Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CHU THỊ MAI PHƢƠNG
ẢNH HƢỞNG CỦA THỂ CHẾ ĐẾN
QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƢ VÀ KẾT QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế học
Mã số: 62310101
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2017
CÔNG TRÌNH ĐƢỢC HOÀN THÀNH
TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Phạm Thế Anh
2. PGS. TS. Từ Thúy Anh
Phản biện:
1. TS. Nguyễn Đức Thành,
ĐH Kinh tế- ĐH Quốc Gia Hà Nội
2. PGS. TS Nguyễn Văn Thắng
ĐH Kinh tế Quốc Dân
3. TS. Nguyễn Đình Chúc
Viện nghiên cứu phát triển bền vững Vùng
Luận án đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp
Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân
Vào hồi: 15h ngày 31 tháng 05 năm 2017
Có thể tìm thấy luận án tại:
- Thƣ viện Quốc gia
- Thƣ viện Đại học Kinh tế Quốc dân
1
CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong đúng ba thập kỷ kể từ Đổi mới từ 1986 đến 2015, nền
kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng với tốc độ rất ấn tượng, trung bình
6,5%/năm (Tổng cục Thống kê, 2015). Trong đó, doanh nghiệp là bộ
phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Theo
Schumpeter (1935, 1942), doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng
trong việc phát triển ý tưởng và công nghệ mới, tăng lượng cầu bằng
cách cung cấp các dịch vụ và sản phẩm mới, và quan trọng nhất là
tạo ra việc làm mới. Các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác
được cho là có các nguồn lực để đầu tư vào các dịch vụ và công nghệ
mới, góp phần nâng cao mức sống. Theo ý nghĩa này, doanh nghiệp
là nền tảng của tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, các nhà kinh tế cho rằng yếu tố quan trọng quyết
định sự thành công của các doanh nghiệp là thể chế kinh tế. Nghiên
cứu của North (1990) chỉ ra rằng, chất lượng thể chế khác nhau cuối
cùng sẽ dẫn đến sự khác biệt về thành quả của phát triển. Trong
những môi trường thể chế kinh tế tiến bộ, các doanh nghiệp sẽ có
điều kiện phát triển, sản xuất những sản phẩm có thương hiệu nổi
tiếng và cũng làm nên thương hiệu quốc gia. Tương tự, ở môi trường
có chất lượng thể chế tốt thông qua việc tuân thủ quy tắc của pháp
luật và nghiêm chỉnh thực thi quyền sở hữu sẽ khuyến khích các nhà
đầu tư tiến hành đầu tư để cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm
Baumol (1990). Hơn nữa, Rodrik (2007) lập luận rằng nếu không có
một môi trường thể chế tốt, như là một hệ thống bảo vệ quyền sở
hữu, và một bộ máy quản lý tốt, thì doanh nghiệp sẽ hoạt động kém.
Hoặc, nếu không có sự hiện diện của luật pháp và một vài ưu đãi
được đưa ra để thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động dựa trên các cơ
hội thì hoạt động doanh nghiệp sẽ không có hiệu quả lâu dài. Ngoài
ra, Porter (2008) cũng cho rằng, môi trường thể chế kinh tế là nhân
tố trực tiếp tác động đến năng suất của doanh nghiệp, là điều kiện
2
giúp doanh nghiệp đạt được mức năng suất và trình độ đổi mới, sáng
tạo cao nhất. Hay, chất lượng thể chế kinh tế tốt là điều kiện để
doanh nghiệp tăng năng suất và tăng trưởng (Johan, 2015).
Mặt khác, trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, đầu
tư là hoạt động chủ yếu, quyết định sự phát triển và khả năng tăng
trưởng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp khi ra quyết
định đầu tư cần phải căn cứ vào các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
đầu tư, bao gồm nhân tố nội sinh như nguồn vốn, lực lượng lao động,
quỹ đầu tư, quản trị doanh nghiệp và nhân tố ngoại sinh như môi
trường thể chế kinh tế. Ở những môi trường có thể chế kinh tế tốt thì
xác suất quyết định đầu tư của doanh nghiệp sẽ cao hơn (Kristine,
2013). Hay, so với các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường thể
chế kinh tế mà quyển sở hữu không được đảm bảo thì các doanh
nghiệp hoạt động trong môi trường thể chế kinh tế mà quyền sở hữu
được đảm bảo sẽ đầu tư để phát triển nhiều hơn (Johnson và cộng sự,
2002). Mối quan hệ chặt chẽ giữa thể chế kinh tế với quyết định đầu
tư của doanh nghiệp còn được xem xét trong nhiều nghiên cứu khác,
ví dụ như Everhart và cộng sự (2009); Acemoglu và Johnson (2005)
và Mauro (1995).
Tóm lại, thể chế kinh tế có vai trò quan trọng đối với quyết
định đầu tư và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Ở Việt Nam đã
có một số nghiên cứu cho mối quan hệ trên. Tuy nhiên, các nghiên
cứu còn bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn đề
tài: "Ảnh hưởng của thể chế đến quyết định đầu tư và kết quả hoạt
động của các doanh nghiệp ở Việt Nam" làm đề tài luận án.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án này sẽ phân tích ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến
quyết định đầu tư và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp. Kết
quả nghiên cứu thực nghiệm sẽ cung cấp những bằng chứng quan
trọng để các nhà hoạch định chính sách thực hiện các giải pháp về
cải cách thể chế kinh tế nhằm thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao
hiệu quả đầu tư và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, mang
3
lại sự thành công và phát triển cho doanh nghiệp. Cụ thể, luận án
sẽ cố gắng trả lời các câu hỏi sau: i) Thể chế kinh tế ảnh hưởng
như thế nào đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp? ii) Thể chế
kinh tế ảnh hưởng như thế nào đến quyết định đầu tư (được hiểu
là quyết định mở rộng đầu tư hay đầu tư mới) của doanh nghiệp?
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến
quyết định đầu tư và kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
- Khách thể nghiên cứu: Các doanh nghiệp ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện đối với các
doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2014
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mà luận án sử dụng là phương pháp
nghiên cứu định lượng với sự trợ giúp của phần mềm kinh tế lượng
stata12. Mô hình nghiên cứu, nguồn dữ liệu, phương pháp xử lý dữ
liệu, biến số và thước đo sẽ được trình bày chi tiết, cụ thể ở chương 4
của luận án này.
1.5. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Danh mục bảng biểu,
Danh mục hình vẽ, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được
cấu trúc thành 5 chương. Cụ thể:
Chƣơng 1: Mở đầu
Chƣơng 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan về vai trò của thể chế
kinh tế đối với quyết định đầu tư và kết quả hoạt động của doanh
nghiệp.
Chƣơng 3: Thực trạng về thể chế kinh tế, quyết định đầu tư và
kết quả hoạt động của doanh nghiệp ở Việt Nam.
Chƣơng 4: Đánh giá ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến quyết
định đầu tư và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Chƣơng 5: Kết luận
4
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VỀ VAI
TRÒ CỦA THỂ CHẾ KINH TẾ ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ
VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
2.1. Cơ sở lý thuyết về vai trò của thể chế kinh tế đối với
quyết định đầu tƣ và kết quả hoạt động của doanh nghiệp
2.1.1. Thể chế và thể chế kinh tế
2.1.1.1. Định nghĩa thể chế
2.1.1.2. Định nghĩa thể chế kinh tế
2.1.1.3. Phân loại thể chế kinh tế
2.1.1.4. Đo lường thể chế kinh tế
Đối với chất lượng thể chế kinh tế ở Việt Nam, các nghiên cứu
của Trần Thị Bích và cộng sự (2009), Nguyễn Văn Thắng và cộng sự
(2013), Phạm Thế Anh và Nguyễn Đức Hùng (2014), Đoàn Quang
Hưng và cộng sự (2014), Neil và cộng sự (2013) đã sử dụng một số
hoặc toàn bộ các chỉ tiêu của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh ở
Việt Nam để đo lường chất lượng thể chế kinh tế giữa các tỉnh thành
ở Việt Nam. Mặc dù tỉnh không có chức năng ban hành luật pháp và
chính sách lớn, song tỉnh là đơn vị trực tiếp thực thi các chính sách
đó. Sự khác biệt giữa các tỉnh trong quá trình thực thi này cho phép
sử dụng tỉnh làm đơn vị để đo lường chất lượng thể chế kinh tế.
2.1.2. Cơ sở lý thuyết về vai trò của thể chế kinh tế đối với
quyết định đầu tư và kết quả hoạt động của doanh nghiệp
Vai trò của thể chế kinh tế đối với quá trình phát triển là chủ
đề nhận được nhiều quan tâm và tranh biện của các học giả thời gian
qua. Các nghiên cứu nổi bật liên quan đến chủ đề này là của Rodrik
và cộng sự (2002), Acemoglu và cộng sự (2001, 2002, 2003, 2005a)
và Acemoglu và Robinson (2012). Các tác giả này, qua các nghiên
cứu về lịch sử và sự phát triển thể chế kinh tế ở nhiều nơi trên thế
giới, từ Nam và Trung Mỹ, Hoa Kỳ, châu Âu, đến châu Phi, châu Á,
châu Đại Dương, cho rằng thể chế kinh tế mới chính là nhân tố quyết
định dẫn dắt các quốc gia, vùng lãnh thổ hay tổ chức đi đến con
đường thịnh vượng.
5
Bên cạnh đó, lý thuyết thể chế đã được công nhận là một trong
những quan điểm phù hợp nhất để nghiên cứu chiến lược phát triển
vững chắc của doanh nghiệp trong nền kinh tế mới nổi (Hoskisson và
cộng sự, 2000; Wright và cộng sự, 2005).
Tầm quan trọng của thể chế kinh tế cũng được đánh giá cao
trong những nghiên cứu khác của North (1989, 1990), đặc biệt là
những quy định gắn liền với việc thực hiện các hợp đồng và bảo vệ
quyền sở hữu trong việc tạo ra các ưu đãi mà làm tăng tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Hay North và Weingast (1989) cho rằng sự thiết lập
các quyền sở hữu tài sản một cách chặt chẽ và ổn định chính là nhân
tố chủ chốt cho sự lớn mạnh của các quốc gia Phương Tây cũng như
kích thích tăng trưởng kinh tế, do tạo ra được các động cơ tích lũy và
đổi mới.
Ngoài ra, nghiên cứu của World Bank (2002) chỉ ra rằng một
quốc gia có thể chế kinh tế tốt có thể giúp quản lý rủi ro phát sinh từ
các giao dịch trên thị trường từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và
khả năng sinh lợi cho các doanh nghiệp. Theo đó, vai trò của thể chế
kinh tế được tập trung vào việc hình thành môi trường kinh doanh
thuận lợi. Bên cạnh đó, các nghiên cứu như Hayek (1973, 1976a,
1979a), Euken (1940,1992), Buchanan (1991) và Casson (1993)
nhấn mạnh vai trò then chốt của thể chế kinh tế đối với doanh nghiệp
trong hoạt động khám phá tri thức hữu ích và tổ chức khai thác các
nguồn lực về nguồn vốn, lao động, kỹ năng, và nguyên liệu thô, qua
đó tạo nên những đầu ra mới không ngừng gia tăng. Mặt khác,
Hoskisson và cộng sự (2000) cho rằng, vai trò của thể chế kinh tế
trong nền kinh tế là giảm chi phí giao dịch và chi phí thông tin, đảm
bảo quyền sở hữu và thiết lập một môi trường ổn định tạo điều kiện
cho tương tác giữa các chủ thể. Các quy phạm pháp luật cũng như
những thể chế kinh tế chính thức là nền tảng ảnh hưởng đến chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp (Oliver, 1997; Peng, 2000) và do
đó ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu suất kinh doanh của doanh
nghiệp (Scott, 1995).
6
Hơn nữa, theo các nhà kinh tế học về chi phí giao dịch (Coase,
1937 và Williamsons, 1985) ở những thể chế kinh tế cung cấp một
khuôn khổ hành vi nhằm giảm tính bất định trong các giao dịch giữa
các doanh nghiệp, chi phí giao dịch rõ ràng và thấp thì doanh
nghiệp có xu hướng đầu tư dài hạn và chú trọng vào sáng tạo và
phát minh. Ngược lại, trong những thể chế kinh tế mà chí phí giao
dịch ngầm, thiếu minh bạch (tìm hiểu thông tin, hối lội, chi phí
không chính thức, chi phí thời gian cho các giao dịch cao và bất
định) thì doanh nghiệp có xu hướng kinh doanh ngắn hạn, ít đầu tư.
Bên cạnh đó, các lý thuyết kinh tế về đầu tư như lý thuyết gia
tốc đầu tư, lý thuyết quỹ đầu tư nội bộ, hay mô hình đầu tư Euler đều
chỉ ra rằng kết quả hoạt động của doanh nghiệp có tác động đến đầu
tư của doanh nghiệp. Do đó, một cách gián tiếp dễ dàng xác định
được vai trò của thể chế đối với đầu tư của doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp quyết định đầu tư để kiếm lợi nhuận trong tương lai. Tuy
nhiên, quyết định đầu tư của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi môi
trường đầu tư, đó là “bộ các yếu tố xác định vị trí tạo ra cơ hội và
động cơ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư hiệu quả, tạo việc
làm và mở rộng kinh doanh” (World Bank, 2005, tr.20). Tóm lại,
các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm đều khẳng định vai trò
quan trọng của thể chế kinh tế đối với quyết định đầu tư và kết
quả hoạt động của doanh nghiệp.
2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về ảnh hƣởng của thể
chế kinh tế đến quyết định đầu tƣ và kết quả hoạt động của
doanh nghiệp
2.2.1. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến
kết quả hoạt động của doanh nghiệp
2.2.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
2.2.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Luận án "Ảnh hưởng của thể chế đến quyết định đầu tư và kết
quả hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam" nghiên cứu về vai
trò của thể chế kinh tế đối với kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
7
Bên cạnh những kế thừa, nghiên cứu này sẽ khắc phục được những
hạn chế của các nghiên cứu đi trước đó là, luận án sẽ nghiên cứu so
sánh ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến kết quả hoạt động của doanh
nghiệp giữa các ngành, các loại hình, các quy mô và các vùng kinh tế
khác nhau trong thời gian 9 năm liên tục (2006 - 2014) với khung lý
thuyết rõ ràng, thuyết phục. Ngoài ra, nghiên cứu sẽ chia kết quả
hoạt động theo thị trường nội địa và thị trường nước ngoài để thấy rõ
ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến kết quả hoạt động của doanh
nghiệp trên từng thị trường hoạt động.
2.2.2. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến
quyết định đầu tư của doanh nghiệp
2.2.2.1. Các nghiên cứu ngoài nước
2.2.2.2. Các nghiên cứu trong nước
Tóm lại, trên thế giới và ở Việt Nam có khá nhiều nghiên cứu
về cả lý thuyết và thực nghiệm cho vấn đề quyết định đầu tư của
doanh nghiệp. Trong đó, một số ít nghiên cứu thực nghiệm tập
trung vào phân tích ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến quyết định
đầu tư của doanh nghiệp. Ở Việt Nam, nghiên cứu về vai trò của
thể chế kinh tế đối với quyết định đầu tư của doanh nghiệp còn rất
hiếm và chưa có khung lý thuyết rõ ràng. Luận án này, thông qua
mô hình lý thuyết - mô hình đầu tư Euler để phân tích ảnh hưởng
của thể chế kinh tế đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp ở
Việt Nam. Mô hình đầu tư Euler chỉ ra rằng kết quả hoạt động của
doanh nghiệp có tác động đến quyết định đầu tư của doanh
nghiệp. Trong khi đó thể chế kinh tế có tác động đến kết quả hoạt
động của doanh nghiệp. Một cách gián tiếp có thể đánh giá được
tác động của thể chế kinh tế tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp
2.3. Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan về vai trò của thể chế
kinh tế đối với quyết định đầu tư và kết quả hoạt động của doanh
nghiệp. Khung phân tích cho luận án được xây dựng như Hình 2.1
dưới đây:
8
(III)
(I) (II)
Trong đó,
Hình 2.1: Khung phân tích
Nguồn: NCS xây dựng dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan
tình hình nghiên cứu
Trong đó,
Ảnh hưởng trực tiếp
Ảnh hưởng gián tiếp
Từ các mối quan hệ của khung phân tích này và dựa trên tổng
quan nghiên cứu, các giả thuyết nghiên cứu được đưa ra để kiểm
định thực nghiệm như sau:
Giả thuyết nghiên cứu 1: Thể chế kinh tế có tác động tích cực
đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Giả thuyết nghiên cứu 1a: Cải thiện chất lượng thể chế kinh tế
giúp kết quả hoạt động của doanh nghiệp lớn cao hơn các doanh nghiệp
khác (Beck và cộng sự, 2005; Jonsson, 2007; Bonaccorsi, 1992)
Giả thuyết nghiên cứu 1b: Cải thiện chất lượng thể chế kinh tế
giúp kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp
Kết quả hoạt
động của doanh
nghiệp
Quyết định đầu
tƣ của doanh
nghiệp
Thể chế kinh tế
Tương tác giữa thể chế kinh tế với quy mô doanh nghiệp
Tương tác giữa tể chế kinh tế với loại hình doanh nghiệp
Tương tác giữa thể chế kinh tế với ngành nghề kinh doanh
Tương tác giữa thể chế kinh tế với vùng kinh tế
9
ngoài nhà nước cao hơn DN FDI (Angelucci và cộng sự, 2001;
Estrin và cộng sự, 2009; Nigel và cộng sự, 2010)
Giả thuyết nghiên cứu 1c: Cải thiện chất lượng thể chế kinh tế
giúp kết quả hoạt động của doanh nghiệp ở khu vực thành phố Trung
ương cao hơn các khu vực khác (Lasagni và cộng sự, 2012; John, 2015)
Giả thuyết nghiên cứu 1d: Cải thiện chất lượng thể chế kinh tế
giúp kết quả hoạt động của doanh nghiệp ở các ngành tập trung nhiều
doanh nghiệp cao hơn các ngành khác (Eifert và cộng sự, 2005)
Giả thuyết nghiên cứu 2: Thể chế kinh tế có tác động tích cực
đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp.
Giả thuyết nghiên cứu 2a: Cải thiện chất lượng thể chế kinh tế
giúp quyết định đầu tư của doanh nghiệp lớn cao hơn các doanh
nghiệp khác (Saquido, 2003; CIEM, 2016)
Giả thuyết nghiên cứu 2b: Cải thiện chất lượng thể chế kinh tế
giúp quyết định đầu tư của doanh nghiệp FDI cao hơn doanh nghiệp
khác (Qiao Liu và Alan Siu, 2014)
Giả thuyết nghiên cứu 2c: Cải thiện chất lượng thể chế kinh tế
giúp quyết định đầu tư của doanh nghiệp ở khu vực thành phố Trung
ương tốt hơn các khu vực khác (Coase, 1937)
Giả thuyết nghiên cứu 2d: Cải thiện chất lượng thể chế kinh tế
giúp quyết định đầu tư của doanh nghiệp ở các ngành tập trung
nhiều doanh nghiệp tốt hơn các ngành khác (Williamsons, 1985)
10
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ THỂ CHẾ KINH TẾ,
QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng về thể chế pháp luật kinh tế ở Việt Nam
3.1.1. Cải cách hệ thống pháp luật kinh tế ở Việt Nam
3.1.2. Đánh giá những cải cách trong hệ thống pháp luật kinh tế ở
Việt Nam
3.1.2.1. Đối với pháp luật về chế độ sở hữu
3.1.2.2. Pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu
3.1.2.3. Pháp luật về gia nhập thị trường
3.1.2.4. Pháp luật về hoạt động kinh doanh trên thị trường
3.2. Thực trạng môi trường kinh doanh cấp tỉnh ở Việt Nam
Mục này sẽ trình bày thực trạng môi trường kinh doanh cấp
tỉnh ở Việt Nam thông qua chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của
Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Môi trường kinh
doanh là sự phản ánh trung thực về chất lượng, năng lực và sự phù
hợp của thể chế kinh tế. Môi trường kinh doanh tốt hay xấu, thuận
lợi hay khó khăn, được hỗ trợ hay bị cản trở đều phản ánh trung thực
năng lực, chất lượng và trình độ của thể chế kinh tế.
Công tác điều hành của các địa phương được khảo sát PCI đo
lường thông qua 10 chỉ số có tác động đến sự phát triển của khu
vực kinh tế tư nhân. Theo đó, một địa phương được coi là có chất
lượng điều hành tốt khi có: 1) chi phí gia nhập thị trường thấp; 2)
tiếp cận đất đai dễ dàng và sử dụng đất ổn định; 3) môi trường kinh
doanh minh bạch và thông tin kinh doanh công khai; 4) chi phí
không chính thức thấp; 5) thời gian thanh tra, kiểm tra và thực hiện
các quy định, thủ tục hành chính nhanh chóng; 6) môi trường cạnh
tranh bình đẳng; 7) lãnh đạo tỉnh năng động, sáng tạo trong giải
quyết vấn đề cho doanh nghiệp; 8) dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát
triển, chất lượng cao; 9) chính sách đào tạo lao động tốt; và 10) thủ
11
tục giải quyết tranh chấp công bằng, hiệu quả. Chỉ số PCI càng cao
thì môi trường kinh doanh ở tỉnh càng tốt. Theo báo cáo PCI, 2015,
năng lực cạnh tranh của các tỉnh từ năm 2006 - 2015 có xu hướng
ngày càng cải thiện.
3.3. Thực trạng về quyết định đầu tƣ và kết quả hoạt động
của doanh nghiệp ở Việt Nam
3.3.1. Thực trạng quyết định đầu tư của doanh nghiệp ở Việt Nam
Bình quân nguồn vốn, vốn đầu tư và tỷ lệ đầu tư trên vốn của
các doanh nghiệp có xu hướng gia tăng qua các năm
Bình quân nguồn vốn, vốn đầu tư và tỷ lệ đầu tư trên vốn của
các doanh nghiệp ở khu vực Đông nam bộ là cao nhất
Bình quân nguồn vốn, vốn đầu tư và tỷ lệ đầu tư trên vốn của
các doanh nghiệp ngành tài chính là lớn nhất
Bình quân nguồn vốn và vốn đầu tư của các doanh nghiệp tăng
theo quy mô. Tuy nhiên, tỷ lệ đầu tư trên vốn của các doanh nghiệp
lại tỷ lệ nghịch với quy mô của các doanh nghiệp.
3.3.2. Thực trạng kết quả hoạt động của doanh nghiệp ở Việt Nam KQHĐ của doanh nghiệp có xu hướng gia tăng qua các năm
KQHĐ của các doanh nghiệp thuộc ngành bán lẻ là cao nhất
KQHĐ của các doanh nghiệp ở khu vực Thành phố Trung
ương là cao nhất
KQHĐ của các doanh nghiệp lớn cao hơn các doanh nghiệp khác
12
CHƯƠNG 4: ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA THỂ CHẾ
KINH TẾ ĐẾN QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ VÀ KẾT QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
4.1. Các mô hình lý thuyết
4.1.1. Mô hình đánh giá ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến
kết quả hoạt động của doanh nghiệp
4.1.1.1 Xây dựng mô hình
Mô hình đánh giá ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến kết quả
hoạt động của doanh nghiệp là hàm sản xuất Cobb - Douglas
(Sumon, 2012; Phạm Thế Anh và Nguyễn Đức Hùng, 2014). Sau khi
biến đối có dạng như sau:
lnYit = b0 + b1lnKit + b2lnLit + b3Cijt + b4Zijt + +∑ijtBEijt ci +uit (I.5)
4.1.1.2. Phương pháp ước lượng
Phương trình (I.5) có thể được ước lượng theo phương pháp
hồi quy dữ liệu mảng
4.1.2. Mô hình đánh giá ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến
quyết định đầu tư của doanh nghiệp
4.1.2.1. Xây dựng mô hình
Mô hình được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của thể chế
kinh tế đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam (mối quan
hệ (II) từ khung lý thuyết) là sự kết hợp giữa mô hình hàm sản xuất
Cobb - Douglas được trình bày ở mục 4.1.1.1 với mô hình đầu tư
Euler. Sau khi biến đổi có dạng như sau:
uitciT
it
it
BEijtijtZijtCijtLit
KI
K
I
KI
it
it
it
it
5
2
4
3201
1
ln1
(II.2)
13
4.1.2.2. Phương pháp ước lượng
Do đã loại trừ vấn đề nội sinh trong mô hình (II.2), nên
phương pháp ước lượng cho mô hình (II.2) hoàn toàn giống phương
pháp ước lượng cho mô hình (I.5)
4.2. Dữ liệu và biến
4.2.1. Nguồn dữ liệu
Dữ liệu về doanh nghiệp được chiết từ bộ Điều tra Doanh
nghiệp (GES) thực hiện bởi Tổng cục Thống kê (GSO) trong giai
đoạn 2006 - 2014. Trong khi đó, dữ liệu về thể chế kinh tế được khai
thác từ bộ dữ liệu đánh giá Năng lực Cạnh tranh cấp Tỉnh được thực
hiện bởi Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam kể từ năm
2006 - 2014. PCI bao gồm nhiều chỉ tiêu đại diện tốt nhất cho môi
trường kinh doanh hay thể chế kinh tế hỗ trợ thị trường. Mặc dù tỉnh
không có chức năng ban hành luật pháp và chính sách lớn, song tỉnh
là đơn vị trực tiếp thực thi các chính sách đó. Sự khác biệt giữa các
tỉnh trong quá trình này cho phép sử dụng tỉnh làm đơn vị phân tích
về ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến kết quả hoạt động của doanh
nghiệp (Nguyễn Văn Thắng và cộng sự, 2012). Bộ dữ liệu mảng
hoàn chỉnh để nghiên cứu ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến quyết
định đầu tư và kết quả hoạt động của doanh nghiệp được thiết lập
bằng cách kết nối giữa 2 bộ số liệu này.
4.2.2. Xử lý dữ liệu
4.2.3. Biến số và thước đo
i) Biến phụ thuộc:
Kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Có nhiều thước đo khác
nhau để đo lường kết quả hoạt động của doanh nghiệp bao gồm: Lợi
nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế, doanh thu, doanh thu thuần.
Luận án này sử dụng tổng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
của doanh nghiệp, tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp làm
thước đo kết quả hoạt động của doanh nghiệp (Madsen, 1987 và
14
Almasand Hans, 2008, Phạm Thế Anh và Nguyễn Đức Hùng, 2014).
Đặc biệt, luận án có điểm mới là sử dụng giá trị tăng thêm (VA) của
kết quả sản xuất kinh doanh và tỷ lệ giữa giá trị tăng thêm với lao
động bình quân của doanh nghiệp làm thước đo kết quả hoạt động
của doanh nghiệp. Để đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp
trên thị trường nước ngoài có thể dùng giá trị xuất khẩu của doanh
nghiệp, giá trị này được quy đổi ra VNĐ theo tỷ giá của ngân hàng
nhà nước vào thời điểm 31 tháng 12 hàng năm, sau đây được gọi là
doanh thu xuất khẩu (Simon, 2007; Nguyễn Văn Thắng và cộng sự,
2013). Hiệu số giữa tổng doanh thu với doanh thu xuất khẩu được
gọi là doanh thu nội địa - phản ánh kết quả hoạt động của doanh
nghiệp trên thị trường nội địa. Tỷ lệ giữa doanh thu nội địa và doanh
thu xuất khẩu trên tổng doanh thu của doanh nghiệp cũng được sử
dụng làm thước đo kết quả hoạt động của doanh nghiệp trên thị
trường nội địa và xuất khẩu. Trong số các thước đo trên, trừ lợi
nhuận trước thuế, và các thước đo tỷ lệ, các thước đo khác được log
hóa khi đưa vào mô hình hồi quy.
Biến phụ thuộc phản ánh quyết định đầu tư của doanh nghiệp i
tại thời điểm t+1 (Ii,t+1). Có nhiều thước đo khác nhau được sử dụng
để đo lường quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phù
hợp với mẫu nghiên cứu, luận án sử dụng tỷ lệ giữa tổng vốn đầu tư
trên tổng nguồn vốn của doanh nghiệp tại thời điểm t+1.
ii) Nhóm biến giải thích:
Hai yếu tố đầu vào sản xuất quan trọng là vốn (Ki,t) và lao
động (Li,t) được đại diện bởi nguồn vốn bình quân (trung bình cộng
của nguồn vốn đầu năm và nguồn vốn cuối năm) và số lao động bình
quân (trung bình cộng của số lao động đầu năm và số lao động cuối
năm) mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh
(Phạm Thế Anh và Nguyễn Đức Hùng, 2014; Trần Thị Bích và cộng sự,
2008; Bernanke và Gilchrist, 1996; Budina và cộng sự, 2000;
Nguyễn Thị Cành, 2004). Các biến số này được log hóa khi đưa vào
mô hình hồi quy.
15
Biến số phản ánh quyết định đầu tư của doanh nghiệp i tại thời
điểm t (thời điểm trước) (It) được đo bằng tỷ lệ giữa tổng vốn đầu tư
trên tổng nguồn vốn của doanh nghiệp tại thời điểm t.
Biến thể chế kinh tế (BEjit ) được đo bằng chỉ số Năng lực Cạnh
tranh cấp tỉnh của Việt Nam (Nguyễn Văn Thắng và cộng sự, 2012,
2013; Trần Thị Bích và cộng sư, 2008; Neil và cộng sự, 2013; Đoàn
Quang Hưng và cộng sự, 2014; Phạm Thế Anh và Nguyễn Đức Hùng,
2014). Luận án này, sử dụng 9 chỉ tiêu ổn định nhất qua 9 năm liên
tục gồm: (i) Chi phí gia nhập thị trường; (ii) Tiếp cận đất đai và sự
ổn định trong sử dụng đất; (iii) Tính minh bạch và tiếp cận thông tin;
(iv) Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước; (v)
Chi phí không chính thức; (vi) Tính năng động và tiên phong của
lãnh đạo tỉnh; (vii) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp; (viii) Đào tạo lao
động; (ix) Thiết chế pháp lý.
Như đã khẳng định, PCI đánh giá hiệu quả điều hành kinh tế và
xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi của chính quyền địa phương.
Giữa các tỉnh thành/ khu vực khác nhau thì quá trình điều hành (thực
thi) là khác nhau. Bởi vì, năng lực thực thi của cán bộ là khác nhau, yếu
tố văn hóa vùng miền cũng có sự khác biệt, sự khác biệt về yếu tố địa lý
như thành thị có lợi thế về nguồn lao động chất lượng cao, cơ sở hạ tầng
tốt, có nhiều doanh nghiệp hoạt động hơn, ngược lại khu vực nông thôn
có điều kiện tiếp cận đất đai tốt hơn, v.vv. Do đó, việc sử dụng PCI làm
thước đo để đo lường thể chế kinh tế là hoàn toàn phù hợp.
Các biến số độc lập kiểm soát ảnh hưởng của đặc điểm của
doanh nghiệp (Cijt) bao gồm: loại hình doanh nghiệp (chia ra làm
doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài
nhà nước), quy mô doanh nghiệp (doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp
vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ), ngành nghề kinh
doanh và tuổi của doanh nghiệp. Trong đó, biến số đầu tiên được đại
diện bởi hai biến giả (dummy), các biến giả được gán giá trị 1 nếu
thuộc đối tượng nghiên cứu và 0 nếu khác, trong đó doanh nghiệp
16
FDI được dùng làm cơ sở so sánh. Biến số thứ hai được đại diện bởi
ba biến giả, các biến giả được gán giá trị 1 nếu thuộc đối tượng
nghiên cứu và 0 nếu khác, trong đó doanh nghiệp lớn được chọn làm
cơ sở để so sánh. Ngành nghề kinh doanh được phân loại theo phân
ngành cấp 1 trong VSIC - 2007 gồm ngành công nghiệp và sản xuất,
ngành nông lâm ngư nghiệp, ngành khai khoáng, ngành xây dựng,
ngành bán lẻ, ngành vận tải kho vận, ngành dịch vụ lưu trú và ăn
uống, ngành thông tin truyền thông, ngành tài chính ngân hàng,
ngành bất động sản, ngành khoa học & công nghệ, ngành sản xuất và
phân phối điện, khí đốt, ngành cung cấp nước và xả thải và tổng các
ngành khác, 13 biến giả được sử dụng cho ngành nghề kinh doanh,
các biến giả được gán giá trị 1 nếu thuộc đối tượng nghiên cứu và 0
nếu khác, trong đó tổng các ngành khác được lấy làm ngành chuẩn
để so sánh. Tuổi doanh nghiệp được tính bằng hiệu số giữa năm điều
tra khảo sát với năm doanh nghiệp thành lập. Vec - tơ Zijt kiểm soát
ảnh hưởng của các nhân tố về mặt địa lý, 6 biến giả sẽ được sử dụng
để đại diện cho 7 vùng kinh tế của cả nước là Thành phố Trung
ương, Đồng bằng Sông Hồng, Miền núi phía Bắc, Duyên Hải, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long, các biến giả
được gán giá trị 1 nếu thuộc đối tượng nghiên cứu và 0 nếu khác,
trong đó Thành phố Trung ương được lựa chọn làm cơ sở để so sánh.
Ngoài ra, mô hình còn sử dụng biến tương tác là tích giữa biến
PCI chung với biến quy mô doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp,
vùng kinh tế và ngành nghề kinh doanh nhằm phân tích so sánh ảnh
hưởng của thể chế kinh tế đến quyết định đầu tư và KQHĐ của
doanh nghiệp theo loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp,
ngành nghề kinh doanh và theo khu vực hoạt động.
4.3. Mô tả thống kê và tƣơng quan các biến
4.3.1. Mô tả thông kê các biến
4.3.2. Mô tả tương quan các biến
17
4.4. Kết quả ƣớc lƣợng và thảo luận
4.4.1 Kết quả ước lượng và thảo luận về ảnh hưởng của
thể chế kinh tế đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp ở
Việt Nam
4.4.2 Kết quả ước lượng và thảo luận về ảnh hưởng của
thể chế kinh tế đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp ở
Việt Nam
4.4.3 Kết quả ước lượng và thảo luận về ảnh hưởng của thể
chế kinh tế đến quyết định đầu tư và KQHĐ của các doanh nghiệp
trong một số trường hợp
4.4.4.1. Doanh nghiệp ngoài nhà nước
4.4.4.2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa
4.4.4.3. Ngành bán lẻ
4.4.4.4 Khu vực Thành phố Trung ương
18
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN
5.1. Kết luận
Đánh giá ảnh hưởng của thể chế kinh tế đến kết quả hoạt động
của doanh nghiệp ở Việt Nam, nghiên cứu thực nghiệm của luận án
chỉ ra rằng, hầu hết các biến thể chế kinh tế đều có ý nghĩa ở mức
10%. Điều này hàm ý, hầu hết những thay đổi của thể chế kinh tế
đều ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Một số chỉ tiêu có ảnh hưởng tích cực và một số ngược lại. Cụ thể: i)
Chỉ tiêu về gia nhập thị trường, có ảnh hưởng tích cực đến doanh
thu, lợi nhuận trước thuế, giá trị tăng thêm, doanh thu nội địa, tỷ lệ
doanh thu nội địa, tỷ lệ doanh thu xuất khẩu. Kết quả này phù hợp
với lý thuyết kinh tế và ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H1. Ngược lại
gia nhập thị trường có ảnh hưởng ngược chiều đến tỷ lệ giá trị tăng
thêm và doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp.; ii) Chỉ tiêu về tiếp
cận đất đai, có ảnh hưởng tích cực đến doanh thu, lợi nhuận trước
thuế, tỷ lệ giá trị tăng thêm, doanh thu xuất khẩu và tỷ lệ doanh thu
xuất khẩu của doanh nghiệp. Kết quả này phù hợp lý thuyết kinh tế
và ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H1. Ngược lại, ảnh hưởng ngược
chiều đến giá trị tăng thêm, doanh thu nội địa và tỷ lệ doanh thu nội
địa; iii) Chỉ tiêu về tính minh bạch, có ảnh hưởng tích cực đến lợi
nhuận trước thuế, giá trị tăng thêm, tỷ lệ giá trị tăng thêm, doanh thu
nội địa và tỷ lệ doanh thu nội địa của doanh nghiệp. Kết quả này phù
hợp với lý thuyết kinh tế và ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H1. Ngược
lại, chỉ tiêu này có ảnh hưởng ngược chiều đến doanh thu, doanh thu
xuất khẩu và tỷ lệ doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp; iv) Chi phí
thời gian, có ảnh hưởng tích cực đến KQHĐ của doanh nghiệp. Kết
quả này phù hợp với lý thuyết kinh tế và ủng hộ giả thuyết nghiên
cứu H1; v) Đối với chi phí không chính thức, lĩnh vực này có ảnh
hưởng tích cực đến doanh thu, lợi nhuận trước thuế, giá trị tăng
thêm, doanh thu xuất khẩu và tỷ lệ doanh thu xuất khẩu của doanh
19
nghiệp. Kết quả này phù hợp với lý thuyết kinh tế và ủng hộ giả
thuyết nghiên cứu H1. Ngược lại, ảnh hưởng ngược chiều đến tỷ lệ
giá trị tăng thêm, doanh thu nội địa và tỷ lệ doanh thu nội địa của
doanh nghiệp; vi) Đối với tính năng động tiên phong của lãnh đạo
tỉnh, chỉ tiêu này không ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận trước
thuế, tỷ lệ giá trị tăng thêm và tỷ lệ doanh thu xuất khẩu của doanh
nghiệp nhưng ảnh hưởng ngược chiều đến đến giá trị tăng thêm và
doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp và ảnh hưởng tích cực đến
doanh thu nội địa và tỷ lệ doanh thu nội địa của doanh nghiệp; vii)
Chỉ tiêu về đào tạo lao động, chỉ tiêu này có ảnh hưởng ngược chiều
đến phần lớn KQHĐ của doanh nghiệp. Kết quả này không phù hợp
lý thuyết kinh tế và không ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H1. Ngược
lại, ảnh hưởng tích cực đến giá trị tăng thêm và doanh thu xuất khẩu
của doanh nghiệp; viii) Đối với lĩnh vực thiết chế pháp lý, có ảnh
hưởng tích cực đến doanh thu, lợi nhuận trước thuế, giá trị tăng
thêm, doanh thu nội địa, tỷ lệ doanh thu nội địa và tỷ lệ doanh thu
xuất khẩu của doanh nghiệp. Kết quả này phù hợp với lý thuyết kinh
tế và ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H1. Và, lĩnh vực này không ảnh
hưởng đến tỷ lệ giá trị tăng thêm và doanh thu xuất khẩu của doanh
nghiệp; ix) Đối với dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, ảnh hưởng tích
cực đến lợi nhuận trước thuế, giá trị tăng thêm, tỷ lệ giá trị tăng
thêm, doanh thu nội địa, tỷ lệ doanh thu nội địa, tỷ lệ doanh thu xuất
khẩu của doanh nghiệp nhưng ảnh hưởng trái chiều đến doanh thu,
doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp. Cuối cùng, chỉ số PCI tổng
hợp (PCI chung) được sử dụng để thay thế cho 9 chỉ tiêu trên. Kết
quả cho thấy, các hệ số hồi quy hầu hết đều mang dấu dương và có ý
nghĩa ở mức 1%, tức là thể chế kinh tế có ảnh hưởng tích cực đến
KQHĐ của doanh nghiệp.
Mặt khác, trong cùng một môi trường thể chế kinh tế KQHĐ
của DNFDI lớn hơn các DN khác, KQHĐ của DN lớn lớn hơn các
20
DN khác, KQHĐ của các DN ngành xây dựng, bán lẻ và công
nghiệp nhỏ hơn các ngành khác và KQHĐ của các DN thuộc vùng
thành phố Trung ương lớn hơn các vùng khác. Tuy nhiên, khi chất
lượng thể chế kinh tế được cải thiện thì KQHĐ của DN FDI ít bị ảnh
hưởng bởi thể chế kinh tế nhất. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của thể chế
kinh tế đến KQHĐ so sánh giữa các quy mô doanh nghiệp cho thấy,
khi thể chế kinh tế được cải thiện thì doanh thu của DN lớn cao hơn
các doanh nghiệp khác, giá trị tăng thêm và tỷ lệ giá trị tăng thêm
của doanh nghiệp lớn cao hơn doanh nghiệp nhỏ. Kết quả này ủng hộ
giả thuyết nghiên cứu H1a. Ngược lại, không ủng hộ giả thuyết
nghiên cứu H1a, tỷ lệ doanh thu nội địa của các doanh nghiệp nhỏ
lớn hơn doanh nghiệp lớn và giá trị tăng thêm của doanh nghiệp vừa
cao hơn doanh nghiệp lớn. So sánh ảnh hưởng của thể chế kinh tế
đến KQHĐ giữa các ngành cho thấy, thể chế kinh tế cải thiện thì
KQHĐ của doanh nghiệp ở các ngành khác nhau là khác nhau. Trong
đó, đối với các ngành tập trung nhiều doanh nghiệp như ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo, có doanh thu, giá trị gia tăng và doanh thu
xuất khẩu lớn hơn các ngành khác; ngành xây dựng có doanh thu và
doanh thu xuất khẩu lớn hơn các ngành khác; ngành bán lẻ có giá trị
tăng thêm và tỷ lệ giá trị tăng thêm lớn hơn các ngành khác. Kết quả
này ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H1d. Ngược lại, không ủng hộ giả
thuyết nghiên cứu H1d, doanh thu của ngành bán lẻ thấp hơn các
ngành khác; giá trị gia tăng và tỷ lệ giá trị gia tăng của các doanh
nghiệp ngành xây dựng thấp hơn các ngành khác; tỷ lệ giá trị gia
tăng của các doanh nghiệp ngành công nghiệp thấp hơn các ngành
khác. Cuối cùng, cải thiện chất lượng thể chế kinh tế khiến phần lớn
các chỉ tiêu về KQHĐ của các doanh nghiệp ở khu vực thành phố
Trung ương lớn hơn các doanh nghiệp tập trung ở các vùng kinh tế
khác. Kết quả này ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H1c.
Ngoài ra, thể chế kinh tế cũng có ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư của doanh nghiệp. Một số ảnh hưởng tích cực và một số ảnh
hưởng ngược chiều.
21
Cụ thế, các nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến quyết định đầu
tư của doanh nghiệp, ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H2 gồm có, chỉ
tiêu về tính năng động tiên phong của lãnh đạo tỉnh, đào tạo lao động
và chỉ tiêu về thiết chế pháp lý. Ngược lại các chỉ tiêu gia nhập thị
trường, tiếp cận đất đai, minh bạch, chi phí thời gian, chi phí không
chính thức và hỗ trợ doanh nghiệp có ảnh hưởng ngược chiều đến
quyết định đầu tư của doanh nghiệp và không ủng hộ giả thuyết
nghiên cứu H2.
Hơn nữa, trong cùng một môi trường thể chế kinh tế, quyết
định đầu tư của doanh nghiệp FDI nhỏ hơn DN Ngoài NN nhưng lớn
hơn DNNN. Đồng thời, quyết định đầu tư của DN lớn ít hơn DN siêu
nhỏ và nhỏ nhưng cao hơn doanh nghiệp vừa. Hay, quyết định đầu tư
của các doanh nghiệp tập trung nhiều ở các ngành công nghiệp, xây
dựng và bán lẻ thấp hơn quyết định đầu tư của DN ở các ngành khác.
Cuối cùng, quyết định đầu tư của các doanh nghiệp ở khu vực Thành
phố Trung ương lớn hơn quyết định đầu tư của các doanh nghiệp
phân bố ở các vùng khác. Tuy nhiên, khi chất lượng thể chế kinh tế
được cải thiện thì quyết định đầu tư của doanh nghiệp FDI lớn hơn
các doanh nghiệp khác. Kết quả này ủng hộ giả thuyết nghiên cứu
H2b. Tương tự, quyết định đầu tư của doanh nghiệp lớn sẽ lớn hơn
các doanh nghiệp khác. Kết quả này phù hợp lý thuyết kinh tế và ủng
hộ giả thuyết nghiên cứu H2a. Và, quyết định đầu tư của các doanh
nghiệp thuộc khu vực thành phố Trung ương sẽ lớn hơn các khu vực
khác. Kết quả này ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H2c. Cuối cùng,
quyết định đầu tư của các doanh nghiệp ở những ngành tập trung
nhiều doanh nghiệp như công nghiệp, xây dựng và bán lẻ lớn hơn
các ngành khác. Kết quả này ủng hộ giả thuyết nghiên cứu H2d.
5.2. Kiến nghị và gợi ý chính sách
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đạt được, luận án đưa ra một số
kiến nghị nhằm cải thiện chất lượng thể chế kinh tế thông qua cải
thiện các chỉ tiêu của thể chế kinh tế, tạo môi trường kinh doanh tốt,
22
thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư và nâng cao kết quả hoạt động của doanh
nghiệp. Theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm, các chỉ tiêu thể chế kinh
tế có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định đầu tư và kết quả hoạt động
của doanh nghiệp. Sự cải thiện các chỉ tiêu thể chế kinh tế một số mang
lại tác động tích cực, tuy nhiên một số ngược lại. Đối với những chỉ tiêu
có tác động tích cực, chính quyền địa phương cần tiếp tục duy trì và
hoàn thiện để nâng cao chất lượng của những chỉ tiêu này. Đối với
những chỉ tiêu có tác động ngược chiều thì chính quyền địa phương cần
quan tâm đến những phản ánh của đại diện các hiệp hội doanh
nghiệp, nghiêm túc tiếp thu ý kiến phản hồi, rà soát lại toàn bộ quy
trình đảm bảo thực hiện đúng chỉ đạo từ cấp trên.
Tóm lại, để cải thiện chất lượng thể chế kinh tế thông qua cải
thiện các chỉ tiêu của thể chế kinh tế đòi hỏi phải được thực hiện
đồng bộ trên cả ba phương diện là “luật chơi”, “người chơi” và “cơ
chế thực thi”, Ở Việt Nam, “cơ chế thực thi” cần đặc biệt được chú ý.
5.3. Đóng góp của luận án
Luận án có khung lý thuyết vững, sử dụng mô hình hàm sản
xuất Cobb - Douglas, mô hình đầu tư Euler với dữ liệu mảng được
ghép nối từ bộ số liệu của GES và PCI giai đoạn từ 2006 đến 2014.
Đặc biệt, luận án sử dụng 9 chỉ tiêu thành phần của thể chế kinh tế
bao gồm: Chi phí gia nhập thị trường, tiếp cận và ổn định sử dụng
đất đai, chi phí thời gian, chi phí không chính thức, năng động tiên
phong của lãnh đạo địa phương, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, đào tạo
lao động và thiết chế pháp lý và chỉ tiêu PCI tổng hợp để đánh giá
tác động của thể chế kinh tế đến quyết định đầu tư và kết quả hoạt
động của doanh nghiệp trên thị trường nội địa và nước ngoài.
Bằng chứng thực nghiệm khẳng định thể chế kinh tế có ảnh
hưởng đến quyết định đầu tư và kết quả hoạt động của doanh nghiệp
ở Việt Nam. Cụ thể, thể chế kinh tế ảnh hưởng tích cực đến KQHĐ
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với quyết định đầu tư của doanh
23
nghiệp, phần lớn chỉ tiêu có ảnh hưởng ngược chiều đến quyết định
đầu tư của doanh nghiệp.
Mặt khác, trong cùng một môi trường thể chế kinh tế, quyết
định đầu tư của doanh nghiệp FDI nhỏ hơn DN Ngoài NN nhưng lớn
hơn DN nhà nước. Đồng thời, quyết định đầu tư của DN lớn ít hơn
DN siêu nhỏ và nhỏ nhưng cao hơn doanh nghiệp vừa. Hay, quyết
định đầu tư của các doanh nghiệp tập trung nhiều ở các ngành công
nghiệp, xây dựng và bán lẻ thấp hơn quyết định đầu tư của DN ở các
ngành khác. Cuối cùng, quyết định đầu tư của các doanh nghiệp ở
khu vực Thành phố Trung ương lớn hơn quyết định đầu tư của các
doanh nghiệp phân bố ở các vùng khác. Tuy nhiên, khi chất lượng
thể chế kinh tế được cải thiện thì thì quyết định đầu tư của doanh
nghiệp FDI lớn hơn các doanh nghiệp khác, quyết định đầu tư của
doanh nghiệp lớn sẽ lớn hơn các doanh nghiệp khác, quyết định đầu
tư của các doanh nghiệp thuộc khu vực thành phố Trung ương sẽ lớn
hơn các khu vực khác, và quyết định đầu tư của các doanh nghiệp ở
những ngành tập trung nhiều doanh nghiệp như công nghiệp, xây
dựng và bán lẻ lớn hơn các ngành khác.
Đối với KQHĐ của DN, trong cùng một môi trường thể chế
KQHĐ của DN FDI lớn hơn các DN khác, KQHĐ của DN lớn lớn
hơn các DN khác, KQHĐ của các ngành xây dựng, bán lẻ và công
nghiệp nhỏ hơn các ngành khác và KQHĐ của các doanh nghiệp
thuộc vùng thành phố Trung ương lớn hơn các ngành khác. Tuy
nhiên, khi chất lượng thể chế kinh tế được cải thiện thì KQHĐ của
DN FDI lớn hơn DN ngoài nhà nước nhưng nhỏ hơn DN nhà nước,
KQHĐ của doanh nghiệp lớn lớn hơn DN khác, KQHĐ của các DN
ngành công nghiệp, xây dựng, bán lẻ lớn hơn các ngành khác, và
KQHĐ của các DN ở khu vực thành phố Trung ương lớn hơn các
doanh nghiệp tập trung ở các vùng kinh tế khác.
Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm đó, luận án đưa ra các
kiến nghị nhằm cải thiện chất lượng thể chế kinh tế ở Việt Nam
24
thông qua cải thiện chín chỉ tiêu thành phần trên cả ba phương diện
quan trọng là “luật chơi”, “người chơi” và “cơ chế thực thi”. Bên
cạnh đó, luận án nghiên cứu cho tất cả các ngành nghề, các vùng
kinh tế ở Việt Nam trong thời gian liên tục 9 năm, nên mang tính đại
diện cho toàn nền kinh tế. Đồng thời, luận án tính toán giá trị tăng
thêm của SXKD của doanh nghiệp và sử dụng nó làm thước đo tốt
nhất cho kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Thước đo này các
nghiên cứu có liên quan trước đây chưa sử dụng. Cuối cùng, mô hình
ước lượng luận án sử dụng là mô hình tác động ngẫu nhiên, tức là có
bằng chứng thực nghiệm khẳng định sự khác biệt về thực thi pháp
luật kinh tế giữa các tỉnh thành ở Việt Nam.
5.4. Hạn chế của luận án và hƣớng nghiên cứu mới
- Thiếu biến kiểm soát thời điểm
- Chưa khai thác, đánh giá riêng ảnh hưởng của những thể chế
kinh tế dung hợp và phi dung hợp
- PCI không phải là thước đo tốt nhất để đo lường chất lượng
thể chế kinh tế, do hàng năm các câu hỏi thành phần cấu thành nên
điểm số của các chỉ tiêu thể chế kinh tế có sự thay đổi cho phù hợp
bối cảnh
Trong tương lai, NCS sẽ tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện những
hạn chế kế trên.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ
1. Chu Thị Mai Phương, Từ Thúy Anh và Phạm Thế Anh
(2016), „Vai trò của thể chế đối với đầu tư của doanh nghiệp
Việt Nam giai đoạn 2006 - 2014’, Tạp chí Nghiên cứu Kinh
tế, số 460.
2. Chu Thị Mai Phương và Từ Thúy Anh (2016), „Tác động của
thể chế đến xác suất ra quyết định đầu tư của các doanh
nghiệp ở Việt Nam’, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 17(625).
3. Phạm Thế Anh và Chu Thị Mai Phương (2015), „Tác động
của môi trường thể chế đến kết quả hoạt động của doanh
nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước’, Tạp chí Kinh tế và
Phát triển, số 215.
4. Chu Thị Mai Phương (2015), „Tác động của môi trường thể
chế đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp FDI’, Tạp chí
Kinh tế Đối ngoại, số 74.
5. Chu Thị Mai Phương và Nguyễn Thị Thanh Huyền (2016),
Ảnh hưởng của thể chế đến đầu tư xanh của các doanh nghiệp
ở Việt Nam, hội thảo cấp trường „Hội nhập Kinh tế quốc tế
đầu thế kỷ XXI - Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp
Việt Nam’, Đại Học Ngoại Thương, Hà Nội.