210
Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị BỘ TƯ PHÁP VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT MỘT SỐ KIẾN THỨC PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Dành cho giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, môn Pháp luật TẬP 1 QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ 303 304

Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

BỘ TƯ PHÁP

VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

MỘT SỐ KIẾN THỨC PHÁP LUẬT

VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

Dành cho giáo viên dạy môn Giáo dục công dân,

môn Pháp luật

TẬP 1

QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ

303 304

Page 2: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

TỔ CHỨC BIÊN SOẠN

Nguyễn Duy Lãm

Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật

Nguyễn Thị Tố Nga

Phó Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật

THAM GIA BIÊN SOẠN

Phòng Giáo dục pháp luật trong trường học - Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật

LỜI GIỚI THIỆU

Quyền con người là khát vọng và thành quả đấu tranh của nhân loại, qua các giai đoạn phát triển, trở thành giá trị chung. Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là phấn đấu đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền con người cho mọi người dân. Công cụ hiệu quả nhất cho việc bảo vệ quyền con người chính là hệ thống pháp luật. Chỉ thông qua việc thể chế hóa thành luật, quyền con người mới được bảo đảm và bảo vệ tốt nhất.

Triển khai thực hiện Tiểu Đề án “Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nước về quyền con người” thuộc Đề án tổng thể Thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền trong tình hình mới và thực hiện các khuyến nghị được Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua theo cơ chế kiểm điểm định kỳ (UPR) được ban hành theo Quyết định số 3821/QĐ-BTP ngày 12 tháng 9 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, với mục đích cung cấp một số kiến thức pháp luật cơ bản về quyền con người cho giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, môn Pháp luật, nhằm hỗ trợ các giáo viên trong giảng dạy

303 304

Page 3: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

nội dung này ở nhà trường, Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp tổ chức biên soạn tài liệu Một số kiến thức pháp luật về quyền con người dành cho giáo viên dạy môn Giáo dục công dân, môn Pháp luật.

Tập 1 của tài liệu giới thiệu về Quyền dân sự và chính trị, gồm 2 phần:

Phần 1. Khái quát chung về quyền con người.

Phần 2. Các quyền dân sự và chính trị trong pháp luật Việt Nam (phần này gồm 4 chuyên đề về các nội dung: Quyền sống và được bảo đảm an ninh cá nhân; Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng; Quyền tự do cá nhân; Quyền tham gia vào đời sống chính trị).

Xin trân trọng giới thiệu và mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc.

Hà Nội, tháng 12 năm 2012

VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

PHẦN 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

303 304

Page 4: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

I. KHÁI NIỆM, TÍNH CHẤT, PHÂN LOẠI QUYỀN CON NGƯỜI1. Khái niệmQuyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan

đến nhiều lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý... Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận quyền con người theo những góc độ khác nhau. Một định nghĩa rất phổ biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên: Quyền con người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người1. Ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc thường xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người2.

Ở Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm phân tích về vấn đề quyền con người. Trong tác phẩm Giáo trình Lý luận và pháp 1 http://en.wikipedia.org/wiki/Human_rights.2 OHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, trang 1.

luật về quyền con người, các tác giả định nghĩa quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.3

Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người.

Phân biệt khái niệm quyền con người với quyền công dân:

Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có mối liên hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên, hai khái niệm này có sự khác biệt nhất định.

Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công dân. Quyền con người là quyền được áp

3 Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 38.

303 304

Page 5: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại.

Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền công dân mà pháp luật nước đó quy định. Ví dụ: theo Điều 54 Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì công dân Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 20 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Đại biểu Quốc hội.

2. Tính chất của quyền con ngườiQuyền con người có những tính chất cơ bản sau đây:

- Tính phổ biến:

Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở chỗ quyền con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành

phần xuất thân. Con người, dù ở trong những chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn được công nhận là con người và được hưởng những quyền và sự tự do cơ bản.

- Tính đặc thù:

Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng quyền con người nhưng mức độ thụ hưởng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang sống. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người mang những sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực đó. Ví dụ: ở các nước Tây Âu, do điều kiện kinh tế phát triển nên con người ở đây được hưởng chế độ an sinh xã hội tốt hơn nơi khác. Ngược lại, ở một số nước châu Á, do kinh tế còn chậm phát triển nên mức độ thụ hưởng an sinh xã hội thấp hơn.

- Tính không thể bị tước bỏ:

Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những chủ thể đặc biệt mới có thể hạn chế quyền con người. Ví dụ: tù nhân bị giam

303 304

Page 6: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

do thực hiện hành vi phạm tội.

- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền:

Tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác. Ví dụ: nếu một người không được làm việc, không có một mức sống đảm bảo cho sự sống còn của cá nhân thì người đó sẽ ít chú ý đến các quyền dân chủ như Quyền bầu cử hoặc Quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội.

3. Phân loại quyền con ngườiHiện nay, có rất nhiều cách phân loại quyền con người.

Cách phân loại cơ bản và chủ yếu nhất đó là phân loại quyền con người theo lĩnh vực. Trong các lĩnh vực của đời sống, quyền con người được phân thành hai nhóm chính: nhóm các quyền dân sự - chính trị và nhóm các quyền kinh tế - xã hội - văn hóa. Đây cũng là cách phân chia được sử dụng khi soạn thảo bộ luật nhân quyền quốc tế. Nhóm quyền dân sự - chính trị bao gồm các quyền như: quyền bầu cử, ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; các quyền tự do cơ bản; quyền được bảo đảm an ninh cá nhân; quyền bình đẳng;… Nhóm quyền kinh tế - xã hội - văn hóa bao gồm quyền làm việc, quyền sở hữu, quyền kinh doanh, quyền được bảo vệ sức

khỏe, quyền được học tập và sáng tạo; quyền hoạt động văn hóa - nghệ thuật…

Ngoài ra, quyền con người có thể được phân chia theo chủ thể của quyền. Có thể chia quyền con người ra thành quyền cá nhân; quyền của nhóm như quyền của phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi… và quyền tập thể như quyền dân tộc tự quyết và quyền của các dân tộc thiểu số.

4. Các trường phái nghiên cứu về quyền con người trên thế giới hiện nayHiện nay có hai trường phái cơ bản nghiên cứu về quyền

con người là trường pháp quyền con người tự nhiên và trường phái quyền con người pháp lý.

Những đại diện tiêu biểu cho học thuyết quyền con người tự nhiên gồm Thomas Hobes (1588 - 1679), John Locke (1632 - 1704), Thomas Paine (1731 - 1809). Họ cho rằng, quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người mà tạo hóa ban tặng cho họ. Con người phải được hưởng những quyền này không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của nhà nước. Vì vậy, không một ai, kể cả nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền bẩm sinh, cố hữu của con người.

Ngược lại, học thuyết về quyền pháp lý cho rằng quyền con người không phải là do tự nhiên ban tặng mà phải do nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các điều luật. Do đó,

303 304

Page 7: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

quyền con người bị ảnh hưởng bởi tập quán văn hóa và truyền thống chính trị. Các học giả tiêu biểu của trường phái quyền pháp lý gồm có Edmun Burke (1729 - 1797) và Jeremy Bentham (1748 - 1832).

II. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI VÀ KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ, VĂN HÓA, CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VIỆT NAM1. Những dấu mốc trong lịch sử phát triển của vấn đề quyền con người trên thế giớiVấn đề quyền con người đã có sự phát triển lâu dài đầy

những thăng trầm trên thế giới, gắn liền với sự đấu tranh của nhân dân vì tự do, dân chủ, chống lại sự áp bức bóc lột của những kẻ thống trị.

1.1. Thời cổ đại

Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, mặc dù quyền lợi của giai cấp chủ nô luôn được coi trọng nhưng đã có những văn kiện pháp lý ghi nhận và bảo vệ quyền con người của nhân dân. Năm 1780 trước Công nguyên, Bộ luật Hammurabi được ban hành ở xứ Babylon. Ở nhiều khía cạnh, bộ luật đã quan tâm bảo vệ người dân trước những khó khăn của cuộc sống và sự

hà hiếp của kẻ mạnh, đồng thời thể hiện một số tư tưởng khá tiến bộ trong thời kỳ bấy giờ và được coi là sự ghi nhận đầu tiên về quyền con người trong lịch sử nhân loại. Một sự kiện khác, năm 539 trước Công nguyên, vua Cyrus của đế quốc Ba tư đã cho trạm khắc một tuyên bố nổi tiếng trên một cột trụ (trụ Cyrus) trong đó ghi nhận các quyền con người cơ bản như: tự do về tôn giáo, bình đẳng về chủng tộc, thả tự do cho các nô lệ. Tài liệu cổ này được nhiều học giả coi như là Hiến chương về nhân quyền đầu tiên của thế giới.

1.2. Thời phong kiến

Thời kỳ phong kiến, ở châu Âu, quyền con người bị bóp nghẹt trong sự cai trị của vương quyền phong kiến và giáo hội. Nhưng sự xuất hiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo tiền đề để tư tưởng về quyền con người được phát triển. Năm 1215, dưới sức ép của nhân dân, vua Anh, John, đã phải ký bản Hiến chương Magna Carta. Đây được coi là văn kiện pháp lý nổi tiếng, tạo bước ngoặt trong lịch sử của nhân quyền và tự do. Hiến chương đã ghi nhận một số quyền con người như: quyền sở hữu, thừa kế, quyền tự do buôn bán, quyền không bị đánh thuế quá mức, quyền được xét xử đúng đắn và bình đẳng trước pháp luật… Ngoài ra, hiến chương còn quy định về việc kiểm soát quyền lực nhà nước, ngăn chặn không cho các cơ quan nhà nước xâm phạm quyền hợp pháp của công dân.

Trong thời kỳ phục hưng ở châu Âu, chủ nghĩa nhân đạo

303 304

Page 8: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

được hình thành. Chủ nghĩa nhân đạo tuyên bố tự do cá nhân con người, phản đối khổ hạnh tôn giáo, tán thành quyền được hưởng lạc và hạnh phúc trần gian. Trong bối cảnh đó, học thuyết Nhân quyền tự nhiên đã phát triển mạnh mẽ, có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình chính trị pháp lý trên thế giới. Học thuyết Nhân quyền tự nhiên cho rằng, con người có những quyền cố hữu do tạo hóa ban tặng như quyền sống, quyền tự do, quyền sở hữu; quyền con người là thiêng liêng, cao quý và phải được xếp cao hơn pháp luật của nhà nước; nhân dân trao quyền cho nhà nước vì vậy quyền lực nhà nước là có giới hạn và nhà nước có nghĩa vụ đối với người dân. Một trong những nhà tư tưởng tiêu biểu thời kỳ này là John Locke (1632 - 1704). Tư tưởng của ông có ảnh hưởng lớn đến Hiến Pháp Hoa Kỳ sau này.

1.3. Thời cận đại và trước chiến tranh thế giới thứ hai

Tư tưởng của các nhà khai sáng phương Tây có tác động mạnh mẽ đến các cuộc cách mạng tư sản. Cách mạng Hoa Kỳ thành công; bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước này long trọng tuyên bố: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đặc biệt, 10 tu chánh án đầu tiên của Hiến pháp Hoa Kỳ - gọi chung là Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ - có hiệu lực vào năm 1791 đã quy

định một cách đầy đủ về quyền con người, đặt ra các biện pháp nhằm bảo vệ và thực thi quyền con người, đồng thời đặt ra các giới hạn của quyền lực nhà nước để tránh xâm phạm đến quyền con người. Cùng thời điểm đó ở phía bên kia đại dương, cách mạng tư sản Pháp nổ ra năm 1789, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình dân chủ của thế giới. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền được Quốc hội thông qua, có tất cả 17 điều khoản. Trong đó, Điều 1 và Điều 2 là nổi tiếng và được trích dẫn nhiều nhất: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng và quyền lợi. Sự khác biệt xã hội chỉ có thể được thiết lập trên cơ sở lợi ích chung” và “Mục đích của mọi tổ chức chính trị là việc bảo toàn các nguồn lợi thiên nhiên và bảo toàn các quyền con người không thể bị tước bỏ. Các quyền đó là tự do, tài sản, sự an toàn, và quyền được chống lại mọi sự áp bức”. Những tư tưởng từ cuộc cách mạng Hoa Kỳ và Pháp đã châm ngòi cho nhiều cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu, gây ra nhiều biến động to lớn ở khu vực này. Trong vòng 35 năm, từ năm 1795 đến năm 1830, hơn 70 bản Hiến pháp mang dấu ấn của Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền được ra đời.

Trong thế kỷ XIX, quyền con người trở thành một vấn đề có sức lan tỏa lớn trên thế giới. Cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ diễn ra mạnh mẽ. Chiến thắng của Liên

303 304

Page 9: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

bang miền Bắc trong nội chiến Hoa Kỳ (1861 - 1865) đã xóa bỏ chế độ nô lệ; đồng thời giải phóng hàng triệu nô lệ trên đất nước này. Bên cạnh đó, phong trào đấu tranh đòi cải thiện điều kiện lao động cho người lao động và bảo vệ nạn nhân trong các cuộc xung đột vũ trang trên thế giới cũng phát triển mạnh mẽ. Năm 1919, Hội Quốc Liên và Tổ chức Lao động thế giới (ILO) được thành lập; hai tổ chức này đã có nhiều đóng góp nhằm thúc đẩy vấn đề nhân quyền trên thế giới.

1.4. Sau chiến tranh thế giới thứ hai

Chiến tranh thế giới thứ hai là cú hích quyết định đối với sự ra đời của luật nhân quyền quốc tế. Sự tàn khốc của chiến tranh đã khiến nhân dân thế giới nhận thức được sự cần thiết phải thành lập một tổ chức quốc tế nhằm bảo đảm cho nhân dân thế giới không phải chịu những thảm họa về nhân quyền mà phát xít đã gây ra. Tổ chức này phải có những cơ chế pháp lý mạnh mẽ để thực hiện một cách hiệu quả sự bảo vệ quốc tế với các quyền con người. Ngày 25/4/1945, đại diện của 50 quốc gia trên thế giới đã tập hợp tại San fransisco, Hoa Kỳ để thành lập một tổ chức quốc tế có tên là Liên hợp quốc. Ngày 26/6/1945, Bản Hiến chương Liên hợp quốc được ký kết và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 24/10/1945, đánh dấu một cột mốc quan trọng đối với sự phát triển của luật nhân quyền quốc tế.

Theo Điều 1 của Hiến chương thì một trong bốn mục đích hoạt động cơ bản của Liên hợp quốc là: “Thực hiện sự hợp tác

quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo, và trong việc thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng các quyền của con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Một số điều khoản khác của Hiến chương cũng đề cập đến việc thúc đẩy nhân quyền. Thông qua Hiến chương, lần đầu tiên quyền con người được thừa nhận như một giá trị phổ biến của nhân loại trên phạm vi toàn thế giới và việc tôn trọng quyền con người là trách nhiệm chung của cộng đồng các quốc gia.

Trên cơ sở các hoạt động của Liên hợp quốc, Bộ luật Nhân quyền quốc tế đã ra đời. Bộ luật Nhân quyền quốc tế là tên gọi chung cho bộ ba văn kiện nhân quyền quốc tế do Liên hợp quốc soạn bao gồm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966. Hai công ước chính đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1966 và được nhiều nước tham gia. Đây là văn kiện đề cập một cách toàn diện, cơ bản về quyền con người. Bộ luật Nhân quyền quốc tế có vị trí vô cùng quan trọng, là nền tảng của luật pháp quốc tế về quyền con người.

(1) Tuyên ngôn thế giới về quyền con người

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại Hội đồng

303 304

Page 10: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948. Trong lời nói đầu, tuyên ngôn đã thực sự đề cao tầm quan trọng của nhân quyền đối với sự sống còn của loài người: “việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới”. Tuyên ngôn bao gồm 30 điều, lần đầu tiên liệt kê một cách toàn diện những quyền của con người trong tất cả các phương diện chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa. Văn bản được trình bày với ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu để mọi người trên thế giới đều có thể đọc và hiểu. Tuyên ngôn thực chất không phải là một điều ước quốc tế có hiệu lực, nhưng nó có một sức mạnh “luân lý” to lớn đối với các quốc gia trên thế giới. Tập hợp các quyền con người trong tuyên ngôn trở thành một tiêu chuẩn chung được hầu hết các quốc gia quy định vào luật pháp của đất nước mình. Tuyên ngôn nhân quyền có tác động to lớn đối với thế giới và được đánh giá là một trong những văn kiện có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử. Nó đã thôi thúc sự phát triển nhân quyền ở rất nhiều quốc gia, các địa phương và các vùng lãnh thổ.

(2) Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 là một công ước quốc tế do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23

tháng 3 năm 1976, nêu tổng quan các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người. Công ước là một phần của hệ thống bộ luật nhân quyền quốc tế. Một trong những quyền quan trọng khác được công ước long trọng ghi nhận ở Chương I là quyền dân tộc tự quyết. Công ước khẳng định: Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá. Sau đó, các quyền dân sự - chính trị được trình bày một cách có hệ thống trong công ước. Các điều khoản đều hướng tới sự bảo đảm tốt nhất đối với quyền sống, sự tự do, quyền được đối xử bình đẳng và sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị quốc gia. Là một dạng cam kết quốc tế có hiệu lực, công ước ràng buộc nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc xây dựng pháp luật quốc gia để thực hiện công ước. Việt Nam đã gia nhập công ước vào ngày 24/9/1982.

(3) Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa là một công ước quốc tế được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966, có hiệu lực từ ngày 03 tháng 01 năm 1976. Việt Nam phê chuẩn công ước ngày 24 tháng 9 năm 1982. Theo nội dung của công ước, mọi người dân đều có quyền làm việc và được làm việc trong những điều kiện an

303 304

Page 11: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

toàn nhất, quyền tham gia công đoàn, quyền được hưởng an sinh và xã hội, quyền được học tập và thụ hưởng cuộc sống ở mức phù hợp, không ngừng nâng cao điều kiện cuộc sống. Song song với việc quy định về quyền của con người, công ước nêu cụ thể trách nhiệm của các quốc gia thành viên, bằng các biện pháp lập pháp hoặc phát triển kinh tế - xã hội phải tạo điều kiện để cá nhân phát triển đầy đủ và sung túc nhất.

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, và sau đó là hai công ước trong bộ luật Nhân quyền quốc tế đã thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các điều ước quốc tế quy định về một khía cạnh cụ thể của quyền con người. Sau đây là một số điều ước cốt lõi về quyền con người trong luật pháp quốc tế:

- Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc 1965;

- Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979;

- Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác 1984;

- Công ước về quyền trẻ em 1989;

- Công ước quốc tế về bảo vệ các quyền của tất cả người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ, 1990;

- Công ước quốc tế về bảo vệ tất mọi người khỏi bị đưa đi

mất tích 2006;

- Công ước về quyền của những người khuyết tật 2006;

Và rất nhiều tuyên bố, nghị định thư và các điều ước quốc tế khác.

2. Khái lược lịch sử tư tưởng về quyền con người trong lịch sử, văn hóa Việt Nam2.1. Thời phong kiến

Yêu thương con người, khoan dung, nhân đạo là giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Từ cổ xưa, người Việt với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, sống hòa mình với thiên nhiên nên bản tính hiền hòa, nhân hậu, chất phác. Rồi trải qua hàng ngàn năm chống chọi với thiên tai, bão lụt và những tai ách ngoại xâm khiến cho con người phải gắn bó chặt chẽ, cố kết với nhau hơn. Vì vậy, trong truyền thống văn hóa của con người Việt, lối sống trọng tình nghĩa và nếp nghĩ coi trọng con người, khoan dung, độ lượng đã trở thành một điều cốt lõi. Từ lâu, dân gian vẫn lưu truyền những câu ca dao, tục ngữ: “thương người như thể thương thân”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”…

Tinh thần nhân đạo của dân tộc Việt còn bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng của Phật giáo. Với tinh thần từ, bi, hỷ, xả, đạo Phật hướng tới mục đích cứu vớt chúng sinh, cứu khổ,

303 304

Page 12: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

cứu nạn; ở đâu có đạo Phật, ở đó có sự đề cao con người và yêu thương con người. Mặt khác, theo giáo lý đạo Phật, không có tiểu nhân, không có quân tử, không có sự phân chia giai cấp, tất cả mọi người đều bình đẳng và đều có thể được giải thoát. Trải qua hàng trăm năm phát triển, đạo đức Phật giáo đã thực sự ăn sâu vào truyền thống văn hóa của dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của con người.

Ở một góc độ khác, tư tưởng về quyền con người trong lịch sử phong kiến Việt Nam được thể hiện qua truyền thống dân chủ làng xã. Xuất phát từ đời sống nông nghiệp, người dân Việt Nam từ ngàn đời qua, sống cố kết thành một đơn vị dân cư “làng”. Làng của người Việt là một cộng đồng gắn bó bền vững, mang tính “tự trị” cao. Trong lịch sử, triều đình thường chỉ bổ nhiệm quan lại đến cấp phủ, huyện, còn chức dịch trong làng do nhân dân tự bầu cử ra. Người dân tự chọn những người có uy tín để bầu vào “hội đồng kỳ dịch”. Đó là những người thay mặt người dân để quản lý, trông nom mọi việc lớn nhỏ trong làng. Làng có hương ước là những quy tắc do người dân tự đặt ra, tự nguyện tuân thủ thực hiện và được giao cho Hội đồng kỳ dịch tổ chức thực hiện. Những quy tắc dân chủ trong làng như vậy đã tồn tại một cách bền vững từ xa xưa đến mức độ những kẻ xâm lược phương Bắc và thực dân Pháp cũng không thể phá vỡ hoặc đồng hóa được. Như vậy, ở

một khía cạnh nào đó, có thể thấy tư tưởng về dân chủ đã xuất hiện khá sớm ở Việt Nam.

Tư tưởng khoan dung, nhân đạo của dân tộc có ảnh hưởng rất lớn đến chính sách cai trị của các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong lịch sử, các triều đại thường rất gần gũi với dân chúng và thi hành chính sách “thân dân”. Một trong những tư tưởng trị quốc lớn của thời kỳ phong kiến là “lấy dân làm gốc”. Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết: “Việc nhân nghĩa cốt để yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Trần Hưng Đạo trước khi lâm chung còn căn dặn vua rằng: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Vua và quan lại trong chế độ phong kiến phần lớn đều sống rất giản dị, không cách biệt quá lớn với nhân dân. Nhà nước phong kiến thường lấy sự an cư, lạc nghiệp của người dân làm cơ sở cho sự thịnh suy của triều đại. Không những thế, tinh thần nhân đạo còn được thể hiện trong các chính sách đối ngoại của các vương triều phong kiến. Sử sách chép lại rằng sau khi chiến thắng quân Minh, nghĩa quân Lam Sơn không những không giết hàng quân mà còn cung cấp ngựa, xe, thuyền bè để 10 vạn quân Minh được yên ổn rút về nước. Tư tưởng nhân đạo ấy được Nguyễn Trãi khái quát trong hai câu thơ ngắn gọn của Bình Ngô Đại Cáo: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Tư tưởng đề cao con người thể hiện rõ trong những bộ

303 304

Page 13: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

luật thời phong kiến. Thời nhà Lý, các nhà vua thường lấy sự an cư lạc nghiệp của nhân dân làm trọng. Điểm nổi bật nhất của thời kỳ này là nhà nước ban hành bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử dân tộc - Bộ luật Hình thư. Mặc dù đã bị thất truyền, nhưng qua ghi chép của các nhà sử học, bộ luật này thể hiện tính nhân đạo rất cao. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả là Bộ “Quốc triều Hình luật” hay còn được gọi là Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới thời Lê. Bộ luật đã kế thừa nhiều tinh hoa về tư tưởng nhân đạo trong lịch sử dân tộc, được đánh giá là bộ luật có nhiều nét tiến bộ nhất trong lịch sử phong kiến. Trước hết, bộ luật có nhiều quy định để bảo vệ tính mạng, nhân phẩm và tài sản của người dân, hạn chế sự nhũng nhiễu, áp bức bóc lột của quan lại, quý tộc. Những người quyền quý ức hiếp, nhũng nhiễu nhân dân đều bị trừng trị nghiêm khắc. Điểm nổi bật nhất của bộ luật là quy định về bảo vệ nhân phẩn và quyền lợi của người phụ nữ. Người phụ nữ được bênh vực và hưởng nhiều quyền lợi, trong nhiều trường hợp, họ còn có sự bình đẳng với nam giới. Ngoài ra, Bộ luật Hồng Đức có nhiều quy định bảo vệ và đối xử nhân đạo đối với những đối tượng yếu thế trong xã hội và những bị can, bị cáo, người có tội. Đến thời nhà Nguyễn, triều đình ban hành bộ “Hoàng Việt luật lệ”. Mặc dù bị đánh giá là khắc nghiệt và mang nặng tính giai cấp, bộ luật cũng chứa nhiều quy định mang tính nhân đạo cao như các quy định về tha tội và ân xá, quy định trừng phạt quan lại vô cớ bắt, tra khảo dân,

quy định về bảo vệ người phụ nữ…

2.2. Thời Pháp thuộc

Thời kỳ này, các quyền con người ở Việt Nam bị chà đạp dưới sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và chính quyền phong kiến. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ mà các tư tưởng dân chủ, tự do ở phương Tây, tư tưởng “tam dân” của Tôn Trung Sơn và chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam.

Hoạt động đấu tranh về quyền con người được các nhân sĩ và trí thức yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… thúc đẩy từ khá sớm. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra nhằm mục tiêu đánh đổ ách áp bức, bóc lột, giành lại tự do cho dân tộc.

Tuy nhiên, nổi bật nhất trong thời kỳ này là sự đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc vì quyền con người. Người viết tác phẩm Đường công lý của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương để vạch trần bộ mặt thật của những kẻ xâm lược: “chưa có bao giờ ở một thời đại nào, ở một nước nào, người ta bị vi phạm mọi quyền làm người một cách độc ác và trơ tráo đến thế”. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản bằng tiếng Pháp tại Pari, người lên án chế độ cai trị thuộc địa tàn bạo, vô nhân đạo của thực dân Pháp và đòi các quyền độc lập, tự quyết cho dân tộc. Năm

303 304

Page 14: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến những nước tham gia hội nghị Vecsxai bản “yêu sách của nhân dân Việt Nam” gồm 8 điều, trong đó có 4 điều trực tiếp về quyền con người (tự do báo chí, tự do ngôn luận; tự do lập hội và hội họp; tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản xứ).

2.3. Thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đã đưa dân tộc Việt Nam từ vị thế những người nô lệ trở thành những người chủ thật sự của đất nước. Mỗi người dân từ đây được hưởng các quyền con người, quyền công dân; dân tộc từ đây được tự quyết con đường phát triển của mình.

Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 không những đã kế thừa tinh hoa trong tư tưởng về quyền con người trên thế giới mà còn phát triển những tư tưởng ấy lên một tầm cao mới. Bằng việc nhắc lại những luận điểm bất hủ trong bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và Tuyên ngôn Dân quyền và nhân quyền của Pháp, người khẳng định về quyền dân tộc tự quyết: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đây là một đóng góp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ với dân tộc Việt Nam mà còn với nhân dân thế giới,

đặc biệt là các nước thuộc địa. Điều này cho thấy, Người không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng mà còn là một nhà tư tưởng xuất sắc về quyền con người.

Ngay khi đất nước được tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên càng sớm càng tốt để nhân dân được thực hiện quyền dân chủ, quyền công dân. Về việc ban hành Hiến pháp, người cho rằng: “nước ta đã bị chế độ quân chủ cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có hiến pháp dân chủ”4. Bản Hiến pháp năm 1946 mặc dù được soạn thảo trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn nhưng đã dành sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề quyền con người, trong 70 điều, có 18 điều quy định tập trung về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. Nhận xét về Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Bản Hiến pháp chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã có độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới: phụ nữ Viêt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân

4 Hồ Chí Minh, Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, tập 1, tr.356.

303 304

Page 15: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”5.

Ngày 18/12/1959, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Bản Hiến pháp này có 21 điều quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Lúc bấy giờ, miền Bắc đã giành được độc lập, cơ sở kinh tế của chế độ mới đang bắt đầu hình thành, cuộc kháng chiến ở miền Nam đang bắt đầu. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội cho phép Hiến pháp năm 1959 quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân một cách đầy đủ hơn, bổ sung thêm các quyền về kinh tế, văn hóa so với Hiến pháp năm 1946.

Sau khi đất nước được giải phóng, Hiến pháp năm 1980 được nhà nước ta ban hành để thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà nòng cốt là liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong Hiến pháp năm 1980 có 29 điều quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong bối cảnh đất nước đã thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội, các quyền công dân được quy định một cách đầy đủ hơn, mang hơi hướng của chế độ tập trung, bao cấp. Những quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 1980 là cơ sở để nhà nước ta xây dựng một loạt các văn bản pháp luật chi tiết hóa, cụ thể hóa quyền con người trong đời sống xã hội.

5 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.440.

Đại hội Đảng VI diễn ra vào năm 1986 đánh dấu sự thay đổi tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một trong những sự thay đổi là sự hướng mạnh vào tôn trọng, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 1992 ra đời, kế thừa tinh thần của các bản Hiến pháp trước, đồng thời quy định các quyền con người, quyền công dân một cách thực tế, phù hợp với hoàn cảnh mới. Theo Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân gồm 34 điều. Hiện nay, đất nước ta đã có một hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện; hầu như các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội đều được điều chỉnh bởi luật. Các đạo luật đã cụ thể hóa, chi tiết hóa các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp để công dân có thể dễ dàng thực hiện trong cuộc sống. Trên cơ sở đó, quyền con người ở Việt Nam ngày càng được tôn trọng và bảo đảm.

III. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH CƠ BẢN CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON NGƯỜI1. Quan điểm của Đảng và nhà nước về quyền con ngườiMục tiêu của sự nghiệp cách mạng là giải phóng con

người, vì vậy, quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam là bảo vệ quyền con người, giải phóng

303 304

Page 16: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho mỗi người. Sau đây là một số nét chính trong quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người:

1.1. Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại

Quyền con người có tính phổ biến, được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, độ tuổi, thành phần xuất thân...

Trong Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12 tháng 7 năm 1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã khẳng định: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại.” 6

Quyền con người có nội dung phong phú như ngày nay là kết quả của cả quá trình đấu tranh lâu dài và bền bỉ của nhân loại, trong đó có những đóng góp của nhân dân Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử. Đảng thừa nhận, tôn trọng và

6 Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”.

bảo vệ những giá trị cao quý được nhân loại thừa nhận về quyền con người. Vì vậy, việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam không được tách rời những giá trị về quyền con người đã được pháp luật quốc tế quy định: “Chăm lo con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kêt hoặc tham gia”7.

1.2. Trong điều kiện xã hội có phân chia giai cấp, khái niệm quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc

Các nhà cách mạng tư sản luôn nêu cao các khẩu hiệu tự do, bình đẳng, dân chủ trong các cuộc cách mạng tư sản. Tuy nhiên, sau khi cách mạng thành công, nhân dân lao động lại không được hưởng quyền tự do, bình đẳng, dân chủ thực sự mà bị trói chặt vào những xiềng xích kinh tế mới. Như vậy, quyền con người trong xã hội còn có sự phân chia giai cấp vẫn bị lợi ích giai cấp chi phối sâu sắc. Mặc dù xét về bản chất, quyền con người là những giá trị chung của toàn nhân loại, là kết tinh của quá trình lịch sử lâu dài, nhưng trên thực tế, đây là một vấn đề mang tính chính trị và bị chính trị hóa. Do đó, việc giải thích và áp dụng quyền con người thường thể hiện sự khác biệt về ý thức hệ.

Theo Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992, Ban Bí thư

7 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quôc gia, H. 2001, tr. 134

303 304

Page 17: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

trung ương Đảng đã nhấn mạnh: “Trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc”. Về vấn đề này, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg ngày 02/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “… Cuộc đấu tranh trên vấn đề quyền con người là cuộc đấu tranh mang tính giai cấp sâu sắc, sẽ diễn ra liên tục, lâu dài và quyết liệt.”

1.3. Quyền con người thống nhất với quyền dân tộc cơ bản

Dân tộc Việt Nam đã nhiều lần bị các thế lực nước ngoài xâm chiếm. Nước mất thì nhà tan, khi dân tộc mất tự do thì quyền con người bị giày xéo. Thực tế cho thấy trước năm 1945, khi nước ta còn là một nước thuộc địa, nửa phong kiến thì nhân dân Việt Nam không được hưởng các quyền con người. Chỉ sau khi cách mạng tháng Tám thành công, địa vị của người dân từ nô lệ mới trở thành chủ nhân thực sự của một quốc gia độc lập. Lần đầu tiên, người dân mới được hưởng các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Từ thực tiễn đấu tranh ấy, Đảng rút ra bài học kinh nghiệm rằng sự nghiệp giải phóng con người có mối liên hệ chặt chẽ với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một khi đất nước bị mất độc lập thì quyền con người không bao giờ được thực thi và bảo đảm.

Xác định đúng đắn mối quan hệ giữa quyền dân tộc và quyền của mỗi cá nhân là cơ sở để dẫn tới thắng lợi của cách

mạng Việt Nam. Trong Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941) về tổ chức Việt Minh, Nguyễn Ái Quốc viết: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Tư tưởng về quyền dân tộc cơ bản được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một cách long trọng trong tuyên ngôn độc lập ngày mùng 2 tháng 9: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

1.4. Quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù, phụ thuộc vào truyền thống, đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia

Quyền con người là một giá trị phổ biến của nhân loại, bao hàm những quyền và nguyên tắc được áp dụng phổ biến ở ở mọi nơi, cho mọi đối tượng. Mặc khác, quyền con người cũng mang tính đặc thù với mỗi quốc gia theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa và lịch sử.

Về vấn đề này, Các Mác từng viết: “Quyền không bao giờ

303 304

Page 18: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

có thể ở mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế quyết định”.8

Theo Chỉ thị số 12-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Do vậy, không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho các nước khác. Sách trắng Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam cũng khẳng định: “… quyền con người vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng chung của nhân loại, được ghi trong Hiến chương của Liên hợp quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và cộng đồng…” do đó, “… khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực. Không một nước nào có quyền áp đặt mô hình chính trị, kinh tế, văn hóa của mình cho một quốc gia khác”.

Ở phạm vi khu vực, một số nhà chính trị của các nước châu Á như Lý Quang Diệu (cựu thủ tướng Singapore); Ali Alatas (cựu bộ trưởng ngoại giao Indonexia)… cũng ủng hộ

8 C.Mác và F.Ăng ghen về quyền con người, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội., 1998, tr. 286.

quan điểm về tính đặc thù về quyền con người thông qua việc đề xướng lý luận về “những giá trị châu Á”. Nội dung cơ bản của lý luận này như sau: do những đặc thù về văn hóa, lịch sử, châu Á cần có những cách thức và tiêu chuẩn riêng trong vấn đề quyền con người chứ không thể và không nên theo những giá trị dân chủ, nhân quyền được cổ vũ bởi các nước phương Tây.

1.5. Quyền con người thể hiện trong quyền công dân và được pháp luật bảo hộ

Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể trong pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa hô hào, không có ý nghĩa thực tế. Pháp luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con người. Khi được pháp luật quy định, quyền con người trở thành quyền công dân. Đồng thời, pháp luật còn thiết lập nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm xây dựng hệ thống pháp luật để cụ thể hóa các quyền con người. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng xác định: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người…” Trong Hiến pháp năm 1992, Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận một cách một cách đầy đủ và trang trọng các quyền con người, phù hợp

303 304

Page 19: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

với các chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Tính từ năm 1986 đến năm 2005, Việt Nam đã ban hành trên 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 bộ luật và luật, trên 120 pháp lệnh, gần 850 văn bản của Chính phủ và trên 3000 văn bản pháp quy của các bộ, ngành.9

1.6. Quyền không tách rời nghĩa vụ

Trong “Điều lệ tạm thời của Hội liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864”, Các Mác đã chỉ rõ mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ: “Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi.” Trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người, tại khoản 2 Điều 29 cũng nêu rõ rằng: “Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”.

Về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, Đảng ta nhận định: “Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên

9 Sách trắng Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam, lời nói đầu.

chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc, của nhân dân”10. Sách trắng thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người của Việt Nam cũng khẳng định: “… Các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ xã hội”.

1.7. Tất cả các quyền con người cần được tôn trọng và bảo đảm một cách bình đẳng

Tất cả các quyền của con người đều có ý nghĩa quan trọng như nhau và không có quyền nào được coi là vượt trội hơn quyền nào. Việc thực hiện hay không thực hiện một quyền sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến các quyền khác.

Về vấn đề này, Nhà nước Việt Nam luôn xác định một phương hướng “… cần tiếp cận một cách toàn diện tất cả các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa trong một tổng thể hài hòa, không được xem nhẹ bất cứ quyền nào. Đồng thời, các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng… Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng đến quyền

10 Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”.

303 304

Page 20: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của cả cộng đồng là cách đề cập phiến diện, không phản ánh đầy đủ bức tranh toàn cảnh về quyền con người”11.

Việc coi trọng sự bình đẳng giữa các quyền con người được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp năm 1992. Trong Hiến pháp, các quyền con người được ghi nhận một cách toàn diện và có mối liên quan chặt chẽ với nhau.

1.8. Mở rộng đối thoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người

Đảng ta chủ trương thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong Chỉ thị số 12-CT/TW, Đảng khẳng định: “Quyền con người là vấn đề đang được đặt ra trong các mỗi quan hệ quốc tế. Cần làm tốt công tác đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền của nước ta, sẵn sàng tỏ thiện chí hợp tác trong quan hệ quốc tế vì quyền con người, đồng thời đấu tranh với những âm mưu lợi dụng vấn đề này để chống phá ta”.

Sách trắng Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam viết rằng: “Do khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển, giá trị truyền

11 Sách trắng Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam.

thống văn hóa… nên cách tiếp cận về quyền con người của mỗi quốc gia có thể khác nhau. Việc hợp tác và đối thoại giữa các quốc gia để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là một yêu cầu cần thiết và khách quan. Việt Nam ủng hộ việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, vì mục tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền con người. Việt Nam cũng cho rằng không nước nào có quyền sử dụng vấn đề quyền con người làm công cụ can thiệp vào công việc nội bộ các quốc gia, gây đối đầu, gây sức ép chính trị, thậm chí sử dụng vũ lực hoặc làm điều kiện trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại... với nước khác.”

2. Chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người2.1. Tăng cường và mở rộng dân chủ

Dân chủ là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ thực thi quyền con người. Các quyền con người chỉ được tôn trọng và bảo đảm trong một xã hội dân chủ. Từ lâu, mở rộng và phát huy dân chủ đã trở thành một mục tiêu cơ bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Mở rộng và phát huy dân chủ được coi là một nhân tố quan trọng quyết định

303 304

Page 21: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện các cơ chế thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nổi bật nhất là nỗ lực hoàn thiện các quy định pháp luật làm nền tảng để tăng cường thực hiện dân chủ. Các quy định pháp luật nhằm thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được xây dựng ngày càng hoàn thiện, chi tiết và đầy đủ hơn. Bên cạnh đó, trách nhiệm công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan, công chức nhà nước ngày càng được tăng cường.

2.2. Phát huy nhân tố con người, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội

Phát huy nhân tố con người luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội. Mục tiêu của chính sách do Đảng và Nhà nước đề ra đều hướng vào con người, không ngừng cải tạo, nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm những nhu cầu tối thiểu nhất của nhân dân và nâng cao thể chất của con người Việt Nam. Trong những năm tới, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định các vấn đề ưu tiên là: bảo đảm tốt

hơn phúc lợi xã hội, tạo càng nhiều việc làm cho người lao động, tập trung xóa đói giảm nghèo; chú trọng phát triển bảo hiểm xã hội, tăng cường phổ cập giáo dục, phòng chống các tệ nạn xã hội; ngăn chặn dịch bệnh, bảo vệ môi trường.

2.3. Bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quyền con người, quyền công dân

Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Trong lịch sử, các dân tộc luôn đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán chính sách bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, coi đó là một trong những nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Chính sách này được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước.

Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta không ngừng nỗ lực hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về quyền con người, quyền công dân. Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa quyền con người trên các lĩnh vực. Hiện nay, Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chiến lược cải cách tư pháp, Chương trình cải cách hành chính đang được Đảng và nhà nước đẩy mạnh nhằm tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật, đảm bảo thực hiện có hiệu quả các quyền con người, quyền công dân.

2.4. Ngăn ngừa và trừng trị những hành vi

303 304

Page 22: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

vi phạm quyền con người, quyền công dân, đồng thời, chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích, lợi dụng vấn đề quyền con người để chống phá chế độ

Trong thời gian qua, một số cán bộ của Đảng, cán bộ, công chức nhà nước chưa thật sự gương mẫu, chưa tôn trọng quyền làm chủ của nhân nhân, thậm chí có những hành vi tham nhũng, quan liêu, xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định chủ trương ngăn ngừa và trừng trị những hành vi vi phạm quyền con người, đấu tranh chống tham nhũng và tiêu cực.

Hiện nay, vấn đề quyền con người, quyền công dân luôn bị các phần tử phản động lợi dụng để chống phá chế độ, phá vỡ sự ổn định chính trị. Do đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương chống các khuynh hướng dân chủ cực đoạn, quá khích; ngăn chặn và phá vỡ âm mưu của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề quyền con người để kích động, gây rối.

2.5. Tăng cường hoạt động phổ biến, giáo dục về quyền con người, quyền công dân cho cán bộ và nhân dân

Phổ biến các kiến thức về quyền con người, quyền công dân là một biện pháp có tính chất bền vững để thúc đẩy, bảo vệ quyền con người. Ở Việt Nam, hoạt động này lâu nay

vẫn được duy trì một cách thường xuyên. Giáo dục về quyền con người, quyền công dân từ lâu đã trở thành một nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục công dân, giáo dục pháp pháp luật ở các cấp học. Tuy vậy, nhận thức về quyền con người trong một bộ phận dân chúng vẫn còn hạn chế. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đang cố gắng thúc đẩy mạnh hơn nữa việc phổ biến và giảng dạy về quyền con người nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho người dân Việt Nam.

2.6. Chủ động, tích cực trong các hoạt động hợp tác quốc tế và mở rộng đối thoại trong lĩnh vực nhân quyền

Đảng và Nhà nước Việt Nam thừa nhận các giá trị chung trong tư tưởng của nhân loại về quyền con người. Đồng thời, Đảng và Nhà nước đề ra chính sách chủ động hợp tác và đối thoại nhằm góp phần thúc đẩy các quyền con người trên thế giới. Chính sách đối ngoại trong lĩnh vực này của Việt Nam dựa trên nguyên tắc: bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không áp đặt và can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Hợp tác và đối thoại quốc tế về quyền con người có ý nghĩa rất quan trọng. Qua đối thoại, cộng đồng quốc tế sẽ có cơ hội hiểu hơn về tình hình nhân quyền ở Việt Nam; đồng thời, đây cũng là một cơ hội để Việt Nam học hỏi kinh

303 304

Page 23: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

nghiệm của các quốc gia trên thế giới.

PHẦN 2

CÁC QUYỀN DÂN SỰ - CHÍNH TRỊ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

303 304

Page 24: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Chuyên đề 1

QUYỀN SỐNG VÀ ĐƯỢC BẢO ĐẢM AN NINH CÁ NHÂN

I. QUYỀN SỐNG1. Một số quy định cơ bản về quyền sống theo pháp luật quốc tế Một trong những quyền tự nhiên thiêng liêng nhất của con

người là quyền được sống an toàn, trong hòa bình. Quyền sống được đề cập đầu tiên tại Điều 3 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR). Điều này khẳng định: "Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân”.

Quyền sống của con người được tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa tại Điều 6 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR), theo đó: Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện (Khoản 1). Các khoản 2, 3, 4, 5, 6 Điều này quy định các nguyên tắc cơ bản trong việc áp dụng hình phạt tử hình ở những nước còn

duy trì hình phạt này, có thể tóm tắt như sau: (1) chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện; (2) việc áp dụng hình phạt tử hình không được trái với những quy định của ICCPR và của Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng; (3) hình phạt tử hình chỉ được thi hành trên cơ sở bản án đã có hiệu lực pháp luật, do một toà án có thẩm quyền phán quyết; (4) Bất kỳ người nào bị kết án tử hình đều có quyền xin và quyền được xét ân giảm hoặc thay đổi mức hình phạt; (5) Không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi và không được thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai; (6) Không được viện dẫn Điều 6 để trì hoãn hoặc ngăn cản việc xoá bỏ hình phạt tử hình tại bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước.

Bên cạnh ICCPR, một số công ước quốc tế khác về quyền con người cũng đề cập đến quyền sống, trong đó bao gồm Công ước về quyền trẻ em (Điều 6 Công ước này quy định, các quốc gia thành viên thừa nhận rằng tất cả trẻ em đều có quyền cố hữu là quyền sống), Công ước về ngăn chặn và trừng trị tội diệt chủng (Công ước đã dành phần lớn các điều khoản để xác định rõ các hành vi được coi là phạm tội diệt chủng và việc trừng trị đối với các hành vi xâm hại quyền sống của con người đặc biệt nghiêm trọng này), Công ước về

303 304

Page 25: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

trấn áp và trừng trị tội ác a-pác-thai (Điều 2 Công ước này đưa ra định nghĩa về tội ác a-pác-thai, trong đó bao gồm hành động giết các thành viên của một nhóm chủng tộc hoặc giết cả nhóm chủng tộc đó)...

Ngoài những khía cạnh đã nêu cụ thể ở Điều 6 ICCPR, trong Bình luận chung số 6 thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982, Ủy ban quyền con người (HRC) đã giải thích thêm một số khía cạnh liên quan đến ý nghĩa và nội dung của quyền sống, có thể tóm tắt những điểm quan trọng như sau:

Thứ nhất, quyền sống là “một quyền cơ bản của con người mà trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia, cũng không thể bị vi phạm...” (đoạn 1).

Thứ hai, quyền sống không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là sự toàn vẹn về tính mạng. Hơn thế, quyền này bao gồm cả những khía cạnh nhằm bảo đảm sự tồn tại của con người. Theo cách tiếp cận này, việc bảo đảm quyền sống còn đòi hỏi các quốc gia phải thực thi những biện pháp để làm giảm tỉ lệ chết ở trẻ em và tăng tuổi thọ bình quân của người dân, cụ thể như các biện pháp nhằm xóa bỏ tình trạng suy dinh dưỡng và các dịch bệnh... tức là bao gồm cả các biện pháp thụ động và chủ động (đoạn 2).

Thứ ba, một trong các nguy cơ phổ biến đe dọa quyền sống là chiến tranh và các tội phạm nghiêm trọng như diệt

chủng hay tội phạm chống nhân loại. Vì vậy, việc chống chiến tranh và các tội phạm này cũng là sự bảo đảm quyền sống. Theo cách tiếp cận đó, việc bảo đảm quyền sống trong Điều 6 có mối liên hệ với nghĩa vụ cấm các hoạt động tuyên truyền chiến tranh và kích động hận thù, bạo lực nêu ở Điều 20 ICCPR (đoạn 3).

Thứ tư, phòng chống những hành động tội phạm gây nguy hại hoặc tước đoạt tính mạng con người cũng là biện pháp hết sức quan trọng để bảo đảm quyền sống. Các quốc gia thành viên cần tiến hành các biện pháp phòng chống và trừng trị việc tuỳ tiện tước đoạt tính mạng con người do bất kỳ chủ thể nào gây ra, kể cả do các lực lượng an ninh của nhà nước (đoạn 5). Liên quan đến vấn đề này, việc bắt cóc người và đưa đi mất tích cũng bị coi là một trong những hình thức tước đoạt quyền sống, do đó, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đưa ra những biện pháp và kế hoạch hiệu quả để phòng chống và điều tra các vụ việc dạng này (đoạn 4).

Thứ năm, về mối quan hệ giữa hình phạt tử hình và quyền sống, mặc dù ICCPR không bắt buộc các quốc gia thành viên phải xóa bỏ hình phạt này, tuy nhiên, các quốc gia có nghĩa vụ phải hạn chế sử dụng nó, cụ thể là chỉ được áp dụng hình phạt này với “những tội ác nghiêm trọng nhất”, và việc giới hạn áp dụng hình phạt này cũng được coi là một hình thức bảo đảm quyền sống. Ngoài ra, các quốc gia thành viên mà hiện còn áp

303 304

Page 26: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

dụng hình phạt tử hình có nghĩa vụ bảo đảm những thủ tục tố tụng trong những vụ việc bị can, bị cáo bị xét xử với mức án tử hình phải được thực hiện một cách công bằng nhất, trong đó bao gồm những khía cạnh như không áp dụng hồi tố, xét xử công khai, được giả định vô tội, bảo đảm các quyền bào chữa, kháng cáo và xin ân giảm... (đoạn 6).

Cũng liên quan đến quyền sống, ngoài Bình luận chung số 6, HRC còn thông qua Bình luận chung số 14 (phiên họp lần thứ 23 năm 1984) trong đó tái khẳng định tầm quan trọng của quyền sống, coi đó là cơ sở cho tất cả các quyền con người, đồng thời nhắc lại yêu cầu phải thực hiện Điều 6 của ICCPR trong mọi hoàn cảnh. Bản Khuyến nghị nhấn mạnh rằng chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hạt nhân, là nguy cơ lớn nhất đe dọa quyền sống và yêu cầu các quốc gia hạn chế và chấm dứt các cuộc chạy đua vũ trang, đặc biệt là không thiết kế, thử nghiệm, chế tạo, tàng trữ, triển khai và sử dụng các loại vũ khí hạt nhân. Theo HRC, việc thiết kế, thử nghiệm, chế tạo, tàng trữ, triển khai và sử dụng các loại vũ khí hạt nhân cần phải coi là phạm tội ác chống nhân loại.

2. Một số quy định cơ bản về quyền sống theo pháp luật Việt NamNgay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, trong

Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - ngày 2/9/1945 - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:

"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"12. Có thể thấy rằng, tư tưởng xuyên suốt của Tuyên ngôn độc lập là tư tưởng về con người, quyền con người và được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền dân tộc chính đáng.

Quyền được sống là quyền tất yếu, vốn có của quyền con người; là một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất và được quy định trong nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam dưới những góc độ khác nhau, trước hết được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 - đạo luật gốc và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật quan trọng.

2.1. Các quy định của pháp luật liên quan đến quyền sống dưới góc độ là quyền được bảo vệ toàn vẹn về tính mạng

2.1.1. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về tính mạng

- Điều 71 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)13 quy định công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng..., đồng thời, không chỉ riêng công dân Việt Nam mà cả người nước ngoài 12 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia.13 Sau đây gọi là Hiến pháp.

303 304

Page 27: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

cư trú ở Việt Nam cũng được Nhà nước Việt Nam bảo hộ tính mạng (Điều 81).

- Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 200514 cũng nêu rõ cá nhân có quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng và được bảo vệ theo phương thức của luật dân sự. Tại khoản 2 của Điều này quy định trách nhiệm của những cá nhân, cơ sở y tế trong việc phải kịp thời bằng mọi cách cứu chữa những người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng (tức mạng sống) bị đe dọa.

2.1.2. Quy định về các tội xâm phạm tính mạng của người khác

- Hành vi xâm phạm đến quyền sống của con người được coi là một trong những hành vi phạm tội nghiêm trọng nhất và bị pháp luật nghiêm trị. Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc đã được Hiến pháp ghi nhận, đó là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng của công dân, Chương XII Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) 15

quy định 10 tội danh liên quan đến hành vi trực tiếp hay gián tiếp, vô tình hay cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác một cách bất hợp pháp, đó là: Tội giết người (Điều 93); Tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95); Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96); Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97); 14 Sau đây gọi là Bộ luật Dân sự.15 Sau đây gọi là Bộ luật Hình sự.

Tội vô ý làm chết người (Điều 98); Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99); Tội bức tử (Điều 100); Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát (Điều 101); Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102). Do đối tượng tác động của tội phạm là xâm phạm quyền sống của con người nên chính sách hình sự và đường lối xử lý của Nhà nước đối với các tội xâm phạm tính mạng của con người là rất nghiêm khắc. Trong 10 tội nêu trên có 01 tội đặc biệt nghiêm trọng có mức hình phạt cao nhất là tử hình (Điều 93), có 01 tội rất nghiêm trọng có mức hình phạt cao nhất là đến 15 năm tù (Điều 97). Ngoài các tội nêu trên, Bộ luật Hình sự còn quy định một số tội có liên quan đến việc xâm phạm mạng sống của con người tại các Điều: 83, 84 (Chương XI - Các tội xâm phạm an ninh quốc gia); Điều 336 (Chương XXIII - Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân) và các Điều 342, 343 (Chương XXIV - Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh).

- Bên cạnh việc bảo vệ tính mạng của con người khỏi sự xâm hại của tội phạm, Nhà nước Việt Nam cũng quan tâm đến việc bảo hộ tính mạng cho những người tham gia tố tụng hình sự, nhất là bị can, bị cáo. Theo Điều 7 của Bộ luật Tố tụng

303 304

Page 28: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

hình sự năm 200316 thì công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng. Mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng của công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Người tham gia tố tụng được pháp luật bảo vệ trong suốt quá trình tham gia tố tụng. Trường hợp người tham gia tố tụng bị đe dọa đến tính mạng thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ họ theo quy định của pháp luật.

2.1.3. Quy định hạn chế sử dụng và giới hạn áp dụng hình phạt tử hình

Giống như một số quốc gia khác trên thế giới, pháp luật Việt Nam hiện vẫn còn duy trì hình phạt tử hình, xuất phát từ yêu cầu khách quan về phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam đã và đang chủ trương thu hẹp dần phạm vi áp dụng hình phạt tử hình và tiến tới xóa bỏ hình phạt này khi điều kiện cho phép. Điều này thể hiện rõ ở chỗ, số điều luật có khung hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự đã được giảm đi đáng kể17. Bên cạnh đó, pháp luật hình sự Việt Nam

16 Sau đây gọi là Bộ luật Tố tụng hình sự.17 Từ 44 điều có khung hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự năm 1985 xuống còn 29 điều trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và hiện nay còn 25 điều (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa XII thông qua năm 2009 đã bỏ hình phạt tử hình trong 4 tội danh, bao gồm: Tội hiếp dâm; Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả; Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy; Tội hủy hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).

đã quy định chặt chẽ về những giới hạn và bảo đảm về thủ tục tố tụng khi áp dụng hình phạt tử hình, cụ thể:

- Về giới hạn, Điều 35 Bộ luật Hình sự quy định: “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân”.

- Về những bảo đảm tố tụng, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cụ thể, chặt chẽ về các thủ tục điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với những người phạm tội có khung hình phạt tử hình. Theo quy định tại Điều 170 của Bộ luật, chỉ Tòa án nhân dân cấp tỉnh trở lên mới có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án có mức án tử hình và trong các vụ án này Hội đồng xét xử phải gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm nhân dân. Ngoài ra, theo Điều 57 của Bộ luật, trong trường hợp bị can, bị cáo bị khởi tố về tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình thì cơ quan tố tụng phải mời luật sư bào chữa cho họ nếu như họ và gia đình không mời luật sư bào chữa. Theo Điều 258 của Bộ luật, sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án

303 304

Page 29: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

phải được gửi ngay lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản án phải được gửi ngay lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để trong vòng 02 tháng, các cơ quan này phải quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Cũng theo Điều này, trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước và bản án chỉ được thi hành nếu không có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng như khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm của bị cáo.

2.2. Quy định pháp luật trong việc bảo đảm các điều kiện tồn tại của con người

Về khía cạnh thứ hai của quyền sống (quyền được sống cuộc sống bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triển thể chất, nói cách khác là được bảo đảm các điều kiện tồn tại của con người), pháp luật Việt Nam đã xác lập các chế định về vấn đề này khá toàn diện và ngày càng được hoàn thiện. Các đạo luật như Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Người cao tuổi; Luật Người khuyết tật; Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân; Luật Bảo hiểm xã hội; Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng chống bạo lực gia đình... là những điển hình về nỗ lực của Việt Nam trong lĩnh vực này.

Không chỉ dừng lại ở các quy định pháp luật, bằng những hoạt động cụ thể, Việt Nam được quốc tế ghi nhận là một trong những quốc gia đi đầu về xóa đói giảm nghèo. Đây là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam trong việc thúc đẩy các quyền con người nói chung, quyền được sống cuộc sống bình thường của mỗi người nói riêng, phù hợp với hoàn cảnh của đất nước và các Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm đến các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người nhiễm HIV/AIDS. Với mỗi nhóm đối tượng, Nhà nước Việt Nam đều có các cơ chế, chính sách và ưu tiên cụ thể nhằm bảo vệ, hỗ trợ, tạo cơ hội cho từng nhóm phát triển và hòa nhập với đời sống xã hội.

II. QUYỀN ĐƯỢC BẢO ĐẢM AN NINH CÁ NHÂN 1. Một số quy định cơ bản về quyền được bảo đảm an

ninh cá nhân theo pháp luật quốc tế

Quyền được bảo đảm an ninh cá nhân là quyền con người được đề cập trong nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người và pháp luật quốc gia. Quyền được bảo đảm an ninh cá nhân được xem xét ở một số bình diện sau:

1.1. Quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe; được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy

303 304

Page 30: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

tínBên cạnh quyền sống, quyền tự do thì quyền được sống

an toàn cũng là một quyền hết sức quan trọng của con người. Điều 1 của UDHR tuyên bố: "Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền”. Tiếp đó, Điều 5 khẳng định không ai bị tra tấn hay bị đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.

Tinh thần này tiếp tục được khẳng định tại Điều 7 của ICCPR. Theo đó, không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó.

Bên cạnh những nội dung đã được nêu cụ thể, một số khía cạnh khác liên quan đến nội dung Điều 7 của ICCPR đã được Hội đồng quyền con người Liên hợp quốc phân tích, làm rõ, trong đó ghi nhận mục đích của Điều 7 ICCPR là để bảo vệ cả phẩm giá và sự bất khả xâm phạm về thể chất và tinh thần của các cá nhân (đoạn 1 Bình luận chung số 20).

1.2. Quyền được bảo vệ đời tư

Mỗi cá nhân đều có một đời sống riêng tư và sự riêng tư này phải được tôn trọng, được pháp luật bảo vệ khỏi sự xâm hại. Điều 12 của UDHR năm 1948 lần đầu tiên ghi nhận: “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tùy tiện

vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy”. Quyền này đã được tái khẳng định tại Điều 17 của ICCPR, theo đó, không ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự, uy tín. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy.

Ngoài ra, xem xét một số khía cạnh của nội dung quy định tại Điều 17 của ICCPR, Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc tại Bình luận chung số 16 đã làm rõ thêm một số nội dung, có thể tóm tắt những điểm quan trọng như sau:

Thứ nhất, Điều 17 nhằm ngăn chặn những hành vi xâm phạm tùy tiện và bất hợp pháp vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, danh dự, uy tín của mỗi cá nhân mà sự xâm hại có thể do các quan chức nhà nước hay do các thể nhân và pháp nhân khác gây ra (đoạn 1). Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải ngăn chặn những hành động xâm phạm tùy tiện và bất hợp pháp như vậy (đoạn 9).

Thứ hai, thuật ngữ “can thiệp bất hợp pháp” dùng tại Điều 17 được hiểu là bất kỳ sự can thiệp nào vào đời tư, gia đình, nhà ở, thư tín, danh dự, uy tín của con người mà không được pháp luật cho phép (đoạn 3).

303 304

Page 31: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Thứ ba, thuật ngữ “can thiệp tùy tiện” tại Điều 17 bao gồm can thiệp bất hợp pháp và những can thiệp được quy định trong pháp luật nhưng không phù hợp với ICCPR (đoạn 4).

Thứ tư, vì sự an toàn của tất cả mọi người trong xã hội, quyền về sự riêng tư không phải là quyền tuyệt đối. Tuy nhiên, các quốc gia chỉ nên thu thập thông tin về đời tư nếu như những thông tin đó là thiết yếu để bảo đảm lợi ích chung của xã hội như đã được thừa nhận tại ICCPR. Các quốc gia cần chỉ ra trong báo cáo thực hiện Công ước những quy định của luật pháp trong nước liên quan đến những trường hợp và những biện pháp can thiệp vào đời tư trong những hoàn cảnh cụ thể được áp dụng (đoạn 7). Theo quy định tại Điều 17, tính toàn vẹn và bảo mật của thư tín phải được bảo đảm cả về mặt pháp lý và thực tế. Thư từ phải được giao tận tay người nhận mà không bị chặn lại, mở ra xem trước. Việc theo dõi, bất kể bằng biện pháp điện tử hay biện pháp khác (ví dụ: nghe trộm điện thoại, điện tín...) đều bị nghiêm cấm. Việc lục soát nhà cửa chỉ được sử dụng để tìm chứng cứ cần thiết và không gây phiền hà cho chủ nhà. Việc khám xét thân thể phải theo cách thức phù hợp để đảm bảo nhân phẩm của người bị khám xét (đoạn 8). Việc thu thập và lưu giữ các thông tin cá nhân trong máy tính, ngân hàng dữ liệu và các thiết bị khác, cho dù là bởi quan chức nhà nước hay các thể nhân, pháp nhân khác, đều phải được pháp luật quy định. Nhà nước phải có những biện pháp để bảo đảm rằng những thông tin

cá nhân đó không rơi vào tay những người không được pháp luật cho phép và không được sử dụng trái với Công ước. Để bảo vệ đời tư một cách hiệu quả, mỗi cá nhân cần có quyền được biết liệu thông tin cá nhân của mình có thể bị thu thập, lưu giữ bởi những ai, ở đâu và nhằm mục đích gì? Hơn nữa, mỗi cá nhân cũng có quyền yêu cầu sửa chữa hoặc xóa bỏ thông tin của mình nếu không chính xác hoặc bị thu thập hay lưu trữ một cách trái phép (đoạn 10).

Thứ năm, Điều 17 cũng đặt ra nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để bảo vệ danh dự và uy tín của các cá nhân, bao gồm những quy định cho phép mọi người được tự bảo vệ trước những can thiệp hoặc xâm hại bất hợp pháp hay tùy tiện vào danh dự, uy tín của mình (đoạn 11).

1.3. Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện

Quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện, trái pháp luật là một trong những quyền cơ bản, cốt lõi của tự do và an toàn cá nhân. Để đảm bảo quyền này, các quốc gia thành viên, một mặt phải thực hiện nghĩa vụ bảo vệ, ngăn chặn sự vi phạm quyền tự do thân thể, mặt khác, phải đảm bảo rằng, trong những trường hợp vì mục đích duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nước, cộng đồng, quyền và lợi ích của cá nhân, việc bắt, giam, giữ một người phải được tiến hành theo quy tắc nhất định, trong những trường hợp nhất định, do

303 304

Page 32: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

những người có thẩm quyền quyết định và tuân thủ trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Quyền này trước hết được quy định tại Điều 9 của UDHR, trong đó nêu rằng, không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tuỳ tiện.

Điều 9 ICCPR cụ thể hóa Điều 9 UDHR bằng những quy định khá chi tiết, theo đó:

(1) Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định.

(2) Bất cứ người nào bị bắt giữ đều phải được thông báo vào lúc bị bắt về những lý do họ bị bắt và phải được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ.

(3) Bất cứ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra toà án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả tự do. Việc tạm giam một người trong thời gian chờ xét xử không được đưa thành nguyên tắc chung, nhưng việc trả tự do cho họ có thể kèm theo những điều kiện để bảo đảm họ sẽ có mặt tại toà án để xét xử vào bất cứ khi nào và để thi hành án nếu bị kết tội.

(4) Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước

tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước toà án, nhằm mục đích để toà án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp.

(5) Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp đều có quyền được yêu cầu bồi thường.

Ngoài những nội dung đã được nêu cụ thể như trên, trong Bình luận chung số 8 thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982, Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc đã giải thích thêm một số khía cạnh có liên quan đến Điều 9 ICCPR, có thể tóm tắt những điểm quan trọng như sau:

Thứ nhất, về phạm vi áp dụng, quyền này được áp dụng cho tất cả những người bị tước tự do, kể cả các trường hợp do phạm tội hay do bị tâm thần, lang thang, nghiện ma tuý hay để nhằm các mục đích giáo dục, kiểm soát nhập cư... (đoạn 1).

Thứ hai, thời hạn tạm giữ, tạm giam phụ thuộc vào pháp luật của các quốc gia thành viên, tuy nhiên, theo Ủy ban, thời hạn tạm giữ không nên vượt quá vài ngày, còn thời hạn tạm giam cần phù hợp với hai quy tắc: (i) bị can, bị cáo phải được xét xử trong thời gian hợp lý hoặc được trả tự do, và (ii) việc tạm giam chỉ được coi là ngoại lệ và với thời gian càng ngắn càng tốt (đoạn 2).

303 304

Page 33: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Thứ ba, trong trường hợp sử dụng tạm giữ, tạm giam như là một biện pháp ngăn chặn, việc này không được tiến hành một cách tùy tiện mà phải dựa trên các trình tự, thủ tục được luật pháp quy định, đồng thời, phải bảo đảm quyền được thông tin của bị can, quyền được toà án quyết định tính hợp pháp của việc giam giữ, quyền được yêu cầu bồi thường của bị can, bị cáo trong trường hợp oan sai. Ngoài ra, trong trường hợp sau đó có lời buộc tội được đưa ra, còn phải tuân thủ những bảo đảm tố tụng nêu trong Điều 14 ICCPR (đoạn 3).

1.4. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục

Quyền này được đề cập trước hết trong Điều 5 UDHR, trong đó nêu rằng, không ai bị tra tấn hay bị đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.

 Điều 7 ICCPR cụ thể hóa Điều 5 UDHR, trong đó nêu rõ, không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó.

Bên cạnh các quy định trên, vấn đề chống tra tấn còn được đề cập trong một số điều ước quốc tế khác về quyền con người, đặc biệt là Công ước về chống tra tấn và các hình thức

đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT, 1984). Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là, chống tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục được coi là một quy phạm tập quán quốc tế về quyền con người, bởi vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới đều có nghĩa vụ phải tuân thủ, bất kể quốc gia đó có là thành viên của ICCPR, CAT hay bất cứ điều ước quốc tế nào khác có liên quan hay không.

Xét về nội dung, mặc dù UDHR và ICCPR đều không đưa ra định nghĩa về hành động tra tấn, song định nghĩa này được nêu ở Điều 1 của CAT. Theo đó, tra tấn được hiểu là: bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc đau khổ nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe doạ hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và đau khổ đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức. Tuy nhiên, Điều này cũng nêu rõ, khái niệm tra tấn không bao gồm những đau đớn hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền với hoặc có liên quan đến các biện pháp trừng phạt hợp pháp.

303 304

Page 34: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Định nghĩa về tra tấn trong Điều 1 CAT hiện được sử dụng như một quy định tham chiếu chung trong luật quốc tế về quyền con người và luật hình sự quốc tế khi đề cập đến vấn đề tra tấn, tuy nó bị phê phán là đã loại trừ những đối tượng và hoàn cảnh mà hành động tra tấn được thực hiện bởi những thủ phạm phi công chức (ví dụ, việc một nhóm phiến quân bắt cóc con tin và tra tấn họ hay việc một người chồng đánh đập vợ mình sẽ không thuộc nội hàm của hành động tra tấn theo định nghĩa này).

Bên cạnh những khía cạnh đã được nêu cụ thể, một số khía cạnh khác liên quan đến nội dung Điều 7 ICCPR đã được Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc phân tích, đầu tiên là trong Bình luận chung số 7 (thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982) và sau đó được sửa đổi, bổ sung trong Bình luật chung số 20 (thông qua tại phiên họp lần thứ 44 năm 1992) với những nội dung tóm tắt như sau:

Thứ nhất, mục đích của Điều 7 ICCPR là để bảo vệ cả phẩm giá và sự bất khả xâm phạm về thể chất và tinh thần của các cá nhân (đoạn 1).

Thứ hai, việc cấm tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục phải được duy trì trong mọi tình huống, kể cả trong hoàn cảnh khẩn cấp của quốc gia như quy định ở Điều 4 ICCPR. Không chấp nhận bất cứ lý do nào, kể cả về tình trạng khẩn cấp của quốc gia và mệnh lệnh

cấp trên đưa ra để biện minh cho các hành động tra tấn, đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục (đoạn 3).

Thứ ba, sự phân biệt giữa các hành động tra tấn và hành động đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục phụ thuộc vào bản chất, mục đích và tính chất nghiêm trọng của hành vi (đoạn 4).

Thứ tư, về dấu hiệu khách quan, hành vi tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nêu trong Điều 7 không chỉ là những hành động gây ra những đau đớn về thể xác, mà còn bao gồm những hành động gây đau khổ về tinh thần với nạn nhân. Những hành động đó không chỉ nhằm mục đích để trừng phạt, mà còn nhằm mục đích để giáo dục, rèn luyện một đối tượng nào đó. Như vậy, Điều 7 còn có tác dụng bảo vệ trẻ em, học sinh và các bệnh nhân trong môi trường giáo dục và y tế (đoạn 5).

Thứ năm, việc kéo dài thời gian biệt giam hoặc tù giam một người, kể cả những người đã bị kết án tử hình, mà không có lý do chính đáng cũng bị coi là hành động tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo (đoạn 6).

Thứ sáu, các quốc gia không được trục xuất hay dẫn độ một người sang nước khác trong trường hợp người đó có khả năng bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo sau khi bị trục xuất hay dẫn độ (đoạn 9), đồng thời phải thực hiện

303 304

Page 35: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

các biện pháp để ngăn chặn và xử lý các hành động bị nghiêm cấm trong Điều 7, bất kể do chủ thể nào gây ra, kể cả đó là các viên chức nhà nước hay dân thường, thực hiện khi thi hành công vụ hay trong những hoàn cảnh khác (đoạn 2)...

Tương tự nhưng chi tiết hơn so với Bình luận chung số 20, CAT cũng bao gồm những quy định về các biện pháp các quốc gia thành viên cần áp dụng để ngăn chặn và trừng trị các hành động tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, đồng thời đề cập đến một số khía cạnh mới như yêu cầu về bảo vệ nhân chứng (Điều 13), yêu cầu bồi thường cho nạn nhân (Điều 14), cấm sử dụng thông tin thu được do tra tấn làm chứng cứ trong tố tụng (Điều 15)...

2. Một số quy định cơ bản về quyền được bảo đảm an ninh cá nhân theo pháp luật Việt Nam 2.1. Quyền được bảo đảm an toàn về sức

khỏe; được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín

- Hiến pháp quy định công dân “có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe” (Điều 61), “được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm...” (Điều 71).

- Cùng với mạng sống, sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người. Sức khỏe có vai trò quan trọng không chỉ đối với

mỗi người, mỗi gia đình nói riêng mà còn đối với toàn xã hội, đất nước nói chung. Mỗi công dân khỏe mạnh, phát triển tốt thì quốc gia mới vững mạnh, do đó, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ sức khỏe nhân dân là nhiệm vụ luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm. Ghi nhận của Hiến pháp được tái khẳng định ở Điều 32 Bộ luật Dân sự, trong đó nêu rằng: cá nhân có quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe, thân thể. Việc thực hiện phương pháp chữa bệnh mới trên cơ thể một người, việc gây mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép bộ phận của cơ thể đều có ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, thân thể của người bệnh, mặc dù trong hầu hết trường hợp, những việc làm này đều nhằm mục đích tốt cho người bệnh nhưng không vì thế mà pháp luật cho phép bỏ qua việc hỏi ý kiến của bản thân người bệnh. Nếu người bệnh là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc là bệnh nhân bất tỉnh thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ của người đó đồng ý. Trong trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà không chờ được ý kiến của những người trên thì phải có quyết định của người đứng đầu cơ sở y tế.

Ngoài việc ghi nhận trong Bộ luật Dân sự về quyền được bảo đảm về sức khỏe của mỗi cá nhân dưới góc độ quyền nhân thân, để bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân dân, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, cũng như xây

303 304

Page 36: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

dựng một hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, chăm lo sức khỏe của nhân dân, trong đó phải kể đến Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 25/02/2005 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới18; Nghị quyết số 18/2008/NQ-QH12 ngày 03/6/2008 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân19; Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989; Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.

- Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là những yếu tố quan trọng mang tính nhân quyền cao. Điều 37 Bộ luật Dân sự quy định: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”.

Danh dự của cá nhân thể hiện sự coi trọng của dư luận xã hội đối với cá nhân đó, dựa trên những giá trị tinh thần, đạo đức tốt đẹp. Nhân phẩm của cá nhân là những phẩm chất và giá trị con người của cá nhân đó. Uy tín cá nhân thể hiện ở sự tín nhiệm và mến phục của cộng đồng hoặc một bộ phận dân

18“Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật và tử vong, nâng cao sức khoẻ, tăng tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực, hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe đồng bộ từ  Trung ương đến cơ sở và thói quen giữ gìn sức khỏe của nhân dân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. 19 “… hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ xây dựng nền y tế hướng đến chăm sóc sức khỏe toàn dân, toàn diện trên cơ sở kết hợp y tế công và y tế tư, trong đó y tế công giữ vai trò nòng cốt”.

cư đối với cá nhân đó. Cả ba yếu tố trên tuy có tính chất độc lập tương đối, nhưng tựu chung đều thể hiện những giá trị tinh thần của cá nhân được đánh giá thông qua các mối quan hệ xã hội. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, xét theo góc độ pháp luật dân sự cũng đồng thời là đối tượng của quyền nhân thân của cá nhân. Vì vậy, mỗi cá nhân đều có quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình đồng thời có nghĩa vụ phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Điểm đặc biệt của quyền nhân thân về danh dự, nhân phẩm, uy tín so với các quyền nhân thân khác ở chỗ quyền này được tôn trọng và bảo vệ một cách tuyệt đối. Đối với danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì dù bất kỳ trường hợp nào pháp luật cũng không cho phép bất kỳ cá nhân, tổ chức nào xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân khác, dù người đó là công dân bình thường hay người đang bị kết án tù. Vì vậy, không ai có thể viện bất cứ lý do nào để bào chữa cho hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác, kể cả việc làm nhục người phạm tội.

- Cũng như những quy định pháp luật trong các lĩnh vực khác, pháp luật hình sự Việt Nam đã thể hiện rõ được tư tưởng bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được ghi nhận trong các điều 1 và 5 của UDHR và Điều 7 của ICCPR.

Bộ luật Hình sự quy định 19 tội danh liên quan đến hành

303 304

Page 37: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

vi trực tiếp hay gián tiếp, vô tình hay cố ý xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác một cách bất hợp pháp. Cụ thể:

+ Có 09 tội danh xâm phạm sức khỏe, bao gồm: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106); Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108); Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109); Tội hành hạ người khác (Điều 110); Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 117); Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118).

+ Có 06 tội xâm phạm tình dục của người khác, đặc biệt là trẻ em, bao gồm: Tội hiếp dâm (Điều 111); Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112); Tội cưỡng dâm (Điều 113); Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114); Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115); Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116).

+ Có 04 tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người, bao gồm: Tội mua bán người (Điều 119); Tội mua bán,

đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120); Tội làm nhục người khác (Điều 121); Tội vu khống (Điều 122).

Cũng như các tội xâm phạm tính mạng, hình phạt đối với các tội xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người cũng rất nghiêm khắc. Trong 19 tội nêu trên, thì có 8 tội đặc biệt nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (01 tội có mức hình phạt cao nhất là tử hình: Điều 112; 05 tội có mức hình phạt cao nhất là tù chung thân: Điều 104, Điều 111, Điều 114, Điều 118, Điều 120; 02 tội có mức hình phạt cao nhất là trên 15 năm tù: Điều 113, Điều 119).

Bộ luật Tố tụng hình sự khẳng định tại Điều 7: công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm. Mọi hành vi xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm đều bị xử lý theo pháp luật. Cũng theo Điều này, người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.

2.2. Quyền được bảo vệ đời tư

Về cơ bản, pháp luật của Việt Nam mà trước hết là Hiến pháp, pháp luật dân sự, hình sự, hành chính tương thích và

303 304

Page 38: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

phù hợp với các Điều ước quốc tế về quyền con người, đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi mà các văn kiện quốc tế này đưa ra nhằm bảo đảm quyền được bảo vệ về đời tư của các cá nhân.

- Quyền được bảo vệ về đời tư của công dân là một quyền Hiến định được quy định tại Điều 73 Hiến pháp, theo đó, mọi công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Chỗ ở của một người là nơi người đó sống đời sống riêng thường ngày, cũng là nơi “ẩn chứa” những bí mật của cá nhân, của gia đình (bí mật đời tư). Vì vậy, mỗi cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, được toàn quyền cho phép hoặc không cho phép người khác vào nơi ở của mình. Quy định của Hiến pháp được tiếp tục khẳng định tại Điều 46 Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân không phải là quyền tuyệt đối. Nhà nước chỉ bảo hộ quyền đó của công dân để chống lại sự xâm phạm bất hợp pháp của những cá nhân, tổ chức khác đối với chỗ ở của công dân; còn khi công dân lợi dụng quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở để che giấu hoặc có những hành động, hành vi vi phạm pháp luật thì quyền này không còn được pháp luật bảo vệ. Nhưng việc khám xét chỗ ở của một người, theo quy định tại Điều 46 Bộ luật Dân sự, thì chỉ được tiến hành trong trường hợp được pháp luật quy định

và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đồng thời việc khám xét phải theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

- Thư tín, điện thoại, điện tín và những phương tiện liên lạc khác của cá nhân là những kênh thông tin rất quan trọng, trong đó chứa nhiều thông tin thuộc bí mật đời tư của cá nhân. Vì vậy, phù hợp với quy định tại Điều 12 của UDHR và Điều 17 của ICCPR, cụ thể hóa nguyên tắc này trong Hiến pháp:“Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật”, khoản 3 Điều 38 Bộ luật Dân sự khẳng định: “Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

- Bí mật đời tư của cá nhân là một trong những đối tượng quyền nhân thân được pháp luật dân sự Việt Nam bảo vệ. Khoản 1 Điều 38 Bộ luật Dân sự quy định: “Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”. Pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa quy định thế nào là bí mật đời tư hoặc liệt kê những vấn đề cụ

303 304

Page 39: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

thể nào được coi là bí mật đời tư. Theo tinh thần của Điều 38 Bộ luật Dân sự có thể khái quát: bí mật đời tư của một cá nhân là các thông tin, tài liệu về những điều thầm kín riêng tư của cá nhân mà người đó không muốn tiết lộ cho người khác biết. Điều luật này cũng quy định: việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý. Ngoài ra, trong một số trường hợp, pháp luật cho phép thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân nhưng với điều kiện là phải có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (ví dụ: việc cơ quan ngiên cứu lịch sử, văn hóa được phép sưu tầm, cho công bố dưới dạng sách, báo, phim tài liệu, báo cáo khoa học... những thông tin, tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của một danh nhân nào đó, trong đó có thể có những tình tiết, sự kiện thuộc về bí mật đời tư của danh nhân đó). Tuy nhiên, khi công bố bí mật đời tư của cá nhân trong trường hợp này luôn luôn phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự, trong đó có quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín.

- Một trong những nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự là nhằm bảo vệ “quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”, vì vậy, các

hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của công dân trong đó có quyền được bảo vệ về đời tư đều bị pháp luật trừng trị. Bộ luật Hình sự quy định hai tội danh liên quan đến nhóm quyền này, đó là: tội xâm phạm chỗ ở của công dân (Điều 124) và tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác (Điều 125). Cụ thể:

+ Tội xâm phạm chỗ ở của công dân quy định người nào khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác, đuổi trái pháp luật người khác khỏi chỗ ở của họ hoặc có những hành vi trái pháp luật khác xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm. Phạm tội trong các trường hợp có tổ chức, lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.

+ Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác quy định người nào chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến năm triệu đồng hoặc phạt cải

303 304

Page 40: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

tạo không giam giữ đến một năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp có tổ chức, lợi dụng chức vụ quyền hạn, phạm tội nhiều lần, tái phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ một năm đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai triệu đồng đến hai mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.

- Một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự là phải đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân. Điều 8 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân như sau: “Không ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân”. Trong hoạt động tố tụng hình sự, để phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền được phép tiến hành một số hoạt động có thể ảnh hưởng đến đời tư của công dân, tuy nhiên, Điều 8 cũng quy định đảm bảo rằng: “Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín, khi tiến hành tố tụng phải theo đúng quy định của Bộ luật này.”

Theo Điều 140 Bộ luật Tố tụng hình sự, việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành khi có căn cứ

để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã. Trong trường hợp người có điện thoại, điện tín, thư tín (bao gồm cả người nhận và người gửi) đang liên quan đến vụ án hình sự, nếu thấy cần thiết phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án để phục vụ điều tra thì cơ quan điều tra có thể khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.

Thẩm quyền ra lệnh khám xét bao gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp (trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành).

Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định rõ trình tự, thủ tục về khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm (Điều 143) cũng như việc thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện (Điều 144, 147, 148, 149). Cụ thể:

+ Khi khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có đại diện chính

303 304

Page 41: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến. Việc tiến hành khám chỗ ở của một người không được thực hiện vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Khi khám chỗ làm việc của một người thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản và phải có đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến.

+ Khi cần thiết phải thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì Cơ quan điều tra ra lệnh thu giữ. Lệnh này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản và sau khi thu giữ phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Người thi hành lệnh phải thông báo cho người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan trước khi tiến hành thu giữ. Khi thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, phải có đại diện của cơ quan bưu điện chứng kiến và ký xác nhận vào biên bản. Cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo cho người có thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, cơ quan ra lệnh thu giữ phải

thông báo ngay. Thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ phải được bảo quản nguyên vẹn. Người được giao bảo quản mà phá hủy niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại tài sản được giao bảo quản thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 310 của Bộ luật Hình sự. Người ra lệnh, người thi hành lệnh khám xét, thu giữ, tạm giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cũng quy định rất chặt chẽ thủ tục khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính (Điều 129). Nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là địa điểm mà tại đó, người vi phạm hành chính cất giấu hiện vật, tiền, hàng hóa, phương tiện vi phạm. Địa điểm này có thể là nơi ở của cá nhân hoặc hộ gia đình; cũng có thể là nhà kho, nơi khác không dùng để ở, vườn, ruộng thuộc quyền quản lý, sở hữu của cá nhân, hộ gia đình. Theo Điều luật, việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và chỉ những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật Xử lý vi phạm hành chính mới có quyền quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Trong trường hợp nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là chỗ ở thì để bảo đảm sự chặt chẽ, tránh việc lạm

303 304

Page 42: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

dụng biện pháp này làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, luật quy định việc khám xét đó phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định. Khi khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có mặt người chủ nơi bị khám hoặc người thành niên trong gia đình họ và người chứng kiến. Trong trường hợp người chủ nơi bị khám, người thành niên trong gia đình họ vắng mặt mà việc khám không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và 02 người chứng kiến. Quy định này nhằm bảo đảm việc khám và thu giữ tang vật, phương tiện vi phạm (nếu có) được tiến hành khách quan. Về nguyên tắc, việc khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính không được tiến hành vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc việc khám đang được thực hiện mà chưa kết thúc nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có quyết định bằng văn bản và phải lập biên bản và phải được giao cho người chủ nơi bị khám 01 bản.

2.3. Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện

Về cơ bản, pháp luật của Việt Nam phù hợp với các chuẩn mực quốc tế liên quan đến quyền tự do về thân thể, được đảm bảo không bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ, không bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định và yêu

cầu đảm bảo rằng bất kỳ người bị bắt giữ đều được thông báo vào lúc bị bắt và phải được thông báo không chậm trễ về sự buộc tội đối với họ.

2.3.1. Quy định về việc bắt, tạm giữ, tạm giam

- Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, ngoài việc quy định công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, Điều 71 Hiến pháp còn khẳng định: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”. Tiếp nối, tại Điều 72 nêu rõ: “Không ai bị coi là có tội và chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.

- Các quy định trên của Hiến pháp được tái khẳng định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, thông qua việc ghi nhận rất rõ các nguyên tắc cơ bản để bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nói chung và quyền của cá nhân không bị bắt, giam giữ tùy tiện nói riêng. Điều 4 khẳng định nguyên tắc cơ bản và cốt lõi trong hoạt động tố tụng hình sự là phải đảm bảo “Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân”. Điều 6 nhấn mạnh nguyên tắc đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.

303 304

Page 43: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Việc bắt và giam giữ người phải tuân thủ theo quy định của Bộ luật này”. Đối với các cá nhân có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự, trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa (Điều 4).

- Bắt, tạm giữ, tạm giam người là các biện pháp ngăn chặn được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Việc bắt người, tạm giữ, tạm giam người được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người phạm tội quả tang, trong trường hợp khẩn cấp hay đang bị truy nã nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Với yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, việc bắt, giam giữ cần phải được tiến hành kiên quyết, kịp thời. Tuy nhiên, không thể vì bất cứ lý do gì mà áp dụng các biện pháp ngăn chặn tràn lan, sai tính chất, sai đối tượng, không đảm bảo các yêu cầu của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Chính vì vậy, để tránh việc xâm phạm quyền tự do thân thể và không bị bắt, giam, giữ trái pháp luật, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cụ thể thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam người như sau:

+ Bắt người

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80) là biện pháp thường được áp dụng trong đấu tranh chống tội phạm. Mục đích là để ngăn chặn hành vi phạm tội và việc lẩn trốn pháp luật của bị can, bị cáo. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Như vậy, đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Người chưa bị khởi tố với tư cách là bị can, hoặc người không bị Toà án đưa ra xét xử không thể bị bắt để tạm giam. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam không phải là biện pháp duy nhất để ngăn chặn, vì vậy không phải mọi bị can, bị cáo đều bị bắt để tạm giam. Khi bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội và thái độ của họ khi và sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Chỉ được bắt người để tạm giam khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội và nếu xét thấy cần phải bắt để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, xử lý tội phạm. Khi có những điều kiện, dấu hiệu cho thấy người phạm tội không có ý trốn tránh pháp luật, không gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố,

303 304

Page 44: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

xét xử, thi hành án thì không nên bắt (thậm chí không được bắt) mà có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân vì vậy chỉ những người có thẩm quyền mới có quyền ra lệnh bắt. Đó là: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp (Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Lệnh bắt nếu thiếu sự phê chuẩn của Viện kiểm sát sẽ bị coi là không có giá trị và công dân có quyền không chấp hành. Bộ luật quy định sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp nhằm bảo đảm cho việc bắt người đúng pháp luật và chỉ bắt những người thực sự cần phải bắt để ngăn chặn tội phạm hoặc để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử, và thi hành án hình sự). Để bảo đảm quyền con người, quyền công dân, khi thực hiện bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải đảm bảo: Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ, tên; chức vụ của người ra lệnh; họ, tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt phải thật rõ ràng, có cơ sở pháp lý. Lệnh bắt do người có thẩm quyền ký và đóng dấu (không phải cứ cơ quan công an là có quyền ra lệnh bắt, mà chỉ cơ quan hoặc người có thẩm quyền mới có

quyền ra lệnh) nhằm tránh sự tùy tiện, giả mạo... Khi thực hiện lệnh bắt, người thi hành phải tôn trọng triệt để các quy định của pháp luật: phải đọc lệnh bắt, giải thích cho người bị bắt rõ lý do bắt, các quyền và nghĩa vụ của họ và phải lập biên bản. Biên bản phải có chữ ký của người có thẩm quyền và người chứng kiến cùng ký vào biên bản khi thi hành lệnh bắt. Khi bắt người tại nơi người đó cư trú phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền cơ sở nơi tiến hành bắt và người láng giềng của người bị bắt. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Nếu bắt người tại nơi khác thì phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người. Cần lưu ý không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.

Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81) là nhằm ngăn chặn kịp thời người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc ngăn chặn người đã thực hiện tội phạm, người bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ và chỉ được thực hiện trong những trường hợp có căn cứ rõ ràng. Để bảo đảm tính khẩn cấp, kịp thời trong đấu tranh chống tội phạm thì việc bắt người trong những trường hợp này không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát trước khi thi hành nhưng phải được báo ngay cho

303 304

Page 45: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn sau đó. Tuy nhiên, để bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ, đồng thời nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.

Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 82), Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt cũng như người đang bị truy nã đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt (Điều 83).

Thông báo về việc bắt: người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay (Điều 85).

Bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án (Điều 228), theo đó, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời hạn tạm giam bị cáo trong trường hợp này là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

303 304

Page 46: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Đối với bị cáo bị phạt tử hình thì Hội đồng xét xử quyết định trong bản án việc tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

+ Tạm giữ (Điều 86, 87) là một trong những biện pháp ngăn chặn để các cơ quan có thẩm quyền áp dụng trong các trường hợp cần thiết, nhằm buộc những người bị tạm giữ cách li khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Chính vì vậy, tạm giữ là biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, ngăn chặn hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra thu thập chứng cứ, tài liệu, bước đầu xác định hành vi, tính chất của hành vi phạm tội. Dù thời hạn tạm giữ không dài như tạm giam nhưng người bị tạm giữ bị cách li khỏi xã hội một thời gian theo luật định, bị hạn chế tự do đi lại… Vì vậy, tất cả các vấn đề như về đối tượng, căn cứ, điều kiện áp dụng, trình tự, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền ra lệnh cũng như chế độ đối với tạm giữ được pháp luật tố tụng hình sự quy định khá chặt chẽ. Theo đó, đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Trong trường hợp người phạm tội là đại biểu Quốc hội, nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để

Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và quyết định (Điều 58 Luật Tổ chức Quốc hội). Người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ theo luật định nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng; người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (Điều 303 Bộ luật Tố tụng hình sự).

Người có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp; người chỉ huy quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng; chỉ huy trưởng vùng cảng sát biển. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng

303 304

Page 47: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.

+ Tạm giam (Điều 88) là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự, được áp dụng đối với bị can, bị cáo. Biện pháp này đụng chạm trực tiếp đến quyền lợi chính trị, quyền tự do của con người. Vì vậy, việc áp dụng biện pháp tạm giam phải có mục đích và căn cứ chứ không thể tùy tiện. Bộ luật Tố tụng hình sự nêu ra hai trường hợp bị can, bị cáo có thể bị tạm giam, đó là: (i) bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng; (ii) bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.

Xuất phát từ tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ

nghĩa, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định không áp dụng biện pháp tạm giam (có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác) đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng. Những trường hợp trên chỉ bị áp dụng biện pháp tạm giam khi (i) bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; (ii) được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; (iii) bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì tạm giam được áp dụng trong các giai đoạn: điều tra; truy tố; xét xử. Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo được quy định theo

303 304

Page 48: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

những căn cứ khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng để bảo đảm cho cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

- Tương tự như tố tụng hình sự, trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính, khi cần phải ngăn chặn ngay vi phạm hành chính, hạn chế hậu quả do vi phạm hành chính gây ra hoặc để thu thập chứng cứ, xác minh những tình tiết quan trọng làm căn cứ quyết định xử lý cũng như để bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định 9 biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính (Điều 119), trong đó có biện pháp tạm giữ người. Mặc dù có tên gọi giống với biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, nhưng căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp này hoàn toàn khác với quy định trong tố tụng hình sự, đó là được áp dụng theo thủ tục hành chính.

Theo Điều 122 Luật Xử lý vi phạm hành chính, tạm giữ người theo thủ tục hành chính chỉ được áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác. Chỉ những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật Xử lý vi phạm hành chính mới được quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính. Do đây là biện pháp ngăn chặn liên

quan trực tiếp đến quyền của công dân nên người có thẩm quyền phải cân nhắc kỹ, xem xét mọi khía cạnh cũng như căn cứ đã được pháp luật quy định khi quyết định tạm giữ người và chỉ trong trường hợp thực sự cần thiết mới áp dụng và phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp luật khi áp dụng biện pháp này. Người có thẩm quyền phải ra quyết định bằng văn bản về việc tạm giữ người và phải giao cho người bị tạm giữ một bản. Thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính không được quá 12 giờ; trong trường hợp cần thiết, thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 24 giờ, kể từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm. Đối với người vi phạm quy chế biên giới hoặc vi phạm hành chính ở vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hải đảo thì thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm. Đối với người bị tạm giữ trên tàu bay, tàu biển thì phải chuyển ngay cho cơ quan có thẩm quyền khi tàu bay đến sân bay, tàu biển cập cảng.

Điều 122 cũng quy định, theo yêu cầu của người bị tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải thông báo cho gia đình, tổ chức nơi làm việc hoặc học tập của họ biết. Riêng đối với tạm giữ người chưa thành niên vi phạm hành chính thì trong mọi trường hợp, người ra quyết định tạm giữ phải thông báo ngay cho cha mẹ hoặc người giám hộ của họ biết nếu việc tạm giữ được thự hiện vào ban đêm hoặc giữ trên 06 giờ. Điều luật

303 304

Page 49: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

cũng nghiêm cấm việc giữ người vi phạm hành chính trong các phòng tạm giữ, phòng tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ.

2.3.2. Quyền được thông báo lời buộc tội không chậm trễ, được sử dụng và hỗ trợ sử dụng ngôn ngữ thích hợp trong tố tụng

Về quyền được thông báo lời buộc tội không chậm trễ, khoản 2 Điều 49 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì, được giải thích về quyền và nghĩa vụ của mình; được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về quyền được sử dụng và hỗ trợ sử dụng ngôn ngữ thích hợp trong tố tụng, Điều 133 Hiến pháp quy định: “Tòa án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án”. Điều 24 Bộ luật Tố tụng hình sự cụ thể hóa quy định này, nêu rõ: tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp phiên dịch miễn phí. Tinh thần

này cũng được thể hiện tương tự trong các thủ tục tố tụng dân sự (Điều 20 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004), tố tụng hành chính (Điều 22 Luật Tố tụng hành chính năm 2010).

2.3.3. Quyền được bào chữa ngay khi bị bắt hoặc bị giam giữ

Điều 132 Hiến pháp khẳng định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”.

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự nêu rõ: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Để bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần chống oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can; đối với trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra (khoản 1 Điều 58). Đối với những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa

303 304

Page 50: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

tham gia (bị can, bị cáo phạm tội mà khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật Hình sự; bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần), Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định cụ thể thủ tục chỉ định người bào chữa, theo đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Tuy nhiên, kể cả trong các trường hợp này, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa (khoản 2 Điều 57).

Để người bào chữa có thể nhanh chóng thực hiện việc bào chữa nhằm bảo đảm quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định cụ thể thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa. Theo đó, trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa; nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do. Đối với trường hợp tạm giữ người thì thời hạn xem xét, cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa là 24 giờ (khoản 4 Điều 56). Bên cạnh đó, người bào chữa được có mặt khi lấy lời khai

của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; được xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; được đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can...

2.3.4. Quyền được xét xử trong thời gian hợp lý và không bị trì hoãn

Bộ luật Tố tụng hình sự có những quy định cụ thể về thời hạn đưa một vụ án ra xét xử căn cứ vào tính chất của từng loại vụ việc. Theo Điều 176, thời hạn chuẩn bị xét xử là 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Cũng theo quy định tại Điều 176, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn 30 ngày. Đối với vụ án được

303 304

Page 51: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

2.3.5. Quyền được bồi thường khi bị bắt, bị giam giữ trái pháp luật

- Điều 72 Hiến pháp quy định rõ: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Quy định của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của công dân từ phía các cơ quan, cán bộ nhà nước.

- Cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp, thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc phải kiên quyết khắc phục các trường hợp oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự và bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại của người bị thiệt hại do các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra, Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định hai nguyên tắc, đó là:

+ Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (Điều 29). Theo đó, người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng

hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

+ Bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây ra (Điều 30). Theo đó, người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự phải bồi thường cho người bị thiệt hại; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Tiếp tục ghi nhận nguyên tắc Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với mọi thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra cho tổ chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Đối với hoạt động tố tụng hình sự, Điều 26 của Luật quy định, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp sau:

+ Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết

303 304

Page 52: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;

+ Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;

+ Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;

+ Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;

+ Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng

một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành;

+ Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Toà án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;

+ Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại được bồi thường nếu thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp: (i) người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; (ii) người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã

303 304

Page 53: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; (iii) người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội.

Cơ quan có trách nhiệm bồi thường đối với việc tạm giữ, tạm giam người trái pháp luật được Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước xác định như sau: cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp đã ra quyết định tạm giữ người nhưng Viện kiểm sát có thẩm quyền đã có quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ đó vì người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật (khoản 1 Điều 30); Viện kiểm sát có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp: đã phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ của cơ quan điều tra có thẩm quyền nhưng người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật; đã phê chuẩn lệnh tạm giam của cơ quan điều tra có thẩm quyền hoặc ra lệnh tạm giam, gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội (khoản 1, 2 Điều 31).

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định rõ:

người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; người bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội có quyền yêu cầu khôi phục danh dự trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã thụ lý vụ việc phải thực hiện việc xin lỗi, cải chính công khai bằng các hình thức: (i) trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại có sự tham dự của đại diện chính quyền địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú, đại diện của cơ quan nơi người bị thiệt hại làm việc, đại diện của một tổ chức chính trị - xã hội mà người bị thiệt hại là thành viên; (ii) đăng trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp theo yêu cầu của người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ. Trường hợp người bị thiệt hại chết, thân nhân của họ có quyền yêu cầu khôi phục danh dự (Điều 51).

- Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án do các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, tòa án và thi hành án (gọi chung là cơ quan tư pháp) thực hiện trong khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ các quyền lợi của Nhà nước, của các tổ chức và công

303 304

Page 54: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

dân. Có thể nói, quyền con người trong tố tụng hình sự là quyền dễ bị xâm phạm, bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Bởi lẽ, tố tụng hình sự với tư cách là quá trình nhà nước đưa một người ra xử lý trước pháp luật khi họ bị coi là tội phạm luôn thể hiện tính quyền lực nhà nước với sức mạnh cưỡng chế nhà nước, với sự thiếu quân bình về thế và lực của các bên tham gia quan hệ tố tụng hình sự mà sự yếu thế luôn thuộc về những người bị buộc tội. Chính vì hoạt động của các cơ quan tư pháp trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất lớn trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do cơ bản của công dân nên Nhà nước đã quy định nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp hình sự để bảo đảm cho hoạt động đúng đắn của các cơ quan này. Bộ luật Hình sự có một loạt các điều khoản quy định về các tội liên quan đến việc xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân với các chế tài xử lý rất nghiêm khắc, đó là: Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123); Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội (Điều 293), Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295), Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296), Tội lợi dụng, chức vụ quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật (Điều 303). Trong các tội này, có 3 tội mà người phạm tội có thể bị xử lý với khung hình phạt cao nhất là 10 năm tù giam (Điều 123, 296, 303); có 2 tội mà mức hình phạt lên đến 15

năm tù giam (Điều 293, 295). Ngoài ra, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

2.4. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục

Về quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục - các quy định trong Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự chính là nền tảng pháp lý để ngăn chặn và trừng trị những hành vi tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục.

- Điều 71 Hiến pháp quy định: “Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”. Nội dung này được tái khẳng định tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình”. Trong Chương XXII Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, các Tội dùng nhục hình20 và Tội bức cung21 có ý nghĩa trực tiếp trong việc bảo

20 “Điều 298. Tội dùng nhục hình 1. Người nào dùng nhục hình trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”.21 “Điều 299. Tội bức cung

303 304

Page 55: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

đảm quyền không bị tra tấn và nhục hình trong hoạt động tố tụng. Các điều luật đã quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc đối với các hành vi dùng nhục hình và bức cung của những người tiến hành tố tụng. Mức hình phạt cao nhất đối với hành vi dùng nhục hình là 12 năm, đối với hành vi bức cung là 10 năm. Tại một số điều luật khác trong Bộ luật Hình sự cũng có quy định nghiêm cấm các hành vi dùng nhục hình như: Điều 319 - Tội làm nhục, hành hung người chỉ huy hoặc cấp trên, Điều 320 - Tội làm nhục hoặc dùng nhục hình đối với cấp dưới, Điều 340 - Tội ngược đãi tù binh, hàng binh.

- Nhà nước Việt Nam chủ trương bảo vệ quyền con người, song nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo môi trường lành mạnh cho toàn xã hội, vì lợi ích của mỗi người dân. Vì vậy, Bộ luật Hình sự quy định hệ thống hình phạt đối với người phạm tội bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung22. Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm

1. Người nào tiến hành điều tra, truy tố, xét xử mà bằng các thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”.22 Hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Hình phạt bổ sung bao gồm: cấm

trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Mục tiêu quan trọng của án phạt tù cũng không nằm ngoài mục đích chung của hình phạt nêu trên, đó là nhằm giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích và sớm tái hoà nhập với xã hội. Quyền được đối xử nhân đạo, được tôn trọng nhân phẩm đã được thể hiện ở chính mục đích của hình phạt tù và thông qua chế độ chấp hành án. Người chấp hành án phạt tù tại các trại giam được pháp luật bảo vệ các quyền cơ bản, như quyền tự do thân thể, quyền sống, vui chơi, giải trí, không bị tra tấn... Những quyền này được quy định cụ thể tại Luật Thi hành án hình sự năm 2010.

Một trong các nguyên tắc thi hành án hình sự được đề ra trong Luật là “tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án” (Khoản 3 Điều 4). Bên cạnh đó, cần “kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ văn hoá và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hành án” (Khoản 4 Điều 4). Luật Thi hành án hình sự cũng nghiêm cấm

đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính); trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính) - Điều 28 Bộ luật Hình sự.

303 304

Page 56: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

“xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án” (Khoản 9 Điều 9).

Về giam giữ phạm nhân, Điều 27 quy định trại giam tổ chức giam giữ phạm nhân như sau: khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án tù trên 15 năm, tù chung thân, phạm nhân thuộc loại tái phạm nguy hiểm; khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án tù từ 15 năm trở xuống; phạm nhân có mức án tù trên 15 năm nhưng có kết quả chấp hành án tốt, đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù còn dưới 15 năm. Trong các khu giam giữ nêu trên, những phạm nhân là nữ, là người chưa thành niên, là người nước ngoài, là người có bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm, là người có dấu hiệu bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời gian chờ quyết định của Tòa án, là người thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế trại giam được bố trí giam giữ riêng.

Về chế độ học tập, học nghề, lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân (các Điều 28, 29 và 30): căn cứ vào yêu cầu quản lý, giáo dục phạm nhân và thời hạn chấp hành án, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm tổ chức dạy học cho phạm nhân theo chương trình, nội dung do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Bộ Công an và Bộ Quốc

phòng quy định. Việc tổ chức cho phạm nhân học pháp luật, giáo dục công dân và học văn hoá, học nghề, làm những công việc phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, hòa nhập cộng đồng đã thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta. Đối với kết quả lao động của phạm nhân sau khi trừ chi phí vật tư, nguyên liệu, tiền công thuê lao động bên ngoài; chi phí điện, nước; tiền ăn thêm do lao động nặng nhọc, độc hại theo ngành, nghề ngoài tiền ăn của phạm nhân theo tiêu chuẩn do ngân sách nhà nước cấp; tiền bồi dưỡng cho phạm nhân làm thêm giờ hoặc làm ngày nghỉ; khấu hao tài sản, chi phí quản lý trực tiếp cho hoạt động lao động của phạm nhân, được sử dụng để bổ sung mức ăn cho phạm nhân; lập quỹ hòa nhập cộng đồng để chi hỗ trợ cho phạm nhân khi chấp hành xong án phạt tù; bổ sung vào quỹ phúc lợi, khen thưởng của trại giam; chi thưởng cho phạm nhân có thành tích trong lao động; chi hỗ trợ đầu tư trở lại cho trại giam phục vụ việc tổ chức lao động, giáo dục, dạy nghề đối với phạm nhân.

Chế độ ăn, mặc, ở, cấp phát tư trang, hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, chế độ gặp thân nhân, nhận quà, liên lạc và chăm sóc y tế đối với phạm nhân; chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi cũng được quy định cụ thể trong Luật Thi hành án hình sự (từ

303 304

Page 57: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Điều 42 đến Điều 48). Chỗ nằm của phạm nhân nói chung được quy định với diện tích tối thiểu là 2m2, phạm nhân có con nhỏ ở cùng thì được bố trí chỗ nằm với diện tích tối thiểu là 3m2. Nhà nước bảo đảm chế độ mặc và tư trang cho phạm nhân; bảo đảm chế độ hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ; gặp thân nhân, nhận quà, liên lạc và chăm sóc y tế đối với phạm nhân. Các quy định này thể hiện tính nhân văn của pháp luật và chính sách nhân đạo của Nhà nước Việt Nam đối với người chấp hành án phạt tù, giúp cho phạm nhân nâng cao thể chất, tinh thần, yên tâm giáo dục, cải tạo để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Xuất phát từ chính sách nhân đạo, bên cạnh các chế độ, tiêu chuẩn chung đối với phạm nhân, Luật Thi hành án hình sự còn quy định riêng về chế độ đối với phạm nhân nữ có thai và nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi để tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc bảo vệ sức khoẻ, nuôi con (Điều 45) và quy định thi hành án phạt tù đối với phạm nhân là người chưa thành niên, bảo đảm tính nhân đạo, sự phát triển bình thường cả về thể chất lẫn tinh thần cho họ (từ Điều 50 đến Điều 53). Riêng đối với phạm nhân là người chưa thành niên, Luật quy định họ được giam giữ theo chế độ riêng phù hợp với sức khỏe, giới tính, lứa tuổi và đặc điểm nhân thân (Điều 50); được bố trí lao động ở khu vực riêng và không phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp

xúc với các chất độc hại. Trại giam có trách nhiệm giáo dục phạm nhân là người chưa thành niên về văn hóa, pháp luật và dạy nghề phù hợp với độ tuổi, trình độ văn hóa, giới tính và sức khỏe, chuẩn bị điều kiện để họ hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù; thực hiện bắt buộc chương trình tiểu học, phổ cập trung học cơ sở và học nghề. Bên cạnh đó, Nhà nước bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn, mặc mỗi tháng như phạm nhân là người thành niên và được tăng thêm định lượng về thịt, cá nhưng không vượt quá 20% và được cấp thêm quần áo dài, quần áo dài đồng phục, khăn mặt và các đồ dùng cá nhân khác phục vụ cho việc sinh hoạt cá nhân (Điều 52); được gặp thân nhân không quá ba lần trong một tháng, mỗi lần gặp không quá ba giờ, trường hợp đặc biệt được gặp không quá 24giờ; được liên lạc với thân nhân qua điện thoại mỗi tháng không quá 4 lần, mỗi lần không quá 10 phút, có sự giám sát của cán bộ trại giam và tự chịu chi phí (Điều 53).

- Quyền được đối xử nhân đạo còn được thể hiện rõ nét ở quy định về miễn hoặc giảm hình phạt. Theo Bộ luật Hình sự, trong những trường hợp do pháp luật quy định, người bị kết án được xem xét miễn chấp hành hình phạt (Điều 57) hoặc giảm mức hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với họ (Điều 58, 59, 76). Cụ thể:

Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt trong

303 304

Page 58: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

những trường hợp sau:

+ Người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và nếu người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì có thể được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.

+ Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá. Xuất phát từ chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước Việt Nam, nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt, Nhà nước xem xét quyết định tha tù trước thời hạn cho người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đáp ứng đủ các điều kiện theo Luật Đặc xá.

+ Người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đã được hoãn chấp hành hình phạt theo quy định, nếu trong thời gian được hoãn đã lập công thì có thể được miễn chấp hành hình phạt.

+ Người bị kết án phạt tù về tội ít nghiêm trọng đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt theo quy định, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công, thì có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

+ Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

Người bị kết án được giảm mức hình phạt đã tuyên trong

những trường hợp sau:

+ Người bị kết án cải tạo không giam giữ, bị kết án phạt tù nếu đã chấp hành hình phạt được 1/3 thời hạn và có nhiều tiến bộ, thì Toà án có thể xem xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được 1/2 mức hình phạt đã tuyên.

+ Người bị kết án tù chung thân đã chấp hành được 12 năm thì được xét giảm lần đầu xuống 30 năm; họ có thể được giảm nhiều lần nhưng cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.

+ Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì Toà án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định nêu trên.

+ Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được 1/4 thời hạn, thì được Toà án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến bốn năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là 2/5 mức hình phạt đã tuyên. 

303 304

Page 59: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Chuyên đề 2

QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT VÀ ĐƯỢC PHÁP LUẬT BẢO VỆ

MỘT CÁCH BÌNH ĐẲNG

I. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT VÀ ĐƯỢC PHÁP LUẬT BẢO VỆ MỘT CÁCH BÌNH ĐẲNG THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾCon người ta sinh ra đều mong muốn được sống trong

một xã hội bình đẳng, nhân đạo, có kỉ cương.

Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ đã khẳng định: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Ý tưởng về sự bình đẳng trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ cũng được nhắc đến trong Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp: “Người ta sinh ra tự do

và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Với việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới, năm 1948, Liên hợp quốc ra Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (sau đây viết tắt là Tuyên ngôn nhân quyền 1948) nhằm thúc đẩy các quốc gia tôn trọng và tuân thủ các quyền tự do cơ bản của con người, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội cũng như xây dựng các điều kiện sống tốt hơn, với sự tự do rộng rãi hơn, sự nhận thức thống nhất về các quyền và tự do cơ bản của con người.

Ngay tại Điều 1 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 đã khẳng định: "Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền. Mọi người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm, và cần phải đối xử với nhau bằng tình cảm anh em".

Điều 2 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 cũng nêu rõ: “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền tự do nêu trong bản Tuyên ngôn nhân quyền mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác…”.

Như vậy, “bình đẳng” là một khái niệm chung của cả

303 304

Page 60: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

nhân loại, nó hướng đến việc khẳng định quyền lợi ngang nhau của mọi người, mọi đối tượng, mọi nhóm người trong xã hội. Nó chính là mục tiêu phấn đấu của mọi dân tộc, mọi xã hội tiến bộ, và là lý tưởng chung của mọi cuộc cách mạng trên thế giới, là một nguyên lý căn bản được chấp nhận bởi mọi quốc gia, mọi dân tộc.

Bình đẳng đã được quan niệm và thực hiện một cách khác nhau qua các thời kì lịch sử với các chế độ chính trị - xã hội khác nhau.

Lý tưởng bình đẳng dựa trên nguyên lý căn bản là con người sinh ra đều như nhau, đều có chung dòng máu đỏ và nước mắt mặn, và đều xứng đáng được hưởng quyền lợi như nhau. Bình đẳng ở đây được hiểu là bình đẳng về cơ hội, có nghĩa là mọi người đều được tạo một cơ hội như nhau để phấn đấu và vươn lên trong xã hội. Bình đẳng không có nghĩa là sự “cào bằng” như nhau về hưởng thụ, về tài năng, mà là sự bình đẳng “như nhau” về cơ hội, về điều kiện để phát triển đối với mỗi cá nhân trong xã hội. Bản chất của bình đẳng là trong xã hội mọi người đều có cơ hội, điều kiện như nhau để phát triển năng khiếu và áp dụng tài năng. Mọi ranh giới như: giai cấp, màu da, chủng tộc, giới tính, trình độ, địa vị… không thể quyết định và thay đổi bản chất bình đẳng giữa mọi người. Các cá nhân trong mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau, các cộng đồng trong xã hội cũng bình đẳng với nhau.

Tuy nhiên, cũng phải hiểu trong cuộc sống, nếu ai nỗ lực nhiều hơn, học giỏi hơn, làm việc hiệu quả hơn, tất nhiên sẽ thu được nhiều lợi ích hơn.

Mặt khác, bình đẳng cũng hướng đến việc quan tâm đến những nhóm người có điều kiện khó khăn hơn những người khác, những cộng đồng kém phát triển, chẳng hạn: người nghèo, người già, trẻ em, người tàn tật, dân tộc thiểu số, người ở vùng sâu, vùng xa… sao cho giảm bớt những khó khăn của họ.

Tuyên ngôn nhân quyền 1948 cũng khẳng định: Mọi người sinh ra đều tự do, bình đẳng về nhân phẩm và các quyền. Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do mà không có bất cứ sự phân biệt dựa trên địa vị chính trị, pháp lý hoặc quốc tế của quốc gia hoặc lãnh thổ mà người đó xuất thân, dù đó là lãnh thổ độc lập, ủy trị, quản thác chưa được tự quản hay đáng phải chịu bất kỳ hạn chế nào khác về chủ quyền.

Từ nguyên lý bình đẳng, mọi quy định, luật lệ, thiết chế xã hội đều nhằm mục tiêu đảm bảo sự bình đẳng giữa mọi người trong xã hội. Xã hội càng tiến bộ thì tính bình đẳng giữa mọi công dân càng cao. Chẳng hạn, trong một xã hội dân chủ pháp trị, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, kể cả tổng thống, nếu vi phạm pháp luật cũng phải ra tòa như một thường dân. Có thể thấy, bình đẳng là mục tiêu ban đầu

303 304

Page 61: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

và lâu dài của mọi nỗ lực xây dựng xã hội, là thước đo trình độ văn minh và tiến bộ của một đất nước. Quyền bình đẳng là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân loại tiến bộ qua các thời kì lịch sử khác nhau.

Trong xã hội, bình đẳng là sự được đối xử như nhau về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá... mà không có sự phân biệt về giới tính, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần và địa vị xã hội, trong đó, trước tiên và cơ bản nhất là bình đẳng trước pháp luật.

Bình đẳng trước pháp luật được hiểu là mỗi người đều có cơ hội như nhau về mặt pháp lý để phát triển khả năng của mình.

Quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền con người. Đó là quyền được xác lập tư cách con người trước pháp luật, không bị pháp luật phân biệt đối xử và quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ như nhau.

Quyền bình đẳng trước pháp luật là một giá trị của xã hội loài người và người ta thực hiện quyền bình đẳng đó bằng công cụ pháp luật thông qua việc thể chế hóa và tạo ra cơ chế bảo vệ khi nó bị xâm phạm.

Quyền bình đẳng trước pháp luật bao quát gần như toàn bộ các quyền bình đẳng trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, dân sự, văn hóa xã hội thông qua “công cụ” pháp luật.

Nói về quyền bình đẳng trước pháp luật của mỗi cá nhân, Tuyên ngôn nhân quyền 1948 đã đưa ra các tuyên bố sau:

“Mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi”. (Điều 6 Tuyên ngôn nhân quyền 1948).

“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào” (Điều 7 Tuyên ngôn nhân quyền 1948).

Sự khẳng định của Tuyên ngôn nhân quyền 1948 cho thấy, theo pháp luật quốc tế, quyền bình đẳng trước pháp luật được xem xét dưới các bình diện sau:

1. Quyền được xác lập tư cách con người Dưới góc độ sinh học, con người sinh ra có sự bất bình

đẳng nhất định về sức khỏe, về giới tính, về màu da... Nhưng con người không chỉ tồn tại chỉ với một mặt tự nhiên. Bản chất của con người là sinh vật xã hội tức là luôn phải tồn tại trong mối quan hệ với nhau. Hợp thành xã hội cũng là bản chất tự nhiên của con người để phân biệt với các sinh vật khác. Tính xã hội của con người làm phát sinh nhu cầu về bình đẳng. Bình đẳng về nhân phẩm, phẩm giá. Như vậy, bình đẳng ở đây không phải là sự bình đẳng về những thuộc tính sinh học- tự nhiên mà là sự bình đẳng về tư cách con người trong xã hội. Đó là việc được thành viên khác, xã hội và nhà nước đối xử như là một thành viên trong xã hội có đầy đủ các phẩm chất, các quyền của một con người: Quyền sống, quyền

303 304

Page 62: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc… Quyền bình đẳng là một quyền tự nhiên của con người. Muốn có quyền bình đẳng trước pháp luật thì một người phải được pháp luật thừa nhận tư cách con người.

Nội dung Điều 6 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 được tái khẳng định tại Điều 16 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966:

“Mọi người đều có quyền được công nhận là thể nhân trước pháp luật ở mọi nơi”.

2. Quyền không bị pháp luật phân biệt đối xử Nội dung thứ hai của quyền bình đẳng trước pháp luật

đó là quyền không bị pháp luật phân biệt đối xử trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ. Con người sinh ra có thể có sự khác nhau về chủng tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo và địa vị xã hội. Tuy nhiên, đó không phải là căn cứ để pháp luật phân biệt trong việc hưởng các quyền và chịu trách nhiệm pháp lý. Ngược lại, pháp luật luôn đặt giá trị bình đẳng làm thước đo, tiêu chuẩn bằng việc quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý ngang nhau. Quyền không bị pháp luật phân biệt, đối xử còn có khía cạnh khác, đó là quyền được hưởng tất cả các quyền con người như nhau ở mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh.

Sẽ không bao giờ có quyền bình đẳng trong đó có bình đẳng trước pháp luật nếu trong xã hội còn tồn tại một nhóm người tự cho mình những đặc quyền đặc lợi, tự cho mình ở vị trí cao hơn so với những thành viên khác trong xã hội.

Điều 7 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 nêu rõ:

“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào”.

3. Quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳngCũng tại Điều 7 Tuyên ngôn nhân quyền 1948, quyền

được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng của mỗi cá nhân được ghi nhận như sau:

“Mọi người đều có quyền được bảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bản Tuyên ngôn này, và chống lại bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào như vậy”.

Quyền con người luôn đứng trước nguy cơ bị xâm hại từ nhiều phía. Đó có thể là các cá nhân khác trong xã hội cũng có thể từ phía công quyền. Khi những quyền đó bị xâm hại dưới góc độ bình đẳng trước pháp luật, con người đều có quyền được pháp luật bảo vệ như nhau với các quyền pháp lý nhất

303 304

Page 63: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

định. Bảo vệ quyền bình đẳng này cũng là cơ sở để bảo vệ các quyền khác của con người.

Quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng đòi hỏi pháp luật phải ghi nhận các quyền bình đẳng và tạo ra cơ chế bảo vệ quyền đó khi nó bị xâm phạm. Mọi hành vi vi phạm phạm đều phải bị xử lý như nhau trước pháp luật.

Trong cơ chế bảo vệ quyền con người và quyền bình đẳng trước pháp luật, Tòa án đóng vai trò quan trọng. Mọi người đều có quyền được xét xử một cách bình đẳng, công bằng trước tòa án. Không thể có tình trạng khi vi phạm pháp luật thì người này bị xử lý kỷ luật nội bộ, người khác bị xét xử tại tòa, càng không để tình trạng một người nào đó bị cho là phạm tội nhưng lại không được xét xử trước tòa. Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ.

Điều 8 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 khẳng định:

“Mọi người đều có quyền được các tòa án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy định”.

Tóm lại, bình đẳng trước pháp luật là nguyên tắc thể hiện sự bình đẳng về các quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của

mọi công dân trước nhà nước, pháp luật và toà án, là một trong những nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ.

Nội dung về quyền bình đẳng trước pháp luật trong Tuyên ngôn nhân quyền được tái khẳng định trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966.

Điều 26 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 quy định:

“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác”.

Hay Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 quy định:

“1. Mọi người đều bình đẳng trước các toà án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định

303 304

Page 64: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự.

3. Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu sau đây:

a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình;

b) Có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn;

c) Được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý;

d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả;

e) Được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng buộc tội mình, và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tới phiên toà và thẩm vấn họ tại toà với những điều kiện tương tự như đối với những người làm chứng buộc tội mình;

f) Được có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà;

g) Không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính

mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội.

...

5. Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật“.

II. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT VÀ ĐƯỢC PHÁP LUẬT BẢO VỆ MỘT CÁCH BÌNH ĐẲNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAMỞ Việt Nam ngay trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh

ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 02 tháng 9 năm 1945, câu đầu tiên đã nhấn mạnh: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng". Mặc dù, đó là sự nhắc lại Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp, nhưng đó cũng là sự khẳng định của Nhà nước Việt Nam non trẻ về quyền bình đẳng của công dân Việt Nam ngay trong những ngày đầu thành lập nước.

Trong pháp luật Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân được ghi nhận như một nguyên tắc Hiến định trong các bản Hiến pháp. Từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Hiến pháp năm 1946 - đến các bản Hiến pháp sau này như Hiến pháp năm 1959, Hiến

303 304

Page 65: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc này luôn được khẳng định và ngày càng được bổ sung, hoàn thiện.

Điều 6 Hiến pháp 1946 cụ thể hóa nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của công dân như sau:

“Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”.

Điều 22 Hiến pháp năm 1959 cũng tiếp tục khẳng định nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của công dân như sau:

“Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều bình đẳng trước pháp luật”.

Trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam ngày nay, mục tiêu bình đẳng được đặt lên hàng đầu. Lý tưởng bình đẳng là cơ sở của các chính sách phát triển đất nước, xã hội, bởi xét cho cùng, việc phát triển đất nước là nhằm mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn dân, và điều này sẽ không thể nào đạt được nếu thiếu sự bình đẳng. Nhà nước ta với bản chất là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã và đang cố gắng từng bước đem lại quyền bình đẳng thực sự cho công dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và gia đình.

Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật cũng được quy định cụ thể, chi tiết trong nội dung của nhiều bộ luật, đạo luật

và các văn bản pháp luật khác liên quan đến quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người dân.

Việc ghi quyền bình đẳng của công dân trong Hiến pháp và các đạo luật đã thể hiện bản chất Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, khẳng định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Ví dụ: Theo quy định pháp luật Việt Nam, hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.

Quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân là một trong những nguyên tắc cơ bản của xã hội dân chủ. Quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân là tiền đề, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để hình thành nên quyền bình đẳng của công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Điều 52 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 khẳng định:

“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”.

Ở Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân theo quan điểm của Tuyên ngôn nhân quyền được thể hiện đầy đủ trong các quy định của pháp luật.

303 304

Page 66: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

1. Quyền được xác lập tư cách con người Quyền được xác lập tư cách con người nói cách khác là

được pháp luật công nhận với tư cách là một công dân trước pháp luật.

Theo pháp luật Việt Nam, để mỗi cá nhân được công nhận là một con người, một công dân trước pháp luật thì mọi công dân ngay từ khi mới sinh ra đều có quyền khai sinh, quyền có quốc tịch Việt Nam, quyền có tên họ. Việc đăng ký khai sinh theo quy định của pháp luật chính là việc yêu cầu pháp luật, Nhà nước công nhận tư cách con người của mỗi cá nhân khi sinh ra, công nhận họ, tên, quốc tịch của con người đó trước Nhà nước và pháp luật Việt Nam. Quyền được khai sinh, quyền có tên, họ, có quốc tịch Việt Nam là quyền được yêu cầu Nhà nước và pháp luật ghi nhận, khẳng định sự tồn tại của cá nhân đó với tư cách là con người trước pháp luật, trước Nhà nước.

1.1. Quyền được khai sinh và có họ tên

Theo quy định của pháp luật dân sự, họ, tên của một người được xác định ngay khi đăng ký khai sinh và được cơ quan có thẩm quyền đăng ký khai sinh công nhận họ, tên của người đó trước Nhà nước và trước pháp luật. Họ, tên này cũng là cơ sở để cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trước Nhà nước và xã hội. Quyền được khai sinh, được

có họ, tên là một trong những quyền nhân thân cơ bản gắn liền với mỗi cá nhân và được quy định rõ trong Bộ luật Dân sự.

Điều 29 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền được khai sinh của cá nhân như sau:

“Cá nhân khi sinh ra có quyền được khai sinh”.

Quyền đối với họ, tên cũng được quy định rõ tại Điều 26 của Bộ luật như sau:

“1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó.

2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận...”.

Pháp luật Việt Nam cũng nhấn mạnh quyền được khai sinh và có quốc tịch đối với trẻ em và trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc bảo đảm quyền được khai sinh của trẻ em. Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em về quyền được khai sinh và có quốc tịch thì:

“Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch”.

Cha, mẹ và những người có liên quan là những người có trách nhiệm thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em.

Điều 23 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy

303 304

Page 67: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

định về trách nhiệm đăng ký khai sinh như sau:

“1. Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn.

2. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã) có trách nhiệm thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em; vận động cha mẹ, người giám hộ khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn.

3. Trẻ em của hộ nghèo không phải nộp lệ phí đăng ký khai sinh”.

Để tạo thuận lợi cho mọi người thực hiện quyền được khai sinh, quyền có họ, tên, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản dưới luật quy định cụ thể trình tự, thủ tục đăng ký khai sinh cũng như các thủ tục hộ tịch liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân.

1.2. Quyền có quốc tịch Việt Nam

Gắn với việc công nhận tư cách con người trước pháp luật, với quyền được khai sinh, được có họ, tên là quyền có quốc tịch của mỗi cá nhân. Quốc tịch là sự thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân đối với một Nhà nước. Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam.

Người có quốc tịch Việt Nam được Nhà nước Việt Nam công nhận là công dân Việt Nam. Công dân Việt Nam được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm các quyền công dân và phải làm tròn các nghĩa vụ công dân đối với Nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật. Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch.

Điều 49 Hiến pháp năm 1992 khẳng định:

“Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”.

Để cụ thể hóa quy định tại Điều 49 Hiến pháp năm 1992, ngày 13 tháng 11 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật Quốc tịch (Luật số 24/2008/QH12 - sau đây gọi chung là Luật Quốc tịch năm 2008).

Luật Quốc tịch năm 2008 quy định nguyên tắc quyền đối với quốc tịch, nguyên tắc quốc tịch, quan hệ giữa Nhà nước và công dân, chính sách của Nhà nước trong việc bảo hộ đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài, chính sách đối với người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài, căn cứ xác định quốc tịch, điều kiện, thủ tục nhập quốc tịch Việt Nam, trở lại quốc tịch, thôi quốc tịch...

Về quyền có quốc tịch của mỗi cá nhân, theo quy định tại

303 304

Page 68: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Điều 2 Luật Quốc tịch năm 2008 thì:

“1. Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch. Công dân Việt Nam không bị tước quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại Điều 31 của Luật này.

2. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, mọi thành viên của các dân tộc đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam”.

Điều 5 Luật Quốc tịch năm 2008 khẳng định: “1. Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam.

2. Công dân Việt Nam được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm các quyền công dân và phải làm tròn các nghĩa vụ công dân đối với Nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật...”.

2. Quyền không bị pháp luật phân biệt đối xử Quyền không bị pháp luật phân biệt đối xử là quyền được

pháp luật đối xử như nhau trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ. Sự khác nhau về chủng tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo và địa vị xã hội không phải là căn cứ để pháp luật phân biệt đối xử trong việc hưởng các quyền và thực

hiện các nghĩa vụ hay chịu trách nhiệm pháp lý. Pháp luật phải luôn lấy tiêu chí bình đẳng làm thước đo, tiêu chuẩn trong việc quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mỗi con người, mỗi công dân.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mọi công dân không phân biệt giới tính, dân tộc, tuổi tác, thành phần và địa vị xã hội đều được hưởng các quyền như nhau và có nghĩa vụ như nhau theo quy định của pháp luật. Bất kỳ người nào vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình và chịu sự xét xử theo quy định của pháp luật không phân biệt địa vị, nghề nghiệp, giới tính, dân tộc, tôn giáo…

Mọi công dân đều bình đẳng về việc được hưởng quyền và thực hiện các nghĩa vụ công dân trước nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật.

Bất kì công dân nào, có đủ các điều kiện pháp luật quy định đều được hưởng các quyền công dân như quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quyền khiếu nại, quyền tố cáo…

Quyền không bị pháp luật phân biệt, đối xử còn có nghĩa là quyền được hưởng tất cả các quyền con người như nhau ở mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh.

Cùng với sự khẳng định quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân tại Điều 52, nhiều điều khác của Hiến pháp năm

303 304

Page 69: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

1992 cũng ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Cùng với Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp như Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Doanh nghiệp, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn... quy định rõ trình tự, thủ tục và cách thực hiện các quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân trong từng lĩnh vực.

2.1. Quyền bình đẳng giới

Bình đẳng giới hay còn gọi là bình đẳng nam, nữ là nhu cầu bức thiết của nhân loại tiến bộ nói chung và phụ nữ nói riêng trong cuộc đấu tranh vì quyền tự do, bình đẳng của con người chống áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Bình đẳng giới là sự cụ thể hóa quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân giữa công dân nam và công dân nữ.

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.

Sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành xây dựng hệ thống pháp luật mới. Từ Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) quyền công dân nói chung và quyền bình đẳng của phụ nữ nói riêng đã được ghi nhận thành một nguyên tắc cơ bản và được tiếp tục kế thừa trong các bản Hiến pháp và văn bản pháp luật về sau.

Ngay trong lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946, Nhà nước ta đã xác định một trong ba nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp là: “đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo”. Trên cơ sở đó, Điều 1 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Quy định này đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ, rút ngắn khoảng cách phân biệt đối xử giữa nam và nữ trên thực tế. Bên cạnh đó, quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được Hiến pháp năm 1946 cụ thể hoá tại Điều 6 như sau: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá”, đồng thời, Điều 9 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, quyền

303 304

Page 70: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

bình đẳng nam nữ đã được ghi nhận trong đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của nhà nước. Chính nội dung quy định này đã tạo tiền đề pháp lý quan trọng cho những thay đổi về địa vị của người phụ nữ trên văn bản pháp luật cũng như trong thực tiễn hiện nay.

Kế thừa những nội dung tiến bộ của Hiến pháp năm 1946, các bản Hiến pháp năm 1959, 1980 đã có những điều luật quy định trực tiếp và cụ thể hơn về quyền bình đẳng nam, nữ.

Điều 24 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Cùng làm việc như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới…”

Hiến pháp năm 1980 còn bổ sung thêm một số nội dung mới nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Điều 63 của Hiến pháp năm 1980 khẳng định: “Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nhà nước và xã hội chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ, không ngừng phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội. Nhà nước có chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau”. Điều 64 của Hiến pháp năm 1980 quy định: “Nhà nước bảo hộ chế độ hôn nhân và gia đình.

Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng...”.

Những nội dung thể hiện quyền bình đẳng nam nữ trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959 và 1980 tiếp tục được kế thừa trong Hiến pháp năm 1992.

Điều 63 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam làm việc như nhau thì tiền lương ngang nhau”.

Điều 63 của Hiến pháp năm 1992 còn bổ sung thêm một vấn đề mà Hiến pháp năm 1980 chưa đề cập đến, đó là: “Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”.

Những quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền bình đẳng của phụ nữ thể hiện bản chất ưu việt và quan điểm dân chủ mang tính nhất quán của Nhà nước ta. Trong xã hội ta, địa vị của người phụ nữ luôn được Đảng và Nhà nước coi là một tiêu chí quan trọng thể hiện trình độ văn minh và là mục tiêu cơ bản nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người.

Việc xác định bình đẳng nam, nữ là một trong những nguyên tắc của hiến pháp, là quyền cơ bản của công dân và

303 304

Page 71: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

không ngừng mở rộng trên cơ sở quan điểm tôn trọng phụ nữ đã tạo ra khung pháp lí hoàn thiện cho hệ thống pháp luật Việt Nam, thể hiện rõ tính ưu việt của nền dân chủ mang tính nhân văn của pháp luật Việt Nam.

Bình đẳng giới và bảo vệ quyền phụ nữ được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 là cơ sở pháp lý vững chắc cho các văn bản luật như Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình... được cụ thể hoá và đảm bảo tính khả thi trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Điều 63 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình…”. Như vậy, bình đẳng giới đã được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và gia đình. Cụ thể:

2.1.1. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị:

Theo Hiến pháp năm 1992 thì mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; Công dân, không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có

quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.

Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị thể hiện như sau:

- Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội.

- Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.

- Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (ví dụ: tỷ lệ nam, nữ tham gia Đại biểu Quốc hội khóa XI (2002 - 2007): 72,69% nam - 27,31% nữ; với tỷ lệ này, Việt Nam là nước đứng đầu châu Á và thứ hai các nước thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương về số đại biểu nữ trong Quốc hội).

- Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.

Quy định về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị không chỉ tạo cơ hội cho nam giới mà cho cả nữ giới được tham gia

303 304

Page 72: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

đóng góp công sức, trí tuệ vào sự nghiệp chung của đất nước

2.1.2. Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế

Theo quy định của pháp luật, mọi công dân nam, nữ đều có quyền bình đẳng trong việc sở hữu thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải được ghi tên cả vợ, chồng; được tự do sản xuất, kinh doanh theo quy định.

Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế thể hiện: nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động. Chủ doanh nghiệp là nam hay nữ đều có các quyền và nghĩa vụ như nhau trong hoạt động kinh doanh.

2.1.3. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động

Cụ thể hóa nguyên tắc Hiến định “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình”, trong quan hệ lao động, pháp luật cũng quy định lao động nam và lao động nữ được đối xử bình đẳng. Một trong những chính sách cơ bản của Nhà nước về lao động là bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới và các quy định chế độ lao động và chính sách xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ.

Bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ trong quan hệ lao động được hiểu là: bình đẳng giữa nam và nữ về cơ

hội tiếp cận việc làm, về điều kiện tuyển dụng, sử dụng, đào tạo nghề, nâng bậc lương và trả công lao động.

Lao động nữ và lao động nam bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ và lao động nam bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh ngành nghề có tiêu chuẩn, chức danh.

Bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ trong quan hệ lao động cũng cần phải quan tâm lưu ý đến những đặc điểm khác biệt về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ. Vì vậy, pháp luật cũng có những quy định cụ thể ưu đãi đối với lao động nữ như: ưu tiên nhận phụ nữ vào làm việc khi người đó đủ tiêu chuẩn tuyển chọn làm công việc phù hợp với cả nam và nữ; lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản; người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lao động nữ vì lý do kết hôn, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi (trừ trường hợp doanh nghiệp giải thể) đồng thời không sử dụng lao động nữ vào công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại.

Điều 63 Hiến pháp năm 1992 quy định:

“… Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản.

303 304

Page 73: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật.

Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ”.

2.1.4. Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Pháp luật hiện hành quy định nam, nữ bình đẳng về cơ hội học tập, người học có quyền được nhà trường, cơ sở giáo dục khác tôn trọng và đối xử bình đẳng và có các quyền khác… nhằm bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của công dân.

Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo thể hiện:

- Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng.

- Nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo.

- Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,

nghiệp vụ.

- Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.

2.2. Quyền bình đẳng trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, đều có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, có quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật, có quyền giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước...

Điều 7 của Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã khẳng định.

“Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình”.

Đến Hiến pháp năm 1992, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân được bổ sung, làm rõ các nội dung cụ thể.

Điều 54 Hiến pháp năm 1992 quy định:

303 304

Page 74: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

“Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”.

Điều 53 Hiến pháp năm 1992 quy định:

“Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”.

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Nhà nước ban hành Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và các văn bản hướng dẫn thực hiện quy định cách thức thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân của công dân.

Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội khẳng định:

“Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật”.

Cùng với việc khẳng định trong Hiến pháp về quyền tham

gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của công dân, Nhà nước ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định trình tự, thủ tục thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của công dân, tạo điều kiện để mọi công dân thực hiện được quyền tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước và xã hội một cách bình đẳng.

2.3. Quyền bình đẳng trong hoạt động kinh tế

Bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế thể hiện trước tiên và tập trung ở bình đẳng trong kinh doanh. Hiến pháp, pháp luật Việt Nam ghi nhận và khẳng định: mọi công dân có quyền tự do kinh doanh, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp; bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; Nhà nước khẳng định việc công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp.

Điều 57 Hiến pháp năm 1992 khẳng định:

“Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mục đích của chính sách kinh tế

303 304

Page 75: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

của Nhà nước là làm cho dân, giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, tiềm năng của mọi công dân và các tổ chức. Để đạt được mục đích này, cần phải tạo ra một môi trường kinh doanh tự do, bình đẳng trên cơ sở điều tiết bằng pháp luật.

Nói đến bình đẳng trong kinh doanh là nói đến quyền bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động kinh doanh của công dân và các loại hình doanh nghiệp, thực hiện theo nguyên tắc "mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật"; là các quan hệ kinh tế, các hoạt động kinh tế giữa các doanh nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc tự do, bình đẳng, cùng có lợi và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật; là quyền bình đẳng của mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Khoản 1 Điều 5 Luật Doanh nghiệp quy định:

“Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật này; bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh”.

Quyền bình đẳng trong kinh doanh của công dân được thể hiện thông qua các quy định trong Hiến pháp và các văn

bản pháp luật về kinh doanh; cụ thể là:

Mọi công dân đều bình đẳng về quyền tự do lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh, lựa chọn ngành, nghề, địa điểm kinh doanh, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quá trình sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Mọi công dân không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, nếu có đủ điều kiện pháp luật quy định đều có thể thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn...

Mọi doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn đều có quyền tự chủ đăng kí kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm, trừ những ngành, nghề thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng. Tuy nhiên, đối với những ngành, nghề đòi hỏi phải có chứng chỉ hành nghề như mở phòng khám bệnh, mở cửa hàng dược phẩm... hoặc các ngành, nghề kinh doanh mà pháp luật quy định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện theo quy định.

Mọi loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều được bình đẳng trong việc khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế nước ta.

303 304

Page 76: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Mọi doanh nghiệp đều bình đẳng về quyền chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh; chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và kí kết hợp đồng; chủ động lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn; tự do liên doanh với các cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật; tự chủ kinh doanh để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh.

Mọi doanh nghiệp đều bình đẳng về nghĩa vụ trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, như kinh doanh đúng ngành, nghề đã đăng kí; nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; tuân thủ pháp luật về bảo vệ tài nguyên, môi trường v.v...

Việc giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh được thực hiện trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận giữa các bên theo quy định của pháp luật.

Như vậy, quyền bình đẳng trong kinh doanh được Nhà nước bảo đảm bằng các quy định pháp luật, từ Hiến pháp đến các văn bản quy phạm pháp luật khác. Pháp luật của Nhà nước ghi nhận, khẳng định và bảo vệ quyền bình đẳng của mọi công dân, mọi thành phần kinh tế trong các khâu, các giai đoạn của hoạt động sản xuất, kinh doanh như thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, đầu tư, sản xuất, thương mại, dịch vụ và giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh…

2.4. Quyền bình đẳng trong lao động

Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động theo quy định của Hiến pháp, Bộ luật Lao động và các văn bản pháp luật về lao động.

Quyền lao động là quyền của công dân được tự do học nghề, tự do lựa chọn nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm đem lại thu nhập cho bản thân, cho gia đình, mang lại lợi ích cho xã hội. Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp phù hợp khả năng của mình.

Quyền bình đẳng trong lao động bao gồm: bình đẳng trong việc thực hiện quyền lao động, tìm kiếm việc làm và học nghề; bình đẳng trong giao kết và thực hiện hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động; bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ trong các cơ quan, doanh nghiệp.

Quyền bình đẳng trong lao động được ghi nhận và khẳng định trong Bộ luật Lao động và các văn bản pháp luật về lao động ở nước ta hiện nay.

Để bảo đảm việc thực hiện bình đẳng trong lao động, khoản 1 Điều 8 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, màu da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm HIV, khuyết tật hoặc vì lý do thành lập, gia

303 304

Page 77: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

nhập và hoạt động công đoàn.

2.4.1. Bình đẳng trong việc thực hiện quyền lao động, tìm kiếm việc làm và học nghề

Bình đẳng trong việc thực hiện quyền lao động, tìm kiếm việc làm và học nghề có nghĩa là mọi công dân đều có quyền có việc làm, có quyền tự do lựa chọn việc làm và học nghề mà không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, nguồn gốc gia đình, chính trị, thành phần kinh tế...

Pháp luật lao động quy định công dân có quyền làm việc cho bất kì người sử dụng lao động nào và ở bất cứ nơi nào mà pháp luật không cấm.

Người lao động nếu đủ tuổi theo quy định của pháp luật lao động, có khả năng lao động đều có quyền tự do lựa chọn, tìm kiếm việc làm phù hợp với bản thân và được hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên cơ sở thoả thuận với người sử dụng lao động.

Người lao động có thể trực tiếp liên hệ với người sử dụng lao động hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm để tìm việc làm theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ của mình.

Điểm a khoản 1 Điều 5 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định người lao động có các quyền sau đây:

“Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử…”.

Người lao động có trình độ chuyên môn, kĩ thuật cao được Nhà nước và người sử dụng lao động ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi để không ngừng phát huy tài năng có lợi cho doanh nghiệp và cho đất nước. Những ưu đãi đối với người lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao không bị coi là phân biệt đối xử trong sử dụng lao động.

2.4.2. Bình đẳng trong quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quan hệ lao động giữa người lao động hoặc tập thể lao động với người sử dụng lao động được xác lập qua đối thoại, thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau. Đây là nguyên tắc pháp lý quan trọng tạo cơ sở xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình thực hiện quyền làm việc. Nguyên tắc này chi phối toàn bộ mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình lao động từ khâu ký hợp đồng lao động, thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên đến việc giải quyết các tranh chấp lao động.

303 304

Page 78: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Khoản 1 Điều 7 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định:

“ Quan hệ lao động giữa người lao động hoặc tập thể lao động với người sử dụng lao động được xác lập qua đối thoại, thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau”.

Quan hệ lao động giữa người lao động hoặc tập thể lao động với người sử dụng lao động được xác lập bằng hợp đồng lao động.

- Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động với người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

- Việc kí kết hợp đồng lao động phải tuân theo nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, thực hiện đầy đủ những điều đã cam kết.

Người lao động và người sử dụng lao động được tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội.

Điều 17 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định việc giao kết hợp đồng phải dựa trên các nguyên tắc sau :

“1. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực.

2. Tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội”.

Trong trường hợp người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì việc giao kết hợp đồng lao động phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người lao động.

Để việc giao kết hợp đồng bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí và trung thực, pháp luật lao động quy định người sử dụng lao động phải cung cấp thông tin cho người lao động về công việc, địa điểm làm việc, điều kiện làm việc, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động, vệ sinh lao động, tiền lương, hình thức trả lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, quy định về bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ và vấn đề khác liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà người lao động yêu cầu. Đồng thời, người lao động phải cung cấp thông tin cho người sử dụng lao động về họ tên, tuổi, giới tính, nơi cư trú, trình độ học vấn, trình độ kỹ năng nghề, tình trạng sức khoẻ và vấn đề khác liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động mà người sử dụng lao động yêu cầu.

Trường hợp người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật, thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận

303 304

Page 79: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp người lao động vi phạm.

Đối với người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thì tùy theo loại công việc mà hai bên có thể giảm một số nội dung chủ yếu của hợp đồng lao động và thỏa thuận bổ sung nội dung về phương thức giải quyết trong trường hợp thực hiện hợp đồng chịu ảnh hưởng của thiên tai, hoả hoạn, thời tiết.

- Hợp đồng lao động có thể được ghi nhận bằng lời nói (hợp đồng miệng) hoặc bằng văn bản. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói.

Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:

+ Hợp đồng lao động không xác định thời hạn (là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng);

+ Hợp đồng lao động xác định thời hạn (là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến

36 tháng);

+ Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định (có thời hạn dưới 12 tháng).

Khi hợp đồng lao động xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới.

Khi hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc nhưng không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng xác định thời hạn đã giao kết trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn

Khi hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc nhưng không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn 24 tháng.

Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

Không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để làm

303 304

Page 80: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

những công việc có tính chất thường xuyên từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác.

- Hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu sau đây:

+ Tên và địa chỉ người sử dụng lao động hoặc của người đại diện hợp pháp;

+ Họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, địa chỉ nơi cư trú, số chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ hợp pháp khác của người lao động;

+ Công việc và địa điểm làm việc;

+ Thời hạn của hợp đồng lao động;

+ Mức lương, hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác;

+ Chế độ nâng bậc, nâng lương;

+ Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;

+ Trang bị bảo hộ lao động cho người lao động;

+ Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế;

+ Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi có những vấn đề mới phát sinh hoặc có những thay đổi hai bên có thể ký thêm

phụ lục hợp đồng.

- Hợp đồng lao động có hiệu lực kể từ ngày các bên giao kết trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

- Các bên tham gia hợp đồng lao động đều có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình quy định trong hợp đồng và theo các quy định của pháp luật lao động.

- Người sử dụng lao động, người lao động đều có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp pháp luật quy định.

2.5. Bình đẳng trong hôn nhân và gia đình

Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.

Bình đẳng trong quan hệ hôn nhân và gia đình thể hiện qua bình đẳng giữa vợ và chồng, không phân biệt đối xử giữa các con. Nội dung quan điểm bình đẳng trong quan hệ hôn nhân và gia đình được thể hiện rõ trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình.

Theo quy định tại Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm

303 304

Page 81: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

2000, những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình gồm:

- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

- Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

- Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.

- Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau.

- Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú.

- Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.

2.5.1. Bình đẳng giữa vợ và chồng

Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình".

Bình đẳng giữa vợ và chồng thể hiện trong quan hệ nhân thân và trong quan hệ tài sản:

Thứ nhất, bình đẳng trong việc kết hôn. Luật Hôn nhân và gia đình quy định: nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật có quyền tự do kết hôn. Việc kết hôn dựa trên cơ sở các bên tự nguyện, tự quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.

Thứ hai, trong gia đình vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt.

Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.

Vợ, chồng tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Vợ, chồng cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mỗi người.

303 304

Page 82: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Vợ chồng có thể đại diện cho nhau trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản.

Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Những tài sản chung của vợ, chồng mà pháp luật quy định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên cả vợ và chồng. Việc mua, bán, đổi, cho, vay, mượn và những giao dịch dân sự khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn phải được thoả thuận của cả vợ và chồng.

Ngoài ra, pháp luật còn thừa nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng và có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình (đó là tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn hoặc được thừa kế riêng trong thời kì hôn nhân).

Pháp luật thừa nhận sở hữu riêng của vợ, chồng nhằm mục đích củng cố quan hệ vợ, chồng đồng thời tôn trọng, bảo đảm tự do ý chí cá nhân trong hôn nhân và gia đình.

2.5.2. Bình đẳng giữa các con

Một trong những nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình ở nước ta được ghi nhận tại khoản 5 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình là:

“Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử

giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú”.

Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, giữa con đẻ và con nuôi, con trong giá thú, con ngoài giá thú, không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.

Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm ngang nhau đối với con, thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hoà thuận; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.

Cha mẹ đại diện trước pháp luật cho con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.

Các con có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình; con có bổn phận yêu quý, kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Con không được có hành vi xúc phạm, ngược đãi cha mẹ.

303 304

Page 83: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

2.5.3. Bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình

Trong gia đình, ngoài quan hệ giữa vợ và chồng còn có quan hệ giữa cha mẹ và con cái, quan hệ giữa ông bà và các cháu, giữa anh, chị, em với nhau. Pháp luật về hôn nhân và gia đình cũng quy định: các thành viên cùng sống chung trong gia đình đều có nghĩa vụ quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chăm lo đời sống chung của gia đình, đóng góp công sức, tiền và tài sản khác để duy trì đời sống chung phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của mình. Các thành viên trong gia đình có quyền được hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau và có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.

Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu.

Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại.

Anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.

Bình đẳng trong hôn nhân và gia đình còn được thể hiện qua các quy định của Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm ngăn ngừa các hành vi bạo lực, đối xử bất công của

người chồng, người cha đối với vợ và con trong gia đình. Bạo lực gia đình thể hiện cách ứng xử bất bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình mà người phải chịu thiệt thòi thường là phụ nữ và trẻ em.

2.6. Bình đẳng giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo, người không có tín ngưỡng tôn giáo và những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Các tôn giáo dù lớn hay nhỏ đều được Nhà nước đối xử bình đẳng như nhau và được tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.

Đoàn kết tôn giáo và tự do tín ngưỡng là quan điểm cơ bản, là nội dung chủ yếu của chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Phải đoàn kết chặt chẽ không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo”.

Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được cụ thể hoá bằng những nội dung chủ yếu như:

"Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và không theo đạo, cũng như giữa các tôn giáo khác nhau...”.

303 304

Page 84: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.

Nguyên tắc “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật” cũng thể hiện quan điểm bình đẳng giữa các tôn giáo và bình đẳng giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo, người không có tín ngưỡng tôn giáo và những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.

Bất kì công dân nào kể cả những người có tín ngưỡng, tôn giáo, người không có tín ngưỡng, tôn giáo hay người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau nếu có đủ các điều kiện pháp luật quy định đều được hưởng các quyền công dân như quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quyền khiếu nại, quyền tố cáo… và đều phải thực hiện các nghĩa vụ công dân.

Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi giới tính, dân tộc, tôn giáo, giàu, nghèo, thành phần hay địa vị xã hội.

Người theo tôn giáo, người không theo tôn giáo và những

người theo các tôn giáo khác nhau đều bình đẳng như nhau trước pháp luật, đều được hưởng đầy đủ các quyền công dân và phải làm tròn các nghĩa vụ công dân.

Ví dụ: về quyền bầu cử và ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân của công dân, Điều 54 Hiến pháp năm 1992 quy định:

“Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”.

2.7. Bình đẳng về trách nhiệm pháp lý

Bình đẳng trước pháp luật còn được thể hiện qua bình đẳng về trách nhiệm pháp lý của công dân. Công dân ở bất kỳ địa vị nào, dù là công chức hay người lao động, dù là người có chức, có quyền hay là người dân bình thường đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mỗi hành vi, mỗi việc làm của mình.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân và công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Mọi công dân có trách nhiệm nghiêm chỉnh

303 304

Page 85: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

chấp hành Hiến pháp, pháp luật.

Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.

Công dân có hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng các chế tài theo quy định của pháp luật không phân biệt địa vị xã hội, tuổi tác và nghề nghiệp...

Bình đẳng trước pháp luật còn thể hiện bằng các quy định của pháp luật về xử lí nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật bất kể người thực hiện hành vi đó là ai, có địa vị xã hội cao hay thấp.

Trong đời sống xã hội, vai trò của pháp luật được xem xét dưới hai góc độ nhà nước và công dân.

Đối với nhà nước, pháp luật là phương tiện, là công cụ để nhà nước quản lý xã hội. Thông qua pháp luật, nhà nước phát huy quyền lực của mình, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân trong phạm vi lãnh thổ của mình.

Đối với công dân, pháp luật không chỉ là công cụ để nhà nước ghi nhận, khẳng định quyền, lợi ích và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà còn là phương tiện để công dân thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quyền được pháp

luật bảo vệ một cách bình đẳng thể hiện thông qua các nhóm quyền như:

- Quyền được pháp luật bảo vệ đối với sự xâm phạm đời sống riêng tư như tự do dân chủ, tự do cá nhân, nhà ở thư tín, điện thoại, điện tín...;

- Quyền sống, được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể;

- Quyền được xét xử công bằng;

- Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng khi bị tước tự do.

303 304

Page 86: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Chuyên đề 3

CÁC QUYỀN TỰ DO CÁ NHÂN

I. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ DO CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾTự do là một yếu tố nền tảng của phẩm giá con người. Tự

do thường thể hiện dưới hình thức một sự lựa chọn hay một quyền cá nhân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), K.Marx và F.Engel đã khẳng định, cần hướng đến một xã hội lý tưởng mà “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”. J.J.Russeau cũng đã viết: “Từ bỏ tự do của mình là từ bỏ phẩm chất con người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người”.

Quyền tự do cá nhân của mỗi người xuất phát từ quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm mà Tạo hóa đã ban cho mỗi cá nhân như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đây là những quyền tự do cơ bản gắn với quyền con người và các quyền đó được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 nhấn mạnh: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình

đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Với ý thức thúc đẩy các dân tộc, các quốc gia, tổ chức, cá nhân tôn trọng và thực hiện các quyền tự do cơ bản của con người, ngày 10 tháng 12 năm 1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (viết tắt là Tuyên ngôn nhân quyền 1948), trong đó xác định rõ một tập hợp những quyền tự do cơ bản của mỗi con người trên tất cả các phương diện chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa, trong đó bao gồm cả những quyền tự do cá nhân.

Điều 12 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 viết: “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy”.

Theo Tuyên ngôn nhân quyền 1948, các quyền tự do cá nhân của con người bao gồm:

- Tự do đi lại và tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia;

- Tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình; tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo.

303 304

Page 87: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

- Tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá ý tưởng và các thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông.

- Tự do hội họp và lập hội.

- Tự do lựa chọn nghề nghiệp.

- Tự do kết hôn khi đủ tuổi và nam nữ bình đẳng trong việc kết hôn, trong thời gian chung sống và ly hôn...

Các quyền tự do cá nhân trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948 được tái khẳng và cụ thể hóa nội dung trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 và nhiều văn bản pháp luật quốc tế khác.

Ở mỗi nước, các quyền tự do cá nhân của công dân chỉ được thừa nhận và được pháp luật bảo hộ khi được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật liên quan. Việc ghi nhận các quyền tự do cơ bản của công dân trong Hiến pháp – văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, thể hiện sự tôn trọng của nhà nước đối với các quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm mà tạo hóa đã ban cho mỗi cá nhân, nhằm bảo đảm sự thống nhất trong việc thực hiện và bảo vệ các quyền đó. Đây đồng thời cũng là chế định pháp lý cơ bản, xác định địa vị pháp lý của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước và xã hội, là cơ sở để xác định các quyền và nghĩa vụ khác của công

dân ở mọi cấp độ và trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Nhìn vào các quyền tự do cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của mỗi nước, chúng ta có thể đánh giá mức độ dân chủ, nhân đạo, văn minh và mối quan hệ giữa nhà nước và công dân ở những nước đó.

1. Quyền tự do đi lại, tự do cư trúQuyền tự do đi lại, tự do cư trú là một trong các quyền tự

do cơ bản của mỗi cá nhân được đề cập trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948.

Điều 13 nêu như sau:

“1. Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia.

2. Mọi người đều có quyền rời khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình, cũng như có quyền trở về nước mình.”

Quy định này cũng đã được khẳng định và cụ thể hóa trong các Điều 12, 13 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 mà Việt Nam đã gia nhập ngày 24 tháng 9 năm 1982.

“Điều 12.

1. Bất cứ ai cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó.

303 304

Page 88: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

2. Mọi người đều có quyền tự do rời khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình.

3. Những quyền trên đây sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ những hạn chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của người khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công nhận

4. Không ai bị tước đoạt một cách tùy tiện quyền được trở về nước mình.”

Quyền tự do đi lại, cư trú là một trong những quyền quan trọng cho sự phát triển cá nhân, đồng thời là tiền đề cho phát triển xã hội. Quyền tự do đi lại, tự do cư trú được đề cập trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 liên quan chặt chẽ đến các quyền:

- Tự do lựa chọn nơi sinh sống trên lãnh thổ quốc gia.

- Tự do đi lại trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

- Tự do đi khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình.

- Tự do trở về nước mình.

2. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chíXã hội là một cộng đồng gắn kết giữa các cá thể với nhau

thông qua giao tiếp. Con người cần sự tương tác lẫn nhau

trong cuộc sống. Điều này chỉ có thể thực hiện khi họ được tự do ngôn luận, tự do trao đổi thông tin.

Tự do ngôn luận được hiểu là sự bày tỏ ý kiến một cách công khai, rộng rãi của cá nhân, tổ chức với cộng đồng xã hội. Đây là quyền mang tính cá nhân, là quyền của mỗi cá nhân được tham gia vào xã hội theo cách được bày tỏ quan điểm của mình về các vấn đề của xã hội. Tự do ngôn luận, tự do báo chí là nền tảng tạo khả năng cho phép người dân lên tiếng và tham gia vào các hoạt động quản lý xã hội, là phương tiện liên lạc giữa nhà nước và nhân dân. Chỉ có tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin các cá nhân mới có thể thực sự tham gia vào xã hội và tiếp cận thông tin một cách tự do, thúc đẩy sự bình đẳng, không phân biệt đối xử, thúc đẩy quyền làm chủ của người dân.

Quyền tự do ngôn luận luôn gắn với tự do báo chí. Không có tự do ngôn luận thì không có tự do báo chí và nếu tự do báo chí không được bảo đảm thì tự do ngôn luận cũng bị hạn chế.

Quyền tự do ngôn luận được ghi nhận tại Điều 19 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 và Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 với tư cách là một trong những quyền tự do cá nhân cơ bản của quyền con người.

Điều 19 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 khẳng định:

“Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý

303 304

Page 89: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

kiến, kể cả tự do bảo lưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các tư tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không có giới hạn về biên giới”.

Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 đã tái khẳng định và cụ thể hóa nội dung quyền tự to ngôn luận trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948 như sau:

“1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp.

2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ.

3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 Điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:

a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,

b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội”.

3. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáoQuyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tự do lựa

chọn đức tin và thể hiện đức tin. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật quốc tế ghi nhận trong nhóm quyền dân sự và chính trị thuộc quyền con người và trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới như là một trong những quyền tự do cá nhân cơ bản của con người. Tuyên ngôn nhân quyền 1948 của Liên hợp quốc và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966 đã ghi nhận, khẳng định và đề cao yêu cầu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền này trong hệ thống pháp luật của mình.

Trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được đề cập đến ở Điều 18, trong đó nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập thể tại nơi công cộng hoặc riêng tư”.

Nội dung quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo trong Tuyên ngôn nhân quyền cũng được làm rõ hơn trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966. Đó là:

303 304

Page 90: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Thứ nhất, quyền lựa chọn theo hoặc không theo một tôn giáo nhất định.

Mọi người đều có quyền tự do lựa chọn việc theo hoặc không theo một tôn giáo, tín ngưỡng nào đó.

Thứ hai, quyền tự do thể hiện, thực hành tín ngưỡng, tôn giáo

Mọi người đều có quyền tự do bày tỏ, thể hiện đức tin của mình với tín ngưỡng, tôn giáo mình lựa chọn bằng nhiều hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, đi lễ nhà thờ… một cách công khai hoặc kín đáo.

Thứ ba, quyền thay đổi tín ngưỡng, tôn giáo

Việc theo hay không theo một tôn giáo phải được dựa trên cơ sở tự nguyện của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân đều có quyền tuyệt đối khi quyết định việc theo, không theo hay từ bỏ tôn giáo mà mình đã theo để đến với một tôn giáo khác. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ.

Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.

Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính

trị, 1966 nêu rõ:

“1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng.

2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ.

3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.

4. Các quốc gia thành viên Công ước cam kết tôn trọng quyền tự do của các bậc cha mẹ, và của những người giám hộ hợp pháp nếu có, trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện của riêng họ”.

4. Quyền tự do hội họp, lập hộiQuyền tự do hội họp, lập hội là một trong những quyền tự

do cơ bản của công dân. Dưới góc độ quyền con người, quyền tự do của mỗi cá nhân, quyền tự do lập hội cùng với quyền tự do hội họp một cách hòa bình, đầu tiên được ghi nhận trong

303 304

Page 91: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Điều 20 Tuyên ngôn nhân quyền 1948. Ngoài việc quy định mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hoà bình, Điều này còn nêu rõ không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào.

Điều 20 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 xác định:

“1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình.

2. Không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào”.

Tái khẳng định và cụ thể hóa quy định về quyền tự do lập hội trong Điều 20 Tuyên ngôn nhân quyền 1948, Điều 22 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966 nêu rõ: Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình. Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác.

Nội dung Điều 22 cho thấy quyền này bao gồm cả ba khía cạnh: lập ra các hội mới, gia nhập các hội đã có sẵn, và điều hành các hội, bao gồm cả việc tìm kiếm, huy động các nguồn kinh phí cho hoạt động.

Quyền tự do hội họp và tự do lập hội là những phương

tiện quan trọng giúp công dân thực thi các quyền dân sự, chính trị, cũng như các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khác. Thông qua việc thực hiện hai quyền tự do hội họp và tự do lập hội, các thành viên có thể bày tỏ quan điểm chính trị, tham gia vào các mục tiêu văn học và nghệ thuật và các hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa khác, hình thành và gia nhập các tổ chức công đoàn và hợp tác xã, bầu chọn những người lãnh đạo đại diện cho mình…

Điều 22 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, 1966:

1. Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình.

2. Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác. Điều này không ngăn cản việc đặt ra những hạn chế hợp pháp trong việc thực hiện quyền này đối với những người làm việc trong các lực lượng vũ trang và cảnh sát.

3. Không một quy định nào của điều này cho phép các quốc gia thành viên đã tham gia Công ước về tự do lập hội và bảo vệ quyền lập hội năm 1948 của Tổ chức Lao động quốc tế

303 304

Page 92: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

được tiến hành những biện pháp lập pháp hoặc hành pháp làm phương hại đến những bảo đảm nêu trong Công ước đó.

Quyền tự do hội họp, tự do lập hội là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ nhà nước tôn trọng việc hưởng thụ các quyền con người khác.

5. Quyền tự do kết hônKết hôn là việc thanh niên nam, nữ đến tuổi trưởng thành,

thống nhất cùng nhau chung sống và xây dựng một gia đình hòa thuận, hạnh phúc.

Quyền tự do kết hôn là một trong những quyền con người cơ bản. Dưới góc độ quyền tự do cơ bản của mỗi cá nhân, Điều 16 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 đề cập đến quyền tự do kết hôn, lập gia đình của cá nhân như sau:

“1. Nam và nữ khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình mà không có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam và nữ có quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong thời gian chung sống và khi ly hôn.

2. Việc kết hôn chỉ được tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai…”.

Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân thực chất bao gồm một số quyền có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Những quyền này có quan hệ mật thiết với quyền được

hỗ trợ để bảo vệ gia đình, quyền của các bà mẹ và trẻ em được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, cũng như với quyền bình đẳng của phụ nữ và quyền trẻ em được nêu ở một số điều khác của Công ước các quyền dân sự và chính trị, 1966.

Nội dung của Điều 16 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong Điều 23 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, 1966 quy định như sau:

“1. Gia đình là một tế bào cơ bản và tự nhiên của xã hội, cần phải được nhà nước và xã hội bảo hộ.

2. Quyền kết hôn và lập gia đình của nam và nữ đến tuổi kết hôn phải được thừa nhận.

3. Không được tổ chức việc kết hôn nếu không có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai.

4. Các quốc gia thành viên Công ước phải tiến hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm sự bình đẳng về quyền và trách nhiệm của vợ và chồng trong suốt thời gian chung sống và khi ly hôn. Trong trường hợp ly hôn, phải có quy định bảo đảm sự bảo hộ cần thiết với con cái”.

Có thể thấy những nội dung cơ bản của quyền tự do kết hôn ghi nhận trong Điều 16 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 và Điều 23 Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, 1966 gồm:

303 304

Page 93: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Thứ nhất, khẳng định quyền của nam và nữ đến tuổi kết hôn thì được kết hôn và lập gia đình một cách tự do, tự nguyện. Không được tổ chức việc kết hôn nếu không có sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyện của hai bên nam, nữ.

Thứ hai, quyền bình đẳng khi kết hôn, nam, nữ khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn mà không có bất kỳ sự phân biệt, hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo.

Thứ ba, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong thời gian chung sống và khi ly hôn. Tất cả các vấn đề nảy sinh trong đời sống gia đình trong thời gian chung sống, ví dụ như việc lựa chọn nơi cư trú, tổ chức cuộc sống, giáo dục con cái, quản lý tài sản... cũng như các vấn đề thủ tục ly hôn, việc trông nom, chu cấp, nuôi dưỡng, thăm nom con cái khi ly hôn đều phải giải quyết trên cơ sở bình đẳng, không được có bất cứ sự phân biệt đối xử nào giữa vợ và chồng.

6. Quyền có việc làm và được tự do lựa chọn việc làmQuyền có việc làm và được tự do lựa chọn việc làm, được

hưởng thù lao công bằng, hợp lý là một nhóm quyền cơ bản liên quan đến lĩnh vực lao động, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được đảm bảo điều kiện lao động hợp lý, được trả thù lao hợp lý, được đình công, quyền được nghỉ ngơi…

Điều 23 Tuyên ngôn nhân quyền 1948 quy định:

“1. Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp;

2. Mọi người đều có quyền được trả công ngang nhau cho những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào;

3. Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng và hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phẩm, và được trợ cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo trợ xã hội…”

Cụ thể hóa quyền có việc làm, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948, Điều 6 Công ước quốc tế về những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 (được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết số 2200 (XXI) ngày 16/12/1996, có hiệu lực ngày 23/3/1976) đã xác định rõ: Mọi người quyền làm việc và cam kết sẽ ban hành những biện pháp để bảo đảm quyền này. Quyền làm việc bao gồm quyền có cơ hội sinh sống nhờ công việc, quyền tự do nhận việc hay lựa chọn việc làm.

Điều 7 Công ước quốc tế về những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 khẳng định về quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc

303 304

Page 94: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

biệt với những bảo đảm:

Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải đảm bảo thoả đáng và công bằng, đảm bảo cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia đình họ. Tiền lương tương xứng và công bằng cho các công việc có giá trị ngang nhau không phân biệt đối xử. Đặc biệt phụ nữ được bảo đảm có những điều kiện làm việc tương xứng như nam giới, làm việc ngang nhau được trả lương ngang nhau.

Có điều kiện làm việc an toàn và không hại đến sức khoẻ.

Có cơ hội thăng tiến đồng đều cho mọi người và chỉ căn cứ vào thâm niên và khả năng.

Có quyền nghỉ ngơi và giải trí; được ấn định hợp lý số giờ làm việc, kể cả những ngày nghỉ định kỳ có trả lương và những ngày nghỉ lễ có trả lương.

Theo quan điểm đã được đưa ra trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948 và Công ước quốc tế về những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966, quyền có việc làm được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng thù lao công bằng có những nội dung chính sau:

- Mọi người đều có quyền làm việc;

- Mọi người đều có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp;

- Những người làm các công việc như nhau được trả công

ngang nhau mà không có sự phân biệt đối xử;

- Mọi người lao động đều được hưởng chế độ thù lao thỏa đáng, công bằng và đảm bảo cuộc sống tương đối đầy đủ cho bản thân và gia đình.

II. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ DO CÁ NHÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ở Việt Nam, từ khi thành lập đến nay, Nhà nước luôn ghi nhận và tôn trọng các quyền tự do cơ bản của công dân, coi đó là một trong những nguyên tắc xây dựng pháp luật của Nhà nước. Ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) của Nhà nước, các quyền tự do cơ bản của công dân như quyền bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng nam, nữ, quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do tổ chức hội hợp, tự do cư trú, tự do đi lại... đã được ghi nhận.

“Điều thứ 7

Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình”.

“Điều thứ 10

Công dân Việt Nam có quyền:

- Tự do ngôn luận

303 304

Page 95: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

- Tự do xuất bản

- Tự do tổ chức và hội họp

- Tự do tín ngưỡng

- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Việc ghi nhận, đề cao và tôn trọng các quyền tự do cơ bản của công dân là mục tiêu chính trong hoạt động quản lý, xây dựng Nhà nước Việt Nam. Trên tinh thần đó, ngày 24 tháng 9 năm 1980, Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, 1966. Luôn vì con người và đề cao nhân tố con người, xác định rõ con người là động lực cơ bản trong xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật Việt Nam luôn hướng đến việc ghi nhận và cụ thể hóa quyền con người trong các văn bản pháp luật, phù hợp với điều kiện của đất nước và pháp luật quốc tế mà Việt Nam tham gia, đồng thời Nhà nước cũng chú trọng việc tạo ra các cơ sở cần thiết đáp ứng nhu cầu đảm bảo thực hiện quyền con người trên thực tế.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, các quyền tự do cá nhân - những quyền con người cơ bản của công dân Việt Nam như: quyền tự do đi lại, tự do cư trú, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội, tự do nghiên cứu, sáng tác, tự do kinh doanh, tự do lựa chọn nghề

nghiệp, tự do hôn nhân, vv… đã được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Khiếu nại, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo..., và được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện thuận tiện để công dân thực hiện trong thực tế.

1. Quyền tự do đi lại, tự do cư trú Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quyền tự do đi lại, tự

do cư trú được xác định là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân, được ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992.

Điều 10 Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: “Công dân Việt nam có quyền tự do cư trú, tự do đi lại trong nước và ra nước ngoài”.

Nếu như trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 có quy định quyền tự do đi lại, tự do cư trú nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm vi tự do cư trú, tự do đi lại trong nước và ra nước ngoài thì đến Hiến pháp năm 1992 quyền tự do đi lại, tự do cư trú của công dân được khẳng định lại, bổ sung và mở rộng hơn về nội dung: công dân có quyền từ nước ngoài trở về nước theo quy định của pháp luật.

Điều 68 Hiến pháp năm 1992 khẳng định :

“Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước,

303 304

Page 96: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật”.

Quyền tự do đi lại, tự do cư trú được cụ thể hóa trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Cư trú năm 2006.

Dưới góc độ dân sự, quyền tự do đi lại, tự do cư trú được coi là một trong những quyền nhân thân của mỗi cá nhân.

Điều 48 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền tự do đi lại, tự do cư trú của cá nhân như sau:

“1. Cá nhân có quyền tự do đi lại, tự do cư trú.

2. Quyền tự do đi lại, tự do cư trú của cá nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”.

Quyền tự do đi lại, tự do cư trú của công dân liên quan đến việc bảo vệ trật tự công công, giữ gìn an ninh quốc gia và các quyền tự do của công dân khác, vì thế việc thực hiện quyền tự do cư trú cần tuân thủ các quy định của Luật Cư trú và các quy định khác của pháp luật liên quan.

Ví dụ: Ở khu vực biên giới quốc gia, khu an ninh, quân sự hoặc những nơi đang có dịch bệnh nguy hiểm, việc tự do đi lại, tự do cư trú của công dân ở những khu vực này có thể bị hạn chế trong những phạm vi, những khu vực và trong thời gian nhất định.

Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, nội dung quyền tự do đi lại, tự do cư trú của công dân được hiểu là:

- Quyền tự do đi lại trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

- Quyền tự do lựa chọn nơi sinh sống, nơi làm việc và nơi nghỉ ngơi trong phạm vi lãnh thổ nước mình.

- Quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về nước.

Quyền tự do đi lại, tự do cư trú của cá nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định

1.1. Quyền tự do đi lại trong phạm vi lãnh thổ quốc gia

Mọi cá nhân, bao gồm công dân Việt Nam và người nước ngoài có quyền tự do đi lại trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Quyền này được pháp luật đảm bảo và chỉ bị hạn chế trong những trường hợp đặc biệt, tại một số khu vực nhất định trên cơ sở quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

Người nước ngoài được đi lại tự do trên lãnh thổ Việt Nam phù hợp với mục đích nhập cảnh đã đăng ký, trừ khu vực cấm người nước ngoài đi lại.

1.2. Quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về nước

Để tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về nước, Nhà nước ban hành Nghị

303 304

Page 97: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, Nghị định số 65/2012/NĐ-CP ngày 06/9/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam. Theo quy định của Nghị định số 136/2007/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung, công dân Việt Nam được cấp hộ chiếu hoặc giấy tờ hợp lệ để xuất cảnh, nhập cảnh Việt Nam qua các cửa khẩu. Khi xuất cảnh, nhập cảnh, công dân Việt Nam không cần thị thực mà chỉ phải xuất trình hộ chiếu hoặc giấy thông hành do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. Trong một số trường hợp, công dân Việt Nam còn được cấp giấy tờ khác có giá trị để xuất cảnh, nhập cảnh Việt Nam. Giấy tờ khác bao gồm: giấy thông hành; Giấy thông hành biên giới; Giấy thông hành nhập xuất cảnh; Giấy thông hành hồi hương và Hộ chiếu thuyền viên.

Mọi công dân Việt Nam đều có quyền được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hộ chiếu hoặc giấy tờ hợp lệ để xuất cảnh. Trong trường hợp có nhu cầu trở về Việt Nam để làm ăn, sinh sống hay định cư lâu dài, công dân Việt Nam cũng được cấp giấy tờ nhập cảnh hợp pháp.

Quyền tự do đi khỏi và trở về nước mình có những ngoại lệ nhất định. Theo quy định của pháp luật về xuất cảnh và nhập cảnh, công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh nếu thuộc một trong những trường hợp pháp luật quy định cấm xuất

cảnh như: đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công tác điều tra tội phạm; đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự; đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế; đang chờ để giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh tế; vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội...

Về nguyên tắc, Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi đối với việc nhập cảnh, xuất cảnh của người nước ngoài. Ngược lại, người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của nhân dân Việt Nam. Người nước ngoài chưa được nhập cảnh hoặc có thể bị tạm hoãn xuất cảnh trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh.

1.3. Quyền tự do cư trú

Tự do cư trú là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận ngay từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và đến nay, quyền cơ bản đó vẫn tiếp tục được khẳng định tại Hiến pháp năm 1992, trong Bộ luật Dân sự, Luật Cư trú và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Để tạo điều kiện và bảo đảm cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú theo đúng quy định của pháp luật, ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật Cư trú trong đó quy định về quyền tự do cư trú của công dân trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội

303 304

Page 98: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

chủ nghĩa Việt Nam; trình tự, thủ tục đăng ký, quản lý cư trú; quyền, trách nhiệm của công dân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức về đăng ký, quản lý cư trú...

Việc ban hành Luật Cư trú nhằm tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú trong nước theo quy định, đồng thời xây dựng cơ sở pháp lý, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi khách quan trong quản lý nhà nước về đăng ký, quản lý cư trú trong tình hình, điều kiện mới khi mà Việt Nam hội nhập kinh tế, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế.

Điều 5 Luật Cư trú khẳng định: Nhà nước bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền tự do cư trú của công dân phải bị xử lý nghiêm minh. Trong Điều 5 Luật Cư trú cũng thể hiện rõ sự quan tâm của Nhà nước đối với hoạt động quản lý cư trú bằng cách bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất, nguồn lực cũng như về vật chất của Nhà nước cho hoạt động quản lý cư trú, xây dựng và tạo ra cơ sở vật chất phục vụ tốt hơn cho việc thực hiện quyền tự do cư trú của công dân; đồng thời, Nhà nước cũng sẽ ban hành các chính sách và biện pháp đồng bộ để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do cư trú của công dân.

Để tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú theo đúng quy định của pháp luật, Luật Cư trú quy định rõ các nguyên tắc cư trú và quản lý cư trú, đó là:

- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

- Bảo đảm hài hoà quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước, cộng đồng và xã hội; kết hợp giữa việc bảo đảm quyền tự do cư trú, các quyền cơ bản khác của công dân và trách nhiệm của Nhà nước với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

- Trình tự, thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú phải đơn giản, thuận tiện, kịp thời, chính xác, công khai, minh bạch, không gây phiền hà; việc quản lý cư trú phải bảo đảm hiệu quả.

- Mọi thay đổi về cư trú phải được đăng ký; mỗi người chỉ được đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú tại một nơi.

Luật Cư trú cũng xác định rõ những nội dung quyền cư trú của công dân và trách nhiệm của công dân về cư trú.

Theo quy định tại Điều 9 Luật Cư trú về quyền cư trú của công dân thì công dân có quyền tự mình lựa chọn, quyết định nơi thường trú, tạm trú phù hợp với quy định của pháp luật.

Quyền tự do cư trú của công dân còn được thể hiện qua việc công dân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú, tạm trú, quyền được cấp, cấp lại, đổi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú; được cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc thực hiện quyền cư trú; được yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm

303 304

Page 99: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

quyền thực hiện biện pháp bảo vệ quyền cư trú của mình, cụ thể:

“1. Lựa chọn, quyết định nơi thường trú, tạm trú của mình phù hợp với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Được cấp, cấp lại, đổi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú.

3. Được cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc thực hiện quyền cư trú.

4. Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ quyền cư trú của mình.

5. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với hành vi vi phạm pháp luật về cư trú theo quy định của pháp luật”.

Theo quy định tại Điều 10 Luật Cư trú, khi thực hiện quyền tự do cư trú, công dân phải có trách nhiệm:

“1. Chấp hành các quy định của pháp luật về cư trú.

2. Cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, tài liệu về cư trú của mình cho cơ quan, người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về thông tin, tài liệu đã cung cấp.

3. Nộp lệ phí đăng ký cư trú.

4. Xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên

quan đến cư trú khi cơ quan, người có thẩm quyền yêu cầu.

5. Báo ngay với cơ quan đã đăng ký cư trú khi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú bị mất hoặc bị hư hỏng”.

Cùng với việc bảo đảm và tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền tự do cư trú, Luật Cư trú cũng quy định nhóm các hành vi bị nghiêm cấm áp dụng đối với cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân nhằm bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân được thực hiện nghiêm chỉnh, không bị sách nhiễu, phiền hà khi thực hiện các thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú hoặc thông bảo lưu trú, đồng thời ngăn chặn các hành vi lợi dụng quyền tự do cư trú để xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm hiệu quả công tác quản lý cư trú. Cụ thể, Luật Cư trú nghiêm cấm các hành vi sau:

- Cản trở công dân thực hiện quyền tự do cư trú.

- Lạm dụng quy định về hộ khẩu để hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

- Nhận hối lộ, cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây phiền hà trong việc đăng ký, quản lý cư trú.

- Thu, sử dụng lệ phí đăng ký cư trú trái với quy định của pháp luật.

303 304

Page 100: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

- Tự đặt ra thời gian, thủ tục, giấy tờ, biểu mẫu trái với quy định của pháp luật hoặc làm sai lệch sổ sách, hồ sơ về cư trú.

- Cố ý cấp hoặc từ chối cấp giấy tờ về cư trú trái với quy định của pháp luật.

Đối với các tổ chức, cá nhân, luật nghiêm cấm việc:

- Lợi dụng quyền tự do cư trú để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

- Thuê, cho thuê, mượn, cho mượn, làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú; sử dụng giấy tờ giả về cư trú; cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về cư trú.

- Tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, môi giới, giúp sức, cưỡng bức người khác vi phạm pháp luật về cư trú.

2. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí2.1. Quyền tự do ngôn luận

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quyền tự do ngôn luận được xác định là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân và được ghi nhận trong Hiến pháp và trong nhiều văn bản luật, dưới luật như: Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn…

Qua các thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước, quyền tự do ngôn luận từng bước được mở rộng, bổ sung.

Điều 10 Hiến pháp năm 1946 quy định công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận.

Việc ghi nhận các quyền tự do cơ bản của công dân trong Hiến pháp đã thể hiện được bản chất của Nhà nước Việt Nam là Nhà nước dân chủ nhân dân, khẳng định quyền tự do, bình đẳng và quyền làm chủ đất nước của người dân Việt Nam.

Đến Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959, quyền tự do ngôn luận mở rộng hơn, cụ thể hơn. Điều 25 Hiến pháp 1959 khẳng định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó”.

Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định về quyền tự do ngôn luận của công dân. Điều 69 Hiến pháp năm 1992 quy định:

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.

Công dân có quyền tự do ngôn luận có nghĩa là công dân có quyền tự do phát biểu ý kiến, bày tỏ quan điểm, tham gia bàn bạc, thảo luận và đóng góp ý kiến của mình về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.

303 304

Page 101: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Quyền tự do ngôn luận là cơ sở bảo đảm cho công dân có điều kiện cần thiết để chủ động và tích cực tham gia vào công việc của Nhà nước và xã hội. Đây là một trong các quyền tự do cơ bản không thể thiếu của công dân trong một xã hội dân chủ, là chuẩn mực của một xã hội mà trong đó người dân thực sự được tự do, dân chủ và có quyền làm chủ đất nước mình.

Quyền tự do ngôn luận có ý nghĩa và có vị trí quan trọng trong hệ thống các quyền công dân, là cơ sở, là điều kiện để công dân tham gia chủ động và tích cực vào các hoạt động của Nhà nước và xã hội.

Quyền tự do ngôn luận của công dân được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau và ở các phạm vi khác nhau:

- Một là, công dân có thể sử dụng quyền tự do ngôn luận trong các cuộc họp ở cơ sở như cơ quan, trường học, tổ dân phố… bằng cách trực tiếp phát biểu ý kiến nhằm xây dựng cơ quan, trường học, địa phương mình.

- Hai là, công dân có thể bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước; về xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh; về việc ủng hộ cái đúng, cái tốt, phê phán và phản đối cái sai, cái xấu trong đời sống xã hội…; hoặc góp ý kiến vào các dự thảo Cương lĩnh, Chiến lược, dự thảo văn bản luật, bộ luật quan trọng,... theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước bằng cách

gửi bài đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo viết, báo hình, báo mạng và các phương tiện thông tin đại chúng khác…).

- Ba là, công dân có quyền trình bày, đề đạt nguyện vọng về những vấn đề mình quan tâm, đóng góp ý kiến, kiến nghị với các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân trong dịp các đại biểu tiếp xúc với cử tri ở cơ sở hoặc công dân có thể viết thư cho đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.

Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình.

Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân, tuy nhiên việc sử dụng quyền tự do ngôn luận phải tuân theo quy định của pháp luật, để phát huy tính tích cực và quyền làm chủ của công dân, góp phần xây dựng nhà nước, quản lý xã hội.

Nhà nước nghiêm cấm và có các hình thức xử lý nghiêm minh đối với những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận và các quyền tự do dân chủ khác của công dân để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Khoản 1, Điều 258 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của

303 304

Page 102: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân như sau: người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2.2. Quyền tự do báo chí

Quyền tự do báo chí cũng là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Quyền tự do báo chí có quan hệ chặt chẽ với quyền tự do ngôn luận và là một trong những phương thức thực hiện quyền tự do ngôn luận. Thông qua báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng, công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình bằng việc thể hiện quan điểm, các ý kiến riêng của bản thân, trao đổi thảo luận, góp ý với cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội về những vấn đề cụ thể, nhằm cải tiến cách làm việc, cải tiến hình thức hoạt động hoặc ủng hộ cái đúng, cái tốt, phê phán và phản đối cái sai, cái xấu v.v…

Quyền tự do báo chí được ghi nhận lần đầu trong Hiến pháp năm 1959, được khẳng định lại trong các bản Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992.

Điều 67 Hiến pháp năm 1980 quy định:

“Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp…

Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó.

Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân”.

Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về quyền tự do báo chí của công dân, ngày 28 tháng 12 năm 1989 tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII đã thông qua Luật Báo chí. Luật Báo chí được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 12/1999/QH10 ngày 12 tháng 6 năm 1999 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí.

Theo quy định của Luật Báo chí, quyền tự do báo chí của công dân thể hiện qua việc công dân có các quyền sau:

- Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới;

- Được tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo;

- Được gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin;

303 304

Page 103: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

- Được phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới;

- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, Chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.

Các cơ quan báo chí có trách nhiệm đăng, phát sóng tác phẩm, ý kiến của công dân, trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến. Trong trường hợp không đăng, phát sóng phải trả lời và nói rõ lý do.

Người đứng đầu cơ quan báo chí có quyền yêu cầu các tổ chức, người có chức vụ trả lời vấn đề mà công dân nêu ra trên báo chí; các tổ chức, người có chức vụ có trách nhiệm trả lời trên báo chí.

Tổ chức, công dân có quyền yêu cầu cơ quan báo chí trả lời về vấn đề mà báo chí đã thông tin và cơ quan báo chí có trách nhiệm trả lời.

Khi báo chí thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì phải đăng, phát sóng lời cải chính, xin lỗi.

Tổ chức, cá nhân có quyền phát biểu bằng văn bản về

những nội dung đề cập trên báo chí khi có căn cứ cho rằng báo chí đã thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến mình. Cơ quan báo chí phải đăng, phát sóng lời phát biểu của tổ chức, cá nhân đối với thông tin đã được đăng, phát sóng trên báo chí của mình.

Các cơ quan báo chí thực hiện quyền tự do báo chí và có trách nhiệm bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Cơ quan báo chí có trách nhiệm tiếp nhận và đăng, phát kiến nghị, phê bình, tin, bài, ảnh và các tác phẩm báo chí khác của công dân có nội dung phù hợp với tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, định hướng thông tin và không vi phạm các quy định về những điều không được thông tin trên báo chí.

Nhà nước khẳng định việc tạo điều kiện thuận lợi để báo chí phát huy đúng vai trò của mình là cầu nối giữa nhân dân và Nhà nước. Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Bên cạnh đó, pháp luật về xuất bản cũng đã ghi nhận: Nhà nước bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà xuất bản và bảo hộ quyền tác giả. Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được lợi dụng quyền phổ biến tác phẩm

303 304

Page 104: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

làm thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Nhà nước cũng bảo đảm và tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí. Tuy nhiên, Nhà nước cũng nghiêm cấm việc lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.

Để quyền tự do ngôn luận trên báo chí được sử dụng đúng đắn, Điều 10 Luật Báo chí quy định những điều không được thông tin trên báo chí, đó là:

- Không được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đoàn kết toàn dân;

- Không được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm ô, đồi trụy, tội ác;

- Không được tiết lộ bí mật Nhà nước; bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và những bí mật khác do pháp luật quy định;

- Không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của công dân.

3. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáoỞ Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận

trong Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và cụ thể hóa trong Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và nhiều văn bản pháp luật khác.

Xác định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền tự do cơ bản của công dân, là nhu cầu quan trọng trong đời sống tinh thần của một bộ phận rất lớn trong nhân dân, ngay từ Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đến Hiến pháp năm 1992, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân luôn được ghi nhận và khẳng định.

Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định:

“Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.

Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.

Điều 70 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định thái độ, quan điểm đúng đắn của Nhà nước ta về các vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo, nêu rõ sự bình đẳng trước pháp luật giữa các tôn

303 304

Page 105: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

giáo và nơi thờ tự của các tín ngưỡng tôn giáo được pháp luật bảo hộ.

Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng tôn giáo đều bình đẳng với nhau trước pháp luật và có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ công dân đối với nhà nước mà không bị phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều này cũng đã được ghi nhận trong Hiến pháp và cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật có liên quan.

Điều 54 Hiến pháp năm 1992 khẳng định:

“Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”.

Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội quy định:

“Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật”.

Cùng với việc cấm xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Hiến pháp cũng quy định cấm việc lợi dụng tự do tín

ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, phá hoại hòa bình, độc lập và sự thống nhất của Tổ quốc, chống lại lợi ích của Nhà nước và nhân dân hoặc lợi dụng quyền đó để có hành vi trục lợi trái pháp luật.

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, ngày 18 tháng 6 năm 2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh số 21/2004/PL-UBTVQH11 về tín ngưỡng, tôn giáo.

Điều 1 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo quy định:

“Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy.

Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.

Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau”.

Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng rõ ràng khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Một mặt Pháp lệnh đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác đã góp phần nâng

303 304

Page 106: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được hiểu là:

- Công dân có quyền tự do lựa chọn tôn giáo, tín ngưỡng mà mình theo hoặc không theo; người đã theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào đó có quyền thôi không theo tín ngưỡng, tôn giáo đó nữa, hoặc bỏ để theo tín ngưỡng, tôn giáo khác mà không ai được ngăn cấm, cưỡng bức hoặc cản trở.

- Người có tín ngưỡng, tôn giáo được tự do bày tỏ đức tin của mình; được thực hiện các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức tôn giáo.

- Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, người có tín ngưỡng, tôn giáo có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật.

- Người có tôn giáo và không có tôn giáo hoặc có tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau và đều bình đẳng trước pháp luật.

- Nhà nước thừa nhận và bảo đảm cho công dân có hoặc không có tôn giáo đều được hưởng đầy đủ các quyền công

dân và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân, không có sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo.

Điều 9 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo quy định:

“1. Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo.

2. Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, người có tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật”.

Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo hộ cơ sở vật chất, tài sản của các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo như chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, điện, đền, trụ sở của tổ chức tôn giáo, trường lớp tôn giáo; kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng của tín ngưỡng, tôn giáo.

Nhà nước nghiêm cấm việc ép buộc công dân theo đạo, bỏ đạo hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân

303 304

Page 107: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Mọi hành vi vi phạm đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Do hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng có liên quan đến nhiều mối quan hệ xã hội, nên Nhà nước ta cũng công khai khẳng định quan điểm hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cũng như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải trong khuôn khổ của pháp luật Việt Nam. Việc quy định các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với văn hoá dân tộc và trong phạm vi pháp luật chính là nhằm bảo đảm cho việc thực hiện quyền tự do của các công dân khác và cho chính nhu cầu chính đáng của những người có tín ngưỡng, tôn giáo. Vì vậy, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo có một số điều quy định bất kể ai cũng không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn

giáo theo đúng quy định của pháp luật.

Điều 8 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo quy định:

“1. Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

2. Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác”.

Đặc biệt, Nhà nước khẳng định thái độ kiên quyết đình chỉ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nếu thuộc một trong các trường hợp sau: xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng hoặc môi trường; tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác (Điều 15 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo).

Cùng với việc ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân, Nhà nước cũng khẳng định trách nhiệm trong

303 304

Page 108: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật; tôn trọng, phát huy giá trị văn hoá, đạo đức tôn giáo; giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng nhằm góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng nhu cầu tâm linh và đời sống tinh thần của nhân dân.

Nhờ có chính sách tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và được bổ sung theo sự phát triển của xã hội nên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn luôn được mở rộng và đảm bảo.

Điều 5 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo khẳng định:

“Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật; tôn trọng, phát huy giá trị văn hoá, đạo đức tôn giáo; giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng nhằm góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng nhu cầu tâm linh và đời sống tinh thần của nhân dân”.

Với 41 điều quy định, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo đã bao quát hầu hết các nội dung liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, quản lý đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và việc xử lý đối với các

hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo…

Bên cạnh các quy định trong Hiến pháp và văn bản pháp luật chuyên biệt, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn được cụ thể hoá trong nhiều bộ luật, luật quan trọng khác của Nhà nước Việt Nam như : Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân…

Trong Bộ luật Dân sự năm 2005, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo cũng được ghi nhận như một quyền nhân thân gắn với mỗi cá nhân và là một quyền dân sự trong số các quyền tự do cá nhân.

Điều 47 Bộ luật Dân sự quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như sau:

“1. Cá nhân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

2. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.

Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định:

“Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín

303 304

Page 109: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”.

Trong hoạt động tố tụng hình sự, một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo,... Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Điều 5 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định:

“Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”.

Từ những quy định trên của pháp luật Việt nam có thể khẳng định pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã thể hiện được đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nêu trong Tuyên ngôn nhân quyền 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân ở Việt Nam được pháp luật ghi nhận phù hợp với quy định của Công ước quốc tế về các quyền dân sự mà Việt nam đã tham gia.

Cùng với việc khẳng định Nhà nước ghi nhận quyền tự

do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật, pháp luật cũng quy định việc xử lý nghiêm minh đối với các hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

Những người có hành vi cản trở công dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì tùy theo tính chất, mức độ của hành vi, có thể bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính hoặc hình sự.

Điều 129 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân như sau:

“1. Người nào có hành vi cản trở công dân thực hiện quyền hội họp, quyền lập hội phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

2. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

4. Quyền tự do hội họp, lập hội

303 304

Page 110: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Pháp luật Việt Nam ghi nhận quyền tự do hội họp, lập hội là một trong những quyền cơ bản của công dân Việt Nam được quy định tại Hiến pháp năm 1946 (Điều 10), Hiến pháp năm 1959 (Điều 25), Hiến pháp năm 1980 (Điều 67) và Hiến pháp năm 1992 (Điều 69). Đây là một trong những quyền tự do dân chủ của công dân được Nhà nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện.

Điều 69 Hiến pháp năm 1992 khẳng định:

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.

Theo quy định của Hiến pháp, quyền tự do hội họp, lập hội bao gồm hai nội dung: quyền tự do hội họp và quyền lập hội.

Quyền tự do hội họp là quyền của công dân được tập trung thảo luận, bàn bạc góp ý kiến về các vấn đề chung của Nhà nước, của xã hội. Quyền tự do hội họp còn được sử dụng để thảo luận, giải quyết các công việc nội bộ trong cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hay ở khu dân cư…

Quyền lập hội là quyền của công dân có thể tự do tham gia vào các tổ chức đoàn thể như Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh v,v… hoặc tham gia thành lập các Hội nghề nghiệp như Hội khuyến học, Hội

sinh vật cảnh hay tập hợp nhóm người có cùng một điểm chung nào đó như cùng sở thích, thói quen, cùng nghề nghiệp, cùng trường, lớp… để trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, giúp đỡ nhau trong công việc hay cùng nhau làm những việc có ích cho xã hội.

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp và tạo cơ sở pháp lý để công dân thực hiện quyền lập hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội; trong đó quy định rõ nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hội, điều kiện, thủ tục thành lập hội, cơ cấu tổ chức của hội, quyền, nghĩa vụ của hội, quản lý nhà nước đối với hội…

Hiến pháp khẳng định công dân có quyền hội họp, lập hội, tuy nhiên, để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, Hiến pháp cũng nêu rõ công dân chỉ được thực hiện những quyền trên trong khuôn khổ pháp luật quy định.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mọi hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ, lợi dụng quyền tự do hội họp và lập hội để gây rối trật tự công cộng, phá hoại, chống lại nền độc lập dân tộc, xâm hại tới lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân đều bị nghiêm cấm và trừng trị.

303 304

Page 111: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Mặt khác, những người có hành vi cản trở công dân thực hiện quyền hội họp, quyền lập hội phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của nhân dân, thì tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, hoặc xử phạt hành chính hay xử lý hình sự.

Điều 258 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân như sau:

“1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

5. Quyền tự do kết hôn Trong pháp luật Việt Nam, quyền tự do kết hôn được ghi

nhận trong Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và tập trung nhất trong Luật Hôn nhân và gia đình. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam là “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Dựa trên nguyên tắc này, Điều 39 Bộ luật

Dân sự năm 2005 quy định về quyền tự do kết hôn của công dân như sau:

“Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn.

Việc tự do kết hôn giữa những người thuộc các dân tộc, tôn giáo khác nhau, giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trong và được pháp luật bảo vệ”.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, quyền tự do kết hôn của công dân được hiểu là:

Chỉ những người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình mới có quyền tự do kết hôn.

Việc thực hiện quyền tự do kết hôn không có sự phân biệt về quốc tịch, dân tộc, tôn giáo. Những người thuộc các dân tộc, tôn giáo khác nhau, những người theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo, công dân Việt Nam và người nước ngoài, nếu đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam đều có thể kết hôn với nhau. Việc kết hôn giữa những người này được thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.

Để tạo cơ sở pháp lý giúp công dân thực hiện quyền tự do kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, Nhà nước ban hành Luật

303 304

Page 112: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Hôn nhân và gia đình; trong đó quy định chế độ hôn nhân và gia đình, quy định trách nhiệm của công dân, của Nhà nước và của xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình cũng đưa ra các chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, chế độ hôn nhân và gia đình được thiết lập trên những nguyên tắc cơ bản sau:

“1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

3. Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.

4. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau.

5. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi,

con trong giá thú và con ngoài giá thú.

6. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ”.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, nam nữ được tự do kết hôn trên cơ sở tự nguyện quyết định, bình đẳng. Nam nữ được tự do lựa chọn, tự nguyện, tự quyết định việc kết hôn trên cơ sở bình đẳng trong việc kết hôn, bình đẳng trong quan hệ hôn nhân, quan hệ vợ - chồng.

Tuy nhiên, để quan hệ hôn nhân đó được pháp luật công nhận và bảo hộ việc kết hôn phải tuân thủ các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn.

Về điều kiện kết hôn

Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nêu rõ nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

“1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;

2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;

3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp

303 304

Page 113: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

cấm kết hôn theo quy định tại Điều 10 của Luật này”.

Đối với việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn và người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.

Trường hợp người nước ngoài kết hôn với nhau tại Việt Nam, trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mà họ là công dân hoặc thường trú (đối với người không quốc tịch) về điều kiện kết hôn, ngoài ra, còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn.

Theo quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:

“1. Người đang có vợ hoặc có chồng;

2. Người mất năng lực hành vi dân sự;

3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;

4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là

cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

5. Giữa những người cùng giới tính”.

Pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và thực hiện theo nghi thức pháp luật quy định. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Về thẩm quyền đăng ký kết hôn

Việc kết hôn giữa các công dân Việt Nam với nhau ở trong nước được thực hiện tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn.

Trong trường hợp cả hai bên nam, nữ là công dân Việt Nam đang trong thời hạn công tác, học tập lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, đã cắt hộ khẩu thường trú ở trong nước, thì việc đăng ký kết hôn được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú trước khi xuất cảnh của một trong hai bên nam, nữ (Điều 17 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP).

Trường hợp công dân Việt Nam đăng ký kết hôn với người nước ngoài tại Việt Nam thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

303 304

Page 114: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

nơi thường trú của công dân Việt Nam là cơ quan có thẩm quyền thực hiện đăng ký việc kết hôn. Trong trường hợp công dân Việt Nam không có hoặc chưa có hộ khẩu thường trú, nhưng đã đăng ký tạm trú có thời hạn theo quy định của pháp luật về hộ khẩu thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi tạm trú có thời hạn của công dân Việt Nam thực hiện đăng ký việc kết hôn giữa người đó với người nước ngoài.

Trong trường hợp người nước ngoài thường trú tại Việt Nam xin kết hôn với nhau thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của một trong hai bên đương sự thực hiện đăng ký việc kết hôn.

Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam tại nước tiếp nhận nơi cư trú của công dân Việt Nam là cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài và giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cư trú tại nước đó.

Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.

Để bảo vệ quyền tự do kết hôn của công dân, định hướng công dân thực hiện quyền tự do kết hôn theo đúng quy định

của pháp luật, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định về xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật hôn nhân và gia đình như cưỡng ép kết hôn, tổ chức tảo hôn, kết hôn trái pháp luật… như Bộ luật Hình sự, Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình…

Điều 8 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP quy định việc xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng như sau:

“1. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng;

b) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng;

c) Kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;

d) Kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi;

đ) Kết hôn giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

303 304

Page 115: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

e) Kết hôn giữa những người cùng giới tính.

2. Hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khác:

Buộc chấm dứt quan hệ hôn nhân trái pháp luật đối với trường hợp vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này”.

Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ như sau:

“Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”.

6. Quyền có việc làm và được tự do lựa chọn việc làmTrong pháp luật Việt Nam, quyền làm việc và tự do lựa

chọn việc làm được ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại...

Quyền được có việc làm được Nhà nước ta ghi nhận lần đầu trong Hiến pháp 1959 (Điều 30) và tiếp tục được khẳng định tại Điều 58 của Hiến pháp 1980. Cùng với việc khẳng

định quyền được lao động, Hiến pháp còn nhấn mạnh đến nghĩa vụ của mỗi công dân, đó là: “Người có sức lao động phải lao động theo quy định của pháp luật”. Đồng thời, Hiến pháp 1980 cũng xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo cho nhân dân thực hiện quyền có việc làm của mình “Nhà nước dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa mà tạo thêm việc làm, sắp xếp công việc căn cứ vào năng lực, nguyện vọng cá nhân và yêu cầu của xã hội…” (Điều 58).

Điều 58 Hiến pháp năm 1980 quy định về quyền có việc làm của công dân như sau:

“… Công dân có quyền có việc làm. Người lao động phải lao động theo quy định của pháp luật.

Nhà nước dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa mà tạo thêm việc làm, sắp xếp công việc căn cứ vào năng lực, nguyện vọng của cá nhân và yêu cầu của xã hội, nâng cao trình độ nghề nghiệp, bồi dưỡng sức lao động, không ngừng cải thiện điều kiện làm việc của lao động chân tay và lao động trí óc”.

Tiếp đến, quyền lao động tiếp tục được bổ sung ngày càng cụ thể hơn trong Hiếp pháp năm 1992, Hiến pháp của thời kỳ đổi mới và toàn cầu hóa. Điều 55 Hiến pháp năm 1992 quy định:

“Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người

303 304

Page 116: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

lao động”.

Trong Bộ luật Dân sự quyền có việc làm được biểu đạt thông qua quyền lao động và được coi là một trong những quyền nhân thân cơ bản của công dân. Điều 49 Bộ luật Dân sự quy định về quyền lao động của công dân như sau:

“Cá nhân có quyền lao động.

Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo”.

Quyền lao động là một trong những quyền cơ bản của con người và việc bảo đảm quyền lao động cho công dân là một trong những tiêu chí đánh giá sự tiến bộ của chế độ xã hội.

Để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện quyền được lao động của người dân, Nhà nước đã ban hành Bộ luật Lao động cụ thể hóa quyền có việc làm, quyền tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp của người lao động. Bộ luật Lao động cũng là công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hoà và ổn định.

Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về quyền có làm việc, tự do lựa chọn việc làm, được hưởng thù

lao như sau:

“1. Người lao động có các quyền sau đây:

a) Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử;

b) Hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên cơ sở thoả thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và được hưởng phúc lợi tập thể;…”.

Người lao động được quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm.

Người lao động được trực tiếp liên hệ với người sử dụng lao động hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm để tìm việc làm theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ của mình. (Điều 10. Quyền làm việc của người lao động).

Nhà nước có trách nhiệm xác định chỉ tiêu tạo việc làm tăng thêm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm, hằng năm.

Có chính sách bảo hiểm thất nghiệp, các chính sách

303 304

Page 117: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

khuyến khích để người lao động tự tạo việc làm; hỗ trợ người sử dụng lao động sử dụng nhiều lao động nữ, lao động là người khuyết tật, lao động là người dân tộc ít người để giải quyết việc làm.

Đồng thời, Nhà nước cũng đề ra hàng loạt các chương trình kinh tế - xã hội to lớn, đồng bộ với nhiều hoạt động như: Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm với những hoạt động: thực hiện quỹ quốc gia tạo việc làm; thành lập các ngân hàng người nghèo; giao quyền sử dụng ruộng đất để khuyến khích trồng rừng, chương trình hỗ trợ đánh bắt xa bờ...

Bên cạnh đó, để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để tạo việc làm cho người lao động, Nhà nước cũng ban hành một hệ thống các chủ trương, chính sách thông thoáng thu hút sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài, nhằm tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động, tạo điều kiện cho những người trong độ tuổi lao động đều có thể thực hiện quyền lao động của mình. Các công ty xuyên quốc gia, các công ty liên doanh xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam, giải quyết việc làm cho hàng triệu người lao động, giúp người lao động có thu nhập ổn định cuộc sống cho bản thân và đóng góp công sức cho sự phát triển kinh tế đất nước…

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động Bộ luật Lao động cũng đưa ra các quy định về hợp đồng lao động, hình thức hợp đồng lao động, nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động, nghĩa vụ, trách nhiệm của người sử dụng lao động và phương thức giải quyết tranh chấp lao động…

Điều 194 Bộ luật Lao động quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động như sau:

“1. Tôn trọng, bảo đảm để các bên tự thương lượng, quyết định trong giải quyết tranh chấp lao động.

2. Bảo đảm thực hiện hoà giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái pháp luật.

3. Công khai, minh bạch, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng pháp luật.

4. Bảo đảm sự tham gia của đại diện các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động.

5. Việc giải quyết tranh chấp lao động trước hết phải được hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội…”.

7. Quyền tự do kinh doanhKinh doanh là một trong những hình thức lao động cụ thể.

303 304

Page 118: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Quyền tự do kinh doanh là sự cụ thể hóa quyền có việc làm, tự do lựa chọn việc làm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, và là một nội dung quan trọng của quyền kinh tế. Quyền tự do kinh doanh được Nhà nước Việt Nam ghi nhận qua các Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992. Quyền tự do kinh doanh cũng được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại và trong nhiều đạo luật khác của Nhà nước.

Điều 57 Hiến pháp năm 1992 khẳng định:

“Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.

Có thể thấy rằng, so với các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 1992 đã thể hiện sự đổi mới, thể hiện một bước chuyển biến căn bản trong nhận thức và tư duy kinh tế của Đảng và Nhà nước ta về chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa đa thành phần theo cơ chế thị trường đại hướng xã hội chủ nghĩa, đa sở hữu và bảo đảm quyền tự do sản xuất, kinh doanh của công dân, biểu hiện tập trung của quyền kinh tế.

Trong Bộ luật Dân sự, quyền tự do kinh doanh được ghi nhận trong nhóm các quyền nhân thân và được pháp luật bảo vệ. Điều 50 Bộ luật Dân sự quy định:

“Quyền tự do kinh doanh được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, thành lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật”.

Tự do kinh doanh theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Bộ luật Dân sự được hiểu là mọi công dân khi có đủ điều kiện do pháp luật quy định đều có quyền tiến hành hoạt động kinh doanh sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận đăng ký kinh doanh. Theo đó, công dân có quyền tự mình lựa chọn và quyết định ngành, nghề, lĩnh vực, mặt hàng kinh doanh, quy mô kinh doanh lớn hay nhỏ, hình thức tổ chức hoạt động kinh doanh.

Ví dụ: công dân thành lập doanh nghiệp tư nhân, hoặc tham gia thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn để sản xuất, kinh doanh hàng may mặc, tiêu dùng…

Trên tinh thần của Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, quy định chi tiết những nội dung cơ bản của quyền tự do kinh doanh của công dân như: thủ tục, thẩm quyền đăng ký kinh doanh, thủ tục thành lập doanh nghiệp, quyền tự do ký kết hợp đồng, …

Cụ thể hóa nội dung quyền tự do kinh doanh, Luật doanh nghiệp năm 2005 có các quy định về quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần và quản lý doanh nghiệp, quyền của

303 304

Page 119: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

doanh nghiệp…

Điều 8 Luật Doanh nghiệp ghi nhận doanh nghiệp có các quyền:

“1. Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh; được Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích.

2. Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn.

3. Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng.

4. Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu.

5. Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh.

6. Chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh.

7. Tự chủ quyết định các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ.

8. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp.

9. Từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không

được pháp luật quy định.

10. Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

11. Trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

12. Các quyền khác theo quy định của pháp luật”.

Bên cạnh đó, Luật Đầu tư cũng đưa ra các quy định cụ thể hóa nội dung quyền tự do kinh doanh trong lĩnh vực đầu tư, bao gồm:

- Nhà đầu tư có quyền tự do lựa chọn lĩnh vực đầu tư và hình thức đầu tư trong những lĩnh vực p háp luật không cấm.

- Nhà đầu tư có quyền tự do lựa chọn phương thức huy động vốn, địa bàn đầu tư, quy mô đầu tư, đối tác đầu tư và thời hạn hoạt động của dự án đầu tư.

- Nhà đầu tư được quyền thành lập doanh nghiệp theo quy định của p háp luật ; tự quyết định về hoạt động đầu tư, kinh doanh đã đăng ký.

Để khuyến khích công dân thuộc mọi thành phần kinh tế yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, khuyến khích việc làm giàu chính đáng, tạo điều kiện để giải phóng mọi sức lao động, phát triển lực lượng sản xuất, Hiến pháp năm 1992 quy định, công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của

303 304

Page 120: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

cải để dành, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân (Điều 58).

Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng xác định rõ trách nhiệm bảo đảm của Nhà nước đối với doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Điều 5 Luật Doanh nghiệp về bảo đảm của Nhà nước đối với doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp quy định:

“1. Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật này; bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh.

2. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp.

3. Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.

Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản

của doanh nghiệp thì doanh nghiệp được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố trưng mua hoặc trưng dụng. Việc thanh toán hoặc bồi thường phải bảo đảm lợi ích của doanh nghiệp và không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp”.

Như vậy, trong cơ chế mới, cùng với việc thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của mọi thành phần kinh tế, Nhà nước xóa bỏ sự độc quyền kinh doanh của các cơ sở kinh tế thuộc khu vực nhà nước, mở rộng nội dung quyền tự do kinh doanh của cá nhân. Không chỉ dừng lại ở đó, Nhà nước còn chủ động tạo ra những cơ chế, chính sách thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Theo quy định của Hiến pháp, “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Vì vậy, khi tiến hành các hoạt động kinh doanh, công dân phải thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật quy định chung cho mọi đối tượng, mọi thành phần kinh tế và nghĩa vụ riêng đối với từng đối tượng, từng thành phần kinh tế, từng loại hình doanh nghiệp, từng ngành, nghề kinh doanh. Nhìn chung, nghĩa vụ của nhà sản xuất, kinh doanh bao gồm:

- Kinh doanh đúng ngành, nghề ghi trong giấy phép kinh doanh và những ngành, nghề mà pháp luật không cấm;

303 304

Page 121: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

- Nộp thuế đầy đủ theo quy định của pháp luật;

- Bảo vệ môi trường;

- Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng;

- Tuân thủ các quy định về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội v.v…

Như vậy, có thể khẳng định rằng, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đã ghi nhận rõ ràng, đầy đủ quyền tự do sản xuất, kinh doanh của công dân. Sự đúng đắn của chính sách, sự minh bạch của pháp luật là yếu tố quan trọng khơi dậy những tiềm năng sáng tạo vô tận của con người và những nguồn lực to lớn trong xã hội, tạo ra những bước phát triển to lớn trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước.

Chuyên đề 4

QUYỀN THAM GIA VÀO ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ

I. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ QUYỀN THAM GIA VÀO ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾQuyền tham gia vào đời sống chính trị (The Right to

participation in pilitical life) là một trong những quyền dân sự, chính trị quan trọng của công dân. Quyền tham gia vào đời sống chính trị đầu tiên được ghi nhận trong Điều 21 Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế (UDHR). Theo Điều này thì mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình, một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ được tự do lựa chọn. Mọi người đều có quyền được tiếp cận các dịch vụ công cộng ở nước mình một cách bình đẳng.

Tiếp theo, Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) đã tái khẳng định và cụ thể hóa quy định trong Điều 21 UDHR, trong đó nêu rõ: “Mọi công dân, không có bất kỳ sự phân biệt nào... và không có bất kỳ sự hạn chế bất hợp lý nào, đều có quyền và cơ hội để: a) Tham gia

303 304

Page 122: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự do lựa chọn; b) Bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ chân thực, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, nhằm đảm bảo cho cử tri được tự do bày tỏ ý nguyện của mình; c) Được tiếp cận với các chức vụ công ở đất nước mình trên cơ sở bình đẳng”.

II. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ QUYỀN THAM GIA VÀO ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAMHiện nay, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã ghi nhận

và bảo đảm cho quyền tham gia vào đời sống chính trị được thực hiện trên thực tế. Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tham gia vào đời sống chính trị khá đầy đủ và tương đối phù hợp với quy định của ICCPR và UDHR. Việc ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam về quyền tham gia vào đời sống chính trị (bao gồm các quyền bầu cử, quyền ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền khiếu nại, quyền tố cáo…) của công dân nhằm thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, khẳng định nền tảng của việc quản lý nhà nước và xã hội là phải trên cơ sở đồng thuận của nhân dân, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội, thực hiện phương châm mọi công việc của Nhà nước, của xã hội được

“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

1. Quyền bầu cử, ứng cửQuyền bầu cử, ứng cử là một trong những quyền chính trị

cơ bản của công dân Việt Nam, được quy định trong Hiến pháp, tạo cơ sở pháp lý cho công dân trực tiếp tham gia xây dựng chính quyền, xây dựng nhà nước của nhân dân.

Điều 54 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”.

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Bầu cử, vì vậy, trở thành yếu tố quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ và là biểu hiện, thước đo của dân chủ. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta đã hoàn thiện và phát triển “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân để phục vụ cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 diễn ra trong

303 304

Page 123: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

cùng một ngày. Ngày 22/5/2011 đã được chọn là ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016. Kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 với tổng số cử tri đi bầu là 61.965.651 người (đạt 99,51%) đã cho thấy người dân ngày càng ý thức rõ hơn về quyền bầu cử của mình và khẳng định ý thức chính trị, trách nhiệm công dân và vai trò quan trọng của mình trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội.

1.1. Quyền bầu cử

Bầu cử là việc các cử tri bỏ phiếu lựa chọn những người có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ theo quy định của pháp luật để đại diện cho mình tham gia vào hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp).

Quyền bầu cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thực hiện quyền lựa chọn người đại biểu của mình ở cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền bầu cử bao gồm việc đề cử, giới thiệu người ứng cử và bỏ phiếu, tức là quyền chủ động trong lựa chọn của công dân.

1.1.1. Về chủ thể của quyền bầu cử

Theo quy định pháp luật, công dân nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử.

Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội quy định: “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật”.

Một cách tương tự, Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định: “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”.

Bên cạnh việc khẳng định quyền bầu cử thuộc về công dân Việt Nam, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội 2001 và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 cũng quy định rõ những trường hợp bị hạn chế quyền này, đó là những người không được ghi tên vào danh sách cử tri.

303 304

Page 124: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Những người không được ghi tên vào danh sách cử tri là người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự.

Tuy nhiên, những người nêu trên có thể được bổ sung vào danh sách cử tri. Các trường hợp được bổ sung vào danh sách cử tri được quy định: người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật, người đang phải chấp hành hình phạt tù, người đang bị tạm giam hoặc người mất năng lực hành vi dân sự mà cho đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu hai mươi bốn giờ được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả lại tự do hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri.

Ngược lại, một người có thể bị xóa tên khỏi danh sách cử tri nếu thuộc trường hợp sau: người đã có tên trong danh sách cử tri mà đến thời điểm bắt đầu bỏ phiếu bị Tòa án tước quyền bầu cử, phải chấp hành hình phạt tù, bị bắt tạm giam hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì Tòa án nhân dân hoặc cơ quan hữu quan phải thông báo cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn đã lập danh sách cử tri để xóa tên người đó trong danh sách cử tri và thu hồi thẻ cử tri.

1.1.2. Về nguyên tắc bầu cử

Nguyên tắc bầu cử là điều kiện được quy định bởi pháp luật bầu cử, mà việc thực hiện và tuân thủ quy định đó trong quá trình bầu cử quyết định tính hợp pháp của cuộc bầu cử. Nguyên tắc bầu cử được thể hiện chặt chẽ, thống nhất và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tiến hành bầu cử, bảo đảm cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn. Nguyên tắc bầu cử yêu cầu phải quy định rõ quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm các quy định về bầu cử.

Ở Việt Nam, các nguyên tắc bầu cử theo quy định của pháp luật gồm bốn nguyên tắc đó là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Điều 7 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Đó cũng là những tư tưởng chỉ đạo trong việc tổ chức bầu cử, thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta.

Nội dung tương tự cũng được tìm thấy trong Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo đó, Điều 1 Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội 1997 quy định: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tiến hành theo nguyên tắc phổ

303 304

Page 125: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Điều 1 Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân 2003 cũng quy định: “Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Thực tế cho thấy, nội dung các quy định trong Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân đều nhất quán tuân thủ nguyên tắc bầu cử này.

Nội dung cụ thể của nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín bao gồm:

- Nguyên tắc phổ thông được hiểu là phổ thông đầu phiếu để bảo đảm cho mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền tham gia bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.

Nguyên tắc bầu cử phổ thông bảo đảm sự tham gia bầu cử của mọi tầng lớp nhân dân. Bởi bầu cử không là đặc quyền, đặc lợi của bộ phận nào trong xã hội. Yêu cầu của nguyên tắc này là Nhà nước phải bảo đảm để cuộc bầu cử thực sự trở thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính dân chủ, công khai và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong bầu cử. 

- Bình đẳng trong bầu cử là nguyên tắc nhằm bảo đảm tính khách quan, không thiên vị để mọi công dân đều có cơ hội ngang nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng là mỗi cử tri có một phiếu bầu đối với một cuộc bầu cử và giá trị phiếu bầu như nhau không phụ thuộc vào giới tính, địa vị xã hội, sắc tộc, tôn giáo v.v.

Nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng, miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ phải có tỷ lệ đại biểu thích đáng trong Quốc hội.

- Bầu cử trực tiếp, có nghĩa là công dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình qua lá phiếu, công dân trực tiếp bầu ra đại biểu của mình chứ không qua một cấp đại diện cử tri nào. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp đòi hỏi cử tri không được nhờ người bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng cách gửi thư. Cử tri tự bỏ lá phiếu bầu vào hòm phiếu. Trường hợp cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu; cử tri do ốm đau, già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở của cử tri để cử tri

303 304

Page 126: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

nhận phiếu bầu và bầu.

- Bỏ phiếu kín cho phép người đi bầu tự do biểu lộ ý chí, không ai được xem phiếu bầu của cử tri, cử tri không viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết, người viết hộ phải đảm bảo giữ bí mật thông tin trong phiếu bầu của cử tri. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tự do đầy đủ sự thể hiện ý chí của cử tri.

1.1.3. Về ngày bầu cử và việc bỏ phiếu

- Ngày bầu cử: Việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được tiến hành trong cùng một ngày trên cả nước.

Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày bầu cử để bảo đảm mọi công dân có điều kiện tham gia thực hiện một cách đầy đủ quyền bầu cử của mình.

Trong trường hợp đặc biệt do thiên tai, địch hoạ hoặc ở hải đảo, vùng núi, vùng cao, vùng xa, vùng sâu, vùng đi lại khó khăn... cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định ở khu vực bỏ phiếu nào, thì Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu đó phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử để đề nghị Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.

- Việc bỏ phiếu: được bắt đầu từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối cùng ngày. Đây là khoảng thời gian thuận lợi và phù hợp nhất đối với mọi người trong ngày. Tuy nhiên, tuỳ tình hình thực tế ở địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu bỏ phiếu sớm hơn, nhưng không được trước 5 giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không quá 10 giờ đêm.

Trong ngày bầu cử, các thành viên của Tổ bầu cử phải đến sớm hơn 7 giờ sáng hoặc sớm hơn giờ khai mạc mà Tổ đã quy định để kiểm tra nơi bỏ phiếu và tiến hành khai mạc cuộc bỏ phiếu.

Khi đã hết giờ bỏ phiếu, nếu còn cử tri ở phòng bỏ phiếu mà chưa kịp bỏ phiếu thì chỉ sau khi số cử tri này bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử mới được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu. 

1.1.4. Về tiến trình bầu cử

Toàn bộ tiến trình bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân được quy định cụ thể, rõ ràng trong Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội năm 1997 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001, 2010) và Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 (được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2010).

Một cuộc bầu cử được coi là bầu cử dân chủ và đúng pháp luật phải đảm bảo các yếu tố sau đây:

303 304

Page 127: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

- Việc bầu cử phải tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín;

- Bảo đảm các quyền bầu cử, ứng cử, vận động bầu cử. Quy định cụ thể những trường hợp bị tước quyền bầu cử, ứng cử; những trường hợp không được thực hiện quyền bầu cử, ứng cử và những trường hợp không tham gia bầu cử;

- Quy định rõ quy trình, thủ tục các bước giới thiệu người ứng cử, hiệp thương giới thiệu người ứng cử, bầu bổ sung, bầu cử lại, bầu cử thêm để đảm bảo lựa chọn được những người xứng đáng ứng cử đại biểu Quốc hội;

- Bảo đảm quyền của cử tri nơi người ứng cử công tác, làm việc, cư trú được nhận xét, bày tỏ ý kiến của mình về sự tín nhiệm đối với người ứng cử;

- Quy định rõ tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác bầu cử;

- Việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo về bầu cử phải được thực hiện nghiêm túc, nhanh chóng; các vi phạm về bầu cử phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật.

Đồng thời, để đảm bảo số lượng và cơ cấu thành phần đại biểu Quốc hội trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục…, pháp luật bầu cử đại biểu Quốc hội hiện hành quy định tổng số đại biểu Quốc hội được bầu không quá 500 người. Vì vậy, tổng số đại biểu Quốc hội khóa XIII, nhiệm kỳ 2011 - 2016

được bầu không quá 500 người.

1.2. Quyền ứng cử

Ứng cử là việc tự mình đứng ra ghi tên tranh cử vào các vị trí, các cơ quan lãnh đạo, các cấp chính quyền, đoàn thể, tổ chức. Người ứng cử gọi là ứng cử viên.

Quyền ứng cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thể hiện nguyện vọng của mình được ứng cử làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

1.2.1. Về chủ thể của quyền ứng cử

Theo quy định, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội thì việc quy định tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân là cần thiết, làm cơ sở để cử tri lựa chọn và bầu ra được những đại biểu đủ đức, đủ tài, xứng đáng làm đại biểu đại diện của mình. Do vậy, đối với những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân

303 304

Page 128: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

các cấp, để được bầu làm đại biểu còn phải bảo đảm các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật về bầu cử.

- Theo quy định tại Điều 3 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, thì đại biểu Quốc hội có những tiêu chuẩn sau đây:

+ Trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;

+ Có phẩm chất đạo đức tốt, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật;

+ Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu QH, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước;

+ Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;

+ Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.

- Theo quy định tại Điều 3 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, thì đại biểu Hội đồng nhân dân có những tiêu chuẩn sau đây:

+ Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,

phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và xây dựng, phát triển địa phương;

+ Có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật, tích cực đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;

+ Có trình độ và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Hội đồng nhân dân, có khả năng tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật; am hiểu tình hình kinh tế - xã hội để tham gia quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương.

+ Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, được nhân dân tín nhiệm;

+ Có điều kiện tham gia các hoạt động của Hội đồng nhân dân.

Đây là các tiêu chuẩn để cử tri làm căn cứ, lựa chọn bầu các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

1.2.2. Về việc thực hiện quyền ứng cử

Công dân đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định thực hiện quyền ứng cử thông qua tự ứng cử hoặc được cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -

303 304

Page 129: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

xã hội, tổ chức xã hội giới thiệu ứng cử.

Người được giới thiệu ứng cử là người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, các cơ quan nhà nước ở trung ương hoặc địa phương giới thiệu để được xem xét đưa vào danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội.

Người tự ứng cử là người có đủ điều kiện ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và xét thấy mình có đủ tiêu chuẩn, trình độ, năng lực thì nộp hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội tại Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi mình ứng cử.

Công dân thực hiện quyền ứng cử như sau:

- Nộp hồ sơ ứng cử. Hồ sơ ứng cử gồm:

+ Đơn xin ứng cử;

+ Sơ yếu lý lịch có chứng nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó làm việc hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú;

+ Tiểu sử tóm tắt và 3 ảnh màu, nền trắng, cỡ 4x6cm; sau ảnh ghi họ và tên, ngày tháng năm sinh, quê quán (tỉnh, thành phố);

+ Bản kê khai tài sản, thu nhập của người ứng cử.

- Thời hạn nộp hồ sơ: nộp trước ngày bầu cử chậm nhất là 65 ngày nếu ứng cử đại biểu Quốc hội và 60 ngày nếu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

- Nơi nộp hồ sơ:

+ Trường hợp ứng cử đại biểu Quốc hội: người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở Trung ương giới thiệu ứng cử thì nộp hồ sơ tại Hội đồng bầu cử; người được tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở địa phương giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử thì nộp hồ sơ tại Uỷ ban bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi mình ứng cử.

+ Trường hợp ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân: người được cơ quan, tổ chức, đơn vị giới thiệu ứng cử và người tự ứng cử nộp hồ sơ tại Ủy ban bầu cử nơi mình ứng cử.

Cần lưu ý là người tự ứng cử và người được giới thiệu ứng cử chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử và không được tham gia Ban Bầu cử hoặc Tổ bầu cử thuộc đơn vị mình ra ứng cử, đồng thời có các quyền sau:

- Được mời tham dự Hội nghị cử tri.

- Có quyền vận động bầu cử thông qua việc gặp gỡ,

303 304

Page 130: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

tiếp xúc với cử tri và các phương tiện thông tin đại chúng để báo cáo với cử tri dự kiến thực hiện trách nhiệm của người đại biểu nếu được bầu làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Việc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ, bình đẳng, đúng pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và phải kết thúc trước khi bắt đầu cuộc bỏ phiếu hai mươi bốn giờ.

- Có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại về việc kiểm phiếu.

- Có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong bầu cử.

Theo quy định, những người ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn thì trúng cử. Trong trường hợp có nhiều người được số phiếu bằng nhau thì người nhiều tuổi hơn là người trúng cử.

1.3. Các biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm quyền bâu cử, ứng cử

- Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (Điều 87), Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 76) quy định hành vi dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân của công dân thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Hành vi cản trở hoặc trả thù người khiếu nại, tố cáo về bầu cử thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 88 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Điều 77 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân).

Đồng thời, để thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, nhằm đảm bảo cho quá trình bầu cử được diễn ra tự do, công bằng, dân chủ theo đúng các quy định của pháp luật, Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) đã có hai điều trực tiếp quy định về các tội xâm phạm tới quyền bầu cử, ứng cử, làm sai lệch kết quả bầu cử. Cụ thể:

“Điều 126. Tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân

1. Người nào lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở việc thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến hai năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

303 304

Page 131: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

c) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.

Điều 127. Tội làm sai lệch kết quả bầu cử

1. Người nào có trách nhiệm trong việc tổ chức, giám sát việc bầu cử mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:

a) Có tổ chức;

b) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”.

2. Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hộiQuyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội là một trong

những quyền chính trị quan trọng của công dân, đảm bảo cho công dân thực hiện quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, thực hiện phương châm mọi công việc của Nhà nước, của xã

hội “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội là quyền của công dân tham gia thảo luận vào các công việc chung của đất nước trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong phạm vi cả nước và trong từng địa phương; quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước về xây dựng bộ máy nhà nước và xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội…

Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân Việt Nam đã thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều 11 Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ: “Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của Nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng”.

Điều 53 Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định:

“Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”.

Như vậy, mọi công dân Việt Nam, đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, đều có quyền tham gia vào việc xây

303 304

Page 132: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

dựng, bảo vệ và quản lý đất nước. Đây là một quyền chính trị rất đặc biệt, là cơ sở pháp lý quan trọng để nhân dân tham gia vào hoạt động của bộ máy nhà nước, nhằm động viên phát huy sức mạnh của toàn dân, toàn xã hội vào việc xây dựng nhà nước vững mạnh, hoạt động có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân.

Về cách thức thực hiện quyền này, người dân tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã hội dưới hai hình thức là: trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các đại diện của mình do mình lựa chọn. Người dân có thể tham gia xây dựng các chính sách, pháp luật thông qua đại biểu trong các cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân), các tổ chức chính trị - xã hội mà mình tham gia hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng cũng có thể tham gia ý kiến trực tiếp các vấn đề ở tầm quốc gia khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, hoặc trực tiếp quyết định các vấn đề ở cơ sở theo quy định của pháp luật… Sự tham gia của nhân dân được thực hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng chính sách: từ các đề xuất sáng kiến ban đầu, đến việc tiến hành triển khai xây dựng, quyết định và thi hành chính sách. Tuy nhiên, tùy vào tính chất của những chính sách cụ thể mà người dân có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp, ở mức độ khác nhau.

2.1. Nhân dân tham gia trực tiếp quản lý nhà nước và xã hội

Quyền của công dân tham gia trực tiếp vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội được ghi nhận trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác như: Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… đã quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để công dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Những văn bản pháp luật này đã được ban hành với những quy định cụ thể, chi tiết ghi nhận quyền tham gia trực tiếp của công dân vào việc xây dựng, bảo vệ và quản lý đất nước. Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng để nhân dân tham gia trực tiếp quản lý nhà nước và xã hội nhằm động viên, phát huy sức mạnh của toàn dân, toàn xã hội vào việc xây dựng nhà nước vững mạnh, hoạt động có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân.

Như vậy, đối với hình thức tham gia trực tiếp, công dân thực hiện quyền của mình bằng cách:

- Ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp khi đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định. Bằng việc trở thành đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân, công dân có thể trực tiếp tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.

- Tùy theo năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, công dân được tuyển dụng vào cơ quan nhà nước hoặc được

303 304

Page 133: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

bổ nhiệm vào những chức vụ cụ thể trong bộ máy nhà nước. Khi đó, công dân có những điều kiện và khả năng thuận lợi để trực tiếp tham gia quản lý nhà nước.

- Tham gia thảo luận, cho ý kiến trực tiếp các vấn đề ở tầm quốc gia khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý. Mỗi khi quyết định những vấn đề quan trọng của đời sống đất nước và xã hội, trước khi thông qua quyết định, Nhà nước thường tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Với hình thức này, mỗi công dân tự mình trực tiếp đóng góp ý kiến vào các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bằng cách đó mà ý chí, trí tuệ của nhân dân ảnh hưởng đến các quyết định của Nhà nước.

- Tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân quy định rõ trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia góp ý về dự thảo văn bản; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản. Đồng thời, công dân có quyền và trách nhiệm đóng góp ý kiến, phản ánh với Nhà nước về những vướng mắc, bất cập, không phù hợp của các văn bản pháp luật trong quá trình thực hiện để Nhà nước sửa đổi, bổ sung, hoàn

thiện, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích của công dân.

- Tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước; phát biểu ý kiến về các vấn đề quản lý nhà nước, về nội dung của các quyết định quản lý. Quyền hạn này của công dân được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, gửi ý kiến góp ý đối với cơ quan có thẩm quyền.

- Tham gia bàn và quyết định trực tiếp nhiều vấn đề liên quan đến đời sống ở cơ sở.

- Kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước; đấu tranh với tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham những, lãng phí và những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước.

- Thực hiện khiếu nại, tố cáo những việc làm trái pháp luật của các cơ quan và công chức nhà nước.

Đặc biệt, với phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'', nhằm phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ cơ sở, ngày 20 tháng 4 năm 2007, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI đã thông qua Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đây là văn bản pháp lý quan trọng ghi nhận khá chi tiết và đầy đủ quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân ở xã, phường, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, giám sát hoạt động của chính quyền, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng tại xã, phường, thị trấn.

303 304

Page 134: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn gồm 6 chương, 28 điều với nội dung chính là điều chỉnh trực tiếp mối quan hệ giữa chính quyền cấp xã với nhân dân ở xã, phường, thị trấn trong việc thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Phạm vi điều chỉnh quy định trong Pháp lệnh chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa chính quyền cấp xã và nhân dân ở xã, phường, thị trấn trong việc thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân.

Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã quy định những nội dung chính quyền cấp xã phải công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, của cán bộ thôn, tổ dân phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Đồng thời để đảm bảo việc thực hiện các nội dung dân chủ đúng pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn, nhất là các quyền dân chủ trực tiếp, Pháp lệnh đã quy định cụ thể các nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Các nguyên tắc này cũng chính là các tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong toàn bộ nội dung Pháp lệnh, bao gồm các nguyên tắc: bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến

pháp và pháp luật; bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Pháp lệnh cũng đã quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm trong quá trình thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn như: hành vi không thực hiện hoặc làm trái các quy định của Pháp lệnh về thực hiện dân chủ; hành vi trù dập người khiếu nại, tố cáo; hoặc hành vi lợi dụng dân chủ để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

2.2. Nhân dân tham gia gián tiếp quản lý nhà nước và xã hội

Đối với hình thức tham gia gián tiếp quản lý nhà nước và xã hội, công dân thực hiện quyền của mình bằng cách:

- Nhân dân có quyền thực hiện quyền lực của mình thông qua các đại diện do chính nhân dân lựa chọn thông qua các

303 304

Page 135: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

cuộc bầu cử tự do, công bằng và dân chủ. Bằng hành vi bầu cử, mỗi công dân ủy nhiệm quyền quản lý nhà nước cho người đại diện.

Như vậy, công dân Việt Nam, đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, sẽ bầu ra đại diện của mình là các Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng Nhân dân. Các đại biểu này sẽ thay mặt nhân dân trực tiếp tham gia vào các hoạt động xây dựng, quản lý và bảo vệ đất nước. Các Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, thực hiện quyền lực nhà nước được nhân dân trao cho thông qua nhiều hình thức; trong đó hình thức giám sát, chất vấn thể hiện rõ nét quyền lực tối cao mà nhân dân trao cho họ.

- Nhân dân tham gia gián tiếp quản lý nhà nước và xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp mà họ là thành viên.

Theo hình thức này, nhân dân tham gia vào việc thành lập cũng như gia nhập các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp. Những nguyện vọng, ý kiến của người dân được các tổ chức đó tập hợp lại để chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xem xét, giải quyết; đồng thời cho phép công dân thông qua tổ chức mà mình là thành viên tham gia nhiều hơn trong hoạt động quản lý của nhà nước, từ việc phản biện các chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát sự thực hiện của các cơ quan nhà nước và của công chức, cũng như đề đạt nguyện vọng, ý kiến của mình

cho các cơ quan nhà nước xem xét, thực hiện.

2.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội

Việc bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào công việc quản lý nhà nuớc và xã hội đã được ghi trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… trong đó quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước như việc các đại biểu, các cơ quan nhà nước phải tiếp nhận và giải quyết các đề xuất, kiến nghị, khiếu nại của người dân, tiếp thu các ý kiến đóng góp vào các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội…

Theo khoản 5 Điều 112 Hiến pháp năm 1992 thì Chính phủ có nhiệm vụ: thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tạo điều kiện cho công dân dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình.

Điều 8 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu

303 304

Page 136: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền."

Điều 97 Hiến pháp năm 1992 quy định nghĩa vụ của các đại biểu Quốc hội phải thu thập và phản ánh trung thực ý kiến của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan.

Tiếp theo, Điều 43 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007), đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát của cử tri, mỗi năm một lần đại biểu phải báo cáo trước cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của mình; cử tri có thể trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam yêu cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét về việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu.

Điều 8 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 cũng quy định, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, cán bộ, công chức nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân.

Theo Điều 6 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007), trong trường hợp phát hiện có hành vi trái pháp luật của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3. Quyền khiếu nại, tố cáo Quyền khiếu nại, tố cáo là một quyền chính trị quan

trọng của công dân. Thông qua việc thực hiện quyền này, công dân đã góp phần tích cực và chủ động vào hoạt động quản lý nhà nước và xã hội. Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định:

“Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào”.

Đây là một công cụ pháp lý quan trọng, bảo đảm cho công dân có khả năng bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, đồng thời phát hiện ra những vi phạm trong hoạt động của cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, giúp cho việc chỉnh đốn, củng cố và cải tiến hoạt động của các cơ quan này. Những quy định của Hiến pháp về quyền khiếu nại và quyền tố cáo của công dân làm cơ sở nền tảng pháp lý để xây dựng và ban hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, tạo nên một cơ chế pháp lý đồng bộ trong việc thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân.

3.1. Quyền khiếu nại

Quyền khiếu nại là quyền của công dân, cơ quan, tổ chức được đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm

303 304

Page 137: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Ví dụ: khiếu nại việc thu hồi mà chưa có quyết định thu hồi đất của cấp có thẩm quyền hay việc công dân được khiếu nại về Quyết định xử phạt hành chính đối với người vi phạm Luật giao thông đường bộ khi quyết định đó không đúng…

Như vậy mục đích của việc khiếu nại trước hết là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại khỏi bị xâm hại bởi những việc làm, những quyết định, chính sách trái pháp luật của các cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước. Suy rộng ra, mục đích của khiếu nại tiếp theo chính là nhằm đảm bảo cho các quy định pháp luật liên quan tới các quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức, công dân được thực hiện nghiêm chỉnh; giúp cho hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan, tổ chức nhà nước có hiệu quả, các quyết định, hành vi hành chính trái pháp luật được sửa đổi hoặc bãi bỏ kịp thời, ngăn ngừa các vi phạm pháp luật có thể xảy ra từ phía những người thực thi công vụ... góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

Ngày 11/11/2011, Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 2 đã thông qua Luật Khiếu nại. Luật Khiếu nại đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký lệnh công bố và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2012. Việc ban hành Luật Khiếu nại năm 2011 đã tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân, cơ quan, tổ chức và cán bộ, công

chức thực hiện quyền khiếu nại, đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại và hiệu lực công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội.

Theo Điều 2 Luật Khiếu nại, khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

3.1.1. Về chủ thể

Người khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại.

Người bị khiếu nại là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại.

3.1.2. Về trình tự khiếu nại

303 304

Page 138: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Với quan điểm xây dựng trình tự khiếu nại đơn giản, công khai, dân chủ và có hiệu quả; phát huy quyền dân chủ của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện có kết quả quyền khiếu nại; góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội; qua đó thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nhà nước; đồng thời để khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Khiếu nại, tố cáo trước đây, Luật Khiếu nại năm 2011 đã có những quy định thay đổi mạnh mẽ về trình tự khiếu nại theo hướng công khai, dân chủ, đơn giản và nhanh chóng hơn, với cơ chế khiếu nại linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cao nhất cho người khiếu nại.

Theo cơ chế này, khi vụ việc khiếu nại hành phát sinh, công dân, cơ quan, tổ chức có quyền chọn lựa cách giải quyết mà mình cho là hiệu quả, cụ thể là khiếu nại trực tiếp đến người có quyết định, hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính, không nhất thiết phải khiếu nại tới người có quyết định, hành vi hành chính như trước đây; đồng thời cho phép công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ kiện hành chính ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình khiếu nại… Với tinh thần đó Luật Khiếu nại đã quy định rõ trình tự khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính như sau:

Theo quy định tại Điều 7 Luật Khiếu nại về trình tự khiếu nại, khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi

hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

- Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là Bộ trưởng) thì người khiếu nại khiếu nại đến Bộ trưởng hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. 

303 304

Page 139: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

- Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Việc quy định trình tự khiếu nại như trên vừa tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, cơ quan, tổ chức trong việc lựa

chọn hình thức giải quyết có hiệu quả hơn khiếu nại của mình, đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tạo cơ hội tự sửa chữa của người có quyết định hành chính, hành vi hành chính khi bị khiếu nại và hơn hết là tạo ra cơ chế giải quyết khiếu nại khách quan, công khai, minh bạch và kịp thời hơn.

3.1.3. Về hình thức khiếu nại

Theo quy định tại Điều 8 Luật Khiếu nại, việc khiếu nại được thực hiện bằng đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp.

- Trường hợp khiếu nại được thực hiện bằng đơn thì trong đơn khiếu nại phải ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại; tên, địa chỉ của người khiếu nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại và yêu cầu giải quyết của người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải do người khiếu nại ký tên hoặc điểm chỉ.

- Trường hợp người khiếu nại đến khiếu nại trực tiếp thì người tiếp nhận khiếu nại hướng dẫn người khiếu nại viết đơn khiếu nại hoặc người tiếp nhận ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản và yêu cầu người khiếu nại ký hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định như trường hợp bằng đơn nêu trên.

- Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung thì thực hiện như sau:

303 304

Page 140: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

+ Trường hợp nhiều người đến khiếu nại trực tiếp thì cơ quan có thẩm quyền tổ chức tiếp và hướng dẫn người khiếu nại cử đại diện để trình bày nội dung khiếu nại; người tiếp nhận khiếu nại ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định nêu trên. Việc tiếp nhiều người cùng khiếu nại thực hiện theo quy định tại Chương V của Luật Khiếu nại;

+ Trường hợp nhiều người khiếu nại bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ nội dung quy định nêu trên, có chữ ký của những người khiếu nại và phải cử người đại diện để trình bày khi có yêu cầu của người giải quyết khiếu nại;

- Trường hợp khiếu nại được thực hiện thông qua người đại diện thì người đại diện phải là một trong những người khiếu nại, có giấy tờ chứng minh tính hợp pháp của việc đại diện và thực hiện khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại.

3.1.4. Thời hiệu khiếu nại

Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không.

3.1.5. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại

Quán triệt quan điểm, nguyên tắc xây dựng luật là nhằm “tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại”, Luật Khiếu nại năm 2011 đã bổ sung thêm nhiều quyền hạn mới quan trọng giúp cho người khiếu nại thực hiện có hiệu quả việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo quy định tại Điều 12 Luật Khiếu nại, người khiếu nại có các quyền sau đây:

a) Tự mình khiếu nại.

Trường hợp người khiếu nại là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện việc khiếu nại;

Trường hợp người khiếu nại ốm đau, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được ủy quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực hiện việc khiếu nại;

b) Nhờ luật sư tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Trường hợp người khiếu nại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật thì được nhờ trợ giúp viên pháp lý tư vấn về pháp luật hoặc ủy quyền cho trợ giúp viên pháp lý khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình;

c) Tham gia đối thoại hoặc ủy quyền cho người đại diện

303 304

Page 141: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

hợp pháp tham gia đối thoại;

d) Được biết, đọc, sao chụp, sao chép, tài liệu, chứng cứ do người giải quyết khiếu nại thu thập để giải quyết khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước;

đ) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đang lưu giữ, quản lý thông tin, tài liệu liên quan tới nội dung khiếu nại cung cấp thông tin, tài liệu đó cho mình trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có yêu cầu để giao nộp cho người giải quyết khiếu nại, trừ thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước;

e) Được yêu cầu người giải quyết khiếu nại áp dụng các biện pháp khẩn cấp để ngăn chặn hậu quả có thể xảy ra do việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại;

g) Đưa ra chứng cứ về việc khiếu nại và giải trình ý kiến của mình về chứng cứ đó;

h) Nhận văn bản trả lời về việc thụ lý giải quyết khiếu nại, nhận quyết định giải quyết khiếu nại;

i) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm; được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật;

k) Khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính;

l) Rút khiếu nại.

Bên cạnh quyền, người khiếu nại có các nghĩa vụ sau đây:

a) Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết;

b) Trình bày trung thực sự việc, đưa ra chứng cứ về tính đúng đắn, hợp lý của việc khiếu nại; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó;

c) Chấp hành quyết định hành chính, hành vi hành chính mà mình khiếu nại trong thời gian khiếu nại, trừ trường hợp quyết định, hành vi đó bị tạm đình chỉ thi hành theo quy định tại Điều 35 của Luật Khiếu nại;

d) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.

Người khiếu nại thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

3.1.6. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại

Kế thừa Luật Khiếu nại, tố cáo trước đây, Luật Khiếu nại năm 2011 tiếp tục quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại trước hết và chủ yếu thuộc về thủ trưởng các cơ quan hành chính.

Các điều từ Điều 17 đến Điều 24 của Luật Khiếu nại quy định về thẩm quyền giải quyết các khiếu nại hành chính. Theo các quy định này: Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (lần đầu) đối với

303 304

Page 142: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp; đồng thời giải quyết khiếu nại (lần hai) đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới trực tiếp đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết.

Đơn cử như thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện được quy định tại Điều 18 như sau: (1) Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình; (2) Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết.

Tương tự như vậy, các điều 24, 25 và 26 quy định thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, Tổng thanh tra Chính phủ và Chánh thanh tra các cấp, các ngành. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ với tư cách là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cao nhất không phải là một cấp giải quyết trực tiếp các khiếu nại hành chính nhưng có thẩm quyền chỉ đạo, đôn đốc các ngành, các cấp thực hiện có hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, bảo đảm cho các quyết định giải quyết đúng chính sách pháp luật; các cơ quan thanh tra nhà nước có thẩm quyền giúp thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp

trong công tác giải quyết khiếu nại, cụ thể là tiếp nhận đơn thư khiếu nại, khi được giao thì tiến hành kiểm tra xác minh, kết luận và kiến nghị để thủ trưởng cơ quan hành chính ra quyết định giải quyết vụ việc khiếu nại.

Từ những quy định trên đây cho thấy, thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu thuộc về người có quyết định hành chính, hành vi hành chính; thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai do thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu giải quyết.

Việc tiếp tục quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu thuộc về người có quyết định hành chính, hành vi hành chính của Luật Khiếu nại năm 2011 là phù hợp với cơ chế quản lý hiện nay, đồng thời tạo điều kiện cho việc giải quyết khiếu nại được nhanh chóng, kịp thời hơn. Bởi vì hơn ai hết, người có quyết định, hành vi hành chính bị khiếu nại là người hiểu rõ sự việc bị khiếu nại, do vậy họ có thể giải quyết nhanh chóng sự việc mà người khiếu nại yêu cầu. Đồng thời, việc quy định như vậy sẽ tạo điều kiện cho người có quyết định hành chính, hành vi hành chính có cơ hội tự sửa chữa những sai sót có thể có trong quá trình quản lý của mình, tránh gây mất thời gian, công sức của các cơ quan khác. Việc quy định Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người có quyết định hành chính, hành vi hành chính giải quyết lần hai đối với quyết định hành chính đã được người có quyết định

303 304

Page 143: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

hành chính, hành vi hành chính giải quyết lần đầu còn khiếu nại là phù hợp, tạo điều kiện cho việc giải quyết khiếu nại được chính xác, khách quan và minh bạch hơn.

3.2. Quyền tố cáo

Quyền tố cáo là quyền của công dân được báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kì cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.

Công dân không những có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà còn có quyền tố cáo hành vi vi phạm gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước hoặc của bất kỳ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào khác mà mình biết.

Ví dụ: tố cáo việc buôn bán trái phép chất ma túy; buôn lậu; phá rừng làm rẫy; tố cáo việc xây dựng hàng quán trái phép…

Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định người tố cáo không được lợi dụng quyền tố cáo để vu cáo, vu khống cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Trong trường hợp vì tư thù cá nhân mà vu cáo, vu khống cho người khác là họ vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi và thiệt hại xảy ra, mà người tố cáo sai sự thật sẽ bị xử lý hành chính hoặc truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội vu khống theo Điều 122 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Ngày 11 tháng 11 năm 2011, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 2 thông qua Luật Tố cáo với 8 chương và 50 điều. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2012.

Theo quy định của Luật Tố cáo, thì “Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” (khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo).

Để cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về quyền tố cáo của công dân cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc giải quyết tố cáo, Luật Tố cáo quy định về:

- Tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ;

- Tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực;

303 304

Page 144: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

- Bảo vệ người tố cáo và quản lý công tác giải quyết tố cáo.

Bên cạnh đó, để bảo đảm sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, Luật Tố cáo quy định:

- Việc tố cáo của cá nhân nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam và giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam được áp dụng theo quy định của Luật này, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.

- Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.

- Trường hợp luật khác có quy định khác về tố cáo và giải quyết tố cáo thì áp dụng quy định của luật đó.

3.2.1. Về chủ thể

Đối tượng áp dụng của Luật Tố cáo bao gồm: công dân tố cáo; cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo; cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc phối hợp giải quyết tố cáo.

Theo Điều 2 Luật Tố cáo, các từ ngữ được hiểu như sau:

- Người tố cáo là công dân thực hiện quyền tố cáo.

- Người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi

bị tố cáo.

- Người giải quyết tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo.

- Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo.

3.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo

Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo được quy định tại Điều 9 Luật Tố cáo. Người tố cáo có các quyền sau đây:

a) Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

b) Được giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của mình;

c) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý giải quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thông báo kết quả giải quyết tố cáo;

d) Tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết;

đ) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo

303 304

Page 145: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập;

e) Được khen thưởng theo quy định của pháp luật.

So với Luật Khiếu nại, tố cáo trước đây, Luật Tố cáo năm 2011 đã bổ sung quy định người tố cáo có quyền giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và thông tin cá nhân khác. Để quyền này của người tố cáo được thực hiện thì người giải quyết tố cáo phải có trách nhiệm giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của người tố cáo; đồng thời phải áp dụng biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có biện pháp cần thiết để giữ bí mật thông tin và bảo vệ cho người tố cáo (Điều 36 Luật Tố cáo).

Tuy nhiên, đây là quyền của người tố cáo, nên người tố cáo có thể thực hiện hoặc không thực hiện, trong trường hợp người tố cáo thấy không cần thiết giữ bí mật và muốn công khai họ, tên, địa chỉ của mình thì họ có thể tự mình chủ động công khai hoặc báo cho cơ quan, tổ chức có liên quan để công khai theo yêu cầu của họ.

Bên cạnh quyền, người tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:

a) Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình;

b) Trình bày trung thực về nội dung tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được;

c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo

của mình;

d) Bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.

Việc quy định trách nhiệm của người tố cáo thể hiện được tính công bằng của pháp luật. Người tố cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình và có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra. Vì vậy, khi làm đơn tố cáo, người tố cáo phải cân nhắc, suy nghĩ cẩn trọng, có chứng cứ xác đáng và đặc biệt không thể vì động cơ cá nhân trả thù người có mâu thuẫn với mình hay vì một sự cạnh tranh, đố kỵ... mà làm đơn tố cáo, vu khống làm mất uy tín, danh dự, thậm chí gây thiệt hại đến quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Nếu người tố cáo mà tố cáo sai sự thật thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật. Quy định này nhằm tránh xảy ra tình trạng tố cáo tràn lan, không có đủ thông tin chính xác hoặc do trình độ hạn chế của người tố cáo đã nhận thức không đúng về bản chất sự việc đã tố cáo sai sự thật hoặc lợi dụng quyền tố cáo để phục vụ cho lợi ích của bản thân hoặc để trả thù người khác vì lý do cá nhân.

3.2.3. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo

- Về nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo, theo quy định tại Điều 12 Luật Tố cáo thì:

303 304

Page 146: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

+ Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên chức đó giải quyết.

Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết.

+ Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều cơ quan, tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức bị tố cáo phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan giải quyết.

+ Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.

- Việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo trình tự sau đây:

(1) Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;

(2) Xác minh nội dung tố cáo;

(3) Kết luận nội dung tố cáo;

(4) Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;

(5) Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.

3.2.4. Về hình thức tố cáo được quy định tại Điều 19 Luật Tố cáo. Cụ thể:

(1) Việc tố cáo được thực hiện bằng đơn tố cáo hoặc tố cáo trực tiếp.

(2) Trường hợp tố cáo được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ, tên, địa chỉ của người tố cáo; nội dung tố cáo. Đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của từng người tố cáo, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tố cáo; họ, tên người đại diện cho những người tố cáo để phối hợp khi có yêu cầu của người giải quyết tố cáo.

(3) Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo viết đơn tố cáo hoặc người tiếp nhận ghi lại việc tố cáo bằng văn bản và yêu cầu người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều trên. Trường hợp nhiều người đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo cử đại diện để trình bày nội dung tố cáo.

303 304

Page 147: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

3.2.5. Về thời hạn giải quyết tố cáo (Điều 21 Luật Tố cáo)

- Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo.

- Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày.

3.2.6. Về xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung tố cáo

Xác minh nội dung tố cáo, kết luận nội dung tố cáo là một trong những vấn đề trọng tâm của công tác giải quyết tố cáo. Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 chưa quy định cụ thể, rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành xác minh nội dung tố cáo dễ dẫn đến sự tuỳ tiện, thiếu khách quan trong việc thu thập thông tin, tài liệu để chứng minh tính đúng, sai của nội dung tố cáo.

Để khắc phục hạn chế này, Luật Tố cáo năm 2011 đã quy định cụ thể, rõ ràng về xác minh nội dung tố cáo tại Điều 22; cụ thể: người giải quyết tố cáo tiến hành xác minh hoặc giao cho cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xác minh nội dung tố cáo; trường hợp giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xác minh nội dung tố cáo thì người giải quyết tố cáo phải lập văn bản giao việc xác minh, trong đó ghi rõ nội

dung cần xác minh, thời gian tiến hành xác minh, quyền hạn và trách nhiệm của người được giao xác minh nội dung tố cáo. Người được giao xác minh nội dung tố cáo có quyền và nghĩa vụ như người giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, người được giao xác minh nội dung tố cáo không được kết luận về nội dung tố cáo, không được ra quyết định xử lý nhưng được kết luận nội dung xác minh, kiến nghị biện pháp xử lý và báo cáo người giải quyết tố cáo.

Đồng thời, người xác minh nội dung tố cáo có các quyền và nghĩa vụ cụ thể tại khoản 3, 4 Điều 22 Luật Tố cáo. Theo đó, người xác minh nội dung tố cáo có các quyền và nghĩa vụ sau:

- Phải tiến hành các biện pháp cần thiết để thu thập thông tin, tài liệu, làm rõ nội dung tố cáo. Thông tin, tài liệu thu thập phải được ghi chép thành văn bản, khi cần thiết thì lập thành biên bản, được lưu giữ trong hồ sơ vụ việc tố cáo.

- Phải tạo điều kiện để người bị tố cáo giải trình, đưa ra các chứng cứ để chứng minh tính đúng, sai của nội dung tố cáo cần xác minh. Việc giải trình của người bị tố cáo phải được lập thành biên bản, có chữ ký của người xác minh nội dung tố cáo và người bị tố cáo.

Căn cứ vào nội dung tố cáo, văn bản giải trình của người bị tố cáo, kết quả xác minh nội dung tố cáo, các tài liệu, bằng chứng có liên quan, người giải quyết tố cáo phải kết luận bằng

303 304

Page 148: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

văn bản về nội dung tố cáo. Kết luận phải ghi rõ việc tố cáo là đúng hay sai hoặc đúng phần nào, xác định trách nhiệm của từng cá nhân về những nội dung tố cáo đúng hoặc đúng một phần; các biện pháp xử lý theo thẩm quyền; kiến nghị biện pháp xử lý với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền (Điều 24).

3.2.7. Bảo vệ người tố cáo

Trên thực tế thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và Luật Phòng, chống tham nhũng, đã có nhiều trường hợp người tố cáo bị trả thù, bị trù dập, bị xâm phạm về sức khoẻ, tính mạng, thậm chí cả người thân của họ cũng bị đe doạ, bị xâm phạm. Do đó, tiếp tục kế thừa các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 về nguyên tắc bảo vệ cho người tố cáo, xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ cho người tố cáo, đồng thời xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện bảo vệ người tố cáo, Luật Tố cáo năm 2011 đã dành Chương V. Bảo vệ người tố cáo (từ Điều 34 đến Điều 40) quy định về phạm vi, đối tượng, trách nhiệm và các biện pháp bảo vệ người tố cáo…

Điều 34 của Luật Tố cáo quy định đối tượng được bảo vệ là người tố cáo và người thân thích của người tố cáo. Việc bảo vệ người tố cáo được thực hiện tại nơi cư trú, công tác, làm việc, học tập, nơi có tài sản của người cần được bảo vệ hoặc những nơi khác do cơ quan có thẩm quyền quyết định. Thời

hạn bảo vệ do cơ quan có thẩm quyền quyết định tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của từng vụ việc, mức độ, tính chất của hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng cần được bảo vệ.

Trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo trước hết thuộc về cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Người giải quyết tố cáo có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo, không phụ thuộc vào người tố cáo có yêu cầu hay không. Theo đó, người tố cáo được bảo vệ về:

- Bí mật thông tin cá nhân (gồm họ tên, tuổi, địa chỉ, nơi làm việc, gia đình, người thân…): Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khi tiếp nhận tố cáo, giải quyết tố cáo, khai thác, sử dụng thông tin, tài liệu do người tố cáo cung cấp có trách nhiệm giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của người tố cáo; đồng thời phải áp dụng biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có biện pháp cần thiết để giữ bí mật thông tin và bảo vệ cho người tố cáo (Điều 36). Đồng thời, khoản 3 Điều 8 của Luật Tố cáo cũng quy định nghiêm cấm tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và những thông tin khác có thể làm lộ danh tính của người tố cáo.

- Được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín: Khi người giải quyết tố cáo nhận được thông tin người tố cáo bị đe doạ, trả thù, trù dập thì có trách

303 304

Page 149: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an hoặc cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn, bảo vệ người tố cáo và đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định pháp luật đối với người có hành vi đe doạ, trả thù, trù dập người tố cáo (khoản 1 Điều 39).

- Được bảo vệ tại nơi công tác, nơi làm việc: Để bảo đảm người tố cáo không bị trù dập, cản trở trong công việc, Điều 37 Luật Tố cáo quy định người có thẩm quyền quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động phải bảo đảm vị trí công tác, không được phân biệt đối xử về việc làm đối với người tố cáo dưới mọi hình thức, không được trả thù, trù dập, đe dọa, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo (khoản 1, 2 Điều 37).

- Được bảo vệ tại nơi cư trú: Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm bảo đảm để người tố cáo không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú; không bị phân biệt đối xử, trả thù, trù dập, đe dọa, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo (khoản 1, 2 Điều 38).

Để tránh tình trạng việc bảo vệ người tố cáo chỉ là hình thức, Luật Tố cáo cũng quy định: Khi người tố cáo có căn cứ cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình hoặc của người

thân thích của mình hoặc có căn cứ cho rằng mình bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú hoặc có căn cứ cho rằng mình bị phân biệt đối xử về việc làm dẫn đến giảm thu nhập, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo áp dụng biện pháp bảo vệ, khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo đã bị xâm phạm, đồng thời xem xét, xử lý người có hành vi vi phạm. Trong trường hợp bị đe doạ hoặc bị xâm hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín thì có quyền đề nghị cơ quan công an áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết.

Khi nhận được đề nghị bảo vệ của người tố cáo, người có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm tra, xác minh. Nếu đề nghị của người tố cáo là chính đáng thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc yêu cầu người có thẩm quyền áp dụng biện pháp: đình chỉ, tạm đình chỉ, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo; khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo đã bị xâm phạm; xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với người có hành vi đe doạ, trả thù, trù dập, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tố cáo. Đối với trường hợp bị đe doạ hoặc bị xâm hại về tính mạng, sức khoẻ danh dự, nhân phẩm, uy tín thì người giải quyết tố cáo hoặc cơ quan công an phải kịp thời bố trí nơi

303 304

Page 150: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

tạm lánh khi người tố cáo, người thân thích của họ có nguy cơ bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe; bố trí lực lượng, phương tiện, công cụ để trực tiếp bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín cho người tố cáo và người thân thích của họ tại nơi cần thiết; áp dụng biện pháp ngăn chặn, xử lý hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người tố cáo và người thân thích của người tố cáo theo quy định của pháp luật.

Mặc dù trách nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo thuộc về cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Tuy nhiên, người tố cáo được bảo vệ cũng phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo Điều 35 Luật Tố cáo.

Theo đó, người tố cáo có các quyền:

- Yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ mình hoặc người thân thích của mình khi có căn cứ xác định việc bị kỷ luật, buộc thôi việc, luân chuyển công tác hoặc bị các hình thức trù dập, phân biệt đối xử khác, bị đe dọa xâm hại hoặc xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do việc tố cáo hành vi vi phạm pháp luật;

- Được thông báo về biện pháp bảo vệ được áp dụng; đề

nghị thay đổi biện pháp bảo vệ nếu có căn cứ cho rằng biện pháp đó không bảo đảm an toàn; được từ chối áp dụng biện pháp bảo vệ;

- Yêu cầu gia hạn thời hạn bảo vệ; yêu cầu bảo vệ lại;

- Được bồi thường theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp người tố cáo yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết để bảo vệ mình mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân đó không áp dụng hoặc áp dụng không kịp thời, không đúng quy định của pháp luật, gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản, tổn thất về tinh thần cho người được bảo vệ.

Người tố cáo có các nghĩa vụ:

- Gửi văn bản yêu cầu bảo vệ trong trường hợp có căn cứ cho rằng bị phân biệt đối xử về việc làm (quy định tại Điều 37); trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ công dân (quy định tại Điều 38); hay nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình (quy định tại Điều 39) của Luật Tố cáo đến người giải quyết tố cáo hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo. Trong trường hợp khẩn cấp, có thể gặp trực tiếp hoặc thông qua các hình thức thông tin khác để yêu cầu được bảo vệ ngay nhưng sau đó phải gửi

303 304

Page 151: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

văn bản yêu cầu chính thức đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ;

- Cung cấp thông tin, tài liệu, căn cứ xác định việc bị xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc quyền, lợi ích hợp pháp khác là xác thực và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin, tài liệu đã cung cấp;

- Tuân thủ yêu cầu mà cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bảo vệ đưa ra có liên quan đến công tác bảo vệ; không được tiết lộ biện pháp bảo vệ cho người khác biết.

3.3. Bảo vệ quyền khiếu nại, quyền tố cáo

Nhằm đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, pháp luật đã có nhiều quy định về việc bảo vệ người khiếu nại, người tố cáo, cũng như các hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân thì tùy theo mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra sẽ bị xử lý theo các quy định của pháp luật.

Để các quy định của Luật Khiếu nại được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế, Luật Khiếu nại tiếp tục quy định việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đối với người giải quyết khiếu nại, người khiếu nại và những người khác có liên quan. Theo đó, người giải quyết khiếu nại vi phạm một trong các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4

Điều 6 của Luật Khiếu nại hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường hoặc bồi hoàn theo quy định của pháp luật; tương tự như vậy người khiếu nại và những người khác có liên quan vi phạm một trong các hành vi bị nghiêm cấm quy định tai các khoản 5, 6, 7 và 8 Điều 6 của Luật Khiếu nại hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Ðể đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng, Luật Tố cáo năm 2011 đã quy định một số nội dung mới về công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo (Điều 30). Người giải quyết tố cáo có trách nhiệm công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo bằng các hình thức: công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức nơi người bị tố cáo công tác; niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức đã giải quyết tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Việc công khai này phải bảo đảm không tiết lộ thông tin về người tố cáo và những nội dung thuộc bí mật Nhà nước.

303 304

Page 152: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) đã đưa ra một điều khoản trực tiếp quy định về tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân tại Điều 132. Theo đó:

“1. Người nào có một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo;

b) Có trách nhiệm mà cố ý không chấp hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo.

2. Người nào trả thù người khiếu nại, tố cáo thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.”

303 304

Page 153: Mot so kien thuc PL ve quyen con nguoi - danh cho Giao vien.doc

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam Một số kiến thức PL về quyền con người - Tập 1. Quyền dân sự và chính trị

MỤC LỤC

Lời giới thiệu 5

Phần 1. Khái quát chung về quyền con người 7

I. Khái niệm, tính chất, phân loại quyền con người 9

II. Vài nét về lịch sử phát triển của vấn đề quyền con người trên thế giới và khái lược lịch sử tư tưởng về quyền con người trong lịch sử, văn hóa, chính sách, pháp luật Việt Nam 15

III. Quan điểm, chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người 32

Phần 2. Các quyền dân sự - chính trị trong pháp luật Việt Nam 47

Chuyên đề 1. Quyền sống và được bảo đảm an ninh cá nhân 49

Chuyên đề 2. Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng 118

Chuyên đề 3. Quyền tự do cá nhân 171

Chuyên đề 4. Quyền tham gia vào đời sống chính trị 241

303 304