Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Dalat & Người Xưa Trang 68
khởi đầu sự nghiệp và mở các hãng xưởng phụ để
được độc lập và giảm điều hành. Việc dùng bê
tông cốt tre để tự xây nhà cho mình là tâm của
người lương thiện và là tinh thần dám mạo hiểm
dám nghĩ dám làm. Hiểu sự quan trọng của kiến
thức khoa học ông đã gởi con qua Pháp học.
Ông Thế an Đường quá táo bạo _ không
biết nên khen hay chê _ khi mở tiệm Con Cua
nhưng cất nhà cho gia đình công nhân chung sống
gần nhau vừa thể hiện tinh thần đùm bọc nhân
công vừa giữ được nhân công chuyên nghiệp và
họ suốt đời tri ân ông. Ông đông y sĩ cố vấn cho
tiệm này quả là một người yêu nghề và có đạo đức
cao. Sự nghiệp của ông tại Châu Đốc tiêu tan vì
chiến loạn. Sự lận đận nổi trôi mấy năm tại Saigon
đã đưa ông lên Dalat với hai bàn tay trắng. Được
ông Thế an Đường giang tay giúp đỡ. Ăn cây nào
rào cây ấy và đúng theo nhân cách người lương y
ông đã từ chối lời rủ rê hấp dẫn của một thương
gia khác, ở lại cải tiến tổ chức tiệm có lợi cho cả
chủ lẫn khách hàng để trả ơn chủ và làm gương
cho đàn con nay đều thành tài.
Theo chú vào Dalat lúc 10 tuổi (1936) anh
Bửu Ngự chuyên cần học tập, đậu primaire và
được học bổng về Huế học trường École Pratique (
trường Thực Hành) chuyên dạy các môn trung
cấp như kế toán, họa viên và trắc lượng viên. Anh
trở vào Dalat lại (1948) phục vụ tại ty Công
Chánh một thời gian rồi theo ông Nguyễn quang
Thiều, thầu khoán chuyên ngành tu bổ các biệt
thự. Qua nghề nghiệp và công việc tuyển dụng
nhân công anh tiếp xúc nhiều giới thợ thuyền và
thương gia nên biết khá nhiều về Dalat đương thời
như ông Gross, có trụ sở tại Saint Benoit và chủ
hầm đá Trại Mát, là nhà thầu lớn đảm trách nhiều
công trình quan trọng tại Dalat như trường Võ Bị
Dalat v…v….; đa số thợ mộc thợ sơn là người
Quảng, thợ nề là người Huế; giới công chức có
nếp sống ổn định nhưng đa số từ trung cấp xuống
đông con nên cuộc sống vất vả, vợ con phải sống
nhờ buôn bán trong chợ. Chị Ngự sang lại một
tiệm nhỏ tên Thanh Nhàn của ông Trà, thanh tra
lao động. Tiệm nằm bên trong chợ Hòa Bình phía
sau khu hàng thịt chuyên bán các món đặc sản
Huế và rượu. Ba chục năm sau định cư tại Nam
Cali tiệm anh chị vẫn giữ nguyên bảng hiệu và các
món ăn đặc sản như xưa. Điều này nói lên cái uy
tín và danh dự của anh chị trường tồn mãi mãi với
không gian và thời gian. Với anh chị ấy Thanh
Nhàn hàm ý sống thanh bạch trong nhàn hạ đúng
theo tinh thần tri túc thiểu dục của một gia đình
thuần thành Phật giáo chốn kinh kỳ. Hữu xạ tự
nhiên hương.
Bà Tôn gia Huồng và ông Trần đình Ôn,
hai chị em cô cậu, kẻ giúp về kỹ thuật gieo trồng,
người hướng dẫn nhà vườn sử dụng máy bơm
nước và thuốc trừ sâu từ năm 1948 khi ngành
trồng rau bắt đầu phát triển mạnh. Họ đã để bao
tâm huyết bao thử thách trong công việc ăn cơm
nhà vác ngà voi này như đã trình bày trên phần
nông nghiệp. Những sự giúp đỡ đầy chân tình của
người đầu đàn.
Tôi chỉ có thể hiểu tinh thần làm việc của
mấy vị trên như vậy nhưng về ông Nguyễn thái
Hiến (1896-1956) tôi phải dùng một vài mẫu
chuyện riêng tư không phải để đề cao gia đình
mình mà chỉ với mục đích cung cấp rõ hơn những
điều cần tìm hiểu. Tôi chỉ ghi lại một số tôi biết
khá rõ từ 1927-1945 (18 năm) thời gian ông làm
việc tại Dalat, lối 1/3 cuộc đời, ngoại trừ phần tư
tưởng chính trị và quan niệm quản lý tài chánh
chung của đại gia đình như cương vị một tổng
giám đốc mà không ai hiểu được nhưng tôi có
trình bày sơ lược trong cuốn ông Nguyễn thái
Hiến và ngành trồng rau từ 1928-1958.
Dalat & Người Xưa Trang 69
Ông là người của thực tế và của ứng
dụng.
Vườn ông Hiến tại ấp Tân Lạc. Đĩnh đồi với nhiều biệt thự
là đồi hầm đá trong tạp ghi này. Sườn đồi bên mặt là sườn
đồi trường Adran
Những yếu tố căn bản về lập vườn cho ta thấy
điều này rõ nhất. Tuyên Quang là vùng đồi núi
với đồn điền trà trồng theo triền đồi. Họ đắp đập
để dẫn nước về tưới trà. Trà không cần phân nếu
đất màu mỡ nhờ có rễ ăn sâu. Do đó theo ông yếu
tố chính để lập vườn trồng rau là nước trên cao đất
sâu cay. Ông gặp 3 trở ngại ngay tại vườn Tân
Lạc, nhưng nhờ theo dõi sát công việc ông đã cải
thiện lỗi lầm để thích ứng với mỗi vấn đề. Rau rễ
cạn: a) phải gánh nước tưới trên mặt đất bằng
phẳng. Ông phải thay đổi hình thức làm bậc thang
mấy lần mới đạt được mô hình hiện hữu; b) cần
nhiều phân cho mỗi lứa rau. Phân xanh thiếu hiệu
quả. Phân tiêu, nguồn phân bất tận, bị phản đối
đành bỏ cuộc. May mà ông tìm được nguồn phân
cá tại Phan Thiết; c) Trà nhẹ, rau nặng ảnh hưởng
nhiều đến vận chuyển. Những khu trồng rau Trại
Mát, Đất Làng đều có nguồn nước từ trên cao, gần
đường xe lửa, có đường xe hơi. Nhờ Hán văn ông
hiểu y lý (chữa bệnh và thầy bói) ông áp dụng vừa
thuốc Bắc vừa thuốc Nam để hướng dẫn bà con
nghèo tự tìm lấy dược thảo mà dùng và khi tiệm
thuốc tây mua lá artichaut về bào chế thuốc đau
gan ông khuyên người nào yếu gan nấu lá arti-
chaut uống. Tiệm Nouveautés Hanoi chuyên bán
hàng cao cấp cho người Pháp và giới thượng lưu,
ngoại trừ gạo và vải cần thiết cho mọi người. Ông
áp dụng lề lối mua trước trả sau của người Hoa
cho hai nhu yếu phẩm này vì có ba cái lợi 1) giúp
cho nhiều người nghèo có kế sinh nhai; 2) chuyển
bán lẻ thành bán sĩ mà không cần kho. Khi vải về
ông giữ lại một số cần thiết cho tiệm còn bao
nhiêu bán chịu cho bạn hàng ngoài chợ. Về gạo
nặng khó di chuyển ông gợi ý người bán lẻ mua
nguyên bao chở về ấp bằng xe ngựa bán hết ngay
trong ngày; 3) Hàng hóa bán ra càng nhiều uy tín
và sự ngưỡng mộ ông càng tăng. Lái buôn nhỏ
thấy ông giúp mọi người mà không hiểu là hai ba
bên cùng nương tựa nhau giúp lẫn nhau.
Bài học đầu đời của tôi dưới đây thể hiện
rõ ràng sự thực tế của ông và giúp tôi rất nhiều.
Năm 13 tuổi, học lớp nhì nhất niên, lần đầu tiên
tôi được đi Saigon theo ba tôi đi mua hàng. Mỗi
ngày khi ông vào nói chuyện với chủ tiệm tôi ngó
quanh ngó quẩn mọi thứ trong và trước cửa tiệm
một cách thích thú. Mấy ngày sau ông dắc tôi ra
trước cửa École d‟Apprentissage (tiền thân trường
Cao Thắng) tại đường Đỗ hữu Vị (Huỳnh thúc
Kháng), nơi chúng tôi tạm trú. Đưa tôi tờ giấy nhỏ
ghi rõ tên trường và địa chỉ, và một số tiền rồi dặn
“ Hôm nay con đi chơi một mình. Cất kỹ tờ giấy
ghi địa chỉ trường và tiền trong hai túi khác nhau.
Muốn ăn gì cứ mua ăn, muốn xem gì cứ xem. Khi
đưa tờ giấy này hỏi đường về hoặc kêu xích lô chở
về. Nếu đã tiêu hết tiền vào mượn tiền của bác gái
trả. Đứng đây con đi về tay phải là ra chợ cũ nơi
có nhiều tiệm chà và bán vải; đi ra trước mặt là
tiệm con đứng xem cái đồng hồ có con gà gáy 6,
qua tay trái là ra chợ Bến Thành. Đừng sợ gì hết,
đói bụng cứ vào tiệm gọi thức ăn như ba đã làm.
6 Ông đã biếu tiền để ông thợ sửa đồng hồ cho tôi xem sự
vận hành của các dĩa răng cưa và bộ phận làm con gà thò cổ
ra gáy
Dalat & Người Xưa Trang 70
Dám không?” Tôi sợ run, đứng im cúi mặt. Ông
vỗ vai an ủi và khuyến khích “ cứ mạnh dạn lên,
cứ đi thẳng từ từ theo mỗi hướng và cẩn thận khi
qua đường.” Thời đó mà ông dám để một đứa con
nít tỉnh nhỏ phiêu lưu giữa Saigon để dạy nó thực
tế, gan dạ, mạo hiểm khi phải ứng phó với đời
Mấy ai dám làm.
Ông là người anh cả có trách nhiệm.
Ông là người tự tổ chức di dân đầu tiên
vào Dalat một cách âm thầm chu đáo từ vật chất
đến tinh thần. Họ là những nông dân chất phác,
mù chữ, xa quê nhà vào làm cho Tây mắt xanh
mũi lõ nên lo ngại đủ điều. Ông phải lo công ăn
việc làm, khuyến khích họ học chữ Quốc ngữ,
khuyên can ngăn cản không nên tiếp xúc gái ăn
sương. Khi một số đã bị bịnh phong tình, ông
khuyến khích họ nên mạnh dạn lên nhà thương trị
bệnh này vậy mà một số đã bị tuyệt tự. Ông lập
nhà thờ không phải để thờ cha ông như bao người
khác mà là nhà thờ họ Nguyễn thái cho cả bà con
nội ngoại nhớ tổ tiên v…v… Ông giải thích và
trấn an họ là có an cư mới lạc nghiệp, cùng nhau
tự san sẽ những khó khăn, người đi trước đùm bọc
kẻ đến sau. Không đem con bỏ chợ, ông xem tình
thương bà con như là trách nhiệm của ông v…v…
nên đôi bên hoàn toàn tin tưởng nhau không lợi
dụng hoặc lạm dụng nhau. Sự giúp đỡ và trợ cấp
của chính phủ cho người di dân Hà Đông (1938)
và các khó khăn ban đầu của nhóm di dân này tự
nói lên tinh thần trách nhiệm cao quý của ông
mười năm về trước.
Sau vài tai nạn nhỏ ông đã theo dõi sát
công việc khai phá và tưới nước trong thời gian
đầu nên ngày nay các vườn mới có mô hình thẳng
hàng ngay lối như hiện tai. Lúc đầu các băng đất
từ kích thước đến vị trí nằm tùm lum có thể gây tai
nạn khi gánh nước lên xuống các ta luy (talus) đất
mấp mô trơn trợt rất nguy hiểm nên ông dùng mô
hình một lối đi thẳng từ dưới lên cao theo triền đồi
với những băng đất ở hai bên rất anh toàn. Những
dấu tích băng đất lộn xộn này hiện còn nơi vườn
Tân Lạc. Đâu ai ngờ nhờ mô hình đó mà ngày nay
nhà vườn bắt ống sắt theo một đường thẳng.
Ông là người yêu nghề và có tinh thần phục vụ
cao.
Tôi không hiểu chương trình ông học có
ngành trồng rau không nhưng ông đã tìm hiểu, áp
dụng và thí nghiệm nhiều loại rau, hoa và cả cây
mận tại vườn ông. Ông bảo nguồn phân tiêu là vô
tận nhưng mọi người đều ngại dơ thúi. Ông đã tiên
phong xuống hầm tiêu múc phân lên làm gương.
Ông bỏ công của đi tìm những khu có thể khai phá
làm vườn như Trại Mát, Đất Làng. Ông đã hướng
dẫn rõ ràng và cho thực tập ngay tại vườn tất cả
các công đoạn trong ngành trồng rau chớ không
phải lý thuyết suông. Khi thấy tầm quan trọng của
sự vận chuyển ông mua hai sở ruộng ở Thủ Đức.
Ruộng có mạch nước mạnh, gần ga Dĩ An thuận
tiện cho việc chuyên chở phân cá từ Phan Thiết
vào và có thủy lộ để chở rau đến Saigon. Lý do
mua ruộng này: nơi sản xuất rau gần trung tâm
tiêu thụ để giá hàng được rẻ hơn. Phải thật sự yêu
nghề ông mới hăng say bỏ công của để tìm tòi
nghiên cứu cách giảm giá thành sản phẩm. Một
tinh thần phục vụ dân chúng cao cả và bất vụ lợi.
b) Sự đóng góp của thế hệ nhân chứng.
Thế hệ sử liệu đã để lại khá nhiều ta chứng tích,
nhưng có nhiều việc nằm ngoài các chứng tích nêu
trên mà cần được nghe kể lại và phân tích thì ta
mới hiểu rõ hơn tinh thần làm việc của người Da-
lat xưa. Nếu ta không tìm những nguồn tin mới ta
sẽ mất luôn.
Sự cấp bách của tìm nguồn tin
Nhiều người cung cấp dữ liệu cho tôi viết
về ngành trồng rau 6 năm về trước nay cũng đã
qua đời mang theo những gì họ biết đặc biệt là bà
Tôn gia Huồng “cuốn tự điển sống” mới mất chưa
đầy hai năm. Nếu còn sống với cương vị chủ một
tiệm buôn lớn, chỉ một mình bà sẽ cho ta biết bao
nhiêu điều về xung quanh khu chợ Hòa bình
v…v…Thật đáng tiếc.
Một bà lão, nay đã lẫn, quanh năm suốt
tháng quanh quẩn trong bếp, đã tưởng hợp tác xã
(coopérative) của Ấp Nghệ Tĩnh bán phân sau
1945 là ông “Tây Cô văng Ty”, đã cho biết là
Dalat & Người Xưa Trang 71
nhóm người khai phá vườn rau đầu tiên ở Tân Lạc
đã dùng một loại xe bánh gỗ chuyên chở đất mau
gấp nhiều lần xe cút kít của phu lục lộ và họ đã
lãnh khoán vận chuyển đất cho khu ký túc xá
trường Grand Lycée. Tuy ngồi ở nhà nhưng bà
biết rõ vì là người nấu bếp cho nhóm người làm
khoán vận chuyển đất mà tôi đề cập ở đoạn miền
đất sáng tạo. Một nguồn tin bất ngờ.
Chúng ta thường nghĩ chỉ có người nghèo
mới tha phương lên Dalat cầu thực, nào ngờ lại có
những trường hợp đặc biệt. Ông Tô thế Lộc, biết
Pháp văn, một thương buôn gốc Sa Đéc từng lăn
lóc trên Cao Miên, quay về lập nghiệp tại Phan
Thiết trước khi lên Cầu Đất. Ông Trương tiến
Đức, người Quảng Bình vào Cầu Đất làm thơ ký
kế toán rồi lập gia đình với con gái ông Lộc, và trở
thành kế toán trưởng sở trà Cầu Đất nhưng dân
chúng đều gọi là ông Nghè Trấp. Cả hai ông là
chủ chốt trong nhóm người thành lập làng Trường
Xuân, và chùa Viên Giác, Cầu Đất. Ông Bá hộ
Nguyễn ngọc Chúc người xã An Hóa, Bến tre, ra
Nha Trang dự định làm thầu khoán nhưng rồi lên
Dalat kinh doanh ngành khách sạn (khách sạn An
Hóa) và nhà hàng ăn phục vụ Pháp kiều. Ông
Nguyễn hữu Sở, nhạc phụ ông Chủ tịch Giám sát
viện Ngô xuân Tích, người Mỏ Cày, Bến tre ra
Nha Trang kinh doanh rồi về Phan Rang thành lập
sở muối Cà Ná, và lên Dalat mở lò làm gạch, bị
Pháp bắt đày lên Dakto, tỉnh Kontum. Tất cả bốn
gia đình này đều bị sạt nghiệp vào năm 1945 mà
các con cháu không làm sao hiểu rõ nguyên nhân.
Trong khi tìm hiểu thêm về ông Võ đình Dung có
vài người cho tôi biết rằng: “Đất Dalat thiêng lắm
nhiều người làm ăn phát đạt nhưng tài sản sẽ tan
tành khi muốn đem của cải ra khỏi Dalat”. Một sự
trùng hợp giữa tâm linh và tán gia bại sản với biến
cố 1945. Con cháu họ là những nhân chứng còn
đây nhưng không làm sáng tỏ uẩn khúc được.
Không ai có thể tưởng tượng được là vì muốn
chỉnh trang cho đẹp hơn cái khung cửa vòm cung
mặt tiền khách sạn Langbian, niềm hãnh diện của
người Pháp tại Dalat trong bao năm qua, lại sụp đổ
ngày 6/ 3/1943 làm chết 3 nhân công Việt với các
lý do thật ấu trĩ: vì làm gấp việc nên bê tông
không đủ cứng, và đã tính sai trọng lượng bê tông.
Sự quý giá của nguồn tin.
Những đường Dalat xưa đều có tên các
danh nhân Pháp hoặc Việt ngoại trừ hai con đường
Lò Gạch và Cầu Quẹo với tên có hàm ý do dân đặt
nhưng không ai hiểu nguồn gốc. Năm 1948 một
học sinh trường Đoàn thị Điểm cùng một số bạn
bè nghịch ngợm rủ nhau lên khu Huyện Mọi dàn
trận dùng ná bắn chim chọc phá đám trẻ con
Thượng nhiều lần rồi quen nhau và được trẻ
Thượng rủ vào xóm Thượng chơi. Nhờ đó mà anh,
nay gần tám mươi, cho biết trên đó có nhiều lò
nung gạch dọc theo suối Cam ly. Đất sét được chở
từ vùng Trại Mát Trạm Bò về bằng xe hơi. Tôi
biết rõ vùng đó là khu Huyện Mọi và gần Trại Mát
có lò đúc chén dĩa Thanh Thanh. Người Thượng
đã đóng góp nhiều công sức và cũng chết rất nhiều
vì tai nạn và bệnh sốt rét trong công tác làm đường
xe lửa. Ông Huyện Mọi đương thời là Hà Đăng
biết ba thứ tiếng Pháp,Việt và Chàm, cựu Tri
Huyên Tân Khai (Djiring), có chí cầu tiến. Ông
tranh đấu thành công việc mở trường cho người
Thượng, gởi học sinh Thượng ra Collège de Qui
Nhơn học, được Toàn Quyền Decoux tặng huy
chương Bắc đẩu bội tinh năm 1925, 1929, được
mề đay Kim tiền hạng 3 và Kim khánh bội tinh
năm 1933. Để phản đối Công sứ Pháp ông từ quan
về làm lãnh tụ cho bộ lạc đến lúc mãn phần. Tôi
nghĩ có thể Pháp giao cho người Thượng sản xuất
gạch là để tưởng thưởng sự hy sinh và công lao họ
đóng góp trong tuyến đường xe lửa. Có thể tên Lò
Gạch có từ đó. Tôi thật sự cảm phục tinh thần
phục vụ của ông này khi so sánh với các ông Quản
Đạo Việt.
Dalat & Người Xưa Trang 72
Về đường Cầu quẹo trong buổi sơ khai dân
chúng phải dùng cầu băng qua suối để đưa các
đám ma lên nghĩa địa. Con đường phải quẹo qua
trái khi khu Số 4 thành hình và thành tên đường
Cầu Quẹo. Lúc đó chưa có đường qua ấp Hà Đông
và đường Hai bà Trưng.
Trận lụt năm Nhâm Thìn (1952) làm
đường giao thông đình trệ lâu dài, Dalat thiếu các
nhu yếu phẩm nhất là gạo. Chánh quyền thông báo
mỗi gia đình lên Tòa Thị Chính xin phiếu gạo rồi
về các địa điểm phân phối gạo lãnh phần của
mình. Những người đi lãnh gạo đa số là phụ nữ
trong đó có một cô giáo. Cô lên tiếng nhắc các học
trò cũ, nay đã lớn, hãy sắp hàng hai như khi vào
lớp để sự phân phối được mau chóng và trật tự.
Nhìn cảnh người Mỹ chen lấn nhau dành thực
phẩm trong trận bão Katrina làm một bà lão nhớ
và kể lại cho tôi nghe tinh thần cao đẹp của người
Dalat trước đây.
Tuy vậy dân chúng vẫn xôn xao lo sợ,
nhiều nhà vườn phải ăn rau qua ngày và giá rau rẻ
mạt. Bà Ba Lạc một thiếu phụ, dẹo chân ở khu số
Bốn làm nghề đan len, nhân dịp này mua bắp sú
phơi khô giúp dân nghèo. Về sau có người cho
biết bà ấy phơi sú khô để giúp cho kháng chiến
quân. Một nguồn tin nhỏ nhưng nói lên rất nhiều:
tinh thần tự trọng của dân chúng, tình thương vị
tha vô bờ bến của một phế nhân. Những hình ảnh
thật cao đep. Phải chăng đó là kết quả của tình
thương người Dalat thuở xưa còn được lưu giữ.
Sự suy nghĩ riêng tư của cá nhân.
Tôi có duyên may được biết những người
Nam-Ngãi-Bình-Phú vào Dalat khoảng 1950-60
với cái rương thiếc 7
, và đã gặp lại một cái rương
thiếc đã theo thuyền nhân vượt trùng dương đến
Minnesota.
7 Nẫu là sau năm 1954 tiếng dân Dalat gọi những người
Bình-Phú ồ ạt vào Dalat với hành trang đựng trong chiếc
rương thiếc. Trước đó họ gọi chung tất cả người Nam Ngãi
Bình Phú là Quảng căn cứ vào giọng nói lạ lùng của người
Quãng Nam.
Cái rương thiếc đã theo thuyền nhân vượt trùng dương
Nhà thờ họ Nguyễn thái nguyên thủy năm1934
Nhà thờ Họ Nguyễn sau nhiều lần trùng tu
(hình chụp năm 2003)
Nhà thờ họ Nguyễn thái nguyên thủy do
ông Nguyễn thái Hiến lập tại Tân Lạc năm 1934,
được trùng tu nhiều lần. Ba cái hình trên cho ta
thấy người Quảng và Nghệ An có truyền thống
nhớ nguồn gốc tổ tiên và dòng họ rất tốt.
Dalat & Người Xưa Trang 73
Người Huế vào Dalat mang theo chiếc áo
dài và nón lá. Tôi đã hỏi nhiều bạn bè gốc Huế về
ý nghĩa và nguồn gốc trang phục này. Họ cũng
không rõ và vì quá quen mắt nên cũng không quan
tâm. Đầu thập niên 1930 chín chục phần trăm dân
Dalat đều dùng trang phục này mặc dầu rất bất
tiện vì nhiều mưa, và không phải vì lạnh vì họ đã
có áo len. Những tấm hình rương thiếc và nhà thờ
họ Nguyễn thái đã chứng minh mọi người tha
phương cầu thực đều nhớ đến nơi chôn nhau cắt
rốn nên chiếc áo dài và nón lá cũng có thể là biểu
tượng của người Huế theo ý nghĩ này. Nhưng có
người bảo dân trí người Dalat xưa lúc đó đã khá
cao, họ hiểu rõ là tuy đang sống trên đất Việt
nhưng là trong lòng địch và là thủ đô của Pháp
trên Đông Dương, nên không dám có hành vi
chống đối và cảm thấy đau lòng khi nhớ cố hương.
Chắc hẵn có vị tri thức nào đó âm thầm gợi ý là
chúng ta bươn chải suốt ngày trên mọi nẻo đường
trong thành phố đầu đội trời chân đạp đất toàn
thân ấp ủ trái tim cho nóng để giữ tinh thần bất
khuất của tổ tiên. Họ dùng chợ làm địa bàn, kín
đáo khuyên đàn bà con gái dùng trang phục đó để
cùng nhau âm thầm khuyến khích và tạo ý chí
tưởng nhớ Triều Đình Huế. Hai tấm hình kế bên
đã phần nào nêu lên tinh thần thương cội nhớ
nguồn kín đáo, sâu sắc, an toàn, và cao cả của toàn
dân Dalat xưa và qua mặt người Pháp thật dễ
dàng. Thật đáng ngưỡng mộ.
Chợ cũ Dalat
Trong phần cuối của giai đoạn trưởng
thành của phong cách người Dalat xưa (1927-45)
ta đã thấy người tiền phương sống với tinh thần
lương thiện, và nay lại thêm tinh thần nhớ cội
nguồn. Cả hai đều tốt nhưng tinh thần lương thiện
khó duy trì và phát triển trừ phi Dalat sẽ thành một
trung tâm nghĩ dưỡng có tầm vóc quốc tế mà tôi sẽ
trình bày trong đoạn sau. Về tinh thần nhớ cội
nguồn mới đọc qua ta thấy không có gì lạ nhưng
nó thật đặc biệt chỉ có riêng tại Dalat: một tinh
thần nhớ nguồn đậm đặc. Đậm vì toàn dân Dalat
xưa đều dùng một biểu tượng nón lá và áo dài, đặc
vì được thể hiện một cách cô đọng trong một thời
gian ngắn (1927-45) để xây dựng thành phố.
Áo dài và nón lá Huế rất thịnh hành tại Dalat từ 1930
Đa Lạc hay Nhà Làng nằm bên khu Việt,
Tân Lạc- Xuân An bên khu Pháp là hai khu người
Việt tập trung đầu tiên. Đa Lạc là hợp pháp với địa
hình thuận tiện, với dân chúng đủ thành phần nên
phát triển mau lẹ. Do đó đã mất tính cách cổ kính.
Tân Lạc–Xuân An đã là bất hợp pháp lại có địa
hình hiểm trở với cái vườn trồng rau Dalat đầu
tiên như là di tích lịch sử của nền kinh tế quan
trọng và toàn dân lao động nghèo nhà cửa nhỏ
nhoi tồi tàn nên phát triển chậm do đó còn giữ
được nét cổ kính. Khi đi du lịch thấy mọi quốc gia
đều bảo vệ và biến các khu phố cổ thành những
trung tâm du lịch ngay giữa thành phố và chúng ta
cũng có những khu phố cổ Hà Nội và Hội An nên
tôi nghĩ rằng Xuân An -Tân Lạc hội đủ điều kiện
thành trung tâm du lịch cổ nội thị của Dalat. Để
khu vực này có thể tự túc tôi đề nghị lồng vườn
ông Hiến vào khu đất lân cận với địa thế không
kém hiểm trở để lập một vườn thực vật (jardin bo-
Dalat & Người Xưa Trang 74
tanique) vì loại vườn này thích ứng với mọi địa
thế. Một quy hoạch tân cổ giao duyên hài hòa da
dụng ngay cửa ngỏ vào thành phố.
Gánh hàng rong trong xóm nghèo
Tôi sinh ra tại khu Nhà Thiếc nơi ba tôi đã
gieo những hạt giống rau Dalat đầu tiên. Sau cơn
đau thương hàn tưởng chết khi học chưa xong lớp
ba tại trường Hồng Lam, ba tôi gởi tôi học tại Nha
Trang rồi Phan Thiết. Năm 1945 trở về Dalat giữa
năm lớp nhì nhị niên khi Nhật đảo chánh. Mấy
tháng sau đi tản cư và năm sau vĩnh viễn xa ba mẹ
và anh chị em.Tôi chỉ sống tại Tân Lạc 10 năm và
tìm hiểu ba tôi (thần tượng) qua lời kể lại của bà
con, qua quang cảnh, sinh hoạt và sự kính nể tuyệt
đối của cộng đồng người Nghệ An đối với ông.
Nói tuyệt đối vì lần duy nhất chỉ thị của ông
không được bà con tuân thủ là khi ông bảo họ
xuống hầm tiêu múc phân lên tại khu Nhà Thiếc.
Ông đã thong thả leo xuống và múc lên. Mẹ tôi
phản đối việc dùng phân này để trồng rau và sau
này nhóm bà con đã hối hận về sự bất kính này.
Tôi biết Dalat qua hình bóng và sự nghiệp của ba
tôi phảng phất khắp mọi nơi trong thành phố.
Trong thời gian đi học xa nhà ba tôi luôn khuyên
bảo là ấu bất học lão hà vi và trực tiếp chỉ dẫn nền
khoa học của Pháp trong hai chuyến đi Saigon.
Sau khi tốt nghiệp đại học tồi tìm tòi và sao lục
được các bản chứng khoán về tài sản địa ốc với
các niên kỷ tôi mới tập hợp được tiểu sử và tinh
thần làm việc của ông. Tôi nghĩ ba tôi đã khai thị
và Dalat đã khai trí cho tôi nên tôi thương ba tôi
bao nhiêu thì quý Dalat bấy nhiêu. Tạp ghi này đã
hút hồn tôi nên mới có sự thiết tha này.
Thư viện và bảo tàng viện Hoa kỳ đầy ắp
tài liệu tân cổ nhưng họ vẫn khuyến khích dân da
màu ghi chép lại những phong tục văn hóa của
quốc gia gốc của họ. Noi gương đó tôi ghi lại một
số người Dalat của hai thế hệ 1 và 2 như khởi
xướng phong trào tìm lại các sinh hoạt người Da-
lat xưa và mong mõi được nhiều người trong thế
hệ thứ 2 hưởng ứng hầu lưu giữ được phần nào
nếp sống của cha ông ta và để con cháu hiểu nỗi
gian lao của họ. Với kỹ thuật truyền thông hạn hẹp
của mười năm trước ta không thể làm việc này
được. Chờ năm ba năm nữa ta khó làm hơn vì
nhân chứng ngày càng giảm. Đối với quý vị đang
tuổi hưu thời điểm này là thích hợp nhất, trước là
để góp tay vào công việc phục hồi lại lịch sử Da-
lat, sau là để có niềm vui trong cuối đời và tránh
được bệnh lú lẫn.
Người xưa đã xây dựng thành phố bằng tay
chân với gian lao khổ nhọc dưới nắng mưa. Ngày
nay ta ngồi trong nhà tìm lại các sinh hoạt và tinh
thần của họ bằng trí tuệ với truyền thông một cách
nhẹ nhàng. Vài chục năm nữa khi tìm hiểu nơi cha
ông đã lập nghiệp mà chẳng tìm được gì con cháu
ta sẽ ngỡ ngàng thất vọng biết bao khi chưa tròn
100 năm. Xin hãy cùng nhau chung sức tìm tài
liệu nguồn gốc lịch sử người Việt Dalat nếu không
sẽ mất luôn. Trước hết mong rằng tạp ghi này
được mọi người nhất là các cơ quan truyền thông
dành chút từ tâm cho phổ biến rộng rãi để được
Dalat & Người Xưa Trang 75
nhiều người biết. Bản tạp ghi này hẵn còn thiếu
sót xin nhờ các bậc lão thành, các văn thi nhạc sĩ
bổ túc và tùy sở trường dùng lời thơ tiếng nhạc
khuyến khích mọi người hưởng ứng. Không cần
phải văn hay, không cần phải truy tìm mà chỉ cần
viết lại hay ghi âm trung thực những gì mình biết,
mình nhớ về ngành nghề của cha ông mình hay
bạn bè hàng xóm của họ. Với máy chụp hình số
hãy chụp những dụng cụ, thiết bị, những căn nhà
đặc biệt v…v... và xin gởi vào mạng lưới sưu tầm
tài liệu sinh hoạt của người tiền Dalat xưa do thế
hệ thứ ba thiết lập hoặc trong khi chờ đợi cứ gởi
cho tôi theo [email protected]. Mọi
nguồn tin đều hữu dụng không phân biệt của
người giàu nghèo, dài ngắn, nghề nghiệp v..v… vì
xã hội gồm nhiều thứ, vì mỗi ngành nghề mỗi sinh
hoạt có nhiều sắc thái khác nhau. Khởi đầu quý vị
chưa nhớ gì nhiều nhưng khi đã bắt đầu nhiều điều
tự nhiên đến. Hay hơn nữa là sinh hoạt từng nhóm
vì khi nghe bạn mình kể một chuyện ta liền nhớ
đến chuyện khác. Vạn sự khởi đầu nan như cụ
Nguyễn bá Học đã nói“ đường đi không khó vì
ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi
e sông“. Hy vọng chúng ta nối được vòng tay
nhiệt tình này để lưu truyền lại mai sau một di sản
quý giá.
c) Sự đóng góp của thế hệ tinh thần
Nhờ thông thạo kỹ thuật truyền thông quý
vị sẽ tạo dựng những mạng lưới thâu thập nguồn
tin, tuyển chọn, sắp xếp theo từng hạng mục,
ngành nghề v…v.. để có một tài liệu dồi dào về
các nếp sinh hoạt của người Dalat thuở sơ khai.
Điều mà tôi không dám múa rìu qua mắt thợ. Vì
công việc của hai thế hệ nhân chứng và tinh thần
liên hoàn ảnh hưởng với nhau và thế hệ thứ hai đa
số kém khả năng về truyền thông nên xin mọi
người xem thế hệ tinh thần như thành phần chỉ
đạo.
Thành quả ra sao chưa biết, tinh thần làm
việc của người Dalat thuở xưa chưa được xác
định, nhưng nội sự tương thân quan hoài của thành
phần hoạt động giữa hai thế hệ, sự bắt tay vào việc
một cách sốt sắng, sự tổ chức công việc một cách
khoa học cũng đã phản ảnh phần nào tinh thần làm
việc của cha ông ta rồi. Vì mục đích cao quý trong
công việc tìm tinh thần làm việc của cha ông
chúng ta, tôi thành khẩn xin lỗi các gia đình mà tôi
đã nêu danh tánh trên tha lỗi cho để tài liệu có
thêm linh khí và chân thực hơn.
CHUYỆN BÊN LỀ
a) Trung tâm nghỉ dưỡng
Toàn Quyền P. Doumer yêu cầu BS Yersin
tìm địa điểm làm trung tâm nghỉ dưỡng cho Đông
Dương hội đủ các điều sau: độ cao thích hợp, diện
tích đủ rộng, nước sinh hoạt dồi dào, khí hậu ôn
hòa và giao thông thuận lợi. Hình như chánh
quyền Dalat có ý định nhờ Pháp lập bản đồ quy
hoạch để chỉnh trang Dalat thành một trung tâm
nghỉ dưỡng và một khu du lịch. Dalat là một bình
nguyên với núi cao rộng còn đầy vẻ thiên nhiên,
khí hậu quanh năm mát mẻ trong lành, phong cảnh
hữu tình thơ mộng, đầu nguồn các sông suối,
không có các khu kỹ nghệ nên không sợ ô nhiễm
môi trường, gần nhiều bãi biển đẹp, nhiều khu du
lịch dã ngoạn, gần Saigon với đầy đủ tiện nghi về
giao thông, văn hóa, nghệ thuật, giải trí và là tâm
điểm của bờ đại dương vùng Viễn Đông. Khó có
nơi nào hội tụ được những ưu điểm này cho một
trung tâm nghĩ dưỡng. Không phải bây giờ mà
ngay từ lâu ông Munier đã viết trong tạp chí Indo-
chine “….Dalat có thể trở thành một nơi nghỉ mát
lý tưởng ở Viễn Đông mà không nơi nào so sánh
được.“ Y khoa ngày nay chú trọng nhiều qua thư
giản mà môi trường thiên nhiên Dalat có nhiều ưu
thế, mà tiền tài không tạo dựng được. Trong một
khu bệnh viện cao ốc, dưới đất cây cỏ bướm hoa
muông thú đem lại tinh thần thoải mái, trên lầu
những đám mây to nhỏ khi lướt khi bay xuyên
rừng thông ngút ngàn gợi ý là bệnh nặng nhẹ rồi
cũng sẽ tan hoặc biến. Với nguồn dược thảo phong
phú Dalat thuận lợi với xu hướng y học Đông Tây
hòa hợp.
Các đại doanh nhân thế giới đều xác định
điều quan trọng nhất để thành công trên thương
trường không phải là có nhân tài hay vốn lớn mà
Dalat & Người Xưa Trang 76
là địa điểm tốt. Có địa điểm tốt sẽ có hai thứ kia.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay khi ta có
chương trình và kế hoạch từng giai đoạn rõ ràng,
biết khai thác ưu thế của địa điểm tốt giới kinh
doanh thế giới sẽ đầu tư vào, nhân tài về y tế sẽ
tuôn về, các bệnh viện đủ mọi ngành sẽ mọc lên
và bệnh nhân thuộc hàng tỷ phú, vương giả danh
cao chức trọng sẽ đến nhờ điều trị như tại bệnh
viện Mayo ở Minnesota. Giới bệnh nhân này đến
chữa bệnh đem theo gia đình đến du lịch, mua sắm
hàng cao cấp làm cho thương trường phát triển
mạnh. Một trung tâm tĩnh dưỡng lớn, không chỉ có
những bệnh viện lớn mà cả trường đại học, cao
đẳng chuyên khoa về y tế. Dân Dalat, ngoài trình
độ học vấn cao, sẽ chuyên về ngành chính là y tế _
ngành cứu nhân độ thế, giải trừ khổ đau, phục
hồi niềm vui và hạnh phúc cho bệnh nhân _ và
ngành phụ là phục vụ cho du lịch và thương mãi.
Qua bao thế hệ được đào tạo từ ấu thơ, được tiếp
cận môi trường _ quên mình sẵn sàng cống hiến
tình thương để tạo niềm vui cho người khác _ toàn
dân Dalat thành một đội ngũ hiền nhân thấm
nhuần tinh thần đạo đức. Phong thái người Dalat
xưa sẽ được phục hồi. Người Dalat sẽ là thương
hiệu quảng cáo để họ không chỉ phục vụ cho Dalat
mà cho toàn quốc.
Nhiều quốc gia Âu Mỹ, kể cả Việt Nam có
những biểu tượng (logo) cho những bang, vùng,
thành phố như Hà nội là đất ngàn năm văn vật,
Saigon là Hòn ngọc Viễn Đông v…v… Dalat đã
có nhiều tên như “thành phố ngàn thông”, “thành
phố ngàn hoa”, “thành phố du lịch” v…v.. nhưng
chưa có tên nào xứng đáng là biểu tượng vì chưa
diễn tả hết các đặc tính và Dalat cũng chưa xác
định được trọng tâm của tương lai. Trọng tâm của
nghĩ dưỡng là sức khỏe, an vui, thanh tịnh, nhàn
hạ, thoải mái, hạnh phúc. Nếu ta đạt được những
điều này Dalat có thể là một thiên đường hạ giới
nhưng nếu ta không đạt được thì là một sự mĩa
mai nhục nhã. Tôi nghĩ cái tên “thành phố trong
rừng thông” bình dị khiêm cung, mà bao trùm trọn
vẹn mọi đặc trưng của nguồn gốc, và tương lai.
Tên này nhắc nhở đến nguồn gốc rừng bao la
nguyên thủy; sự quy hoạch nhà trong vườn, vườn
trong thành phố, thành phố trong rừng và rừng
trong thành phố của buổi sơ khai thời Pháp thuộc;
luôn luôn phù hợp với mọi giai đoạn phát triển và
nhất là tạo sự tò mò cho người chưa đến và sự
ngưỡng mộ của kẻ đã qua. Ta cũng có thể hiểu cây
thông với vỏ xù xì biểu tượng cho bàn tay chai đá
của cảnh làm ăn cực khổ; với thân vươn cao thẳng
đứng biểu tượng cho lương thiện, quang minh
chính đại; với rừng trống thoáng biểu tượng cho
tâm hồn hiền lương, cho tinh thần nương tựa lẫn
nhau. Những biểu tượng này chuyên chở được
tinh thần của những người đã bỏ mình xây dựng
Dalat.
b) Trạm nông nghiệp của Pháp
Tài liệu của Pháp cho biết vào năm 1910 Dalat có
khoảng 8 căn nhà gỗ làm công sở và 9 phòng
khách sạn và thành quả quá tốt đẹp của trạm nông
nghiệp trong thời gian thí nghiệm. Do đó tôi nghĩ
rằng trạm nông nghiệp của Pháp tại Dankia (1898)
và tại Dalat (1908) không tồn tại được là vì lúc đó
không có người tiêu thụ thịt, sữa tươi và cả rau
nhất là khi đó người Pháp vừa ít người vừa thích
săn bắn thú rừng. Trạm buộc phải giảm số lượng
súc vật kéo theo thiếu phân để trồng rau loại từ
Pháp: một ngành cần nhiều phân. Điều mà trước
đây chúng ta không nhận ra từ đầu vì quá chú tâm
vào các báo cáo thành quả mà quên bối cảnh
đương thời.
c) Vài khu dân cư ngoại thành
Ấp Tân Lạc
Theo cuốn địa chí năm 2008 đình ấp Tân
Lạc được thành lập năm 1920 cùng lúc với đình
ấp Nhà Làng tức Đa Lạc qua các cuộc khảo sát
thực địa. Hiểu địa thế ấp Tân Lạc tôi ghi thêm các
điều sau mong làm sáng tỏ thêm sự hình thành ấp
này. Ấp Tân Lạc, ngang lưng đồi Ngọc Hoàng, có
thể là tụ điểm của các nhân công làm cho đồn điền
Grillet vì ngoài đồn điền Grillet không có nơi nào
kế cận cần nhân công và lưng đồi này có hai mạch
nước khá mạnh. Tại lưng đồi phía Bắc có một
thung lũng nhỏ cạn nhưng lại có một mạch nước
đủ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày và sau này
Dalat & Người Xưa Trang 77
cung cấp nước tưới rau cho vườn ông Phan Diện
tức Cửu Tư. Khu nhà ông Xã Giàu có thể là tụ
điểm đầu tiên khi ông Grillet khai phá đồn điền
trồng cây quinkina. Hiện còn dấu tích: các băng
đất hẹp và nhà gần QL20 (lúc bấy giờ chưa có).
Ấp Tân Lạc phát triển dần về hướng Tây Nam khi
ông Grillet mở nhà hàng ăn và đắp hồ nơi mạch
nước thứ hai phía Nam.
Nhạc phụ tôi đã làm bồi tại nhà hàng ăn
này mấy tháng trước khi mở trường tư thục Hồng
Lam. Ông kể rằng chỉ từ việc chuẩn bị vật dụng
đến cách thức rót sữa cho khách mà phải học mấy
tháng. Điều này nói lên sự sang trọng quý phái của
nhà hàng. Hồ này được ghi trên bản đồ du lịch
Dalat tỷ lệ 1/14000 và được dân trong ấp nới rộng
và tăng cường thêm sau khi dân số tăng. Đa số dân
Tân Lạc là người Quảng, một số người Hà Tĩnh
làm cho nhà hàng ăn và người Nghệ an làm vườn.
Ấp nhỏ hẻo lánh đa số dân chúng thất học. Trước
1945 chỉ có bốn người có học: ông Nguyễn thái
Thiềng thơ ký hành chánh, ông Học Lan ghi chép
giúp ba tôi nghiên cứu việc lai giống bông và rau, ,
ông Năm Sách thơ ký tiệm Pointsard et Veyret và
ông Thuần, giáo viên tiểu học.
Muốn đi qua Xuân An người Tân Lạc băng
qua suối nhỏ dưới vườn ông Hiến ( chưa có vườn)
qua đồi trường Adran và men theo rừng thông qua
Xuân An. Đó cũng là đường gia đình tôi gánh sú
ra Kho Bạc để xe ngựa ông Nguyễn danh Duy chở
xuống ga. Khi trường Adran thành lập dân trong
ấp phải thực hiện con đường đất mới, tiền thân của
đường Hà huy Tập. Cái cầu duy nhất vào Tân lạc
có tên cầu Cu Iu, tên ông Trần đức Iu, người có
một vườn nhỏ sát cầu.
1 Chợ Hoa bình,2 chợ mới,3 nhà thờ Tin Lành,4 Couvent des Oiseaux, 5 Petit Lycée,6 ấp Ánh Sáng,
7 trường Đoàn thị Điểm, 8 đường Hai bà Trưng 9 nhà đèn, 10 bến giặt,11 đường Lò Gạch
Dalat & Người Xưa Trang 78
Trại Mát
Trại Mát, nằm trên QL11 và đường xe lửa
Trại Mát cách Dalat khoảng 9km, cách đó không
xa là điểm có một đoạn đường xe lửa răng cưa
cuối cùng. Xuất xứ của tên Trại Mát là do doanh
trại khai thác đá của ông Gross. Trại là khu chợ
hiện hữu, nằm giữa hầm đá và ghềnh đá của con
suối,
vừa an toàn và tiện lợi. Vì các chuyến xe lửa
ngừng tại dépôt Trại Mát ( xe lửa chỉ ngừng để lấy
hàng lên), nên ba tôi hướng dẫn nhóm bà con thân
thuộc lập vườn tại đây vào năm 1934 với vườn
người em là Nguyễn thái Thanh gần dépôt với
đập dự trữ nước nay là đường vào Thánh Thất Cao
Đài, và vườn những người khác dưới chân đồi
Thánh Thất với nguồn nước dẫn trực tiếp từ ghềnh
đá. Sau đó những người Huế và Quảng mới tiếp
tục khai phá vườn dưới chân đồi đối diện Thánh
Thất.
Cầu Đất
Cầu Đất, tên dân gian gọi một ngoại ô lớn và
xưa nhất của Dalat, nay là làng Trường Xuân,
cách Dalat khoảng 24 cây số. Làng này đuợc các
ông Đinh văn Sung tức Đội Sung, Tô thế Lộc,
Trương Tấn Đức tức ông Nghè Trấp, kế toán
trưởng Sở Trà xin thành lập và được công nhận
năm 1929. Sở trà Cầu Đất (1922) do ông Lorto-
lary, mà dân chúng gọi ông Lọt, quản lý. Người
Pháp tại Sở Trà cho làm một sân rộng bằng phẳng
phía bên kia đường rầy để mỗi sáng. nhân công
sắp hàng nhận công việc. Vì dân chúng sống rải
rác thành từng xóm nhỏ Pháp cho tập trung lại
xung quanh bãi đất này. Để sự lưu thông được an
toàn Sở trà cho xây một cầu bằng gạch đá nhưng
sơ sài bắc ngang đường x liền khu nhà ông Lọt và
khu tập trung dân này nay là trường Tiểu học. Do
đó có tên Cầu Đất. Chùa Viên Giác tại Cầu Đất
thời sơ khai chưa có tăng đoàn do ông Đoàn bá
Quế, nhân viên sở trà, e lửa nối có hàm Cửu phẩm,
chăm lo việc chùa với chức danh Chánh đại diện
vì vậy gia đình Phật tử được gọi là gia đình Phật
hóa phổ do một số cư sĩ dạy kinh kệ. Tuy xa xôi
và ít người nhưng chùa có một nếp sinh hoạt trang
nghiêm quy cũ được giới Phật tử chùa Linh sơn nể
phục trong các kỳ thi kinh. Trong cuộc thi kinh
các thí sinh thuộc gia đình Phật tử phải thực hiện
từ đầu chí cuối tiến trình lễ nghi từ cung cách quỳ
lạy đến âm điệu của mỗi đoạn kinh kệ. Tuy chùa ở
chốn đèo heo hút gió, nhưng đã là nơi có thời
Thiền sư Nhất Hạnh đã tu tập. Khoảng năm 1953
Thiền sư về chùa Linh Quang vừa tu tập vừa dạy
Việt văn tại trường Trung học Tuệ Quang, nằm
sau lưng chùa do Thầy Thích Thiện Tâm, bào
huynh của Thiền sư, làm hiệu trưởng. Đúng là
chùa đất Phật vàng. Chương trình làng Bát Nhã ở
Lâm Đồng tuy không đạt ước nguyện nhưng cũng
nói lên tinh thần uống nước nhớ nguồn của Thiền
sư.
CẢM TƯỞNG
Tài liệu tham khảo của người Việt về Dalat
rất ít mà ghi chép lại theo khẩu truyền hay tam sao
thất bản không tránh khỏi những lỗi lầm. Tôi đang
sống xa quê hương, ở tuổi 80, kiến thức tạp nhạp
vì học trường Pháp với văn hóa lịch sử của họ, tự
tìm hiểu văn hóa lịch sử Việt qua sách vở rồi lại
phải tìm hiểu văn hóa Mỹ để làm lại cuộc đời nên
có thể xem sự hiểu biết của tôi là của người cởi
ngựa xem hoa lai căng giữa thủ cựu cố chấp của
văn hóa Trung Việt, và cởi mở, thiên về nguồn
gốc của Âu Mỹ. Tôi đã cố nhớ, hỏi những người
quen biết và cũng chỉ ghi lại được một số sinh
hoạt của một vài nhóm người. Không phải là nhà
văn, thiếu tài liệu, tìm giải pháp qua suy luận dù
đã cố gắng khách quan và trung thực nhưng vẫn
luộm thuộm thiếu sót nên tôi xem đây chỉ là một
tạp ghi. Muốn khách quan và trung thực cũng
không phải dễ. Trở ngại khá lớn là với quan niệm
tốt khoe xấu che nhiều gia đình không muốn cung
cấp chi tiết và có nhiều trường hợp tôi biết khá rõ
cũng không dám nêu ra. Làm sao biết đúng sai khi
nhân sinh quan mỗi người một khác, khi xã hội
luôn luôn thay đổi, và chưa biết xã hội của thế giới
sẽ ra sao.
Dalat & Người Xưa Trang 79
Khi thu thập dữ kiện tôi đã có những bối
rối và sung sướng. Những người cung cấp nguồn
tin thường cho biết là họ không biết gì nhiều hay
dữ kiện đó không quan trọng. Họ không hiểu rằng
mọi dữ kiện đều có giá trị riêng của nó nhất là khi
có niên kỷ rõ ràng, có tình tiết hấp dẫn. Rất nhiều
điều đã được ghi vào tài liệu, được dùng để kiểm
chứng, để nối kết kể cả những dữ kiện rời rạc
được dùng để hư cấu thành một sinh hoạt vui tươi
linh hoạt.
Cảm tưởng riêng
Lúc đầu tôi không ngờ là Dalat đã cho tôi
nhiều bất ngờ, cảm hứng và thúc đẩy tôi đào sâu
thêm để giúp cho các thế hệ sau biết thêm Dalat.
Rồi quả đất tròn đã đưa tôi gặp lại người quen và
chưa quen cùng trang lứa với lời khuyến khích
cùng nhau bồi đắp lại phong thái tiền nhân, và tìm
cách tạo dựng tinh thần người Dalat. Tôi mạnh
dạn ghi những chi tiết về gia đình mình như tiên
phong để có thêm dữ liệu tạo dựng tinh thần người
Dalat dễ dàng và khả tín hơn. Ở bầu thì tròn ở ống
thì dài, mỗi gia đình một hoàn cảnh, gian nan hay
may mắn giàu nghèo đều có những tình tiết nên
được gia đình thổ lộ để nguồn gốc thành phố được
trọn vẹn hơn.
Ấp Xuân an nằm ngay sau lưng khách sạn lớn thứ nhì này
Muốn kiểm chứng suy luận của tôi với tinh
thần người Úc xưa tôi nhờ người bạn tại Úc tìm
tòi và anh ấy ghi: “những tù nhân của Anh quốc,
đã chịu khổ trăm chiều, đoàn kết tương trợ nhau
để lập quốc. Tinh thần tương thân tương ái vẫn
còn thể hiện trong những nhóm di dân xứ lạ mới
đến Úc lập nghiệp”.
Trời không phụ kẻ thiện tâm nhờ đó tôi lại
được hai tài liệu vô cùng quý giá mà người nữ chủ
nhân nghĩ là chẳng có giá trị gì. Tôi đã có những
giây phút vui mừng rung động cả người chờ chị ấy
từ bếp ra phòng khách để cho thêm chi tiết khi
người chồng cho biết bố chị ấy là “cụ Đỗ ngọc
Thiệp, một lão thành trường Cao đẳng Công
Chánh Hà Nội được chuyển vào Dalat năm 1925”.
Sao mà không mừng được vì chị cho biết có ba
người Việt trong ngành xây cất cùng vào phục vụ
Dalat vào thời điểm bắt đầu phát triển mạnh mà
các nhà thầu đương thời đều là Pháp. Tiếc thay
mấy năm sau cụ Thiệp đã được thuyên chuyển về
Vinh khi chị vừa tròn một tuổi. Người con Dalat-
một-tuổi này đã cùng chồng về tìm lại di tích nơi
“chôn nhau cắt rốn” của mình nhưng cảnh cũ
người xưa đâu còn nữa, nhưng khí hậu và phong
cảnh Dalat vẫn là nơi nghỉ dưỡng của hai người.
Đời đạo song tu
Quê nhà cách trở đẫm tình thương,
Đất khách bâng khuâng nhớ Phật đường,
Tụng niệm tâm thành kinh lắng kệ,
Mõ chuông trầm bỗng khói mờ hương.
Đường đời yên tĩnh vui an lạc,
Nẻo dạo thư nhàn, chẳng vấn vương
Gặp bước khó khăn lòng chẳng nản
Vững tâm về dạo, sẽ thành chương
Bà Nguyễn hữu Tuân
Một tấm gương uống nước nhớ nguồn và
đạo tràng của tu tập.
Những người di dân vào Dalat đa số đều
thuộc thành phần nghèo nay tôi được biết một đại
phú gia đương thời mà ai ai cũng nghe danh. Ông
Bá Hộ Nguyễn ngọc Chúc, người làng An Hóa,
Bến Tre ra Nha Trang kinh doanh trước khi lên
Dalat, khoảng 1925. Ông là chủ nhân một số
khách sạn và nhà hàng ăn phục vụ du khách Pháp,
dọc theo đường Cunhac (Bà Triệu), nên dân chúng
lấy tên ông đặt cho cầu. Ông Cunhac là Thị
Trưởng Dalat (1916-1920). Khách sạn tuy nhỏ
Dalat & Người Xưa Trang 80
nhưng đầy đủ tiện nghi, phục vụ tốt. Tôi nghe kể
các lao công nữ phải nấu nước nóng đổ vào bồn
tắm cho khách dùng hằng ngày. Sau 1945 khách
Pháp hồi cư ông phải bán dần các cơ sở này. Ông
có người con trai Nguyễn ngọc Út kỹ sư điện. Da-
lat có 3 cầu chính: cầu Ông Đạo, Bá Hộ Chúc và
Nhà Đèn. Cả ba cầu cũ không đáp ứng được nhu
cầu giao thông mới nên đều được thay thế bằng
cầu mới
Cầu Bá Hộ Chúc mới xây lại (hình chụp 2010)
Tôi cũng được biết đại khái Pháp có 2 luật điền
thổ.
1) luật tân chế độ 1925 áp dụng cho những vùng
thuộc miền Nam đã được Pháp đo đạc với
diện tích rõ ràng, nên gọi đơn giản là đối vật.
2) luật để đương áp dụng cho Dalat làm sổ cho
tất cả mọi buôn bán có đăng ký nhưng không
niêm yết nên không chính thức. Luật này là
luật 17/59 có sổ ký thác đặc biệt qua một sổ
tạm để cấp cho sở hữu chủ nên gọi là đối
nhân.
Cảm tưởng đối với người Pháp.
Qua hình các thắng cảnh đẹp trên mạng và
nhất là trong các chuyến du lịch Âu Châu thấy cái
đẹp vùng Gruyère tôi hiểu rõ hơn chủ trương
thành phố trong rừng, rừng trong thành phố của
các kiến trúc sư Pháp tôi mừng là quê tôi có cái
diễm phúc tuyệt vời mà thiên nhiên đã ban cho.
Qua ảnh hưởng của nghề nghiệp tôi hâm mộ các
công trình họ thực hiện cho Dalat nhất là đường xe
lửa, nếu không có họ ta sẽ không có Dalat như bây
giờ. Nói chung, Pháp đã
bóc lột ta nhưng ta cần ghi
ơn họ. Họ đã để lại một
thành phố Dalat với một hạ
tầng cơ sở vững chắc huy
hoàng, đầy đủ các phương
tiện và phác họa một tương
lai sáng lạng. Tôi thật sự
ngưỡng mộ tầm nhìn xa
của họ khi quy hoạch và
ban hành những luật lệ
khắt khe về xây cất trên các
đồi mà thế hệ cha anh ta đã cực lực phản đối. Khi
tìm tài liệu viết bài này thấy tấm hình các trò chơi
- rất thịnh hành của thời tiểu học - mà cứ tưởng là
của tổ tiên ta để lại, hóa ra là người Pháp đã nhập
cảng vào, và hiểu rõ hơn cái dã tâm vẫn còn muốn
chiếm cứ Việt Nam lâu dài của Tổng Thống Pháp
Vincent Auriol, sau khi tái chiếm Việt Nam, sự
ngưỡng mộ trên đã suy giảm phần nào.
Gruyère, Thụy sĩ, một làng thời trung cổ (1191) nông
dân đã canh tác và vẫn giữ được nét đẹp thiên nhiên,
nay là một trung tâm du lịch cảnh miền quê
Cảm tưởng đối với người Việt.
Ngưỡng mộ người Pháp nhưng lại rất buồn
khi chánh quyền ta chỉ nghĩ đến bảo tồn các dinh
thự và biệt thự của Pháp mà bỏ quên những khu
nhà cửa nghèo nàn nhỏ nhoi của những người Việt
thuở khai rừng lập phố. Nếu không có những hình
xưa ta không làm sao hình dung được Dalat thuở
sơ khai. Tôi sợ rằng sau này con cháu ta _ không
thấy chút dấu tích gì của người Việt _ sẽ có cảm
giác là chính người Pháp đã khai sinh và xây dựng
Dalat & Người Xưa Trang 81
thành phố này. Biết là nhà nước còn nhiều khó
khăn, năm 2008 tôi có đề nghị chỉ xin quy hoạch
một phần đất các ấp Xuân An và Tân Lạc để lưu
giữ những di tích còn sót lại chờ khi thuận tiện sẽ
biến cải khu nghèo nàn Xuân An thành một khu
du lịch cổ và lồng cái vườn trồng rau đầu tiên tại
Tân lạc vào trong vườn thực vật mới. Dalat đang
phát triển thiếu gì đất mà phải dành khu đất có di
tích cổ duy nhất nội thành với địa thế hiểm trở để
làm khu gia cư vì lợi nhuận cấp thời mà quên cái
giá trị cao bội phần của cổ kính.
Với kỹ thuật ngày nay giá trị các di tích cổ
ngày càng tăng, trong khi các công trình hiện đại
sẽ lỗi thời rất sớm. Trong thế kỷ vừa qua nhiều
thành phố trên thế giới đua nhau cất những nhà
hàng quay vòng trên các tháp cao để thực khách
vừa ăn vừa thưởng ngoạn phong cảnh. Nay tại
Dubai đã có một cao ốc mà tất cả mọi căn phòng
từ dưới lên trên đều quay vòng. Tôi vững tin rằng
sau này khi các đồi Ngọc Hoàng và đồi núi đá kế
bên được chỉnh trang với các kiến trúc hiện đại,
đứng trên cao nhìn xuống dưới hố sâu thấy một sự
tân cổ giao duyên hài hòa của lịch sử phát triển
Dalat mà lòng vui sướng vô cùng...
Ôn cố tri tân. Xét qua sự phát triển của
ngành trồng rau Dalat tôi nghĩ với kiến thức sơ
đẳng của ông Hiến về nông nghiệp và phương tiện
giao thông vào thập niên 1930, ông cho lập vườn
Trại Mát Đất Làng dọc theo đường xe lửa để tiện
việc chở rau vào Saigon là đúng. Nhưng đến đầu
thập niên 1950 các phương tiện mới đã thay đổi
toàn bộ ngành trồng rau. Các vườn cũ thành lỗi
thời và mô hình ấp Đa Thiện được áp dụng tại mọi
nơi, và mãi đến thập niên 1960 ta mới bắt đầu thấy
hậu quả của môi trường. Sau 1975 chính sách phá
rừng và xây cất bừa bãi đã để lại những hậu quả
nặng nề. Đúng rồi sai, khó biết trước. Sơ lược điều
này để tránh vết xe cũ.
Dalat có những đặc tính của khu tĩnh
dưỡng và du lịch mà không nơi nào có ở Đông
Nam Á như đường hàng hải đối với Tân Gia Ba.
Xin đừng vì những lợi nhuận nhỏ của hiện tại mà
quy hoạch không đúng mức để phá mất ưu điểm
thiên phú này. Dalat là vùng đồi núi nên sự quy
hoạch khác hẳn các thành phố miền đồng bằng:
cần đặc biệt lưu ý chiều cao của kiến trúc. Cùng
một chiều cao nhưng ảnh hưởng của vị trí khác
hẳn khi đặt trên đỉnh đồi, triền đồi trước hoặc triền
đồi sau.
Chúng ta tiếc là đã sai lầm khi phá bỏ
đương sắt lên Dalat nhưng khi biết đường xe lửa
răng cưa Trạm Bò -Trại Mát, nằm sát ngay phần
đường xe lửa hiện đang còn họat động để phục vụ
du khách, tôi nghĩ là ta nên phục hồi lại _ chỉ một
đoạn ngắn tượng trưng _ đường xe lửa có răng cưa
nói trên để giữ lại một di tích đặc biệt có sức
quyến rũ du khách và giữ lại thêm một phần đất
nghĩa địa để nhớ công lao của những bậc tiên
phong.
Xe Citroen của Pháp khá thịnh hành. Bên kia đường là tiệm
Đức Xương Long
Nhớ lại khi đứng trên đồi chùa Vạn Hạnh,
nơi dốc đá Đa Thiện nhìn quang cảnh các vườn
trồng rau ấp Đa Thiện cảm thấy buồn vui lẫn lộn
về hậu quả về môi trường và đóng góp vào lãnh
vực kinh tế cho Dalat trong bao năm chiến tranh.
Ngày nay ta biết nhiều về môi trường nhưng nếu
tôi không lầm thì ngay cả các nước Âu Mỹ cũng
chỉ lưu tâm đến môi trường khi nhận thấy những
trận mưa a xít vào khoảng giữa thập niên 1960.
Với tâm tư bị hút hồn bởi sự quy hoạch
Dalat của các KTS Pháp và tổng hợp các điều mới
thu thập qua sử liệu, tôi muốn ghi lại rõ ràng
nguồn gốc sâu xa của nguyên nhân _ kể cả thời
Dalat & Người Xưa Trang 82
gian và địa điểm _ đã phá nát cái đẹp mà thiên
nhiên đã dành cho các hồ Xuân Hương, Than Thở,
Vạn Kiếp nói riêng và cho Dalat nói chung. Chính
cái ngành trồng rau nền kinh tế mũi nhọn mà dân
Đà thành đã công nhận nông suy bách nghệ bại là
nguyên nhân chính. Cái ngành mà ông Nguyễn
thái Hiến, thân phụ tôi, khai sanh ra năm 1928 tại
ấp Tân Lạc và ông Trần đình Ôn, nhạc phụ tôi,
phát động việc sử dụng máy bơm nước để tưới rau
vào năm 1948 tại ấp Nghệ Tĩnh và oái oăm thay,
nay lại chính tôi lại truy cứu ra điều tai hại này.
Vừa mới hiểu, thấy, và mừng về diễm phúc trời
cho Dalat thì lại thấy ngay chính gia đình mình tạo
ra cái họa này ruột gan tôi co thắt lại.
Hồ Xuân Hương và hồ Đội Có xanh biếc truớc 1945 khi
chưa có ấp Đa Thiện
Đã từng chiêm ngưỡng các màu xanh ngọc
thạch, đậm lợt, trong trẻo của các hồ ngoại quốc,
nay lại thấy màu xanh _ trong hình
_ của hai hồ
Than Thở và Xuân Hương xưa, tôi đã lặng ngồi
ngắm nó hàng giờ trên màn hình với bao nỗi buồn
tiếc thương.
Mặc dầu tôi nghĩ là các điều nói trên là tiến
trình phát triển của nhân loại nhưng một nỗi buồn
man mác cứ ám ảnh mãi tâm trí tôi. Sau bao đêm
trằn trọc, ít ngủ, rồi bình tâm suy luận, tôi nghĩ các
điều sau đây mới thật sự là nguyên nhân:
1) Kiến thức dân ta chỉ có thế, và hoàn cảnh nước
ta lúc đó ta phải làm như vậy thôi.
2) Trồng rau thuộc loại thâm canh, cần nhiều
nước nhiều phân, đòi hỏi diện tích trồng phải
bằng phẳng,
3) Tự phát để sống theo bản năng sinh tồn qua
cuộc nội chiến.
Theo khoa học đó là quy luật tiến hóa của
nhân loại và theo Phật giáo là trùng trùng duyên
khởi, không ai ngăn cản nổi. Dalat sẽ được chỉnh
trang với chiều hướng dời các vườn rau trong lưu
vực suối Cam Ly ra ngoại ô để các hồ trong thành
phố sẽ được trong xanh lại và duyên dáng như
xưa.
Ở đời trong cái rủi có sẵn cái may. Hai ấp
Xuân An và Tân Lạc vì địa thế nghiệt ngã mà
không phát triển được nên còn giữ được nét cổ
kính. Cũng như tôi, tuy đã có gian khổ vì địa thế
Tân Lạc nhưng đã nhờ những tương trợ, những lời
an ủi, khuyến khích đầy chân tình mà thành người
hữu ích và nhờ được ra hải ngoại tâm tư và kiến
thức có phần khoảng khoát hơn. Càng hiểu thêm
Dalat tôi cảm thấy có trách nhiệm phải nêu lên
những kham khổ đau thương, sức sống mãnh liệt
và tinh thần hướng thượng của tiền nhân hầu đền
đáp những ân tình xưa và nhớ ơn những vong linh
tiên phong.
KẾT LUẬN
Vì có nợ với Dalat nên tôi lại gặp tại Mỹ
một gia đình có chiếc rương thiếc, biểu tượng của
“nẫu ” tha phương vào Dalat lập nghiệp khoảng từ
Dalat & Người Xưa Trang 83
1954-1965. Điều này nói lên người Dalat xưa đói
rách bần hàn tha phương cầu thực vẫn không quên
nguồn gốc. Người Dalat nay giàu sang phú quý
nhưng không nhớ tổ tiên. Ghi lại hình cái rương để
mong những ai đó nhớ lại công đức cha ông
những người mà hằng năm vẫn còn được cúng
giỗ.
Buồn, giận đời. Nhưng cái nhân sinh quan
của Alfred de Vigny trong La mort du loup (cái
chết của con chó sói) của thời trung học,
Gémir, pleurer, prier c’est également lâche
Fais énergiquement ta longue et lourde tâche
Dans la voie où le Sort a voulu t’appeler
Puis après, comme moi,
souffre et meurs sans parler
Tạm dịch:
Than, khóc, cầu xin, đều hèn nhát,
Theo Định mệnh, hãy can đảm hoàn tất.
Cái sứ mạng nặng nề được giao phó,
Rồi như ta, đau khổ dẫu chết chẳng hé môi.
đã giúp tôi lạc quan trở lại và tin tưởng là những
chuyên gia Pháp sẽ đề nghị bảo tồn khu vực cổ
của người Việt xưa và xây dựng một Dalat vẻ đẹp
thiên nhiên trời cho riêng.
Để sau này ta không hối tiếc sự mất mát to
lớn của các di tích cổ nêu trên, tôi mong những
hậu duệ của các bậc tiền phong Dalat cố gắng ghi
hoặc thâu âm lại những gì còn nhớ về cha ông
mình và chuyển cho tôi.Tôi sẽ lập một hồ sơ tập
hợp các nguồn tin này và chuyển cho giới hữu
trách sử dụng sau này. Mong các hội đồng hương
Dalat tại các nơi kết hợp thành một hệ thống thu
thập triển khai nguồn tin.
Mong tất cả các bậc trưởng thượng, các
thân hào nhân sĩ và mọi người Việt trong và ngoài
nước cùng lên tiếng ủng hộ đề nghị bảo tồn và tìm
thêm nguồn tin về tinh thần người Dalat xưa này,
và chuyển bài viết này đến các mạng, các cơ quan
truyền thông quen biết để được phổ biến rộng rãi
hơn.
Nhân đây tôi chân thành cám ơn cô Phan
thị Ngọc Minh, người đã nói “Cháu hiểu tâm
nguyện của chú. Cháu cố gắng nhưng không bảo
đảm” đã giúp tôi trong suốt một năm để xin duyệt
y cuốn Ông Nguyễn thái Hiến và ngành trồng rau
Dalat từ 1928 đến 1958 vì không nơi nào nhận in.
Nhờ đó mà nguồn gốc ngành này được sáng tỏ và
có tạp ghi này.
Một tấm hình gồm rất nhiều loại xe:
xe đạp, xe vélo solex, xe gắn máy,xe ngựa,
2 quân xa xe jeep và GMC
Rất cảm kích những góp ý xây dựng của
quý vị. Khi dùng điện thư liên lạc xin vui lòng
dùng hai chữ “Dalat xưa” trong đề mục (subject)
để tôi dễ nhận khi gặp tên người gởi lạ Tiêu cực,
tích cực, không hiểu hết ngọn nguồn khó xét đoán,
ta cần mở rộng tâm lượng nhìn đời với lòng cởi
mở viên dung để nhớ ơn tất cả những người Pháp,
người Việt tiền phương và người bản địa đã xây
dựng Dalat. Bản tạp ghi này được kết thúc với
những gì tôi đã cố gắng thâu thập và phối kiểm
được phần nào vì những vị cho tin đều có thiện
tâm với Dalat nhưng không thể biết rõ mọi chi tiết.
Mong được độc giả thông cảm.
Vì khuôn khổ bài viết có giới hạn những ai
muốn xem thêm nhiều hình cũ xưa của Dalat xin
vào
http://vnafmamn.com/dalat_lostshangrila.html
North Carolina, tháng 6 năm 2011
Nguyễn thái Hai
100 Lodgin Ct.
Morrisville, NC, 27560, USA
(919) 462 9768
Dalat & Người Xưa Trang 84
Rừng thông Dalat
Hồ Xuân Hương thay đổi gần đây (8/2010)
VH là bảng hiệu tiệm kem một thời nỗi tiếng ỏ Dalat
Mùa Hoa Anh Đào Dalat.
Đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước, mạnh nhất
Châu Âu hiện nay, đã một thời phun những cột
khói đen cao ngút trên bầu trời Dalat để chuyên
chở dân Dalat trên tuyến đường cheo leo này đang
xuống đèo Bellevue lần cuối để trở về Thụy Sĩ cố
quốc nó. Khi vào những hầm đá tối tăm, bao oan
hồn, trong hình dáng đàn đôm đốm vàng chói,
vun vút bay ngược lại như không muốn xa thành
phố thân thương mà họ từng xây dựng .
Tôi muốn dùng hình ảnh đầu máy xe lửa này như
lời chia tay quê tôi: Dalat thân thương