3196
1 KINH TĂNG NHẤT A-HÀM (PL.2549 - 2005 sửa chữa và bổ sung) Hán Dịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà Việt dịch: Thích Đức Thắng Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ ---o0o--- Nguồn http://www.quangduc.com Chuyển sang ebook 07-03-2012 Người thực hiện : Nam Thiên [email protected] Link Audio Tại Website http://www.phapthihoi.org

Hán Dịch: -già-đề-bàkinh sय़ 9 k h sय़ 10 k h sय़ 11 k h sय़ 1 33. phẨm Ăm v a k h sय़ 1 k h sय़ k h sय़ 3 k h sय़ 4 k h sय़ 5 k h sय़

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

  • 1

    增 壹 阿 含 經

    KINH TĂNG NHẤT A-HÀM

    (PL.2549 - 2005 sửa chữa và bổ sung)

    Hán Dịch:

    Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bà

    Việt dịch:

    Thích Đức Thắng

    Hiệu đính & Chú thích:

    Tuệ Sỹ

    ---o0o---

    Nguồn

    http://www.quangduc.com

    Chuyển sang ebook 07-03-2012

    Người thực hiện : Nam Thiên –

    [email protected]

    Link Audio Tại Website

    http://www.phapthihoi.org

    http://phatphaponline.org/kinh/Audio/Dai%20Tang%20Kinh/Bac%20Tong/http://phatphaponline.org/kinh/Audio/Dai%20Tang%20Kinh/Bac%20Tong/

  • 2

    Mục Lục

    1. PHẨM TỰA

    MỘT PHÁP

    . PHẨM TH P M

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    KI H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    3. PHẨM

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

  • 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    4. PHẨM T

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    5. PHẨM T -KHEO-NI

    K H SỐ 1

  • 4

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    6. PHẨM THA H T S

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    7. PHẨM THA H T

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    8. PHẨM A-TU-LA

    KI H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

  • 5

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    9. PHẨM MỘT

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    10. PHẨM HỘ T M

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

  • 6

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    11. PHẨM T

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    KINH SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    1 . PHẨM H P

    K H SỐ 1

    K H SỐ

  • 7

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    13. PHẨM L

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    14. PHẨM Ũ Ớ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

  • 8

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    HAI PHÁP

    15. PHẨM H VÔ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    16. PHẨM HỎA T

  • 9

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    17. PHẨM A -BAN

    KINH SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

  • 10

    K H SỐ 10

    K H SỐ 11

    18. PHẨM TÀM

    KINH SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    19. PHẨM KH YẾ THỈ H

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

  • 11

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    K H SỐ 11

    0. PHẨM TH TR THỨ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    K H SỐ 11

    K H SỐ 1

    K H SỐ 13

    BA PHÁP

  • 12

    21. PHẨM TAM

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    22. PHẨM A Ú Ờ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

  • 13

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    23. PHẨM ỊA HỦ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    KINH SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 8

    K H SỐ 10

    24. PHẨM A TRÀ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

  • 14

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    Ố PHÁP

    5. PHẨM TỨ Ế

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    KINH SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    6. PHẨM Ố Ý

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

  • 15

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10.

    7. PHẨM Ẳ THÚ Ố Ế

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    8. PHẨM THA H VĂ

    K H SỐ 1

  • 16

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    KINH SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    9. PHẨM KHỔ L

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    30. PHẨM T - À

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

  • 17

    31. PHẨM TĂ TH

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    K H SỐ 11

    ĂM PHÁP

    32. PHẨM TH TỤ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

  • 18

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    KINH SỐ 9

    K H SỐ 10

    K H SỐ 11

    K H SỐ 1

    33. PHẨM ĂM V A

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    34. PHẨM Ẳ K Ế

    K H SỐ 1

    KINH SỐ

  • 19

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    35. PHẨM TÀ TỤ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    36. PHẨM TH H PHÁP

  • 20

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    SÁU PHÁP

    37. PHẨM SÁ TRỌ PHÁP

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    38 . PHẨM LỰ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

  • 21

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    K H SỐ 11

    K H SỐ 1

    Y PHÁP

    39. PHẨM Ẳ PHÁP

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỔ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

  • 22

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    40 . PHẨM Y ÀY

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    41. PHẨM HỚ S

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    TÁM PHÁP

  • 23

    42 . PHẨM TÁM

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    43 . PHẨM TH Ê T M H YẾT

    HỎ TÁM H H

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

  • 24

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    CHÍN PHÁP

    44. PHẨM H HÚ SA H

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    K H SỐ 11

    45. PHẨM M V Ơ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

  • 25

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    M Ờ PHÁP

    46. PHẨM KẾT M

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    47. PHẨM TH Á

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

  • 26

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    KINH SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    48. PHẨM T TH

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

  • 27

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    K H SỐ 1

    K H SỐ 2

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 10

    51. PHẨM PH TH Ờ

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

  • 28

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    K H SỐ 19

    5 . PHẨM Á ÁT- ẾT-

    BÀN

    K H SỐ 1

    K H SỐ

    K H SỐ 3

    K H SỐ 4

    K H SỐ 5

    K H SỐ 6

    K H SỐ 7

    K H SỐ 8

    K H SỐ 9

    ---o0o---

    1. PHẨM TỰA

  • 29

    [549b13]Kính lạy ăng hân ệ Thất

    Tiên1,

    iễn thuyết Pháp2 Thánh Hiền vô thượng.

    Thế Tôn nay độ chúng quần sinh

    Vốn đã từ lâu trôi sinh tử.

    Tôn trưởng a-diếp và Thánh chúng,

    Hiền triết A-nan văn quảng bác,

    úng dường xá-lợi Phật iết-bàn,

    Từ nước âu-di3 đến Ma-kiệt.

    Ca-diếp tư duy hành bốn đẳng, 4

    Thương xót chúng sanh đọa năm đường;

    hánh giác dẫn đường nay cách xa,

    hớ lời dạy khéo, lòng thương khóc.

    Ca-diếp nghĩ suy: ốc hánh pháp,

  • 30

    Làm sao lưu bố mãi thế gian?

    Lời dạy tối tôn từ kim khẩu,

    hi giữ trong lòng không để mất.

    Ai có sức này, tập các pháp,

    ói rõ nhân duyên, gốc từ đâu?

    gười trí hiện nay trong chúng này,

    A-nan hiền thiện, nghe vô lượng.

    Liền gióng kiền chùy họp bốn chúng;

    Tỳ-kheo tám vạn bốn nghìn người,

    Thẩy đều La-hán tâm giải thoát La-hán,

    iải thoát trói buộc, làm phước điền.

    Ca-diếp bởi vì thương thế gian,

    áo ân quá khứ, nhớ Tôn đức.

    Thế Tôn phú pháp, trao A-nan,

  • 31

    guyện pháp lưu bố mãi ở đời.

    Làm sao thuận tự, không mất mối,

    Kết tập Pháp bảo ba tăng-kỳ;

    ể sau bốn chúng được nghe pháp,

    ghe rồi liền được lìa các khổ.

    A-nan từ chối: “Sức không kham.

    “ ác pháp thậm thâm ngần ấy thứ,

    “Há dám phân biệt lời hư Lai?

    “Phẩm đức Phật pháp, vô lượng trí.

    “Tôn giả a-diếp nay kham nhiệm,

    “ ấng Thế Hùng đem pháp phú cho;

    “ ay vì mọi người, ại a-diếp,

    “Từng được hư Lai chia nửa tòa.5”

    Ca-diếp đáp rằng: “Tuy có vậy;

  • 32

    “ hưng tuổi già yếu, đã quên nhiều.

    “Sự nghiệp trí tuệ, Ông giữ hết,

    “Hãy khiến gốc pháp còn mãi đời.

    “ ay tôi có ba mắt thanh tịnh,

    “ ũng có thể biết tâm trí người;

    “ iết rõ tất cả hàng chúng sanh,

    “Không ai hơn Tôn giả A-nan.”

    Từ Phạm Thiên xuống đến ế Thích,

    Hộ thế Tứ vương cùng chư Thiên;

    Di-lặc âu-suất cũng đến họp.

    Hàng ức ồ-tát không kể hết.

    Di-lặc, Phạm, Thích cùng Tứ vương,

    Thảy đều chấp tay mà bạch hỏi:

    “Tất cả các pháp, Phật ấn chứng:

  • 33

    “A-nan là pháp khí của Ta.

    “ ếu ai không muốn pháp tồn tại,

    “ gười ấy xuyên tạc lời hư Lai.

    “ guyện lưu pháp yếu, vì chúng sanh,

    “Vượt qua nguy ách, thoát các nạn.

    “Thích Tôn ra đời, sống rất ngắn.

    “Tuy nhục thể mất, Pháp thân còn.

    “ ể mong pháp yếu không đoạn tuyệt,

    “A-nan, chớ chối từ thuyết pháp!”

    Tối tôn a-diếp cùng Thánh chúng,

    Di-lặc, Phạm, Thích cùng Tứ vương;

    ần thỉnh A-nan mở lời cho,

    Khiến lời hư Lai không diệt tận.

    A-nan nhân từ, hòa bốn đẳng,

  • 34

    Ý chuyển vi tế sư tử hống;

    Liếc nhìn bốn chúng, ngó hư không,

    Khóc thương rưng lệ không ngăn được.

    han sắc chợt bừng ánh sáng chói,

    Tỏa khắp chúng sanh như hừng đông.

    Di-lặc, Phạm, Thích nhìn ánh sáng,

    hắp tay chờ nghe Pháp vô thượng.

    ốn bộ chúng lặng lẽ, tâm chuyên nhất,

    Muốn được nghe pháp, ý không loạn.

    Tôn trưởng a-diếp cùng Thánh chúng,

    hìn thẳng tôn nhan, mắt không chớp.

    Rồi A-nan nói kinh vô lượng,

    hững gì đầy đủ, thành một tụ:

    “ ay tôi sẽ chia làm ba phần,

  • 35

    “Tóm thâu mười kinh thành một kệ.

    “Phần một Khế kinh, phần hai Luật,

    “Phần ba lại là A-tỳ-đàm.

    “ hư Phật6 quá khứ đều phân ba,

    “Khế kinh, Luật, Pháp, làm ba tạng.

    “Khế kinh nay hãy phân bốn đoạn;

    “Trước hết Tăng nhất, hai là Trung,

    “ a gọi là Trường, nhiều chuổi ngọc;

    “Sau cùng phần bốn gọi Tạp kinh.”

    [550a01]Tôn giả A-nan lại suy nghĩ:

    “Pháp thân hư Lai không diệt mất,

    “ òn mãi thế gian không đoạn tuyệt.

    “Trời gười được nghe, thành đạo quả.

    “Hoặc có Một pháp mà nghĩa sâu;

  • 36

    “Khó trì, khó tụng, không thể nhớ,

    “ ay tôi kết tập nghĩa Một pháp;

    “Một, Một, nối nhau, không mất mối.

    “ ũng có Hai pháp, tập thành Hai;

    “ a pháp thành a, như xâu chuỗi.

    “ ốn pháp thành ốn, ăm cũng vậy.

    “ ăm pháp tiếp đến Sáu, ảy pháp,

    “ ghĩa Tám pháp rộng cho đến hín.

    “Mười pháp, từ mười đến Mười một.

    “Pháp bảo như vậy trọn không mất;

    “Hằng ở thế gian, tồn tại lâu.”

    Ở giữa đại chúng tập pháp này,

    A-nan tức thì thăng pháp tọa.

    Di-lặc tán thán: “Khéo thuyết thay!

  • 37

    “Hãy nên phối hợp nghĩa các Pháp.

    “Lại có các pháp nên phân bộ;

    “Lời dạy Thế Tôn, mỗi mỗi khác.

    “ ồ-tát phát ý hướng ại thừa,

    “ hư Lai nói riêng cho pháp này:

    “ ó người Thế Tôn dạy sáu độ:

    “ ố thí, trì giới, nhẫn, tinh tấn,

    “Sức thiền, trí tuệ như trăng non;

    “Vượt qua vô cực thấy các pháp.

    “ ó ai dũng mãnh thí đầu mắt;

    “Thân thể máu thịt không thương tiếc;

    “Thê thiếp, quốc thành, cùng nam nữ;

    “ ó là đàn độ7 không nên bỏ.

    “ iới độ vô cực như kim cương,

  • 38

    “Không huỷ, không phạm không lọt mất;

    “ iữ tâm hộ giới như bình tách.

    “ ó gọi giới độ không nên bỏ.

    “Hoặc có người đến chặt tay chân,

    “Không khởi sân hận, sức nhẫn mạnh;

    “ hư biển dung chứa không tăng giảm,

    “ ó là nhẫn độ không nên bỏ.

    “ hững ai tạo tác hành thiện ác,

    “ ả thân, khẩu, ý không chán đủ;

    “ ác hành hại người, không đến đạo,

    “ ó gọi tấn độ không nên bỏ.

    “ hững ai thiền tọa đếm hơi thở,

    “Tâm ý kiên cố, không loạn niệm;

    “Ví có động đất, thân không nghiêng,

  • 39

    “ ó gọi thiền độ, không nên bỏ.

    “ ùng sức trí tuệ, đếm bụi trần,

    “Trải triệu số kiếp không kể xiết;

    “Số nghiệp sách ghi ý không loạn,

    “ ó gọi trí độ, không nên bỏ.

    “ ác pháp thậm thâm, luận Lý Không,

    “Khó sáng, khó tỏ, không thể quán;

    “Tương lai đời sau lòng hồ nghi,

    “ ức ồ-tát này không nên bỏ.”

    A-nan tự trình bày ý nghĩ:

    “ gười ngu không tin hạnh ồ-tát;

    “Trừ các La-hán tín giải thoát

    [550b01]“Mới có tín tâm không do dự.

    “ ốn chúng đệ tử, phát đạo ý,8

  • 40

    “ ùng tất cả mọi loài chúng sanh;

    “ ó lòng tin vững không hồ nghi.”

    Di-lặc tán thán: “Khéo thuyết thay!

    “Phát tâm ại thừa, ý quảng đại.”

    “Hoặc có các pháp, đoạn kết sử;

    “Hoặc có các pháp, thành quả đạo.”

    A-nan nói rằng: “ ây thế nào?

    “Tôi thấy hư Lai tuyên pháp này.

    “ ó người không nghe hư Lai thuyết

    “Pháp này, há chẳng có hồ nghi?

    “ ếu tôi nói nghĩa này không đúng,

    “ hư vậy hư dối đời tương lai.

    “ ay các kinh xưng: Tôi nghe như vầy,

    “Phật trú thành nào, quốc thổ nào?

  • 41

    “Lần đầu nói pháp: Ba-la-nại.

    “ ộ ba a-diếp: Ma-kiệt-đà.

    “ âu-tát, Ca-thi, giữa Thích tộc,

    “ hiêm-ba, Câu-lưu, Tỳ-xá-ly,

    “ ung Trời, cung Rồng, A-tu-la,

    “ ung Kiền-đạp-hòa, thành Câu-thi;

    “ iả sử không rõ nơi nói kinh,

    “Thì nói nguyên gốc tại Xá-vệ.

    “Việc ấy, một thời tôi đã nghe,

    “Phật tại Xá-vệ cùng đệ tử;

    “Tinh xá Kỳ-hoàn, tu thiện nghiệp,

    “Vườn ấp ô ộc Trưởng giả cúng.

    “Khi Phật ở đây, bảo Tỳ-kheo:

    “ ên chuyên tâm tu tập một pháp,

  • 42

    “Tư duy một pháp, không buông lung,

    “Sao gọi một pháp? Là niệm Phật;

    “ iệm Pháp, niệm Tăng cùng niệm giới,

    “ iệm thí, niệm Thiên, trừ loạn tưởng.

    “An-ban hơi thở, và niệm thân,

    “ iệm chết trừ loạn, tổng mười niệm.

    “ ó pháp mười niệm, có thêm mười,

    “Tiếp theo, lại nói Tôn đệ tử:

    “Trước độ âu-lân9 con trưởng Phật,

    “ gười nhỏ cuối cùng là Tu-bạt.10

    “ ùng phương tiện này hiểu một pháp.

    “Hai từ hai pháp, ba từ ba.

    “ ốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười,

    “Mười một:, không pháp nào không rõ.

  • 43

    “Từ một tăng một đến các pháp,

    “ ghĩa nhiều, huệ rộng không thể tận.

    “Mỗi một Khế kinh nghĩa cũng sâu,

    “ ho nên gọi là Tăng nhất hàm.

    “ ay tìm một pháp khó rõ ràng,

    “Khó trì, khó hiểu, không thể tỏ.

    “Tỳ-kheo tự nói nghiệp công đức,

    “ ay phải tôn xưng là đệ nhất;

    “ iống như thợ gốm làm đồ dùng,

    “Theo ý mà làm không nghi ngại.

    “A-hàm Tăng nhất pháp cũng vậy,

    “ a thừa giáo hóa không sai khác.

    [550c01]“Vi diệu Phật kinh rất thâm sâu,

    “Hay trừ kiết sử như giòng chảy.

  • 44

    “Tuy nhiên, Tăng nhất ở trên hết,

    “Làm sạch ba nhãn trừ ba cấu.

    “ gười nào chuyên tâm trì Tăng nhất,

    “Là người tổng trì tạng hư Lai.

    “ ho dù thân này còn kết sử,

    “ ời sau liền được trí tài cao.

    “ ếu ai chép viết thành kinh quyển,

    “Hoa lọng, lụa là đem cúng dâng;

    “Phước này vô lượng không kể xiết.

    “Vì Pháp bảo này, rất khó gặp.”

    Khi nói lời này, trời đất động,

    Trời mưa hoa thơm ngập đến gối.

    Trên không chư Thiên khen: “Lành thay!

    “Tôn giả nói lời đều thuận nghĩa.

  • 45

    “Khế kinh tạng một, Luật tạng hai,

    “Kinh A-tỳ-đàm là tạng ba.

    “Phương đẳng, ại thừa nghĩa thâm thúy,

    “ ùng các khế kinh là Tạp tạng.

    “Ổn định lời Phật quyết không đổi.

    “ hân duyên đầu cuối đều tùy thuận.”

    i-lặc, chư Thiên cũng khen tốt:

    Kinh điển Thích-ca tồn tại mãi.

    i-lặc đứng lên tay cầm hoa,

    Vui mừng đem rải lên A-nan:

    “Kinh này chân thật hư Lai nói.

    “ ầu mong A-nan quả đạo thành.”

    ấy giờ Tôn giả A-nan, cùng Phạm thiên

    dẫn các trời Phạm-ca-di đều đến hội họp.

  • 46

    Trời Hóa tự tại dẫn đoàn tùy tùng đều đến

    tụ hội. Trời Tha hóa tự tại dẫn đoàn tùy

    tùng đều đến tụ hội. Trời âu-suất Thiên

    vương dẫn chúng chư thiên đến tụ hội.

    Trời iễm thiên dẫn đoàn tùy tùng đến

    đến tụ hội. Thích ề-hoàn hân dẫn

    chúng chư thiên Tam thập tam đều đến tụ

    hội. ề-đầu-lại-tra Thiên vương dẫn

    chúng Càn-thát-bà11 đều đến tụ hội. Tỳ-

    lưu-lặc-xoa Thiên vương dẫn các Yếm

    quỷ đều đến tụ hội. Tỳ-Sa-môn Thiên

    vương dẫn chúng uyệt-xoa, La-sát đều

    đến tụ hội.

    ấy giờ, i-lặc ại sĩ nói với các ồ-tát:

    “ ác Khanh hãy khuyến khích các tộc

    tánh nam, tộc tánh nữ trong hiền kiếp

    phúng tụng, thọ trì Tôn pháp Tăng nhất;

    quảng diễn, phổ biến, khiến mọi người

    phụng hành.”

  • 47

    Sau khi nói những lời này, chư Thiên, loài

    gười, àn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lưu-la,

    Ma-hầu-lặc, hân-đà-la, v.v…, đều bạch

    rằng:

    “Hết thảy chúng tôi đều ủng hộ người

    thiện nam, thiện nữ mà phúng tụng, thọ trì

    Tôn pháp Tăng nhất ấy, quảng diễn, phổ

    biến, trọn không bao giờ để dứt tuyệt.”

    Lúc ấy, Tôn giả A-nan [551a1] bảo u-

    đa-la12:

    “ ay tôi đem Tăng nhất A-hàm này phó

    chúc cho ông. Hãy khéo phúng tụng, đọc

    thuộc, chớ để sai sót. Vì sao? Vì nếu ai

    khinh mạn Tôn Kinh này sẽ đọa lạc xuống

    hàng phàm phu. Vì sao? ày u-đa-la,

    Tăng nhất A-hàm này xuất giáo nghĩa của

    ba mươi bảy phẩm đạo,13 và các pháp

    cũng từ đây mà phát sinh.”

  • 48

    ấy giờ, ại a-diếp hỏi A-nan:

    “Thế nào, A-nan, Tăng nhất A-hàm này

    xuất giáo nghĩa của ba mươi bảy phẩm

    đạo, và các pháp cũng từ đây mà phát

    sinh?”

    A-nan bạch:

    “Thật vậy, Thật vậy, Tôn giả a-diếp!

    Tăng nhất A-hàm này xuất giáo nghĩa của

    ba mươi bảy phẩm đạo, và các pháp cũng

    từ đây mà phát sinh; điều này hãy gác lại.

    hỉ một bài kệ trong Tăng nhất A-hàm

    cũng xuất sinh ba mươi bảy phẩm và các

    pháp.”

    Ca-diếp hỏi:

    “Trong bài kệ nào mà xuất sinh ba mươi

    bảy phẩm và các pháp?”

    ấy giờ, Tôn giả A-nan liền nói kệ này:

  • 49

    hớ làm các điều ác.

    Vâng làm các điều.

    Tự thanh tịnh tâm ý.

    Là lời hư Phật dạy.

    “Sở dĩ như vậy là vì, chớ làm các điều ác,

    đó là gốc rễ của các pháp, từ đó xuất sinh

    tất cả các pháp thiện. o sinh pháp thiện,

    nên tâm ý thanh tịnh. ho nên, bạch a-

    diếp, thân, khẩu, ý hành của chư Phật Thế

    Tôn thường tu thanh tịnh.”

    Ca-diếp hỏi:

    “Thế nào, A-nan, chỉ có Tăng nhất A-hàm

    mới xuất sinh ba mươi bảy phẩm và các

    pháp, hay là bốn A-hàm khác cũng xuất

    sinh?”

    A-nan đáp:

  • 50

    “Hãy gác lại điều đó, bạch a-diếp. ghĩa

    của bốn A-hàm, trong bài kệ đã tóm thâu

    đầy đủ giáo nghĩa của chư Phật, và giáo

    nghĩa của Thanh văn, ích-chi-phật. Sở dĩ

    như vậy là vì, chớ làm các điều ác, đó là

    sự cấm chỉ đầy đủ giới, là hành thanh

    bạch. Vâng làm các điều thiện, đó là tâm

    ý thanh tịnh. Tự thanh tịnh tâm ý, là trừ tà

    điên đảo. ó là lời chư Phật dạy, trừ khử

    tưởng mê lầm.

    “Thế nào, bạch a-diếp, giới thanh tịnh,

    há ý không thanh tịnh sao? Ý thanh tịnh

    thì không điên đảo. Vì không điên đảo

    nên tưởng mê hoặc bị diệt, và các quả do

    ba mươi bảy phẩm đạo mà được thành

    tựu. ạo quả đã thành tựu, há đó chẳng

    phải là các pháp sao?”

    Ca-diếp hỏi:

  • 51

    “Thế nào, A-nan, sao đem Tăng nhất này

    mà trao cho u-đa-la, chứ không trao cho

    Tỳ-kheo khác, và tất cả ác pháp khác

    nữa?”

    A-nan đáp:

    “Tăng nhất A-hàm chính là các pháp, các

    pháp chính là [551b1] Tăng nhất A-hàm,

    chỉ là một, không có hai.”

    Ca-diếp hỏi:

    “Vì những nguyên nhân nào mà đem

    Tăng nhất A-hàm này trao cho u-đa-la,

    chứ không trao cho Tỳ-kheo khác?”

    A-nan đáp:

    “ ạch a-diếp, nên biết, chín mươi mốt

    kiếp trước, Tỳ-bà-thi14 hư Lai, hí chơn,

    ẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian, lúc

    ấy Tỳ-kheo u-đa-la này có tên là Y-câu

  • 52

    u-đa-la.15 ấy giờ, đức Phật kia đem

    pháp Tăng nhất trao cho người này, khiến

    phúng tụng, đọc thuộc. Từ đó cho đến ba

    mươi mốt kiếp về sau, tiếp theo lại có đức

    Phật tên là Thức-cật16 hư Lai, hí chơn,

    ẳng chánh giác ra đời. Lúc đó Tỳ-kheo

    u-đa-la này tên là Mục-già u-đa-

    la,17 được hư Lai Thức-cật lại đem pháp

    này trao cho, khiến phúng tụng, đọc

    thuộc. Rồi trong ba mươi mốt kiếp ấy, Tỳ-

    xá-bà18 hư Lai, hí chơn, ẳng chánh

    giác lại xuất hiện ở thế gian. Lúc đó Tỳ-

    kheo u-đa-la này tên là Long u-đa-

    la,19 lại được trao cho pháp này, khiến

    phúng tụng, đọc thuộc.

    “ ạch a-diếp, nên biết, trong Hiền kiếp

    này có Câu-lưu-tôn20 hư Lai, hí chơn

    ẳng chánh giác xuất hiện ở thế gian. Lúc

    đó Tỳ-kheo u-đa la này tên là iện Lôi

  • 53

    u-đa-la,21 lại được trao cho pháp này,

    khiến phúng tụng, đọc thuộc. Trong hiền

    kiếp này, tiếp theo, lại có Phật, hiệu là

    Câu-na-hàm22 hư Lai, hí chơn, ẳng

    chánh giác xuất hiện ở thế gian. Lúc đó

    Tỳ-kheo u-đa-la này tên là Thiên u-

    đa-la.23 gài lại đem pháp này chúc lụy

    cho người này, khiến phúng tụng, tập đọc.

    Trong hiền kiếp này, tiếp theo, lại có Phật,

    hiệu là a-diếp hư Lai, hí chơn, ẳng

    chánh giác xuất hiện ở thế gian. Lúc đó

    Tỳ-kheo u-đa-la này tên là Phạm u-

    đa-la, lại được trao cho pháp này, khiến

    phúng tụng, đọc thuộc.

    “ ạch a-diếp, nên biết, nay Thích-ca

    Văn hư Lai, hí chơn, ẳng chánh giác

    xuất hiện ở thế gian. Tỳ-kheo này nay tên

    là u-đa-la. Phật Thích-ca Văn tuy đã vào

    Bát-niết-bàn, nhưng Tỳ-kheo A-nan vẫn

  • 54

    còn ở thế gian. Thế Tôn đã đem pháp phó

    chúc hết cho tôi. ay tôi lại đem pháp này

    trao lại cho u-đa-la. Vì sao? Hãy xem đồ

    dùng, xét kỹ nguyên gốc, rồi sau mới trao

    pháp. Vì sao vậy? Vì vào thời quá khứ, ở

    trong Hiền kiếp này, đức âu-lưu-tôn

    hư Lai, hí chơn, ẳng chánh giác,

    Minh hạnh túc24, Thiện thệ, Thế gian giải,

    Vô thượng sĩ, iều ngự trượng phu25,

    Thiên nhân sư, hiệu Phật Thế Tôn26, xuất

    hiện ở thế gian. Lúc đó có vua tên Ma-ha

    ề-bà27 [551c1] dùng pháp trị giáo hóa

    chưa từng bị sai lệch; tuổi thọ rất dài,

    đoan chánh vô song, ít có trong đời.

    Trong tám vạn bốn nghìn năm, thân làm

    đồng tử, tự mình vui chơi. Trong tám vạn

    bốn nghìn năm, thân làm Thái tử mà trị

    hóa bằng pháp. Trong tám vạn bốn nghìn

    năm, lại trị hóa thiên hạ bằng vương pháp.

  • 55

    “ ạch a-diếp, nên biết, bấy giờ Thế Tôn

    trú trong vườn cam lê.28 hư pháp thường

    từ xưa, sau khi ăn xong, gài kinh hành ở

    sân trước, tôi làm thị giả. Lúc đó, Thế Tôn

    cười, miệng phát ra ánh sáng năm sắc. Tôi

    thấy vậy, liền quỳ trước Thế Tôn, bạch:

    ‘Phật không cười vô cớ. on xin được

    nghe gốc gác ngọn ngành, hư Lai hí

    chơn ẳng chánh giác không cười vô cớ.’

    ấy giờ, bạch a-diếp, Phật bảo tôi: ‘Vào

    thời quá khứ, ở trong Hiền kiếp này, có

    hư Lai danh hiệu âu-lưu-tôn, Chí

    chơn, ẳng chánh giác xuất hiện ở thế

    gian, cũng tại chỗ này thuyết pháp rộng

    rãi cho các đệ tử. Kế đến, cũng ở trong

    Hiền kiếp này, lại có hư Lai âu-na-

    hàm, hí chơn, ẳng chánh giác xuất

    hiện ở thế gian. ấy giờ đức Phật kia

    cũng tại chỗ này thuyết pháp rộng rãi.

    Tiếp đến, cũng trong Hiền kiếp này, hư

  • 56

    Lai Ca-diếp, hí chơn, ẳng chánh giác

    xuất hiện ở thế gian. hư Lai a-diếp

    cũng tại chỗ này thuyết pháp rộng rãi.’

    “ ạch a-diếp, lúc ấy tôi quỳ trước đức

    Phật, bạch rằng: ‘ on nguyện sau này đức

    Thích-ca Văn Phật cũng tại chỗ này

    thuyết pháp đầy đủ cho các đệ tử. hỗ

    này đã là tòa kim cương của bốn đức hư

    Lai, hằng không gián đoạn.’

    “ ạch a-diếp, lúc ấy Thích-ca Văn Phật

    ngay tại chỗ ngồi ấy bảo tôi: ‘ ày A-nan,

    thủa xưa, tại chỗ này, trong hiền kiếp, có

    vị vua sinh ra ở đời tên là Ma-ha ề-bà,

    (…) cho đến, trong tám vạn bốn nghìn

    năm dùng vương pháp giáo hóa, lấy đức

    mà huấn thị. trải qua nhiều năm. Một hôm

    vua bảo Kiếp-tỉ29 rằng: ‘ ếu khi nào thấy

    đầu ta có tóc bạc, hãy báo cho ta.’ ấy

    giờ, người kia nghe giáo lệnh của vua, và

  • 57

    phải trải qua nhiều năm mới thấy trên đầu

    vua có tóc bạc xuất hiện, liền quỳ trước

    vua tâu: ‘Tâu ại vương, nên biết, trên

    đầu đã xuất hiện tóc bạc.’ Lúc ấy, vua bảo

    người kia: ‘Lấy nhíp vàng, nhổ tóc bạc

    của ta, rồi đặt vào tay ta.’ gười kia vâng

    lệnh của vua, liền cầm nhíp vàng nhổ tóc

    bạc. ấy giờ, ại vương thấy tóc bạc rồi,

    liền nói bài kệ này:

    [552a1]30

    Hôm nay trên đầu ta

    ã sinh tóc suy hao.

    Thiên sứ đã đến rồi.

    ên xuất gia kịp lúc.

    “Hiện tại ta đã hưởng phước nhân gian

    rồi, phải tự nổ lực để có đức lên trời. Ta

    hãy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y; với

  • 58

    lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa bỏ

    các khổ.

    “ ấy giờ, vua Ma-ha ề-bà bảo thái tử

    thứ nhất tên là Trường Thọ: ‘ ay con biết

    không, đầu ta đã sinh tóc bạc! Ý ta muốn

    cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, với lòng

    tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa bỏ các

    khổ. on hãy nối ngôi ta, dùng pháp mà

    trị giáo hóa, chớ làm trái lại lời ta dạy mà

    làm việc phàm phu. Sở dĩ như vậy, là vì

    nếu có người nào trái lại lời ta, người đó

    làm việc phàm phu. Kẻ phàm phu thì ở

    mãi trong ba đường, tám nạn.’

    “ ấy giờ, vua Ma-ha ề-bà đem ngôi vua

    trao cho thái tử rồi, lại đem của báu ban

    cho Kiếp-tỉ, rồi đi đến chỗ kia cạo bỏ râu

    tóc, mặc ba pháp y, với lòng tin kiên cố

    xuất gia học đạo, lìa bỏ các khổ; khéo tu

    phạm hạnh trong tám vạn bốn nghìn năm,

  • 59

    thực hành bốn đẳng tâm31 là từ, bi, hỷ,

    xả32; thân hoại mạng chung sinh lên Phạm

    thiên.

    “ ấy giờ, vua Trường thọ nhớ những lời

    vua cha dạy, chưa bao giờ tạm quên, dùng

    pháp mà trị hóa, không để sai lệch; không

    đầy tuần lễ liền được làm huyển luân

    Thánh vương, bảy báu đầy đủ. ảy báu đó

    là: xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu,

    ngọc nữ báu, điển tạng báu, điển binh báu.

    ó gọi là bảy báu. Lại có một nghìn

    người con trí tuệ dõng mãnh, thống lãnh

    bốn phương, hay trừ các khổ. ấy giờ,

    vua Trường Thọ, bằng vương pháp như

    trên, làm bài kệ:

    Kính pháp, vâng lời Tôn,

    Không quên báo ân xưa.

    Lại hay trọng ba nghiệp,

  • 60

    iều kẻ trí quý trọng.

    “Tôi, sau khi quán sát nghĩa này, đem

    Tăng nhất A-hàm này trao cho Tỳ-kheo

    u-đa-la. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều

    có nguyên do.”

    ấy giờ, Tôn giả A-nan bảo u-đa-la:

    “Thầy trước đây khi làm huyển luân

    Thánh vương không quên lời dạy vua cha.

    ay tôi lại đem pháp này phó chúc, mong

    Thầy không để sai sót chánh giáo, chớ tạo

    hạnh phàm phu. ay Thầy nên biết, nếu

    có ai trái mất thiện giáo của hư Lai, thì

    sẽ đọa vào trong hàng phàm phu. Vì sao?

    Vì lúc bấy giờ vua Ma-ha ề-bà không

    đến được địa vị giải thoát cứu cánh, chưa

    giải thoát đến [552b1] nơi an ổn. Tuy

    được phước hưởng Phạm thiên, nhưng

    vẫn còn chưa đến được cứu cánh thiện

  • 61

    nghiệp của hư Lai; đến đây mới gọi là

    nơi cứu cánh an ổn, khoái lạc cùng cực,

    được trời người cung kính, tất được iết-

    bàn. Vì vậy cho nên, này u-đa-la, hãy

    phụng trì pháp này, phúng tụng, đọc, niệm

    chớ để cho thiếu sót.”

    Rồi thì, A-nan liền nói kệ:

    Hãy chuyên niệm nơi pháp.

    hư Lai từ đây sinh.

    Pháp hiện, thành chánh giác,

    ạo ích-chi, La-hán.

    Pháp hay trừ các khổ,

    ũng hay thành quả chắc.

    iệm pháp, tâm không rời;

    Hưởng báo nay, đời sau.

  • 62

    ếu người muốn thành Phật,

    iống như Thích-ca Văn,

    Thọ trì pháp ba tạng,

    âu cú không loạn sai.

    a tạng tuy khó trì,

    ghĩa lý không thể cùng.

    Hãy tụng bốn A-hàm,

    ắt đứt đường nhân thiên.

    A-hàm tuy khó tụng,

    ghĩa kinh không thể tận.

    hớ để mất giới luật,

    ây là báu hư Lai.

    ấm luật cũng khó trì,

    A-hàm cũng như vậy.

  • 63

    iỏi trì A-tỳ-đàm,

    Hàng phục thuật ngoại đạo.

    Tuyên dương A-tỳ-đàm,

    ghĩa ấy cũng khó trì.

    Hãy tụng ba A-hàm,

    Không mất câu cú kinh.

    Khế kinh, A-tỳ-đàm,

    iới luật, truyền khắp đời;

    Trời người được phụng hành,

    Liền sinh nơi an ổn.

    Ví không pháp Khế kinh,

    ũng lại không giới luật;

    hư mù vào trong tối,

    ao giờ mới thấy sáng?

  • 64

    Vì vậy phó chúc Thầy,

    ùng với bốn bộ chúng;

    Hãy trì, chớ khinh mạn,

    Trước Phật Thích-ca Văn.

    Khi Tôn giả A-nan nói những lời này, trời

    đất sáu lần rung động. hư Thiên tôn thần

    ở giữa hư không, tay cầm hoa trời rải lên

    người Tôn giả A-nan cùng chúng bốn bộ.

    Tất cả Trời, Rồng, uỷ, Thần, àn-đạp-

    hòa, A-tu-la, a-lưu-la, Khẩn-na-la, Ma-

    hầu-la-già v.v... đều hoan hỷ [552c1] và

    tán thán:

    “Lành thay, lành thay, Tôn giả A-nan.

    hững lời nói mà khoảng đầu, khoảng

    giữa và khoảng cuối, không có điều nào là

    không khéo léo. Hãy cung kính Pháp, thật

    đúng như lời. hư thiên và người đời

  • 65

    không ai không do Pháp mà thành tựu.

    ếu ai làm ác sẽ đọa địa ngục, ngạ quỷ,

    súc sanh.”

    Lúc bấy giờ, Tôn giả A-nan, ở giữa bốn

    bộ chúng, cất tiếng rống của sư tử, khuyên

    tất cả mọi người phụng hành pháp này.

    ấy giờ, ngay tại chỗ, ba vạn Trời gười

    được mắt pháp thanh tịnh.

    ấy giờ, bốn bộ chúng, chư Thiên, gười

    đời, nghe Tôn giả thuyết xong, hoan hỷ

    phụng hành.

    oạn chép phụ cuối quyển 1 trong để bản,

    gồm 99 chữ (Hán). So sánh đoạn

    văn [552a1]ở trên.

    Hôm nay trên đầu ta

    ã sinh tóc suy hao.

    Thiên sứ đã đến rồi.

  • 66

    ên xuất gia kịp lúc.

    “Hiện tại ta đã hưởng phước nhân gian

    rồi, phải tự nổ lực để có đức lên trời. Ta

    hãy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y; với

    lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa bỏ

    các khổ.

    “ ấy giờ, vua Trường Thọ bảo thái tử thứ

    nhất tên là Thiện Quán: ‘ ay, con biết

    không! ầu ta đã sinh tóc bạc. Ý ta muốn

    cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, với lòng

    tin kiên cố xuất gia học đạo, lìa bỏ các

    khổ. on hãy nối ngôi ta, dùng pháp mà

    trị giáo hóa, chớ làm trái lại lời ta dạy mà

    làm việc phàm phu. Sở dĩ như vậy, là vì

    nếu có người nào trái lại lời ta, người đó

    làm việc phàm phu. Kẻ phàm phu thì ở

    mãi trong ba đường, tám nạn.’

  • 67

    “ ấy giờ, vua Ma-ha ề-bà đem ngôi vua

    trao cho thái tử rồi, lại đem của báu ban

    cho Kiếp-tỉ, rồi tại nơi khác cạo bỏ râu

    tóc, mặc ba pháp y, với lòng tin kiên cố

    xuất gia học đạo, lìa bỏ các khổ; khéo tu

    phạm hạnh trong tám vạn bốn nghìn năm,

    thực hành bốn đẳng tâm là từ, bi, hỷ, xả;

    thân hoại mạng chung sinh lên Phạm

    thiên.

    “ ấy giờ, vua Thiện Quán nhớ những lời

    vua cha dạy, chưa bao giờ tạm quên, dùng

    pháp mà trị hóa, không để sai lệch. ạch

    Ca-diếp, ngài biết không, Ma-ha-đề-bà

    bấy giờ há là ai khác chăng? hớ có quan

    sát như vậy. Vua bấy giờ là đức Thích-ca

    Văn nay vậy. Trường Thọ vương khi đó

    bây giờ là thân A-nan vậy. Thiện uán

    khi ấy, nay là Tỳ-kheo u-đa-la vậy, hằng

    thọ vương pháp chưa từng bỏ quen, cũng

  • 68

    không đẻ bị cắt đứt. ấy giờ, vua Thiện

    uán lại tuân hành sắc chỉ của vua cha,

    bằng pháp mà trị hóa, không làm đứt

    vương giáo. Sở dĩ như vậy, vì khó có thể

    làm trái giáo huấn của vua cha.

    ấy giờ Tôn giả A-nan bèn nói kệ: trở lại

    văn bản trên.

    ---o0o---

    MỘT PHÁP

    . PHẨM TH P NI M 33

    KINH SỐ 1

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời, đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

  • 69

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ác ngươi sẽ thành tựu thần

    thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả Sa-môn, tự thân đạt đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? ó là niệm Phật.34 Hãy

    khéo tu hành. Hãy quảng bá. ác ngươi sẽ

    thành tựu thần thông, dloại bỏ các loạn

    tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự thân đạt

    đến iết-bàn. ho nên, các Tỳ-kheo, hãy

    tu hành một pháp, hãy quảng bá một

    pháp. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học

    điều này.”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những

    gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 2

    Tôi nghe như vầy:

  • 70

    Một thời, đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ác ngươi sẽ thành tựu thần

    thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả Sa-môn, tự thân đạt đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? ó là niệm

    Pháp.35 Hãy khéo tu hành. Hãy quảng bá.

    Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ

    các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự

    thân đạt đến iết-bàn. ho nên, các Tỳ-

    kheo, hãy tu hành một pháp, hãy quảng bá

    một pháp. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, hãy

    học điều này.”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những

    gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

  • 71

    KINH SỐ 3

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời, đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ác ngươi sẽ thành tựu thần

    thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả Sa-môn, tự thân đạt đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? ó là niệm

    húng.36 Hãy khéo tu hành. Hãy quảng

    bá. ác ngươi sẽ thành tựu thần thông,

    loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả [553a1] Sa-môn, tự thân đạt đến iết-

    bàn. ho nên, các Tỳ-kheo, hãy tu hành

    một pháp, hãy quảng bá một pháp. Vì vậy,

    này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

  • 72

    ấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những

    gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 4

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá Vệ. ấy

    giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ác ngươi sẽ thành tựu thần

    thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả Sa-môn, tự thân đạt đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? ó là niệm

    iới.37 Hãy khéo tu hành. Hãy quảng bá.

    ác ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ

    các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự

    thân đạt đến iết-bàn. ho nên, các Tỳ-

  • 73

    kheo, hãy tu hành một pháp, hãy quảng bá

    một pháp. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, hãy

    học điều này.”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những

    gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 5

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời, đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ác ngươi sẽ thành tựu thần

    thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả Sa-môn, tự thân đạt đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? ó là niệm Thí.38 Hãy

  • 74

    khéo tu hành. Hãy quảng bá. ác ngươi sẽ

    thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn

    tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự thân đạt

    đến iết-bàn. ho nên, các Tỳ-kheo, hãy

    tu hành một pháp, hãy quảng bá một

    pháp. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học

    điều này.”

    Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những

    gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 6

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời, đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

  • 75

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ác ngươi sẽ thành tựu thần

    thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả Sa-môn, tự thân đạt đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? ó là niệm

    Thiên.39 Hãy khéo tu hành. Hãy quảng bá.

    ác ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ

    các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự

    thân đạt đến iết-bàn. ho nên, các Tỳ-

    kheo, hãy tu hành một pháp, hãy quảng bá

    một pháp. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, hãy

    học điều này.”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những

    gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 7

    Tôi nghe như vầy:

  • 76

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp.

    Hãy [553b1] quảng bá một pháp. ác

    ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các

    loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự thân

    đạt đến iết-bàn. Một pháp ấy là gì? ó

    là niệm hưu tức.40 Hãy khéo tu hành. Hãy

    quảng bá. ác ngươi sẽ thành tựu thần

    thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả Sa-môn, tự thân đạt đến iết-bàn.

    ho nên, các Tỳ-kheo, hãy tu hành một

    pháp, hãy quảng bá một pháp. Vì vậy, này

    các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những

    gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

  • 77

    KINH SỐ 8

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá Vệ. ấy

    giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ác ngươi sẽ thành tựu thần

    thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả Sa-môn, tự thân đạt đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? ó là niệm an-

    ban.41 Hãy khéo tu hành. Hãy quảng bá.

    ác ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ

    các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự

    thân đạt đến iết-bàn. ho nên, các Tỳ-

    kheo, hãy tu hành một pháp, hãy quảng bá

    một pháp. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, hãy

    học điều này.”

  • 78

    ấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những

    gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 9

    Tôi nghe như vầy:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ác ngươi sẽ thành tựu thần

    thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả Sa-môn, tự thân đạt đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? ó là niệm thân vô

    thường.42 Hãy khéo tu hành. Hãy quảng

    bá. ác ngươi sẽ thành tựu thần thông,

    loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-

    môn, tự thân đạt đến iết-bàn. ho nên,

    các Tỳ-kheo, hãy tu hành một pháp, hãy

    quảng bá một pháp. Vì vậy, này các Tỳ-

    kheo, hãy học điều này.”

  • 79

    ấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những

    gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 10

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ác ngươi sẽ thành tựu thần

    thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được

    quả Sa-môn, tự thân đạt đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? ó là niệm sự

    chết.43 Hãy khéo tu hành. Hãy quảng bá.

    ác ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ

    các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn, tự

    thân đạt đến iết-bàn. ho nên, các Tỳ-

  • 80

    kheo, hãy tu hành một pháp, hãy quảng bá

    một pháp. Vì vậy, này các Tỳ-kheo, hãy

    học điều này.”

    ấy [553c1] giờ, các Tỳ-kheo sau khi

    nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng

    hành.

    Kệ tóm tắt

    iệm Phật, Pháp, Thánh chúng,

    iệm giới, thí và thiên,

    iệm hưu tức, an-ban,

    iệm thân, chết cuối cùng44

    ---o0o---

    3. PHẨM NG I N

    KINH SỐ 1

    [554a07] Tôi nghe như vầy:

  • 81

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ã tu hành một pháp rồi, liền

    có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các

    điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ

    vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? ó là niệm Phật.”

    Phật bảo các Tỳ-kheo:

    “Thế nào là tu hành niệm Phật, liền có

    danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều

    thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô

    vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-

    bàn?”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

  • 82

    “ ốc rễ của Pháp do Thế Tôn

    nói.45 guyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo

    nói diệu nghĩa này. ác Tỳ-kheo sau khi

    nghe từ hư Lai rồi sẽ thọ trì.”

    ấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ

    kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các

    ngươi.”

    ác Tỳ-kheo bạch rằng:

    “Kính vâng, bạch Thế Tôn.”

    Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn

    bảo rằng:

    “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt

    tréo chân, buộc niệm ở trước, chuyên tinh

    niệm Phật, không có niệm tưởng nào

    khác. uán hình của hư Lai, mắt không

  • 83

    hề rời. trong khi mắt không rời, niệm

    tưởng công đức hư Lai.

    “Thể của hư Lai được thành tựu từ kim

    cương, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy,

    dõng mãnh giữa đại chúng. ương mặt

    của hư Lai đoan chánh vô song, nhìn

    không chán mắt. iới đức thành tựu giống

    như kim cương không thể phá hoại, trong

    sạch không tỳ vết cũng như lưu ly. Tam-

    muội của hư Lai chưa từng sút giảm, đã

    tĩnh chỉ, vĩnh viễn tịch tĩnh, không có

    niệm khác. ác thứ tình kiêu mạn, ngang

    bướng đã vắng im,46 ý tham dục, tưởng

    sân hận, tâm ngu hoặc, mạn kết47 do dự,

    tất đều tận trừ. Huệ thân của hư Lai, trí

    không bờ đáy, không bị chướng

    ngại. [554b01] Thân hư Lai, được thành

    tựu từ giải thoát, các cõi48 đã hết, không

    còn sinh phần để nói ‘Ta sẽ đọa nơi sinh

  • 84

    tử.’ Thân hư Lai được vượt qua thành trì

    của tri kiến, biết căn cơ người khác đáng

    được độ hay không đáng được độ, chết

    đây sinh kia, xoay vần qua lại trong ngằn

    mé sinh tử, có người giải thoát, người

    không giải thoát; hư Lai thảy đều biết

    tất cả.

    “ ó là tu hành niệm Phật, liền có danh

    dự, thành tựu quả báo lớn, các điều thiện

    đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, liền

    được thần thông, trừ các loạn tưởng, được

    quả Sa-môn, tự đến iết-bàn. ho nên,

    này các Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không

    rời niệm Phật, liền sẽ được những thứ

    công đức thiện này. hư vậy, các Tỳ-

    kheo, hãy học điều này.”

    ác Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

  • 85

    ---o0o---

    KINH SỐ 2

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ã tu hành một pháp rồi, liền

    có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các

    điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ

    vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-bàn.

    hững gì là một pháp? Là niệm Pháp.”

    Phật bảo các Tỳ-kheo:

    “Thế nào là tu hành niệm Pháp, liền có

    danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều

  • 86

    thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô

    vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng được quả Sa-môn, tự đến iết-

    bàn?”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

    “ ốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói.

    guyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói

    diệu nghĩa này. ác Tỳ-kheo sau khi nghe

    từ hư Lai rồi sẽ thọ trì.” ấy giờ, Thế

    Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ

    kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các

    ngươi.”

    ác Tỳ-kheo bạch rằng:

    “Kính vâng, ạch Thế Tôn.”

    Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn

    bảo rằng:

  • 87

    “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt

    tréo chân, buộc niệm ở trước, không có tư

    tưởng nào khác, chuyên tinh niệm Pháp,

    trừ các dục ái, không còn trần lao, tâm

    khát ái vĩnh viễn không nổi lên nữa.

    “Phàm hánh pháp là ở nơi dục mà đạt

    đến vô dục, lìa các kết phược và các bệnh

    của triền cái. Pháp này giống như mùi các

    loại hương, không có tỳ vết của niệm loạn

    tưởng

    “ ó gọi là Tỳ-kheo tu hành niệm Pháp,

    liền có [554c01] danh dự, thành tựu quả

    báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam

    lồ, đến chỗ vô vi, liền được thần thông,

    trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự

    đến iết-bàn. Cho nên, này các Tỳ-kheo,

    luôn phải tư duy không rời niệm Pháp,

    liền sẽ được những thứ công đức thiện

  • 88

    này. hư vậy, các Tỳ-kheo, hãy học điều

    này.”

    ác Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 3

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời, đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ã tu hành một pháp rồi, liền

    có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các

    điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ

    vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn

  • 89

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-bàn.

    Một pháp ấy là gì? Là niệm Tăng.”

    Phật bảo các Tỳ-kheo:

    “Thế nào là tu hành niệm Tăng, liền có

    danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều

    thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô

    vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-

    bàn?”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

    “ ốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói.

    guyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói

    diệu nghĩa này. ác Tỳ-kheo sau khi nghe

    từ hư Lai rồi sẽ thọ trì.”

    ấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

  • 90

    “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ

    kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các

    ngươi.”

    ác Tỳ-kheo bạch rằng:

    “Kính vâng, ạch Thế Tôn.”

    Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn

    bảo rằng:

    “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt

    tréo chân, buộc niệm ở trước, không có tư

    tưởng nào khác, chuyên tinh niệm Tăng.

    Thánh chúng của hư Lai thành tựu từ

    nghiệp lành, chất trực, thuận nghĩa, không

    có nghiệp tà, trên dưới hòa mục, pháp

    pháp thành tựu.49 Thánh chúng của hư

    Lai thành tựu giới, thành tựu tam-muội,

    thành tựu trí tuệ, thành tựu giải thoát,

    thành tựu tri kiến giải thoát. Thánh chúng

    ấy gồm có bốn đôi, tám hạng. ó là

  • 91

    Thánh chúng của hư Lai, xứng đáng

    được tùy thuận cung kính, thừa sự, lễ bái.

    Sở dĩ vậy là vì đó là ruộng phước của thế

    gian. Ở trong húng này đều cùng là pháp

    khí, cũng vì tự độ lại độ người khác đến

    đạo ba thừa. ghiệp như vậy gọi là Thánh

    chúng.

    “ ó là nói, này các Tỳ-kheo, nếu ai niệm

    Tăng, liền có danh dự, thành tựu quả báo

    lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ,

    đến chỗ vô vi, liền được thần thông, trừ

    các loạn tưởng, [555a01] được quả Sa-

    môn, tự đến iết-bàn. ho nên, này các

    Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không rời niệm

    Tăng, liền sẽ được những thứ công đức

    thiện này. hư vậy, này các Tỳ-kheo, hãy

    học điều này.”

    ác Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

  • 92

    ---o0o---

    KINH SỐ 4

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ã tu hành một pháp rồi, liền

    có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các

    điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ

    vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-bàn.

    hững gì là một pháp? Là niệm iới.”

    Phật bảo các Tỳ-kheo:

    “Thế nào là tu hành niệm iới, liền có

    danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều

  • 93

    thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô

    vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-

    bàn?”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

    “ ốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói.

    guyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói

    diệu nghĩa này. ác Tỳ-kheo sau khi nghe

    từ hư Lai rồi sẽ thọ trì.”

    ấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ

    kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các

    ngươi.”

    ác Tỳ-kheo bạch rằng:

    “Kính vâng, ạch Thế Tôn.”

    Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn

    bảo rằng:

  • 94

    “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt

    tréo chân, buộc niệm ở trước, không có tư

    tưởng nào khác, chuyên tinh niệm iới.

    iới có nghĩa là dừng các điều ác. iới

    khiến thành tựu đạo, khiến người hoan hỷ.

    iới là anh lạc đeo thân, hiện những vẻ

    đ p.

    “Phàm cấm giới, giống như bình cát

    tường,50 mọi sở nguyện liền đạt được.

    Mọi pháp đạo phẩm đều do giới mà thành

    tựu.

    “ hư vậy, Tỳ-kheo thực hành cấm giới sẽ

    thành tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ

    cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, liền

    được thần thông, trừ các loạn tưởng, được

    quả Sa-môn, tự đến iết-bàn. ho nên,

    này các Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không

    rời niệm iới, liền sẽ được những thứ

  • 95

    công đức thiện này. hư vậy, này các Tỳ-

    kheo, hãy học điều này.”

    ác Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 5

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-

    vệ. [555b01] ấy giờ, Thế Tôn bảo các

    Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ã tu hành một pháp rồi, liền

    có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các

    điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ

    vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn

  • 96

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-bàn.

    hững gì là một pháp? Là niệm Thí.”

    Phật bảo các Tỳ-kheo:

    “Thế nào là tu hành niệm Thí, liền có

    danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều

    thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô

    vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-

    bàn?”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

    “ ốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói.

    guyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói

    diệu nghĩa này. ác Tỳ-kheo, nghe từ

    hư Lai rồi sẽ thọ trì.”

    ấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

  • 97

    “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ

    kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các

    ngươi.”

    ác Tỳ-kheo bạch rằng:

    “Kính vâng, ạch Thế Tôn.”

    Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn

    bảo rằng:

    “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt

    tréo chân, buộc niệm ở trước, không có tư

    tưởng nào khác, chuyên tinh niệm Thí.

    hững gì tôi bố thí hôm nay, là tối thượng

    trong các sự thí, vĩnh viễn không có tâm

    hối hận, không mong đền đáp để mong

    được thiện lợi. ếu người nào mắng tôi,

    tôi quyết không mắng trả. ù người hại

    tôi, dùng tay đánh, dao gậy đập, gạch đá

    ném, tôi cũng sẽ khởi lòng từ, không nổi

  • 98

    sân hận. hững gì tôi bố thí, ý muốn cho

    sẽ không dứt tuyệt.

    “ ó gọi là, này Tỳ-kheo, đại thí, sẽ thành

    tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ cả,

    được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, liền được

    thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả

    Sa-môn, tự đến iết-bàn. ho nên, này

    các Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không rời

    niệm Thí, liền sẽ được những thứ công

    đức thiện này. hư vậy, này các Tỳ-kheo,

    hãy học điều này.”

    ác Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 6

    Tôi nghe như vầy:

  • 99

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ã tu hành một pháp rồi, thì

    liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn,

    các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến

    chỗ vô vi, liền được thần thông, trừ các

    loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến

    iết-bàn. hững gì [555c01] là một

    pháp? Là niệm Thiên.”

    Phật bảo các Tỳ-kheo:

    “Thế nào là tu hành niệm Thiên, liền có

    danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều

    thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô

    vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-

    bàn?”

  • 100

    ấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

    “ ốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói.

    guyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói

    diệu nghĩa này. ác Tỳ-kheo sau khi nghe

    từ hư Lai rồi sẽ thọ trì.”

    ấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ

    kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các

    ngươi.”

    ác Tỳ-kheo bạch rằng:

    “Kính vâng, ạch Thế Tôn.”

    Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn

    bảo rằng:

    “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt

    tréo chân, buộc niệm ở trước, không có tư

    tưởng nào khác, chuyên tinh niệm Thiên.

  • 101

    “Thân, miệng, ý trong sạch, không tạo

    hành vi ô uế; thực hành giới thành tựu

    thân. Thân phóng ánh sáng tỏa khắp mọi

    nơi, thành tựu thân trời kia. uả báo lành

    thành tựu thân trời kia. ác hành đầy đủ

    mới thành thân trời.

    “ hư vậy, các Tỳ-kheo, đó gọi là niệm

    Thiên, liền được thành tựu đầy đủ quả báo

    lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ,

    đến chỗ vô vi, liền được thần thông, trừ

    các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến

    iết-bàn. ho nên, này các Tỳ-kheo, luôn

    phải tư duy không rời niệm Thiên, liền sẽ

    được những thứ công đức thiện này. hư

    vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

    ác Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

  • 102

    KINH SỐ 7

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ã tu hành một pháp rồi, liền

    có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các

    điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ

    vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-bàn.

    hững gì là một pháp? Là niệm hưu tức.”

    Phật bảo các Tỳ-kheo:

    “Thế nào là tu hành niệm hưu tức, liền có

    danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều

    thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô

  • 103

    vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-

    bàn?”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

    “ ốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói.

    guyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-

    kheo [556a01] nói diệu nghĩa này. ác

    Tỳ-kheo sau khi nghe từ hư Lai rồi sẽ

    thọ trì.”

    ấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ

    kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các

    ngươi.”

    ác Tỳ-kheo bạch rằng:

    “Kính vâng, ạch Thế Tôn.”

    Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn

    bảo rằng:

  • 104

    “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt

    tréo chân, buộc niệm ở trước, không có tư

    tưởng nào khác, chuyên tinh niệm tịch

    tĩnh51. Tịch tĩnh là tâm ý tưởng lắng đọng,

    chí tánh an nhàn, mà không nóng nảy; tâm

    hằng chuyên nhất, thích nơi vắng vẻ,

    thường tìm phương tiện nhập định tam-

    muội, thường niệm tưởng không ham

    tranh thắng, dành chỗ trước trên.

    “ hư vậy, này các Tỳ-kheo, đó gọi là

    niệm tịch tĩnh, liền được thành tựu đầy đủ

    quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị

    cam lồ, đến chỗ vô vi, liền được thần

    thông, trừ các loạn tưởng được quả Sa-

    môn, tự đến iết-bàn. ho nên, này các

    Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không rời niệm

    tịch tĩnh, liền sẽ được những thứ công đức

    thiện này. hư vậy, này các Tỳ-kheo, hãy

    học điều này.”

  • 105

    ác Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

    Sau khi các Tỳ-kheo nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 8

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ã tu hành một pháp rồi, liền

    có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các

    điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ

    vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng, được quả Sa-môn, tự đến iết-bàn.

  • 106

    hững gì là một pháp? Là niệm an-

    ban.”52

    Phật bảo các Tỳ-kheo:

    “Thế nào là tu hành niệm an-ban, liền có

    danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều

    thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô

    vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng được quả Sa-môn, tự đến iết-

    bàn?”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

    “ ốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói.

    guyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo mà

    nói diệu nghĩa này. ác Tỳ-kheo sau khi

    nghe từ hư Lai rồi sẽ thọ trì.” ấy giờ,

    Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

  • 107

    “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ

    kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các

    ngươi.”

    ác Tỳ-kheo bạch rằng:

    “Kính vâng, ạch Thế Tôn.”

    Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn

    bảo rằng:

    “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt

    tréo chân kiết già, buộc niệm ở trước,

    không có[556b01] tư tưởng nào khác,

    chuyên tinh niệm an-ban. ói an-ban, tức

    là khi hơi thở dài, hãy quán biết hơi thở ta

    hiện đang dài; nếu hơi thở lại ngắn, hãy

    quán biết hơi thở ta hiện đang ngắn; nếu

    hơi thở rất lạnh, hãy quán biết hơi thở ta

    hiện đang lạnh; nếu hơi thở lại nóng, hãy

    quán biết hơi thở ta hiện đang nóng. uán

    khắp thân thể từ đầu đến chân, tất cả đều

  • 108

    nên quán biết. ếu hơi thở lại có dài ngắn,

    cũng hãy quán hơi thở có dài ngắn. ụng

    tâm đặt nơi toàn thân,53 biết hơi thở dài

    ngắn, tất cả đều biết rõ, cho đến khi hơi

    thở ra vào được phân biệt rõ ràng. ếu

    tâm đặt nơi thân, biết hơi thở dài ngắn,

    cũng lại biết rõ, đếm hơi thở dài ngắn

    cũng phân biệt rõ ràng.

    “ hư vậy, các Ty-kheo, đó gọi là niệm

    an-ban, liền được thành tựu đầy đủ quả

    báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam

    lồ, đến chỗ vô vi, liền được thần thông,

    trừ các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự

    đến iết-bàn. ho nên, này các Tỳ-kheo,

    luôn phải tư duy không rời niệm an, ban,

    liền sẽ được những thứ công đức thiện

    này. hư vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học

    điều này.”

  • 109

    ác Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 9

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ã tu hành một pháp rồi, liền

    có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các

    điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ

    vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng được quả Sa-môn, tự đến iết-bàn.

    hững gì là một pháp? Là niệm thân.”

    Phật bảo các Tỳ-kheo:

  • 110

    “Thế nào là tu hành niệm thân, liền có

    danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều

    thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô

    vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng được quả Sa-môn, tự đến iết-

    bàn?”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

    “ ốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói.

    guyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo mà

    nói diệu nghĩa này. ác Tỳ-kheo sau khi

    nghe từ hư Lai rồi sẽ thọ trì.”

    ấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ

    kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các

    ngươi.”

    ác Tỳ-kheo bạch rằng:

    “Kính vâng, ạch Thế Tôn.”

  • 111

    Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn

    bảo rằng:

    “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt

    tréo chân, buộc niệm ở trước, không có tư

    tưởng nào khác, [556c01] chuyên tinh

    niệm thân. iệm thân là tóc, lông, móng,

    răng, da, thịt, gân, xương, mật, gan, phổi,

    tim, lá lách, thận, ruột già, ruột non, bạch

    chức54, bàng quang, phẩn, tiểu, dạ dày55,

    thương đãng,56 dịch vị,57 nước mắt, đờm

    dãi, mủ, máu, m , nước miếng, đầu lâu,

    não.58 ái nào là thân? ó là đại chủng

    đất? ó là đại chủng nước? ó là đại

    chủng lửa? ó là đại chủng gió? ược tạo

    ra bởi giống của cha, giống của m

    chăng? ó từ đâu đến? Do ai tạo ra? Mắt,

    tai, mũi, lư i, thân, tâm, chết ở đây sẽ

    sinh về nơi nào?

  • 112

    “ hư vậy, các Tỳ-kheo, đó gọi là niệm

    thân, liền được thành tựu đầy đủ quả báo

    lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ,

    đến chỗ vô vi, liền được thần thông, trừ

    các loạn tưởng, được quả Sa-môn, tự đến

    iết-bàn. ho nên, này các Tỳ-kheo, luôn

    phải tư duy không rời niệm thân, liền sẽ

    được những thứ công đức thiện này. hư

    vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.”

    ác Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

    ---o0o---

    KINH SỐ 10

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

  • 113

    “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá

    một pháp. ã tu hành một pháp rồi, liền

    có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các

    điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ

    vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng được quả Sa-môn, tự đến iết-bàn.

    hững gì là một pháp? Là niệm sự chết.”

    Phật bảo các Tỳ-kheo:

    “Thế nào là tu hành niệm sự chết, thì liền

    có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các

    điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ

    vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn

    tưởng được quả Sa-môn, tự đến iết-

    bàn?”

    ấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

    “ ốc rễ của Pháp do Thế Tôn nói.

    guyện xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo mà

  • 114

    nói diệu nghĩa này. ác Tỳ-kheo sau khi

    nghe từ hư Lai rồi sẽ thọ trì.”

    ấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Hãy lắng nghe, lắng nghe, và suy nghĩ

    kỹ. Ta sẽ phân biệt rộng rãi cho các

    ngươi.”

    ác Tỳ-kheo bạch rằng:

    “Kính vâng, ạch Thế Tôn.”

    Sau khi các Tỳ-kheo thọ giáo rồi, Thế Tôn

    bảo rằng:

    “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt

    tréo chân, buộc niệm ở trước, không có tư

    tưởng nào khác, chuyên tinh niệm sự chết.

    hết là mất ở đây, sinh bên kia; qua lại

    các đường, sinh mạng trôi đi không dừng,

    các căn tan hoại, như khúc gỗ mục nát;

    mạng căn đoạn tuyệt, giòng

  • 115

    họ [557a01] chia lìa, không hình không

    tiếng, cũng không tướng mạo.

    “ hư vậy, này các Tỳ-kheo, đó gọi là

    niệm sự chết, liền được thành tựu đầy đủ

    quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị

    cam lồ, đến chỗ vô vi, liền được thần

    thông, trừ các loạn tưởng được quả Sa-

    môn, tự đến iết-bàn. ho nên, này các

    Tỳ-kheo, luôn phải tư duy không rời niệm

    sự chết, liền sẽ được những thứ công đức

    thiện này. hư vậy, này các Tỳ-kheo, hãy

    học điều này.”

    ác Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật

    dạy, hoan hỷ phụng hành.

    Kệ tóm tắt

    Phật, Pháp, cùng Thánh chúng,

    uối cùng là niệm chết;

  • 116

    ù cùng trên đồng tên,

    hưng nghĩa chúng mỗi khác.59

    ---o0o---

    4. PHẨM Đ T 60

    KINH SỐ 1

    [557a17] Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật trú tại vườn ấp ô

    ộc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. ấy

    giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

    “Tỳ-kheo đệ nhất trong hàng Thanh văn

    của Ta, người có lòng nhân rộng rãi, hiểu

    biết rộng, hay khéo khuyến hóa, nuôi

    dư ng Thánh chúng không mất oai nghi,

    đó là Tỳ-kheo A-nhã-câu-lân.61 hận

    pháp vị đầu tiên, tư duy về tứ đế cũng là

    Tỳ-kheo A-nhã-câu-lân.

  • 117

    “Hay khéo khuyên bảo, hướng dẫn tạo

    phước và độ mọi người, chính là Tỳ-kheo

    u-đà-di.62

    “Trong hàng chóng thành tựu thần thông,

    nửa chừng không thối chuyển, đó chính