghiệm hay cõn bằng).
Cần chỳ ý hành vi của người làm thớ nghiệm để khụng gõy ảnh hưởng
đến cỏc khỏch thể, khụng tạo ra sự thiờn lệch.
d. Giai đoạn xử lớ, phõn tớch kết quả.
- Xử lớ kết quả một cỏch định tớnh, toỏn học.
- Lớ giải kết quả thu được
- Hỡnh thành cỏc giả thuyết mới, đưa ra cỏc kiến nghị.
VI. Phương pháp trắc đạc xó hội
Trắc đạc xó hội cú ý nghĩa là đo lường xó hội. Phương pháp pháp này
được xõy dựng trờn cơ sở lớ luận tõm lớ học về xó hội và Test tõm lớ xó hội
nhằm đánh giá cỏc mối liờn hệ cảm xỳc liờn nhõn cỏch trong nhúm.
Phương pháp trắc đạc xó hội do L.Morenno (1892-1974) sỏng lập.
Morenno đó đưa ra phương pháp này để tỡm hiểu cỏc cấu trỳc tõm lớ xó hội
trong cỏc quan hệ liờn nhõn cỏch của nhúm. Cấu trỳc này khụng chỉ xỏc định
cỏc đặc điểm của nhúm mà cũn xỏc định trạng thỏi tinh thần của con người.
3300
1. Nhiệm vụ nghiờn cứu của trắc đạc xó hội
Trắc đạc xó hội được sử dụng để chuẩn đoỏn những quan hệ liờn nhõn
cỏch và liờn nhúm với những mục đớch làm cho chỳng thay đổi tốt hơn và
hoàn thiện chỳng.
Trắc đạc xó hội cú thể nghiờn cứu cỏc kiểu loại hành vi xó hội của con
người trong điều kiện hoạt động của nhúm, đánh giá sự tương hợp tõm lớ xó
hội của cỏc thành viờn trong cỏc nhúm cụ thể. Song, nhiệm vụ cơ bản của trắc
đạc xó hội là nghiờn cứu cấu trỳc khụng chớnh thức của cỏc nhúm xó hội và
bầu khụng khớ tõm lớ của nhúm.
2. Cỏc giai đoạn thực hiện trắc đạc xó hội
a. Cỏc giai đoạn thực hiện
- Xỏc định nhiệm vụ, khỏch thể nghiờn cứu
- Xỏc định cỏc giả thuyết nghiờn cứu cơ bản
- Xõy dựng bảng hỏi
Bảng hỏi của trắc đạc xó hội gồm cỏc cõu hỏi liờn quan đến những khớa
cạnh cảm xỳc của cỏc quan hệ tương hỗ giữa cỏc cỏ nhõn trong nhúm. Đũi hỏi
những người tiến hành trắc nghiệm phải thể hiện được mối quan hệ thõn ỏi, gần
gũi, cởi mở với cỏc khỏch thể làm trắc nghiệm. Vỡ quan hệ như vậy sẽ kớch
thớch được lũng nhiệt tỡnh, tinh thần trỏch nhiệm của khỏch thể nghiờn cứu.
b. Cỏc hỡnh thức lựa chọn mẫu trong trắc nghiệm
Sự lựa chọn khụng hạn chế
Nếu trong nhúm cú 12 thành viờn thỡ mỗi người trong nhúm sẽ lựa chọn
11 người cũn lại của nhúm (trừ bản thõn mỡnh) để thực hiện trắc nghiệm.
(Theo cụng thức N-1)
-Ưu điểm của cỏch lựa chọn này là khả năng lựa chọn như nhau đối với
cỏc thành viờn. Nú cú thể làm cho cỏc thành viờn bộc lộ được cảm xỳc của
mỡnh. Đõy cú thể là lỏt cắt qua mối liờn hệ liờn nhõn cỏch phức tạp trong cấu
trỳc nhúm.
- Nhược điểm của cỏch lựa chọn này là kĩ thuật tớnh toỏn khỏ phức tạp,
khú khăn khi nhúm trắc nghiệm cú nhiều thành viờn. Một nhược điểm khỏc là
xỏc suẩt nhận được từ sự lựa chọn ngẫu nhiờn là rất lớn.
3311
Sự lựa chọn hạn chế
Ở đõy cỏc khỏch thể được phộp chọn số lượng hạn chế cỏc thành viờn
của nhúm (Số lượng này theo quy định của người làm trắc nghiệm). Vớ dụ:
trong nhúm trắc nghiệm cú 25 người thỡ mỗi thành viờn được chọn 4 người.
- Ưu điểm của cỏch lựa chọn này là cú độ tin cậy cao hơn. Vỡ nú sẽ làm
cho người thực hiện trắc nghiệm cú ý thức trỏch nhiệm, chỳ ý hơn khi lựa chọn.
- Nhược điểm của cỏch lựa chọn này là khụng cú khả năng làm sỏng tỏ
những quan hệ tương hỗ phức tạp tronh nhúm.
Để khắc phục nhược điểm của mỗi cỏch lựa chọn, ta cú thể kết hợp cả
hai cỏch lựa chọn này. Giai đoạn 1, lựa chọn khụng hạn chế, giai đoạn 2 lựa
chọn cú hạn chế.
3. Phiếu trắc đạc xó hội.
Kết quả nghiờm cứu phụ thuộc rất nhiều vào phiếu trắc nghiệm xó hội.
Khi xõy dựng phiếu trắc nghiệm cần chỳ ý một số điểm sau:
- Số lượng cỏc cõu hỏi trong phiếu khụng nờn quỏ nhiều.
- Trong trường hợp nghiờn cứu nhiều người và số lượng cõu hỏi trắc
nghiệm lớn chỳng ta cú thể chia ra thành một số phiếu trắc nghiệm nhỏ hơn
theo cỏc nội dung nghiờn cứu.
Phiếu trắc đạc xó hội được xõy dựng theo một trỡnh tự sau:
a) Chuẩn bị danh sỏch cỏc thành viờn của nhúm trắc nghiệm. Mỗi thành
viờn nắm được số thứ tự của mỡnh trong danh sỏch đú.
b) Xõy dựng phiếu điều tra.
- Ở phần đầu của phiếu hướng dẫn cỏch thực hiện trắc nghiệm (hướng
dẫn cỏch trả lời cõu hỏi).
- Cỏc cõu hỏi trắc nghiệm được chia thành hai nhúm:
+ Nhúm 1: Người được trắc nghiệm đưa ra sự lựa chọn của mỡnh về cỏc
thành viờn của nhúm.
+ Nhúm 2: Người được trắc nghiệm đánh giá về khả năng lựa chọn của
nhúm đối với bản thõn mỡnh.
Dưới đõy là một mẫu phiếu trắc nghiệm:
3322
STT Nhúm cõu hỏi Tiờu chuẩn Lựa chọn
1
I
Bạn muốn chọn ai làm lớp trưởng
của mỡnh?
Ai là người bạn khụng muốn
chọn làm lớp trưởng của mỡnh?
2
II
Theo bạn, ai sẽ chọn bạn làm lớp
trưởng (kiờm chức)?
Theo bạn, ai sẽ khụng lựa chọn
bạn làm lớp trưởng?
c) Đối với bảng hỏi mà sự lựa chọn khụng hạn chế thỡ số cột ở phần “lựa
chọn” phải đủ để điền những người lựa chọn (vớ dụ, nếu lựa chọn 10 thành
viờn thỡ phải kẻ đủ 10 cột trong phần lựa “chọn”)
d) Trong những trường hợp người thực hiện trắc nghiệm muốn tiến hành
một số lần để so sỏnh, đánh giá kết quả lựa chọn của mỡnh thỡ người nghiờn
cứu phải lập kế hoạch và tổ chức cho họ lựa chọn.
đ) Cỏc tiờu chớ về tuổi, giới, học vấn... nờn điều tra bằng con đường
gián tiếp, khụng nờn ghi vào phiếu trắc nghiệm.
4. Tổ chức thực hiện trắc đạc xó hội
Khi thực hiện trắc nghiệm phải tạo ra tõm trạng thoải mỏi. dễ chịu và tự
nguyện của cỏc khỏch thể thực hiện trắc nghiệm
Phiếu trắc nghiệm cú thể tiến hành theo hai hỡnh thức:
a) Tiến hành đàm thoại, phỏng vấn riờng của từng người điều tra với cỏc
thành viờn của nhúm.
b) Tiến hành phỏng vấn cả nhúm trong cựng một thời gian
Trong cả hai hỡnh thức trờn người nghiờn cứu đều cần phổ biến yờu cầu,
nhiệm vụ trả lời cõu cần ngắn gọn, dễ hiểu và làm cho những người thực hiện
trắc nghiệm yờn tõm là cỏc cõu trả lời của họ sẽ được đảm bảo bớ mật.
Khụng nờn thụng bỏo ngay kết quả nghiờm cứu mà nờn chọn thời điểm
thớch hợp để thụng bỏo. Vỡ khi thụng bỏo hệ thống cỏc mối quan hệ khụng
chớnh thức thỡ cú những thành viờn do khụng ý thức được đầy đủ vấn đề nờn
cú thể dẫn đến những căng thẳng hay xung đột trong nhúm.
3333
Trong khi thực hiện trắc nghiệm mỗi cỏ nhõn phải trả lời cõu hỏi một
cỏch độc lập. Người điều tra khụng nờn gợi ý, nhắc nhở hay đem phiếu về
nhà thực hiện.
VII. Phương pháp đánh giá của nhúm đối với nhõn cỏch cỏ nhõn
Đánh giá của nhúm về nhõn cỏch của cỏ nhõn là biểu hiện tập trung của
dư luận xó hội về con người – thành viờn của cộng đồng, là hỡnh ảnh, biểu
tượng về nhõn cỏch được định hỡnh duới hỡnh thức xột đoỏn và đánh giá.
Phương pháp đánh giá của nhúm đối với nhõn cỏch của cỏ nhõn là một
phương pháp đặc thự của tõm lớ học xó hội được ứng dụng trong tõm lớ học
sư phạm, tõm lớ học lónh đạo - quản lớ... Phương pháp này nhằm nghiờn cứu
mức độ phỏt triển cỏc phẩm chất nhõn cỏch của học viờn, giáo viờn, cỏn bộ
lónh đạo, cỏn bộ quản lớ, quõn nhõn ở cỏc đơn vị cơ sở trong quõn đội...
Phương pháp đánh giá này cũn gọi là đánh giá “thẩm định” nhõn cỏch. Người
thẩm định ở đõy là cỏc nhà tõm lớ học, nhà giáo dục học.
Phưong pháp đánh giá của nhúm đối với nhõn cỏch cỏ nhõn phải đỏp
ứng cỏc yờu cầu sau:
- Nhúm đánh giá nhõn cỏch cỏ nhõn phải tuõn theo cỏc nguyờn tắc xỏc định.
- Bảng liệt kờ cỏc phẩm chất nhõn cỏch của khỏch thể nghiờn cứu cũng
dựa trờn cỏc nguyờn tắc xỏc định.
- Việc thăm dũ ý kiến của cỏc thành viờn trong nhúm về một cỏ nhõn
được tiến hành theo một chương trỡnh đó được thiết kế.
Túm lại, đõy là sự đánh giá cú mục đớch, cú kế hoạch đó được xỏc định.
Phương pháp này thường được thực hiện dưới cỏc hỡnh thức: Thăm dũ ý
kiến, lấy phiếu tớn nhiệm, bỡnh bầu...
Theo cỏc nhà tõm lớ học, số lượng người tham gia đánh giá khoảng từ
15 - 20 người là đủ độ tin cậy về mặt thống kờ. Thực tế về thực nghiệm tõm
lớ học đó chỉ ra 15 người tham gia thực nghiệm là đủ để thu được kết quả với
độ xỏc suất sai là 5%.
Về thang đo để đánh giá cỏc phẩm chất cỏ nhõn thỡ phần lớn cỏc nhà
nghiờn cứu sử dụng thang đo 5 bậc hay thang đo 10 bậc.
3344
1. Bản chất tõm lớ đánh giá của nhúm đối với nhõn cỏch cỏ nhõn
a) Đánh giá của nhúm đối với nhõn cỏch cỏ nhõn là sự phản ỏnh dư luận
xó hội về con người.
Đõy là bản chất tõm lớ xó hội của phương pháp này. Bởi vỡ, trong hoạt
động lao động, sinh hoạt thụng qua cỏc tỏc động tương hỗ hỡnh thành cỏc
biểu tượng về nhau như người tốt hay xấu, chuyờn mụn giái hay kộm...Trong
giao tiếp, trờn cơ sở cỏc biểu tượng về nhau hỡnh thành cỏc dư luận xó hội về
người nào đú trong tập thể. Đõy chớnh là ý kiến đánh giá của nhúm về một cỏ
nhõn.
b) Trờn cơ sở bản chất tõm lớ xó hội của đánh giá nhõn cỏch đề ra nhiệm
vụ phõn tớch cấu trỳc của giao tiếp giữa chủ thể và khỏch thể trong đánh giá
nhõn cỏch.
c) Từ bản chất tõm lớ xó hội của đánh giá nhõn cỏch để xỏc định tớnh
khỏch quan của đánh giá nhõn cỏch. Điều này thể hiện ở chỗ việc đánh giá
nhõn cỏch của một cỏ nhõn trong tập thể phải phự hợp với thực tế những
phẩm chất nhõn cỏch mà cỏ nhõn đú cú. Núi cỏch khỏc là phải đảm bảo tớnh
“tương đương” của sự đánh giá.
Tớnh tương đương của sự đánh giá phụ thuộc vào ba yếu tố cơ bản sau:
-Năng lực nhận thức của chủ thể (những người tiến hành đánh giá)
- Khả năng thể hiện cỏc phẩm chất của khỏch thể đánh giá.
- Cỏc tỡnh huống diễn ra. (Sự tỏc động qua lại giũa người đánh giá và
người bị đánh giá).
2. Phõn loại cỏc phẩm chất nhõn cỏch của khỏch thể đánh giá
a.Cơ sở của sự phõn loại cỏc phẩm chất nhõn cỏch
- Dựa trờn cấu trỳc của nhõn cỏch.
- Dựa vào cỏc phẩm chất chớnh (phẩm chất hạt nhõn) của nhõn cỏch –
cỏc phẩm chất chớnh trị, đạo đức, nghề nghiệp. Cú thể nờu ra cụ thể hơn về
cỏc phẩm chất này:
+ Phẩm chất chớnh trị là sự thống nhất cỏc kiến thức chớnh trị - xó hội,
là hệ thống cỏc quan điểm, niềm tin, thỏi độ chớnh trị...
3355
+ Phẩm chất đạo đức là hệ thống những kiến thức về lớ luận – xó hội, là
hệ thống quan điểm, niềm tin , thỏi độ đối với cỏc định hướng giá trị và chuẩn
mực đạo đức...
+ Phẩm chất nghề nghiệp là sự thống nhất những kiến thức chung, liến
thức chuyờn mụn, nghiệp vụ, là hệ thống những quan điểm, niềm tin, thỏi độ
đối với nghề nghiệp, cỏc kĩ năng, kĩ xảo, phương pháp tư duy trong hoạt động
nghề nghiệp.
Lập bảng liệt kờ cỏc phẩm chất nhõn cỏch.
b. Lập bảng liệt kờ được thực hiện theo cỏc bước sau:
Bước 1: Tỡm hiểu những cụng trỡnh nghiờn cứu, cỏc tiờu chuẩn về
phẩm chất nhõn cỏch liờn quan đến khỏch thể được đánh giá.
Bước 2: Xỏc định mụ hỡnh hoạt động nghề nghiệp.
Làm rừ chức năng, nhiệm vụ, cỏc quan hệ của khỏch thể. Từ đú xỏc định
cỏc phẩm chất cần cú của khỏch thể.
Bước 3: Thu thập những thụng tin cảm tớnh về những phẩm chất cần cú
của khỏch thể được đánh giá.
Cỏc thụng tin này cú thể nhận được qua phỏng vấn hay nhận xột tự do
của người nghiờn cứu.
Bước 4: Phõn loại cỏc phẩm chất nhõn cách.
Bước 5: Lập bảng liệt kờ cỏc phẩm chất nhõn cỏch.
Trong nghiờn cứu cú thể tiến hành đánh giá cỏc phẩm chất bằng cỏch
cho điểm theo thang 10 bậc (từ 0 đến 9).
STT
Cỏc phẩm chất
Thiếu phẩm
chất này
(khụng cần
thiết)
Phẩm chất này cần thiết
Ở mức độ
cao
Ở mức độ
thấp
1 Kiến thức chuyờn mụn
nghiệp vụ
0 98765 4321
2 Kĩ năng thuyết phục
người khỏc
0 98765 4321
3. Cỏc bước tiến hành đánh giá
a. Xỏc định mục đớch và khỏch thể đánh giá.
3366
- Mục đớch: Đánh giá từng mặt hay tổng thể, phục vụ cho mục đớch
gỡ?: đào tạo hay đề bạt, thuyờn chuyển cỏn bộ...
- Khỏch thể: Đánh giá ai, nghề nghiệp, cương vị, chức trỏch...
b. Lập bảng liệt kờ cỏc phẩm chất nhõn cỏch
Lựa chọn cỏc thành viờn trong nhúm tham gia đánh giá.
- Về số lượng khụng dưới 15 người (Khoảng 15 – 20 người)
- Cỏc thành viờn tham gia phải:
+ Cú quan hệ giao tiếp thường xuyờn với khỏch thể.
+ Cú thời gian cựng cụng tỏc khụng dưới một năm.
+ Khụng cú quan hệ họ hàng, thõn thớch.
+ Khụng tham gia vào nhúm khụng chớnh thức tiờu cực với khỏch thể.
+ Đồng ý tham gia đánh giá
+ Cú trỡnh độ thành thạo nghề nghiệp
+ Trong sỏng về đạo đức.
c. Tổ chức đánh giá
- Thống nhất trong nhúm về mục đớch, yờu cầu, nhiệm vụ đánh giá,
thống nhất cỏc quan niệm về cỏc phẩm chất cú trong bảngliệt kờ.
- Thu thập cỏc thụng tin đánh giá từ cỏc thành viờn trong nhúm đánh giá
bằng cỏch trưng cầu ý kiến, toạ đàm, phỏng vấn sõu.
- Xử lớ, phõn tớch, tổng hợp cỏc thụng tin đánh giá. Nếu kết quả thu
được cũn cú vấn đề chưa khẳng định thỡ người nghiờn cứu cấn xem xột lại
từng bước tiến hành để cú biện pháp bổ sung.
3377
Chương 3
SƠ LƯợC LịCH Sử HìNH THàNH Và PHáT TRIểN
CủA TÂM Lý HọC Xã HộI
i. những tiền đề triết học
1. Một số quan điểm về xã hội và con người của các nhà triết học Hy Lạp.
Platon (427-347TCN) là học trò xuất sắc của Socrates (479-399 TCN).
Những tư tưởng tâm lí học xã hội của ông được trình bày khá nhiều trong các
luận thuyết về đạo đức xã hội và trong phác thảo về một xã hội lý tưởng
(được trình bày trong đối thoại nổi tiếng “nền cộng hoà” của ông). Trong các
công trình này Platon đã quan tâm đến mối liên kết và quan hệ giữa các cá
nhân. Ông đã chỉ ra sự ảnh hưởng của các cá nhân đến sự ổn định của nhà
nước. Theo ông, sự cân bằng của cá nhân là sự ổn định của xã hội.
Platon cho rằng, trong xã hội có ba kiểu nhân cách cơ bản:
- Những người luôn cố gắng làm vừa lòng người khác(loại người luôn
hướng tới xúc cảm)
- Những người say sưa theo đuổi quyền lực và sự nổi danh (loại người
hướng đến quyền lực)
- Những người luôn có khao khát hiểu biết (loại người hướng đến tri thức).
Mỗi kiểu nhân cách trên phản ánh một trong ba mức độ đặc thù của bản
chất, tình cảm, ý chí và trí tuệ con người. Platon đã phát hiện quan điểm về sự
phân tầng xã hội mà ở đó nó phản ánh quan hệ của các kiểu loại nhân cách
này đối với các giai cấp xã hội nơi mà họ tham gia.
Có thể nói quan điểm của Platon về mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân,
trong đó cá nhân được đánh giá cao đến nay vẫn còn rất bổ ích với nghiên cứu
tâm lí xã hội.
Aristotle (384-322 TCN) là học trò của Platon, người đã có một vị trí đặc
biệt trong đời sống lịch sử. Ông là nhà sinh vật học, nhà phê bình văn học, nhà
lịch sử. Tri thức bách khoa của ông bao gồm cả khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội. Có thể xem ông là người mở đường vĩ đại của khoa học xã hội hiện đại.
3388
Khi nói đến sự liên kết của con người Aristotle rất quan tâm đến yếu tố
tình cảm. Theo ông có ba động lực để liên kết con người. Đó là tình bạn, đây
là động cơ của đa số nhóm xã hội. Một số nhóm mà ở đó các cá nhân liên kết
với nhau bởi sở thích. Một số nhóm liên kết với nhau bởi hoà hợp đồng nhất.
Aristotle đánh giá rất cao vai trò của các nhóm xã hội đối với con người,
nếu không nói đó là yếu tố không thể thiếu được đối với mỗi con người. Ông
cho rằng con người cần phải sống trong các nhóm xã hội như gia đình và nhà
nước, con người không thể sống thiếu các nhóm xã hội này. Nhóm xã hội cơ
bản nhất đối với con người là gia đình. Quan điểm này của ông đến nay vẫn
còn nguyên giá trị. Ngày nay chúng ta vẫn coi gia đình là tế bào quan trọng, là
yếu tố nền tảng cho sự phát triển xã hội.
Tâm lý học của Aristotle là xem xét con người và khả năng của con
người trong các phản ứng xã hội, quan hệ xã hội, và hoàn cảnh xã hội.
Có thể nói các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã hiểu rất sâu sắc mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội song các tri thức đó chưa thể gọi là tâm lí học xã
hội. Mặc dù các nhà triết học Hy lạp tìm hiểu các phong tục, quy ước, vai trò
của giới và cuộc sống gia đình, cá nhân và sự tham gia chính trị của nó. Song
những nghiên cứu này còn chưa đủ tính hệ thống.
2. Một số quan điểm về xã hội và cá nhân của các nhà tư tưởng La Mã.
- M.Tullius Cicero (106-43 TCN): Ông là đại biểu xuất sắc của tư tưởng
La Mã. Cicero đã nghiên cứu các tư tưởng của Platon tại Aten (Hy lạp). Ông
bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Stoic (chủ nghĩa khắc kỷ) nhiều hơn Platon.
Cicero rất quan tâm đến vấn đề pháp luật, đặc biệt là đế chế La Mã. Ông chú
ý đến vấn đề con người phải hành động như thế nào để hơn là phát triển các
quan điểm triết học về hành động thực tiễn của con người.
Vào thời điểm suy yếu của đế chế La Mã và sự phát triển của đạo thiên
chúa, những quan điểm mới về xã hội và cá nhân được phát triển trên cơ sở
hợp nhất giáo lý của đạo thiên chúa và quan điểm của Platon chứ không dựa
vào chủ nghĩa khắc kỷ. Sự giảng dạy của các cha đạo hướng con người đến
một thế giới sau này (thiên đàng). Với cách giáo dục này, các lực lượng siêu
nhiên, thần thánh đã ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân và thực tiễn xã hội.
3399
- St.Augustine (354-430 SCN) là đại biểu xuất sắc về các tư tưởng xã hội
đương thời. Học thuyết của ông về xã hội và cá nhân có quan hệ sâu sắc với
tâm lí học xã hội hiện đại, đặc biệt là vấn đề sự liên kết của con người. Trong
các quan điểm của Augustine các nhà tâm lý xã hội học hiện đại có thể tìm
thấy vấn đề tầm quan trọng của nhóm xã hội đối với việc hình thành quan
điểm, thái độ của cá nhân.
Trong quan điểm của Augustine, ông đánh giá cao vai trò của chúa trời.
Quan điểm của ông về xã hội con người được thể hiện trong một tác phẩm có
giá trị của ông. “The city of God” (thế giới của chúa). Xã hội con người từ khi
Adam mắc sai lầm đã trở thành hai xã hội: Một xã hội của chúa trời và một xã
hội của trần gian. Augustine cho rằng các lực lượng siêu nhiên (từ xã hội của
chúa) có ảnh hưởng tới cuộc sống thực tiễn của trần gian. Theo ông, cá nhân
không chỉ có quan hệ tương tác với cá nhân mà còn có quan hệ với chúa. Như
vậy, mối quan hệ xã hội đã bị tác động bởi quan hệ giữa cá nhân và chúa.
Những quan điểm của ông về tâm lí học xã hội đã trở thành một bộ phận
của tâm lí học xã hội mang tính thần học và triết học. Ông trở thành một nhà
tư tưởng tiêu biểu của thời đại ông và có ảnh hưởng không nhỏ đến thời kỳ
sau đó, thời kỳ trung cổ.
3. Những quan điểm của thời kỳ trung cổ về xã hội và cá nhân
Quan điểm về xã hội của các nhà tư tưởng thời kỳ trung cổ cũng như
quan điểm của các cha cố đạo thiên chúa thời kỳ đầu không góp phần trực
tiếp vào việc tạo nên nội dung của tâm lí học xã hội hiện đại. Các nhà tư
tưởng thời kỳ trung cổ dựa trên quan điểm của các nhà tư tưởng Hy lạp , La
Mã và hội giáo để hình thành nên niềm tin của hệ thống nhà thờ.
Một nhà tư tưởng tiêu biểu của thời kỳ này là St.Thomas đã hệ thống hóa
và phát triển quan điểm nhà thờ của Aristotle. Ông đã phát triển quan điểm
của Aristotle về sự phụ thuộc lẫn nhau trong các nhóm xã hội và nhấn mạnh
sự cần thiết của chuyên môn hoá về lao động chân tay và trí óc như là cơ sở
cho sự liên kết của con người.
St.Thomas đã nhấn mạnh mối quan hệ của con người đối với chúa trời và
các quan hệ liên nhân cách chỉ có thể thực hiện qua ánh sáng của quan hệ giữa
chúa trời và con người. Điều đáng lưu ý là các nhà tâm lí học xã hội hiện đại đã
4400
quan tâm và phát triển ý tưởng về sự tương tác liên nhân cách trên, nhưng không
phải qua quan hệ với chúa, mà chỉ dựa trên quan hệ giữa người với người. Nếu
xét về nguồn gốc hình thành thì tâm lí học xã hội đã chịu ảnh hưởng nhất định về
mặt tư tưởng của các trường phái đạo thiên chúa, Tin lành, Do thái.
4. Những học thuyết về sự thoả thuận xã hội
Những học thuyết về sự thoả thuận xã hội do Thomas Hobber (1588-
1679), Jonh Locke (1632-1704) và Jean Jacques Rouseau (1712-1778) đưa ra.
Theo Jack H. Curtis- nhà tâm lí học Mỹ thì ba nhà khoa học trên có thể xem
là ngưòi mở đường của tâm lý học xã hội hiện đại. Trong sự nghiệp của mình,
ba tác giả trên dường như đã dành hết tâm trí cho nghiên cứu vấn đề quan hệ
giữa xã hội và cá nhân. Học thuyết về sự thoả thuận xã hội của Hobber được
phát triển dựa trên ba yếu tố cơ bản:
- Định đề: Bản năng của con người bị hạn chế và cô lập như thế nào từ
những người cùng tầng lớp hoặc từ tầng lớp đối lập của xã hội.
- Nguyên nhân hoặc thiết lập các nguyên nhân: Tại sao con người tự đặt
mình vào các mối liên kết với người khác.
- Thiết lập các quy tắc đạo đức từ hai lý do trên.
Trong học thuyết của mình, Locke không tin rằng có tồn tại một nhà
nước thời kỳ tiền xã hội hoặc thậm chí không có quan niệm về nhà nước đó.
Locke đưa ra quan niệm cho rằng: con người luôn luôn sống trong xã hội, nhà
nước trở thành phương tiện để trấn chỉnh những sai trái, bất công và bảo vệ
những quyền lợi chính đáng của con người về cuộc sống, tự do và sở hữu.
Học thuyết này gần gũi với tâm lí học xã hội hiện đại hơn của Hobber.
Trong số các học thuyết về sự thoả thuận xã hội thì có lẽ học thuyết của
Rousseau được tâm lí học xã hội hiện đại đánh giá cao nhất. Cũng giống như
Hobber ông đã bắt đầu bằng việc tìm hiểu những hành vi bản năng của con
người, chẳng hạn như thú tính. Sau đó, ông nghiên cứu mối tương tác giữa
người với người, giữa cá nhân và xã hội. Ông chỉ ra trật tự xã hội là điều bất
khả xâm phạm. Nó được xây dựng trên cơ sở lợi ích của đa số mọi người. Cái
trật tự này không thể bắt nguồn từ cái bản năng của con người mà cần phải
4411
được xây dựng trên sự thoả thuận. Như vậy, các học thuyết của Hobber,
Locke và Rouseau về sự thoả thuận xã hội đã chỉ ra sự ảnh hưởng giữa các cá
nhân trong các mối tương tác liên nhân cách. Quan điểm này được tâm lý học
xã hội rất quan tâm. Có thể nói ba tác giả trên là những người mở đường tiêu
biểu của tâm lí học xã hội theo chủ nghĩa nhân văn.
5. Quan điểm của Hêghen về xã hội và cá nhân
George W.F.Hegel (1770-1831) là người đã có những đóng góp quan
trọng vào việc xây dựng những tiền đề triết học của sự hình thành tâm lí học
xã hội.
Học thuyết của ông không chỉ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của triết
học mà còn ảnh hưởng quan trọng đến sự ra đời của tâm lí học xã hội. Quan
điểm của ông về mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân, về tự do cá nhân có ảnh
hưởng lớn đến học thuyết tâm lí xã hội.
Trong số các quan điểm của Hêgel, một quan điểm đáng chú ý là ông
phản đối sự phóng đại , đánh giá cao chủ nghĩa cá nhân. II. Những trường phái đầu tiên trong xã hội học và tâm lí học
Sự hình thành tâm lí xã hội dựa trên cơ sở của nhiều khoa học nhân văn.
Song có hai ngành khoa học đóng vai trò đặc biệt đối với sự ra đời của tâm lí
học xã hội là xã hội học và tâm lí học. Trên cơ sở của hai khoa học này đã
hình thành những trường phái đầu tiên góp phần ra đời tâm lí học xã hội.
1. Trường phái xã hội học
ở một khía cạnh nào đó có thể nói trường phái xã hội học là nguồn gốc
đích thực của tâm lí học xã hội. Chức năng chính của trường phái xã hội học
đối với tâm lí học xã hội là thúc đẩy sự tìm hiểu có tính bản chất vai trò của tổ
chức xã hội đối với nhân cách con người. Mặt khác nó cũng nghiên cứu bản
chất động cơ của hành vi có tổ chức và động cơ hành vi lệch chuẩn.
Khí nói đến trường phái xã hội học với tư cách là nguồn gốc của tâm lí
học xã hội chúng ta phải nói đến một số đại diện tiêu biểu sau:
a. Auguste Comte (1790-1857)
Comte thường được gọi là cha đẻ xã hội học. Bởi vì ông là người sáng
lập ra khoa học này. Quan điểm về tâm lí học xã hội của Comte đã đối lập với
4422
tâm lí học đang hình thành thời đó, ông đã không nhận thấy tâm lí học trong
hệ thống các khoa học (thời kì này tâm lí học chưa trở thành một khoa học
độc lập). Song Comte quan tâm đến vấn đề tâm lí học từ mục đích nghiên cứu
khoa học của mình. Về vấn đề này, nghiên cứu của ông chỉ dừng lại ở mức
phân chia tâm lí học theo hai khía cạnh: Sinh học và xã hội. Sự phân chia này
đã có giá trị nhất định trong tâm lí học xã hội hiện đại.
Sự phân chia tâm lí học theo khía cạnh sinh học và xã hội đã ảnh hưởng
đến nhiều vấn đề lý luận của Comte. Quan điểm của Comte về vấn đề nhân
cách của cá nhân thiên về khía cạnh bản năng. Theo Comte, bản năng của con
người chia thành hai loại chính: Sự ích kỉ và lòng vị tha. Đó là hai mặt của
bản năng. Theo ông, con người có nhiều bản năng hơn các động vật khác.
Mặc dù là người rất quan tâm đến tâm lí học cá nhân, nhưng Comte vẫn
nhấn mạnh rằng đơn vị xã hội thực sự là gia đình, nhờ nó mà các tổ chức xã
hội được phát triển. Chức năng của gia đình là duy trì nòi giống và nuôi
dưỡng lòng vị tha của con người. Như vậy từ mái ấm gia đình, cá nhân sẽ trở
thành thành viên của xã hội. Tâm lý học cá nhân theo khuynh hướng bản năng
của Comte đã tác động mạnh đến tâm lí học xã hội đến tận đầu thế kỉ XX.
b. Gabriel Tarde và Emile Dur Kheim
Gabriel Tarde (1843-1904) là người sáng lập ra tâm lí học cá nhân trên
cơ sở xã hội học của ông, còn Emile Dur Kheim, giống như Comte, ông đã
phản đối việc chống lại sự thái quá của tâm lí học cá nhân ở thời kì đó.
Tarde là người đầu tiên đưa ra khái niệm mới về tương tác, chính điều
này đã dẫn tới việc hình thành tâm lí học xã hội.
Tâm lý học của Emile Dur Kheim (1858-1917) là hệ thống quy định xã
hội. Quan điểm này có phần tách khỏi hoặc không thuộc về tâm lí học cá
nhân. Ông ca ngợi và thích tranh luận về học thuyết “ý thức tập thể”. Trong
khi phát triển học thuyết này đã dự báo trước về thuật ngữ văn hoá của xã hội
hiện đại hôm nay. Chính vì điều nay mà học thuyết của Emile Dur Kheim đã
đi xa hơn thời đại của ông. Emile Dur Kheim đã tìm hiểu, lý giải hành vi của
cá nhân trong nhóm.
4433
Như vậy, Comte, Tarde, Dur Kheim đã có những đóng góp có giá trị đối
với tâm lí học xã hội hiện đại. Comte đã giải thích hành vi của nhóm từ học
thuyết về những phản ứng có tính bản năng của cá nhân. Tarde lý giải hành vi
của nhóm từ học thuyết tương tác giữa các cá nhân. Dur Kheim lại quan tâm
nhiều đến các kiểu loại hành vi của nhóm hơn là hành vi của các cá nhân.
Đóng góp đặc biệt quan trọng của ông đối với tâm lí học xã hội là học thuyết
“ý thức tập thể”.
c. Lucien Lêvy - Bruhl và Gustave Lebon
Lucien Lêvy - Bruhl (1857 - 1939) phát triển học thuyết của Dur Kheim
về ý thức tập thể từ sự tham khảo những vấn đề nhân chủng học. G.Lebon
(1841-1931) quan tâm đến tâm lý học về nhóm, ông đã làm sáng tỏ thêm
những quan điểm của Dur Kheim về hiện tượng tâm lý của nhóm, mặt khác
ông cũng bị ảnh hưởng bởi tâm lí học xã hội của Tarde. Quan điểm của Lebon
là sự kết hợp giữa quan điểm của Dur Kheim và Tarde. Tác phẩm nổi tiếng
nhất của Lebon là cuốn “Đám đông” (The Crowd). Cuốn sách này trở nên nổi
tiếng không phải vì có tên gọi rất dễ nhớ mà vì qua công trình này nó đã làm
cho ông trở thành người mở đường về vấn đề “hành vi tập thể” hiện đại-một
vấn đề rất tiêu biểu của tâm lí học xã hội.
d. A.Schaffle, L.Gumplowicz và G.Simmel
Trong số các nhà xã hội học quan tâm đến những vấn đề của tâm lí học
xã hội và góp phần thúc đẩy sự ra đời của ngành khoa học này còn có các nhà
xã hội học người Đức.
- Albert Schaffle (1831-1903): Thông qua các phương pháp nghiên cứu
của mình ông đã góp phần xác định ra một ngành khoa học mới - tâm lí học
xã hội. Sự nghiệp của Schaffle cũng giống như Comte và Dur Kheim, ông
chống lại xu hướng đánh giá quá cao tâm lí học cá nhân trong thời kì đó. Với
tư cách là một nhà lý luận tiêu biểu, ông là người hiểu biết rất rộng về sự
tương tác trong các quan hệ giữa xã hội và cá nhân. Sự ảnh hưởng to lớn của
ông trong lịch sử tâm lí học xã hội được đánh giá ngang hàng với Dur Kheim,
Gumplowiez, Ratzenhofer, Small và Cooky-những người có vị trí vững chắc
trong hàng ngũ những người sáng lập ra khoa học hiện đại.
4444
- Ludwig Gumplowiex (1938-1909) và Ratzenhofer (1842-1904) thường
được xem là những nhà lý luận về vấn đề xung đột trong xã hội học. Đối với
tâm lí học xã hội hiện đại, hai ông đã quan tâm đến vấn đề thay đổi xã hội.
Mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân được tìm hiểu trên cơ sở nhân cách và
động cơ, lợi ích của cá nhân.Học thuyết về lợi ích của con người của
Ratzenhofer đã được truyền bá sang Mỹ và được nhà nghiên cứu Mỹ
A.W.Small tiếp nhận và đưa vào tâm lí học xã hội Mỹ. Song ở Mỹ, học thuyết
này có những thay đổi nhất định.
- Georg Simmel (1858-1918), một nhà khai sáng người Đức. Ông có
quan niệm về xã hội học cũng giống như hình học của khoa học xã hội, một
ngành khoa học có liên quan nhiều nhất đến việc nghiên cứu những hình thức
của sự tương tác xã hội. Simmel cho rằng tâm lí học xã hội cấn phải tìm hiểu
hành vi tập thể. Đóng góp của Simmel cho tâm lí học xã hội không chỉ hạn
chế ở hành vi tập thể mà ông còn phân tích sâu sắc về vấn đề chuẩn mực xã
hội, quan hệ giữa xã hội và cá nhân.
e. Các nhà xã hội học Anh với các vấn đề tâm lí xã hội
Quan điểm xã hội học về chủ nghĩa cá nhân đã tồn tại khá lâu trong xã
hội học Anh. Việc quan tâm đến những khía cạnh xã hội của cá nhân ở cuối
thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX đã làm cho xã hội học Anh có những đóng góp
nhất định đối với tâm lí học xã hội hiện đại. Một số đại biểu của xã hội học
Anh như: Walter Bagehot (1826-1877), do ảnh hưởng của các nhà tiến hoá
học Darwin và Spencer. Ông đã đưa ra quan điểm về sự phát triển của nhóm.
William Mc Dougall (1871-1938) là người chống lại chủ nghĩa cá nhân trong
tâm lí học thời đó và quan tâm đến khía cạnh xã hội của con người.
f. Các nhà xã hội học Mỹ
- Charles Horton Cooley (1863-1929) và George Herbert Mead (1863-1931)
là những người có quan điểm hiện đại về mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân.
Cooley đã viết ba cuốn sách nổi tiếng về vấn đề này. Đó là cuốn Bản
chất con người và trật tự xã hội; Tổ chức xã hội và Sự phát triển xã hội.
Cooley bị ảnh hưởng bởi học thuyết bắt chước của Tarde, quan điểm về đồng
4455
nhất của Schaffle và tâm lí học của W.James. Ông đã trình bày một cách rõ
ràng và đề cập đến các vấn đề chủ yếu của mối quan hệ giữa xã hội và cá
nhân. Ông cho rằng không thể tách rời yếu tố xã hội và cá nhân trong cuộc
sống của con người. Trong khi nghiên cứu bản chất con người Cooley đã chỉ
ra mối liên hệ giữa cơ cấu, thể chất của cá nhân và tổ chức xã hội, ông rất chú
ý đến vai trò của các nhóm xã hội như gia đình, nhóm bạn bè đối với con
người.
- E.A.Ross (1866-1951) là ngưòi đã viết cuốn “tâm lí học xã hội”. Cuốn
sách giáo khoa đầu tiên về lĩnh vực này. Khác với Cooley, dựa trên tâm lí học
tập thể, Ross đã tìm hiểu mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân trên cả khía
cạnh tập thể lẫn khía cạnh cá nhân. Trong nghiên cứu của mình ông chú ý đến
cả vai trò (sức mạnh) của xã hội và vai trò của cá nhân. Theo ông, vai trò của
xã hội thể hiện qua nhóm, ảnh hưởng đến cá nhân, còn vai trò của cá nhân thể
hiện qua tác động của cá nhân đến nhóm. Hai yếu tố này xảy ra trong các
hoàn cảnh xã hội.
- William I. Thomas (1836-1947) và Florian Znaniecki (1882-1960),
trong công trình nghiên cứu có tên “Nông dân Ba lan ở châu Âu và châu Mỹ”
đã tìm hiểu một số vấn đề tâm lí học xã hội từ nghiên cứu thực tiễn như: quan
điểm, giá trị và khát vọng của cá nhân. Với nghiên cứu này, các ông đã bắt
đầu một thời kì mới trong tâm lí học xã hội - thời kỳ sử dụng các trắc nghiệm
trong nghiên cứu.
2. Trường phái tâm lí học
Sự đóng góp của tâm lí học đối với tâm lí học xã hội nhiều hơn các
ngành khoa học khác, kể cả xã hội học. Các nhà tâm lí học đã mang đến cho
tâm lí học xã hội những thực nghiệm truyền thống. Những thực nghiệm này là
cơ sở quan trọng để xây dựng các thực nghiệm về các vấn đề tâm lí học xã
hội.
Những đóng góp quan trọng của tâm lí học cho tâm lí học xã hội phải kể
đến một số trường phái tâm lí xuất hiện cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Một
số mốc có ý nghĩa đặc biệt đối với sự hình thành và phát triển tâm lí học nói
4466
chung và tâm lí học xã hội nói riêng là việc Wilhelm Wundt thành lập phòng
thí nghiệm tâm lí học đầu tiên tại Leipzip (Đức) năm 1879.
a. Thuyết cấu trúc của Wundt
Wilhelm Wundt (1832-1920) được xem là người sáng lập tâm lí học hiện
đại. Ông được trường đại học Heideberg cấp bằng tiến sĩ y học và giảng dạy
môn sinh lí học tại đây.
Năm 1875, là chủ nhiệm khoa triết trường đại học Leigzip và đến năm
1879, tại trường đại học này ông đã thành lập phòng tâm lí học thực nghiệm
đầu tiên. Nơi đây đã sản sinh ra các nhà tâm lí học thực nghiệm, và họ đã trở
thành những người tiên phong của một ngành khoa học mới (tâm lí học) ở
châu Âu và châu Mỹ. Trong cuộc đời khoa học của mình ông đã viết được
491 bài báo khoa học với 53000 trang về tâm lí học và sinh lý học. Cuốn sách
“Tâm lí học” của ông viết năm 1873 được xuất bản năm 1891 sau 5 lần bị
kiểm duyệt. Từ năm 1900 đến năm 1920 ông hoàn thành cuốn “tâm lí học dân
tộc” gồm 10 tập. Đây là một đóng góp quan trọng vào việc hình thành tâm lí
học xã hội.
Theo Wundt, tâm lí học xã hội là một phân ngành cần thiết của tâm lí
học. Ông đã tiếp tục thực hiện những cố gắng trước đó của Moritz Lazarus và
Herman Steinthal, để thành lập tâm lí học dân tộc. Wundt cho rằng không nên
nghiên cứu con người như một cá thể riêng lẻ, biệt lập mà cần phải nghiên
cứu con người trong mối quan hệ của con người. Theo ông, đã có nhiều lý do
để nói rằng tâm lí học xã hội là phân ngành của tâm lí học.
b. Thuyết chức năng của James và Dewey
William James (1842-1911) là nhà tâm lí học và triết học Mỹ. Những
nghiên cứu của ông đã ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khoa học. Năm 1876,
James đã thành lập phòng thí nghiệm tại Đại học Harward và tại đây ông đã
sử dụng các thiết bị để tiến hành các thí nghiệm tâm lí. Jon Dewey (1859-
1952) là nhà tâm lí học Mỹ. James và Dewey đã sớm từ bỏ việc giải thích
hành vi bằng khái niệm cấu trúc nội tâm của nhân cách mà hướng tới sự phân
tích giá trị các kinh nghiệm của cá nhân trong môi trường xã hội. Thuyết chức
4477
năng không loại bỏ khái niệm về các trạng thái tinh thần của nhân cách mà
nhấn mạnh hơn đến các hành động kích thích-trả lời của các cá nhân trong
quan hệ với sự điều chỉnh các hành động đó cho phù hợp với hoàn cảnh.
Dewey có vai trò to lớn trong việc đào tạo các nhà tâm lí học xã hội Mỹ
nghiên cứu vấn đề “hành động xã hội” hoặc hoàn cảnh xã hội.
c. Thuyết hành vi của Watson
Vào đầu thế kỉ XX, tâm lý học nội quan-Khoa học lấy ý thức làm đối
tượng nghiên cứu đã bước vào thời kì khủng hoảng, một số nhà nghiên cứu
cho rằng đối tượng của tâm lí học phải là cái mà có thể đo lường được, kiểm
nghiệm được chứ không phải là cái trừu tượng, khó có thể kiểm nghiệm được
như ý thức. Họ phản đối tâm lí học nội quan và cho rằng hành vi mới là đối
tượng nghiên cứu của tâm lí học. Thuyết hành vi đã ra đời với tuyên ngôn của
J.B.Watson năm 1913.
Thuyết hành vi của Watson là căn cứ tốt để từ bỏ di sản của trường phái
nội quan trong tâm lí học và đưa tâm lí học xã hội hiện đại đến chỗ tìm hiểu
con người trong các hoàn cảnh xã hội, trước hết là hành vi của con người.
Sự đóng góp to lớn của thuyết hành vi đối với tâm lí học xã hội thể hiện
ở chỗ trên cơ sở xác định đối tượng của tâm lí học (hành vi), nhiều nhà tâm lí
học phương tây, đặc biệt là cac nhà tâm lí học Mỹ đã cho rằng đối tượng của
tâm lí học xã hội là hành vi xã hội của con người.
d. Trường phái Gestalt trong tâm lí học xã hội
Gestalt là một xu hướng tâm lí học tiêu biểu xuất hiện ở Đức vào đấu thế
kỉ XX. Các đại biểu của Gestalt đề xuất một chương trình nghiên cứu tâm lí
từ góc độ các cấu trúc chỉnh thể (Gestalt). Tâm lý học Gestalt đã đem lại cho
tâm lí học một cách tiếp cận mới về các hiện tượng tri giác và tư duy trực
quan. ở thời kì của mình thì tâm lí học Gestalt có ảnh hưởng lớn đến các
trường phái tâm lí học khác cũng như những nghiên cứu về tâm lí học xã hội.
Khi nói đến tâm lí học Gestalt, không thể không nói đến một đại biểu
xuất sắc là K.Lewin (1895-1947). Ông là người đã tìm hiểu sâu sắc về vấn đề
nhóm (đặc biệt là nhóm nhỏ) - một vấn đề rất quan trọng trong tâm lí học xã
hội. Ông đã sáng lập ra trung tâm nghiên cứu động thái nhóm, thuộc viện xã
4488
hội học, Đại học tổng hợp Enrbôski. Lewin cũng là người sáng lập ra một
phương pháp nghiên cứu mới trong tâm lí học xã hội là phương pháp “T
Group” (phương pháp nhóm T).
III. Tâm lí học xã hội trở thành một khoa học độc lập.
1. Sự kiện năm 1908 trong lịch sử hình thành tâm lí học xã hội
Sự hình thành tâm lí học xã hội như một khoa học độc lập, được đánh
dấu bằng sự kiện năm 1908 , cuốn sách giáo khoa đầu tiên về tâm lí học xã
hội được xuất bản có tên là “Tâm lý học xã hội” (Social Psychology). Tác giả
cuốn sách này là nhà xã hội học Edward A.Ross mà chúng ta đã có dịp đề cập
ở trên. Ông là tiến sĩ về lịch sử, chính trị và kinh tế học. Cuốn tâm lí học xã
hội của ông được dựa trên cơ sở và sự kết hợp hai khoa học: tâm lí học và xã
hội học. Một vấn đề chính được đề cập trong cuốn sách là sự bắt chước được
hình thành, phát triển và thực hiện như thế nào. Tác giả đã sử dụng hiện tượng
bắt chước để giải thích hiện tượng thay đổi tư tưởng, thói quen và quan điểm
giữa các thành viên trong các nhóm xã hội.
Cũng vào năm 1908, nhà tâm lí học William McDougal đã cho xuất bản
cuốn sách có tên là “Nhập môn tâm lí học xã hội” (Introduction to Social
psychology). Trong cuốn sách này McDougal đã chỉ ra vai trò của sự bắt
chước trong việc lý giải sự giống nhau về hành vi giữa các thành viên trong
nhóm xã hội.
Kể từ thời điểm hình thành với gia tài hết sức khiêm tốn-hai cuốn sách
giáo khoa, đến nay tâm lí học xã hội đã có lịch sử gần một thế kỉ phát triển.
Đến năm 1954, đã có 52 cuốn sách giáo khoa về tâm lí học xã hội có giá trị đã
được xuất bản. Theo Allport thì đến 1968, số sách giáo khoa về ngành khoa
học này đã tăng lên gần 100 cuốn, và tính đến năm 1980, số sách giáo khoa về
tâm lí học xã hội đã lên tới gần 150 cuốn, gần chục tạp chí về tâm lí học xã
hội và một số lượng lớn các tuyển tập, bài viết, sách tham khảo có giá trị về
ngành khoa học này được hoàn thành.
Qua gần một thế kỉ phát triển, dường như tâm lí học xã hội được chia
thành hai xu hướng: Xu hướng của các nhà tâm lí học phương Tây và xu hướng
của các nhà tâm lí học Xô viết. Mặc dù có những quan điểm chung là đều tìm
4499
hiểu những đặc điểm tâm lí của con người trong môi trường xã hội. Song cách
tiếp cận của hai xu hướng này có những điểm khác nhau cơ bản. Tâm lý học
Xô viết chú ý nhiều đến việc nghiên cứu các đặc điểm tâm lí của nhóm, trong
đó đặc biệt là các giai cấp, tập thể (một loại nhóm chính thức phát triển ở mức
độ cao). Trong khi đó tâm lí học xã hội phương Tây lại quan tâm nhiều hơn đến
nghiên cứu kinh nghiệm và hành vi xã hội của con người, coi hành vi xã hội
của con người mới là đối tượng nghiên cứu của tâm lí học xã hội. Các nhà tâm
lí học Xô viết đã chú trọng nhiều hơn đến việc nghiên cứu lý luận và ở một
mức độ nào đó có thể coi những nghiên cứu của họ mang tính hàn lâm hơn là
tính thực tiễn của đời sống xã hội. Còn các nhà tâm lí học xã hội phương Tây
lại có một cách tiếp cận khác. Họ chú ý nhiều đến các vấn đề tâm lí xã hội xảy
ra và xuất hiện trong thực tiễn đời sống xã hội. Họ tìm hiểu sự thể hiện hành vi
xã hội trong các lĩnh vực của cuộc sống, chẳng hạn như vấn đề xung đột sắc
tộc, tôn giáo; vấn đề tội phạm, bạo lực, nghiện hút, hành vi lệch chuẩn, vấn đề
thích nghi xã hội, vấn đề quản lý xã hội và quản lý trong kinh doanh... Nói cách
khác, những nghiên cứu của họ xuất phát từ đòi hỏi và từ những vấn đề nảy
sinh trong thực tiễn cuộc sống. Do vậy trong các nghiên cứu của tâm lí học xã
hội phương Tây, tính thực tiễn thể hiện rõ hơn tính lý luận.
ở nước ta, tâm lí học xã hội vẫn còn là một ngành khoa học rất non trẻ.
Nếu so với tâm lí học sư phạm và tâm lí học đại cương thì thời gian và thành
tựu phát triển của nó còn rất khiêm tốn. Trong thời gian gần đây, do nhận thức
được vai trò quan trọng của ngành khoa học này nên tâm lí học xã hội đã
được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức của một số trường đại học
lớn, một số khoa, bộ môn tâm lí học xã hội được hình thành từ các trường đại
học và học viện, một số cơ sở nghiên cứu tâm lí học xã hội đã ra đời tại các
viện nghiên cứu, một số sách giáo khoa và sách tham khảo về tâm lí học xã
hội đã được biên soạn và xuất bản.
2. Vài nét về lịch sử hình thành, phát triển các tư tưởng tâm lí học xã hội
quân sự
Quá trình hình thành và phát triển các tư tưởng tâm lí học xã hội quân
sự gắn liền với điều kiện xã hội nói chung với lịch sử chiến tranh và sự xuất
5500
hiện quân đội nói riêng. Chiến tranh là một thử thách khắc nghiệt, tác động
đến toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, đặc biệt là đến mọi
tầng lớp dân cư trong xã hội (mọi nhóm người, cộng đồng người), trước hết là
tâm trạng của những người cầm súng. Để giành thắng lợi trong chiến tranh
các bên tham chiến đều tận dụng mọi thành quả nghiên cứu của khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội phục vụ cho việc trang bị đào tạo, huấn luyện quân
đội. Đó là điều kiện cho sự xuất hiện các tư tưởng học thuyết về quân sự,
trong đó có các tư tưởng, học thuyết về tâm lí học quân sự, tâm lí học xã hội
quân sự ra đời. Các tư tưởng tâm lí học xã hội quân sự qua các thời đại từ
trước đến nay được hình thành đầu tiên từ các quan sát cá nhân, những mô tả
và kinh nghiệm cảm tính sau đó khái quát thành lí luận, thành các học thuyết
tâm lí học. Các tư tưởng, học thuyết này phát triển mạnh mẽ vào những năm
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX. Đặc biệt từ khi tâm lí học trở thành khoa học
độc lập (1879).
Lược qua lịch sử nhân loại, ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện các nhà lí
luận quân sự nổi tiếng như Tôn Tử (Trung Quốc) Cơxênôphôn (Hi Lạp),
Phơrơntin (La Mã)... đã đặt nền móng cho những tư tưởng tâm lí học xã hội
quân sự hết sức quan trọng. Qua các phù điêu, các văn hoá cổ còn lưu giữ lại
đến ngày nay ở Ai Cập, Trung Quốc, La Mã... đã mô tả các trận chiến đấu,
các nghi lễ trước trận đánh, phản ánh sự quan tâm của các tướng lĩnh đối với
trạng thái tâm lí của binh sĩ, cũng như các thủ đoạn kích thích tinh thần quân
đội. Quan hệ giữa chủ tướng và binh sĩ có tính đến đặc điểm tâm lí xã hội của
từng loại người là một vấn đề rất được quan tâm. Tôn Tử trong “Điều ước về
nghệ thuật quân sự” đã cho rằng: tướng lĩnh phải hiểu biết về mục đích chiến
tranh, đồng lòng trên dưới là quy luật chủ đạo của chiến tranh.
Thời kì phong kiến nổi bật lên tư tưởng của Makiaveli trong việc đề cao
yếu tố thành phần xã hội trong tuyển chọn. Ông nhấn mạnh đến các yếu tố xã
hội, môi trường và điều kiện sống, đến chất lượng binh lính. ở Việt Nam có
thể kể đến những tư tưởng của các nhà quân sự tên tuổi như: Lí Thường Kiệt
(1019-1105) với tư tưởng liên kết nhân tâm, thu phục lòng người; Trần Quốc
5511
Tuấn (1229-1300) với tư tưởng đề cao sức mạnh của quần chúng nhân dân,
coi trọng mối quan hệ tướng sĩ đồng lòng; Nguyễn Trãi (1830-1442) là người
luôn đánh giá cao vai trò của quần chúng nhân dân trong chiến tranh, khắng
định sự liên kết của người lính chủ yếu dựa trên cơ sở giác ngộ về mục đích
chính nghĩa của chiến tranh...; Nguyễn Huệ (1753-1792) luôn coi sự đồng
thuận trong nội bộ, sự liên kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu chiến đấu... là
yếu tố quyết định của thắng lợi.
Thời kì tư bản chủ nghĩa các tư tưởng tâm lí học xã hội quân sự phát
triển gắn liền với các cuộc chiến tranh trành thuộc địa của các nước đế quốc
(chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918). Những năm sau cuộc chiến
tranh Pháp-Phổ đặc biệt từ 1893 trở đi được đánh dấu như một cái mốc về sự
nhảy vọt của tâm lí học quân sự nói chung, tâm lí học xã hội quân sự nói
riêng: ở Pháp đáng chú ý là tư tưởng của Lêbôn và các đồng nghiệp cho rằng:
tính cộng đồng quyền lợi giữa con người trong cùng dân tộc không phân biệt
giai cấp, tầng lớp xã hội, giáo dục là quá trình thống nhất cao của con người
với tinh thần dân tộc sinh ra nó; ở Đức dựa vào thành tựu nghiên cứu tâm lí
học của các nhà lí luận trên thế giới thông qua sự đánh giá, so sánh về mặt lí
thuyết cũng như thực nghiệm, các nhà tâm lí học Đức đã hình thành cho mình
một nền tâm lí học xã hội độc lập, một trong nghiên cứu người có đóng góp
lớn vào sự phát triển tâm lí học xã hội quân sự Đức là K.Lêvin- ông đã đưa
vào quân đội một loạt các kết luận tâm lí và là người đầu tiên đưa ra khái
niệm “không gian sống” của nhân cách, ảnh hưởng của “không gian sống”
(hay môi trường sống) đến tâm lí người lính... ở Mĩ, ngay từ khi ra đời tâm lí
học xã hội quân sự Mĩ đã chịu ảnh hưởng của tâm lí học xã hội Pháp, đặc biệt
là các tư tưởng của phái xã hội về đám đông về tâm trạng và sự lây lan tâm lí
nguyên nhân dẫn đến sự hoảng loạn của người lính trong chiến tranh...
Tâm lí học xã hội quân sự chỉ phát triển mạnh mẽ và khẳng định được vị
trí của mình khi nó có ánh sáng của chủ nghĩa Mác soi đường và được dựa
5522
chắc trên những cơ sở khoa học của nền tâm lí học Mác xít. Nền tâm lí học
coi hoạt động là đối tượng nghiên cứu trực tiếp với những cống hiến to lớn
của Vưgôtxki, Rubinxtein, Luria, Lêonchiev... Có thể nói lịch sử tâm lí học
quân sự Xô Viết gắn liền với lịch sử của các lực lượng vũ trang Liên Xô, với
việc xây dựng, huấn luyện và chiến đấu của các lực lượng vũ trang đó. Những
nhà hoạt động nổi tiêng như M.I.Kalinin, M.V.Phrunde, A.X.Butnốp,
X.I.Guxep đã đóng góp nhiều vào sự phát triển tâm lí học xã hội Xô Viết đặc
biệt những năm sau cách mạng tháng 10. Trong những năm chiến tranh giữ
nước vĩ đại, tâm lí học xã hội quân sự Xô Viết đã hướng mọi nghiên cứu vào
phục vụ nhu cầu của chiến đấu như những vấn đề về “ảnh hưởng của tập thể
quân nhân đến xây dựng nhân cách người chiến sĩ”; “những vấn đề về củng
cố uy tín người cán bộ chỉ huy trong tập thể quân nhân”; “vấn đề khắc phục
tâm trạng hoảng loạn của quân nhân trong chiến đấu”; “vấn đề giáo dục
truyền thống chiến đấu trong quân đội”... Trong những năm sau chiến tranh
các vấn đề của tâm lí học xã hội quân sự càng trở nên rõ ràng và ngày càng
được các nhà tâm lí học quan tâm nghiên cứu.
ở Việt Nam, tâm lí học xã hội quân sự đã trở thành một bộ phận không
thể thiếu trong chương trình giảng dạy của Khoa Tâm lí học quân sự. Từ một
chủ đề trong chương trình giảng dạy đầu tiên, đến nay tâm lí học xã hội quân
sự đã phát triển thành một học phần quan trọng với nhiều chủ đề như:
- Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu.
- Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu.
- Lịch sử hình thành và phát triển của tâm lí học xã hội.
- Nhóm nhỏ.
- Nhóm lớn.
- Tập thể và tập thể quân nhân.
- Mối quan hệ qua lại và giao tiếp.
- Dư luận tập thể.
5533
- Tâm trạng tập thể.
- Uy tín.
- Truyền thống.
- Bầu không khí tâm lí xã hội trong tập thể.
Những vấn đề nghiên cứu của tâm lí học quân sự ngày càng phát triển cả
bề rộng và chiều sâu, với sự đóng góp của hàng chục luận văn thạc sĩ, luận án
tiến sĩ về các vấn đề khác nhau của tâm lí học xã hội quân sự như: vấn đề xây
dựng tập thể quân nhân; vấn đề giao tiếp xây dựng mối quan hệ qua lại; định
hướng dư luận; xây dựng tâm trạng, uy tín truyền thống, bầu không khí tâm lí
trong tập thể quân nhân. Tất cả các công trình nghiên cứu trên đã góp phần
tích cực vào sự phát triển của tâm lí học quân sự nói chung, tâm lí học xã hội
quân sự nói riêng.
Tuy nhiên trong tình hình hiện nay, để đáp ứng ngày càng tốt hơn những
đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, tâm lí học xã
hội quân sự cần phải tiếp tục nghiên cứu, phát triển cả về lí luận và thực tiễn,
tạo ra những bước phát triển mới, khẳng định vị trí vững chắc của mình trong
đào tạo, giáo dục, huấn luyện ở các học viện, nhà trường quân đội.
5544
Chương 4
Nhóm lớn và tâm lý nhóm lớn
Ngày nay, những vấn đề về nhóm lớn như tâm lý dân tộc, sắc tộc, giai
cấp, tôn giáo... đang nổi lên và tác động nhiều mặt tới cuộc sống, hoạt động
của con người. Nhóm lớn, đó là nơi tạo nên các chuẩn mực xã hội, các giá trị,
tâm thế, nhu cầu... mà cá nhân sẽ chiếm lĩnh thông qua những nhóm nhỏ và
giao tiếp xã hội, là nguồn gốc, cơ sở và điều kiện để hình thành những đặc
điểm tâm lí xã hội của tâm lí cá nhân. Việc nghiên cứu đặc điểm tâm lý xã hội
của nhóm lớn là cơ sở để người chỉ huy, lãnh đạo hiểu biết nội dung tâm lý cá
nhân của từng quân nhân nắm được quy luật hình thành, vận động của tâm lí
nhóm lớn và tâm lí cá nhân, từ đó biết cách tác động phù hợp tới họ, nâng cao
hiệu quả của quá trình chỉ huy, lãnh đạo bộ đội.
I. Khái niệm, cơ cấu tâm lý nhóm lớn
1. Nhóm lớn
Nhóm lớn là tập hợp đông người liên kết với nhau trong quá trình sống
và hoạt động, tạo ra những giá trị, chuẩn mực và đặc điểm tâm lí chung, có
khả năng điều chỉnh, định hướng và điều hoà tâm lí hành vi cá nhân.
Nhóm lớn là những cộng đồng người hình thành trong quá trình phát
triển lâu dài của lịch sử xã hội, giữ một vị trí quan trọng nhất định trong hệ
thống các quan hệ xã hội và ổn định trong các thời kỳ phát triển (dân tộc,
quân đội, giai cấp, sắc tộc, nhóm nghề nghiệp, nhóm lứa tuổi... ); hoặc hình
thành một cách ngẫu nhiên, tự phát và tồn tại trong thời gian ngắn (đám đông,
các khán giả trong hội trường, sân vận động...).
Cơ chế điều hoà hành vi xã hội của nhóm lớn là phong tục, tập quán,
truyền thống. Đặc điểm vị trí xã hội của nhóm lớn với các cơ chế này sẽ tạo ra
lối sống của nhóm. Trong các đặc điểm tâm lý nhóm lớn, ngôn ngữ của cộng
đồng có một vai trò đáng kể.
Có nhiều cách phân loại nhóm lớn:
5555
- Dựa vào đặc điểm lứa tuổi: nhóm thiếu niên, nhóm thanh niên, nhóm
người già.
- Dựa vào giới tính: nhóm phụ nữ, nhóm nam giới.
- Dựa vào đặc điểm địa lí kinh tế: Nhóm cư dân miền núi, nhóm cư dân
đồng bằng hay dân thành thị và dân nông thôn.
- Dựa vào hoạt động nghề nghiệp: nhóm giáo viên, nhóm thợ thủ công,
nhóm kinh doanh, nhóm quân nhân...
- Dựa vào đặc điểm giai cấp: nhóm công nhân, nhóm nông dân, nhóm tư sản...
- Dựa vào tính chất liên kết giữa các cá nhân: nhóm có tổ chức (nhà máy,
xí nghiệp, trường học...); nhóm tình cờ, tạm thời tập hợp lại (đám đông).
2. Cơ cấu tâm lý của nhóm lớn
Tâm lý xã hội do hoàn cảnh và điều kiện sống của xã hội trực tiếp quyết
định. Nó nảy sinh từ kinh nghiệm của các nhóm xã hội nhất định. Do đó tâm
lý xã hội chính là tâm lý của các nhóm lớn, mà trước hết là của dân tộc, giai
cấp, bao hàm trong đó những thành tố khác nhau của quá trình tâm lí, trạng
thái tâm lý.
Cơ cấu tâm lý của nhóm lớn bao gồm:
a) Những hiện tượng tâm lí xã hội tương đối bền vững: Tính cách, phong
tục tập quán , truyền thống...
Tính cách là hệ thống những thái độ, hành vi điển hình cho nhóm lớn.
Chẳng hạn, những dân tộc khác nhau có các nét tính cách điển hình, tiêu biểu
cho dân tộc đó được hình thành trong quá trình lao động sản xuất, đấu tranh...
Phong tục là tổng hợp những hành vi ứng xử tương đối ổn định trong các
quan hệ xã hội, theo một thể thức sinh hoạt bền vững của các nhóm xã hội.
Phong tục có tác dụng hướng dẫn hành vi ứng xử của con người trong các
nhóm xã hội, tạo dựng các vai trò, vị trí xã hội khác nhau cho con người ở
các lứa tuổi trong các lĩnh vực khác nhau của sinh hoạt xã hội; giáo dục nhận
thức, xây dựng tình cảm, kỹ năng hành vi ban đầu cho con người. Có nhiều
loại phong tục khác nhau: Phong tục xã hội được thể hiện qua quan hệ thầy
trò, bầu bạn, quân dân, chủ khách... Phong tục gia tộc thể hiện qua quan hệ
cha con, anh chị em, vợ chồng, tang lễ...
5566
Truyền thống là những giá trị xã hội tương đối ổn định của các nhóm xã
hội thể hiện qua các khái niệm, nghi lễ, hành vi, cách thức ứng xử của thành
viên trong nhóm với các quan hệ xã hội. Truyền thống được coi như sản phẩm
tinh thần của nhóm xã hội, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó
có tác dụng duy trì trật tự các quan hệ xã hội, đảm bảo sự ổn định hoạt động,
sinh hoạt của các thành viên trong nhóm, từ đó góp phần xây dựng chuẩn
mực, khuôn mẫu, hành vi ững xử trong các quan hệ xã hội ổn định, tạo ra sự
khác biệt độc đáo cần thiết giữa các nhóm xã hội.
b) Những hiện tượng tâm lý xã hội năng động dễ thay đổi: Nhu cầu, tâm
trạng, sở thích, thị hiếu...
Nhu cầu là những đòi hỏi thiết yếu, hợp quy luật, đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của một nhóm xã hội, một cộng đồng. Nhu cầu là cơ sở tạo ra
động lực thúc đẩy hoạt động của cá nhân, cộng đồng.
Tâm trạng xã hội là trạng thái cảm xúc chung của nhóm phản ánh những
biến đổi có ý nghĩa quan trọng ở bên ngoài hay bên trong nhóm. Tâm trạng xã
hội tác động lên nhóm xã hội tạo thành một cao trào trong một khoảng thời gian
cụ thể. Việc điều khiển tâm trạng có ý nghĩa lớn trong hoạt động của nhóm.
Sở thích là khả năng lựa chọn phổ biến của con người trước một đối
tượng nào đó có sức lôi cuốn sự tập trung chú ý, điều khiển suy nghĩ và thúc
đẩy con người hành động. Sở thích tạo ra khát vọng đi tìm hiểu đối tượng, từ
đó điều chỉnh hành vi mình theo hướng xác định.
Thị hiếu là sự lôi cuốn số đông người vào cái gì đó (mốt, a dua, bắt
chước).Cùng một thời gian có thể tồn tại nhiều thị hiếu khác nhau. Thị hiếu
không có tính bền vững.
II. Đặc điểm tâm lý của các nhóm lớn
1. Đặc điểm chung của nhóm lớn
- Sự tồn tại của nhóm lớn tuân theo các quy luật khách quan. Nhóm lớn
hình thành, tồn tại và vận động một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý
thức của các cá nhân là thành viên của nhóm.
- Nhóm lớn liên kết với các nhóm lớn khác tạo thành một chỉnh thể
thống nhất. Nhóm lớn không thể tồn tại bên ngoài mối liên hệ với các nhóm
lớn khác và với chỉnh thể thống nhất gồm các nhóm lớn khác nhau.
5577
- Nhóm lớn có khả năng xác định và điều chỉnh hành vi, hoạt động của
mình mà không hoàn toàn bị ràng buộc với các nhóm lớn khác. Mỗi nhóm lớn
đều có vị trí, vai trò và chức năng được xác định trong xã hội hay trong một
chỉnh thể thống nhất nào đó.
- Nhóm lớn là nhóm có quy mô lớn.
- Các thành viên của nhóm lớn thường không có sự tiếp xúc trực tiếp và
thường xuyên với nhau.
- Các thành viên của nhóm lớn bao giờ cũng giống nhau về đặc điểm có ý
nghĩa xã hội nào đó (giới, lứa tuổi, chủng tộc, vị thế xã hội, nghề nghiệp, thái độ).
- Nhóm lớn có trật tự và kiểu tương tác giữa các cá nhân. Mỗi cá nhân có
vị trí, vai trò, quyền lực, lợi ích, trách nhiệm và nghĩa vụ được xác định một
cách khá chặt chẽ.
2. Đặc điểm tâm lí của các nhóm lớn
a. Đặc điểm tâm lý của dân tộc
- Thuộc tính dân tộc: Là yếu tố khắc hoạ những đặc điểm nhất định của
môi trường xã hội rộng lớn.
Đặc điểm dân tộc ở mức độ nào đó được đúc kết trong kinh nghiệm lịch
sử của mỗi dân tộc và sự tiếp thu những đặc điểm này là một nội dung quan
trọng của quá trình xã hội hoá cá nhân. Thông qua môi trường sống, trước hết
là gia đình và nhà trường, cá nhân tiếp xúc với văn hoá dân tộc, phong tục và
truyền thống để tiếp thu, đồng thời để điều chỉnh các quan hệ xã hội của bản
thân. Việc tiếp thu các đặc điểm dân tộc phụ thuộc vào điều kiện lịch sử xã
hội cụ thể, vào hệ tư tưởng đang thống trị xã hội.
- Tính cách dân tộc: Là thành tố cơ bản của kết cấu tâm lý dân tộc, là sự
định hình của các nét tiêu biểu mang tính ổn định đặc trưng trong các mối
quan hệ.
Tính cách dân tộc thường được biểu hiện rõ ràng nhất khi chủ thể không
phải là một vài người mà là một nhóm xã hội. Tuy nhiên không nên tuyệt đối
hoá nét tiêu biểu chung của tính cách dân tộc. Vì trong thực tế xã hội, ở bất kì
nhóm xã hội nào các đặc điểm dân tộc và xã hội cũng hoà quyện vào nhau
5588
không tách rời. Mặt khác, bất kì một nét nào đó trong tính cách dân tộc thuộc
các nhóm dân tộc khác nhau không phải chỉ là của riêng một dân tộc nào đó
mà có thể là của các dân tộc khác. Điều quan trọng là phải chú ý đến mức độ
và đặc điểm biểu hiện nổi trội hay không nổi trội của các thành tố tâm lý dân
tộc cũng như thứ bậc của nó trong hệ giá trị tư tưởng.
Tính cách dân tộc thường được biểu hiện trong các dạng hoạt động. Do
đó muốn hiểu tính cách dân tộc phải nghiên cứu các sản phẩm của hoạt động.
Đặc biệt là nghiên cứu phong tục, truyền thống, nghệ thuật dân gian ngôn
ngữ. Trong đó, ngôn ngữ có một vị trí quan trọng bởi chức năng của nó là
truyền lại tính cách dân tộc trong quá trình xã hội hoá.
- Khí chất, khả năng của dân tộc: Là những vấn đề liên quan tới sự bình
đẳng giữa các dân tộc.
- ý thức thường ngày của dân tộc: Hiện tượng nảy sinh do quá trình dập
khuôn hoá vốn có trong nhận thức các đối tượng xã hội và đặc biệt là trong
nhận thức về đại diện của nhóm dân tộc khác.
Các khuôn mẫu dân tộc xuất hiện gắn liền với sự phát triển của ý thức
dân tộc, ý thức về mình thuộc một dân tộc nhất định. Đó là sự hình thành tình
cảm “cái ta”, thể hiện ý thức về đặc điểm của riêng nhóm mình, về sự khác
biệt của nhóm mình so với nhóm khác. Hình ảnh về các nhóm khác thường bị
đơn giản hoá. Hình ảnh đó xuất hiện do ảnh hưởng của quan hệ giữa các
nhóm dân tộc. Trong các quan hệ giữa các nhóm dân tộc bao giờ cũng tồn tại
một tâm thế đặc biệt - tâm thế dân tộc đối với đại diện của nhóm dân tộc khác.
Nếu quan hệ này trong quá khứ mang dấu ấn hằn thù thì mỗi lần gặp đại diện
của nhóm đó lại tái hiện, và vì thế lại xuất hiện một tâm thế tiêu cực. Không
phải lúc nào khuôn mẫu dân tộc cũng vẽ nên hình ảnh về nhóm khác với sự
tiêu cực nhưng nó luôn tạo ra nhận thức chủ quan về đại diện của nhóm khác.
Khuôn mẫu dân tộc thường nảy sinh do hạn chế về giao tiếp giữa các dân tộc.
Các đặc điểm cá nhân của một thành viên nào đó của nhóm dân tộc khác được
tiếp nhận như điển hình của nhóm đó. Vì thế, khuôn mẫu có ảnh hưởng tới
việc nảy sinh thiện cảm hay ác cảm giữa các dân tộc.
- Tự kỷ dân tộc: Khuynh hướng nhận thức toàn bộ hiện tượng cuộc sống
của các dân tộc từ quan điểm của dân tộc mình vốn được coi là chuẩn mực.
Tự ý thức về dân tộc mình và đánh giá sai lệch về dân tộc khác là những
yếu tố hình thành tự kỉ dân tộc. Bản chất của tự kỉ dân tộc là sự tập trung có
5599
tính thiên vị về các đặc điểm của dân tộc mình, tuy nhiên không phải lúc nào,
tự kỉ dân tộc cũng là sự hằn thù với các dân tộc khác. Sắc thái, mức độ của nó
phụ thuộc vào các quan hệ xã hội, về đường lối chính trị về dân tộc và hệ tư
tưởng. Nếu đường lối chính trị về dân tộc không đúng đắn và thích hợp, tự kỉ
dân tộc có thể trở thành nguyên nhân làm bùng nổ xung đột dân tộc.
- Nguồn gốc các đặc điểm tộc người: Các đặc điểm này là điều kiện của
những điều kiện lịch sử nhất định, là sự cố định một số đặc điểm trong nhiều
thế hệ, tuy nhiên chúng có thể thay đổi trong quá trình lịch sử.
b. Đặc điểm tâm lý giai cấp
- Nhu cầu giai cấp: Thành tố quan trọng bậc nhất trong tâm lý giai cấp,
thuộc lĩnh vực xúc cảm của tâm lí xã hội. Vị thế của giai cấp sẽ quy định cơ
cấu của các nhu cầu, ý nghĩa và vai trò của từng nhu cầu.
Giữa nhu cầu và các giá trị cũng có mối liên hệ qua lại với nhau. Chính
sự tương quan đó đảm bảo vai trò điều chỉnh các định hướng giá trị của giai
cấp, điều chỉnh khả năng thể hiện nhu cầu cá nhân và ảnh hưởng tới định
hướng sống của mỗi người.
- Lợi ích giai cấp: Nội dung cụ thể của lợi ích giai cấp là do hệ thống các
quan hệ xã hội quy định. Lợi ích giai cấp hình thành từ sự phát triển của nhóm
(giai cấp sẽ quyết định hành vi và hoạt động của mỗi thành viên). Mặt khác,
lợi ích giai cấp hình thành như lợi ích cá nhân nhưng mỗi cá nhân trong giai
cấp không chỉ là thành viên của nhóm xã hội này mà còn là thành viên của
nhóm xã hội khác. Sự chồng chéo những lợi ích khác nhau được xác định bởi
thuộc tính của từng nhóm xã hội. Vì thế cần phải biết rõ trong trường hợp nào
thì những lợi ích nào đóng vai trò quyết định và nhìn chung trong toàn bộ hệ
thống các lợi ích thì lợi ích nào là ổn định hơn cả và là chủ yếu. Đây là điều
đặc biệt có ý nghĩa khi nghiên cứu tâm lý giai cấp.
- Tình cảm giai cấp: Là một đặc điểm của trạng thái tình cảm nhóm.
Những tình cảm tích cực luôn là động lực mạnh mẽ trong hoạt động của giai cấp.
Ngược lại những tình cảm tiêu cực sẽ cản trở, kìm hãm hoạt động của giai cấp.
- Thói quen, tập quán và truyền thống của giai cấp: Những nhân tố này
có vai trò điều tiết hành vi và hoạt động của các thành viên trong nhóm, tạo
nên lối sống của giai cấp.
Thói quen, tập quán hình thành dưới ảnh hưởng của những điều kiện
sống nhất định, sau đó tự củng cố và trở thành cơ chế điều tiết hành vi của
mỗi cá nhân và của cả nhóm, nhất là ở các nước chậm phát triển.
6600
Chương 5
nhóm nhỏ và tâm lí nhóm nhỏ
Từ lâu, vấn đề nhóm nhỏ là đề tài nghiên cứu quan trọng của tâm lý học
xã hội. Từ góc độ tâm lý học, nhóm nhỏ được coi là hình thức tồn tại đặc biệt
của các quan hệ người - người và đã trở thành một yếu tố quyết định đối với
sự phát triển một xu hướng mới của tri thức tâm lý học - tâm lý học xã hội.
Nhóm nhỏ là môi trường đầu tiên để con người bước những bước đi ban đầu
và tiếp tục con đường phát triển của mình.
I. Khái niệm nhóm nhỏ. Tâm lí nhóm nhỏ
1. Khái niệm và vai trò của nhóm nhỏ
Nhóm nhỏ là nhóm gồm số ít người liên kết với nhau. Trong đó, các
quan hệ thể hiện dưới hình thức cá nhân trực tiếp.
Nhóm nhỏ được đặc trưng không chỉ ở số lượng người, ở sự giản đơn về
cơ cấu mà quan trọng nhất chính là ở đặc trưng tâm lí của nó. Đó là nhóm mà
mọi quan hệ xã hội đều được thể hiện dưới hình thức cá nhân trực tiếp.
Số lượng thành viên của mỗi nhóm nhỏ có từ 3 người trở lên. Số lượng
tối đa của nó tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động, sinh hoạt và cơ cấu bậc trên
của nhóm. Giới hạn về số lượng cao nhất của nhóm nhỏ là điểm kết thúc của
“các quan hệ trực tiếp” giữa các cá nhân.
Cơ cấu của nhóm nhỏ là cơ cấu giản đơn hay có thể gọi là cơ cấu “ bậc
một”, không có bước trung gian. ở đó, mọi thành viên quan hệ trực tiếp với
thủ lĩnh, trưởng nhóm hoặc người lãnh đạo. Mọi mối quan hệ và điều chỉnh
đều mang tính trực tiếp.
Như vậy, trong xã hội tồn tại vô vàn nhóm nhỏ với số lượng thành viên
rất khác nhau. Có những nhóm chỉ gồm vài ba người như gia đình, tổ học tập,
nhóm bạn chơi thân, có những nhóm lên tới vài chục người như các lớp học
trong các trường học, các phân xưởng, các tập thể cơ sở quân nhân v.v
Nhóm nhỏ có vai trò to lớn trong quá trình hình thành và phát triển của
con người cũng như phát triển xã hội. Đó là môi trường đầu tiên để con người
bước đi những bước ban đầu gia nhập xã hội.
6611
Quá trình hình thành và phát triển của các nhóm nhỏ cũng đồng thời là
quá trình nảy sinh các chuẩn mực xã hội ở phạm vi hẹp. Nhờ những chuẩn
mực ấy đã giảm thiểu tính “hỗn tạp” của các quan hệ giữa các cá nhân, những
hành vi lệch chuẩn sẽ được loại bỏ ngay từ các nhóm nhỏ.
Nhóm nhỏ vừa có tác động kích thích tính tích cực hoạt động của mỗi cá
nhân đồng thời trực tiếp tạo ra các áp lực cần thiết đối với các hành vi của nó
thông qua cơ chế “a dua”. Mỗi cá nhân muốn thoả mãn các nhu cầu tinh thần,
trước hết là nhu cầu giao tiếp đều phải gia nhập nhóm nhỏ. Đến lượt nó nhóm
nhỏ lại điều chỉnh các nhu cầu và hành vi của cá nhân.
3. Tâm lí nhóm nhỏ
Tâm lí nhóm nhỏ là sự phản ánh trực tiếp những mối quan hệ của nhóm
biểu hiện ở sự đồng nhất, cố kết, hoà hợp của các thành viên trong hoạt động
và giao tiếp. Là cơ sở tinh thần đảm bảo cho nhóm tồn tại và phát triển.
Vấn đề tâm lý nhóm nhỏ được đặt lên hàng đầu trong các nghiên cứu của
TLHXH Phương Tây. Có thể phân ra 3 hướng nghiên cứu chính sau đây:
Trường phái phân tích xã hội học gắn liền với tên tuổi của G.Moreno.
Theo ông, trong xã hội có thể chia ra hai loại kết cấu các quan hệ xã hội: kết
cấu vĩ mô và kết cấu vi mô. G.Moreno cho rằng tất cả những căng thẳng,
những mâu thuẫn xuất hiện do cơ cấu vĩ mô và cơ cấu vi mô không trùng
khớp với nhau. Có nghĩa là hệ thống thiện cảm và ác cảm thể hiện qua các
quan hệ tâm lý không thể hòa nhập trong phạm vi cơ cấu vĩ mô đã được qui
định cho mỗi cá nhân. Do đó, cần phải xây dựng lại cơ cấu vĩ mô sao cho nó
phù hợp với cơ cấu vi mô. Bằng phương pháp phân tích xã hội học có thể làm
sáng tỏ những thiện cảm và ác cảm, từ đó có thể biết chúng cần phải có những
thay đổi như thế nào. Phương pháp phân tích xã hội học áp dụng trong nghiên
cứu nhóm nhỏ thể hiện qua những phân tích về kết cấu các quan hệ tâm lý
(quan hệ giữa các cá nhân). ở đây chủ yếu là phân tích các quan hệ tình cảm
trong nhóm nhỏ. Phương pháp này đã trở thành phương pháp chính để nghiên
cứu nhóm nhỏ. Song không thể coi đây là phương pháp nghiên cứu tổng hợp
cho phép phân tích nhóm nhỏ ở những khía cạnh khác nhau.
6622
Trường phái xã hội học trong nghiên cứu nhóm nhỏ. Trường phái này
bắt nguồn từ các thí nghiệm của E.Mayo.
E.Mayo đã tiến hành nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất
lao động và đi đến kết luận: trong các đội sản xuất tồn tại song song với cơ
cấu chính thức là cơ cấu không chính thức, nó có tác động một cách có hiệu
quả đến sản xuất và có thể sử dụng nó như một yếu tố để nâng cao năng suất
lao động. ý nghĩa phương pháp luận của nhận định này đối với tâm lý học xã
hội là ở chỗ đã tìm thấy một hiện tượng mới - sự tồn tại của hai dạng cơ cấu
trong nhóm nhỏ (cơ cấu chính thức và cơ cấu không chính thức). Cũng từ đây
đã hình thành một khuynh hướng mới trong nghiên cứu nhóm nhỏ - khuynh
hướng xã hội học. Khuynh hướng này phân tích từng dạng cơ cấu nhóm, tìm
ra ý nghĩa của chúng trong hệ thống quản lý.
Trường phái “động thái nhóm”. Đây là trường phái mang màu sắc tâm lý
học hơn cả trong nghiên cứu nhóm nhỏ do K.Lêwin sáng lập.
Tư tưởng chủ đạo của thuyết trường tâm lý do K.Lêwin nêu ra là: các qui
luật của hành vi xã hội cần phải tìm trong các yếu tố tâm lý và yếu tố xã hội
vốn điều tiết nó. Phương pháp quan trọng của “trường tâm lý” là thành lập
trong phòng thí nghiệm các nhóm nhỏ với các đặc điểm cho trước và nghiên
cứu hoạt động của các nhóm này.
Trường phái “động thái nhóm” nghiên cứu các vấn đề cơ bản: sự hình
thành, hoạt động, phát triển, yếu kém và tan rã của nhóm, vai trò thủ lĩnh và
vai trò lãnh đạo, quá trình ra quyết định, sự hình thành cơ cấu chức năng, vai
trò của nhóm, sự nhất trí, các xung đột, áp lực của nhóm, các khả năng điều
chỉnh hành vi của cá nhân trong nhóm... Các công trình nghiên cứu của
trường phái này đã đem lại nhiều kết quả có ý nghĩa, đã mở rộng phạm vi
nghiên cứu các vấn đề về nhóm nhỏ.
Việc nghiên cứu các quá trình tâm lý bên trong nhóm nhỏ là nhiệm vụ
chủ yếu của tâm lý học xã hội. Bởi vì, nghiên cứu các qui luật của giao tiếp và
hoạt động tương hỗ trong nhóm nhỏ sẽ làm sáng tỏ việc hình thành trung tâm
của quá trình giao tiếp, thông tin và nhận thức. Tâm lý học xã hội cần chỉ ra
bản chất của các cơ chế tác động của nhóm, thông qua đó cá nhân tiếp thu
6633
toàn bộ hệ thống các ảnh hưởng xã hội (cụ thể là nội dung các chuẩn mực, giá
trị, tâm thế...) vốn đã hình thành trong các nhóm lớn. Đồng thời phải chỉ ra
tính tích cực của cá nhân trong việc tiếp nhận các ảnh hưởng đó và thể hiện sự
phản hồi nhất định. Mặt khác, cần phải nắm được các giai đoạn, các quá trình
phát triển và biến đổi của nó. Nghiên cứu các quá trình động của nhóm nhỏ
cũng có ý nghĩa là phân tích các quá trình đồng thời xảy ra trong nhóm trong
một khoảng thời gian nào đó và đánh dấu sự chuyển động của nhóm từ giai
đoạn này đến giai đoạn khác.
II. Đặc trưng tâm lý của nhóm nhỏ
1. Nhóm nhỏ được hình thành bởi một nhu cầu nhất định của sự phân
công lao động xã hội và hoạt động xã hội.
Sự hình thành nhóm là do các nguyên nhân khách quan nằm trong các hệ
thống xã hội. Chẳng hạn như đội bóng đá, bóng chuyền được thành lập là do
nhu cầu đảm bảo sự phát triển của thể dục thể thao của tổ chức, đơn vị đó.
Chính điều này qui định về cơ cấu phân vai, vị thế và mục đích hoạt động của
nhóm.. .. ..
2. Những chuẩn mực của nhóm giữ vai trò quyết định đối với sự tồn
tại và phát triển của nó
Trong mỗi nhóm có một hệ thống những qui định và mong muốn các
thành viên của nó phải thực hiện và quyết tâm thực hiện. Đó là những chuẩn
mực do các thành viên của nhóm xây dựng nên, tạo điều kiện để thống nhất
các hành vi của các cá nhân trong nhóm, quyết định phương thức ứng xử giữa
các thành viên và là sợi dây ràng buộc các cá nhân với nhóm.
Sự hình thành các chuẩn mực nhằm đảm bảo cho sự duy trì một trật tự
ứng xử trong nhóm. Chuẩn mực là yếu tố cơ bản để tạo lập ý thức về cái
“tôi”, là điểm tựa cho mỗi cá nhân ứng xử trước một tình thế khi không có
chỗ dựa khách quan. Ngoài ra, chuẩn mực còn là cơ sở để cá nhân tự đánh giá
về các hành vi và cách ứng xử của mình so với hành vi và lối ứng xử của
nhóm. Nhóm cố gắng giữ gìn trật tự của mình bằng áp lực, bằng các biện
pháp trừng phạt với những thành viên vi phạm chuẩn mực.
6644
Theo G.N.Fischer, chuẩn mực là một qui tắc rõ ràng hay ngấm ngầm
nhằm áp dụng một phương thức hành vi xã hội có tổ chức một cách ít hay
nhiều hàm súc. Nó được xác định như một tập hợp những giá trị có sức chi
phối rộng rãi và được tuân thủ trong một xã hội nhất định. Nó chú trọng đến
sự tán thành và bao hàm những trừng phạt trong một trường tương tác phức
tạp. Định nghĩa trên chỉ ra chuẩn mực thể hiện như sự phán xét căn cứ vào
những giá trị mà nó qui chiếu. Một số chuẩn mực có tính đặc thù đối với một
nhóm mà không có giá trị đối với tất cả. Chẳng hạn, những chuẩn mực về vai
trò hướng dẫn hành vi, xuất phát từ vị trí của cá nhân trong hệ thống nhất
định. Với tư cách một phán xét về giá trị, chuẩn mực là một đòi hỏi và việc
không tuân thủ theo nó sẽ dẫn đến những trừng phạt (một cách ngấm ngầm
hay được nói lên rõ ràng).
Dù công khai hay ngấm ngầm, chúng ta đều nhận thấy hiệu quả của chuẩn
mực là làm cho nhóm có được tính đồng nhất nào đó. Vai trò của chuẩn mực ở
chỗ nó tạo ra một thế giới hoàn toàn vững chắc, trong đó các ứng xử hoàn toàn
có thể đồng nhất. Trong quá trình thực hiện chuẩn mực, cũng có những người
không tuân thủ theo nó một cách chính xác như chính nó mong muốn.
Mặt khác, bản thân các chuẩn mực cũng tiến hóa: một số rơi vào lãng
quên, một số khác không còn phù hợp và không được đa số tán thành nữa,
trong trường hợp này chúng có tính độc đoán. Qua các nghiên cứu của
Monerit và Sherif về các chuẩn mực độc đoán đã rút ra kết luận: chuẩn mực
độc đoán thường không có cơ sở tồn tại vững chắc. Chuẩn mực có các chức
năng: Giảm bớt tính hỗn tạp; Chức năng tránh xung đột; Chuẩn mực hóa.
Chuẩn mực hóa diễn ra như một quá trình thương lượng. ở đây, chuẩn
mực thể hiện như “một cơ chế thương lượng tích cực dẫn tới sự chấp nhận
mẫu số chung nhỏ nhất”. Như vậy, quá trình thương lượng có thể được thực
hiện dễ ràng hơn là việc nhân nhượng lẫn nhau nhưng lại không đả động tới
những tranh chấp thực sự.
Quá trình hình thành chuẩn mực của nhóm đã được Festinger giải thích
theo khái niệm “so sánh xã hội”. Theo ông, người ta không phải bao giờ cũng
tin chắc vào ý kiến của mình, cũng như vào những hành động của bản thân.
6655
Trong trường hợp này họ có xu hướng tìm kiếm ở những người khác để xem
ý kiến của mình có đúng không, nghĩa là có được chấp nhận bởi “cái nhóm”
mà họ là một thành viên. Sự nghi ngờ và thúc đẩy như vậy đã hướng ứng xử
của họ theo người khác, qua sự so sánh với thái độ của những người này họ
đạt được một sự tôn trọng, một sự ăn khớp với hành vi của mình.
Như vậy, những cá nhân đã hòa mình vào một quá trình so sánh xã hội mỗi
khi họ cảm thấy cần thiết phải đánh giá hành vi của họ và điều chỉnh nó theo
những chuẩn mực xung quanh. Theo Festinger, động lực cơ bản của quá trình so
sánh xã hội là sự tự đánh giá. Thuyết “so sánh xã hội” của Festinger đã giải thích
sự hình thành chuẩn mực bằng nhu cầu xã hội và cụ thể là sự tự đánh giá và phù
hợp với thuyết này, cá nhân đi tìm những tập hợp người giống họ.
Trong nhóm, bên cạnh những người thích nghi hoàn toàn còn có những
cá nhân không tuân theo những chuẩn mực của nó. Đó là những người lệch
chuẩn. Đặc điểm của những người này là thích độc lập. Nguyên nhân dẫn đến
hiện tượng lệch chuẩn là do lực liên kết của cá nhân với nhóm giảm đi, nghiã
là nhóm ngày càng mất đi sự hấp dẫn của mình. Ngoài ra còn có các nguyên
nhân khác như: sự tiếp xúc của cá nhân với các thành viên khác ở trong nhóm
ở mức độ thấp; cá nhân bị nhóm khác tác động và lôi cuốn mạnh hơn. Trong
ba nguyên nhân trên thì nguyên nhân sự hấp dẫn của nhóm và mức độ tiếp
xúc với nhóm là quan trọng nhất. Hai nguyên nhân này không tồn tại độc lập
với nhau mà thường xuất hiện cùng nhau.
3. Tính a dua là áp lực tâm lý chủ yếu của nhóm
Biểu hiện đặc biệt của áp lực nhóm tới cá nhân trong tâm lý học xã hội gọi
là tính “a dua”. Chính bản thân từ “a dua” đã biểu hiện nghĩa thích ứng. Khi nói
đến tính a dua là nhằm ám chỉ đặc điểm tâm lý thuần túy về vị trí của cá nhân
với vị trí của nhóm. Cá nhân chấp nhận hay phản đối các chuẩn mực, ý kiến nhất
định của nhóm, về mức độ phục tùng của cá nhân do áp lực của nhóm. Đối lập
với tính a dua là tính tự lập, vững vàng của cá nhân so với áp lực nhóm.
Tính a dua được nhận thấy khi biểu hiện xung đột giữa ý kiến của cá
nhân và ý kiến của nhóm, khắc phục sự xung đột này dẫn đến có lợi cho
nhóm. Mức độ a dua là mức độ thu phục của nhóm.
6666
Từ lâu trong tâm lý học xã hội đã chỉ ra hai loại a dua: a dua bên ngoài
và a dua bên trong. A dua bên ngoài là a dua khi cá nhân tiếp nhận ý kiến của
nhóm mang tính hình thức, còn trên thực tế anh ta chống lại ý kiến của nhóm.
A dua bên trong là a dua khi cá nhân hoàn toàn bị ý kiến của đa số thu phục.
Loại a dua này kết quả khắc phục xung đột của cá nhân với nhóm và kết thúc
bằng sự có lợi cho nhóm. Trong khi nghiên cứu tính a dua, ta còn nhận thấy
một vị trí nữa của cá nhân trong nhóm. Đó là vị trí độc lập, khi nhóm dùng áp
lực của mình tới “cá nhân”, anh ta hoàn toàn chống lại áp lực đó và giữ vị trí
độc lập của mình.
4. Sự nhất trí của nhóm gắn liền với mức độ phát triển các quan hệ
liên nhân cách
Trong tâm lý học xã hội khi nghiên cứu sự nhất trí của nhóm, người ta đã
dựa vào nhận định: nhóm như hệ thống các mối liên hệ liên nhân cách có cơ
sở xúc cảm của nó. Moreno sử dụng phương pháp “phép đo xã hội” để nghiên
cứu nhóm nhỏ và đi tới kết luận: sự nhất trí của nhóm gắn liền với mức độ
phát triển các quan hệ liên nhân cách khi trong các quan hệ đó có tỷ lệ lựa
chọn cao dựa trên cơ sở tình cảm với nhau.
L.Phectigero đã phân tích sự nhất trí của nhóm trên cơ sở tần số và độ
bền vững của các quan hệ giao tiếp trong nhóm. Theo ông “tình đoàn kết là
tổng số các sức mạnh tác động tới các thành viên của nhóm nhằm giữ lại họ
trong nhóm”. T.Niwcom đã đưa ra một ý tưởng mới khi bàn về sự nhất trí của
nhóm - đó là sự cần thiết của việc xuất hiện cách định hướng giống nhau của
các thành viên trong nhóm tới các giá trị có ý nghĩa nào đối với họ.
Sự nhất trí của nhóm được nghiên cứu công phu trong các công trình
của các nhà tâm lý học Xô viết: A.V.Pêtrôpxki. Trong “thuyết tập thể” của
mình ông đã chỉ ra cấu trúc của nhóm nhỏ được tạo nên từ ba lớp cơ bản:
Lớp bên ngoài, thể hiện những quan hệ tình cảm trực tiếp giữa các cá
nhân. Lớp thứ hai, là sự cấu trúc ở mức độ cao hơn gọi là sự “thống nhất về
định hướng giá trị” và đặc điểm của quan hệ ở đây mang tính gián tiếp, thể
hiện sự hòa hợp các hướng của các thành viên đối với các giá trị cơ bản. Các
quan hệ này liên hệ mật thiết với quá trình hoạt động chung.
6677
Lớp thứ ba của cấu trúc nhóm nằm sâu hơn và đòi hỏi cá nhân phải
“thâm nhập” hơn nữa vào hoạt động chung của nhóm. Lớp này gọi là hạt nhân
của cấu trúc nhóm. Quá trình phát triển các mối quan hệ trong nhóm đồng
thời cũng là quá trình hình thành và phát triển sự nhất trí của nhóm. Ba lớp cơ
cấu của nhóm có thể xem như ba mức độ phát triển của nhóm.
Các nhà tâm lý học Xô viết cho rằng: hoạt động chung là cái quyết định
chủ yếu sự hình thành nhóm từ khía cạnh tâm lý. Hoạt động chung không chỉ
là điều kiện chế định khách quan của sự tồn tại nhóm nhỏ mà còn là cơ sở bên
trong của sự tồn tại đó. Trên cơ sở phát triển của hoạt động này bản thân
nhóm sẽ thay đổi, trải qua các giai đoạn phát triển và trở thành tập thể.
5. Cấu trúc của nhóm là một sự cân bằng tương đối
Cấu trúc của nhóm là một sự cân bằng tương đối, do ảnh hưởng của
những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã dẫn tới sự phá vỡ trạng thái
cân bằng của nhóm và làm thay đổi cấu trúc của nó. Yếu tố này như động lực
làm xuất hiện sự căng thẳng hoặc một chuỗi căng thẳng dẫn tới việc tìm kiếm
sự cân bằng mới, tức là thay đổi tổ chức của nhóm.
Trong nhóm thường tồn tại hai lực đối lập nhau: các lực của sự nhất trí,
chúng có xu hướng muốn giữ lại cấu trúc của nhóm và các lực của sự phân
hóa lại có xu hướng muốn thay đổi cấu trúc đó. Sự cân bằng của nhóm tồn tại
trong trường hợp nếu các lực lượng nhất trí của nhóm chiến thắng các lực
lượng phân hóa.
Nhóm thay đổi cấu trúc của mình khi trải qua trạng thái xung đột. Xung
đột nhóm là động lực, là nguyên nhân dẫn đến thay đổi cấu trúc của nhóm. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến xung đột của nhóm. Có thể chỉ ra một số nguyên
nhân cơ bản sau:
- Xung đột cá nhân, nguồn gốc của xung đột này là do sự bất đồng về
quan điểm, suy nghĩ. Mỗi cá nhân có một quan điểm, suy nghĩ riêng của
mình. Chính điều này dẫn đến sự căng thẳng trong nhóm và cần được giải
quyết bằng cải tổ nhóm.
- Xung đột giữa các cá nhân, trường hợp này nguồn gốc của xung đột bắt
nguồn từ quan hệ giữa hai hoặc một số thành viên trong nhóm trong cuộc
sống hoặc trong hoạt động chung.
6688
- Xung đột do ràng buộc hai thành viên A và B tạo nên trong nhóm nhỏ.
Những khó khăn của nhóm lớn này đã dẫn đến xung đột giữa A và B.
- Xung đột giữa các nhóm: A và B là thành viên của nhóm, nhóm này có
thể xung đột với nhóm khác mà họ không là thành viên. Sự xung đột giữa các
nhóm có thể dẫn đến xung đột bên trong các nhóm nhỏ.
- Xung đột do các nguyên nhân xã hội: các nguyên nhân từ bên ngoài xã
hội như kinh tế, văn hóa, tôn giáo, chính trị... có thể dẫn đến xung đột và căng
thẳng trong nhóm nhỏ.
Xung đột nhóm thường để lại hậu quả: Hình thành các nhóm nhỏ hơn
hay thay đổi theo hướng phân tán thành các nhóm nhỏ; loại trừ thành viên có
chính kiến để làm cho phái đối lập trở thành thiểu số hay giảm đi sự căng
thăng trong nhóm; thay đổi tổ chức của nhóm; xuất hiện hay thay đổi người
lãnh đạo; sự tan rã, giải tán nhóm.
6. Quá trình ra quyết định của nhóm liên hệ chặt chẽ với vai trò thủ
lĩnh và vai trò lãnh đạo
Ra quyết định là một trong những chức năng quan trọng của người lãnh
đạo. Việc tổ chức nhóm để ra quyết định là chức năng đặc biệt phức tạp. Trong
tâm lý học xã hội các nhà nghiên cứu đã đưa ra kết luận: những quyết định của
nhóm trong nhiều trường hợp có hiệu quả hơn những quyết định của cá nhân.
Hai nhà tâm lý học Pháp A.M.Robert và Ph.Tilman đã chỉ rõ: nói đến quá
trình ra quyết định của nhóm là nói đến sự thảo luận của nhóm về một vấn đề
nào đó, nhờ kết quả thảo luận ấy mà đưa ra một hay một số quyết định.
A.M.Robert và Ph.Tilman đã chia quá trình ra quyết định của nhóm ra bốn giai
đoạn: xác định dữ kiện; đánh giá dữ kiện; tìm kiếm quyết định; ra quyết định.
Phương pháp hoạt động của nhóm theo các giai đoạn nêu trên phù hợp
và có hiệu quả đối với phong cách lãnh đạo dân chủ. Người lãnh đạo không
chỉ chăm chú nghe và kiểm tra các thông tin, mà còn động viên tất cả các
thành viên bày tỏ chính kiến của mình. Điều quan trọng là trong quá trình ra
quyết định của nhóm, người lãnh đạo phải tổ chức như thế nào đó để các
thành viên trong nhóm tham gia đóng góp vào các quyết định một cách tự do,
6699
dân chủ nhất với cách là trung tâm các quan hệ tình cảm hoặc trung tâm của
một số thành viên nào đó trong nhóm. Thường trong nhóm nhỏ có sự phân
công lao động đặc biệt giữa thủ lĩnh và lãnh đạo.
Trong công tác lãnh đạo và quản lý, vấn đề thủ lĩnh và lãnh đạo có ý
nghĩa rất lớn. Đó cũng là vấn đề rất phức tạp và hết sức tế nhị. Làm thế nào để
thủ lĩnh và lãnh đạo không mâu thuẫn với nhau trong hoạt động nhóm và có
thể chỉ định hoặc bầu thủ lĩnh làm lãnh đạo được không, người lãnh đạo có
thể làm thủ lĩnh trong lĩnh vực tình cảm, sở thích không, v.v.. Để đảm bảo cho
các nhóm, các tổ chức hoạt động có hiệu quả, những người làm công tác quản
lý phải luôn luôn chú ý đến các vấn đề này.
7. Tập thể là một loại hình của nhóm
Thuyết phát triển nhóm là một trong những khuynh hướng nghiên cứu
của tâm lý học xã hội hiện đại phương Tây theo trường phái phân tâm học.
Thuyết này do hai nhà tâm lý học xã hội Mỹ là U.Benhis và G.Separ đưa ra.
Hai ông đã chia ra hai giai đoạn phát triển của nhóm. Nội dung giai đoạn I là
giải quyết thủ lĩnh và giai đoạn II là giải quyết mối quan hệ tương hỗ giữa các
thành viên trong nhóm. Mỗi giai đoạn này lại chia ra ba giai đoạn nhỏ, tức là
toàn bộ sự phát triển của nhóm chia ra 6 giai đoạn: Giai đoạn I, chia thành ba
giai đoạn nhỏ: Phụ thuộc - chạy trốn; Chống lại sự phụ thuộc - chạy trốn; Giải
quyết. Giai đoạn II, chia thành ba giai đoạn nhỏ: Phụ thuộc lẫn nhau; Thất
vọng - chia rẽ; Lập luận được phối hợp chặt chẽ.
Từ cách chia này cho thấy sự phụ thuộc và phụ thuộc lẫn nhau, quyền
lực và tình yêu, sự ảnh hưởng và sự gần gũi được xem như là vấn đề trọng
tâm cuộc sống của nhóm. Sự phát triển của nhóm từ giai đoạn I sang giai đoạn
II thể hiện sự biến đổi quan trọng không chỉ từ quyền lực đến tình cảm, mà
còn từ vai trò đến nhân cách.
Nếu nhóm nhỏ được đặc biệt quan tâm trong tâm lý học xã hội phương
Tây, thì tập thể là đối tượng quan trọng của tâm lý học xã hội Xô viết vào giai
đoạn trước cải tổ ở Liên Xô cũ. Tập thể là một loại hình của nhóm tồn tại
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, là hình thức tổ chức chủ yếu của những người
lao động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
7700
Tập thể là kết quả phát triển của nhóm trong một hệ thống xã hội nhất
định. Vì vậy, tập thể chỉ là nhóm đã hình thành với những đặc điểm tâm lý
nhất định dựa trên cơ sở hoạt động của các thành viên trong nhóm. Việc
nghiên cứu công tác quản lý tập thể, nghiên cứu sự hình thành và phát triển
của nó có ý nghĩa to lớn đối với việc tìm ra các biện pháp để nâng cao năng
suất lao động và chất lượng công việc. Người đặt nền móng cho việc nghiên
cứu tập thể trong tâm lý học xã hội Xô viết là nhà sư phạm A.Makarenko
(1888 - 1939). A.Makarenko đã chỉ ra quá trình phát triển của tập thể phải trải
qua một loạt các giai đoạn theo hướng ngày càng hoàn thiện. Sau đó tâm lý
học xã hội Xô viết đã chỉ ra các dấu hiệu cơ bản của tập thể là:
Sự tập trung của các thành viên để đạt được mục đích xã hội nhất định.
Sự tồn tại có tính chất tập trung tự giác của các thành viên.
Tính tổng thể là dấu hiệu quan trọng biểu hiện tập thể như một hệ thống
hoạt động có tổ chức, có phân công chức năng, có cơ cấu lãnh đạo và quản lý.
Các quan hệ tương hỗ của các thành viên nhằm đảm bảo nguyên tắc phát
triển nhân cách cùng với sự phát triển của tập thể.
Luận điểm tập thể phải trải qua các giai đoạn nhất định trong quá trình
phát triển đã được nhà tâm lý học Xô viết A.V.Petrôpxki tiếp tục và phát
triển. Theo A.V.Petrôpxki, nhóm được cấu tạo từ ba lớp, mỗi lớp được đặc
trưng bằng những nguyên lý nhất định mà từ đó hình thành các quan hệ giữa
các thành viên của nhóm.
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, lý luận tâm lý về
tập thể đã chiếm một vị trí quan trọng trong việc nghiên cứu nhóm, đặc biệt là
những nhóm có mức độ phát triển cao - tập thể (theo quan điểm của các nhà
tâm lý học Xô viết). Trong lịch sử của tâm lý học xã hội, lý luận tâm lý về tập
thể tồn tại như một khuynh hướng nghiên cứu của một trường phái tâm lý học
ở thế kỷ XX - trường phái tâm lý học xã hội Xô viết.
Vận dụng kết quả nghiên cứu nhóm nhỏ là một trong những vấn đề có ý
nghĩa thiết thực đối với cán bộ chỉ huy lãnh đạo trong quá trình xây dựng các
đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện. Trong quá trình vận dụng cần chú ý một
số điểm sau:
7711
Thứ nhất, nhận thức rõ tính đặc thù của tập thể quân nhân và đặc điểm
hoạt động quân sự.
Quân đội tuy là một tập thể lớn nhưng là một phần nhỏ của xã hội, gắn
liền một cách hữu cơ với các tập thể khác. Các phân đội của quân đội là
những tập thể với tất cả những nét vốn có của nó. Xét về mặt ý nghĩa xã hội,
dù là binh sĩ hay sĩ quan đều là một thành viên của xã hội, là đại biểu của một
giai cấp nhất định có nghĩa vụ xã hội trong các tập thể quân nhân.
Xét về đặc điểm nghề nghiệp, mỗi quân nhân có thể là người chỉ huy
hoặc nhân viên cấp dưới, người chiến sĩ bộ binh hay chiến sĩ pháo binh ... đều
phải thực hiện các chức năng thực tiễn, đạo đức trong bất kỳ lúc nào. Với tư
cách là một công dân được vũ trang bảo vệ Tổ quốc, người chiến sĩ có ý thức
về trách nhiệm của mình trước vận mệnh của Tổ quốc, đồng thời cũng có
quyền lợi như những công dân khác. Tất cả điều đó cho phép họ kết hợp một
cách đúng đắn quyền lợi xã hội và quyền lợi cá nhân, phát triển tinh thần
nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội; là cơ sở của tính tổ chức và tinh thần kỷ luật,
của sự tích cực và sáng tạo trong hoạt động.
Tập thể quân đội nhờ có những nét đặc biệt của nó sẽ có tác động khách
quan đối với nhân cách người chiến sĩ, sẽ đào tạo người chiến sĩ thành một
công dân được vũ trang để bảo vệ Tổ quốc. Tập thể quân nhân là phạm vi xã
hội gần gũi nhất, là môi trường nhỏ đối với cá nhân, nối liền cá nhân với xã
hội. Nói một cách khác, không có bước chuyển tiếp trực tiếp từ cái xã hội
toàn thể tới mỗi cá nhân, mà chỉ có sự chuyển tiếp thông qua tập thể trước hết
là tập thể cơ sở, nơi cá nhân sống và hoạt động. Tập thể cơ sở không chỉ đề
cập đến số lượng nhiều hay ít các thành viên tham gia, mà dấu hiệu quan
trọng nhất là mức độ quan hệ ảnh hưởng trực tiếp giữa các thành viên đó. Tập
thể cơ sở có những ảnh hưởng xã hội muôn màu muôn vẻ đối với cá nhân, đó
là nơi chuyển hóa các nhân tố xã hội thành các nhân tố cá nhân, tức là diễn ra
sự xã hội hóa của con người. Trong quân đội các tập thể cơ sở là thường là ở
cấp đại đội, trung đội, hạm tàu, kíp bay hoặc lớp học, tổ học tập, các khoa
giáo viên...
7722
Thứ hai, nắm chắc các hiện tượng tâm lý xã hội mang tính chất tự phát
nảy sinh trong quá trình giao tiếp giữa các quân nhân, có cơ chế điều chỉnh,
điều khiển phù hợp theo hướng tích cực.
Mối quan hệ giữa các quân nhân nói chung được chia thành các phạm vi
như; quan hệ công việc (quan hệ nghĩa vụ); quan hệ chính trị xã hội; quan hệ
sinh hoạt. Các quan hệ nghĩa vụ và quan hệ chính trị được ghi nhận chính thức
trong văn bản tổ chức của tập thể quân đội. Tuy nhiên, trong công việc cũng
như trong sinh hoạt hàng ngày, con người vẫn luôn tác động lẫn nhau cả về lý
trí và tình cảm. Bởi vậy, không thể đồng nhất nhưng cũng không thể tách rời
các quan hệ đó với nhau được.
Trong các nhóm nhỏ, có cả nhóm có xu hướng tốt và có nhóm có xu
hướng xấu, quan hệ người với người có tính phân vai tự phát, có cá nhân giữ
vai trò “chủ đạo” (thủ lĩnh), còn các cá nhân khác đóng vai “đi theo”. Điều đó
đòi hỏi người chỉ huy và lãnh đạo đơn vị phải biết nguyên nhân làm nảy sinh ra
các nhóm này, các chức năng và cơ chế đã hình thành nên nó để tiến hành công
tác có kết quả theo phương hướng khuyến khích, tạo điều kiện hình thành
những nhóm tích cực; ngăn chặn những nhóm có xu hướng xấu xuất hiện, cải
tạo ý đồ của họ, làm trung hòa ảnh hưởng xấu của chúng đối với tập thể, chú ý
đặc biệt đến cá nhân giữ vai trò “thủ lĩnh” của nhóm.
Thứ ba, cần phải đặc biệt quan tâm đến các hiện tượng tâm lý - xã hội
hình thành với một quá trình phức hợp của hoạt động và quan hệ qua lại trong
tập thể quân nhân.
Tập thể quân nhân là một tổ chức đặc thù trong lĩnh vực hoạt động quân
sự. Quá trình xây dựng, củng cố tập thể quân nhân chỉ có thể đạt hiệu quả cao
khi người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị đề cao trách nhiệm và có kỹ năng
tác động phù hợp với cấu trúc tâm lý, cơ chế hoạt động của các nhóm, tập thể
quân nhân. Khả năng ứng dụng lý thuyết nhóm nhỏ trong tâm lý học xã hội
vào xây dựng tập thể quân nhân vững mạnh là rất to lớn và toàn diện.
7733
Chương 6
Tập thể quân nhân
Xây dựng các tập thể quân nhân vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp xây dựng quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong tình hình mới là trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị. Muốn
làm tròn trách nhiệm to lớn trên cán bộ các cấp cần nắm vững những vấn đề
cơ bản về tâm lý học tập thể quân nhân và con đường, biện pháp xây dựng tập
thể quân nhân vững mạnh về mọi mặt.
I. Khái quát chung về tập thể quân nhân
1. Tập thể quân nhân
Trong xã hội ta, tồn tại nhiều nhóm và tập thể, có mối quan hệ qua lại và
tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó tập thể quân nhân là một loại hình tập
thể được tổ chức, xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Tập thể quân nhân là một loại hình tập thể trong xã hội, liên kết với nhau
trên cơ sở thống nhất mục đích hoạt động là vũ trang bảo vệ Tổ quốc.
Là một loại hình tập thể xã hội chủ nghĩa, tập thể quân nhân có đầy đủ
những đặc trưng vốn có của tập thể như: mục đích hoạt động mang ý nghĩa xã
hội cao cả, có sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, có sự nhất trí về quyền lợi chính
trị, kinh tế của mọi cán bộ, chiến sỹ... Bên cạnh đó, tập thể quân nhân còn có
những đặc trưng riêng, độc đáo phản ánh tính chất, nhiệm vụ của hoạt động
quân sự. Đó là:
- Tập thể quân nhân có mục đích hoạt động thống nhất là sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. ý nghĩa xã hội
to lớn và cao cả của tập thể quân nhân chính là ở mục đích và nhiệm vụ hoạt
động của nó. Mục đích đó gắn liền với sự tồn vong của đất nước; sự tự do,
bình đẳng, quyền sống và mưu cầu hạnh phúc của mọi người, mọi nhà trên
đất nước ta và góp phần gìn giữ hoà bình, ổn định của khu vực và trên toàn
thế giới. Đồng thời, nó còn có tác động trực tiếp giáo dục, phát triển nhân
7744
cách người quân nhân cách mạng. Trong tình hiện nay mục đích, nhiệm vụ
của các tập thể quân nhân là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
"giữ vững độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ các lợi ích quốc gia",
"ngăn ngừa, đập tan mọi âm mưu diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ và ứng
phó với mọi tình huống phức tạp khác có thể xẩy ra".
Sự thống nhất mục đích hoạt động trong tập thể quân nhân là cơ sở tạo
nên sự thống nhất về tư tưởng, tình cảm, quyết tâm hành động của mọi quân
nhân trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao. Sự thống nhất đó xuất
phát từ bản chất giai cấp, từ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và sự đồng thuận
cao của các quân nhân trong quân đội ta - một đội quân từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và
Bác Hồ.
- Tập thể quân nhân có tính tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật tự giác nghiêm
minh. Đặc trưng này xuất phát từ yêu cầu khách quan của hoạt động quân sự
và sự giác ngộ cao của các quân nhân trong quân đội ta về vinh dự, trách
nhiệm lớn lao đối với tổ quốc, với nhân dân.
Tiêu chuẩn để đánh giá hoạt động của tập thể quân nhân trong thời bình
là trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, trong thời chiến là chiến thắng kẻ thù trong
mọi tình huống. Hoạt động đó được thực hiện bằng sức mạnh của sự thống
nhất cao về tư tưởng, hành động; về sự hợp đồng thống nhất; sự thuần thục,
chính xác cao trong sử dụng vũ khí, trạng kỹ thuật quân sự. Do vậy, tập thể
quân nhân chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình khi có tổ chức chặt chẽ,
có kỷ luật tự giác nghiêm minh.
Đặc điểm trên đặt ra yêu cầu khách quan cho mỗi quân nhân và cả tập thể
phải có kỷ luật tự giác, nghiêm minh để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá
trình thực hiện mọi nhiệm vụ.
- Quan hệ qua lại giữa các thành viên trong tập thể quân nhân là loại
quan hệ đặc biệt - quan hệ đồng chí, đồng đội của những người cùng chung lý
tưởng chiến đấu, đó là cơ sở xuất hiện bầu không khí tâm lý tích cực lành
mạnh trong tập thể. Các mối quan hệ qua lại trong tập thể quân nhân trong
7755
quân đội ta mang bản chất của quân đội cách mạng, đó là sự phụ thuộc lẫn
nhau cả về trách nhiệm xã hội và sự cộng tác trên tình đồng chí.
Do có cùng mục tiêu, lý tưởng chiến đấu tất cả vì độc lập tư do của tổ
quốc vì hạnh phúc của nhân dân, quan hệ đồng chí, đồng đội trong tập thể tạo
nên sức mạnh to lớn vượt xa sức mạnh của tất cả các thành viên cộng lại.
Quan hệ qua lại trong tập thể quân nhân được biểu hiện tập trung ở bầu không
khí tâm lý tích cực lành mạnh, ở tính chất dân chủ nội bộ và sự tín nhiệm của
các thành viên đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy.
Tập thể quân nhân rất đa dạng, phong phú. Vì vậy, tuỳ theo cách tiếp cận
trong nghiên cứu mà có nhiều cách phân loại khác nhau.
- Căn cứ vào tính chất, nhiệm vụ đảm nhiệm của tập thể, có thể phân loại
tập thể quân nhân thành: Tập thể quân nhân làm nhiệm vụ huấn luyện và sẵn
sàng chiến đấu; tập thể quân nhân làm nhiệm vụ học tập; tập thể quân nhân
làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học; tập thể quân nhân làm nhiệm xây dựng
kinh tế....
- Căn cứ vào mức độ tiếp xúc giữa các quân nhân, có thể phân chia tập
thể quân nhân thành 3 loại: Tập thể lớn; tập thể vừa (tập thể thứ cấp); tập thể
cơ sở (tập thể nhỏ).
Trong các loại tập thể nói trên tâm lý học xã hội quân sự đặc biệt quan
tâm nghiên cứu về các tập thể cơ sở quân nhân.
2. Tập thể cơ sở quân nhân
a.Khái niệm
Tập thể cơ sở quân nhân là tập thể nhỏ trong quân đội, hàng ngày giữa
các quân nhân có quan hệ trực tiếp và thường xuyên về mọi mặt.
Trong quân đội tập thể cơ sở thường là cấp đại đội, trung đội, khẩu đội,
hạm tàu, kíp bay hoặc lớp học, tổ học tập, khoa giá viên... Cũng như các tập
thể quân nhân khác, tập thể cơ sở quân nhân được liên kết với nhau bởi mục
đích hoạt động chung là bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi xét
đến tập thể cơ sở quân nhân vấn đề không chỉ ở số lượng nhiều hay ít các
thành viên tham gia mà điều quan trọng nhất là mức độ quan hệ và ảnh hưởng
trực tiếp giữa các thành viên đó.
7766
Trong các tập thể cơ sở quân nhân hàng ngày các thành viên luôn có sự
trực tiếp tiếp xúc với nhau cả về công việc và tình cảm. Đây là điều kiện để
mọi quân nhân hiểu biết lẫn nhau, hướng hoạt động của mọi thành viên vào
thực hiện mục đích hoạt động chung của tập thể. Đồng thời, thông qua mối
quan hệ thường xuyên, trực tiếp về mọi mặt giữa các quân nhân mà những
hiện tượng tâm lý xã hội nẩy sinh ở đây tác động trực tiếp đến nhận thức, thái
độ, hành vi của các quân nhân trong tập thể. Vì thế tập thể cơ sở quân nhân có
vai trò rất to lớn trong việc bảo đảm chất lượng hoạt động mọi mặt của đơn vị
và giáo dục quân nhân.
Trước hết, nó là môi trường, điều kiện cho sự phát triển nhân cách quân
nhân; là cầu nối giữa quân nhân với quân đội và xã hội - nơi xã hội hoá nhân
cách, nơi chuyển các nhân tố xã hội thành phẩm chất cá nhân trong hoạt động
quân sự. Tập thể cơ sở quân nhân còn là nơi trực tiếp thực hiện mọi nhiệm vụ
của quân đội và bảo đảm chất lượng hoạt động mọi mặt của đơn vị. Vì vậy,
trong quá trình xây dựng đơn vị phải củng cố mọi mặt hoạt động của tập thể
cơ sở, xây dựng tập thể cơ sở vững mạnh đồng thời làm tốt việc giáo dục, rèn
luyện nhân cách quân nhân. Xây dựng nhân cách quân nhân phát triển tốt sẽ
thúc đẩy tập thể phát triển nhanh hơn, vững chắc hơn trong mọi hoàn cảnh.
Cũng như các tập thể khác trong xã hội, tập thể cơ sở quân nhân có ba
chức năng cơ bản sau:
- Chức năng nghiệp vụ quân sự: Đảm bảo thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ học tập, lao động, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu.
- Chức năng xã hội chính trị: Đảm bảo thực hiện có hiệu quả các hoạt
động chính trị - xã hội, tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Chức năng giáo dục: Thông qua việc thực hiện hai chức năng trên mà
giáo dục, xây dựng nhân cách quân nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội, của
quân đội.
Các chức năng trên thể hiện xuyên suốt toàn bộ quá trình xây dựng và
thực hiện mọi nhiệm vụ của các tập thể quân nhân. Thực hiện các chức năng
trên đòi hỏi cán bộ, chiến sỹ dù ở cương vị nào cũng phải ý thức được rằng
7777
tập thể cơ sở quân nhân là nơi cuối cùng thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ của
quân đội và xã hội, nơi diễn ra quá trình xã hội hoá nhân cách, là môi trường
giáo dục rèn luyện nhân cách quân nhân đáp ứng yêu cầu xã hội và quân đội.
Do đó phải nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần làm chủ tập thể, vì tập thể
để thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ được giao góp phần xây dựng tập thể cơ
sở quân nhân vững mạnh. Chính trong quá trình đó người quân nhân nhận
được sự giáo dục của tập thể kết hợp với sự vươn lên của bản thân sẽ tạo nên
quá trình hoàn thiện, phát triển nhân cách bản thân đáp ứng yêu cầu xã hội và
quân đội.
b.Các giai đoạn phát triển của tập thể cơ sở quân nhân.
Sự hình thành, phát triển của mỗi tập thể cơ sở quân nhân thường trải qua
ba giai đoạn sau đây:
- Giai đoạn tổng hợp ban đầu (khi tập thể vừa mới hình thành) là giai
đoạn mà các thành viên được tập hợp lại trong một đơn vị. Trong giai đoạn
này các quân nhân chưa có sự hiểu biết về nhau và về mục đích hoạt động
chung của tập thể. Đặc điểm tâm lý nổi bật trong giai đoạn này là mục đích
hoạt động của tập thể chưa được các thành viên ý thức đầy đủ, rõ ràng và
chưa có sự thống nhất cao với các yêu cầu, nhiệm vụ của tập thể. Giữa các
quân nhân chưa có sự hiểu biết nhiều về nhau nên họ chưa mạnh dạn bộc lộ
bản thân mà thường thích quan sát xem xét lẫn nhau về mặt nhân cách. Hơn
nữa, do được tập hợp từ các đơn vị khác nhau hoặc từ các vùng, miền, dân
tộc... khác nhau cho nên mỗi quân nhân ít nhiều còn mang theo những thói
quen, phong cách sống và hoạt động khác nhau, thậm chí không phù hợp với
mục đích, yêu cầu hoạt động của tập thể (nhất là các đơn vị tân binh). Đây là
thời kì quân nhân phải dần dần thích nghi với các yêu cầu của tập thể, làm
quen với mọi người. Đồng thời, tuỳ theo phẩm chất, năng lực của bản thân; sự
đánh giá của chỉ huy, lãnh đạo và những người xung quanh mà xác lập vị thế
của mình trước tập thể và bắt đầu tự thể hiện mình.
Từ những đặc điểm trên, trong quá trình xây dựng tập thể cán bộ lãnh đạo,
chỉ huy đơn vị cần nhanh chóng ổn định tổ chức; quán triệt yêu cầu, nhiệm vụ
của đơn vị, thống nhất mục đích hoạt động chung của tập thể; kết hợp giáo
7788
dục với duy trì nghiêm các chế độ điều lệnh, điều lệ kỷ luật quân đội để nhanh
chóng đưa mọi hoạt động của tập thể vào nề nếp. Đồng thời, bằng nhiều hoạt
động phong phú đa dạng để tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quân nhân;
kịp thời động viên, khích lệ những quân nhân tích cực và uốn nắn những thói
quen hành vi không phù hợp với yêu cầu của tập thể. Để thực hiện các yêu
cầu trên cán bộ các cấp cần thận trọng khi đưa ra nhận xét, đánh giá đối với
chiến sỹ, khéo léo đưa họ vào nề nếp, kỷ luật quân sự mà vẫn giữ được quan
hệ chân tình, không gia trưởng, độc đoán.
- Giai đoạn phân hoá (tập thể đang trưởng thành), là giai đoạn các quân
nhân trong tập thể đã có sự hiểu biết rõ hơn về nhân cách của những người
xung quanh và mỗi người cũng bộc lộ rõ hơn những đặc điểm cá nhân của
mình trước tập thể. Những mối quan hệ dựa trên cơ sở cùng chung mục đích,
xu hướng, sở thích... giữa các quân nhân được thiết lập, từ đó trong tập thể
hình thành các nhóm không chính thức. Trong các nhóm này, bên cạnh những
nhóm được hình do sở thích, thói quen, sự đồng cảm về tâm lý... còn có thể
xuất hiện các nhóm không chính thức tích cực hoặc tiêu cực trong tập thể.
Nhóm không chính thức tích cực là nhóm có xu hướng hoạt động phù hợp
với mục đích, yêu cầu của tập thể; tích cực ủng hộ lãnh đạo, chỉ huy, người
tốt, việc tốt, có tác dụng giáo dục nhân cách quân nhân và xây dựng tập thể.
Nhóm không chính thức tiêu cực thì cản trở sự tiến bộ của tập thể, tìm cách
"đả kích'', bôi xấu nhóm tích cực và những người tốt, việc tốt gây ảnh hưởng
tiêu cực đến sự phát triển nhân cách quân nhân và sự trưởng thành, phát triển
của tập thể.
Nắm chắc đặc trưng của giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng giúp đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị dựa vào nhóm tích cực để lôi kéo
các thành viên trong tập thể vào hoạt động chung của đơn vị. Trước hết, cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cần chú trọng làm tốt công tác giáo dục mục đích
hoạt động chung của tập thể; xây dựng cho mỗi quân nhân tinh thần làm chủ
tập thể và nâng cao ý thức trách nhiệm về nghĩa vụ và vinh dự của mỗi quân
nhân. Đồng thời, dựa vào nhóm tích cực để phát huy, nhân rộng gương người
tốt, việc tốt; lên án những việc làm sai trái, cô lập và kết hợp với nhiều biện
7799
pháp về hành chính, tổ chức để xoá bỏ nhóm không chính thức tiêu cực trong
tập thể.
- Giai đoạn ổn định, phát triển (tập thể đã trưởng thành), là giai đoạn mà
mục đích hoạt động của tập thể quân nhân đã được mọi thành viên nhất trí
cao, coi như là mục đích hoạt động của bản thân. Trong cuộc sống, hoạt động
mọi quân nhân luôn căn cứ vào mục đích, yêu cầu của tập thể mà đòi hỏi lẫn
nhau và đòi hỏi chính bản thân mình hướng vào thực hiện thắng lợi mục đích
hoạt động chung của tập thể. Lúc này tập thể quân nhân đã thực hiện tốt các
chức năng của mình trong mọi hoàn cảnh, nội bộ đoàn kết nhất trí, bầu không
khí tâm lý tập thể lành mạnh, tích cực.
Để giữ vững và tiếp tục thúc đẩy sự phát triển ổn định, bền vững của tập
thể quân nhân trong giai đoạn này cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị
chủ yếu phải sử dụng phương pháp giáo dục thuyết phục, phát huy vai trò tích
cực, tự giác của các quân nhân; quan tâm đến đời sống, mọi mặt hoạt động
của tập thể. Đồng thời, đội ngũ cán bộ các cấp phải không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện bản thân về mọi mặt để đáp ứng với yêu cầu phát triển của tập thể
quân nhân.
Việc phân định các giai đoạn hình thành, phát triển tập thể quân nhân như
trên cũng chỉ là tương đối xét theo sự phát triển nội tại của nó chứ không phụ
thuộc vào thời gian tồn tại dài hay ngắn của tập thể. Nếu cán bộ, chiến sỹ
trong tập thể không phấn đấu thường xuyên, liên tục để xây dựng, củng cố tập
thể thì tập thể có thể "dẫm chân tại chỗ" không tiến lên giai đoạn cao hơn
hoặc có thể từ giai đoạn cao tụt xuống giai đoạn thấp hơn, thậm chí không còn
đủ điều kiện là một tập thể nữa.
II. Tâm lý tập thể quân nhân
1. Bản chất tâm lý tập thể quân nhân
Trong quá trình sống, hoạt động quân sự và sinh hoạt tập thể giữa các
quân nhân hình thành các mối quan hệ xã hội, quan hệ liên nhân cách phong
phú, đa dạng, phức tạp. Trên cơ sở các mối quan hệ đó nẩy sinh các hiện
tượng tâm lý chung của cả tập thể như: đánh giá, tự khẳng định, lây lan tâm
8800
lý, bắt chước, đồng cảm, ác cảm, cố kết, xung đột, dư luận, tâm trạng, uy tín,
truyền thống trong tập thể... Những hiện tượng này phản ánh điều kiện sống,
hoạt động của xã hội, của tập thể và có tác động chi phối mạnh mẽ đến thái
độ, hành vi của các quân nhân và cả tập thể. Dựa trên cơ sở tiếp cận hoạt
động, căn cứ vào sự nẩy sinh, hình thành, phát triển và sự tác động của tâm lý
tập thể các nhà tâm lý học xã hội quân sự Mác xít quan niệm:
Tâm lý tập thể quân nhân là những hiện tượng tâm lí chung của nhóm và
tập thể, nẩy sinh do phản ánh điều kiện sống, đặc điểm hoạt động và sự tác
động qua lại giữa các quân nhân trong quá trình hoạt động, giao tiếp có tác
động mạnh mẽ điều khiển, điều chỉnh, định hướng thái độ, hành vi, sự phát
triển nhân cách quân nhân và cả tập thể.
Tâm lý tập thể quân nhân không phải là phép cộng giản đơn tâm lý của
các quân nhân trong tập thể. Đó là hiện tượng tinh thần chung của cả tập thể,
được hình thành trên cơ sở phản ánh điều kiện sống, hoạt động của tập thể. Sự
phản ánh đầu tiên về hoàn cảnh xung quanh là do các các nhân. Sau đó thông
qua mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân những kết quả phản ánh của các
quân nhân diễn ra quá trình hợp nhất lại, hoà lẫn vào nhau và nảy sinh những
hiện tượng tinh thần chung của cả tập thể hoặc đại đa số thành viên trong tập
thể, tạo nên tâm lý tập thể.
Khi bàn về bản chất của tâm lý tập thể các nhà tâm lý học Mác xít dựa
trên cơ sở quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội đã chỉ ra: Tâm lý tập thể quân nhân là một phức hợp những
hiện tương tâm lý - xã hội trong nội bộ tập thể, vừa phản ánh điều kiện sống
chung của xã hội, dân tộc, giai cấp vừa phản ánh điều kiện sống và hoạt động
của từng tập thể.
Tập thể là một bộ phận sinh động của cơ thể xã hội, là tế bào của xã hội
do đó tâm lý của mỗi tập thể cụ thể trong đó có tập thể quân nhân là biểu hiện
của tâm lý xã hội. Đó là sự biểu hiện của đời sống tinh thần của một nhóm
người, một tập thể trong những điều kiện xã hội - lịch sử nhất định.
8811
Tâm lý tập thể thuộc về tâm lý xã hội nhưng không phải là sự sao chép lại
tâm lý xã hội một cách đầy dủ và cứng nhắc. Trong tâm lý tập thể quân nhân
vừa phản ánh điều kiện chung của xã hội, dân tộc, giai cấp vừa phản ánh điều
kiện sống, hoạt động của tập thể quân nhân. Tâm lý tập thể hình thành là kết
quả sự phản ánh những tác động và biến đổi của điều kiện xã hội- lịch sử như
điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, hệ tư tưởng, trào lưu, xu
hướng xã hội.... đồng thời phản ánh những đặc điểm riêng của mỗi tập thể
như: nhiệm vụ chính trị được giao, tình hình tổ chức, biên chế, điều kiện
phương tiện bảo đảm, đời sống vật chất, tinh thần, phong cách lãnh đạo, chỉ
huy của cán bộ các cấp, đặc điểm tâm lý, lối sống các mối quan hện qua lại
giữa các thành viên trong tập thể... Tâm lý tập thể quân nhân chịu sự chi phối
mạnh mẽ của hệ tư tưởng giai cấp, điều kiện kinh tế - xã hội, yêu cầu nhiệm
vụ chính trị của quân đội, của đơn vị trong từng thời điểm nhất định. Vì vậy,
tâm lý tập thể quân nhân vừa phản ánh cái chung của xã hội vừa phản ánh cái
riêng, cái đặc thù của mỗi tập thể quân nhân. Tuy nhiên, những đặc điểm của
hoạt động quân sự, nhiệm vụ chính trị của mỗi đơn vị sẽ quy định quá trình
hình thành và phát triển các hiện tượng tâm lý xã hội trong tập thể quân nhân.
Tâm lý của mỗi tập thể quân nhân có quan hệ chặt chẽ với tâm lý các
thành viên trong tập thể. Sự phản ánh đầu tiên về hoàn cảnh và điều kiện xã
hội - lịch sử là do các quân nhân. Sau đó, những kết quả của sự phản ánh này
diễn ra quá trình hợp nhất lại, hoà lẫn vào nhau làm nảy sinh những hiện
tượng tâm lý chung (tâm lý tập thể quân nhân). Tâm lý tập thể quân nhân khi
đã hình thành nó tác động trở lại rất mạnh mẽ, điều khiển, điều chỉnh, định
hướng sự hình thành, phát triển thái độ, hành vi, nhân cách quân nhân và cả
tập thể quân nhân.
2. Cấu trúc của tâm lý tập thể quân nhân.
Tâm lý tập thể quân nhân rất đa dạng phong phú, hình thức trọn vẹn của
tâm lý tập thể quân nhân là cấu trúc của nó. Đó là sự thống nhất và mối quan
hệ qua lại có hệ thống của các thành phần riêng lẻ.
8822
Xét theo hình thức tồn tại, tâm lý tập thể quân nhân gồm 2 loại cơ bản có
quan hệ biện chứng.
a. Loại thứ nhất gồm những hiện tượng tâm lý tập thể kém bền vững,
mang tính chất như những quá trình, gồm có: bắt chước, tự khẳng định, thi
đua, tranh đua, lây lan tâm lý, đồng cảm, ác cảm... của quân nhân nhân này
với quân nhân khác.
-Bắt chước, là sự mô phỏng, tái tạo, lập lại các hành động, hành vi, tâm trạng,
cách thức, suy nghĩ, ứng xử của một người hay một nhóm người nào đó.
Bắt chước là một trong những phương thức để hình thành thái độ và hành
vi ứng xử của quân nhân trong tập thể, đồng thời qua bắt chước quân nhân
tiếp nhận được các ảnh hưởng, nắm được các kinh nghiệm xã hội lịch sử nhất
định một cách tự phát. Tuy nhiên tuỳ theo sự bắt chước của quân nhân diễn ra
trong điều kiện nào, theo hình ảnh lý tưởng nào mà tác dụng của nó mang lại
là phù hợp hay không phù hợp với yêu cầu tập thể và sự phát triển nhân cách
người quân nhân cách mạng. Vì vậy, nhiệm vụ của nhà giáo dục là kịp thời
xem xét mẫu mực mà các quân nhân lựa chọn để bắt chước, hiểu được nguyên
nhân tại sao có hiện tượng đó, hiểu được tính chất và mức độ ảnh hưởng của
bắt chước mà có những biện pháp điều chỉnh phù hợp.
- Tự khẳng định, là mong muốn của quân nhân muốn tự nhận thức bản
thân mình, muốn đạt tới và giữ được một vị trí nhất định trong tập thể và được
mọi người trong tập thể thừa nhận, tin tưởng, yêu mến, ủng hộ, giúp đỡ hoặc
bảo vệ....
Tự khẳng định là nhu cầu tự nhiên của con người sống trong tập thể. Nó
phản ánh tính tích cực của ý thức, sự hiểu biết và tình cảm cá nhân trong tập
thể. Tự khẳng định của quân nhân diễn ra trong tập thể phản ánh mối quan hệ
giữa trình độ phát triển của tập thể và trình độ của mỗi thành viên. Do đó, mỗi
thành viên muốn có nội dung, phương hướng tự khẳng định phù hợp phải dựa
vào tập thể, nhưng mỗi thành viên tự khẳng định đúng lại là điều kiện để thúc
đẩy tập thể quân nhân phát triển.
8833
- Thi đua và đua tranh, là sự nỗ lực giữa các quân nhân trong tập thể cùng
nhau đem hết tài năng, sức lực thúc đẩy hoạt động nhằm đạt thành tích cao
trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và công tác.
Thi đua là một công cụ tâm lý quan trọng để phát huy tính tích cực của tập
thể quân nhân. Người chỉ huy, lãnh đạo cần phải dựa vào hiện tượng tâm lý
này để phát huy tính tích cực của tập thể quân nhân. Tuy nhiên, phải hướng
quân nhân vào các nội dung, chỉ tiêu thi đua xã hội chủ nghĩa phục vụ trực
tiếp cho thực hiện thắng lợi các yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị; kịp thời khắc
phục sự tranh đua không lành mạnh chỉ vì động cơ cá nhân ích kỉ, vi phạm
các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng.
- Đồng cảm về tâm lý, là sự chia sẻ cảm xúc, bộc lộ thái độ thân thiện với nhau
giữa các quân nhân. Nó biểu hiện ra ở sự quan tâm, yêu mến, tôn trọng và tin tưởng
lẫn nhau. Đây là tiền đề cho tình thân ái, là một trong những yếu tố quan trọng để liên
kết và tạo ra sự thích ứng nhau về mặt tâm lí giữa các quân nhân.
Cội nguồn tạo nên sự đồng cảm về tâm lý giữa các quân nhân trong quân
đội ta bắt nguồn từ bản chất xã hội, giai cấp và mục tiêu, lý tưởng chiến đấu
của quân đội và dựa trên sự giác ngộ sâu sắc của mỗi quân nhân về chính trị,
tư tưởng, chuẩn mực đạo đức của người quân nhân cách mạng và những giá
trị lớn lao của tình đồng chí, tình bạn chiến đấu trong truyền thống cách
mạng tốt đẹp của quân đội ta.
Xây dựng sự đồng cảm tâm lý ổn định, bền vững giữa các quân nhân trong tập
thể trong suốt quá trình hoạt động là điều kiện có ý nghĩa quan trọng góp phần xây
dựng tập thể quân nhân vững mạnh và tạo nên môi trường thuận lợi thúc đẩy sự
phát triển nhân cách quân nhân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tập thể.
ác cảm về tâm lý, là sự không ưa thích, bộc lộ thái độ thiếu thân thiện,
hình thành xu hướng đấu tranh và đối lập nhau giữa các quân nhân. Nó được
biểu hiện ở sự bất đồng, ganh gét, thiếu tôn trọng, bất hợp tác với nhau trong
quá trình sống, hoạt động của các quân nhân trong tập thể.
ác cảm về tâm lý là nguyên nhân làm nẩy sinh những cảm xúc tiêu cực
giữa quân nhân với quân nhân và tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống,
hoạt động của tập thể. Nếu không phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp
8844
thời những ác cảm về tâm lý sẽ tồn tại lúc ngấm ngầm, lúc công khai và phá
vỡ mối quan hệ đoàn kết, gắn bó trong tập thể.
b. Loại thứ hai, gồm những hiện tượng tâm lý tập thể tương đối ổn định,
bền vững mang tính chất như là các thuộc tính tâm lý, bao gồm: dư luận tập
thể, tâm trạng tập thể, uy tín trong tập thể, truyền thống tập thể... Những hiện
tượng tâm lý xã hội này hình thành trong một quá trình phức hợp cuả hoạt
động và quan hệ qua lại trong tập thể quân nhân và có tác động mạnh mẽ đến
mọi mặt đời sống, hoạt động của tập thể.
III. Biện pháp tâm lý - xã hội chủ yếu xây dựng tập thể cơ sở quân
nhân vững mạnh toàn diện
Xây dựng tập thể cơ sở quân nhân vững mạnh toàn diện là trách nhiệm
của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp ở mỗi đơn vị. Để thực hiện trách nhiệm
đó lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị cần nghiên cứu, vận dụng tổng hợp nhiều biện
pháp nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, điều kiện để xây
dựng tập thể. Trong đó, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là phải nắm và thực hiện
tốt những biện pháp tâm lý - xã hội cơ bản sau.
1. Thống nhất mục đích hoạt động cho tập thể và nhanh chóng chuyển
nó thành mục đích hoạt động của mỗi quân nhân.
Mục đích hoạt động của tập thể cơ sở quân nhân là cơ sở tạo nên sự thống
nhất về tư tưởng và hành động của mọi quân nhân. Đó cũng là điều kiện bảo
đảm sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội trong mọi hoạt
động của các quân nhân trong tập thể. Vì vậy, thống nhất mục đích hoạt động
cho tập thể và nhanh chóng chuyển nó thành mục đích hoạt động của mỗi
quân nhân là vấn đề quan trọng hàng đầu, tạo cơ sở phát huy tính tích cực tự
giác của mọi quân nhân trong quá trình xây dựng và thực hiện thắng lợi các
chức năng, nhiệm vụ của tập thể để xây dựng tập thể cơ sở quân nhân vững
mạnh toàn diện.
Thực hiện biện pháp trên cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị phải thường xuyên
làm tốt công tác giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị, mục tiêu, lý tưởng chiến
đấu của Đảng, của quân đội và trách nhiệm, nghĩa vụ của người quân nhân với
8855
Tổ quốc. Đồng thời, quán triệt sâu sắc các quan điểm, nghị quyết của Đảng về
bảo vệ Tổ quốc; nhiệm vụ chính trị của đơn vị, những thuận lợi khó khăn và khả
năng thực hiện của đơn vị đến mọi thành viên, từ đó dân chủ bàn bạc và đi đến
thống nhất mục đích trước mắt và mục đích lâu dài của tập thể. Việc thống nhất
mục đích hoạt động cho tập thể cơ sở quân nhân được thực hiện thông qua các
nhiệm vụ, nội dung giáo dục thường xuyên của đơn vị qua đó tác động vào hệ
thống động cơ, mục đích hoạt động của cán bộ, chiến sỹ để biến những yêu cầu
khách quan của xã hội, quân đội thành mục đích hoạt động của mỗi quân nhân.
Trên cơ sở đó tổ chức phân công, giao nhiệm vụ, đặt kế hoạch cụ thể cho từng
bộ phận, từng cá nhân, phát động thi đua hướng vào thực hiện mục đích hoạt
động đã được vạch ra, qua đó hình thành ở mỗi quân nhân xu hướng vươn tới
mục đích hoạt động chung của tập thể.
Cùng với các yêu cầu trên, trong quá trình hoạt động cán bộ lãnh đạo, chỉ
huy đơn vị phải thường xuyên kiểm tra, đối chiếu kết quả hoạt động với mục
đích đã vạch ra, kịp thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc xa rời mục đích
hoạt động của tập thể. Đồng thời, phải thông qua nhiều hình thức, phương
pháp tác động thích hợp để phát huy tính tích cực, chủ động của quân nhân
trong thực hiện mọi nhiệm vụ, coi công việc của tập thể như của mình. Từng
bước tập thể đạt được những thành tích nhất định để củng cố, xây dựng niềm
tin cho quân nhân trên con đường thực hiện mục đích hoạt động của tập thể.
2. Tổ chức tốt các hoạt động chung cho tập thể cơ sở quân nhân
Tập thể cơ sở quân nhân chỉ có thể trưởng thành, phát triển thông qua các
hoạt động chung. Đó cũng là điều kiện để các hiện tượng tâm lý - xã hội tích
cực trong tập thể hình thành và phát huy tác dụng ảnh hưởng của nó.
Tổ chức tốt các hoạt động chung của tập thể là làm cho mọi hoạt động của
tập thể diễn ra phù hợp với tính chất, đặc điểm nhiệm vụ; có nội dung đa
dạng, phong phú, thiết thực, thu hút được đông đảo quân nhân trong tập thể
tham gia hướng vào thực hiện thắng lợi các chức năng, nhiệm vụ của tập thể.
Thông qua đó mà hình thành sự tương đồng tâm lý, tinh thần đoàn kết tương
trợ giúp đõ lẫn nhau, hình thành tính kỷ luật và bầu không khí tâm lý tích cực
lành mạnh trong đơn vị.
8866
Để thực hiện biện pháp này đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị cần
nắm vững tình hình, đặc điểm nhiệm vụ của đơn vị; trình độ giác ngộ chính trị,
tư tưởng, đạo đức, năng lực nghiệp vụ và đặc điểm tâm lý lứa tuổi của các quân
nhân trong đơn vị. Trên cơ sở đó căn cứ vào nội dung, chương trình huấn luyện,
giáo dục; kế hoạch công tác và yêu cầu sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu của đơn vị
để tổ chức các hoạt động chung cho tập thể. Trong quá trình tổ chức phải hướng
mọi mặt hoạt động và đời sống vật chất tinh thần của tập thể vào mục đích chung
của tập thể; quan tâm đầy đủ đến nhu cầu, nguyện vọng và sự tiến bộ của mọi
thành viên; giáo dục cho mọi thành viên nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, chống
mọi biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị địa phương đi ngược với yêu
cầu, nhiệm vụ của tập thể. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần phát huy tốt vai trò của
hệ thống tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, các tổ chức quần chúng, các cá nhân có uy
tín trong tập thể. Đồng thời, thực hiện sự quản lý chặt chẽ, thực hành công bằng,
dân chủ; cán bộ phải thường xuyên lắng nghe ý kiến của quần chúng, đáp ứng
được các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng.
3. Xây dựng và củng cố mối quan hệ qua lại tích cực giữa các quân nhân.
Sự phát triển của tập thể quân nhân phụ thuộc rất lớn vào tính chất các
mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân trong tập thể. Mối quan hệ qua lại
tích cực, lành mạnh sẽ góp phần củng cố tập thể tạo nên sự đoàn kết, nhất trí
cao, có bầu không khí tâm lý tích cực, lành mạnh là điều kiện thúc đẩy sự
phát triển nhân cách quân nhân qua đó nâng cao hiệu suất hoạt động của tập
thể. Ngược lại, mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân tiêu cực, không lành
mạnh là tiền đề làm nẩy sinh sự mất đoàn kết, thiếu thống nhất và tạo ra các
hiện tượng tâm lý xã hội tiêu cực, kìm hãm sự phát triển nhân cách của các
quân nhân và tập thể quân nhân. Vì vậy, xây dựng củng cố mối quan hệ qua
lại tích cực giữa các quân nhân là một biện pháp quan trong góp phần xây
dựng tập thể cơ sở quân nhân vững mạnh.
Xây dựng các mối quan hệ qua lại tích cực trong tập thể cơ sở quân nhân là
làm cho các mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân luôn dựa trên cơ sở nền
tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chuẩn mực đạo đức của
người quân nhân cách mạng. Đó là mối quan hệ dựa trên sự nhất trí về chính trị,
đạo đức, sự bình đẳng xã hội, phù hợp với yêu cầu của điều lệnh, điều lệ quân
8877
đội và các chuẩn mực đạo đức cách mạng. Trong đó nét đặc trưng là tình đồng
chí, tình bạn chiến đấu, vừa tôn trọng, yêu thương lẫn nhau, vừa yêu cầu cao lẫn
nhau cùng hướng vào thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Xây dựng mối quan hệ qua lại trong tập thể cơ sở quân nhân cần tập trung
xây dựng các mối quan hệ giữa cán bộ - chiến sỹ, chiến sỹ - chiến sỹ và quan
hệ trong đội ngũ cán bộ sỹ quan với nhau. Trong quá trình đó cần giáo dục
cho mọi quân nhân ý thức đầy đủ các chuẩn mực thái độ, hành vi đạo đức
cộng sản; vai trò và các nguyên tắc của mối quan hệ qua lại giữa các quân
nhân trong quân đội ta. Đồng thời, thông qua tổ chức cuộc sống, hoạt động
làm cho quân nhân hiểu biết nhau sâu sắc, có thái độ tình cảm chân thành và
sự hợp tác trong hoạt động và hình thành sự đòi hỏi cao lẫn nhau nhằm tạo ra
sự nỗ lực chung của mọi quân nhân hướng vào thực hiện thắng lợi mọi nhiệm
vụ của tập thể. Cán bộ các cấp phải thực sự là trung tâm đoàn kết, là tấm
gương trong sáng về đạo đức cách mạng cho quân nhân noi theo và có kĩ năng
nắm bắt giải quyết kịp thời các xung đột nẩy sinh trong tập thể.
4. Phát huy vai trò các tổ chức, đội ngũ cán bộ các cấp và lực lượng
nòng cốt trong xây dựng tập thể cơ sở quân nhân.
Các tổ chức, đội ngũ cán bộ các cấp và lực lượng nòng cốt trong các tập
thể quân nhân là lực lượng đóng vai trò trung tâm lãnh đạo, quản lý, điều
hành toàn bộ quá trình xây dựng tập thể và bảo đảm cho các tập thể quân
nhân thực hiện thắng lợi các chức năng, nhiệm vụ được giao. Vì vậy, để xây
dựng tập thể quân nhân vững mạnh cần phát huy vai trò to lớn của các tổ
chức, đội ngũ cán bộ các cấp và lực lượng nòng cốt trong mỗi đơn vị.
Thực hiện giải pháp này trước hết phải phát huy vai trò, chức năng của tổ
chức Đảng, tổ chức chỉ huy và các tổ chức quần chúng trong lãnh đạo, quản
lý và điều hành mọi hoạt động của tập thể quân nhân. Đồng thời phải xây
dựng được mối quan hệ chặt chẽ, cùng tác động lẫn nhau giữa các tổ chức
hướng vào thực hiện thắng lợi các chức năng, nhiệm vụ của tập thể. Đối với
bộ phận lãnh đạo, chỉ huy đơn vị phải nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của
bản thân trước tập thể; phải không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao
8888
phẩm chất, năng lực của bản thân đáp ứng yêu cầu xây dựng tập thể. Đồng
thời cần tập hợp những quân nhân tích cực, lực lượng nòng cốt trong tập thể,
bồi dưỡng cho họ cả về phẩm chất, năng lực để họ cùng tham gia thuyết phục,
giáo dục cán bộ, chiến sỹ và gương mẫu đi đầu trong thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của tập thể.
5. Duy trì nghiêm các chế độ điều lệnh, điều lệ quân đội kết hợp với
chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho bộ đội.
Duy trì nghiêm các chế độ điều lệnh, điều lệ quân đội kết hợp với chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội là điều kiện quan trọng để nâng cao
tinh thần trách nhiệm, trạng thái làm việc nghiêm túc tạo môi trường thuận lợi
cho sự phát triển nhân cách mỗi quân nhân và cả tập thể.
Để thực hiện giải pháp trên đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy mỗi đơn vị cần xác
lập và duy trì tốt các chế độ điều lệnh, điều lệ quân đội; tổ chức nghiêm túc,
khoa học mọi hoạt động theo chức trách, nhiệm vụ của mỗi quân nhân. Đồng
thời quan tâm tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội. Trong điều
kiện cho phép cần cố gắng tối đa để thoả mãn những nhu cầu chính đáng của
quân nhân.
6. Chủ động, tích cực định hướng, điều khiển điều chỉnh các hiện
tượng tâm lý xã hội trong tập thể quân nhân theo hướng tích cực.
Xuất phát từ vai trò to lớn của các hiện tượng tâm lý xã hội nẩy sinh trong
tập thể đối với sự hình thành phát triển nhân cách quân đội và tập thể quân
nhân. Do đó, muốn xây dựng tập thể quân nhân vững mạnh lãnh đạo, chỉ huy
các cấp cần tích cực, chủ động định hướng các hiện tượng tâm lý xã hội trong
tập thể theo hướng tích cực hướng vào thực hiện thắng lợi các chức năng,
nhiệm vụ của tập thể.
Định hướng, điều khiển, điều chỉnh các hiện tượng tâm lý xã hội trong
tập thể quân nhân theo hướng tích cực là một quá trình khó khăn, phức tạp.
Muốn thực hiện tốt giải pháp này cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cần nắm
chắc đặc điểm, quy luật, cơ chế vận hành, các nhân tố tác động và sự biến đổi
của các hiện tượng tâm lý xã hội, biết tìm hiểu, đánh giá đúng thực trạng diễn
8899
biến của nó; có kĩ xảo, kĩ năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo các tri thức đó để
định hướng, điều khiển, điều chỉnh các hiện tượng tâm lí xã hội theo hướng
tích cực phù hợp với điều kiện sống, đặc điểm hoạt động và đặc trưng tâm lí
của các quân nhân trong tập thể. Trong đó cần coi trọng sự định hướng, điều
khiển, điều chỉnh các hiện tượng tâm lý xã hội tương đối ổn định bền vững,
có tác động to lớn đến mọi mặt đời sống, hoạt động của tập thể như: dư luận,
tâm trạng, uy tín, truyền thống nẩy sinh trong tập thể.
Tập thể cơ sở quân nhân là tế bào cơ bản tạo nên sức mạnh chiến đấu và
trưởng thành của quân đội. Trách nhiệm của người chỉ huy, cán bộ chính trị
cấp phân đội là xây dựng cho mọi tập thể cơ sở quân nhân vững mạnh về mọi
mặt. Muốn làm được điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ, sỹ quan phải có kiến thức và
sự hiểu biết sâu sắc về tập thể cơ sở quân nhân và tâm lý tập thể quân nhân để
có thể vận dụng vào điều kiện cụ thể của từng đơn vị, kết hợp với các biện
pháp tổng hợp để xây dựng tập thể cơ sở quân nhân vững mạnh về mọi mặt.
9900
Chương 7
Mối quan hệ qua lại và giao tiếp trong tập thể quân nhân
Quan hệ và giao tiếp giúp cho con người hoà nhập vào cộng đồng và xã
hội, hình thành, phát triển nhân cách. Theo Mác-Angghen: “Sự phong phú
thực sự về tinh thần của mỗi cá nhân là hoàn toàn phụ thuộc vào những mối
liên hệ hiện thực của họ” (Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG HN.1995, tr 53). Hiểu
biết về mối quan hệ qua lại và giao tiếp trong tập thể quân nhân giúp người
cán bộ chỉ huy, lãnh đạo biết cách tác động có hiệu quả tới quân nhân và tập
thể quân nhân.
I. Mối quan hệ qua lại trong tập thể quân nhân
1.Khái niệm, bản chất mối quan hệ qua lại trong tập thể quân nhân
a. Khái niệm mối quan hệ qua lại
Mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân trong tập thể quân nhân là tổ
hợp của các thành phần như tâm thế, định hướng, mong muốn và được thể
hiện qua cảm xúc, hành vi tác động lẫn nhau nảy sinh trên cơ sở của giao tiếp
và hoạt động chung giữa họ.
Quá trình giao tiếp và hoạt động chung giữa các quân nhân sẽ nảy sinh
các mối quan hệ thực tế được phản ánh vào những quan hệ chủ quan, vào tâm
lý họ. Có thể quan sát thấy những biểu hiện như: đồng cảm hay ác cảm, ủng
hộ hay phản đối, gần gũi hay xa cách, tin tưởng hay thiếu tin tưởng... giữa các
quân nhân.
Các mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân là điều kiện không thể thiếu
trong hoạt động của họ. Thông qua các mối quan hệ đó, quân nhân hiểu được
chính mình, ý thức được đầy đủ về mình.
9911
Trong tập thể, các mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân có vai trò rất
to lớn. Chúng góp phần thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách quân nhân, tập
thể quân nhân, tạo điều kiện cho tập thể nâng cao sức mạnh chiến đấu, đáp
ứng được yêu cầu khách quan của việc hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời mối
quan hệ qua lại tích cực giữa các quân nhân cũng tạo ra trong tập thể bầu
không khí tâm lý - đạo đức lành mạnh, hạn chế các xung đột tâm lý và sự phát
triển của các nhóm tiêu cực, tạo điều kiện cho các hiện tượng tâm lí xã hội
hình thành, phát triển theo hướng tích cực.
b. Bản chất mối quan hệ qua lại
Theo quan điểm tâm lí học Mác xít, mối quan hệ qua lại mang bản chất
xã hội, bản chất giai cấp, chịu sự quy định của điều kiện xã hội lịch sử, đặc
điểm hoạt động, đặc điểm tâm lí của chính các thành viên trong tập thể.
Mối quan hệ qua lại của các quân nhân trong quân đội ta dựa trên hệ tư
tưởng Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng, đó là mối
quan hệ mang bản chất XHCN biểu hiện sự nhất trí về chính trị-đạo đức, sự
bình đẳng về xã hội, các yêu cầu chặt chẽ về điều lệnh quân đội và chuẩn mực
đạo đức XHCN. Nó phản ánh đầy đủ các hình thức và nguyên tắc chung điển
hình của xã hội ta, được cụ thể hoá phù hợp với cuộc sống quân đội theo yêu
cầu điều lệnh. Trong đó nét đặc trưng là tình đồng chí, tình bạn chiến đấu,
đồng cam cộng khổ, tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, đòi hỏi lẫn nhau
để thực hiện tốt nhất nhiệm vụ.
Ngoài ra, quan hệ giữa các quân nhân còn là quan hệ giữa những nhân
cách cụ thể. Do đó những yếu tố tâm lí mang tính cá nhân như: trình độ phát
triển chính trị tinh thần, thế giới quan, tính cách, khí chất, năng lực... cũng
được phản ánh vào mối quan hệ qua lại.
2.Các kiểu( loại) mối quan hệ qua lại trong tập thể quân nhân
Các mối quan hệ qua lại rất phong phú, đa dạng và luôn biến động.
Chúng xen kẽ lẫn nhau, quy định lẫn nhau. Tính đặc thù của hoạt động quân
sự và tổ chức quân đội quy định các mối quan hệ qua lại như sau:
Căn cứ vào chức trách quân nhân có:
- Quan hệ chỉ huy - phục tùng: là quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới
9922
- Quan hệ cộng tác - phối hợp: là quan hệ giữa các quân nhân cùng cấp,
cùng chức.
Đây là các mối quan hệ đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động trong
tập thể quân nhân. Trong các loại quan hệ thì quan hệ chỉ huy - phục tùng
chịu sự tác động của con người ở mức độ lớn hơn nhiều so với các quan hệ xã
hội khác. Tính chất quan hệ này có ý nghĩa rất lớn, vì nó có thể làm tăng tính
tích cực, sáng tạo của quân nhân hoặc ngược lại có thể làm cho họ chán nản,
suy sụp. ở đây đòi hỏi người cán bộ phải nhận thức đúng vị trí, vai trò của
mình, có ý thức kỷ luật cao, nghiêm khắc với chính mình. Với cấp dưới cần
có thái đội tin cậy, quý trọng, ủng hộ sáng kiến, bình tĩnh, lắng nghe, khuyến
khích... Khi đó cấp dưới sẽ tự nguyện đến với cán bộ một cách thân mật thoải
mái. Thái độ tự ái, tự cao, tự đại, định kiến sẽ dẫn đến đánh giá cấp dưới thiếu
khách quan, ảnh hưởng xấu đến quan hệ cấp trên - cấp dưới.
Với quan hệ cộng tác, phối hợp đòi hỏi phải xác định rõ ràng, phân công
trách nhiệm phù hợp giữa các quân nhân, từ đó tạo điều kiện cho họ phối hợp
hành động chặt chẽ, thường xuyên và có hiệu quả.
Căn cứ theo tính chất pháp qui có:
- Quan hệ chính thức: Hệ thống các quan hệ được quy định trong văn
bản pháp lí, chỉ thị, điều lệnh, điều lệ hoặc không được ghi thành văn bản
nhưng được thể chế hoá thành hành động của tập thể theo truyền thống đã
được thừa nhận nhằm hướng hoạt động của mọi thành viên vào việc thực hiện
mục đích chung của tập thể, từ đó tạo nên cơ cấu chính thức trong tập thể.
- Quan hệ không chính thức: Hệ thống quan hệ giữa các cá nhân hình
thành trên cơ sở các yếu tố tâm lí như cùng sở thích, thói quen, khuynh
hướng, tuổi tác... tạo nên cơ cấu không chính thức trong tập thể.
Trong bất kỳ một tập thể nào cũng luôn tồn tại đồng thời, song song
quan hệ chính thức và không chính thức. Quan hệ chính thức thường chặt chẽ,
đúng mức theo khuôn khổ quy định. Mọi thành viên trong quan hệ này làm
việc liên quan chặt chẽ với nhau, trên cơ sở những nghĩa vụ và quyền hạn
nhất định.
9933
Các quan hệ không chính thức muôn màu muôn vẻ, giúp thoả mãn nhiều
nhu cầu xã hội của con người. Đây là các quan hệ nảy sinh một cách tự phát,
không thể dùng mệnh lệnh gạt chúng ra khỏi đời sống tập thể. Các quan hệ
không chính thức xâm nhập cả vào quan hệ chính thức, làm cho quan hệ đó
trở nên rõ ràng hơn
Căn cứ theo công việc có:
- Quan hệ công việc: Hệ thống quan hệ giữa các quân nhân ở các vị trí,
chức năng cụ thể khác nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, thể hiện sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa họ.
- Quan hệ tình cảm: Hệ thống quan hệ thể hiện thái độ giữa các quân
nhân với nhau trong cuộc sống và hoạt động.
Về nguyên tắc, quan hệ công việc bao giờ cũng được chuyên môn hóa. Các
cá nhân tham gia vào đó chủ yếu là để thực hiện những chức trách nhất định.
Nhờ quan hệ công việc mà tạo nên sự thống nhất hành động trong tập thể.
Trong quan hệ tình cảm, nét nổi bật là sự quan tâm cá nhân đến đối tượng
tiếp xúc. Quan hệ người - người ở đây thể hiện sự thoả mãn hay không thoả mãn
của các chủ thể với người khác với tư cách là đối tượng giao lưu của mình.
Sự phân chia ra các loại mối quan hệ qua lại chỉ mang tính chất tương
đối. Trên thực tế, các mối quan hệ qua lại liên quan chặt chẽ với nhau, xâm
nhập vào nhau, cùng ảnh hưởng tới cuộc sống, hoạt động chung của tập thể.
3. Hình thành mối quan hệ qua lại tích cực giữa các quân nhân.
a) Tuân thủ các nguyên tắc của mối quan hệ qua lại:
Từ bản chất của quân đội cách mạng và bản chất của hoạt động quân sự,
điều lệnh quân đội đã xác định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quân
nhân là:
- Thủ trưởng và sự phục tùng nghiêm ngặt: Chỉ rõ những yêu cầu cơ bản
với quân nhân trong quan hệ nội bộ như: phân chia thủ trưởng và thuộc
quyền, giao phó cho thủ trưởng quyền ra lệnh cho cấp dưới và nghĩa vụ của
cấp dưới phải chấp hành một cách chính xác và tuyệt đối mệnh lệnh của thủ
trưởng, phải kính trọng thủ trưởng.
9944
- Tính tập thể: Thể hiện rõ ý nghĩa của sự gắn bó lẫn nhau trong tập thể
quân nhân, sự tương hợp và sự thay thế lẫn nhau trong mọi điều kiện của hoạt
động quân sự.
- Tính nhân ái của những đồng chí cùng chiến đấu: Thể hiện xuyên suốt
toàn bộ điều lệnh nội vụ, đòi hỏi mọi quân nhân tôn trọng nhân cách của
nhau, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.
Các nguyên tắc quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉ đạo việc xây dựng các
mối quan hệ trong tập thể.
b) Các biện pháp chủ yếu hình thành mối quan hệ qua lại:
- Tạo nên sự thống nhất định hướng giá trị: Thống nhất định hướng giá
trị sẽ dẫn tới sự thống nhất đánh giá và hướng thái độ lựa chọn của quân nhân
vào những giá trị phù hợp với quan hệ giữa họ.
Hiện nay, phải tập trung hướng vào làm cho các giá trị chính trị, tinh thần
được coi trọng, xây dựng nhận thức chính trị cao, thống nhất phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ, tạo điều kiện phát triển lối sống theo tinh thần của chủ nghĩa tập thể, kế
thừa các giá trị tốt đẹp về truyền thống đoàn kết, nhân ái của dân tộc.
- Xây dựng bầu không khí tâm lý xã hội lành mạnh trong tập thể
Bầu không khí tâm lý xã hội được tạo nên bởi sự tác động tổng hợp của
các hiện tượng tâm lý xã hội, trong đó có mối quan hệ qua lại. Tuy nhiên, sự
hình thành phát triển mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân cũng chịu sự chi
phối, ảnh hưởng của các hiện tượng tâm lí xã hội. Vì thế cần chú ý định
hướng dư luận tập thể vào việc phát triển quan hệ giữa các quân nhân, điều
khiển được tâm trạng tập thể, chuẩn bị tốt tâm lý cho quân nhân trước những
nhiệm vụ cụ thể...
- Đa dạng hoá các hoạt động chung và phát triển giao tiếp tích cực giữa
các quân nhân.
Khi quân nhân càng tự giác tham gia vào hoạt động chung thì quan hệ
giữa họ càng có điều kiện phát triển. Mặt khác, giao tiếp tích cực giữa các
quân nhân làm cho mối quan hệ qua lại nhanh chóng được thiết lập. Cần
thống nhất về động cơ hoạt động, đảm bảo chương trình, kế hoạch hành động
9955
cụ thể, rõ ràng, thấu suốt tới mọi quân nhân, duy trì kỷ luật và sự phối hợp
chặt chẽ giữa các quân nhân, mở rộng các hình thức giao tiếp, đối thoại trong
cuộc sống, hoạt động chung.
- Phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ. Người cán bộ có vai trò đặc biệt
quan trọng trong thiết lập các quan hệ, quyết định tính chất các quan hệ. Nhân
cách của cán bộ có ảnh hưởng lớn tới chất lượng và chiều hướng phát triển của
quan hệ trong tập thể. Vì thế, người cán bộ phải hết sức chú trọng rèn luyện
phẩm chất và năng lực, tăng cường ảnh hưởng của mình trước các quân nhân.
II. Giao tiếp trong tập thể quân nhân.
1. Khái niệm
Giao tiếp là quá trình trao đổi thông tin, nhận biết và tác động lẫn nhau
trong quan hệ giữa các quân nhân để đạt được mục đích nhất định.
Giao tiếp không tách rời mối quan hệ qua lại nhưng cũng không đồng
nhất với mối quan hệ qua lại. Nhờ có sự giao tiếp giữa các quân nhân mà
quan hệ giữa họ trở lên sống động và cụ thể. Giao tiếp là quá trình hiện thực
hoá, là phương pháp thể hiện mối quan hệ giữa các quân nhân.
Thông qua giao tiếp tích cực giữa các quân nhân hình thành nên các
quan hệ tốt đẹp trong tập thể, giúp quân nhân phát triển nhận thức, đánh giá
bản thân, tự điều chỉnh mình. Với người cán bộ, giao tiếp giúp định hình
phong cách, tác phong công tác, hiểu rõ cấp dưới, tạo thuận lợi cho xây dựng
tập thể.
2. Chức năng cơ bản của giao tiếp
- Chức năng thông báo: Truyền tín hiệu để thực hiện mục đích gíao tiếp
(thu, nhận và xử lý thông tin).
Chức năng này được thể hiện ở cả hai phía: Chủ thể giao tiếp và đối
tượng giao tiếp nhằm thoả mãn các nhu cầu tình cảm hoặc tiếp xúc giải trí.
- Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi: Thể hiện sự linh hoạt tuỳ
theo tình huống, thời cơ mà lựa chọn, thay đổi cách thức hoặc phương hướng,
phương tiện giao tiếp cho phù hợp. Nó cũng thể hiện khả năng thích nghi lẫn
9966
nhau, nhận thức lẫn nhau và đánh giá lẫn nhau, vai trò tích cực của các chủ
thể trong quá trình giao tiếp.
3. Các loại giao tiếp
- Căn cứ vào tính chất của giao tiếp:
+ Giao tiếp trực tiếp: là sự tiếp xúc trao đổi giữa chủ thể và khách thể
giao tiếp được thực hiện trong cùng một khoảng thời gian và không gian nhất
định. Có hai hình thức là đối thoại và độc thoại.
+ Giao tiếp gián tiếp: là sự giao tiếp được thực hiện thông qua các
phương tiện trung gian như điện thoại, thư tín, sách báo, truyền hình, fax...
Trong hai loại giao tiếp trên thì giao tiếp trực tiếp thường phức tạp hơn
nhưng lại sinh động và linh hoạt hơn.
- Căn cứ vào mục đích giao tiếp:
+ Giao tiếp chính thức: là giao tiếp giữa các cá nhân đại diện cho nhóm
hoặc cho chính mình, hoặc giữa nhóm với nhóm được thực hiện theo các
chuẩn mực xã hội. ở đây, nội dung thường được thông báo rõ, thể hiện ở các
hình thức như hội họp, trao đổi, ký kết...
+ Giao tiếp không chính thức: là giao tiếp không mang tính hình thức,
thường nhằm thoả mãn nhu cầu tiếp xúc giải trí nên mang tính thân mật gần gũi.
- Căn cứ theo thời gian, không gian, điều kiện giao tiếp có: giao tiếp gần
gũi hàng ngày, giao tiếp thường kỳ, giao tiếp ngẫu nhiên...
4. Vai trò của tri giác xã hội với quá trình giao tiếp.
Tri giác xã hội là nhận thức, hiểu biết, đánh giá của chủ thể về các đối
tượng. Đối tượng xã hội có thể là chính bản thân mình, người khác, nhóm xã hội.
Cơ chế giao tiếp xã hội được thực hiện qua quá trình tri giác xã hội.
Không có tri giác xã hội thì giao tiếp không có hiệu quả.
Các cơ chế của tri giác xã hội bao gồm:
- ấn tượng ban đầu: Là hình ảnh tổng thể trên cơ sở nhìn nhận đối tượng
một cách toàn diện, cảm nhận mọi biểu hiện như: diện mạo, lời nói, cử chỉ,
tác phong, ánh mắt, nụ cười, thái độ...
9977
ấn tượng ban đầu được hình thành trên cơ sở các đặc điểm trung tâm (nét
nổi bật), theo sơ đồ mẫu nhân cách có sẵn trong mỗi người, kết quả tri giác
chi phối ấn tượng về người khác (tâm thế chủ thể).
ấn tượng ban đầu thường mang tính chủ quan, khó xác định, bị nhiều yếu
tố tác động, khó xóa nhoà. Song nó ảnh hưởng lớn đến thái độ ứng xử tiếp đó
của chủ thể và đối tượng.
- Quy gán xã hội (đánh giá đối tượng): Là một quá trình suy diễn nhân
quả, hiểu hành động của người khác bằng cách tìm những nguyên nhân ổn
định để giải thích cho hành động hay biến đổi riêng biệt.
- Quy gán xã hội tuân theo những nguyên tắc sau:
Tâm lý ngây thơ: Tìm cách khám phá nguyên nhân của hành vi để hiểu
và dự đoán sự kiện sắp tới với mong muốn có thể biết được môi trường và sự
vật xung quanh.
Suy diễn tương ứng: khi quan sát hành vi người khác luôn tìm cách suy
diễn ý nghĩa của hành vi đó tương ứng với những gì ta thấy.
Suy diễn đồng biến: Lý giải hành động, sự việc là do chủ thể, do đối
tượng hoặc do bối cảnh (quy về đồng thời nhiều nguyên nhân)
- Định kiến xã hội: Thái độ có sẵn về đối tượng giao tiếp, thường mang
hàm ý xấu.
Trong hoàn cảnh chủ thể thiếu hụt thông tin, kinh nghiệm sống hạn chế
nhưng lại muôn đưa ra kết luận thì định kiến xã hội sẽ rút ngắn thời gian nhận
thức, đưa ra hình ảnh giản ước về đối tượng.
Các cơ chế: ấn tượng ban đầu, quy gán xã hội, định kiến xã hội làm cho
tri giác xã hội đã mang tính chủ quan lại càng thiếu khách quan hơn. Cần
nâng cao khả năng nhận biết lẫn nhau để ứng xử thích hợp trong những hoàn
cảnh cụ thể.
5. Các kĩ năng giao tiếp
a. Kĩ năng định hướng trong giao tiếp: Là khả năng dựa vào sự biểu lộ
bên ngoài để phán đoán chính xác những trạng thái bên trong của đối tượng
giao tiếp.Kĩ năng này bao gồm:
9988
- Kĩ năng đọc nội tâm dựa trên nét mặt, cử chỉ, hành vi, lời nói. THông
qua quan sát các trạng thái tâm lí được biểu lộ qua nét mặt, cử chỉ, ngữ điệu,
lời nói để đánh giá chính xác, đầy đủ thái độ của người khác.
- Kĩ năng chuyển từ sự tri giác bên ngoài vào nhận biết bản chất nhân
cách. Qua những biểu hiện bên ngoài đã tri giác được nhanh chóng chuyển
vào phán đoán các trạng thái, đặc điểm tâm lí của người khác.
b. Kĩ năng nhận biết những dấu hiệu bên ngoài trong giao tiếp:
Kĩ năng này được thực hiện thông qua hai nhóm dấu hiệu sau:
- Nhóm dấu hiệu bên ngoài nhận biết bằng nhận thức cảm tính: chiều
cao, dáng vẻ, đầu tóc, trang phục, lứa tuổi, giới tính...
- Nhóm dấu hiệu bên ngoài mang tính tổng quát: tính cách, cảm xúc tình
cảm, đạo đức...
Nhận biết những dấu hiệu bên ngoài trong giao tiếp còn liên quan tới
trực giác trong đánh giá đối tượng, trình độ, kinh nghiệm, vốn sống của chủ
thể giao tiếp...
c. Kĩ năng định vị trong giao tiếp
Là khả năng biết xác định vị trí, không gian, thời gian trong giao tiếp, đặt
mình vào vị trí đối tượng để cùng chia sẻ các trạng thái tâm lí, tạo điều kiện
cho đối tượng chủ động giao tiếp.
d. Kĩ năng điều chỉnh, điều khiển trong giao tiếp
Là một kĩ năng hết sức phức tạp và sinh động, bao gồm nhiều thành phần
tâm lí tham gia (nhận thức, thái độ, hành vi ứng xử), phối hợp nhịp nhàng,
hợp lí để điều chỉnh, điều khiển trong quá trình giao tiếp.
Biểu hiện: cử chỉ, điệu bộ hành vi phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh,
mục đích, nội dung, nhiệm vụ giao tiếp; biết phát hiện, biết lắng nghe, biết xử
lí thông tin, điều khiển đối tượng theo ý mình; biết tự chủ, kiềm chế hành vi,
cảm xúc; linh hoạt trong ứng xử.
e. Kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp
Khả năng sử dụng thành thạo các phương tiện giao tiếp (ngôn ngữ, phi
ngôn ngữ, kí hiệu, vật thể) để giải quyết các nhiệm vụ giao tiếp.
9999
Đòi hỏi chủ thể phải thực sự làm chủ các phương tiện giao tiếp; liên tục
rèn luyện, thực hành và có nhân cách mẫu mực.
110000
Chương 8
Dư luận tập thể quân nhân
i. Khái quát chung về dư luận tập thể quân nhân
1.Khái niệm và vai trò của dư luận tập thể
Trong cuộc sống và hoạt động chung, do nhu cầu nhận thức, cảm xúc tình
cảm, nhu cầu tự khẳng định của các thành viên trong tập thể quân nhân mà giữa
họ thường có sự trao đổi, nhận xét, đánh giá, tỏ thái độ chung đối với các sự
kiện, hiện tượng xảy ra liên quan đến nhu cầu của tập thể. Đây là dư luận tập thể
quân nhân, một hiện tượng tâm lý xã hội điển hình trong tập thể.
Dư luận tập thể quân nhân là sự phán xét, đánh giá biểu thị thái độ
chung của quân nhân đối với các sự kiện hiện tượng xảy ra có liên quan đến
nhu cầu, lợi ích của đa số các thành viên trong tập thể.
Là một hiện tượng tâm lý xã hội trong tập thể, dư luận tập thể quân
nhân chịu sự qui định của ý thức xã hội đồng thời dư luận tập thể còn phản
ánh điều kiện sống, đặc điểm hoạt động, trình độ nhận thức, vốn sống, kinh
nghiệm, xu hướng của cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị. Vì vậy, dư luận tập thể
là một hình thức biểu hiện đặc thù của ý thức xã hội, ý thức tập thể, là sự kết
hợp hữu cơ những yếu tố của hệ tư tưởng và tâm lý xã hội trong tập thể. Đó là
sự kết hợp các quan điểm, thái độ của các quân nhân trong quá trình hoạt
động chung. Dư luận tập thể không phải là tổng cộng đơn giản các ý kiến cá
nhân mà là sự phán xét, đánh giá biểu thị thái độ chung (đồng tình hay phản
đối, yêu ghét...) của tập thể quân nhân đối với các sự kiện xảy ra có quan hệ
tới nhu cầu và lợi ích của họ.
Dư luận tập thể quân nhân là hiện tượng tâm lý xã hội có tính ý thức
cao, phản ánh trí tuệ của tập thể, là chỉ số nói lên sự trưởng thành về xu
hướng tư tưởng, chính trị đạo đức của tập thể quân nhân. Một tập thể quân
nhân mạnh là tập thể phải có dư luận thống nhất, dám đấu tranh với những sai
trái; nêu gương những biểu hiện tốt, sự phán xét đánh giá công khai, tự giác
đúng đắn làm cho ý thức tập thể được giác ngộ thêm, các chuẩn mực đạo đức
được củng cố, trình độ chính trị, tư tưởng được nâng cao.
110011
Dư luận tập thể khi đã hình thành có khả năng cưỡng bức về mặt tâm lý
đối với cá nhân và nhóm. Điều này thể hiện ở chỗ khi đã có dư luận, dù đúng
hay sai đều có tác động, ảnh hưởng đến cá nhân hay tập thể; buộc họ (dù chưa
thật tự giác) cũng phải thay đổi, điều chỉnh thái độ, hành vi theo yêu cầu của
nó. Sự thay đổi có thể là chân thực hoặc chỉ là hình thức bề ngoài để đánh lừa
tập thể trước “búa rìu” của dư luận.
Dư luận tập thể hình thành có thể nhanh hoặc chậm và lan truyền từ
nhóm, tập thể này sang nhóm, tập thể khác nhưng sự biến đổi lại không linh
hoạt. Sự biến đổi không linh hoạt thể hiện “tính ỳ”, bảo thủ của dư luận vẫn
giữ nguyên những thái độ đánh giá với đối tượng trong khi sự kiện, hiện
tượng đã thay đổi. Đặc điểm này của dư luận tập thể đòi hỏi người cán bộ
lãnh đạo chỉ huy bộ đội cần phải thận trọng trong tiếp nhận thông tin từ dư
luận tập thể quân nhân.
Trong tập thể quân nhân, có dư luận tập thể chính thức và dư luận tập
thể không chính thức. Dư luận tập thể chính thức là dư luận tự giác, được cán
bộ lãnh đạo chỉ huy đơn vị định hướng, lan truyền, ủng hộ. Còn dư luận tập
thể không chính thức được hình thành và lan truyền tự phát , không được sự
định hướng, điều khiển của cán bộ lãnh đạo chỉ huy trong đơn vị.Dư luận
không chính thức có khi xuất hiện từ những thông tin sai lệch về sự kiện hoặc
tin đồn mà người cán bộ cần phải lưu ý.
Căn cứ vào tính chất, mức độ phù hợp với mục đích hoạt động chung,
yêu cầu giáo dục trong tập thể quân nhân mà người ta chia thành hai loại dư
luận tập thể tích cực và dư luận tập thể tiêu cực. Dư luận tập thể tích cực là dư
luận phù hợp với mục đích chung nhằm phục vụ cho lợi ích tập thể, giáo dục
con người quân nhân cách mạng và đạt trình độ thống nhất cao. Dư luận tập
thể tiêu cực là dư luận không phù hợp với mục đích hoạt động chung của xã
hội, quân đội; thiếu tính khách quan chân thực, kém thống nhất, trái với yêu
cầu giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Trong tập thể quân nhân, dư luận có vai trò to lớn thực hiện các chức
năng đánh giá, định hướng, điều chỉnh, kích thích thúc đẩy đối với quân nhân
và tập thể quân nhân.
110022
- Trước hết, dư luận tập thể đánh giá các thành viên trong đơn vị. Trên cơ sở
các chuẩn mực của xã hội, yêu cầu nhiệm vụ của quân đội và tập thể đặt ra mà dư
luận tập thể kiểm tra, đánh giá thái độ, hành vi của mỗi quân nhân. Qua đó giúp
cho người quân nhân hiểu rõ mình, tự khẳng định vai trò, vị trí của mình và điều
chỉnh bản thân cho phù hợp với yêu cầu của xã hội, quân đội và tập thể.
- Dư luận tập thể còn định hướng, điều chỉnh thái độ, hành vi nhân cách của
từng cán bộ, chiến sỹ cũng như cả đơn vị. Những dư luận tích cực có tác dụng
hướng dẫn nhận thức, tình cảm và điều chỉnh hành vi cá nhân theo chuẩn mực của
tập thể. Sức mạnh của dư luận tập thể có khi đạt tới mức bắt buộc mọi người phải
tuân theo, kiểm tra lại mình, điều chỉnh thái độ, hành vi của mình cho phù hợp với
yêu cầu chung của nhóm và tập thể. Nếu là dư luận tiêu cực thì nó điều chỉnh hành
vi của cán bộ, chiến sỹ theo hướng ngược lại, kìm hãm sự phát triển của nhân cách
và tập thể làm giảm hiệu suất hoạt động của đơn vị.
Là một sức mạnh tinh thần to lớn, dư luận tập thể quân nhân còn có vai
trò kích thích, thúc đẩy hoạt động của cá nhân và tập thể; kích thích các quá
trình tâm lý xã hội trong tập thể đồng thời động viên, thúc đẩy hành động của
quân nhân, mang lại luồng sinh khí mới mẻ cho đơn vị. Dư luận lành mạnh,
tích cực sẽ cổ vũ và khích lệ quân nhân, làm tăng cường khối đoàn kết, củng
cố mối quan hệ tích cực và kỷ luật, lôi cuốn mọi người vào các phong trào tập
thể. Ngược lại, dư luận không lành mạnh, thiếu tính tư tưởng sẽ trở thành lực
cản, mang lại bầu không khí tâm lý căng thẳng, tâm trạng bi quan, dễ sinh mất
đoàn kết do sự hiểu lầm gây ra.
2. Sự hình thành dư luận tập thể quân nhân
Dư luận tập thể có quá trình nảy sinh, diễn biến và kết thúc. Tham gia
vào quá trình hình thành dư luận trong tập thể có cả yếu tố tự phát và tự giác,
tác động trực tiếp và gián tiếp của các nhân tố chính trị, kinh tế và tâm lý.
Mặc dù quá trình hình thành dư luận phức tạp nhưng nó diễn ra có tính qui
luật. Nắm được tính qui luật của nó sẽ giúp người cán bộ định hướng, điều
chỉnh, điều khiển dư luận trong đơn vị phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản
lý, giáo dục bộ đội.
110033
Trước hết, có thể thấy rằng dư luận trong tập thể hình thành và diễn biến
thường trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Khi có một sự kiện, hiện tượng xảy ra có liên quan đến nhu
cầu, lợi ích của tập thể, quân nhân sẽ trực tiếp phản ánh, có những cảm nhận,
rung động và nhận xét, đánh giá riêng về sự kiện đó. Những hiểu biết, cảm
xúc của mỗi người trước các sự kiện thường không giống nhau thậm chí có
khi còn trái ngược nhau.
Giai đoạn 2: Diễn ra quá trình trao đổi giữa các quân nhân những cảm
xúc, hiểu biết và ý kiến nhận xét, đánh giá về sự kiện, hiện tượng đó. Trong
mối quan hệ và giao tiếp trong tập thể sẽ diễn ra cơ chế chuyển từ ý kiến cá
nhân, ý thức cá nhân thành ý thức tập thể. Kể từ khi có sự trao đổi quan niệm,
tranh luận là bắt đầu hình thành dư luận trong tập thể. Tuy nhiên, lúc này dư
luận ban đầu còn chưa thống nhất, còn có những luồng ý kiến khác nhau, còn
một số phân vân chưa tỏ rõ thái độ cụ thể, dứt khoát đối với sự kiện xảy ra.
Giai đoạn 3: Thông qua sự cọ sát, trao đổi, tranh luận các ý kiến khác nhau
được thống nhất lại xung quanh một số quan điểm cơ bản, cuối cùng hình thành
sự phán xét đánh giá, tỏ thái độ chung giống nhau đối với sợ kiện ấy.
Sự phân chia ra ba giai đoạn chỉ có tính chất tương đối. Trên thực tế, quá
trình diễn biến của dư luận rất phức tạp: nó có thể âm ỉ, kéo dài ; có thể diễn ra
nhanh chóng rồi kết thúc và các giai đoạn của nó đan xen, hoà nhập vào nhau.
Dư luận tập thể là một hình thức biểu hiện đặc thù của ý thức tập thể
phản ánh điều kiện hoạt động của đơn vị cũng như các nhu cầu, lợi ích của
quân nhân. Vì vậy có nhiều nhân tố chi phối, tham gia vào quá trình hình
thành nó, trong đó đặc biệt lưu ý đến các nhân tố tâm lý xã hội dưới đây:
-Dư luận tập thể hình thành phụ thuộc rất lớn vào tính chất, ý nghĩa của
sự kiện hiện tượng xảy ra trong đó lợi ích và tính công chúng là quan trọng
nhất. Nếu sự kiện xảy ra quan trọng, liên quan đến nhu cầu, lợi ích thiết thân
của đa số các thành viên thì dư luận sẽ hình thành nhanh chóng. Ngược lại sự
kiện bình thường, liên quan ít hoặc không liên hệ gì đến lợi ích của các thành
viên thì dư luận hình thành chậm chạp hoặc không xuất hiện dư luận.
110044
-Số lượng thông tin đưa đến cho các thành viên có ảnh hưởng nhất định
đến sự hình thành dư luận và mức độ đúng đắn của nó. Nếu thông tin đầy đủ
và nguồn thông tin có độ chính xác cao, kịp thời thì dư luận hình thành nhanh
chóng và thống nhất; ngược lại thông tin phiến diện, nguồn tin không rõ ràng,
sự việc không minh bạch chỉ dễ tạo ra tin đồn.
-Sự hình thành dư luận còn phụ thuộc vào mức độ chuẩn bị của các
thành viên đối với các sự kiện. Nếu quân nhân được chuẩn bị tốt về tâm thế,
tư tưởng, thái độ thì dư luận dễ hình thành, tính tập trung cao; nếu sự kiện xảy
ra đột ngột, thiếu chuẩn bị đón nhận thì dư luận có thể sẽ bị phân tán thành
nhiều luồng ý kiến, tính thống nhất kém. Người cán bộ biết dự kiến các sự
kiện quan trọng sẽ xảy ra, chuẩn bị tâm thế tích cực cho quân nhân đón nhận
nó là một yêu cầu của điều khiển dư luận tập thể quân nhân.
-Sự hình thành dư luận tập thể còn tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của
tập thể như thế nào. Tập thể mới hình thành thì khó có dư luận vì quân nhân
chưa hiểu biết nhau, khó mà đi đến đánh giá và tỏ thái độ chung được. Khi tập
thể đã phát triển, thống nhất mục đích và động cơ hoạt động, có những thói
quen tốt, truyền thống tích cực, mối quan hệ quân nhân lành mạnh, thân thiết
sẽ tạo thuận lợi cho dư luận tập thể tiến bộ.
-Vai trò của người chỉ huy, lãnh đạo đơn vị và các nòng cốt tích cực có
ảnh hưởng lớn đến sự hình thành dư luận tập thể.Trên thực tế họ là người có
trình độ chính trị, chuyên môn cao, nhận thức rõ các yêu cầu, nhiệm vụ tập
thể đồng thời cũng là đối tượng nắm được nhiều thông tin nhất. Do đó, ý kiến
của họ thường được tập thể tiếp nhận và lấy làm ý kiến chung. Tuy nhiên,
điều đó còn phụ thuộc vào uy tín, sự gương mẫu của họ trong tập thể .
II.Định hướng và điều khiển dư luận trong tập thể quân nhân
1. Khái niệm định hướng, điều khiển dư luận tập thể quân nhân.
Dư luận trong tập thể quân nhân thường diễn biến phức tạp cả về nội
dung, khuynh hướng tư tưởng( đúng-sai, tích cực hay tiêu cực, tập trung hay
phân tán...) do đó nó có thể có tác dụng giáo dục hoặc phản giáo dục. Cho
nên, cần phải chủ động định hướng, điều khiển dư luận tập thể bằng cách tác
110055
động hợp qui luật vào diễn biến của nó, phát huy vai trò của các nhân tố chủ
quan nhằm phục vụ cho hoạt động lãnh đạo, quản lý và giáo dục bộ đội.
Định hướng và điều khiển dư luận tập thể quân nhân là quá trình tác
động hợp qui luật vào diễn biến của dư luận qua đó xác định phương hướng
đúng của dư luận đồng thời hướng dẫn, thúc đẩy sự hình thành dư luận tập
thể quân nhân tích cực, lành mạnh.
Chủ thể của định hướng và điều khiển dư luận tập thể quân nhân là các cán
bộ, sĩ quan, các tổ chức đảng đoàn và những nòng cốt trong đơn vị. Với cương
vị, chức trách, quyền hạn của mình, người chỉ huy, thủ trưởng đơn vị, bí thư
đảng giữ vai trò chủ đạo trong định hướng, điều khiển dư luận tập thể quân nhân.
Phương hướng đúng của dư luận tập thể quân nhân được xác định trên
cơ sở hệ thống các chuẩn mực xã hội chủ nghĩa, yêu cầu của quân đội và mục
đích , nhiệm vụ đặt ra với tập thể. Đó là:
-Các chuẩn mực xã hội chủ nghĩa: đường lối, quan điểm của đảng, pháp
luật của nhà nước, các tiêu chuẩn đạo đức mới, các giá trị và truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và quân đội.
-Yêu cầu của quân đội về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, các qui định của điều lệnh và kỷ luật quân đội.
-Mục đích và nhiệm vụ của tập thể đặt ra cho các thành viên lúc đó. Mỗi
quân nhân phải hiểu rõ mục đích và nhiệm vụ của đơn vị mình, có sự thống
nhất mục đích và đồng bộ trong động cơ hoạt động. Sao cho những ý kiến
nhận xét đánh giá phải góp phần thực hiện mục đích và nhiệm vụ tập thể,
không trái với yêu cầu chung của đơn vị.
Sự hướng dẫn, thúc đẩy dư luận tập thể quân nhân theo phương hướng
đúng sẽ đưa đến sự hình thành dư luận tích cực, lành mạnh. Đây cũng chính là
mục đích của quá trình định hướng và điều khiển dư luận tập thể quân nhân.
Dư luận tập thể tích cực cần phải hình thành có các dấu hiệu cơ bản sau đây:
-Đó là dư luận có tính tư tưởng cao: dư luận phù hợp với đường lối, quan
điểm của đảng, pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng như yêu cầu, nhiệm vụ quân
đội. Đó là dư luận lành mạnh, khẳng định mạnh mẽ những nhân tố mới,
110066
những xu hướng tích cực trong cuộc sống, những giá trị cao đẹp của xã hội và
quân đội; kiên quyết phê phán những gì cản trở quá trình phát triển của đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
-Dư luận phải có tính khách quan, chân thực phản ánh đúng tính chất, ý
nghĩa của sự kiện xảy ra đồng thời thể hiện chân thực cuộc sống học tập, lao
động và chiến đấu của quân nhân.Dư luận không lạc hậu trước thực tiễn phong
phú của xã hội và quân đội; đòi hỏi phải phù hợp với thực tế, phản ánh cả cái
đúng cái sai, tiến bộ và lạc hậu, cả thành tích cũng như sai lầm, thất bại có liên
quan đến lợi ích của tập thể quân nhân. Dư luận đó không có sự dối trá, xuyên
tạc cường điệu hoặc hạ thấp ý nghĩa sự kiện; dám khẳng định cái đúng, phê phán
cái sai, lên án cái xấu để hướng con người đến với cái đúng, cái thiện, cái đẹp.
-Dư luận tập thể phải có tính tập trung thống nhất , không có sự đối chọi và
phân tán ý kiến. Sự phán xét đánh giá ,tỏ thái độ của tập thể hướng vào một đối
tượng và đạt độ tập trung và thống nhất cao; biểu hiện ở đa số các thành viên có
ý kiến rõ ràng, không thờ ơ với sự kiện liên quan đến lợi ích chung. Dư luận ấy
luôn được nuôi dưỡng bằng nguồn thông tin chính xác, không bị ảnh hưởng của
những tin đồn thất thiệt, không bị dao động, hoài nghi phân tán.
-Dư luận tập thể phải có tính giáo dục đối với quân nhân và tập thể quân
nhân, góp phần hình thành ở họ thế giới quan khoa học, lòng tin vào công lý.
Dư luận đó phải có ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ và hành vi quân nhân,
hướng nhiệt tình và sức mạnh của quân nhân vào thực hiện các nhiệm vụ của
tập thể. Đồng thời dư luận ấy phải tạo ra ở đối tượng trạng thái thoả mãn
“được nói ra” tâm tư, nguyện vọng của mình ,qua đó mà kích thích thúc đẩy
quân nhân hành động theo những giá trị, chuẩn mực mà họ khẳng định.
Cán bộ lãnh đạo chỉ huy đơn vị phải hình thành dư luận tích cực với
những tiêu chí trên mới tạo ra độ tin cậy là điều kiện cần thiết cho quản lý,
giáo dục trong tập thể quân nhân.
2. Nội dung của định hướng dư luận tập thể quân nhân
Để đạt tới mục đích của định hướng, điều khiển dư luận tập thể quân
nhân, chủ thể phải tác động vào quân nhân để hình thành ở họ có nhận thức
đúng về sự kiện, có thái độ phù hợp và có hành vi phát ngôn hợp lý với sự
110077
kiện xảy ra. Đây chính là nội dung của quá trình định hướng và điều khiển dư
luận trong tập thể quân nhân.
- Hình thành ở quân nhân có nhận thức đúng về sự kiện là việc làm đầu
tiên tạo cơ sở nền tảng của dư luận tập thể tích cực.Đây là quá trình tác động
để người quân nhân phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, nhận thức rõ
bản chất, ý nghĩa của các sự kiện xảy ra.Trong quá trình tác động cần làm cho
quân nhân hiểu đúng đặc điểm, ý nghĩa, bản chất của sự kiện sao cho phù hợp
với lô gíc và biểu hiện của nó, phù hợp với yêu cầu khách quan của xã hội,
quân đội và tập thể.
-Hình thành ở quân nhân có thái độ phù hợp với các quá trình, sự kiện xảy
ra. Thái độ trong dư luận tập thể là tổng hợp độc đáo những yếu tố cảm xúc,
nhận thức về sự kiện, như một sự sẵn sàng đón nhận sự kiện.Thái độ là phức hợp
lý và tình phản ánh nội dung ý nghĩa xã hội của dư luận tập thể quân nhân. Đây
là nội dung quan trọng nhất mà việc hình thành nó phải đảm bảo nội dung thái
độ phải phù hợp với yêu cầu chung của xã hội, quân đội và tập thể.
-Hình thành ở quân nhân có hành vi phát ngôn hợp lý với các sự kiện
xảy ra. Hành vi phát ngôn là lời nói, ngôn ngữ đối thoạt diễn ra trong quá
trình con người trao đổi thông tin với nhau về sự kiện hiện tượng nào đó; là
mặt hiện thực của nhận thức và thái độ của chủ thể đối với một sự kiện nhất
định. Quá trình này cần thực hiện các yêu cầu: đảm bảo các hành vi phát ngôn
luôn thông nhất với các chuẩn mực của xã hội, không trái với yêu cầu của
quân đội và kỷ luật quân sự; thống nhất giữa lời nói và động cơ tư tưởng;
ngôn ngữ phải rõ ràng, chính xác, có sức thuyết phục.
3. Biện pháp tâm lý xã hội định hướng, điều khiển dư luận trong tập
thể quân nhân
-Cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác, có định hướng theo quan
điểm của đảng, yêu cầu của quân đội và nhiệm vụ của tập thể quân nhân. Đây
là biện pháp quan trọng hàng đầu trong quá trình thực hiện nó đòi hỏi chúng
ta phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây: Việc cung cấp thông tin cần phải
xử lý làm cho thông tin dễ hiểu, dễ tiếp thu đối với quân nhân; thông tin bằng
nhiều hình thức, tránh thông tin một chiều, phiến diện hoặc cố tình bưng bít
110088
sự thật chỉ càng gây thêm tính tò mò của quân nhân và dễ mang lại hiệu quả
xấu. Điều này đòi hỏi cán bộ lãnh đạo chỉ huy đơn vị cần thực hiện tốt công
khai dân chủ khi đề ra các chủ trương, biện pháp mới của đơn vị.
-Thường xuyên giáo dục nâng cao trình độ chính trị tư tưởng, nhận thức
về tình hình nhiệm vụ; bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận khoa học,
các chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa, điều lệnh quân đội, vốn sống, kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn cho quân nhân. Đây là cơ sở giúp cho quân nhân
có thể phân biệt đúng-sai, nhận xét, đánh giá khách quan, chính xác các sự
kiện hiện tượng xảy ra, từ đó nhanh chóng thống nhất nhận thức và tư tưởng,
hình thành dư luận tích cực.
-Tổ chức các hoạt động thể và giao tiếp quân sự để tạo lập và hình thành
trong tập thể quan nhân sự đồng bộ động cơ, thống nhất định hướng giá trị
làm cho những mục đích vì tập thể, những động có ý nghĩa xã hội cao cả
chiếm ưu thế. Thông qua hoạt động cùng nhau và giao tiếp quân sự mà hình
thành ở quân nhân có nhận thức đúng về sự kiện, có thái độ phù hợp và hành
vi phát ngôn hợp lý với sự kiện xảy ra.
-Phát huy vai trò của cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ nòng cốt trong
định hướng và điều khiển dư luận. Đây là những chủ thể quan trọng nhất định
hướng, điều khiển dư luận do đó cần phải có uy tín, biết cách tác động bằng
các phương thức tâm lý xã hội như hướng dẫn, thuyết phục, nêu gương, ám
thị... đối với quân nhân để hình thành dư luận tích cực, khắc phục tin đồn
trong tập thể. Khi có dư luận tiêu cực, tin đồn xuất hiện cần nhanh chóng tìm
nguồn phát, gặp gỡ người đưa tin sai lệch đầu tiên để phân tích, thuyết phục
họ nhận rõ sai trái, tác hại của nó rồi yêu cầu cải chính trước tập thể.
110099
Chương 9
TÂM TRạNG TậP THể QUÂN NHÂN
Tâm trạng là một trong những hiện tượng tâm lý xã hội nảy sinh trong
quá trình chung sống và hoạt động cùng nhau giữa các thành viên. Đây là bộ
mặt tinh thần của tập thể, yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới tới tính tích cực hoạt
động của tập thể. Biết điều khiển tâm trạng của tập thể quân nhân là một yêu
cầu quan trọng đối với người cán bộ chỉ huy lãnh đạo.
V.I Lênin từng chỉ rõ: “Trong công tác với quần chúng, khi xác định
chiến thuật và chiến lược đấu tranh cách mạng, Đảng cần phải tính đến tâm
trạng của quần chúng”. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
cũng khẳng định “Muốn làm chủ trận địa tư tưởng, mỗi cấp uỷ phải hiểu rõ
tâm trạng của quần chúng”.
I. Khái niệm, đặc điểm tâm trạng tập thể quân nhân.
1. Khái niệm tâm trạng tập thể quân nhân.
Trong cuộc sống hàng ngày của con người, khái niệm tâm trạng được sử
dụng khá rộng rãi và phổ biến. Thông thường, tâm trạng được hiểu là trạng
thái tâm lý hoặc trạng thái cảm xúc, tuy nhiên, khía cạnh cảm xúc được bộc lộ
rõ hơn.
Tâm trạng tập thể quân nhân là trạng thái cảm xúc chung của tập thể, phản
ánh những biến đổi có ý nghĩa quan trọng ở bên ngoài hay bên trong tập thể.
Con đường hình thành tâm trạng tập thể là từ tâm trạng của các cá nhân,
song tâm trạng tập thể không phải là sự cộng lại các cảm xúc riêng của từng
người một cách đơn giản mà là rung cảm chung chi phối hoạt động chung của
tập thể cũng như mỗi thành viên trong khoảng thời gian cụ thể, là sự giao thoa
cộng hưởng của các cảm xúc cá nhân. Sự giao thoa cộng hưởng đó theo cả hai
hướng tự phát và tự giác thông qua hoạt động và giao tiếp giữa các cá nhân.
Tâm trạng tập thể quân nhân giống cảm xúc ở diễn biến, tính bột phát và sắc
điệu nhưng khác cảm xúc ở chỗ nó tương đối bền vững hơn cảm xúc và yếu
hơn cảm xúc.
111100
Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước với quân đội thể hiện ở hệ thống các
chế độ, chính sách đã tạo ra trạng thái phấn khởi, tin tưởng, hào hứng kích
thích cán bộ, chiến sĩ hăng say, tích cực vươn lên trong quá trình hoạt động
quân sự. Tâm trạng tập thể quân nhân phản ánh những hoàn cảnh sống, điều
kiện hoạt động thuận lợi hay không thuận lợi của tập thể. Hoàn cảnh thuận lợi
sẽ tạo ra trong tập thể tâm trạng tích cực, dễ chịu. Những thành tích hoạt động
của tập thể nếu được cấp trên đánh giá đúng sẽ gây ra tâm trạng hồ hởi, hăng
hái thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ. Trong khi đó những thất bại trong thực
hiện nhiệm vụ, sự chê trách sẽ dẫn đến tâm trạng bất mãn, bi quan… Đồng
thời quan hệ giữa người lãnh đạo, chỉ huy với các thành viên với nhau cũng
có ảnh hưởng đến tâm trạng chung.
Trong quá trình chỉ đạo cách mạng, các nhà kinh điển Mác-Lênin luôn
chú ý tới tâm trạng của quần chúng. Theo V.I Lênin: “Trong mọi cuộc chiến
tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ
máu trên chiến trường”. Tâm trạng có khả năng bao trùm và liên kết các tầng
lớp giai cấp và các nhóm xã hội khác nhau vào một phong trào xã hội hoặc
chính trị nào đó. Tâm trạng tập thể có thể ở một nhóm xã hội cụ thể, một địa
phương, một nước hay toàn cầu. Tâm trạng tập thể có tác động mạnh mẽ đến
kết quả hoạt động của từng cá nhân trong tập thể.
Do đặc điểm của hoạt động quân sự, sự căng thẳng về trí tuệ và thể lực
của cán bộ, chiến sĩ là rất lớn, vì thế, tâm trạng phấn khởi, lạc quan, tin tưởng
có ý nghĩa quan trọng giúp họ vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm để hoàn
thành mọi nhiệm vụ.
Tâm trạng tập thể quân nhân góp phần quyết định chiều hướng hành
động và kết quả hành vi của mỗi quân nhân và cả tập thể quân nhân. Tâm
trạng điển hình của tập thể quân nhân là tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, hăng say học tập rèn luyện để góp phần
vào sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ tổ quốc. Trong cuộc sống và hoạt
động chung, hành vi, hành động của mỗi người phụ thuộc rất lớn vào tâm
trạng tập thể. Tâm trạng tích cực sẽ định hướng, thúc đẩy hành động, hành vi
của mỗi người và cả tập thể. Ngược lại, tâm trạng tiêu cực sẽ làm cho hành vi,
hành động của họ thiếu chính xác, hiệu quả thấp, giảm sút tính tích cực.
111111
Tâm trạng tập thể quân nhân chi phối và ảnh hưởng tới các hiện tượng
TLXH khác trong tập thể. Với tư cách là một trong những bộ phận cấu thành của
tâm lý tập thể, tâm trạng tập thể quân nhân luôn tồn tại, vận động và phát triển
trong quan hệ với các hiện tượng TLXH khác như dư luận, uy tín, truyền thống...
Nếu tập thể quân nhân có tâm trạng tích cực các quân nhân sẽ dễ thống nhất với
nhau trong đánh giá các sự kiện, hiện tượng xảy ra có liên quan tới tập thể từ đó
hình thành dư luận tập thể tích cực. Cũng như vậy, các hiện tượng tâm lý xã hội
như uy tín, truyền thống sẽ có điều kiện hình thành theo hướng tích cực.
Tâm trạng tập thể có thể được phân thành các loại sau:
- Nếu căn cứ vào khuynh hướng hoạt động xã hội có: Tâm trạng chính
trị, tâm trạng thẩm mĩ, tâm trạng đạo đức, tâm trạng nghề nghiệp, tâm trạng
tôn giáo, tâm trạng sinh hoạt.
- Nếu căn cứ vào tính chất của trạng thái cảm xúc: có tâm trạng tích cực
và tâm trạng tiêu cực. Tâm trạng tích cực biểu hiện ở sự lạc quan, tin tưởng,
vui vẻ, phấn khởi, sảng khoái. Tâm trạng tiêu cực biểu hiện ở sự bi quan chán
nản, buồn bã, sợ hãi...
Các cách phân chia chỉ mang ý nghĩa tương đối bởi các loại tâm trạng
đều có liên quan chặt chẽ với nhau.
2. Đặc điểm tâm trạng tập thể quân nhân
- Sức thúc đẩy rất lớn: Tâm trạng tập thể quân nhân tác động rất mạnh
đến tình cảm của mỗi quân nhân, đến hiệu quả hoạt động của tập thể và của
mỗi người. Tâm trạng tập thể tích cực, lạc quan, tin tưởng, hào hứng sẽ tăng
cường tình cảm cá nhân theo hướng tích cực, trên cơ sở đó nhân sức mạnh
của tập thể lên nhiều lần, tạo nên nhiệt tình, hưng phấn, hăng say của tập thể,
giúp mọi người kết hợp tốt nhất sức mạnh của trí tuệ với sức mạnh của tình
cảm, ý chí để hoàn thành nhiệm vụ, tăng niềm tin của tập thể.
Tâm trạng tập thể tích cực thường nảy sinh theo cách nói của
Makarencô: Tập thể nhìn thấy tiền đồ, triển vọng phát triển của mình và của
mỗi thành viên; khi tập thể được đánh giá tốt, nhất là của cấp trên với các
111122
thành tích của mình; khi tập thể đoàn kết chặt chẽ, con người sống trong sự
thương yêu và tin cậy lẫn nhau.
Tâm trạng tập thể tiêu cực, bi quan, chán nản, lo sợ, hoài nghi có thể làm
chia rẽ tập thể thành các nhóm nhỏ, làm các thành viên giảm sút ý chí chiến
đấu, giảm lòng tin, kỷ luật lỏng lẻo, thậm chí làm tê liệt hoàn toàn hoạt động
của tập thể.
- Là thành phần dễ lây lan nhất của tâm lý tập thể tâm trạng tập thể có
thể xuất hiện ở người này lan sang người khác, từ nhóm này lan sang nhóm
khác với tốc độ, cường độ lan truyền đặc biệt.
Đặc điểm dễ lây lan của tâm trạng tập thể là do sự tiếp xúc, giao tiếp trực
tiếp giữa các quân nhân trong quá trình sống và hoạt động chung. Mặt khác, ở
đây còn do quy luật về sự bắt chước đã phát huy tác dụng. Tính không chọn
lọc của sự đồng cảm tâm lý trong bắt chước làm cho các gương tốt cũng như
các gương xấu đều được truyền bá trong tập thể với tốc độ như nhau. Đặc biệt
cần chú ý khi tập thể có những biến động về tình hình nhiệm vụ, tổ chức xã
hội, khi đơn vị gặp khó khăn trong hoạt động...
- Biến động hết sức linh hoạt: Tâm trạng tập thể có khả năng chuyển từ
hình thức này sang hình thức khác, từ chỗ chưa được ý thức đến chỗ được ý
thức rõ rệt, từ hình thức tiềm tàng sang hình thức bộc lộ. Nó có thể nhanh
chóng biến thành hành động, luôn có những dao động và trong khoảng thời
gian rất ngắn có thể chuyển biến từ tích cực sang tiêu cực và ngược lại.
Đặc điểm này của tâm trạng tập thể đã được Mác chỉ rõ khi nghiên cứu
tình hình đấu tranh giai cấp ở Pháp thế kỷ XIX: “Tinh thần cách mạng của
quần chúng hầu như bao giờ cũng nhường chỗ và thường thường là rất nhanh
chóng nhường chỗ cho sự mệt mỏi hay thậm chí cho sự chuyển sang một
hướng trái ngược lại, khi mà ảo tưởng đã bị tiêu tan và niềm thất vọng đã nảy
sinh ra”. Điều đó là do bản chất của tâm trạng tập thể vốn là sự rung cảm
chung của các cảm xúc chưa được ý thức chi phối mạnh mẽ.
II. Điều khiển tâm trạng tập thể quân nhân
1. Điều khiển tâm trạng tập thể quân nhân trong thời bình
ở đây đòi hỏi phải chú ý đến các vấn đề sau:
111133
- Hiểu rõ nguồn gốc nảy sinh các tâm trạng khác nhau trong tập thể, tính
đến quy luật lây lan tâm lý cũng như các quy luật TLXH khác. Để làm được
điều đó người cán bộ phải thường xuyên quan tâm tới mọi người, nhanh
chóng nắm bắt nhu cầu, tâm tư, tình cảm của họ, kịp thời phát hiện sự bất
mãn, không hài lòng giữa các cá nhân trước khi chuyển thành tâm trạng của
nhóm. Ngăn chặn sớm những biểu hiện reo rắc sự bất mãn. Cần tìm hiểu rõ
những tác động của các yếu tố bên ngoài và bên trong tập thể.
- Duy trì trật tự, nề nếp, điều lệnh chặt chẽ, tổ chức hoạt động khoa học
và có hiệu quả.
Việc duy trì trật tự, nề nếp điều lệnh chặt chẽ một mặt phát triển tinh
thần trách nhiệm, mặt khác tạo ra trong tập thể trạng thái làm việc nghiêm túc,
xoá bỏ tình trạng thụ động uể oải, thiếu tích cực. Trong khi đó, tổ chức hoạt
động khoa học sẽ tạo ra tinh thần phấn chấn, tin tưởng lẫn nhau, tin tưởng ở
cán bộ. Ngược lại, hoạt động tổ chức thiếu chặt chẽ, phân công không rõ ràng
sẽ dẫn tới thái độ dựa dẫm, ỷ lại, căng thẳng, đố kị.
- Thường xuyên thông báo những thành tựu mọi mặt của công cuộc xây
dựng đất nước, thành tích, kết quả hoạt động của các cá nhân, đơn vị, động
viên cổ vũ kịp thời .
Sự thông báo kịp thời những tin tức này tạo ra trạng thái phấn khởi, tự
hào ở mỗi quân nhân, kích thích họ tích cực phấn đấu đóng góp sức mình vào
hoạt động của tập thể, vào sự nghiệp chung.
- Cán bộ chỉ huy, lãnh đạo phải luôn lạc quan tin tưởng, loại bỏ những
tâm trạng tiêu cực, giải quyết các xung đột nội tâm, chú trọng xây dựng các
quan hệ lành mạnh trong tập thể.
Xuất phát từ vai trò, vị trí của người cán bộ nên tâm trạng của họ ảnh
hưởng rất lớn đến tập thể. Vì thế, cán bộ phải biết duy trì tâm trạng tích cực,
không để các tâm trạng tiêu cực ảnh hưởng đến tập thể.
- Căn cứ vào điều kiện cụ thể, tổ chức hợp lý các hoạt động vui chơi, giải
trí, nghỉ ngơi tạo tâm trạng thoải mái cho mọi người.
Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của tập thể quân nhân cán bộ chỉ huy,
lãnh đạo cần quan tâm tổ chức nhiều loại hình hoạt động sau những giờ làm
111144
việc căng thẳng để giải toả những áp lực của công việc tạo tâm trạng vui tươi
thoải mái, sẵn sàng chờ đón các công việc tiếp theo.
2. Điều khiển tâm trạng tập thể quân nhân trong chiến đấu
Điều khiển tâm trạng tập thể quân nhân trong chiến đấu là một việc làm
phức tạp, đòi hỏi người cán bộ chỉ huy, lãnh đạo phải nắm chắc diễn biến tâm
trạng của quân nhân, từ đó làm cơ sở để đưa ra những tác động phù hợp, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động chiến đấu.
Diễn biến tâm trạng của quân nhân có thể thông qua 3 giai đoạn thường
diễn ra trong chiến đấu như sau:
- Giai đoạn bước vào chiến đấu:
Tâm trạng điển hình của quân nhân lúc này là sự căng thẳng cao với các
biểu hiện có thể là phấn khởi hoặc lo âu sợ hãi.
Người cán bộ chỉ huy, lãnh đạo cần biết khêu gợi những động cơ xã hội
và các trạng thái cần thiết ở quân nhân. Mặt khác phải vạch rõ tính chất, khó
khăn của nhiệm vụ chiến đấu sắp tới, khêu gợi các kinh nghiệm chiến đấu đã
có để quân nhân chủ động và sẵn sàng đối phó. Bản thân cán bộ phải thể hiện
sự bình tĩnh, tin tưởng vào khả năng hoàn thành nhiệm vụ của tập thể, duy trì
tình trạng hoạt động bình thường, tìm mọi cách ngăn chặn có hiệu quả các tin
đồn nhảm , tình trạng vô kỷ luật, đảm bảo cho mọi quân nhân có được tâm
trạng tốt nhất trước khi bước vào chiến đấu.
- Giai đoạn thực hành chiến đấu
Mọi tâm trạng của quân nhân sẽ được bộc lộ rõ nhất do va chạm với các
khó khăn, gian khổ, hy sinh. Đòi hỏi người cán bộ chỉ huy, lãnh đạo phải biết
giữ vững tính tích cực chiến đấu cho các quân nhân, luôn duy trì ưu thế của
các động cơ chính trị xã hội, sự tập trung ý thức cao độ, tinh thần sẵn sàng hy
sinh vì thắng lợi của nhiệm vụ, không rơi vào trạng thái rối loạn trước các ảnh
hưởng bất lợi của hoàn cảnh, biết tự điều khiển hành động của mình.
Trong giai đoạn này phải chú trọng xây dựng niềm tin chiến thắng, tạo
động lực trực tiếp cho các hành động chiến đấu của quân nhân, nắm chắc
hành động của từng bộ phận, khéo léo kích thích tinh thần hăng hái xung
111155
phong, không sợ khó khăn gian khổ, hy sinh; sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao. Cần biết ngăn chặn và chấm dứt trạng thái hoảng
loạn nếu có ở các quân nhân. Thái độ của người lãnh đạo chỉ huy lúc này phải
rất bình tĩnh, kiên quyết, nhạy bén phát hiện sớm, cách ly nhanh các cá nhân,
nhóm có biểu hiện hoảng loạn, khôi phục nhanh cơ cấu tổ chức, ra mệnh lệnh
mạnh mẽ, dứt khoát. Tấm gương của người cán bộ sẽ có tác động trực tiếp tới
hành động của các quân nhân. Vì thế, cán bộ phải hết sức chú ý tới các hành
vi, thái độ của mình.
- Giai đoạn kết thúc chiến đấu
Tâm trạng tập thể quân nhân sẽ phụ thuộc trực tiếp vào kết quả của trận
đánh, sự căng thẳng của chiến đấu, mức độ tổn thất hy sinh của tập thể...
Trong trường hợp chiến đấu thắng lợi cần tiếp tục duy trì khí thế của bộ
đội, không để nhiệt tình suy giảm, đề phòng các trạng thái chủ quan, thoả mãn
coi thường đối phương... cần chỉ ra khả năng xuất hiện của các nguy cơ mớí,
những diễn biến có thể của các tình huống chiến đấu, chủ động giao các công
việc tiếp theo cho quân nhân và tập thể.
Khi chiến đấu thất bại, cần nhanh chóng chấm dứt tâm trạng bi quan,
chán nản, giao động trước khó khăn, làm rõ các nguyên nhân, phân tích kỹ sự
kiện chuẩn bị sẵn sàng thực hiện những nhiệm vụ mới.
Tâm trạng tập thể quân nhân một bộ phận cấu thành của tâm lí tập thể
luôn có ý nghĩa lớn trong cuộc sống, hoạt động chung. Do những đặc điểm
riêng của nó nên điều khiển tâm trạng tập thể rất phức tạp. Cần hiểu rõ về tâm
trạng tập thể, biết cách điều khiển nó trong các hoàn cảnh khác nhau của quá
trình xây dựng tập thể một cách linh hoạt và có hiệu quả.
111166
Chương 10
Uy tín trong tập thể quân nhân
Trong hoạt động của người sĩ quan quân đội, cái chính là làm việc với
con người hợp thành tập thể quân sự. Để chỉ huy và lãnh đạo họ hoàn thành
tốt mọi nhiệm vụ tất yếu người sĩ quan phải có uy tín. Uy tín là một trong
những phẩm chất tâm lý đặc trưng nhất của người lãnh đạo quản lý.
I. Khái niệm, bản chất và những nhân tố tạo thành uy tín của người
sĩ quan quân đội
1. Khái niệm và bản chất của uy tín
Uy tín là một hình thức đặc thù của mối quan hệ giữa người với người.
Đó là những ảnh hưởng tâm lí xã hội của cá nhân hoặc tập thể (nhóm) người
đối với người khác, đối với xã hội.
Theo tiếng La tinh Austoritas (uy tín) có nghĩa là quyền hành, ảnh
hưởng. Hoặc theo quan niệm của Ph. Angghen: uy tín là một loại quan hệ
giữa người với người, trong đó một mặt đòi hỏi ý chí của một người nào đó
phải phát huy tác dụng, còn mặt khác là sự phục tùng theo ý chí này.
Như vậy, nói tới uy tín là nói tới sự ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng, quyền
hành và phục tùng. Tuy nhiên, sự khác nhau của uy tín là ở bản chất xã hội và
theo đó là nội dung và cơ chế tác động ảnh hưởng của nó. Hoặc nói một cách
khác, tác động ảnh hưởng của uy tín dựa trên cơ sở nào: Bằng áp lực của
quyền uy hay bằng phẩm giá của cá nhân để lôi cuốn và cảm hoá quần chúng.
Uy tín có thể là của cá nhân hoặc là của tập thể như: Người lãnh đạo với
người bị lãnh đạo, chỉ huy đối với người chiến sĩ, thày đối với trò, tập thể đối với
cá nhân hoặc đối với các tập thể khác, các cơ quan nhà nước đối với nhân dân...
Trong quân đội ta, bất kì ai dù là người chỉ huy hay cán bộ chính trị; là
người lãnh đạo quản lý hoặc là chiến sĩ, nếu một lòng một dạ phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, tận tâm với công việc, có phẩm chất, năng lực tốt,
luôn quan tâm, giúp đỡ mọi người... đều có thể trở thành người có uy tín.
Ngược lại, ai đó dù là ở cương vị nào nhưng không gần gũi quần chúng, vi
111177
phạm những chuẩn mực và các giá trì xã hội, đều không thể có uy tín thực sự
và chỉ còn lại “quyền uy” hành chính thuần tuý.
Uy tín là một hiện tượng tâm lí xã hội nảy sinh, tồn tại và phát triển
trong cuộc sống và sinh hoạt tập thể, sinh hoạt cộng đồng. Đồng thời uy tín lại
là một thành phần không thể tách rời trong quan hệ xã hội. Nội dung và cơ
chế tác động của nó trước hết và chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện xã hội, lịch
sử, vào các định chế của xã hội.
Vào thời kỳ tiền sử của nhân loại, uy tín thuộc những con người “khoẻ
mạnh” giái săn bắn thú rừng, thuộc về già làng trưởng bản...Trong đó, cơ chế
“truyền thống” tập tục giữ vai trò chủ đạo, do đó uy tín trong giai đoạn này có
thể gọi là “uy tín truyền thống”.
Trong xã hội có sự tồn tại của giai cấp bóc lột thì ảnh hưởng của uy tín
dựa chủ yếu vào cơ chế “áp lực”: áp lực về kinh tế, chính trị và hành chính.
Về bản chất thì đây là uy tín của sự độc tài. Uy tín tạo nên những áp lực đòi
hỏi sự phục tùng tuyệt đối của quần chúng với ý chí của cá nhân hoặc tập
đoàn thống trị.
Chỉ có dưới một chế độ thật sự bình đẳng và dân chủ thì uy tín của cá
nhân hay tập thể mới có được ý nghĩa chân chính của nó với cơ chế ảnh
hưởng bằng “cảm hoá, thu hút, thuyết phục” trong quan hệ người - người. Uy
tín dựa chủ yếu vào sự đánh giá khách quan về phẩm chất và năng lực cá
nhân, về mức độ hy sinh và cống hiến cho tập thể và cho xã hội. Sự đánh giá
ấy luôn tương xứng với địa vị xã hội mà anh ta đảm nhiệm. Do đó, đối với
những người càng có cương vị cao trong xã hội lại càng phải phấn đấu gian
khổ hơn, càng phải gương mẫu trong hoạt động và sinh hoạt.
Tuy nhiên, về bản chất thì dưới bất kỳ chế độ xã hội nào thì trong uy tín vẫn
không mất đi cái “quyền uy”, “quyền hành”, nhưng quyền uy và quyền hành này
không thể thay thế những giá trị xã hội đích thực mà con người đạt được.
Uy tín không phải là một hiện tượng huyền bí mà luôn đựợc hiện hữu
trong quá trình thực hiện chức năng xã hội của cá nhân và trong quan hệ giao
tiếp với những người khác, được thừa nhận, tin theo như một giá trị xã hội
của cá nhân.
111188
Tóm lại, uy tín là một hiện tượng tâm lí xã hội, mang bản chất xã hội. Uy
tín là kết quả của những quan hệ khách quan tồn tại trong xã hội cũng như
của những phẩm chất, những giá trị xã hội của cá nhân hoặc của nhóm
người, tổ chức người. Trong bản thân uy tín đã hàm chứa “quyền uy” và bao
giờ cũng bộc lộ sự tôn trọng, tin yêu con người. Đó là sự thuyết phục và bị
thuyết phục bởi con người với con người trong hoạt động và giao tiếp xã hội.
Uy tín của cá nhân hoặc tập thể đều có ý nghĩa xã hội rất to lớn. Uy tín
có thể được coi là một trong những tiền đề quan trọng nhất để tổ chức hoạt
động và giáo dục có kết quả.
Nếu không có uy tín thì không thể có một hoạt động chung nào trong xã
hội. Người và tổ chức có uy tín có khả năng hướng dẫn, tổ chức hoạt động
cho tập thể, nhất là khi cần vượt qua khó khăn, phức tạp, ác liệt. Bằng sáng
kiến và quyết tâm hành động, với uy tín của mình, họ dẫn dắt mọi người đạt
mục đích hoạt động theo con đường ngắn nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
dạy: Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong.
Người và tập thể có uy tín có tác dụng to lớn trong giáo dục thuyết phục
người khác bằng sức mạnh của sự ám thị và nêu gương. Đối với cán bộ lãnh
đạo, chỉ huy, uy tín là một điều kiện căn bản để tổ chức hoạt động tập thể và
giáo dục quân nhân có hiệu quả. Nếu không có uy tín người cán bộ thiếu hẳn
một phương tiện tác động đến nhân cách quân nhân và tập thể quân nhân.
2. Những nhân tố tạo thành uy tín của người sĩ quan
Uy tín của là một hiện tượng tâm lí xã hội, tâm lí tập thể. Do đó, nó được
hình thành và phát triển tuân theo các quy luật chung của sự hình thành các
hiện tượng tâm lý xã hội nói chung, mà trước hết là sự phụ thuộc tất yếu của
nó vào các nhân tố xã hội. Mặt khác, uy tín nằm ở trong bản thân mỗi con
người và nhóm người, bởi vậy còn có các yếu tố tâm lí, yếu tố chủ quan.
a. Những nhân tố khách quan
Mỗi quân nhân, hoặc tập thể quân nhân quân đội nhân dân Việt nam có
uy tín trước hết là nhờ vào những nhân tố khách quan, những điều kiện của vị
thế xã hội mà cá nhân và nhóm người đó nắm giữ.
111199
* Nhân tố xã hội
Đảng, Nhà nước và Quân đội ta không chỉ giao trọng trách lãnh đạo
quản lý bộ đội cho các sĩ quan mà còn trao cho họ những quyền hạn và quyền
hành rất lớn đối với con người và đối với công việc, kể cả tài sản, tài chính
của quân đội. Đó là tiền đề quan trọng để người sĩ quan quan hệ và tác động
đến các chiến sĩ, để giải quyết các mối quan hệ xã hội và quan hệ nội bộ.
Mặt khác, mỗi một sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam được mang
trong mình những truyền thống chiến đấu tuyệt vời và những kinh nghiệm lớn
lao, gắn liền máu thịt với nhân dân, là người bảo vệ lợi ích của nhân dân...
Nhờ bản chất của quân đội cách mạng mà trong quân đội ta, mọi mệnh
lệnh, chỉ thị của người sĩ quan không chỉ là một yêu cầu có tính chất hành
chính của người đại biểu cho quyền lợi giai cấp, mà còn có một sức mạnh tâm
lí mạnh mẽ thúc đẩy người thực hiện nó một cách có ý thức, không phải vì sợ
hãi mà vì “lợi ích xã hội”.
Tất cả những điều kiện khách quan ấy tạo nên những khả năng căn bản
giúp cho người chỉ huy, cán bộ chính trị hoặc cán bộ kĩ thuật có một uy tín
chân chính, lớn lao trước xã hội và trước tập thể. Đó là những yếu tố có thể
củng cố và làm tăng thêm uy tín và ngược lại có thể làm suy giảm, thậm chí
làm tiêu tan cả uy tín này: Mỗi sĩ quan quân đội được kính trọng không chỉ
với tư cách cấp tướng hay cấp tá, mà còn vì anh ta là người am hiểu tường
tận công việc của mình, là một người có lý luận, một cá nhân mẫu mực... xã
hội chỉ tạo ra cái nền còn mỗi sĩ quan phải tự xây dựng uy tín cho mình.
* Nhân tố tập thể:
Xã hội đã tạo ra những tiền đề, những điều kiện quan trọng để mỗi người
sĩ quan có uy tín, nhưng quá trình hình thành uy tín của mỗi cá nhân gắn liền
với xu hướng tự khẳng định của nó trong tập thể. Do đó, tập thể là nhân tố
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành uy tín của người sĩ quan - uy tín
như là cương vị của cá nhân trong tập thể.
Khi xác định uy tín như là cương vị của cá nhân trong tập thể cũng cần
chú ý rằng chúng có mối tương quan biện chứng với nhau. Uy tín không chỉ
được hình thành trong tập thể, mà còn được thể nghiệm trong tập thể.
112200
Trong một tập thể có mục đích hoạt động chân chính, phát triển một cách
tích cực, lành mạnh thì chỉ có những sĩ quan thật xứng đáng với cương vị đảm
nhiệm mới có được uy tín. Còn khi không có được sự trùng khớp giữa cương
vị với tính chất bên trong của tập thể thì không thể có uy tín thật sự được.
Những yếu tố cơ bản của tập thể là: Tính chất hoạt động, chức năng và
nhiệm vụ của tập thể; số lượng và các đặc điểm của các thành viên trong tập
thể. Trong đó, trình độ nhận thức và ý thức giác ngộ chung của tập thể ảnh
hưởng to lớn đến các chuẩn mực tạo nên uy tín cá nhân người sĩ quan; ngoài
ra các trạng thái tâm lý của tập thể, đặc biệt là bâù không khí tâm lí xã hội,
mức độ đoàn kết, truyền thống và thói quen của tập thể đều là những yếu tố
có liên quan đến quá trình hình thành uy tín cá nhân.
Tập thể càng phát triển đến bậc cao thì một mặt tạo ra những tiền đề
khách quan quan trọng để người sĩ quan hình thành uy tín cao, nhưng mặt
khác lại đặt ra những yêu cầu rất lớn đối với mỗi sĩ quan buộc anh ta muốn có
uy tín thì phải đạt được những phẩm chất tương ứng. Do đó, tập thể như là
nhân tố khách quan trực tiếp nhất quy định uy tín của cá nhân, đồng thời thúc
đẩy sự phát triển của các nhân tố chủ quan.
b) Những nhân tố chủ quan
Uy tín là một phẩm chất, một thuộc tính điển hình của người sĩ quan do
đó tất yếu được quy định bởi những nhân tố chủ quan, hay nói một cách khác
uy tín là giá trị nhân cách trước xã hội và trước các tập thể.
Những phẩm chất cơ bản tạo nên uy tín của người sĩ quan là:
- Tính tư tưởng, tính Đảng cao
- Thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ, được đào tạo kĩ lưỡng
- Yêu mến say mê với nghề nghiệp, sáng tạo trong hoạt động
- Trong sáng về đạo đức lối sống, giản dị khiêm tốn trong giao tiếp và
sinh hoạt
- Có năng lực tổ chức tốt, tích cực ủng hộ cái mới, cái tiên tiến
- Có tinh thần kỉ luật cao
- Kiên trì nhẫn lại, tế nhị và yêu cầu cao, quan tâm đến con người, hoà
đồng tốt với tập thể, luôn biết dựa và đề cao vai trò của tập thể.
112211
- Không ảo tưởng, biết kiềm chế bản thân, v.v.
Những nhân tố chủ quan và khách quan luôn nằm trong mối quan hệ
thống nhất, tác động tổng hợp để hình thành uy tín của người sĩ quan quân
đội. Trong đó, những nhân tố chủ quan có ý nghĩa quyết định sự hình thành
uy tín, đó là những nhân tố trực tiếp tạo ra sức cảm hoá, thu hút, lối kéo tạo ra
cái “cái tín” và cả cái uy của người cán bộ.
Những nhân tố khách quan đóng vai trò tiền đề, điều kiện, nó rất quan
trọng trong sự hình thành uy tín, trực tiếp tạo ra sự thừa nhận tin tưởng và
tuân theo; tạo ra sự tín nhiệm của tập thể đối với người cán bộ. Vả lại, trong
chiều sâu của nó thì bản thân mỗi người có được vị trí xã hội cũng đã phản
ánh những cố gắng nỗ lực của chủ thể.
3.Những nhân tố tạo thành uy tín của hạ sĩ quan, chiến sĩ.
Trong quân đội ta, bên cạnh các sĩ quan cũng xuất hiện không ít các hạ sĩ
quan, chiến sĩ có uy tín cao với tập thể.Đó là sự tôn trọng, sự thừa nhận ưu thế
của cá nhân về kiến thức, năng lực, kinh nghiệm hoặc những phẩm chất tâm
lý nổi trội. Uy tín của hạ sĩ quan, chiến sĩ cũng là một hiện tượng tâm lý xã
hội, đó là kết quả của sự tự khẳng dịnh cá nhân. Mỗi cá nhân sống trong xã
hội và hoạt động trong một tập thể nhất định luôn tìm cách xá định và thể hiện
vai trò của mình giữa các thành viên khác dựa trên cơ sở những đặc điểm và
phẩm chất cá nhân mà người đó tự nhận thấy có giá trị xã hội. Mặt khác, theo
cơ chế tự vệ, con người cũng tìm cách che dấu những tính xấu, những mặt yếu
của mình. Như vậy, uy tín của hạ sĩ quan, chiến sĩ cũng được hình thành bởi
sự tác động qua lại giữa các nhân tố khách quan và chủ quan, trong môi
trường tập thể cũng như thái độ, cách ứng xử của mỗi quân nhân.
Uy tín cao chỉ thuộc về hạ sĩ quan, chiến sĩ nhận thức đúng cương vị và
chức trách của mình; gương mẫu trong phục vụ, có tính tổ chức kỷ luật cao,
có sự nổi trội nhất định về trí tuệ, thể lực,đạo đức và lối sống mới có ảnh
hưởng tốt với người xung quanh. Đó là những cá nhân dễ được đồng đội tin
yêu, được tín nhiệm giới thiệu vào ban chấp hành chi đoàn, thủ lĩnh phụ trách
các tổ, đội hoạt động phong trào. Chính ở các cương vị như vậy, cá nhân lại
có những điều kiện thuận lợi và phát huy ảnh hưởng của mình trong tập thể.
112222
II. Những biện pháp gây dựng và nâng cao uy tín của sĩ quan quân đội
Trên cơ sở tâm lí học của uy tín, người sĩ quan có thể vận dụng một số
biện pháp gây dựng và nâng cao uy tín cá nhân sau đây:
1. Luôn có chí tiến thủ trong quá trình phục vụ quân đội.
Lãnh đạo quản lý bộ đội là một yêu cầu khách quan. Đảng, nhà nước,
quân đội đào tạo ra đội ngũ sĩ quan chính là để đáp ứng yêu cầu đó. Sinh thời
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Học để làm người, học để làm cán bộ”
Uy tín là sự ảnh hưởng tác động tâm lý tới người khác. Do đó trong uy
tín cá nhân thì mặt quyền uy rất quan trọng. Bởi vì quyền uy được xác lập bởi
các quy chế hoạt động của tổ chức, bởi ảnh hưởng của tổ chức đó tới xã hội
và tới cá nhân.
Mỗi sĩ quan khi ra trường đã được giao một cương vị với những quyền
hạn và quyền lực nhất định. Những quyền hạn và quyền lực ấy sẽ thay đổi và
theo quy luật chung là người sĩ quan đó sẽ ngày càng có quyền hạn cao hơn,
trách nhiệm lớn hơn trước Đảng và quân đội.
Tốc độ và mức độ thay đổi vị trí xã hội phụ thuộc rất lớn vào chí tiến thủ
của mỗi cá nhân. Đó là một động lực mạnh mẽ giúp mỗi người nuôi dưỡng
khát vọng và kiên trì vươn tới nắm lấy quyền hành lãnh đạo chỉ huy bộ đội để
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, châm ngôn có câu “trong ba lô của mỗi
người lính binh nhì đều có một ước mơ thống chế”.
Những sĩ quan giảm chí tiến thủ và không còn chí tiến thủ thường co
mình, muốn sự yên bình phẳng lặng theo chiều hướng tiêu cực. Đó là những
sĩ quan ít vươn tới cái mới, ngại cải tiến công việc và dĩ nhiên uy tín sẽ giảm
sút trước một cuộc sống đầy biến động.
Tuy nhiên, từ bản chất xã hội của uy tín, của sĩ quan quân đội nhân dân
Việt Nam đòi hỏi mỗi người cần nhận thức rõ ràng, không được lấy quyền uy
làm mục đích, cần đoạn tuyệt với sự tham vọng quyền lực cá nhân. Cần coi đó
chỉ là phương tiện, là điều kiện để cống hiến, để tổ chức bộ đội thực hiện mục
tiêu lãnh đạo quản lý.
112233
2. Ra sức tu dưỡng rèn luyện mọi mặt để ngày càng hoàn thiện hơn về
nhân cách của người lãnh đạo quản lý
Uy tín là cái không thể “xin và cho”, tổ chức chỉ tạo ra các điều kiện để
người sĩ quan gây dựng uy tín của mình và đồng thời có các yêu cầu về phẩm
chất cũng như năng lực mà người sĩ quan phải phấn đấu.
Muốn có uy tín mỗi người phải tự học tập tu dưỡng, tích luỹ tri thức,
kinh nghiệm, vốn sống, nâng cao năng lực mọi mặt để được đồng nghiệp và
quần chúng thừa nhận, tin theo. Trong đó biết sống và làm việc với con người
là một trong những phẩm chất đặc trưng của người lãnh đạo quản lý. Đó là sự
nghiêm khắc với bản thân, độ lượng với người khác, phấn đấu rèn luyện suốt
đời của mọi sĩ quan, bất luận ở cương vị nào, cương vị càng cao thì phẩm chất
này ngày càng quan trọng. Đó là con đường “Hữu xạ tự nhiên hương”.
Trong quá trình gây dựng và nâng cao uy tín phải đề cao tính tự chủ, tự
kiềm chế, tự điều chỉnh và tự phê bình. Khi có biểu hiện giảm sút uy tín thì
biện pháp khắc phục nhanh chóng nhất là tự phê bình nghiêm túc, có các yêu
cầu sửa chữa cụ thể để được mọi người thừa nhận. Các hoạt động bao che
khuyết điểm, thanh minh lỗi lầm đều có kết quả ngược lại. Tập thể bao giờ
cũng bao dung đối với những sĩ quan khiêm nhường, giản dị, biết rõ yếu điểm
của mình để cố gắng sửa chữa hoàn thiện bản thân.
Để có uy tín trong tập thể quân nhân thì sự trong sáng về đạo đức, lối
sống cũng như sinh hoạt có vai trò cực kì quan trọng. Trong xã hội hiện đại
và phức tạp như hiện nay thì những vi phạm về đạo đức lối sống bao giờ cũng
là nguyên nhân rất nhạy cảm dễ làm giảm sút và mất uy tín người sĩ quan và
có thể nói đó là căn nguyên vô hình làm “xói mòn” uy tín người cán bộ.
Quá trình gây dựng và nâng cao uy tín người sĩ quan cần tạo dựng cho
mình một phong cách lãnh đạo quản lý thích hợp để tạo nên cái riêng của
mình. Bởi vì lãnh đạo quản lý là một nghệ thuật tuy phải tuân thủ các nguyên
tắc của Đảng mà trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ và các yều cầu cơ
bản của mỗi loại cán bộ. Nhưng trong cuộc sống thực tiễn, sự vận dụng các
yêu cầu ấy lại vô cùng linh hoạt.
112244
Phong cách giúp người sĩ quan thích ứng với môi trường sống và hoạt
động. Thực tiễn chứng minh rằng, những cán bộ sĩ quan rập khuôn máy móc
không bao giờ có uy tín cao trước quần chúng. Phong cách lãnh đạo quản lý
thích hợp và có hiệu quả cao, dễ chiếm lĩnh được uy tín với tập thể đó là
phong cách dân chủ hoặc theo nguyên tắc tâp trung dân chủ.
3. Xác lập tốt các mối quan hệ và giao tiếp trong tập thể
uy tín của mỗi người sĩ quan là sự phản ánh tính chất của mối quan hệ
qua lại. Do đó người sĩ quan có uy tín đến mức độ nào phụ thuộc một cách tất
yếu vào năng lực xác lập mối quan hệ của anh ta trong tập thể. Trong quân
đội ta, những mối quan hệ qua lại dựa trên tư tưởng Mác - Lênin, trên những
nguyên tắc của quân đội nhân dân Việt Nam và truyền thống của dân tộc. Đó
là sự thống nhất về quyền lợi và mục đích của mọi cán bộ, chiến sĩ. Đó là
những mối quan hệ của sự tôn trọng, tin cậy, đoàn kết trên tinh thần đồng chí,
giúp đỡ lẫn nhau lúc thường cũng như lúc chiến đấu, thi hành một cách nhanh
chóng và chính xác mệnh lệnh của cấp trên.
Người sĩ quan có vai trò hàng đầu trong việc xác lập mối quan hệ qua
lại, uy tín của bản thân cũng được hình thành và phát triển trong quá trình ấy.
Điều kiện trước tiên để xác lập mối quan hệ với người khác đó là sự tin
cậy và quí trọng con người. Sự tin cậy và quí trọng ấy có ảnh hưởng đến việc
tự đánh giá và lòng tự trọng của người khác. Khi không có điều kiện ấy thì
không có uy tín được.
Trong quan hệ với cấp dưới thì thái độ lịch thiệp, hoà nhã có vai trò rất
lớn. Trái với thái độ ấy là sự thô bạo sẽ gây lên tình trạng phản đối ngấm
ngầm của cấp dưới. Tuy nhiên thái độ hoà nhã lịch thiệp chỉ đạt được mục
đích khi nào nó biểu hiện một cách tự nhiên ra bên ngoài tính chất có văn hoá,
sự quan tâm quí trọng và yêu mến cấp dưới.
Sự giản dị khiêm nhường và tự nhiên trong hành vi của người sĩ quan có ảnh
hưởng tích cực đến mối quan hệ qua lại. Nhưng đồng thời khi cần thiết lại phải
chứng tỏ vị trí của người chỉ huy lãnh đạo. Sự khiêm nhường giản dị không thể
dẫn tới sự hèn nhát, e ngại, thiếu cương quyết trong giải quyết công việc.
Trong quan hệ với mọi người, mỗi sĩ quan không được định kiến với
người khác, nhất là với cấp dưới. Cả định kiến tốt và định kiến xấu đều dẫn
112255
đến sự đánh giá thiếu khách quan, kết quả là đánh giá cấp dưới quá thấp hoặc
quá cao.
Thật khó đánh giá hết ý nghĩa của những mối quan hệ qua lại đúng đắn
giữa người sĩ quan với đồng nghiệp và với cấp đưới. Nó không chỉ phản ánh
sự thống nhất về mục đích và nhiệm vụ mà còn được biểu hiện ở sự tín
nhiệm, kính trọng lẫn nhau, bảo đảm sự ủng hộ giúp đỡ nhau để thực hiện
nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.
4. Thường xuyên cảnh giác với uy tín “thiên về mệnh lệnh”, hoặc
“thiên về tự do thoải mái”. Đoạn tuyệt với con đường xây dựng uy tín giả
hiệu.
Thực tiễn cuộc sống quân ngũ chỉ rõ rằng, có một số sĩ quan có được uy
tín là do quá “thiên về mệnh lệnh”, hoặc ngược lại quá “thiên về tự do thoải
mái”. Đây là một dạng uy tín, nhưng không hoàn toàn là “uy tín thực sự”.
Những sĩ quan thiên về mệnh lệnh, ngoài những nét căn bản của uy tín
thực sự thì ở họ lại quá tự tin, đánh giá thấp vai trò của những người xung
quanh. Một mặt, có cố gắng tham khảo ý kiến của tập thể, nhưng khi quyết
định lại chỉ dựa vào kinh nghiệm và quyền lực cá nhân. Các quyết định của họ
mang đậm màu sắc ý chí luận.
Ngược lại, những sĩ quan thiên về tự do thoải mái thường đánh giá quá
cao vai trò của quần chúng, thiếu tự tin trong hành động. Các quyết định của
họ mang đậm màu sắc “theo đuôi” để vừa lòng mọi người.
Cá biệt trong quân đội, có một vài sĩ quan, nhất là trong số các sĩ quan
trẻ do chưa có kinh nghiệm trong việc lãnh đạo quản lý con người, nên đã
phạm phải những sai lầm nghiêm trọng chạy theo con đường gây dựng một
thứ uy tín giả hiệu như: Dựa vào sự trấn áp, dựa trên cơ sở xa cách, lý luận
suông, giả dân chủ, v.v
Gây dựng và nâng cao uy tín trước đồng nghiệp và các cán bộ chiến sĩ
thuộc quyền là yêu cầu thường xuyên đối với mỗi sĩ quan quân đội. Trên con
đường đầy gian nan và thử thách ấy, mỗi sĩ quan cần phải nắm bản chất xã hội
của uy tín của người sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, và trực tiếp nhất là
hiểu rõ những nhân tố tạo thành uy tín cá nhân. Biết kết hợp một cách hợp lý
nhất giữa những nhân tố khách quan và chủ quan, giữa sự giúp đỡ tạo điều
kiện của tổ chức với sự rèn luyện của bản thân, trong đó lấy tự tu dưỡng rèn
luyện là con đường chủ yếu.
112266
Chương 11
truyền thống tập thể quân nhân
Truyền thống tập thể quân nhân là một hiện tượng tâm lý xã hội có quá
trình nẩy sinh, tồn tại trong một thời gian tương đối dài và tác động mạnh mẽ
đến đời sống hoạt động của mỗi quân nhân và cả tập thể. Để xây dựng tập thể
quân nhân vững mạnh, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần phát huy vai trò to lớn
của hiện tượng tâm lý xã hội này.
I. Khái niệm, phân loại truyền thống tập thể quân nhân
1. Khái niệm
Truyền thống tập thể quân nhân là những thói quen, những tập quán,
những chuẩn mực trong hành vi, phong cách sống và hoạt động được mọi
thành viên trong tập thể tuân theo, được gìn giữ và lưu truyền từ lớp người
này sang lớp người khác như là sản phẩm tinh thần của tập thể.
Truyền thống tập thể quân nhân được hình thành từ những thói quen
hành vi của các nhóm quân nhân lặp đi, lặp lại lâu dần trở thành chuẩn mực,
lối sống, phong cách hoạt động của riêng của tập thể đó.
Truyền thống của tập thể quân nhân hình thành trên một hoặc một số mặt
khác nhau của cuộc sống và hoạt động của tập thể, dần dần hình thành truyền
thống nhiều mặt của tập thể.
Truyền thống của tập thể quân nhân là kết quả hoạt động lâu dài của tập
thể và được quân nhân lưu truyền từ lớp người này sang lớp người khác, được
mọi người trong tập thể nâng niu gìn giữ, mong muốn noi theo và thể hiện nó.
Vì vậy nó trở thành giá trị tinh thần của tập thể.
Là một hiện tượng tâm lý xã hội, gắn liền với những điều kiện xã hội
lịch sử nhất định vì vậy truyền thống luôn chịu sự quy định của các điều kiện
xã hội - lịch sử và điều kiện sống, hoạt động của tập thể mang truyền thống.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử - xã hội khác nhau, mỗi tập thể khác nhau thì
truyền thống cũng có những biểu hiện khác nhau. Khi các điều kiện xã hội -
112277
lịch sử biến đổi thì truyền thống cũng có sự biến đổi ở những mức độ khác
nhau. Vì vậy, truyền thống bao giờ cũng mang đặc trưng dân tộc, địa phương,
giai cấp, lứa tuổi, ngành nghề, hoạt động chính trị xã hội của tập thể, của cộng
đồng người. Truyền thống tập thể quân nhân trong quân đội ta là sự kế thừa,
phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc, của Đảng, của quân đội và từ
thực tiễn quá trình sống, hoạt động của mỗi tập thể.
Truyền thống tập thể quân nhân có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển
của mỗi cá nhân và cả tập thể. Nó là chất keo kết dính tập thể thành một khối
thống nhất cả về mục đích, chuẩn mực hành vi, lối sống, phong cách hoạt
động ... tạo nên sức mạnh to lớn giúp quân nhân vượt qua khó khăn hoàn
thành nhiệm vụ. Truyền thống còn chi phối mạnh mẽ đến cách thức thực hiện
các quan hệ qua lại giữa các quân nhân và bầu không khí tâm lý cùng với việc
hình thành các hiện tượng tâm lý khác trong tập thể. Đồng thời, với những
chuẩn mực và giá trị to lớn của mình, truyền thống có tác dụng định định
hướng, điều chỉnh thái độ, hành vi của quân nhân tuân theo. Chính vì vậy, nó
trở thành phương tiện giáo dục quân nhân rất hiệu quả. Sống và hoạt động
trong tập thể có nhiều truyền thống tốt đẹp người quân nhân sẽ thấy vinh dự,
tự hào qua đó họ thấy rõ trách nhiệm phải tôn trọng, giữ gìn truyền thống,
phấn đấu vươn lên cho xứng đáng với truyền thống.
2. Phân loại truyền thống tập thể quân nhân.
Truyền thống của tập thể, cộng đồng rất đa dạng, phong phú. Dựa vào
các dấu hiệu và những căn cứ khác nhau có thể phân loại truyền thống trong
tập thể quân nhân thành các loại khác nhau.
* Căn cứ vào nội dung các mặt hoạt động của tập thể có thể chia thành:
- Truyền thống chiến đấu, phục vụ chiến đấu.
- Truyền thống lao động sản xuất.
- Truyền thống huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu
- Truyền thống làm công tác dân vận, địch vận.
112288
- Truyền thống hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ....
* Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng có thể chia thành:
- Truyền thống của quân đội
- Truyền thống của quân, binh chủng.
- Truyền thống của từng đơn vị.
* Căn cứ vào tính chất tác động của truyền thống đến mọi mặt hoạt động
của tập thể người ta chia thành:
- Truyền thống tích cực (tốt): là những truyền thống có tác dụng tạo nên
sự đoàn kết thống nhất, tăng cường sức mạnh, nâng cao hiệu quả thực hiện
các nhiệm vụ của tập thể và đảm bảo hiệu quả công tác giáo dục nhân cách
người quân nhân cách mạng.
- Truyền thống tiêu cực (xấu): là những truyền thống được hình thành từ
những thói quen, hành vi xấu của quân nhân, tự phát lan truyền trong tập thể,
gây cản trở quá trình phát triển của tập thể và làm giảm hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ của tập thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví truyền thống xấu như kẻ
địch to, ngấm ngầm phá hoại cách mạng, phá hoại đơn vị, mà muốn ngăn
chặn nó lại không dùng mệnh lệnh được.
Truyền thống tốt trong tập thể quân nhân được hình thành từ một mặt
đến nhiều mặt hoạt động của đơn vị. Còn truyền thống xấu, nếu không kịp
thời phát hiện, cũng phát triển từ một mặt đến nhiều mặt trong đời sống và
hoạt động của tập thể. Vì vậy trong quá trình xây dựng tập thể, cán bộ các cấp
phải thường xuyên nắm bắt, chủ động xây dựng cho tập thể có nhiều truyền
thống tốt đẹp, kịp thời phát hiện và loại bỏ những thói quen xấu không để nó
phát triển thành truyền thống xấu.
II. Đặc điểm và nội dung của truyền thống tập thể quân nhân
1. Những đặc điểm cơ bản của truyền thống tập thể quân nhân
a. Truyền thống tập thể quân nhân là sự kế thừa, phát triển truyền thống
của dân tộc, của Đảng, của quân đội ta.
Truyền thống là một hiện tượng tâm lý xã hội, nó nảy sinh, hình thành
phát triển trong hoạt động và chịu sự quy định của điều kiện, hoàn cảnh xã
112299
hội - lịch sử. Chính vì vậy truyền thống của tập thể quân nhân mang đặc trưng
của thời đại, dân tộc, giai cấp. Mặt khác, tập thể quân nhân là một tế bào xã
hội. Vì vậy truyền thống của tập thể quân nhân luôn chiụ sự tác động chi phối
bởi truyền thống của dân tộc, của Đảng, của quân đội ta. Đó là sự kế thừa,
phát huy truyền thống của dân tộc, của Đảng, của quân đội ta vào điều kiện
mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tính kế thừa của truyền thống trong các tập thể quân nhân được thể hiện
ở sự phát huy, chắt lọc những gì còn mang ý nghĩa tích cực trong truyền
thống của các thế hệ đi trước. Biết tôn trọng và kế thừa những cái hay, cái tốt
trong truyền thống của dân tộc, của Đảng và các thế hệ chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ trong quân đội và luôn coi đó là niềm tự hào, mong muốn
vươn lên để xứng đáng với truyền thống lớp lớp cha anh đi trước.
Tính phát triển của truyền thống tập thể quân nhân là sự thống nhất giữa
tính kế thừa và sự đổi mới. Đó là trên cơ sở tôn trọng, kế thừa cái hay, cái tốt
trong truyền thống của dân tộc, của Đảng, của quân đội và đưa vào trong các
truyền thống đó những nội dung mới sát với đặc điểm, yêu cầu xây dựng quân
đội và từng đơn vị trong giai đoạn hiện nay. Nếu phủ nhận hoặc coi thường
quá khứ lịch sử, không có sự kế thừa thì khó có sự đổi mới. Thế nhưng, nếu
không được đổi mới thì các truyền thống lịch sử cũng khó có thể trở thành sức
mạnh cải tạo hiện thực mới.
Nhận thức sâu sắc đặc điểm trên trong quá trình xây dựng tập thể lãnh
đạo chỉ huy các cấp cần chú trọng phát huy một cách tốt nhất những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, của Đảng, của quân đội ta. Chẳng hạn như truyền
thống yêu nước, thương người, vì nghĩa, cần cù, thông minh, sáng tạo; kiên
cường bất khuất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tận trung với nước, tận
hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội...Đồng thời, phải biết chăm lo, nuôi dưỡng, phát triển những thói
quen hành vi, phong cách sống hoạt động phù hợp với yêu cầu xây dựng quân
đội trong tình hình mới như: tác phong chính quy, tính khẩn trương, chính
113300
xác, tác phong công nghiệp, tính hiệu quả trong mọi hoạt động ... thông qua
đó bổ sung phát triển truyền thống của tập thể đáp ứng yêu cầu xây dựng bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
b. Truyền thống tập thể quân nhân có tính ổn định, bền vững (tương
đối).
Truyền thống được hình thành trong một quá trình lâu dài, được lưu
giữ trong nếp nghĩ, nếp sống, phong cách hoạt động của tập thể và được coi là
giá trị tinh thần, được mọi người trong tập thể gìn giữ, truyền từ lớp người
này sang lớp người khác. Vì vậy, nó có tính ổn định, ít biến đổi.
Sự ổn định, bền vững của truyền thống có tính hai mặt. Nếu truyền thống
tồn tại trong tập thể quân nhân mang ý nghiã tích cực thì sự ổn định, bền vững
của nó là điều kiện quan trọng giúp cho tập thể phát triển đúng hướng; tạo nên
sự đoàn kết gắn bó và nâng cao hiệu quả giáo dục nhân cách quân nhân đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn mới. Chẳng hạn như, truyền thống yêu nước
của dân tộc ta là một điển hình của tính bền vững - là điều kiện không thể
thiếu để tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc và ý chí kiên cường bất khuất vượt
mọi khó khăn, thử thách trong toàn bộ quá trình dựng nước và giữ nước. Điều
này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.
Nếu truyền thống tồn tại trong tập thể quân nhân mang ý nghĩa tiêu cực
thì sự bền vững ổn định của nó sẽ làm nẩy sinh những cản trở gây khó khăn
cho việc hình thành những thói quen hành vi, phong cách sống, hoạt động
mới phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Chẳng hạn như những thói quen
trong nền sản xuất nhỏ, lạc hậu; lối quan hệ ngôi thứ trong xã hội phong kiến
cho đến nay vẫn gây tác động không nhỏ đến việc hình thành tác phong chính
quy, thói quen sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
113311
Tuy nhiên cần thấy rằng, tính ổn định, bền vững truyền thống không
đồng nghĩa với sự bất biến. Trên thực tế, mỗi một truyền thống cụ thể trên các
mặt biểu hiện của nó luôn có sự vận động biến đổi, phát triển phù hợp với sự
biến đổi của xã hội, quân đội. Chẳng hạn truyền thống yêu nước, ý chí quật
cường của quân và dân ta hiện nay chính là sự thể hiện tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ", không có gì quý hơn độc lập tự do".
Các tập thể quân nhân trong quân đội ta hiện nay đã và đang thừa hưởng
những tinh hoa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của Đảng, của lớp lớp cha
anh thế hệ chống Pháp, chống Mỹ. Thế nhưng trong điều kiện mới những
truyền thống trên không phải không có những thói quen đã không còn phù
hợp. Vì vậy nếu không có tinh thần phê phán, khắc phục một cách triệt để thì
quân đội khó có thể tiến lên mạnh mẽ được.
c. Truyền thống tập thể quân nhân nẩy sinh, tồn tại, phát triển trong thực tiễn.
Truyền thống của tập thể quân nhân chỉ tồn tại và phát triển trong thực
tiễn hoạt động của các quân nhân và tập thể quân nhân. Nếu truyền thống
không được gìn giữ, thực hành trong cuộc sống hàng ngày sẽ dần dần mất đi ý
nghĩa, tác dụng và bị lãng quên. Chỉ có bằng hoạt động và thông qua hoạt
động các thói quen hành vi, phong cách sống, hoạt động tốt đẹp được duy trì
củng cố mới tạo nên truyền thống. Đồng thời chỉ có thông qua hoạt động thực
hiện các nhiệm vụ được giao thì tập thể quân nhân mới thấy hết được sức
mạnh, vai trò to lớn của truyền thống và mới có nhu cầu phát huy sức mạnh
của truyền thống để chuyển sức mạnh tinh thần to lớn do lịch sử để lại tạo nên
sức mạnh vật chất hiện thực nhằm hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được
giao. Vì thế, muốn xây dựng, phát huy truyền thống phải tăng cường giáo dục
cho những thế hệ nối tiếp hiểu sâu sắc bản chất, ý nghĩa của nó; xây dựng
lòng tự hào, ý chí quyết tâm vươn lên cho xứng với truyền thống. Trên cơ sở
đó tổ chức tốt mọi hoạt động ở đơn vị theo đúng nội dung, yêu cầu giáo dục
truyền thống.
2. Những nội dung cơ bản trong truyền thống Quân đội nhân dân,
Việt Nam.
113322
Truyền thống của tập thể quân nhân là sự kế thừa và phát triển truyền
thống quân đội ta trong điều kiện cụ thể của từng đơn vị, đồng thời truyền
thống tập thể là cái riêng góp phần làm phong phú truyền thống quân đội.
Những nội dung cơ bản của truyền thống quân đội luôn được phản ánh trong
nội dung của truyền thống tập thể quân nhân.
Truyền thống quân đội ta hiện nay là sự nối tiếp truyền thống cách mạng
của Đảng, truyền thống đánh giặc giữ nước chống ngoại xâm của cha ông ta
trong trong điều kiện lịch sử mới của cuộc kháng chiến chống thực dân và đế
quốc giành độc lập tự do, giải phóng dân tộc, tiến hành xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nội dung quan trọng nhất và tổng quát nhất của truyền thống quân đội ta
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đó là: "Quân đội ta trung với
Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc,
vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"[1, tr350].
Truyền thống của quân đội được biểu hiện trên những nội dung cơ bản sau:
- Trung với Đảng, hiếu với dân. Một lòng vì nước vì dân, chiến đấu vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
- Biết đánh, biết thắng; bách chiến, bách thắng.
- Cán binh đoàn kết, nhất trí cùng nhau chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam cộng
khổ, thương yêu nhau như ruột thịt.
- Gắn bó máu thịt với nhân dân, quân với dân một ý chí.
- Có lệnh là đi, đã đánh là thắng. Dũng cảm mưu trí, linh hoạt.
- Khiêm tốn, giản dị, kỷ luật tự giác nghiêm minh.
- Vừa có tinh thần yêu nước chân chính lại có tinh thần quốc tế cao cả.
Truyền thống quân đội được nảy sinh, hình thành, phát triển trong quá
trình các thế hệ quân nhân thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong các tập thể
bằng hành động anh hùng của đông đảo cán bộ, chiến sỹ, nhiều thế hệ, nhiều
113333
đơn vị trong chiến đấu, học tập, lao động và công tác. Để gìn giữ, phát huy và
làm phong phú thêm các nội dung của truyền thống quân đội trong điều kiện
mới là trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy, các tổ chức quần chúng và mọi cán
bộ, chiến sỹ trong mỗi tập thể quân nhân.
III. Biện pháp tâm lý xã hội giữ gìn, phát huy truyền thống tập thể
1. Làm tốt công tác giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của
Đảng, Quân đội và đơn vị cho quân nhân đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Truyền thống tích cực của mỗi tập thể quân nhân là sự kế thừa truyền
thống của dân tộc, của Đảng, của quân đội, phản ánh những đặc điểm riêng
phù hợp với tính chất nhiệm vụ của đơn vị. Muốn xây dựng truyền thống tốt
đẹp trong mỗi tập thể quân nhân cần làm tốt công tác giáo dục truyền thống
của dân tộc, của Đảng, của quân đội và của đơn vị cho mỗi quân nhân đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
Mục đích của giáo dục truyền thống là làm cho quân nhân có nhận thức
đúng, sâu sắc về truyền thống quân đội, có thái độ, cảm xúc tích cực đối với
các giá trị, chuẩn mực của truyền thống và có quyết tâm giữ gìn, bảo vệ và
phát huy các giá trị truyền thống quân đội trong thực tiễn.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục truyền thống lãnh đạo, chỉ huy các cấp
cần quán triệt sâu sắc các văn bản chỉ thị hướng dẫn về nội dung, phương
pháp giáo dục truyền thống; biết dựa vào các dịp lễ kỷ niệm truyền thống và
yêu cầu, đặc điểm hoạt động của mỗi đơn vị để lựa chọn nội dung, hình thức,
phương pháp giáo dục phù hợp. Đồng thời kết hợp chặt chẽ với tổ chức mọi
hoạt động của đơn vị theo đúng mục tiêu, yêu cầu giáo dục truyền thống. Trên
cơ sở đó làm cho các thói quen, chuẩn mực, giá trị truyền thống trở thành
hiện thực sinh động trong đời sống của mỗi quân nhân và cả tập thể. Từ đó
chăm sóc, vun trồng thành truyền thống của tập thể. Yêu cầu quan trọng trong
giáo dục truyền thống là phải tập trung vào các giá trị, chuẩn mực truyền
thống, giáo dục niềm tự hào, vinh dự của người quân nhân; tạo ra ở quân nhân
nhu cầu, mong muốn học tập, làm theo truyền thống; có thái độ tôn trọng lịch
113344
sử, tôn trọng những người làm nên chiến thắng và quyết tâm vận dụng sáng
tạo những bài học truyền thống vào thực tiễn hoạt động của đơn vị.
Giáo dục truyền thống là vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có phương pháp
tiếp cận khoa học. Nội dung và phương pháp phải sinh động phù hợp với nhu
cầu, hứng thú, thị hiếu, đặc điểm tâm lý - xã hội của lớp chiến sỹ mới.
2. Hình thành củng cố và phát triển những thói quen hành vi tốt, đấu tranh
khắc phục thói quen xấu không phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của tập thể.
Truyền thống chỉ tồn tại và phát triển nếu nó luôn được nhắc đến, được
thực hiện trong cuộc sống hàng ngày. Truyền thống tốt đẹp trong tập thể quân
nhân được hình thành từ các thói quen hành vi tốt của các nhóm quân nhân
trong tập thể, do đó, phải hình thành, củng cố và phát triển những thói quen
hành vi tốt trong nếp sống và hoạt động, chủ động phát triển và nhân lên
thành truyền thống tập thể. Truyền thống xấu cũng được nảy sinh từ các thói
quen xấu trong tập thể do đó cần nhận thức đúng về nó, kịp thời đề ra các biện
pháp giáo dục và tổ chức đấu tranh có hiệu quả để loại bỏ những thói quen
xấu, không để chúng trở thành những nét cố hữu.
Để củng cố, phát triển những thói quen hành vi tốt, đấu tranh khắc phục
thói quen xấu cần sử dụng tổng hợp các hình thức, biện pháp giáo dục, hành
chính, duy trì kỷ luật, xây dựng môi trường văn hoá quân sự... Trong đó cần
quan tâm đến việc phát hiện, vun trồng những gương người tốt, việc tốt và
xây dựng, nhân rộng các điển hình tiên tiến mẫu mực thành cái phổ biến trong
toàn đơn vị, làm cho các thói quen tốt đẹp được củng cố vững chắc, trở thành
những giá trị tinh thần của tập thể. Đồng thời, phải kiên trì sử dụng các tác
động thông qua dư luận xã hội, hoạt động văn hoá, văn nghệ, các biện pháp
hành chính để khắc phục các thói quen xấu nẩy sinh, tồn tại trong đơn vị. Mặt
khác, cần lưu ý rằng, truyền thống của tập thể quân nhân luôn vận động, phát
triển, biến đổi. Nếu không thường xuyên, củng cố, bổ sung cho phù hợp với
tình hình, đặc diểm hoạt động của đơn vị thì vẫn có nguy cơ mai một đi một
cách khó tránh khỏi.
3. Sử dụng các hình thức, phương pháp đa dạng để khai thác di sản
truyền thống, qua đó giữ gìn, phát huy truyền thống của dân tộc, của Đảng
và quân đội trong mọi hoạt động của tập thể.
113355
Phương thức tồn tại của truyền thống là trong hoạt động, trong tập thể,
trong các sản phẩm hoạt động của con người và trong các di sản truyền thống.
Di sản truyền thống là các hiện vật, đối tượng có ý nghĩa lịch sử thể hiện các
giá trị truyền thống. Có hai loại di sản truyền thống. Loại thứ nhất gồm các cứ
liệu thực tế, các hiện vật lịch sử, các vật chứng, nhân chứng lịch sử. Loại thứ
hai gồm những ấn phẩm văn hoá, các tác phẩm nghệ thuật, sách lịch sử, các
truyền thuyết, giai thoại lịch sử... Do đó muốn giáo dục truyền thống cần làm
tốt việc nghiên cứu, rà soát, kiểm kê, phân loại các di sản truyền thống để có
kế hoạch, nội dung, phương pháp khai thác có hiệu quả. Trong đó cần chú ý
phát huy thế mạnh của các hình thức tham quan, hội thảo, giao lưu truyền
thống, sáng tác truyền thống. Đặc biệt là tổ chức phát động và duy trì thường
xuyên, rộng khắp các phong trào thi đua "Tiếp bước cha anh", "Xứng danh Bộ
đội cụ Hồ"; gặp gỡ những người anh hùng, các chiến sỹ quyết thắng, các cán
bộ lão thành cách mạng... Đồng thời, phải làm tốt công tác bảo tồn, lưu giữ
các hiện vật, các chứng tích chiến công của cán bộ, chiến sỹ đơn vị và tổ chức
tốt phòng truyền thống của đơn vị làm cơ sở tăng thêm tính trực quan, chân
thực góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục truyền thống cho quân nhân.
Truyền thống là một trong trong những hiện tượng tâm lí xã hội điển
hình trong tập thể quân nhân, có tác động mạnh mẽ tạo nên sự đoàn kết, thống
nhất về ý chí hành động và nâng cao hiệu quả giáo dục nhân cách người quân
nhân cách mạng. Nghiên cứu nắm vững các đặc điểm, nội dung và biện pháp
tâm lí xã hội giữ gìn phát huy truyền thống tốt đẹp trong các tập thể cơ sở
quân nhân là vấn đề có ý nghĩa quan trọng góp phần xây dựng tập thể quân
nhân vững mạnh về mọi mặt. Đặc biệt trong tình hình hiện nay trước những
tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường; sự thẩm lậu các giá trị
tiêu cực của lối sống phương Tây vào trong xã hội và quân đội ta thì vấn đề
gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của Đảng, của
quân đội ta trong mỗi tập thể quân nhân lại càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết.
113366
Chương 12
Bầu không khí tâm lý xã hội
trong tập thể quân nhân
I. Khái quát chung về bầu không khí tâm lí xã hội trong tập thể
quân nhân
1. Khái niệm
Nguồn gốc của bầu không khí tâm lý xã hội trong tập thể quân nhân là
sự phản ánh những điều kiện sống của xã hội và những điều kiện sống, hoạt
động của tập thể trong những giai đoạn nhất định.
Bầu không khí tâm lý xã hội trong tập thể quân nhân là trạng thái tâm lí
trội của tập thể, phản ánh tính chất mối quan hệ qua lại giữa các thành viên
trong tập thể, được biểu hiện ở thái độ của các quân nhân trong hoạt động và
sinh hoạt tập thể.
Bầu không khí tâm lý tập thể là một mặt đời sống tinh thần của tập thể,
một khía cạnh của ý thức xã hội, tâm lí xã hội là sự phản ánh những điều kiện
sống chung (vật chất và tinh thần) của giai cấp, tầng lớp, của xã hội nói
chung, cũng như những điều kiện sống và hoạt động riêng (khách quan và chủ
quan) của tập thể quân nhân.
Như vậy, bầu không khí tâm lý tập thể nói chung, tập thể quân nhân nói
riêng, một mặt phản ánh những điều kiện sống, hoạt động chung, mặt khác nó
phản ánh những điều kiện sống riêng như: đặc điểm các nhiệm vụ của tập thể,
thành phần của tập thể, đặc điểm tâm lý của các thành viên trong tập thể, sự phân
công, trình độ và phong cách lãnh đạo, mối quan hệ qua lại giữa các thành viên...
Chính điều đó làm cho đời sống tinh thần, tâm lý ở mỗi tập thể có mầu sắc riêng.
Tuy nhiên, bầu không khí tâm lý tập thể không phải là bất biến nó thay đổi cùng
với sự xuất hiện các sự kiện hoặc biến cố lớn trong tập thể, nó được củng cố,
113377
phát triển bởi các thành viên trong tập thể, bởi sự thống nhất về mục đích hoạt
động, sự hoà hợp về mặt tâm lý của các thành viên trong tập thể.
Bầu không khí tâm lý tập thể được hình thành thông qua hoạt động quân
sự và giao tiếp, phản ánh tính chất mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân
trong tập thể. Cơ sở của bầu không khí tâm lý tập thể là những cảm xúc nảy
sinh trong quá trình con người quan hệ qua lại với nhau và được bộc lộ ra
trong giao tiếp giữa con người.
Như vậy, có thể thấy rằng: nguồn gốc của giao tiếp nằm chính trong hoạt
động sống mang tính vật chất của cá nhân, giao tiếp cũng là sự hiện thực hoá
của toàn bộ hệ thống các mối quan hệ của con người. Do vậy, bầu không khí
tâm lý tập thể gắn liền và không tách rời khỏi giao tiếp. Mối quan hệ qua lại
giữa các thành viên trong tập thể như thế nào sẽ phản ánh rõ ràng trong bầu
không khí tâm lý tập thể như thế ấy. Sự hiểu biết đầy đủ về nhau, những giá
trị tư tưởng, đạo đức được thống nhất, sự gần gũi của người lãnh đạo với
những thành viên trong tập thể là những điều kiện quan trọng để xây dựng
nên bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể.
Bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân là trạng thái tâm
lý tích cực trong tập thể, phản ánh tính chất tốt đẹp trong quan hệ giữa các
thành viên, góp phần nâng cao hiệu quả học tập, rèn luyện của tập thể, xây
dựng đơn vị ngày càng vững mạnh.
Vai trò của bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân được
thể hiện cụ thể trên các khía cạnh sau:
- Là điều kiện quan trọng để các thành viên trong tập thể thực hiện có
hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện trong các tập thể quân sự.
- Là thành phần quan trọng để góp phần hình thành toàn bộ đời sống tinh
thần của tập thể, tâm trạng của mỗi thành viên trong tập thể.
- Chi phối đến quá trình hình thành các nhu cầu, động cơ có giá trị xã hội
cao ở mỗi quân nhân.
- Là tác nhân kích thích trực tiếp để phát triển ý chí của mỗi thành viên
trong tập thể.
2. Đặc trưng của bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân
113388
Tập thể quân nhân là một dạng tập thể xã hội chủ nghĩa trong môi
trường hoạt động quân sự. Các thành viên trong tập thể liên kết với nhau
nhằm mục đích huấn luyện, học tập, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các mối quan hệ diễn ra trong
trật tự của môi trường hoạt động quân sự. Đặc trưng của bầu không khí tâm lý
tích cực trong tập thể quân nhân được thể hiện:
a) Tính thống nhất cao về mục đích hoạt động.
Tính thống nhất cao về mục đích hoạt động thể hiện ở việc mỗi thành
viên trong tập thể ý thức rõ ràng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ huấn luyện, học
tập, rèn luyện nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, đáp ứng yêu
cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Coi đó là mục tiêu, yêu cầu phấn đấu của bản thân mình. Trong hoạt động
luôn thể hiện tinh thần tích cực, chủ động, miệt mài, chịu khó, say sưa với
công việc, giữa các thành viên có tinh thần thi đua với nhau, giúp đỡ nhau
thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra.
Tính thống nhất mục đích hoạt động còn thể hiện ở việc từng cá nhân
thường xuyên chấp hành nghiêm chỉnh điều lệnh kỉ luật quân đội, lễ tiết tác
phong quân nhân, nguyên tắc các mối quan hệ qua lại tốt đẹp trong tập thể.
b) Thái độ quan tâm lẫn nhau sẵn sàng chia sẻ khó khăn, đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau trong tập thể.
Sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau, tính thần đoàn kết, nhất trí cao trong tập
thể là vấn đề thuộc về bản chất mối quan hệ qua lại trong quân đội nhân dân
Việt Nam. Một trong mười lời thề danh dự của quân nhân đã nêu rõ: “Đoàn
kết chặt chẽ với nhau như ruột thịt trên tình thương yêu giai cấp, hết lòng giúp
đỡ lẫn nhau lúc thường cũng như lúc ra trận, thực hiện toàn quân một ý chí”.
Quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần đoàn kết nhất trí cao được thể
hiện trước hết ở người lãnh đạo luôn sâu sát nắm chắc điều kiện hậu phương
gia đình, tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn, thuận lợi
trong học tập, rèn luyện của từng thành viên trong tập thể, đồng thời mỗi
thành viên trong tập thể thường xuyên trao đổi tâm tư, tình cảm với nhau,
giúp đỡ lẫn nhau và tạo điều kiện cho người lãnh đạo thực hiện tốt chức trách
113399
của mình. Thái độ quan tâm giúp đỡ lẫn nhau còn thể hiện ở tâm thế sẵn sàng
chia sẻ cảm xúc cho nhau, chia sẻ niềm vui trước kết quả học tập, rèn luyện,
không đố kị, ghen ghét, động viên nhau kịp thời trước những khó khăn của
cuộc sống, tất cả đều hướng tới mục tiêu xây dựng tập thể ngày càng vững
mạnh.
c) Thái độ đòi hỏi cao lẫn nhau.
Đòi hỏi cao lẫn nhau là một đặc trưng rất quan trọng của bầu không khí
tâm lí tích cực trong tập thể quân nhân. Đòi hỏi cao vừa thể hiện sự quan tâm
lẫn nhau, nhưng đồng thời cũng thể hịên trách nhiệm chung của tập thể đối
với nhiệm vụ học tập, rèn luyện của người quân nhân trong môi trường hoạt
động quân sự.
Đòi hỏi cao lẫn nhau bao gồm đòi hỏi của người chỉ huy đối với mỗi
quân nhân, đòi hỏi của các quân nhân đối với nhau và bao gồm cả đòi hỏi của
của các quân nhân trong tập thể đối với người chỉ huy của mình.
Nội dung của yêu cầu cao được thể hiện một cách toàn diện trên tất cả
các mặt của cuộc sống, cả những yêu cầu cần xây dựng phẩm chất nhân cách
của người quân nhân lẫn những yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy
của các sỹ quan trong đơn vị. Mọi thành viên phải thường xuyên kiểm tra,
giám sát lẫn nhau, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ
theo chức trách của mình.
Như vậy, yêu cầu cao tồn tại như một phương thức thực hiện sự ảnh
hưởng lẫn nhau. Đòi hỏi cao vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả hoạt động của
tập thể, đồng thời nó định hướng cho quan hệ của các thành viên đúng với
chuẩn mực XHCN, phù hợp với yêu cầu của điều lệnh, điều lệ và các quy tắc
ứng xử trong quân đội.
d) Thái độ đấu tranh vì nhau, vì tập thể.
Đấu tranh tích cực vì nhau là một trong những nội dung không thể thiếu
để bầu không khí tâm lý tập thể quân nhân phát triển theo hướng tích cực.
Tính tích cực của bầu không khí tâm lý tập thể quân nhân được xác định bởi
sự trưởng thành về chính trị - đạo đức của mỗi thành viên, tính chất tích cực
trong mối quan hệ giữa con người với con người, sự thống nhất về ý chi, hành
động, tất cả đều hướng tới mục tiêu xây dựng tập thể lành mạnh, hoàn thành
tốt nhiệm vụ. Thái độ đấu tranh vì nhau, không dung túng bao che cho nhau
114400
sẽ giữ vững định hướng trong quan hệ giữa các thành viên, ngăn chặn kịp thời
tình trạng vô kỷ luật, lỏng lẻo về tổ chức trong tập thể. Nhờ đấu tranh phê
bình thẳng thắn trong tập thể mà từng người có thể nhận thức một cách đúng
đắn những mặt yếu trong hoạt động của mình, củng cố tính tự tin ở mỗi
người, động viên họ nỗ lực phấn đấu vươn lên tự hoàn thiện nhân cách của
mình...
Tuy nhiên, đấu tranh phê bình chỉ có tác dụng tích cực khi đó là những ý
kiến mang tính xây dựng, bảo đảm tính khách quan, hợp tình, hợp lý, tránh
chỉ dựa vào sự thiện cảm, ác cảm của cá nhân. Mặt khác đấu tranh phê bình
trong tập thể cũng cần thể hiện sự kiên quyết, phê bình những cá nhân có biểu
hiện sai trái nhưng cũng cần thấy rõ những ưu điểm, thành tích của họ.
Đấu tranh vì nhau một cách kiên quyết sẽ gây ra những cảm xúc nhất
định ở mỗi con người như: ăn năn, hối hận, tin tưởng, quyết tâm... Các cảm
xúc đó chi phối đến suy nghĩ, hành động của cá nhân, làm biến đổi tính tích
cực hành động của mỗi thành viên trong tập thể, ảnh hưởng trực tiếp đến quan
hệ người - người, làm cho quan hệ đó phát triển theo hướng tích cực.
e) Người lãnh đạo chỉ huy luôn thể hiện được uy tín của mình trước tập thể.
Uy tín của người lãnh đạo chỉ huy là một trong những đặc trưng quan
trọng trong tập thể quân nhân, bởi vì uy tín của người lãnh đạo, chỉ huy là tác
nhân điều chỉnh mạnh mẽ mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong tập
thể nói chung, giữa người lãnh đạo chỉ huy với cán bộ chiến sĩ dưới quyền nói
riêng. Uy tín của người lãnh đạo chỉ huy được xây dựng trên cơ sở năng lực
tổ chức, lãnh đạo, phẩm chất đạo đức cách mạng nói chung. Uy tín đó được
thể hiện ở sự thừa nhận, tin tưởng của mọi người, các quân nhân trong tập thể
luôn coi người chỉ huy là người đại diện cho quyền lợi chung của tập thể. Do
đó người chỉ huy luôn được coi là thủ lĩnh không chính thức trong tập thể.
g) Dư luận trong tập thể lành mạnh luôn hướng vào xây dựng tập thể
ngày càng vững mạnh.
Dư luận trong tập thể quân nhân là một hiện tượng tâm lý phức tạp, một
hình thức biểu hiện của của trạng thái ý thức xã hội. Đây là sự biểu thị thái
độ, quan điểm, cảm xúc, ý chí của đại đa số thành viên trong tập thể, do đó có
sức mạnh to lớn đối với quá trình xây dựng tập thể quân nhân vững mạnh.
114411
Trong mối quan hệ qua lại giữa dư luận tập thể và bầu không khí tâm lý
tập thể có thể nhận thấy rằng: Bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể
quân nhân chịu sự chi phối, ràng buộc bởi dư luận tích cực. Nhờ sức mạnh
của dư luận mà từng người trong tập thể buộc phải điều chỉnh hành vi của
mình theo những chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa, dư luận là luồng thông
tin ngược thông báo cho mỗi thành viên, giúp họ biết được thái độ của tập thể
đối với hành vi của mình, qua đó ngăn ngừa các biểu hiện lệch lạc sắp xảy ra
kích thích quân nhân vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
h) Mọi quân nhân đều có tình cảm gắn bó với tập thể, tự hào với tập thể
của mình.
Bầu không khí tâm lý tập thể là một hiện tượng tâm lý tập thể, được hình
thành từ thái độ của mọi người trong tập thể đối với công việc, đồng chí đồng
đội, người lãnh đạo và thái độ với bản thân, do vậy bầu không khí tâm lý tích
cực trong tập thể quân nhân phải dựa trên cơ sở cảm xúc, tình cảm tích cực
của mọi cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị.
Tình cảm gắn bó với tập thể, tự hào về tập thể là những biểu hiện cụ thể của
bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân đồng thời là một đặc trưng
quan trọng phản ánh tính chất của bầu không khí tâm lý trong tập thể.
Bắt nguồn từ sự thống nhất cao về lý tưởng phục vụ Đảng, Tổ quốc và
nhân dân, niềm tin chính trị đạo đức, tình cảm đó còn xuất phát từ lòng tự hào
về truyền thống “Bộ đội cụ Hồ”, truyền thống huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,
chiến đấu của tập thể. Những nét đẹp truyền thống quân đội, truyền thống tập
thể đã kích thích tính tích cực của con người, cố kết các thành viên thành một
khối, làm cho mọi người ngày càng gắn bó với tập thể, tự hào về tập thể.
i) Kết quả hoạt động của tập thể luôn đạt ở mức cao.
Kết quả hoạt động là hệ quả của bầu không khí tâm lý tập thể. Bất cứ tập
thể nào muốn có kết quả hoạt động cao đều phải dựa vào cái nền của bầu
không khí tâm lý tích cực.
Hoạt động của tập thể quân nhân là hoạt động trong lĩnh vực quân sự.
Mục đích của hoạt động này là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
114422
bảo vệ Tổ quốc. Kết quả hoạt động của tập thể quân nhân được đánh giá toàn
diện: Đó là sự trưởng thành về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, kết quả
của hoạt động học tập, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu cũng như
các hoạt động xây dựng đơn vị khác. Kết quả hoạt động của đơn vị đạt ở mức
cao là một chỉ số quan trọng nói lên tính tích cực của bầu không khí tâm lý,
đồng thời là dấu hiệu khẳng định sự phát triển cao của tập thể.
Trên đây là những đặc trưng cơ bản của bầu không khí tâm lý tích cực
trong tập thể quân nhân. Những nội dung này gắn bó chặt chẽ với nhau và là
nguồn gốc sức mạnh của tập thể, là hạt nhân cố kết các thành viên trong tập
thể thành một sức mạnh thống nhất, đảm bảo cho các tập thể quân nhân hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ.
3. Các yếu tố cơ bản tạo nên bầu không khí tâm lý tích cực trong tập
thể quân nhân.
Bầu không khí tâm lý là trạng thái tâm lý của tập thể, phản ánh tính chất
của các mối quan hệ trong tập thể. Do vậy, nó liên quan tới các mặt quan hệ
của các thành viên trong tập thể.
Như vậy, theo các nhà tâm lí học,các thành phần cơ bản tạo nên bầu
không khí tâm lý tập thể chính là mối quan hệ giữa những con người trong tập
thể với nhau và quan hệ giữa những con người trong tập thể đối với công
việc. Từ cách tiếp cận như vậy có thể chỉ ra những yếu tố cơ bản tạo nên bầu
không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân sau đây:
a) Quan hệ giữa các thành viên trong tập thể quân nhân theo chiều dọc.
Đây là mối quan hệ giữa người lãnh đạo, chỉ huy và cán bộ chiến sĩ
thuộc quyền trong tập thể. Quan hệ giữa người lãnh đạo, chỉ huy với cán bộ
chiến sĩ thuộc quyền đóng vai trò quan trọng trong bầu không khí tâm lý tập
thể quân nhân, nó tạo ra bối cảnh chung cho sự tác động qua lại giữa quan hệ
công việc và quan hệ tình cảm.
Quan hệ giữa các thành viên trong tập thể theo chiều dọc thể hiện ở các
nội dung cụ thể sau đây:
- Sự hiểu biết, gần gũi của người lãnh đạo, chỉ huy đối với cấp dưới.
114433
Sự gần gũi của người lãnh đạo chỉ huy đối với cấp dưới thể hiện ở việc
tôn trọng cấp dưới, quan tâm đến đời sống vật chất tinh thần của mọi người,
lắng nghe tâm tư nguyện vọng của các thành viên, thông cảm chia sẻ với họ,
hiểu biết tâm lý cũng như điều kiện, hoàn cảnh riêng của từng người. Mức độ
gần gũi càng cao càng xoá bỏ ngăn cách giữa cấp trên và cấp dưới, tăng thêm
sự gắn bó về tình cảm làm cho quan hệ chính thức giữa cấp trên, cấp dưới và
quan hệ tình cảm được xích lại gần nhau.
- Sự tôn trọng, tin tưởng của người chỉ huy với cấp dưới. Đây là nội
dung quan trọng của bầu không khí tâm lý tập thể quân nhân. Thái độ tôn
trọng, tin tưởng cấp dưới là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, giúp mọi thành
viên trong tập thể sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn trở ngại, khích lệ họ phát
huy tính tích cực, chủ động trong học tập, rèn luyện làm cho quan hệ trên
dưới càng trở nên gắn bó. Sự tôn trọng, tin tưởng của người chỉ huy đối với
cấp dưới thể hiện ở thái độ công bằng, thẳng thắn, tôn trọng nhân cách cấp
dưới, luôn cởi mở chân tình, thường xuyên động viên giúp đỡ cấp dưới vượt
qua khó khăn thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Sự tôn trọng và tin tưởng của cấp dưới đối với người lãnh đạo chỉ huy.
Đây là nội dung thể hiện thái độ của những người thuộc quyền đối với
người lãnh đạo, chỉ huy. Nội dung này liên quan mật thiết với sự hiểu biết,
gần gũi của người lãnh đạo, chỉ huy đối với cấp dưới.
Trong tập thể quân nhân nếu người lãnh đạo, chỉ huy thể hiện lòng nhân
ái, sự gần gũi, quan tâm đến mọi người sẽ dẫn đến trạng thái tin tưởng của tập
thể học viên đối với người lãnh đạo chỉ huy, sự tin tưởng là hệ quả tất yếu của
mối tương tác trong quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới. Thái độ của tập thể
đối với người lãnh đạo, chỉ huy còn phụ thuộc vào khả năng thuyết phục và
nêu gương của người lãnh đạo.
b) Quan hệ giữa các thành viên trong tập thể quân nhân theo chiều ngang.
Đây là mối quan hệ giữa các quân nhân trong tập thể với nhau, biểu hiện
ở độ liên kết của tập thể, tính chất các mối quan hệ liên nhân cách. Mối quan
hệ này được biểu hiện cụ thể ở nội dung sau:
114444
- Sự hợp tác, phối hợp hoạt động của các thành viên trong tập thể.
Sự hợp tác, phối hợp là khả năng cộng tác, hỗ trợ nhau trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ dựa trên cơ sở thống nhất động cơ, mục đích hoạt động
giữa các cá nhân. Nếu đạt được sự thống nhất cao về động cơ, mục đích hoạt
động sẽ dẫn tới thống nhất về quan điểm, ý chí và phương thức hoạt động cơ
bản, làm cho mỗi cá nhân nhận thức đúng đắn nhiệm vụ của mình, luôn đặt
lợi ích của mình trong lợi ích chung, từ đó từng cá nhân sẽ xích lại gần nhau,
hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, thiết lập mối
quan hệ gắn bó, bền chặt giữa các thành viên trong tập thể.
- Sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau.
Quan tâm giúp đỡ là thái độ của con người với con người trong cuộc sống,
một khía cạnh nói lên tính chất mối quan hệ qua lại trong tập thể quân nhân.
Bầu không khí tâm lý trong tập thể quân nhân sẽ phát triển tích cực nếu
trong tập thể luôn có sự tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau, thông cảm chia sẻ lẫn
nhau trong cuộc sống và trong hoạt động.
Quan tâm giúp đỡ lẫn nhau không chỉ dừng lại ở sự chia sẻ những cảm
xúc tình cảm mà còn thể hiện ở việc chú ý lẫn nhau trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ. Nhờ có sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau mà các tâm trạng tích cực
như niềm vui, tinh thần lạc quan yêu đời ngày càng được nhân lên, nhân cách
của các thành viên trong tập thể ngày càng được hoàn thiện và củng cố vững
chắc.
- Thái độ tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau vừa phản ánh mặt tình cảm của
con người đồng thời còn phản ánh mức độ trưởng thành cả về mặt chính trị
đạo đức, trình độ văn hoá của tập thể quân nhân.
Biểu hiện của tôn trọng tin tưởng lẫn nhau là lắng nghe ý kiến của nhau,
tôn trọng nhân cách của người khác trong giao tiếp, gửi gắm tình cảm, đặt
niềm tin vào nhau, chia sẻ cảm xúc với mọi người. Thái độ tôn trọng, tin
tưởng lẫn nhau là điều kiện đầu tiên để xác lập mối quan hệ tình cảm giữa các
thành viên trong tập thể, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ, xoá bỏ sự ngăn
cách giữa các thành viên trong tập thể.
- Thái độ đòi hỏi cao ở nhau.
114455
Thái độ đòi hỏi cao ở nhau là một nội dung quan trọng của bầu không
khí tâm lý tập thể. Đòi hỏi cao ở nhau là biểu hiện tập trung của sự thống nhất
động cơ mục đích, hoạt động vì lơi ích của tập thể. Căn cứ vào mức độ đòi
hỏi cao lẫn nhau trong mỗi tập thể ta có thể đánh giá được tính chất bầu
không khí tâm lý của tập thể đó. Tuy nhiên đòi hỏi cao phải xuất phát từ
những chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa, từ việc hoàn thành tốt nhiệm vụ
huấn luyện, học tập, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của tập thể, của xã hội
chứ không phải từ ý muốn chủ quan của bất cứ cá nhân nào. Đòi hỏi cao một
cách nghiêm túc thì các quan hệ trong tập thể diễn ra đúng với chuẩn mực và
có tác dụng tốt cho việc xây dựng đơn vị.
c) Quan hệ đối với lao động quân sự.
Đó là một thành phần tất yếu của bầu không khí tâm lý tập thể quân
nhân, mà nội dung của nó được thể hiện ở các mức độ cụ thể sau:
- Nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ của tập thể: Quan hệ đối với lao động
quân sự của tập thể quân nhân trước hết thể hiện ở việc mọi người nhận thức
sâu sắc mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của tập thể như của chính mình, hướng
hoạt động của mình vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu đó.
- Tình cảm yêu mến, gắn bó với nghề nghiệp quân sự.
Tình cảm yêu mến, gắn bó với nghề nghiệp quân sự là thái độ chung của
tập thể quân nhân đối với lao động quân sự. Những thái độ này nảy sinh trong
cuộc sống và hoạt động huấn luyện, học tập, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
của các tập thể quân nhân, gắn liền với việc thoả mãn yêu cầu hoạt động của
các thành viên trong tập thể. Tình cảm yêu mến gắn bó với nghề nghiệp quân
sự liên quan tới việc nhận thức ý nghĩa của lao động quân sự đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tình cảm yêu mến gắn bó với nghề nghiệp quân sự biểu hiện ở tinh thần
phấn khởi say mê nhiệt tình trong học tập, công tác, huấn luyện, có tinh thần
trách nhiệm chính trị cao trong khi thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu... Tình trạng thờ ơ với công việc, hiệu quả hoạt động thấp là do tập
thể chưa tạo được tình cảm tích cực đối với lao động. Những biểu hiện này là
một trong những nguyên nhân tác động xấu lên bầu không khí tâm lý tập thể.
114466
- Tinh thần học tập, rèn luyện của tập thể.
Tinh thần học tập, rèn luyện liên quan mật thiết với tình cảm yêu mến,
gắn bó với nghề nghiệp quân sự. Những thái độ này có tác dụng như những
động lực thôi thúc bên trong, thúc đẩy mỗi người tích cực học tập, rèn luyện
nhằm đạt được mục đích cá nhân và tập thể.
d) Quan hệ đối với bản thân.
Bầu không khí tâm lý tập thể là những trạng thái cảm xúc chung được
liên kết bởi trạng thái cảm xúc riêng của từng thành viên trong tập thể. Bởi
vậy, bầu không khí tâm lý tập thể còn biểu hiện ra trong cả mối quan hệ của
mỗi thành viên trong tập thể đối với chính bản thân mình.
Quan hệ đối với bản thân của từng thành viên gồm những nội dung: Tự
đánh giá, tự đòi hỏi, tự khẳng định mình.
- Tự đánh giá bản thân: Đây là một quá trình tích cực ở mỗi con người. ở
quá trình này, con người lấy bản thân mình làm đối tượng để nhận thức, mỗi
người tự giác nhận thức về vị thế của mình trong tập thể, nhận thức về vị thế
xã hội khách quan của những động cơ, mục đích đó cho phù hợp với lợi ích
tập thể. Tự đánh giá phụ thuộc vào nhận thức, mức độ quán triệt mục đích
hoạt động của tập thể, cũng như nhân sinh quan, thế giới quan của mỗi người.
Tự đánh giá là cơ sở cho việc hình thành bầu không khí tâm lý tích cực trong
tập thể, vì tự đánh giá nâng cao tinh thần tự giác, tính tự trọng giúp mỗi người
tự chủ lấy mình, tự giác giáo dục để đạt mục tiêu, lý tưởng của mình.
- Tự đòi hỏi.
Tự đòi hỏi có liên quan và phụ thuộc vào sự tự đánh giá của mỗi người.
Trên cơ sở của việc liên hệ bản thân với mọi người xung quanh, với các chuẩn
mực xã hội, với yêu cầu của điều lệnh quân đội, từng cá nhân tự đặt ra yêu
cầu đối với bản thân mình để phấn đấu, rèn luyện. Tự đòi hỏi không chỉ là
một hoạt động của nhận thức lý trí mà còn là năng lực ý chí của mỗi cá nhân,
phản ánh khả năng tự kìm hãm, tự kìm chế của cá nhân trước những xu hướng
cản trở việc thực hiện mục đích chung của tập thể. Tự đòi hỏi của từng cá
nhân trong tập thể càng cao càng tạo nên sự tin tưởng lẫn nhau và là điều kiện
để rèn luyện phẩm chất đạo đức của từng người trong tập thể góp phần làm
cho tập thể ngày càng vững mạnh.
114477
- Tự khẳng định mình
Tự khẳng định mình là sự hiểu biết của mỗi cá nhân, thông qua các hành
động cụ thể nhằm xác định vị trí của mình trong tập thể. Tự khẳng định mình
là một nguyện vọng thiết thực của mỗi người trong hệ thống quan hệ tâm lý
của tập thể và là một nội dung quan trọng của bầu không khí tâm lý tích cực
trong tập thể quân nhân. Nếu hành động của từng người phù hợp với chuẩn
mực đạo đức xã hội chủ nghĩa, gắn với việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sẽ
tạo ra sự hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và không khí thi đua trong tập thể.
Ngược lại những hành động nặng về lợi ích cá nhân, không phù hợp vơí lợi
ích chung sẽ làm nảy sinh vô số các va chạm, ảnh hưởng tới sự đoàn kết của
tập thể và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
II. Một số biện pháp tâm lý-xã hội cơ bản nhằm xây dựng bầu không
khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân
1. Lựa chọn, phân công cán bộ một cách hợp lý là yêu cầu quan trọng
xây dựng bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân.
Lựa chọn, phân công cán bộ một cách hợp lý là biện pháp quan trọng
trong việc xây dựng bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân.
Bởi lẽ đội ngũ cán bộ chính là những người trực tiếp tổ chức, quản lý mọi
hoạt động của tập thể, đồng thời họ là trung tâm của sự đoàn kết, thống nhất
trong tập thể. V.L.Mi-khe-ép, nhà tâm lí học Xô viết, khi nghiên cứu vai trò
của người lãnh đạo đối với việc xây dựng bầu không khí tâm lý tập thể đã chỉ
ra rằng: “Tính chất của bầu không khí tâm lý tuỳ thuộc vào tất cả các thành
viên của tập thể. Nhưng những người lãnh đạo và các tổ chức đảng cùng với
đoàn thanh niên cộng sản và công đoàn tạo thành một hạt nhân gồm những
người tiên tiến của tập thể đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra tính chất
đó. Hàng ngày người lãnh đạo hoạt động để hoàn thiện bầu không khí tâm lý
bằng cách tăng thêm những yếu tố đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau theo những
chỉ thị thường lệ về bất kì một vấn đề nào”. Do vậy, việc lựa chọn, phân công
cán bộ phải cân nhắc kĩ lưỡng, có cơ sở khoa học.
Người cán bộ trong tập thể quân nhân phải là những người một lòng một
dạ trung thành với Đảng, tổ quốc và nhân dân, có bản lĩnh chính trị vững
114488
vàng, có lối sống trong sạch, lành mạnh, đồng thời có hứng thú nghề nghiệp,
yêu mến gắn bó với sự nghiệp quân sự. Có năng lực lãnh đạo, tổ chức, chỉ
huy, có tác phong sâu sát, gần gũi với quần chúng. Những phẩm chất này tạo
điều kiện thuận lợi để người cán bộ thiết lập mối quan hệ tích cực với mọi
người. Đó cũng chính là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống để các thành
viên khác trong tập thể noi theo.
Việc lựa chọn cán bộ phải đi đôi với sắp xếp, bố trí cán bộ. Sắp xếp bố
trí cán bộ đúng người, đúng việc đúng chuyên môn sở trường sẽ tạo điều kiện
để mỗi người phát huy năng lực của mình trong quá trình lãnh đạo, quản lý.
Sắp xếp, bố trí cán bộ còn phải tính đến sự tương hợp tâm lý giữa họ. Sự
tương hợp tâm lý là cơ sở để xây dựng mối quan hệ tình cảm khăng khít giữa
những người lãnh đạo, sự phối hợp hoạt động giữa họ sẽ tốt hơn và đó là điều
kiện để ngăn chặn bất đồng, mâu thuẫn trong quá trình hoạt động.
2. Giáo dục cho các thành viên trong tập thể có định hướng giá trị
đúng đắn.
Để tạo nên sự thống nhất định hướng giá trị trong các tập thể quân nhân
cần tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
a) Nâng cao giác ngộ chính trị-tư tưởng cho các thành viên trong tập
thể.
Là một khía cạnh của đời sống tinh thần, do vậy, bầu không khí tâm lý
tập thể chịu sự chi phối rất lớn bởi hệ tư tưởng đang thống trị trong xã hội và
đời sống chính trị của đất nước. Nâng cao giác ngộ chính trị cho các thành
viên trong tập thể không những góp phần xây dựng ở họ niềm tin vào sự lãnh
đạo của Đảng, pháp luật của nhà nước mà còn góp phần điều chỉnh mối quan
hệ giữa các thành viên trong tập thể theo hướng ngày càng tốt đẹp.
Để nâng cao giác ngộ chính trị tư tưởng cho các thành viên trong tập thể,
công tác giáo dục cần làm rõ tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-
Lênin và sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong các giai đoạn lịch
sử của đất nước. Giáo dục chính trị tư tưởng ở các tập thể quân nhân cũng cần
làm rõ những thành tựu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước đồng thời đấu
114499
tranh kiên quyết với những quan điểm sai trái, phê phán những biểu hiện lệch
lạc trong cuộc sống, trái với đạo đức xã hội chủ nghĩa.
b) Xây dựng cho các thành viên trong tập thể có định hướng giá trị nghề
nghiệp đúng đắn.
Định hướng giá trị nghề nghiệp đúng đắn có ý nghĩa to lớn trong việc
nâng cao bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân. Khi mọi
thành viên trong tập thể ý thức được trách nhiệm của mình trước sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, coi binh nghiệp là hướng lựa chọn của cuộc đời,
đây chính là cơ sở để tạo nên sự cố kết gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau giữa những
người cùng chung lý tưởng.
Để xây dựng cho mọi thành viên trong tập thể có định hướng giá trị nghề
nghiệp đúng đắn cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Giáo dục để các thành viên trong tập thể thấy rõ ý nghĩa xã hội cao cả
của hoạt động quân sự. Mọi quân nhân phải ý thức đúng đắn rằng: quân đội ta
với tư cách là một lực lượng chính trị, một công cụ đặc biệt của Đảng, của
giai cấp công nhân Việt Nam, lực lượng nòng cốt để xây dựng nền quốc
phòng toàn dân và tiến hành chiến tranh nhân dân, do vậy phải không ngừng
nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở
mọi cường độ và quy mô khác nhau.
- Làm cho mọi thành viên nhận thức sâu sắc mục đích hoạt động chung
của tập thể, từ đó giúp cho mỗi người nắm được nhiệm vụ của quân đội trong
giai đoạn cách mạng mới hiện nay, đặc biệt là nhiệm vụ của đơn vị, chức
trách của mỗi cá nhân. Bằng nhiều hình thức giáo dục làm chuyển hoá mục
đích hoạt động chung của tập thể thành nhu cầu, mục đích hoạt động riêng
của mỗi người. Trên cơ sở đó mà phát huy tính tích cực, tự giác của mỗi
người trong học tập, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu.
c) Giáo dục cho các thành viên trong tập thể có định hướng giá trị đúng
đắn về đạo đức, lối sống.
Giáo dục định hướng giá trị về đạo đức, lối sống trước hết hướng vào
xây dựng ý thức thái độ, hành vi, pháp luật. Thông qua các hình thức giáo dục
115500
giúp cho mọi quân nhân hiểu ý nghĩa của pháp luật, những quy định của điều
lệnh, điều lệ đồng thời kết hợp với tổ chức chặt chẽ mọi hoạt động của đơn vị,
để nâng cao hiểu biết, hình thành thái độ tôn trọng pháp luật, tự giác điều
chỉnh hành vi theo những chuẩn mực mà pháp luật và điều lệnh quân đội quy
định.
Giáo dục đạo đức, lối sống còn đòi hỏi phải xây dựng được lối sống dựa
trên tinh thần của chủ nghĩa tập thể và sự quan tâm sâu sắc lẫn nhau giữa các
thành viên trong tập thể. Để đạt được điều đó cần làm cho tinh thần sẵn sàng
hành động vì mục đích chung, vì đồng đội thấm sâu vào suy nghĩ của mọi
người, đồng thời xử lý nghiêm những hành vi tiêu cực, động viên, khen
thưởng kịp thời những hành vi tích cực.
3. Mở rộng dân chủ tập thể đi đôi với duy trì nghiêm kỉ luật quân đội.
a) Mở rộng dân chủ trong tập thể.
Dân chủ trong hoạt động của tập thể là tiền đề tạo ra bầu không khí tâm
lý xã hội lành mạnh trong tập thể. Để mở rộng dân chủ trong tập thể quân
nhân, cần thực hiện những nội dung sau đây:
- Thông qua các hình thức giáo dục mà nâng cao nhận thức của mỗi
thành viên trong tập thể, làm cho mọi người nhận thức đúng đắn quyền lợi và
nghĩa vụ của mình đối với tập thể và xã hội.
- Duy trì thường xuyên có nền nếp hình thức toạ đàm, trao đổi giữa cán
bộ với chiến sĩ, tạo điều kiện để mọi quân nhân được bày tỏ tâm tư nguyện
vọng quan điểm, chính kiến của mình về các vấn đề thực tiễn cụôc sống và
tập thể, phát huy trí tuệ mọi người tham gia đóng góp ý kiến vào công tác
lãnh đạo quản lý đơn vị.
- Bình đẳng trong nhận xét, đánh giá, đối xử. Bầu không khí tâm lý tập thể
phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của người lãnh đạo trong đối xử, đánh giá, nhận
xét mỗi người. Do vậy, đánh giá phải bảo đảm tính công bằng khách quan, thấy
hết được những mặt ưu điểm, nhược điểm, kịp thời biểu dương mặt tốt, phê phán
mặt xấu, đồng thời phải có niềm tin vào những người dưới quyền, tin vào khả
năng vươn lên của mỗi người, từ đó chân tình, dìu dắt họ phấn đấu.
- Thực hiện nghiêm túc, bảo đảm chất lượng hoạt động phê bình và tự
phê bình trong các tập thể quân nhân. Phê bình, tự phê bình phải tiến hành từ
115511
trên xuống dưới, đội ngũ cán bộ phải là những người gương mẫu trong lời nói
và việc làm, họ phải là những người mạnh dạn trong đấu tranh, không bao
che, né tránh khuyết điểm, đồng thời phải có thái độ cầu thị, tiếp thu ý kiến
đóng góp một cách thoải mái, không né tránh trù úm, hoặc phê bình, tự phê
bình mang tính hình thức.
b) Duy trì nghiêm kỉ luật trong tập thể.
Duy trì nghiêm kỉ luật là một biện pháp quan trọng để nâng cao bầu
không khí tâm lý tích cực trong tập thể. Sức mạnh to lớn của kỉ luật ở chỗ nó
định hướng điều chỉnh thái độ, hành vi của mọi thành viên, hướng thái độ
hành vi của mọi người theo những chuẩn mực nhất định. Để duy trì nghiêm kỉ
luật cần thực hiện các nội dung sau:
- Thông qua giáo dục và tổ chức hoạt động để củng cố tính kỉ luật cho
mọi thành viên trong tập thể.
Củng cố tính kỉ luật cho mọi thành viên trong tập thể trước hết phải làm
cho mọi người nắm vững chức trách, nhiệm vụ, yêu cầu pháp luật nhà nước,
điều lệnh, điều lệ quân đội, đây chính là cơ sở để mỗi thành viên điều chỉnh
đúng đắn hành vi của mình, tránh được những sai sót do thiếu hiểu biết về
pháp luật, điều lệnh gây ra.
Quản lý chặt chẽ tình hình kỉ luật của tập thể. Đồng thời với nâng cao,
củng cố tính kỉ luật cho mọi người thì việc quản lý chặt chẽ tình hình kỉ luật
của tập thể là một nội dung quan trọng để duy trì nghiêm kỉ luật quân đội.
Quản lý tốt tình hình kỉ luật của tập thể sẽ giúp cho người lãnh đạo, quản lý
có các biện pháp kịp thời trong tổ chức xây dựng tập thể, đồng thời đây là yếu
tố để ngăn ngừa những sai phạm có thể xảy ra trong tập thể.
- Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm kỉ luật.
Có thể thấy rằng không gì phá hoại bầu không khí tâm lý tập thể bằng sự
vi phạm kỉ luật quân đội, pháp luật nhà nước. Những vi phạm kỉ luật nếu để
kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng kỉ cương bị coi thường, những giá trị tốt đẹp
trong quan hệ người, người không được coi trọng, niềm tin của các thành viên
trong tập thể bị giảm sút. Do vậy, xử lý nghiêm kỉ luật là vấn đề có tính
nguyên tắc trong xây dựng tập thể. Yêu cầu của xử lý kỉ luật là phải mang
115522
tính giáo dục, qua các hình thức xử lý kỉ luật mà giúp cho những người sai
phạm nhận thức được sai lầm, khuyết điểm.
4. Tổ chức khoa học các hoạt động của tập thể, kết hợp với mở rộng
giao lưu, xây dựng mối quan hệ qua lại tích cực giữa các thành viên trong
tập thể.
a) Tổ chức một cách khoa học mọi hoạt động của tập thể.
Tổ chức một cách khoa học các hoạt động của tập thể luôn là vấn đề
được quan tâm hàng đầu ở các tập thể quân nhân, vì khâu tổ chức hoạt động
ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động của tập thể cũng như mối quan
hệ qua lại giữa các thành viên trong tập thể.
Để đảm bảo tính khoa học trong tổ chức các hoạt động của tập thể cần
thực hiện các nội dung sau:
- Mọi hoạt động của tập thể cần phải có kế hoạch cụ thể, tỉ mỉ và được
triển khai tới mọi thành viên trong tập thể.
Xây dựng kế hoạch hoạt động đòi hỏi người lãnh đạo chỉ huy phải căn
cứ vào nhiệm vụ cụ thể của đơn vị, vào chỉ lệnh huấn luyện của cấp trên, cũng
như chương trình hoạt động từng quý, từng tháng để xây dựng kế hoạch cụ
thể cho đơn vị mình. Tuy nhiên kế hoạch hoạt động dù cụ thể, tỉ mỉ đến đâu
cũng không mang lại kết quả tốt nếu như các thành viên trong tập thể chưa
được quán triệt đầy đủ. Do vậy, kế hoạch hoạt động cụ thể phải được triển
khai đến từng người, làm cho mọi người đều nắm được chức trách, nhiệm vụ
của mình, những yêu cầu cần đạt tới trong quá trình hoạt động.
- Tổ chức lao động và nghỉ ngơi một cách hợp lý.
Thực tế cho thấy, sự căng thẳng mệt mỏi trong quá trình hoạt động quân
sự ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động, cũng như trạng thái tâm lý chung
của quân nhân trong tập thể. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến sự thiếu
hào hứng trong hoạt động và là nguyên nhân của những xung đột tâm lý. Giải
quyết hợp lý mối quan hệ giữa lao động và nghỉ ngơi không những có ý nghĩa
tích cực trong việc phục hồi sức khoẻ của mọi người mà còn có tác dụng hạn
chế những xung đột do mệt mỏi gây ra.
115533
- Đảm bảo sự tương hợp tâm lý trong các loại hình hoạt động của tập thể.
Tổ chức các loại hình hoạt động của tập thể cần chú ý đến sự tương hợp tâm
lý sẽ nhân sức mạnh của những người trong tập thể lên gấp nhiều lần, nhờ có sự
tương hợp tâm lý mà tạo ra sự ăn ý giữa quân nhân trong hoạt động quân sự.
b) Mở rộng giao lưu trong tập thể với đơn vị bạn và nhân dân địa
phương bằng nhiều nội dung, hình thức sinh động.
Giao lưu có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường sự hiểu biết lẫn
nhau hình thành nên mối quan hệ keo sơn gắn bó giữa các thành viên trong
tập thể. Do đó, mở rộng giao lưu chính là mở rộng quan hệ tiếp xúc giữa các
thành viên trong tập thể, qua đó củng cố vững chắc mối quan hệ đoàn kết
trong nội bộ và với nhân dân làm cho bầu không khí tích cực trong tập thể
quân nhân ngày càng phát triển. Tuy nhiên cũng cần nhận thức một cách đúng
đắn rằng, hiệu quả của giao lưu phụ thụôc phần lớn vào vai trò tổ chức định
hướng của người lãnh đạo, quản lý. Nếu tổ chức tốt sẽ lôi cuốn được mọi
người tham gia với thái độ tích cực tự giác. Ngược lại nếu thiếu định hướng
đúng đắn sẽ dẫn đến những hiểu biết lệch lạc, làm tổn hại đến mối quan hệ
nội bộ và quan hệ quân dân.
e) Xây dựng các mối quan hệ qua lại tích cực giữa các thành viên trong
tập thể.
Bầu không khí tâm lý tập thể quân nhân phản ánh trực tiếp mối quan hệ
giữa con người với con người trong tập thể. Do vậy, xây dựng mối quan hệ
qua lại tích cực, lành mạnh là điều kiện quan trọng để bầu không khí tâm lý
tích cực hình thành và phát triển.
Mối quan hệ qua lại trong tập thể quân nhân một mặt chịu sự quy định
của các mối quan hệ xã hội chủ nghĩa, mặt khác phát triển theo các nguyên
tắc của quan hệ quân nhân . Thực hiện tốt các nguyên tắc của quan hệ qua lại
trong quân đội là cơ sở để nảy sinh tinh thần tương trợ, hợp tác, tình đoàn kết,
thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, đặc biệt là tình đồng chí, tình bạn, sự tôn trọng
và đòi hỏi cao lẫn nhau.
5. Định hướng, điều khiển các hiện tượng tâm lý tập thể theo hướng
tích cực.
115544
Sự hình thành và phát triển bầu không khí tâm lý tập thể quân nhân luôn
chịu sự chi phối, ảnh hưởng bởi các hiện tượng tâm lý tập thể khác. Điều
khiển các hiện tượng tâm lý tập thể theo hướng tích cực là một biện pháp
quan trọng nhằm xây dựng bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân
nhân.
Để thực hiện biện pháp này cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:
a) Hướng dư luận tập thể vào việc xây dựng mối quan hệ qua lại tích
cực giữa các thành viên trong tập thể.
Dư luận trong tập thể quân nhân là một hiện tượng tâm lý phức tạp, một
biểu hiện của trạng thái ý thức xã hội, là sự phán xét đánh giá, biểu thị thái độ
của đa số thành viên đối với những sự kiện hiện tượng xảy ra liên quan đến
nhu cầu, lợi ích của họ trong tập thể. Vai trò của dư luận tập thể được biểu
hiện ở chức năng điều hoà các mối quan hệ xã hội, chức năng giáo dục và
chức năng kiểm soát. Với dư luận tích cực nó thực sự trở thành một thứ vũ
khí quan trọng để xây dựng bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể.
Hướng dư luận vào việc xây dựng mối quan hệ tích cực giữa các thành
viên trong tập thể trước hết cần nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt cho
các quân nhân, đặc biệt là những hiểu biết về các chuẩn mực trong quan hệ
của quân nhân cách mạng, những giá trị đạo đức xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở
đó định hướng, dẫn dắt thái độ của họ, hướng thái độ của họ vào việc động
viên, khích lệ những biểu hiện tích cực trong quan hệ, trong lối sống, giúp
mọi người phân biệt rõ đúng sai, nhận dạng chính xác các loại quan hệ.
b) Chủ động tạo ra tâm trạng tích cực trong tập thể.
Tâm trạng tập thể là trạng thái tâm lí của tập thể tồn tại trong một thời
gian xác định nhưng nó có vai trò rất lớn đối với bầu không khí tâm lý tập thể.
Tâm trạng tập thể tích cực sẽ góp phần làm cho mối quan hệ giữa các thành
viên trong tập thể trở lên thân thiện, cởi mở quan tâm đến nhau và sẽ gần gũi
nhau hơn. Tâm trạng tiêu cực là một nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng của
bầu không khí tâm lý tập thể.
Điều chỉnh tâm trạng tập thể theo hướng tích cực trước hết phải chú
trọng tới việc xây dựng mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân. Bởi vì tâm
trạng của mỗi quân nhân phụ thuộc rất nhiều vào cách cư xử của những người
115555
mà họ giao tiếp. Chính vì vậy mà người lãnh đạo cần phát huy sức mạnh tổng
hợp của các lực lượng, các tổ chức trong tập thể bằng nhiều hình thức để củng
cố, phát triển tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tổ chức khoa học các hoạt
động của tập thể, sử dụng hợp lý các biện pháp kích thích tinh thần đảm bảo
công bằng trong nhận xét, đánh giá.
c) Hình thành các truyền thống tốt đẹp, ngăn ngừa sự ra đời của các
truyền thống xấu, không phù hợp trong tập thể.
Cùng với các hiện tượng tâm lí xã hội khác, truyền thống trong tập thể
quân nhân ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng và phát triển bầu không khí
tâm lý tích cực.
Truyền thống tốt có vai trò gắn bó mọi thành viên trong tập thể, tăng
thêm lòng tự hào của quân nhân với tập thể, điều chỉnh hành vi của mỗi thành
viên theo hướng tích cực.
Thông qua giáo dục làm cho mọi quân nhân nhận thức đúng đắn về
truyền thống của dân tộc, của quân đội, của đơn vị trên cơ sở nâng cao nhận
thức mà hình thành thái độ, tình cảm đúng đắn, chân trọng đối với truyền
thống, có trách nhiệm gìn giữ, kế thừa, phát huy, xây dựng những giá trị,
truyền thống mới.
Đồng thời với việc xây dựng những truyền thống tốt đẹp trong tập thể,
người cán bộ cần có những biện pháp ngăn chặn kịp thời sự xuất hiện của các
truyền thống, thói quen xấu. Thông qua sức mạnh của dư luận , phê phán
những biểu hiện lệch lạc, đi ngược lại lợi ích chung của tập thể, của xã hội,
nghiêm khắc xử lý các trường hợp vi phạm làm ảnh hưởng đến truyền thống
tốt đẹp của tập thể.