42
* Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đu tư VẤN ĐỀ LIÊN KẾT VÙNG VÀ CÁC ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nhiều năm trở lại đây, phát triển vùng và liên kết vùng để phát triển luôn là một trong những chủ đề thu hút sự quan tâm của không chỉ các nhà nghiên cứu về phương diện học thuật, mà còn là nhu cầu thực tế trong công tác quản lý của các cấp, các ngành; trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; và thậm chí trong cuộc sống thường nhật của người dân. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về sự cần thiết, vai trò, cách thức, nội dung… của liên kết vùng vì sự phát triển. Các nghiên cứu này được nghiên cứu phục vụ các mục tiêu cụ thể khác nhau với cách tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Bài viết này xuất phát từ tình hình thực tế và tập trung trình bày về một số vấn đề liên quan đến phát triển vùng và liên kết vùng/địa phương để phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội trong giai đoạn sắp tới. 1. Khái niệm vùng, liên kết vùng a) Vùng/lãnh thổ Trong chính sách phát triển kinh tế, vùng/lãnh thổ là một trong những khái niệm gây nhiều tranh cãi, nhất là khi liên quan đến một lĩnh vực cụ thể nào đó. Lý do chủ yếu của tình hình này là các lĩnh vực khác nhau đều có những cách tiếp cận, những tiêu chí đôi khi khác nhau khi đánh giá các mặt mạnh, mặt hạn chế để hoạch định phương cách phát triển. Vì vậy, vùng - lãnh thổ để phát triển công nghiệp hay nông nghiệp, thủy sản hay cây lương thực, kết cấu hạ tầng hay du lịch... có thể được nhìn nhận không giống nhau trên mỗi không gian địa lý nhất định. Hơn nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, ranh giới “vùng” của sự phát triển càng trở nên lỏng lẻo với các phạm vi không gian rộng, hẹp rất khác nhau. Ngay trong phạm vi quốc gia, sự việc cũng trở nên phức tạp hơn khi các vùng, lãnh thổ được xem xét ở khía cạnh không gian kinh tế lại không phải bao giờ cũng trùng với ranh giới hành chính; trong khi việc quản lý sự phát triển lại do những cơ quan hành chính chịu trách nhiệm. Vì vậy, thông thường, đối với công tác quản lý phát triển, khái niệm vùng, lãnh thổ kinh tế luôn gắn với các đơn vị hành chính và mang tính quy ước. Ở Việt Nam, trong các văn bản chính thức hiện hành, có các loại vùng như sau: - Vùng kinh tế - xã hội: Là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có các hoạt động kinh tế - xã hội tương đối độc lập, thực hiện sự phân công lao động xã hội của cả nước. Đây PGS,TS. Bùi Tất Thắng* LIÊN KẾT VỚI CÁC VÙNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 59 Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

LIÊN KẾT VỚI CÁC VÙNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG TRONG PHÁT TRIỂN …amc.edu.vn/images/baiviet/2018/03/Tap-chi-Xay-dung-Do-Thi-So-55-PHAN 2.pdf · - Các lãnh thổ đặc biệt,

  • Upload
    others

  • View
    6

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

* Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đâu tư

VẤN ĐỀ LIÊN KẾT VÙNG VÀ CÁC ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nhiều năm trở lại đây, phát triển vùng và liên kết vùng

để phát triển luôn là một trong những chủ đề thu hút sự

quan tâm của không chỉ các nhà nghiên cứu về phương

diện học thuật, mà còn là nhu cầu thực tế trong công tác

quản lý của các cấp, các ngành; trong hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp; và thậm chí trong cuộc sống

thường nhật của người dân. Đã có rất nhiều các công

trình nghiên cứu về sự cần thiết, vai trò, cách thức, nội

dung… của liên kết vùng vì sự phát triển. Các nghiên cứu

này được nghiên cứu phục vụ các mục tiêu cụ thể khác

nhau với cách tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Bài viết

này xuất phát từ tình hình thực tế và tập trung trình bày

về một số vấn đề liên quan đến phát triển vùng và liên kết

vùng/địa phương để phát triển kinh tế - xã hội của thành

phố Hà Nội trong giai đoạn sắp tới.

1. Khái niệm vùng, liên kết vùnga) Vùng/lãnh thổTrong chính sách phát triển kinh tế, vùng/lãnh thổ là

một trong những khái niệm gây nhiều tranh cãi, nhất là

khi liên quan đến một lĩnh vực cụ thể nào đó. Lý do chủ

yếu của tình hình này là các lĩnh vực khác nhau đều có

những cách tiếp cận, những tiêu chí đôi khi khác nhau

khi đánh giá các mặt mạnh, mặt hạn chế để hoạch định

phương cách phát triển. Vì vậy, vùng - lãnh thổ để phát

triển công nghiệp hay nông nghiệp, thủy sản hay cây

lương thực, kết cấu hạ tầng hay du lịch... có thể được nhìn

nhận không giống nhau trên mỗi không gian địa lý nhất

định. Hơn nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập

kinh tế quốc tế, ranh giới “vùng” của sự phát triển càng

trở nên lỏng lẻo với các phạm vi không gian rộng, hẹp rất

khác nhau. Ngay trong phạm vi quốc gia, sự việc cũng trở

nên phức tạp hơn khi các vùng, lãnh thổ được xem xét ở

khía cạnh không gian kinh tế lại không phải bao giờ cũng

trùng với ranh giới hành chính; trong khi việc quản lý sự

phát triển lại do những cơ quan hành chính chịu trách

nhiệm. Vì vậy, thông thường, đối với công tác quản lý

phát triển, khái niệm vùng, lãnh thổ kinh tế luôn gắn với

các đơn vị hành chính và mang tính quy ước.

Ở Việt Nam, trong các văn bản chính thức hiện hành,

có các loại vùng như sau:

- Vùng kinh tế - xã hội: Là một bộ phận của lãnh thổ

quốc gia, gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương có các hoạt động kinh tế - xã hội tương đối độc lập,

thực hiện sự phân công lao động xã hội của cả nước. Đây

PGS,TS. Bùi Tất Thắng*

LIÊN KẾT VỚI CÁC VÙNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG TRONGPHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

59Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

là loại vùng phục vụ việc hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển kinh

tế - xã hội theo lãnh thổ cũng như để quản lý các quá trình phát triển kinh tế

- xã hội trên mỗi vùng của đất nước. (Nghị định số 92/2006/NĐ-CP của Chính

phủ ngày 07 tháng 9 năm 2006 Về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế - xã hội; Điều 3. Khoản 6). Theo cách phân chia này, hiện nay,

ở Việt Nam có 6 vùng, gồm: Vùng núi và Trung du Bắc Bộ, Vùng Đồng bằng

Sông Hồng, vùng Duyên Hải miền Trung, Vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng

bằng sông Cửu Long.

- Các lãnh thổ đặc biệt, bao gồm: Vùng kinh tế trọng điểm; khu kinh tế, khu

kinh tế quốc phòng, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ của cả

nước; hành lang kinh tế, vành đai kinh tế. (Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày

11 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị

định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về lập, phê

duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội).

+ Vùng kinh tế trọng điểm: Là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, hội tụ

các điều kiện và yếu tố phát triển thuận lợi, có tiềm lực kinh tế lớn, giữ vai trò

động lực, đầu tàu thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước. (Nghị định số

92/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 9 năm 2006 Về lập, phê duyệt và

quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; Điều 3. Khoản 7). Hiện nay,

ở Việt Nam có 4 vùng kinh tế trọng điểm, gồm: Vùng kinh tế trọng điểm phía

Bắc, Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,

và Vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long.

+ Khu kinh tế, khu kinh tế quốc phòng, khu công nghiệp, khu chế xuất,

khu công nghệ: Tính đến nay (8/2015), cả nước đã xây dựng và có quyết định

thành lập 295 khu công nghiệp và khu chế xuất với tổng diện tích đất tự

nhiên hơn 84 nghìn ha, trong đó có 212 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động;

6 khu kinh tế cửa khẩu; 15 khu kinh tế ven biển. Các KCN được phân bổ ở

hầu khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước, tập trung chủ yếu ở 3 vùng kinh

tế trọng điểm. Trong đó, vùng kinh tế

trọng điểm phía Nam tập trung nhiều

KCN nhất với gần 50% tổng số KCN

trên cả nước; vùng kinh tế trọng điểm

phía Bắc chiếm khoảng 20% tổng số

KCN trên cả nước; và vùng kinh tế

trọng điểm miền Trung chiếm xấp xỉ

10% tổng số KCN trên cả nước.

Cả nước hiện có 15 khu kinh tế

ven biển đã được thành lập gồm: 2

khu ở vùng Đồng bằng sông Hồng;

10 khu ở vùng Duyên hải miền Trung

và 3 khu ở vùng đồng bằng sông Cửu

Long, với tổng diện tích mặt đất và

mặt nước là hơn 662.000 ha.

Các khu công nghệ gồm: Khu

Công nghệ cao Hoà Lạc (Hà Nội), Khu

công nghệ cao Sài Gòn (Thành phố

Hồ Chí Minh) và Khu công nghệ cao

Đà Nẵng (Thành phố Đà Nẵng).

+ Hành lang kinh tế, vành đai

kinh tế: Các hành lang kinh tế hiện

đang xây dựng và hoạt động gồm:

Hành lang Kinh tế Đông - Tây (East-

West Economic Corridor - EWEC) là

một sáng kiến được nêu ra vào năm

1998 tại Hội nghị Bộ trưởng Tiểu vùng

Sông Mekong Mở rộng lần thứ tám tổ

chức tại Manila (Philippines) nhằm

thúc đẩy phát triển và hội nhập kinh

tế giữa bốn nước Lào, Myanma, Thái

Lan và Việt Nam. Hành lang này chính

thức thông tuyến vào ngày 20 tháng

12 năm 2006. Hành lang kinh tế Côn

Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng

- Quảng Ninh và hành lang kinh tế

Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải

Phòng - Quảng Ninh (cùng với vành

đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ - gọi tắt là hai

hành lang, một vành đai) được hình

thành trong khuôn khổ hợp tác kinh

tế Việt Nam - Trung Quốc. Bên cạnh

đó, sách báo kinh tế còn nói tới một

số hành lang kinh khác như hành

lang đường 18, đường 51, v.v....

60 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

+ Ngoài ra, còn các các loại hình vùng đặc biệt nhưng

“lỏng” hơn như vùng núi; vùng đồng bằng; vùng trung du;

vùng biển, ven biển và hải đảo; vùng biên giới; vùng sâu

vùng xa; vùng khó khăn; vùng đô thị; vùng nông thôn;

vùng Thủ đô Hà Nội, vùng Thành phố Hồ Chí Minh,…

Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước còn hình

thành Ban chỉ đạo của 3 vùng mới: Tây Bắc, Tây Nguyên

và Tây Nam Bộ.

- Vùng/lãnh thổ theo cấp quản lý hành chính: Lãnh thổ

cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) và lãnh

thổ cấp huyện (huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh)

và cấp xã/phường/thị trấn.

Trong hệ thống các vùng kể trên, chỉ có các vùng/lãnh

thổ theo cấp quản lý hành chính (tỉnh/thành phố, huyện/

thị xã và xã/phường/thị trấn là có cấp quản lý theo chính

quyền; các khu kinh tế, khu công nghiệp là có ban quản

lý; các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ có Ban chỉ

đạo; và các vùng kinh tế trọng điểm có Ban điều phối. Các

vùng khác không xác định các cơ quan quản lý rõ ràng.

b) Liên kết vùng/địa phươngMỗi một vùng/địa phương (bất kể quy mô và hình

thức như thế nào) đều có một số đặc điểm chung, nổi trội

so với các vùng/địa phương khác. Sự khác biệt giữa các

vùng/địa phương tự nó cũng hàm nghĩa là mỗi vùng/địa

phương đều có những thế mạnh (và thế yếu) đặc thù, tạo

ra những lợi thế tuyệt đối và tương đối nhất định trong

sự phân công lao động xã hội. Liên kết vùng/địa phương

không chỉ bù đắp những khoảng trống, thiếu hụt nguồn

lực giữa các vùng/địa phương, mà còn gia tăng tính lợi

ích nhờ hiệu quả kinh tế theo quy mô. Vì thế, một cách tự

nhiên, để phát triển sản xuất, đặc biệt là trong kinh tế thị

trường, các vùng/địa phương tất yếu có nhu cầu liên kết

(cả nội vùng lẫn liên vùng).

Do việc quản lý vùng/địa phương có các chủ thể nhất

định, nên việc liên kết vùng/địa phương có thể được thúc

đẩy hay kìm hãm bởi các chính sách rất cụ thể. Bởi vậy,

những nghiên cứu về liên kết vùng/địa phương còn chỉ ra

những điều kiện của liên kết vùng/địa phương một cách

hiệu quả, bền vững; trong đó phải kể đến:

- Sự tương đồng về thể chế và sự đồng thuận của các

nhóm xã hội cùng chia sẻ lợi ích chung, trong đó có lợi

ích phát triển riêng của mỗi vùng/địa phương.

- Sự đồng bộ về khuôn khổ thể chế, sự nhất quán về

cơ chế chính sách và sự thông thoáng trong cung cách

quản trị của các vùng/địa phương, nhất là về các mặt: (i)

sự công khai, minh bạch trong các chính sách, thông tin

và hoạt động của bộ máy công quyền; (ii) đảm bảo các

quyền về tài sản (cả hữu hình và vô hình); và (iii) đảm bảo

duy trì chế độ hợp đồng.

- Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ và

hiện đại.

2. Hiện trạng liên kết vùng/địa phương ở Việt NamTrong bối cảnh chuyển sang kinh tế thị trường, nền

kinh tế Việt Nam cũng có đầy đủ các kiểu liên kết vùng-

lãnh thổ, bao gồm:

- Các hình thức liên kết tự nhiên của quá trình phát

triển, trong đó nổi bật nhất là kiểu liên kết mang tính lan

tỏa, lôi kéo giữa trung tâm và ngoại vi, đô thị và nông

thôn. Dạng liên kết này diễn ra một cách tự nhiên, khách

quan trong quá trình phát triển, trước hết là từ các trung

tâm, các đô thị với các ngành kinh tế đặc thù là công

nghiệp chế biến và các ngành dịch vụ. Chủ thể chính của

loại hình liên kết này là các doanh nghiệp, các đơn vị sự

nghiệp và các gia đình, cá nhân. Đây là loại liên kết giữa

các chủ thể đóng trên địa bàn của các vùng khác nhau với

nhau (liên kết theo chiều ngang) và mang nặng tính thị

trường, gồm các giao dịch mua bán, các loại hợp đồng, cổ

phần công ty…

- Liên kết theo quan hệ phân cấp chính quyền giữa

Trung ương và địa phương (liên kết dọc, giữa cơ quan

quản lý vùng lớn với vùng nhỏ), nên mang nặng tính

mệnh lệnh hành chính (bắt buộc) và chủ thể chính là các

cấp quản lý theo thứ bậc trên - dưới. Loại liên kết này chủ

yếu bao gồm các lĩnh vực liên kết trong xử lý các vấn đề

mang tính liên ngành: Xây dựng quy hoạch phát triển

ngành và vùng ở từng địa phương; xây dựng và thực thi

chính sách thu hút và phân bổ đầu tư; xây dựng và phát

triển các sản phẩm chủ yếu; xây dựng hệ thống cơ sở

hạ tầng vùng, như đường sá, cảng biển, sân bay; cơ sở

hạ tầng thông tin liên lạc; bệnh viện, trường học, trung

tâm nghiên cứu; xây dựng các khu, cụm công nghiệp,

khu chế xuất, khu công nghệ cao; vùng sản xuất nông

nghiệp; trung tâm thương mại, du lịch và dịch vụ; phát

triển nguồn nhân lực và đào tạo; xây dựng và thực thi các

chính sách xóa đói giảm nghèo; các chính sách liên quan

đến di cư và di chuyển lao động và nhà ở; giải quyết các

vấn đề xã hội; bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên

thiên nhiên; bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi

khí khậu, phòng trách và khắc phục các thảm họa thiên

tai; v.v….

61Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

- Liên kết giữa các vùng/địa phương với nhau, chủ yếu

do các cơ quan quản lý cấp địa phương với nhau (liên kết

theo chiều ngang) và mang tính hành chính tự nguyện.

Loại hình liên kết này mới được quan tâm nhiều hơn

trong những năm gần đây. Về lý thuyết, các lĩnh vực cần

thiết phải phối hợp hành động cũng giống như trong liên

kết dọc giữa các cơ quan quản lý theo phân cấp (trung

ương - địa phương) nêu trên, chỉ khác là cách thức tiến

hành thì diễn ra theo chiều ngang (giữa các địa phương

với nhau) và chủ yếu mang tính tự nguyện.

Vì nhiều lý do về thể chế, cho tới nay, các liên kết vùng theo chiều dọc (Trung ương và địa phương) vẫn là loại liên kết chủ yếu, thậm chí trong một số trường hợp còn lấn át các loại liên kết ngang. Tính vùng trong quan hệ liên kết dọc chưa được tính đến một cách thỏa đáng. Bằng chứng rõ ràng là việc chạy đua quyết liệt trong việc xây dựng những dự án các loại trên địa bàn các tỉnh mà từ lâu, cả trên các phương tiện thông tin đại chung lẫn các diễn đàn chính thức, chung được xem như những “phong trào”, những “hội chứng” về nhà máy rượu bia, xi măng, thủy điện, cảng biển, sân bay, khai thác khoáng sản, khu đô thị, v.v...; tạo thành nhiều “nền kinh tế” trong một nền kinh tế quốc gia. Xu hướng này gây ra một số vấn đề nổi cộm trong nền kinh tế hiện nay.

Một là, tình trạng thiếu thống nhất về những thông

tin kinh tế cơ bản, khiến cho việc tìm hiểu môi trường

kinh doanh trở nên khó khăn, thậm chí gia tăng chi phí

tìm hiểu và gia nhập thị trường. Đây là vấn đề tồn đọng

từ lâu và vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng, khiến cho

sức cạnh tranh của môi trường kinh doanh chậm được

được cải thiện.

Hai là, cuộc chạy đua xây dựng các công trình kết

cấu hạ tầng (bến cảng, sân bay…), khu đô thị, khu công

nghiệp và một số loại sản phẩm với cơ cấu kinh tế na ná

như nhau giữa các tỉnh, khiến cho trong một số lĩnh vực,

không sử dụng hết công suất, xuất hiện tình trạng dư

cung, dẫn đến lãng phí nguồn lực.

Ba là, xuất hiện tình trạng tranh chấp tài nguyên (tranh

giành) và xử lý ô nhiễm môi trường (đùn đẩy). Không hiếm

ví dụ những cơ sở sản xuất hoặc khu công nghiệp ở tỉnh này

gây ô nhiễm môi trường, làm thiệt hại kinh tế (và sức khỏe

con người) cho chính họ và cho những tỉnh khác (nhất là ô

nhiễm nguồn nước), nhưng chưa có cơ chế xử lý thỏa đáng.

Bốn là, gần đây xuất hiện hiện tượng các tỉnh thành

gia tăng hoạt động xúc tiến đầu tư một cách riêng rẽ, tuy

thể hiện được tinh thần năng động, tích cực; nhưng ở góc

độ của các nhà đầu tư thì lại thấy một đối tác thiếu tính tổ

chức và thống nhất về đường hướng, chính sách và thông

tin. Hậu quả là đôi khi lợi bất cập hại.

Năm là, sự phối hợp giữa các địa phương còn mang

tính hình thức, thiếu cơ chế liên kết và thực hiện các cam

kết phối hợp một cách hiệu quả. Các thỏa thuận hợp tác,

liên kết giữa các địa phương nhiều khi còn chưa có sự

phối hợp thực chất, chưa xuất phát từ yêu cầu thực tế

khách quan. Nội dung liên kết còn chung chung, chưa rõ

ưu tiên, chưa tạo ra lợi ích thiết thực, động lực cho tất

cả các bên tham gia liên kết, chưa lôi kéo được khu vực

doanh nghiệp tham gia liên kết mà chủ yếu là các cấp

chính quyền địa phương. Khi xây dựng quy hoạch, việc

đóng góp ý kiến của các địa phương khác trong vùng vẫn

còn mang tính hình thức, chưa xác định rõ nội dung, cách

thức liên kết, phối hợp trong phát triển.

Các cơ chế phối hợp hiện nay chủ yếu mang tính

tự nguyện, không có sự ràng buộc trách nhiệm, chế tài

chặt chẽ. Thực tế, đã có một số địa phương mặc dù đã

có những cam kết nhưng vì lợi ích cục bộ của mình đã

không tham gia tích cực vào việc liên kết vùng (thí dụ

trong kết nối các tuyến giao thông, xây dựng các khu xử

lý chất thải nguy hại...).

Thực ra, các quy định mang tính pháp lý về liên kết,

phối hợp cả chiều dọc lẫn chiều ngang trên một số lĩnh

vực quản lý vĩ mô đã được nhà nước ban hành. Hầu như

trong các văn bản pháp lý, phần nói về giải pháp và/hoặc

tổ chức thực hiện, đều có đề cập đến vấn đề phối hợp

giữa các ngành, các địa phương. Đặc biệt, riêng trong lĩnh

vực liên kết, phối hợp vùng, Thủ tướng Chính phủ đã ban

hành Quyết định số 159/2007/QĐ-TTg về Quy chế phối

hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế

trọng điểm. Theo Quyết định này, các Bộ, tỉnh/thành phố

thuộc vùng kinh tế trọng điểm sẽ phải tham gia, phối hợp

trong quá trình xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm; quy hoạch tổng

thể phát triển KTXH của các địa phương trong vùng; quy

hoạch phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, quy hoạch

ngành, quy hoạch sản phẩm chủ yếu; huy động vốn đầu

tư phát triển và đầu tư phát triển; phát triển đào tạo và

sử dụng lao động; rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành

thực hiện cơ chế, chính sách tài chính, đầu tư; thiết lập hệ

62 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

thống thông tin và cung cấp thông tin vùng…Việc phối

hợp tốt các vấn đề này sẽ tránh được sự chồng chéo, trùng

lắp trong phát triển giữa các địa phương trong vùng.

Ngoài ra, Ban chỉ đạo các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên,

Tây Nam Bộ đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương

đã tổ chức nghiên cứu và tiến hành trên thực tế các hoạt

động liên kết vùng. Trong khuôn khổ các vùng đô thị như

vùng Thủ đô Hà Nội, vùng Thành phố Hồ Chí Minh, cũng

có Ban Chỉ đạo quy hoạch và đầu tư xây dựng vùng, thực

hiện công tác hoạt động điều phối, liên kết vùng có nhiều

sáng kiến liên kết, hợp tác của các địa phương.

Những mặt tồn tại, hạn chế nêu trên do các nguyên

nhân chủ yếu:

- Chức năng, nhiệm vụ của các địa phương không tạo

động lực cho sự liên kết vùng

- Các địa phương vì nhiệm vụ về tăng trưởng và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu ngân sách... nên cạnh

tranh với nhau trong thu hút đầu tư, xây dựng các khu,

cụm công nghiệp... Nhiều địa phương vẫn muốn duy trì

cơ cấu sản xuất toàn diện và khép kín. Chính sách của các

địa phương vẫn còn nặng tính phong trào.

- Tổ chức, hoạt động của các Ban Chỉ đạo chưa tạo điều

kiện thuận lợi cho việc liên kết, điều phối phát triển vùng

Chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Tây

Bắc, Tây Nam Bộ hiện nay chưa tạo điều kiện thuận lợi cho

công tác liên kết vùng để phát triển kinh tế - xã hội. Chưa

xác định cụ thể nội dung, phương pháp phối hợp giữa

Ban với các địa phương trên địa bàn và với các Bộ, ngành.

Hiệu lực của công tác điều phối tại các vùng KTTĐ

chưa cao, do Ban Chỉ đạo, Văn phòng điều phối hoạt

động phi hành chính. Các tổ chức điều phối không nắm

nguồn lực, không có quyền quyết định đầu tư phát triển,

chỉ có trách nhiệm tư vấn, do đó tiếng nói của tổ chức

điều phối còn hạn chế. Tổ điều phối các Bộ, ngành và các

địa phương tham gia còn hình thức (do không có cán bộ

chuyên trách, nhưng chủ yếu nhận thức chưa đúng mức).

Các cán bộ tham gia tổ điều phối đều kiêm nhiệm nên

thời gian tham gia ít, trách nhiệm hạn hẹp.

- Nội dung lập, phê duyệt và quản lý các quy hoạch còn

bất cập

Trong nội dung của quy hoạch phát triển ngành, sản

phẩm đã yêu cầu luận chứng các phương án phát triển và

khuyến nghị phương án phân bố sản xuất trên các vùng và

các tỉnh, tuy nhiên trong một số quyết định phê duyệt quy

hoạch không chỉ rõ phương án phân bố sản xuất trên các

tỉnh, là địa bàn có cơ quan hành chính nhà nước quản lý.

Phương pháp luận về quy hoạch, quản lý quy hoạch

phát triển sản phẩm trong điều kiện kinh tế thị trường

chưa rõ.

Quy hoạch vùng chưa chỉ rõ các nhiệm vụ của các địa

phương dựa trên lợi thế của mình.

Công tác tổ chức lập, thẩm định các quy hoạch phát

triển ngành, quy hoạch cấp vùng/tỉnh và cơ chế quản lý

quy hoạch, phối hợp chỉ đạo thực hiện quy hoạch, việc

điều hành tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai

quy hoạch... còn nhiều bất cập, cần được nghiên cứu, có

giải pháp khắc phục.

(Kỳ sau: Liên kết vùng/địa phương trong phát triển kinh

tế - xã hội ở Thủ đô Hà Nội)

Tài liệu tham khảo1) Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm

2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy

hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.

2) Báo cáo đánh giá nhu cầu đào tạo lồng ghép phát

triển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế

hoạch của Dự án “Tăng cường năng lực lồng ghép phát

triển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế

hoạch”.

3) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng

và địa phương; quy hoạch phát triển một số ngành, lĩnh

vực, sản phẩm.

4) TS. Nguyễn Văn Huân Viện Kinh tế Việt Nam: Liên kết

vùng từ lý luận đến thực tiễn

5) TS. Hồ Kỳ Minh và Ths. Lê Minh Duy Nhất (Viện

Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - xã hội Đà Nẵng): Liên kết

vùng từ lý luận đến thực tiễn

63Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

*Viện Kinh tế Xây dựng, Bộ Xây dựng

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG KHU ĐÔ THỊ MỚI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Trên thực tế việc quản lý đầu tư xây dựng khu đô thị mới (KĐTM) thời gian qua còn lỏng lẻo, vì vậy rất cần hoàn thiện các quy định cho phù hợp, tránh tình trạng một số địa phương quá chú trọng đến thu hút đầu tư mà không để ý đến quy trình cấp phép dẫn đến nhiều dự án nhà ở trong KĐTM không lập theo quy định, gây ra khó khăn cho người dân trong việc chứng nhận quyền sở hữu nhà và các quyền cư trú hợp pháp khác. Hay việc quản lý trong quá trình đầu tư xây dựng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng để các chủ đầu tư chỉ tập trung vào việc tăng diện tích kinh doanh mà không quan tâm đến xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các hộ dân trong KĐTM.

Việc phân cấp quản lý đầu tư xây dựngĐối với việc phân cấp quản lý đầu tư xây dựng dự án

KĐTM, theo quy định hiện hành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định đầu tư, cấp giấy phép đầu tư và quản lý thực hiện các dự án đầu tư xây dựng KĐTM trong phạm vi địa giới hành chính của tỉnh. Thủ tướng chỉ phê duyệt chủ trương đầu tư và cho phép đầu tư đối với các dự án KĐTM có diện tích từ 200ha trở lên. Dự án KĐTM

có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện theo quyết định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, một số địa phương chưa thực hiện đúng các quy định về cho phép đầu tư dự án KĐTM, không kiểm tra kỹ các điều kiện của dự án, các chủ đầu tư cố tình lách luật để việc phê duyệt giao cho địa phương, các địa phương thì dễ dãi nhằm thu hút đầu tư. Cơ chế quản lý sử dụng đất của dự án còn lỏng lẻo cùng với đó việc quản lý thực hiện theo quy hoạch xây dựng còn kém hiệu quả, hiện tượng lấn chiếm, xây dựng, trồng trọt trái phép đã gây khó khó khăn cho công tác giao đất, giải phóng mặt bằng (GPMB) khiến việc triển khai thực hiện dự án tiến triển chậm và chi phí đền bù GPMB tăng vọt gây lãng phí đất đai và bức xúc đối với xã hội.

Mặt khác, việc phân cấp quản lý các dự án KĐTM cũng phát sinh những vấn đề cần được xem xét, điều chỉnh, để khắc phục tình trạng khống chế các dự án KĐTM quy mô nhỏ hơn 200ha để địa phương được tự quyết định, không phải xin phép Thủ tướng Chính phủ, dẫn đến thực tế thiếu sự quản lý, kiểm soát của Chính phủ đối với quá trình chuẩn bị và triển khai thực hiện dự án KĐTM.

Thủ tục đầu tư xây dựng nhà ở trong KĐTM theo quy định của pháp luật về nhà ở nói chung và Nghị định 02/2006/NĐ-CP nói riêng còn có sự khác nhau. Theo pháp

64 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

Ths. Nguyên Hông Phú*

QUẢN LÝ ĐẦU TƯ, KHAI THÁC DỰ ÁN KHU ĐÔ THỊ MỚI

ĐỀ XUẤT

MỘT SỐ

GIẢI PHÁP

luật về nhà ở, trước khi đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án (không phân biệt quy mô diện tích đất) thì chủ đầu tư phải lập dự án nhà ở để trình UBND cấp tỉnh hoặc UBND cấp huyện hoặc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (đối với dự án sử dụng vốn ngân sách) hoặc trình UBND cấp huyện, UBND cấp tỉnh hoặc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (đối với dự án sử dụng vốn ngoài ngân sách). Nhưng theo Quy chế KĐTM ban hành kèm theo Nghị định 02/2006/NĐ-CP thì chủ đầu tư dự án KĐTM (không phân biệt nguồn vốn đầu tư) chỉ cần lập dự án KĐTM (trong đó có cả nhà ở) để trình UBND cấp tỉnh cho phép đầu tư mà không phải lập thêm dự án nhà ở theo pháp luật về nhà ở, trong trường hợp dự án KĐTM có quy mô sử dụng đất từ 200ha trở lên thì phải trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận. Thực tế cho thấy, có nhiều trường hợp chủ đầu tư cấp I thực hiện đầu tư xây dựng các khu nhà ở hoặc công trình nhà ở cao tầng trong KĐTM để bán cho người dân nhưng do không lập dự án nhà ở riêng biệt nên đã dẫn đến hiện tượng là có địa phương không cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cho người mua nhà vì không có dự án nhà ở được lập theo quy định của pháp luật về nhà ở.

Quản lý xây dựng và chất lượng xây dựng công trìnhViệc quản lý xây dựng và chất lượng xây dựng công

trình được thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng. Việc quản lý đầu tư xây dựng đối với từng dự án KĐTM được thực hiện riêng theo điều lệ quản lý thực hiện dự án KĐTM đó. Trong đó, chủ đầu tư cấp I là đầu mối, có quyền hạn và trách nhiệm quản lý việc xây dựng, chất lượng xây dựng và trật tự xây dựng toàn bộ các công trình thuộc dự án KĐTM. Tại rất nhiều dự án KĐTM, hệ thống các công trình hạ tầng trong các KĐTM (bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội) không được đầu tư đồng bộ, không kết nối được với hạ tầng khu vực xung quanh. Việc xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội vừa chậm, vừa thiếu, nhiều dự án KĐTM đã bán nhà ở cho người dân vào sinh sống song các công trình hạ tầng thiết yếu và các dịch vụ đô thị vẫn

chưa có. Phổ biến tình trạng quy hoạch ban đầu thì có đầy đủ các công trình hạ tầng nhưng sau đó điều chỉnh quy hoạch và không có các công trình hạ tầng nữa để chuyển đất làm công trình khác. Thực tế cho thấy nhiều chủ đầu tư chỉ ưu tiên thực hiện các công trình nhà ở để kinh doanh, quy hoạch chi tiết bị điều chỉnh nhiều lần với mục đích tăng diện tích kinh doanh, giảm diện tích công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội, không phù hợp với quy chuẩn quy hoạch về chỉ tiêu các công trình hạ tầng xã hội. Nhiều dự án KĐTM thiếu các hạng mục công trình như trường mầm non, phòng sinh hoạt tổ dân phố, nhà văn hóa khu dân cư, phòng sinh hoạt thể dục thể thao, chỗ để ô tô, xe máy,…

Cấp phép đầu tư, quản lý thực hiện đầu tưThủ tục cấp phép đầu tư còn chưa rõ ràng dẫn đến tính

trạng cấp phép đầu tư cho nhiều doanh nghiệp không đủ năng lực dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực xã hội. Chủ đầu tư tìm cách điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết của dự án đã được phê duyệt khi giao đất, cho thuê đất như tăng hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng, điều chỉnh chức năng sử dụng đất, thay đổi vị trí các hạng mục công trình,… để tăng lợi nhuận.

Một số địa phương chưa thực hiện đúng các quy định về cho phép đầu tư dự án khu đô thị mới

Theo khảo sát ở một số khu đô thị tại địa bàn Hà Nội đã phát hiện rất nhiều bất cập, đặc biệt là những “lô hổng” trong quản lý từ công tác quy hoạch đến phát triển xây dựng. Tại hầu hết các dự án đều có sự điều chỉnh về chức năng sử dụng, quy hoạch chi tiết so với quy hoạch ban đầu, có dự án còn bị điều chỉnh tăng diện tích xây dựng nhà ở dẫn đến kiến truc bị phá vỡ; một số khác thì chuyển mục đích sử dụng từ đất trồng cây xanh sang xây dựng công trình thương mại, câu lạc bộ, nhà hàng... khiến cảnh quan môi trường khu đô thị bị thu hẹp. Có thể dễ dàng nhận thấy, nguyên nhân chính đều xuất phát từ mục đích tăng diện tích nhà ở, khu kinh doanh, dịch vụ, thương mại của chủ đầu tư nhằm có thêm lợi nhuận. Việc điều chỉnh này đã tạo ra nhiều hệ luỵ, bất hợp lý trong xây dựng khiến mục đích sử dụng của các công trình trong đồ án không đảm bảo và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân; phá vỡ cảnh quan kiến truc của khu đô thị, khu nhà ở và kéo theo tiến độ của các công trình xây dựng bị gián đoạn.

65Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

Các địa phương phần lớn phát triển khu đô thị theo quy hoạch và phong trào của những chủ đầu tư có tiền, có tiềm lực chứ chưa chú trọng vào việc phát triển các dự án có kế hoạch và có định hướng cho địa phương. Vì vậy, nhiều địa phương có hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu hàng hoá bất động sản. Người dân phần lớn có nhu cầu ở phân khúc bất động sản giá rẻ, mà các nhà đầu tư lại muốn kinh doanh ở lĩnh vực bất động sản hạng sang, bất động sản du lịch để tìm kiếm lợi nhuận cao. Như vậy bài toán hiệu quả xã hội mà địa phương phải giải trong việc cấp phép đầu tư các dự án là chưa đúng hướng. Vì vậy, việc cấp thiết để địa phương có thể chủ động trong xây dựng nguồn cung phù hợp cho địa phương mình chính là việc xây dựng một kế hoạch quy hoạch đầu tư xây dựng với định hướng rõ ràng phù hợp với địa bàn và nhu cầu thực tế của địa phương. Việc cấp phép phải thiên về hướng đánh giá cao tính hiệu quả về mặt xã hội của địa phương. Mạnh dạn không cấp phép đầu tư đối với các dự án không phù hợp đặc thù, nhu cầu của địa phương.

Theo quy định của Nghị định số 02/2006/NĐ-CP thì một trong những điều kiện của chủ đầu tư là phải có đăng ký kinh doanh, do vậy tuyệt đại đa số chủ đầu tư các dự án KĐTM đều là doanh nghiệp. Thực tế cho thấy một số địa phương chưa thực hiện đúng các quy định về cho phép đầu tư dự án KĐTM. Không kiểm tra kỹ các điều kiện của chủ đầu tư, còn dễ dãi nhằm thu hút đầu tư. Nhiều trường hợp một doanh nghiệp được giao nhiều dự án cùng một lúc nên không có đủ khả năng thực hiện. Nhiều chủ đầu tư không có đủ điều kiện, nhất là điều kiện về kinh nghiệm và tài chính để thực hiện dự án dẫn đến dự án không được triển khai hoặc chậm được triển khai, thậm chí có trường hợp bán trao tay để hưởng chênh lệch dẫn đến tình trạng dự án treo, gây lãng phí đất đai và bức xúc đối với xã hội.

Tại Điều 16 Quy chế KĐTM đã quy định rõ tổ chức thực hiện KĐTM trên cơ sở đảm bảo yêu cầu cơ bản về nguyên tắc một đầu mối quản lý mặt bằng. Theo đó, Chủ đầu tư cấp 1 là đầu mối tổ chức thực hiện quản lý mặt bằng xây dựng đối với dự án KĐTM, Chủ đầu tư cấp 2 là đầu mối tổ chức thực hiện quản lý mặt bằng đối với dự án được tham gia. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều dự án KĐTM tổ chức thực hiện đầu tư xây dựng chưa tốt để xảy ra tình trạng công trình xây dựng chưa xong mà một số hạng mục đầu tư hạ tầng đã hư hỏng như KĐTM Trung Văn .. hay việc xây dựng công trình xây dựng xong nhưng hạ tầng chưa đấu nối được như KĐTM Vân Canh, hay làm xong hạ tầng nhưng chậm triển khai các hạng mục công trình gây lãng phí như KĐTM Sài Đồng,…

Đối với dự án KĐTM, khu nhà ở đã được cấp có thẩm quyền (UBND cấp tỉnh) phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng và giao cho một đơn vị xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật (chủ đầu tư cấp 1), việc đầu tư xây dựng, khai thác các công trình kiến trúc trên các ô đất thuộc khu đô thị, khu nhà ở được UBND cấp tỉnh giao cho các đơn vị khác triển khai (không do chủ đầu tư cấp 1 chuyển nhượng) dẫn đến việc khó xác định các dự án đầu tư trên các ô đất nêu trên có được coi là dự án thứ phát trong KĐTM, dự án nhà ở hay không.

Tình trạng chia lô bán nền, đầu cơ đất, không hình thành đô thị còn phổ biến. Trong thực tế có nhiều dự án KĐTM chủ đầu tư cấp I không đầu tư xây dựng hạ tầng mà thực chất là chia lô bán nền, lợi nhuận từ đất không được đưa vào đầu tư xây dựng hạ tầng, các chủ đầu tư thứ phát đầu cơ đất, chờ lên giá để bán kiếm lời, dẫn đến diện tích đất của dự án không được phủ kín theo tiến độ, không hình thành nên khu đô thị.

Trong vấn đề thuế, nên khuyến khích các giao dịch chính thức công khai, hạn chế thấp nhất các giao dịch “ngầm”

66 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

Việc hoàn thành, khai thác, chuyển giao các dự án KĐTM

Việc hoàn thành, khai thác và chuyển giao của dự án KĐTM chủ yếu quy định những nội dung của việc chuyển giao, từ chuyển giao không bồi hoàn các hạ tầng công trình được quy định tại quyết định đầu tư, giấy phép đầu tư và việc chuyển giao công trình tự nguyện do chủ đầu tư đề nghị. Trong giai đoạn chưa chuyển giao hoặc không chuyển giao, chủ đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm vận hành các công trình hạ tầng phục vụ hoạt động chung của toàn dự án. Quy chế KĐTM cũng quy định cụ thể việc kinh doanh của chủ đầu tư trong dự án KĐTM, bao gồm: việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê đất, cho thuê công trình, chuyển nhượng công trình, kinh doanh dịch vụ hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ quản lý chung cư, dịch vụ sau kinh doanh. Tuy nhiên vấn đề sở hữu chung – sở hữu riêng trong KĐTM chưa được quy định cụ thể dẫn đến gần đây rất nhiều cư dân ở các KĐTM, chủ yếu ở Hà Nội kiện tụng kéo dài đòi được sử dụng miễn phí bãi đỗ xe, vì cho rằng khi mua căn hộ, chủ đầu tư đã phân bổ vào giá thành chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật, diện tích công cộng, diện tích dùng chung... Các cơ quan chức năng đang lúng túng không có căn cứ giải quyết do hợp đồng mua bán không thỏa thuận cụ thể về vấn đề này, còn doanh nghiệp lấy lý do “bí mật kinh doanh” không chịu cung cấp cơ cấu giá. Cần phải đưa ra quy định thống nhất về cơ cấu giá thành căn hộ gồm những gì. Suất đầu tư hạ tầng và diện tích dùng chung có được phân bổ vào giá thành căn hộ bán cho người sử dụng không? Nếu không cộng thì giá căn hộ như thế nào, nếu đã phân bổ thì các diện tích ấy phải được tính vào diện tích dùng chung của các cư dân đã mua nhà.

Nghị định số 02/2006/NĐ-CP chưa quy định cụ thể vấn đề này nên còn gây tranh cãi, khiếu kiện trong thực tế. Nghị định số 02/2006/NĐ-CP không có quy định cụ thể về vấn đề sở hữu chung- sở hữu riêng trong KĐTM mà chỉ có quy định về việc hoàn thành, chuyển giao, khai thác và sử dụng công trình trong KĐTM. Theo đó, các công trình sau khi xây dựng xong phải bàn giao đưa vào sử dụng. Đối với phần sở hữu riêng của chủ đầu tư thì chủ đầu tư có trách nhiệm tổ chức quản lý, vận hành; đối với phần công trình xây dựng để bán thì chủ đầu tư phải làm thủ tục cấp quyền sở hữu cho người mua. Việc xác định phần sở hữu chung - sở hữu riêng trong dự án KĐTM chỉ căn cứ vào mục đích đầu tư được nêu trong dự án do chủ đầu tư đề xuất và được chính quyền địa phương chấp thuận.

Vì vậy, quy định về vấn đề này trong các dự án KĐTM tại mỗi địa phương không có sự thống nhất. Do Nghị định số 02/2006/NĐ-CP chưa có quy định phần diện tích nào thuộc sở hữu chung và phần diện tích nào thuộc sở hữu riêng trong dự án KĐTM nên việc quản lý, vận hành cả dự án KĐTM chưa đạt yêu cầu đề ra.

Những khuyến khích và ưu đãi trong đầu tư KĐTM được quy định dựa trên cơ sở đặc thù của từng loại dự án KĐTM. Các cơ quan quản lý Nhà nước và chính quyền địa phương trong việc tạo điều kiện hình thành đầu vào cho dự án, các khuyến khích, điều kiện ưu đãi... cho dự án KĐTM.

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ VIỆC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NHÀ Ở KHU ĐÔ THỊ MỚI

Đối với việc công nhận chủ đầu tư các dự án phát triển nhà ở thương mại, theo quy định của Luật Nhà ở 2014, các nhà đầu tư có quyền sử dụng đất ở hợp pháp thì mới được xem xét công nhận là chủ đầu tư dự án. Trong khi đó, Luật Đất đai không quy định phải là đất ở; hơn nữa, trên thực tế, các nhà đầu tư nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án nhà ở thương mại thì phổ biến, rất ít nhà đầu tư có quyền sử dụng đất ở. Sau khi được công nhận, chủ đầu tư, mới có cơ sở tiến hành thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định. Do đó, kiến nghị cho phép công nhận chủ đầu tư đối với trường hợp nhà đầu tư có quyền sử dụng đất hợp pháp (chưa phải là đất ở) phù hợp với quy hoạch được duyệt là đất ở, kế hoạch sử dụng đất để phát triển đô thị, không yêu cầu bắt buộc phải có quyền sử dụng đất ở mới được công nhận là chủ đầu tư.

Trong vấn đề thuế, nên khuyến khích các giao dịch chính thức công khai, hạn chế thấp nhất các giao dịch “ngầm” (không theo quy định của pháp luật hoặc không thể hiện giá trị thực của bất động sản) chiếm một tỷ trọng đáng kể trên thị trường. Nhà nước xem xét thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, chuyển dịch bất động sản và các loại phí, lệ phí cần nghiên cứu điều chỉnh ở mức thuế suất hợp lý theo nguyên tắc ở mức thấp và giảm lệ phí trước bạ nhằm khuyến khích người dân đăng ký sở hữu (sử dụng) nhà đất.

Về đất, việc thu tiền sử dụng đất một lần khi giao đất tạo áp lực vốn cho nhà đầu tư, hạn chế việc tăng cung bất động sản cho thị trường đồng thời tạo áp lực tăng giá bất động sản. Nhà nước nên cho phép thu tiền sử dụng đất nhiều lần theo tiến độ thực hiện dự án.

67Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

Thời gian qua, xây dựng và phát triển đô thị luôn

là những vấn đề được quan tâm hàng đầu ở Việt Nam.

Nhiều nguồn lực đã được đầu tư nhằm nâng cấp cơ sở hạ

tầng, quy hoạch xây dựng, điều chỉnh dân số,… hướng

tới mục tiêu quản lý và phát triển đô thị bền vững - mục

tiêu chung của cả Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Nhận

thức được tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực

quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với công chức

lãnh đạo, chuyên môn đô thị trên địa bàn, đáp ứng yêu

cầu của TP. Hà Nội, trong hai ngày 21 và 22/8/2017, Học

viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị - AMC đã phối hợp

với Sở Nội vụ Hà Nội và Tổ chức định cư con người Liên

Hợp quốc - UN Habitat tổ chức khóa đào tạo “Quản lý xây

dựng và phát triển đô thị bền vững trong bối cảnh hội nhập

quốc tế - Kinh nghiệm từ Hàn Quốc”.

Tham dự Lễ khai giảng khóa đào tạo có ông Phạm Văn Bộ

- Phó Giám đốc Học viện; ông Nguyễn Quang - Giám

đốc UN-Habitat Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bích Hoa - Phó

Trưởng phòng Đào tạo, Sở Nội vụ Hà Nội cùng 37 học

viên Khóa học là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn

– nghiệp vụ các Sở Xây dựng, Giao thông vận tải, Tài

nguyên môi trường, Công thương, vv..., các Phòng Quản

lý Đô thị cấp Huyện trên địa bàn TP. Hà Nội.

Mục tiêu của Khóa học là nhằm cung cấp những kiến

thức và kinh nghiệm của Hàn Quốc về quản lý xây dựng

và phát triển đô thị theo hướng bền vững, góp phần

nâng cao sức cạnh tranh đô thị của Việt Nam nói chung

và của TP. Hà Nội nói riêng trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Tại Khóa học này, trên cơ sở những kinh nghiệm tiên

tiến của Hàn Quốc, với phương pháp giảng dạy tích cực,

hiện đại, lấy người học làm trung tâm, phát huy tối đa

tính chủ động của từng học viên, khuyến khích phát hiện

vấn đề và đề xuất giải pháp xử lý,... học viên Khóa học

được những giáo sư nổi tiếng, giàu kinh nghiệm của các

Đại học Hàn Quốc danh tiếng (Đại học Hongik, Đại học

Anyang) trao đổi, thảo luận, hướng dẫn các tình huống

về xây dựng và phát triển đô thị theo hướng đô thị thông

minh qua các chuyên đề: Xây dựng đô thị thông minh;

Liên kết đô thị - nông thôn.

Với nội dung phong phú, thiết thực, bổ ích,... Khóa học

đã góp phần nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát

triển xây dựng đô thị cho từng học viên nói riêng, cho

ngành Xây dựng và các đô thị Việt Nam nói chung. Kết

thúc khóa học, học viên được cấp Giấy chứng nhận hoàn

thành chương trình đào tạo “Quản lý xây dựng và phát

triển đô thị bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế- Kinh

nghiệm Hàn Quốc”.

KHÓA ĐÀO TẠO QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

68 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

TIN ĐÀO TẠO

TIN ĐÀO TẠO

Ngày 15/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và

đô thị đã tiếp tục phối hợp với Sở Xây dựng, Sở Nội vụ và

Trường Trung cấp Xây dựng TP. Hồ Chí Minh tổ chức khóa

Bồi dưỡng kiến thức pháp luật về xây dựng cho đại biểu Hội

đồng nhân dân các phường thuộc nhiều quận trên địa

bàn TP. Hồ Chí Minh.

Tham dự Lễ Khai giảng khóa học có ông Đỗ Phi Hùng

- Nguyên Phó Giám đốc Sở Xây dựng thành phố, ông

Nguyễn Thanh Dũng - Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp

Xây dựng cùng lãnh đạo, đại diện một số phòng ban và

đông đủ học viên tham gia khóa học.

Khóa học được tổ chức từ ngày 15/8/2017 đến ngày

29/8/2017 vào các ngày thứ ba và thứ năm hàng tuần.

Nội dung của khóa học bao gồm 06 chuyên đề: Chuyên

đề 1: Tổng quan về công tác giám sát trong lĩnh vực xây

dựng; Chuyên đề 2: Giám sát việc tuân thủ pháp luật về

trật tự xây dựng ở địa phương; Chuyên đề 3: Giám sát việc

tuân thủ pháp luật về đầu tư xây dựng tại địa phương;

Chuyên đề 4: Vai trò của hội đồng nhân dân các cấp trong

quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây

dựng; Chuyên đề 5: Giám sát việc tuân thủ pháp luật về

quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng; Chuyên

đề 6: Giám sát việc thực hiện giải quyết khiếu nại tố cáo;

phòng, chống tham nhũng liên quan đến lĩnh vực xây

dựng tại địa phương.

Tham gia khóa học, học viên sẽ được hướng dẫn, trao

đổi, thảo luận và thực hành các bài tập tình huống sát

với thực tế của địa phương, góp phần nâng cao trình độ

chuyên môn, đóng góp cho sự nghiệp phát triển của đơn

vị, đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

và hội nhập quốc tế sâu rộng.

BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG CHO 162 ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNGNHÂN DÂN CÁC CẤP TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

Sau những năm đổi mới cho đến nay,

thị trường, nhà chung cư ở nước ta đã có

những bước phát triển vượt bậc cả về

số lượng và về chất. Tuy nhiên cùng với

sự phát triển nhanh chóng về số lượng,

quản lý vận hành nhà chung cư cũng đã

nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập, như

tranh chấp giữa chủ đầu tư và các hộ dân

về diện tích sử dụng về dịch vụ, kỹ thuật

quản lý vận hành của tòa nhà… Nhằm

mục tiêu xây dựng hệ thống quản lý vận

hành, đáp ứng dịch vụ kỹ thuật tốt nhất,

quản lý quản trị tốt, hạn chế rủi ro xảy ra

hay kỹ năng bán rủi ro cho tòa nhà chung

BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ VẬN HÀNH NHÀ CHUNG CƯ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

69Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

cư đang hoạt động. Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và

đô thị phối hợp với Công ty Quản lý nhà chung cư thành

phố Đà Nẵng tổ chức khóa học “Bồi dưỡng nghiệp vụ quản

lý vận hành nhà chung cư” tại Đà Nẵng.

Tham dự Lễ Khai giảng khóa học có các ông Trần

Quang Triết và ông Lê Doãn Lâm - Giám đốc và Phó Giám

đốc Công ty, ông Lê Đình Phương - Trưởng phòng Tổ chức

kế hoạch, ông Nguyễn Tiến Dân - Phó Giám đốc Phân

viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị miền Trung cùng

đông đủ học viên là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn

– nghiệp vụ của các đơn vị trực thuộc Công ty.

Khóa học diễn ra trong 04 ngày từ 08/8/2017 đến

11/8/2017, học viên được truyền đạt những nội dung

về: Quản lý vận hành thang máy, thang cuốn trong nhà

chung cư; quản lý vệ sinh, môi trường, cảnh quan của nhà

chung cư và xử lý nước thải; nghiệp vụ quản lý việc sử

dụng nhà chung cư; kiến thức cơ bản của pháp luật về

quản lý và sử dụng nhà chung cư; quản lý vận hành, bảo

hành, bảo trì hệ thống thiết bị phòng cháy và chữa cháy;

quản lý, vận hành, bảo trì nhà và hệ thống cấp điện, cấp

và thoát nước; kiến thức về pháp luật nhà ở, Luật Đất đai,

dân sự và dân dụng liên quan tới nhà chung cư; quản lý

rủi ro, quản lý an ninh và ứng phó với thiên tai tại nhà

chung cư.

Kết thúc khóa học, học viên có thể điều hành, vận

hành tốt, xử lý các tính huống rủi ro, những vấn đề đang

vướng mắc tại các tòa nhà chung cư và được cấp chứng

chỉ hoàn thành Khóa bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý vận

hành nhà chung cư.

Nhằm bồi dưỡng nâng cao năng lực về quản lý xây

dựng và cấp phép xây dựng cho các cán bộ làm công tác

liên quan, ngày 08/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây

dựng và đô thị phối hợp với Sở Xây dựng Lạng Sơn tổ

chức khóa Bồi dưỡng một số nội dung về quản lý xây dựng

và cấp phép xây dựng tại Lạng Sơn.

Khóa học diễn ra trong 02 ngày (08/8/2017 -

09/8/2017), giảng viên tham gia giảng dạy là người có

trình độ chuyên môn sâu và nhiều năm kinh nghiệm

nghiên cứu về quản lý xây dựng và cấp phép xây dựng,

đã nhiệt tình truyền đạt nội dung khóa học và dành nhiều

thời gian để chia sẻ, trao đổi, giải đáp mọi thắc mắc về các

nội dung như: Quản lý quy hoạch đô thị; cấp phép xây

dựng; quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn xã, phường;

tiếp nhận thông tin vụ việc và giải quyết khiếu nại, tố cáo

về trật tự xây dựng trên địa bàn xã phường.

Với phương pháp giảng dạy tích cực cùng nhiều bài

tập tình huống cụ thể học viên dễ dàng tiếp thu nội

dung khóa học, giúp trang bị cho bản thân những kiến

thức cơ bản, cần thiết góp phần nâng cao các kỹ năng

tổ chức và thực hiện công tác quản lý xây dựng và cấp

phép xây dựng tại các xã, phường, thị trấn để từ đó thực

hiện công việc được giao bảo đảm chất lượng và tuân thủ

theo đúng quy định của pháp luật, góp phần phát hiện

kịp thời, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trật tự xây

dựng theo thẩm quyền.

BỒI DƯỠNG VỀ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ CẤP PHÉP XÂY DỰNG TẠI LẠNG SƠN

Theo định hướng phát triển đô thị trên địa bàn tỉnh

Bắc Giang đến năm 2020, tỷ lệ dân số đô thị đạt 22-23%;

toàn tỉnh có 21 đô thị, trong đó 1 đô thị loại II, 4 đô thị

loại IV và 16 đô thị loại V. Đến năm 2030, tỷ lệ dân số đô

thị đạt 40-45%; toàn tỉnh có 25 đô thị, trong đó 1 đô thị

loại I, 2 đô thị loại III, 4 đô thị loại IV và 18 đô thị loại V.

Nhằm mục tiêu nâng cao nhận thức, năng lực quản lý,

điều hành cho đội ngũ công chức lãnh đạo và chuyên

môn đô thị các cấp, đáp ứng yêu cầu quản lý xây dựng

và phát triển đô thị trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng

đô thị hóa ngày càng nhanh trên địa bàn tỉnh Bắc Giang,

sáng ngày 08/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng

và đô thị phối hợp với Sở Nội vụ Bắc Giang tổ chức khai

giảng khóa “Bồi dưỡng quản lý xây dựng và phát triển đô

thị - Chương trình 7 theo Đề án 1961” tại Bắc Giang.

NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ TẠI TỈNH BẮC GIANG

70 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

TIN ĐÀO TẠO

TIN ĐÀO TẠO

Tham dự Lễ Khai giảng có ông Nguyễn Anh Dũng –

Phó Giám đốc Học viện, ông Nguyễn Văn Dương – Phó

Trưởng phòng Công chức viên chức, Sở Nội vụ Bắc Giang

cùng 67 học viên là Giám đốc, Phó Giám đốc ban quản

lý dự án, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, chuyên viên

các phòng Quản lý đô thị, Kinh tế hạ tầng... thuộc diện

quy hoạch cán bộ nguồn của tỉnh Bắc Giang.

Khóa học diễn ra trong 04 ngày từ 08/8/2017-

11/8/2017, học viên được nghe giảng các nội dung về:

Quản lý quy hoạch đô thị, Đô thị hóa và định hướng phát

triển đô thị quốc gia, Quản lý không gian kiến trúc cảnh

quan và bảo tồn di sản đô thị, Quản lý Hạ tầng kỹ thuật -

môi trường đô thị, Quản lý dự án đầu tư xây dựng, Quản lý

trật tự xây dựng đô thị, Quản lý đất đai nhà ở và thị trường

BĐS. Ngoài ra, các học viên còn được tham quan thực tế,

trao đổi, thảo luận và làm bài tập tình huống cụ thể về

công tác quản lý xây dựng và phát triển đô thị.

Khóa học đưa ra nhiều bài tập tình huống, đề cập đến

những vướng mắc điển hình các địa phương thường gặp,

đồng thời giảng viên cũng dành nhiều thời gian để các

học viên đặt câu hỏi, thảo luận theo nhóm.

Kết thúc Khóa học, căn cứ vào quá trình học tập và kết

quả bài kiểm tra, học viên đạt yêu cầu của khóa học sẽ

được cấp Giấy chứng nhận hoàn thành chương trình “Bồi

dưỡng quản lý xây dựng và phát triển đô thị - Chương

trình 7 theo Đề án 1961”. Quan trọng hơn, Khóa học giúp

học viên trang bị thêm các kiến thức về lĩnh vực xây dựng

và quản lý quy hoạch đô thị, qua đó nâng cao hiệu quả

công tác tham mưu quản lý xây dựng, quản lý quy hoạch

đô thị trên địa bàn công tác, góp phần thúc đẩy phát triển

kinh tế - xã hội ở địa phương.

Sáng ngày 07/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây

dựng và đô thị phối hợp với Trường Cao đẳng Điện lực TP.

Hồ Chí Minh tổ chức khóa “Bồi dưỡng chỉ huy trưởng công

trường xây dựng” cho 59 học viên là Giám đốc, Phó Giám

đốc, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, cán bộ kỹ thuật

thuộc các Công ty Điện lực Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Thuận,

Ninh Thuận, Tây Ninh, Trà Vinh, Thủy điện Thác Mơ.

Tham gia khóa học, học viên được nghe giảng những

kiến thức về: Cơ sở pháp lý của nhà thầu trong thi công

công trình xây dựng; lựa chọn nhà thầu xây dựng trong

hoạt động xây dựng; quyền và nghĩa vụ của nhà thầu

trong việc tổ chức thực hiện hợp đồng thi công xây dựng

công trình; tổ chức công trường xây dựng; quản lý an

toàn lao động; quản lý chất lượng công trình xây dựng;

quản lý tiến độ xây dựng công trình; quản lý chi phí xây

dựng công trình; Luật lao động và hợp đồng lao động.

Trong quá trình học tập, học viên có 01 bài kiểm tra,

đây là một trong những điều kiện để Hội đồng xét tốt

nghiệp của Học viện cấp cho học viên Chứng nhận hoàn

thành khoá Bồi dưỡng chỉ huy trưởng công trường xây

dựng theo quy định của pháp luật.

BỒI DƯỠNG CHỈ HUY TRƯỞNG CÔNG TRƯỜNG XÂY DỰNG TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

71Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG 29 DỰ ÁN NHÀ Ở XÃ HỘI

CHỦ ĐẦU TƯ CÓ VI PHẠM VỀ PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY CHƯA KHẮC PHỤC SẼ KHÔNG ĐƯỢC CẤP, GIAO ĐẤT

“Từ 1/7/2017 không giới thiệu địa điểm cấp đất, giao

đất, cho thuê đất đối với các đơn vị đang là chủ đầu tư 79

công trình nhà chung cư cao tầng vi phạm quy định về PCCC

trong đầu tư xây dựng hiện nay chưa được khắc phục”.

Đây là một trong những nội dung quan trọng trong

Thông báo số 152/TB-VP truyền đạt kết luận của Phó

Chủ tịch Thường trực UBND Hà Nội Nguyễn Văn

Sửu tại cuộc họp về công tác phòng cháy

chữa cháy (PCCC) đối với nhà chung

cư cao tầng vi phạm quy định

về PCCC trong lĩnh vực đầu

tư xây dựng trên địa bàn

thành phố. Sở Xây dựng

được giao hướng dẫn

cơ quan chuyên môn,

UBND quận, huyện, thị

xã thực hiện nghiêm

túc việc cấp phép và

nghiệm thu các dự án,

công trình xây dựng

theo quy định.

Không cấp giấy phép xây dựng khi công trình chưa

được cơ quan Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy cấp

giấy chứng nhận thẩm duyệt thiết kế về PCCC; không

nghiệm thu và cấp văn bản cho phép công trình được

đưa vào hoạt động khi chưa được cấp văn bản nghiệm

thu về PCCC…

Ngoài ra, Cảnh sát Phòng cháy và

Chữa cháy thành phố tiếp tục

phối hợp các sở, ngành

chức năng thành phố,

UBND quận, huyện,

thị xã tổ chức kiểm

tra, đôn đốc việc

thực hiện các

yêu cầu về

PCCC, những

cam kết thực

hiện của chủ

đầu tư để tổ

chức nghiệm

thu công trình

UBND TP sẽ phấn đấu xây dựng khoảng 20.000 căn nhà

ở xã hội; 35.000 chỗ ở tập trung cho công nhân, người lao

động tại các khu công nghiệp và 10.000 chỗ ở tập trung cho

sinh viên.

Đây là kế hoạch phát triển và quản lý nhà ở xã hội trên

địa bàn Thành phố giai đoạn 2016 – 2020. Cụ thể, trong

giai đoạn 2017 – 2020, Thành phố sẽ tập trung đầu tư

xây dựng 37 dự án nhà ở xã hội với tổng diện tích đất là

134,89 ha, quy mô khoảng 43.624 căn hộ. Trong đó phấn

đấu hoàn thành và đưa vào sử dụng 29 dự án với tổng

diện tích đất là 46,69 ha, quy mô 19.436 căn hộ.

Cũng trong giai đoạn 2017 - 2020, Thành phố dự kiến

hoàn thành 8 dự án nhà lưu trú công nhân với tổng diện

tích đất là 18,60 ha, quy mô 4.962 phòng, đáp ứng cho

31.180 chỗ ở tập trung cho công nhân.

Về ký túc xá sinh viên, trong năm 2017, Thành phố sẽ

khởi công xây dựng 1 dự án với tổng diện tích sàn xây

dựng khoảng 4.000m2, đáp ứng khoảng 250 chỗ ở tập

chung cho sinh viên Từ năm 2018 - 2020, tiếp tục mời

gọi các doanh nghiệp tham gia đầu tư để đáp ứng thêm

3.250 chỗ ở còn lại cho sinh viên.

72 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

TIN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

NHẬT BẢN GIÚP HÀ NỘI GIẢM THIỂU THIỆT HẠI DO ÚNG NGẬP

Sáng 9/8, Sở Xây dựng Hà Nội cùng với Cục Sáng tạo

Môi trường TP Yokohama (Nhật Bản), Cơ quan hợp tác quốc

tế Nhật Bản (JICA) tổ chức Lễ ký kết thực hiện dự án “Nâng

cao năng lực quản lý các công trình thoát nước cho TP Hà

Nội” giai đoạn 2.

Tại buổi lễ, Phó Giám đốc Sở

Xây dựng Hà Nội Võ Nguyên

Phong cho biết, trong những

năm qua, được sự giúp đỡ

của Chính phủ Nhật Bản, hệ

thống hạ tầng giao thông, hạ

tầng kỹ thuật TP Hà Nội đã

có nhiều công trình được

hoàn thành, phát huy giá

trị. Trong đó có những dự

án quan trọng như: dự

án thoát nước Hà Nội giai

đoạn 1, giai đoạn 2; hệ thống thoát nước Hà Nội thuộc

lưu vực sông Tô Lịch đã được cải tạo, nâng cấp cơ bản

đáp ứng việc tiêu thoát nước cho khu vực trung tâm Hà

Nội; dự án nhà máy xử lý nước thải Yên Xá cùng hệ thống

thu gom đang được triển khai xây dựng. Đồng thời TP

cũng tập trung kêu gọi các nguồn lực để thực hiện dự án

Thoát nước lưu vực sông Nhuệ, Tây Nam quận Hà Đông,

các nhà máy xử lý nước thải Phú Đô, Hồ Tây theo hình

thức PPP…

Bên cạnh việc đầu tư xây dựng phát triển hệ thống

hạ tầng công trình thoát nước, xử lý nước thải thì vấn đề

quản lý duy trì, vận hành phát huy hiệu quả của hệ thống

cũng được TP Hà Nội xác định là nhiệm vụ rất cần thiết.

Do vậy, sau khi kết thúc giai đoạn 1 của dự án “Nâng cao

năng lực quản lý các công trình thoát nước cho TP Hà Nội”

vào cuối năm 2016 Cục sáng tạo môi trường TP Yokohama

và Sở Xây dựng Hà Nội đã xác định cần tiếp tục xây dựng,

nâng cao vai trò, mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước và

doanh nghiệp trong xử lý, quản lý duy trì hệ thống thoát

nước của

Hà Nội. Giai

đoạn 2 của

dự án được

lựa chọn tiếp

tục thực hiện

nhằm hướng

tới mục tiêu

bền vững hơn

là giải quyết triệt

để hiện tượng úng

ngập cho TP, cải

tiến phương pháp

xử lý bùn và tái sử dụng bùn thành nguồn năng lượng

tái tạo…

Giám đốc Cục Sáng tạo Môi trường TP Yokohama

Nomura Norihiko thông tin, dự án “Nâng cao năng lực

quản lý các công trình thoát nước cho TP Hà Nội” giai

đoạn 2 dự kiến được thực hiện từ tháng 9/2017 – 8/2020

với kinh phí thực hiện khoảng 60 triệu Yên do tổ chức

JICA hỗ trợ. Nội dung hoạt động của dự án bao gồm: Việc

vận hành và bảo dưỡng phải được thực hiện đúng quy

trình tại nhà máy xử lý nước thải thí điểm; Lập kế hoạch

xử lý bùn với mục đích xử lý bùn hình thành từ các công

trình thoát nước; Các hoạt động nhằm giảm thiểu thiệt

hại do úng ngập sẽ được tiến hành tại khu vực thí điểm;

Tổ chức hội thảo với sự hợp tác từ các công ty thành viên

của Hiệp hội doanh nghiệp ngành nước Yokohama…

đưa vào hoạt động theo quy định… Cùng với đó, chủ

trì, phối hợp với các sở, ban, ngành chức năng, UBND

quận, huyện, thị xã và đơn vị liên quan tiến hành kiểm

tra việc khắc phục các vi phạm về phòng cháy chữa cháy

(15 ngày/lần), lập biên bản; nêu rõ việc thực hiện những

cam kết của chủ đầu tư hoàn thành đến đâu; ra thông

báo tạm đình chỉ, đình chỉ khi cần thiết. Sau khi xử phạt,

nếu chủ đầu tư không khắc phục, đề xuất chính quyền

địa phương tổ chức cưỡng chế… Lựa chọn, đề xuất từ

2 - 3 công trình vi phạm điển hình, báo cáo UBND thành

phố chỉ đạo sở, ngành và đơn vị liên quan phối hợp kiểm

tra và xử lý điểm theo quy định của pháp luật… Tiếp tục

tuyên truyền công khai cho nhân dân được biết về những

công trình vi phạm quy định PCCC; khuyến cáo người

dân không mua nhà tại các công trình không đảm bảo

về PCCC; kiến nghị các cơ quan chức năng có thẩm quyền

cần có biện pháp không cho phép các chủ đầu tư bán

nhà tại các công trình vi phạm về PCCC.

73Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

TIN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

HỘI THẢO GIỮA KỲ DỰ ÁN HỖ TRỢ KỸ THUẬT QUY HOẠCH ĐÔ THỊ XANH TẠI VIỆT NAM

Ngày 17/8/2017, tại Hà Nội, Bộ Xây dựng phối hợp với

Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) tại Việt Nam

tổ chức hội thảo giữa kỳ Dự án hỗ trợ kỹ thuật quy hoạch

đô thị xanh tại Việt Nam. Dự hội thảo có Thứ trưởng Bộ

Xây dựng Phan Thị Mỹ Linh, Giám đốc Quốc gia KOICA tại

Việt Nam Kim Jin Oh, lãnh đạo một số Sở Xây dựng và các

chuyên gia trong lĩnh vực phát triển đô thị của Hàn Quốc

và Việt Nam.

Theo tài liệu hội thảo, Dự án Hỗ trợ kỹ thuật quy hoạch

đô thị xanh tại Việt Nam (viết tắt là Dự án) do Chính phủ

Hàn Quốc tài trợ được triển khai thực hiện theo Quyết

định số 984/QĐ-TTg ngày 01/6/2016 của Thủ tướng

Chính phủ về phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án Quy

hoạch đô thị xanh tại Việt Nam và Biên bản thỏa thuận đã

ký kết giữa Bộ Xây dựng và KOICA. Hội thảo giữa kỳ Dự án

hỗ trợ kỹ thuật quy hoạch đô thị xanh tại Việt Nam là dịp

để các chuyên gia của Dự án báo cáo kết quả nghiên cứu

thời gian qua, đồng thời xác định phương hướng triển

khai trong giai đoạn tiếp theo.

Đến nay, Dự án đã hoàn thiện bước đầu các nghiên

cứu của 4 nhiệm vụ gồm: Xây dựng bộ chỉ tiêu đô thị

xanh; thiết lập hệ thống GDSS; lập phương án quy hoạch

thí điểm tại khu đô thị Yên Bình, tỉnh Thái Nguyên và

thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; xây dựng khung

pháp lý về quy hoạch đô thị xanh. Bên cạnh đó, Dự án

cũng đã tổ chức 2 đoàn tham quan khảo sát và học tập

kinh nghiệm tại Hàn Quốc về quy hoạch và phát triển đô

thị xanh và tổ chức Hội nghị tham vấn các chuyên gia vào

ngày 20/6/2017 tại Thái Nguyên.

Ông Kim Jin Oh - Giám đốc Quốc gia KOICA tại Việt

Nam đánh giá: Việt Nam đang trong quá trình tăng

trưởng nhanh chóng, dẫn đến áp lực ngày càng lớn đối

với hạ tầng xã hội cũng như các vấn đề về ô nhiễm môi

trường đô thị. Xuất phát từ thực tế đó, năm 2016, Chính

phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ không hoàn lại cho Việt Nam 6,5

triệu USD để nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ số đô thị, trong

đó có: Chỉ tiêu quy hoạch đô thị xanh; phát triển phần

mềm hệ thống; đề xuất nhóm điều chỉnh quy hoạch đô

thị xanh tại thành phố Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang), khu đô

thị Yên Bình (tỉnh Thái Nguyên). Chính phủ Hàn Quốc, đặc

biệt là KOICA tại Việt Nam sẽ tiếp tục hỗ trợ, hợp tác tích

cực với Bộ Xây dựng để hoàn thành Dự án, nhằm đưa Việt

Nam trở thành quốc gia phát triển hiện đại, gắn liền với

bảo vệ môi trường, sử dụng tài nguyên bền vững, hiệu

quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính và có đủ khả năng

ứng phó với biến đổi khí hậu...

Đến nay, các chuyên gia của Dự án đã cơ bản hoàn

thành Bộ chỉ tiêu đô thị xanh và đang tiến hành tổng hợp

ý kiến góp ý của các chuyên gia, các nhà quản lý để nhanh

chóng hoàn thiện Bộ chỉ tiêu này. Thứ trưởng Phan Thị

Mỹ Linh cho biết, các ý kiến trao đổi, thảo luận của các

đại biểu tại hội thảo sẽ góp phần quan trọng để Bộ Xây

dựng, KOICA tiếp tục chỉ đạo các chuyên gia của hai bên

hoàn thiện kết quả nghiên cứu, đảm bảo có tính thực

tiễn cao, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam

và sẽ được áp dụng rộng rãi trong tương lai, hướng tới bổ

sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

về quy hoạch đô thị ở Việt Nam.

74 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

TIN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

PHÁT HIỆN HAI SIÊU TRÁI ĐẤT CÓ KHẢ NĂNG CHỨA SỰ SỐNG

Các nhà khoa học tại Đại học Hertfordshire, Anh, phát

hiện 4 hành tinh bay quanh Tau Ceti, ngôi sao giống Mặt

Trời nằm gần Trái Đất nhất, cách chúng ta 12 năm ánh

sáng, theo Sky News. Trong số những hành tinh mới này

có hai “siêu Trái Đất” nằm ở vùng sinh sống được xung

quanh ngôi sao, không quá nóng cũng không quá lạnh.

Do đó, nước lỏng có thể tồn tại trên bề mặt của chúng.

Kết quả nghiên cứu được công bố trên thư viện trực

tuyến của Đại học Cornel, Mỹ, hôm 7/8.

Nhóm nghiên cứu thực hiện khám phá của mình nhờ

hiệu ứng rung lắc của ngôi sao Tau Ceti do quá trình

tương tác hấp dẫn của nó với các hành tinh bay xung

quanh. “Phát hiện của chúng tôi về sự rung lắc nhẹ của

ngôi sao là cột mốc quan trọng trong việc tìm kiếm các

hành tinh giống với Trái Đất”, Fabo Feng, thành viên chính

của nhóm nghiên cứu, cho biết.

Ngôi sao Tau Ceti có kích thước, độ sáng tương tự Mặt

Trời và có nhiều hành tinh bay xung quanh. Các nhà khoa

học hy vọng, hình ảnh trực tiếp của hai siêu Trái Đất nằm

phía bên ngoài trong số 4 hành tinh mới phát hiện sẽ cho

thấy chúng là hành tinh đá và sinh sống được. Nhưng

nhóm nghiên cứu thừa nhận rằng, một đĩa lớn chứa vô

số mảnh thiên thạch bay xung quanh ngôi sao có thể bắn

phá các hành tinh bằng sao chổi và tiểu hành tinh, làm

giảm khả năng sinh sống trên chúng. “Chúng tôi đang

dần học cách nhận biết sự khác biệt giữa hiện tượng rung

lắc của ngôi sao gây ra bởi các hành tinh và do hoạt động

bề mặt của nó. Điều này cho phép chúng tôi xác định sự

tồn tại của hai hành tinh nằm phía bên ngoài, có thể sinh

sống được, trong hệ thống sao Tau Ceti”, Mikko Tuomi,

thành viên của nhóm nghiên cứu, cho biết.

Theo VnExpress.net

Ngôi sao Tau Ceti và các hành tinh của nó khi so sánh với hệ Mặt Trời

SẢN LƯỢNG THAN TOÀN CẦU GIẢM 6.2% - SỰ SỤT GIẢM LỚN NHẤT TRONG LỊCH SỬ

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump có thể tin rằng than

là năng lượng tương lai, nhưng các số liệu mới được công

bố bởi Tập đoàn năng lượng toàn cầu BP, sản lượng than

toàn cầu đã giảm với con số đáng kinh ngạc là

6.2% so với năm ngoái - mức giảm lớn nhất

hàng năm. Ngoài ra, sự tiêu thụ cũng

giảm trong năm thứ hai liên tiếp

xuống còn 1,7%. Với kết quả

này, không có gì ngạc nhiên

khi nói rằng các nguồn năng

lượng tái tạo là phát triển

nhanh nhất, tăng trưởng

12%.

Bob Dudley, Tổng Giám đốc Tập đoàn BP, cho biết: “Thị

trường năng lượng toàn cầu đang trong quá trình dịch

chuyển. Về mặt dài hạn nhu cầu về năng lượng sạch, giảm

phát thải carbon đang tăng cao. Mặc dù có

sự phản đối của các nhà lãnh đạo đối

với đầu tư năng lượng tái tạo, rõ

ràng là tương lai sẽ xanh hơn

và người tiêu dùng sẽ tiếp

tục đầu tư vào các nguồn

năng lượng có lợi cho

môi trường, động vật

hoang dã và các thế hệ

tương lai.

75Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

TIN QUỐC TẾ

BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CÓ THỂ LÀM THAY ĐỔI MÔI TRƯỜNG TRONG 100 NĂMNHƯ THẾ NÀO

Giám đốc Viện Nghiên cứu Vũ trụ Goddard của NASA

Gavin Schmidt đã phát biểu với trang Business Insider

rằng chúng ta không thể ngăn chặn sự nóng lên toàn

cầu. Vì nó đang trong quá trình chuyển động ngay cả khi

ta hạn chế lượng khí thải carbon vào ngày mai. Nhưng

chúng ta có thể làm chậm quá trình biến đổi khí hậu để

có thể thích nghi tốt hơn với thế giới đang thay đổi của

chúng ta.

Chúng ta sẽ thấy nhiệt độ diễn ra bất thường nhiều

hơn. Mùa hè ở Greenland có thể hoàn toàn không có

băng vào năm 2050. Mùa hè nhiệt đới có thể có thêm

50% những ngày nắng nóng vào năm 2050. Các nhà khoa

học dự báo nguồn nước sẽ bị ảnh hưởng, hạn hán trầm

trọng sẽ xảy ra thường xuyên hơn. Mực nước biển dâng

cũng có thể thay đổi cuộc sống trên bờ biển của nhiều

quốc gia, và sự sụp đổ bất ngờ của các núi băng có thể

gây lên sự thay đổi mực nước biển. Các đại dương có thể

tăng từ hai đến ba feet vào năm 2100.

Trong khi đó, đại dương sẽ ấm dần lên khi chúng bị

hấp thụ carbon dioxide và dẫn đến hiện tượng axit hóa

làm đe doạ các rặng san hô ngầm – gần như tất cả các

rặng san hô nhiệt đới đều có thể bị tổn hại. Một nửa trong

số các rặng san hô nhiệt đới vẫn đang bị đe dọa trong

kịch bản trường hợp tốt nhất. Schmidt cho biết Trái Đất

năm 2100 có thể là “ấm hơn một chút hoặc có thể ấm hơn

rất nhiều so với ngày hôm nay”. Giờ đây chúng ta có cơ

hội để kiềm chế khí thải và làm chậm sự biến đổi khí hậu

bằng các giải pháp như năng lượng tái tạo hoặc công

nghệ thu hồi carbon. Chúng ta chỉ cần hành động

Theo Business Insider

ANH CẤM CÁC LOẠI ĐỘNG CƠ DIESEL VÀ XĂNG DẦU MỚI VÀO NĂM 2040

Nước Anh vừa công bố kế hoạch cấm bán dầu

diesel mới và xe chạy bằng xăng vào năm 2040. Kế hoạch

này cũng tương tự như ở Pháp. Chính phủ sẽ đầu tư 1 tỷ

bảng cho việc quảng bá xe ô tô có lượng khí thải thấp

và 100 triệu bảng dành cho việc tăng phí cơ sở hạ tầng

dành cho xe điện. Chính phủ sẽ đầu tư quỹ cho cơ sở

hạ tầng của xe buýt thân thiện môi trường, xe đạp,

người đi bộ, và xe taxi phát thải thấp.

76 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

TIN QUỐC TẾ

Nitrogent oxide đang gây ra ô nhiễm không khí ở Anh.

Đầu năm nay, chỉ trong 5 ngày thành phố London đã phá

vỡ giới hạn ô nhiễm không khí hàng năm của mình - và

Cơ quan môi trường toàn cầu Greenpeace cho biết động

cơ diesel là nguyên nhân gây ô nhiễm không khí lớn nhất

trong thành phố. Hiện tại, nước này đang cam kết cấm

bán những chiếc ô tô gây ô nhiễm như là một phần của kế

hoạch làm sạch không khí của họ. Thậm chí những chiếc

xe hybrid tiết kiệm năng lượng cũng không ngoại lệ.

Chính phủ đã cố gắng để tránh các khoản thuế đối

với ô tô gây ô nhiễm, mặc dù họ đã được khuyến khích

đưa ra các khoản phí cho xe hơi vào các khu vực không

khí sạch. Họ muốn các loại thuế là phương án cuối cùng,

và một người phát ngôn chính phủ đã chỉ ra một chương

trình khoảng 3.9 tỷ đô la để làm sạch không khí bẩn ở gần

các tuyến đường trong đó sẽ cung cấp ngân sách để thúc

đẩy các nỗ lực của địa phương, ví dụ như trang bị thêm

phương tiện giao thông công cộng, lập trình lại đèn tín

hiệu giao thông và thay đổi các tính năng đường như tốc

độ quạt và vòng xoay.

THỤY SỸ MỞ CỬA CÂY CẦU ĐI BỘ DÀI NHẤT THẾ GIỚI TRÊN DÃY NÚI ALPINE

Cây cầu treo dành cho người đi bộ dài nhất thế giới

đã được hoàn thành ở Thụy Sỹ, cầu có độ dài gần 500m,

độ cao 91m trên khe núi Alpine. Cầu treo Charles Kuonen

là một phần của tuyến đường mòn Europaweg kéo dài 2

ngày kết nối các thị trấn Grächen và Zermatt. Cây cầu đi

bộ đặc biệt này không dành cho những người sợ độ cao.

Cây cầu mới này được xây dựng để thay thế một cây cầu

cũ lâu năm bị phá hủy bởi đá rơi. Cây cầu được đặt tên

theo nhà tâm lý học Charon Kuonen – nhà tài trợ chính

của dự án.

CNN cho biết cây cầu được làm bằng vật liệu thép

nhưng chỉ rộng 60cm nên khách tham quan phải đi

hàng một khi di chuyển trên cầu. Trên bề mặt cầu đi bộ

có những rãnh hở nên khách bộ hành có thể nhìn xuống

dưới và ngắm khe núi Grabengufer trên đường đi. Cây

cầu được mở cửa vào cuối tháng 7 vừa qua và là nơi đặc

biệt dành cho những người đi bộ không sợ độ cao. Mặc

dù, đi trên cầu đi bộ cao nhất thế giới có thể là thử thách

đối với rất nhiều người nhưng cảnh quan tuyệt đẹp của

những ngọn núi hùng vĩ như Weisshorn, Matterhorn và

Bernese Alps sẽ là một trải nghiệm lí thú cho tất cả mọi

người. Cầu đi bộ còn giúp tiết kiệm thời gian nhiều hơn

vì nếu phải di chuyển qua thung lũng phải mất 3-4 giờ,

trong khi đó bạn chỉ mất 10 phút trên cầu đi bộ.

Theo Inhabitat

TRUNG QUỐC TẠO VŨ TRỤ ẢO LỚN NHẤT THẾ GIỚI BẰNG SIÊU MÁY TÍNH

Các nhà khoa học Trung Quốc tạo ra vũ trụ ảo lớn nhất

trên Sunway TaihuLight, máy tính có tốc độ tính toán

nhanh nhất thế giới tại Trung tâm Siêu máy tính Quốc gia,

South China Morning Post cuối tháng 7 đưa tin. Quốc gia

này hy vọng ba năm nữa sẽ dẫn đầu trong việc công bố

những phát hiện mới về quá trình hình thành vũ trụ.

Sự phát triển thế hệ tiếp theo của siêu máy tính cho

phép các nhà nghiên cứu kết hợp với phương tiện công

nghệ tiên tiến, chẳng hạn như kính thiên văn vô tuyến

lớn nhất thế giới, để mở khóa bí mật vũ trụ. Gao Liang,

trưởng nhóm nghiên cứu vũ trụ tại Đài quan sát Thiên văn

Quốc gia, Trung Quốc, nói rằng họ mô phỏng sự ra đời và

mở rộng của vũ trụ bằng cách sử dụng 10 nghìn tỷ hạt

kỹ thuật số. Quy mô dự án này lớn gấp 5 lần so với kỷ lục

trước đó của Đại học Zurich, Thụy Sĩ, thực hiện vào cuối

tháng trước. Các nhà khoa học mô phỏng vũ trụ bằng

77Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

TIN QUỐC TẾ

cách chia nhỏ nó thành vô số hạt nhỏ. Chúng tương tác

với nhau bằng các lực vật lý như lực hấp dẫn. Càng nhiều

hạt được đưa vào, nhóm nghiên cứu càng tính toán chính

xác sự hình thành và tiến hóa của vũ trụ. Quá trình này

có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề như bản chất và sự lan

truyền của năng lượng tối. Trong khi các nhà khoa học

châu Âu có thể duy trì vũ trụ giả lập trong 80 giờ, nhóm

nghiên cứu tại Trung Quốc chỉ mô phỏng vũ trụ trong

hơn 1 giờ. “Có rất nhiều phép tính được thực hiện cùng

lúc, chắc hẳn siêu máy tính cũng rất mệt”, Gao nói.

Gao cho biết, siêu máy tính Sunway TaihuLight sử

dụng tất cả 10 triệu lõi CPU, mỗi lõi chạy nhiều câu lệnh

khác nhau để tăng tốc độ tính toán. Kết quả mô phỏng

vũ trụ được đăng tải trên Science and Technology Daily,

tờ báo chính thức của Bộ Khoa học và Công nghệ Trung

Quốc, hôm 26/7. “Đây chỉ là một bài tập khởi động. Chúng

tôi vẫn còn một chặng đường dài phía trước để đạt được

mục đích của mình”, Gao nói.

Theo Vnexpress.net

PHÍA NAM NƯỚC ÚC CHUẨN BỊ XÂY DỰNG NHÀ MÁY NHIỆT ĐIỆN MẶT TRỜIĐƠN TẦNG LỚN NHẤT THẾ GIỚI

Nam Úc đang lại một lần nữa gây tiếng vang lớn vào

tháng trước khi Chính phủ nước này đã ký hợp đồng với

hãng Tesla để xây dựng nhà máy lưu trữ pin lithium-ion

lớn nhất thế giới. Nay, Chính phủ nước này lại công bố kế

hoạch xây dựng nhà máy nhiệt điện mặt trời lớn nhất thế

giới bên ngoài thành phố Port Augusta có tên là dự án

năng lượng mặt trời Aurora 150 megawatt.

Nhà máy này có trị giá 650 triệu đô la Úc (512 triệu

USD) sẽ bắt đầu được khởi công vào năm 2018 và dự định

được hoàn thành vào năm 2020 - cung cấp 100% nhu cầu

về năng lượng của Chính phủ. Dự án sẽ đem lại hơn 700

việc làm cho người dân ở địa phương.

Hợp đồng 20 năm để xây dựng và quản lý nhà máy

Aurora đã được trao cho Công ty SolarReserve có trụ sở

tại California. Nhà máy năng lượng mặt trời Aurora lần

đầu tiên sử dụng công nghệ muối nóng chảy để lưu trữ

năng lượng làm nhiệt - cho phép hoạt động cả ngày và

đêm. Thượng nghị sĩ Úc Nick Xenophon cho biết: “Điều

này sẽ tạo ra sự khác biệt trong thị trường năng lượng

Nam Úc. “Nó sẽ đảm bảo lưới điện, điện cơ bản hơn điện

năng không liên tục.”

Theo Inhabitat

78 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

TIN QUỐC TẾ

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH KẾT CẤU THEO TUẦN TỰ THI CÔNG

Phân tích kết cấu theo cách truyền thống thực hiện trên hệ kết cấu được mô phỏng hoàn chỉnh (kết cấu trong giai đoạn khai thác sử dụng). Quá trình phân tích được thực hiện khi tải trọng tác dụng lên hệ kết cấu hoàn chỉnh

Hình 1: Sơ đồ tính khi phân tích cả hệ

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH KẾT CẤU BÊ TÔNG CỐT THÉP

NHÀ CAO TẦNG THEO TUẦN TỰ

THI CÔNG

Tóm tắt: Phương pháp phân tích kết cấu theo giai đoạn

thi công hạn chế được các sai sót của việc phân tích cả hệ

kết cấu hoàn chỉnh. Bài báo này xem xét các thông số dùng

cho phương pháp phân tích và đánh giá tính hiệu quả của

phương pháp phân tích kết cấu theo giai đoạn thi công cho

nhà cao tầng bê tông cốt thép.

Từ khóa: Phân tích, thi công, dọc trục, kết cấu, bê tông,

cốt thép, nhà cao tầng.

Summary: The method of analyzing structure to the

construction phases can minimize the shortcomings of

the method of analyzing the complete structure system.

This article reviews the parameters used for the analysis

and evaluate the effectiveness of the structural analysis

method to the construction phases for the reinforced

concrete buildings.

Key words: Analyze, construction, vertical axis,

structure, concrete, reinforced, high-rise buildings

Khác biệt phương pháp trên, phân tích từng tầng theo tuần tự thi công (Hình 2) thực hiện theo các bước sau:

Hình 2: Phân tích tĩnh phi tuyến theo tuần tự thi công ở mỗi tầng

Nội lực, biến dạng do co ngót, từ biến, trọng lượng kết cấu và ứng xử phi tuyến đối với tầng 1 được tính toán => Lập sơ đồ tầng 2 phía trên tầng 1 => Tải trọng ấn định trên tầng 2 => Các ứng xử của sơ đồ mới được tính toán => Tiếp tục quá trình cho các tầng trên, kết quả phân tích có xét đến tuần tự thi công.

Phương pháp phân tích theo tuần tự thi công đã được tích hợp trong các phần mềm phân tích kết cấu, với tên gọi Stage construction (SAP), Sequential construction analysis (ETABS), được dịch là “phân tích theo giai đoạn thi công”. Thuật ngữ “giai đoạn thi công” có thể gây hiểu sai theo nghĩa đây là

TS.Vũ Hoàng Hiệp*

Nhận ngày 02/8/2017, chỉnh sửa ngày 27/8/2017, chấp nhận đăng ngày 30/8/2017.

79Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG

* Trưởng khoa Xây dựng, Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội

công tác thiết kế kết cấu ở giai đoạn thi công. Về bản chất, từ lúc xây dựng, các cấu kiện đã bị tác động và có những ứng xử, đã được điều chỉnh bằng biện pháp thi công, gây ảnh hưởng đến sự làm việc của kết cấu khi đã hoàn chỉnh ở “giai đoạn sử dụng”. Như thế, kết cấu khi khai thác, sử dụng mới được xem xét toàn diện.

Trong Hình 2, quá trình gán thêm các tầng phía trên, biến dạng dọc trục chênh lệch giữa các cột tầng dưới (gọi là hiện tượng shortening) đã được đổ bù bê tông, để đảm bảo dầm sàn tầng trên bằng phẳng cùng cao độ. Điều này đã mô phỏng đúng thực tế quá trình thi công kết cấu bê tông cốt thép toàn khối.

Để minh họa bản chất của phương pháp, kết cấu khung 15 tầng, 2 nhịp điển hình được khảo sát theo 2 cách phân tích. Chiều cao tầng 3,4m. Nhịp dầm 6m. Cột biên có kích thước tiết diện 50x50cm, cột giữa tiết diện 50x120cm, dầm tiết diện 30x60cm. Vật liệu bê tông cấp độ bền B30. Kết quả chênh lệch chuyển vị đứng cột biên và giữa phân bổ rất khác biệt như Hình 3:

a) Phân tích trên kết cấu hoàn chỉnh b) Phân tích theo tuần tự thi công

Hình 3: So sánh chênh lệch cao độ cột biên và cột giữa theo 2 cách phân tích

HIỆN TƯỢNG BIẾN DẠNG DỌC TRỤC CÁC CẤU KIỆN THẲNG ĐỨNG CHÊNH LỆCH TRONG NHÀ CAO TẦNG

Trong hệ kết cấu bê tông cốt thép (BTCT), do tác động kết hợp của biến dạng co ngót, từ biến và ứng suất nén gây nên biến dạng dọc trục trong các cột, vách, lõi. Ở các nhà cao tầng, các cột bao quanh thường có khuynh hướng co ngắn nhiều hơn so với vách và lõi bên trong (hiện tượng shortening), dẫn đến sự chênh lệch đáng kể về biến dạng dọc trục, gây nên sự phân phối lại nội lực rất bất lợi, như Hình 4:

Hình 4: Mô tả hệ quả của hiệu ứng shortening [2]

Lực dọc trong các cột, vách sẽ được phân phối lại. Mô men trong các dầm tập trung rất lớn tại đầu liên kết với cấu kiện đứng ít bị co ngắn hơn, mô men đầu dầm còn lại thậm chí còn đổi dấu. Điều này dẫn đến phải bố trí cốt thép tập trung, không phân đều, thi công khó khăn và quan trọng hơn, liệu kết quả nội lực đó có phản ánh đúng thực tế hay không.

Trong thực tế thi công, tải trọng bản thân của kết cấu và khối xây đã được chất từng bước theo thời gian. Việc thi công tuần tự các tầng đã triệt tiêu một phần chênh lệch chuyển vị cộng dồn do đổ bê tông đã bù cột, hiệu chỉnh cao độ thống nhất tại mỗi sàn. Vì vậy, hệ quả của shortening không lớn như trong tính toán hệ kết cấu hoàn chỉnh. Việc tính toán hệ kết cấu không xét đến sự triệt tiêu của hiệu ứng shortening theo giai đoạn thi công dẫn đến một sự sai lệch về kết quả [2]. Kết quả so sánh chuyển vị đứng của cột biên và cột giữa trên Hình 3 cho thấy, việc phân tích kết cấu theo tuần tự thi công đã thay đổi trị số cũng như phân bố độ chênh lệch chuyển vị của cấu kiện đứng, rõ nhất là tại tầng mái.

Đã có nhiều nghiên cứu nêu rõ các nguyên nhân gây biến dạng dọc trục cột BTCT là: Biến dạng co ngót, từ biến của bê tông, tác động nhiệt, các tải trọng thi công, tải rung động, biến dạng đàn hồi do lực dọc cột [1][3][4][6]. Những kết luận biến dạng dọc trục khác biệt giữa các cột và vách trong cùng một công trình dẫn đến phân bố nội lực rất không đồng đều trong kết cấu toàn nhà, bỏ qua sự co ngắn khác nhau của cột, vách có thể dẫn đến sự cố trong kết cấu và các bộ phận phi kết cấu của tòa nhà đã được đưa ra [3][4][8]. Đặc biệt là đưa ra các đánh giá về sự cần thiết và hiệu quả của phương pháp phân tích kết cấu theo tuần tự thi công (giai đoạn thi công) trong các công trình cao tầng [2][3][6][9].

Tuy nhiên, ngoại trừ một số công trình siêu cao tầng, công trình cầu nhịp lớn, việc sử dụng phương pháp phân tích kết cấu theo tuần tự thi công không phổ biến trong thực tế thiết kế công trình cao tầng ở Việt Nam, dù số lượng các công trình cao 30 đến 45 tầng không hiếm. Lý do có thể xuất phát từ tâm lý ngại thay đổi của người thiết kế, do số lượng các

80 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG

phương án tải khá lớn, một số thông số đầu vào cho phân tích chưa thực sự dễ dàng nắm bắt để lựa chọn. Các nội dung sau của bài báo sẽ đề cập, phân tích và đề xuất về các thông số sử dụng cho phương pháp phân tích này, so sánh các kết quả nội lực giữa phương pháp phân tích theo tuần tự thi công và chỉ phân tích trên cả hệ kết cấu hoàn chỉnh. Đối tượng nghiên cứu là kết cấu BTCT toàn khối trong nhà cao tầng.

LỰA CHỌN CÁC THÔNG SỐ DÙNG CHO PHÂN TÍCH KẾT CẤU

Tải trọng đưa vào phân tíchTheo bản chất phương pháp

phân tích kết cấu trình bày ở mục 2, không phải tất cả các loại tải trọng và tác động vào công trình đều được đưa vào phương pháp phân tích theo tuần tự thi công. Các tải trọng tạm thời như hoạt tải sử dụng, gió, động đất gán tác dụng lên hệ kết cấu đã hoàn chỉnh, phân tích theo các phương pháp truyền thống.

Thành phần tĩnh tải có ảnh hưởng trực tiếp đến biến dạng co ngắn các cấu kiện thẳng đứng trong quá trình xây dựng, mới đưa vào phân tích theo phương pháp tuần tự thi công. Cụ thể chỉ có phần trọng lượng bản thân kết cấu (dầm, sàn, cột, vách, lõi) và những phần hoàn thiện song song với thi công kết cấu (xây tường chèn), được phân tích theo tuần tự thi công, còn các tĩnh tải hoàn thiện khi kết cấu thi công xong được phân tích trên hệ đã hoàn chỉnh.

Các số liệu phân loại tĩnh tải được thực hiện trên 2 dạng công trình cao tầng điển hình cho thấy: Với công trình văn phòng, tổng trọng lượng bản thân kết cấu chiếm 75÷80% tĩnh tải, phần hoàn thiện chiếm 20÷25% tĩnh tải toàn công trình; Với công trình chung cư, tổng trọng lượng bản thân kết cấu chiếm 55÷60% tĩnh tải, phần hoàn thiện chiếm 40÷45% tĩnh tải toàn công trình.

Tiến độ thi côngThông số này trong phương pháp phân tích theo tuần tự thi công là số

ngày thi công kết cấu chịu lực BTCT của 1 tầng. Với các số liệu tiến độ trung bình 7÷10 ngày/tầng, thay đổi thông số trong khoảng này không làm chuyển vị chênh lệch giữa các cột - vách nhiều, chỉ 5÷7%.

Hệ số co ngótCác hệ số co ngót Bsc và hệ số loại xi măng s xét ảnh hưởng biến dạng co

ngót của bê tông trong phương pháp phân tích theo tuần tự thi công bằng phần mềm ETABS 2015.

Theo tiêu chuẩn TCVN 5439-2004 về phân loại xi măng và đối chiếu tiêu chuẩn CEB-FIP 1990, các loại xi măng sử dụng phổ biến ở Việt Nam hiện nay thuộc loại tốc độ đóng rắn trung bình, có thể lấy thông số Bsc=5 và s=0,25.

Mô hình từ biếnETABS 2015 dùng 2 mô hình từ biến dùng trong phân tích là tích phân đầy

đủ (Full integration) và chuỗi Dirichlet ( Dirichlet series).Chuỗi Dirichlet được kiến nghị áp dụng thích hợp khi tính toán các kết cấu

kích thước lớn, còn mô hình tích phân đầy đủ được khuyên dùng cho các công trình có kết cấu vừa và nhỏ.

Thông số mô đun đàn hồi của bê tôngPhương pháp phân tích kết cấu theo tuần tự thi công thực hiện quá trình

phân tích ngay từ thời điểm xây dựng, do vậy trị số mô đun đàn hồi của bê tông cũng được xác định tại thời điểm này, không phải trị số giả định lúc khai thác, sử dụng.

Quan hệ mô đun đàn hồi Quan hệ mô đun đàn hồi tại tuổi t ngày với mô đun đàn hồi tại 28 ngày Eci

theo CEB-FIP 1990: (1)

trong đó: : hệ số phụ thuộc thời gian,

(2) s: hệ số phụ thuộc loại xi măng, khai báo theo mục 3.3 nêu trên. t: đơn vị ngàyMỘT SỐ KẾT QUẢ PHÂN TÍCH KẾT CẤU BTCT NHÀ CAO TẦNG THEO

TUẦN TỰ THI CÔNGMô hình kết cấu 1Khảo sát kết cấu khung trục 2 của công trình 16 tầng, mặt bằng như Hình 5:

Hình 5: Mặt bằng kết cấu công trình 16 tầng

Tiến hành 2 phương pháp phân tích kết cấu chịu tác dụng tĩnh tải: Phân tích trên cả hệ kết cấu hoàn chỉnh (PTHC) và theo tuần tự thi công (PTTTTC). Tiết diện cột được chọn theo 2 cách: Chọn tiết diện sát tính toán sơ bộ nội lực

81Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG

(Acột.tt) và chọn nhóm tiết diện cột như nhau cho dễ thi công (Acột.tc). Kết quả thu được mô men tiết diện ở cuối dầm tầng mái như Bảng 1:

Bảng 1: Mô men đầu dầm do tĩnh tải công trình 16 tầngKết quả trên cho thấy, tuy công trình có số tầng không

lớn, nhưng nếu ứng suất nén trong các cột chênh lệch nhiều (do chọn tiết diện cột không sát nội lực) thì ảnh hưởng của shortening đáng kể và cần thiết phải phân tích kết cấu theo phương pháp tuần tự thi công.

Mô hình kết cấu 2Khảo sát kết cấu trục 2 của công trình 25 tầng có mặt

bằng như Hình 6:

Hình 6: Mặt bằng kết cấu công trình 25 tầng

So sánh kết quả mômen trong dầm do tĩnh tải theo 2 phương pháp phân tích: Phân tích trên cả hệ kết cấu hoàn chỉnh (PTHC) và kết hợp 2 phương pháp (PTKH). Khi kết hợp 2 phương pháp phân tích, phần tĩnh tải do trọng lượng bản thân kết cấu theo tuần tự thi công, phần tĩnh tải hoàn thiện phân tích trên hệ đã hoàn chỉnh.

Cuối cùng là so sánh kết quả tổ hợp mômen trong dầm do tĩnh tải và các hoạt tải, gió, động đất: Phân tích trên cả hệ kết cấu hoàn chỉnh (PTHC) và kết hợp 2 phương pháp (PTKH). So sánh trình bày trong Bảng 2:

Bảng 2: Mômen đầu dầm do tĩnh tải và tổ hợp nội lựcKết quả cho thấy, kết cấu khung - lõi luôn có chênh lệch

chuyển vị đứng giữa cột và lõi lớn, ảnh hưởng shortening

rõ nét, thậm chí có những vùng kết quả mômen đầu dầm còn đổi cả dấu nếu phân tích kết cấu theo 2 phương pháp. Tuy nhiên không nên nhìn nhận độc lập chỉ phân tích với tải trọng tĩnh, về tổng thể kết quả tổ hợp cuối cùng, nội lực của hệ kết cấu sẽ chênh lệch ít hơn khi áp dụng phương pháp phân tích theo tuần tự thi công vào thiết kế.

Ảnh hưởng chênh co ngắn các cấu kiện thẳng đứng của kết cấu nhà cao tầng BTCT là đáng kể tới nội lực và biến dạng của cả hệ. Việc áp dụng phương pháp phân tích kết cấu theo tuần tự thi công se hạn chế được các sai lệch kết quả nội lực so với phân tích cả hệ kết cấu hoàn chỉnh. Các thông số phục vụ phân tích kết cấu theo tuần tự thi công đã được chỉ rõ cho áp dụng thực tế. Để giảm ảnh hưởng của hiện tượng chênh lệch biến dạng dọc trục, cần lựa chọn tiết diện các cấu kiện phù hợp nhất với nội lực thu được từ tính toán sơ bộ.

Tài liệu tham khảo[1]. Cao Duy Khôi, Đánh giá hiệu ứng co ngắn cột qua

kết quả đo đạc tại một số công trình nhà siêu cao tầng bê tông cốt thép, Hội nghị khoa học Vật liệu, Kết cấu & Công nghệ Xây dựng MSC-2012, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, trang 274-282. 2012.

[2]. Hồ Việt Hùng, Shortening - Nguyên nhân, mâu thuẫn và phương pháp hạn chế sai sót, Ketcaushoft Group. Hà Nội. 2001.

[3]. The Concrete Society, Axial shortening of columns, Concrete Society Technical Report, New York. 2008

[4]. Mallick P.K., Axial deformation of column in tall structures, E-Conference on Design and Construction of Tall Buildings, Structural Engineering Forum of India. 2012.

[5]. Mark Fintel, S.K. Ghosh, Hal Iyengar, Column Shortening in tall strucutures - Prediction and Compensation , Technical Report, New York. 2012.

[6]. Mola F., Pellegrini L.M., Effects of column shortening in tall R.C. buildings, 35th Conference on Our World in Concrete & Structures, Singapore. 2010.

[7]. Nilson A.H., D.Darwin, C.W.Dolan, Design of concrete structures, Mc Graw Hill, New York. 2010.

[8]. Praveen HN Moragaspitiya, Interactive axial shortening of columns and walls in high rise buildings, Doctoral papers presented in April, 2011, Queensland University of Technology. 2011.

[9]. Vafai A. Ghabdian M, Estekanchi H.E, Desai C.S. (), Calculation of creep and shrinkage in tall Concrete buildings using nonlinear staged Construction analysis, Asian Journal of Civil Engineering (Building and Housing), Vol.10, No.4. 2009.

Lựa chọn

tiết diện cột

Acột.tt

Acột.tc

Chênh lệch

(%)

7,55

33,24

Vị trí

tiết diện

cuối

cuối

Mômen dầm theo phương

pháp phân tích (kNm)PTHC

-217,39

-144,12

PTTTTC

-200,97

-192,03

Dầm

B1

B1

Tầng

16

16

Tải trọng

Tĩnh tải

Tổ hợp

Chênh lệch

(%)

28,57

21,16

Vị trí

tiết diện

cuối

cuối

Mômen dầm theo phương

pháp phân tích (kNm)PTHC

-474,11

-661,46

PTKH

-338,62

-521,52

Dầm

B4

B4

Tầng

25

25

82 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG

* ĐH Kiến Trúc Hà Nội

TS. Nghiêm Vân Khanh*

NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT

PHƯƠNG ÁN PHÂN LOẠI

TẠI NGUỒN VÀ CẢI THIỆN

HOẠT ĐỘNG THU HỒI

TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN

SINH HOẠT

ĐẾN NĂM 2030 (Khảo sát tại tỉnh Quảng Ninh)

83Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG

Tại Quảng Ninh, chất thải rắn được quản lý theo cách tiếp cận “Quản lý tổng hợp chất thải rắn”, ưu tiên theo thứ tự: Phòng ngừa, giảm thiểu, tái sử dụng, thu hồi vật liệu, thu hồi năng lượng trước khi đến bước xử lý cuối là chôn lấp hợp vệ sinh. Đến năm 2030, để giảm bớt khối lượng chất thải rắn phải chôn lấp nhằm kéo dài tuổi thọ của khu xử lý, tăng cường tỷ lệ tái chế

Tóm tắt: Việc phân loại chất thải rắn tại nguồn là một việc làm có ý nghĩa rất lớn, mục đích cơ bản là tách chất thải hữu cơ, tách thành phần nguy hại, phần còn lại đưa đi chôn lấp. Chất thải hữu cơ có thành phần chủ yếu là các chất dễ phân hủy và là những chất có độ ẩm cao, tạo lượng nước rác lớn cùng với mùi hôi gây ô nhiễm môi trường, chúng có thể xử lý làm phân bón hoặc đốt thu hồi năng lượng, nên không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn giải quyết nhiều vấn đề về môi trường. Bài báo đề xuất các nguyên tắc, lộ trình phân loại chất thải rắn sinh hoạt đô thị và phương án cải thiện hoạt động thu hồi, tái chế chất thải rắn sinh hoạt nhằm giúp cho tỉnh Quảng Ninh có thể đạt được các mục tiêu theo quy hoạch quản lý chất thải rắn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 của tỉnh đã đặt ra.

Từ khóa: Chất thải rắn sinh hoạt, phân loại tại nguồn, thu hồi, tái chế.

Summary: The classification of solid waste at the source is of great significance. Its fundamental aims are to separate organic waste, hazardous elements, the rest is dumped. Organic waste has a major component of biodegradable substances and is a high humidity substance that produces large quantities of garbage water and bad odors polluting the environment, which can be treated to be fertilizers or can be heated to collect energy. This is not only economically meaningful but also solves environmental problems. The article proposes principles, routes to classify urban domestic solid waste and solutions to improve the activities of collecting, recycling domestic waste so as to help Quang Ninh province to achieve its aims of planning the solid waste management up to the year 2030, vision 2050.

Key words: Domestic solid waste, classify at source, collect, recycle

Nhận ngày 10/7/2017, chỉnh sửa ngày 20/7/2017, chấp nhận đăng ngày 27/7/2017

và sản xuất phân hữu cơ, đốt thu hồi năng lượng, chất

thải rắn sinh hoạt cần được thực hiện phân loại tại nguồn

theo 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ 2017 đến 2020 và giai

đoạn 2 từ 2020 đến 2030. Đây là một trong những giải

pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý chất thải

rắn. Dưới đây là các nguyên tắc, lộ trình cần xây dựng kế

hoạch để tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân về

phân loại chất thải rắn ngay tại nguồn phát sinh cũng

như các phương án cần xem xét để cải thiện tốt hơn hiệu

quả của hoạt động thu hồi, tái chế chất thải rắn trên địa

bàn tỉnh.

NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI TẠI NGUỒNChất thải rắn sinh hoạt cần được phân loại tại nguồn

thành 3 loại sau:

- Chất thải hữu cơ: Các loại rau, củ quả, trái cây, thức

ăn thừa... đựng bằng túi nylon màu xanh, thể tích túi trên

10 lít (chứa từ 3,5 - 4kg). Các loại chất thải này sẽ được

chuyển tới nhà máy chế biến phân hữu cơ.

- Chất thải có thể tái chế: Giấy, nhựa, kim loại, thuỷ

tinh... sử dụng túi nylon màu tối. Sau khi qua phân tách

cụ thể tại điểm trung chuyển, chất thải tái chế từng loại sẽ

được tiếp tục chuyển tới các cơ sở tái chế.

- Chất thải khác: Không còn khả năng tái chế, tái sử

dụng bao gồm cao su, xỉ than, đất đá, sành sứ vỡ. Để lưu

giữ chất thải này sẽ vận động nhân dân dùng chính các

túi nylon phế thải hoặc các đồ chứa có sẵn trong dân.

Những thành phần này sẽ được xử lý bằng biện pháp

chôn lấp hợp vệ sinh.

Việc phân loại tại nguồn được thực hiện thông qua

các thiết bị thu gom phân loại tại nguồn với sự phối hợp

chặt chẽ của cộng đồng dân cư, các doanh nghiệp và đơn

vị thu gom chất thải rắn. Phương thức thu gom chung đối

với chất thải rắn đô thị áp dụng như sau:

Chất thải rắn sinh hoạt từ hộ gia đình: Trong mỗi gia

đình có hai thùng đựng rác, một loại đựng rác thải hữu

cơ (hoa, rau, quả, thức ăn thừa, bã chè, cà phê, lá cây, cây

thân cỏ…) và một loại đựng rác thải vô cơ (xương, cành

cây, vỏ sò, hến, sành sứ, vải, than tổ ong, mẩu thuốc lá,

tã bỉm…). Thùng đựng rác phải có nắp đậy kín, đảm bảo

vệ sinh mỹ quan. Mỗi gia đình có thế sử dụng túi lót bên

trong thùng đựng rác, là loại túi đựng rác không thu hồi

(túi được làm bằng giấy hoặc bằng chất dẻo), kích thước

màu sắc của túi được tiêu chuẩn hóa để tránh sử dụng túi

vào mục đích khác, túi màu xanh đựng chất thải hữu cơ,

túi màu vàng đựng chất thải vô cơ.

Hệ thống lưu chứa, thu gom chung cho các khu dân cư

được quy hoạch ở những nơi thuận tiện trên toàn bộ khu

vực có dịch vụ thu gom, các loại thùng lưu chứa rác thải

có bánh xe được đặt cố định tại các vị trí quy hoạch. Tại

vị trí cố định thu gom rác sẽ được đặt hai thùng rác màu

sắc khác nhau, thùng rác màu xanh đựng rác thải hữu cơ,

thùng rác màu vàng đựng rác thải vô cơ. Do các thùng

này được đặt tại các vị trí cố định nên các hộ gia đình có

thể đổ rác thải vào bất kỳ thời gian nào trong ngày.

Chất thải rắn sinh hoạt của các cơ quan, trường học, cơ

sở dịch vụ: Tuỳ theo tính chất các cơ quan, trường học, cơ

sở dịch vụ và khối lượng rác tích luỹ hàng ngày mà chọn

thời gian thu gom và thùng chứa thích hợp. Đối với nhà

hàng, khách sạn lớn, khối lượng rác nhiều có thể đặt cả

xe đẩy để đổ rác trực tiếp vào đó, sau 1 ngày rác đầy sẽ

đổi xe.

Chất thải rắn sinh hoạt của các khu vực công cộng như

chợ, đường phố, công viên, các khu vui chơi giải trí…:

Rác thường chiếm một tỷ trọng khá lớn và gặp nhiều khó

khăn. Tuỳ vị trí và khối lượng cụ thể của từng khu vực mà

đặt các thùng đựng rác có nắp dung tích 60l, 120l, 200l

dọc theo các đường phố, với đường phố trung tâm các

thùng đặt cách nhau 100 - 200m, các đường khác các

thùng đặt cách nhau 300 - 400m.

Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân về phân loại chất thải rắn ngay tại nguồn phát sinh

Tuỳ vị trí và khối lượng cụ thể của từng khu vực mà đặt các thùng đựng rác có nắp dọc theo các đường phố

84 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG

85Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG

XÁC ĐỊNH LỘ TRÌNH PHÂN LOẠI TẠI NGUỒN Việc xác định lộ trình thực hiện việc phân loại chất

thải rắn tại nguồn đối với từng đô thị phụ thuộc vào các

yếu tố:

- Tình hình phát triển kinh tế- xã hội của đô thị

- Tốc độ đô thị hoá

- Năng lực xử lý chất thải rắn

Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh chưa thực hiện phân loại

tại nguồn. Để đạt được các mục tiêu theo quy hoạch

quản lý chất thải rắn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm

nhìn đến 2050 đặt ra thì đến năm 2020, tỉnh Quảng Ninh

sẽ phải thực hiện tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng

dân cư và các trường học, công sở. Triển khai thí điểm

phân loại rác tại 1 hoặc một số phường của thành phố

Uông Bí theo mô hình 3R, triển khai thí điểm tại một số

trường học, cơ quan để dần hình thành ý thức trong cộng

đồng sau đó nhân rộng ra các địa phương khác. Các đô

thị còn lại sẽ thực hiện sau năm 2020 [2].

Bảng 1 thể hiện lộ trình phân loại chất thải rắn tương

ứng với các giai đoạn phát triển của các đô thị được đề

xuất theo mô hình tại hình 1.

Kết hợp với mục tiêu và mức độ ưu tiên về công tác

phân loại chất thải rắn tại nguồn đối với từng đô thị theo

quy hoạch bảo vệ môi trường [1] được thể hiện ở bảng 2.

Hình 1. Sơ đồ tổng quát về mô hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh [2]

Bảng 1. Đề xuất lộ trình thực hiện phân loại chất thải rắn tại nguồn

Bảng 2. Mục tiêu và mức độ ưu tiên về công tác phân loại chất thải rắn tại nguồn đối với từng đô thị vào năm 2020 và 2030

TT

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Nguồn phát sinh chất thải rắn

Nhà ở, hộ gia đình

Trường học, cơ quan, công sở

Nhà hàng, khách sạn, quán ăn

Khu di tích lịch sử văn hóa, khu vui

chơi giải trí

Bệnh viện, cơ sở y tế (chi tính chất thải

rắn thông thường)

Chợ

Trung tâm thương mại, siêu thị

Các cơ sở dịch vụ, buôn bán

Các cơ sở sản xuất công nghiệp (chi

tính riêng phần chất thải rắn sinh

hoạt)

Đường phố

Lộ trình phân loại tại nguồn

Từ 2017- 2020

2 nhóm (1 và 2)

2 nhóm (1 và 2)

2 nhóm (1 và 2)

2 nhóm (1 và 2)

2 nhóm (1 và 2)

2 nhóm (1 và 2)

2 nhóm (1 và 2)

2 nhóm (1 và 2)

2 nhóm (1 và 2)

2 nhóm (1 và 2)

Sau 2020

3 nhóm

(1, 2A, 2B)

3 nhóm

(1, 2A, 2B)

3 nhóm

(1, 2A, 2B)

3 nhóm

(1, 2A, 2B)

3 nhóm

(1, 2A, 2B)

2 nhóm

(1 và 2)

3 nhóm

(1, 2A, 2B)

3 nhóm

(1, 2A, 2B)

3 nhóm

(1, 2A, 2B)

2 nhóm

(1 và 2)

Khu vực

TP Hạ Long

TP Móng Cái

TP Cẩm Phả

TP Uông Bí

Huyện Bình Liêu

Huyện Tiên Yên

Huyện Đầm Hà

Huyện Hải Hà

Huyện Ba Chẽ

Huyện Vân Đồn

Huyện Hoành Bồ

Huyện Đông Triều

T.X Quảng Yên

Huyện Cô Tô

Ghi chú

Dự án ưu tiên

Dự án ưu tiên

Dự án ưu tiên

Dự án ưu tiên

Dự án ưu tiên

Dự án ưu tiên

Dự án ưu tiên

BCL ◎

-

-

-

-

-

-

-

3R

2020

BCL -

-

-

-

-

-

-

3R

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

-

2030

Ghi chú:

◎: Hoàn thành dự án; “BCL” bao gồm cả hệ

thống xử lý nước rác và thiết bị bãi rác

PHƯƠNG ÁN CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG THU HỒI – TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT

Vai trò của ngành tái chế không chính thống,

tự phát các phế liệu thu hồi hiện còn bị hạn chế

bởi thực tế là hiện có rất ít hộ dân thực hiện phân

loại chất thải rắn thải tại nguồn. Khi hoạt động

phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn được

thực hiện, tỷ lệ các phế liệu có thể tái chế sẽ được

tách ra từ dòng thải dao động từ 12 – 18% trọng

lượng của chất thải. Các thành phần khác ít có giá

trị kinh tế thì không thu hồi để tái chế.

Duy trì hoạt động thu hồi các vật liệu tái chế

từ chất thải rắn sinh hoạt theo phương thức hoạt

động không chính thống tập trung chủ yếu tại

các đô thị Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái, Hoành

Bồ, Đông Triều, Quảng Yên.

Xu hướng sau năm 2020, hoạt động này sẽ cần

được Ủy ban nhân dân của các đô thị tổ chức lại

với sự phát triển hoạt động phân loại tại nguồn

trên toàn bộ các đô thị thuộc tỉnh.

Hai cách tiếp cận cơ bản để cải thiện công tác

thu hồi phế liệu từ chất thải tại các đô thị trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh bao gồm:

- Cải thiện vận hành của ngành thu hồi, tái chế

không chính thống/quy mô nhỏ với trọng tâm lâu

dài trong việc lồng ghép cùng với hoạt động của

thu gom, xử lý

- Phần lớn các hoạt động thu hồi và tái chế phế

liệu từ chất thải được thực hiện bởi khối tư nhân.

Các trợ giúp tài chính và kỹ thuật nhằm mục đích

cải thiện điều kiện làm việc.

- Mở rộng năng lực hiện có của các công ty môi

trường đô thị/công ty quản lý công trình đô thị

bao gồm cả hoạt động thu hồi tái chế. Như vậy,

các hoạt động thu hồi và tái chế chất thải của khối

tư nhân sẽ được trao cho khối doanh nghiệp công

ích, mở rộng các chức năng của hệ thống quản lý

chất thải rắn do công ty môi trường đô thị/công ty

quản lý công trình đô thị đảm nhiệm.

Việc so sánh hai phương án cải thiện thu hồi

phế liệu từ chất thải rắn được thể hiện ở bảng 3.

Phương án 1: Cải thiện vận hành của ngành thu hồi, tái chế không chính

thống/ quy mô nhỏ

Phương án 2: Mở rộng năng lực hiện có của các công ty môi trường đô thị/công

ty quản lý công trình đô thị bao gồm cả hoạt động thu hồi tái chế

Ưu điểm

Nhược điểm

Những liên can

tài chính

Ưu điểm

Nhược điểm

Những liên can

tài chính

Sử dụng được nguồn lực hiện có của ngành thu hồi tái chế đang hoạt

động trên địa bàn các đô thị của tinh Quảng Ninh và đóng vai trò quan

trọng trong việc giảm thiểu khối lượng rác thải tại các bãi chôn lấp.

Triển vọng mang lại hiệu quả cao hơn vì có ít trở lực hơn so với khối

doanh nghiệp công ích.

Dịch vụ còn nằm ngoài tầm kiểm soát trực tiếp của các công ty môi

trường đô thị/công ty quản lý công trình đô thị, dịch vụ do khối này

cung cấp hiện được vận hành theo cách thức hỗn tạp và không chính

thống.

Rủi ro về tài chính của dịch vụ được loại trừ hoàn toàn.

Có sự dung hòa khá lớn cho thành phố khi khối tư nhân có trách

nhiệm làm tăng thêm vốn đầu tư cần thiết để vận hành dịch vụ. Sẽ có

đòi hỏi về quỹ dành cho giáo dục cộng đồng.

Dịch vụ nằm trong tầm kiểm soát trực tiếp của các công ty môi trường

đô thị/công ty quản lý công trình đô thị. Các yếu tố ảnh hưởng bên

ngoài được giảm thiểu).

Có sự liên quan với các Sở ban ngành khác của thành phố. Các chiến

dịch giảm thiểu /tái chế chất thải được thuận lợi hơn so với phương

án khác.

Dịch vụ sẽ gây ra hậu quả làm mất kế sinh nhai của những người

nhặt rác. Điều này gây ra những liên can nghiêm trọng về tài chính và

những bất lợi về tài chính và xã hội cho những người trong cộng đồng.

Cần thiết phải có sự bao cấp của UBND Tinh để thu hồi chi phí.

Phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn là yếu tố quyết định, nhằm đảm bảo hiệu quả cho các khâu thu gom, vận chuyển, trung chuyển, thu hồi, tái chế và xử lý đạt được tối ưu nhất. Hiện nay, tại tỉnh Quảng Ninh việc phân loại chất thải rắn tại nguồn chưa được thực hiện. Vì vậy, để tạo được sự thành công ngay từ đầu, tỉnh cần xây dựng được lộ trình và lựa chọn phương án thực hiện công tác phân loại chất thải rắn tại nguồn theo quy hoạch, gắn với đặc thù cụ thể tại môi đô thị trong địa bàn tỉnh.

Tài liệu tham khảo1. Quy hoạch môi trường tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030.

2. Quy hoạch quản lý chất thải rắn tỉnh Quảng Ninh đến năm

2030, tầm nhìn đến năm 2050.

86 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG

Thành phố Melbourne của bang Victoria - Australia đã phá kỷ lục với danh hiệu “Thành phố đáng sống nhất thế giới” tới năm thứ 6 liên tục trong bảng xếp hạng những thành phố đáng sống nhất trên toàn cầu do Economist Intelligence Unit bình chọn. Melbourne có không khí trong lành, an ninh tốt, nhiều công viên, công trình cổ được bảo tồn bên cạnh những tòa nhà hiện đại; Nền văn hóa đa dạng, phong phú nhưng có sự thống nhất; Người dân thân thiện, thú vị; Các công trình nghệ thuật khắp nơi; Phương tiện đi lại độc đáo và thuận lợi; Những con hẻm sôi động với nhiều nơi để nghỉ ngơi vào cuối tuần… Đặc biệt là chiến lược dài hạn về quy hoạch và phát triển đô thị bền vững đã góp phần giúp cho thành phố được đánh giá cao nhất thế giới về giá trị cuộc sống ở đây.

Các nhà quy hoạch và kiến trúc sư thành phố Melbourne đã có kế hoạch mở rộng thành phố để kịp thời đáp ứng được số dân đang tăng lên nhanh chóng cũng như bắt kịp xu hướng và sự thay đổi cách sống của người dân. Một số dự án lớn như mở rộng trung tâm thương mại của nội đô và xây dựng quận thương mại trung tâm (CBD) của toàn vùng đô thị Melbourne. Thành phố này còn đóng vai trò là trung tâm tài chính lớn của nước Úc và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Thành phố nổi tiếng với nhiều hẻm và khu mua sắm có tiếng, những tòa nhà kiến trúc thời Victoria đến đương đại cũng như nhiều công viên cây xanh rộng lớn. Năm trong số sáu tòa nhà cao nhất nước Úc cũng đang tọa lại tại thành phố này. Trong những năm gần đây, khu vực này đã nổi lên thành một thiên đường cho nghệ thuật đường phố.

THÀNH PHỐ MELBOURNE VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ

Thành Phố Melbourne là thành phố trung tâm về phát triển kinh tế và là đô thị hiện đại của Bang Victoria – nước Úc. Thành phố này đã có nhiều chiến lược trong công tác quy hoạch và đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp và du khách. Chiến lược quy hoạch thành phố bắt đầu từ việc ban hành các văn bản pháp luật quy định những chính sách, điều khoản về sử dụng, phát triển và bảo vệ đất đai. Những quy định về quy hoạch phát triển thành phố đề cập đến một phạm vi rộng lớn về các mặt như: Giới hạn về độ cao của tòa nhà, đảm bảo việc sử dụng đất có trật tự và bền vững. Mỗi thành phố của Bang Victoria đều có một Chương trình quy hoạch riêng để quản lý việc sử dụng, phát triển và bảo vệ đất ở địa phương mình dựa trên nhu cầu về sử dụng đất ở thời điểm hiện tại và tương lai. Một số dự án quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng của thành phố Melbourne được điều hành bởi chính quyền bang Victoria và Chính phủ, một số cơ quan quản lý quốc gia và doanh nghiệp tư nhân. Thành Phố Melbourne là thành phần chủ chốt của các dự án và đóng vai trò đại diện cho người dân của thành phố.

Vào tháng 5 năm 2014, Chính quyền Bang Victoria đã công bố Chiến lược Melbourne, một chiến lược quy hoạch đô thị để hướng sự phát triển của thành phố đến năm 2026. Chiến lược này được xây dựng trên một quá trình tham vấn rộng rãi sau khi công bố bản báo cáo thảo luận có tên ‘Melbourne, chúng ta hãy nói về tương lai’.

Thanh Loan

87Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

XÂY DỰNG THẾ GIỚI

Các buổi họp lấy ý kiến đóng góp từ cộng đồng về bản Chiến lược Melbourne đã được tổ chức tại các địa điểm chính trong thành phố. Chiến lược này đã phản ánh tầm nhìn dài hạn về các mặt: Nhà ở, tạo việc làm và ổn định cuộc sống, tích hợp giao thông công cộng và cơ sở hạ tầng cũng như giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Chiến lược nhằm giải quyết những thách thức về tăng trưởng dân số và thúc đẩy sự thịnh vượng kinh tế đồng thời bảo vệ môi trường và di sản của đô thị Melbourne. Chiến lược có các cách tiếp cận tổng hợp trong quy hoạch và phát triển bao gồm các mặt:

- Sử dụng đất đai- Giao thông- Cơ sở hạ tầng xã hội và cộng đồngQuy hoạch khu dân cư để quản lý phát triển nhà ởNăm 2011 có hơn 3,848 triệu người chuyển đến sinh

sống và làm việc ở Melbourne. 5 năm sau (năm 2016) dân cư ở đây đã tăng lên 5,200 triệu người và thực tế là ngày càng có nhiều người coi thành phố này là nhà của họ. Chính vì vậy, năm 2013, Melbourne đã tiến hành công tác quy hoạch các khu dân cư mới. Bộ trưởng Bộ Quy hoạch Richard Wynne MP, đã chỉ định Ban Tư vấn Quản lý Phát triển Nhà ở (MRDAC) để xem xét quy trình phân bổ các khu dân cư mới; thực hiện nhiệm vụ tư vấn điều chỉnh các dự án quy hoạch, đề xuất các phương án nâng cấp các khu dân cư cũng như lắng nghe các ý kiến đóng góp từ các hội đồng, người dân và các doanh nghiệp đóng trên địa bàn thành phố. MRDAC sẽ mời các hội đồng, các tổ chức xã hội và người dân đưa ra ý kiến đóng góp và kinh nghiệm về việc quy hoạch các khu vực dân cư cho hiện tại và tương lai nhằm đáp ứng được yêu cầu của cả thành phố và người dân.

Chiến lược phát triển thành phố Melbourne dựa trên quy hoạch khu dân cư trong tương lai của Melbourne, cho thấy mức gia tăng về dân số sẽ được đáp ứng như thông qua sự mở rộng phát triển các khu vực đô thị và toàn bộ khu vực ngoại ô rộng lớn của thành phố. Bên cạnh chiến lược về quy hoạch khu dân cư, sự kết hợp đồng bộ với các dịch vụ vận tải, dịch vụ cộng đồng và cơ sở hạ tầng đô

thị tốt nhất dựa trên bản sắc văn hoá và lịch sử của thành phố Melbourne sẽ góp phần tạo nên một đô thị hiện đại, văn minh gắn liền cùng bản sắc văn hóa dân tộc.

Chiến lược nhà ở cho người dânChiến lược xây dựng nhà ở nhằm đáp ứng khả năng

chi trả và đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân thành phố. Thành phố Melbourne là một trong những thành phố phát triển nhanh nhất ở Úc, chính vì vậy thành phố đã chuẩn bị kế hoạch cho sự tăng trưởng này. Chiến lược nhà ở cho người dân nhằm thực hiện 3 mục đích chính:

- Cung cấp nhà ở giá cả phải chăng hơn cho người có thu nhập thấp và trung bình

- Cải thiện thiết kế và tiêu chuẩn về môi trường của căn hộ mới

- Đảm bảo cho người dân được trang bị kiến thức và thông tin cần thiết về nhà ở chất lượng tốt.

Phát triển thành phố là nơi phục vụ cuộc sống của người dân

Vào năm 2015, thành phố Melbourne đã tiến hành công tác điều tra, nghiên cứu, phân tích khả năng đáp ứng của thành phố. Công tác điều tra về khả năng đáp ứng của thành phố - một khía cạnh quan trọng của tất cả các đô thị đó là thành phố đã và đang đáp ứng, phục vụ được nhu cầu hàng ngày của người dân hay chưa?

Đây là một quá trình nghiên cứu lâu dài nhằm tìm ra những giải pháp và tìm hiểu xem môi trường đô thị của thành phố đang thay đổi như thế nào? Các nghiên cứu tập trung vào cách thức người dân sử dụng thành phố trong cuộc sống hàng ngày từ các tòa nhà, lối đi bộ, đường phố đến các quảng trường, công viên và cây xanh… từ đó đem đến những dữ liệu cơ bản mới nhất nhằm nâng cao hiểu biết của người dân và của cơ quan quản lý về thành phố. Nghiên cứu khả năng đáp ứng cuộc sống của thành phố Melbourne là cách tiếp cận tích hợp và năng động để tìm ra vai trò của thành phố ở hiện tại và tương lai, giúp thành phố trở nên khả thi và dễ tiếp cận hơn với người dân từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thành phố.

Melbourne thực hiện quy hoạch khu dân cư để quản lý phát triển nhà ở88 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

XÂY DỰNG THẾ GIỚI

đưa ra một bản Dự thảo Chiến lược mới của Thành phố (MSS) trong đó nêu lên tầm nhìn dài hạn và chiến lược cho sự tăng trưởng và phát triển đô thị trong đó xác định Arden-Macaulay là một khu vực luôn luôn đổi mới, giúp thành phố đạt được mục tăng trưởng bền vững từ cộng đồng. Điều này đã đảm bảo cho thành phố Melbourne được thiết kế và quản lý tốt, tiếp tục giữ vững là một nơi tuyệt vời để sống và làm việc.

Những hướng quy hoạch chính khu vực Arden-Macaulay:- Phát triển, mở rộng Trung tâm Arden trở thành trung tâm thành phố

Melbourne.- Phát triển ba trung tâm lõi của khu vực này hài hòa với các khu vực lân cận- Mở rộng kết nối giao thông với các tuyến đường nội và ngoại tuyến trong

Arden-Macaulay- Nâng cấp hành lang công viên Moonee Ponds Creek và thành lập 5 công

viên mới trong khu vực này.- Làm cho năng lượng, nước và chất thải của Arden-Macaulay trở nên

hiệu quả

Quy hoạch lại phía Bắc và Tây thành phố MelbournePhục vụ sự gia tăng dân số cũng như việc làm tăng lên đáng kể của thành

phố trong 30 năm tới, việc quy hoạch lại phía Bắc và Tây của Melbourne là yêu cầu cần thiết đặt ra đối với chính quyền thành phố. Vào đầu năm 2000, Thành phố Melbourne đã xem xét việc cải tiến các không gian mở công cộng ở Bắc và Tây Melbourne. Khu vực phía Bắc có diện tích 130 ha bao gồm các đường phố Grattan, Swanston, Victoria, Peel, Capel, Courtney và Harcourt. Khu vực này có sự đa dạng để phát triển kinh tế như: Công nghiệp, thương mại, bán lẻ và đông dân cư cùng với nhiều các tổ chức y tế, giáo dục và trung tâm nghiên cứu lớn và chợ Queen Victoria.

Phía Tây là các khu phố có ít công viên lớn nhưng còn nhiều đất trống ở gần các nút giao thông của các tuyến phố. Những khu đất trống này hứa hẹn sẽ cung cấp nhiều cây xanh hấp dẫn trong khu vực dày đặc các tòa nhà chung cư cao tầng. Thành phố Melbourne đã đề xuất thiết kế các khu không gian mở nhỏ và đề xuất 9 địa điểm hứa hẹn nhất đưa ra lấy ý kiến của cộng đồng về mặt quy mô, vị trí của không gian và khả năng của thành phố Melbourne để thay đổi từng vị trí trong khung thời gian ngắn đến trung bình cũng như việc thay đổi sang các vị trí khác xung quanh.

Xây dựng khung phát triển cơ sở hạ tầng công cộng

Thành phố Melbourne cần có một khuôn khổ vững chắc dựa trên những bằng chứng, nghiên cứu và thực tiễn tốt nhất để đưa ra các quyết định về việc sẽ tài trợ và đưa ra các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng trong tương lai. Khung phát triển cơ sở hạ tầng công cộng được xây dựng nhằm đảm bảo các khu vực tăng trưởng của đô thị có cơ sở hạ tầng công cộng đầy đủ được phân bổ một cách công bằng và hiệu quả. Khung quy định này nhằm xem xét vai trò và trách nhiệm của công tác lập quy hoạch và cung cấp cơ sở hạ tầng công cộng cũng như các nguyên tắc để thành phố Melbourne có thể đưa ra quyết định về cơ sở hạ tầng công cộng trong tương lai. Quan trọng nhất là khung này phải có các cách tiếp cận sáng tạo về các cơ chế và mô hình tài trợ, bao gồm cơ hội hợp tác với Chính phủ, các tổ chức công hoặc các nhà phát triển để đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ công cộng và cơ sở hạ tầng trong tương lai.

MỘT SỐ DỰ ÁN QUY HOẠCH THÀNH PHỐ MELBOURNE

Cấu trúc lại khu vực Arden-Macaulay

Vào năm 2012, thành phố Melbourne tiến hành Kế hoạch Cấu trúc, quy hoạch lại khu vực Arden-Macaulay để khu vực này trở thành một khu đô thị mới hiện đại, nơi tập trung nhiều cư dân và tăng trưởng việc làm trong vòng 30 năm tới. Kế hoạch cấu trúc Arden-Macaulay cung cấp một tầm nhìn dài hạn nhằm quản lý bền vững sự đổi mới của khu vực này. Khu đô thị lớn này đã được thiết kế quy hoạch bài bản từ việc sử dụng đất hợp lý như: Quy hoạch mới các không gian mở, cải tiến và xây dựng những tuyến phố an toàn và hấp dẫn, phát triển cơ sở hạ tầng bền vững kết hợp với các phương tiện giao thông đồng bộ. Thành Phố Melbourne đã

Quy họach lại khu vực Arden-Macaulay

89Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

XÂY DỰNG THẾ GIỚI

Các chiến lược và hành động trong kế hoạch cơ cấu khu vực phía Bắc và Tây thành phố gồm:

- Các hoạt động lồng nghép để sử dụng đất phong phú và đa dạng.

- Cấu trúc đô thị theo chiều cao các công trình xây dựng, kiểu dáng và mật độ các công trình.

- Giao thông và kết nối các phương tiện nhằm đảm bảo sự liên thông và quản lý được lưu lượng xe tham gia lưu thông, bãi đậu xe, đi bộ, xe đạp, phương tiện giao thông công cộng, phương tiện cá nhân và các tuyến vận tải khác.

- Thiết kế nhiều khu vực không gian mở công cộng mới để đường phố trở nên hấp dẫn và an toàn.

- Phát triển cơ sở hạ tầng công cộng để cung cấp các dịch vụ cộng đồng

- Phát triển cơ sở hạ tầng bền vững để đảm bảo rằng khu vực phía Bắc thành phố là một khu vực tự duy trì có hiệu quả.

Xây dựng khu vực không gian công cộng tại Docklands

Các tổ chức công và tư nhân đều được mời tham gia các ý tưởng thiết kế xây dựng khu vực không gian công cộng tại Docklands. Thành phố đã kêu gọi sự kết nối giữa các tổ chức,

cá nhân nhằm có được kinh nghiệm tốt nhất trong việc tạo ra các khu vực không gian công cộng tại Docklands và các khu vực xung quanh. Kế hoạch này thể hiện sự cam kết của thành phố Melbourne trong việc tạo ra không gian và kết nối công cộng tuyệt vời trong toàn thành phố.

Các công trình công cộng tại đây cũng đặt ra các yêu cầu về tiêu chuẩn thiết kế kỹ thuật đối với tất cả các công trình dân dụng, cảnh quan và cơ sở hạ tầng công cộng.

Quảng trường LincolnCarlton Square của Lincoln là một trong những công viên lâu đời nhất của

Melbourne và là nơi có sân chơi công cộng đầu tiên của thành phố.Một trong những nhóm dân số phát triển nhanh nhất tại Melbourne là

các hộ gia đình và sinh viên sống trong những căn hộ trên cao và ít được tiếp cận với không gian mở, thì Lincoln Square là một điểm đến phổ biến. Giờ đây khu vực quảng trường đã được tu sửa, xây dựng hồ chứa nước mưa, chỉnh trang lại cảnh quan để bảo đảm Lincoln Square đáp ứng được những mong đợi của cộng đồng trong tương lai.

Thành phố cũng kêu gọi sự tham vấn của cộng đồng cùng chung tay xây dựng quảng trường Lincoln Square.

Nâng cấp khu chợ Queen Victoria và Đại lộ SouthbankBên cạnh việc giữ lại và khôi phục di sản của khu chợ Queen Victoria đồng

thời thành phố đã nâng cấp cơ sở vật chất cho thương nhân, khách hàng và khách tham quan nhằm đảm bảo tính khả thi đối với các thế hệ doanh nghiệp nhỏ tương lai. Thành phố Melbourne nâng cấp khu chợ di sản dưới sự quản lý nghiêm ngặt. Đối với khu vực xung quanh khu chợ, thành phố Melbourne dự định biến khu vực này thành trung tâm phía bắc của thành phố với một loạt những tiện ích như: Không gian công cộng mới xây dựng, bãi đậu xe đại, các căn hộ, các trung tâm chăm sóc trẻ em, phòng trưng bày, trung tâm cộng đồng và khách sạn.

Thành phố cho quy hoạch lại hệ thống giao thông giữa hai tuyến đường của đại lộ Southbank Boulevard và Dodds Street để tạo ra 2,5 ha khu không gian công cộng cho Southbank - Ngôi nhà nghệ thuật của Melbourne, khu vực kinh doanh thịnh vượng và nằm ngay phía trước trung tâm của thành

Quy họach lại khu chợ Queen Victoria

90 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

XÂY DỰNG THẾ GIỚI

phố. Hiện tại, có hơn 18.000 cư dân sinh sống tại đại lộ Southbank và con số này dự kiến sẽ tăng lên 45.000 người vào năm 2035. Có khoảng 80.000 người khách tham quan Southbank mỗi ngày. Đây cũng là một trong những vùng ngoại ô đông dân nhất ở Melbourne nhưng khu vực này lại không có đủ không gian công cộng cho người dân. Tại Southbank, mỗi cư dân hiện có 3m2 không gian công cộng, vì vậy Chiến lược Không gian mở của Thành phố Melbourne khuyến khích mỗi cư dân sẽ có 20m2 không gian mở công cộng.

Năm 1988, Đại lộ Southbank vận chuyển 40.000 xe một ngày. Hiện tại lưu lượng xe ở đây đã giảm xuống còn 13.000 xe một ngày sau khi thành phố cho xây dựng Queensbridge Square năm 2001. Thành phố tiến hành quy hoạch lại Đại lộ Southbank và Đường Dodds để tạo không gian công cộng mới, trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu giao thông hiện tại của thành phố. Dự án này là một cơ hội nhằm đáp ứng nhu cầu về không gian công cộng của người dân đang gia tăng nhanh chóng về số lượng và tạo ra một loạt không gian công cộng độc đáo.

MELBOURNE ĐỀ RA MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ ĐẾN NĂM 2026

Thành phố Melbourne đã xây dựng mục tiêu phát triển thành phố đến năm 2026 với 9 mục tiêu cơ bản tạo nền tảng cho những cá nhân và tổ chức quan tâm đến tương lai của thành phố cùng làm việc theo mục tiêu chung đó. Khuôn khổ của các mục tiêu và ưu tiên dựa trên những điểm mạnh giúp cho thành phố Melbourne trở thành thành phố đáng sống nhất ở thời điểm hiện tại và cho thế hệ tương lai.

Mục tiêu đã xác định rõ Melbourne tự hào là một thành phố có nền văn hoá, tri thức và di sản Thổ dân. Melbourne vinh danh những người dân mở cõi đầu tiên đã chia sẻ đất của họ cho những người đến sau. Cùng nhau, hậu duệ của những người đầu tiên định cư ở Melbourne đã chia sẻ những hiểu biết truyền

thống và cập nhật những tri thức mới để có thể đạt được một tầm nhìn về một thành phố bền vững, sáng tạo, hòa quyện sôi động và hưng thịnh.

Mục tiêu 1: Thành phố quan tâm đến môi trường.Tính bền vững là cơ sở của tất cả các mục tiêu trong

tương lai của Melbourne. Mục tiêu này đòi hỏi các thế hệ người dân lựa chọn cách thức đáp ứng nhu cầu của họ mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của những thế hệ trong tương lai.

Ưu tiên 1.1: Duy trì sinh quyển đô thịƯu tiên 1.2: Thích ứng với biến đổi khí hậuƯu tiên 1.3: Không thải ra khí nhà kínhƯu tiên 1.4: Lưu trữ và tái sử dụng nước mưaƯu tiên 1.5: Sử dụng nguồn lực hiệu quảƯu tiên 1.6: Ghi nhận các lợi ích bền vững của mật độ

đô thịMục tiêu 2: Thành phố vì người dânMột thành phố luôn luôn chào đón tất cả mọi người.

Một thành phố mọi người có thể dễ dàng tiếp cận, giá cả phải chăng, an toàn và hấp dẫn. Quan tâm đến sức khoẻ của người dân, phúc lợi xã hội, lôi kéo được sự tham gia của cộng đồng và công bằng xã hội. Một thành phố mà ở đó người dân có quyền tự do chính trị, tôn giáo và trí tuệ, nuôi dưỡng một nền văn hoá phong phú và đa dạng.

Thành phố tôn trọng, tôn vinh và chấp nhận sự đa dạng của con người. Mọi người ở mọi lứa tuổi và khả năng đều cảm thấy an toàn và được trao quyền. Đưa yếu tố thân thiện của gia đình trong thiết kế quy hoạch thành phố, đặt con người là trọng tâm.

Ưu tiên 2.1: Một nơi tuyệt vời để sốngƯu tiên 2.2: Một cộng đồng lành mạnhƯu tiên 2.3: Thiết kế bởi người dân và cho người dân.Ưu tiên 2.4: Giá cả phải chăng cho tất cả mọi người Ưu tiên 2.5: Không gian công cộng có chất lượngƯu tiên 2.6: Các cơ sở và dịch vụ cộng đồng giá cả

phải chăngƯu tiên 2.7: Một thành phố toàn diệnƯu tiên 2.8: Thành phố thân thiện của gia đìnhƯu tiên 2.9: Hỗ trợ người vô gia cưMục tiêu 3: Thành phố sáng tạoMelbourne khuyến khích sự đổi mới và sáng tạo.

Thành phố cổ vũ và đánh giá sự sáng tạo từ cộng đồng. Thành phố sẽ đầu tư cho các ý tưởng sáng tạo của người dân thuộc mọi nguồn gốc và khả năng trong tất cả các mục đích mà họ theo đuổi. Danh tiếng của thành phố Melbourne sẽ thu hút và giữ chân những người tiên phong trong nghệ thuật sáng tạo và đổi mới, giúp họ đóng góp vào sự thịnh vượng của thành phố.

Ưu tiên 3.1: Tăng cường sự sáng tạoƯu tiên 3.2: Đánh giá có sự sáng tạo của cộng đồng

91Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

XÂY DỰNG THẾ GIỚI

Mở rộng khu không gian công cộng tại Southbank

Ưu tiên 3.3: Tôn vinh sự đa dạng sáng tạoƯu tiên 3.4: Thúc đẩy sự thịnh vượng bằng cách đầu

tư vào sự sáng tạoMục tiêu 4: Một thành phố thịnh vượngƯu tiên 4.1: Một thành phố an toàn và linh hoạtƯu tiên 4.2: Thu hút và hỗ trợ các ngành nghề kinh

doanh hiện có và mới Ưu tiên 4.3: Một thành phố của các sự kiệnƯu tiên 4.4: Một nơi tuyệt vời để tham quanƯu tiên 4.5: Một xã hội từ thiệnMục tiêu 5: Thành phố của tri thứcTrong một thành phố tri thức, sức mạnh tập thể của

trí tuệ và kinh nghiệm thúc đẩy sự thịnh vượng của thành phố, khả năng cạnh tranh trên toàn cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Thành phố sẽ hỗ trợ một hệ thống nghiên cứu giáo dục có nguồn lực tốt hợp tác với doanh nghiệp nhằm tạo ra một lực lượng lao động có tay nghề cao và có năng lực. Xây dựng một nền văn hoá sống động và hợp tác.

Ưu tiên 5.1: Duy trì việc giáo dục sớmƯu tiên 5.2: Quan tâm đến giáo dục Tiểu học và

Trung họcƯu tiên 5.3: Đi đầu trong giáo dục Đại học, nghiên cứu

sinh và đổi mớiƯu tiên 5.4: Hỗ trợ học tập suốt đờiMục tiêu 6: Một thành phố được kết nốiTrong một thành phố được kết nối, mọi người và

hàng hoá có thể di chuyển đến và vào thành phố một cách hiệu quả. Để thành phố phát triển và hướng đến sự thịnh vượng, đòi hỏi thành phố phải có kế hoạch cho một mạng lưới vận tải hiệu quả và bền vững. Công nghệ và các hình thức chuyển đổi phương tiện giao thông sáng tạo sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc thay đổi cách thức di chuyển của con người và hàng hoá. Các cơ quan quản lý sẽ hợp tác với các đơn vị có liên quan để thực hiện các biện pháp giúp người dân dễ dàng lựa chọn các phương tiện khi đi du lịch đến và quanh thành phố như: xe đạp, xe điện, xe buýt, xe lửa hay xe hơi… để giúp thành phố phát triển bền vững và thông minh hơn.

Ưu tiên 6.1: Một thành phố tuyệt vời để đi bộƯu tiên 6.2: Thành phố thuận tiện để đi xe đạpƯu tiên 6.3: Cung cấp phương tiện giao thông công

cộng hợp nhất và hiệu quảƯu tiên 6.4: Thực hiện vận chuyển đô thị sáng tạo và

có hiệu quả Ưu tiên 6.5: Chuyển tiếp sang các công nghệ vận tải

trong tương laiƯu tiên 6.6: Kết nối khu vực và toàn cầu

Mục tiêu 7: Thành phố thảo luận Melbourne sẽ thực hiện chính sách khuyến khích sự

dân chủ cùng tham gia vào các quyết sách quan trọng. Melbourne lắng nghe ý kiến từ cộng đồng: Sẽ có những cuộc đối thoại, thảo luận và hành động có trách nhiệm. Khai thác công nghệ thông tin mới cho phép công dân tham gia sâu vào các quy trình quản trị địa phương.

Ưu tiên 7.1: Chủ trì dân chủƯu tiên 7.2: Trao quyền cho cộng đồng địa phươngƯu tiên 7.3: Một thành phố hợp tácƯu tiên 7.4: Đảm bảo cam kết của công dân với các

công nghệ mớiƯu tiên 7.5: Mở dữ liệu của chính phủMục tiêu 8: Thành phố quản lý sự thay đổiƯu tiên 8.1: Quản lý mật độ gia tăngƯu tiên 8.2: Một thành phố trực tuyếnƯu tiên 8.3: Lập kế hoạch cho cơ sở hạ tầng dài hạnƯu tiên 8.4: Đổi mới công nghệ đô thịƯu tiên 8.5: Sử dụng dữ liệu để tạo ra một thành phố

tốt hơnƯu tiên 8.6: Hỗ trợ mọi người chuyển đổi sang công

nghệ mớiMục tiêu 9: Thành phố của những người Thổ dânVăn hoá, tri thức và di sản của thổ dân sẽ làm phong

phú thêm sự phát triển của thành phố. Melbourne sẽ luôn là nơi tổ chức các sự kiện quan trọng có ý nghĩa xã hội, giáo dục, thể thao và văn hóa.

Ưu tiên 9.1: Nhận thức về bản sắc thổ dân của mìnhƯu tiên 9.2: Được giáo dục về nền văn hoá thổ dânƯu tiên 9.3: Thịnh vượng từ sự tập trung của người

thổ dânƯu tiên 9.4: Thu hút người thổ dân trong quản lý đất

đô thịPhát triển đô thị bền vững trên thế giới nói chung và ở

nước ta nói riêng là một nhiệm vụ hết sức cấp bách hiện nay, cần có sự quan tâm tham gia của tất cả các cấp chính quyền và mọi thành phần xã hội. Kinh nghiệm trong các chiến lược quy hoạch và xây dựng thành phố Melbourne (Úc) – Một thành phố đáng sống nhất thế giới đã phần nào giúp nước ta học tập nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực cho công tác xây dựng và phát triển đô thị.

Tài liệu tham khảo- http://www.melbourne.vic.gov.au/building-and-

development/urban-planning/Pages/urban-planning.aspx- https://en.wikipedia.org/wiki/Melbourne - Melbourne - http://www.vietnamplus.vn/thanh-pho-melbourne-

la-noi-dang-song-nhat-trong-6-nam-lien-tiep/401681.vnp

92 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

XÂY DỰNG THẾ GIỚI

93Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

TIẾNG ANH CN XÂY DỰNG

Ths. Vũ Thị Thanh Hương*

*Giám đốc TT Ngoại ngữ - AMC

Hội nghị giảng dạy tiếng Anh mang tầm quốc tế được

tổ chức lần đầu tiên tại Việt Nam vào năm 2006 với chủ

đề: Dạy tiếng Anh trong thế kỷ 21: cơ hội và thách thức được

tổ chức tại Trường Đại học Ngoại ngữ Huế. Mục đích hội

thảo khoa học nhằm tạo cơ hội cho cán bộ giảng dạy

tiếng Anh từ các trường Đại học, Cao đẳng trên cả nước

được giao lưu, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và nâng cao

năng lực giảng dạy. Hội thảo đã tập trung phân tích các

vấn đề mang tính chuyên môn cao về việc dạy và học

tiếng Anh ở nước ta trong khoảng hơn một thập niên qua

để từ đó giúp mỗi thành viên tham dự hội thảo nói riêng

và giáo viên, giảng viên dạy tiếng Anh trên cả nước nói

chung có thể thấy được cơ hội và thách thức của việc dạy

tiếng Anh trong thế kỷ 21.

Trải qua 11 kỳ thành công, hội nghị giảng dạy tiếng

Anh lần thứ 12 đã diễn ra nhằm giúp các giáo viên Anh

ngữ tại Việt Nam và các nước trong khu vực có cơ hội cập

nhật xu hướng giảng dạy Anh ngữ mới nhất từ các diễn

giả hàng đầu thế giới. Đây là hội nghị thường niên được

tổ chức hàng năm với sự mong đợi của rất nhiều giảng

viên tiếng Anh. Để bạn đọc có cái nhìn tổng quan trong

việc giảng dạy tiếng Anh, tác giả xin giới thiệu xu hướng

giảng dạy mới nhất trong thế kỷ 21. Trong hơn 01 thập

kỷ qua, phương pháp giảng dạy tiếng Anh đã thay đổi

không ngừng. Chính vì vậy giảng viên tiếng Anh phải

thường xuyên cập nhật phương pháp giảng dạy hiệu quả

nhất.

PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP CHIẾM ƯU THẾ TRONG GIẢNG DẠY

Khi đề cập về phương pháp giảng dạy ngoại ngữ

(PPGD), mỗi giáo viên đều biết đến nhiều PPGD khác

nhau như phương pháp ngữ pháp - dịch, phương pháp

trực tiếp, phương pháp nghe - nói, phương pháp nghe -

nhìn, phương pháp gợi mở, v.v... Mỗi phương pháp ra đời

sau đều được coi như một cố gắng kế thừa những thành

tựu và khắc phục nhược điểm của phương pháp ra đời

trước nó.

Trong xu thế của thế kỷ 21, phương pháp giao tiếp

được hầu hết các giáo viên sử dụng. Cách giảng dạy theo

phương pháp giao tiếp nhấn mạnh đến khả năng tương

tác của người học. Người học dần sử dụng ngôn ngữ phù

hợp với những mục đích giao tiếp cụ thể. Đây là mô hình

giảng dạy lấy người học làm trung tâm, trong đó cả thầy

và trò đều cùng chia sẻ trách nhiệm dạy và học. Song

song với việc nhấn mạnh vào mục tiêu phát triển năng

lực giao tiếp ở người học, việc lựa chọn các hoạt động học

tập sao cho có ích, phù hợp với nhu cầu của người học và

phải đặt vào trong những bối cảnh thật mà người học có

XU HƯỚNG DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH TRONG THẾ KỶ 21

VỚI BỐI CẢNH THỰC TIỄN CỦA NGÀNH XÂY DỰNG

94 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

TIẾNG ANH CN XÂY DỰNG

nhiều khả năng sẽ gặp phải trong cuộc sống hàng ngày

luôn được đề cao. Học ngoại ngữ là quá trình nhận biết

các kiến thức và rèn luyện các kỹ năng, vì vậy khi giảng

dạy tiếng Anh, người dạy cần thiết kế, phân bố thời gian

hợp lý giữa các khâu giảng, giữa thời lượng truyền đạt

kiến thức mới và thời lượng cho người học thực hành.

Tăng cường thực hành theo nhóm, theo cặp nhằm tạo

điều kiện cho người học phát triển các kỹ năng ngôn ngữ,

giảm được tâm lý ngại ngùng, tăng tính chủ động, tính

hợp tác giữa người học; học lẫn nhau và luyện được cách

học tập, làm việc đồng đội, tập thể. Người dạy với vai trò

là người đạo diễn đồng thời là diễn viên, tham gia như

một thành viên của hoạt động.

Thực tế giảng dạy tại các lớp tiếng Anh cho cán bộ

công chức, viên chức trong và ngoài ngành Xây dựng,

giảng viên đã kết hợp đa dạng nhiều phương pháp dạy

học khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu, trình độ và yêu

cầu của từng đối tượng học viên. Đối với trình độ cơ bản

dành cho người mới đi học thì tăng cường luyện tập

tại lớp: Giảng viên đưa ra các mẫu câu cơ bản, học viên

nhắc lại, luyện âm, học từ mới nào phát âm chuẩn từ đó

v.v… Đối với trình độ cao, phương pháp giảng dạy tích

cực được ưu tiên. Học viên phải tự làm việc nhiều hơn.

Giảng viên sẽ đóng vai trò hướng dẫn, quan sát và cùng

tham gia vào các hoạt động của học viên. Các dạng bài

tập được thiết kế theo hướng tạo tính chủ động sáng tạo

cho người học và tuỳ theo trình độ của người học. Đối với

người học có trình độ thấp thì tăng cường đưa bài tập

thực hành theo hướng “nhận biết - bắt chước - tư duy sáng

tạo”. Đối với người học có trình độ cao thì áp dụng thực

hành theo hướng “nhận biết - liên hệ - tư duy sáng tạo”.

Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù

hợp với mọi mục tiêu và nội dung. Mỗi phương pháp và

hình thức dạy học có những ưu, nhược điểm và giới hạn

sử dụng riêng. Vì vậy, việc phối hợp đa dạng phương pháp

và hình thức trong toàn bộ quá trình dạy học là phương

hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao

chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, và

dạy học cá thể cần được kết hợp linh hoạt.

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC TIẾNG ANH

Hiện tại nhiều trường Đại học, cơ sở đào tạo cũng

như các đơn vị tuyển dụng lao động yêu cầu ứng viên

có được trình độ ngoại ngữ thông qua kỳ thi của những

tổ chức uy tín trên toàn thế giới như: Cơ quan Kiểm tra

Giáo dục (ETS) của Mỹ với bộ đề thi TOEFL hoặc TOEIC, Hội

đồng Anh và Trường Cambridge của Anh với các bộ đề thi

IELTS, Cambridge, v.v.

Ngoài ra, tại Việt Nam xu thế chung trong việc kiểm tra

đánh giá đã có nhiều thay đổi. Mục tiêu là kiểm tra đánh

giá theo định hướng phát triển năng lực của người học.

Kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng

lực là một quá trình kiểm tra đánh giá thường xuyên và

định kỳ, trong đó người đánh giá tương tác với người học

thông qua các công cụ đánh giá đa dạng để thu thập các

biểu hiện, các minh chứng về năng lực của người học, sử

dụng các chuẩn đánh giá đã được thống nhất để đưa ra

nhận định về mức độ đạt hay không đạt về năng lực nào

đó của người học, từ đó có kế hoạch điều chỉnh cách dạy

cũng như cách học để đào tạo và bồi dưỡng năng lực đầu

ra cho người học.

Bên cạnh đó, với mục tiêu được đặt ra là tăng cường

đổi mới toàn diện và nâng cao chất lượng dạy học ngoại

ngữ một cách đồng bộ trong hệ thống giáo dục quốc

dân, ngày 30 tháng 9 năm 2008 Thủ tướng Chính phủ đã

ban hành Quyết định số 1400/QĐ-TTg về việc phê duyệt

Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục

quốc dân giai đoạn 2008 – 2020”. Theo đó, Đề án tập

trung hướng tới việc nâng cao trình độ năng lực của đội

ngũ giáo viên giảng dạy ngoại ngữ cũng như nâng cao

trình độ ngoại ngữ và năng lực thực hành các kỹ năng

giao tiếp cơ bản của người học.

Một trong những mục tiêu cụ thể của Đề án là đổi mới

phương pháp kiểm tra, đánh giá môn ngoại ngữ, đảm

bảo nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với các cấp

học, trình độ đào tạo, góp phần tích cực vào công tác bồi

dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ,

viên chức; thực hiện đa dạng hoá các hình thức học tập,

đáp ứng nhu cầu người học.

Để đạt được mục tiêu trên việc nâng cao chất lượng

đội ngũ cán bộ chấm thi năng lực ngoại ngữ cho cho cán

bộ, công chức, viên chức ngành Xây dựng hết sức cần

thiết.

Tại Việt Nam nói chung và ngành Xây dựng nói riêng,

Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam-

KNLNNVN hoặc Khung Tham chiếu Châu Âu cũng được

sử dụng để đánh giá trình độ ngoại ngữ của người học.

Hàng năm thông qua các khóa học theo tiêu chuẩn của

Khung Tham chiếu Châu Âu, đội ngũ cán bộ, công chức

viên chức của ngành đã được kiểm tra đánh giá cụ thể

95Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

TIẾNG ANH CN XÂY DỰNG

theo các tiêu chí của Khung Tham chiếu. Từ đó sẽ có các

khóa học phù hợp nhằm nâng cao năng lực của học viên

để đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao.

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

Công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT & TT) đã

và đang được ứng dụng rộng rãi trong giảng dạy ngoại

ngữ do lợi ích to lớn mà nó mang lại cho cả giáo viên và

học viên. Một số lợi ích của CNTT &TT có thể kể đến như:

Cung cấp môi trường thực tế cho học viên học tập, tăng

cường khả năng tự học, sự tự tin và tương tác, và tăng

cường kết nối giữa học viên, giáo viên. Việc CNTT & TT

được áp dụng trong giảng dạy ngoại ngữ đã làm thay đổi

vai trò của giáo viên - giáo viên trở thành người quyết

định mức độ ứng dụng cũng như cách thức ứng dụng

CNTT & TT trong quá trình giảng dạy. Để có thể làm tốt vai

trò mới này của mình, giáo viên tiếng Anh phải có những

kiến thức và kỹ năng mới.

Có thể nói, ứng dụng CNTT vào tiến trình giảng dạy và

học tập nói chung đã phát triển sâu rộng ở các nước khu

vực và thế giới. Hành trình đưa các ứng dụng của công

nghệ vào lớp học, nghiên cứu, tìm ra các giải pháp nhằm

đưa các ứng dụng của mạng xã hội vào quá trình đào tạo,

ứng dụng CNTT vào quá trình giảng dạy nhằm nâng cao

tính tự chủ và động cơ học tập của người học và đặc biệt

mở rộng khả năng tương tác là xu thế mới trong giảng

dạy ngoại ngữ hiện nay.

Với chủ đề năm thứ 12 của hội thảo về giảng dạy tiếng

Anh là “Định nghĩa lại việc dạy và học tiếng Anh trong bối cảnh thế kỷ 21”, tác giả đã khái quát được phần nào

xu hướng về việc dạy và học tiếng Anh trong thời đại

kỹ thuật số ngày nay với sự bùng nổ của các công cụ kỹ

thuật số như: Điện thoại thông minh, máy tính, sách điện

tử... Sách và giáo trình điện tử phải được thiết kế ra sao

để bắt kịp nhu cầu của một thế hệ người học trên màn

hình kỹ thuật số (e-learners) - những người có tính chủ

động cao và có sự kết nối nhiều hơn. “Thuyết học tập kết

nối” - tên gọi được đặt cho lý thuyết học của thời đại kỹ

thuật số - có lẽ là xu hướng tương lai trong việc dạy và

học tiếng Anh.

Tài liệu tham khảo1. Examination papers from university of Cambridge

Esol examinations- Cambridge University Press 1997,

2003, 2011

2. Quyết định số 1400/QĐ-TTg ngày 30 tháng 9 năm

2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án

“Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân

giai đoạn 2008 – 2020”.

3. Quyết định số 729/QĐ-BGDĐT ngày 11 tháng 3 năm

2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về định dạng

đề thi đánh giá năng lực sử dụng tiếng Anh từ từ bậc

3 đến bậc 5 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng

cho Việt Nam.

4. Quyết định số 1481/QĐ-BGDĐT ngày 10/5/2016 của

Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về việc ban hành Định

dạng đề thi đánh giá năng lực sử dụng tiếng Anh bậc 2

(VSTEP.2) theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho

Việt Nam (dành cho người lớn).

5. Quyết định số 2913/QĐ-BGDĐT ngày 23 tháng 8

năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục đào tạo về việc Ban

hành Chương trình bồi dưỡng Cán bộ chấm thi nói và viết

theo các định dạng đề thi đánh giá năng lực tiếng Anh

theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.

6. Thông tư số 05/2012/TT-BGDĐT ngày 15/02/2012

của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc sửa đổi, bổ sung một

số điều của Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ ban hành kèm

theo Thông tư số 10/2009/TT-BGDĐT ngày 07/5/2009 của

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, về trình độ ngoại ngữ

của nghiên cứu sinh

7. Quyết định số 729/QĐ-BGDĐT ngày 11 tháng 3 năm

2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về định dạng

đề thi đánh giá năng lực sử dụng tiếng Anh từ từ bậc 3

đến bậc 5 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng

cho Việt Nam.

8. Một số website giảng dạy Tiếng Anh: http://www.

teachingenglish.org.uk/

http://www.teachernet.gov.uk/,http://www.british-

council.org , http://www.globaledu.com.vn , http://www.

ila.com, www.CambridgeESOL.org

Trên thế gian, mọi

chuyện không thể chỉ

nhìn vào cái vẻ bề ngoài, mà

phải nhìn vào trái tim, nhìn vào

bản chất, như thế mới giup được

bản thân tránh khỏi những phán đoán

sai lầm.

Một ông bố có niềm đam mê đặc biệt dành

cho xe hơi, cũng vì để mua được chiếc xe yêu thích

nên đã tích cóp tiền trong một thời gian rất lâu.

Khi mua được xe, mỗi ngày, ông không ngại cực khổ,

cặm cụi rửa xe, đánh sáp, công việc chăm sóc xe đã trở

thành việc “hưởng thụ” của ông. Con trai Jake thấy bố yêu

thích chiếc xe như vậy, cũng thường xuyên phụ rửa xe, hai

bố con vô cùng vui vẻ.

Một ngày, người bố về nhà sau một trận mưa lớn,

chiếc xe dính đầy bùn đất, nhưng ông lại quá mệt mỏi,

nên nói với con trai: “Hôm khác rửa xe nhé con!”.

Jake thấy mình đang rảnh rỗi, liền xung phong muốn

thay bố rửa xe, và được đồng ý. Tuy nhiên, người bố này

lại quên là con trai mình mới có 5 tuổi, ông trở về phòng

nghỉ ngơi mà quên không chuẩn bị dụng cụ gì cho cậu

bé cả.

Con trai hào hứng xông ra rửa xe, nhưng lại không tìm

thấy khăn lau. Cậu bé chạy vào trong bếp, đột nhiên cậu

nghĩ tới cái miếng chùi xoong mà mẹ vẫn thường dùng

để chà nồi rất sạch sẽ, vì vậy cậu liền lấy ngay miếng thép

ấy để dùng.

Jake cầm miếng chùi xoong, chạy tới chỗ xe và ra sức

chà, hết lần này tới lần khác. Sau khi cậu chà xe xong, cậu

phát hiện trên xe có những vết nguệch ngoạc, cậu sờ

lên chỗ đó, lại

thấy sần sùi, lồi

lõm.

Jake sợ tới mức khóc

toáng lên. Cậu chạy ngay tới

phòng ngủ vừa khóc vừa nói: “Bố ơi,

con xin lỗi, bố mau tới xem đi!”.

Ông bố vội vàng theo con trai chạy ra ngoài,

chứng kiến chiếc xe “cưng” của mình thê thảm như vậy

thật không dám tin là sự thật, ông ngẩn người nói không

nên lời, sau cả nửa ngày mới kêu lên: “Ôi! xe của ta, xe của

ta!”.

Ông cảm thấy tức giận tới cực điểm, xông vào trong

phòng, ngửa mặt lên trời mà nói rằng: “Thượng đế! Đây là

chiếc xe mà con dùng hết tài sản tích lũy mới mua được,

chưa đến một tháng, đã biến thành như vậy, thỉnh người

cho con biết, con nên làm như thế nào? Con nên xử phạt

đứa con này như thế nào đây?”.

Lời cầu xin vừa chấm dứt, đầu óc của ông đột nhiên trở

nên sáng suốt, một suy nghĩ chợt lóe lên: “Trên thế gian

mọi chuyện đều không thể nhìn vào cái bên ngoài mà

phải nhìn vào trái tim”.

Lúc này, nhìn đứa con trai nước mắt đầm đìa, ánh mắt

sợ hãi cùng áy náy, ông bố từ từ lại gần khiến con trai phát

run lên. Ông ôm đứa con trai nhỏ vào lòng, mắt đỏ hoe

nói: “Cảm ơn con trai đã giúp ta rửa xe, ta yêu con, còn yêu

hơn cả chiếc xe này!”.

Chuyện ở đời, đừng nhìn

vẻ bề ngoài, hãy nhìn

vào trái tim

96 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

TRẢI NGHIỆM

Câu chuyện giữa vị samurai và người đánh cá dưới

đây là bài học cuộc sống “để đời” về sự nóng giận. Nó

cho ta thấy giận dữ là biểu hiện cảm xuc bình thường

của môi người. Nhưng nếu cơn tức giận bắt đầu bằng sự

dại dột, nó se kết thuc bằng sự hối hận.

Một vị samurai đến thu nợ của người đánh cá. Người

đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi

không có đồng nào để trả ngài.”

Vị samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh

cá ngay lập tức.

Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ

và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức

giận.”

Vị samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ

kiếm xuống. “Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ

của ta cũng dạy như vậy. Ðôi khi ta không kiểm soát được

nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để

trả nợ và lúc đó chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết

ngươi.”

Vị samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ

nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng

ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc

quần áo samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì

ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng

đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Ðừng

hành động khi đang giận dữ.”

Vị samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra

tiếng động lớn. Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ

mặt cũng vậy, hoá ra đó chính là mẹ ông. Ông gào lên:

“Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người

rồi!” Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp

đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để doạ chúng.”

Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị samurai.

“Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài

đây, có cả tiền lãi nữa”, người đánh cá phấn khởi nói.

“Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi.” Vị samurai trả lời,

“Ngươi đã trả nợ rồi.”

Vậy đấy, ai cũng có thể tức giận – điều đó dễ lắm,

nhưng nổi giận với đúng người ở đúng mức vào đúng

thời điểm vì đúng mục đích, và theo cách đúng – không

hề dễ và không phải ai cũng làm được. Và hậu quả cơn

nóng giận bao giờ cũng nghiêm trọng hơn nguyên nhân.

Samurai và người đánh cá

97Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

TRẢI NGHIỆM

Màu sắc là một trong những cách dễ dàng nhất để truyền năng lượng vào trong nhà hoặc văn phòng của bạn để tạo ra phong thủy tốt. Tuy nhiên, cách chọn các màu sắc để hợp với phong thủy thì không phải ai cũng biết.

Phong thủy tốt trong nhà hoặc văn phòng của bạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, 2 trong số đó chính là chất lượng ánh sáng trong nhà và màu sắc xung quanh trong căn phòng nhà bạn.

Trong phong thủy, mỗi màu được coi là một biểu hiện của một trong 5 yếu tố phong thủy: Lửa, đất, kim loại, nước và gỗ. Mỗi yếu tố trong số 5 yếu tố “chi phối” một khu vực cụ thể trong nhà của bạn. Khi lựa chọn màu sắc, bạn nên tập trung vào việc tăng cường và nuôi dưỡng các yếu tố phong thủy của khu vực bạn đang trang trí, dẫn đến năng lượng phong thủy tốt.

Yếu tố lửa - nhiệt huyết và năng lượngYếu tố phong thủy lửa trong nhà hoặc văn phòng của

bạn sẽ mang lại năng lượng trong công việc và giúp sự nghiệp của bạn nhanh chóng được thăng hoa. Yếu tố lửa cũng nuôi dưỡng năng lượng sức khỏe của một người và sự ấm áp bên trong. Các màu sắc liên quan đến yếu tố phong thủy lửa là:

- Đỏ- Da cam- Màu tím- Màu hồng- Vàng đậmYếu tố đất - sự sinh sôi nảy nở và ổn địnhĐất là yếu tố phong thủy mạnh mẽ và hài hòa trong

nhà hoặc văn phòng của bạn sẽ giúp tạo sự ổn định, nuôi dưỡng tất cả các mối quan hệ của bạn. Các yếu tố trái đất cũng cần thiết để duy trì sức khỏe và sự cân bằng bên trong con người. Các màu sắc liên quan đến yếu tố phong thủy

đất là:- Vàng nhạt- Màu be/ da- Màu đất/ cátYếu tố kim loại - sự trong

suốt và sắc nétYếu tố phong thủy kim loại

thường mang lại độ sắc nét, chính xác và hiệu quả. Sự hiện diện tốt của các yếu tố kim loại trong nhà hoặc văn phòng của bạn sẽ giúp duy trì năng lượng xuyên suốt, sự chính xác, rõ ràng và loại bỏ sự phân tâm. Các màu sắc liên quan đến yếu tố phong thủy đất là:

- Xám - TrắngYếu tố nước: Sự tinh khiết và đầy đủNước là yếu tố phong thủy phong thủy sẽ mang lại

một nguồn năng lượng tươi mới, sự tinh khiết và tươi mát. Yếu tố phong thủy nước cũng là biểu tượng cổ xưa của sự đủ đầy, giàu có. Điều này liên quan đến việc sử dụng gương và đài phun nước trong nhà để hợp với phong thủy. Các màu sắc liên quan đến yếu tố phong thủy nước là:

- Màu xanh da trời- ĐenYếu tố gỗ: Sự sinh sôi và sức sống dồi dàoYếu tố phong thủy gỗ luôn mang lại sức sống, sự sinh

sôi nảy nở. Yếu tố gỗ cũng là biểu hiện của sự giàu có, thịnh vượng. Điều này liên quan đến việc sử dụng cây cối và cây kim ngân trong phong thủy. Các màu sắc liên quan đến yếu tố phong thủy gỗ là:

- Nâu- Xanh lá.

Sự nghiệp thăng tiến nhờ chọn màu sắc nhà hợp phong thủy

98 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

PHONG THỦY THỰC HÀNH

Ngày 31/7/2017, Bộ Xây dựng đã có công văn 1742/BXD-

GĐ gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương về việc tăng cường công tác quản lý chất lượng và bảo trì

nhà ở tái định cư.

Thời gian vừa qua, nhiều công trình nhà ở tái định cư mới

được đưa vào khai thác sử dụng trên cả nước đã xuất hiện

tình trạng xuống cấp nhanh chóng, gây ảnh hưởng trực tiếp

đến đời sống của cư dân. Nguyên nhân chủ yếu của tình

trạng nhà tái định cư xuống cấp nhanh chóng nêu trên là

do: Nhà tái định cư và hạ tầng kỹ thuật ngoài nhà không

được đầu tư đồng bộ, chất lượng hoàn thiện chưa đạt yêu

cầu; công tác bảo trì, quản lý vận hành và khai thác, sử dụng

chưa tuân thủ các quy định tại Nghị định số 84/2013/NĐ-CP

ngày 25/7/2013 cùa Chính phủ về phát triển và quản lý nhà

ở tái định cư, Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015

của Chính phủ về quản lý chất lượng và bảo trì công trình

xây dựng và các văn bản hướng dẫn; …

Để khắc phục các tồn tại nêu trên, tăng cường hơn nữa

công tác quản lý chất lượng, công tác bảo trì và đảm bảo

an toàn cho người dân hiện đang sinh sống trong các nhà

tái định cư, Bộ Xây dựng đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện một số nội

dung sau:

1. Căn cứ điều kiện cụ thể của địa phương để bố trí quỹ

đất và kinh phí đầu tư xây dựng nhà ở tái định cư trên địa

bàn, bảo đảm nguyên tắc các hộ gia đình, cá nhân được

bố trí nhà tái định cư có điều kiện ở, sinh hoạt tốt hơn hoặc

tương đương với nơi ở cũ, có hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ

tầng xã hội đồng bộ.

2. Yêu cầu các chủ đầu tư công trình nhà tái định cư:

a) Cùng với các chủ thể tham gia xây dựng công trình tổ

chức quản lý chặt chẽ chất lượng khảo sát, thiết kế; thi công

xây dựng công trình.

b) Lựa chọn các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực

theo quy định tham gia xây dựng nhà ở tái định cư.

c) Tổ chức nghiệm thu và bàn giao công trình nhà tái

định cư tuân thủ các quy định pháp luật; công trình chỉ được

đưa vào sử dụng khi đáp ứng được các yêu cầu của thiết kế,

quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng.

d) Lập và phê duyệt quy trình bảo trì công trình.

3. Yêu cầu các chủ sở hữu, chủ quản lý khai thác sử dụng

nhà tái định cư:

a) Lập và phê duyệt quy trình bảo trì công trình (nếu

chưa thực hiện).

b) Lập quỹ bảo trì và quản lý việc sử dụng kinh phí phục

vụ công tác bảo trì công trình theo đúng quy định pháp luật

về nhà ở và pháp luật có liên quan.

c) Tổ chức bảo trì công trình theo quy trình bảo trì đã

được lập và phê duyệt.

4. Chỉ đạo Sở Xây dựng và các cơ quan quản lý nhà nước

có liên quan:

a) Tăng cường kiểm tra công tác quản lý chất lượng của

chủ đầu tư và các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng nhà

tái định cư; xử lý nghiêm các vi phạm về chất lượng và quản

lý chất lượng công trình xây dựng nhà ở tái định cư theo quy

định.

b) Tăng cường kiểm tra công tác quản lý vận hành và bảo

trì nhà tái định cư (nhất là đối với công tác phòng cháy, chữa

cháy và bảo vệ môi trường); hướng dẫn, kiểm tra và hỗ trợ

kinh phí (nếu có) để thực hiện việc duy tu, sửa chữa đối với

các nhà tái định cư xuống cấp nghiêm trọng về chất lượng.

Xử lý nghiêm các chủ đầu tư, chủ sở hữu, chủ quản lý khai

thác, sử dụng công trình vi phạm quy định về quản lý và bảo

trì đối với nhà tái định cư.

c) Tổ chức thông tin, tuyên truyền để người dân ý thức

trong việc sử dụng nhà tái định cư cũng như công tác bảo

trì, vận hành nhà tái định cư.

5. Bổ sung trong báo cáo Bộ Xây đựng tình hình chất

lượng và quản lý chất lượng công trình xây dựng trên địa

bàn hàng năm (theo quy định tại Khoản 9, Điều 54 của Nghị

định số 46/2015/NĐ-CP) nội dung tổng hợp về tình hình

quản lý chât lượng và bảo trì đối với các công trình nhà tái

định cư.

Trong quá trình triển khai thực hiện nếu có khó khăn,

vướng mắc, đề nghị Quý Ủy ban nhân dân báo cáo về Bộ

Xây dựng để được hướng dẫn, giải quyết.

99Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

VĂN BẢN PHÁP LUẬT MỚI

Tăng cường công tác quản lý chất lượngvà bảo trì nhà ở tái định cư

ĐIỀU CHỈNH THIẾT KẾ BẢN VẼ THI CÔNG VÀ DỰ TOÁN

XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH

Câu hỏi:

Theo Khoản 2, Điều 15 Thông tư 18/2016/TT-BXD

ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng quy định chi tiết và

hướng dẫn một số nội dung về thẩm định, phê duyệt dự

án và thiết kế, dự toán công trình: “Người quyết định đầu

tư phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công và dự toán xây dựng

công trình đối với dự án có yêu cầu lập Báo cáo kinh tế - kỹ

thuật đầu tư xây dựng”. Nhưng Khoản 2, Điều 17 lại quy

định “... Các trường hợp điều chỉnh khác do chủ đầu tư tự

quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định điều chỉnh

của mình...”. Như vậy cho tôi hỏi, trong trường hợp điều

chỉnh thiết kế bản vẽ thi công và dự toán xây dựng công

trình đối với dự án có yêu cầu lập báo cáo kinh tế - kỹ

thuật đầu tư xây dựng (việc điều chỉnh không dẫn đến

điều chỉnh tổng mức đầu tư) sẽ do người quyết định đầu

tư phê duyệt hay chủ đầu tư? Và nếu do chủ đầu tư phê

duyệt thì quyết định do người quyết định đầu tư phê

duyệt lại được điều chỉnh bằng quyết định của chủ đầu

tư có đúng không?

([email protected])

Trả lời:

Việc điều chỉnh dự án, thiết kế và dự toán xây dựng

công trình thực hiện theo quy định tại Điều 16, Điều 17

của Thông tư số 18/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ

Xây dựng. Trường hợp điều chỉnh thiết kế bản vẽ thi công

dẫn đến điều chỉnh dự án đã được phê duyệt thì thẩm

quyền phê duyệt thiết kế điều chỉnh do người quyết định

đầu tư quyết định; trường hợp điều chỉnh dự toán xây

dựng công trình nhưng không vượt dự toán (tổng mức

đầu tư đối với dự án có yêu cầu lập Báo cáo Kinh tế - Kỹ

thuật) đã được người quyết định đầu tư phê duyệt thì

chủ đầu tư là người quyết định điều chỉnh và phê duyệt.

Đối với việc điều chỉnh thiết kế và dự toán xây dựng công

trình thuộc thẩm quyền quyết định của chủ đầu tư thì nội

dung điều chỉnh đã được chủ đầu tư phê duyệt sẽ thay

thế nội dung đã được người quyết định phê duyệt.

XÁC ĐỊNH CẤP CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG

Câu hỏi:

Tôi đang thiết kế một dự án gồm 2 kho, quy mô

kho không có tầng, chỉ gồm nền (1 sàn) và phần bao

che là kết cấu thép, trong đó có 1 kho có diện tích xây

dựng lớn hơn 20.000m2. Khi thẩm duyệt thiết kế cơ sở,

Sở Xây dựng nêu do có 1 kho có diện tích xây dựng lớn

hơn 20.000m2 nên đây là công trình cấp 1, do vậy Bộ Xây

dựng mới đủ thẩm quyền thẩm định. Chúng tôi không

đồng ý với cách xác định cấp công trình mà Sở Xây dựng

đưa ra do: Các tiêu chí xét cấp công trình theo Thông tư

03/2016/TT-BXD gồm: công suất, tổng diện tích sàn xây

dựng (công trình nhiều tầng) và kết cấu vượt nhịp, ở đây

hiểu rằng, không xét cấp công trình theo diện tích xây

dựng, vì vậy công trình kho này không có tầng, nên vẫn

thuộc công trình cấp 2. Kính đề nghị quý Bộ hướng dẫn

cách xác định cấp công trình nêu trên.

([email protected])

Trả lời:

Cấp công trình của một công trình độc lập được

xác định theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 Thông tư số

03/2016/TT-BXD. Nếu công trình Nhà kho mà bạn đọc

hỏi không có quy mô công suất để xác định cấp công

trình theo Phụ lục 1 Thông tư 03/2016/TT-BXD thì chỉ xác

định cấp công trình này trên cơ sở loại và quy mô kết cấu

quy định tại Phụ lục 2 Thông tư 03/2016/TT-BXD. Công

trình Nhà kho được xác định cấp theo tất cả các tiêu chí

từ (a) đến (e) quy định tại Mục 2.1 Bảng 2 Phụ lục 2 Thông

tư 03/2016/TT-BXD và lấy cấp lớn nhất xác định được làm

cấp công trình.

100 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

HỎI ĐÁP