Upload
yayuta-liaderyang
View
223
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
MỤC LỤCLỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài................................................1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài.....................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.......................................................................3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài............................4
5. Nhiệm vụ và mục đích của việc nghiên cứu đề tài.................................4
6. Những đóng góp mới của luận văn.........................................................4
7. Kết cấu của luận văn...............................................................................5
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUAN LY NHA NƯƠC
ĐỐI VƠI CÔNG TÁC THI HANH ÁN DÂN SỰ........................................6
1.1. Khai niệm và đặc điểm thi hành an dân sự.....................................6
1.1.1 Khai niêm thi hanh an dân sự............................................................6
1.1.2. Đặc điểm của thi hanh an dân sự.....................................................8
1.2. Quản lý nhà nước đối với công tac thi hành an dân sự................10
1.2.1. Khai niêm quản lý nha nước đối với công tac thi hanh an dân sự. 10
1.2.2. Nguyên tắc quản lý nha nước đối với công tac thi hanh an dân sự.
...................................................................................................................12
1.2.3. Nội dung quản lý nha nước đối với công tac thi hanh an dân sự.. .15
1.3 Tiêu chí hoàn thiện phap luật về quản lý nhà nước đối với công
tac thi hành an dân sự............................................................................17
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VA THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUAN LY NHA NƯƠC ĐỐI VƠI CÔNG TÁC THI HANH
ÁN DÂN SỰ CỦA CHDCND LAO VA KINH NGHIỆM XÂY DỰNG,
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA CHXHCN VIỆT NAM TRONG LĨNH
VỰC NAY......................................................................................................23
2.1. Thực trạng phap luật và thực hiện phap luật về quản lý nhà nước
đối với công tac thi hành an dân sự của nước CHDCND Lào............23
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về quản
lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự của CHDCND Lào...23
2.1.2. Nội dung pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi
hành án dân sự của CHDCND Lào- đối chiếu với pháp luật Việt Nam
..................................................................................................................26
2.1.2.1. Cac quy định về viêc ban hanh văn bản phap luật về quản lý nha
nước đối với công tac thi hanh an dân sự.................................................26
2.1.2.2. Cac quy định về quảnlý đội ngũ can bộ, công chức lam công tac
thi hanh an dân sự.....................................................................................30
2.1.2.3. Cac quy định về quản lý, thực hiên phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ
sở vật chất, kỹ thuật, phương tiên hoạt động của cac cơ quan thi hanh an
dân sự........................................................................................................37
2.1.2.4. Cac quy định về công tac thanh tra, kiểm tra, kiểm sat, giam sat
thi hanh an dân sự.....................................................................................39
2.1.2.5. Cac quy định về giải quyết khiếu nại, tố cao...............................42
2.1.3. Thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý nhà nước đối với công
tác thi hành án dân sự của CHDCND Lào.............................................49
2.2. Kinh nghiệm xây dựng, thực hiện phap luật về quản lý nhà nước
đối với công tac thi hành an dân sự của nước CHXHCN Việt Nam. .54
2.2.1. Xây dựng văn bản phap luật về quản lý nha nước đối với công tac
thi hanh an dân sự.....................................................................................54
2.2.2. Xây dựng va quản lý đội ngũ can bộ, công chức lam công tac thi
hanh an dân sự..........................................................................................55
2.2.3. Quản lý, thực hiên phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ
thuật, phương tiên hoạt động của cac cơ quan thi hanh an dân sự..........57
2.2.4. Công tac thanh tra, kiểm tra, kiểm sat, giam sat thi hanh an dân sự
...................................................................................................................57
2.2.5. Giải quyết khiếu nại, tố cao............................................................58
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯƠNG VA GIAI PHÁP HOAN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUAN LY NHA NƯƠC ĐỐI VƠI CÔNG TÁC THI HANH
ÁN DÂN SỰ CỦA CHDCND LAO.............................................................59
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với công
tác thi hành án dân sự của CHDCND Lào................................................59
3.2. Một số nội dung hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với
công tác thi hành án dân sự của CHDCND Lào.......................................61
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về công tác thi
hành án dân sự của CHDCND Lào...........................................................62
KẾT LUẬN....................................................................................................66
DANH MỤC TAI LIỆU THAM KHAO.....................................................67
TAI LIỆU TIẾNG VIỆT..............................................................................67
TAI LIỆU TIẾNG LAO...............................................................................68
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là nhà nước của dân,do dân, vì
dân. Việc chú trọng tới cuộc sống của nhân dân và đảm bảo công bằng xã hội
luôn là mục tiêu của chế độ, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là phương
tiện thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, vừa là con đường bảo đảm công
bằng xã hội.
Điều 85 của Hiến pháp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm 1991
quy định: “Bản an của tòa an nhân dân đã có hiêu lực phap luật thì mọi cơ
quan tổ chức Đảng, cơ quan tổ chức Nha nước, Mặt trận tổ quốc, cơ quan tổ
chức quần chúng, tổ chức xã hội va mọi công dân phải tuân thủ, ca nhân va
cơ quan tổ chức có liên quan phải thực hiên kiên quyết.”[17]
Để đưa các quy định của Hiến pháp vào thực tiễn cuộc sống, đã có các
văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm nâng cao hiệu quả công tác
thi hành án, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với mục đích và nguyên
tắc đó, để đạt được kết quả tốt nhất trong công việc thực thi các bản án, quyết
định của tòa án trên thực tế thì ngoài việc cần phải có một cơ chế thực thi sát
thực còn phải có những biện pháp quản lý chặt chẽ, hiệu quả cũng như cơ chế
kiểm tra, giám sát các hoạt động đó. Mô hình tổ chức quản lý, cơ chế quản lý
thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng đã và đang bộc lộ những
vước mắc bất cập, làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án, hệ
thống pháp luật thi hành án những năm qua vẫn chưa được hoàn thiện, thiếu
đồng bộ nên chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn vì chưa được nghiên
cứu xây dựng trên cơ sở luận cứ khoa học và thực tiễn đầy đủ, chính xác.
Đứng trước sự biến đổi chung về cơ chế quản lý và đời sống xã hội, thi
hành án cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Đã xuất hiện những hạn chế về cơ
2
chế quản lý điều hành, về tổ chức cán bộ, về bộ máy quản lý… Bên cạnh đó
chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản
lý xã hội bằng pháp luật đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật về thi hành án.
Mặt khác thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án ở nước Lào
có rất nhiều vấn đề đang đòi hỏi cần được nghiên cứu, hoàn thiện. Biểu hiện
của thực trạng quản lý kém hiệu quả là kết quả thi hành án rất thấp, số lượng
án tồn đọng ngày càng tăng, tình trạng khiếu nại kéo dài gây nhức nhối trong
dư luận nhân dân. Hơn nữa, trên thực tế công tác thi hành án cũng chưa được
các cấp các ngành quan tâm xứng tầm với nhiệm vụ của nó dẫn đến việc quản
lý thi hành án cũng gặp nhiều khó khăn.
Tại Việt Nam, công tác thi hành án đã gặt hái được một số thành công
nhất định. Nghị quyết Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 8 khóa
VII đã chủ trương: “Sớm xây dựng va hoan thiên phap luật về thi hanh an
theo hướng tiến tới tập trung nhiêm vụ quản lý nha nước về công tac thi hanh
an vao Bộ Tư phap”. [6] Hệ thống pháp luật thi hành án đã tương đối hoàn
thiện, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Xuất phát từ thực tiễn đó tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp
luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành ándân sự ở nước
CHDCND Lào – Bài học kinh nghiệm từ Việt Nam” làm đề tài luận văn cao
học luật của mình. Thi hành án là một vấn đề rộng liên quan đến nhiều lĩnh
vực như thi hành án hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự…
Tuy nhiên với khả năng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, vấn đề đặt ra chỉ
giới hạn trong những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
hành án dân sự tại CHDCND Lào và kinh nghiệm Việt Nam đồng thời kiến
nghị một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý thi
hành án dân sự nói riêng, hoạt động thi hành án nói chung tại CHDCND Lào.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quản lý nhà nước đối với công tác thi hành ándân sự là một vấn đề rất
rộng và luôn là vấn đề thời sự. Trong những năm qua chỉ có một số công trình
nghiên cứu pháp luật liên quan đến lĩnh vực này như: giáo trình Luật học của
trường Đại học quốc gia Lào, hội thảo trong nước và hội thảo quốc tế… mà
gần như chưa có một công trình khoa học nào đề cập về vấn đề này. Các tài
liệu này nhìn chung, chỉ nghiên cứu bao quát tổng thể nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan thi hành án mà chưa đi sâu nghiên cứu vào chức năng quản lý
nhà nước về thi hành án.
Việc nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố này cho thấy,
với những mục tiêu và nhiệm vụ khác nhau, những công trình nghiên cứu này
chủ yếu đề cập đến pháp luật về thi hành án hoặc ở một vài khía cạnh của
quản lý nhà nước về thi hành án. Có công trình có nhắc tới nhưng chưa đi sâu
nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu sắc chế định quản lý nhà
nước đối với công tác thi hành án dân sự.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu sắc
chế định quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, đồng thời đưa ra phương
hướng và những giải pháp hoàn thiện cũng như thi hành các quy định về quản
lý nhà nước về thi hành án dân sự là một đòi hỏi cấp bách đối với khoa học
pháp lý ở nước Lào.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Phạm vi nghiên cứu đề tài đã chọn là những vấn đề lý luận và thực tiễnvề
quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự ở Lào. Đề tài này sẽ
nghiên cứu các vấn đề sau đây: Lịch sử, nội dung quản lý nhà nước về thi
hành án dân sự tại Lào, đồng thời, tác giả cũng nghiên cứu các quy định của
pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về thi hành án dân sự của Việt Nam
4
nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho nước Lào trong quá trình hoàn
thiện pháp luật thi hành án nói chung, hoàn thiện các quy định pháp luật trong
lĩnh vực quản lý nhà nước về thi hành án dân sự nói riêng.
4. Phương phap luận và phương phap nghiên cứu đề tài.
Để nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận biện chứng
duy vật và những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng nhân dân cách
mạng Lào. Ngoài ra, tác giả còn dùng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Phương pháp phân tích, phương pháp chứng minh, phương pháp diễn
giải, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp quy nạp,
phương pháp so sánh v.v.
5. Nhiệm vụ và mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài này là trình bày các quy định của
pháp luật trước đây cũng như hiện tại về lĩnh vực quản lý nhà nước đối với
công tác thi hành án dân sự để thấy được quá trình hình thành, phát triển và
hoàn thiện từng bước qua từng giai đoạn của chế định quản lý nhà nước đối
với công tác thi hành án dân sự ở Lào.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là lập luận một cách có sức thuyết
phục về việc cần phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành trong
lĩnh vực quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, luận văn đưa ra phương
hướng và các giải pháp cụ thể, sát thực tế để hoàn thiện hệ thống các quy định
của pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án
dân sự.
6. Những đóng góp mới của luận văn.
Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu
sớm nhất các quy định pháp lý trong lĩnh vực quản lý nhà nước về thi hành án
5
dân sự sau khi nhà nước Lào ban hành Luật về thi hành án năm 2004 (sửa đổi
bổ sung năm 2008).
Luận văn phân tích sâu sắc một số chế định thuộc lĩnh vực quản lý nhà
nước về thi hành án dân sự, chỉ rõ những ưu điểm và thành công cũng như
nêu rõ những nhược điểm, bất cập của các quy định hiện hành về quản lý nhà
nước về thi hành án dân sự.
Luận văn nghiên cứu và phân tích một số quy định pháp luật trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về thi hành án dân sự của Việt Nam. Từ đó, rút ra
những kinh nghiệm phù hợp cho việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trong điều kiện và hoàn cảnh của Lào.
Luận văn trình bày, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ở Lào.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề chung về quản lý nha nước đối với công tac thi
hanh an dân sự
Chương 2. Thực trạng phap luật va thực hiên phap luật về quản lý nha
nước đối với công tac thi hanh an dân sự của CHDCND Lao va kinh nghiêm
xây dựng, thực hiên phap luật của CHXHCN Viêt Nam trong lĩnh vực nay.
Chương 3. Phương hướng va giải phap hoan thiên phap luật về quản lý
nha nước đối với công tac thi hanh andân sự của CHDCND Lao.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUAN LY NHA NƯƠC ĐỐI VƠI
CÔNG TÁC THI HANH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khai niệm và đặc điểm thi hành an dân sự
1.1.1 Khái niệm thi hành án dân sự
Khoa học pháp lý đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau về bản chất của
hoạt động thi hành án dân sự. Điều này thể hiện tập trung ở những quan điểm
được đề cập đến dưới đây.
Quan điểm thứ nhất cho rằnghoạt động thi hành án dân sự là một hoạt
động tư pháp vì nó gắn liền với các giai đoạn tố tụng và được ghi nhận trong
Bộ luật Tố tụng Dân sự[10, Tr 9].Do đó thi hành án dân sự chính là một hoạt
động của tố tụng dân sự. Tuy nhiên, quan điểm này lại không lý giải được
một vấn đề thực tiễn pháp lý đang thừa nhận đó là cơ quan thi hành án dân sự
không phải là cơ quan tiến hành tố tụng, chấp hành viên thi hành án dân sự
không phải là người tiến hành tố tụng.
Quan điểm thứ hai cho rằnghoạt động thi hành án dân sự là một loại
hoạt động hành chính vì bản chất, mục đích của thi hành án khác hoàn toàn
với tố tụng, không thể gắn nó với hoạt động tố tụng dân sự[14, Tr 9].Bởi lẽ,
bản chất và mục đích của tố tụng dân sự là xác định sự thật khách quan của
các vụ án dân sự, vụ việc dân sự để đưa ra các phán quyết đúng theo quy định
của pháp luật. Để có được các phán quyết đó, các cơ quan tiến hành tố
tụng,các cá nhân tiến hành tố tụng tham gia theo một quy trình tố tụng chặt
chẽ, công khai và minh bạch. Còn hoạt động thi hành án dân sự lại là một quy
trình khác với quy trình, thủ tục tố tụng. Xuất phát từ một bản án, quyết định
của tòa án,cơ quan thi hành án dân sự đưa ra một quyết định mang tính hành
chính dựa trên một văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật) để điều chỉnh
7
hoạt động cá nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ thi hành án và chủ thể được thi
hành án. Hơn thế nữa, những người theo quan điểm này còn cho rằng hoạt
động thi hành án dân sự là hoạt động hành chính vì về bản chất, hoạt động
này mang tính chất chấp hành và điều hành, theo đó, mang tính quản lý hành
chính nhà nước rõ nét. Quan điểm này dựa trên cơ sở pháp luật hiện hành
không quy định cơ quan thi hành án là cơ quan tiến hành tố tụng. Song sự bất
hợp lý là ở chô nếu coi thi hành án dân sự là một hoạt động hành chính thì với
những trường hợp người được thi hành án dân sự không làm đơn yêu cầu thi
hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự không thể có cơ sở và các
phương pháp hành chính nhưmệnh lệnh, quyền uy để đưa ra các biện pháp thi
hành án dân sự được. Do đó, yếu tố hành chính không đảm bảo.
Quan điểm thứ ba cho rằng hoạt động thi án dân sự là hoạt động hành
chính – tư pháp. Có nghĩa là hoạt động này vừa mang tính hành chính, vừa
mang yếu tố của tính tư pháp chứ không thể chỉ có riêng tính hành chính,
hoặc riêng tính tư pháp. [15, Tr 9]
Theo tôi, đây là một quan điểm hết sức hợp lý. Bởi lẽ, thi hành án dân sự
là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, do cơ quan thi hành án dân
sự và chấp hành viên thực hiện nhằm đưa quyết định của các bản án, quyết
định về dân sự của tòa án đi vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động thi hành án
dân sự trên thực tế luôn gắn liền với quy trình tố tụng nói chung và quy trình
tố tụng dân sự nói riêng, đồng thời gắn với quyền lực hành pháp,để thông qua
việc tổ chức, điều hành bằng bộ máy đặc biệt của cơ quan hành pháp, những
cá nhân, tổ chức được thi hành án dân sự được nhà nước bảo vệ quyền. Đồng
thời cũng qua hoạt động thi hành án, các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ phải thi
hành án dân sự phải thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình. Trong trường
hợp không thi hành quyết định thi hành án thì cá nhân, tổ chức đó phải chịu
8
sự cưỡng chế của nhà nước thông qua các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ
liên quan.
Thi hành án dân sự còn được hiểu theonghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Hiểu theo nghĩa hẹp thì “thi hanh an dân sự la hoạt động của cac cơ
quan thi hanh an dân sự dựa trên cơ sở chức năng, nhiêm vụ, quyền hạn va
theo cac trình tự, thủ tục do phap luật quy định nhằm đưa bản an, quyết định
của tòa an ra thi hanh trên thực tế.” [8]
Hiểu theo nghĩa rộng thì “thi hanh an dân sự được xem la cac hoạt động
chỉ đạo, điều hanh hoạt động tac nghiêp va cac hoạt động khac theo quy định
của phap luật để nhằm mục đích đảm bảo cac bản an, quyết định của tòa an
va cac quyết định khac theo quy định của phap luật phải được thi hanh
nghiêm chỉnh trên thực tế.”[8]
Nếu hiểu thi hành án dân sự theo nghĩa này thì hoạt động thi hành án
không chỉ đơn thuần là hoạt động của cơ quan thi hành án do các chấp hành
viên thực hiện mà là tổng hợp nhiều hoạt động tác nghiệp khác nhau của các
cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ.Bao gồm cả cơ quan quản lý, cơ quan theo
dõi, hô trợ hoạt động thi hành án, giám sát và giải quyết khiếu nại về hoạt
động thi hành án dân sự, các cơ quan, ban ngành có liên quan nhằm đảm bảo
cho hoạt động của cơ quan thi hành án được diễn ra đúng quy trình, thủ tục
được pháp luật quy định, đồng thời có chất lượng và hiệu quả trên thực tế.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau song thi hành án dân sự được hiểu
là tổng hợp các hoạt động tác nghiệp của cơ quan thi hành án, chấp hành viên
nhằm mục đích bảo đảm việc thi hành trên thực tiễn các bản án, quyết định
của tòa án về dân sự và các quyết định khác theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ
được pháp luật quy định.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự có những đặc điểm nổi bật sau:
9
Thứ nhất, thi hành án dân sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.
Trong đó bao gồm nhiều hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau thực hiện
nên đòi hỏi sự huy động lực lượng không chỉ các cơ quan hành chính nhà
nước mà cả các cơ quan tư pháp và hô trợ tư pháp. Do đó việc thực hiện
quyền lực nhà nước ở hoạt động này là sự phối hợp giữa quyền hành pháp và
quyền tư pháp.
Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động có mục đích. Đó là việc hiện
thực hóa ý chí của nhà nước thông qua bản án, quyết định của tòa án về một
vụ việc dân sự cụ thể vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động thi hành án dân sự
không chỉ nhằm mục đích giữ vững kỉ cương, phép nước, giá trị của pháp luật
mà còn bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức là đối tượng trực tiếp
được thi hành án, đồng thời thi hành án dân sự còn phải đảm bảo lợi ích hợp
pháp của những người có liên quan đến đối tượng là tài sản trong quyết định
thi hành án dân sự đó.
Thứ ba, thi hành án dân sự là hoạt động chủ yếu là thi hành quyết định
của tòa án về một tài sản nhất định nên tính chất dân sự mà tài sản mang lại
quyết định đến bản chất của quan hệ pháp luật là quan hệ pháp luật dân sự.
Việc thi hành án mang tính chất tự nguyện, tự định đoạt từ phía người được
thi hành án dân sự. Do đó, trong quá trình thi hành án dân sự, cơ quan thi
hành án dân sự luôn luôn chú ý và tôn trọng quyền tự nguyện, tự định đoạt và
tự chịu trách nhiệm về các hành vi thực hiện, không thực hiện của người được
thi hành án dân sự.
Thứ tư, thi hành án dân sự là hoạt động có ý nghĩa trong việc xác định
tính hiệu quả của hoạt động tố tụng. Bởi vì trong quá trình thi hành án dân sự,
cơ quan thi hành án, chấp hành viên thi hành án có thể phát hiện ra những sai
lầm của bản án, quyết định của tòa án mà họ đang thi hành thì có quyền kiến
nghị với người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng để bản án
hay quyết định đó được xét xử lại.
10
1.2. Quản lý nhà nước đối với công tac thi hành an dân sự
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự
Trên thực tế, chưa có một khái niệm nào chuẩn xác về quản lý nhà nước
đối với công tác thi hành án dân sự. Chính vì lẽ đó, để dễ hình dung được nội
hàm của thuật ngữ này, chúng ta sẽ đi từ khái niệm quản lý.
Quản lý là đối tượng của nhiều ngành nghiên cứu khoa học. Theo từ điển
Bách khoa Lào thì “Quản lý la chức năng va hoạt động của hê thống có tổ
chức thuộc cac giới khac nhau (sinh học, kỹ thuật, xã hội) bảo đảm giữ gìn
một cơ cấu ổn định nhất định duy trì sự hoạt động tối ưu va bảo đảm thực
hiên những chương trình mục tiêu của hê thống đó” [34].Quan niệm chung
nhất về quản lý được sử dụng rộng rãi trong khoa học nghiên cứu và trong
thực tiễn là định nghĩa về quản lý của điều khiển học. Theo quan niệm của
điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá
trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho
hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt
được những mục tiêu đã định trước.
Trong mối quan hệ của quản lý bao gồm nhiều thành phần khác nhau
như chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý, mục tiêu quản lý…
và trong hoạt động quản lý một số yếu tố cần phải chú ý như: yếu tố con
người, yếu tố chính trị, yếu tố tổ chức, yếu tố quyền lực, yếu tố văn hóa… khi
thực hiện hoạt động quản lý.
Có thể nói rằng, quản lý là sự tác động lên một hệ thống nào đó với mục
tiêu đưa hệ thống đó đến trạng thái cần đạt được. Quản lý là một phạm trù
xuất hiện trước khi có nhà nước với tính chất là một loại lao động xã hội hay
lao động chung được thực hiện ở quy mô lớn. Quản lý được phát sinh từ lao
động, không tách rời với lao động và bản thân quản lý cũng là một loại hoạt
động lao động. Như vậy quản lý xã hội không phải là sản phẩm của sự phân
11
chia quyền lực mà là sản phẩm của sự phân công lao động nhằm liên kết và
phối hợp hoạt động chung của con người.
Tóm lại, quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến các
đối tượng quản lý. Quản lý xuất hiện ở bất kì nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó và
lúc đó có hoạt động chung của con người. Mục tiêu và nhiệm vụ của quản lý
là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của con người, phối hợp với các hoạt
động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một hành động thống nhất của tập
thể để hướng đến mục tiêu đã định trước. Quản lý được thực hiện bằng tổ
chức và quyền uy nhằm đảm bảo sự phục tùng và tạo sự thống nhất trong
quản lý.
Nói đến quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự là nói đến
hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động thi hành án dân
sự được ổn định và phát triển. Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ
thống chính trị, nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho công dân được
thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Cùng lúc đó, công dân
cũng có trách nhiệm phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Nhà nước có
trách nhiệm điều tiết để đảm bảo hoạt động thi hành án dân sự thực hiện có
hiệu quả, đóng góp vào sự nghiệp ổn định và phát triển xã hội. Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay khi nước Lào đang hòa mình vào công cuộc hội nhập kinh
tế quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc tuân thủ
nghiêm ngặt các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án
dân sự nói riêng thì đây là một vấn đề hết sức quan trọng.
Qua việc khái quát trên ta có thể hiểu “quản lý nha nước đối với công
tac thi hanh an dân sự la hoạt động thực thi quyền lực nha nước trong lĩnh
vực thi hanh an dân sự nhằm tac động có tổ chức va điều chỉnh bằng quyền
lực nha nước đối với hoạt động thi hanh an dân sự do cac cơ quan nha nước
có thẩm quyền tiến hanh để thực thi những bản an, quyết định của tòa an đã
12
có hiêu lực thi hanh nhằm đảm bảo lợi ích hợp phap của nha nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội va công dân.”
Cách hiểu này tuy chỉ mang tính tương đối nhưng xét trên phương diện
điều khiển học nó đã xác định được:
Chủ thể của hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự là nhà
nước mà chủ yếu là các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước được nhà
nước trao quyền quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự.
Khách thể của việc quản lý nhà nước về thi hành án dân sự là trật tự quản
lý trong việc thực thi những bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp
luật.
Đối tượng của hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự là nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân… thực hiện những hoạt
động liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự.
Phương tiện quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự là hệ
thống văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong việc thi hành
các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực thi hành.
Mục đích của hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự là đảm
bảo cho hoạt động thi hành án dân sự diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, đảm
bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhà nước, các tổ chức, công dân và giữ
vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự.
Quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự cũng như quản lý
nhà nước trên các lĩnh vực khác, trước tiên phải tuân theo nguyên tắc cơ bản
của quản lý nhà nước nói chung như nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc
tập trung dân chủ, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa…. Tuy nhiên trong
từng lĩnh vực quản lý có những nét đặc thù của nó, do đó cần thiết phải tuân
13
thủ một số nguyên tắc có tính riêng biệt. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước đối
với hoạt động thi hành án dân sự có một số nguyên tắc đặc thù sau đây:
Thứ nhất la nguyên tắc bảo đảm hiêu lực của bản an, quyết định.
Xét xử và thi hành án là hai mặt của quá trình thống nhất và thể hiện
quyền lực nhà nước. Trên thực tế, việc xét xử chỉ có ý nghĩa khi bản án, quyết
định được thi hành. Vì vậy, về nguyên tắc phải đảm bảo hiệu lực của bản án,
quyết định.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định biểu hiện tính pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong thi hành án dân sự. Thực hiện nguyên tắc này
không những làm cho bản án, quyết định có hiệu lực thực tế mà còn bảo đảm
cho nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện. Nội dung của
nguyên tắc này yêu cầu:
-Khi giải quyết vụ việc dân sự, tòa án phải quyết định áp dụng biện pháp
cần thiết bảo đảm cho việc thi hành án, phải tuyên bản án, quyết định đầy đủ,
rõ ràng, chính xác tạo thuận lợi cho việc thi hành án.
- Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được đưa ra thi hành.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định phải
chấp hành đúng và đầy đủ các phán quyết ghi trong bản án, quyết định được
đưa ra thi hành.
- Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, không được can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi hành
án dân sự, không gây cản trở, khó khăn cho cơ quan thi hành án, chấp hành
viên trong việc tổ chức thi hành án.Những hành vi trái pháp luật như cản trở,
không chấp hành án, can thiệp trái pháp luật, tùy theo mức độ vi phạm sẽ bị
xử lý theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định là nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức thực hiện quyền lực của nhà nước nên nhà nước cần phải
14
tạo ra cơ chế pháp lý cụ thể để đảm bảo nguyên tắc được mọi đối tượng tuân
thủ chặt chẽ trên thực tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thuận lợi hơn trong việc quản lý.
Thứ hai la nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hanh an của cac đương sự.
Quyền yêu cầu thi hành án là một trong các quyền cơ bản của đương sự
và là một trong những nội dung quan trọng của việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự. Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, các
đương sự chỉ bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình nếu thực hiện
được quyền này trên thực tế, nhất là đối với người được thi hành án.
Thứ ba la nguyên tắc trach nhiêm bồi thường thiêt hại trong thi hanh an
dân sự.
Kết quả thi hành án dân sự phụ thuộc rất lớn vào việc cơ quan thi hành
án dân sự, các cá nhân, cơ quan và tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân
sự có thực hiện đúng, đầy đủ các quyền hạn và nhiệm vụ của họ hay không.
Vì vậy việc đề cao trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, các cá nhân,
cơ quan và tổ chức liên quan đến việc thi hành án dân sự là cần thiết. Cơ quan
thi hành án dân sự, chấp hành viên, các đương sự và các cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác liên quan đến việc thi hành án dân sự phải đề cao trách nhiệm trong
việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật về
thi hành án dân sự. Nếu để xảy ra vi phạm, thiệt hại sẽ phải chịu trách nhiệm
về vi phạm, thiệt hại đó. Đồng thời phải bồi thường cho người bị hại theo quy
định của pháp luật. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi nhà nước phải kiên quyết xử
lý nghiêm minh đối với những hành vivi phạm của những người có thẩm
quyền trong các cơ quan nhà nước gây thiệt hại cho đương sự trong thi hành
án dân sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
15
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự.
Mục đích chính, cơ bản nhất của hoạt động thi hành án dân sự là làm cho
các quyết định của tòa án trong bản án hoặc quyết định được đưa ra thi hành
có hiệu lực trong đời sống xã hội. Hoạt động xét xử mặc dù đạt kết quả cao
nhưng thi hành án không có kết quả thì cũng không có ý nghĩa gì, quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên không được đảm bảo.
Để thực hiện tốt được mục đích đó đòi hỏi ngoài việc phải có một bộ
máy trực tiếp thực hiện công tác thi hành án dân sự còn phải có một cơ chế
quản lý công tác thi hành án dân sự hiệu quả. Bởi vì cơ chế quản lý sẽ có tác
động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của công tác này. Công tác quản lý thi
hành án dân sự có tác động trực tiếp và hết sức quan trọng đối với hoạt động
thi hành án dân sự. Các hoạt động quản lý thi hành án dân sự tác động trực
tiếp đến các nội dung như: về tổ chức bộ máy; về nhân sự (bổ nhiệm, miễn
nhiệm…); về chế độ chính sách (tiền lương, chế độ phụ cấp…); đến các nội
dung văn bản quản lý…
Nội dung quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự theo Luật
về thi hành án năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) của CHDCND Lào
được quy định như sau:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự :
Nghiên cứu chính sách, pháp luật về việc thi hành án dân sự đề nghị đến
Chính phủ xem xét thông qua;
Phổ biến, giáo dục luật thi hành án dân sự và những quy định khác có
liên quan cho nhân dân, từng lớp người được hiểu và tự giác thực hiện, đồng
thời góp ý kiến về công tác thi hành án dân sự bằng các cách khác.
- Tập trung quản lý chuyên nghiệp :
Chỉ đạo, quản lý và thanh tra chuyên nghiệp về công tác thi hành án dân
sự trong cả nước;
16
Nghiên cứu phân tích nguyên nhân bản án không thể thi hành đề nghị
đến bộ phận có liên quan để nghiên cứu giải pháp;
Thay đổi, đình chỉ, miễn, hủy bỏ quyết định của Phòng và Đơn vị thi
hành án trái pháp luật hoặc đề nghị đến bộ phận khác hủy bỏ văn bản của
mình không phù hợp với công tác thi hành án dân sự hoặc pháp luật, đồng
thời hướng dẫn việc thi hành án dân sự làm cho có sự đúng đắn;
Phối hợp với chính quyền địa phương và bộ phận khác có liên quan trong
quản lý công tác thi hành án dân sự;
Hợp tác quốc tế về quản lý công tác thi hành án dân sự;
Thường xuyên báo cáo tình hình thi hành án trong cả nước lên Chính phủ.
- Quản lý công tác nhân sự :
Bổ nhiệm, thuyên chuyển, miễn nhiệm Phòng Trưởng, Phó Phòng trưởng
theo yêu cầu của Sở tư pháp tỉnh, thành phố phối hợp với cơ quan có liên
quan;
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức chịu trách nhiệm công tác thi hành
án về mặt chính trị - ý thức, đạo đức, chuyên nghiệp.
- Quản lý nguồn thu – chi, cơ sở vật chất :
Quản lý việc thực hiện phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ
thuật, phương tiện hoạt động cho cơ quan thi hành án dân sự của chính quyền
địa phương các cấp thông qua ngành tư pháp ;
Quản lý nguồn thu – chi trong thi hành án dân sự đúng theo pháp luật.
- Giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự :
17
Với chức năng là cơ quan quản lý thi hành án dân sự, Bộ tư pháp có
quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự để đảm bảo công tác thi hành
án dân sự minh bạch, công bằng, đúng pháp luật.
1.3 Tiêu chí hoàn thiện phap luật về quản lý nhà nước đối với công
tac thi hành an dân sự
Nói quản lý nhà nước là nói tới hoạt động của nhà nước, nói tới các quá
trình tác động của các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước bằng pháp luật
đến các đối tượng quản lý nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Quản lý nhà nước ở đây không phải là quản lý tổ chức chính trị mà là hoạt
động chấp hành và điều hành của nhà nước, được thực hiện trước hết và chủ
yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp
hành luật, pháp lệnh và các nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước,
nhằm tổ chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực tiếp và thường xuyên công
cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị của nhà nước. Nhà nước
quản lý thi hành án bằng pháp luật. Và để đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ
thống pháp luật đó thì phải dựa trên các tiêu chí nhất định.
Tiêu chí là những chuẩn mực, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại
một sự vật, hiện tượng. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối
với công tác thi hành án dân sự là những dấu hiệu, chuẩn mực dựa vào đó để
nhận biết, đánh giá được mức độ hoàn thiện của pháp luật về quản lý nhà
nước đối với công tác thi hành án dân sự là tốt hay chưa tốt, đạt hay chưa đạt.
Xác định tiêu chí hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác
thi hành án dân sự có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về lý luận và thực tiễn
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đẩy
mạnh cải cách hành chính.
18
Những tiêu chí đó – xét về mặt lý thuyết, là những yếu tố làm nên giá trị
của hệ thống; xét về mặt thực tiễn, là những điều kiện đòi hỏi công tác xây
dựng pháp luật phải đáp ứng để bảo đảm và phát huy vai trò to lớn của nhà
nước về thi hành án. Có thể phân chia các tiêu chí nêu trên thành 3 loại cơ bản
sau đây:
Thứ nhất,tiêu chí về nội dung :
Pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự được
coi là hoàn thiện phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về mặt nội dung cơ bản
sau đây:
- Có nội dung phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về
phát triển công tác thi hành án dân sự.
- Phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tồn tại một cách
khách quan, tính phù hợp của pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác
thi hành án dân sự thể hiện sự tương quan giữa trình độ của pháp luật về thi
hành án dân sự với sự phát triển của nền kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ở
môi thời kỳ phát triển cũng như hệ thống pháp luật nói chung.
- Phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở những tiêu chí như tính công khai, minh bạch,
dân chủ và xã hội hoá...
Thứ hai,tiêu chí về hình thức thể hiện qua các khía cạnh sau đây :
- Tính toàn diện của hệ thống pháp luật về quản lý nhà nước đối với công
tác thi hành án dân sự. Tính toàn diện là tiêu chuẩn cơ bản thể hiện mức độ
hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Đây cũng là tiêu chí hàng đầu để đánh giá
mức độ hoàn thiện của pháp luật về thi hành án dân sự. Cũng như đối với hệ
thống pháp luật, tính toàn diện là tiêu chuẩn để “định lượng” pháp luật về thi
hành án dân sự, có ý nghĩa quan trọng nhằm tiếp tục nghiên cứu để “định
tính” chúng. Tính toàn diện đòi hỏi pháp luật về thi hành án dân sự phải có
19
đầy đủ các chế định pháp luật về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự và thể hiện thống nhất trong hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật tương ứng, đồng thời trong từng chế định
pháp luật đó phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết.
- Tính thống nhất của hệ thống pháp luật về quản lý nhà nước đối với
công tác thi hành án dân sự. Đây là điều kiện tiên quyết cho sự hợp thành hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về thi
hành án dân sự nói riêng. Điều đó đòi hỏi xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp
luật về thi hành án dân sự phải bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật
từ Hiến pháp là đạo luật gốc đến Luật thi hành án dân sự và các luật có liên
quan.
- Bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả và khả thi. Tính minh bạch của pháp
luật được thể hiện ở sự công khai, chính xác, mục đích rõ ràng của cơ quan
ban hành pháp luật và cơ quan tổ chức thực thi pháp luật và quan trọng hơn
đó là gắn với những bảo đảm để người dân có thể tiếp cận với các quy định
của pháp luật để tham gia tích cực vào các quan hệ pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án
dân sự không chỉ là củng cố toàn diện về hình thức và nội dung pháp luật mà
còn đánh giá sự tác động của các quy định pháp luật đối với chính trị, kinh tế
- xã hội và hiệu quả của sự tác động đó. Hiệu quả của pháp luật về quản lý
nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự chính là khả năng tác động vào
các quan hệ xã hội về thi hành án dân sự. Hiệu quả của pháp luật về quản lý
nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự phải được đánh giá gắn liền với
hiệu quả hoạt động của công tác thi hành án dân sự và kết quả chính trị, kinh
tế - xã hội mà pháp luật mang lại. Muốn vậy, phải có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công
chức, chấp hành viên, đẩy mạnh tiêu chuẩn hoá đội ngũ chấp hành viên, trong
20
đó xác định rõ cả về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và tiêu chuẩn về tác
phong, đạo đức, lối sống, đồng thời mở rộng dân chủ, xây dựng cơ chế kiểm
tra, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; phát hiện kịp thời
những yếu kém, bất cập để khắc phục, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm
pháp luật của cán bộ, công chức, chấp hành viên của đơn vị thi hành án và tổ
chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thi hành án.
- Hình thức văn bản
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật tiến bộ nhất, trong
đó được phân ra theo thứ bậc cao thấp khác nhau là Hiến pháp, luật và các
văn bản quy phạm pháp luật dưới luật. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với
công tác thi hành án dân sự được coi là hoàn thiện phải bảo đảm sự đầy đủ và
toàn diện từ quy định về thi hành án trong Hiến pháp đến Luật thi hành án dân
sự, các luật có liên quan, các văn bản dưới luật. Ngoài ra, các văn bản quy
phạm pháp luật về thi hành án dân sự phải được ban hành đúng thẩm quyền
có hình thức kết cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lý.
- Kĩ thuật lập pháp
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải được xây dựng ở trình độ kỹ
thuật lập pháp cao, yêu cầu này cũng đúng đối với pháp luật về quản lý nhà
nước đối với công tác thi hành án dân sự. Điều này đòi hỏi quá trình xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải được tiến hành theo những
nguyên tắc tối ưu, xác định chính xác cơ cấu nội tại của pháp luật về thi hành
án dân sự, được biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý rõ ràng, cô đọng, lôgíc, chính
xác và một nghĩa, đồng thời mang tính phổ thông và ổn định cao. Việc bảo
đảm kỹ thuật lập pháp là điều kiện quan trọng để bảo đảm tính chính xác về
nội dung, bảo đảm văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với
công tác thi hành án dân sự dễ hiểu, hiểu thống nhất và dễ thực hiện.
Thứ ba,tiêu chí về tổ chức thực hiện :
21
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước đối với công
tác thi hành án dân sự.
Pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự được
coi là hoàn thiện không chỉ được thể hiện ở chô được ban hành dưới hình thức
một đạo luật mang tính pháp điển cao, mà quan trọng hơn là đạo luật đó phải
đi vào cuộc sống, phải làm cho nhân dân nắm được một cách đầy đủ và hiểu
được nội dung của các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự được ban hành
qua các giai đoạn. Muốn vậy, phải coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền,
giải thích pháp luật và cần phải sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo
dục và nâng cao ý thức pháp luật... cho nhân dân.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức.
Pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự được
coi là hoàn thiện còn phải được thể hiện thông qua hoạt động thực hiện và áp
dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó đặc biệt là đội ngũ
chấp hành viên, do vậy phải nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội
ngũ cán bộ, công chức thi hành án mà trước hết là các chấp hành viên. Muốn
vậy, phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, chấp hành viên, đẩy mạnh tiêu
chuẩn hoá đội ngũ chấp hành viên, trong đó xác định rõ cả về tiêu chuẩn
chuyên môn, nghiệp vụ và tiêu chuẩn về tác phong, đạo đức, lối sống.
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự.
Pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự được
coi là hoàn thiện còn được thể hiện thông qua hiệu quả việc kiểm tra, giám sát
quá trình thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án
dân sự và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với
công tác thi hành án dân sự. Phân định rõ chức năng, thẩm quyền của các cơ
22
quan làm công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về quản lý nhà
nước đối với công tác thi hành án dân sự.
Để làm tốt công tác này, cần nâng cao năng lực và phẩm chất cho
những người làm công tác kiểm tra, giám sát; đồng thời mở rộng dân chủ, xây
dựng cơ chế kiểm tra, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân;
phát hiện kịp thời những yếu kém, bất cập để khắc phục, xử lý nghiêm mọi
hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, chấp hành viên và tổ chức,
cá nhân có liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự.
23
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUAN
LY NHA NƯƠC ĐỐI VƠI CÔNG TÁC THI HANH ÁN DÂN SỰ CỦA
CHDCND LAO VA KINH NGHIỆM XÂY DỰNG, THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT CỦA CHXHCN VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC NAY.
2.1. Thực trạng phap luật và thực hiện phap luật về quản lý nhà
nước đối với công tac thi hành an dân sự của nước CHDCND Lào.
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về
quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự của CHDCND Lào.
Từ khi nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời cho đến nay, nhà
nước Lào đã thực hiện chức năng quản lý toàn bộ xã hội trong phạm vi toàn
quốc.
Đối với hoạt động thi hành án, nhà nước Lào đã thể chế hóa những chủ
trương, chính sách của Đảng Nhân dân cách mạng Lào thành các quy phạm
pháp luật, đồng thời thực thi quyền lực quản lý nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự ở Lào. Trong quá trình quản lý nhà nước đối với công tác thi
hành án dân sự, các văn bản pháp luật cũng đã được điều chỉnh, bổ sung cho
phù hợp với những thay đổi của tình hình thực tiễn trong từng giai đoạn.
* Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1990.
Sau khi đã giải phóng và thống nhất đất nước, thành lập nhà nước Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào ngày 2 tháng 12 năm 1975, đến năm 1990 là giai
đoạn mà tổ chức và hoạt động thi hành án chưa được dựa trên một văn bản
pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Ở cấp trung ương Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao là một ngành nghiệp vụ thuộc Bộ tư pháp. Ở cấp tỉnh Tòa án
nhân dân tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh thuộc về Sở tư pháp tỉnh nhưng
24
hai cơ quan này vẫn chưa có quyền hạn và nhiệm vụ rõ rệt. Trong giai đoạn
này Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 53/TTCP ngày 15 tháng 12
năm 1976 về việc truy bắt, điều tra, xử lý tội phạm để áp dụng tạm thời.
Quyết định này chỉ nhấn mạnh về những vụ án hình sự. Trong thời kì này
cũng không xuất hiện các vụ án dân sự và các vụ án khác mà chủ yếu là các
vụ án hình sự. Do đó nhà nước Lào không tổ chức cơ quan thi hành án riêng
mà việc xử lý vụ án hình sự xảy ra theo quyết định này thuộc về thẩm quyền
của cơ quan công an và có sự tham gia của đại diện cơ quan tư pháp ngành
tòa án và viện kiểm sát, mặt trận tổ quốc và các cơ quan khác có liên quan,
còn việc giải quyết các tranh chấp dân sự do các cơ quan hành chính nhà nước
có liên quan phối hợp giải quyết.
Có thể thấy trong thời kì này tổ chức bộ máy cũng như nguyên tắc hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự chưa được chú trọng. Cơ chế quản lý và
tổ chức thi hành án dân sự chưa có được vị trí tương xứng với yêu cầu của
nhiệm vụ đặt ra. Nhưng tình trạng xét xử xong không được thi hành không
chiếm tỉ lệ cao trong lượng án phải thi hành hàng năm, bởi khi xét xử vụ án
thì tòa án đã xem xét luôn về điều kiện và biện pháp thi hành và ghi rõ trong
bản án.
* Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004.
Đến năm 1989 Hội đồng nhân dân tối cao khóa III (tên gọi Quốc Hội lúc
ấy) đã ban hành luật số 32/HĐNDTC ngày 23 tháng 12 năm 1989 về Tòa án
nhân dân và ban hành Luật tố tụng dân sự số 09/09/HĐNDTC ngày 29 tháng
11 năm 1990. Trong Luật tố tụng dân sự này đã có 4 điều quy định về việc thi
hành án dân sự trong đó chỉ nói chung chung về việc thi hành án dân sự, và
thẩm quyền của việc thi hành án dân sự thuộc về thư ký tòa án.
Năm 1991 Hội đồng nhân dân tối cao đã ban hành Hiến pháp của nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào vào ngày 15 tháng 8 năm 1991. Điều 85 của
25
Hiến pháp Lào năm 1991 đã quy định: “Bản an của Tòa an nhân dân đã có
hiêu lực phap luật thì mọi cơ quan tổ chức Đảng, cơ quan tổ chức Nha nước,
Mặt trận tổ quốc, cơ quan tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội va mọi công
dân phải tuân thủ, ca nhân va cơ quan tổ chức có liên quan phải thực hiên
kiên quyết.”[17]
Đến năm 1996 và 2001, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân lần
lượt tách ra khỏi Bộ tư pháp và trở nên độc lập với nhau thì việc thi hành án
dân sự đã giao cho cơ quan tư pháp thực hiện nhưng vẫn chưa có văn bản nào
quy định về vấn đề này mà vẫn chỉ áp dụng điều 85 của Hiến pháp Lào năm
1991 và 4 điều của Luật tố tụng dân sự Lào năm 1990.
Như vậy, so với giai đoạn trước đó thì trong giai đoạn này công tác thi
hành ándân sự đã đạt được những kết quả bước đầu, tạo ra sự chuyển biến sau
nhiều năm trì trệ.
* Giai đoạn từ năm 2004 đến nay.
Để phát huy những điều khoản quy định tại điều 85 của Hiến pháp năm
1991, Hội nghị thường xuyên lần thứ 5 của Quốc Hội khóa V đã thông
qua Luật về thi hành án dân sự trong buổi hội nghị sáng ngày 15 tháng 5 năm
2004 và đã sửa đổi, bổ sung vào tháng 7 năm 2008. Luật này quy định những
nguyên tắc, thủ tục, trình tự, phương pháp và biện pháp thi hành án dân sự.
Đó là một văn bản làm nền căn bản cho việc thi hành án dân sự được thực
thihiệu quả.
Theo quy định của luật này thì mô hình tổ chức thi hành án dân sự gồm
có cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự. Cơ quan
quản lý thi hành án dân sự bao gồm Bộ tư pháp ở cấp trung ương, Sở tư pháp
ở cấp tỉnh, và Phòng tư pháp ở cấp huyện. Còn cơ quan thi hành án dân sự
bao gồm : Phòng thi hành án dân sự ở cấp tỉnh và Đơn vị thi hành án dân sự ở
26
cấp huyện. Cơ quan thi hành án dân sự là một tổ chức phụ thuộc vào ngành tư
pháp về mặt tổ chức, biên chế và kinh phí, trụ sở.
Như vậy, về cơ chế quản lý thi hành án dân sự theo Luật về thi hành án
Lào năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) cho thấy pháp luật hiện hành tại
Lào đã xây dựng được cơ chế quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo lãnh
thổ, tạo ra cơ chế quản lý tương đối phù hợp.
2.1.2. Nội dung pháp luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi
hành án dân sự của CHDCND Lào – đối chiếu với pháp luật Việt Nam
2.1.2.1. Cac quy định về viêc ban hanh văn bản phap luật về quản lý
nha nước đối với công tac thi hanh an dân sự
Việc ban hành văn bản pháp luật nói chung và ban hành pháp luật về
quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án nói riêng được thực hiện theo
những thủ tục, trình tự đã quy định trong pháp luật, nhất là Hiến pháp nước
CHDCND Lào và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 19/QH ngày
12 tháng 7 năm 2012.
Điều 59 Hiến pháp nước CHDCND Lào và điều 18 Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật đã quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền đề
nghị xây dựng dự thảo pháp luật hoặc sửa đổi pháp luật bao gồm:
- Chủ tịch nước;
- Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
- Chính phủ;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Mặt trận tổ quốc và cơ quan quần chúng cấp trung ương. (Cơ quan
quần chúng bao gồm: Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Lào, Hội liên
hiệp phụ nữ và Hội liên hiệp công đoàn.) [17]
27
Điều 19 luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định về thủ
tục, trình tự xây dựng và sửa đổi pháp luật được thực hiện như sau:
1. Xây dựng kế hoạch xây dựng và sửa đổi pháp luật;
2. Xây dựng dự thảo;
3. Bộ tư pháp thẩm định;
4. Chính phủ xem xét dự thảo;
5. Quốc Hội xem xét thông qua dự thảo;
6. Chủ tịch nước ra lệnh công bố pháp luật. [19]
Về việc ban hành hoặc sửa đổi pháp luật về thi hành án dân sự thì trước
hết Bộ trưởng Bộ tư pháp với tư cách là thành viên của Chính phủ thông qua
Chính phủ đề nghị tới Quốc Hội chính là Ủy ban thường vụ Quốc Hội để yêu
cầu xây dựng dự thảo, sửa đổi, bổ sung hoặc hoàn thiện pháp luật về thi hành
án. Sau khi Ủy ban thường vụ Quốc Hội đã xem xét thông qua trao cho Bộ tư
pháp xây dựng dự thảo. Bộ trưởng Bộ tư pháp phân công cho Cục quản lý thi
hành án dân sự làm chủ trì xây dựng dự thảo dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ
trưởng hoặc Thứ trưởng Bộ tư pháp. Sau khi đã xây dựng dự thảo thì Cục
quản lý thi hành ándân sự sẽ gửi dự thảo đến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ và địa phương nhất là Phòng thi hành án và Đơn vị thi
hành án trên cả nước để lấy ý kiến. Sau khi đã thu được những ý kiến đóng
góp thì Cục quản lý thi hành án dân sự phải tổng kết ý kiến, phối hợp với Cục
pháp luật thẩm định hoàn chỉnh dự thảo. Sau khi đã hoàn chỉnh thì Bộ trưởng
Bộ tư pháp gửi dự thảo tới Văn phòng Chính phủ xem xét đưa vào Hội nghị
của Chính phủ thảo luận. Sau khi đã thông qua tại Hội nghị của Chính phủ thì
Chính phủ mới trình đến Quốc Hội, sau khi Ủy ban thường vụ Quốc Hội nhận
được dự thảo thì giao cho Ủy ban Pháp luật xem xét rồi báo cáo lên Ủy ban
thường vụ Quốc Hội xem xét đưa vào Hội Nghị đại biểu Quốc Hội thông qua.
Pháp luật sẽ được thông qua khi có hơn nửa số đại biểu Quốc Hội tham gia
28
đại hội biểu quyết thông qua. Sau khi pháp luật đã thông qua tại Hội nghị
Quốc Hội thì Ủy ban thường vụ Quốc Hội đề nghị Chủ tịch nước ra lệnh về
việc công bố pháp luật.
Sau khi luật đã được công bố, Chính phủ chịu trách nhiệm phổ biến, giáo
dục những quy định của pháp luật. Thủ tướng Chính phủ sẽ ra pháp lệnh
hướng dẫn việc thi hành luật. Bộ trưởng Bộ tư pháp sẽ ra quyết định chỉ đạo
trực tiếp đến những vấn đề cơ bản hoặc những vấn đề khó khăn trong pháp
luật để áp dụng trên thực tiễn.
Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ tư pháp là tổ chức tham mưu
cho Bộ trưởng Bộ tư pháp về công tác thi hành án dân sự. Có trách nhiệm
nghiên cứu, xây dựng những văn bản dưới luật đối với công tác thi hành án
dân sự trình Bộ trưởng Bộ tư pháp xem xét ra quyết định hoặc đề nghị Thủ
tướng Chính phủ ra quyết định để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của
cơ quan thi hành án dân sự từng giai đoạn.
Ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trước khi luật về thi hành ánsố
03/QH ngày 15 tháng 5 năm 2004 ra đời thì không có Pháp lệnh nào quy định
về việc thi hành án dân sự và hiện tại cũng thiếu các quy định cụ thể hóa cho
các nội dung còn chung chung trong Luật thi hành án.
Ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện thể chế là một trong những nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, với mục tiêu có một hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về thi hành án đầy đủ, thống nhất và đồng bộ, Chính phủ Việt Nam
đã thường xuyên chỉ đạo Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành có
liên quan xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án
dân sự. Hiện nay, ngoài việc ban hành Luật thi hành án dân sự năm 2008 thì
Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành
luật này như:
29
Nghị quyết của Quốc hội khóa XII số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008
về việc thi hành Luật thi hành án dân sự 2008;
Nghị định của Chính phủ số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự 2008
về thủ tục thi hành án;
Nghị định của Chính phủ số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 quy định
về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ
Chí Minh;
Nghị định của Chính phủ số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về cơ
quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm
công tác thi hành án dân sự;
Thông tư của Bộ Tài chính số 166/2009/TT-BTC ngày 18/8/2009 hướng
dẫn xử lý một số tài sản tịch thu sung quỹ nhà nước và tài sản được xác lập
quyền sở hữu nhà nước ;
Thông tư liên tịch của Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính số 04/2009/TTLT-
BTP-BTC ngày 15/10/2009 hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà
nước để thi hành án…
Từ ngày 01/10/2010 đến ngày 30/9/2011, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối
hợp với các cơ quan có thẩm quyền ban hành 09 thông tư và thông tư liên
tịch, Bộ Quốc phòng ban hành 01 thông tư về thi hành án dân sự, nâng tổng
số văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật thi hành án dân sự và
Nghị quyết của Quốc hội về thi hành luật này lên 22 văn bản. [16]
Các văn bản, đề án còn lại, trong đó có các đề án lớn như Đề án rà soát,
xử lý việc thi hành án dân sự tồn đọng, đề án cơ cấu, xác định vị trí công tác
trong hệ thống thi hành án dân sự giai đoạn 2011 – 2015 tiếp tục được khẩn
trương xây dựng và hoàn thiện đề trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, ban hành.
30
2.1.2.2. Cac quy định về quản lý đội ngũ can bộ, công chức lam công
tac thi hanh an dân sự
Đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án dân sự bao gồm những nhân
viên trong cơ quan thi hành án dân sự. Cơ quan thi hành án dân sự có hai cấp :
ở cấp tỉnh gọi là Phòng thi hành án dân sự, ở cấp huyện gọi là Đơn vị thi hành
án dân sự.
Về cơ cấu nhân viên của Phòng thi hành án dân sự cấp tỉnh đã quy định
tại Điều 15 luật về thi hành ánLào năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) bao
gồm: Trưởng phòng; Phó trưởng phòng; chấp hành viên, chuyên viên và một
số cán bộ quản lý. Trưởng Phòng thi hành án dân sự được giữ chức vụ Phó
giám đốc Sở tư pháp tỉnh, thành phố.[18]
Trưởng phòng và phó trưởng phòng thi hành án dân sự do Bộ trưởng Bộ
tư pháp bổ nhiệm, thuyên chuyển hoặc miễn nhiệm theo đề nghị của Giám
đốc Sở tư pháp tỉnh thông qua Cơ quan tổ chức cán bộ của tỉnh theo quy định
tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 404/TTCP ngày 23 tháng 11 năm
2007 về tổ chức, hoạt động của Bộ tư pháp.
Còn chấp hành viên của Phòng thi hành án dân sự thì chưa có quy định
rõ là ai có quyền bổ nhiệm, thuyên chuyển hoặc miễn nhiệm. Từ khi có luật
về thi hành án năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) đến nay trên cả nước
chưa có trường hợp nào bổ nhiệm chấp hành viên thành văn bản mà chỉ do
Giám đốc Sở tư pháp sắp xếp những người đã học xong môn pháp luật và có
đủ điều kiện theo quy định tại điều 22 luật thi hành án năm 2004(sửa đổi, bổ
sung năm 2008) vào Phòng thi hành án chịu trách nhiệm thi hành các bản án
và coi là chấp hành viên. Còn ai chưa đạt được tiêu chuẩn, nhất là người có
trình độ pháp luật nhưng chưa có kinh nghiệm về công tác thi hành án dân sự,
chủ yếu là những người mới vào làm và những người thuyên chuyển từ
chuyên ngành công tác khác vào làm trong cơ quan thi hành án dân sự được
31
coi là chuyên viên, và một số cán bộ quản lý trong Phòng thi hành án dân sự
cũng là Giám đốc Sở tư pháp tỉnh phân công làm việc tại Phòng thi hành án
dân sự.
Về cơ cấu tổ chức nhân viên của Đơn vị thi hành án dân sự cấp huyện đã
quy định tại Điều 18 luật về thi hành ánLào năm 2004(sửa đổi, bổ sung năm
2008) bao gồm: Trưởng Đơn vị; Phó trưởng Đơn vị; chấp hành viên, chuyên
viên, và một số cán bộ quản lý. Trưởng Đơn vị thi hành án được giữ chức
vụphó Phòng tư pháp huyện, thị trấn.
Trưởng Đơn vị thi hành án là do Tỉnh trưởng bổ nhiệm, thuyên chuyển,
miễn nhiệm theo quy định tại khoản 13 Điều 14 Luật về chính quyền địa
phương số 03/QH ngày 21 tháng 10 năm 2002 đã quy định “Tỉnh trưởng có
quyền bổ nhiệm, thuyên chuyển hoặc miễn nhiệm Trưởng phòng và phó
Trưởng phòng của văn phòng Tỉnh Trưởng, Phó huyện trưởng ; Trưởng
phòng và Phó trưởng phòng của Văn phòng huyện Trưởng ; Phó phòng
chuyên ngành cấp huyện và công chức nhân viên khác theo quy định của pháp
luật. ”
Phó trưởng Đơn vị thi hành án do huyện Trưởng bổ nhiệm, thuyên
chuyển hoặc miễn nhiệm theo quy định tại khoản 12 Điều 27 Luật về chính
quyền địa phương đã quy định “Huyên Trưởng có quyền Bổ nhiêm, thuyên
chuyển hoặc miễn nhiêm trưởng, phó trưởng cac đơn vị chuyên nganh của
huyên va nhân viên khac theo quy định của phap luật”[20]. Nếu đúng theo
quy định của điều này thì Trưởng Đơn vị thi hành án dân sự vẫn là Huyện
Trưởng bổ nhiệm, thuyên chuyển hoặc miễn nhiệm, nhưng vì tại điều 18 luật
về thi hành án năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) đã quy định « Trưởng
Đơn vị thi hành án dân sự được giữchức vụ phó Phòng tư pháp huyện, cho
nên quyền bổ nhiệm Phó Phòng tư pháp là Tỉnh trưởng theo khoản 13 điều 14
luật về Chính quyền địa phương cho nên Huyện Trưởng chỉ được bổ nhiệm,
32
chuyển chức hoặc miễn nhiệm Phó Đơn vị thi hành án dân sự huyện. Đồng
thời trong trường hợp mà Trưởng Đơn vị thi hành án dân sự không giữ chức
Phó Phòng tư pháp huyện thì việc bổ nhiệm, thuyên chuyển hoặc miễn nhiệm
Trưởng Đơn vị thi hành án dân sự huyện do Huyện Trưởng.
Về cấp chức vụ quản lý của công chức cơ quan thi hành án dân sự được
thực hiện theo những quy định của Quyết định số 99/TTCP ngày 23 tháng 6
năm 2008 về chức vụ quản lý của công chức CHDCND Lào. Trưởng phòng
thi hành án dân sự nào giữ chức vụ Phó giám đốc Sở tư pháp tỉnh là thuộc vào
công chức quản lý loại số 4 theo quy định tại khoản 5.4.5 điều 5 của Quyết
định số 99/TTCP. Và nếu Trưởng phòng thi hành án dân sự nào không giữ
chức vụ Phó giám đốc Sở tư pháp tỉnh thì thuộc vào công chức quản lý loại số
5 theo quy định tại khoản 5.5.4 của Quyết định số 99/TTCP. Còn Phó phòng
thi hành án dân sự thuộc vào công chức quản lý loài số 6 theo quy định tại
khoản 5.6.4 của quyết định số 99/TTCP.
Trưởng Đơn vị thi hành án dân sự nào giữ chức vụ Phó phòng tư pháp
huyện là thuộc vào công chức quản lý loại số 5 theo quy định tại khoản 5.5.6
điều 5 của Quyết định số 99/TTCP. Và nếu Trưởng đơn vị thi hành án dân sự
nào không giữ được chức vụ Phó phòng tư pháp huyện thì thuộc vào công
chức quản lý loại số 6 theo quy định tại khoản 5.6.3 của Quyết định số
99/TTCP. Còn Phó trưởng đơn vị thi hành án dân sự thuộc vào công chức
quản lý loại số 7 theo quy định tại khoản 5.7 của quyết định số 99/TTCP.
Quyền hạn và nhiệm vụ của Trưởng phòng và Phó trưởng phòng thi hành
án dân sự cấp tỉnh được quy định tại Điều 20 Luật về thi hành án Lào năm
2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008): “Trưởng phòng va Trưởng đơn vị thi hanh
an dân sự có quyền chỉ đạo, hướng dẫn va kiểm tra hoạt động công tac của
Phòng va Đơn vị thi hanh an. Đồng thời có nghĩa vụ chịu trach nhiêm đối với
Sở tư phap tỉnh, thanh phố hoặc Phòng tư phap huyên, thị trấn về viêc thi
hanh an theo quy định tại điều 16 của luật nay.
33
Phó trưởng phòng va Đơn vị thi hanh an la người giúp viêc cho Trưởng
Phòng va Đơn vị va chịu trach nhiêm nao đó theo phân công của Trưởng
Phòng va Đơn vị. Trong trường hợp Trưởng Phòng va Đơn vị bận rộndo
nguyên nhân nao đó thì Phó trưởng phòng va đơn vị được ủy thac la người
điều hanh công tac thay.”
Tiêu chuẩn và điều kiện của chấp hành viên đã quy định tại Điều 22 Luật
về thi hành ánnăm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008),chấp hành viên phải có
tiêu chuẩn và điều kiện sau đây:
1. Công dân Lào có đủ 25 tuổi trở lên;
2. Có quan điểm lập trường giai cấp, và kiên định về chính trị;
3. Có đạo đức tốt, có trách nhiệm đối với công tác, trung thành với tổ
quốc,với quyền lợi của nhà nước, tập thể và công dân, có sự giao tiếp tốt;
4. Có kiến thức, tinh thần dũng cảm, kiên nhẫn, có khả năng thuyết phục
thi hành án;
5. Có trình độ trung cấp luật trở lên hoặc được đào tạo bộ môn luật và
được đào tạo về việc thi hành án;
6. Có kinh nghiệm về việc thi hành án tối thiểu là 2 năm;
7. Có sức khỏe tốt.
Đối với người sẽ làm Trưởng phòng thi hành án dân sự thì ngoài những
tiêu chuẩn, điều kiện trên phải là người có phương pháp làm việc tốt, có kinh
nghiệm công tác thi hành án tối thiểu là 5 năm và có trình độ cao cấp luật trở
lên. Còn Trưởng đơn vị thi hành án dân sự phải có kinh nghiệm tối thiểu là 3
năm và có trình độ trung cấp luật trở lên.
Theo quy định tại Điều 21 Luật về thi hành ánnăm 2004 (sửa đổi, bổ
sung năm 2008)thì chấp hành viên có những quyền và nhiệm vụ sau đây:
34
1. Nghiên cứu bản án đã có hiệu lực và các văn bản khác để chuẩn bị tổ
chức thi hành. Trong công tác thi hành án, chấp hành viên phải thi hành đúng
nội dung của bản án, đúng quy định và trình tự của luật này;
2. Yêu cầu Trưởng phòng hoặc đơn vị thi hành án để đề nghị tòa án đã ra
bản án có hiệu lực giải thích bằng văn bản về vấn đề chưa rõ;
3. Triệu tập đương sự để thông báo nội dung bản án cho biết đồng thời
hướng dẫn, thuyết phục và khuyến khích thi hành;
4. Xác minh tài sản và điều kiện khác của người phải thi hành án để thi
hành án;
5. Phối hợp với bộ phận có liên quan để tổ chức thi hành án;
6. Yêu cầu Trưởng Phòng, Đơn vị thi hành án ra quyết định kê biên, tịch
thu tài sản, di chuyển, quyết định đưa đến cơ quan, quyết định phạt tiền và
yêu cầu nhân viên cảnh sát có biện pháp đối với người phải thi hành án cố ý
trốn tránh việc thi hành án không cho ra nước ngoài và quyết định khác về thi
hành án;
7. Báo cáo về việc thi hành án mà mình được phân công cho Trưởng
Phòng, Đơn vị thi hành án;
8. Thực hiện quyền và nhiệm vụ khác về thi hành án theo quy định của
pháp luật.
Trong Luật về thi hành án năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) đã quy
định những điều mà chấp hành viên không được làm hoặc gọi là những điều
cấm đối với chấp hành viên. Điều 50 luật về thi hành án đã quy định “Cấm
chấp hành viên có những hành vi sau đây:
1. Kìm hãm lôi kéo, thiên vị, lựa chọn thi hành lệnh, quyết định, bản án,
phán quyết đã có hiệu lực;
2. Thờ ơ, lơ là và vô trách nhiệm trong thực hiện công tác;
3. Có thái độ không xứng đáng trong thực hiện công tác;
35
4. Lạm dụng quyền, chức vụ, nhiệm vụ để trục lợi;
5. Nhận hối lộ.”
Nếu chấp hành viên nào làm xâm phạm những điều cấm đã quy định
trong pháp luật về thi hành án thì sẽ bị xử phạt theo từng trường hợp nặng hay
nhẹ từ cảnh cáo, kỷ luật, phạt dân sự và phạt hình sự theo quy định từ Điều 55
đến Điều 58 của Luật về thi hành án năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008).
Chấp hành viên có công tác xuất sắc trong thi hành luật này, kể cả cá
nhân, tổ chức khác đã phối hợp và góp phần vào công tác thi hành án sẽ được
khen thưởng hoặc chính sách khác theo pháp luật theo quy định tại điều 53
Luật về thi hành án năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008). [18]
Pháp luật Việt Nam quy định rất cụ thể về quản lý đội ngũ công chức thi
hành án dân sự. Điều 17 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định về phân
ngạch chấp hành viên. Theo đó, chấp hành viên gồm có ba ngạch: Chấp hành
viên sơ cấp, chấp hành viên trung cấp và chấp hành viên cao cấp. Đây là một
quy định mới đã khắc phục được những hạn chế so với quy định cũ trước đó.
Theo Điều 14, 15, 16 Luật thi hành án dân sự 2008 thì:
“Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thực hiện quản lý công chức của cơ
quan thi hành án dân sự tại địa phương theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan
quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
Cơ quan thi hành án cấp quân khu phối hợp với các cơ quan chức năng
của quân khu trong việc quản lý cán bộ của cơ quan thi hành án cấp quân khu
theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc
phòng.
Cơ quan thi hành án cấp huyện thực hiện quản lý công chức theo hướng
dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh.”
Để xác định rõ hơn chức trách, nhiệm vụ, năng lực, trình độ của các
ngạch chấp hành viên, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ quy định về
36
tiêu chuẩn ngạch chấp hành viên, ngày 28/10/2010, Bộ trưởng Bộ nội vụ đã kí
ban hành Thông tư số 10/2010/TT-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp
vụ các ngạch công chức chấp hành viên và thư kí thi hành án dân sự.
Hiện nay, tại Việt Nam có hơn 3.022 chấp hành viên, trên 476 thẩm tra
viên. Công tác bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho
đội ngũ chấp hành viên và cán bộ làm công tác thi hành án tiếp tục được duy
trì và thực hiện có hiệu quả. Năm 2013, Học viện tư pháp đã và đang đào tạo
nghiệp vụ thi hành án cho hơn 400 học viên. Toàn ngành tiếp tục tăng cường
công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho công chức làm công tác thi
hành án, đã tập huấn nghiệp vụ kế toán cho hơn 800 kế toán nghiệp vụ thi
hành án, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ giải quyết khiếu nại tố cáo về
thi hành án cho hơn 1000 đối tượng là lãnh đạo phụ trách và cán bộ trực tiếp
làm công tác này, mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về hoạt động của thừa phát lại
cho trên 100 đối tượng… [13, Tr 40]
Chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức làm công tác thi hành án
dân sự tiếp tục được quan tâm thực hiện bảo đảm đúng quy định. Chính phủ
Việt Nam đã giao Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và các bộ, ngành có liên quan
nghiên cứu, trình Chính phủ quy định chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo của hệ
thống thi hành án dân sự, quy định lại chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề
cho các chức danh tư pháp thuộc các cơ quan thi hành án dân sự phù hợp với
cơ cấu ngạch mới, tiếp tục thực hiện phụ cấp thâm niên nghề đối với các chức
danh tư pháp trong ngành thi hành án dân sự. Nhìn chung, công tác tổ chức,
nhân sự lãnh đạo của cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục được củng cố, kiện
toàn. Việc quy hoạch, bổ nhiệm lãnh đạo các cục và chi cục thi hành án dân
sự có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp với Ban thường vụ, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh và cấp huyện. Kỉ cương, kỉ luật công tác trong toàn ngành tiếp
tục được quan tâm, chấn chỉnh kịp thời.
37
2.1.2.3. Cac quy định về quản lý, thực hiên phân bổ kinh phí, bảo đảm
cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiên hoạt động của cac cơ quan thi hanh an
dân sự
Theo những quy định tại Luật thi hành án dân sự Lào năm 2004 (sửa đổi,
bổ sung năm 2008) thì cơ quan thi hành án dân sự là một tổ chức thuộc vào
ngành tư pháp. Ở cấp tỉnh thì Phòng thi hành ándân sự là một tổ chức thuộc
Sở tư pháp tỉnh theo quy định tại điều 14 luật thi hành án dân sự năm 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2008). Còn ở cấp huyện thì Đơn vị thi hành án dân sự
là một tổ chức thuộc Phòng tư pháp huyện theo quy định tại điều 17 luật thi
hành án dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008).
Điều 59 Luật về thi hành án năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) quy
định về ngân sách hoặc kinh phí sử dụng vào công tác thi hành án như sau:
«Cơ quan quản lý va cơ quan thi hanh an dân sự sử dụng ngân sach nha
nước. Để đảm bảo cho viêc thi hanh an dân sự của cơ quan thi hanh an dân
sự, nha nước cần cung cấp ngân sach cho xứng đang ». Điều 60 quy định về
việc quản lý và sử dụng ngân sách : « Ngân sach của cơ quan quản lý va cơ
quan tổ chức thi hanh an dân sự la dùng vao trong viêc hoạt động chỉ đạo,
khuyến khích, thanh tra va tổ chức thi hanh an.
Viêc quản lý va sử dụng ngân sach phải phù hợp với phap luật về ngân
sach nha nước. » [18]
Cho nên việc quản lý, thực hiện phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật
chất, kỹ thuật, phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án là do nhà nước
bảo đảm thông qua cơ quan tư pháp thực hiện. Ở nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào thì kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện phục vụ công
tác của cơ quan tư pháp địa phương do chính quyền địa phương cung cấp.
Pháp luật Việt Nam quy định về vấn đề này có điểm khác với pháp luật
Lào. Theo Điều 14, 15, 16 Luật Thi hành án dân sự Việt Nam thì:
38
“Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thực hiện quản lý cơ sở vật chất,
kinh phí và phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại địa
phương theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc
Bộ Tư pháp.
Cơ quan thi hành án cấp quân khu phối hợp với các cơ quan chức năng
của quân khu trong việc quản lý cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt
động của cơ quan thi hành án cấp quân khu theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ
quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng.
Cơ quan thi hành án cấp huyện thực hiện quản lý cơ sở vật chất, kinh phí
và phương tiện hoạt động theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh.”
Hàng năm, trên cơ sở dự toán được giao, Bộ Tư pháp đã có Quyết định
dự toán, phân bổ dự toán cho các đơn vị thuộc bộ. Năm 2010, tổng kinh phí
cấp phát cho toàn ngành thi hành án dân sự là 700 tỷ 213 triệu đồng (trong đó
kinh phí giao thực hiện tự chủ là 568 tỷ 459 triệu đồng, kinh phí giao không
tự chủ là 131 tỷ 754 triệu đồng. Năm 2011, tổng kinh phí cấp phát cho toàn hệ
thống cơ quan thi hành án dân sự là 893 tỷ 2 triệu đồng trong đó kinh phí giao
thực hiện chế độ tự chủ là 738 tỷ 497 triệu đồng, kinh phí giao không thực
hiện chế độ tự chủ là 154 tỷ 505 triệu đồng.[16]
Về cơ chế phân cấp trong đầu tư xây dựng cơ bản, phân cấp trong mua
sắm trang thiết bị kĩ thuật được Bộ Tư pháp giao cho Tổng cục thi hành án
dân sự và các Cục thi hành án dân sự.
Năm 2010 Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Đầu tư trang thiết bị, phương
tiện làm việc cho các cơ quan thi hành án dân sự giai đoạn 2011 – 2015”. Bộ
Tư pháp ký Quyết định số 254/QĐ-BTP ngày 14/10/2010 ban hành tiêu
chuẩn, định mức trang bị xe ô tô chuyên dùng cho các cơ quan thi hành án
dân sự địa phương.
39
Năm 2011 tổng số vốn đã cấp cho các cơ quan thi hành án dân sự địa
phương là 184 tỷ 170 triệu đồng, trong đó 143 tỷ 400 triệu cho 128 dự án xây
dựng trụ sở làm việc và 40 tỷ 770 triệu cho 66 dự án xây dựng kho vật chứng.
Tổng khối lượng thực hiện tính đến ngày 30/9/2011 là 300 tỷ 248 triệu đồng,
tổng số vốn đã giải ngân là 148 tỷ 600 triệu đồng, đạt khoảng 81% kế hoạch
năm. [16]
Tuy nhiên, việc triển khai các dự án xây dựng trụ sở làm việc, kho vật
chứng còn chậm, việc quản lý sử dụng ngân sách, tài sản tại một số đơn vị
còn chưa tốt, hiệu quả chưa cao, chô ở, đời sống thu nhập của cán bộ, công
chức công tác thi hành án dân sự còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.
2.1.2.4. Cac quy định về công tac thanh tra, kiểm tra, kiểm sat, giam
sat thi hanh an dân sự
Theo quy định trong Luật về thi hành án Lào năm 2004 (sửa đổi, bổ sung
năm 2008) các cơ quan có quyền thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, giám sát đối
với công tác thi hành án dân sự bao gồm cơ quan thanh tra bên trong và cơ
quan thanh tra bên ngoài. Trong đó cơ quan thanh tra bên trong bao gồm: Bộ
tư pháp, Sở tư pháp tỉnh, và Phòng tư pháp huyện (điều 45). Còn cơ quan
thanh tra bên ngoài bao gồm Quốc Hội và Viện kiểm sát nhân dân (điều 47).
Theo Điều 46 cơ quan thanh tra bên trong có những quyền hạn, nhiệm vụ
sau đây:
1. Thanh tra tổ chức và hoạt động nghiệp vụ của chấp hành viên;
2. Thanh tra trách nhiệm, hoạt động và kế hoạch làm việc của chấp hành viên;
3. Thanh tra việc quản lý và sử dụng nguồn thu – chi về thi hành án.
Điều 48 quy định quyền và nhiệm vụ của Quốc Hội trong thanh tra việc
thi hành án
Còn cơ quan thanh tra bên ngoài có quyền hạn và nhiệm vụ đối với
công tác thi hành án như: Quốc Hội tiến hành thanh tra việc thi hành án theo
40
quy định tại luật về kiểm soát của Quốc Hội số 09/QH ngày 22 tháng 10 năm
2004. Việc giám sát của Quốc Hội, hoặc đại biểu Quốc Hội tại khu vực bầu
cử (tỉnh) thì chủ yếu là giám sát khi có khiếu nại của nhân dân về việc thi
hành án gửi đến Văn phòng đại biểu Quốc Hội tại khu vực bầu cử hoặc Quốc
Hội thì Quốc Hội mới có căn cứ tổ chức việc kiểm tra, giám sát.
Quyền hạn và nhiệm vụ của Viện kiểm sát đối với việc thanh tra, giám
sát công tác thi hành án được quy định tại điều 49 luật về thi hành án năm
2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) trong thanh tra thi hành án, Viện kiểm sát
nhân dân có những quyền và nhiệm vụ chính sau đây:
1. Yêu cầu cơ quan thi hành án cùng cấp báo cáo tình hình thi hành án;
2. Yêu cầu cơ quan thi hành án cùng cấp tổ chức thi hành các bản án đã
có hiệu lực nhưng bị kéo dài hoặc vướng mắc trong thi hành để thúc đẩy việc
thi hành và phối hợp với nhau trong việc giải quyết;
3. Kiểm tra tính đúng đắn của việc thi hành án nhất là việc tuân theo
pháp luật, việc trả nợ dân sự, việc thu và nộp án phí, tiền phạt vào ngân sách
nhà nước,việc tịch thu tài sản làm sở hữu công;
4. Yêu cầu Bộ Tư pháp hoặc Phòng thi hành án ra quyết định tạm đình
chỉ, thay đổi, miễn hoặc hủy bỏ việc thi hành án theo quy định tại điều 43 của
luật này;
5. Khởi kiện người không thi hành án và người có hành vi vi phạm pháp
luật khác về việc thi hành án để cho tòa án nhân dân xem xét theo điều 173 và
các điều khác của luật hình sự khi nhận được báo cáo của cơ quan thi hành án
[18].
Điều 12 Luật thi hành án dân sự năm 2008 của Việt Nam quy định:
“Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát
hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan nhà nước khác trong
thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
41
Viện kiểm sát các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ quan thi hành án dân
sự, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi
hành án nhằm bảo đảm việc thi hành án kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật.”
Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự được thiết lập theo hệ thống dọc từ
trung ương đến địa phương dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp là cơ quan chịu
trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án dân
sự trong phạm vi cả nước. Ở địa phương cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án đối với
cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, đồng thời có trách
nhiệm giúp ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện công tác quản lý về thi hành
án dân sự và báo cáo công tác thi hành pháp luật dân sự trước hội đồng nhân
dân cùng cấp khi có yêu cầu. Ở cấp huyện cũng tương tự, cơ quan thi hành án
dân sự chịu trách nhiệm và báo cáo công tác tổ chức, hoạt động trước cơ quan
thi hành án dân sự cấp tỉnh, cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư
pháp, đồng thời có trách nhiệm giúp ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện công
tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và báo cáo công tác thi hành án
dân sự trước hội đồng nhân dân cùng cấp khi có yêu cầu. Việc quy định trách
nhiệm tham mưu trực tiếp của cơ quan thi hành án dân sự đối với ủy ban nhân
dân cùng cấp là hết sức cần thiết giúp cho cơ quan thi hành án dân sự có điều
kiện thuận lợi hơn để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Tuy nhiên việc cơ quan thi hành án dân sự thực hiện chế độ báo cáo và
chịu sự chỉ đạo của chính quyền và cấp ủy địa phương không có nghĩa là
không bảo đảm tính độc lập trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi
hành án dân sự. Nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban nhân dân các cấp trong công
tác thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự 2008 cũng
đã có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Theo đó ủy ban
42
nhân dân có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên
quan trong thi hành án dân sự trên địa bàn, chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi
hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự cùng cấp mà không can thiệp vào nghiệp vụ chuyên sâu về trình tự, thủ tục
thi hành án, có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm thủ trưởng,
phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp, yêu cầu cơ quan thi hành
án dân sự cùng cấp báo cáo và kiểm tra công tác thi hành án dân sự ở địa
phương…
Luật thi hành án dân sự năm 2008 đã tạo cơ chế bảo đảm nâng cao tính
độc lập trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự nhưng
không có nghĩa là không có cơ chế giám sát để bảo đảm cho cơ quan thi hành
án dân sự hoạt động đúng pháp luật, tránh sự lạm dụng quyền lực gây thiệt hại
cho các bên đương sự, tổ chức, doanh nghiệp và nhà nước. Theo đó, Luật thi
hành án dân sự năm 2008 quy định cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân
sự từ bên ngoài thông qua hoạt động giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân
dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Viện kiểm sát các cấp trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ
quan thi hành án dân sự của chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có
liên quan đến việc thi hành án dân sự nhằm đảm bảo việc thi hành án kịp thời,
đầy đủ, đúng pháp luật.
2.1.2.5. Cac quy định về giải quyết khiếu nại, tố cao
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự được thực hiện
theo quy định của Luật khiếu nại 07/QH ngày 09 tháng 11 năm 2005.
Tại điều 2 Luật khiếu nại năm 2005 đã quy định “Khiếu nại la tai liêu
của công dân, tổ chức đề nghị đến cơ quan có liên quan để xem xét giải quyết
về hanh vi, quyết định của cơ quan, ca nhân ma mình cho la vi phạm phap
43
luật va xâm phạm đến lợi ích của nha nước, tập thể, quyền va lợi ích hợp
phap của mình.
Khiếu nại gồm 3 loại sau đây:
- Khiếu nại đến cơ quan hanh chính nha nước gọi la kiến nghị;
- Khiếu nại đến cơ quan điều tra - thanh tra, viên kiểm sat, tòa an gọi la
khởi kiên ;
- Khiếu nại đến Quốc Hội gọi la yêu cầu công bằng.”
Trong điều 8 Luật khiếu nại năm 2005 đã quy định: “Khiếu nại chỉ được
đê đến tổ chức có thẩm quyền hữu quan trong xem xét giải quyết”.
Như vậyLuật khiếu nại của Lào năm 2005 không quy định rõ về việc
khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với công tác thi hành án dân sự, mà chỉ
quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại nói chung. Cho nên đối với
khiếu nại về thi hành án dân sự người dân có thể gửi đơn khiếu nại tới nhiều
cơ quan có liên quan nhất là các cơ quan có quyền thanh tra, kiểm tra, giám
sát hoạt động thi hành án dân sự như các cơ quan thanh tra bên trong và cơ
quan thanh tra bên ngoài đã quy định tại điều 45 và 47 của Luật thi hành án
dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008).
Nếu khiếu nại đối với quyết định hoặc hành vi của Đơn vị thi hành án
cấp huyện hoặc chấp hành viên cấp huyện thì người khiếu nại có thể gửi đơn
khiếu nại tới Phòng tư pháp huyện, Viện kiểm sát nhân dân huyện, Phòng thi
hành án cấp tỉnh. Nếu không được giải quyết hoặc giải quyết nhưng người
khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại thì người khiếu nại có
thể khiếu nại tới các cơ quan mình đã gửi đơn khiếu nại cấp trên tiếp theo
hoặc gửi tới Văn phòng đại biểu Quốc Hội tại khu vực bầu cử (tỉnh) để tiếp
tục giải quyết. Nếu Văn phòng đại biểu Quốc Hội tại khu vực bầu cử không
giải quyết hoặc đã giải quyết nhưng người khiếu nại vẫn chưa đồng ý thì
44
người khiếu nại có thể khiếu nại trực tiếp tới Quốc Hội và Quốc Hội là cơ
quan giải quyết khiếu nại cấp cao nhất.
Nếu khiếu nại đối với quyết định hoặc hành vi của Phòng thi hành án cấp
tỉnh và chấp hành viên của Phòng thi hành án cấp tỉnh thì người khiếu nại có
thể gửi đơn khiếu nại tới Sở tư pháp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Cục
quản lý thi hành án thuộc Bộ tư pháp. Nếu không được giải quyết hoặc giải
quyết nhưng người khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại thì
người khiếu nại có thể khiếu nại tới Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Văn
phòng đại biểu Quốc Hội tại khu vực bầu cử (tỉnh) để tiếp tục giải quyết. Nếu
Văn phòng đại biểu Quốc Hội tại khu vực bầu cử không giải quyết hoặc đã
giải quyết nhưng người khiếu nại vẫn chưa đồng ý thì người khiếu nại có thể
khiếu nại trực tiếp tới Quốc Hội và Quốc Hội là cơ quan giải quyết khiếu nại
cấp cao nhất.
Việc giải quyết khiếu nại của viện kiểm sát, khi nhận được đơn khiếu nại
có thể áp dụng quyền hạn, và nhiệm vụ của mình đối với công tác thi hành án
dân sự theo điều 49 Luật thi hành án dân sự năm 2004(sửa đổi, bổ sung năm
2008) và điều 51 Luật về viện kiểm sát nhân dân số 10/QH ngày 26 tháng 11
năm 2009 như sau:
1. Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp báo cáo tình hình thi
hành án;
2. Yêu cầu cơ quan thi hành ándân sự cùng cấp tổ chức thi hành các bản
án đã có hiệu lực nhưng bị kéo dài hoặc vướng mắc trong thi hành để thúc
đẩy việc thi hành và phối hợp với nhau trong việc giải quyết;
3. Kiểm tra tính đúng đắn của việc thi hành án dân sự nhất là việc tuân
theo pháp luật, việc trả nợ dân sự, việc thu và nộp án phí, và tiền phạt vào
ngân sách nhà nước.
4. Việc tịch thu tài sản làm sở hữu công;
45
5. Yêu cầu Bộ Tư pháp hoặc Phòng thi hành án ra quyết định tạm đình
chỉ, thay đổi, miễn hoặc hủy bỏ việc thi hành án theo quy định tại điều 43 của
Luật thi hành án dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008);
6. Khởi kiện người không thi hành án và người có hành vi vi phạm pháp
luật khác về việc thi hành án để cho Tòa án nhân dân xem xét theo điều 173 và
các điều khác của luật hình sự khi nhận được báo cáo của cơ quan thi hành án.
Việc giải quyết khiếu nại của Quốc Hội được thực hiện theo thủ tục,
trình tự quy định tại điều 25 Luật khiếu nại như sau:
1. Nghiên cứu, xem xét khiếu nại và tổng kết thông tin, chứng cứ thêm
nếu cần thiết;
2. Ra quyết định giải quyết khiếu nại;
3. Thông báo kết quả giải quyết khiếu nại đến người khiếu nại và bộ
phận có liên quan để tổ chức thực hiện;
4. Theo dõi, kiểm tra viêc chấp hành quyết định về giải quyết khiếu nại.
Trong trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại của đại biểu Quốc Hội tại khu vực bầu cử thì có thể khiếu nại
tiếp đến Quốc Hội để xem xét giải quyết cấp cuối cùng.
Nếu vấn đề người khiếu nại đã khiếu nại về việc thi hành án nhưng có
liên quan đến nội dung của bản án thì Quốc Hội yêu cầu phải có chứng cứ,
thông tin mới có thể làm thay đổi bản án, Quốc Hội sẽ đề nghị Viện kiểm sát
nhân dân tối cao xem xét lại các vụ án đó theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm. [24]
Pháp luật Việt Nam quy định thời hiệu khiếu nại về thi hành ándân sự cụ
thể hơn, với những giai đoạn của quá trình thi hành án như sau:
- Đối với quyết định, hành vi về thi hành án dân sự trước khi áp dụng
biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế là 15 ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định hoặc biết được hành vi đó.
46
- Đối với quyết định về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản là 03
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định.
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm khác là 10
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
- Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà
người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn thì
thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào
thời hạn khiếu nại.
Lần khiếu nại tiếp theo, thời hiệu 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết
định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền.
Thời hạn giải quyết khiếu nại đối với từng loại hành vi khác nhau được
quy định như sau:
- Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng biện pháp
bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15
ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản
thì thời hạn giải quyết khiếu nại là 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn
khiếu nại.
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày
thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày, lần hai là 45 ngày kể từ
ngày thụ lý đơn khiếu nại
47
Trường hợp cần thiết, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp thì
thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, kể từ
ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại.
- Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thì
thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày
thụ lý đơn khiếu nại.
Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
về hành vi vi phạm pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự,chấp
hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, cơ quan, tổ chức.
Người tố cáo có quyền gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền, yêu cầu giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích của
mình, yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo, yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trù dập, trả thù.
Người tố cáo có nghĩa vụ trình bày trung thực, cung cấp tài liệu liên quan
đến nội dung tố cáo, nêu rõ họ tên, địa chỉ của mình, chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
Người bị tố cáo có quyền được thông báo về nội dung tố cáo; đưa ra
bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật; được khôi
phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được phục hồi danh dự, được
bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra và yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.
Người bị tố cáo có các nghĩa vụ giải trình về hành vi bị tố cáo, cung cấp
thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu
cầu, chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân
48
có thẩm quyền, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp
luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật.
Thẩm quyền, thời hạn và thủ tục giải quyết tố cáo được quy định như
sau: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền
quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có
trách nhiệm giải quyết. Trường hợp người bị tố cáo là thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp trên trực tiếp
hoặc thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có
trách nhiệm giải quyết. Trường hợp người bị tố cáo là thủ trưởng cơ quan thi
hành án cấp quân khu thì thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ
Quốc phòng có trách nhiệm giải quyết.
Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý, đối với việc
phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá 90
ngày.
Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm được giải
quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Thủ tục giải quyết tố cáo
được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật,
xử lý nghiêm minh người vi phạm, áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn
chặn thiệt hại có thể xảy ra, bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành
nghiêm chỉnh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách
nhiệm trong việc giải quyết, giải quyết trái pháp luật thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỉ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
49
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật. Viện
kiểm sát có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với cơ quan thi hành án dân sự cùng
cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để bảo đảm việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật.
Nguyên tắc xử phạt, thời hiệu xử phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và
trình tự, thủ tục xử phạt cụ thể thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý
vi phạm hành chính.
Việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong xử phạt vi
phạm hành chính về thi hành án dân sự thực hiện theo quy định của Luật thi
hành án dân sự 2008 và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2.1.3. Thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý nhà nước đối với công
tác thi hành án dân sự của CHDCND Lào
Mặc dù luật thi hành án dân sự của Lào còn chưa đầy đủ, cần sửa đổi bổ
sung một số điều để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay nhưng bên cạnh
đó công tác thi hành án cũng đã đạt được một số ưu điểm về mặt thực tiễn. Cụ
thể là:
- Lãnh đạo các cấp liên tục quan tâm đến việc chỉ đạo, hướng dẫn, tổng
kết đánh giá và rút kinh nghiệm về việc thi hành án dân sự và đã hai lần tiến
hành hội nghị rút kinh nghiệm về việc thi hành án dân sự toàn quốc bao gồm
các giám đốc Sở tư pháp, Phòng trưởng Phòng thi hành án dân sự tỉnh, thành
phố. Hội nghị đã đánh giá, kiểm tra việc tổ chức và hoạt động thực hiện công
tác toàn diện của cơ quan thi hành án dân sự trong vòng thời gian 5 năm vừa
qua để hoàn thiện cơ quan thi hành án dân sự về mặt chính trị, ý thức, tổ chức,
quy hoạch làm việc, thái độ trong thi hành án dân sự, bảo đảm cho việc thi
hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn, có hiệu lực và hiệu quả.
50
- Dần hoàn thiện cơ quan thi hành án dân sự từ trên xuống dưới, nhất là
việc kiểm tra lại, xác định lại những chức vụ và bố trí chấp hành viên vào
Cục, Phòng và Đơn vị thi hành án dân sự trong cả nước, đồng thời hoàn thiện
cơ chế quy hoạch làm việc, cơ chế phối hợp với cơ quan tổ chức có liên quan
trong thi hành án dân sự có sự thống nhất và hiệu quả.
- Dần hoàn thiện việc xây dựng sổ tay thi hành án dân sự, đó là một văn
bản quan trọng căn bản cho cán bộ công chức quản lý và chấp hành viên cả
nước được áp dụng trong thực hiện công tác trên thực tế trong phạm vi nhiệm
vụ của mình. Đồng thời quan tâm đến việc đào tạo chấp hành viên, rút kinh
nghiệm trong thi hành các bản án nhất là các bản án gặp khó khăn phức tạp.
- Trao đổi, rút kinh nghiệm về công tác thi hành án nước ngoài, nhất là
việc đã mời Phó Tổng cục thi hành án nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam sang phát biểu ý kiến và thảo luận về việc thi hành án dân sự. Đó là một
kinh nghiệm rất tốt cho Lào hoàn thiện cơ quan thi hành án. Đồng thời Lào
cũng đang cho dịch một số văn bản quan trọng như: luật, nghị quyết, quyết
định về thi hành án của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để làm tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và áp dụng để hoàn thiện tổ chức, hoạt
động của cơ quan quản lý và cơ quan thi hành án Lào.
- Chấp hành viên cả nước đều có sự kiên trì cao, kiên quyết dẻo dai,
không nao núng đối với những thách thức, thử thách và những dư luận xã hội
phê phán, chê bai, vẫn phấn đấu tổ chức thi hành án theo vai trò và nhiệm vụ
của mình. Trong 8 tháng vừa qua được thi hành án xong 1.095 vụ án, so với
năm trước tăng lên 8,6% và bằng 50,60% của các vụ việc trong năm và bằng
9,48% của tất cả các vụ việc hiện có ; Trong đó có 580 vụ án hình sự và 515
vụ án dân sự. Trong những vụ việc đã thi hành xong này Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đã yêu cầu hủy bỏ việc thi hành án 4 vụ việc, trong đó được ra
quyết định hủy bỏ 2 vụ việc rồi còn 2 vụ đã ra quyết định không hủy bỏ.
51
Đồng thời có thể thu lại nợ, tiền bồi thường thiệt hại nộp cho cá nhân và nhà
nước. [30]
- Bộ tư pháp đã chủ động chỉ đạo và tổ chức hội nghị liên hiệp với cơ
quan tổ chức có liên quan nhất là Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân,
Quốc Hội, Ủy ban thanh tra trung ương để bàn bạc tìm những giải pháp đối
với các bản án gặp khó khăn phức tạp.
- Bộ tư pháp đã áp dụng ngân sách riêng của mình 55.000.000 kip để tiến
hành việc xây dựng hệ thống thông tin thống kê vụ án rõ ràng, bao gồm các
nhóm: vụ án dân sự, vụ án hình sự, đang thi hành, không thể thi hành được,
vv…
So với những vụ án đang được thi hành hiện nay thì những thành quả
nêu trên vẫn còn nhỏ nhưng nó vẫn có ý nghĩa rất quan trọng, cho thấy sự
kiên trì cao của cơ quan quản lý và cơ quan thi hành án trong việc tổ chức thi
hành điều 85 của Hiến pháp và luật về thi hành án thông qua thực hiện công
việc trên thực tế, từ đó cơ quan quản lý và cơ quan thi hành án sẽ rút ra được
nhiều bài học kinh nghiệm.
Song song với những điểm đã đạt được như trên thì việc thi hành án vẫn
còn có những nhược điểm và tồn tại cần được tiếp tục khắc phục, như :
- Dù đã rất quan tâm đến việc đào tạo giáo dục về mặt chính trị, ý thức
cho cán bộ công chức trong phạm vi lĩnh vực công tác thi hành án nhưng vẫn
có một số chấp hành viên chưa kiên định về mặt chính trị, ý thức, quan điểm,
thái độ, đạo đức, công tác chưa xứng đáng, chưa đúng, và chưa minh bạch.
Điều này chính là nguyên nhân cho việc có những dư luận xã hội phê phán
đối với chấp hành viên về nhiều mặt như: thi hành án chậm, có lựa chọn thi
hành, thi hành không đúng bản án, việc bán tài sản có nhiều lúc chủ sở hữu
không được tham gia trong cuộc định giá, bán vv…
52
- Quy hoạch làm việc của một số cơ quan thi hành án chưa được hoàn
thiện, còn có trường hợp làm việc vô kế hoạch, còn thực hiện công tác theo
thói quen, tục lệ từng làm, có nhiều trường hợp bố trí vụ án cho Chấp hành
viên làm riêng để chấp hành viên áp dụng trục lợi.
- Việc thi hành quyết định, bản án có hiệu lực nói chung còn chậm
chạp, có nhiều trường hợp làm đi làm lại nhưng vẫn chưa hiệu quả, gây phiền
hà cho những người được thi hành án. Có một số trường hợp không thi hành
theo thủ tục, trình tự được quy định tại pháp luật, việc quản lý, kiểm soát, xác
định tài sản vẫn chưa đạt hiệu quả xứng đáng, còn có một số trường hợp chỉ
nhấn mạnh đến việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế một chiều mà chưa tính
đến việc áp dụng các biện pháp giáo dục, thuyết phục.
- Việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức của nhà nước chưa chặt chẽ,
trong cùng một vụ việc nhưng nhiều cơ quan vẫn có nhiều quan điểm không
thống nhất, vừa có người ra quyết định để tạm đình chỉ vừa có người ra quyết
định cho tiếp tục thi hành làm cho việc thi hành án gặp khó khăn, bị kéo dài.
Vì những nhược điểm, tồn tại nêu trên, đến bây giờ vẫn còn có các bản
án đã có hiệu lực mà đang thi hành và một số không thể thi hành được là
10.489 vụ, trong đó có vụ án dân sự là 3.570 vụ, và vụ án hình sự là 6.951 vụ.
Trong đó đang thi hành là 7.543 vụ chiếm 71,91%, không thể thi hành được
2.317 vụ. [30] Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu đưa vụ án để kiểm tra
lại, nhưng chưa có quyết định tạm đình chỉ việc thi hành. Nguyên nhân dẫn
đến những bất cập nêu trên là do:
Thứ nhất, về nhân sự vẫn thiếu thốn về số lượng và còn hạn chế về chất
lượng và kinh nghiệm. Hiện nay trên cả nước Lào chỉ có 360 chấp hành viên
(kể cả những người đang đi học tập, đào tạo và những cán bộ mới tuyển vào
cơ quan) trong đó trưởng phòng thi hành án dân sự chủ yếu không giữ chức
vụ phó giám đốc sở tư pháp tỉnh và trưởng đơn vị thi hành án dân sự chủ yếu
53
không giữ chức vụ phó phòng tư pháp huyện, và chấp hành viên chưa được
bổ nhiệm theo quy định của Luật về thi hành án năm 2004 (sửa đổi, bổ sung
năm 2008) làm cho không thể thực hiện đầy đủ vai trò của mình theo pháp
luật.
Số lượng chấp hành viên bình quan với số lượng vụ việc phải thi hành
thì môi người sẽ được phân công thi hành 40-50 vụ việc trong cùng một thời
gian. Chẳng hạn tại thủ đô Viêng Chăn môi người được phân công 100-150
vụ việc trong cùng một thời gian. Ngoài ra trên cả nước còn có 41 huyện chưa
thành lập Đơn vị thi hành án. Đồng thời cơ quan thi hành án chưa được quan
tâm xứng đáng, trụ sở, kinh phí, phương tiện cần thiết đều thiếu thốn dẫn đến
việc thi hành gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, bởi sự hiểu biết, thấm nhuần, tôn trọng và thi hành điều 85 của
Hiến pháp và luật thi hành án của lãnh đạo, chính quyền, ngành và các cơ
quan khác chưa sâu sắc, nghiêm chỉnh và thống nhất làm cho có nhiều tổ chức
của Đảng, Nhà nước hoặc cá nhân lãnh đạo các cấp thụ lý đơn khiếu nại, tố
cáo của đương sự đối với những bản án đã có hiệu lực pháp luật để xem xét
và cho ý kiến trái Hiến pháp, pháp luật và nội dung của bản án làm cho người
phải thi hành án được áp dụng để kéo dài thời gian, trốn tránh thi hành án.
Thứ ba, việc áp dụng pháp luật về thi hành án chưa đầy đủ. Bản thân
luật thi hành án vẫn chỉ nhấn mạnh về mặt có tính chất quản trị hô trợ, không
phù hợp với cơ cấu kinh tế thị trường, có một số quy định chưa phù hợp; cơ
cấu phối hợp giữa cơ quan, tổ chức có liên quan chưa chặt chẽ.
Những tồn tại này đã được xem xét, bàn bạc nhiều lần nhưng vẫn chưa
có phương án giải quyết, gây ảnh hưởng xấu cho xã hội đối với lĩnh vực thi
hành án, vì vậy cần tiếp tục nghiên cứu và tìm ra những giải pháp xứng đáng,
nghiêm túc để thi hành một cách dứt khoát.
54
2.2. Kinh nghiệm xây dựng, thực hiện phap luật về quản lý nhà
nước đối với công tac thi hành an dân sự của nước CHXHCN Việt Nam
2.2.1. Xây dựng văn bản pháp luật về quản lý nhà nước đối với công
tác thi hành án dân sự
Ở Việt Nam, trước khi Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 ngày
14 tháng 11 năm 2008 ra đời thì công tác thi hành án dân sự đã trải qua một
thời gian dài và rút ra rất nhiều kinh nghiệm để hoàn chỉnh cho luật thi hành
án dân sự này ra đời thành một luật phong phú và có đầy đủ các điều khoản
trong hệ thống thi hành án dân sự. Nhất là đã có nhiều Pháp lệnh trước khi
luật này, đó là Pháp lệnh số 23-LCT/HĐNN8 ngày 28 tháng 8 năm 1989 ;
Pháp lệnh ngày 17 tháng 4 năm 1993; Pháp lệnh về thi hành án dân sự số
13/2004/PL-UBTVQH11 ngày 14 tháng 1 năm 2004…
Nhưng ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thì trước khi Luật về thi
hành án số 03/QH ngày 15 tháng 5 năm 2004 ra đời thì không có Pháp lệnh
nào quy định về việc thi hành án dân sự. Cho nên, dù Luật về thi hành án
củaLào ra đời sớm hơn Luật thi hành án dân sự của Việt Nam nhưng về nội
dung Luật thi hành án Lào chỉ quy định chung chung và chưa quy định chi tiết
về các biện pháp cưỡng chế thi hành án cho nên ngay sau khi đã ban hành vẫn
còn nhiều vấn đề cần sửa đổi và bổ sung. Sau khi thi hành luật này, 4 năm sau
đến năm 2008 Quốc Hội đã sửa đổi, bổ sung một số điều theo nghị quyết số
04/QH ngày 25 tháng 7 năm 2008 nhưng vẫn còn hạn chế nhiều mặt.
Chính vì vậy cần nghiên cứu và rút kinh nghiệm từ Luật thi hành án dân
sự Việt Nam để vận dụng và hoàn thiện Luật về thi hành án của Lào nhất là
những thủ tục, trình tự thi hành án và các biện pháp bảo đảm cưỡng chế thi
hành án. Theo quan điểm của tác giả thì cũng không cần khẩn cấp sửa đổi và
bổ sung Luật về thi hành án của Lào hiện hành ngay lập tức nhưng cần áp
dụng các quy định của luật Việt Nam cho việc nghiên cứu và xây dựng những
55
văn bản dưới luật để cụ thể hóa những biện pháp mà Luật thi hành án của Lào
đã quy định chung chung sao cho phù hợp với pháp luật và thực tiễn, từ đó rút
kinh nghiệm và trong một thời gian nhất định mới có thể hoàn thiện, bổ sung
hoặc sửa đổi Luật thi hành án Lào hiện hành.
2.2.2. Xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
thi hành án dân sự.
Nổi trội nhất là chấp hành viên, vì chấp hành viên là trọng tâm của công
tác thi hành án. Tại điều 17 Luật thi hành án dân sự của Việt Nam số
26/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008 đã quy định :
1. Chấp hành viên là người được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các
bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật này. Chấp hành viên có
ba ngạch là chấp hành viên sơ cấp, chấp hành viên trung cấp và chấp hành
viên cao cấp.
2. Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.
3. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục thi tuyển, bổ nhiệm chấp hành
viên.
Điều 18. Tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành viên
1. Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết,
có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để
hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được bổ nhiệm làm chấp hành viên.
2. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các
điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm chấp hành viên sơ cấp:
a) Có thời gian làm công tác pháp luật từ 03 năm trở lên;
b) Đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự;
c) Trúng tuyển kỳ thi tuyển chấp hành viên sơ cấp.
3. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các
điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm chấp hành viên trung cấp:
56
a) Có thời gian làm chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển chấp hành viên trung cấp.
4. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các
điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm chấp hành viên cao cấp:
a) Có thời gian làm chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển chấp hành viên cao cấp.
5. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 2 Điều này, là sỹ quan
quân đội tại ngũ thì được bổ nhiệm làm chấp hành viên trong quân đội.
Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm chấp hành viên sơ cấp, chấp hành viên
trung cấp và chấp hành viên cao cấp trong quân đội được thực hiện theo quy
định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.
6. Người đang là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên chuyển công tác
đến cơ quan thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm chấp hành viên ở
ngạch tương đương mà không qua thi tuyển.
7. Trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn
quy định tại khoản 1 Điều này, đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 10
năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm chấp hành viên trung cấp hoặc đã có
thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm
chấp hành viên cao cấp.
Theo quy định hiện hành của nước CHDCND Lào, chấp hành viên
không có cấp, đồng thời cũng chưa quy định rõ ai là người có quyền bổ nhiệm
chấp hành viên khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Cho nên dù
Luật thi hành án Lào đã ra đời từ năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2008) đến
nay trên cả nước vẫn chưa có chấp hành viên nào được bổ nhiệm chính thức.
Một lý do cũng vì chấp hành viên không có cấp cho nên dù được bổ nhiệm
hay không vẫn như nhau, chỉ khi nào thấy ai có đủ tiêu chuẩn thì phân công
cho người đó thực hiện nhiệm vụ của chấp hành viên. Chính vì vậy nên chấp
57
hành viên tại Lào không được sử dụng đầy đủ các quyền hạn và nhiệm vụ của
mình theo quy định của pháp luật, vì không được bổ nhiệm cho nên một số
quyền của chấp hành viên do người đứng đầu cơ quan thi hành án thực hiện.
2.2.3. Quản lý, thực hiện phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất,
kỹ thuật, phương tiện hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự
Tại Việt Nam, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thực hiện quản lý cơ
sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
tại địa phương theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân
sự thuộc Bộ Tư pháp. Cơ quan thi hành án cấp quân khu phối hợp với các cơ
quan chức năng của quân khu trong việc quản lý cơ sở vật chất, kinh phí và
phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án cấp quân khu theo hướng dẫn,
chỉ đạo của cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng. Cơ quan thi
hành án cấp huyện thực hiện quản lý cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện
hoạt động theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh.
Về cơ chế phân cấp trong đầu tư xây dựng cơ bản, phân cấp trong mua
sắm trang thiết bị kĩ thuật được Bộ Tư pháp giao cho Tổng cục thi hành án
dân sự và các Cục thi hành án dân sự.
Như vậy, hiện nay cơ quan thi hành án dân sự của CHXHCN Việt Nam
đã độc lập về trụ sở, kinh phí, có những phương tiện cần thiết để phục vụ
công tác một cách hiệu quả. Nhưng ở bên Lào cơ quan thi hành án dân sự còn
thuộc về cơ quan tư pháp cho nên vẫn chưa đảm bảo được về kinh phí, cơ sở
vật chất áp dụng vào công tác thi hành án dân sự.
2.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, giám sát thi hành án
dân sự
Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, giám sát thi hành án dân sự được
chú trọng và quy định rõ ràng, cụ thể trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.
58
Còn tại Lào, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát ở nước CHDCND Lào hiện
nay chưa chú trọng đến những nguyên nhân gây những vấn đề hạn chế trong
cơ quan thi hành án mà chủ yếu là chỉ muốn kiểm tra về mặt công tác mà
chưa kiểm tra về mặt tổ chức, điều kiện.
2.2.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo
Theo pháp luật Việt Nam, việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong xử phạt vi phạm hành chính về thi hành án dân sự thực hiện theo
quy định của Luật Thi hành án dân sự 2008 và quy định khác của pháp luật có
liên quan.
Còn trong Luật thi hành án năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) của
nước CHDCND Lào chưa quy định rõ về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về
thi hành án. Cho nên việc khiếu nại về thi hành án được thực hiện theo Luật
khiếu nại, vì vậy đã làm cho nó thêm phần phức tạp, không rõ ràng, các cơ
quan thụ lý đơn khiếu nại cũng không có căn cứ để giải quyết. Cho nên trên
thực tiễn có nhiều trường hợp cùng một lúc có thể khiếu nại tới rất nhiều cơ
quan ví dụ vừa khiếu nại tới Bộ tư pháp, vừa khiếu nại tới Viện kiểm sát, vừa
khiếu nại tới Quốc Hội, và có khi khiếu nại tới cơ quan thanh tra nhà nước và
Chính quyền địa phương hoặc Chính phủ. Và các cơ quan được thụ lý đơn
khiếu nại này cũng không thể biết được rằng có cơ quan khác đang thụ lý
cùng một đơn khiếu nại. Vì vậy việc giải quyết không có sự phối hợp và
không thống nhất, có cơ quan giải quyết thế này, có cơ quan cho giải quyết
thế kia dẫn đến việc không biết thi hành như thế nào.
59
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯƠNG VA GIAI PHÁP HOAN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUAN LY NHA NƯƠC ĐỐI VƠI CÔNG TÁC THI HANH ÁN DÂN SỰ
CỦA CHDCND LAO
3.1. Phương hướng hoàn thiện phap luật về quản lý nhà nước đối
với công tac thi hành an dân sự của CHDCND Lào
Công tác quản lý nhà nước bao gồm việc xây dựng pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước. Như trên đã phân tích,
pháp luật hiện hành về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự
của CHDCND Lào dù đã đạt được một số ưu điểm nhất định nhưng vẫn
không thể tránh khỏi một số điểm bất cập.
Thực tế hiện nay ở Lào cho thấy quá trình tổ chức thi hành án dân sự còn
nhiều vụ việc bị kéo dài, không thể thi hành dứt điểm ngay được bởi các lý do
như phải thi hành theo định kì hàng tháng, quý kéo dài trong nhiều năm, phải
áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, tài sản kê biên, tổ chức bán đấu giá
nhiều lần nhưng không có người mua, cơ chế quản lý tài sản, thu nhập của tổ
chức, cá nhân chưa chặt chẽ, gây khó khăn cho việc thi hành án, vụ việc thi
hành án phức tạp cần có thời gian và sự chỉ đạo, phối hợp của nhiều cấp,
nhiều ngành v.v… Ngoài ra pháp luật hiện hành về quản lý nhà nước đối với
hoạt động thi hành án dân sự còn chưa được sự đầu tư và chuẩn bị kĩ lưỡng,
việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng
dẫn thi hành luật thi hành án chưa được quy định dẫn đến việc khó khăn,
vướng mắc về chuyên môn, nghiệp vụ, vẫn có sự chồng chéo giữa các cơ
quan chức năng và quan hệ phối hợp trong công tác thi hành án dân sự có lúc,
có nơi còn chưa kịp thời. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành thiếu quyết liệt,
việc kiểm tra công tác phân loại hồ sơ thi hành án tuy đã được quan tâm
60
nhưng chuyển biến còn chậm. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối với
cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự còn chưa thường xuyên,
công tác quy hoạch, bổ nhiệm, chuyển ngạch chấp hành viên, đào tạo, bồi
dưỡng nhất là nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý còn chậm và chưa đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ.
Để khắc phục những nhược điểm đó, theo báo cáo của Ban chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ IX của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã đề ra
phương hướng “Sớm xây dựng va hoan thiên phap luật về thi hanh an dân sự
theo hướng tiến tới tập trung nhiêm vụ quản lý nha nước đối với công tac thi
hanh an dân sự vao Bộ Tư Phap”. [33]
Như vậy, có thể rút ra phương hướng chung của việc hoàn thiện pháp
luật về quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự là hoàn thiện hệ
thống cơ chế, chính sách về công tác thi hành án dân sự. Để đạt được điều đó
cần tiếp tục tăng cường việc hoàn thiện cơ quan quản lý và cơ quan thi hành
án để chặt chẽ, vững bềnvề mặt chính trị, ý thức, kế hoạch làm việc làm cho
chấp hành viên có quan điểm đúng và minh bạch; Tăng cường tạo điều kiện
thuận lợi và giải quyết vấn đề phương tiện, kinh phí, trang thiết bị - kỹ thuật
cần thiết cho cơ quan thi hành án; Tăng cường cơ chế phối hợp với cơ quan tổ
chức có liên quan một cách chặt chẽ và hòa hợp nhằm bảo đảm việc thi hành
án nhanh chóng, đúng pháp luật, nghiêm túc và hiệu quả. Phấn đấu tạo bước
đi đột phá trong công tác thi hành án. Tích cực giáo dục, phổ biến điều 85 của
Hiến pháp và Luật về thi hành án để các đối tượng hiểu biết sâu, đều khắp
giúp họ có kiến thức, ý thức tuân thủ bản án; Kiên quyết thi hành án đúng
hiến pháp, đúng pháp luật, và đúng nội dung của bản án.
Muốn đạt được mục đích đó thì Luật về thi hành án 2004 (sửa đổi, bổ
sung năm 2008) cần phải có các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo cơ sở pháp
61
lý cho việc thực hiện các hoạt động trong công tác thi hành án. Nhiều vấn đề
cần được quy định cụ thể, rõ ràng hơn khi thực hiện.
3.2. Một số nội dung hoàn thiện phap luật về quản lý nhà nước đối
với công tac thi hành an dân sự của CHDCND Lào
Luật Thi hành án năm 2004 của Lào được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý
cho việc thực hiện các hoạt động trong công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên
trong Luật này còn nhiều vấn đề chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, do đó
cần phải có những văn bản pháp luật cụ thể hóa cơ chế pháp lý, cơ chế thi
hành, phương thức lãnh đạo, quản lý và mô hình tổ chức của công tác thi hành
án dân sự nhằm giải quyết, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong công
tác thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.
Có thể nêu ra một số vấn đề cần được hoàn thiện trong các quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự hiện nay như :
Thứ nhất, theo pháp luật hiện nay chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi
hành các bản án, quyết định và được xác định là trung tâm của hoạt động thi
hành án dân sự thì chưa phù hợp trong trường hợp thi hành án theo đơn yêu
cầu. Vì thế cần sửa đổi theo hướng hoạt động thi hành án dân sự phải là trách
nhiệm của bên được thi hành án và bên phải thi hành án, chấp hành viên chỉ là
nhân vật hô trợ.
Thứ hai, các quy định hiện nay thiếu sự bảo đảm an toàn pháp lý cho
Chấp hành viên tương tự như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên. Vì vậy
cần có quy định về cơ chế bảo đảm an toàn pháp lý cho chấp hành viên tương
tự như các chức danh tư pháp này.
Thứ ba, cần quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức
hữu quan trong thi hành án dân sự. Bởi mặc dù Luật về thi hành án 2004 (sửa
đổi, bổ sung năm 2008) đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan,
62
tổ chức hữu quan trong thi hành án dân sự tuy nhiên công tác thi hành án dân
sự thực hiện với sự tham gia của nhiều ngành nhưng pháp luật hiện hành chưa
quy định rõ trách nhiệm của các ngành phải tham gia hoặc hô trợ hoạt động
thi hành án, đặc biệt là trách nhiệm của tòa án, do đó cần quy định cụ thể hơn
về vấn đề này.
Thứ tư, các quy định hiện hành chưa quy định nhiệm vụ của cơ quan thi
hành án dân sự về việc thi hành cácbản án, quyết định dân sự của toà án nước
ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được toà án CHDCND Lào
công nhận và cho thi hành tại CHDCND Lào, nên phải nghiên cứu và quy
định rõ về vấn đề này.
Thứ năm, như trên đã phân tích, trong Luật thi hành án dân sự năm
2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) của nước CHDCND Lào chưa quy định rõ
về việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự. Cho nên việc
khiếu nại về thi hành án dân sự được thực hiện theo luật khiếu nại, vì vậy làm
cho nó phức tạp, không rõ rệt, các cơ quan thụ lý đơn khiếu nại cũng không
có căn cứ để giải quyết. Việc giải quyết không có sự phối hợp, thống nhất
giữa các cơ quan có thẩm quyền với nhau. Vì vậy cần quy định việc khiếu nại
và giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự trong Luật thi hành án dân sự để
làm căn cứ trong việc giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự.
3.3. Một số giải phap nâng cao hiệu quả thực thi phap luật về công
tac thi hành an dân sự của CHDCND Lào
Thứ nhất, Quốc Hội cần giúp chỉ đạo, vận động và giáo dục đào tạo các
cơ quan tổ chức Đảng, cơ quan tổ chức Nhà nước, cơ quan tổ chức quần
chúng, và cơ quan tổ chức xã hội về ý thức, thái độ và sự nhận thức, hiểu biết
đúng đắn và thống nhất đối với quy định tại điều 85 của Hiến pháp: « Bản an
của Tòa an nhân dân đã có hiêu lực phap luật, mọi cơ quan tổ chức Đảng, cơ
63
quan tổ chức Nha nước, Mặt trận tổ quốc, cơ quan tổ chức quần chúng, cơ
quan tổ chức xã hội va mọi công dân phải tuân thủ, ca nhân va cơ quan tổ
chức có liên quan phải thực hiên kiên quyết. »
Thứ hai, tăng cường sự quan tâm đến công tác thi hành án, tạo điều kiện
thuận lợi, cung cấp nhân sự và phương tiện cần thiết cho cơ quan thi hành án
để có khả năng hoạt động toàn vẹn và đầy đủ vai trò của mình. Đồng thời cần
cho cơ quan thi hành án được báo cáo công tác trước hội nghị của Đảng, Nhà
nước các cấp kể cả hội nghị của Chính phủ.
Thứ ba, cơ quan có thẩm quyền xem xét thông qua ngân sách kinh phí để
mua phương tiện, cơ sở vật chất cần thiết đáp ứng cơ quan thi hành án cho
xứng đáng.
Thứ tư, cơ quan có thẩm quyền xem xét và hướng dẫn chỉ đạo các bản án
không thể thi hành được, nhất là: hình phạt tiền của người đang thi hành hình
phạt tù, người phải thi hành án là người nghèo khổ, không biết nơi cư trú của
người phải thi hành án, người phải thi hành án là người nước ngoài, người
phải thi hành án đã chết và không có người thừa kế hoặc có người thừa kế
nhưng người thừa kế là người nghèo khổ không thi hành được nghĩa vụ đó…
Thứ năm, thi hành án cần căn cứ vào điều kiện và thời hạn đã quy định
của pháp luật, cần phối hợp với cơ quan thi hành án trước, không nên chỉ căn
cứ vào đơn yêu cầu của đương sự một chiều đồng thời nghiên cứu đến khả
năng hoặc tính khả thi trong việc thi hành án nhất là việc ra quyết định tịch
thu, kê biên tài sản v.v…
Thứ sáu, cần nâng cao vai trò của cơ quan thi hành án xứng đáng với vai
trò và nhiệm vụ chính trị của mình, (theo kinh nghiệm của CHXHCN Việt
Nam thì ở cấp trung ương có Tổng Cục thi hành án trực thuộc Bộ tư pháp, cấp
tỉnh, thành phố có Cục thi hành án; cấp huyện có Chi cục thi hành án trực
thuộc Cục thi hành án có tư cách vai trò cao trong phối hợp với các cơ quan tổ
64
chức có liên quan). Đồng thời đề nghị cần có công ty chấp nhận mua nợ có
liên quan đến bản án hoặc có Phòng dịch vụ thi hành án tư nhân, nghiên cứu
áp dụng kinh nghiệm của CHXHCN Việt Nam về việc thành lập Phòng dịch
vụ thi hành án tư nhân tại thủ đô.
Thứ bảy, cần tăng cường công tác quản lý chỉ đạo ngành, tăng cường
sự phối hợp với các cấp các ngành quản lý, chỉ đạo thi hành án, thực hiện tốt
nguyên tắc quản lý ngành với quản lý lãnh thổ, tranh thủ tối đa sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Giúp Bộ trưởng Bộ tư
pháp phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ ở cấp tỉnh trong
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, điều động, bổ
nhiệm, khen thưởng, kỉ luật, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối
với công tác thi hành án dân sự.
Trong thời gian tới cần tập trung một số công tác như sau :
a) Tập trung vào việc tiếp tục hoàn thiện cơ quan thi hành án, nhất là cấp
huyện, nhấn mạnh về việc hoàn thiện mặt chính trị, ý thức tổ chức và kế
hoạch làm việc của chấp hành viên trong cả nước. Lựa chọn người có đủ tiêu
chuẩn, điều kiện vào cơ quan thi hành án và kiên quyết đào thải những người
không có năng lực; Quan tâm đến việc bồi dưỡng, đào tạo chấp hành viên để
họ có kiến thức, kĩ năng trong công tác của mình và có trách nhiệm cao.
b) Tiếp tục phổ biến áp dụng sổ tay thi hành án gắn với việc tạo cơ chế thi
hành án chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn làm căn cứ cho việc thi hành án cả nước.
c) Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện Luật về thi hành án, hoàn thiện Quyết
định của Bộ trưởng Bộ tư pháp số 12/BTP ngày 19 tháng 3 năm 2008 về việc
bán tài sản đấu thầu, để nâng cao nó thành Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ về định giá, bán đấu thầu và giao tài sản. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu
ra các văn bản hướng dẫn về mặt chuyên môn về việc thi hành án, nhất là: xử
lý vật chứng, việc tính toán tiền lãi, tiền nuôi dưỡng con cái vv… để làm căn
cứ cho việc thi hành án.
65
d) Đưa cán bộ cấp trung ương xuống trợ giúp cấp tỉnh để chỉ đạo trực
tiếp trên thực tế thi hành án. Để đảm bảo cho các tỉnh phải đạt được mục tiêu
giải quyết 60-70% số vụ việc.
e) Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thống kê các loại việc rõ rệt, tìm giải
pháp và biện pháp phù hợp để áp dụng giải quyết các vụ việc gặp khó khăn
phức tạp.
f) Tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát của Đảng ủy, Ban chỉ đạo
của Bộ đối với công tác thi hành án thường xuyên. Đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho cơ quan thi hành án được hoạt động theo vai trò, quyền hạn và
nhiệm vụ của mình theo những quy định của pháp luật.
g) Quan tâm tăng cường hợp tácquốc tế, nhất là với các nước bạn bè
chiến lược như Việt Nam, Trung Quốc để nghiên cứu tìm ra những bài học tốt
của các nước này áp dụng vào việc hoàn thiện cơ quan thi hành án của mình
có sự phù hợp, chặt chẽ và bền vững thêm.
66
KẾT LUẬN
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự là một nội dung quan
trọng của công tác quản lý tư pháp ở Lào. Thực trạng pháp lý và thực tiễn công
tác thi hành án dân sự ở Lào hiện nay đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có một
cuộc “cách mạng” cả về lý luận và thực tiễn để nhằm mục đích cuối cùng là bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa,
công bằng, công lý và đáp ứng được yêu cầu hội nhập trong giai đoạn hiện nay.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân trên cơ sở nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân
công, phối hợp của các cơ quan nhà nước.Trong thực hiện quyền lập pháp,
quyền hành pháp, quyền tư pháp; việc hoàn thiện tổ chức và quản lý nhà nước về
thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh, xử lý nghiêm các biểu hiện xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc tổ chức thi hành án
dân sự trên thực tế.
Bên cạnh đó quản lý nhà nước đối với công tác thi hành án dân sự cũng là
một nội dung cơ bản của quản lý nhà nước. Việc đổi mới, nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự là một yêu cầu cấp thiết. Vấn đề quản lý
nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự trước hết phải đảm bảo việc thực thi
tốt nhất các bản án, quyết định của tòa án trên thực tế, mặt khác phải đảm bảo sự
chặt chẽ của hoạt động này. Muốn như vậy trước hết phải tìm ra được một cơ
chế thi hành án phù hợp với điều kiện thực tiễn của Lào hiện nay, sau đó phải
tìm ra được một mô hình quản lý cơ chế đó hiệu quả. Hiện nay ngoài việc tích
cực tìm ra các giải pháp để giải quyết dứt điểm các vụ án tồn đọng còn phải
nhanh chóng nghiên cứu và triển khai trên thực tế các hoạt động xã hội hóa thi
hành án để tạo ra những chuyển biến tích cực trong hoạt động này.
67
DANH MỤC TAI LIỆU THAM KHAO
TAI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013.
2. Luật thi hành án dân sự Việt Nam năm 2008.
3. Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội về thi
hành Luật thi hành án dân sự.
4. Nghị định số 58/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục
thi hành án dân sự.
5. Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về cơ
quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm
công tác thi hành án dân sự.
6. Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
7. Giáo trình Luật Hành Chính – trường Đại học Luật Hà Nội.
8. Giáo trình Luật thi hành án dân sự - trường Đại học Luật Hà nội.
9. Từ điển Luật học (1999) – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
10.Phạm Thị Thu Nga (2004) – Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thi hành án dân sự ở Việt Nam – Luận văn thạc sỹ Luật học –
Trường đại học Luật Hà Nội.
11.Trần Văn Quảng (2004) – Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự Việt Nam – Luận văn thạc sỹ - Trường Đại học Luật Hà Nội.
12.Trần Quang Thái (2003) – Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự ở Việt Nam – Luận văn thạc sỹ - Trường Đại học Luật Hà Nội.
68
13.Dương Thị Thục (2012) - Quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt
động thi hành án dân sự - Luận văn thạc sỹ - Trường đại học Luật Hà Nội.
14. Đậu Thị Thủy (2004) – Quản lý nhà nước về Thi hành án dân sự qua
thực tế ở Thanh Hóa – Luận văn thạc sỹ Luật học – Trường đại học Luật Hà
Nội.
15. Một số bài viết trong số chuyên đề thi hành án dân sự (2010) - Tạp chí
dân chủ và pháp luật – Bộ Tư pháp.
16. Báo cáo sơ kết hai năm thi hành án dân sự năm 2011 của Bộ Tư pháp.
TAI LIỆU TIẾNG LAO
17.Hiến pháp CHDCND Lào năm 1991 (sửa đổi bổ sung năm 2003).
18.Luật về thi hành án Lào 2004 (sửa đổi bổ sung 2008).
19.Luật ban hành văn bản pháp luật CHDCND Lào số 19/QH ngày 12
tháng 7 năm 2012.
20.Luật về chính quyền địa phương của CHDCND Lào số 03/QH ngày 21
tháng 10 năm 2002.
21.Luật về Quốc Hội Lào số 04/QH ngày 15 tháng 12 năm 2010.
22.Luật về Viện kiểm sát nhân dân Lào số 10/QH ngày 26 tháng 11 năm
2009.
23.Luật về Chính phủ nước CHDCND Lào số 02/QH ngày 6 tháng 5 năm
2003.
24.Luật khiếu nại Lào số 07/QH ngày 09 tháng 11 năm 2005.
25.Luật tố tụng dân sự Lào năm 1990 (sửa đổi bổ sung năm 2004, 2012).
26.Kế hoạch tổng quan về việc phát triển nhà nước pháp quyền của
CHDCND Lào từ đây đến năm 2020.
27.Nghị quyết số 82/TTCP ngày 19 tháng 5 năm 2003 về công chức nước
CHDCND Lào.
69
28.Nghị quyết số 99/TTCP ngày 23 tháng 6 năm 2008 về chức vụ quản lý
của công chức CHDCND Lào.
29.Quyết định của Thủ tướng chính phủ về tổ chức, hoạt động của Bộ tư
pháp Lào số 404/TTCP ngày 23 tháng 11 năm 2007.
30.Quyết định của Bộ trưởng Bộ tư pháp Lào số 094/BTP ngày 26 tháng 6
năm 2008 về tổ chức, hoạt động của Sở tư pháp tỉnh, thành phố.
31. Báo cáo sơ kết hai năm thi hành Luật về thi hành án năm 2012 của Bộ
Tư pháp Lào.
32.Sổ tay về việc ban hành văn bản pháp luật (2004) - Nhà xuất bản Nhà
nước. Hô trợ in do dự án UNDP-Quốc Hội Lào.
33.Sổ tay về việc tổ chức phổ biến pháp luật (2009) - Quốc Hội - Hô trợ in
do vốn ASIA.
34. Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhân dân
cách mạng Lào.
35. Từ điển Bách khoa Lào (2003) – Nhà xuất bản và phát hành sách Quốc
gia Lào.