Upload
others
View
6
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN VĂN TĨNH
PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN VĂN TĨNH
PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS Lê Minh Thông
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Trần Văn Tĩnh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6
1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án, giả thuyết nghiên cứu
và câu hỏi nghiên cứu 21
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA
CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 26
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng 26
2.2. Nội dung, phương thức hoạt động phòng, chống tham nhũng và mối quan hệ giữa
công tác kiểm tra của Đảng với các cơ quan chức năng liên quan trong phòng,
chống tham nhũng đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương 47
2.3. Điều kiện bảo đảm công tác kiểm tra của Đảng trong phòng, chống tham nhũng
đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương 67
2.4. Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của Trung Quốc và những giá trị tham
khảo ở Việt Nam 73
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG BỘ
MÁY NHÀ NƢỚC VÀ CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG
ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 81
3.1. Quá trình phát triển quan điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng trong bộ
máy nhà nước, các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công
tác kiểm tra của Đảng 81
3.2. Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng về phòng, chống tham nhũng
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm
tra của Đảng từ Đại hội X của Đảng đến nay 95
CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA
CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 125
4.1. Quan điểm phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng 125
4.2. Giải pháp phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng 128
KẾT LUẬN 157
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160
PHỤ LỤC 168
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCS đảng Ban Cán sự đảng
Công tác kiểm tra của Đảng Công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
PCTN Phòng, chống tham nhũng
UBKT Ủy ban Kiểm tra
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Mô hình tổ chức của các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương 27
Hình 2.2: Mô hình tổ chức của Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Cơ quan
Ủy ban Kiểm tra Trung ương 36
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan trong bộ máy nhà
nước, là một trong những căn bệnh gắn liền với quyền lực nhà nước, luôn ăn sâu bám
rễ trong mọi chế độ xã hội. Một số nơi trên thế giới, tham nhũng làm suy kiệt cơ thể xã
hội, gây xáo trộn, mất ổn định chính trị. Phòng, chống tham nhũng (PCTN) là công
việc khó khăn, phức tạp, cần có sự quyết liệt và kiên trì, là chính sách ưu tiên hàng đầu
của nhiều quốc gia và sự nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế.
Tham nhũng là sự vụ lợi bằng việc lợi dụng quyền lực, được coi là một tệ nạn ở
hầu hết các nước trên thế giới. Đối với Việt Nam, trong những năm gần đây, tệ nạn
tham nhũng đã nổi lên một cách tràn lan, xâm phạm kỷ cương phép nước, làm mất lành
mạnh của cơ quan, tổ chức, gây thiệt hại cho lợi ích tài sản nhà nước, tập thể và cá
nhân, làm tăng thêm sự phân hóa giàu nghèo bất chính, nẩy sinh mâu thuẫn xã hội, ảnh
hưởng tiêu cực đến khối đại đoàn kết dân tộc, xói mòn truyền thống đạo đức tốt đẹp
của dân tộc, đảo lộn các giá trị xã hội và ảnh hưởng tiêu cực đến thế hệ tương lai, làm
tổn thất đến đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thậm chí làm hư hỏng một số cán bộ
đã được đào tạo, rèn luyện qua nhiều thời kỳ...từ đó làm giảm sút lòng tin của nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước và ảnh hưởng tiêu
cực đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đảng và Nhà nước ta
đã xác định tham nhũng là “quốc nạn”, một nguy cơ lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong
của chế độ. Tham nhũng hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội mà chủ
thể là những cá nhân có chức, có quyền, có cơ hội lợi dụng quyền để vụ lợi. Trong các
cơ quan hành chính nhà nước nói chung và đặc biệt là cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương nói riêng, cơ quan thực thi quyền lực nhà nước, quản lý mọi mặt đời
sống xã hội, có thẩm quyền quyết định đơn phương, thì tham nhũng càng có điều kiện
nảy sinh và phát triển, do đó việc PCTN ở những cơ quan này càng phải chú trọng.
Nhiệm vụ này được quy định cho nhiều chủ thể, bao gồm các cơ quan quyền lực, cơ
quan thực thi pháp luật, cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị
xã hội, các tổ chức xã hội và nhân dân, trong đó vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
thông qua công tác kiểm tra của Đảng có ý nghĩa, tác dụng rất quan trọng.
Trên thực tế những năm qua, vai trò PCTN của Đảng Cộng sản Việt Nam thông
qua công tác kiểm tra của Đảng đã được đẩy mạnh và tỏ rõ có hiệu quả cao. Cần thiết
2
phải có sự nghiên cứu sâu về mặt lý luận để làm rõ ý nghĩa, nội dung, hình thức,
phương pháp của hoạt động PCTN này, cũng như phải có sự đánh giá thực trạng để từ
đó đề xuất các giải pháp tiến hành thể chế hóa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ hơn nhằm tăng
cường và nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy hơn nữa vai trò công tác kiểm tra của
Đảng trong PCTN đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Đề tài
luận án này là một cố gắng theo hướng đó, nó có tính cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận
và thực tiễn lớn.
Vì vậy, việc nghiên cứu về PCTN trong các cơ quan nhà nước thông qua công
tác kiểm tra của Đảng vừa có ý nghĩa lý luận đối với Đảng cầm quyền, vừa có ý nghĩa
thực tiễn lớn trong PCTN ở nước ta giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những phân tích
trên đây, nghiên cứu sinh đã lựa chọn vấn đề “Phòng, chống tham nhũng trong các
cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của
Đảng cộng sản Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu viết luận án tiến sỹ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cở sở nghiên cứu về lý luận và đánh giá thực trạng, luận án có mục đích
xây dựng các quan điểm và đề xuất giải pháp khoa học nâng cao vai trò, hiệu quả công
tác PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua hoạt động
kiểm tra của Đảng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích, làm rõ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tìm ra
những nội dung đã nghiên cứu và xác định những vấn đề cần tập trung nghiên cứu.
Thứ hai, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò công tác
kiểm tra của Đảng và đặc điểm, nội dung, phương thức kiểm tra của Đảng đối với
PCTN trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương; Làm rõ kinh nghiệm của
Trung Quốc trong việc phát huy vai trò của công tác kiểm tra của Đảng về phòng,
chống tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng PCTN trong cơ quan hành chính nhà
nước cấp trung ương: quá trình phát triển quan điểm của Đảng, ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân.
Thứ tư, phân tích rõ quan điểm của Đảng về đấu tranh PCTN trong các các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Trên cơ sở đó đề xuất các nhóm giải pháp
3
nâng cao vai trò, hiệu quả công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN đối với các cơ quan
hành chính nhà nước cấp trung ương.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động đấu tranh PCTN trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Luận án giới hạn ở những vấn đề về công tác kiểm tra của
Đảng trong PCTN đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
- Phạm vi thời gian: Mốc thời gian nghiên cứu của đề tài luận từ Đại hội X của
Đảng năm 2006 đến thực Đại hội lần thứ XII của Đảng năm 2019.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của Luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước về đấu tranh PCTN, lãng phí trong bộ máy nhà nước nói chung và các
cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng. Ngoài ra, Luận án nghiên cứu
thực tiễn về kết quả PCTN trong bộ máy nhà nước, về công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng trong PCTN, kiểm soát quyền lực nhà nước…của các nhà khoa học, tác giả đi
trước cũng là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình viết Luận án, tác giả đã sử dụng các phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp so sánh - thống kê, khái quát
hóa, phương pháp trao đổi, xin ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Luận án tiếp cận thực tiễn nghiên cứu về
PCTN bộ máy nhà nước và công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN đối với các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương ở trong và nước ngoài có liên quan đến nội
dung luận án. Trên cơ sở đó hệ thống hóa, khái quát và so sánh để làm sáng tỏ cơ sở lý
luận của luận án, nghiên cứu vấn đề PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng ở Việt Nam. Đồng thời xác định rõ
những vấn đề mà luận án cần triển khai tiếp tục nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận án nghiên cứu tổng kết công tác thực
tiễn để thống kê, phân tích, so sánh và đánh giá tình hình về những kết quả, hạn chế,
4
cùng với nguyên nhân của PCTN trong bộ máy nhà nước và các cơ quan hành chính
nhà nước cấp trung; đồng thời, đánh giá, phân tích thực trạng về những kết quả, hạn
chế và nguyên nhân của PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước thông qua công
tác kiểm tra của Đảng.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: luận án sử dụng phương pháp phân tích và
tổng hợp, phương pháp lịch sử và lôgíc phân tích, luận chứng để làm sáng tỏ các quan
điểm và giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả PCTN trong các cơ quan hành chính cấp
trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp chuyên gia: thông qua việc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp những nội
dung về cơ chế, pháp lý, tổ chức bộ máy hoặc góp ý vào luận án, tác giả luận án có
điều kiện tranh thủ được kiến thức của các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ chuyên
ngành về công tác PCTN và công tác kiểm tra của Đảng để củng cố thêm những căn cứ
khoa học, kinh nghiệm thực tiễn góp phần hoàn thiện luận án. Trong đó, cách thức
chọn mẫu theo nội dung về cơ chế thành lập UBKT cấp ủy; xây dụng mô hình sát nhập
UBKT với Thanh tra, Nội chính; bổ sung quy định, cơ chế UBKT cấp ủy thực hiện
PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực; nghiên cứu xây dựng Luật Giám sát và cơ
quan Giám sát; mô hình về tổ chức bộ máy của UBKT cấp ủy trong các bộ, ngành
trung ương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Cách thức tiến hành khảo sát thực hiện phỏng vấn cá nhân (trao đổi trực tiếp
hoặc qua điện thoại) theo các hình thức phỏng vấn bán tiêu chuẩn: có một số câu hỏi có
tính chất quyết định được tiêu chuẩn hóa, còn các câu hỏi khác có thể phát biểu tùy tình
hình cụ thể và phỏng vấn sâu: thực hiện phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia đi sâu vào
một số nội dung.
Về đối tượng khảo sát bao gồm các đồng chí là thành viên UBKT Trung ương
(phó chủ nhiệm và Ủy viên UBKT Trung ương) và lãnh đạo một số ban đảng Trung
ương (kể cả một số đồng chí đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu); các đồng chí là bí thư
đảng ủy các bộ, ngành cơ quan hành chính nhà nước trung ương (các đồng chí đối
tượng này cơ bản giữ chức vụ chính quyền là thứ trưởng và tương đương); một số đồng
chí là Bí thư, Phó bí thư Đảng Khối các cơ quan Trung ương; với tổng số khoảng 30
đồng chí.
5. Những điểm mới về khoa học của luận án
Một là, trên cơ sở nghiên cứu khái quát hóa lý luận về PCTN trong các cơ quan
hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng, làm rõ
5
khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương thức cũng như sự cần thiết về cơ sở chính trị và
cơ sở pháp lý trong việc xác lập vai trò công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN của
các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương trong điều kiện chính trị do một Đảng
duy nhất cầm quyền ở nước ta hiện nay.
Hai là, luận án xác định chính xác ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực
trạng phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
thông qua hoạt động kiểm tra của Đảng.
Ba là, đề xuất các quan điểm và giải pháp đột phá, khả thi, khoa học nhằm nâng
cao hiệu quả công tác kiểm tra của Đảng trong đấu tranh PCTN tại các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương. Đặc biệt xác định cơ chế, mô hình tổ chức cơ quan phù
hợp thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh PCTN và giám sát kiểm soát quyền lực
nhà nước; góp phần tích cực vào việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh cuộc đấu tranh
PCTN, xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần bổ sung và phát triển và làm phong
phú thêm các vấn đề lý luận về PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng; góp phần làm sáng tỏ quan điểm của
Đảng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của UBKT Trung ương, UBKT các cấp
trong cuộc đấu PCTN thông qua công tác kiểm tra của Đảng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án là công trình khoa học có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa
học, nhà nghiên cứu giảng dạy những nội dung liên quan đến PCTN trong các
Trường Đại học chuyên luật và không chuyên luật, trong hệ thống các Trường chính
trị từ Trung ương đến địa phương. Đặc biệt Luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa
học về PCTN thông qua công tác kiểm tra của Đảng cho những người trực tiếp tham
gia hoạt động PCTN trong bộ máy nhà nước và các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương.
7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã công
bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án
được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
thông qua công tác kiểm tra của Đảng góc độ tiếp cận đầu tiên phải xuất phát từ việc
tìm hiểu kiến thức nền tảng về tham nhũng và PCTN. Trên phương diện này, có thể
điểm danh một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Sách “Phòng, chống tham nhũng trong hoạt động công vụ ở Việt Nam - Lý
luận và thực tiễn” của Nguyễn Quốc Sửu [63]. Nội dung sách đề cập tương đối toàn
diện và có hệ thống về tham nhũng và PCTN trong hoạt động công vụ ở nước ta hiện
nay. Tác giả đã phân tích, làm rõ những hành vi tham nhũng có nguy cơ nảy sinh
trong quá trình cán bộ, công chức thi hành nhiệm vụ như: tham ô tài sản; nhận hối lộ;
lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành nhiệm vụ, công vụ… Phân tích tình hình tham nhũng và thực trạng công
tác đấu tranh PCTN ở nước ta hiện nay, dự báo tình hình tham nhũng trong những
năm tới là cơ sở để tác giả đưa ra bốn nhóm giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm nâng cao
hiệu quả công tác PCTN trong hoạt động công vụ. Cuốn sách là một tài liệu tham
khảo có giá trị cho học viên, sinh viên, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách
về PCTN ở Việt Nam.
- Đề tài về “Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược phòng ngừa và
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam cho đến năm
2020” do Thanh tra Chính phủ chủ trì [66]. Đề tài xây dựng 9 chuyên đề bao gồm: hệ
thống các tiêu chí điều tra nhận diện tham nhũng; phương pháp tính và các chỉ tiêu
tổng hợp; phần mềm xử lý số liệu; chiến lược, chính sách chống tham nhũng của Trung
Quốc, Hàn Quốc, EU, Hungary; các biện pháp chống rửa tiền và báo cáo kết quả điều
tra xã hội học về thực trạng và nguyên nhân tham nhũng, cùng với Báo cáo kiến nghị
các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, ngừa, đấu tranh chống tham nhũng và việc xây
7
dựng Chiến lược PCTN của Việt Nam. Nội dung của Đề tài là cơ sở lý luận và căn cứ
khoa học cho việc nghiên cứu xây dựng nội dung cơ bản của luận án cả về lý thuyết và
thực tiễn.
- Đề tài khoa học: “Đấu tranh chống tham nhũng: những vấn đề lý luận và giải
pháp thực tiễn” của Quách Lê Thanh [65] đã xây dựng khái niệm, đặc trưng cơ bản về
tham nhũng, đánh giá tình hình và nguyên nhân tham nhũng và những kết quả, hạn chế,
yếu kém trong đấu tranh chống tham nhũng. Trên cơ sở đó đề ra mục tiêu, quan điểm
và một số giải pháp đấu tranh PCTN trong thời gian tới.
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong khu
vực tư ở Việt Nam” của Đinh Văn Minh [51]. Đề tài cho rằng tham nhũng sẽ xuất hiện
và tồn tại ở nhiều lĩnh vực và hoạt động của khu vực tư. Do vậy, trong phạm vi nghiên
cứu, nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số định hướng và giải pháp PCTN trong khu vực
tư ở Việt Nam; gắn PCTN trong khu vực tư với PCTN trong khu vực công; tạo cơ chế
phát huy mạnh mẽ tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân gắn với tăng cường
thanh tra, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
cần khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện quy tắc kinh doanh không
tham nhũng, không hối lộ, chống xung đột lợi ích.
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực
trong thể chế chính trị nhằm ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở Việt
Nam” của Nguyễn Văn Mạnh [47] là công trình nghiên cứu sâu về kiểm soát quyền lực
chính trị ở Việt Nam hiện nay. Trong một chừng mực nhất định Đề tài cũng đã đề cập
đến tham nhũng và PCTN trong hệ thống trị nói chung và bộ máy nhà nước nói riêng,
cũng như việc xây dựng cơ chế để kiểm soát chặt chẽ quyền lực chính trị, trong đó có
quyền lực nhà nước hiện nay.
- Chuyên đề “Chống tham nhũng của Việt Nam và một số nước trên thế giới”
của Lê Văn Giảng [30]. Nội dung chuyên đề đã đề cập những quan niệm về tham
nhũng của Lênin, Hồ Chí Minh và quan niệm về tham nhũng của các học giả trên thế
giới và Việt Nam hiện nay để đưa ra khái niệm về tham nhũng. Qua đó xác định nguồn
gốc, bản chất và đặc trưng của tham nhũng. Đồng thời tác giả cũng đánh giá thực trạng,
tác hại và nguyên nhân tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam. Trên
cơ sở đó đưa ra quan điểm, mục tiêu, yêu cầu và giải pháp đấu tranh chống tham nhũng
trong thời gian tới ở nước ta.
8
- Bài “Nguyên tắc xử lý tài sản tham nhũng” [7]. Nội dung bài báo thể hiện
nguyên tắc xử lý tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu, trả lại cho chủ sở hữu,
quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước kể cả tài sản tham nhũng có yếu tố nước
ngoài. Theo bài báo này thì nguyên tắc công khai là một trong những nguyên tắc xử lý
tài sản tham nhũng có hiệu quả và phải quán triệt.
- Bài “Giám sát xã hội như một giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí”
của Tạ Ngọc Tấn [64] đã phân tích và luận giải sự cần thiết của hoạt động giám sát xã
hội đối với hoạt động của bộ máy nhà nước. Xét về bản chất, giám sát xã hội thực chất
là sự kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm
giữ quyền lực nhà nước. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa (XHCN), hoạt động giám sát xã hội cần phải được coi trọng để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ. Trên cơ sở đánh giá thực trạng về hoạt động của bộ máy nhà
nước, tác giả đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát xã hội, góp phần
đấu tranh, PCTN, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của quản lý nhà nước.
- Bài “Bổ sung quyền giám sát của nhân dân” của Nguyễn Văn Hải [33] cho
rằng trong giai đoạn mới động viên, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người
dân được tham gia giám sát hoạt động của bộ máy Đảng, chính quyền và giám sát cán
bộ, công chức là một trong những biện pháp ngăn ngừa, PCTN, lãng phí, tiêu cực có
hiệu quả. Đó là đòi hỏi tất yếu để xây dựng Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân,
do dân và vì dân và đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là “công bộc, đầy tớ” trung
thành, tận tụy của nhân dân.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
- Theo từ điển Oxford Unabridged Dictonary [39] tham nhũng là sự bóp méo
hoặc phá hoại tính liêm chính trong thực hiện công vụ bởi hối lộ hay thiên vị. Từ điển
Webster's Collegiate Dictonary [39] tham nhũng là sự khích lệ làm điều sai trái bởi
những phương tiện không đúng đắn hoặc bất hợp pháp (như hối lộ). Theo từ điển bách
khoa của Cộng hòa Liên bang Đức [39] thì tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất,
hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền hành [39, tr.10]. Áo cho rằng
tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột [39, tr.10]. Từ điểm bách khoa Thụy
sỹ tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm
trong bộ máy nhà nước, đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân [39, tr.10].
9
- Học giả Nye đưa ra định nghĩa tổng quát về bản chất của tham nhũng: “Tham
nhũng là hành vi làm sai lệch trách nhiệm, bổn phận chính thống của một vai trò công
vì tiền hoặc tài sản trục lợi cho cá nhân (hoặc cho người thân), xâm phạm các quy tắc,
ngược lại với các hành xử chẩn mực, liên quan đến quyền lợi cá nhân” [29].
- Sách, Ngân hàng thế giới: Kiềm chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây
dựng sự trong sạch quốc gia, của Rick Stapenhurst, Sahr J. Kpundeh [62]. Sách gồm
một tập hợp có chọn lọc các công trình về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng
của các nhà nghiên cứu thuộc các quốc tịch khác nhau của Ngân hàng Thế giới. Nội
dung chủ yếu của cuốn sách tập trung tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề tham nhũng trên mọi
khía cạnh của vấn đề. Bằng những phân tích cụ thể, thông qua những nghiên cứu tình
huống về đấu tranh chống tham nhũng thành công và chưa thành công ở một số nước
và lãnh thổ trên thế giới, các tác giả của cuốn sách đã nêu bật tầm quan trọng của cuộc
đấu tranh chống tham nhũng, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu và đề
xuất những giải pháp hữu hiệu nhất để khắc phục và kiểm soát được nạn tham nhũng
đang hoành hành trên thế giới ngày nay.
- Sách, Ngân hàng thế giới: Đương đầu với tham nhũng ở châu Á - Những bài
học thực tế và khuôn khổ hành động của Vinay Bhargava, Emil Bolongaita [103].
Với nội dung chính là những vấn đề về tham nhũng khu vực công những tác phẩm
được viết dựa trên kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm có được tại các quốc gia của
Ngân hàng thế thế giới với vai trò là một động lực phát triển tài chính toàn cầu. Các
tác giả cũng nhấn mạnh việc lựa chọn các công cụ chống tham nhũng phù hợp với
môi trường quản lý - những yếu tố then chốt trong cuộc chiến chống tham nhũng. Đó
là những kinh nghiệm quý báu mà Ngân hàng thế giới tổng kết thực tiễn chống tham
nhũng ở các nước Châu Á có giá trị tham khảo đối với những người làm công tác
nghiên cứu và thực thi chính sách PCTN ở Việt Nam nói chung và các học viên
nghiên cứu sinh nói riêng.
- Cuốn sách của Hồng Vĩ “Tham nhũng và biện pháp chống tham nhũng ở
Trung Quốc” [100]. Tác giả khái quát về tác hại của tham nhũng gây lãng phí lớn về
nguồn tài nguyên kinh tế, làm lung lay cơ sở ổn định chính trị của một đất nước, phá
hoại việc thực thi pháp luật, cản trở sự phát triển kinh tế, đầu độc không khí xã hội.
Đồng thời tác giả đã phác họa 23 dạng tham nhũng ở Trung Quốc hiện nay. Trên cơ sở
đó tác giả đi vào phân tích nguyên nhân của thực trạng này; trong các nguyên nhân
10
thực tế làm cho hiện tượng tham nhũng sinh sôi nảy nở ở Trung Quốc hiện nay thì kinh
tế là một nguyên nhân quan trọng. Các thể chế chính trị chậm chạp, quyền lực không bị
khống chế là căn nguyên sâu xa sinh ra hiện tượng tham nhũng ở Trung Quốc hiện nay.
Từ đó, tác giả giới thiệu cụ thể một số cách làm của các địa phương, ban, ngành trong
quá trình đấu tranh PCTN những năm gần đây ở Trung Quốc.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng trong bộ
máy nhà nƣớc và cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
* Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà
nước nói chung:
- Sách: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Lê Minh Thông [72]. Nội dung khẳng
định nhân dân là chủ thể duy nhất tối cao của hệ thống chính trị. Do vậy, các tổ chức
đảng, nhà nước và Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức thành viên đều phục tùng
ý chí của nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Đồng thời, đổi mới, nâng
cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội cùng với việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật PCTN thông qua các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội, trong đó có Đảng cộng sản Việt Nam là nhiệm vụ có tính cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay.
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Giải pháp đột phá đấu tranh phòng, chống hiệu quả
tham nhũng trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Cảnh Quý [61].
Nội dung Đề tài đã đưa ra cơ sở lý luận sâu sắc và biện chứng về PCTN trong bộ máy
nhà nước. Đồng thời đánh giá thực trạng một cách toàn diện về kết quả đấu tranh
phòng, chống hiệu quả tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Trên cở sở đưa ra giải
pháp mang tính đột phá có tính khả thi và chiến lược cao trong việc PCTN bộ máy nhà
nước ở Việt Nam hiện nay. Nội dung Đề tài có ý nghĩa và tác dụng quan trọng trong
việc nghiên cứu và triển khai thực hiện công tác PCTN trong bộ máy nhà nước hiện
nay, cũng như có giá trị tham khảo đối với việc nghiêm cứu về PCTN trong tình hình
hiện nay.
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Tổ chức và hoạt động của các cơ quan có chức năng
phòng, chống tham nhũng và một số vấn đề đặt ra” của Đinh Văn Minh [50]. Nội dung
Đề tài đưa ra cơ sở lý luận và sự cần thiết về việc hoàn thiện cơ quan có chức năng
11
PCTN. Đồng thời đánh giá thực trạng theo chức năng nhiệm vụ của cơ quan có chức
năng PCTN hiện nay. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp xây dựng và hoàn thiện các cơ
quan có chức năng PCTN để thực hiện có hiệu quả nhiệm công tác này trong tình hình
hiện nay. Đây là một công trình có ý nghĩa thực tiễn cao, giúp cho việc nghiên cứu xây
dựng hoàn thiện hơn nữa cơ quan có chức năng PCTN đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đấu
tranh PCTN hiện nay.
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan thực
hiện chức năng phòng, chống tham nhũng” của Tạ Thu Thủy [75]. Nội dung Đề tài
đưa ra cơ sở lý luận và sự cần thiết về PCTN trong các cơ quan có chức năng thực hiện
PCTN. Đồng thời đánh giá thực trạng việc thực hiện PCTN trong các cơ quan thực
hiện chức năng PCTN hiện nay. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp thực hiện PCTN
trong các cơ quan có chức năng PCTN để thực hiện có hiệu quả nhiệm công tác này
trong tình hình hiện nay. Đây là một công trình có ý nghĩa thực tiễn cao, giúp cho việc
nghiên cứu thực hiện có hiệu quả việc PCTN trong các cơ quan có chức năng PCTN
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh PCTN hiện nay.
- Luận văn về“Thanh tra và vấn đề phòng, chống tham nhũng” của Phạm
Thị Huệ [37], nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của công tác
thanh tra trong đấu tranh PCTN như: những vấn đề lý luận về vai trò của thanh tra
đối với quản lý Nhà nước; quan điểm của Đảng, Nhà nước và của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về vai trò của công tác thanh tra trong quản lý nhà nước nói chung và trong
đấu tranh PCTN nói riêng. Từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm tăng cường công tác
thanh tra góp phần hữu hiệu nâng cao hiệu quả trong cuộc đấu tranh PCTN.
- Bài “chống tham nhũng xét từ góc độ quyền lực” của Vũ Quốc Tuấn [84]. Nội
dung bài viết đề cập vấn đề tham nhũng trên cơ sở quyền lực, từ những quyền lực tha
hóa là điều kiện cơ sở thực hiện hành vi tham nhũng. Vấn đề lớn nhất ở đây là phải xác
định rõ vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường. Do đó, phải tìm cách hạn chế
quyền lực cụ thể của mỗi cơ quan công quyền cũng như của mỗi công chức, không cho
họ bành trướng thêm ngoài quy định của pháp luật, nghĩa là cơ quan nào người nào làm
việc gì, chịu trách nhiệm cá nhân đến đâu, phải rõ ràng và phải được giám sát. Các thủ
tục hành chính của từng việc phải công bố công khai, minh bạch, được niêm yết công
khai nơi công sở. Bộ máy càng hợp lý, gọn nhẹ, công chức được sử dụng và được đãi
ngộ xứng đáng, càng dễ chống tham nhũng. Quan trọng hơn nữa là những công chức
12
nhũng nhiễu doanh nghiệp phải bị trừng trị đích đáng, không để cho họ bênh che nhau, vì
thông thường trong hệ thống quyền lực, họ rất dễ có mối quan hệ mật thiết với nhau, cho
nên phải đưa sự giám sát của doanh nghiệp vào từng khâu, từng mắt xích của hệ thống.
- Một số báo cáo như: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN của Chính
phủ [12]; Báo cáo số 419/BC-CP, ngày 17/10/2016 công tác PCTN năm 2016 của Chính
phủ [13]; Báo cáo số 460/BC-CP, ngày 18/10/2017 công tác PCTN năm 2017 của Chính
phủ [14]. Nội dung báo cáo đánh giá thực trạng về những kết quả đạt được và những tồn
tại, hạn chế, đồng thời đề ra giải pháp thực hiện thời gian tới đối với việc PCTN trong 10
năm thực hiện Luật PCTN của Chính phủ và trong hai năm 2016 và 2017.
* Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan
hành chính nhà nước cấp trung ương:
- Luận án: Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành
chính nhà nước ở Việt Nam của Hoàng Minh Hội [36]. Đã luận giải pháp luật về giám
sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở làm sáng tỏ cơ sở lý
luận của hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà
nước, đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính nhà nước ở Việt Nam. Trong một chừng mực nhất định Luận án đã đề
cập đến việc giám sát, kiểm soát quyền lực trong việc PCTN đối với cơ quan hành
chính nhà nước ở Việt Nam.
- Luận văn về “Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà
nước cấp tỉnh ở Sơn La” [9]. Nội dung luận văn đã luận giải những vấn đề cơ bản từ
khái niệm, hình thức và nguyên nhân, đến nguyên tắc, phương thức về PCTN trong cơ
quan hành chính nhà nước. Phân tích thực trạng tham nhũng trong các cơ quan hành
chính nhà nước và kết quả hoạt động PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước ở
tỉnh Sơn La. Từ đó đề ra đề ra định hướng và giải pháp tăng cường PCTN trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp tỉnh Sơn La.
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
* Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà
nước nói chung:
- Nhà tư tưởng Montesquieu đã cho rằng mọi nguời có quyền lực đều có xu
hướng lạm dụng quyền lực đó, ông viết: Điều bất hạnh cho một nước cộng hòa là khi
mà người ta không dùng âm mưu chạy chọt nhưng lại dùng tiền để làm bại hoại dân
13
chúng, khiến dân chúng thờ ơ, chỉ thích thú với tiền bạc mà không thích công việc quốc
gia, chẳng cần biết đến chính phủ và các dự án quốc gia là gì mà chỉ lặng chờ được
thuê tiền để bỏ phiếu [53] hay: Trong một nước dân chủ, chuyện đút lót, quà cáp là
điều ô nhục, vì đạo đức chính trị không cần đến động tác đó. Trong một nước quân
chủ, danh diện là điều quý hơn quà cáp. Nhưng trong nước chuyên chế, đạo đức và
danh diện không tồn tại, người ta hoạt động chỉ với một hy vọng là kiếm thêm được
tiện nghi cho cuộc sống, cho nên việc quà cáp, hối lộ là bình thường, phổ biến [53].
- Vu Ka Vai, Role of Ombudsman in Combating Corruption (Vai trò của Thanh
tra trong đấu tranh chống tham nhũng) [105]. Công trình nghiên cứu này đã tập trung
phân tích mô hình Uỷ ban chống tham nhũng, cơ cấu tổ chức chức năng hoạt động,
trình tự, thủ tục thụ lý; Phân tích vai trò giải quyết các khiếu nại hành vi tham nhũng
của cơ quan thanh tra và cơ quan chống tham nhũng.
* Nhóm công trình nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan
hành chính nhà nước cấp trung ương:
- Trong công trình “Năm vấn đề đương đại” của Vương Tùng Niên [54] đã
phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề về quyền hành chính. Công trình có giá trị tham
khảo cho nghiên cứu sinh khi luận chứng, phân tích đặc điểm của hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước và yêu cầu phải có sự kiểm tra, giám sát đối với các các cơ
quan hành chính nhà nước.
- Cuốn sách Hành chính công và hiệu quả quản lý của Chính phủ, do Nguyễn
Cảnh Chất biên dịch [8], đặt vấn đề hoạt động hành chính cần phải được thực hiện theo
nguyên tắc pháp trị và nguyên tắc kiểm tra, giám sát nền hành chính. Theo đó chủ thể
thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nền hành chính rất rộng lớn gồm kiểm tra, giám
sát của đảng, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước và nhân dân. Công trình có giá trị
tham khảo cho nghiên cứu sinh khi đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về kiểm tra, giám sát đối với các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu về phòng, chống tham nhũng trong
các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công tác kiểm tra
của Đảng
1.1.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
- Đề tài cấp Nhà nước: “Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng nhằm
nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới” do UBKT Trung
14
ương [88], đã phân tích đưa ra những luận cứ khoa học của đổi mới công tác kiểm tra,
kỷ luật trong Đảng, từ khái niệm và đặc điểm, cùng với mục đích, ý nghĩa và nội dung,
đến phương pháp, hình thức và yêu cầu đòi hỏi phải đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật
trong Đảng. Đồng thời qua đó rút ra những vấn đề lý luận đã được khẳng định để thực
hiện tốt việc kiểm tra, kỷ luật trong Đảng trong tình hình hiện nay. Trong đó, có yêu
cầu đổi mới về phương thức hoạt động kiểm tra trong Đảng, nhất là phương pháp
nghiệp vụ tiến hành thẩm tra, xác minh - một khâu đột phá trọng yếu có ý nghĩa quyết
định đến hiệu quả hoạt động kiểm tra, đó là phương pháp thẩm tra, xác minh có một số
biện pháp nghiệp vụ giống như các biện pháp điều tra, thanh tra của các cơ quan pháp
luật, nhưng nguyên tắc, bản chất theo nguyên tắc trong đảng. Do vậy đã góp phần quan
trọng trong thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra nói chung và kiểm tra khi có dấu hiệu
vi phạm nói riêng, để thực hiện có hiệu quả việc PCTN thông qua công tác kiểm tra
của Đảng.
- Đề tài "Nghiên cứu mối quan hệ không bình thường giữa một bộ phận cán bộ,
đảng viên có chức, quyền với các doanh nghiệp để trục lợi: Thực trạng và giải pháp
phòng, chống thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng" của Lê Hồng Liêm
[46], đã phân tích luận giải một số vấn đề lý luận về cán bộ, công chức, người có chức,
có quyền, về mới quan hệ không bình thường giữa cán bộ, công chức với doanh nghiệp
để trục lợi. Vai trò, tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với việc
phòng, chống mối quan hệ không bình thường giữa cán bộ, đảng viên có chức, quyền
với doanh nghiệp để trục lợi. Trên cơ sở đó đưa ra quan điểm, phương hướng, mục
tiêu, yêu cầu và một số giải pháp phòng, chống mối quan hệ không bình thường của
cán bộ, đảng viên có chức, quyền với các doanh nghiệp để trục lợi.
- Đề tài khoa học cấp Bộ về “Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với
phòng, chống tham nhũng: Thực trạng và giải pháp” của Lê Hồng Liêm [45], đã phân
tích luận giải cơ sở lý luận về PCTN và công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Phân tích
làm rõ vị trí, vai trò, tác dụng, cùng với mối quan hệ giữa công tác kiểm tra, giám sát
với PCTN. Xác định các nhân tố ảnh hưởng và xây dựng tiêu chí xác định sự tác động
của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với việc PCTN. Đánh giá thực trạng công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với PCTN thời gian qua. Trên cơ sở đó đề ra những
giải pháp chủ yếu tằng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm PCTN có hiệu quả
trong thời gian tới.
15
- Đề tài khoa học cấp Bộ "Phát hiện và thu hồi tài sản do tham nhũng mà có -
Thực trạng và giải pháp" của Tô Quang Thu [74], đã luận giải những vấn đề thực trạng
tham nhũng và những giải pháp nâng cao hiệu quả phát hiện thu hồi tiền và tài sản do
tham nhũng mà có trong tình hình hiện nay. Đây là khâu quan trọng trong việc xử lý
một vụ việc tham nhũng, trong đó có tham nhũng được phát hiện, xử lý thông qua công
tác kiểm tra của Đảng, đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương trong
giai đoạn hiện nay.
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng với kiểm
soát quyền lực ở nước ta theo tinh thần Đại hội XII của Đảng” của Mai Trực [81], đã
phân tích luận giải cở lý luận về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong kiểm
soát quyền lực như khái niệm, đặc điểm và vai trò, tác dụng của công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng đối với việc phòng, chống tha hóa quyền lực. Trên có sở đó đánh
giá thực trạng về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã đạt được những kết quả quan
trọng, đóng góp tích cực vào việc kiểm soát quyền lực, trong thực thi nhiệm vụ, công
vụ, quyền hạn được giao, nhất là kiểm soát việc lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền
lực để trục lợi, góp phần tích cực vào PCTN lãng phí hiện nay. Đồng thời đề ra quan
điểm, giải pháp đối với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong việc kiểm soát
quyền lực, làm trong sạch bộ máy, hạn chế tối đa sự tha hoá quyền lực, tham nhũng,
“lợi ích nhóm” làm lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế - xã hội xây dựng Đảng và Nhà
nước trong sạch, vững mạnh. Nội dung đề tài có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết cả
trước mắt và lâu dài, góp phần cung cấp những dữ liệu cơ sở khoa học và giải pháp về
kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay.
- Luận văn về Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với hoạt động của
các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương ở Việt Nam hiện nay của Trần
Văn Tĩnh [76], đã xây dựng cơ sở lý luận về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối
với hoạt động của các các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương từ khái niệm,
đặc điểm, vai trò công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đến nội dung, phương thức và
các điều kiện bảo đảm thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Đồng thời phân tích, đánh
giá thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước cấp trung ương. Trên cơ sở đó đề ra định hướng và giải pháp bảo
16
đảm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với hoạt động của các
cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương ở Việt Nam hiện nay.
- Các bài “Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng nhằm góp phần ngăn chặn
và đẩy lùi tham nhũng” [17], bài “Đấu tranh chống những biểu hiện cơ hội, thực dụng
trong thời kỳ mới” của Nguyễn Thị Doan [18]. Nội dung bài viết trên đã nêu rõ vị trí,
vai trò và tác dụng của UBKT Trung ương và UBKT các cấp trong việc đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi tham nhũng ở các các cấp, các ngành. Hay nói một cách khác tăng cường
công tác kiểm tra của Đảng để thực hiện PCTN, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham
nhũng. Đồng thời cùng với việc ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng thông qua công tác
kiểm tra của Đảng thực hiện đấu tranh chống biểu hiện cơ hội, thực dụng trong thời kỳ
mới. Đó là nội dung cơ bản mang tính đột phá trong việc đấu tranh PCTN đối với các
cơ quan công quyền của Nhà nước trong thời kỳ cách mạng mới và sự nghiệp đổi mới
của Đảng.
- Bài “Một số vấn đề về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong phòng,
chống tham nhũng”, của Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Thùy Dung [82]. Nội dung
bài viết luận giải công tác PCTN được thực hiện thông qua công tác kiểm tra của cấp
ủy đảng, UBKT cấp ủy. Tham nhũng có dấu hiệu đặc trưng cơ bản là phải được thực
hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước hoặc trong các cơ quan,
tổ chức, xã hội. Nói cách khác, chủ thể của tham nhũng chỉ có thể là người có chức vụ,
quyền hạn. Trong điều kiện thể chế chính trị nước ta hiện nay do Đảng lãnh đạo, có thể
thấy hầu hết những người bị xử lý về hành vi tham nhũng đều là đảng viên. Mặt khác
tổ chức đảng và đảng viên đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Do vậy công
tác kiểm tra của Đảng là một kênh quan trong trong PCTN ở các cấp, các ngành cơ
quan, đơn vi hiện nay.
- Một số bài viết trên tạp chí của Trần Văn Tĩnh như: “Tăng cường vai trò công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng giai đoạn
hiện nay” [77]; "Công tác kiểm tra của Đảng trong phòng, chống tham nhũng ở các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương" [78]; "Công tác kiểm tra của Đảng Cộng
sản Việt Nam với vấn đề trong phòng, chống tham nhũng ở các cơ quan hành chính
nhà nước cấp trung ương" [79]. Trong các bài viết này, tác giả phân tích làm rõ vai trò
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với đấu tranh, phòng cống tham nhũng. Tập
trung đánh giá làm rõ kết quả, tồn tại và nguyên nhân của công tác kiểm tra, giám sát
17
đối với phòng, chống tham nhũng thời gian qua. Đồng thời đề ra định hướng, giải pháp
phát huy vai trò của xã hội trong việc đấu tranh đẩy lui tệ tham nhũng, tiêu cực, cùng
với những giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng trong tình hình hiện nay đối với các cơ quan công quyền của nhà nước và
xã hội.
- Bài “Những điểm mới trong chế độ tuần thị của Đảng Cộng sản Trung Quốc
sau Đại hội XVIII” của Trần Thu Minh [52], đã đề cập đến chế độ tuần thị trong Đảng
của Đảng Cộng sản Trung Quốc sau Đại hội XVIII đã có nhiều phát triển mới, khung
chế độ được hoàn thiện hơn; các điều luật, pháp quy có liên quan hoàn chỉnh hơn, quy
trình vận hành được quy phạm và minh bạch hơn... giúp cho chế độ tuần thị ngày càng
có hiệu quả thiết thực đối với công tác PCTN và giám sát trong Đảng phù hợp với tình
hình Trung Quốc. Đó cũng là một gợi ý quan trọng có giá trị tham khảo vận dụng thực
hiện trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với PCTN và giám sát, kiểm soát
quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
- Bài “Công tác giám của Ủy ban Kiểm tra - Kỷ luật Đảng Cộng sản Trung
Quốc”của Cao Văn Thống [73], đã đề cập đến việc thực hiện nhiệm vụ giám sát của
UBKT Kỷ luật các cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Công tác giám sát trong Đảng
Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, kết hợp
giữa tín nhiệm, khích lệ với giám sát nghiêm khắc, nhằm làm cho cán bộ lãnh đạo có
quyền lực phải gắn liền với trách nhiệm, sử dụng quyền lực phải chịu giám sát và làm
không đúng trách nhiệm thì phải truy cứu để bảo đảm “nhốt quyền lực” trong “lồng chế
độ”. Đó là vấn đề cần nghiên cứu đề xuất vận dụng trong thực hiện công tác kiểm tra,
giám sát của UBKT các cấp, nhất là trong giám sát, kiểm soát quyền lực Nhà nước ở
Việt Nam hiện nay.
- Bài “Một số vấn đề hợp nhất Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương với
Thanh tra Chính phủ” của Trần Duy Hưng [38], đã luận giải những vấn đề về cơ sở để
thực hiện hợp nhất Cơ quan UBKT Trung ương với Thanh tra Chính phủ, có nhiều
điểm tương đồng từ chức năng, nhiệm vụ đối tượng và phương thức thực hiện, nhất là
trong tình hình hiện nay về chủ trưởng của Đảng, yêu cầu nhiệm vụ công tác kiểm tra,
thanh tra, cũng như nhiệm vụ công tác PCTN, lãng phí có nhiều nét tương đồng, việc
hợp nhất thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ và đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.
18
- Bài “Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”
của Nguyễn Thúy Hà [31], đã luận giải những vấn đề về cơ chế kiểm soát quyền lực
của Đảng chính trị nói chung. Đồng thời đưa ra phương thức kiểm soát quyền lực của
Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua nguyên tắc sinh hoạt đảng; thông qua thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng; thông qua các tổ chức đảng và đảng viên.
- Bài “Kiểm tra, giám sát - một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng
trong kiểm soát quyền lực Nhà nước hiện nay” của Cao Thị Dung, Bùi Anh Tuấn [19],
đã đưa ra nguyên lý mang tính tất yếu về kiểm soát quyền lực của Đảng thông qua
phương thức kiểm tra, giám sát. Đồng thời đánh giá thực trạng và đề ra giải pháp thực
hiện có hiệu quả phương thức kiểm soát quyền lực Nhà nước của Đảng thông qua công
tác kiểm tra, giám sát.
- Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng của Ủy ban
Kiểm tra Trung ương (2006 - 2015) [93]. Nội dung báo cáo thể hiện UBKT Trung
ương trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong
Đảng do Điều lệ Đảng quy định, trong đó có các nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến thực
hiện công tác PCTN, đã có nhiều chủ trương, biện pháp chỉ đạo thực hiện PCTN qua
việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, đạt kết quả quan trọng, góp phần vào kết
quả chung đấu tranh PCTN của Đảng và Nhà nước.
- Một số báo cáo tổng kết công tác năm của Ủy ban Kiểm tra Trung ương: Báo
cáo tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ Đại
hội X của Đảng (2006-2010) [91]; Báo cáo tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng (2011-2015) [92]; Báo cáo kết
quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng năn 2016, phương hướng,
nhiệm vụ năm 2017 [96]; Báo cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
luật Đảng năn 2017, phương hướng, nhiệm vụ năm 2018 [97]. Nội dung các báo cáo
thể hiện UBKT Trung ương và UBKT các cấp đã chủ động tham mưu giúp Bộ Chính
trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp xây dựng thực hiện có hiệu quả chương trình kiểm tra
hằng năm, góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và
(khóa XII) về xây dựng Đảng. Qua kiểm tra đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức
của cán bộ, đảng viên và nhân dân về PCTN, lãng phí và thực hành tiết kiệm. Đồng
thời đã phát hiện những sai phạm trong quản lý, sử dụng đất đai các dự án, trong đầu tư
công, xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản... làm thất thoát ngân sách nhà nước hàng ngàn
19
tỷ đồng, hàng triệu ha đất dự án chậm hoặc không triển khai...đã kịp thời xử lý nghiêm
minh những vi phạm đối với tổ chức và các nhân, thu hồi tiền, tài sản, đất đai sai phạm.
Thông qua đó đã chỉ ra những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý, những quy định,
chính sách còn chưa phù hợp, đề xuất kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung
kịp thời.
1.1.3.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
- Bài “Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền, tăng
cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống rủi ro” của Hạ Quốc Cường
[15]; “Kiên trì phương châm quản lý Đảng một cách nghiêm minh, triển khai cuộc xây
dựng tác phong của Đảng, xây dựng liêm chính và đấu tranh chống tham nhũng” của
Chu Húc Đồng [28]. Nội dung đã đề cập một cách khái quát về vai trò và quyết tâm
của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong PCTN, đặc biệt là việc câu kết của một số đảng
viên có chức, quyền (từ Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội…) đã chỉ rõ vị
trí, vai trò của UBKT- kỷ luật của Đảng trong PCTN...
- Bài “Chế độ chống tham nhũng từ sau Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản
Trung Quốc sáng tạo lý luận và thực tiễn”, của Tôn Xuân Thần [70] đã khái quát ý
kiến của Tổng Bí thư Tập Cận Bình tại Hội nghị Trung ương 2 khóa XVIII: cần tăng
cường công tác chế ước và giám sát đối với quyền lực, “nhốt quyền lực trong chiếc
lồng quy chế”. Có thể thấy chính sách “nhốt quyền lực trong chiếc lồng quy chế” đã tỏ
rõ quan điểm cần phải có cơ chế giám sát và chế ước quyền lực. Quyền lực công phải
được công khai, cơ chế giám sát và chế ước đối với quyền lực cũng phải thực hiện một
cách minh bạch. Bất kỳ ai cũng đều không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật. Đây
là vấn đề lý luận sắc sảo của học giả, khái quát về quyền lực và kiểm soát quyền lực
của Đảng Cộng sản Trung Quốc để thực hiện chuyển “chống tham nhũng” sang
“phòng tham nhũng” nhằm giải quyết tận gốc tệ nạn tham nhũng.
- Bài “Xây dựng chế độ là chính sách giúp giải quyết tận gốc tham nhũng, tiêu
cực” của Thành Kiến Hoa [34] đã khái quát ý kiến của Tổng Bí thư Tập Cận Bình:
“Cần hoàn thiện cơ chế giám sát và vận hành quyền lực trong Đảng, quyền và trách
nhiệm phải gắn liền nhau, kiên quyết phản đối hiện tượng đặc quyền, phòng trừ hiện
tượng lạm dụng chức quyền. Đảng cầm quyền có quyền lực chi phối rất lớn đối với
mọi nguồn tài nguyên, vì vậy nên có một danh sách quyền lực và chỉ rõ quyền nào
được dùng, quyền nào không được dùng, thế nào là công quyền, thế nào là tư quyền,
20
không thể có chuyện công quyền lại dùng vào việc tư”.Từ Đại hội XVIII Đảng Cộng
sản Trung Quốc đưa ra những yêu cầu cao hơn đối với vấn đề giám sát trong Đảng. Cơ
chế giám sát trong Đảng được tăng cường, góp phần giúp công tác chống tham nhũng
và xây dựng liêm khiết giành được những thành quả đáng kể.
- Bài “Những thành tựu và kinh nghiệm trong công tác chống tham nhũng của
Đảng Cộng sản Trung Quốc từ Đại hội XVIII đến nay” của Tào Vĩnh [104], đã phân
tích đánh giá về biện pháp và kết quả đạt được trong PCTN của Đảng Cộng sản Trung
Quốc thông qua việc giám sát, kiểm soát quyền lực. Nhờ đó đã thiết lập một quy tắc,
chế độ trong Đảng giúp cho quy phạm hóa công tác giám sát kỷ luật Đảng, thông qua
việc kiểm soát, giới hạn quyền lực thực hiện PCTN hiệu quả.
- Trong cuốn sách "Những vấn đề lý luận của Đại hội XVI của Đảng Cộng sản
Trung Quốc" [71] đã đề cập đến cơ chế kiểm tra, giám sát đối với bộ máy nhà nước.
Từ Đại hội XVII, XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc quy định chế độ "tuần tra"
vào Điều lệ Đảng thực hiện ở cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Năm 2016 sửa đổi bổ sung Điều lệ Giám sát trong Đảng nêu rõ đối với cấp tỉnh,
thành, quận, huyện và cấp Trung ương phải thực hiện tuần tra đối với địa phương, ban,
ngành, đơn vị sự nghiệp. Đây là biện pháp sáng tạo của quan trọng của Đảng Cộng sản
Trung Quốc bảo đảm giám sát "không có vùng cấm, không có vùng trống, không có
đặc quyền, không có ngoại lệ, không có góc chết, không có nhân nhượng, không có
điểm dừng". Khai mạc Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc ông Tập Cận Bình chỉ
rõ Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ thành lập Tiểu ban lãnh đạo Trung ương về quản lý
nhà nước theo pháp luật toàn diện, tăng cường sự lãnh đạo thống nhất trong xây dựng
Trung Quốc pháp quyền. Đồng thời thí điểm thành lập Ủy ban Giám sát nhà nước, tỉnh,
thành phố, huyện. Cơ quan này sẽ giám sát các hoạt động quyền lực, tăng cường quản
lý giám sát thường ngày đối với đảng viên, cán bộ, thực hiện giám sát đối với tất cả
những công chức thi hành quyền lực công.
1.1.4. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu những công trình khoa học đã được công bố ở trong và
ngoài nước, qua việc hệ thống các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài lựa chọn,
nghiên cứu sinh có một số nhận xét, đánh giá sơ bộ như sau:
Nhìn chung, tham nhũng đã và đang là vấn đề tệ nạn nhức nhối mang tính toàn
cầu của mỗi quốc gia dân tộc trên thế giới. Là loại tội phạm mang tính đặc thù, phương
21
thức, thủ đoạn tham nhũng rất tinh vi, không dễ dàng nhận biết. Tổ chức PCTN là vấn
đề lâu dài, phức tạp, khó khăn hiện nay. Hơn lúc nào hết, Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta rất quan tâm, quyết liệt, ráo riết tiến hành chống lại mọi biểu hiện, hành vi của tham
nhũng. Từ thực trạng công tác PCTN trong những năm qua, cùng với những tác động
của tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… trong và ngoài nước trong thời gian
tới, hoạt động của tội phạm tham nhũng sẽ còn phức tạp, khó lường. Do đó, trong đấu
tranh với tội phạm tham nhũng cần thiết phải tăng cường hợp tác quốc tế trong trao đổi
thông tin, học hỏi kinh nghiệm, phối hợp áp dụng các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm tham nhũng giữa các quốc gia, dân tộc với nhau.
Các công trình nghiên cứu do các tác giả nước ngoài thực hiện chủ yếu xem xét
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, trong việc giải quyết khiếu nại, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân; trong PCTN và trong việc kiểm tra, giám sát bộ máy nhà nước.
Do vậy đấu tranh PCTN phải xây dựng những tổ chức chống tham nhũng đủ mạnh,
độc lập trong điều tra và khách quan trong xử lý. Đồng thời, phát huy vai trò của các cơ
quan chức năng, nhất là cơ quan kiểm tra của Đảng, cơ quan thanh tra và thực hiện
chức năng giám sát trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng.
Nhìn một cách tổng quan, các công trình nghiên cứu trên đây chưa đề cập nhiều
và làm rõ những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng, các cấp uỷ đảng trong đấu
tranh PCTN đối với bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương nói riêng. Cùng với vị trí, vai trò tác dụng và mô hình tổ chức của UBKT
các cấp, cũng như thực trạng và yêu cầu nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng đối với
PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG
LUẬN ÁN, GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
1.2.1. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đã gợi mở, cung cấp thông tin,
phương pháp nghiên cứu, tiếp cận vấn đề trong nhiều nội dung của luận án. Tuy nhiên,
có thể nói các công trình nghiên cứu và tài liệu viết về công tác kiểm tra của Đảng đối
với PCTN tương đối đa dạng phong phú. Nhưng hầu hết các công trình đã có chủ
trương tập trung nghiên cứu PCTN hoặc công tác kiểm tra của Đảng nói chung mà
chưa đề cập toàn diện, sâu sắc công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN đối với các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Thêm vào đó, gần đây, nhiều văn kiện của
22
Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng đề cập đến tính cấp thiết trong lĩnh vực này. Do
vậy, luận án tiếp tục nghiên cứu những nội dung sau:
- Về mặt lý luận: các vấn đề tiếp tục nghiên cứu, giải quyết gồm: Cần làm rõ vai
trò, tầm quan trọng về công tác kiểm tra của Đảng đối với PCTN, tính đúng đắn và
toàn diện đối với yêu cầu của nhà nước nhà nước pháp quyền. Đã có nhiều luận án nói
về PCTN trong bộ máy nhà nước, Nhà nước ta do Đảng Cộng sản cầm quyền, do vậy
vai trò của Đảng đối với PCTN rất quan trọng là một trong yếu tố quyết định thành bại
trong PCTN. Tuy nhiên về nhận thức và căn cứ pháp luật, yếu tố chính trị còn nhiều
vấn đề chưa sáng tỏ, do vậy cần nghiên cứu để hoàn thiện trong đấu tranh PCTN đối
với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Do vậy cần xây dựng đi tới
thống nhất khái niệm, đặc điểm, vai trò và tác dụng của PCTN trong các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng. Cùng với nội
dung, phương thức về PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
thông qua công tác kiểm tra của Đảng. Các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện bảo đảm
công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương. Đó là các sở để luận án nghiên cứu có những nội dung lý luận chính.
- Về mặt thực tiễn, các cơ quan của Đảng liên quan tham gia đấu tranh PCTN,
được xác định từ các quan điểm chỉ đạo, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và
pháp luật của Nhà nước về thẩm quyền, trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ này, trên
thực tế đã có nhiều vụ án về tham nhũng được phát hiện thông qua công tác kiểm tra
của Đảng, đây cũng được xác định là một trong nguồn đầu vào của vụ án tham nhũng,
nhưng công tác tổng kết thực tiễn về nhiệm vụ công tác này đối với đấu tranh PCTN
chưa được làm rõ, chưa có bức tranh tổng thể, nó mới được nêu lên từ góc nhìn thực
tiễn. Vì vậy phải trả lời câu hỏi vai trò, trách nhiệm công tác kiểm tra của Đảng như thế
nào trong đấu tranh PCTN. Do vậy các vấn đề tiếp tục nghiên cứu, giải quyết gồm:
phân tích, đánh giá toàn diện, việc thực hiện công tác PCTN trong các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng; phân tích, đánh
giá những ưu điểm, hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân hạn chế của công tác này ở
Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích toàn diện những vấn đề lý luận,
thực trạng và thực tiễn tổ chức thực hiện PCTN của các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương thời gian qua, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm ở một số nước, luận
án đề xuất các quan điểm và các nhóm giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả công tác
23
PCTN trong bộ máy nhà nước nói chung và các quan hành chính nhà nước cấp trung
ương nói riêng, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh PCTN
đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân ở nước ta hiện nay.
1.2.2. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu của luận án
Với kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu và căn cứ vào lý luận về PCTN
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của
Đảng Cộng sản Việt Nam, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau:
Công tác PCTN và hiệu quả sẽ như thế nào nếu không xác định được vai trò
cũng như việc thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng. Thực tiễn
đã khẳng định công tác kiểm tra của Đảng là một trong yếu tố quan trọng trong PCTN.
Do vậy việc nhận thức đầy đủ, toàn diện sâu sắc nội dung, phương pháp đấu tranh
PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước thông qua công tác kiểm tra của Đảng.
Xác định công tác kiểm tra của Đảng là một trong yếu tố quan trọng, quyết định sự
thành bại trong đấu tranh PCTN đối với bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan
hành chính nhà nước nói riêng. Do vậy thực hiện hoạt động PCTN thông qua công tác
kiểm tra của Đảng một cách đúng đắn và là yếu tố quyết định bảo đảm chất lượng công
tác PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác
kiểm tra của Đảng, góp phần hoàn thành chủ trương và nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước ta trong đấu tranh PCTN, lãng phí.
1. PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công
tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam là gì, có đặc điểm nổi bật nào để đạt được
mục đích ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý các hành vi tham nhũng trong các cơ quan hành
chính cấp trung ương.
2. Nội dung của PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
thông qua công tác kiểm tra của Đảng là gì? Phương thức và mối quan hệ trong PCTN
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của
Đảng là gì?
3. Các yếu tố tác động nào ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác PCTN trong các
cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng
Cộng sản Việt Nam?
24
4. Thực tiễn PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
thông qua công tác kiểm tra của Đảng có những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân nào?
5. Cần các giải pháp hữu hiệu nào để bảo đảm nâng cao chất lượng hoạt động
PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm
tra của Đảng?
Kết luận chƣơng 1
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về
công tác đấu tranh PCTN ở những bình diện và góc độ khác nhau. Thực tiễn công tác
đấu tranh PCTN ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy việc kết hợp chặt chẽ giữa
phòng ngừa và trừng trị nghiêm khắc những kẻ tham nhũng có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Do đó, để đấu tranh chống tham nhũng có hiệu quả đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ
hai hình thức này.
Trong những năm vừa qua, cùng với xu thế hội nhập quốc tế và quá trình toàn
cầu hoá về kinh tế đang diễn ra ngày càng sôi động, tham nhũng đã trở thành quốc nạn
nhức nhối của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, trong những năm qua
công tác PCTN đã đạt được nhiều kết quả quan trọng ngay từ những ngày thành lập
nước. Chúng ta đã xây dựng được hệ thống pháp luật trong PCTN, điển hình như Luật
Phòng, chống tham nhũng (2005). Nước ta đã ký kết, tham gia Công ước Liên hiệp
quốc về chống tham nhũng nhằm đẩy mạnh và tăng cường khả năng PCTN của các
quốc gia thành viên này từ 19/12/2003. Tuy nhiên, ngoài những kết quả đã đạt được,
tình trạng tham nhũng đã, đang diễn ra hết sức phức tạp và kéo dài trong bộ máy của hệ
thống chính trị từ trung ương đến địa phương và trong nhiều tổ chức kinh tế. Tham
nhũng đang trở thành một trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của chế độ và sự
sống còn của Nhà nước. Bởi vậy, đấu tranh chống tham nhũng đã được Đảng và Nhà
nước ta xác định một trong những yêu cầu cấp bách có ý nghĩa quan trọng hàng đầu
trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng là cả một hệ thống
biện pháp, tìm tòi, sáng tạo, trên cơ sở phát huy vai trò tích cực của toàn thể cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta. Chính vì vậy, tìm hiểu về công tác PCTN ở một số nước trên
thế giới, từ đó vận dụng linh hoạt, có hiệu quả vào tình hình thực tế của đất nước là nội
dung quan trọng, cần thiết. Đấu tranh chống tham nhũng tức là đấu tranh chống lại các
hành vi trái pháp luật của những người có chức vụ, quyền hạn nằm trong bộ máy nhà
25
nước, Do đó, để đạt hiệu quả không nên chỉ chú trọng giao nhiệm vụ chống tham
nhũng cho các cơ quan bảo vệ pháp luật mà phải thành lập tổ chức chống tham nhũng
độc lập với các cơ quan nhà nước, trực thuộc người đứng đầu Đảng và Nhà nước.Tổ
chức này phải có những quyền hạn nhất định, được áp dụng các biện pháp trong sạch,
nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ công chức, trước hết phải có những quy định
cụ thể về chức trách, nhiệm vụ, quy chế làm việc, trách nhiệm rõ ràng.
Ở nước ta, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội, nên hiện
nay hầu hết những người có chức vụ, có quyền đều là đảng viên, chịu sự kiểm tra, giám
sát của Đảng. Thực tế các nhiệm kỳ vừa qua, với chức năng, nhiệm vụ của mình,
UBKT Trung ương và UBKT các cấp đã tích cực tham gia và đã có đóng góp quan
trọng vào cuộc đấu tranh ngăn ngừa, phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí
bằng việc tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành kiểm
tra thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; qua việc kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, kiểm tra tài chính đảng, giải quyết đơn thư tố cáo…
đã góp phần trực tiếp giải quyết một số vụ nổi cộm về tham nhũng. Có thể khẳng định,
công tác kiểm tra của Đảng không chỉ là những chức năng lãnh đạo của Đảng mà còn
góp phần quan trọng, có hiệu quả nhất vào cuộc đấu tranh PCTN và giám sát kiểm soát
quyền lực trong bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương hiện nay.
Do vậy việc tiếp tục nghiên cứu xây dựng đề án tăng cường nhiệm vụ PCTN
cho UBKT Trung ương và UBKT các cấp ủy. Cùng với việc xây dựng kiểm tra, giám
sát của Đảng nhằm đẩy mạnh công tác PCTN trong bộ máy nhà nước nói chung và cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng để hạn chế tối đa việc lạm dụng
quyền lực Nhà nước của những kẻ tham nhũng trong các cơ quan này là một đòi hỏi và
yêu cầu cấp thiết hiện nay.
26
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG
THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÕ PHÕNG, CHỐNG THAM
NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG
ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
2.1.1. Khái niệm cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng
Các cơ quan hành chính nhà nước là một trong bốn phân hệ cơ quan của bộ
máy Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, bao gồm Chính phủ, các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp và các cơ quan
trực thuộc. Các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương được xác định bao gồm
Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương là các bộ, cơ quan ngang
bộ. Trong đó, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, đồng thời là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền hành pháp. Cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương là cơ quan quản
lý hành chính nhà nước cao nhất, được giao những quyền lực nhà nước rất lớn nhằm
thực hiện những quyền và nghĩa vụ pháp lý với mục đích hướng tới lợi ích công, trực
tiếp tổ chức và quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi cả nước. Do vậy
hoạt động của các cơ quan này có tầm quan trọng đặc biệt, quản lý điều hành mang tính
định hướng vĩ mô, tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của Nhà nước trên các
lĩnh vực và mọi mặt của đời sống xã hội.
- Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có: Thủ tướng Chính phủ, các phó thủ
tướng và các bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan ngang bộ. Số phó thủ tướng, bộ trưởng
và thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Quốc hội quyết định.
- Các bộ, cơ quan ngang gồm có: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao,
Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông - Vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Y tế. Các cơ quan ngang bộ gồm Uỷ ban Dân tộc, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, Văn phòng Chính phủ.
27
Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ là người đứng đầu chịu trách nhiệm
trước Thủ tướng, trước Quốc hội về quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả
nước hoặc về công tác được giao phụ trách; tham gia vào hoạt động của tập thể Chính
phủ; tham dự các phiên họp của Quốc hội khi xem xét về những vấn đề có liên quan
đến ngành, lĩnh vực hoặc về công tác được giao phụ trách.
Chính phủ
(Thủ tƣớng, các phó Thủ tƣớng,
các thành viên CP)
Các bộ Cơ quan ngang bộ
Hình 2.1: Mô hình tổ chức của các cơ quan hành chính nhà nƣớc
cấp trung ƣơng
Mỗi cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương đều có những chức năng,
nhiệm vụ khác nhau. Chính phủ thống nhất quản lý mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh
vực trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực;
thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà
nước theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà
nƣớc cấp trung ƣơng
Tham nhũng là hiện tượng xã hội, tồn tại tất yếu, khách quan xuất hiện từ lâu
trong xã hội loài người có phân chia giai cấp, nên tham nhũng là một phạm trù mang
tính lịch sử. Tham nhũng được nhiều học giả và các tổ chức quan tâm nghiên cứu,
được biết đến với nhiều quan niệm khác nhau. Trong tiếng Anh từ tham nhũng là
"Corruption" có nghĩa là "hư hỏng, thối nát, phá hoại" [55, tr.370]. Trong tiếng Việt,
thuật ngữ tham nhũng được xác định là: “Lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân
dân và lấy của dân” [102, tr.1165]. Từ điển Luật học (Black’s Law) định nghĩa “tham
nhũng là sự phá vỡ những nguyên tắc công chính, đức hạnh và luân lý”. Các tiếp cận
này tương đối rộng, xem xét tham nhũng không chỉ ở khu vực công mà bao gồm toàn
bộ các hoạt động của đời sống xã hội có tổ chức; không chỉ mô tả các hành vi có mục
đích tư lợi mà còn bao gồm cả các hành vi trái với luân thường, đạo lý.
28
Một số tổ chức quốc tế về PCTN cũng có các quan niệm khác nhau về tham
nhũng. Theo Công ước Liên hợp quốc (UN) về PCTN xác định tham nhũng là sự lợi
dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng. Công ước này cũng nêu rõ các hành vi tham
nhũng bao gồm việc người có chức vụ, quyền hạn lấy cắp, tham ô tài sản nhà nước; lợi
dụng địa vị công tác để trục lợi riêng; tạo sự xung đột về thứ tự quan tâm giữa trách
nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi. Ngân hàng Thế giới (WB)
lại đưa ra quan niệm tham nhũng là việc lợi dụng quyền lực công nhằm lợi ích cá nhân
[35, tr.3].Tổ chức minh bạch quốc tế (TT) cho rằng, tham nhũng là hành vi của người
lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá
nhân [107]. Theo Ban nghiên cứu thuộc Hội đồng Châu Âu “tham nhũng bao gồm
những hành vi hối lộ và bất kỳ một hành vi nào khác của những người được giao thực
hiện một trách nhiệm nào đó trong khu vực nhà nước hoặc tư nhân, nhưng đã vi phạm
trách nhiệm được giao để thu bất kỳ một thứ lợi ích bất hợp pháp nào cho cá nhân hoặc
người khác” [106, tr.21].
Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống
tham nhũng thì "Tham nhũng - đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng"
bao gồm những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, trộm cắp tài sản của
Nhà nước, hoặc lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng thông qua việc sử dụng không
chính thức địa vị chính thức của mình, hoặc tạo ra xung đột về thứ tự quan tâm giữa
trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi.
Như vậy giữa các nước có sự khác nhau về truyền thống lịch sử, đặc điểm văn
hoá, điều kiện kinh tế - xã hội, cũng như các tổ chức quốc tế hay các cơ quan nghiên
cứu về PCTN có nhiều quan niệm khác nhau về tham nhũng, nhưng đều có chung quan
niệm: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó để tham ô, nhận hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi.
Tham nhũng nảy sinh từ khi có Nhà nước, xuất hiện khi một số người sử dụng
quyền hạn được giao để thỏa mãn lòng tham, tính vụ lợi của mình. Khái niệm tham
nhũng gồm hai yếu tố: tham và những. Tham là hám lợi, tư lợi, vụ lợi. Nhũng là lợi
dụng quyền hạn chức trách được giao để thỏa mãn lòng tham, lợi ích cá nhân. Hai yếu
tố này là tiền đề của nhau, thúc đẩy và gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy có nhiều quan
niệm khác nhau nhưng nhìn chung đều thống nhất ở việc coi tham nhũng là việc lợi
dụng quyền lực để vụ lợi. Quan niệm này dẫn đến có hai khái niệm khá phổ biến về
tham nhũng:
29
Thứ nhất, khái niệm tham nhũng được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm mọi hành
vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Chủ thể của hành vi
tham nhũng có thể là cán bộ, công chức, viên chức hoặc những người khác thuộc khu
vực nhà nước (cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, trong các tổ chức chính trị,
tổ chức xã hội...) mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức; thậm chí, chủ thể của
hành vi tham nhũng có thể là người thuộc khu vực tư nhân.
Thứ hai, khái niệm tham nhũng theo nghĩa hẹp và đã được pháp luật Việt Nam
quy định, Luật PCTN năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012 (sau đây gọi chung
là Luật PCTN) định nghĩa: “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (Khoản 2, Điều 1) [60]: Khoản 3, Điều 1 quy
định “người có chức vụ, quyền hạn là cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân;
sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan,
đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà
nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh
nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện
nhiệm vụ, công vụ đó”.
Các hành vi tham nhũng, bao gồm: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; giả mạo trong
công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, có
quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ
lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can
thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án vì vụ lợi.
Như vậy, pháp luật của nước ta cũng xác định chủ thể của tham nhũng là người
có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, tức là những người được sử dụng
quyền lực công; hành vi tham nhũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn bao gồm những
việc làm và những việc không làm (làm ngơ, bỏ qua, cho qua, né tránh) vì mục đích vụ
30
lợi nhằm nhận được các lợi ích vật chất (tiền, quà biếu…) và các lợi ích tinh thần
không bằng công sức của mình.
Trong phạm vi nghiên cứu về tham nhũng trong các cơ quan hành chính cấp
trung ương, Luận án chỉ tiếp cận tham nhũng trong khu vực công, cụ thể trong cơ quan
nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng, thì khái
niệm về tham nhũng trong cơ quan hành chính cấp trung ương như sau:
Tham nhũng trong cơ quan hành chính cấp trung ương được hiểu là hành vi vi
phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng do người có chức vụ, quyền hạn trong bộ
máy các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương lợi dụng chức vụ, quyền hạn
của mình thực hiện gây hậu quả xấu cho xã hội, xâm phạm đến tài sản, lợi ích, hoạt
động đúng đắn của các cơ quan hành chính nhà nước, người dân và xã hội (1).
Từ những khái niệm tham nhũng nêu trên, có thể khái quát những đặc điểm và
biểu hiện của tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương như sau:
Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể: chủ thể tham nhũng là những người có chức vụ,
quyền hạn trong bộ máy cơ quan hành chính trung ương hoặc được giao thực hiện một
công vụ, nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định khi thực hiện công vụ, nhiệm
vụ đó. Theo đặc điểm này, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn làm
việc trong bộ máy hành chính nhà nước cấp trung ương, các cơ quan có trọng trách lớn,
có ảnh hưởng sâu rộng trong mọi mặt của đời sống xã hội; hoặc những người được
giao thực hiện một công vụ, nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn trong nhiệm vụ đó.
Thứ hai, đặc điểm về mục đích: hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của những
người trong bộ máy cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương có mục đích vụ lợi
để thu lợi bất chính. Người có hành vi tham nhũng luôn nhằm mục đích vụ lợi luôn tính
toán đến việc thu lợi bất chính, bao gồm lợi ích vật chất, tinh thần cho mình hoặc người
khác. Thực chất đó là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn địa vị công tác hoặc nhiệm
vụ được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện để chiếm
đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức và của người dân, thỏa mãn lợi ích cá nhân của
họ hay cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm.
Thứ ba, đặc điểm về phương thức thực hiện: những biểu hiện cơ bản tham
nhũng trong cơ quan hành chính cấp trung ương đa dạng về quy mô, hình thức: có
tham nhũng nhỏ, vặt vãnh trong việc sách nhiễu, cố ý gây phiền hà cho các tổ chức và
người dân; có tham nhũng lớn và cực lớn, đan xen, phối hợp cả tham nhũng cá nhân
31
lẫn tham nhũng theo nhóm, gọi là “lợi ích nhóm”, có tổ chức, có chủ mưu, thao túng
vào tổ chức, thể chế và chính sách cùng những người có trọng trách, có thẩm quyền
giải quyết, lợi ích nhóm hiện nay thể hiện rất tinh vi, mang lại hậu quả cũng rất lớn; có
tham nhũng trong lĩnh vực hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp;
có tham nhũng trong các lĩnh vực quản lý đất đai, tài sản, quản lý kinh tế, chính sách,
xã hội; có tham nhũng trong công tác cán bộ thuyên chuyển, cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm
cán bộ, chạy danh, chạy chức, chạy quyền... Càng ở cấp cao, vị trí có khả năng sinh lợi
nhiều thì mức độ tham nhũng càng lớn. Ngoài ra, tham nhũng thông qua việc chậm sửa
chính sách, pháp luật, cố tình lợi dụng sự mâu thuẫn, chồng chéo, hoặc lỗ hổng chính
sách để trục lợi cho cá nhân quản lý là phương thức tham nhũng mang tính phổ biến
của cơ quan hành chính cấp trung ương.
Thứ tư, đặc điểm về hành vi: các hành vi tham nhũng được thực hiện trong cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương phổ biến với những biểu hiện sau: tham ô
tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người
khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực
hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức,
đơn vị hoặc địa phương thuộc phạm vi quản lý vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn
sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi. Là hành vi của
người có chức vụ quyền hạn trong bộ máy nhà nước gây khó khăn cho doanh nghiệp,
người dân nhằm đạt những lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần nhất định; không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có
hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi.
Thứ năm, đặc điểm về nguyên nhân tham nhũng trong cơ quan hành chính nhà
nước cấp trung ương phổ biến do mức sống thấp của cán bộ, công chức; lòng tham và
quyền lực công không được quản lý kiểm soát chặt chẽ; thiếu công khai, minh bạch
trong tổ chức và hoạt động; buông lỏng quản lý, kiểm tra và kỷ luật lỏng lẻo; sự chuyển
đổi cơ chế kinh tế từ tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường gây ra sự cám
dỗ về quyền lợi vật chất. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn giữ
lợi thế cho cơ quan quản lý ngành và lĩnh vực, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh,
độc quyền tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển; tham nhũng do tập quán mang ơn,
32
trả ơn dẫn đến tệ hối lộ. Trong các nguyên nhân mang tính phổ biến nêu trên, nguyên
nhân quan trọng gây ra tham nhũng là sự thiếu hiệu quả của hoạt động kiểm tra, giám
sát của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp trung
ương; do phân cấp quản lý hành chính chưa rành mạch cùng với thiếu biện pháp,
phương pháp kiểm tra; do sự thiếu rèn luyện và trau dồi đạo đức của công chức;
2.1.3. Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam và tổ chức
bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra, cơ quan Ủy ban Kiểm tra
2.1.3.1. Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam
Để thực hiện sứ mệnh của Đảng cẩm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ
khi ra đời đã luôn coi trọng công tác kiểm tra và khẳng định kiểm tra là một trong
những chức năng lãnh đạo quan trọng, góp phần lớn trong việc hoàn thành mọi nhiệm
vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng của đất nước, của Đảng và dân tộc. Trong
điều kiện xây dựng Đảng và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện
nay, công tác kiểm tra của Đảng được nhận thức đầy đủ hơn, thúc đẩy sự đoàn kết, sức
chiến đấu trong Đảng và đặc biệt là góp phần quan trọng trong PCTN. Trong các tác
phẩm của mình, Lê Nin đã nhấn mạnh tính tất yếu của công tác kiểm tra của Đảng.
Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị các các lĩnh vực thì khi
đường lối đã xác định, phương hướng đã được thông qua thì cần lựa chọn người và
kiểm tra công việc thực tế. Theo Lênin: “Kiểm tra tạo ra tinh thần trách nhiệm cao và
kỷ luật nghiêm ở mỗi cán bộ, đảng viên, mặt khác kiểm tra sẽ đẩy mạnh cuộc đấu tranh
"chống chủ nghĩa quan liêu, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy óc sáng kiến, nhằm phát
hiện, lột mặt nạ và đuổi ra khỏi Đảng những kẻ lén lút chui vào Đảng" [40, tr109]. Chủ
tịch Hồ Chí cũng luôn khẳng định “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc
thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do
nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [48, tr.520].
Như vậy, công tác kiểm tra của Đảng gồm những hoạt động sau:
Thứ nhất, công tác kiểm tra của Đảng cộng sản Việt Nam của tổ chức đảng từ
Trung ương đến cơ sở. Theo quy định Điều lệ Đảng: “Kiểm tra, giám sát là những chức
năng lãnh đạo của Đảng”. Công tác kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức đảng xem
xét, đánh giá, kết luận những ưu điểm, khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên
trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm bảo đảm cho các quyết định, quy
33
định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện nghiêm túc, có kết
quả, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng. Công
tác giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động
của tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát trong việc chấp hành Cương lĩnh chính
trị, điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của
Ban Chấp hành Trung ương, kịp thời tác động để mọi hoạt động đúng quĩ đạo, mục
tiêu, yêu cầu đã được xác định, góp phần phục vụ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị và công tác xây dựng đảng.
Thứ hai, việc thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng
phải do cấp ủy và UBKT cấp ủy thực hiện theo thẩm quyền.
Thứ ba, chủ thể thực hiện chức năng kiểm tra của Đảng là cấp ủy, UBKT cấp
ủy từ trung ương đến cơ sở, cụ thể là:
+ Ở trung ương: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; UBKT
Trung ương.
+ Ở đảng bộ trực thuộc trung ương: Ban chấp hành, ban thường vụ các tỉnh ủy,
thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương; UBKT các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực
thuộc Trung ương.
+ Ở đảng bộ cấp trên cơ sở trực tiếp (cấp huyện và tương đương): Ban chấp
hành, ban thường vụ các huyện ủy, thị ủy, quận ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh, thành phố;
cấp ủy, Ban Cán sự đảng (BCS đảng), đảng đoàn các bộ, ngành, đoàn thể trung ương;
UBKT các huyện ủy, thị ủy, quận ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh, thành phố; UBKT cấp
ủy các bộ, ngành, đoàn thể trung ương.
+ Ở tổ chức đảng cơ sở: Ban chấp hành, ban thường vụ, chi ủy; UBKT Đảng ủy
cơ sở.
Do vậy, công tác kiểm tra của Đảng cộng sản Việt Nam bao gồm: công tác
kiểm tra, giám sát của cấp ủy, UBKT cấp ủy từ trung ương đến cơ sở thực hiện theo
thẩm quyền.
2.1.3.2. Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng
viên trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
Thứ nhất, công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong
các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương được xác định do cấp ủy và UBKT
cấp ủy ở trung ương và các bộ, cơ quan ngang bộ ở trung ương thực hiện. Công tác
34
kiểm tra luôn mang tính Đảng sâu sắc bởi đây là hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với
cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Đồng thời cả quá trình kiểm tra đều phải
tuân thủ nguyên tắc của Đảng, quy định của Điều lệ Đảng, Cương lĩnh của đảng và tiến
hành kiểm tra một cách công khai, dân chủ, tập thể và có lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát.
Thứ hai, chủ thể kiểm tra của đảng đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương là cấp ủy, UBKT cấp ủy ở trung ương và các bộ, cơ quan ngang bộ bao
gồm: ở trung ương: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; UBKT
Trung ương; ở các bộ, cơ quan ngang bộ bao gồm ban cán sự đảng, đảng ủy và UBKT
đảng ủy các bộ, cơ quan ngang bộ.
Thứ ba, đối tượng kiểm tra, giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương là các tổ chức đảng và đảng viên bao gồm: chi bộ, chi ủy, đảng ủy bộ phận,
đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở
lên; ủy ban kiểm tra; các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp ủy; ban cán sự đảng,
đảng đoàn; đảng viên. Đặc điểm đặc thù của công tác kiểm tra của Đảng đối với cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương thể hiện ở chỗ các cán bộ, đảng viên hoặc tổ
chức đảng nêu trên khi được kiểm tra thì vừa là đối tượng vừa là đồng chủ thể kiểm tra.
Là đối tượng kiểm tra, nên đảng viên hoặc tổ chức đảng thuộc cơ quan hành chính cấp
trung ương được kiểm tra phải chấp hành nghiêm túc mọi yêu cầu, nội dung, quy trình,
quy chế kiểm tra; là chủ thể kiểm tra, thì người đảng viên hoặc tổ chức đảng được kiểm
tra không thụ động đứng ngoài cuộc mà phải chủ động, tự giác tham gia thực hiện đầy
đủ quyền và trách nhiệm trong cuộc kiểm tra. Do đó, người đảng viên nào thuộc đối
tượng kiểm tra, nếu có dấu hiệu vi phạm chính sách, pháp luật song nếu khi tổ chức
đảng chưa tiến hành thẩm tra, xác minh, chưa có kết luận và chưa có quyết định thi
hành kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng thì người đó vẫn có tư cách đảng viên, là chủ thể
của cuộc kiểm tra đang tiến hành. Đây cũng chính là đặc trưng mang tính đảng của chủ
thể kiểm tra và đối tượng chịu sự kiểm tra.
Thứ tư, nội dung kiểm tra, giám sát là: việc thực hiện Cương lĩnh chính trị, điều
lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy
định của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên.
Thứ năm, phương pháp, biện pháp kiểm tra có tính đặc thù. Nghiên cứu công
tác kiểm tra của Đảng cũng cần phải phân biệt với công tác giám sát của Đảng bởi hai
hoạt động này có sự phân biệt về thời điểm, biện pháp, đối tượng tác động trong từng
35
giai đoạn nhất định. Nếu như giám sát là hoạt động của Đảng được tiến hành thường
xuyên hoặc theo chuyên đề là hoạt động không cần phải có biện pháp thẩm tra hoặc
xác minh. Giám sát chỉ đơn thuần là theo dõi, quan sát, xem xét nên các kết luận giám
sát chỉ là những đánh giá bước đầu. Trong khi đó, kiểm tra đòi hỏi phải có các biện
pháp thẩm tra, xác minh như kiểm tra sự chấp hành của đối tượng kiểm tra thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao đã xảy ra trong quá khứ, đã kết thúc. Kiểm tra còn
được tiến hành cả việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ đang thực hiện. Phạm vi, thời
điểm kiểm tra rộng hơn phạm vi, thời điểm giám sát. Nếu như giám sát chỉ thông báo
kết quả giám sát và những yêu cầu, kiến nghị nếu có, không kết luận và không có xử lý
kỷ luật thì kiểm tra chấp hành phải tiến hành thẩm tra, xác minh để làm rõ ưu điểm,
khuyết điểm, hạn chế, nguyên nhân làm rõ đúng, sai hoặc vi phạm của đối tượng kiểm
tra, phải xem xét, kết luận kiểm tra. Do đó, về mức độ thì kiểm tra là biện pháp phòng
ngừa, xử lý sâu hơn, kỹ lưỡng hơn, chặt chẽ hơn so với giám sát. Hơn nữa, kiểm tra
trong đảng đối với cơ quan hành chính cấp trung ương còn thể hiện phương pháp tự
kiểm tra và kiểm tra. Đây là hai phương pháp kiểm tra có mối liên hệ mật thiết với
nhau, tạo nên tính đặc thù, khác hẳn các phương pháp của cơ quan bảo vệ pháp luật.
Như vậy, công tác kiểm tra của Đảng đối với các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương là hoạt động do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
và cấp ủy, ban cán sự đảng, UBKT Trung ương, UBKT cấp ủy các bộ, cơ quan ngang
bộ xem xét, đánh giá, kết luận những ưu điểm, khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng
viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy
định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm ngăn chặn, phòng ngừa và
phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh những hành vi tham nhũng theo quy định của
Đảng (2).
2.1.3.3. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra và Cơ
quan Ủy ban Kiểm tra
- Tổ chức bộ máy của UBKT và cơ quan UBKT
Ủy ban Kiểm tra Trung ương và UBKT các cấp ủy trong các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương: Ngày 16/10/1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
ra Quyết nghị số 29-NQ/TW về việc thành lập Ban Kiểm tra Trung ương. Từ Đại hội
toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960) Ban Kiểm tra được đổi tên thành UBKT, UBKT
được thành lập đến cấp quận uỷ, huyện uỷ và tương đương. Đại hội X của Đảng đã bổ
sung chức năng, nhiệm vụ giám sát cho UBKT các cấp.
36
- Tổ chức bộ máy của UBKT trung ương Cơ quan UBKT Trung ương bao gồm:
Ủy ban Kiểm tra Trung ương ương do Ban Chấp hành Trung ương trong các
nhiệm kỳ gần vừa qua từ 19 đến 21 ủy viên, trong đó có Chủ nhiệm UBKT Trung
ương ương là Ủy viên Bộ Chính trị, các phó chủ nhiệm, có 01 phó chủ nhiệm thườn
trực và các ủy viên.
Cơ quan UBKT Trung ương gồm có Lãnh đạo Cơ quan UBKT Trung ương bao
gồm thủ trưởng Cơ quan UBKT Trung ương; các phó thủ trưởng Cơ quan UBKT
Trung ương; trong đó phân công một đồng chí Phó Chủ nhiệm thường trực UBKT
Trung ương là phó thủ trưởng thường trực Cơ quan UBKT Trung ương.
Tổ chức bộ máy của Cơ quan UBKT Trung ương gồm 14 vụ, đơn vị, trong đó
có 12 vụ chức năng, gồm: 7 vụ khu vực phụ trách các địa phương, địa bàn (Vụ TW 1,
Vụ 1A, Vụ Địa phương 2, Vụ Địa phương 3, Vụ Địa phương 5, Vụ Địa phương 7, Vụ
Kiểm tra tài chính); 5 vụ còn lại (Vụ Tổng hợp, Vụ Tổ chức - Cán bộ, Vụ Nghiên cứu,
Vụ Đơn thư và tiếp đảng viên, công dân, Vụ Đào tạo - Bồi dưỡng); các đơn vị: Văn
phòng và Tạp chí Kiểm tra, theo sơ đồ sau:
UBKT Trung ƣơng
(Chủ nhiệm - Các phó CN - Các UV- UB)
Cơ quan UBKT Trung ƣơng
Lãnh đạo Cơ quan UBKT TW
(Chủ nhiệm - Phó CN TT- Các phó CN)
Các vụ:
- Vụ Địa phƣơng, địa bàn: 7
- Vụ chuyên đề: 5
Đơn vị:
- Văn phòng
- Tạp chí Kiểm tra
Hình 2.2: Mô hình tổ chức của Ủy ban Kiểm tra Trung ƣơng
và Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ƣơng
Biên chế của Cơ quan UBKT Trung ương do Bộ Chính trị quyết định trên cơ
sở đề xuất xuất của UBKT Trung ương và Ban Tổ chức Trung ương khoảng 250 cán
bộ, công chức và nhân viên. Trong đó, có 21 đồng chí thành viên UBKT Trung ương
37
được Ban Chấp hành Trung ương bầu. Thường trực Uỷ ban gồm Chủ nhiệm và 07 Phó
Chủ nhiệm. Trong Thường trực có một số đồng chí là uỷ viên Trung ương Đảng và Bí
thư Trung ương Đảng (hoặc ủy viên Bộ Chính trị).
Với cơ cấu bộ máy giúp việc này, UBKT Trung ương đã hoạt động có nền nếp,
đáp ứng cơ bản được yêu cầu nhiệm vụ kiểm tra trong thời gian vừa qua. Nhưng trước
yêu cầu đòi hỏi của giai đoạn cách mạng mới thì còn thiếu mảng PCTN, lãng phí và
giám sát, kiểm soát quyền lực. Nếu tổ chức như hiện nay thì chưa thể giải quyết tốt
những vấn đề về lý luận và thực tiễn đặt ra đối với lĩnh vực kiểm tra, giám sát của Đảng.
+ Ủy ban Kiểm tra các cấp ủy trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương: UBKT các cấp ủy trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
là UBKT của Đảng bộ Văn phòng Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ chủ yếu
được xác định tổ chức đảng cấp trên trực tiếp cơ sở (cấp huyện và tương đương), do
vậy chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy được quy định theo mô hình UBKT cấp
ủy cấp trên trực tiếp cơ sở. Bộ máy được bố trí từ 5 đến 7 thành viên, trong đó có một
số thành viên chuyên trách và kiêm nghiệm, gồm 01 chủ nhiệm, từ 2 đến 3 phó chủ
nhiệm và một số ủy viên.
- Chức năng, nhiệm vụ của UBKT Trung ương và UBKT đảng ủy các bộ, cơ
quan ngang bộ:
+ Chức năng của UBKT Trung ương và Cơ quan UBKT Trung ương: UBKT
Trung ương và Cơ quan UBKT Trung ương có vị trí và vai trò quan trọng trong nhiệm
vụ công tác xây dựng Đảng nói chung và trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ
luật trong Đảng nói riêng, góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng, khẳng định kiểm tra, giám sát là những chức
năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng
Đảng ngang tầm nhiệm vụ trong mọi thời kỳ cách mạng.
Cơ quan UBKT Trung ương là cơ quan tham mưu, giúp UBKT Trung ương thực
hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong
Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng và thực hiện các nhiệm vụ do Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao; đồng thời là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ
về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng của Trung ương.
Chức năng của UBKT và cơ quan UBKT đảng ủy các bộ, cơ quan ngang bộ các
tương tự như UBKT Trung ương và Cơ quan UBKT Trung ương nhưng ở phạm vi cấp
ủy các bộ, cơ quan ngang bộ.
38
+ Nhiệm vụ của UBKT Trung ương và UBKT đảng ủy các bộ, cơ quan ngang
bộ được xác định theo quy định Điều lệ Đảng, bao gồm:
Thứ nhất, kiểm tra đảng viên, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi
phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ
đảng viên.
Thứ hai, kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới trong việc chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của
Đảng khi có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành
kỷ luật trong Đảng.
Thứ ba, giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy quản lý và tổ chức
đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị
quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Thứ tư, xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề
nghị cấp uỷ thi hành kỷ luật.
Thứ năm, giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu
nại về kỷ luật Đảng.
Thứ sáu, kiểm tra tài chính của cấp uỷ cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp uỷ
cùng cấp.
2.1.3.4. Vai trò công tác kiểm tra của Đảng đối với phòng, chống tham nhũng
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
Thứ nhất, công tác kiểm tra của Đảng có tầm trọng trong thực hiện quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật về PCTN trong các cơ quan
hành chính cấp trung ương. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát của các cấp uỷ, tổ
chức đảng và UBKT đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách
nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, từng vị trí cán bộ, công chức; đặc biệt là trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc ngăn ngừa, đẩy lùi tham nhũng, lãng
phí xảy ra ở cơ quan, đơn vị mình. Cấp ủy đảng, UBKT cấp ủy và mọi cán bộ, đảng
viên thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát tham nhũng, tiêu cực và xử lý nghiêm khi có
vi phạm thì tham nhũng, tiêu cực sẽ được ngăn chặn, đẩy lùi, mặt khác sẽ nâng cao tính
tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lối sống cho cán bộ, đảng viên. Qua đó đường lối,
chủ trương, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về PCTN trong
các cơ quan hành chính nhà nước trung ương được thực hiện có hiệu quả.
39
Thứ hai, công tác kiểm tra của Đảng có vai trò là một trong những phương thức
phòng ngừa tham nhũng hiệu quả trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung
ương. Nhiệm vụ cơ bản của công tác kiểm tra của Đảng là kiểm tra, giám sát việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết đơn thư tố
cáo…liên quan đến công tác PCTN, lãng phí. Đối tượng kiểm tra là tổ chức đảng và
đảng viên trong các bộ, ngành trung ương, qua kiểm tra làm rõ những sai sót, phát hiện
kẽ hở của cơ chế, chính sách dẫn đến tham nhũng, từ đó có thể dự báo tham nhũng có
thể xảy ra để phòng ngừa. Cùng với việc sửa đổi, bổng sung hoàn chỉnh cơ chế, chính
sách để ngăn chặn nguy cơ tham nhũng xảy ra. Khi thực hiện tốt công tác kiểm tra,
giám sát, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên luôn cảm thấy có người theo dõi nên sẽ tự
giác thực hiện nhiệm vụ, thận trọng sử dụng quyền lực một cách đúng đắn, tự giác tu
dưỡng, rèn luyện, giữ gìn hơn không dám tham nhũng, tiêu cực.
Đồng thời, để PCTN thì công tác kiểm tra của Đảng được xem là một trong
những phương thức phát hiện nhanh và hiệu quả các vụ tham nhũng. Thông qua công
tác kiểm tra, giám sát có thể phát hiện được các dấu hiệu tham nhũng để tiến hành kiểm
tra, kết luận và xử lý. Thực tế, qua công tác kiểm tra, giám sát của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, UBKT Trung ương và cấp ủy, UBKT cấp ủy trong các bộ, ngành thời gian qua,
nhất là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và giải quyết đơn thư tố cáo tổ chức đảng,
đảng viên đã phát hiện nhiều vụ vi phạm chế độ, chính sách, tham ô, chiếm dụng tài
sản của Nhà nước, tập thể. Qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng có thể phát hiện
sớm các vụ tham nhũng, khác với các cơ quan điều tra hay chống tham nhũng là khi vụ
tham nhũng đã xảy ra, thậm chí đã gây ra hậu quả mới tiến hành điều tra, xem xét.
Mặt khác thông qua công tác kiểm tra của Đảng góp phần cảnh tỉnh, răn đe,
ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Thực tế hiện nay, hầu hết các
vụ tham nhũng bị phát hiện ở nước ta đảng viên là những người có chức, có quyền chủ
yếu trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương là đối tượng vi phạm trực
tiếp, hoặc gián tiếp. Do vậy, mấu chốt của công tác kiểm tra là phát hiện kịp thời và
kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên có thành vi tham nhũng, khi đã phát hiện
tham nhũng thì phải xử lý nghiêm minh với mọi đối tượng. Với tội trạng tham nhũng
của cán bộ, đảng viên phải xử phạt nặng ngoài việc đưa ra khỏi Đảng cần tạo điều kiện
40
thuận lợi cho cơ quan bảo vệ pháp luật có điều kiện tiếp cận tới những cán bộ, đảng
viên có dấu hiệu phạm tội tham nhũng; người ở ngôi vị càng cao, càng phải xử nặng;
làm mạnh từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, không sợ đụng chạm, không sợ liên
lụy để làm tăng lòng tin của nhân dân với Đảng.
Thứ ba, thông qua công tác kiểm tra của Đảng có tác dụng góp phần tăng cường
ý thức trách nhiệm của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể trong các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương, quyết tâm PCTN. Trên cơ sở thông qua công tác kiểm
tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể giữ vững nguyên tắc tập
trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, đồng thời thực hiện tốt việc công
khai, minh bạch. Từ đó, đấu PCTN, tiêu cực được đẩy mạnh và có hiệu quả, bảo đảm
sự phối hợp thực hiện trong hệ thống chính trị của cơ quan, đơn vị.
Thông qua công tác kiểm tra của Đảng đối với cơ quan hành chính cấp trung
ương trong quá trình PCTN, công tác xây dựng được tăng cường, góp phần trong sạch,
vững mạnh, đảm bảo rằng Đảng và cơ quan nhà nước là một tổ chức chặt chẽ, thống
nhất ý chí và hành động, nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên,
công chức trong việc tu dưỡng, rèn luyện bản thân và quyết tâm PCTN, tiêu cực. Đối
tượng của công tác kiểm tra của Đảng là các tổ chức đảng và đảng viên, trong đó có đối
tượng giữ những vị trí quan trọng thực thi quyền lực, thực thi pháp luật, làm cho họ
luôn luôn gương mẫu đi đầu, có lối sống trong sạch, lành mạnh, có kỷ cương, kỷ luật,
không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh PCTN, lãng phí và tiêu
cực khác. Điều này được ghi trong mục 2, Điều 2, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam về
nhiệm vụ của đảng viên là: “Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ kiến
thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành
mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và các tiêu cực khác” [20, tr.8-9]. Trong điều kiện một đảng cầm quyền nếu các
đảng viên đều chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật nhà nước thì chắc chắn nạn
tham nhũng không có đất sống để tồn tại. Bởi vì, người đảng viên vẫn luôn là tấm
gương sáng cho mọi người noi theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: “đảng
viên đi trước, làng nước theo sau”. Vì vậy:
“Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết,
quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp
41
thời khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm chất của
cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ,
đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh” [10, tr.278].
2.1.4. Khái niệm, đặc điểm phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan
hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công tác kiểm tra của Đảng
2.1.4.1. Khái niệm công tác phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan
hành chính nhà nước cấp trung ương
Để thực hiện đấu tranh với các hành vi tham nhũng pháp luật quốc tế và các
quốc gia đã đề ra nhiều biện pháp phòng ngừa, từng bước ngăn chặn, kiềm chế và đẩy
lùi tệ nạn này. Theo từ điểm Tiếng Việt: “phòng ngừa là phòng trước không để cho cái
xấu, cái không hay nào đó xảy ra” [102, tr.1005]; “chống là hoạt động ngược lại, gây
trở lực cho hành động của ai đó hoặc cho tác động của cái gì” [102, tr.230]. Theo đó,
PCTN cơ bản tập trung trước hết vào việc xác định các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu
như kiểm tra, thanh tra, giám sát… do các chủ thể khác nhau thực hiện nhằm không để
hành vi tham nhũng xảy ra và nếu xảy ra thì có biện pháp khắc phục hậu quả.
Ngoài ra cũng có cách tiếp cận mang tính đặc thù, đó là coi việc “phòng ngừa
tham nhũng” là một nội dung cấu thành của “chống tham nhũng”. Theo đó, chống
tham nhũng bao gồm trước hết là phòng ngừa và chủ yếu là phòng ngừa, làm cho hành
vi tham nhũng không có hoặc ít có cơ hội hình thành. Việc phòng ngừa này được thực
hiện trên cơ sở quy định chặt chẽ chức trách, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, các nhân có
thẩm quyền thuộc cơ quan nhà nước. Cùng với phòng ngừa là việc phát hiện, xử lý
tham nhũng được thực hiện tương tự như việc phát hiện, xử lý các hành vi phạm tội
khác nhau một cách nghiêm minh. Việc phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh hành
vi tham nhũng được xem là biện pháp được thực hiện sau quá trình kiểm tra, thanh tra,
giám sát do các chủ thể có trách nhiệm thực hiện. Nếu xử lý nghiêm minh hành vi tham
nhũng thì hiệu quả của công tác phòng ngừa tham nhũng cũng được nâng cao, đồng
thời là động lực cho hoạt động phòng ngừa tham nhũng được tiến hành thường xuyên
và liên tục.
Như vậy, PCTN được hiểu là việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi
trách nhiệm, quyền hạn của mình thực hiện các biện pháp nhằm phòng ngừa, phát hiện
và xử lý các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật. Trong các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm tiến hành các biện pháp PCTN thì Đảng là một tổ chức
42
có cơ cấu tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương, có phương thức và biện
pháp phòng ngừa hữu hiệu, có đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra chuyên nghiệp,
công tâm. Do đó, công tác kiểm tra của Đảng là một trong những phương thức PCTN
có hiệu quả. Thông qua công tác kiểm tra việc thực hiện các Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
được đảm bảo thực hiện đúng đắn trong thực tiễn và phát hiện được những mâu thuẫn,
bất cập, kẻ hở của cơ chế, chính sách dẫn đến tham nhũng, từ đó làm tốt công tác dự
báo tham nhũng có thể xảy ra để đưa ra các biện pháp phòng ngừa. Qua công tác kiểm
tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp, nhất là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm và
giải quyết đơn thư tố cáo tổ chức đảng, đảng viên đã phát hiện nhiều vụ vi phạm chế
độ, chính sách, tham ô, chiếm dụng tài sản của Nhà nước, tập thể. Như vậy công tác
kiểm tra của Đảng các vụ tham nhũng được phát hiện sớm, kịp thời nên ngăn chặn
được sớm hậu quả xảy ra.
Công tác kiểm tra của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên, trong đó có đối
tượng là cán bộ, đảng viên đang giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước và
hệ thống chính trị đang nắm giữ quyền lực và thực thi pháp luật nhằm phát hiện biểu
hiện tham nhũng, lãng phí và kiến nghị các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và tiêu cực khác. Hơn nữa, trong điều kiện một đảng cầm quyền việc
kiểm tra để các đảng viên chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật nhà nước làm cho
tham nhũng không thể phát tác, có đất sống để tồn tại. Bởi vì, người đảng viên vẫn luôn
là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở:
"đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Vì vậy, “Đảng phải tăng cường và nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và
khắc phục kịp thời khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và phẩm chất
của cán bộ, đảng viên, xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên
ngày càng trong sạch, vững mạnh” [23, tr 278].
Công tác phòng, chống tham nhũng đối với các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng được xác định: là hoạt động
kiểm tra do Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy, ban cán sự
đảng của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ tiến hành cùng với công tác kiểm tra,
giám sát của UBKT Trung ương, UBKT đảng ủy của các bộ, cơ quan ngang bộ đối với
tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
43
Công tác PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông
qua công tác kiểm tra của Đảng chính là việc Đảng, các tổ chức của Đảng, đảng viên
thông qua công tác kiểm tra của Đảng phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng và
phát hiện, chống lại các hành vi tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương. Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính cấp trung
ương là hệ thống cơ quan có vị trí pháp lý quan trọng, thực hiện thẩm quyền hành
chính của Nhà nước. Công tác tổ chức, điều hành nền hành chính và quản lý nhà nước
về ngành, lĩnh vực là cơ sở để các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương tiến
hành các hoạt động nhằm mục đích duy trì hoạt động của Nhà nước và đảm bảo mối
liên hệ với nhân dân. Tuy nhiên, chính trong các hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước luôn tiềm ẩn những giá trị có thể bị xâm hại, những lợi ích có thể bị các cá nhân
có thẩm quyền, có chức vụ lạm dụng quyền lực để tư túi. Do đó, nếu chỉ chống thì thiệt
hại xảy ra sẽ lớn bởi sự lan toả ở phạm vi rộng lớn trên địa bàn cả nước và cấp độ cũng
khó lường bởi đó là sự thiệt hại từ trung ương đến địa phương. Hơn nữa, đối với cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương, sự thiệt hại từ hành vi tham nhũng là cấp số
nhân bởi không chỉ thiệt hại đến tài sản của nhà nước, kinh tế quốc dân mà còn thiệt hại
đến uy tín của nhà nước, có thể dẫn đến sự sụp đổ của chế độ, hoặc tiêu vong cả dân
tộc. Nếu phòng tham nhũng đối với cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
không có hiệu quả thì việc chống sẽ không có hiệu quả cao bởi lúc đó sự khắc phục
thiệt hại cho dù là nhỏ nhất sẽ khó khăn và tốn nhiều nguồn lực vật chất, con người,
thời gian. Do đó, đối với đối tượng để PCTN là cơ quan hành chính nhà nước cấp trung
ương, việc tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng đòi hỏi phải chú trọng công
tác kiểm tra, giám sát của cả hệ thống chính trị, trong đó, công tác kiểm tra của Đảng
có vai trò quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng và hiệu quả.
Phòng ngừa và ngăn chặn tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng được hiểu là việc Đảng đưa ra
đường lối, chủ trương, nghị quyết về phòng tham nhũng, chỉ đạo, lãnh đạo các cơ
quan nhà nước, các ngành, các cấp thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn
hành vi tham nhũng. Đồng thời chỉ đạo cấp ủy, UBKT cấp ủy đẩy mạnh công tác
kiểm tra, giám sát thông qua đó nâng cao nhận thức; phát hiện và chỉ ra bất cập, kẽ hở
trong cơ chế, chính sách để sửa đổi, bổ sung; cảnh báo, ngăn chặn hành vi tham
nhũng trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương, kiến nghị những biện
44
pháp xử lý, giải quyết hậu quả do hành vi tham nhũng của cơ quan hành chính nhà
nước cấp trung ương thực hiện.
Chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
thông qua công tác kiểm tra của Đảng được cấp ủy, UBKT cấp ủy tiến hành các biện
pháp kiểm tra, giám sát của nhằm phát hiện các biểu hiện và hành vi tham nhũng như:
tiếp nhận, xử lý đơn thư tố cáo, thông tin phản ánh của báo chí, dư luận xã hội; thông
qua thông tin liên quan đến các tổ chức đảng, đảng viên qua kiểm điểm phê bình và tự
phê bình, qua phối hợp trao đổi thông tin với các cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra,
xét xử; thông qua kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm...Trên cơ
sở xử lý hành vi tham nhũng của tổ chức đảng và đảng viên về đảng và chuyển cơ quan
nhà nước xử lý chính quyền tương ứng, đồng thời chuyển cơ quan điều tra, xét xử truy
cứu trách nhiệm hình sự (trường hợp vi phạm pháp luật hình sự).
Phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng trong các
cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng có
mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ, mật thiết với nhau, là hai mặt của một vấn đề trong
một thể thống nhất. Phòng tham nhũng là việc thông qua công tác kiểm tra của Đảng
ngăn ngừa tham nhũng từ trước để hành vi tham nhũng không thể xảy ra. Việc phòng
ngừa tham nhũng tốt, hành vi tham nhũng không xảy ra thì không phải chống tham
nhũng. Ngược lại, chống tham nhũng mặc dù là các hoạt động thực hiện sau khi hành
vi tham nhũng xảy ra, có tác dụng hỗ trợ cho việc phòng tham nhũng, nó giúp cho việc
cảnh báo, răn đe những người có ý định tham nhũng không dám tham nhũng hoặc
tránh những nguy cơ tham nhũng. Không thể chống tham nhũng có hiệu quả nếu không
coi trọng việc phòng ngừa tham nhũng. Đồng thời, không thể phòng tham nhũng có
hiệu quả nếu không coi trọng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Sinh thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: tăng cường kiểm tra, giám sát không để tạo kẻ hở cho
bọn tham ô, lãng phí, quan liêu đục khoét.
Từ những vấn đề nêu trên có thể rút ra khái niệm PCTN trong các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng như sau: PCTN
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm của
Đảng là việc Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy đảng, ban
cán sự đảng của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cùng với UBKT trung ương,
UBKT cấp ủy đảng của các bộ, cơ quan ngang bộ dựa vào các quan điểm, chủ trương,
45
Điều lệ, Cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, căn cứ pháp luật của nhà
nước thông qua hoạt động công tác kiểm tra thực hiện các biện pháp phòng ngừa hữu
hiệu, phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng của các cán bộ,
công chức là đảng viên trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương (3).
2.1.4.2. Đặc điểm của phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng
Nghiên cứu PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
thông qua công tác kiểm tra của Đảng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng có đặc trưng nổi bật nhất đó là
công tác kiểm tra của Đảng thuộc hoạt động trong nội bộ đảng, vì vậy phải thực hiện
theo quy định của Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, các quy định, hướng dẫn của Ban
Chấp hành Trung ương, của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về công tác kiểm tra.
Thứ hai, mục đích của công tác kiểm tra của Đảng đối với cơ quan hành chính
nhà nước cấp trung ương là để giáo dục, rèn luyện, làm cho tổ chức đảng, đảng viên
trong cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thực sự trong sạch, vững mạnh,
không có bất kỳ hành vi và biểu hiện tham nhũng nào. Khi tiến hành công tác kiểm tra
phải chỉ rõ được những ưu điểm trong công tác phòng, chống tham nhũng để phát huy,
phát hiện các nhân tố mới, điển hình tiên tiến để phổ biến, nhân rộng; chỉ ra được
khuyết điểm, yếu kém để khắc phục, sửa chữa; với đặc trưng này, công tác kiểm tra đòi
hỏi phải được tiến hành thường xuyên, không để đến khi có tham nhũng, thiệt hại tài
sản của nhà nước, mất uy tín của đảng mới kiểm tra; khi phát hiện có vi phạm phải xử
lý kịp thời, đến mức phải kỷ luật thì phải kết luận, kỷ luật nghiêm minh.
Thứ ba, chủ thể tham gia PCTN là cấp ủy ở trung ương và các bộ, ngành bao
gồm: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; cấp ủy đảng, ban cán sự
đảng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiện.
Cùng với UBKT Trung ương và UBKT các các cấp ủy của các bộ, cơ quan ngang bộ
trong thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát theo quy định của Đảng.
Thứ tư, đối tượng PCTN là tổ chức đảng, đảng viên là những người có chức vụ,
quyền hạn làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước ở các cơ quan trung ương, có
trọng trách lớn, có ảnh hưởng sâu rộng trong mọi mặt của đời sống xã hội, lợi dụng
chức vụ, quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với
46
công vụ mà mình phải thực hiện để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của cơ quan, đơn
vị và của người dân, thỏa mãn lợi ích cá nhân hoặc cho người khác, hay nhóm người
mà mình quan tâm. Với đối tượng phòng, chống tham nhũng đặc thù này, công tác
kiểm tra của đảng luôn xác định là công việc khó khăn bởi phải tiến hành kiểm tra đối
với những người chức vụ quan trọng trong cơ quan hành chính nhà nước, có vị trí công
tác đủ để kiểm soát thông tin và có thể che đậy hành vi tham nhũng một cách tinh vi
khó phát hiện, số đối tượng tham gia có thể đơn lẻ, có thể cấu kết theo nhóm lợi ích
nhiều cấp, nhiều ngành, có tổ chức nên việc kiểm tra của Đảng rất khó khăn, phức tạp.
Thứ năm, vai trò kiểm tra của Đảng trong phòng, chống tham nhũng đối với cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương nhằm bảo vệ uy tín của Đảng, bảo vệ chế
độ, phát hiện ra những điểm bất cập, mâu thuẫn trong chính sách, pháp luật PCTN.
Đồng thời, thông qua hoạt động kiểm tra của Đảng, nhiều hành vi tham nhũng được
phát hiện mang tính răn đe, giáo dục không chỉ với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng là
cơ quan hành chính cấp trung ương đang bị kiểm tra mà còn có giá trị giáo dục cho cả
tập thể, tổ chức đảng, góp phần chỉnh đốn đảng, ngăn chặn có hiệu quả các tác dụng
xấu do hành vi tham nhũng gây ra, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, duy trì và đổi mới
văn hoá công sở, truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thứ sáu, lĩnh vực PCTN là rất rộng có tham nhũng cá nhân lẫn tham nhũng theo
nhóm, gọi là “lợi ích nhóm”, có tổ chức, có chủ mưu, thao túng vào tổ chức, thể chế và
chính sách cùng những người có trọng trách; có tham nhũng trong lĩnh vực hoạt động
kinh tế, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; có tham nhũng trong các lĩnh vực quản
lý đất đai, tài sản, quản lý kinh tế, tài chính, ngân hàng, chính sách, xã hội; có tham
nhũng trong công tác cán bộ thuyên chuyển, cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, chạy
danh, chạy chức, chạy quyền...
Thứ bảy, tùy theo tính chất, mức độ mà tiến hành các biện pháp phù hợp, nhưng
cơ bản tiến hành theo phương pháp công tác kiểm tra của Đảng phải công khai, dân
chủ, chính xác và luôn quán triệt sự lãnh đạo, chỉ đạo. Do đó, công tác kiểm tra của
Đảng nhằm đấu tranh với các việc làm sai trái, góp phần bảo đảm cho đường lối, chính
sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh, giữ vững nguyên tắc
tập trung dân chủ, giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng, chống tệ quan liêu, nạn
tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, những cán bộ tham ô,
hối lộ và trù dập người tích cực đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, dung túng, bao
47
che cho tội phạm; xử lý nghiêm trách nhiệm người đứng đầu, phụ trách cơ quan, đơn vị
để xảy ra tham nhũng, tiêu cực, trù dập, ức hiếp cán bộ, đảng viên, nhân dân theo kỷ
luật đảng và pháp luật nhà nước. Hiệu quả phương pháp công tác kiểm tra của Đảng
trong hoạt động kiểm tra PCTN được thể hiện rõ ở tính giáo dục, thuyết phục và cảnh
báo, răn đe để ngăn ngừa hành vi vi phạm. Đồng thời phải dựa trên nguyên tắc kết hợp
với xây và chống, lấy xây làm chính; chống phải kiên quyết, nghiêm minh và lấy chống
để xây. Coi trọng phòng ngừa, nhưng xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi tham
nhũng; thực hiện PCTN một cách chủ động, kiên quyết và đồng bộ. Đấu tranh chống
tham nhũng phải khẩn trương, kiên quyết, nhưng không gây không khí nặng nề, căng
thẳng, phải tạo ra động lực cho các hoạt động đúng pháp luật, tạo môi trường lành
mạnh và ổn định chính trị - xã hội để phát triển đất nước.
2.2. NỘI DUNG, PHƢƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG PHÕNG, CHỐNG THAM
NHŨNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG VỚI CÁC
CƠ QUAN CHỨC NĂNG LIÊN QUAN TRONG PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG
ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG
2.2.1. Nội dung phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính
nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua hoạt động công tác kiểm tra của Đảng
2.2.1.1. Những nội dung cơ bản công tác kiểm tra, giám sát của Đảng tập
trung thực hiện trong phòng, chống tham nhũng đối với các cơ quan hành chính
nhà nước cấp trung ương
- Thực hiện nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng và trong
hệ thống chính trị của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Chú trọng
kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và đảng
viên trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và giữu gìn phẩm
chất đạo đức lối sống. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành chủ trương, đường
lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về các nội dung, lĩnh vực sau:
+ Về lĩnh vực tư tưởng chính trị, quản lý báo chí: kiểm tra, giám sát quan việc
thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, việc thi hành Điều lệ Đảng, các quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác tư tưởng chính trị nói chung và hoạt động
báo chí nói riêng.
+ Về kiểm tra, giám sát việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng như nguyên tắc tập trung dân chủ; quy chế làm việc, chế độ công tác, mối quan
hệ và việc giáo dục, rèn luyện.
48
+ Về lĩnh vực kinh tế - tài chính: kiểm tra, giám sát việc thực hành tiết kiệm,
phòng, chống tham nhũng, “lợi ích nhóm”, lãng phí trong các khâu cấp và sử dụng
nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước, vốn ODA, tài trợ của nước ngoài; trong xây
dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị; quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên, công sản;
triển khai thực hiện các dự án trọng điểm.
+ Về lĩnh vực hành chính, tư pháp: kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính liên quan đến
giải quyết công việc của các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong các hoạt động đầu tư,
sản xuất kinh doanh. Kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng về
cải cách tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm
trọng, gây bức súc trong dư luận.
+ Trong công tác tổ chức và cán bộ: kiểm tra, giám sát về tuyển dụng, quy
hoạch, luân chuyển, dào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bố trí, sử đụng, khen thưởng và thực
hiện chính sách cán bộ; về phẩm chất đạo đức, lối sống và thực hiện chức trách, nhiệm
vụ của cán bộ, đảng viên; việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; về nội dung và chất lượng sinh hoạt của cấp ủy, tổ chức đảng.
+ Việc lãnh đạo, chỉ đạo, giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng gắn với vai trò, trách nhiệm
của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của quần chúng trong đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, “lợi ích nhóm” lãng phí, tiêu cực.
2.2.1.2. Những nội dung cụ thể về hoạt động công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng trong phòng, chống tham nhũng đối với các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương
Thứ nhất, thông qua hoạt động kiểm tra của Đảng thực hiện các biện pháp
phòng ngừa tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
Một là, thông qua hoạt động nâng cao nhận thức cho cấp ủy, tổ chức đảng, người
đứng đầu và đội ngũ cán bộ, đảng về PCTN và vị trí, vai trò công tác kiểm tra, giám sát
của đảng trong PCTN đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
- Các cấp ủy trong các bộ, ngành Trung ương tăng cường công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt
việc nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định của Trung ương,
49
của cấp ủy cấp trên về PCTN và thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh.
- Cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị phải có quyết
tâm chính trị cao trong PCTN, luôn làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, góp
phần vào công tác PCTN của cấp, cơ quan, đơn vị. Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình các cấp uỷ, tổ chức đảng thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, từng vị trí cán
bộ, công chức; đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc
ngăn ngừa, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí xảy ra ở cơ quan, đơn vị mình. Đồng thời thực
hiện tốt việc công khai, minh bạch để quần chúng có ý kiến tham gia phê bình cán bộ,
đảng viên hoặc cung cấp những biểu hiện tham nhũng của cán bộ, đảng viên cho tổ
chức đảng và người có trách nhiệm để xử lý từ đó nâng cao ý thức tự giác, tính tiên
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong phòng, chống tham nhũng trong cơ
quan, đơn vị mình.
- Nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai trò và tác dụng của công tác kiểm
tra, giám sát của đảng trong PCTN. Thông tin kịp thời kết quả công tác kiểm tra, giám
sát trong đảng, nhất là nội dung về PCTN, lãng phí, tiêu cực, góp phần định hướng tư
tưởng, tạo niềm tin cho cán bộ, đảng viên, công viên chức và người lao động trong đấu
tranh PCTN của cơ quan, đơn vị và của Đảng và nhà nước trong tình hình hiện nay.
Hai là, thông qua hoạt động giám sát thường xuyên và giám sát chuyên đề đối
với tổ chức đảng và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong các cơ quan hành chính
nhà nước cấp trung ương để chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng.
Giám sát của Đảng gồm có giám sát thường xuyên và giám sát chuyên đề.
Trong đó, giám sát thường xuyên gồm có giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp; giám
sát chuyên đề là giám sát trực tiếp theo chuyên đề.
Nội dung thực hiện giám sát đối với tổ chức đảng: việc chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn thuộc lĩnh vực phụ trách và những nội dung do cấp ủy giao.
Nội dung thực hiện giám sát đối với đảng viên: việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
Việc tiến hành giám sát theo cả hai hình thức là giám sát thường xuyên và giám
sát chuyên đề, giám sát trực tiếp, giám tiếp trong đó giám sát thường xuyên và gián tiếp
là chủ yếu.
50
- Đối với giám sát thường xuyên:
+ Thông báo cho đối tượng giám sát biết thành viên UBKT (phụ trách) cán bộ
cơ quan UBKT được phân công theo dõi địa bàn, lĩnh vực công tác được phân công
thực hiện nhiệm vụ giám sát tại tổ chức đảng để biết.
+ Thực hiện giám sát thường xuyên chủ yếu bằng giám sát gián tiếp thông qua
báo cáo của tổ chức đảng, đảng viên, thông tin từ cán bộ, đảng viên, quần chúng,
phương tiện báo chí, truyền thông và giám sát trực tiếp thông qua dự các cuộc họp của
cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới để nắm tình hình, theo dõi, quan
sát đối với tổ chức đảng và đảng viên theo thẩm quyền.
- Đối với giám sát trực tiếp:
+ Thành viên UBKT được dự các cuộc họp thường kỳ, đột xuất của cấp ủy cùng
cấp (trừ cuộc họp có nội dung cần bàn riêng).
+ Ủy ban Kiểm tra cử thành viên UBKT và cán bộ thường xuyên theo dõi địa
bàn, lĩnh vực công tác và thông báo cho tổ chức đảng được phân công theo dõi biết.
Các đồng chí này được dự các cuộc họp, hội nghị thường kỳ, đột xuất của cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy cấp dưới và các tổ chức đảng trực thuộc cấp ủy
cùng cấp, nơi được phân công theo dõi; dự các hội nghị của tổ chức đảng cấp dưới trực
thuộc tổ chức đảng được phân công phụ trách hoặc theo khi cần thiết.
+ Thành viên UBKT và kiểm tra viên, chuyên viên cơ quan UBKT tham gia các
đoàn công tác của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, các ban xây dựng Đảng của cấp ủy
cùng cấp; dự các cuộc họp khi được mời.
+ Các đồng chí thành viên UBKT gặp gỡ, trao đổi đối với đối tượng giám sát.
+ Trực tiếp xuống đôn đốc, nhắc nhở, theo dõi đối tượng kiểm tra chấp hành kết
luận kiểm tra, quyết định của tổ chức đảng cấp trên; chấp hành thông báo kết quả giám
sát sau khi đối tượng được giám sát.
- Đối với giám sát gián tiếp:
+ Nghiên cứu các văn bản, báo cáo, các thông báo kết luận về các cuộc kiểm
tra, giám sát; kết quả tự phê bình và phê bình, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, tổ hức đảng cấp dưới và đảng viên.
+ Ý kiến trao đổi, phẩn ánh, báo cáo kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều
tra, giám sát của các tổ chức nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội; phản ánh
của các phương tiện thông tin đại chúng.
51
+ Xem xét đơn tố cáo, phản ánh, kiến nghị của đảng viên và quần chúng; khiếu
nại của tổ chức, cá nhân đối với tổ chức đảng và đảng viên.
- Đối với giám sát chuyên đề: Thực hiện việc giám sát theo các chuyên đề cụ
thể, trên cơ sở thành lập các đoàn giám sát của cấp ủy và UBKT cấp ủy, tập trung nội
dung, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực.
Thứ hai, thông qua hoạt động công tác kiểm tra của Đảng thực hiện các biện pháp
phát hiện, xử lý tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
Một là, thực hiện các biện pháp phát hiện vi phạm tham nhũng trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua hoạt động công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng.
* Thông qua việc tiếp nhận và xử lý đơn thư phản ánh, tố cáo về tham nhũng
theo thẩm quyền; các kênh thông tin, phản ánh, kiến nghị qua báo chí và dư luận xã
hội phục vụ cho việc phát hiện tham nhũng.
- Tố cáo là một trong những quyền và trách nhiệm cơ bản của công dân được
ghi trong Hiến pháp của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và trong Luật khiếu nại, tố
cáo. Nội bộ Đảng cũng quy định việc tố cáo và trách nhiệm giải quyết tố cáo đối với tổ
chức đảng và đảng viên. Việc phát huy vai trò và trách nhiệm của nhân dân tham gia
thực hiện quyền và nghĩa vụ tố cáo góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống
chính trị, trong đó có tố cáo tham nhũng là rất cần thiết.
- Giải quyết tố cáo trong Đảng là việc chủ thể kiểm tra tiến hành kiểm tra, làm
rõ đúng, sai về những nội dung tố cáo đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên để xem xét,
kết luận và xử lý.
- Về nội dung giải quyết tố cáo:
+ Đối với tổ chức đảng: những nội dung liên quan đến việc chấp hành Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Đảng; đoàn kết nội bộ.
+ Đối với đảng viên: những nội dung liên quan đến tiêu chuẩn đảng viên, tiêu
chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên (quy định tại Điều 1,
Điều 2, Điều 12, Điều lệ Đảng) việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận của Đảng; về nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng, thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và phẩm chất, đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
52
+ Trường hợp UBKT chưa đủ điều kiện xem xét thì kiến nghị cấp ủy hoặc phối
hợp hay yêu cầu tổ chức đảng ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
- Về đối tượng tố cáo phải giải quyết đối với đảng viên:
Tập trung giải quyết các tố cáo cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy
cùng cấp quản lý; người làm công tác nhân sự của cấp ủy cấp mình.
Đối tượng bị tố cáo là cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý thì UBKT cấp
trên chủ trì giải quyết, có sự phối hợp của UBKT cấp dưới.
Trường hợp đối tượng bị tố cáo là cán bộ do cấp ủy cấp dưới quản lý nhưng khi
bổ nhiệm hoặc bầu cử phải có ý kiến của các ban đảng có liên quan của cấp ủy cấp trên
thì do UBKT cấp dưới chủ trì giải quyết, nhưng phải báo cáo để có sự chỉ đạo hoặc
phối hợp của UBKT cấp trên.
Đối với tố cáo đảng viên khác thì căn cứ phân cấp quản lý cán bộ của cấp ủy để
chuyển đến cấp ủy, tổ chức đảng hoặc UBKT cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
- Về đối tượng tố cáo phải giải quyết đối với tổ chức đảng:
Tập trung giải quyết tố cáo đối với tổ hức đảng cấp dưới trực tiếp. Nếu tố cáo tổ
chức đảng cấp dưới cách nhiều cấp thì chuyển tổ chức đảng cấp dưới có thẩm quyền
xem xét, giải quyết.
Đối với tố cáo cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy hoặc thường trực cấp ủy cùng cấp
và cấp trên, UBKT không có thẩm quyền xem xét, giải quyết; khi nhận được tố cáo
này, UBKT phải kịp thời chuyển cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy hoặc UBKT cấp trên có
thẩm quyền xem xét, giải quyết.
- Đối với những trường hợp không xem xét, giải quyết:
+ Những trường hợp có liên quan đến lịch sử chính trị hoặc hoạt động chính
trị hiện hành của đảng viên thì chuyển cơ quan chức năng có thẩm quyền xem xét,
giải quyết.
+ Đơn tố cáo giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ và đơn tố cáo có tên đã được
cấp có thẩm quyền (do Điều lệ Đảng và Luật tố cáo quy định) xem xét, kết luận, nay tố
cáo lại nhưng không có thêm tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi bản chất vụ việc; đơn
tố cáo có tên nhưng nội dung không cụ thể, không có căn cứ để thẩm tra, xác minh;
đơn tố cáo có tên, nhưng trong nội dung của đơn không chứa đựng, phản ánh nôi dung
tố cáo đối với đảng viên, tổ chức đảng; đơn tố cáo không phải bản do người tố cáo trực
tiếp ký tên; đơn tố cáo có từ hai người trở lên cùng ký tên; đơn tố cáo của người không
có năng lực hành vi dân sự.
53
+ Trường hợp người bị tố cáo đang mắc bệnh hiểm nghèo, không có khả năng
phục hồi sức khỏe thì cũng không xem xét, giải quyết.
* Thông qua hoạt động kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu
vi phạm về tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tập trung vào tổ chức đảng và đảng viên là
cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý và các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra tham nhũng hoặc
có nhiều dư luận bức xúc.
- Phát hiện dấu hiệu vi phạm là việc tổ chức, cá nhân bằng hình thức, trách
nhiệm của mình tiến hành nhận diện, phân tích, tìm ra những thông tin, tài liệu, hiện
vật cho thấy tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên đó không tuân theo, không làm hoặc
làm trái một hoặc một số điều quy định của Đảng, Nhà nước, MTTQ và các tổ chức
chính trị - xã hội.
- Xác định dấu hiệu vi phạm là việc tổ chức đảng tiến hành phân tích, đánh giá
dấu hiệu vi phạm, để đưa ra quyết định có kiểm tra hay
- Việc phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp dưới được
thực hiện thông qua: công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra
của cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức kinh tế. Báo cáo, kiến nghị của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới. Tố cáo, khiếu nại,
phản ánh, kiến nghị của đảng viên và quần chúng. Tự phê bình và phê bình của tổ chức
đảng và đảng viên; chất vấn của đảng viên; việc bình xét, phân tích chất lượng đảng
viên, tổ chức đảng.
- Việc phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm của đảng viên được thực hiện thông
qua: công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra của cấp ủy, tổ
chức đảng, tổ chức nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế và
giám sát của nhân dân. Tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng và đảng viên; việc
bình xét, phân tích chất lượng đảng viên, tổ chức đảng. Tố cáo, khiếu nại, phản ánh,
kiến nghị của đảng viên và quần chúng. Phản ánh của các phương tiện thông tin đại
chúng đã được kiểm chứng.
- Về nội dung kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng:
+ Việc chấp hành cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết,
chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Việc thực hiện cac nguyên tắc của Đảng.
+ Việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm,
tiêu cực.
54
+ Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên.
+ Việt tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bồi dưỡng, đánh
giá, bố trí, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ.
- Về nội dung kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với đảng viên:
+ Việc chấp hành cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết,
chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc
biệt là việc tuân thủ các văn bản pháp quy trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng cơ
quan, đơn vị.
+ Việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
+ Việc chấp hành quy chế làm việc.
+ Việc giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống, đoàn kết thống
nhất nội bộ.
+ Việc thực hiện quy định về nêu gương và quy định về những điều đảng viên
không được làm.
Hai là, xử lý hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo quy định của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Việc xử lý cán bộ, đảng viên khi có hành vi tham nhũng thông qua công tác
kiểm tra của Đảng được thực hiện theo quy định về thi hành kỷ luật của Đảng gồm các
nội dung sau:
* Về kỷ luật nội bộ Đảng:
- Cương lĩnh chính trị của Đảng định hướng về đường lối, quan điểm, chính
sách, hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng. Mọi tổ chức đảng và đảng viên
phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị của Đảng.
- Điều lệ Đảng là “bộ luật” chung của toàn Đảng, quy định mục đích của Đảng;
các nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng; nguyên tắc tổ chức và hệ thống tổ chức của
Đảng; nhiệm vụ quyền hạn của các tổ chức đảng và đảng viên; sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội; việc khen thưởng và kỷ
luật đảng...Toàn bộ công tác lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng phải được
tiến hành trên cơ sở các quy định của Điều lệ Đảng. Vi phạm Điều lệ Đảng là vi phạm
kỷ luật đảng.
- Nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận của tổ chức đảng.
Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm nghị quyết, chỉ thị, quy định,
55
quy chế, quyết định, kết luận, hướng dẫn của Đảng; vi phạm trong việc chấp hành nghị
quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quyết định, kết luận hướng dẫn của Đảng là vi phạm
kỷ luật đảng.
* Về kỷ luật Nhà nước:
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đường lối, quan điểm, chính sách, nghị
quyết, chỉ thị của Đảng được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, nghị định, quyết
định...của Nhà nước. Do vậy mọi tổ chức đảng và đảng viên cũng phải hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng viên vi phạm Hiến pháp và pháp luật là vi
phạm kỷ luật đảng, phải được xem xét kỷ luật về Nhà nước, chính quyền.
* Các hình thức kỷ luật đảng:
Theo Mục 2, Điều 35, Điều lệ Đảng: “Khiển trách, cảnh cáo, giải tán nếu là tổ
chức; Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ nếu là đảng viên chính thức; Khiển
trách, cảnh cáo nếu là đảng viên dự bị: Phê bình sâu sắc; nghiêm khắc kiểm điểm, rút
kinh nghiệm; xóa tên trong danh sách đảng viên; chấp nhận đơn xin ra khỏi Đảng; cho
thôi giữ chức, miễn nhiệm...không phải là hình thức kỷ luật đối với đảng viên. Giải thể
không phải là hình thức kỷ luật đối với tổ chức đảng”.
Trên cơ sở quy định về kỷ luật đảng và kỷ luật của Nhà nước, các tổ chức đảng
và cá nhân đảng viên khi vi phạm hành vi tham nhũng được thực hiện hình thức kỷ luật
của Đảng và Nhà nước, trong đó một số hành vi vi phạm về tham nhũng cơ bản sau:
+ Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, chiếm đoạt tài sản.
+ Nhũng nhiễu, lạm quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
+ Nhận hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn
để giải quyết công việc của cơ quan vì vụ lợi.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản Nhà nước hoặc bao
che cho người có hành vi vi phạm pháp luật hoặc cản trở, can thiệp trái pháp luật vào
việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án với động cơ
vụ lợi.
Các hành vi trên ngoài việc xử lý kỷ luật về Nhà nước (kể cả việc xử lý hình sự)
cần tiến hành xử lý vi phạm tham nhũng theo quy định của Đảng theo nội dung sau:
+ Xử lý kỷ luật hoặc đề nghị cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, xử
lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm theo thẩm quyền.
56
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật về chính
quyền đối với đảng viên có hành vi tham nhũng chưa đến mức xử lý hình sự.
+ Xử lý hoặc kiến nghị xử lý về trách nhiệm người đứng đầu và cấp phó của
người đứng đầu tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trong việc để xảy ra tham nhũng hoặc
bao che cho tham nhũng.
+ Chuyển cơ quan tư pháp vụ việc tham nhũng để xử lý và yêu cầu các cơ
quan này thông báo kết quả giải quyết cho cấp ủy, UBKT biết để xem xét, xử lý kỷ luật
về Đảng theo thẩm quyền.
2.2.2. Phƣơng thức phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành
chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công tác kiểm tra của Đảng
2.2.2.1. Các phƣơng thức cơ bản trong thực hiện công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng
Thứ nhất, phương thức dựa vào tổ chức đảng và đảng viên
- Đây là phương thức cơ bản vừa là vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác
xây dựng Đảng nói chung.
Cán bộ, đảng viên là thành viên của các tổ chức đảng vừa có vai trò là người
lãnh đạo và chịu sự lãnh đạo, quản lý, giáo dục của tổ chức đảng, là lực lượng tiến
hành các mặt công tác xây dựng đảng cũng như thực hiện nhiệm vụ chính trị, nắm bặt
được tình hình công tác, tình hình nội bộ đảng, đấu tranh phê bình và tự phê bình để
xây dựng Đảng...và là chủ thể chủ yếu trong việc kiểm tra, giám sát và tự kiểm tra
của Đảng.
- Có dựa vào tổ chức đảng và đảng viên, chủ thể kiểm tra, giám sát mới hiểu rõ
đặc điểm tình hình, điều kiện, hoàn cảnh, khó khăn, thuận lợi, ưu điểm, khuyết điểm
trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng kiểm tra, giám sát để có
cơ sở nhận xét, đánh giá, xem xét, kết luận một cách chính xác.
- Dựa vào tổ chức đảng và đảng viên vừa là phương pháp cơ bản của công tác
kiểm tra, giám sát vừa là vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng,
nhưng tùy vào tình hình cụ thể của tổ chức đảng để có cách vận dụng cho phù hợp.
Trường hợp cần thiết, có thể kiện toàn tổ chức trước khi tiến hành kiểm tra.
Thứ hai, phương thức phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Đảng viên của Đảng bao
57
gồm những người tiên tiến giác ngộ lý tưởng, giai cấp, tự nguyện đứng trong hàng ngũ
của Đảng; là những chiến sỹ cách mạng phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng; đó
là cơ sở để tổ chức đảng và đảng viên tự giác chấp hành Điều lệ Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ được giao; tự giác tự chịu sự kiểm tra, giám sát
của tổ chức đảng có thẩm quyền.
- Tự giác là một quá trình phụ thuộc vào sự phấn đấu, thử thách khác nhau. Tự
giác là tính Đảng của tổ chức đảng và đảng viên, mức độ tự giác của mỗi tổ chức đảng
và đảng viên khác nhau do điều kiện trưởng thành, công tác, thử thách, tu dưỡng, rèn
luyện có khác nhau; do vậy vị trí, vai trò, nhận hức, trách nhiệm của mỗi tổ chức đảng
và đảng viên cũng khác nhau. Đối với những trường hợp quanh co, giấu giếm sai lầm,
khuyết điểm, vi phạm cần kiên trì động viên, thuyết phục, kết hợp với đấu tranh phê
bình và công tác thâm tra, các minh để làm rõ đúng sai, giúp việc kết luận và xử lý
được chuẩn xác.
Thứ ba, phương thức phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tư tưởng
“lấy dân làm gốc” phải được quán triệt trong công tác xây dựng Đảng, một trong
những phương châm xây dựng Đảng là tổ chức, động viên quần chúng tham gia xây
dựng Đảng, góp phần kiểm tra, giám sát hoạt động cua tổ chức đảng và đảng viên.
- Quần chúng là nơi nhận biết mọi hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên.
Mọi hoạt động của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên luân được quần chúng quan tâm,
nhận biết và giám sát, kiểm tra. Thực tiễn đã chứng minh có nhiều vụ việc tiêu cực xảy
ra trong nội bộ Đảng là do quần chúng phát hiện và phản ánh với tổ hức đảng có thẩm
quyền. Vì vậy tiến hành công tác kiểm tra, giám sát phải coi trọng việc phát huy tinh
thần trách nhiệm của quần chúng.
- Do vậy phải có phương pháp đúng đắn trong việc phát huy trách nhiệm xây
dụng Đảng của quần chúng. Việc lấy ý kiến quần chúng góp ý, phê bình tổ chức đảng
và đảng viên được kiểm tra, giám sát phải có tổ chức, có lãnh dạo và tùy theo yêu cầu,
nội dung, đối tượng mà xác định phạm vi, phương thức cho phù hợp. Những ý kiến
quần chúng đóng góp đúng phải trân trọng tiếp thu, khuyến khích, cổ vũ; nếu có ý kiến
chưa đúng phải giải thích để quần chúng hiểu rõ, tạo sự đoàn kết, thống nhất giữa tổ
chức đảng, đảng viên với quần chúng.
58
Thứ tư, phương thức thẩm tra, xác minh trong công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng
- Yêu cầu cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát là làm rõ đúng, sai, phải, trái.
Đánh giá kết luận đúng ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) của tổ chức đảng và
đảng viên được kiểm tra, giám sát để có quyết định chính xác. Thực tiễn cho thấy có
nhiều tổ chức đảng và đảng viên khi được kiểm tra, giám sát đã tự giác trình bày
nghiêm túc trước tổ chức đảng có thẩm quyền cả về ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm
của bản thân và tổ chức mình, nhưng cũng không ít tổ chức đảng và đảng viên quanh
co, giấu giếm, thậm chí tìm mọi cách đối phó, gây khó khăn, trở ngại đối với công tác
kiểm tra, giám sát.
- Thực hiện tốt công tác thẩm tra, xác minh là thực hiện tốt mối quan hệ giữa tự
giác và bắt buộc trong công tác xây dựng Đảng, giữ gìn kỷ luật của Đảng và công tác
kiểm tra, giám sát.
- Chưa thẩm tra, xác minh thì chưa kết luận. Thực tế cho thấy, tổ chức đảng
quản lý đảng viên và tổ chức được kiểm tra, giám sát có nơi thiếu tự giác, còn hữu
khuynh, né tránh, thiếu tính chiến đấu, mọi hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên
bao giờ cũng diễn ra trong không gian, thời gian, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể, với
những diễn biến, tình tiết khác nhau; nhiều khi liên quan đến nhiều tổ chức, nhiều
người, nhiều cấp, ngành khác nhau; có việc còn giữ nguyên bằng chứng, có việc bằng
chứng đã thất lạc hoặc bị thay đổi, làm giả... Do đó đòi hỏi công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng phải coi trọng và làm tốt công tác thẩm tra, xác minh để giúp cho việc xem
xét, kết luận và xử lý được chính xác.
Thứ năm, phương thức phối hợp với các tổ chức đảng, đoàn thể chính trị - xã
hội, cơ quan chức năng có liên quan để kiểm tra, giám sát
- Một trong những phương thức cơ bản của công tác kiểm tra, giám sát là phối
hợp chặt chẽ với công tác thanh tra, kiểm toán, thanh tra nhân dân, công tác kiểm tra
của các đoàn thể chính trị - xã hội và phối hợp với các ngành chức năng có liên quan
khác. Do điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền, đảng viên vừa là thành viên của Đảng
vừa là công dân và thành viên của các đoàn thể chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo. Do
vậy đảng viên vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước, vi phạm kỷ luaaatj của các
đoàn thể chính trị - xã hội cũng là vi phạm kỷ luật của Đảng.
- Sự phối hợp công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm
toán và kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội và các ngành chức năng có liên
59
quan là tất yếu. Để công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phối hợp chặt chẽ với công tác
thanh tra, kiểm toán và kiểm tra của các đoàn thể chính trị - xã hội, phối hợp giữa
UBKT cấp ủy với các cơ quan chức năng bảo vệ pháp luật vừa bảo đảm điều kiện căn
cứ xem xét, kết luận khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, vừa bảo
đảm tính thống nhất trong xem xét xử lý khuyết điểm, vi phạm của cán bộ, đảng viên,
công chức, không chồng chéo, trùng lắp hoặc sơ hở bảo đảm công tác kiểm tra, giám
sát đối với tổ chức đảng và đảng viên kịp thời chính xác.
2.2.2.2. Các phƣơng thức cụ thể đối với các hoạt động trong kiểm tra, giám
sát của Đảng
Một là, đối với thực hiện giám sát thường xuyên và giám sát chuyên đề của cấp
ủy, UBKT cấp ủy:
Hằng năm căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, cấp ủy UBKT cấp ủy xây dựng
chương trình kế hoạch giám sát (chỉ thực hiện đối với giám sát chuyên đề) và thông
báo cho đối tượng giám sát biết, thực hiện theo các bước sau:
Thứ nhất, thực hiện bước chuẩn bị.
- Căn cứ vào chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra, giám sát hàng năm
hoặc nhiệm vụ giao, cán bộ địa bàn được phân công theo dõi địa bàn, lĩnh vực đề xuất
với thanhfvieen ủy ban phụ trách về kế hoạch giám sát và dự kiến thành phần đoàn
giám sát.
- Vụ trưởng hoặc trưởng phòng, cán bộ theo dõi địa bàn trình thường trực ủy
ban ký quyết định thành lập đoàn giám sát và duyệt kế hoạch giám sát đối với tổ chức
đảng và đảng viên.
- Đoàn giám sát phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong đoàn, xây dựng
lịch giám sát, dự thảo đề cương gợi ý báo cáo về nội dung giám sát, chuẩn bị các văn
bản, tài liệu để phục vụ việc giám sát.
Thứ hai, thực hiện bước tiến hành.
- Đoàn giám sát làm việc với đại diện tổ chức đảng hoặc đảng viên được giám
sát để triển khai quyết định, kế hoạch giám sát. Nhận báo cáo của tổ chức đảng, đảng
viên được giám sát và các văn bản, tài liệu liên quan.
- Đoàn giám sát nghiên cứu, xem xét những thông tin, hồ sơ, tài liệu, văn bản có
liên quan đến nội dung, đối tượng giám sát; làm việc với tổ chức đảng, cá nhân có liên
quan (nếu cần); xây dựng dự thảo báo cáo kết quả giám sát; được thẩm tra, xác minh
khi cần thiết.
60
- Tổ chức đảng được giám sát hoặc tổ chức đảng có đảng viên được giám sát tổ
chức hội nghị để đại diện tổ chức đảng, đảng viên được giám sát trình bày ý kiến; đoàn
giám sát trình bày dự thảo báo cáo kết quả giám sát; hội nghị thảo luận.
- Đoàn giám sát tham khảo ý kiến của vụ trưởng, trưởng phòng hoặc cán bộ địa
bàn được phân công theo dõi nơi giám sát; hoàn chỉnh báo cáo giám sát.
Thứ ba, thực hiện bước kết thúc.
- Đoàn giám sát báo cáo UBKT về kết quả giám sát; phối hợp với đơn vị có liên
quan hoàn chỉnh thông báo kết quả giám sát trình thường trực UBKT ký ban hành.
- Đại diện UBKT thông báo kết quả giám sát bằng văn bản đến tổ chức đảng,
đảng viên được giám sát và tổ chức cá nhân có liên quan.
- Qua xem xét kết quả giám sát, nếu thấy phát hiện tổ chức đảng, đảng viên
được giám sát có dấu hiệu vi phạm thì thường trực UBKT xem xét, quyết định tiến
hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
- Đoàn giám sát lập, hoàn chỉnh hồ sở cuộc giám sát theo chuyên đề.
Hai là, đối với thực hiện kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng
và đảng viên
Thứ nhất, thực hiện bước chuẩn bị.
* Tiến hành nắm tình hình, phát hiện, xác định dấu hiệu vi phạm, gồm các nội
dung sau:
+ Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, thanh tra, điều tra, kiểm toán của cấp ủy,
tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế
và giám sát của nhân dân (đối với kiểm tra đảng viên).
+ Báo cáo, kiến nghị của cấp ủy, tổ chức đảngcấp dưới (đối với kiểm tra tổ
chức đảng).
+ Tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng và đảng viên; việc bình xét, phân
tích chất lượng đảng viên, tổ chức đảng; chất vân của đảng viên (đối với kiểm tra tổ
chức đảng).
+ Tố cáo, khiếu nại, phản ánh, kiến nghị của đảng viên và quần chúng.
+ Phản ánh của các thông tin đại chúng đã được kiểm chứng (đối với kiểm tra
đảng viên).
Từ nguồn thông tin đã phát hiện, thu thập được tiến hành phân tích, đối chiếu
với các quy định để xác định dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên.
61
* Quyết định kiểm tra, gồm các nội dung thực hiện sau:
- Trên cơ sở dấu hiệu vi phạm được xác định đơn vị hoặc cá nhân báo cáo cấp
có thẩm quyền về lựa chon, quyết định kiểm tra: Nội dung, đối tượng kiểm tra; thành
lập đoàn kiểm tra; chỉ đạo xây dựng và duyệt kế hoạch kiểm tra.
- Đoàn kiểm tra thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Xây dựng kế hoạch, nội quy, phân công nhiệm vụ kiểm tra, xác định rõ mục
đích, yêu cầu, thời gian, mốc thời điểm kiểm tra, phương pháp tiến hành; xây dựng lịch
trình thực hiện từng nội dung theo mục đích, yêu cầu kiểm tra.
Thứ hai, thực hiện bước tiến hành.
* Triển khai kiểm tra gồm các nội dung thực hiện:
- Thông báo quyết định kiểm tra, kế hoạch kiểm tra; thống nhất lịch trình tiến
hành và đề cương gợi ý cho tổ chức đảng, đảng viên được kiểm tra chuẩn bị báo cáo
giải trình các nội dung kiểm tra bằng văn bản.
- Yên cầu tổ chức đảng, đảng viên được kiểm tra cung cấp những văn bản, tài
liệu cần thiết có liên quan đến cuộc kiểm tra.
* Tiến hành thẩm tra, xác minh, gồm các nội dung thực hiện:
- Đoàn kiểm tra làm việc với tổ chức đảng, cá nhân có liên quan để thẩm tra,
xác minh và thu thập thông tin, văn bản, tài liệu, chứng cứ liên quan đến nội dung
kiểm tra.
- Nhận và nghiên cứu báo cáo giải trình của tổ chức đảng và đảng viên được
kiểm tra, nghiên cứu và đề nghị bổ sung hoặc làm rõ trong báo cáo giải trình.
- Qua thẩm tra, xác minh, nếu cần giám định chuyên môn thì trưởng đoàn kiểm
tra quyết định. Trường hợp cần bổ sung nội dung kiểm tra thì thành viên ủy ban phụ
trách kiểm tra hoặc trưởng đoàn báo cáo thường trục ủy ban xem xét, quyết định.
* Tổ chức hội nghị các tổ chức đảng có liên quan (do các tổ chức đảng chủ trì
và ghi biên bản) gồm các nội dung thực hiện sau:
- Đối với kiểm tra tổ chức đảng:
+ Về nội dung: Đoàn kiểm tra thông báo kết quả thẩm tra, xác minh các nội
dung kiểm tra bằng văn bản; hội nghị thảo luận, đóng góp ý kiến làm rõ ưu điểm,
khuyết điểm, vi phạm (nếu có) nhận xét và đề nghị.
+ Về thành phần hội nghị: thành viên ủy viên phụ trách đoàn kiểm tra, đoàn
kiểm tra, thành viên của các tổ chức đảng được kiểm tra.
62
- Đối với kiểm tra đảng viên:
+ Về nội dung: Đoàn kiểm tra thông báo kết quả thẩm tra, xác minh các nội
dung kiểm tra bằng văn bản; hội nghị thảo luận, đóng góp ý kiến làm rõ ưu điểm,
khuyết điểm, vi phạm (nếu có) nhận xét và đề nghị.
+ Về thành phần hội nghị: đoàn kiểm tra, đại diện cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên.
* Đoàn kiểm tra hoàn chỉnh báo cáo kết qủa kiển tra
Báo cáo kết quả kiểm tra theo mẫu quy định, sau khi hoàn thành đoàn kiểm tra
trao đổi với tập thể lãnh đạo vụ, đơn vị theo dõi đại bàn, lĩnh vực để bỏ sung vào báo
cáo. Trường hợp có vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật theo quy trình kép thì đại
diện UBKT nghe đại diện tổ chức đảng, đảng viên được kiểm tra trình bày ý kiến trước
khi trình UBKT xem xét, quyết định.
Thứ ba, thực hiện bước kết thúc:
* Ủy ban Kiểm tra xem xét, kết luận:
- Đoàn kiểm tra báo cáo kết quả kiểm tra; trình bày đầy đủ ý kiến của tổ chức
đảng, đảng viên được kiểm tra và tổ chức đảng có liên quan.
- Trường hợp tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật
đảng thì mời đại diện tổ chức đảng, đảng viên vi phạm dự họp để đọc kiểm điểm, tự
nhận hình thức kỷ luật.
- Tập thể UBKT thảo luận kết luận về nội dung kiểm tra; đề nghị tổ chức đảng
có thẩm quyền quyết định kỷ luật đối với tổ chức đảng và quyết định hoặc đề nghị cấp
trên quyết định thi hành kỷ luật (nếu có).
* Hoàn chỉnh thông báo kết luận kiểm tra và các văn bản khác, thông báo kết
luận kiểm tra, lưu trữ hồ sơ:
- Đoàn kiểm tra phối hợp với các đơn vị liên quan hoàn chỉnh thông báo kết
luận kiểm tra, quyết định kỷ luật hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền kỷ luật.
- Đại diện UBKT và trưởng đoàn kiểm tra thông báo kết luận kiểm tra và công
bố quyết định kỷ luật (nếu có) đến tổ chức đảng, đảng viên được kiểm tra.
- Đoàn kiểm tra lập và nộp hồ sơ lưu trữ theo quy định.
Ba là, phương thức thực hiện giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và
đảng viên.
Thứ nhất, thực hiện bước chuẩn bị.
- Căn cứ vào đơn tố cáo và kết quả làm việc với người tố cáo hoặc nhiệm vụ do
thường trực UBKT giao, vụ trưởng hoặc trưởng phòng, cán bộ kiểm tra báo cáo thành
63
viên UBKT phụ trách trước khi trình thường trực UBKT về kế hoạch kiểm tra, thành
phần đoàn (tổ) giải quyết tố cáo (gọi chung là đoàn kiểm tra).
+ Nghiên cứu đơn tố cáo hoặc biên bản làm việc ghi lời tố cáo trực tiếp để nắm
vững nội dung, đối tượng tố cáo, báo cáo thường trực UBKT, khi được đồng ý tiến
hành khảo sát nắm tình hình, gặp người tố cáo để xác định danh tính người ký trong
dơn tố cáo, thống nhất nội dung tố cáo, thông báo về quyền và nghĩa vụ của người
tố cáo...
+ Nếu người tố cáo là đảng viên thì yêu cầu họ phải thực hiện đúng những quy
định của Đảng. Gặp đại diện cấp ủy quản lý trực tiếp tổ chức đảng hoặc đang viên bị tố
cáo; khi cần thiết phải gặp cả đại diện tổ chức đảng hoặc đảng viên bị tố cáo để thu
thập nững thông tin về nội dung, đối tượng bị tố cáo, trao đổi, dự kiến kế hoạch kiểm
tra và đoàn kiểm tra.
+ Kế hoạch kiểm tra phải xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, đối tượng bị
tố cáo, dự kiến những vấn đề cần thẩm tra, xác minh, sự phối hợp với các cơ quan liên
quan, thời gian hoàn thành và phương pháp tiến hành...
- Vụ trưởng (trưởng phòng) hoặc cán bộ kiểm tr báo cáo với chủ nhiệm hoặc
phó chủ nhiệm thường trực UBKT kết quả trao dổi với đại diện tổ chức đảng quản lý
trực tiếp tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo đẻ thường trực UBKT xem xét, ban hành
quyết định kiểm tra và kế hoạch kiểm tra, nội dung gợi ý báo cáo giải trình để đối
tượng bị tố cáo (tổ chức đảng hoặc đảng viên) giải trình bằng văn bản.
- Đoàn kiểm tra xây dựng lịch trình kiểm tra, phân công nhiệm vụ cho từng
thành viên.
Thứ hai, thực hiện bước tiến hành.
- Đoàn kiểm tra làm việc với đại diện tổ chức đảng, đảng viên bị tố cáo và tổ
chức đảng quản lý trực tiếp đối tượng bị tố cáo để triển khai quyết định, kế hoqchj
kiểm tra; thống nhất lịch trình tiến hành; yêu cầu đối tượng bị tố cáo chuẩn bị báo cáo
giải trình về các nội dung tố cáo bằng văn bản và thời hạn gửi báo cáo cho đoàn kiểm
tra; yêu cầu đối tượng bị tố cáo và tổ chức đảng quản lý trực tiếp đảng viên bị tố cáo
(trường hợp đảng viên bị tố cáo) cung cấp tài liệu và phối hợp giải quyết.
- Đoàn kiểm tra tiến hành thẩm tra, xác minh: nghiên cứu báo cáo giải trình của
dối tượng bị tố cáo; thu thập, nghiên cứu văn bản, tài liệu, chứng cứu; làm việc với
người tố cáo và các tổ chức, cá nhân liên quan.
64
- Tổ chức hội nghị: Các tổ chức đảng có liện quan tổ chức và chủ tì hội nghị
(hội nghị của cáp ủy, tổ chức đảng nào thì cấp ủy, tổ chức đảng đó tổ chức, chủ tì, ghi
biên bản).
- Giải quyết tố cáo đổi với đảng viên: Đảng viên bị tố cáo báo cáo giải trình,
ự nhận hình thức kỷ luật (nếu có) đoàn kiểm tra thông báo kết quả thẩm tra, xác
minh bằng văn bản, hội nghị thảo luận và đề nghị; bỏ phiếu đề nghị hình thức kỷ
luật (nếu có).
- Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng: tổ chức đảng báo cáo giải trình theo
nội dung tố cáo, tự nhận hình thức kỷ luật (nếu có) đoàn kiểm tra thông báo kết quả
thẩm tra, xác minh bằng văn bản, hội nghị thảo luận, nhận xét và đề nghị; bỏ phiếu đề
nghị hình thức kỷ luật (nếu có).
- Đoàn kiểm tra tiếp tục thẩm tra, xác minh những nội dung chưa rõ; chuẩn bị
báo cáo kết quả kiểm tra; trao đổi với đại diện tổ chức đảng trực tiếp quản lý đảng viên
bị tố cáo và đảng viên tố cáo về kết quả kiểm tra để làm rõ thêm, nhằm có đủ căn cứ
kết luận.
Báo cáo giải quyết tố cáo phải theo mẫu quy định. Kết luận giải quyế tố cáo
phải chính xác, rõ ràng, nội dung tố cáo đúng hay sai, đối tượng bị tố cáo có hay không
có vi phạm...Báo cáo phải ghi rõ ý kiến khác nhau (nếu có) giữa đoàn kiểm tra với ổ
chức đảng, đảng viên bị tố cáo, với cấp ủy quản lý trực tiếp tổ chức đảng, đảng viên bị
tố cáo, với cấp ủy quản lý trực tiếp tổ hức đảng hoặc đảng viên bị tố cáo về kết quả giải
quyết tố cáo.
Trường hợp có vi phạm đến mức phải thực hiện xử lý kỷ luật thì đại diện UBKT
gặp để nghe đại diện tổ chức đảng bị tố cáo, đảng viên bị tố cáo, đảng viên có liên quan
trình bày ý kiến trước khi trình UBKT xem xét, quyết định.
Thứ ba, thực hiện bước kết thúc.
- Ủy ban kiểm tra xem xét. Kết luận:
+ Đoàn kiểm tra trình bày báo cáo kết quả giải quyết đơn tố cáo, trình bày đầy
đủ ý kiến của tổ chức đảng bị tố cáo, đảng viên bị tố cáo, tổ chức đảng và đảng viên có
liên quan.
+ Trường hợp có vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì mời đại diện tổ
chức đảng, đảng viên vi phạm dự họp để đọc kiểm điểm, tự nhận hình thức kỷ luật.
65
- Đoàn kiểm tra phối hợp với vụ (phòng) có liên quan hoàn chỉnh thông báo kết
luận giải quyết tố cáo, quyết định ky luật hoặc bó cáo đề nghị cấp trên thi hành kỷ luật
và những yêu cầu khác (nếu có).
- Trưởng đoàn kiểm tra thông báo kết luận giải quyết tố cáo với tổ chức đảng bị tố
cáo, đảng viên bị tố cáo hoặc đảng viên vi phạm, công bố quyết định kỷ luật (nếu có).
- Đoàn kiểm tra thông báo cho người tố cáo biết kết quả giải quyết tố cáo bằng
hình thức thích hợp. Đoàn kiểm tra lập hồ sơ và lưu trữ hồ sơ; rút kinh nghiệm về cuộc
kiểm tra.
2.2.3. Mối quan hệ giữa công tác kiểm tra của Đảng với các cơ quan liên
quan trong phòng, chống tham nhũng đối với các cơ quan hành chính nhà nƣớc
cấp trung ƣơng
Thứ nhất, mối quan hệ giữa UBKT Trung ương và Thanh tra Chính phủ, Kiểm
toán Nhà nước.
- Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước và trực tiếp thực hiện công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, PCTN. Nhiệm vụ chủ yếu của Thanh tra Chính phủ là phát hiện sai phạm và kiến
nghị xử lý; phát hiện sở hở trong cơ chế quản lý, chính sách phục vụ công tác quản lý
điều hành của Chính phủ. Vì vậy Thanh tra Chính phủ có chức năng nhiệm vụ quan
trong trong PCTN. Thời gian qua Thanh tra Chính phủ đã góp phần chấn chỉnh công
tác quản lý trên nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước, trong đó góp phần quan trọng trong
công tác PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
- Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính
nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên cơ
sở Luật Kiểm toán nhà nước; có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân
thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý sử dụng ngân sách, tiền và
tài sản nhà nước. Trong những năm qua hoạt động Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện
và ngăn chặn các hành vi tham nhũng, thất thoát, lãng phí, chuyển hồ sơ nhiều vụ có
dấu hiệu vi phạm cho cơ quan điều tra để xem xét, xử lý hình sự; cảnh báo những hạn
chế, thiếu sót và yếu kém, sơ hở, bất cập trong công tác quản lý để các cơ quan, đơn vị
kịp thời khắc phục, phòng ngừa, hoàn thiện kiểm soát nội bộ, nâng cao hiệu quả quản
lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của Nhà nước.
- Thực tế đấu tranh PCTN cho thấy sự phối hợp giữa cơ quan kiểm tra Đảng và
Thanh tra, Kiểm toán nhà nước đã tạo nên một cơ chế đấu tranh PCTN đặc thù có hiệu
66
quả thiết thực.Thông qua tham gia công tác PCTN có hiệu quả sẽ nâng cao vị thế của
công tác kiểm tra của Đảng, Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước tích lũy
được nhiều kinh nghiệm trong phương thức đấu tranh, nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn
luyện đội ngũ ngày càng vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thực hiện nhiệm vụ
chính trị của cơ quan, đơn vị.
Như vậy, công tác kiểm tra của Đảng và Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán
Nhà nước với PCTN có mối quan hệ nhân quả với nhau (nguyên nhân và kết quả). Nếu
thực hiện công tác kiểm tra thì công tác Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước
cũng đỡ khó khăn, phức tạp và tham nhũng được ngăn ngừa và đẩy lùi.
Thứ hai, mối quan hệ giữa UBKT đảng ủy các bộ, với thanh tra bộ, ngành.
Là quan phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ chuyên ngành về công tác kiểm tra,
thanh tra đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chức trách,
nhiệm vụ được giao của tổ chức và cá nhân. Nhất là những nội dung, nhiệm vụ liên
quan đến các lĩnh vực phát sinh sai phạm trong quy định về pháp luật tham nhũng và
quy định của tổ chức đảng, đảng viên.
Các cơ quan thanh tra các bộ, ngành cung cấp những thông tin, chứng cứ về
hành vi vi phạm liên quan đến tham nhũng, đồng thời có thể trao đổi thống nhất trong
nội dung thực hiện hiện công tác thanh tra, kiểm tra trong nội dung lĩnh vực liên quan.
Thứ ba, mối quan hệ giữa công tác kiểm tra Đảng và công tác điều tra, xét xử
trong lĩnh vực tham nhũng.
Mối quan hệ giữa công tác kiểm tra của Đảng với công tác điều tra, xét xử có
liên hệ mật thiết, gắn bó, qua kết quả công tác kiểm tra của Đảng làm căn cứ để các cơ
quan điều tra, xét xử xem xét, bổ sung chứng cứ trong việc điều tra, xét xử. Đồng thời
qua kết quả công tác điều tra, xét xử của cơ quan pháp luật làm căn cứ cho cơ quan
UBKT xem xét, xử lý và thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên, VD: khi
đảng viên vi phạm pháp luật bị hình phạt tù, thì cơ quan kiểm tra căn cứ để khai trừ ra
khỏi đảng đối với đảng viên đó. Trong giai đoạn hiện nay kết quả công tác kiểm tra của
Đảng có những vụ việc "mở đường" cho công tác điều tra, xét xử. Như vậy mối quan
hệ giữa công tác kiểm tra của Đảng và công tác điều tra xét xử là mối quan hệ nhân
quả, góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác của mỗi ngành, lĩnh vực trong
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, VD: kết quả kiểm tra đối với Tập đoàn Dầu khí Quốc
gia Việt Nam vừa qua của UBKT Trung ương, mở ra hướng điều tra, xét xử đối với cá
nhân nguyên là lãnh đạo của Tập đoàn; kết quả kiểm tra đối với Ban Thường vụ Thành
67
ủy Đà Nẵng, mở ra hướng điều tra, xét xử đối với Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ Nhôm);
kết quả kiểm tra đối với Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BIDV); kết quả kiểm tra đối với Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông,
mở ra hướng điều tra, xét xử đối với các cá nhân liên quan.
2.3. ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG TRONG
PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG
2.3.1. Điều kiện chính trị
Yếu tố quan trọng quyết định hiệu lực, hiệu quả của cuộc đấu tranh PCTN trong
bộ máy nhà nước và cả hệ thống chính trị là sự lãnh đạo của Đảng. Điều 4, Hiến pháp
năm 2013 đã xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quan trọng nhất, cơ bản nhất đối với sự nghiệp
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam theo định hướng của Đảng có một số đặc trưng
cơ bản mà hoạt động kiểm tra của Đảng phải nắm vững và tuân theo.
Hoạt động công tác Đảng nói chung và công tác kiểm tra của Đảng nói riêng
phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ. Đó là nội dung chính,
chủ yếu có tính quyết định đối với công tác kiểm tra của Đảng. Như vậy nhiệm vụ
chính trị là nhân tố tác động trực tiếp và có tính quyết định chi phối hoạt động công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay nhiệm vụ trọng tâm của Đảng
lãnh đạo xây dựng phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của Đảng nêu rõ: “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu
quả cuộc đấu tranh PCTN, lãng phí là nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu
dài của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước” [21, tr.145]. Yêu cầu đặt ra cần
phải ngăn chặn, tiến tới xóa bỏ tận gốc tệ nạn tham nhũng, lãng phí, tạo bước chuyển
biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố lòng tin
của nhân dân; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đội ngũ đảng viên,
cán bộ, công chức luôn giữ đúng kỷ cương, liêm chính.
Bên cạnh đó, nhận thức và quyết tâm chính trị của Đảng đối với PCTN trong
các cơ quan nhà nước cấp trung thông qua công tác kiểm tra của Đảng là yếu tố quan
trọng, quyết định đến hiệu quả của công tác kiểm tra. Thể hiện như sau:
Một là, đấu tranh PCTN trong bộ máy nhà nước nói chung và trong các cơ quan
hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng là đấu tranh với hành vi tham nhũng của
68
người có chức vụ, quyền hạn. Do vậy muốn đấu tranh có hiệu quả với những hành vi
tham nhũng cần phải có sự nhận thức đúng đắn về những nguy hại của tham nhũng,
tính cấp bách của cuộc đấu tranh này của cấp ủy, chính quyền và cán bộ, đảng viên
trong các cơ quan hành chính cấp trung ương. Trong đó, cấp ủy, chính quyền đặc biệt
coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực công để ngăn chặn, đẩy lùi
tham nhũng, tiêu cực. Cán bộ, đảng viên được giao quyền cần nhận thức đúng đắn về
quyền lực công để xác định giới hạn những việc làm để không vi phạm hành vi tham
nhũng. Đối với cán bộ, đảng viên chịu sự lãnh đạo, quản lý của người nắm quyền, nhận
thức đúng đắn về hành vi tham nhũng, tiêu cực, từ đó có thái độ đúng đắn trong đáu
tranh với hành vi sai trái đó.
Hai là, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nhà nước là công cụ của Đảng, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quyết tâm chính trị của Đảng là điều kiện tiên quyết trong
đấu tranh PCTN đối với bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà
nước cấp trung ương nói riêng. Quyết tâm chính trị là yếu tố hàng đầu quyết định sự
thành công của công tác PCTN, nhưng không có sự gương mẫu, quyết liệt của người
đứng đầu, sự vào cuộc của cán bộ, đảng viên, công chức, của cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội thì quyết tâm chính trị cũng không thể trở thành hiện thực. Nghị quyết Đại
hội XII của Đảng chỉ rõ: “các cấp ủy đảng, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền và toàn bộ hệ thống chính trị phải kiên quyết PCTN... phải chủ động phòng
ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi
tham nhũng, lãng phí bao che, dung túng tiếp tay cho tham nhũng... ngăn cản việc
chống tham nhũng, lãng phí”.
Thật vậy khi cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy có quyết tâm chính trị cao, có thái
độ kiên quyết PCTN và xử lý nghiêm hành vi tham nhũng thì quyết tâm đó lan tỏa rộng
khắp đến tổ chức đảng, hệ thống chính trị, tạo động lực to lớn thúc đẩy thực hiện công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với PCTN. Có thể nói sự quan tâm của cấp ủy
đảng, nhất là người đứng đầu đến công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của
đảng đối với PCTN là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định, tác động trực tiếp đến
việc PCTN. Trên thực tế hầu hết các đối tượng tham nhũng là cán bộ thuộc diện cấp ủy
quản lý. Nếu cấp ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp thực hiện nhiệm vụ việc kiểm
tra, giám sát PCTN; không can thiệp và tạo điều kiện để UBKT và các cơ quan chức
năng thực hiện nhiệm vụ đấu tranh PCTN theo đúng quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, không phân biệt người có chức vụ cao hay thấp thì công tác kiểm tra, giám
69
sát của nói chung và đối với PCTN nói riêng sẽ có hiệu lực và hiệu quả. Ngược lại, nếu
cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy không quan tâm hoặc thậm chí cản trở, bao che
thì công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của đảng đối với PCTN khó thực
hiện, có khi chỉ là hình thức.
2.3.2. Điều kiện về pháp lý và cơ chế chính sách
Cơ sở pháp lý cho công tác kiểm tra của Đảng nói chung và trong PCTN nói
riêng là các quan điểm, chủ trương, đường lối chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước là chuẩn mực, cơ sở pháp lý cho công tác kiểm tra
của Đảng. Trong đó, Nghị quyết Trung ương 3 Khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với PCTN. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh đấu tranh
PCTN, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp, lâu dài phải kiên quyết PCTN, lãng phí; chủ động phòng ngừa, không
để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng,
lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí”. Các quy định của Đảng
về những điều đảng viên không được làm, về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của
cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, quy định về xử lý kỷ luật đảng viên, quy định
về trách nhiệm nêu gương người đứng đầu, quy định về trách nhiệm và thẩm quyền của
UBKT trong công tác PCTN...Cùng với các nghị quyết và các quy định của Đảng là
chính sách, pháp luật của Nhà nước như Luật PCTN 2005 và sửa đổ bổ sung 2007,
2012, Bộ Luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật đất đai, Luật xử lý vi phạm hành
chính, Luật cán bộ, công chức... Đó là những vấn đề mang tính nguyên tắc, chi phối
hoạt động trong công tác kiểm tra của Đảng. Nói cách khác đó là những cơ sở, chuẩn
mực phải tuân thủ trong thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng. Hệ thống
quan điểm, nguyên tắc và quy định của Đảng về công tác kiểm tra của Đảng cần phải
đầy đủ, cụ thể và đồng bộ, phù hợp với mỗi cấp và loại hình tổ chức, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ sẽ tác động tích cực đến chất lượng và hiệu quả
công tác kiểm tra của Đảng. Do vậy để công tác kiểm tra của Đảng đối với PCTN trong
bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói
riêng trong giai đoạn hiện nay thì cần phải có đầy đủ quan điểm, nguyên tắc và quy
định của Đảng về công tác kiểm tra của Đảng trong lĩnh vực này.
Để cụ thể hóa cơ sở chính trị, pháp lý cần có cơ chế, chính sách để thực hiện
nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng nói chung và kiểm tra của Đảng đối với PCTN
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng là điều kiện rất quan
70
trọng để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác này. Cơ chế, chính sách là những mối
quan hệ, sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể trong kiểm tra tạo nên sự vận
động trong quá trình thực hiện công tác kiểm tra của Đảng. Thực chất là mối quan hệ
tương tác trên cơ sở quan điểm, quy định, quy chế, biện pháp... để định hướng, tổ chức
thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng. Trên thực tế đó là chủ trương, quan
điểm và định hướng được xác định và cụ thể hóa trong các quy chế, quy định... của
Đảng về công tác kiểm tra nói chung và PCTN trong cơ quan hành chính cấp trung
ương nói riêng, được cụ thể bằng các quy định của Đảng:
+ Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 115-KL/TW, ngày 10-8-2015 về thực
hiện thu hồi, xử lý, sử dụng tiền vi phạm qua kiểm tra của cấp ủy, UBKT các cấp.
Trong đó, có tiền vi phạm trong tham nhũng của tổ chức, cá nhân, nhất là các đơn vị sự
nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh liên quan đến tham nhũng, lãng phí.
+ Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 85-QĐ/TW, ngày 23-5-2017 về kiểm
tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Theo quy
định Ủy ban Kiểm tra Trung ương sẽ có quyền kiểm tra, giám sát về kê khai tài sản của
cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.
+ Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15-11-2017 về xử
lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Quy định đề cập chi tiết, cụ thể về hình thức kỷ luật đối
với vi phạm của đảng viên từ nhận thức, phẩm chất chính trị, tư tưởng, quan điểm…
cho đến công việc xã hội, hoạt động, phát ngôn… liên quan tới PCTN. Để làm rõ hơn
một số nội dung cần thực hiện trong Quy định, ngày 22/3/2018 UBKT Trung ương đã
ban hành Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW, có một nội dung chính như sau:
Về phạm vi, đối tượng, Khoản 2, Điều 1: Khi đang xem xét, xử lý đảng viên vi
phạm mà tổ chức đảng nơi đảng viên vi phạm đang sinh hoạt bị giải thể, sáp nhập, chia
tách hoặc kết thúc hoạt động thì tổ chức đảng có thẩm quyền vẫn tiếp tục xem xét, xử
lý hoặc báo cáo tổ chức đảng cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng đó xem xét, xử lý kỷ
luật đảng viên theo quy định.
Về nguyên tắc xử lý kỷ luật, Khoản 3, Điều 2: Khi xem xét, xử lý kỷ luật đảng
viên vi phạm, phải làm rõ nội dung, tính chất, mức độ, tác hại, động cơ, nguyên nhân
của vi phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và căn cứ vào thái độ tự giác, tinh thần
quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, vi phạm và khắc phục hậu quả đã gây ra, chứng cứ
đến đâu kết luận đến đấy, không suy diễn. Đồng thời, phải xét hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
71
khách quan, toàn diện nhằm đạt mục tiêu, yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng.
Khoản 5, Điều 2: Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy và Ủy ban kiểm tra từ cấp
huyện trở lên khi phát hiện đảng viên vi phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình
sự thì phải chuyển hồ sơ sang cơ quan tư pháp có thẩm quyền để xem xét, xử lý, không
được giữ lại để xử lý nội bộ. Đảng viên vi phạm pháp luật đang bị cơ quan pháp luật có
thẩm quyền thụ lý theo quy định của pháp luật thì tổ chức đảng không được can thiệp
để đảng viên chỉ bị xử lý kỷ luật về Đảng, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
xử lý về chính quyền, đoàn thể. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án của tòa án
tuyên phạt đối với đảng viên từ cải tạo không giam giữ trở lên có hiệu lực pháp luật thì
tòa án phải sao gửi bản án đến cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy hoặc Ủy ban kiểm tra của
cấp ủy quản lý đảng viên. Căn cứ vào nội dung bản án, Ủy ban kiểm tra quyết định
hoặc đề nghị cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy quyết định xử lý kỷ luật khai trừ đảng viên
theo quy định.
Thời hiệu xử lý kỷ luật, Khoản 1, Điều 3: Đảng viên vi phạm ở bất cứ thời điểm
nào đều phải được tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra, làm rõ, kết luận và biểu quyết
hình thức kỷ luật cụ thể. Sau đó căn cứ vào kết quả biểu quyết và đối chiếu với quy
định về thời hiệu xử lý kỷ luật để quyết định thi hành hoặc không thi hành kỷ luật đối
với đảng viên vi phạm.
Thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm có hành vi vi phạm đến thời
điểm tổ chức đảng có thẩm quyền ra quyết định kiểm tra, xem xét kỷ luật đảng viên;
trường hợp vi phạm xảy ra liên tục kéo dài thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm
dứt hành vi vi phạm.
Các trường hợp chưa xem xét, xử lý kỷ luật và không xử lý kỷ luật, Khoản 1,
Điều 5: “Đảng viên vi phạm đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang mắc
bệnh hiểm nghèo hoặc đang mất khả năng nhận thức, bị ốm nặng đang điều trị nội trú
tại bệnh viện được cơ quan y tế có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (từ cấp
huyện trở lên) xác nhận thì chưa xem xét, xử lý kỷ luật”. “Bệnh hiểm nghèo” là bệnh
nguy hiểm đến tính mạng của người bị mắc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định. Thời gian chưa xem xét, xử lý kỷ luật nêu trên không tính vào thời hiệu xử lý kỷ
luật về Đảng.
Vi phạm trong công tác tổ chức, cán bộ: Điểm b, Khoản 3, Điều 11: Dùng tiền,
tài sản, các giá trị vật chất hoặc phi vật chất và các mối quan hệ để hối lộ, lôi kéo, mua
72
chuộc, tác động, can thiệp đến cá nhân, tổ chức có trách nhiệm giải quyết các công việc
nêu trên cho bản thân hoặc người khác.
Vi phạm trong công tác phòng, chống tội phạm, Điểm d, Khoản 1, Điều 13:
Con của đảng viên phạm tội mà đảng viên phải chịu trách nhiệm liên đới gồm: con đẻ,
con nuôi hợp pháp, con dâu, con rể cùng sống, sinh hoạt trong gia đình và trực tiếp phụ
thuộc vào việc nuôi dưỡng, quản lý của đảng viên đó.
Vi phạm về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Điểm a, Khoản 1,
Điều 15: Đơn tố cáo giấu tên là đơn không ký và không ghi rõ họ tên. Đơn tố cáo mạo
tên là đơn ký hoặc ghi tên người khác vào đơn tố cáo. Trực tiếp viết đơn tố cáo cho
nhiều người cùng ký tên. Phác thảo đề cương, đọc nội dung đơn tố cáo cho người khác
viết lại, đánh máy hoặc tự đánh máy rồi cùng người khác ký tên vào đơn tố cáo.
Điểm đ, Khoản 2, Điều 15: Có lời nói hoặc thông qua người khác đe dọa xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp
của người tố cáo. Ngăn cản, gây khó khăn cho việc thực hiện các quyền, lợi ích hợp
pháp trong việc nâng ngạch, nâng lương, khen thưởng, bổ nhiệm và các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của người tố cáo. Phân biệt đối xử, lôi kéo người khác cản trở việc thực
hiện nhiệm vụ, công vụ của người tố cáo. Xử lý trái quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, thay đổi công việc của người tố cáo với động cơ trù dập. Trực tiếp hoặc
thuê, nhờ người khác đe dọa, trấn áp, trả thù, trù dập, khống chế, vu khống người trực
tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trực tiếp gặp, điện thoại, nhắn tin hoặc dùng các hành
vi khác gây sức ép với người trực tiếp giải quyết hoặc cấp trên của họ nhằm làm sai
lệch nội dung giải quyết khiếu nại, tố cáo.
+ Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 01-QĐi/TW, ngày 10-5-2018 quy định
trách nhiệm và thẩm quyền của UBKT trong công tác PCTN. Nội dung Quy định thể
hiện trách nhiệm của UBKT trong công tác PCTN bao gồm: trách nhiệm trong tham
mưu giúp cấp ủy triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quy định về công tác kiểm
tra, giám sát có liên quan đến công tác PCTN; trách nhiệm trong phòng ngừa và phát
hiện, xử lý hành vi tham nhũng…Đây là căn cứ pháp lý quan trọng cho công tác kiểm
tra của Đảng thực hiện công tác PCTN nói chung và trong các cơ quan hành chính nhà
nước cấp trung ương nói riêng.
2.3.3. Điều kiện về cơ sở vật chất
Về chế độ, chính sách và điều kiện cơ sở vật chất bảo đảm cho hoạt động trong
thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra là yêu cầu thiết thực. Trước hết đó là chế độ,
73
chính sách là một trong yếu tố khách quan rất quan trọng để bảo đảm thực hiện và
khuyến khích đội ngũ cán bộ làm tốt nhiệm vụ công tác kiểm tra. Nếu chế độ, chính
sách không bảo đảm, không hợp lý và công bằng sẽ phát sinh yếu tố tư tưởng, không
khuyến khích đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra công tâm vô tư thực hiện tốt nhiệm
vụ. Về cơ sở vật chất, kỹ thuật là một điều kiện cần thiết bảo đảm cho hoạt động công
tác kiểm tra. Nếu cơ sở vật chất, kỹ thuật không bảo đảm thì việc thực hiện nhiệm vụ
công tác kiểm tra gặp khó khăn, hiệu quả thấp, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Vì
vậy cơ quan có thẩm quyền nói chung và UBKT nói riêng cần thực hiện tốt chế độ
chính sách và điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác kiểm
tra của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.
Như vậy, việc đổi mới nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của Đảng là rất
cần thiết xuất phát từ những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới và cũng chính từ đòi
hỏi bên trong của Đảng. Đồng thời, xuất phát từ quan điểm của Đảng ta coi hoạt động
kiểm tra vừa là chức năng lãnh đạo vừa là phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng,
là nội dung rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Qua mỗi giai đoạn cách
mạng, nội dung và phương thức lãnh đạo đều có sự đổi mới phù hợp nhằm nâng cao
hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách
mạng. Trong giai đoạn cách mạng mới, cùng với việc đổi mới nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng, thì tất yếu công tác kiểm tra của Đảng cũng phải đổi mới phù hợp
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với PCTN nói chung và PCTN trong
các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng.
2.4. KINH NGHIỆM PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG CỦA TRUNG QUỐC
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO Ở VIỆT NAM
2.4.1. Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của Đảng Cộng sản
Trung Quốc
Nhận thức rõ tâm quan trọng của công cuộc chống tham nhũng, Đảng Cộng sản
Trung quốc đã coi chống tham nhũng là vấn đề sinh tử của Đảng và quốc gia, kiên trì
chống tham nhũng một cách bài bản, có chủ thuyết, có quyết tâm của toàn hệ thống
chính trị, từ cán bộ cấp cao đến nhân dân. Đặng Tiểu Bình (cố lãnh đạo cao cấp của
Đảng và nhà nước Trung quốc) đã từng nhấn mạnh: Không trừng trị tham nhũng, nhất
là tham nhũng trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của Đảng, chúng ta thực sự sẽ phải đối
mặt với nguy cơ thất bại và nguyên Thủ tướng Chu Dung Cơ đã tuyên bố: "Nếu có 100
viên đạn, tôi sẽ dành 99 viên cho bọn tham nhũng và viên còn lại sẽ dành cho tôi nếu
74
cuộc chiến thất bại". Đảng và Nhà nước Trung Quốc, nhất là những người đứng đầu
Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có quyết tâm chính trị cao và biến nó thành hành
động cụ thể trong PCTN. Với chủ trương tiến hành đồng thời chống tham nhũng với
phòng ngừa tham nhũng, lấy giáo dục làm cơ sở, lấy chế độ làm căn bản, lấy giám sát
làm quan trọng; chống tham nhũng không chỉ chống những vụ tham nhũng lớn mà còn
phải chống những vụ tham nhũng nhỏ; chống tham nhũng nhưng phải bảo đảm sự ổn
định chính trị, phục vụ cải cách mở cửa và phát trển kinh tế của đất nước.
Về tổ chức PCTN, mặc dù Trung Quốc có nhiều tổ chức PCTN, nhưng họ lấy
UBKT - Kỷ luật của Đảng làm trung tâm và điều phối các lực lượng PCTN. UBKT -
Kỷ luật do đại hội đảng cùng cấp bầu và có vai trò rất quan trọng trong công tác chống
tham nhũng, được Đảng trao cho các quyền năng pháp lý đủ mạnh để thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ phòng ngừa và chống tham nhũng, chống vi phạm kỷ luật hành chính.
Đại hội Đảng lần thứ XIV (1992), Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
đưa ra quyết sách quan trọng về đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN. UBKT - Kỷ luật
Trung ương Đảng Cộng sản Trung quốc đã tổng kết kinh nghiệm lịch sử và dựa vào
tình hình thực tế về cải cách mở cửa, xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN của
Trung Quốc, đã đề ra tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc cơ bản, thể chế hoạt động chống
tham nhũng, nhấn mạnh ba mảng công tác quan trọng cần phải làm trong quá trình
PCTN. Đó là: "Tự rèn luyện tính liêm khiết và chấp hành kỷ luật của cán bộ lãnh đạo;
điều tra các vụ án lớn, án điểm; uốn nắn tác phong sai lệch của các bộ, ngành".
Đại hội lần thứ XVI (2002), Hội nghị lần thứ 2 UBKT - Kỷ luật Trung ương đã
đề ra kế hoạch giám sát nội bộ Đảng, tăng cường giám sát đối với cán bộ lãnh đạo cấp
tỉnh, cấp bộ. Hội nghị đã yêu cầu cán bộ lãnh đạo, đảng viên phải chịu sự giám sát của
tổ chức đảng và quần chúng nhân dân; đồng thời mở rộng dân chủ, công khai thông tin,
tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, đảng viên, quần chúng giám sát lãnh đạo. Trọng tâm
công tác đấu tranh chống tham nhũng của UBKT - Kỷ luật là góp phần thiết lập hệ
thống mới về đánh giá kết quả công việc trên cơ sở có sự đóng góp ý kiến của các nhân
viên trong tổ chức và gắn với các biện pháp khuyến khích vào hệ thống đó. Coi trọng
việc phát hiện và trừng phạt những kẻ tham nhũng có chức vụ cao để có tác dụng cảnh
báo, giáo dục, răn đe, ngăn chặn; đồng thời không coi nhẹ việc xử lý người giữ chức vụ
hoặc công vụ ở cấp thấp có hành vi tham nhũng, vi phạm kỷ luật hành chính. Chú trọng
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ làm trong sạch đội ngũ cán bộ, thông qua giáo dục chính
trị, tư tưởng, nâng cao tố chất của cán bộ, đưa tác phong cán bộ vào quy phạm…
75
Chế độ tuần thị là một hình thức giám sát từ trên xuống dưới, được xem như
một công cụ hữu hiệu trong việc giám sát trong Đảng, được đưa ra từ Hội nghị toàn thể
lần thứ 6 của UBKT kỷ luật Trung ương khóa XIV trong kế hoạch “Lựa chọn cán bộ
xuống các địa phương và ban ngành tiến hành giám sát” Đại hội XVII (2007) của Đảng
Cộng sản Trung Quốc quy định chế độ tuần thị vào Điều lệ Đảng để thực hiện. Năm
2009 Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành “Điều lệ công tác tuần thị của Đảng Cộng
sản Trung Quốc (thí điểm thực hiện)”, công tác tuần thị chính thức được coi là một chế
độ giám sát trong Đảng.
Từ sau Đại hội XVIII (2012) của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có những
bước phát triển mới. Chế độ tuần thị được quy định trong Điều lệ Đảng và thực hiện ở
cấp Trung ương và cấp tỉnh. Đã thực hiện chế độ tuần thị từ cấp huyện trở xuống, theo
đó cấp cơ sở cũng phải thực hiện tuần thị để thực hiện sâu sắc hơn chế độ tuần thị.Theo
đó, tổ chức đảng các cấp và đảng viên Đảng Cộng sản tiến hành giám sát và đôn đốc
tình hình tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên, tình hình tổ chức đảng các cấp thực
hiện các quy định và Điều lệ Đảng, việc thi hành quyền lực của các cán bộ, đảng viên
thông qua hình thức như kiểm tra, đánh giá, báo cáo lên trên và xử lý theo Điều lệ
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong chế độ kiểm soát quyền lực của Đảng, đáng chú
ý là chế độ tuần thị của Trung ương Đảng. Đây là hình thức kiểm tra từ trên xuống
dưới, là công cụ hữu hiệu để kiểm soát quyền lực.
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành “Điều lệ công tác tuần thị
của Đảng Cộng sản Trung Quốc” gồm 7 chương, 42 điều. Về nội dung tuần thị kiên trì
sự lãnh đạo của Đảng, để thúc đẩy tăng cường sự nghiệm minh toàn diện trong Đảng,
bảo vệ uy tín vai trò lãnh đạo thống nhất của Đảng. Qua tuần thị phát hiện vấn đề trách
nhiệm, tạo sự răn đe, thúc đẩy cải cách và thúc đẩy phát triển.Về phương thức tổ chức
chức thực hiện thành lập nhóm (tổ) tuần thị (Trung ương đảng, cấp ủy, UBKT). Đến
nay cấp Trung ương đã lập 15 đoàn tuần thị, mỗi đoàn từ 20 - 30 người (có trưởng
đoàn, phó đoàn, thành viên) thực hiện chế độ tuần thị trên 3 nguyên tắc: Trưởng nhóm
không cố định, đối tượng không cố định, quan hệ nhóm và đối tượng không cố định.
Việc thực hiện song song với tuần thị hàng ngày và tuần thị thực hiện các vấn đề cụ thể
(địa phương, cơ sở thì tiến hành tuần thị hàng ngày là chính, Trung ương thì tuần thị
thực hiện các nhiệm vụ cụ thể là chính. Để thực hiện có chất lượng, hiệu quả tuần thị,
UBKT kỷ luật các cấp thực hiện 12 biện pháp tuần thị, trong đó có 8 biện pháp truyền
thống và 4 biện pháp mới được bổ sung. Về quy trình thực hiện tuần thị gồm 3 bước:
76
Một là, tiếp nhận thông tin báo cáo qua đơn thư phản ánh, sau đó nghiên cứu, xem xét
đưa ra phương án xử lý; hai là, tiến hành gửi thư để tìm hiểu cho đối tượng bị tố cáo
phải báo cáo giải trình và phải được cấp trên cơ quan đó ký tên, xác nhận gửi cho đoàn
tuần thị; ba là, tiến hành nghiên cứu, xem xét, làm rõ vấn đề sơ bộ, nếu thấy hành vi sai
trái với kỷ luật, kỷ cương thì có biện pháp giải quyết theo quy định.
Đây là biện pháp sáng tạo quan trọng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, bảo đảm
giám sát “không có vùng cấm, không có vùng trống, không có ngoại lệ, không có góc
chết, không có nhân nhượng, không có điểm dừng”. Theo chế độ này, đối tượng thuộc
diện kiểm tra rất rộng; thành viên khu vực và thành viên đơn vị tuần thị không cố định;
lập danh sách tổ trưởng tổ tuần thị, tiến hành chế độ luân phiên làm tổ trưởng; địa điểm
và đơn vị tuần thị được lựa chọn ngẫu nhiên chứ không cố định. Thông qua đó bảo
đảm phòng ngừa sự nảy sinh mối quan hệ không minh bạch giữa thành viên tuần thị và
đối tượng tuần thị. Công tác tuần thị chú trọng “phát hiện vấn đề” chứ không phải việc
“lấy thành tích”. Chế độ tuần thị ở Trung Quốc có vai trò quan trọng trong việc xây
dựng hàng rào chống tham nhũng, thoái hóa, biến chất; tăng cường vai trò giám sát
việc chấp hành kỷ luật; tăng cường tác dụng răn đe của công tác chống tham nhũng;
thúc đẩy cải cách trong kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng. Những bước phát triển
và điểm mới này giúp chế độ tuần thị trong Đảng phát huy được tác dụng tích cực
trong công tác xây dựng liêm chính trong Đảng và chống tham nhũng của Trung Quốc.
Vừa qua khai mạc Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Tập Cận Bình
đề xuất thành lập và mở rộng mô hình thí điểm Ủy ban giám sát cấp nhà nước, tỉnh,
thành phố, huyện. Cơ quan này sẽ giám sát các hoạt động quyền lực, tăng cường quản
lý giám sát thường ngày đối với đảng viên, lãnh đạo, cán bộ, thực hiện giám sát tất cả
công chức thi hành quyền lực công. Hiện nay Trung Quốc thành lập Ủy ban giám sát
quốc gia (NSC). Cơ quan này sẽ tích hợp UBKT- kỷ luật Trung ương của Đảng
(CCDI) với nhiều bộ, ngành tư pháp và chấp pháp của Trung Quốc có nhiệm vụ chống
tham nhũng. Cơ quan chống tham nhũng mới sẽ giám sát hoạt động của các cơ quan
trên toàn quốc, từ cấp tỉnh, thành phố đến cấp thị xã. Cơ quan này có khả năng điều tra,
xét hỏi, lục soát, bắt giữ và có những biện pháp kỷ luật không chỉ đối với đảng viên
tình nghi tham nhũng mà là mọi cá nhân làm việc trong lĩnh vực công.
Do vậy từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc đến nay, công tác
chống tham nhũng ở Trung Quốc đã mở ra một cục diện hoàn toàn mới, trong một thời
gian ngắn đã đạt được nhiều thành tựu thu hút sự chú ý cả thế giới. Trong năm năm
77
thực hiện kế hoạch Chống tham nhũng 2013 - 2017, theo Nghị quyết Đại hội XVIII
Đảng Cộng sản Trung Quốc với chủ trương “đả hổ, diệt ruồi” của Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Tập Cận Bình, UBKT- Kỷ luật Trung ương (CCDI) đã tiến hành điều tra hơn
70.000 quan chức từ cấp quận/huyện với cáo buộc tham nhũng, qua đó xử lí, kỷ luật
nhiều trường hợp sai phạm là các quan chức cấp cao. Báo cáo của CCDI đã liệt kê các
quan chức cấp cao bị xử lý và kỷ luật trong chiến dịch chống tham nhũng trên như cựu
Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, cựu Bộ trưởng Công an Chu Vĩnh Khang (Zhou
Yongkang), cựu Bí thư Trùng Khánh Bạc Hy Lai (Bo Xilai), 2 cựu phó chủ tịch Quân
ủy Trung ương là Từ Tài Hậu (Xu Caihou) và Quách Bá Hùng (Guo Boxiong), cùng 2
cựu phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung
Quốc (Chính Hiệp) là Lệnh Kế Hoạch (Ling Jihua) và Tô Vinh (Su Rong). Ngoài ra, có
tới 1,34 triệu đảng viên và quan chức ở các thành phố nhỏ cùng với 648.000 đảng viên
và cán bộ ở các khu vực nông thôn cũng đã bị kỷ luật trong giai đoạn này [109]. Đạt
được những kết quả như trên trước tiên phải kể sự lãnh đạo quyết liệt của Đảng Cộng
sản Trung Quốc và đặc biệt là, quyết tâm chính trị mạnh mẽ của người đứng đầu Đảng
Cộng sản Trung Quốc là ông Tập Cận Bình.
Trung Quốc là một quốc gia có nhiều điểm tương đồng về thể chế chính trị với
Việt Nam, nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng và vị trí, vai trò UBKT của Đảng trong
PCTN. Do vậy qua nghiên cứu PCTN của Trung Quốc có thể vận dụng vào Việt Nam
một số nội dung như sau: Thứ nhất, công tác PCTN cần đặt dước sự lãnh đạo trực tiếp,
toàn diện của Đảng Cộng sản. Thứ hai, lấy UBKT của Đảng làm trung tâm và điều
phối các lực lượng PCTN. UBKT do đại hội đảng cùng cấp bầu và có vai trò rất quan
trọng trong công tác PCTN, được Đảng trao cho các quyền năng pháp lý đủ mạnh để
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phòng ngừa và chống tham nhũng, chống vi phạm kỷ
luật hành chính. Thứ ba, từng bước nghiên cứu thực hiện chế độ tuần thị và cơ chế
giám sát trong Đảng, để tiến tới thành lập cơ quan giám sát nhà nước thực hiện chế độ
giám sát và kiểm soát quyền lực bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ PCTN trong
bộ máy nhà nước và trong cả hệ thống chính trị.
2.4.2. Những giá trị tham khảo vận dụng vào việc phòng, chống tham
nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công
tác kiểm tra của Đảng trong tình hình hiện nay
Từ kinh nghiệm của Trung Quốc có nhiều nét tương đồng về thể chế chính trị,
phù hợp với điều kiện ở Việt Nam, có thể rút ra những giá trị tham khảo vận dụng
78
trong PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác
kiểm tra của Đảng như sau:
Một là, công tác PCTN cần đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng
Cộng sản Việt Nam, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư thông qua Ban Chỉ đạo
PCTN. Hiện tại, công tác đấu tranh PCTN trực thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư là phù
hợp thể hiện tính khách quan, minh bạch, chủ động trong PCTN. Đồng thời, khắc phục
tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan Đảng, Nhà nước trong phòng
ngừa, đấu tranh chống tham nhũng trong thời gian qua.
Hai là, nghiên cứu xây dựng đề án UBKT do đại hội đảng cùng cấp bầu và là
trung tâm và điều phối các lực lượng PCTN, được quy định tăng cường nhiệm vụ,
thẩm quyền, trách nhiệm, các quyền năng pháp lý đủ mạnh để thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ phòng ngừa và chống tham nhũng, chống vi phạm kỷ luật hành chính.
Nghiên cứu thí điểm và từng bước sát nhập UBKT với các cơ quan tương đồng của
Đảng và Nhà nước như Thanh tra và Ban nội chính cùng cấp để bảo đảm tổ chức thực
hiện nhiệm kiểm tra, giám sát PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực. Trên cơ sở đó
bổ sung chức năng nhiệm vụ cho UBKT sau khi sát nhập cho phù hợp, nhất là chức
năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy về PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực. Từng
bước nghiên cứu xây dựng quy định và tổ chức thực hiện chế độ tuần thị của UBKT
Trung ương và UBKT cấp ủy thực hiện có hiệu quả công tác giám sát trong Đảng, bảo
đảm kiểm soát quyền lực bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy cơ quan hành chính
nhà nước nói riêng. Để tiến tới thành lập cơ quan giám sát nhà nước thực hiện chế độ
giám sát và kiểm soát quyền lực bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ PCTN trong
bộ máy nhà nước và trong cả hệ thống chính trị.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về PCTN như
công khai minh bạch trong quy hoạch, quản lý sử dụng đất đai, công tác quản lý đầu tư
xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản công, thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp có vốn góp của nhà nước, về công tác tổ chức cán bộ, quy định chế độ
cho, tạng quà...; xử lý kiên quyết, nghiêm minh các hành vi tham nhũng. Đồng thời xây
dựng cơ chế giám sát, kiểm soát chặt chẽ thu nhập của cán bộ, công chức, coi trọng
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cùng với kiểm toán, thanh tra việc lạm dụng
quyền lực để tham nhũng và phải sử dụng quyền lực Nhà nước để hạn chế tối đa việc
lạm dụng quyền lực Nhà nước của những kẻ tham nhũng.
79
Bốn là, thông qua chính sách truyền thông, Nhà nước làm cho các nhà chính
trị và quan chức cao cấp hình thành nên nhận thức về đạo đức rằng mọi người sẽ
không bao giờ tha thứ cho tội tham nhũng, người có tội sẽ bị trừng trị nghiêm khắc,
trừng trị cả những ai bao che dung túng người tham nhũng bất kể người đó là ai. Thói
quen đạo đức này đã tạo ra ý chí rất mạnh trong công tác PCTN. Do đó các cơ quan
điều tra chống tham nhũng không bao giờ bị ngăn cản trong quá trình điều tra những
vụ án tham nhũng và lại cũng không có khái niệm "vùng cấm" trong đấu tranh chống
tham nhũng.
Năm là, đề cao quyết tâm chính trị của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
các ngành, đơn vị thông qua sự ủng hộ thành lập cơ quan chuyên trách chống tham
nhũng có đủ sức mạnh. Đây là bài học rất thành công ở Trung Quốc. Đồng thời, việc
nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, các
đơn vị trong tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, tạo sự chuyển biến
sâu sắc trong nhận thức và hành động từ lãnh đạo đến cán bộ, công chức, nhân dân
trong cuộc đấu tranh PCTN là kinh nghiệm của các nước trong công tác lãnh đạo, chỉ
đạo chống tham nhũng.
Sáu là, tập trung xử lý thông tin do nhân dân thông báo về hiện tượng tham
nhũng, giải quyết dứt điểm đơn thư tố cáo, nhất là đơn thư tố cáo hành vi tham
nhũng, lãng phí tồn đọng, kéo dài; kịp thời giải quyết các vụ việc phát sinh, không để
xảy ra tình trạng nhân dân mất lòng tin vào quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và
Nhà nước.
Bẩy là, thu hút các nhân viên xuất sắc vào công việc chống tham nhũng. Đồng
thời đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận, nâng cao
chất lượng công tác tham mưu và hiệu quả công tác cho đội ngũ cán bộ, công chức
chống tham nhũng. Tăng cường công tác bảo vệ hợp lý cán bộ và nhân dân tham gia
chống tham nhũng.
Tám là, tăng cường phối hợp hoạt động giữa Ban Chỉ đạo PCTN của Trung
ương với các cơ quan chống tham nhũng của địa phương nhằm giám sát phòng ngừa
sai phạm; nâng cao chất lượng trong hoạt động kiểm tra, thanh tra và điều tra, truy tố,
xét xử các vụ án tham nhũng theo đúng quy định của pháp luật.
Chín là, tiếp tục chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật đối với các cơ quan quản lý nhà
nước, các cấp chính quyền trong quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao;
80
thực hiện nghiêm chế độ kiểm soát nội bộ trong các cơ quan hành chính; phân định rõ
trách nhiệm của người đứng đầu và tập thể lãnh đạo các cấp; đề cao trách nhiệm của
người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong đấu tranh PCTN.
Mười là, kịp thời khen thưởng đối với các tổ chức, cá nhân có thành tích trong
công tác đấu tranh PCTN; kiên quyết xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật đối
với các hành vi vi phạm các quy định về PCTN; công báo, công khai kết quả xử lý các
đối tượng, vụ việc tham nhũng để tăng cường công tác giáo dục, răn đe, phòng ngừa.
Kết luận chƣơng 2
Việc nghiên cứu cơ sở lý luận về PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng là rất quan trọng, ảnh hưởng đến
hướng nghiên cứu của đề tài. Bằng phương pháp tiếp cận khoa học để xác định những
nội dung quan trọng liên quan, luận án đã xây dựng khái niệm, đặc điểm và vị trí, vai
trò tác dụng của PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Từ đó,
luận án chỉ ra nội dung, phương thức và những yếu tố ảnh hưởng, điều kiện bảo đảm
thực hiện công tác kiểm tra của Đảng trong PCTN đối với các cơ quan hành chính nhà
nước cấp trung ương.
Thực tế đã khẳng định công tác kiểm tra của Đảng có vị trí, vai trò quan trọng
trong PCTN của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương là một trong
những phương thức PCTN có hiệu quả. Thông qua công tác kiểm tra của Đảng kịp
thời phát hiện, ngăn chặn tham nhũng của tổ chức và cán bộ, đảng viên trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Do vậy việc xác định đặc điểm, vị trí vai
trò, nội dung, phương thức và điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ công tác PCTN
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra
của Đảng trong tình hình hiện nay là rất quan trọng. Với vị trí, nhiệm vụ và quyền
hạn của UBKT Trung ương và UBKT các cấp ủy ở các bộ, ngành trung ương việc
thực thi công tác kiểm tra của Đảng là những yếu tố quan trong tác động tích cực đến
hiệu quả công PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương trong
giai đoạn hiện nay.
81
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG BỘ MÁY
NHÀ NƢỚC VÀ CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP
TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÕNG,
CHỐNG THAM NHŨNG TRONG BỘ MÁY NHÀ NƢỚC, CÁC CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA
CỦA ĐẢNG
3.1.1. Chủ trƣơng, đƣờng lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về lãnh đạo thực
hiện công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng thông qua công tác kiểm tra
của Đảng (từ 2006 đến nay)
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi tham nhũng là nguy cơ lớn, là “quốc nạn”
của đất nước và luôn khẳng định quyết tâm đấu tranh PCTN. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX khẳng định: "Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham
nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành từ
Trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu,
đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính" [22, tr.34]. Nghị
quyết Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: "Tăng cường phòng ngừa và chống
tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta,
nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục
một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta". Để cụ thể hóa quan
điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X về PCTN, lãng phí, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 3 Khóa X đã đưa ra mục tiêu: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng,
lãng phí; tạo bước chuyển rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã
hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh;
đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng tiếp tục khẳng định PCTN là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán
bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu trong đấu tranh PCTN.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI với nội
dung “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định PCTN, lãng
phí là một trong các giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Đặc biệt, Đại
82
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã xác định “đẩy mạnh đấu tranh PCTN, lãng phí,
quan liêu” là một trong những phương hướng nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây
dựng Đảng trong suốt nhiệm kỳ. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh đấu tranh
PCTN, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ khó
khăn, phức tạp, lâu dài phải kiên quyết PCTN, lãng phí; chủ động phòng ngừa, không
để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng,
lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí” [27, tr.221]
.
Về công tác kiểm tra của Đảng đối với PCTN, Đại hội X của Đảng đã bổ sung
chức năng giám sát cho các tổ chức đảng. Điều lệ Đảng đã quy định: "Kiểm tra, giám
sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm
tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng” [23,
tr.23]. Tiếp đó Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí; nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng đã ra Kết
luận số 21-KL/TW Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI, 2012) về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 3 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
PCTN, lãng phí”; Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07-12-2015 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng;
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ...nhờ đó công
tác PCTN đã được tiến hành khá mạnh mẽ, hầu hết các cấp ủy đã ban hành chương
trình hành động thực hiện nghị quyết và chỉ thị của Đảng về PCTN, lãng phí. Điều lệ
Đảng quy định mọi cán bộ, đảng viên ở mọi ngành, mọi lĩnh vực ở Trung ương hay địa
phương đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng, bất kể người đó giữ chức vụ cao
hay thấp, tuổi đảng nhiều hay ít.
Như vậy, Đảng ta xác định đấu tranh PCTN là một bộ phận hợp thành của sự
nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đấu tranh PCTN đòi hỏi phải sử
dụng đồng bộ nhiều biện pháp; đấu tranh PCTN có hiệu quả là góp phần quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Đó
cũng là cơ sở chính trị đặc biệt quan trọng để Nhà nước xây dựng, ban hành thể chế,
83
chính sách phục vụ công tác đấu tranh PCTN. Đây là thành tựu quan trọng về mặt lý
luận, soi sáng cho thực tiễn đấu tranh PCTN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.1.2. Thực trạng thể chế hóa đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng về phòng,
chống tham nhũng trong bộ máy nhà nƣớc và cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp
trung ƣơng
Thời gian qua, nhận thức rõ tác hại của tham nhũng có ảnh hưởng nghiêm trọng
đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Khẳng định quyết
tâm bài trừ, ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, duy trì sự ổn định trật tự xã hội để phát triển
đất nước trong thời kỳ hội nhập, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, giải pháp
tích cực tích cực để xây dựng và hoàn thiện thể chế về PCTN tạo cơ sở pháp lý cho
công tác PCTN.
Nhiều quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước được ban hành nhằm tăng
cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và PCTN, vừa có tác dụng
giáo dục, răn đe, ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện và xử lý các sai phạm. Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan tham mưu của Đảng đã ban hành nhiều
chủ trương, giải pháp mới, mạnh mẽ, quyết liệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
PCTN; nhiều quy định, nghị quyết được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đi vào
cuộc sống, có tác dụng cảnh báo, phòng ngừa có hiệu quả. Quốc hội, Chính phủ và các
bộ, ngành chức năng đã quan tâm rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quy
định pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN; khắc phục một bước những sơ hở,
bất cập trong các quy định của pháp luật làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng. Có thể
nói, đến nay các chủ trương của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật PCTN về cơ
bản đã tương đối đủ và phù hợp sát thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Trong đó, nổi bật là cam kết của Chính phủ Việt Nam đối với công cuộc PCTN
được thể hiện qua các nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống thể chế. Quốc hội
ban hành Luật PCTN năm 2005, sửa đổi bổ sung 2 lần vào năm 2007 và 2012. Việt
Nam cũng đã phê chuẩn tham gia Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm
2009. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã ban hành nhiều luật, bộ luật như Bộ luật hình sự,
Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật đất đai, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật Hải quan,
Luật về Thuế, Luật cán bộ, công chức,…Cụ thể hóa các văn bản trên, Nghị định số
68/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 37/2007/NĐ-CP ngày 09/3/2007 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập
là bước tiến lớn trong nhận thức của Chính phủ Việt Nam về công cụ PCTN.
84
Kết quả 10 tổng kết thực hiện Luật PCTN Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành 30 nghị định, quyết định, chỉ thị để cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 3
(Khóa X) và Luật PCTN, qua đó đã quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện hầu hết các
quy định của Luật PCTN. Các bộ, ngành, địa phương cũng đã ban hành gần 42.170 văn
bản mới; sửa đổi, bổ sung trên 55.416 văn bản để thực hiện Luật PCTN và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
Tiếp sau đó thực hiện các giải pháp PCTN của Đại hội Đảng lần thứ XII về
“tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm công tác PCTN có hiệu lực, hiệu quả...
xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý kinh tế - xã hội, tổ chức - bộ máy nhà nước, hệ
thống chính trị và thể chế về PCTN theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng”, công tác hoàn thiện thể chế PCTN và hoàn thiện chính sách kinh tế - xã hội để
PCTN trong thời gian qua đạt một số kết quả tích cực.
Đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật quan trọng, đóng vai
trò chủ đạo trong công tác PCTN, điển hình là việc sửa đổi các quy định của Bộ luật
hình sự về các tội phạm tham nhũng, chức vụ và sửa đổi toàn diện Luật Phòng, chống
tham nhũng để phù hợp với tình hình mới. Nội dung cốt lõi của Luật PCTN (sửa đổi) là
lấy phòng ngừa tham nhũng là chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan trọng,
cấp bách. Luật nêu rõ các hành vi tham nhũng, các hành vi bị nghiêm cấm. Về trách
nhiệm của cơ quan báo chí, nhà báo, luật quy định: Cơ quan báo chí, nhà báo có trách
nhiệm đấu tranh chống tham nhũng, đưa tin về hoạt động PCTN và vụ việc tham
nhũng. Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
có thẩm quyền cung cấp thông tin liên quan đến hành vi tham nhũng. Cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin theo quy định của
pháp luật về báo chí và quy định khác của pháp luật có liên quan. Cơ quan báo chí, nhà
báo có trách nhiệm phản ánh khách quan, trung thực và chấp hành các quy định khác
của pháp luật về báo chí, quy tắc đạo đức nghề nghiệp khi đưa tin về hoạt động PCTN
và vụ việc tham nhũng. Việc sửa đổi nội dung của các văn bản này, một mặt nhằm đáp
ứng giải quyết các yêu cầu của thực tiễn, mặt khác cũng hài hòa hóa các quy định của
pháp luật Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế về vấn đề này, tạo điều kiện thuận lợi
cho hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng và thu hồi tài
85
sản tham nhũng. Các quy định này đã và đang được triển khai áp dụng trên thực tế sẽ
trở thành một hệ thống công cụ pháp lý đấu tranh có hiệu quả hơn đối với tham nhũng.
Nội dung sửa đổi, bổ sung thể chế về PCTN đã đề cập đến những nội dung cơ
bản, hết sức quan trọng góp phần vào hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng
như vấn đề mở rộng đấu tranh phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài Nhà nước
(Bộ luật Hình sự quy định 04 tội phạm tham nhũng trong khu vực ngoài Nhà nước bao
gồm tội tham ô, tội đưa hối lộ, nhận hối lộ và môi giới hối lộ; Luật Phòng, chống tham
nhũng năm 2008 quy định các biện pháp phòng ngừa tham nhũng trong một số loại
hình doanh nghiệp ngoài Nhà nước); vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng (Bộ luật hình
sự năm 2015 quy định người bị kết án tử hình về tội tham ô, nhận hối lộ mà sau khi kết
án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực
với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn
thì không thi hành hình phạt tử hình mà trong trường hợp này hình phạt tử hình sẽ được
chuyển xuống thành tù chung thân; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đưa ra
các phương án xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực và không được giải
trình một cách hợp lý...).
Trong thời gian qua, các văn bản trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội được sửa đổi nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch trong các hoạt động của các
cơ quan nhà nước, qua đó góp phần phòng ngừa tham nhũng như các quy định của
Luật Tiếp cận thông tin, các quy định liên quan đến quản lý tài chính công, đấu
thầu...Việc sửa đổi một cách tổng thể các quy định pháp luật trên nhiều lĩnh vực góp
phần tăng cường hơn nữa hiệu quả của công tác đấu tranh PCTN. Có thể thấy rằng thời
gian qua, việc hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng đã có những bước phát
triển khá toàn diện, cơ bản, đặc biệt là việc sửa đổi toàn diện Luật PCTN để phù hợp
với tình hình mới đã góp phần to lớn vào hiệu quả của công cuộc PCTN của Đảng và
Nhà nước ta.
Để thực hiện được các quy định của Luật PCTN, Chính phủ Việt Nam cũng
luôn xác định nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện thể chế nhằm phòng ngừa tham nhũng là
nhiệm vụ trọng tâm trong việc xây dựng: “Chính phủ kiến tạo, hành động và liêm
chính”. Cốt lõi của nhiệm vụ này là kiên quyết loại trừ các quy định pháp luật không rõ
ràng, không minh bạch, có biểu hiện lợi ích nhóm, gây khó khăn cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân [61, tr.77-80].
86
- Cùng với việc nỗ lực xây dựng thể chế và pháp luật, công tác chỉ đạo, điều
hành đấu tranh PCTN của Chính phủ và các bộ, ngành (cơ quan hành pháp ở trung
ương) cũng đạt được những kết quả quan trọng. Ngay sau khi Luật PCTN được Quốc
hội thông qua năm 2005, Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành khẩn trương tổ chức
thực hiện, xác định triển khai Luật PCTN là nhiệm vụ trọng tâm của năm 2006. Thủ
tướng Chính phủ ký ban hành “Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Luật
PCTN”, cụ thể hóa các nhiệm vụ, biện pháp PCTN được quy định trong Luật PCTN.
Đồng thời Chính phủ đã kịp thời ban hành các chương trình hành động thực hiện các
nghị quyết của Đảng về PCTN. Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành quán triệt và
triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Kết luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của
Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN; chỉ đạo Thanh tra Chính phủ phối hợp với
các cơ quan liên quan xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện công
tác PCTN đến năm 2020 nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước về công tác PCTN. Ban hành Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 08/02/2017 của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyến hóa” trong nội bộ. Thủ tướng Chính
phủ đã chỉ đạo yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện nghiêm các quy
định của Luật PCTN; đẩy mạnh nâng cao hiệu quả công tác PCTN, lãng phí, nhất là
công tác phòng ngừa tham nhũng; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các cá nhân,
tổ chức có vi phạm theo quy định của pháp luật [61, tr.76-77].
- Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã tập trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm
vụ về PCTN, trong đó ba năm đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng năm 2016 đã chỉ
đạo đánh giá kết quả hoạt động của Ban Chỉ đạo qua 05 năm thành lập; chỉ đạo việc
tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN và Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí. Thành lập 31 đoàn để
kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án
tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp được dư luận xã hội quan tâm tại 63 tỉnh
thành và 20 bộ, ngành và các địa phương, đã kiến nghị chỉ đạo xử lý 452 vụ việc, vụ án
tham nhũng, kinh tế...
Sau hơn 10 năm, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay việc
thực hiện nỗ lực triển khai thực hiện Luật PCTN và các chủ trương của Đảng, chính
87
sách, pháp luật của Nhà nước các cấp, các ngành trong bộ máy nhà nước, trong đó có
các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương đã đề ra và thực hiện nhiều nhiệm vụ,
giải pháp để thực hiện có hiệu quả công tác PCTN trong cơ quan, đơn vị mình, góp
phần quan trọng vào công tác đấu tranh PCTN trong bộ máy nhà nước nói chung và
các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng.
Tuy nhiên, nhìn trên bình diện chung có thể khẳng định thể chế, chính sách pháp
luật về PCTN trên một số lĩnh vực, nội dung chưa đáp ứng yêu cầu, còn nhiều bất cập,
tính khả thi không cao; chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực; công
tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa
được quan tâm thực hiện, nên dễ dẫn đến việc lạm quyền để trục lợi; chế độ trách
nhiệm, chế độ công vụ chưa rõ ràng, cụ thể. Nhiều quy định về các giải pháp phòng
ngừa tham nhũng còn mang tính hình thức, khó khăn, vướng mắc, hiệu quả thấp trong
tổ chức thực hiện chậm được sửa đổi, bổ sung; một số chủ trương, giải pháp về PCTN
được quy định trong nghị quyết của Đảng chậm được thể chế hóa. Việc nghiên cứu, đề
xuất các quy định nhằm nội luật hóa Công ước Liên hiệp quốc về Chống tham nhũng
chưa được quan tâm đúng mức.
Nhiều quy định của pháp luật về công khai, minh bạch trong hoạt động của các
cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa được thực hiện đầy đủ; trách nhiệm giải trình thực hiện
chưa nghiêm; vẫn còn tình trạng lạm dụng quy định về “mật” của nhà nước để không
thực hiện công khai, minh bạch. Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính hiệu
quả chưa cao; tình trạng sách nhiễu của cán bộ, công chức trong một số cơ quan quản
lý nhà nước chậm được khắc phục, vẫn đang là vấn đề bức xúc đối với người dân và
doanh nghiệp; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tuy đã được nâng lên, nhưng chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển và đòi hỏi của xã hội.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do PCTN là lĩnh vực phức tạp, liên
quan đến tất cả các cấp, các ngành và các lĩnh vực quản lý xã hội nên việc xây dựng
các văn bản pháp luật đòi hỏi sự nghiên cứu toàn diện, sâu sắc, dẫn đến nhiều văn bản
hoàn thành chậm so yêu cầu, tiến độ đã đề ra hoặc nội dung chưa gắn với thực tiễn.
Mặt khác, trách nhiệm quản lý nhà nước về một số nội dung của công tác PCTN đan
xen giữa các cơ quan, nhất là giữa Thanh tra Chính phủ với các bộ quản lý ngành, lĩnh
vực nên trong một số nhiệm vụ xây dựng thể chế, chính sách chưa có sự phối hợp tốt.
Một số cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự tích cực trong việc theo dõi, đánh giá
88
việc thực hiện các văn bản đã ban hành, thiếu nỗ lực trong việc rà soát, sửa đổi, bổ
sung các quy định có vướng mắc hoặc không phù hợp.
3.1.3. Ƣu điểm trong công tác phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà
nƣớc và các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng
3.1.3.1. Ưu điểm trong công tác phòng ngừa tham nhũng đối với bộ máy nhà
nước và các cơ quan hành chính cấp trung ương
Một là, thực hiện có hiệu quả cải cách hành chính, công khai minh bạch trong
hoạt động của cơ quan, đơn vị, đổi mới công nghệ quản lý. Trong đó, công tác cải cách
hành chính có tiến bộ ở các cấp, các ngành và cơ quan, đơn vị. Hệ thống thể chế được
bổ sung, hoàn thiện. Thể chế, pháp luật về hành chính công từng bước được đổi mới,
hoàn thiện. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các bộ, ngành cơ quan hành
chính được điều chỉnh phù hợp. Công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan,
đơn vị đã có nhiều chuyển biến, nhất là công khai, minh bạch về chính sách, pháp luật;
hoạt động chất vấn, trách nhiệm giải trình...
Hai là, xây dựng, thực hiện chế độ định mức, tiêu chuẩn bảo đảm minh bạch
góp phần phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Trong 10 năm thực hiện Luật PCTN đến
nay Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh
việc rà soát cơ chế, chính sách; sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định về chế độ,
định mức, tiêu chuẩn trên tất cả các lĩnh vực, nhất là một số lĩnh vực dễ phát sinh tham
nhũng như đất đai, tài chính, đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng tài sản công, chế độ hội
họp, chi tiêu nội bộ, chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức viên chức [12]...
Ba là, đạt được kết quả bước đầu trong thực hiện minh bạch tài sản thu nhập.
Từ năm 2007 đến nay, các bộ, ngành đã tích cực triển khai thực hiện việc kê khai tài
sản, thu nhập. Đến nay, tỷ lệ kê khai tài sản, thu nhập đúng thời hạn đã đạt 99,5%, công
khai đạt tỷ lệ 98,3%. Qua 10 năm đã xác minh được 4.859 trường hợp, phát hiện, xử lý
kỷ luật 17 người kê khai tài sản không trung thực. Trong năm 2017 thực hiện Quy định
số 85-QĐ/TW ngày 23/5/2017, của Bộ Chính trị về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài
sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.
Bốn là, xây dựng, thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp nhằm
xây dựng tính liêm chính của cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước. Qua hơn 10
năm thực hiện Luật PCTN, các bộ, ngành, địa phương đã chủ động ban hành và tổ
chức thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm
89
vụ, công vụ nhất là khi tiếp xúc, giải quyết các yêu cầu của người dân, doanh nghiệp;
tăng cường kiểm tra việc thực hiện quy tắc ứng xử tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị để
chấn chỉnh sai phạm. Riêng trong năm 2017 công tác kiểm tra việc thực hiện quy tắc
ứng xử đã được tiến hành tại 5.667 cơ quan, tổ chức, đơn vị tại các bộ, ngành, tỉnh,
thành phố, phát hiện và xử lý 192 cán bộ, công chức, viên chức vi phạm (tăng 61,3%
so với năm 2016) [12].
Năm là, Chính phủ đã ban hành và tổ chức thực hiện các quy định về tặng quà
và nộp lại quà tặng nhằm phòng ngừa hành vi hối lộ và nhận hối lộ - biểu hiện khá phổ
biến về tình trạng tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số
11-CT/TW ngày 20/12/2016 của Ban Bí thư Trung ương Đảng trong đó yêu cầu thực
hiện chủ trương nghiêm cấm tặng quà cho cấp trên dưới mọi hình thức; tiếp tục quán
triệt và chấp hành nghiêm Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg ngày 10/5/2007 của Thủ
tướng Chính phủ về Quy chế tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng. Thực hiện chủ
trương trên và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ một số địa phương đã trả lại, không
tiếp nhận xe do doanh nghiệp biếu tặng: Cà Mau trả lại 02 xe, TP. Đà Nẵng trả lại 01
xe. Có 02 trường hợp ở Bình Thuận và 01 trường hợp ở Lâm Đồng trả lại quà tặng với
số tiền 32 triệu đồng. Đã kiên quyết xử lý kỷ luật cán bộ cấp cao thiếu gương mẫu
trong việc nhận, sử dụng xe ô tô do doanh nghiệp biếu, tặng và sử dụng 02 nhà ở của
doanh nghiệp (vụ Nguyễn Xuân Anh - Ủy viên Ban Chấp Trung ương Đảng, Bí thư
Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng).
Sáu là, bước đầu đã đạt được một số kết quả thực hiện quy định về chuyển đổi
vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức nắm giữ các vị trí có nguy cơ tham
nhũng cao. Việc chuyển đổi vị trí công tác tiếp tục được các bộ, ngành, địa phương
thực hiện. Riêng năm 2017 đã tiến hành chuyển đổi vị trí công tác 29.261 cán bộ,
công chức, viên chức [12]. Thực hiện việc chuyển đổi công tác là cần thiết nhằm
phòng ngừa tham nhũng. Tuy nhiên việc thực hiện ở một số bộ, ngành, địa phương
theo quy định của pháp luật còn chưa thường xuyên, hình thức, thiếu kiểm tra, thanh
tra việc thực hiện.
Bẩy là, quyết liệt xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham
nhũng - biện pháp giáo dục trực quan làm gương cho kẻ khác để góp phần phòng ngừa
tham nhũng. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng cho
90
thấy, cả nước có 918 người đứng đầu và cấp phó đã bị xử lý do thiếu trách nhiệm để
xảy ra tham nhũng, trong đó xử lý hình sự 118 trường hợp; xử lý kỷ luật 800 trường
hợp. Riêng năm 2017, có 39 trường hợp người đứng đầu thiếu trách nhiệm để xảy ra
hành vi tham nhũng bị xử lý kỷ luật [12].
3.1.3.2. Ưu điểm trong công tác phát hiện, xử lý tham nhũng trong bộ máy
nhà nước và các cơ quan hành chính cấp trung ương
Một là, kết quả phát hiện và xử lý qua hoạt động thanh tra. Qua 10 năm thực
hiện Luật PCTN, công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, ngành Thanh tra đã
triển khai 93.696 cuộc thanh tra hành chính, 834.640 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên
ngành. Qua thanh tra, kiểm tra phát hiện nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm trên nhiều
lĩnh vực; kiến nghị thu hồi 142.160 tỷ đồng, 993.978 USD và 51.515 ha đất; chuyển
cơ quan điều tra 752 vụ, 1.143 đối tượng. Qua hoạt động thanh tra cũng đã phát hiện
670 vụ với 1.815 đối tượng có hành vi, biểu hiện tham nhũng với số tiền, tài sản liên
quan là trên 1 nghìn tỷ đồng; chuyển cơ quan điều tra 274 vụ, 429 đối tượng có dấu
hiệu tội phạm tham nhũng. Riêng năm 2017 đã triển khai 6.845 cuộc thanh tra hành
chính (tăng 1,6%) và 259.449 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành (giảm 5,4%).
Qua thanh tra đã kiến nghị xử lý hành chính trên 2.057 tập thể, cá nhân; ban hành
154.298 quyết định xử phạt vi phạm hành chính tổ chức, cá nhân với số tiền 5.403 tỷ
đồng; chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 105 vụ, 214 đối tượng (tăng 52,1% số
vụ; 100% số đối tượng); chấn chỉnh quản lý, kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách
pháp luật trên nhiều lĩnh vực.
Hai là, kết quả phát hiện và xử lý tham nhũng qua hoạt động kiểm toán. Kiểm
toán Nhà nước đã phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính hơn 187.530 tỷ đồng, chuyển
hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền xử lý tổng số 477 vụ việc (trong đó chuyển cơ quan
điều tra 73 vụ với 159 người có hành vi tham nhũng); đóng góp nhiều kiến nghị để
hoàn thiện chính sách, pháp luật. Riêng năm 2017 Kiểm toán nhà nước đã ban hành
329 báo cáo kiểm toán (tăng 7,5%). Kiểm toán đã phát hiện và kiến nghị các bộ, ngành
địa phương rà soát để hủy bỏ hoặc thay thế, sửa đổi, bổ sung 150 văn bản (tăng 45,6%)
không phù hợp với quy định chung của Nhà nước hoặc chưa phù hợp với thực tiễn
nhằm khắc phục những bất cập, sơ hở phát sinh tham nhũng [12].
Ba là, kết quả phát hiện và xử lý tham nhũng qua công tác điều tra, truy tố, xét
xử các hành vi tham nhũng có nhiều tiến bộ. Qua 10 năm thực hiện Luật PCTN, công
91
tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý với số lượng
lớn (đã khởi tố 2.530 vụ án tham nhũng với 5.447 bị can; truy tố 2.959 vụ, 6.935 bị
can; xét xử 2.628 vụ, 5.870 bị cáo). Riêng năm 2017 cơ quan điều tra đã thụ lý điều tra
354 vụ án, 785 bị can phạm tội về tham nhũng, đã khởi tố 202 vụ, 438 bị can; Viện
Kiểm sát các cấp thụ lý 255 vụ án, 571 bị can, đã giải quyết 222 vụ, 448 bị can, trong
đó truy tố 219 vụ, 481 bị can; Tòa an nhân dân các cấp đã thụ lý thủ tục sơ thẩm 345
vụ, 799 bị can, đã xét sử sơ thẩm 205 vụ, 433 bị cáo về các tội tham nhũng [12].
Công tác thu hồi tài sản tham nhũng trong 10 năm thực hiện Luật PCTN thiệt
hại do các vụ án tham nhũng đã gây ra được phát hiện là 59.750 tỷ đồng và trên 400 ha
đất. Số tiền đã thu hồi cho Nhà nước là 4.676 tỷ đồng và trên 219 ha đất [12]. Đáng chú
ý các năm từ nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay việc thu hồi tài sản các vụ án
tham nhũng được chú trọng hơn; việc kê biên, thu giữ tài sản trong một số vụ án tham
nhũng, kinh tế nghiêm trọng đạt cao (vụ Giang Kim Đạt hơn 300 tỉ đồng, vụ Hứa Thị
Phấn hơn 10.000 tỉ đồng, vụ Ngân hàng Đông Á hơn 2.000 tỉ đồng, vụ Phạm Công
Danh (giai đoạn 1) hơn 6.000 tỉ đồng, vụ Đinh La Thăng hơn 20 tỉ đồng, vụ Trịnh
Xuân Thanh hơn 45 tỉ đồng, vụ AVG gần 9.000 tỉ đồng...).
Qua kết quả PCTN thời gian qua từ khi thực hiện Luật PCTN đến nay đã có tác
dụng phòng ngừa, răn đe nhất định đối với tệ tham nhũng. Với quyết tâm của cả hệ
thống chính trị và ý thức trách nhiệm cao của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền
các cấp, sự cố gắng của các cơ quan chức năng, các tổ chức, đoàn thể, cơ quan báo chí,
truyền thông và nhất là vai trò quan trọng của quần chúng, nhân dân, công tác PCTN
đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động. Đại đa số cán bộ,
công chức có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, hoàn
thành tốt nhiệm vụ, giữ vững phẩm chất, đạo đức, không tham nhũng, không tiêu cực,
có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng, góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước, ổn định và phát triển kinh tế, xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng,
an ninh. Công tác PCTN đã có bước tiến quan trọng. Các giải pháp phòng ngừa tham
nhũng được quan tâm thực hiện đồng bộ, nhất là việc công khai, minh bạch hoạt động
của bộ máy nhà nước, cải cách hành chính, quản lý, sử dụng tài sản công. Trên một số
lĩnh vực, tham nhũng đã từng bước được kiềm chế. Những kết quả đạt được có ý nghĩa
quan trọng để tiếp tục thực hiện có hiệu quả cao hơn trong công tác PCTN trong thời
gian tới.
92
3.1.4. Những hạn chế công tác phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà
nƣớc và các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng và nguyên nhân
3.1.4.1. Những hạn chế công tác phòng, chống tham nhũng trong bộ máy
nhà nước và các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
Thứ nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác PCTN trong một số trường hợp
chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; xử lý chưa nghiêm đối với hành vi tham nhũng.
Một số nơi có biểu hiện coi nhẹ, chậm chỉ đạo thực hiện, không thường xuyên theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra; đã phát hiện nhiều vụ án tham nhũng lớn người đứng đầu là chủ
mưu, đồng phạm, lợi ích nhóm. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về PCTN còn hạn
chế; quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực bị buông lỏng, kỷ cương, kỷ luật chưa
nghiêm; một số nơi chưa thực hiện nghiêm túc, nói không đi đôi với làm, hành động
trên thực tế chưa tương xứng với quyết tâm chống tham nhũng; có trường hợp cán bộ
cơ quan bảo vệ pháp luật bao che, bảo kê cho vi phạm để vụ lợi.
Thứ hai, công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về PCTN chưa được coi
trọng dẫn đến nhận thức và ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức, đảng viên và
nhân dân về PCTN chưa cao. Ý thức, đạo đức công vụ của một bộ phận cán bộ, công
chức, viên chức còn hạn chế. Tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, đòi hối lộ trong quá
trình giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp vẫn còn xảy ra. Hiện tượng
tham nhũng, lợi ích nhóm phổ biến trong một số cơ quan hành chính cấp trung ương
không được phát hiện kịp thời do sự thờ ơ, sợ đụng chạm và thiếu ý thức bảo vệ kỷ
cương của Nhà nước, kỷ luật của Đảng.
Thứ ba, một số văn bản, đề án quan trọng phục vụ cho công tác PCTN chậm
được nghiên cứu ban hành làm cơ sở cho việc triển khai các biện pháp PCTN trong cơ
quan hành chính cấp trung ương như Đề án nghiên cứu kết hợp tổ chức và hoạt động
thanh tra với tổ chức và hoạt động kiểm tra của Đảng; Đề án truyền thông về PCTT
đến năm 2020, Đề án kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; Đề án
nghiên cứu học tập việc điều tra đặc biệt của các nước; Đề án xây dựng quy định áp
dụng điều tra đặc biệt quản lý theo quy trình chặt chẽ…Việc rà soát, đánh giá, sửa đổi,
bổ sung khắc phục những sơ hở, bất cập của chính sách, pháp luật vẫn còn chậm, nhất
là trong lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh
bình đẳng, minh bạch để phòng ngừa tham nhũng.
Thứ tư, cơ quan chuyên trách PCTN chưa thống nhất tập trung cao, ở nhiều bộ,
ngành các mối liên hệ chủ yếu thông qua quy chế phối hợp nên còn nhiều bất cập, nhất
93
là trong giải quyết vụ án lớn và chương trình chiến lược trọng tâm, trọng điểm. Hiệu
quả hoạt động của một số cơ quan, đơn vị có chức năng PCTN chưa đáp ứng yêu cầu
(lực lượng còn thiếu, tính chuyên nghiệp không cao, cơ cấu tổ chức chưa hợp lý). Do
vậy cần phải đổi mới thành lập và kiện toàn cơ quan chuyên trách phòng, chống tham
nhũng từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thứ năm, việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng tại nhiều cơ quan,
tổ chức, đơn vị còn hình thức, hiệu quả thấp. Cơ chế, chính sách còn thiếu, còn nhiều
sơ hở; chưa chú ý làm tốt công tác công khai, minh bạch trong các hoạt động của các
cơ quan nhất là vấn đề tài chính, thu nhập...Việc tổ chức thực hiện pháp luật còn yếu
kém, một số nơi còn buông lỏng quản lý để xảy ra vi phạm, tham nhũng; việc đánh giá
trách nhiệm của của cán bộ, công chức trong quản lý còn hạn chế; chế độ trách nhiệm,
chế độ công vụ chưa rõ ràng, cụ thể nhất là ở những khâu, quy trình thủ tục liên quan
tới công việc của người dân, doanh nghiệp. Việc kê khai tài sản, thu nhập còn nặng về
hình thức; hầu hết các bản kê khai chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng; chưa
giúp cho các cơ quan chức năng kiểm soát được những biến động về tài sản của người
có chức vụ, quyền hạn.
Thứ sáu, việc phát hiện tham nhũng chưa nhiều, chưa đầy đủ và hiệu quả không
cao. Các cơ quan chức năng như thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, xét xử, giám sát chưa
phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả. Vẫn còn hiện tượng chồng chéo trong hoạt động thanh
tra, kiểm tra. Một số cuộc thanh tra triển khai chậm so với kế hoạch; còn để kéo dài,
nhất là thời gian xây dựng báo cáo và kết luận thanh tra. Công tác đôn đốc, xử lý về
thanh tra có nhiều tiến bộ, tích cực cả về phương pháp cách thức xử lý nhưng tỷ lệ thu
hồi, xử lý khác về tiền, tài sản, đất đai còn thấp.
3.1.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại của phòng, chống tham
nhũng trong bộ máy nhà nước và các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
- Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, phòng ngừa tham nhũng có nội hàm rộng, đa dạng và phức tạp, liên
quan đến nhiều chính sách, pháp luật và hầu hết các lĩnh vực hoạt động của bộ máy nhà
nước, cán bộ, công chức, viên chức. Các giải pháp phòng ngừa tham nhũng thời gian
qua mới tập trung thực hiện ở khu vực công và đối với người có chức vụ, quyền hạn.
Trong khi đó, các mối quan hệ kinh tế - xã hội làm nảy sinh tham nhũng lại rất phức
tạp, không chỉ bó hẹp trong khu vực này.
94
Thứ hai, thể chế, chính sách về quản lý kinh tế-xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn
còn bộc lộ nhiều sơ hở, bất cập; việc tổ chức thực hiện ở nhiều khâu vẫn thiếu công
khai, dân chủ, chưa minh bạch thông tin về cơ chế, chính sách, pháp luật; chưa xóa bỏ
cơ chế “xin-cho” vốn tồn tại từ thời kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp… những
nhân tố đó vô tình hay hữu ý đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc dung dưỡng lòng tham
và làm nảy sinh tham nhũng, nhất là trên những lĩnh vực được coi là “màu mỡ”, như
quản lý đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng; khai thác tài nguyên, khoáng sản; đầu tư
xây dựng; quản lý vốn, tài sản nhà nước; công tác tổ chức-cán bộ; hoạt động tín dụng,
ngân hàng, thị trường chứng khoán; lĩnh vực y tế, giáo dục-đào tạo; hoạt động thanh
tra, kiểm tra, hải quan…
Thứ ba, nhiều quy định của Luật PCTN và các văn bản quy phạm pháp luật
dưới luật khi triển khai thực hiện trong thực tiễn xã hội đã và đang bộc lộ những hạn
chế, bất cập. Ngoài ra, quy định việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu cũng còn nhiều
vướng mắc, chưa nghiêm; việc luân phiên chuyển đối vị trí công tác đối với một số
chức danh cán bộ, công chức còn thiếu tính khả thi; trách nhiệm giải trình của người có
chức vụ, quyền hạn chưa rõ ràng; công khai minh bạch còn hình thức, đối phó...
- Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, một số cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu
chưa quyết liệt trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham
nhũng; một số nơi có biểu hiện coi nhẹ, chậm chỉ đạo thực hiện, không thường xuyên
theo dõi, đôn đốc, kiểm tra; đã phát hiện nhiều vụ án tham nhũng lớn người đứng đầu
là chủ mưu, đồng phạm, lợi ích nhóm, bao che cho tham nhũng. Việc quán triệt, chấp
hành các quy định về phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi chưa tốt, kỷ cương, kỷ
luật không nghiêm.
Thứ hai, công tác xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng ngừa
tham nhũng còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều quy định qua quá trình thực hiện,
sơ kết, tổng kết đã bộc lộ hạn chế, bất cập nhưng việc sửa đổi, bổ sung, khắc phục còn
chậm; việc cụ thể hóa các biện pháp phòng ngừa tham nhũng khi xây dựng, hoàn thiện
thể chế, chính sách trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội chưa được chú trọng đúng mức;
một số nội dung, biện pháp phòng ngừa tham nhũng theo quy định của Công ước Liên
hợp quốc về chống tham nhũng hoặc đã có chủ trương, nghị quyết của Đảng nhưng
chưa được nội luật hóa, thể chế hóa kịp thời…
95
Thứ ba, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo,
quản lý hoặc tiêu cực, tham nhũng khi có điều kiện. Ở nhiều nơi vai trò tiền phong,
gương mẫu của cán bộ quản lý và đảng viên không được phát huy đúng mức.
Thứ tư, năng lực, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức làm
công tác PCTN chưa đáp ứng yêu cầu của công tác PCTN trong tình hình hiện nay;
hiệu quả hoạt động của một số cơ quan, đơn vị có chức năng phát hiện, xử lý tham
nhũng còn hạn chế; thậm chí còn xảy ra tiêu cực, tham nhũng ngay trong chính các cơ
quan, đơn vị này [61, tr.107-108].
3.2. ƢU ĐIỂM, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG VỀ
PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
TỪ ĐẠI HỘI X CỦA ĐẢNG ĐẾN NAY
3.2.1. Ƣu điểm của thực trạng phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan
hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công tác kiểm tra của Đảng
Nhận thức đầy đủ tính nghiêm trọng và sự nguy hại của tham nhũng, thời gian
qua Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp tích cực thể
hiện quyết tâm chính trị trong công tác PCTN, lãng phí. Trong đó, tập trung chỉ đạo
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng gắn với vai trò, trách nhiệm của các
tổ chức đảng trong hệ thống chính trị với đấu tranh PCTN, lãng phí. Đồng thời cùng
với cùng với quyết tâm chính trị của của Đảng và Nhà nước ta, thời gian qua Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, với vai trò Trưởng Ban Chỉ đạo về PCTN
Trung ương đã có những phát ngôn mạnh mẽ, nhiều lần gửi đi thông điệp thể hiện tinh
thần và quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trước “giặc nội xâm” tham nhũng
như “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy” hay phát biểu bế mạc Hội
nghị Trung ương 6 khóa XII: “Ai đã trót nhúng chàm thì sớm tự gột rửa” và“Từ nay
trở đi, bất cứ trường hợp nào vi phạm kỷ luật, chúng ta phải xử lý nghiêm, làm nghiêm
từ trên xuống dưới để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để lấy lại và củng cố lòng
tin và tình thương yêu, quý trọng của nhân dân” và gần đây tại cuộc họp Ban Bí thư:
“...Tôi đã nói, nếu ai cảm thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác
làm”. Có thể coi đây là mệnh lệnh của người đứng đầu Đảng, Nhà nước ta, thể hiện
96
một quyết tâm không gì lay chuyển, đồng thời cũng là lời “tuyên chiến” không chỉ với
tham nhũng mà cả với những ai “cảm thấy cản trở, nhụt chí”.
Trước hết chúng ta nhận thức rằng công tác kiểm tra của Đảng có vị trí và vai
trò đặc biệt quan trọng trong PCTN, vì Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo
Nhà nước và toàn xã hội, hầu hết đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có chức, có quyền
đều là đảng viên và chịu sự quản lý, kiểm tra, giám sát của Đảng. Như vậy có thể
khẳng định rằng kiểm tra, giám sát là một trong những phương thức đấu tranh phòng
ngừa, ngăn chặn tham nhũng rất hiệu quả. Đó cũng là một trong những biện pháp phát
hiện nhanh và hiệu quả các vụ việc tham nhũng. Từ Đại hội X của Đảng đến nay, với
chức năng, nhiệm vụ của mình, cấp ủy, UBKT Trung ương và UBKT các cấp trong
các bộ, ngành cơ quan hành chính cấp trung ương đã tích cực tham gia và trực tiếp đấu
tranh PCTN. Qua đó đã có những đóng góp quan trọng vào cuộc đấu tranh PCTN, lãng
phí trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương, thể hiện trên các mặt công
tác cơ bản sau:
3.2.1.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra và
công tác phối hợp của cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban Kiểm tra các cấp đối với phòng,
chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
Thứ nhất, những kết quả đạt được trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ
công tác kiểm tra của Đảng về phòng, chống tham nhũng đối với các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương
Quyết tâm chính trị của Đảng thể hiện trước hết ở các quan điểm, chủ trương,
đường lối về PCTN trong các Văn kiện Đại hội và các chỉ thị, nghị quyết, quy định của
Đảng. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng, góp phần tích
cực vào công tác đấu tranh PCTN, tiêu cực, theo tinh thần nghị quyết đại hội và nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành kịp thời hệ
thống các văn bản về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật như: Hướng dẫn thực
hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII
và Chương VIII Điều lệ Đảng, Quy chế làm việc của UBKT Trung ương, Quy định
những điều đảng viên không được làm, các quy chế phối hợp, chương trình kiểm tra
hàng năm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư... Những thiết chế quan trọng này giúp tăng
cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và là những công cụ giúp cấp ủy, UBKT các
97
cấp thực hiện nhiệm vụ là cơ quan kiểm tra, giám sát chuyên trách của Đảng nói chung
và tham gia ngày càng có hiệu quả trong cuộc đấu tranh PCTN nhũng nói riêng.
- Thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng và cụ thể hóa Điều lệ Đảng Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 34 văn bản, bao gồm 14
văn bản liên quan đến công tác PCTN và ban hành 20 văn bản về công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật đảng, làm cơ sở cho UBKT các cấp thực hiện nhiệm vụ.
Trong đó, Ban Bí thư ban hành 16 quyết định về quy chế phối hợp giữa UBKT Trung
ương và các tổ chức ở các bộ, ngành trung ương để tăng cường phối hợp thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của đảng và công tác PCTN.
Bộ Chính trị tổng kết Chỉ thị số 29-CT/TW của Bộ Chính trị (khoáVIII) về tăng
cường công tác kiểm tra của Đảng, trên cơ sở đó trình Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương ra Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007 về tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng. Để triển khai, tổ chức thực hiện, UBKT Trung ương ban
hành Hướng dẫn số 08-HD/UBKTTW và xây dựng Chương trình hành động thực hiện
Nghị quyết. Nhằm tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác
kiểm tra, giám sát, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 72-KL/TW về Chiến lược công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020, đồng thời chỉ đạo, tổ chức nghiên cứu,
quán triệt trong toàn Ngành và xây dựng hướng dẫn thực hiện Kết luận.
- Nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư ban hành 31 văn bản liên quan đến công tác PCTN và ban hành 39 văn
bản về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, làm cơ sở cho Ủy ban
kiểm tra các cấp thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo ban
hành các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện công tác kiểm tra, giám sát thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” đã chỉ đạo kiểm điểm các nội dung trong thực hiện Nghị quyết đối với 30
tổ chức đảng ở Trung ương, 26 ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy và 4 cán bộ thuộc
diện Trung ương quản lý; chỉ đạo UBKT Trung ương nắm tình hình, thẩm tra, xác
minh làm rõ một số nội dung góp ý liên quan đến kiểm điểm tự phê bình và phê bình
của một số cán bộ cao cấp.
Thông qua chỉ đạo, tổ chức thực hiện các quy định, quyết định, quy chế, hướng
dẫn về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, chất vấn trong Đảng và PCTN, giúp cấp ủy,
tổ chức đảng, UBKT các cấp nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo,
98
tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng và PCTN; phát huy ưu
điểm, chấn chỉnh thiếu sót, khuyết điểm, điều chỉnh, bổ sung các chủ trương, chính
sách, nghị quyết, quy định không còn phù hợp, đề ra biện pháp khắc phục kịp thời, đưa
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật trong Đảng và PCTN ngày càng có hiệu quả và đi
vào nền nếp.
Thứ hai, những kết quả đạt được trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm
tra của Đảng, góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
Điểm nổi bật thời gian qua Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp uỷ, tổ chức đảng,
UBKT các cấp đã nhận thức rõ về vị trí, tầm quan trọng và vai trò trách nhiệm của
mình về công tác đấu tranh PCTN, qua đó đã tích cực chủ động triển khai nhiều
chương trình, kế hoạch và có biện pháp thiết thực để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ
công tác kiểm tra của Đảng, góp phần tích cực đấu tranh PCTN, lãng phí trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
- Trong nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xây dựng các
chương trình số 07, 37, 67, 97 về kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí trên những lĩnh vực nổi cộm, bức xúc như quản lý và giao đất cho các
dự án, về nợ đọng vốn ngân sách trong đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị
hành chính, sử dụng ngân sách tổ chức đi tham quan, học tập ở nước ngoài... và tiến
hành trên 31 cuộc kiểm tra theo các chương trình; chỉ đạo UBKT Trung ương chủ trì
giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp kiểm tra 22 ban thường vụ các tỉnh uỷ, thành uỷ
và 09 tổ chức đảng ở các bộ, ngành trung ương (trong đó có 04 đơn vị: BCS đảng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, BCS đảng Đài Truyền hình Việt Nam, Văn phòng Chính phủ,
BCS đảng Bộ Công Thương, thuộc các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương)
về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Cấp uỷ các cấp, tổ chức đảng và UBKT các cấp
đã tiến hành triển khai thực hiện các chương trình kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, thành lập trên 500 đoàn trực tiếp kiểm tra trên 1.300 tổ chức đảng trực thuộc.
Trong đó, cấp ủy của các bộ, ngành cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương đã
thành lập trên 40 đoàn trực tiếp kiểm tra trên 100 tổ chức đảng trực thuộc về thực hành
tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí.
Các cấp ủy đã kiểm tra 1.089.771 đảng viên, đã kết luận 11.594 đảng viên vi
phạm, trong đó có 2.953 đảng viên phải thi hành kỷ luật; kiểm tra 181.373 tổ chức
99
đảng, đã kết luận 6.327 tổ chức đảng có vi phạm, phải thi hành kỷ luật và đã thi hành
kỷ luật 163 tổ chức đảng. Trong đó, cấp ủy các cấp trong các bộ, ngành khối cơ quan
hành chính trung ương đã kiểm tra 250 tổ chức đảng và trên 3.700 đảng viên.
Ủy ban Kiểm tra các cấp đã kiểm tra 73.379 đảng viên, đã kết luận 55.210 đảng
viên phải thi hành kỷ luật và đã xử lý thi hành kỷ luật 29.745 đảng viên. Kiểm tra
15.772 tổ chức đảng, đã kết luận 9.396 tổ chức đảng có vi phạm và đã xử lý thi hành kỷ
luật 1.167 tổ chức đảng. Trong đó, UBKT các cấp ủy trong các bộ, ngành khối cơ quan
hành chính trung ương đã kiểm tra 70 tổ chức đảng và gần 145 đảng viên có dấu hiệu
vi phạm về tham nhũng, lãng phí. Riêng UBKT Trung ương đã kiểm tra 128 đảng viên
thuộc diện Trung ương và cấp ủy cấp dưới quản lý. Qua kiểm tra đã kiến nghị xử lý kỷ
luật 23 trường hợp, trong đó có 4 đồng chí nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương, 2 bí thư đảng ủy, chủ tịch HĐQT tập đoàn kinh tế nhà nước [91, tr.2-8].
- Nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kiểm đã xây dựng
các chương trình kiểm tra số 35, 71, 114 về kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng ngân sách và mua sắm tài sản công;
việc lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XI); Kiểm tra người đứng đầu cơ quan, tổ chức đảng các cấp trong việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao…và tiến hành kiểm tra đối với 69 cấp ủy và tổ chức đảng
trực thuộc Trung ương (trong đó, có 15 đơn vị là BCS đảng các bộ và ngành thuộc
khối các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương); đã xử lý kỷ luật khiển trách
01 tổ chức và thi hành kỷ luật 17 đảng viên (cảnh cáo 01, cách chức 09 và khai trừ 07
trường hợp).
Cấp ủy các cấp đã kiểm tra 243.612 tổ chức đảng, đã xử lý thi hành kỷ luật
1.388 tổ chức đảng. Nội dung kiểm tra tập trung vào việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện
các chỉ thị, nghị quyết, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp,
bảo đảm an ninh quốc phòng, thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Kiểm tra 1.167.693 đảng viên, qua kiểm tra đã kết luận 8.485 đảng viên vi phạm kỷ
luật và đã xử lý thi hành kỷ luật 1.818 đảng viên. Trong đó, cấp ủy các cấp trong các
bộ, ngành khối cơ quan hành chính trung ương đã kiểm tra trên 500 tổ chức đảng và
gần 6.000 đảng viên.
100
Ủy ban Kiểm tra các cấp đã kiểm tra 15.911 tổ chức đảng và 55.250 đảng viên
có dấu hiệu vi phạm. Trong đó, UBKT Trung ương đã kiểm tra 13 tổ chức đảng, 33
đảng viên thuộc diện Trung ương và cấp ủy cấp dưới quản lý. Đã đề nghị thi hành kỷ
luật 03 tổ chức đảng bằng hình thức khiển trách và thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển
trách 7, cảnh cáo 6). UBKT các cấp đã kiểm tra gần 15.900 tổ chức đảng và 55.220
đảng viên. Đã kết luận số tổ chức đảng có vi phạm 10.478 và thi hành kỷ luật 791 tổ
chức đảng, số đảng viên vi phạm 42.757, trong đó thi hành kỷ luật 18.331 đảng viên.
Trong đó, UBKT các cấp ủy trong các bộ, ngành khối cơ quan hành chính trung ương
đã kiểm tra trên 100 tổ chức đảng và gần 500 đảng viên có dấu hiệu vi phạm về tham
nhũng, lãng phí. Qua kiểm tra đã phát hiện sai phạm và đề nghị có quan chức năng thu
hồi hàng nghìn m2 đất và nộp ngân sách hàng nghìn tỷ đồng [92, tr.2-6].
- Trong các năm đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay công tác kiểm tra
của đảng được triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả. Cấp ủy các cấp đã kiểm tra
165.520 tổ chức đảng và 546.064 đảng viên, trong đó Bộ Chính trị, Ban Bí thư thành
lập 26 đoàn, kiểm tra tại 80 tổ chức đảng. UBKT các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi
phạm đối với 9.715 tổ chức đảng và 30.709 đảng viên. Trong đó, UBKT Trung ương
đã kiểm tra 23 tổ chức đảng và 28 đảng viên. Đồng thời kiểm tra chuyên đề công tác
phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng trong lĩnh vực thuế, hải quan; tham gia các
đoàn kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ
án tham nhũng kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Giải quyết tố
cáo 183 tổ chức đảng và 5.546 đảng viên. Kiểm tra tài chính đảng 8.542 tổ chức đảng
về thu, chi ngân sách và sản xuất kinh doanh; qua kiểm tra đã kiến nghị thu hồi cho
ngân sách gần 331 tỷ đồng, nộp ngân sách đảng 7,96 tỷ đồng, thu hồi công nợ tạm ứng
14 tỷ đồng [96; 97; 98].
Kết quả nêu trên cho thấy công tác kiểm tra của Đảng đối với hoạt động PCTN
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương đã được tiến hành hết sức chủ
động, toàn diện và đồng bộ, phù hợp với Điều lệ của Đảng, tập trung vào các cơ quan
hành chính nhà nước cấp trung ương trong quản lý những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát
sinh sai phạm, tham nhũng. Những vụ tham nhũng và vi phạm điều lệ, quy định của
Đảng ở những Đảng bộ quan trọng như Bộ Thông tin truyền thông, Bộ Công thương,
Bộ Giao thông vận tải đã cho thấy tinh thần làm việc nghiêm túc, công tâm, khách
quan, quyết liệt trong quá trình kiểm tra của cơ quan kiểm tra các cấp. Nhờ đó, yếu tố
101
kiểm tra trọng tâm, trọng điểm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đặc quyền, đặc
lợi, không trên nhẹ, dưới nặng, không có khoan nhượng và không có điểm dừng được
kiểm nghiệm trong thực tiễn trở thành kết quả ưu việt của quá trình PCTN trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua hoạt động kiểm tra của Đảng.
Thứ ba, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy trong các bộ, ngành các cơ quan hành
chính cấp trung ương đã chú trọng chỉ đạo thực hiện quy chế phối hợp trong thực hiện
nhiệm vụ công tác PCTN.
Để thực hiện có hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của Đảng với các tổ
chức đảng, bộ, ngành, cơ quan đơn vị liên quan, UBKT Trung ương đã chủ động tham
mưu, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành quy chế phối hợp để thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ công tác kiểm tra của Đảng, góp phần tích cực vào nhiệm vụ công tác PCTN.
- Nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng, Ban Bí thư đã ban hành các quy chế phối hợp
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng giữa UBKT Trung ương
với các tổ chức đảng, cơ quan, bộ, ngành trung ương có liên quan như: Văn phòng
Trung ương Đảng, Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, Ban Tổ chức
Trung ương, Đảng ủy Quân sự Trung ương; Ban Cán sự đảng Tòa án Nhân dân tối cao,
Đảng ủy Công an Trung ương, Ban Cán sự đảng Thanh tra Chính phủ, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Ban Cán sự đảng Kiểm toán Nhà nước, Ban Cán sự đảng Bộ Tài
chính, Ban Cán sự đảng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Đảng đoàn MTTQ Việt Nam, Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ
Biên tập Báo Nhân Dân. Phối hợp với Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN
(nay là Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN) trong việc triển khai, tổ chức thực hiện
nhiệm vụ PCTN, lãng phí, việc kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm, giải quyết tố cáo đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý, kiểm tra cơ quan tài
chính cấp uỷ...
- Nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, Ban Bí thư đã ban hành mới 6 quy chế phối
hợp với: Ban Đối ngoại Trung ương, Ban Cán sự đảng Bộ Nội vụ, Đảng ủy Khối
Doanh nghiệp Trung ương, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, Ban Cán sự đảng
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Nội chính Trung ương; sửa đổi, bổ sung, thay thế 8 quy
chế phối hợp với: Ban Cán sự đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn
MTTQ Việt Nam, Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, Ban Cán sự
102
đảng Thanh tra Chính phủ, Ban Cán sự đảng Kiểm toán Nhà nước, Ban Tuyên giáo
Trung ương.
Đến nay, Ban Bí thư đã ban hành quy chế phối hợp giữa UBKT Trung ương với
22 ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn các bộ, ngành ở Trung ương. Năm 2014, đã
tổ chức hội nghị sở kết đánh giá quy chế phối hợp với các ban đảng, ban cán sự đảng,
đảng đoàn các bộ, ban, ngành ở trung ương, là cơ sở để tiếp tục phát huy được hiệu quả
phối hợp và bổ sung những nội dung phù hợp nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong đó,
đã phối hợp chặt chẽ giữa UBKT với các ngành thanh tra, kiểm sát, công an, kiểm
toán, Nội chính và Ban Chỉ đạo PCTN các cấp trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm
vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, nhất là việc phối hợp trong giải quyết những
vụ việc trọng tâm, trọng điểm, có liên quan đến nhiều ngành chức năng. UBKT Trung
ương đã có nhiều biện pháp chủ động tích cực trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh
PCTN, thể chế hoá quy định của Đảng và Nhà nước thành nội dung, nhiệm vụ cụ thể
để triển khai thực hiện; chủ động nghiên cứu kinh nghiệm về PCTN của một số nước
và tổ chức quốc tế để vận dụng thực hiện trên phương diện chức năng, nhiệm vụ của
mình. Qua đó công tác phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí được tăng
cường. Các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán...đã tiến hành kiểm tra phát hiện xử
lý nghiêm nhiều vụ việc, vụ án tham lũng, lãng phí nghiêm trọng.
- Cấp ủy trong các bộ, ngành cơ quan hành chính cấp trung ương đã tăng cường chỉ
đạo phối hợp giữa UBKT cấp ủy và thanh tra, kiểm toán trong các bộ, ngành trong thực
hiện nhiệm vụ công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và thực hiện nhiệm vụ khác trong
phạm vi ngành, lĩnh vực, nhất là những nội dung có liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực
khác nhau để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ PCTN, lãng phí theo yêu cầu đề ra.
Như vậy, sự phối hợp giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác
giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra của Nhà nước ngày càng có hiệu quả hơn, các
hành vi tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương được phát
hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh. Qua kiểm tra, đã thi hành kỷ luật đối cả đối với Uỷ
viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Trung ương đảng, Thứ trưởng…, nhiều Ban cán sự đảng,
đảng đoàn và các cơ quan, tổ chức đảng, cá nhân có liên quan đã nhận thức đúng trách
nhiệm PCTN để phối hợp với UBKT, giúp cấp uỷ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đi đến
kết luận chính xác để tiến hành kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự thích đáng.
103
3.2.1.2. Thông qua công tác kiểm tra của Đảng đã góp phần thực hiện có
hiệu quả việc phòng ngừa tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương
Thứ nhất, thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục và tổ chức thực hiện các
quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về PCTN của cấp ủy, tổ chức
đảng và người đứng đầu trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương, đã
góp phần thực hiện có hiệu quả việc phòng ngừa tham nhũng. Nhiều cấp ủy, tổ chức
đảng trong các bộ, ngành cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương đã chủ động và
tích cực kiểm tra, giám sát đảng viên trong thực hiện quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về PCTN, lãng phí, coi đó là một trong nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên
cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thậm chí coi đây là tiêu chí đánh giá chất
lượng tổ chức đảng, đảng viên hàng năm.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo
đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên để ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí; thực hiện
nghiêm Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2001 của Ban Chấp hành Trung ương về
những điều đảng viên không được làm; quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc
Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, nhất là trong công tác PCTN, lãng
phí; đại đa số đảng viên đã chú ý hơn đến việc tự tu dưỡng bản thân và gương mẫu
chấp hành các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Các cấp ủy, tổ chức đảng trong các bộ, ngành cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI
về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ... gắn với việc thực hiện cuộc vận động "học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh" đạt được kết quả quan trọng, tạo chuyển biến tích cực, góp phần
cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước kiềm chế, ngăn chặn tiêu cực, suy thoái trong
Đảng. Qua quá trình kiểm điểm, phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XI và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ
cương của Đảng. Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong các bộ, ngành đã quan
tâm, trách nhiệm, chú trọng hơn trong lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống tiêu cực, tham
104
nhũng, lãng phí; tự nghiêm khắc với mình hơn, giữ gìn đạo đức lối sống, bước đầu tự
sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi và hoạt động trong công tác và cuộc sống
của mình và của gia đình, người thân.
Công tác tuyên truyền về hoạt động kiểm tra của Đảng phục vụ PCTN đã được
đổi mới về phương pháp và nội dung. Tạp chí Kiểm tra thường xuyên có chuyên mục,
bài viết về gương dũng cảm chống tiêu cực, tham nhũng cũng như cán bộ kiểm tra liêm
chính, tận tụy với công việc làm tốt chức trách, nhiệm vụ. UBKT các cấp đã quan tâm
phát huy nhân tố tích cực, những điển hình tiên tiến để hiệp thương và giới thiệu cấp có
thẩm quyền phong tặng các danh hiệu cao quý của Đảng và Nhà nước, như anh hùng
lao động, anh hùng lực lượng vũ trang… Đặc biệt từ khi có Thông báo kết luận số 226,
ngày 09/3/2009 của Ban Bí thư, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đã có nhiều hoạt động
tích cực tuyên truyền, phổ biến về kết quả kiểm tra, giám sát một cách công khai, dân
chủ, khách quan, đúng quy định, bước đầu tạo sự giáo dục, răn đe và sự đồng thuận, tin
tưởng của nhân dân và nội bộ Đảng về cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, thông qua công tác giám sát (bao gồm giám sát thường xuyên, bằng
các hình thức giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp và giám sát chuyên đề) của cấp
ủy, tổ chức đảng và UBKT cấp ủy thực hiện việc phòng ngừa tham nhũng, lãng phí.
- Nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng, cấp ủy các cấp đã giám sát 110.100 đảng viên
và 104.114 tổ chức đảng; UBKT các cấp đã giám sát 121.727 đảng viên và 44.707 tổ
chức đảng; trong đó, UBKT Trung ương đã giám sát 72 tổ chức đảng trực thuộc Trung
ương và 16 đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý.
- Nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, cấp ủy các cấp đã giám sát 414.636 đảng viên
và 129.957 tổ chức đảng; UBKT các cấp đã giám sát 213.320 đảng viên và 100.115 tổ
chức đảng; trong đó, UBKT Trung ương đã giám sát 119 tổ chức đảng trực thuộc
Trung ương và 64 đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý.
- Trong các năm từ đầu nhiệm kỳ XII của đảng đến nay công tác giám sát được
quan tâm chỉ đạo thực hiện, cấp ủy các cấp đã giám sát 107.298 tổ chức đảng và
370.320 đảng viên; UBKT các cấp đã giám sát 76.359 tổ chức đảng và 210.882 đảng
viên. Trong đó, UBKT Trung ương đã giám sát 74 tổ chức đảng và 103 đảng viên
thuộc diện Trung ương quản lý. Thực hiện chương trình, kế hoạch hàng năm, các đồng
chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương đảng đã làm việc và nắm tình hình tại các
105
bộ, ngành, địa phương, đơn vị. Qua đó kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo và cảnh báo, uốn nắn,
nhắc nhở những thiếu sót, khuyết điểm nhằm phòng ngừa không để xẩy ra vi, phạm,
tham nhũng, tiêu cực.
Qua công tác giám sát của cấp ủy, UBKT các cấp đã phát huy hiệu quả, giúp
cho tổ chức đảng và đảng viên phát huy ưu điểm, thấy được hạn chế, khuyết điểm để
kịp thời khắc phục, sửa chữa. Đồng thời phát hiện những bất cập trong lãnh đạo, quản
lý, trong cơ chế, chính sách, pháp luật để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện. Qua đó đã góp
phàn thực hiện việc phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan hành chính
nhà nước cấp trung ương.
3.2.1.3. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã phát hiện, xử lý
có hiệu quả một số vụ việc tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương
Thứ nhất, thông qua việc tiếp nhận và xử lý đơn, thư phản ánh, tố cáo; thông tin
phản ánh, kiến nghị của báo chí và dư luận xã hội của cấp ủy, UBKT cấp ủy trong các
cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương, đã góp phần vào việc phát hiện tham
nhũng, tiêu cực
- Nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng UBKT các cấp đã giải quyết tố cáo đối với 772
tổ chức đảng và 19.844 đảng viên. Trong đó, UBKT Trung ương đã xem xét, giải quyết
tố cáo đối 8 tổ chức đảng và 226 lượt đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý; phối
hợp với cấp ủy và một số cơ quan xem xét, giải quyết tố cáo đối với 40 đảng viên diện
Trung ương quản lý là ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XII. Qua giải quyết có 268
(34,7%) tổ chức đảng và 8.552 (43,1%) đảng viên có dấu hiệu vi phạm về tham nhũng,
cố ý làm trái chuyển sang kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm về tham nhũng.
- Nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng UBKT các cấp đã giải quyết tố cáo đối với
429 tổ chức đảng và 14.739 đảng viên. Trong đó, UBKT Trung ương đã xem xét, giải
quyết tố cáo đối 5 tổ chức đảng và 61 lượt đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý.
Qua giải quyết có 108 (24,4%) tổ chức đảng và 5.790 (39,2%) đảng viên có dấu hiệu vi
phạm về tham nhũng, cố ý làm trái chuyển sang kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm về
tham nhũng.
- Trong các năm từ đầu nhiệm kỳ XII của Đảng đến nay đã giải quyết tố cáo 35
tổ chức đảng và 1.412 đảng viên vi phạm hành vi tham nhũng, cố ý làm trái chuyển
sang kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm về tham nhũng.
106
Thứ hai, thông qua hoạt động kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu
hiệu phạm của cấp ủy, UBKT cấp ủy đã góp phần tích cực vào việc phát hiện tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
- Đại hội X các cấp ủy đảng đã kiểm tra trên 1.000.000 đảng viên, phát hiện
1.200 đảng viên vi phạm, thi hành kỷ luật gần 3.000 trường hợp; kiểm tra trên 180.000
tổ chức đảng, phát hiện hơn 6.000 tổ chức đảng vi phạm, xử lý kỷ luật 163 chức đảng.
Trong đó, cấp ủy các cấp trong các bộ, ngành khối cơ quan hành chính trung ương đã
kiểm tra 250 tổ chức đảng và trên 3.700 đảng viên. UBKT các cấp đã kiểm tra trên
73.000 đảng viên, phát hiện 55.000 đảng viên vi phạm, thi hành kỷ luật gần 30.000
đảng viên; kiểm tra trên 15.000 tổ chức đảng, phát hiện gần 9.000 tổ chức đảng vi
phạm, thi hành kỷ luật trên 1.000 tổ chức đảng. Trong đó, UBKT các cấp trong các bộ,
ngành khối cơ quan hành chính trung ương đã kiểm tra 70 tổ chức đảng và trên 145
đảng viên có dấu hiệu vi phạm về tham nhũng, lãng phí. Kiểm tra việc thu chi ngân
sách và sản xuất kinh doanh 1.955 đơn vị thuộc các tổ chức đảng. Qua kiểm tra kết
luận 135 tổ chức có vi phạm, trong đó phải thi hành kỷ luật 12 tổ chức; số đảng viên có
vi phạm 167, trong đó phải thi hành kỷ luật 51 đảng viên. Tổng số tiền vi phạm là
22.197 triệu đồng và kiến nghị thu hồi 5.163 triệu đồng.
- Đại hội XI đã kiểm tra trên 55.000 đảng viên và trên 15.000 tổ chức đảng
khi có dấu hiệu vi phạm; trong đó có 2.957 đảng viên có dấu hiệu vi phạm về tham
nhũng, cố ý làm trái và 263 tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm về tham nhũng, cố ý
làm trái. Trong đó, các bộ, ngành khối cơ quan hành chính trung ương đã kiểm tra
trên 100 tổ chức đảng và trên gần 500 đảng viên có dấu hiệu vi phạm về tham
nhũng, lãng phí. Nội dung kiểm tra tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn nổi cộm,
bức xúc, dễ phát sinh sai phạm như: quản lý kinh tế, tài chính, ngân sách; quản lý,
sử dụng đất đai, khoáng sản, tài sản công; các dự án, chương trình mục tiêu trọng
điểm…Kiểm tra tài chính hơn 7.800 tổ chức đảng về thu, chi ngân sách, sản xuất
kinh doanh, xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản, đề nghị xuất toán, thu hồi vào ngân
sách hàng chục tỷ đồng [32].
- Trong các năm từ đầu nhiệm kỳ XII của Đảng đến nay, UBKT các cấp
đã kiểm tra 96 tổ chức đảng và 3.606 đảng viên có dấu hiệu về tham nhũng, cố ý
làm trái.
107
Thứ ba, thông qua công tác kiểm tra, giám sát, giải quyết tố cáo có dấu hiệu vi
phạm tham nhũng thời gian qua đã xử lý thi hành kỷ luật đối với đảng viên và tổ chức
đảng về vi phạm kỷ luật đảng và vi phạm tham nhũng, lãng phí.
- Trong nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng: thi hành kỷ luật 76.135 trường hợp (có
3,5% vi phạm về tham nhũng, lãng phí) trong đó, khiển trách 31.589 (41,5%), cảnh cáo
310.153 (39,6%), cách chức 4.152 (5,4%), khai trừ 9.721 (12.7%). Số tổ chức đảng bị
thi hành kỷ luật 1.791 tổ chức, trong đó, khiển trách 1.307, cảnh cáo 483, giải tán 01 tổ
chức. Riêng UBKT Trung ương đã thi hành kỷ luật khiển trách 02 tổ chức đảng và 82
đảng viên, trong đó khiển trách 29, cảnh cáo 34, cách chức 8, khai trừ 11 trường hợp.
- Trong nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng: thi hành kỷ luật 17.325 trường hợp;
trong đó UBKT Trung ương đã thi hành kỷ luật 27 đảng viên, gồm khiển trách 14,
cảnh cáo 12, cách chức 01. UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật 17.298 trường hợp, trong
đó khiển trách 5.435, cảnh cáo 4.930, cách chức 518, khai trừ 6.415 trường hợp.
- Trong các năm từ đầu nhiệm kỳ XII của Đảng đến nay cấp ủy các cấp đã thi
hành kỷ luật 339 tổ chức đảng và 15.947 đảng viên; UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật
11.018 đảng viên; trong đó, UBKT Trung ương thi hành kỷ luật 66 đảng viên, UBKT
các cấp thi hành 10.952 đảng viên.
Trong đó, đã phát hiện, xử lý có hiệu quả tham nhũng, lãng phí trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương trên một số lĩnh vực như sau:
Một là, việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái để tham ô, hối lộ, chiếm
dụng tài sản nhà nước, tài sản công dân; che chắn, tiếp tay cho người khác vì vụ lợi:
Đây là hành vi tham nhũng xảy ra nhiều nhất, phổ biến nhất. Kẻ tham nhũng dùng
nhiều thủ đoạn khác nhau để tham ô, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, tập thể và cá
nhân, nhận hối lộ và dùng tiền, tài sản có giá trị để hối lộ. Những hành vi hối lộ thường
rất khó phát hiện hoặc chỉ phát hiện và xử lý được một phần. Rất nhiều kẻ phạm tội
đưa và nhận hối lộ đã thoát tội do các cơ quan có trách nhiệm, cơ quan pháp luật đến
nay vẫn thiếu biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và phát hiện, xử lý, do không tìm ra
được chứng cứ.
Hai là, việc lợi dụng sự yếu kém và buông lỏng trong quản lý để hoạt động vì
vụ lợi. Sự yếu kém, buông lỏng quản lý của Nhà nước và cơ quan quản lý các cấp đã
tạo cơ hội cho tham nhũng, tiêu cực phát triển. Những vụ tham nhũng, tiêu cực lớn trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc biệt trong các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý
108
và sử dụng đất đai, quản lý nhà, chi tiêu ngân sách, tài chính công, trong các tổng công
ty lớn của Nhà nước chính là điển hình của việc lợi dụng sự yếu kém và buông lỏng
lãnh đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát, kiểm soát của các cơ quan quản lý để thực
hiện hành vi tham nhũng với giá trị thiệt hại rất lớn và nghiêm trọng. Loại tham nhũng
này thường mang tính chất tập thể, có sự cấu kết chặt chẽ của cả cấp trên và cấp dưới,
cả trong Nhà nước với nước ngoài và ngoài xã hội (cả doanh nghiệp nhà nước với
doanh nghiệp tư nhân) để tham nhũng, có nhiều trường hợp thông qua thân nhân như
vợ, chồng, con cái, anh em để tác động nhằm mục đích vụ lợi.
Ba là, việc lợi dụng chức trách nhiệm vụ được giao trong việc tham mưu cho cấp
uỷ có thẩm quyền ban hành những chính sách, cơ chế, quy định, phê duyệt quy hoạch
kiến trúc đô thị, giao thông, các dự án đầu tư có lợi cho bản thân, gia đình hoặc một
nhóm người có chung động cơ, mục đích vụ lợi, gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức và
cá nhân. Đây là tham nhũng cơ chế, loại tham nhũng này rất tinh vi, xảo quyệt, rất khó
phát hiện và rất khó xử lý. UBKT Trung ương giải quyết đơn thư tố cáo đối với nguyên
Thứ trưởng Bộ đã vi phạm trong việc miễn giảm nộp thuế cho doanh nghiệp, áp mức
thuế thấp so với quy định trái thẩm quyền đối với một số doanh nghiệp có đề nghị bằng
văn bản riêng biệt, lẽ ra khi giải quyết phải bằng thông tư, quy định mang tính hướng dẫn
chung và một số sai phạm khác, gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước.
Bốn là, việc tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng thường thông qua các
hành vi chủ yếu sau: Hầu hết các công trình xây dựng đều xảy ra thất thoát tài sản do
cố ý làm trái ở tất cả các khâu từ lập, duyệt dự án, khảo sát, thiết kế, duyệt kế hoạch
vốn, đấu thầu, tư vấn, giám sát, nghiệm thu, thanh quyết toán công trình. Rút ruột công
trình: thay thế các nguyên, vật liệu chất lượng, đắt tiền bằng các loại khác kém chất
lượng không đảm bảo chất lượng cho công trình.
Một số vụ việc tiêu biểu trong việc phát hiện và xử lý vi phạm, trong đó có vi
phạm về tham nhũng, tiêu cực, qua việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm của UBKT
Trung ương, đó là:
Thứ nhất, qua kiểm tra khi có dấu hiệu vi đối với đồng chí nguyên Tổng Thanh
tra Chính phủ, UBKT Trung ương đề nghị Ban Bí thư thi hành kỷ luật bằng hình thức
cảnh cáo và yêu cầu trả lại Nhà nước quản lý thửa đất số 598B5, đường Nguyễn Thị
Định, phường Phú Khương, thị xã Bến Tre và nhà số 105, đường Nguyễn Trọng
Tuyển, phường 15, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. UBND Thành phố Hồ
109
Chí Minh và UBND tỉnh Bến Tre quyết định thu hồi nhà ở, đất ở đã cho thuê hoặc bán
theo Nghị định 61 không đúng đối tượng, tiêu chuẩn đối với đồng chí nguyên Tổng
Thanh tra Chính phủ...
Thứ hai, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư về xem xét làm rõ trách nhiệm
của đồng chí T, nguyên thứ trưởng Bộ Tài chính trong việc chỉ đạo Ngành Hải quan,
Ngành thuế dẫn đến thất thu ngân sách, kết quả kiểm tra đồng chí T đã có khuyết
điểm, sai phạm trong thực hiện cơ chế, chính sách về lĩnh vực xuất nhập khẩu của
Ngành Hải quan như:
+ Chậm chỉ đạo sửa đổi, bổ sung biểu thuế nhập khẩu, xuất khẩu phù hợp với
tình hình thực tế, vì có mặt hàng có tính năng, tác dụng gần giống nhau, nhưng có thuế
xuất chênh lệch khác nhau hàng chục lần, nên khi áp mã phân loại hàng hóa doanh
nghiệp hàng hóa có doanh nghiệp mô tả hàng hóa có lợi về mặt hàng có mã số thuế
thấp. Do đó đã chỉ đạo áp mã hàng hóa đối với đầu thu truyền hình kỹ thuật số không
đúng theo Nghị định số 06-NĐ/CP và các quy tắc phân loại hàng hóa theo Thông tư số
85/2003-TT/BTC đẫn đến gây thiệt hại ngân sách trên 83 tỷ đồng.
+ Cho phép Tổng cục Hải quan hoàn thuế nhập khẩu đối với doanh nghiệp
nhập khẩu để kinh doanh sau đó xuất vào khu chế xuất trái với quy định gây thất thu
ngân sách trên 1,7 tỷ đồng, có trách nhiệm trong việc miễn phạt chậm nộp thuế của hai
doanh nghiệp làm giảm thu ngân sách hơn 4 tỷ đồng. Ban hành văn bản hướng dẫn lùi
thời gian bắt đầu hưởng ưu đãi, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trái quy định dẫn đến
các doanh nghiệp đã đăng ký được miễn giảm gian lận thời gian miễn giảm để hưởng
lợi, làm giảm thu ngân sách nhà nước 13 tỷ đồng.
+ Thực hiện chủ trương cổ phần hóa và sắp sếp lại doanh nghiệp nhà nước,
Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để xử lý tài chính, cho
phép các doanh nghiệp giãn nợ, khoanh nợ và xóa nợ thuế thu nhập doanh nghiệp, các
khoản phải nộp theo quy định, ủy quyền cho Tổng cục Thuế thẩm định hồ sơ và quyết
định xử lý nợ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, lãnh đạo Bộ và đồng chí T thiếu chỉ đạo,
kiểm tra việc thực hiện, để Tổng cục Thuế quyết định xóa nợ cho một số doanh nghiệp
không đúng quy định, gây thất thoát cho ngân sách nhà nước 55 tỷ đồng và đồng chí T
trực tiếp có ý kiến đồng ý xóa nợ cho Nhà máy thuốc lá C trên 101 tỷ đồng không đúng
đối tượng quy định. Chỉ đạo và quyết định việc xử lý kết quả thanh tra của Tổng cục
110
Thuế đối với Công ty cổ phần X không đúng theo Nghị định số 30/1998-NĐ/CP, ngày
13/5/1998 của Chính phủ, gây thất thu cho ngân sách nhà nước trên 316 tỷ đồng.
Thứ ba, kiểm tra dấu hiện vi phạm đối với BCS đảng Bộ Công Thương và một
số đồng chí chủ chốt trong BCS đảng, qua kiểm tra có khuyết điểm, sai phạm sau:
+ Đối với BCS đảng Bộ Công Thương không kịp thời sửa đổi, bổ sung và tổ
chức thực hiện Quy chế làm việc theo đúng Quy định số 172-QĐ/TW, ngày 07/3/2013
của Bộ Chính trị đẫn đến vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của BCS đảng, trong đó có công tác cán bộ, khen thưởng một số trường hợp,
không thảo luận tập thể, dân chủ.
Thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, có biểu hiện nể nang dẫn đến
vi phạm trong tiếp nhận, bổ nhiệm, điều động cán bộ dẫn đến một số trường hợp chưa
bảo đảm nguyên tắc, quy trình, thủ tục, tiêu chuẩn, điều kiện, vi phạm Nghị định số
24/2010/NĐ-CP, ngày 15/3/2010 của Chính phủ, Thông tư số 13/2010/TT-BNV, ngày
30/12/2010 của Bộ Nộ vụ, điển hình như các trường hợp: TXT, VĐD, VQH...
Thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, có biểu hiện nể nang trong
quy hoạch cán bộ đối với một số trường hợp chưa đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục,
tiêu chuẩn, chưa phát huy trí tuệ, dân chủ trong BCS đảng, để đồng chí Bí thư BCS
đảng tự ý đề nghị bổ sung quy hoạch chức danh thứ trưởng Bộ Công Thương giai đoạn
2014-2016 và 2016-2021 với các trường hợp TXT, NXS,VTH không đúng với Nghị
quyết số 42-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX và Hướng dẫn 15-HD/BTCTW của Ban
Tổ chức Trung ương, đến khi NXS,TXT bị khai trừ ra khỏi đảng và bị truy tố, gây bức
xúc trong dư luận.
Quyết định bổ nhiệm TXT giữ chức Chánh văn phòng BCS đảng, Vụ trưởng,
thường trực Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Bộ CT khi thiếu điều kiện là vi
phạm Quyết định số 83/2004/QĐ-BNV, ngày 17/11/2004 của Bộ Nội vụ. Thiếu trách
nhiệm khi quyết định thuyên chuyển TXT về tỉnh Hậu Giang công tác; thực hiện
không đúng thẩm quyền trong việc ra văn bản đề nghị Tỉnh ủy Hậu Giang tạo điều kiện
thuận lợi để TXT được tham gia cấp ủy nhiệm kỳ 2011-2015.
Thiếu trách nhiệm, thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, các quy
định của pháp luật về thẩm định, đề nghị phong tặng danh hiệu anh hùng lao động cho
Công ty PVC, vi phạm Luật Thi đua khen thưởng năm 2003, Nghị định số
111
42/2010/NĐ-CP, ngày 15/4/2010 của Chính phủ và Quy chế làm việc của BCS đảng
Bộ Công thương.
Vi phạm của BCS đảng Bộ Công Thương đến mức phải xem xét thi hành kỷ
luật, theo Quy định số 263-QĐ/TW, ngày 08/10/2014 của Bộ Chính trị, tổ chức đảng
có thẩm quyền đã thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với BCS đảng Bộ
Công Thương.
+ Đối với đồng chí H, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư BCS
đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương không kịp thời sửa đổi, bổ sung và tổ chức
thực hiện Quy chế làm việc theo đúng Quy định số 172-QĐ/TW, ngày 07/3/2013 của
Bộ Chính trị đẫn đến vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của BCS đảng, tự ý đề xuất quy hoạch, bổ nhiệm một số cán bộ chưa đúng quy định.
Vi phạm của đồng chí H là rất nghiêm trọng theo Quy định số 181-QĐ/TW, ngày
30/3/2013 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, tổ chức đảng có thẩm
quyền đã thi hành bằng hình thức cách chức Bí thư BCS đảng Bộ Công Thương nhiệm
kỳ 2011-2016, Chính phủ cách chức vụ Bộ trưởng nhiệm kỳ này đối với đồng chí H.
+ Đối với đồng chí T, Ủy viên BCS đảng, Thứ trưởng Bộ Công Thương có liên
quan đến sai phạm của BCS đảng Bộ CT, ký đồng ý đề xuất chủ trương tiếp nhận, bổ
nhiệm TXT giữ chức Phó Chánh văn phòng Bộ, hàm vụ trưởng không đúng quy định.
Đồng ý bổ nhiệm TXT giữ chức Vụ trưởng, thường trực Ban đổi mới và phát triển
doanh nghiệp của Bộ Công Thương khi còn thiếu các điều kiện theo quy định. Vi phạm
của đồng chí T là nghiêm trọng theo Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30/3/2013 của Bộ
Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, tổ chức đảng có thẩm quyền đã thi hành
bằng hình thức khiển trách đối với đồng chí T.
Đặc biệt là trong các năm từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay hoạt
động của UBKT Trung ương đã nỗ lực, hiệu quả rất cao. Đã tiến hành kiểm tra dấu
hiệu vi phạm 47 tổ chức đảng, 52 đảng viên; trong đó 18 ban cán sự đảng các bộ,
ngành và cơ quan thuộc các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương. Đã đề nghị
xử lý kỷ luật 92 đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý, đề nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 08 tổ chức đảng trực thuộc
Trung ương và 45 đảng viên là cán bộ cao cấp, trong đó có 02 Ủy viên Bộ Chính trị, 19
Ủy viên Trung ương đảng, 22 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang.
112
Nổi bật là một số vụ việc được cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm như:
UBKT Trung ương đã quyết định kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với Trịnh xuân Thanh
(theo ý kiếm chỉ đạo của Tổng Bí thư) kiểm tra Ban Cán sự đảng Bộ Công thương, Bộ
Tài nguyên Môi trường, Bộ Thông tin và Truyền thông, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia
Việt Nam, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, Ban Thường vụ
Thành ủy Đà Nẵng, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Ngân hàng Thương mại cổ phần
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Đảng ủy Tổng cục Cảnh sát và Đảng ủy Tổng
cục Hậu cần-Kỹ thuật, Bộ Công an, Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân,
Bộ Quốc phòng, Quân chủng Hải quân, Bộ Quốc phòng, Tập đoàn Xăng dầu Việt
Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty phát triển đường cao tốc Việt Nam,
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sơn La và Khánh Hòa, Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố
Hồ Chí Minh.... Đã khai trừ ra khỏi đảng đối với Trịnh Xuân Thanh, Trần Bắc Hà,
nguyên Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐQT BIDV, Giáo sư Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng
Bộ Khoa học và Công nghệ; cách chức nguyên Bí thư Ban Cán sự đảng, Bộ trưởng đối
với Vũ Huy Hoàng, cảnh cáo và cách chức Thứ trưởng Bộ Công thương đối với Hồ
Thi Kim Thoa, cách chức Bí thư Thành ủy, cho thôi giữ chức Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương đối với Nguyễn Xuân Anh, cách chức Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI
và bí thư BCS đảng Bộ Thông tin và Truyền thông đối với Nguyễn Bắc Son, cảnh cáo
và cho thôi chức Bí thư BCS đảng Bộ Thông tin và Truyền thông đối với Trương Minh
Tuấn; đề nghị Ban Chấp hành Trung ương thi hành kỷ luật 02 đồng chí Ủy viên Bộ
Chính trị khóa XII bằng hình thức cảnh cáo và cho 01 thôi giữ chức Ủy viên Bộ Chính
trị...các kết luận của UBKT Trung ương khiến dư luận từ ngỡ ngàng này đến ngỡ
ngàng khác về những đối tượng bị xem xét kỷ luật và hình thức sai phạm. Qua đó đã
thể hiện tinh thần quyết tâm cao, bản lĩnh, không ngại va chạm, không có vùng cấm,
không có ngoại lệ, UBKT Trung ương đã kiểm tra, kết luận, làm rõ nhiều vụ việc,
quyết định thi hành kỷ luật và đề nghị thi hành kỷ luật nghiêm minh, chính xác, kịp
thời, trong đó có những đảng viên giữ cương vị cao của Đảng và Nhà nước, được dư
luận và nhân dân đồng tình ủng hộ.
Nhìn chung trong các nhiệm kỳ qua và những năm của nhiệm Đại hội XII của
Đảng đến nay, công tác PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
thông qua công tác kiểm tra của Đảng đã có nhiều chuyển biến tích cực, sự phối hợp
giữa UBKT với các ngành thanh tra, kiểm sát, công an, kiểm toán, Ban Chỉ đạo PCTN
113
Trung ương ngày càng trực tiếp và hiệu quả, nhất là có cơ chế phối hợp, thông tin
nhanh và giảm thủ tục hành chính; nhiều đơn vị phối hợp đã chủ động cử người tham
gia các đoàn kiểm tra, giám sát, tham dự các hội nghị giao ban, trao đổi vụ việc tạo sự
thống nhất hành động, tránh chồng chéo, dẫm chân nhau. UBKT Trung ương đã có
nhiều biện pháp chủ động, sáng tạo thúc đẩy cuộc đấu tranh PCTN; thể chế hoá quy
định của cấp trên để thực hiện và tiếp sức cho UBKT cấp dưới khi gặp khó khăn, cản
trở; tổ chức nhiều đoàn đi nghiên cứu về kinh nghiệm PCTN của một số nước và tổ
chức quốc tế.
Kết quả đấu tranh PCTN thông qua các cuộc kiểm tra, giám sát của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, cấp uỷ, UBKT các cấp, qua kiểm tra đối với tổ chức đảng cấp dưới và
đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên,
kiểm tra tài chính đảng của UBKT các cấp. Qua kiểm tra đã kịp thời kết luận về ưu
điểm, khuyết điểm, hạn chế, tồn tại, nguyên nhân. Đồng thời chỉ ra những sơ hở, bất
cập trong cơ chế, chính sách, trách nhiệm thực hiện của các tổ chức đảng, cơ quan nhà
nước và cán bộ, đảng viên; kịp thời yêu cầu, tổ chức, cá nhân có khuyết điểm chấn
chỉnh, sửa chữa, khắc phục; chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước sửa đổi, bổ sung,
ban hành các cơ chế, chính sách, pháp luật có liên quan để góp phần phòng ngừa, đấu
tranh PCTN, lãng phí; xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân có sai phạm hoặc liên
quan đến tham nhũng, lãng phí. Nhất là việc kiểm tra, kết luận làm rõ vi phạm, khuyết
điểm đối với Ban Thường vụ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) và Tổng
Công ty Cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC), được Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội đưa ra xét xử sơ thẩm và phúc thẩm vừa qua đối với bị cáo Đinh La Thăng,
Trịnh Xuân Thanh cùng với 20 thuộc cấp về hai tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản”; kiểm tra, kết
luận làm rõ khuyết điểm, vi phạm đối với Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền
thông, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Dự án Tổng Công ty viễn
thông Mobifone mua 95% cổ phần của Công ty cổ phần nghe nhìn Toàn cầu (AVG),
được Tòa án Cấp cao Hà Nội đưa ra xét xử vừa qua đối với Nguyễn Bắc Son, Trương
Minh Tuấn cùng 12 đồng phạm trong thương vụ MobiFone mua AVG; Trung ương đã
quyết định khai trừ ra khỏi Đảng đối với Đinh La Thăng, Trần Bắc Hà, Giáo sư Chu
Hảo, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn... là lời cảnh tỉnh, răn đe nghiêm khắc hành
vi tham nhũng, cố ý làm trái đối với bất kỳ đối tượng nào. Đã góp phần giữ gìn “kỷ
114
cương phép nước” nói chung và kỷ luật của Đảng nói riêng, góp phần vào việc PCTN,
“lợi ích nhóm”, tiêu cực. Qua đó đã giúp các tổ chức đảng phát huy ưu điểm, kịp thời
chấn chỉnh các khuyết điểm, vi phạm, đề ra biện pháp sửa chữa, ngăn ngừa các vi
phạm, kịp thời nhắc nhở, uốn nắn, góp phần chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng ở bộ, ngành, cơ
quan, đơn vị.
3.2.1.4. Nguyên nhân của những kết quả đạt được
- Nguyên nhân khách quan là do: Công tác đấu tranh PCTN, lãng phí luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo. Nhiều chủ trương, chính sách quan trọng, các
nghị quyết, chỉ thị chuyên đề được ban hành nhằm định hướng cho công tác PCTN,
như các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá" trong nội bộ…Từ đó, định hướng, chỉ đạo, lãnh đạo cuộc đấu tranh
PCTN, lãng phí góp phần phát triển ổn định kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị
và trật tự, an toàn xã hội.
Bên cạnh đó Chính phủ và các cơ quan Nhà nước đã chỉ đạo quyết liệt việc triển
khai thực hiện đồng bộ các giải pháp PCTN: Hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính
công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; xây dựng, thực
hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn, trả lương qua tài khoản, đổi mới phương thức thanh
toán; về minh bạch tài sản, thu nhập và việc nộp lại quà tặng; xây dựng, thực hiện quy
tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức; chuyển đổi
vị trí công tác; xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng; tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về PCTN; điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh;
tạo cơ chế cho người dân và báo chí tham gia đấu tranh PCTN…
Nhận thức về đấu tranh PCTN, lãng phí trong những năm qua đã được nâng cao
trong cấp ủy, tổ chức đảng các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị. Công tác tuyên truyền được
đẩy mạnh, tạo được dư luận rộng rãi lên án những hành vi tham nhũng, tiêu cực và
đồng tình với những chủ trương và giải pháp của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh
PCTN hiện nay.
- Song nguyên nhân cơ bản đạt được kết quả trên là do những yếu tố chủ quan
sau: UBKT Trung ương và UBKT các cấp ủy trong các bộ, ngành trung ương có
nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ
115
luật trong Đảng do Điều lệ Đảng quy định, trong đó có các nhiệm vụ liên quan trực tiếp
đến công tác PCTN.
Đồng thời được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là sự chỉ đạo sát sao của Tổng Bí thư, người đứng đầu
Ban Chỉ đạo trung ương về PCTN; UBKT Trung ương đã chủ động, tích cực đổi mới
phương thức hoạt động, chú trọng nâng cao hiệu quả công tác, có nhiều cố gắng, nỗ lực
đề ra nhiều giải pháp chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong thực
hiện PCTN, lãng phí. Đã triển khai nhiều cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm một
cách khẩn trương, kịp thời thể hiện tinh thần quyết tâm cao, bản lĩnh, không ngại va
chạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đã kết luận, làm rõ nhiều vụ việc, quyết
định thi hành kỷ luật và đề nghị thi hành kỷ luật nghiêm minh, chính xác, kịp thời,
trong đó có những đảng viên giữ cương vị cao của Đảng và Nhà nước, được dư luận và
nhân đồng tình ủng hộ cao.
Cấp ủy, UBKT các cấp trong các bộ, ngành cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương đã có nhiều cố gắng trong kiểm tra khi có dấu hiệu tham nhũng, giải quyết
tố cáo đối với đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu tham nhũng, kiểm tra tài chính đảng
và các nhiệm vụ khác với nhận thức PCTN là một trong những nội dung quan trọng,
thường xuyên…
3.2.2. Những hạn chế về phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành
chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Thứ nhất, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít cấp ủy, tổ chức đảng
còn hạn chế, tính tiền phong, gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó
có người đứng đầu chưa cao. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ
cơ quan, đơn vị còn nhiều hạn chế. Không ít cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị
chưa gương mẫu, kiên quyết, tích cực đấu tranh chống tham nhũng; che dấu những
khuyết điểm, hành vi tham nhũng trong cơ quan, đơn vị mình. Nhiều chi bộ đảng chưa
quản lý tốt đảng viên; chưa phát hiện và đấu tranh kịp thời những trường hợp có dấu
hiệu tham nhũng, lãng phí, cố ý làm trái...
Bên cạnh đó nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng trong các bộ, ngành cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương về vai trò trách nhiệm của UBKT cấp ủy
trong PCTN chưa đầy đủ, thậm chí còn lệch lạch, nên chưa thực sự quan tâm tạo điều
116
kiện thuận lợi, chưa chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo để UBKT thực hiện có hiệu quả công
tác PCTN đúng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đạt chất lượng, hiệu
quả. Một số cấp uỷ, tổ chức đảng trong các các bộ, ngành cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương chưa thật sự coi kiểm tra của Đảng là những chức năng lãnh đạo nên
chưa gắn với quá trình lãnh đạo; chưa xây dựng được chương trình kiểm tra cả nhiệm
kỳ. Công tác chỉ đạo thực hiện sự phối hợp giữa UBKT với các tổ chức đảng, cơ quan
có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra chưa chặt chẽ và thiếu đồng bộ. Đáng
chú ý một số UBKT cấp ủy còn nhận thức chưa đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình
trong kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, nhất là vi phạm về
tham nhũng, nên còn nể nang, né tránh, ngại va chạm, khi có vụ việc dấu hiệu về tham
nhũng đối với cấp uỷ viên cùng cấp, đặc biệt là ủy viên ban thường vụ, cán bộ thuộc
diện cấp ủy cùng cấp quản lý thì có biểu hiện né tránh, báo cáo xin ý kiến của cấp ủy,
nếu cấp ủy không đồng ý thì không quyết định và tiến hành kiểm tra.
Do vậy công tác kiểm tra, giám sát của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa thường
xuyên, liên tục, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc xử lý đối với tổ chức đảng và đảng
viên vi phạm còn thiếu kiên quyết, chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái,
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Thứ hai, về thực trạng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng hiện
nay cho thấy, với cơ chế UBKT do cấp ủy cùng cấp bầu ra, tuy về danh nghĩa “quyền”
của nó cũng ngang như “thường vụ” (cũng do cấp ủy bầu ra) nhưng trên thực tế hoạt
động của UBKT các cấp hiện nay có một số vướng mắc, thực chất UBKT gần như trở
thành một cơ quan tham mưu, giúp việc cho cấp ủy. Cơ chế đó hiện đang dẫn đến một
số bất cập sau đây:
Một là, hiệu lực của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng còn bị hạn chế,
khi làm việc nhiều cán bộ kiểm tra còn phải trông chừng, xem ý lãnh đạo để thực hiện
nhiệm vụ. Hai là, hoạt động của đội ngũ cán bộ kiểm tra còn chịu một “sức ép” hữu hình
hoặc vô hình của một số cá nhân cấp ủy viên, thậm chí bị xen vào những ý đồ cá nhân
trong một số trường hợp xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên. Ba là, hiệu quả còn hạn chế
trong việc kiểm tra cấp ủy viên cùng cấp cũng như trong việc đấu tranh chống tiêu cực,
tham nhũng vì liên quan những đảng viên có chức, có quyền. Trong thực tế đã hình
thành một “vùng cấm” kiểm tra. Chính vì còn những khuyết điểm, hạn chế nêu trên, nên
117
tình hình vi phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên còn diễn biến phức tạp, nhất là
tình trạng tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm, suy thoái về đạo đức, lối sống…
Thứ ba, cơ chế, chính sách và quy định về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi thẩm
quyền của UBKT các cấp trong PCTN còn thiếu cụ thể, chưa đầy đủ phù hợp. Bên
cạnh đó tổ chức bộ máy của cấp ủy, UBKT, cơ quan UBKT và đội nghũ cán bộ kiểm
tra còn nhiều hạn chế, bất cập.
- Chưa có quy định về chức năng, nhiệm vụ và phạm vị, trách nhiệm, thẩm
quyền của UBKT cấp ủy đảng trong đấu tranh PCTN và kiểm soát quyền lực và cơ chế
phối hợp giữa UBKT cấp ủy với các tổ chức đảng, cơ quan liên quan trong PCTN,
kiểm soát quyền lực để có cơ sở pháp lý thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác này.
Mặt khác UBKT cấp ủy chưa có thẩm quyền kiểm tra, giám sát tương xứng
ngang tầm, như chưa được quyền điều phối chung hoạt động điều tra các vụ án tham
nhũng liên quan đến tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên khi huy động vai trò của cơ quan
thanh tra, cơ quan điều tra, cơ quan tòa án, viện kiểm sát trong phối hợp thực hiện các
biện pháp đấu tranh PCTN trong các vụ án cụ thể.
- Tổ chức bộ máy UBKT, cơ quan UBKT hiện nay chưa tương xứng, ngang tầm
với nhiệm vụ. UBKT Trung ương chưa có đơn vị chuyên sâu trong lĩnh vực thực hiện
hiện công tác kiểm tra, giám sát về PCTN, mô hình hiện nay từng đơn vị (vụ phụ trách
lĩnh vực, địa bàn đều phải thực hiện cả 5 nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, trừ nhiệm vụ
kiểm tra tài chính đảng) do vậy không chuyên sâu, không có tính chuyên nghiệp, bên
cạnh đó trình độ cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập.
Đối với cấp ủy và UBKT cấp ủy trong các bộ ngành cơ quan hành chính nhà
nước cấp trung ương còn nhiều hạn chế, bất cập. Trong một bộ, ngành đồng thời tồn tại
hai tổ chức đảng là Đảng bộ và BCS đảng bộ, ngành. Trong khi đó vai trò của Đảng ủy
còn hạn chế trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị (bộ, ngành), mô
hình tổ chức chưa thống nhất, cấp ủy và cán bộ cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp
ủy chủ yếu kiêm nhiệm; bên cạnh đó BCS đảng các bộ, ngành có vị trí, vai trò trực tiếp
lãnh đạo nhiệm vụ chính trị và công tác tổ chức, cán bộ. Đối với UBKT cấp ủy chủ yếu
là kiêm nhiệm, đa số chỉ có một số chức danh phó chủ nhiệm và cán bộ chuyên trách,
không đủ khả năng thực hiện nhiệm công tác kiểm tra, giám sát nói chung và PCTN
nói riêng.
118
- Về phương pháp thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của UBKT cấp ủy còn
có mặt bất cập, nhất là phương pháp dựa vào tổ chức đảng cho thấy hầu hết tổ chức
đảng vì nhiều lý do có biểu hiện giấu giếm vi phạm, bao che cho cán bộ vi phạm, nhất
là người đứng đầu có vi phạm do vậy không phát huy được vai trò, trách nhiệm của tổ
chức đảng trong kiểm tra, giải quyết tố cáo về tham nhũng. Về phương pháp phát huy
tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên tự phê bình và phê bình cho thấy, tổ
chức đảng và đảng viên khi có vi phạm thì ý thức tự phê bình và phê bình yếu, rất ít khi
nhận khuyết điểm, vi phạm, trong khi vi phạm về tham nhũng khó phát hiện, chứng cứ
khó xác định.
Một phương pháp cơ bản khác là phát huy vai trò của quần chúng, cán bộ, công
chức trong công tác xây dựng đảng (trong kiểm tra, giám sát) thì khó khăn, trở ngại,
nhất là chưa có biện pháp hữu hiện bảo vệ người tố cáo nên họ sợ bị trả thù, trù dập;
mặt khác chưa có quy định giải quyết đơn, thư tố cáo dấu tên, mạo danh về tham nhũng
nên ảnh hưởng đến việc phản ánh, tố cáo của người tố cáo, đến việc thụ lý, thu thập
thông tin để giải quyết tố cáo, kịp thời, đầy đủ.
Về phương pháp thẩm tra - xác minh: Dấu hiệu vi phạm về tham nhũng vừa tinh
vi, xảo quyệt, vừa khó phát hiện, làm rõ, vừa khó tìm ra chứng cứ chứng minh nhưng
hiện nay trong Đảng chỉ quy định thực hiện 5 phương pháp cơ bản, trong đó có phương
pháp thẩm tra, xác minh theo phương pháp công tác Đảng, vì vậy rất khó khăn trong
quá trình thẩm tra - xác minh, làm rõ chứng cứ, chứng lý để xem xét, kết luận được
chuẩn xác, khiến đối tượng vi phạm phải thực sự tâm phục, khẩu phục (không có điều
tra, xét hỏi, thẩm vấn...theo các cơ quan điều tra xét xử).
Thứ tư, việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí thông
qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng còn nhiều hạn chế, bất cập. Trong đó, việc
phát huy trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị gương mẫu trong thực
hiện hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng còn hạn chế. Việc kê khai tài sản, thu
nhập còn nặng về hình thức, hầu hết kê khai chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm
chứng; trách nhiệm giải trình trong thực hiện kê khai tài sản, thu nhập chưa cụ thể,
chính xác, dẫn đến nhiều cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cao cấp
chưa gương mẫu, trung thực trong thực hiện kê khai tài sản, thu nhập; chưa giúp cho
công tác kiểm tra, giám sát của đảng thực hiện tốt việc phát hiện, xử lý tham nhũng
trong thực hiện nhiêm vụ công tác này.
119
Công tác giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và UBKT các cấp ủy về phát hiện
tham nhũng còn nhiều hạn chế. Có cán bộ đảng viên phạm sai lầm, khuyết điểm kéo
dài, thậm chí thoái hoá biến chất, mà tổ chức đảng không kịp thời kiểm tra, không biết
và xử lý. Có chi bộ, đảng bộ tiêu cực, tham nhũng nghiêm trọng, kéo dài nhưng do cấp
trên không giám sát, kiểm tra, phát hiện nên vẫn được đánh giá là trong sạch, vững
mạnh nhiều năm liền. Tình hình đơn, thư khiếu nại, tố cáo của đảng viên và công dân
không giảm, nội dung tố cáo phần lớn là đúng hoặc đúng một phần. Nhưng việc giải
quyết rất chậm, không rõ trách nhiệm, đùn đẩy vòng vo từ cấp dưới lên cấp trên, từ cơ
quan này sang cơ quan khác, gây nên nỗi bức xúc, nặng nề trong xã hội.
Bên cạnh đó qua công tác kiểm tra, giám sát của đảng đã phát hiện lỗ hổng, sơ
hở cơ chế, chính sách chưa được cấp có thẩm quyền nghiên cứu xem xét để điều chỉnh
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hoặc được tiếp nhận nhưng chậm sửa đổi, bổ sung.
Thứ năm, công tác phát hiện tham nhũng, tiêu cực qua thực hiện nhiệm vụ
công tác kiểm tra của đảng còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng vị trí vai trò và yêu
cầu nhiệm vụ. Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả nhưng so với yêu cầu thực tế về
phòng, chống tham nhũng và trách nhiệm của cấp ủy, UBKT các cấp thì việc kiểm tra
trong PCTN chưa đáp ứng yêu cầu, chưa chủ động phát hiện dấu hiệu vi phạm về
tham nhũng, nhiều vụ việc tham nhũng chưa được phát hiện kịp thời để kiểm tra, có
vụ việc nghiêm trọng một thời gian dài mới được phát hiện để kiểm tra, tác dụng
phòng ngừa, ngăn chặn hạn chế. Có trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm tham
nhũng nhưng UBKT còn có biểu hiện né tránh, cấp uỷ chỉ đạo, đồng ý mới tiến hành
kiểm tra, kết luận và xử lý. Một số vụ việc để kiểm tra, nhưng xử lý chậm hoặc xử lý
chưa kiên quyết, triệt để, dứt điểm, chưa tạo được sự đồng tình của cán bộ, đảng viên
và quần chúng.
Việc phát huy trách nhiệm quần chúng, cán bộ, công chức trong đấu tranh
PCTN của cấp uỷ, UBKT các cấp ở một số nơi chưa đầy đủ, kịp thời; có khi còn định
kiến, mặc cảm với người tố cáo, chưa tạo điều kiện cho người tố cáo thực hiện hết trách
nhiệm của họ. Một số cán bộ chủ chốt ở các cấp chưa đích thân tiếp dân đến tố cáo
theo quy định. Chưa có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ người tố cáo tham nhũng đúng bị
trả thù, trù dập. Có trường hợp không có sự chỉ đạo kiên quyết của cấp trên thì vụ việc
tố cáo không được giải quyết dứt điểm, triệt để, có kết quả. Có tình trạng trên là do một
số cấp uỷ, tổ chức đảng và UBKT ở các cấp còn nhận thức chưa đúng về tố cáo và giải
120
quyết tố cáo, nhất là trong việc phát huy vai trò, trách nhiệm của đảng viên và nhân dân
trong tố cáo tham nhũng.
Kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm đã được
xác định là nhiệm vụ trọng tâm, nhưng chất lượng, hiệu quả thực hiện còn hạn chế; còn
nhiều cấp ủy, UBKT cấp ủy chưa thực hiện, nên kết quả kiểm tra và xử lý kỷ luật chưa
tương xứng với thực tế vi phạm, nhất là vi phạm về tham nhũng. Thậm chí để xảy ra vi
phạm mới tiến hành kiểm tra. Còn nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và UBKT ngại thực hiện
nhiệm vụ này vì nể nang, nhất là khi kiểm tra cán bộ lãnh đạo.
Thứ sáu, việc xử lý kỷ luật trong Đảng vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm: một
số nơi vẫn còn tình trạng hữu khuynh, nể nang, né tránh, không công bằng, không xử lý
hoặc xử lý không đúng mức. Đáng lưu tâm là: tình hình vi phạm của tổ chức đảng,
đảng viên vẫn có chiều hướng gia tăng nhưng việc phát hiện, xem xét để xử lý kỷ luật
chưa tương xứng với thực tế vi phạm. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, hối
lộ không giảm nhưng cũng chỉ phát hiện, xử lý được rất ít chưa phản ánh đúng thực tế
tình trạng tham nhũng thời gian qua. Vi phạm trong việc chấp hành nghị quyết, thiếu
trách nhiệm trong lãnh đạo, quản lý để xảy ra hậu quả xấu, nghiêm trọng chưa được
quan tâm xử lý đúng mức, nhiều trường hợp xử lý chậm trễ. Đảng viên có tài sản bất
minh trong thực tế có nhiều nhưng chưa được kiểm tra và xử lý kỷ luật; trong xem xét,
xử lý kỷ luật, một số cấp uỷ, UBKT chưa làm tốt công tác thẩm tra, xác minh, chưa xác
định đúng nội dung vi phạm, chưa phân tích, đánh giá đúng mức độ, tác hại, tính chất,
nguyên nhân vi phạm nên việc xử lý kỷ luật chưa thật chính xác. Một số cấp uỷ, UBKT
trước khi quyết định kỷ luật chưa gặp và làm tốt công tác tư tưởng đối với người vi
phạm; việc xử lý kỷ luật còn hiện tượng nhẹ trên, nặng dưới, không kịp thời, còn tình
trạng vụ nhỏ, cán bộ giữ chức vụ nhỏ thì giải quyết nhanh, vụ lớn, cán bộ giữ chức vụ
lớn thì giải quyết chậm, các vụ việc liên quan đến đảng viên trong các cơ quan bảo vệ
pháp luật thì khó giải quyết. Đối tượng vi phạm thường kém tự giác, không nhận thức
đúng vi phạm của mình, còn quanh co đổ lỗi cho khách quan, cho tập thể, cho cấp
dưới, gây khó khăn cho công tác kiểm tra. Tinh thần đấu tranh phê bình của mốt số tổ
chức đảng giảm sút, hữu khuynh, né tránh, việc biểu quyết xử lý kỷ luật hoặc đề nghị
hình thức kỷ luật thường không tập trung, thấp hơn tính chất mức độ vi phạm. Chưa
thực hiện đúng phương châm, nguyên tắc, thủ tục, quy trình đã được quy định nhưng
không gặp đối tượng trước khi kết luận, quyết định kỷ luật, không làm thủ tục uỷ quyền
khi phải uỷ quyền cho tổ chức đảng cấp dưới công bố quyết định kỷ luật, không tổ
121
chức hội nghị, làm biên bản khi công bố quyết định kỷ luật, không giao quyết định kỷ
luật trực tiếp cho đảng viên bị xử lý kỷ luật…Việc thi hành kỷ luật nội bộ Đảng, kỷ luật
đoàn thể, kỷ luật hành chính hoặc xử bằng pháp luật chưa được thực hiện đồng bộ,
tương xứng. Việc thu hồi tiền, tài sản bị thất thoát, tham nhũng sau khi xử lý kỷ luật
chưa được quan tâm đúng mức.
3.2.3. Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm và bất cập về phòng, chống
tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua
công tác kiểm tra của Đảng
Thứ nhất, một số cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ
về PCTN, lãng phí và vai trò, trách nhiệm của mình; chưa nhận thức đầy đủ về quyết tâm
chính trị của Đảng và Nhà nước trong công tác PCTN, lãng phí. Do đó giữa quyết tâm
chính trị của cấp ủy đảng, chính quyền và hành động thực tiễn của một số cấp ủy, chính
quyền trong các cơ quan, đơn vị trong đấu tranh PCTN chưa cao. Nhiều cấp ủy, tổ chức
đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa thực sự gương mẫu, quyết liệt
trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện công tác PCTN.
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi, mà còn có mặt, có bộ phận diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, như chủ
nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng; thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh;
nói không đi đôi với làm, tham nhũng, lãng phí; “lợi ích nhóm”, dư luận còn bức xúc
về tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy dự án, đây là
những biểu hiện tham nhũng tinh vi, nhạy cảm, khó phát hiện; tuy nhiên, qua kiểm
điểm vẫn chưa làm rõ được thực chất, mức độ nghiêm trọng của tình hình, xảy ra ở
đâu, ai chịu trách nhiệm. Một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức, trong
đó có những người giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, thiếu tu
dưỡng, rèn luyện; có những trường hợp phạm tội tham nhũng phải xử lý theo pháp luật.
Thứ hai, nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng và UBKT cấp ủy trong các
bộ, ngành cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương còn hạn chế, chưa thấy hết vị
trí, vai trò và tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong PCTN, nên chưa
chú trọng chỉ đạo thực hiện và tạo điều kiện cho cấp ủy, UBKT cấp ủy thực hiện có
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong PCTN ở cơ quan, đơn vị mình.
Công tác quản lý cán bộ còn hạn chế. Đây đang là khâu yếu trong sự lãnh đạo
của Đảng. Nguyên nhân chính là do bố trí cán bộ không đúng và kiểm tra, giám sát,
đôn đốc thiếu sâu sát, kịp thời.
122
Thứ ba, một số quy định của Đảng và Nhà nước còn thiếu, chưa đầy đủ, đồng
bộ để có cơ sở trong việc kiểm tra, xem xét, kết luận xử lý vi phạm kỷ luật đảng nói
chung, vi phạm tham nhũng nói riêng, thể hiện:
Cơ chế UBKT do cấp ủy bầu hiện nay có nhiều điểm bất cập, không mang tính
độc lập nhất định trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng,
có nhiều khó khăn, vướng mắc và dễ bị chi phối trong thực thi quyền lực. Chưa có quy
định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm, thẩm quyền cho UBKT thực hiện và
kiểm soát quyền lực. Về mô hình tổ chức của UBKT các cấp chưa hoàn thiện, tuy đã
có trách nhiệm, thẩm quyền trong PCTN nhưng chưa có đơn vị chuyên trách thực hiện
nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát về PCTN và kiểm soát quyền lực. Phương pháp
thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát của UBKT các cấp còn chưa phù hợp
có nhiều bất cập.
Ủy ban Kiểm tra và Cơ quan UBKT trong các bộ, ngành chưa được kiện toàn,
cán bộ kiểm tra cơ sở chủ yếu là kiêm nhiệm. Một số UBKT chưa chủ động thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm hướng vào vi phạm tham nhũng do nể
nang, né tránh, ngại va chạm vì đối tượng tham nhũng thường là cán bộ có chức, có
quyền, đáng lưu ý là nhận thức về hành vi tham nhũng còn lẫn lộn hoặc né tránh ở
nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra từ đó bỏ lọt lỗi phạm phải xử lý hoặc xử lý
không đúng tính chất, mức độ, thậm chí có cấp uỷ còn coi hành vi tham nhũng chỉ là sơ
xuất trong quản lý tài chính…Có một số trường hợp, do người được giao nhiệm vụ đi
giám sát, kiểm tra thiếu công tâm, khách quan, vi phạm, tiêu cực dẫn tới nhận định
thiên lệch, thậm chí xuyên tạc, bóp méo sự thật. Do vậy cần nghiên cứu thí điểm và
từng bước sát nhập UBKT với các cơ quan tương đồng của Đảng và Nhà nước như
Thanh tra và Ban nội chính cùng cấp để bảo đảm tổ chức thực hiện nhiệm kiểm tra,
giám sát PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực. Trên cơ sở đó bổ sung chức năng
nhiệm vụ cho UBKT sau khi sát nhập cho phù hợp, nhất là chức năng nhiệm vụ và tổ
chức bộ máy về PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực. Từng bước nghiên cứu xây
dựng quy định và tổ chức thực hiện chế độ tuần thị của UBKT Trung ương và UBKT
cấp ủy thực hiện có hiệu quả công tác giám sát trong Đảng, bảo đảm kiểm soát quyền
lực bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Để
tiến tới thành lập cơ quan giám sát nhà nước thực hiện chế độ giám sát và kiểm soát
quyền lực bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ PCTN trong bộ máy nhà nước và
trong cả hệ thống chính trị.
123
Bên cạnh đó hệ thống chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, nhất là pháp luật
về PCTN như công khai minh bạch trong quy hoạch, quản lý sử dụng đất đai, công tác
quản lý dấu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản công, thể chế quản lý doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp có vốn góp của nhà nước, về công tác tổ chức cán bộ, quy
định chế độ cho, tặng quà, cơ chế giám sát, kiểm soát chặt chẽ thu nhập của cán bộ,
công chức, khen thưởng đối với tập thể và cá nhân có thành tích về PCN…
Thứ tư, trình độ, năng lực một bộ phận cán bộ kiểm tra còn hạn chế nên không
chủ động, chưa phát hiện, chậm phát hiện dấu hiệu vi phạm để kiểm tra, hoặc giải
quyết tố cáo dấu hiệu vi phạm tham nhũng nhưng không kết luận được có vi phạm, do
đó chất lượng, hiệu quả kiểm tra, giải quyết tố cáo tham nhũng còn hạn chế. Đáng lưu
ý là toàn hệ thống chưa có đội ngũ cán bộ và tổ chức chuyên trách nghiên cứu và thực
hiện nhiệm vụ PCTN mà đây là lĩnh vực đặc thù, đòi hỏi nghiệp vụ và chuyên sâu cao.
Trong khi đó, đối tượng tham nhũng với thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, có sự
móc nối cấu kết chặt chẽ, kể cả cấp dưới với cấp trên và bao che cho nhau, ít có chứng
cứ trực tiếp, tự phê bình và phê bình của đối tượng vi phạm tham nhũng và tổ chức
đảng có liên quan thấp, nên khó xác định, kết luận được chuẩn xác.
Thứ năm, công tác phối hợp giữa các cơ quan có chức năng, nhiệm PCTN chưa
đồng bộ, chồng chéo và cơ chế mạnh ai nấy làm, không chủ động, tích cực chia sẻ
thông tin với nhau. Việc phối hợp giữa UBKT với các tổ chức đảng và ngay việc phối
hợp giữa UBKT cấp trên với UBKT cấp dưới trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát nói chung và trong công tác PCTN nói riêng chưa thường xuyên, chất lượng còn
hạn chế.
Kết luận chƣơng 3
Nghiên cứu thực trạng PCTN trong bộ máy nhà nước và các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương cho chúng ta thấy những kết quả đạt được và những
hạn chế, nguyên nhân trong thời gian trên 10 năm thực hiện Luật đến nay. Đồng thời
PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm
tra của Đảng từ Đại hội X đến nay (2006-2019) cho ta thấy những kết quả và thành tựu
đạt được, cũng như những nét cơ bản về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của UBKT
Trung ương và UBKT cấp ủy trong thực hiện nhiệm vụ công tác PCTN các cơ quan
chính nhà nước cấp trung ương; thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của công tác
kiểm tra của Đảng, trong đó có nhiệm vụ của UBKT Trung ương và UBKT các cấp ủy
124
trong PCTN đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào công tác
đấu tranh PCTN của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thời gian qua, quá trình thực hiện
nhiệm vụ công tác PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông
qua công tác kiểm tra của Đảng cũng bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập so với yêu cầu
thực tế về PCTN và trách nhiệm của cấp ủy, UBKT các cấp thì việc kiểm tra trong
PCTN chưa đáp ứng yêu cầu, chưa chủ động phát hiện dấu hiệu vi phạm về tham
nhũng, nhiều vụ việc tham nhũng chưa được phát hiện kịp thời để kiểm tra, có vụ việc
nghiêm trọng một thời gian dài mới được phát hiện để kiểm tra, tác dụng phòng ngừa,
ngăn chặn hạn chế. Một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa nhận thức đầy đủ, chưa thật sự
coi kiểm tra của Đảng là những chức năng lãnh đạo nên chưa gắn với quá trình lãnh
đạo; chưa xây dựng được chương trình kiểm tra cả nhiệm kỳ. Công tác chỉ đạo thực
hiện sự phối hợp giữa UBKT với các tổ chức đảng, cơ quan có liên quan trong thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra chưa chặt chẽ và thiếu đồng bộ.
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng nêu trên là sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số
cấp uỷ, người đứng đầu tổ chức đảng, đoàn thể chính trị - xã hội ở các bộ, ngành Trung
ương trong PCTN còn chưa quyết liệt, nghiêm minh, lúng túng trong phương thức chỉ
đạo, kể cả còn tình trạng nể nang, né tránh, quyết tâm chính trị chưa cao. UBKT các
cấp chưa phát huy hết trách nhiệm, vai trò của nhân dân và các cơ quan báo chí bằng
các phương thức hữu hiệu trong công cuộc PCTN. Một số UBKT chưa chủ động thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm hướng vào vi phạm tham nhũng do nể
nang, né tránh, ngại va chạm vì đối tượng tham nhũng thường là cán bộ có chức, có
quyền, đáng lưu ý là nhận thức về hành vi tham nhũng còn lẫn lộn hoặc né tránh ở
nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, UBKT từ đó bỏ lọt lỗi phạm phải xử lý hoặc xử lý không
đúng tính chất, mức độ, thậm chí có cấp uỷ còn coi hành vi tham nhũng chỉ là sơ xuất
trong quản lý tài chính…
Từ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong
việc thực hiện PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua
công tác kiểm tra của Đảng đặt ra yêu cầu cần phải có giải pháp cụ thể để phát huy vai
trò của công tác kiểm tra của Đảng nói chung và cấp ủy, UBKT cấp ủy trong đấu tranh
PCTN hiện nay.
125
Chƣơng 4
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG
ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
4.1. QUAN ĐIỂM PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ
QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG
TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG
Thứ nhất, đề cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu
cơ quan, đơn vị trong trong tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ
trương, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về PCTN, lãng phí.
Đồng thời tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ,
đảng viên để ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí ở cơ quan, đơn vị mình.
Trước hết cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong các bộ, ngành cơ quan
hành chính nhà nước cấp trung ương phải đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến, quán
triệt các quan điểm, chủ trương, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về PCTN, lãng phí. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí; nhiệm kỳ Đại hội XI của
Đảng đã ra Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI, 2012) về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí”; Chỉ thị
số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với việc phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 Khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ... Theo các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, PCTN cần phải quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau: Một là, phòng ngừa là
chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách. Kết hợp chặt chẽ giữa
tích cực phòng ngừa, chủ động phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời
những người có hành vi tham nhũng, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng,
can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng; không có vùng cấm, vùng trống, không có
ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai. Hai là, phải tiến hành kiên quyết,
126
kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm,
trọng điểm. Gắn PCTN với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; gắn PCTN, lãng phí
với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
và toàn dân. Ba là, kiên quyết, kiên trì, khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa để
không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng; cơ chế bảo
đảm để không cần tham nhũng [5].
Trên cơ sở đó phải chủ động tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên
trong thực hiện quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về PCTN, lãng
phí, coi đó là một trong nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên cần tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện; là tiêu chí đánh giá chất lượng tổ chức đảng, đảng viên hàng năm. Đồng
thời tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
để ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí; thực hiện nghiêm Quy định số 47-QĐ/TW, ngày
01/11/2001 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm;
quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012
của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo chủ
chốt, nhất là trong công tác PCTN, lãng phí; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày
25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương; giúp cho cán bộ, đảng viên đã chú ý hơn đến vệc tự tu dưỡng bản
thân và gương mẫu chấp hành các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.Tiếp tục
chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI về “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ... gắn với
việc thực hiện cuộc vận động "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"
tạo chuyển biến tích cực, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước kiềm chế,
ngăn chặn tiêu cực, suy thoái trong Đảng. Qua đó giữ gìn đạo đức, lối sống, tự sửa
chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi và hoạt động trong công tác và cuộc sống của
mình và của gia đình, người thân. Từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí,
loại bỏ dần các cơ hội, điều kiện phát sinh tham nhũng, góp phần xây dựng tổ chức
đảng, bộ máy các cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính. Tiến tới xây dựng nền hành
127
chính và đội ngũ cán bộ, công chức không thể tham nhũng, không muốn tham nhũng
và không dám tham nhũng.
Thứ hai, nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp, trước hết
là người đứng đầu cấp ủy về vị trí, vai trò, ý nghĩa và tác dụng công tác kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật của Đảng trong đấu tranh PCTN, lãng phí ở cơ quan, đơn vị
mình. Tăng cường phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng về trách nhiệm, thẩm
quyền và chức năng, nhiệm vụ của UBKT trong thực hiện PCTN, lãng phí; vai trò,
trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát về PCTN, lãng phí, tạo được sự
chuyển biến về nhận thức và hành động đối với nhiệm vụ công tác này.
Cấp ủy, UBKT các cấp nghiên cứu xây dựng các quy định của Đảng về cơ chế,
chính sách, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền cho UBKT trong PCTN và kiểm soát
quyền lực nhà nước, nhất là quyền hành pháp ở trung ương; xây dựng mô hình tổ chức
bộ máy của UBKT bảo đảm phù hợp, tương xứng ngang tầm nhiệm vụ (như cơ chế
UBKT các cấp do đại hội bầu, sát nhập một số cơ quan tương đồng chức năng, nhiệm
vụ với UBKT và xây dựng tổ chức bộ máy theo yêu cầu nhiệm vụ; bổ sung chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ chế, chính sách phù hợp theo yêu cầu nhiệm vụ).
Xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát,
thi hành kỷ luật đảng của các cấp uỷ, tổ chức đảng, UBKT các cấp bảo đảm các
nguyên tắc, phương pháp công tác đảng; công khai, dân chủ, cụ thể, dễ thực hiện và
được quy chuẩn hoá. Cấp uỷ, UBKT các cấp căn cứ quy chế, quy định của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và hướng dẫn UBKT Trung ương để vận
dụng ban hành quy chế, quy định, quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng ở
cấp mình cho phù hợp và tổ chức thực hiện có kết quả.
Thứ ba, UBKT các cấp phải chủ động, tích cực thực hiện nhiệm vụ công tác
PCTN trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, thẩm quyền theo quy định của
Đảng. Chú trọng thực hiện công tác phòng ngừa là chính, khi phát hiện đảng viên có
hành vi tham nhũng phải kiểm tra, xem xét và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời,
bảo đảm đảng viên ở bất cứ cương vị công tác nào, có dấu hiệu tham nhũng đều phải
được xem xét làm rõ và xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước, không có “vùng cấm, vùng trống, không có ngoại lệ”. Đồng thời xử lý
128
nghiêm tổ chức đảng, đảng viên có hành vi dung túng, bao che tham nhũng hoặc cản
trở, can thiệp vào việc xử lý các vụ việc tham nhũng.
Ủy ban Kiểm tra cấp ủy tăng cường phối hợp với cơ quan chức năng PCTN như
thanh tra, kiểm toán, điều tra ngành công an, kiểm sát và tòa an nhân dân để kiểm tra,
giám sát, phát hiện xử lý kịp thời các vụ việc tham nhũng, lãng phí. Đồng thời công
khai, minh bạch kết quả xử lý tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có vi phạm trên phương
tiện thông tin đại chúng. Thực hiện việc phối hợp giữa UBKT cấp trên với UBKT cấp
dưới trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật nói chung và trong
công tác PCTN nói riêng một cách thường xuyên và có hiệu quả.
Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao chất lượng cán bộ kiểm tra.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra,
giám sát ở các cấp bằng nhiều hình thức, nội dung phù hợp, bảo đảm cho cán bộ kiểm
tra có đủ bản lĩnh, kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ tinh thông, thuần thục, không bị
cám dỗ bởi vật chất, tình cảm; không bị xa ngã bởi mặt trái của cơ chế thị trường khi
thực hiện nhiệm vụ được giao, đặc biệt là thực hiện có hiệu quả việc đấu tranh PCTN
trong nội bộ Đảng và cơ quan, đơn vị nhà nước.
4.2. GIẢI PHÁP PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG CÁC CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CẤP TRUNG ƢƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM
TRA CỦA ĐẢNG
4.2.1. Nhóm các giải pháp đột phá về hoàn thiện thể chế, pháp luật và tổ
chức bộ máy trong phòng, chống tham nhũng đối với các cơ quan hành chính nhà
nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công tác kiểm tra của Đảng
4.2.1.1. Nghiên cứu xây dựng cơ chế về tổ chức bộ máy cho Ủy ban Kiểm tra
các cấp bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm theo yêu cầu đề ra
Một là, tiếp tục nghiên cứu mô hình tổ chức UBKT các cấp do đại hội đảng
cùng cấp bầu, vấn đề này đã được đặt ra và thảo luận ở các kỳ đại hội từ nhiệm kỳ
VII, song vẫn chưa đủ thuyết phục để thực hiện việc UBKT đại hội cùng cấp bầu. Lý
do chủ yếu là một số người “sợ” nếu UBKT do đại hội đảng cùng cấp bầu sẽ xuất
hiện hai cơ quan lãnh đạo (quyền lực) song song, dẫn đến hiệu quả lãnh đạo bị hạn
chế, nhưng cứ để cấp ủy bầu như hiện nay, bên cạnh những ưu điểm, đã bộc lộ những
điều chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong
tình hình mới.
129
Nhiều ý kiến chuyên gia bầy tỏ đồng tình cao việc UBKT do đại hội cùng cấp
bầu thì hoạt động mới có tính độc lập tương đối với cấp ủy trong thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật theo quy định Điều lệ Đảng, nhất là trong tình hình
hiện nay có nhiều tác động mặt trái của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa, sự tha hóa về
quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm” đang gia tăng, cần ngăn chặn, đẩy lùi.
Một số ý kiến chuyên gia nêu vấn đề đại hội cùng cấp bầu UBKT không phải là
phát hiện mới mà từ năm 1923 Đảng Cộng sản Nga và sau là Đảng Cộng sản Liên Xô
đã thực hiện theo ý kiến của Lênin. Đến thời Stalin đã bỏ việc đại hội cùng cấp bầu
UBKT và thay vào đó là bầu Ban giám sát Trung ương nhưng lại hạ thấp chức năng và
quyền hạn thành cơ quan giám sát tài chính và giám sát các tổ chức đảng cấp dưới như
một cơ quan giúp việc của UBKT Trung ương.
Qua nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm của Đảng cộng sản Trung Quốc cho
thấy: UBKT kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc Đại hội đảng cùng cấp bầu và chịu sự
lãnh đạo song trùng của UBKT kỷ luật cấp trên và cấp ủy cùng cấp đã được nêu phần
kinh nghiệm PCTN của Trung Quốc.
Do vậy dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay
nguy cơ tham nhũng, tha hóa quyền lực, suy thoái và nguy cơ “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; với ý nghĩa và tầm quan
trọng đặc biệt của công tác kiểm tra, giám sát, trong điều kiện một Đảng Cộng sản cầm
quyền ở nước ta hiện nay, thì UBKT do đại hội đảng bầu, nó bảo đảm đủ sức canh giữ
cho sự trong sạch của Đảng trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế. (Nội dung này đã có đề xuất ý kiến chuyên gia theo
Phụ lục đính kèm). Tuy nhiên, trong vấn đề này cần phải nghiên cứu thận trọng, nhất là
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ mày và cơ chế hoạt động, mối quan hệ
giữa cấp ủy với UBKT bảo đảm phù hợp.
Hai là, nghiên cứu hợp nhất ba cơ quan: cơ quan UBKT với cơ quan nội chính
của Đảng và cơ quan Thanh tra của Nhà nước thành: Ban Kiểm tra - Thanh tra - Kỷ luật.
Việc hợp nhất cơ quan UBKT với cơ quan Thanh tra đã được bàn luận trong
thời gian gần đây. Có thực tế Ban Kiểm tra của Đảng và cơ quan Thanh tra Nhà nước
có thời kỳ do một người đứng đầu (năm 1951 tại hội nghị Trung ương lần thứ nhất,
khóa II, Trung ương phân công đồng chí Hồ Tùng Mậu, Trưởng ban Kiểm tra Trung
ương Đảng kiêm Tổng Thanh tra Chính phủ và sau này đồng chí Nguyễn Lương Bằng
130
Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Đảng kiêm Tổng Thanh tra Chính phủ). Việc hợp
nhất các cơ quan này đang thực hiện thí điểm mô hình ở một số đơn vị cấp huyện ở
tỉnh Quảng Ninh và một số tỉnh, thành phố để nghiên cứu mở rộng thực hiện diện rộng
phạm vi toàn quốc.
Một số chuyên gia đề nghị nghiêm cứu hợp nhất cơ quan UBKT với cơ quan
Nội chính của Đảng và cơ quan Thanh tra của Nhà nước thành một cơ quan thống nhất,
vì cơ quan nội chính có chức năng tham mưu trực tiếp với cấp ủy về chủ trương và
chính sách lớn về lĩnh vực nội chính, PCTN và hiện nay cơ quan nội chính được xác
định là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo PCTN Trung ương, bên cạnh đó cơ quan
nội chính cũng có khó khăn trong việc hướng dẫn, kiểm tra và thực hiện một số nhiệm
vụ cụ thể trong thực hiện nhiệm vụ PCTN, lãng phí và kiểm soát quyền lực.
Mặt khác Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Nghiên cứu
thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan Đảng và Nhà nước tương đồng về chức
năng, nhiệm vụ...Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan có chức năng đấu
tranh PCTN, lãng phí...”. Do vậy việc hợp nhất ba cơ quan này là phù hợp, có nhiều
điểm tương đồng về chức năng nhiệm vụ, nhất là về công tác PCTN, lãng phí và kiểm
soát quyền lực, mà thực chất là phòng, chống sự tha hóa quyền lực, tham nhũng, “lợi
ích nhóm” trong bộ máy nhà nước với tên gọi sau khi hợp nhất là: Ban Kiểm tra -
Thanh tra - Kỷ luật.
Trên cơ sở đó xây dựng tổ chức và quy chế hoạt động, luật hóa những nội dung
về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Ban Kiểm tra - Thanh tra - Kỷ luật các cấp
theo đúng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, nhằm tăng cường vị thế, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả công tác kiểm tra, thanh tra trong PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực. (Nội
dung này đã có đề xuất ý kiến chuyên gia theo Phụ lục đính kèm).
4.2.1.2. Nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện thể chế của Đảng cho Ủy ban
Kiểm tra các cấp đối với phòng, chống tham nhũng và giám sát, kiểm soát quyền lực
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế của Đảng về trách nhiệm, thẩm quyền của UBKT
các cấp đối với PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế về công tác PCTN,
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, trong đó có quy định về vai trò, trách nhiệm
131
của UBKT các cấp trong đấu tranh PCTN. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể về
chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền, trách nhiệm cho UBKT trong thực hiện nhiệm
vụ PCTN.
Từ vấn đề nêu trên, để có cơ sở pháp quy, tạo điều kiện cho UBKT các cấp
trong thực hiện nhiệm kiểm tra, giám sát về PCTN, ngày 10/5/2018, Bộ Chính trị đã
ban hành Quy định số 01-Qđi/TW (Quy định số 01) quy định trách nhiệm và thẩm
quyền của UBKT trong công tác PCTN. Đây là thiết chế quan trọng, thể hiện rõ trách
nhiệm và thẩm quyền của UBKT trong PCTN, tạo điều kiện thuận lợi cho UBKT trong
thực hiện nhiệm, góp phần tích cực vào công tác PCTN hiện nay.
Song để bảo đảm tính pháp lý các cấp có thầm quyền cần nghiên cứu bổ sung
chức năng, nhiệm vụ và chế tài xử lý trách nhiệm của UBKT các cấp trong việc kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng viên” như Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI và khóa XII đã nêu ra. Đồng thời nghiên cứu nội dung trình cấp thẩm quyền
cho thực hiện thí điểm vận dụng phương pháp thị sát, điều trần khi tiến hành kiểm tra,
giám sát đối với những vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của UBKT - Kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc theo những nội dung phù
hợp với thực tiễn nước ta, như cho UBKT được huy động các lực lượng của cơ quan
thanh tra, kiểm sát, công an…vào tham gia các cuộc kiểm tra có nội dung phức tạp,
nhất là vi phạm về tham nhũng.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu thành lập Cục PCTN trực thuộc UBKT Trung ương
(sau này là Ban Kiểm tra - Thanh tra Trung ương) và Phòng PCTN trực thuộc Ban
Kiểm tra - Thanh tra cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có chức năng PCTN
theo thẩm quyền. Đồng thời nghiên cứu luật hóa những nội dung về chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền của UBKT các cấp trong đấu tranh PCTN (Nội dung này đã có đề xuất
ý kiến chuyên gia theo Phụ lục đính kèm).
Thứ hai, nghiên cứu bổ sung quy định về trách nhiệm, thẩm quyền của UBKT
các cấp đối với việc giám sát, kiểm soát quyền lực trong cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương
Theo quan điểm về xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong thể
chế chính trị, đó là: “Cơ chế kiểm soát quyền lực trong thể chế chính trị phải bảo đảm
kiểm soát việc thực hiện quyền lực của tất cả các cơ quan, tổ chức, các chức danh trong
132
hệ thống chính trị, không có ngoại lệ…”. Để đạt được mục tiêu đó, tất cả các chủ thể
quyền lực trong hệ thống chính trị phải được kiểm soát, bảo đảm quyền lực không bị
lạm dụng, lợi dụng và tha hóa; mọi tổ chức đảng, cơ quan nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hoạt động hiệu quả.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Hoàn thiện và thực hiện cơ chế
kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương”. Nghị quyết
Trung ương 6 khóa XII, cụ thế hóa Nghị quyết Đại hội XII, xác định: “…xây dựng cơ
chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng
cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Trung ương 6 khóa
XII, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã cụ thể hóa chủ trương kiểm soát quyền lực của
Đảng bằng các quy chế, quy định và tổ chức thực hiện nghiêm túc, trong đó chú trọng
cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách phù hợp
với tình hình thực tế, xác định quyền và trách nhiệm của tập thể và cá nhân. Công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng
trong kiểm soát quyền lực, nhất là việc lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực để
trục lợi, thông qua công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, UBKT các cấp. Thể hiện
thông qua việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT Trung ương và
UBKT các cấp đã tiến hành kiểm tra, giám sát thực hành tiết kiện, PCTN, lãng phí;
kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII, kiểm tra tổ
chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo…Tuy nhiên, công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng đối với kiểm soát quyền lực là một vấn đề mới,
chưa được nghiên cứu toàn diện, cụ thể, ngay trong Điều lệ Đảng và các quy định của
Đảng cũng chưa quy định về nhiệm vụ của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp trong
việc kiểm soát quyền lực.
Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cần phải đưa nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám
sát ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm kiểm tra, giám sát góp phần quan trọng trong kiểm
soát quyền lực, nhất là kiểm soát quyền lực đối với cơ quan nhà nước. Do vậy các cấp
có thẩm quyền cần nghiên cứu tăng thẩm quyền và chế tài xử lý trách nhiệm cho
UBKT các cấp trong kiểm soát quyền lực, cụ thể:
133
Nghiên cứu ban hành “Quy định của Đảng về chức năng, nhiệm vụ và trách
nhiệm, thẩm quyền của UBKT các cấp trong việc giám sát, kiểm soát quyền lực”. Để
UBKT có đủ thẩm quyền thực hiện có hiệu quả phòng, chống tha hóa quyền lực,
tham nhũng, “lợi ích nhóm” theo tinh thần Chỉ thị 50-CT/TW của Bộ Chính trị khóa
XI về kiểm soát quyền lực và lấy UBKT làm cơ quan chuyên trách giám sát, kiểm
soát quyền lực.
Trên cơ sở đó, UBKT Trung ương tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Quy
chế số 02-QC/UBKTTW (Quy chế 02), ngày 28/7/2017 của UBKT Trung ương: Quy
chế công tác đối với cán bộ theo dõi địa bàn, lĩnh vực của Cơ quan UBKT Trung ương
đối với các bộ, ngành thuộc các cơ quan hành chính cấp trung ương. Theo yêu cầu
nhiệm vụ nắm tình hình, kịp thời phát hiện những thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm của
tổ chức đảng, đảng viên tại địa bàn được phân công theo dõi, kịp thời báo cáo đề xuất
Thường trực Ủy ban xem xét, quyết định. Tham mưu, báo cáo và chịu trách nhiệm về
nhận xét, thẩm định nhân sự dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử, ứng cử,
quy hoạch, luân chuyển, điều động ở địa bàn, lĩnh vực…
Đồng thời nghiên cứu thành lập Cục Giám sát, kiểm soát quyền lực thuộc
UBKT Trung ương (sau này là Ban Kiểm tra - Thanh tra - Kỷ luật Trung ương) và
Phòng Giám sát, kiểm soát quyền lực trực thuộc Ban Kiểm tra - Thanh tra cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, có chức năng giám sát, kiểm soát quyền lực theo
thẩm quyền và nhiệm vụ quy định. Trên cơ sở đó luật hóa những nội dung về chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của UBKT các cấp trong việc giám sát và kiểm soát
quyền lực. (Nội dung này đã có đề xuất ý kiến chuyên gia theo Phụ lục đính kèm).
Ở đây, chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc về cơ chế thực
hiện việc UBKT các cấp do đại hội cùng cấp bầu, quy định về thẩm quyền, trách nhiệm
và chức năng, nhiệm vụ của UBKT là trung tâm điều phối trong PCTN và giám sát,
kiểm soát quyền lực. Nhất là UBKT Kỷ luật Trung Quốc được trao quyền lực rất lớn
trong thực thi nhiệm vụ. Trong đó, UBKT Kỷ luật Trung ương Trung Quốc có quyền
triệu tập và giam giữ bất kỳ quan chức nào mà họ nghi ngờ vi phạm các quy tắc và quy
định của Đảng. Thông thường, ủy ban này chỉ đưa ra các kỷ luật về mặt đảng, những
kết luận điều tra của nó sẽ được chuyển cho chính quyền để truy tố và các đối tượng
thuộc diện “chuyển hồ sơ” như vậy thường sẽ nhận một bản án nặng [110].
134
Thứ ba, nghiên cứu vận dụng thực hiện chế độ tuần thị của UBKT kỷ luật Đảng
Cộng sản Trung Quốc để góp phần thực hiện có hiệu quả PCTN và giám sát, kiểm soát
quyền lực trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Trung Quốc chế độ tuần thị là một trong
những nội dung quan trọng trong cơ chế giám sát trong Đảng, là một hình thức giám
sát được tiến hành trong nội bộ Đảng, theo đó tổ chức đảng các cấp và đảng viên tiến
hành giám sát và đôn đốc tình hình tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên, tình hình
tổ chức đảng các cấp thực hiện bảo vệ quyền lợi của đảng viên, tình hình thực hiện các
quy định và Điều lệ Đảng, cũng như việc thi hành quyền lực của cán bộ, đảng viên
thông qua các hình thức như kiểm tra, đánh giá, báo cáo lên trên và xử lý theo Điều lệ
Đảng, pháp luật, pháp quy của Nhà nước. Bản chất công tác giám sát trong Đảng là sự
tự điều chỉnh, tự ràng buộc và tự hoàn thiện của Đảng.
Qua nghiên chế độ tuần thị của UBKT các cấp Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp
cho việc vận dụng thực hiện công tác kiểm tra của Đảng và UBKT các cấp trong tình
hình hiện nay, do vậy cần thiết nghiên cứu để vận dụng thực hiện trong PCTN và giám
sát, kiểm soát quyền lực vào điều kiện hiện nay theo hướng sau:
Nghiên cứu xây dựng và thực hiện Quy định về chế độ công tác tuần thị cho cấp
ủy, UBKT các cấp bao gồm nội dung về: tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc làm việc, quản
lý cơ cấu và nguồn lực, nội dung và phạm vi, cách thức làm việc và quyền hạn, kỷ luật,
cùng với trách nhiệm của tổ chức cá nhân trong công tác tuần thị, phù hợp với mục
tiêu, yêu cầu nhiệm vụ và điều kiện của từng cơ quan, đơn vị.
Trên cơ sở đó tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác này trong UBKT các cấp, cụ
thể: Đối với UBKT Trung ương tiến hành thành lập các Tổ Tuần thị Trung ương thực
hiện nhiệm vụ tại các cấp ủy, tổ chức đảng trong các bộ, ngành cơ quan hành chính cấp
trung ương. Đối với UBKT các cấp ủy các bộ, ngành thành lập các Tổ Tuần thi đối với
các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ.
Đồng thời bố trí cán bộ của UBKT Trung ương (sau này là Ban Kiểm tra -
Thanh tra - Kỷ luật Trung ương) thuộc Cục Giám sát, vẫn chịu sự quản lý và hưởng
lương, chế độ theo cơ quan UBKT Trung ương để tăng cường tại các bộ, ngành Trung
ương. Đối với các cơ quan như: Cơ quan chuyên trách Phòng, chống tham nhũng,
Quốc hội, Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao, Bộ Công an và (Thanh tra Chính phủ, Ban Nội chính Trung ương khi
135
chưa sát nhập vào UBKT Trung ương)... có thể bố trí tổ cán bộ tăng cường (từ 3 đến 5
cán bộ, gồm tổ trưởng, tổ phó và các thành viên). Ở các bộ, ngành khác bố trí nhóm (từ
1 đến 3 cán bộ) tăng cường tại các cơ quan này để thực hiện nhiệm vụ giám sát của
UBKT Trung ương, trong đó có nhiệm vụ PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực tại
các cơ quan này.
4.2.1.3. Xây dựng hoàn thiện thể chế của Đảng về giám sát cho cấp ủy, Ủy
ban Kiểm tra các cấp trong kiểm soát quyền lực nhà nước
Thứ nhất, xây dựng hoàn thiện cơ chế giám sát, cho cấp ủy, UBKT các cấp
trong kiểm soát quyền lực nhà nước
Đại hội X của Đảng đã bổ sung chức năng, nhiệm vụ giám sát cho UBKT các
cấp và xác định kiểm tra, giám sát là chức năng và phương thức lãnh đạo quan trọng
của Đảng. Do đó, để thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước, Đảng cần thông qua việc
kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan của bộ máy
nhà nước. Từ nhận thức đến thực tiễn về kiểm soát quyền lực nhà nước, Đảng ta đã thể
hiện rõ quyết tâm xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, trọng tâm của cơ
chế này là nhằm phòng, chống nạn quan liêu, tham nhũng, xây dựng bộ máy nhà nước
trong sạch, hiệu quả, đảm bảo và phát huy các quyền làm chủ của Nhân dân. Đây cũng
là mục tiêu của quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến
đấu của Đảng, xây dựng một nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh. Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII đề ra giải pháp kiểm soát quyền lực trong công tác xây
dựng Đảng với 3 nội dung chính: Một là, rà soát hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế
kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn;
hai là, kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức cán bộ yếu kém về trình
độ, năng lực, phẩm chất, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu; ba là,
trước mắt rà soát, kiểm tra, xử lý vi phạm trong thực thi quyền lực. Đồng chí Tổng Bí
thư đã nhiều lần nhấn mạnh, để phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, phải có cơ
chế kiểm soát việc thực thi quyền lực trong tổ chức đảng và cơ quan Nhà nước, phải
“nhốt quyền lực vào trong lồng pháp luật”. Vì vậy để thực hiện việc kiểm soát quyền
lực nhà nước, Đảng cần phải xây dựng cơ chế đủ hiệu lực để thực hiện giám sát chặt
chẽ hoạt động của Nhà nước. Từ những vấn đề nêu trên cần nghiên cứu hoàn thiện Quy
chế gián sát trong Đảng, từng bước hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát theo hướng sau:
136
- Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo toàn diện công
tác giám sát trong Đảng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương nghe báo cáo công tác
của Bộ Chính trị, giám sát công tác của Bộ Chính trị và đề ra những nhiệm vụ lớn về
tăng cường công tác giám sát trong Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư giám sát đối với tổ
chức đảng và thành viên ban lãnh đạo của các bộ, ngành, địa phương, lĩnh vực được
phân công trực tiếp quản lý; định kỳ trao đổi với lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương
liên quan về tình hình thực hiện kỷ luật và nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý được giao.
- Cấp ủy các cấp chịu trách nhiệm đối với công tác giám sát trong Đảng, bí thư
cấp ủy là người chịu trách nhiệm hàng đầu, ủy viên ban thường vụ cấp ủy và cấp ủy
viên thực hiện nhiệm vụ giám sát trong phạm vi chức trách của mình. Cấp ủy có trách
nhiệm thực hiện giám sát theo nhiệm vụ sau: Một là, lãnh đạo công tác giám sát trong
Đảng của bộ, ngành, địa phương và đơn vị mình; tổ chức thực hiện các chế độ giám
sát; thực hiện đôn đốc, kiểm tra. Hai là, tăng cường lãnh đạo đối với ủy ban kiểm tra kỷ
luật cùng cấp và công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong phạm vi phụ trách; đôn
đốc, theo dõi, kiểm tra tình hình công tác giám sát, chấp hành kỷ luật, truy vấn trách
nhiệm. Ba là, tiến hành giám sát đối với các ủy viên ban thường vụ cấp ủy, cấp ủy viên,
ủy ban kiểm tra cấp mình, các ban của cấp ủy, ban lãnh đạo, thành viên ban lãnh đạo
của tổ chức đảng. Bốn là, đề xuất ý kiến và kiến nghị giám sát đối với cấp ủy cấp trên
và công tác của UBKT.
- Tổ chức đảng cấp trên, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt của cấp ủy, tổ chức đảng
cấp trên thường xuyên sâu sát, nhắc nhở đối với lãnh đạo chủ chốt của tổ chức đảng
cấp dưới, phát hiện vấn đề để kịp thời chấn chỉnh. Các sự việc “có vấn đề” của cá nhân
đồng chí lãnh đạo chủ chốt của cấp ủy, tổ chức đảng được công khai ở phạm vi nhất
định trong Đảng và chịu sự giám sát của cấp ủy và tổ chức đảng có thẩm quyền.
- Ủy ban Kiểm tra các cấp phải tăng cường giám sát đối với các đồng chí lãnh
đạo chủ chốt của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và các cán bộ lãnh đạo giữ cương vị
chủ chốt trong cơ quan, đơn vị mình. Trọng điểm là giám sát về lập trường chính trị, về
công tác xây dựng Đảng và quản lý đảng viên, về chấp hành các nghị quyết của Đảng,
về công tác tuyển chọn và sử dụng cán bộ, về tinh thần trách nhiệm, tính liêm khiết, kỷ
luật trong công tác. Các thành viên trong ban lãnh đạo nếu phát hiện đồng chí lãnh đạo
chủ chốt có vấn đề, cần kịp thời nêu ra với đồng chí lãnh đạo đó, trường hợp cần thiết
có thể báo cáo trực tiếp với cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên.
137
Thứ hai, từng bước nghiên cứu xây dựng Luật giám sát và thực hiện việc thành
lập Cơ quan giám sát để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ giám sát, kiểm soát quyền lực
Nhà nước
Về các nội dung này cần nghiên cứu xem xét và vận dụng kinh nghiệm của
Trung Quốc trong việc xây dựng Luật và thành lập Ủy ban giám sát Quốc gia một cách
khách quan, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với điều kiện ở nước ta, nhất là đặc
thù mang tính chuyên biệt.
- Một là, về nghiên cứu xây dựng Luật giám sát cần nghiêm cứu quy định đầy
đủ về các nguyên tắc chung; các quy định về phạm vi giám sát, đối tượng giám sát (chủ
thể, khách thể giám sát); cơ quan quan giám sát và chức năng, nhiệm vụ, cùng với trách
nhiệm, quyền hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan này; quy định về quy trình, biện pháp
thực hiện quá trình điều tra, thẩm vấn và quy trình xử lý tài sản liên quan vụ án trong
thực hiện nhiệm vụ giám sát...
Về yêu cầu xây dựng Luật Giám sát qua trao đổi xin ý kiến chuyên gia cho rằng
về thẩm quyền ban hành Luật do Quốc hội thông qua; đối tượng thực hiện là cán bộ,
công chức trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; phạm vụ thực hiện giám sát
hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh
tế (có nội dung tổng hợp Phụ lục kèm theo).
- Hai là, về việc nghiêm cứu thành lập Cơ quan giám sát thực hiện việc kiểm
soát quyền lực nhà nước phải theo nguyên tắc và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước, qua nghiên cứu và trao đổi xin ý kiến chuyên gia thực hực hiện theo hai
phương án như sau:
Phương án 1: Thành lập Ủy ban giám sát (UBGS) ở ba cấp trung ương, tỉnh và
huyện, đối với Ủy ban Giám sát Quốc gia (UBGSQG) do Quốc hội bầu, có thẩm quyền
giám sát tất cả cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị, phạm vi
giám sát hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập
đoàn kinh tế. Tương tự UBGS tỉnh và UBGS huyện do hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu và có thẩm quyền tương ứng.
Phương án 2: Theo lý luận và thực tiễn để thực hiện kiểm soát quyền lực nhà
nước chúng ta chỉ cần có cơ chế giám sát quyền lực trong Đảng là đủ vì ở nước ta
Đảng lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội. Do vậy cần lập ra một cơ quan do Đại
hội Đảng toàn quốc bầu có đủ thẩm quyền để làm nhiệm vụ giám sát thường xuyên đối
138
với tập thể và cá trong Ban Chấp hành Trung ương đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Tổng Bí thư. Điều này là hết sức cần thiết trong điều kiện một đảng duy nhất cầm
quyền ở nước ta hiện nay. Về tên gọi có thể là Ủy ban Giám sát Trung ương
(UBGSTW). Chỉ ở cấp Trung ương mới cần có UBGS vì đối với Ban Chấp hành
Trung ương, tất cả các tổ chức khác đều là cấp dưới nên không thể giám sát được cấp
trên (đây chính là khoảng trống về cơ chế kiểm soát quyền lực) còn đối với cấp dưới đã
có cấp trên giám sát.
Về tổ chức của UBGS gọn nhẹ, chỉ có một cơ quan giúp việc, không có hệ
thống dọc xuống cấp dưới. Số lượng Ủy viên có thể tương đương với Bộ Chính trị,
thành phần gồm những đồng chí không phải là thành viên trong Ban Chấp hành Trung
ương nhưng có tiêu chuẩn tương đương như Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy
viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư kể cả các đồng chí đã nghỉ hưu mà còn đủ điều kiện về
sức khỏe, năng lực trình độ, có uy tín cao, không hạn chế tuổi tác (có tổng hợp Phụ lục
kèm theo).
Tuy nhiên, những vấn đề này cũng cần được nghiên cứu kỹ bảo đảm tính khách
quan, phù hợp và được sự chấp nhận của cấp có thẩm quyền mới có thể xem xét để tổ
chức nghiên cứu thực hiện.
4.2.1.4. Xây dựng hoàn thiện tổ chức bộ máy cấp ủy của các bộ, ngành và cơ
chế phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra với cấp, tổ chức đảng có liên quan, cùng với cơ
chế phối hợp giữa ngành kiểm tra Đảng với thanh tra, kiểm toán và điều tra, truy tố,
xét xử trong phòng, chống tham nhũng, giám sát quyền lực nhà nước
Thứ nhất, nghiên cứu xem xét loại bỏ mô hình BCS đảng hoặc đảng đoàn trong
các bộ, ngành, không để trong một cơ quan, đơn vị đồng thời tồn tại hai tổ chức đảng
(BCS đảng, đảng đoàn cùng với đảng bộ của cơ quan, đơn vị). Đồng thời chuyển giao
chức năng, nhiêm vụ của BCS đảng, đảng đoàn cho Đảng ủy cơ quan, nhất là chức
năng lãnh đạo nhiệm vụ chính trị của bộ, ngành và công tác tổ chức cán bộ.
Vấn đề nêu trên một số ý kiến chuyên gia cho là rất phù hợp và luận giải như
sau: Xuất phát từ việc do phương thức lãnh đạo của Đảng không lãnh đạo trực tiếp với
Chính phủ, Quốc hội, các bộ, ngành mà phải lãnh đạo thông qua tổ chức đảng, do vậy
đã hình thành mô hình BCS đảng và đảng đoàn, đây là một trong sáng tạo để thực hiện
phương thức Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề này nẩy sinh trong
bộ, ngành cơ quan Nhà nước đồng thời có hai tổ chức đảng là BCS đảng hoặc đảng
139
đoàn và đảng bộ (đảng ủy) dẫn đến vai trò của tổ chức đảng (đảng bộ) rất hạn chế
không thể hiện vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong cơ quan, đơn vị. Tuy nhiên, khi
xóa bỏ BCS đảng, đảng đoàn phát sinh vấn đề về thực hiện phương thức lãnh đạo của
Đảng không trực tiếp với cơ quan Nhà nước. Để khắc phục vấn đề này cần đưa ra cơ
chế để Đảng lãnh trực tiếp với tổ chức đảng cấp dưới (cách cấp), vì thông thường
Trung ương lãnh đạo trực tiếp với tổ chức đảng trực thuộc (tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy
trực thuộc Trung ương), trên thực tế các đảng bộ trong cơ quan Chính phủ, Quốc hội,
các bộ, ngành cơ bản là đảng bộ cấp trên cở (cấp huyện). Đồng thời thực hiện mô hình
nhất thể hóa chức danh lãnh đạo nhà nước với tổ chức đảng, bí thư cấp ủy là lãnh đạo
chủ chốt đơn vị (bộ trưởng là bí thư đảng ủy bộ, bí thư tỉnh ủy là chủ tịch UBND...)
ngoại trừ Công an và Quân đội. Trên có sở đó bố trí cấp ủy viên và UBKT cấp ủy trong
các bộ, ngành trung ương cơ bản là chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ công tác xây
dựng đảng và kiểm tra, gián sát, trong đó có PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực ở
cơ quan, đơn vị mình.
Đồng thời cấp ủy trong các bộ, ngành cơ quan hành chính cấp trung ương cần
tăng cường chỉ đạo phối hợp giữa UBKT cấp ủy và thanh tra trong các bộ, ngành trong
thực hiện nhiệm vụ công tác thanh tra, kiểm tra và thực hiện nhiệm vụ khác trong phạm
vi ngành, lĩnh vực, nhất là những nội dung có liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực khác
nhau để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ PCTN, lãng phí theo yêu cầu đề ra. Trong đó,
UBKT các cấp chủ động phối hợp với các tổ chức đảng có liên quan để tham mưu,
giúp cấp ủy ban hành và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, có kết quả quy chế phối hợp
giữa UBKT với các tổ chức đảng, cơ quan liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát, thi hành kỷ luật đảng, trong đó có đấu tranh PCTN. Nâng cao chất lượng trao
đổi, cung cấp thông tin giữ ủy ban kiểm tra với các tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà
nước, MTTQ, đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí về công tác kiểm tra,
giám sát, thi hành kỷ luật đảng trong đó có vấn đề tham nhũng. Đổi mới hình thức và
phương pháp, nâng cao trách nhiệm phối hợp thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng đối với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, điều tra của các cơ quan
nhà nước, với công tác giám sát của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội. Tăng
cường trao đổi, cung cấp thông tin về tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
tham nhũng của các cơ quan giám sát, thanh tra, kiểm toán, bảo vệ pháp luật, MTTQ,
các đoàn thể chính trị - xã hội với ủy ban kiểm tra các cấp.
140
Thứ hai, nghiên cứu đề xuất xây dựng Quy chế phối hợp giữa UBKT Trung
ương với Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan điều tra Bộ Công an,
Viện kiểm sát, Tòa án trong PCTN (như trao đổi, chia sẻ thông tin, tài liệu, kinh
nghiệm về PCTN; phối hợp xem xét, làm rõ vụ việc tham nhũng; chuyển vụ việc tham
nhũng có dấu hiệu tội phạm giữa các cơ quan để xem xét, xử lý theo thẩm quyền; tổng
hợp, đánh giá, dự báo tình hình tham nhũng và phối hợp kiến nghị chính sách, giải
pháp PCTN). Trong đó, phối hợp chặt chẽ giữa UBKT với các ngành thanh tra, kiểm
sát, công an, tòa án, kiểm toán, Nội chính và Ban Chỉ đạo PCTN các cấp trong chỉ đạo,
tổ chức thực hiện nhiệm vụ đấu tranh PCTN, nhất là việc phối hợp trong giải quyết
những vụ việc trọng tâm, trọng điểm, có liên quan đến nhiều ngành chức năng.
Đồng thời phối hợp giữa UBKT các cấp ủy trước hết là UBKT Trung ương
với cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan có liên quan trong đấu tranh PCTN và giám sát,
kiểm soát quyền lực. Trong đó, UBKT có quyền điều phối các cơ quan bảo vệ pháp
luật tham gia thực hiện công tác kiểm tra, giải quyết tố cáo đảng viên là cán bộ diện
cấp ủy cùng cấp quản lý có dấu hiệu vi phạm tham nhũng, cố ý làm trái và được sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ như trong công tác điều tra, truy tố, xét xử theo yêu
cầu của UBKT.
4.2.2. Nhóm các giải pháp phòng ngừa tham nhũng trong các cơ quan hành
chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công tác kiểm tra của Đảng
4.2.2.1. Nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của cấp ủy, tổ
chức đảng, ngƣời đứng đầu cơ quan, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng đối
với các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng
Thứ nhất, nâng cao vai trò, trách nhiệm quyết tâm chính trị của các cấp ủy, tổ
chức đảng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong PCTN, lãng phí.
Cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị phải thật sự có
quyết tâm chính trị cao trong PCTN. Cuộc đấu tranh PCTN đạt được những kết quả
nhất định, một số vụ tham nhũng, tiêu cực được phát hiện bằng nỗ lực của toàn Đảng,
cả hệ thống chính trị và qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, nhưng trước hết là
quyết tâm chính trị cao của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy và
người đứng đầu tổ chức đảng, đơn vị. Để làm tốt việc này, trước hết phải làm công tác
chỉnh đốn tổ chức đảng, các cấp ủy phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới với chính bản thân
mình về quyết tâm PCTN cả chủ trương và hành động thực tế và phải có sự lãnh đạo,
141
chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của cấp trên một cách sát sao, qua đó kiên quyết xử lý kể cả
thay thế những trường hợp không còn đủ phẩm chất.
Cần đưa PCTN là nội dung bắt buộc trong các cuộc họp thường kỳ của cấp uỷ,
tổ chức đảng. Khi người đứng đầu các cấp đã giương cao ngọn cờ chống tham nhũng,
gương mẫu chắc chắn sẽ tập hợp được xung quanh mình lực lượng mạnh mẽ chống
tham nhũng. Trước hết, người đứng đầu phải thực sự trong sáng, liêm chính, là tấm
gương sáng về đạo đức, lối sống, không chấp nhận tham nhũng, kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng. Những cam kết về đấu tranh PCTN phải gắn liền với trách nhiệm
chính trị của những người đứng đầu.
Gắn việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) với việc thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khoá XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”
và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên để ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí; thực hiện
nghiêm Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2001 của Ban Chấp hành Trung ương về
những điều đảng viên không được làm; quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc
Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, nhất là trong công tác PCTN, lãng
phí; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày
7/12/2015, của Bộ Chính trị về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng” đã nêu: nguyên nhân cơ bản của những
hạn chế, yếu kém trong công tác PCTN “là do người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, tổ
chức, đơn vị chưa quan tâm đúng mức công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện, xử lý tham
nhũng, chưa ý thức đầy đủ hậu quả của tham nhũng ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin
của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, sự tồn vong của chế độ; chưa thực sự coi chống
tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên”. Chỉ thị của Bộ Chính trị tiếp tục
yêu cầu người đứng đầu các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, tổ chức đoàn
thể,…phải đề cao vai trò trách nhiệm cá nhân. Chỉ thị nêu “Kết quả công tác phòng,
chống tham nhũng là thước đo đánh giá phẩm chất, năng lực, trách nhiệm và mức độ
142
hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu”. Qua đó góp phần nâng cao ý thức trách
nhiệm của đảng viên trong việc rèn luyện, tự tu dưỡng bản thân và gương mẫu chấp
hành các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Để nâng cao vai trò, trách nhiệm trong PCTN, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức
đảng, cơ quan, đơn vị trong các cơ quan hành chính cấp trung ương cần thực hiện tốt
những nội dung chủ yếu sau:
- Lãnh đạo xây dựng các quy chế, quy định cụ thể trong cơ quan, đơn vị về
trách nhiệm, bao gồm trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý; trách nhiệm chủ động
phát hiện, kiểm tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng trong tổ chức, cơ quan,
đơn vị mình phụ trách; trách nhiệm báo cáo với tổ chức và cá nhân có thẩm quyền cấp
trên về tình hình và kết quả thực hiện trách nhiệm của mình về PCTN trong cơ quan,
đơn vị, tổ chức mình phụ trách. Bí thư cấp ủy, người đứng đầu tổ chức đảng, lãnh đạo
cơ quan phải thật sự gương mẫu và dành thời gian thích đáng để lãnh đạo, chỉ đạo công
tác PCTN, lãng phí.
- Xây dựng quy định để giám sát việc thực hiện trách nhiệm của người đứng
đầu cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Cán bộ, đảng viên khi phát hiện có dấu hiệu tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc thì phải báo cáo ngay với
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đó; trường hợp người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị có dấu hiệu tham nhũng hoặc liên quan đến dấu hiệu tham nhũng thì báo
cáo với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp. Khi phát hiện đảng
viên thuộc diện cấp ủy quản lý có dấu hiệu tham nhũng thì các cơ quan chức năng thực
hiện các biện pháp xử lý theo thẩm quyền, chịu trách nhiệm trước pháp luật và tổ chức
đảng vể quyết định của mình, đồng thời phải kịp thời báo cho cấp ủy đảng quản lý cán
bộ đó biết.
- Xây dựng quy định về trách nhiệm giải trình của người đứng đầu trước tập thể
cấp ủy cùng cấp và cấp trên khi có yêu cầu, cung cấp đầy đủ thông tin, chính xác, kịp
thời về quyền, nghĩa vụ, về quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và trách
nhiệm của mình đối với kết quả thực hiên chức trách, nhiệm vụ được giao. Người đứng
đầu nếu có khuyết điểm thì phải tự kiểm điểm và tự nhận hình thức kỷ luật tương xứng
với khuyết điểm của mình.
Các cấp ủy đảng những nơi có vụ việc tham nhũng, tiêu cực, thì phải xem xét
trách nhiệm của cả người đứng đầu cấp ủy, chính quyền. Những vụ việc tham nhũng,
143
tiêu cực xảy ra từ nhiều năm trước, nay mới phát hiện được thì phải xem xét cả trách
nhiệm của cán bộ, cơ quan tham mưu và những người lãnh đạo đã quyết định giới
thiệu, bổ nhiệm cất nhắc kẻ tham nhũng, cơ hội nắm giữ các trọng trách. Thực hiện
nghiêm trách nhiệm của người đứng đầu là một biện pháp quan trọng khắc phục hiệu
quả bệnh quan liêu, thiếu sâu sát, thiếu kiểm tra trong công tác quản lý hiện nay. Làm
được như thế, không những hạn chế được mức độ thiệt hại do tham nhũng gây ra mà
còn làm tăng hiệu lực của luật pháp, hiệu lực kỷ luật của Đảng và Nhà nước. Kết quả
công tác PCTN là thước đo đánh giá phẩm chất, năng lực, trách nhiệm và mức độ hoàn
thành nhiệm vụ của người đứng đầu.
Thứ hai, nâng cao nhận thức về tác hại của tham nhũng và nhiệm vụ PCTN; về
vị trí, vai trò của cấp ủy, Ủy ban Kiểm tra các cấp và tác dụng của công tác kiểm tra
của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Một là, cấp uỷ, lãnh đạo các cơ quan hành chính cấp trung ương tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục của Đảng, Nhà nước cần làm cho cán bộ, công chức
nhận thức được một cách đầy đủ, toàn diện và sâu sắc rằng, tham nhũng vừa là một
hành vi phạm tội, vừa là một biểu hiện của sự thoái hóa, biến chất về nhân cách, là sự
suy đồi về đạo đức và lối sống, là kẻ thù tồn tại ngay trong bản thân từng con người,
cần phải căm ghét và tìm mọi cách để loại bỏ. Đồng thời nhận thức rõ hơn về tác hại
của tham nhũng đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Từ đó xác định đấu tranh PCTN
là đấu tranh chống giặc "nội xâm"; hành vi tham nhũng của cán bộ, đảng viên là hành
vi làm ô danh Đảng, phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Các tổ chức đảng, các tổ chức chính quyền, đoàn thể phải có quyết tâm
chính trị cao, phải có chương trình hành động cụ thể trong mỗi giai đoạn; tạo ra sức
mạnh tổng hợp trong đấu tranh PCTN. Khắc phục những biểu hiện nhận thức lệch lạc,
ngại chỉ đích danh hành vi tham nhũng, tiêu cực do bệnh thành tích, sợ liên lụy, trốn
tránh trách nhiệm, nể nang, né tránh, “nói một đằng, làm một nẻo” trong PCTN.
Đổi mới hình thức tổ chức học tập quán triệt nghị quyết để đạt hiệu quả thiết
thực; tránh hình thức, chiếu lệ, gây lãng phí công sức và tiền của. Hình thức tuyên
truyền, giáo dục cần đa dạng, dễ hiểu, phù hợp với từng đối tượng.Triển khai có hiệu
quả cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" nhất là nội
dung nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân; về cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư, tạo nên phong trào tự tu dưỡng, rèn luyện, đẩy lùi sự suy thoái
144
về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và nạn tham nhũng trong Đảng, trong xã hội.
Cần quan tâm các hình thức tuyên truyền, giáo dục như: Chọn trọng tâm, tổ chức sinh
hoạt chuyên đề, trao đổi, thảo luận, kiến nghị với cấp có thẩm quyền về đổi mới cơ chế,
giải pháp phòng, chống tham nhũng. Tổ chức các hội nghị tuyên truyền, thông tin, phổ
biến, vinh danh, khen thưởng, động viên những gương điển hình tập thể, các nhân
trong đấu tranh PCTN.
Hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề PCTN để tuyên truyền xuyên tạc,
tung tin thất thiệt, gây rối nội bộ tạo ra nghi ngờ lẫn nhau từ đó gây mất đoàn kết, chia
rẽ nội bộ của ta. Do đó, các cấp ủy cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu
quả cuộc đấu tranh PCTN cần đồng thời coi trọng đấu tranh trên mặt trận tư tưởng
chính trị, khẳng định rõ những ưu thế của chế độ chính trị XHCN cũng như quyết tâm
chính trị, khả năng thực tế phòng, chống tham nhũng có hiệu quả của Đảng và Nhà
nước ta. Trong tuyên truyền, giáo dục cần khắc phục tình trạng thông tin một chiều,
mang tính kích động, gây hoang mang trong dư luận xã hội. Bảo vệ, khen thưởng, động
viên những người tích cực, dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; xử lý
nghiêm việc đưa tin sai sự thật, vu cáo, bịa đặt gây hậu quả xấu. Tăng cường phối hợp
với các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt
của ngành, cơ quan góp phần nhân rộng điển hình tiên tiến thành phong trào ngày càng
rộng lớn trong đấu tranh PCTN.
Hai là, nâng cao nhận thức về vị trí và vai trò của UBKT cùng với tác dụng
công tác kiểm tra của Đảng trong đấu tranh PCTN để các cấp ủy, tổ chức đảng các bộ,
ngành cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nhận thức đầy đủ và quan tâm chỉ
đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát trong PCTN ở cơ quan, đơn vị mình có hiệu
quả thiết thực.
Chú trọng thực hiện có hiệu quả Thông báo Kết luận số 226-TB/TW, ngày
03/3/2009, của Ban Bí thư về Tăng cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng”, nhằm nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tác dụng của công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng; công khai kịp thời trên các phương
tiện thông tin đại chúng kết quả phát hiện, xử lý các cụ việc, vụ án tham nhũng, các vi
phạm trong công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng và kết quả xử lý những
vi phạm đó. Chủ động công khai, đầy đủ, kịp thời những thông tin được phép công bố
về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng liên quan đến tham nhũng. Coi đó là một
145
bài học sâu sắc để giáo dục cán bộ, đảng viên và định hướng tư tưởng cho nhân dân;
liều thuốc tự chữa lành “vết thương” của tổ chức đảng, đảng viên vi phạm tham nhũng;
liều thuốc “tiêm phòng” với các tổ chức đảng và đảng viên khác; liều thuốc “bổ” đối
với xây dựng sự đoàn kết gắn bó mật thiết Đảng với quần chúng.
Thực tế thời gian qua cho thấy, thông tin về công tác kiểm tra, giám sát nhất là
thông tin liên quan đến PCTN tới các tổ chức đảng, đảng viên và nhân dân vô cùng
quan trọng, nó góp phần định hướng tư tưởng, tạo niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân là bài học sâu sắc nhất, là tiếng chuông cảnh tỉnh, ngăn ngừa vi phạm.
Cho nên cấp ủy các cấp cần chủ động lãnh đạo chỉ đạo thực hiện tốt việc công khai
thông tin đến các đối tượng theo quy định, không để phát sinh tư tưởng lệch lạc hoặc
nhận thức không thống nhất. Những băn khoăn, vướng mắc không được làm sáng tỏ,
những mâu thuẫn không được giải quyết, những thông tin không đến địa chỉ cần thiết,
kịp thời sẽ gây nên những bức xúc, làm cản trở hoặc tăng thêm khó khăn trở ngại trong
đấu tranh PCTN, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Việc thừa nhận, công khai
những vi phạm tham nhũng của tổ chức, của cán bộ đảng viên cũng chính là yếu tố
khẳng định Đảng ta luôn nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cuộc đấu tranh
PCTN, đồng thời nghiêm túc nhìn thẳng vào sự thật và kiên quyết đấu tranh PCTN có
hiệu quả.
4.2.2.2. Đẩy mạnh các biện pháp phòng ngừa thông qua công tác giám sát
của Đảng và các quy định của Nhà nƣớc, góp phần đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực
trong các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng
Thứ nhất, thực hiện tốt giám sát thường xuyên và tăng cường giám sát chuyên
đề đối với tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị để chủ động phòng
ngừa tham nhũng, tiêu cực. Công tác giám sát trong Đảng đã được quan tâm chỉ đạo
thực hiện Bộ Chính trị ban hành Quy định số 86-QĐ/TW, ngày 01/6/2017 (Quy định
86) về quy định giám sát trong Đảng. Tiếp đó UBKT Trung ương ban hành Hướng dẫn
số 02-HD/UBKTTW, ngày 01/9/2017 hướng dẫn thực hiện một số điều trong Quy đinh
86 của Bộ Chính trị về giám sát trong Đảng. Giám sát là một trong những biện pháp
quan trọng và thường xuyên để thực hiện các biện pháp phòng ngừa về tham nhũng,
lãng phí của cán bộ, đảng viên, công chức.
Thời gian qua công tác công tác giám sát thường xuyên được cấp ủy, UBKT các
cấp tiến hành đã góp phần quan trọng vào việc phòng ngừa về tham nhũng, tiêu cực.
146
Hiện nay, hoạt động giám sát thường xuyên của UBKT các cấp đã trở thành nền nếp.
UBKT Trung ương tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Quy chế số 02-
QC/UBKTTW (Quy chế 02), ngày 28-7-2017 của UBKT Trung ương: Quy chế công
tác đối với cán bộ theo dõi địa bàn, lĩnh vực của Cơ quan UBKT Trung ương đối với
các bộ, ngành thuộc các cơ quan hành chính cấp trung ương. UBKT cấp ủy trong các
bộ, ngành đã thực hiện nhiệm vụ công tác giám sát thường xuyên có hiệu quả nắm bắt
thông tin về tổ chức đảng và đảng viên để góp phần vào việc phòng ngừa về tham
nhũng, lãng phí.
Đối với công tác giám sát chuyên đề được tổ chức chặt chẽ. UBKT Trung ương
đã ban hành Quyết định số 150-QĐ/UBKTTW, ngày 19-5-2017 về quy trình giám sát
chuyên đề đối với tổ chức đảng và đảng viên. Công tác giám sát chuyên đề của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và UBKT Trung ương cùng với UBKT các cấp ủy trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương đã tập trung vào lĩnh vực thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, về công tác cán bộ và thực hiện chức trách, quyền hạn được giao
đối với tổ chức đảng và đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị.
Qua đó công tác giám sát của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và UBKT Trung
ương, UBKT các cấp ủy là một kênh qua trọng trong việc phòng ngừa tham nhũng
trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
Thứ hai, ban hành và thực hiện các quy định của Nhà nước, góp phần thực hiện
có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực
Một là, quy định về tặng quà và nhận quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức.
Việc tặng quà và nhận quà tặng vốn là một phong tục, tập quán bình thường của
người Á Đông nói chung và của người Việt Nam nói riêng, thể hiện tình cảm hay sự
biết ơn trong các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, phong tục này hiện nay đang có xu hướng
bị lợi dụng để thực hiện hành vi đưa và nhận hối lộ.
Để phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực thông qua thực hiện hành vi tặng quà và
nhận quà tặng, từ khóa VIII (1996-2000) Bộ Chính trị đã ban hành Quy định “Những
điều đảng viên không được làm”, trong đó có quy định đảng viên không được dùng
công quỹ để thăm viếng, tiếp khách, tặng quà,...Quy định này tiếp tục được bổ sung,
sửa đổi qua mỗi nhiệm kỳ đại hội Đảng.
Luật PCTN năm 2005 đã đưa ra các quy định có tính nguyên tắc và giao cho
Chính phủ quy định chi tiết việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng của cán
147
bộ, công chức, viên chức. Đến 10/5/2007, Chính phủ đã ban hành Quy chế kèm theo
Quyết định số: 64/2007/QĐ-TTg về việc “tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng
của cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước và của cán bộ, công chức,
viên chức”. Quy chế đã quy định cụ thể một số hiện vật gọi là quà. Đặc biệt, quy chế đã
quy định một số hành vi sau đây bị nghiêm cấm trong việc nhận quà: Cơ quan, đơn vị
và cá nhân tặng quà có liên quan đến hoạt động công vụ do mình hoặc người mà mình
nhận thay chịu trách nhiệm giải quyết (trước, trong và sau khi thực hiện công vụ) hoặc
thuộc phạm vi quản lý; quà tặng của các cơ quan, đơn vị và cá nhân mà việc tặng quà
đó không rõ mục đích; việc tặng quà có mục đích liên quan đến các hành vi tham
nhũng. Đến nay, một số bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành quy chế, quy định cụ thể về
việc tặng quà, nhận quà tặng đối với cán bộ, công chức trong cơ quan.
Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất về
đạo đức, lối sống, vẫn thường sách nhiễu, vòi vĩnh khi thi hành nhiệm vụ. Trong dịp tết
đến, tệ đưa và nhận hối lộ dưới hình thức quà cáp biếu xén vẫn diễn ra thường xuyên.
Tệ nạn phong bì gần đây đã trở thành phổ biến, là quốc nạn bởi nó đã trở thành “thông
lệ” trong đời sống xã hội.
Để thực hiện nghiêm các quy định của Đảng và Nhà nước về tặng quà và nhận
quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức, cấp ủy, các tổ chức đảng, lãnh đạo các cơ
quan cần có biện pháp tiếp tục giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn thể cán bộ, đảng
viên trong cơ quan nắm vững các quy định, tự giác, nghiêm túc chấp hành đúng quy
định. Cơ quan, đơn vị khi nhận được quà tặng không đúng quy định thì phải giao lại
quà tặng cho bộ phận chịu trách nhiệm quản lý quà tặng của cơ quan, đơn vị đó để xử
lý theo quy định; cán bộ, công chức, viên chức khi nhận được quà tặng không đúng
quy định thì phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp và nộp lại quà tặng cho cơ quan, đơn vị
mình. Khi quà tặng được nộp lại cho cơ quan, đơn vị, thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải
tổ chức tiếp nhận, bảo quản và phải xử lý theo đúng quy định của Chính phủ, báo cáo
cơ quan cấp trên trực tiếp và công khai trong cơ quan, đơn vị mình.
Hai là, thực hiện công khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
Kê khai tài sản là một trong những nội dung lớn của công khai, minh bạch.
Hàng năm, cán bộ, đảng viên cần thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập theo
quy định của Đảng và Nhà nước để tránh che giấu, tẩu tán tài sản tham nhũng; ngoài
việc kê khai tài sản của bản thân, cán bộ, công chức còn phải kê khai tài sản của vợ
148
hoặc chồng và con chưa thành niên. Tài sản phải kê khai bao gồm: nhà, quyền sử dụng
đất; kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá trị và các loại tài sản khác mà giá trị của
mỗi loại từ năm mươi triệu đồng trở lên; tài sản, tài khoản ở nước ngoài; thu nhập phải
chịu thuế theo quy định của pháp luật. Kê khai tài sản phải trung thực và được công
khai ở nơi công tác và nơi cư trú để quần chúng và nhân dân giám sát.
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) đã có chủ trương từng bước mở rộng diện
đối tượng kê khai tài sản, thu nhập và ghi rõ: “tiến tới tất cả đảng viên là cán bộ, công
chức, viên chức đều phải kê khai tài sản”. Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI)
lại khẳng định: “Từng bước mở rộng diện kê khai… tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức, viên chức”. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay” yêu cầu: “Kê khai tài sản phải trung thực và được công khai ở
nơi công tác và nơi cư trú”. Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) tiếp tục yêu cầu
việc kê khai tài sản phải được công khai ở nơi công tác và nơi cư trú, đông thời yêu cầu
cao hơn, là: “Từng bước mở rộng phạm vi công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức, viên chức”.
Bộ Chính trị ban hành Quy định số 85-QĐ/TW, ngày 23/5/2017 về kiểm tra,
giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý;
UBKT Trung ương tiến hành tham mưu Quy định về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài
sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý để triển khai thực hiện.
Theo đó, UBKT Trung ương có thẩm quyền kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của
cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý là đểm mới đang được nghiên cứu
triển khai thực hiện.
Căn cứ để xác minh tài sản là: khi có tố cáo về việc không trung thực trong kê
khai tài sản của người có nghĩa vụ kê khai; có hành vi tham nhũng; phục vụ cho việc
bầu cử, bổ nhiệm, cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc kỷ luật đối với người có
nghĩa vụ kê khai tài sản khi xét thấy cần thiết; theo yêu cầu của Hội đồng bầu cử hoặc
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền; khi có căn cứ cho rằng việc giải trình về
nguồn gốc tài sản tăng thêm không hợp lý. Qua xác minh, nếu người bị kết luận là
không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập thì tuỳ theo tính chất, mức độ mà bị xử
lý bằng một trong các hình thức kỷ luật sau: khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; hạ
ngạch. Người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực thì không được ứng cử hoặc
giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân. Người dự kiến được
149
bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại hội của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, người dự kiến được phê chuẩn, bổ nhiệm thì bị xoá tên khỏi danh
sách người ứng cử, không được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm.
Ba là, thực hiện khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực
Gần đây, Bộ Nội vụ và Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư liên tịch về
mức độ khen thưởng cho những cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc tố cáo hành
vi tham nhũng; trong việc cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để xử
lý hành vi tham nhũng bị tố cáo, thu hồi tài sản tham nhũng cho Nhà nước.Theo đó,
người tố cáo tham nhũng tùy theo mức độ sẽ được khen thưởng bằng nhiều hình thức
như: Huân chương Dũng cảm; Bằng khen của Thủ tướng; Bằng khen của cấp Bộ,
Ngành Trung ương… kèm theo giá trị thưởng bằng tiền theo quy định. Ngoài ra, các cá
nhân còn được thưởng từ Quỹ khen thưởng về phòng, chống tham nhũng do Thanh tra
Chính phủ quản lý. Người tố cáo tham nhũng, giúp thu hồi cho Nhà nước tài sản có giá
trị trên 600 lần mức lương cơ sở thì có thể được thưởng tối đa 3,4 tỷ đồng.
Thực hiện công khai việc trao tặng khen thưởng, trừ trường hợp có liên quan đến
bí mật Nhà nước hoặc cá nhân được khen thưởng đề nghị không công khai. Đối với cơ
quan đảng, cơ quan nhà nước đoàn thể chính trị - xã hội... ngoài việc khen thưởng như
Thông tư liên tịch của Bộ Nội vụ và Thanh tra Chính phủ đã ban hành, Đảng và Nhà
nước cần có cơ chế khuyến khích xem xét, bổ nhiệm, đề bạt vị trí cao hơn đối với cá
nhân có thành tích xuất sắc, phát huy cao tinh thần trách nhiệm, làm tốt công tác kiểm
tra, phát hiện tham nhũng, tiêu cực trong đơn vị mình, tự xử lý hoặc đề nghị cơ quan
thuộc thẩm quyền xử lý nghiêm minh, đúng theo quy định của pháp luật. Đặc biệt là
khen thưởng những người có dũng khí, bản lĩnh, dám thực hiện những quy định về thẩm
quyền, trách nhiệm của họ, không để có những vụ, việc bê bối, bức xúc dư luận.
4.2.3. Nhóm các giải pháp phát hiện, xử lý tham nhũng trong các cơ quan
hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công tác kiểm tra của Đảng
4.2.3.1. Tổ chức tốt việc thu thập thông tin và giải quyết đơn thƣ tố cáo
tham nhũng của cán bộ, đảng viên và quần chúng để phát hiện vụ việc tham
nhũng, tiêu cực
Thực hiện tốt việc tiếp nhận, xử lý và giải quyết đơn thư tố cáo của đảng viên
và công dân về tham nhũng đúng nguyên tắc, phương pháp, quy trình, thủ tục. Tố cáo
150
là một trong những quyền và trách nhiệm cơ bản của công dân được ghi trong Hiến
pháp và trong Luật khiếu nại, tố cáo. Điều lệ Đảng cũng quy định việc tố cáo và trách
nhiệm giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên. Nội dung tố cáo đối với cán
bộ, đảng viên là nguồn thông tin quan trọng giúp cho tổ chức đảng có thẩm quyền có
điều kiện xem xét, hiểu rõ thêm ưu điểm, khuyết điểm của các thành viên thuộc phạm
vi lãnh đạo, quản lý của mình.
Cấp ủy, UBKT các cấp xác định đây là một kênh thông tin quan trọng trong
việc phát hiện tham nhũng, tiêu cực. Do vậy để thực hiện tốt nhiệm vụ giải quyết tố
cáo, góp phần đấu tranh PCTN có hiệu quả, các cấp ủy đảng cần nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên về mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, phương pháp của tố cáo và
giải quyết tố cáo.
Trong đó giải quyết tố cáo trong Đảng ngày càng trở thành biện pháp hữu hiệu
trong việc phát hiện hành vi tham nhũng, cố ý làm trái. Qua đó UBKT Trung ương và
UBKT cấp ủy trong các bộ, ngành tiến hành xem xét làm rõ đúng, sai về nội dung tố
cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên để xem xét, xử lý theo quy định Điều lệ Đảng,
các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Để phát huy vai trò, trách nhiệm của
người tố cáo và giải quyết tố cáo trong Đảng. UBKT Trung ương đã tham mưu cho Bộ
Chính trị khóa XI ban hành Quy định số 201-QĐ/TW về phối hợp giải quyết tố cáo đối
với đảng viên là cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. UBKT Trung ương và UBKT
các cấp ủy trong các bộ, ngành đã phối hợp thực hiện tốt quy định này, nhất là tố cáo
liên quan đến tham nhũng, lãng phí và cố ý làm trái.
Trong giải quyết tố cáo cần phát huy dân chủ trong tố cáo và giải quyết tố cáo.
Khắc phục tâm lý e dè, sợ bị trù dập, trả thù dẫn đến phát hiện có tham nhũng nhưng
không dám tố cáo, dẫn đến tố cáo mạo danh, nặc danh. Ngược lại, khắc phục biểu hiện
lợi dụng “tích cực, hăng hái” chống tiêu cực, tham nhũng để tố cáo với dụng ý xấu,
thậm chí vu cáo, bịa đặt, làm hại người khác.
Một vấn đề đặt ra hướng dẫn của Trung ương, ban hành kèm theo Quyết định số
46-QĐ/TW và Nghị định số 136/2006/NĐ-CP của Chính phủ có quy định: Không xem
xét, giải quyết những tố cáo giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ. Trong thực tế, các cơ
quan nhà nước nhận được khá nhiều loại đơn tố cáo không ghi rõ họ, tên, địa chỉ người
tố cáo. Trong số đó có rất nhiều đơn tố cáo có nội dung, thông tin chính xác, đưa ra
những bằng chứng cụ thể để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý.
151
Ngược lại, cũng có nhiều đơn tố cáo nội dung không rõ ràng, cụ thể, không có căn cứ,
gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước trong việc xem xét, giải quyết.
Tuy nhiên, trong thực tế người tố cáo không ghi rõ họ, tên, địa chỉ của mình có
nhiều lý do. Có người do động cơ đúng đắn muốn báo cho các cơ quan về những hành
vi vi phạm pháp luật để Nhà nước có biện pháp xử lý nhưng lại lo sợ bị trù dập, trả thù
nên đã giấu họ, tên, địa chỉ của mình.
Để giải quyết vấn đề trên, UBKT các cấp đã tổ chức nghiên cứu kỹ các đơn thư
tố cáo giấu tên, mạo tên; nếu đơn thư có nội dung tố cáo rõ ràng, có cơ sở để thẩm tra,
xác minh thì UBKT chuyển nội dung đó sang kiểm tra dấu hiệu vi phạm. Kết quả giải
quyết bằng phương pháp trên cho thấy tỷ lệ đơn thư tố cáo giấu tên, mạo tên có nội
dung đúng cũng chiếm tỷ lệ khá cao. Tuy nhiên, việc thực hiện phương pháp trên
không phải ở nơi nào cũng làm tốt; có tình trạng chuyển sang kiểm tra dấu hiệu vi
phạm cũng được mà không chuyển cũng được, thích thì chuyển, không thích thì không
chuyển…Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên, nhiều ý kiến đề nghị nghiên cứu, ban
hành cơ chế giải quyết đơn thư tố cáo giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ để tránh bỏ
lọt tội phạm tham nhũng.
4.2.3.2. Tăng cường công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ
chức đảng và đảng viên để kịp thời phát hiện tham nhũng, tiêu cực
Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng và đảng viên là vũ khí
sắc bén của công tác kiểm tra của Đảng, qua kiểm tra kịp thời phát huy ưu điểm, uốn
nắn, sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, hậu quả xảy ra, xử lý vi phạm, góp phần xây
dựng Đảng, chính quyền, cơ quan quan, đơn vị nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Do vậy công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm cần có “trọng tâm, trọng
điểm”, với phương châm kiểm tra của Đảng “không có vùng cấm” tập trung vào những
vi phạm phổ biến, những vi phạm nghiêm trọng đã và đang gây bức xúc trong dư luận,
ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, như: Đầu tư xây dựng
cơ bản, quản lý đất đai, thu chi ngân sách, quản lý tài sản công…kiểm tra công tác cán
bộ và cán bộ, chú trọng kiểm tra những khâu dễ dẫn đến tham nhũng, như: Công tác
quy hoạch; nhận xét, đánh giá, tuyển chọn, sắp xếp, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bổ
nhiệm, luân chuyển cán bộ…
Ủy ban Kiểm tra các cấp cần làm tốt công tác tham mưu giúp cấp ủy thực hiện
kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao, dễ
152
xảy ra sai phạm. Tăng cường kiểm tra đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tổ
chức đảng ở các cơ quan nhà nước; nghiên cứu đổi mới cách thức kiểm tra, giám sát
của cấp ủy để nâng cao khả năng phát hiện các hành vi tham nhũng; chủ động kiểm tra
khi có dấu hiệu vi phạm đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, cấp ủy viên các cấp, cán bộ
thuộc diện cấp ủy quản lý, trước hết là người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở các tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước, Tập đoàn và Tổng công ty Nhà nước, các Ngân hàng Thương
mại cổ phần Nhà nước. Cơ quan kiểm tra của Đảng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
có chức năng PCTN của Nhà nước để kiểm tra phát hiện, xử lý kịp thời và công khai
kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên có vi phạm. Kiểm tra, rà soát, đánh giá vai trò,
trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị trong công tác PCTN, lãng phí.
Trên có ở đó tập trung kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm được UBKT các cấp xác định là nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện có chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả, góp phần phát hiện kịp thời, đầy đủ, chính xác vi phạm của tổ chức
đảng cấp dưới và đảng viên để xem xét, kết luận, xử lý nghiêm minh, những vi phạm
kỷ luật của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là vi phạm tham nhũng,
tiêu cực. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này, vừa qua Bộ Chính trị đã ban hành
Quy định số 01-Qđi/TW quy định trách nhiệm và thẩm quyền của UBKT trong công
tác PCTN. Đây là thiết chế quan trọng, thể hiện rõ trách nhiệm và thẩm quyền của
UBKT trong PCTN, tạo điều kiện thuận lợi cho UBKT trong thực hiện nhiệm, góp
phần tích cực vào công tác PCTN hiện nay.
Điều đó khẳng định công tác kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm là một trong
những kênh quan trọng trong việc phát hiện tham nhũng, tiêu cực cần được quan tâm
chỉ đạo thực hiện.
Trên cơ sở đó cấp ủy, UBKT các cấp phải nâng cao nhận thức, đổi mới quy
trình thực hiện kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đây thực sự là nhiệm vụ trọng tâm, vũ
khí sắc bén trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, khi phát hiện có dấu hiệu vi
phạm thì phải kiên quyết tiến hành kiểm tra, xem xét, xử lý kịp thời, nghiêm minh, nhất
là các vi phạm về tham nhũng, chống tư tưởng nể nang, né tránh, e ngại, cho rằng dấu
hiệu đó phải khẳng định rõ là có vi phạm mới tiến hành kiểm tra.
153
4.2.3.3. Thực hiện xử lý nghiêm minh những cá nhân tham nhũng theo kỷ
luật của Đảng và quy định, pháp luật của Nhà nước
Thứ nhất, xử lý hành vi tham nhũng theo kỷ luật của Đảng đối với đảng viên vi
phạm. Bộ Chính trị ban hành Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/11/2017 (Quy định số
102) về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Để thực hiện Quy định số 102 UBKT Trung
ương đã ban hành Hướng dẫn số 04-HD/UBKTTW, ngày 22/3/2018 (Hướng dẫn 04)
hướng dẫn thực hiện một số điều trong Quy định số 102 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ
luật đảng viên vi phạm. Theo đó tất cả đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng.
Đảng viên ở bất cứ cương vị nào, nếu vi phạm kỷ luật của Đảng đều phải được xem
xét, xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời. Hình thức kỷ luật đối với đảng viên chính
thức gồm: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ; đối với đảng viên dự bị: Khiển
trách, cảnh cáo. Đảng viên sau khi chuyển công tác, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu mới phát
hiện vi phạm vẫn phải xem xét, kết luận; nếu vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì
phải thi hành kỷ luật theo đúng quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước…
Đối với hành vi tham nhũng việc xử lý được thực hiện theo Quy định số 01 của
Bộ Chính trị gồm các hình thức sau: Xử lý kỷ luật hoặc đề nghị cấp ủy, tổ chức đảng
có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm theo quy
định. Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính, bố
trí lại công tác đối với đảng viên có hành vi tham nhũng chưa đến mức xử lý hình sự.
Xử lý hoặc kiến nghị xử lý về trách nhiệm người đứng đầu và cấp phó của người đứng
đầu tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trong việc để xảy ra tham nhũng hoặc bao che cho
tham nhũng. Chuyển cơ quan tư pháp vụ việc tham nhũng để xử lý và yêu cầu các cơ
quan này thông báo kết quả giải quyết cho cấp ủy, UBKT biết để xem xét, xử lý kỷ luật
về Đảng theo thẩm quyền.
Thứ hai, xử lý nghiêm minh những cá nhân tham nhũng, bao che tham nhũng.
Kỷ luật kịp thời, nghiêm minh những người có hành vi tham nhũng, nhất là người
đứng đầu để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình trực tiếp lãnh
đạo, quản lý nhưng không chủ động phát hiện, xử lý; những người bao che, ngăn cản
việc phát hiện, xử lý tham nhũng; hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống,
làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ. Khắc phục tình trạng chỉ xử lý kỷ luật
hành chính.
154
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã có quy định về xử lý tham nhũng.
Trong đó, đối tượng bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự bao gồm: người có hành vi tham
nhũng; người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng; người không
xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo về hành vi tham nhũng; người có hành vi đe dọa, trả thù,
trù dập người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham
nhũng; người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
Như vậy, đối tượng có thể bị xử lý liên quan đến việc thực hiện quy định của
pháp luật về PCTN rất đa dạng. Đối với cán bộ, công chức, viên chức thì hình thức xử
lý phổ biến đối với họ (nếu chưa đến mức xử lý hình sự) là việc áp dụng các hình thức
kỷ luật bao gồm: Khiển trách; Cảnh cáo; Hạ bậc lương; Hạ ngạch; Cách chức; Buộc
thôi việc và xử lý hình thức kỷ luật đảng tưng ứng đối với người là đảng viên hoặc truy
cứu trách nhiệm hình sự nếu nghiêm trọng.
Luật PCTN năm 2005 đã quy định về xử lý tài sản tham nhũng: Cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi, tịch thu tài sản
tham nhũng; tài sản tham nhũng phải được trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp
pháp hoặc sung quỹ nhà nước. Nghị quyết Trung ương 3 khóa X nêu: “Trừng trị
nghiêm khắc những đối tượng tham nhũng có tổ chức, gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng”. Qui định này góp phần làm cho việc đấu tranh chống tham nhũng có ý nghĩa
thực tiễn, tránh tình trạng chỉ xử lý được người có hành vi tham nhũng còn tài sản bị
tham nhũng chiếm đoạt lại không thu hồi được.
Đảng, nhà nước cung đã áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người
phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả
kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng.
Cơ chế xử lý tham nhũng với các biện pháp nêu trên, bên cạnh những biện pháp
có tính chất trừng trị đối với người có hành vi tham nhũng còn những biện pháp thu hồi
tài sản tham nhũng, biện pháp phòng ngừa, triệt tiêu điều kiện tham nhũng như: các
hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm một số nghề nhất định có thể làm nảy sinh
tham nhũng trong một khoảng thời gian nhất định. Có thể khẳng định vai trò tích cực
của các biện pháp xử lý trong đấu tranh, phòng ngừa tham nhũng nhất là với các đối
tượng có hành vi tham nhũng. Những biện pháp này không chỉ đáp ứng yêu cầu đấu
155
tranh, xử lý tham nhũng trước mắt mà còn có tác dụng lâu dài, có ý nghĩa phòng ngừa
sâu sắc đối với tham nhũng.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, xử lý tội tham nhũng chưa nghiêm, không đẩy lùi
tình trạng tham nhũng, tham nhũng năm sau lại cao hơn năm trước, quy mô tham
nhũng lớn hơn…Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các quy định của pháp luật
để xử lý nghiêm minh các vi phạm tham nhũng, như:
+ Xây dựng chế tài bắt buộc phải xử lý kỷ luật nghiêm minh khi vi phạm tham
nhũng; xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh cả về trách nhiệm vật chất, chính trị,
hành chính hoặc hình sự, bất kể người đó là ai và ở cương vị nào khi tham nhũng bị
phát hiện và xử lý. Những cán bộ, đảng viên qua kiểm tra, thanh tra phát hiện có dấu
hiệu tội phạm tham nhũng thì phải chuyển ngay cho cơ quan pháp luật khởi tố điều tra,
không để xử lý nội bộ, khi kết luận có tội thì truy tố, xét xử; làm rõ đến đâu xử lý đến
đó. Dù cơ quan pháp luật chưa kết luận được, cấp ủy vẫn phải xem xét kỷ luật đảng,
cân nhắc bố trí công việc khác cho phù hợp, không để xử lý nội bộ để giữ nghiêm kỷ
cương, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Những cán bộ, đảng viên làm giàu
bất hợp pháp, không chứng minh được nguồn làm giàu thì cũng phải truy tố.
+ Thể chế hoá việc xử lý tài sản tham nhũng. Một trong những nguyên nhân của
tình trạng tài sản tham nhũng nhiều hơn nhưng thu hồi lại ít hơn, thời gian thu hồi kéo
dài, thủ tục phức tạp…là những quy định về thu hồi tài sản tham nhũng vẫn chưa đủ và
chưa cụ thể để hình thành một cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng một cách có hiệu quả.
Đến nay, có đến gần 80% tài sản bị tham nhũng chưa được thu hồi. Đây là thách thức
lớn cho nỗ lực phòng chống tham nhũng của các cơ quan nhà nước. Tài sản tham
nhũng bị tẩu tán, không kiểm soát, không thu hồi được gây khó cho quá trình xử lý vụ
án tham nhũng, làm bản án không được thi hành.
Để thu hồi tài sản tham nhũng, pháp luật cần có cơ chế kiểm soát tài sản trước,
trong và sau khi xử lý tội phạm tham nhũng. Lâu nay chúng ta vẫn trông chờ vào biện
pháp kê khai tài sản cán bộ, công chức để giám sát, kiểm tra những biến động tài sản
của đối tượng này. Nhưng hiệu quả mà biện pháp kê khai tài sản mang lại gần như
không có vì tính hình thức trong quá trình thực hiện.
Vì thế, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật về kê khai tài sản cán bộ, công chức,
việc kiểm soát tài sản tham nhũng cần được tiến hành chặt chẽ ngay từ đầu quá trình
giải quyết vụ án tham nhũng. Tuy nhiên, nội dung này còn là khoảng trống trong pháp
156
luật tố tụng hình sự hiện hành. Điều này dẫn đến thực tế, kết luận thu hồi tài sản tham
nhũng trong nhiều bản án xét xử tội phạm tham nhũng không thực hiện được.
Bổ sung quy định các biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, đặc
biệt mở rộng phạm vi tài sản mà cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp kê
khai. Việc bổ sung biện pháp ngăn chặn, phong tỏa tài sản của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là cần thiết để hạn chế việc tẩu tán tài sản. Xây dựng quy trình, thủ tục hợp tác
quốc tế trong việc thu hồi tài sản tham nhũng.
Tiểu kết chƣơng 4
Công tác kiểm tra của Đảng có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng, chính quyền nhà nước trong sạch, vững mạnh, trong đó có nhiệm PCTN trong
bộ máy nhà nước nói chung và hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng. Trong
giai đoạn hiện cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò cấp ủy đảng và UBKT các cấp
trong PCTN.
Qua quá trình làm sáng tỏ quan điểm PCTN là nhiệm vụ quan trọng, là trách
nhiệm của cả hệ thống chính, phải đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của
Đảng, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp và vai trò trách
nhiệm của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên...
Từ quan điểm đó để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác PCTN trong các
cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng
cần đưa ra các giải pháp đồng bộ để thực hiện. Đó là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
để nâng cao các biện pháp phòng ngừa tham nhũng một cách hiệu quả như nâng cao
nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức về công tác PCTN. Đồng thời đề cao vai
trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị trong phòng,
chống tham nhũng ở cơ quan, đơn vị mình. Thực hiện có hiệu quả các giải pháp về xây
dựng cơ chế, tổ chức chức bộ máy thực hiện PCTN và giám sát, kiểm soát quyền lực
làm giải pháp đột phá. Đồng thời xác định vị trí, vai trò trách nhiệm của cấp ủy, UBKT
các cấp, từ đó quan tâm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát của
đảng góp phần việc ngăn ngừa và phát hiện, xử lý tham nhũng có hiệu quả, tạo điều
kiện cho công tác kiểm tra của Đảng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ PCTN.
157
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài luận án tiến sỹ “Phòng, chống tham nhũng trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng
Cộng sản Việt Nam” cho phép chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau:
Việc nghiên cứu cơ sở lý luận về PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước
cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng là rất quan trọng, ảnh hưởng đến
hướng nghiên cứu của đề tài. Bằng phương pháp tiếp cận khoa học để xác định những
nội dung quan trọng liên quan, luận án đã xây dựng khái niệm, đặc điểm và vị trí, vai
trò tác dụng của PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông
qua công tác kiểm tra của Đảng. Từ đó, luận án chỉ ra nội dung, phương thức, mối quan
hệ và những yếu tố ảnh hưởng, điều kiện bảo đảm thực hiện công tác kiểm tra của
trong PCTN đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương.
Thực tế đã khẳng định công tác kiểm tra của Đảng có vị trí, vai trò quan trọng
trong PCTN của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương là một trong những
phương thức PCTN có hiệu quả. Thông qua công tác kiểm tra của Đảng kịp thời phát
hiện, ngăn chặn tham nhũng của tổ chức và cán bộ, đảng viên trong các cơ quan hành
chính nhà nước cấp trung ương. Do vậy việc xác định đặc điểm, vị trí vai trò, nội dung,
phương thức và điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ công tác PCTN trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng trong
tình hình hiện nay là rất quan trọng.
Nghiên cứu thực trạng PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung
ương cho chúng ta thấy bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thời gian qua, quá
trình thực hiện nhiệm vụ công tác PCTN trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp
trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng cũng bộc lộ những mặt hạn chế, bất
cập so với yêu cầu thực tế về PCTN và trách nhiệm của cấp ủy, UBKT các cấp trong
PCTN chưa đáp ứng yêu cầu, chưa chủ động phát hiện dấu hiệu vi phạm về tham
nhũng, nhiều vụ việc tham nhũng chưa được phát hiện kịp thời để kiểm tra, có vụ việc
nghiêm trọng một thời gian dài mới được phát hiện để kiểm tra, tác dụng phòng ngừa,
ngăn chặn hạn chế. Một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa nhận thức đầy đủ, chưa thật sự
coi kiểm tra của Đảng là những chức năng lãnh đạo nên chưa gắn với quá trình lãnh
đạo; chưa xây dựng được chương trình kiểm tra cả nhiệm kỳ. Công tác chỉ đạo thực
158
hiện sự phối hợp giữa uỷ ban kiểm tra với các tổ chức đảng, cơ quan có liên quan trong
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra chưa chặt chẽ và thiếu đồng bộ.
Nguyên nhân cơ bản của thực trạng nêu trên là sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số
cấp uỷ, người đứng đầu tổ chức đảng, đoàn thể chính trị - xã hội trong PCTN còn chưa
quyết liệt, nghiêm minh, lúng túng trong phương thức chỉ đạo, kể cả còn tình trạng nể
nang, né tránh, quyết tâm chính trị chưa cao. UBKT các cấp chưa phát huy hết trách
nhiệm các cơ quan báo chí bằng các phương thức hữu hiệu trong công cuộc PCTN.
Một số UBKT chưa chủ động thực hiện nhiệm vụ kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm
hướng vào vi phạm tham nhũng do nể nang, né tránh, ngại va chạm vì đối tượng tham
nhũng thường là cán bộ có chức, có quyền, đáng lưu ý là nhận thức về hành vi tham
nhũng còn lẫn lộn hoặc né tránh ở nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, UBKT từ đó bỏ lọt lỗi
phạm phải xử lý hoặc xử lý không đúng tính chất, mức độ, thậm chí có cấp uỷ còn coi
hành vi tham nhũng chỉ là sơ xuất trong quản lý tài chính…
Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân của thực trạng PCTN trong các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng, tác
giả luận án đưa ra những quan điểm, giải pháp để đảm bảo hoạt động PCTN trong các
cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng đạt
kết quả cao nhất như: nhóm các giải pháp đột phá về cơ chế, pháp lý và tổ chức bộ
máy, nhóm các giải pháp phòng ngừa và nhóm các giải pháp phát hiện, xử lý tham
nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm
tra của Đảng.
159
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Văn Tĩnh (2011), “Tăng cường vai trò công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Thanh tra
thuộc Thanh tra Chính phủ, (7).
2. Trần Văn Tĩnh (2011), “Giải pháp nào cho việc nâng cao hiệu quả đầu tư, mua sắm,
quản lý và sử dụng tài sản công”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo thộc Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, (10).
3. Trần Văn Tĩnh (2013), “Phát huy vai trò, trách nhiệm của toàn xã hội đẩy lui tham
nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng vững chắc "Thế trận lòng dân" trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học Quân sự thuộc
Bộ Quốc phòng, (8).
4. Trần Văn Tĩnh (2017), "Công tác kiểm tra của Đảng trong phòng, chống tham nhũng ở
các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương", Tạp chí Cộng sản, (900).
5. Trần Văn Tĩnh (2017), "Công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam với vấn đề
trong phòng, chống tham nhũng ở các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung
ương", Tạp chí Giáo dục lý luận, Học viện Chính trị khu vực I, (266).
160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hồng Anh (2003), "Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Uỷ ban kiểm tra đảng các
cấp với lực lượng công an nhân dân", Tạp chí Kiểm tra, (2), tr.27-31.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2006), Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra
Trung ương khóa X, Ban hành kèm theo Quyết định số 10-QĐ/TW, ngày
11/8/2006, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2016), Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra
Trung ương khóa XI (Quy chế số 26QĐ/TW, ngày 19/7/2016), Hà Nội.
4. Ban Chỉ đạo Trung ương (2008), Báo cáo số 01/BC-BCĐ ngày 26/2/2008 về
phòng, chống tham nhũng và kết quả công tác phòng, chống tham nhũng năm
2007; phương hướng, nhiệm vụ năm 2008, Hà Nội.
5. Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng Trung ương, Báo cáo tổng kết 10 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh dạo của Đảng đối
với phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Hà Nội.
6. Ban Nội chính Trung ương, Đấu tranh chống tham nhũng: những vấn đề lý luận
và giải pháp thực tiễn, Đề tài khoa học KXBĐ02, Hà Nội.
7. Báo điện tử Đảng Cộng sản (2007), “Nguyên tắc xử lý tài sản tham nhũng”,
ngày 21/8.
8. Nguyễn Cảnh Chất (biên dịch) (2005), Hành chính công và hiệu quả quản lý của
Chính phủ, Tài liệu nghiên cứu về nền hành chính Trung Quốc, Nxb Lao động,
Hà Nội.
9. Trần Thị Minh Châu (2009), Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành
chính nhà nước cấp tỉnh ở Sơn La, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội.
10. Chính phủ (2009), Nghị quyết ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham
nhũng đến năm 2020, Hà Nội.
11. Chính phủ (2009), Báo cáo số 157-BC/CP về công tác phòng, chống tham nhũng,
Hà Nội.
12. Chính phủ (2016), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham
nhũng, Hà Nội.
13. Chính phủ (2016), Báo cáo số 419/BC-CP, ngày 17/10/2016 công tác phòng,
chống tham nhũng năm 2016, Hà Nội.
161
14. Chính phủ (2017), Báo cáo số 460/BC-CP, ngày 18/10/2017 công tác phòng,
chống tham nhũng năm 2017, Hà Nội.
15. Hạ Quốc Cường (2007), Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ
cầm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống rủi
ro, Hà Nội.
16. Phan Diễn (2001), "Đổi mới công tác kiểm tra là một bộ phận trong đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng", Tạp chí Kiểm tra, (15), tr.8-12.
17. Nguyễn Thị Doan (2002), "Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng nhằm góp
phần ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng", Tạp chí Cộng sản, (8), tr.11-14.
18. Nguyễn Thị Doan (2003), "Đấu tranh chống những biểu hiện cơ hội, thực dụng
trong thời kỳ mới", Tạp chí Cộng sản, (22), tr.28-33.
19. Cao Thị Dung, Bùi Anh Tuấn (2017), "Kiểm tra, giám sát - một trong những
phương thức lãnh đạo của Đảng trong kiểm soát quyền lực Nhà nước hiện nay", Kỷ
yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức Đảng và đảng viên, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07/12/2015 của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ
việc, vụ án tham nhũng, Hà Nội.
162
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Chu Húc Đồng (2007), "Kiên trì phương châm quản lý Đảng một cách nghiêm
minh, triển khai cuộc xây dựng tác phong của Đảng, xây dựng liêm chính và đấu
tranh chống tham nhũng", Kỷ yếu Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm Việt
Nam - Trung Quốc, tr.122-135.
29. Gerald E. Caiden, Tham nhũng và quản lý.
30. Lê Văn Giảng (2007), Chuyên đề Chống tham nhũng của Việt Nam và một số
nước trên thế giới.
31. Nguyễn Thúy Hà (2017), "Cơ chế kiểm soat quyền lực trong Đảng Cộng sản Việt
Nam hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua tổ chức Đảng và đảng
viên, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
32. Phạm Thái Hà (2016), "Phát huy hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong phòng,
chống tham nhũng", tại trang http://www.noichinh.vn/nghien-cuu-trao-
doi/201605/phat-huy-hieu-qua-cong-tac-kiem-tra-giam-sat-trong-phong-chong-
tham-nhung-300571, [truy cập ngày 20/8/2017].
33. Nguyễn Văn Hải (2010), “Bổ sung quyền giám sát của nhân dân”, tại trang
www.chinhphu.vn, [truy cập ngày 05/11/2017].
34. Thành Kiến Hoa (2016), Xây dựng chế độ là chính sách giúp giải quyết tận gốc
tham nhũng, tiêu cực, Viện khoa học xã hội Trung Quốc.
35. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Thông tin khoa học (2006),
“Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng ở một số nước trên thế giới”, Tạp
chí Thông tin tư liệu, (1), tr.3
36. Hoàng Minh Hội (2014), Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với
cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Phạm Thị Huệ (2006), Thanh tra và vấn đề phòng, chống tham nhũng, Luận
văn thạc sĩ Luật, Hà Nội.
38. Trần Duy Hưng (2017), “Một số vấn đề hợp nhất Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung
ương với Thanh tra Chính phủ”, Tạp chí Kiểm tra, (12), tr.38-41.
163
39. Nguyễn Văn Kim (2003), Pháp luật chống tham nhũng của các nước trên thế
giới, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
40. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
41. V.I.Lênin (1978). Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
42. V.I.Lênin (1978). Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
43. V.I.Lênin (1978). Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
44. V.I.Lênin (1979). Toàn tập, tập 54, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
45. Lê Hồng Liêm (2009), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng, chống
tham nhũng trong tình hình hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp
bộ KHBĐ-46, Hà Nội.
46. Lê Hồng Liêm (2013), Nghiên cứu mối quan hệ không bình thường giữa một bộ
phận cán bộ, đảng viên có chức, quyền với các doanh nghiệp để trục lợi: Thực
trạng và giải pháp phòng, chống thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng,
Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
47. Nguyễn Văn Mạnh (2017), Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong
thể chế chính trị nhằm ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị ở Việt Nam,
Đề tài khoa học cấp Bộ.
48. Hồ Chí Minh (1995). Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (2000). Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Đinh Văn Minh (chủ nhiệm) (2014), Tổ chức và hoạt động của các cơ quan có
chức năng phòng, chống tham nhũng và một số vấn đề đặt ra, Đề tài khoa học cấp
Bộ, Hà Nội.
51. Đinh Văn Minh (2015), Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong khu vực
tư ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
52. Trần Thu Minh (2016), “Những điểm mới trong chế độ tuần thị của Đảng Cọng
sản Trung Quốc sau Đại hội XVIII", Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị,
(24+25), tr.52-58.
53. Montesquieu (2004), Bàn về tinh thần pháp luật. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
54. Vương Tùng Niên (2000), Năm vấn đề đương đại, Nxb Bắc Kinh, Bắc Kinh,
Trung Quốc.
55. Oxford, Cambridge (1997), Từ điển Anh - Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
56. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật số
32/2001/QH10 ban hành về Luật tổ chức Chính phủ, Hà Nội.
164
57. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa X, Nxb Hà Nội.
58. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật Khiếu nại, tố
cáo, Hà Nội.
59. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Phòng, chống
tham nhũng, Hà Nội.
60. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật phòng, chống
tham nhũng năm 2012, Hà Nội.
61. Nguyễn Cảnh Quý (chủ nhiệm) (2017), Giải pháp đột phá đấu tranh phòng, chống
hiệu quả tham nhũng trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học
cấp Bộ.
62. Rick Stapenhurst, Sahr J. Kpundeh (chủ biên) (2002), Sách, Ngân hàng thế giới:
Kiềm chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia,
Trần Thị Thái Hà biên dịch, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản, Hà Nội.
63. Nguyễn Quốc Sửu, Phòng, chống tham nhũng trong hoạt động công vụ ở Việt
Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Tạ Ngọc Tấn (2006), "Giám sát xã hội như một giải pháp phòng, chống tham
nhũng, lãng phí", Tạp chí Cộng sản, (16).
65. Quách Lê Thanh (1997), Đấu tranh chống tham nhũng: những vấn đề lý luận và
giải pháp thực tiễn, Đề tài khoa học KXBĐ02, Hà Nội.
66. Thanh tra Chính phủ (2007), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng chiến lược
phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
cho đến năm 2020, Đề tài độc lập cấp nhà nước, Viện Khoa học Thanh tra, Hà Nội.
67. Thanh tra Chính phủ (2007), Báo cáo tổng kết công tác năm 2007 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2008, Hà Nội.
68. Thanh tra Chính phủ (2008), Báo cáo tổng kết công tác năm 2008 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2009, Hà Nội.
69. Thanh tra Chính phủ (2009), Báo cáo tổng kết công tác năm 2009 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2010, Hà Nội.
70. Tôn Xuân Thần (2017), Chế độ chống tham nhũng từ sau Đại hội XVIII của
Đảng Cộng sản Trung Quốc sáng tạo lý luận và thực tiễn, Viện khoa học xã hội
Trung Quốc.
165
71. Thông tấn xã Việt Nam (2014), Những vấn đề lý luận của Đại hội XVI của Đảng
Cộng sản Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Lê Minh Thông (2007), Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Cao Văn Thống (2017), “Công tác giám của Ủy ban Kiểm tra - Kỷ luật Đảng Cộng
sản Trung Quốc”, Tạp chí Kiểm tra, (11), tr.53-55.
74. Tô Quang Thu (2016), Phát hiện và thu hồi tài sản do tham nhũng mà có - Thực
trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp bộ KHBĐ-08.
75. Tạ Thu Thủy (chủ nhiệm) (2015), Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan
thực hiện chức năng phòng, chống tham nhũng, Đề tài khoa học cấp Bộ, Thanh tra
Chính phủ, Hà Nội.
76. Trần Văn Tĩnh (2011), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương ở Việt Nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội.
77. Trần Văn Tĩnh (2011), "Tăng cường vai trò công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng giai đoạn hiện nay", Tạp chí Thanh tra,
(7), tr.6-8.
78. Trần Văn Tĩnh (2017), "Công tác kiểm tra của Đảng trong phòng, chống tham
nhũng ở các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương", Tạp chí Cộng sản,
(900), tr.22-28.
79. Trần Văn Tĩnh (2017), "Công tác kiểm tra của Đảng Cộng sản Việt Nam với vấn
đề trong phòng, chống tham nhũng ở các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung
ương", Tạp chí Giáo dục lý luận, (266), tr.96-101.
80. Hà Mạnh Trí (2017), "Tăng cường sự phối hợp giữa công tác kiểm tra của Đảng và
công tác kiểm sát của ngành kiểm sát nhân dân", Tạp chí Kiểm tra, tr.22-25.
81. Mai Trực (chủ nhiệm) (2016), Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng với
kiểm soát quyền lực ở nước ta theo tinh thần Đại hội XII của Đảng, Đề tài khoa
học cấp bộ KHBĐ-21, Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
82. Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Thùy Dung (2015), “Một số vấn đề về công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng trong phòng, chống tham nhũng”, Thông tin điện tử
của Ban Nội chính Trung ương, ngày 21-02.
83. Nguyễn Văn Tuấn (2015), Vai trò của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong kiểm
soát việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
166
84. Vũ Quốc Tuấn (2006), "Chống tham nhũng xét từ góc độ quyền lực", Báo Doanh
nhân Sài Gòn, ngày 28/9.
85. Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương (2010), Báo cáo về tổng
kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ 2007 -
2010, Hà Nội.
86. Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương (2015), Báo cáo về tổng
kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ 2010 -
2015, Hà Nội.
87. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2000), Báo cáo thực trạng tệ quan liêu, tham nhũng
và cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng trong Đảng thời gian qua
(1996-2000), Hà Nội.
88. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2006), Đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng
nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, Đề tài
cấp Nhà nước, Hà Nội.
89. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2009), Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với
phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay: Thực trạng và giải pháp, Đề
tài khoa học KHBĐ-46, Hà Nội.
90. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2010), Báo cáo số 391-BC/UBKTTW về tổng kết thực
hiện Quy chế làm việc của Ủy ban kiểm tra Trung ương khóa X, Hà Nội.
91. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2010), Báo cáo về tổng kết công tác kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng (2006-2010),
Hà Nội.
92. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2015), Báo cáo tổng kết công tác kiểm tra, giám sát
và thi hành kỷ luật trong Đảng nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng (2011-2015), Hà Nội.
93. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2015), Báo có tổng kết 10 năm thực hiện Luật
phòng, chống tham nhũng của Ủy ban kiểm tra Trung ương (2006 - 2015), Hà Nội.
94. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2015), Báo cáo số 327-BC/UBKTTW về tổng kết
thực hiện Quy chế làm việc của Ủy ban kiểm tra Trung ương khóa XI, Hà Nội.
95. Uỷ ban Kiểm tra Trung ương (2015), Báo cáo số 323-BC/UBKTTW về tổng kết 10
năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng, Hà Nội.
96. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2016), Báo cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật trong Đảng năm 2016, phương hướng, nhiệm vụ năm 2017, Hà Nội.
167
97. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2017), Báo cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát
và thi hành kỷ luật trong Đảng năm 2017, phương hướng, nhiệm vụ năm 2018,
Hà Nội.
98. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2018), Báo cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát
và thi hành kỷ luật trong Đảng năm 2018, phương hướng, nhiệm vụ năm 2019,
Hà Nội.
99. Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng - Thanh tra
Chính phủ - Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam: Thông cáo báo chí tại cuộc đối
thoại về phòng, chống tham nhũng lần thứ ba, tháng 6/2008, Hà Nội.
100. Hồng Vĩ (2007), Tham nhũng và biện pháp chống tham nhũng ở Trung Quốc,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia (2002),
Từ điển Pháp - Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
102. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
103. Vinay Bhargava, Emil Bolongaita (2003), Sách Ngân hàng thế giới: Đương đầu
với tham nhũng ở châu Á - Những bài học thực tế và khuôn khổ hành động.
Thanh tra Chính phủ phối hợp với Nxb Tư pháp, Hà Nội.
104. Tào Vĩnh (2017), Những thành tựu và kinh nghiệm trong công tác chống tham
nhũng của Đảng Cộng sản Trung Quốc từ Đại hội XVIII đến nay, Viện khoa học
xã hội Trung Quốc.
105. Vu Ka Vai (2001), Role of Ombudsman in Combating Corruption (Vai trò của
Thanh tra trong đấu tranh chống tham nhũng).
106. Nguyễn Xuân Yên, Nguyễn Hòa Bình và Bùi Minh Thanh (đồng chủ biên)
(2007), Phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
Tài liệu trên website:
107. http://wkipedia.org/wki/tham nhung.
108. http://thanhtra.edu.vn/category/detail/479-singapore:-chinh-sach-4-khong-voi-
tham-nhung.html.
109. http://www.qdnd.vn/thoi-su-quoc-te/su-kien/trung-quoc-tong-ket-5-nam-chien-
dich-chong-tham-nhung-520067
110. http://www.thesaigontimes.vn/118248/Trung-Quoc-Suc-manh-cua-Uy-ban-Kiem-
tra.html.
168
PHỤ LỤC
NỘI DUNG TRAO ĐỔI, PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA
Về phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nƣớc và các cơ quan
hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng thông qua công tác kiểm tra của Đảng
I. ĐỐI TƢỢNG PHỎNG VẤN
1. Một số đồng chí là thành viên UBKT Trung ương (phó chủ nhiệm và Ủy viên
UBKT Trung ương) và lãnh đạo một số ban đảng Trung ương (kể cả một số đồng chí
đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu):
Số đối tượng này thực hiện phóng vấn là 15 đồng chí.
2. Một số đồng chí là bí thư đảng ủy các bộ, ngành cơ quan hành chính nhà
nước trung ương (các đồng chí đối tượng này cơ bản giữ chức vụ chính quyền là thứ
trưởng và tương đương):
Số đối tượng này thực hiện phỏng vấn là 10 đồng chí.
3. Một số đối tượng là Bí thư, Phó bí thư Đảng Khối các cơ quan Trung ương:
Số đối tượng này thực hiện phỏng vấn là 05 đồng chí.
Tổng số đối tƣợng thực hiện phỏng vấn là 30 đồng chí
II. HÌNH THỨC PHỎNG VẤN
Thực hiện phỏng vấn cá nhân (trao đổi trực tiếp hoặc qua điện thoại), gồm các
hình thức sau:
+ Phỏng vấn bán tiêu chuẩn: có một số câu hỏi có tính chất quyết định được tiêu
chuẩn hóa, còn các câu hỏi khác có thể phát biểu tùy tình hình cụ thể.
+ Phỏng vấn sâu: thực hiện phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia đi sâu vào một số
nội dung.
III. NỘI DUNG PHỎNG VẤN
Về cơ chế thành lập UBKT cấp ủy; xây dụng mô hình sát nhập UBKT với
Thanh tra, Nội chính; bổ sung quy định, cơ chế UBKT cáp ủy thực hiện PCTN và giám
sát, kiểm soát quyền lực; nghiên cứu xây dựng Luật Giám sát và cơ quan Giám sát; mô
hình về tổ chức bộ máy của UBKT cấp ủy trong các bộ, ngành trung ương đáp ứng yêu
càu nhiệm vụ.
IV. CÂU HỎI PHỎNG VẤN
Kính thưa đồng chí!
Đấu tranh PCTN trong bộ máy nhà nước nói chung và trong các cơ quan hành
chính nhà nước trung ương nói riêng thông qua công tác kiểm tra của Đảng trong những
năm qua đạt được kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện Đảng cầm quyền mọi tổ
169
chức đảng, đảng viên trong bộ máy nhà nước và các cơ hành chính nhà nước cấp trung
ương đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Nhưng trên thực tế còn nhiều bất cập, tồn
tại, do vậy cần phải nghiên cứu có cơ chế pháp lý và tổ chức bộ máy phù hợp đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. Vì vậy chúng tôi triển khai đề tài PCTN trong các
cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng, để có
cơ sở căn cứ đề xuất xây dựng cơ sở lý luận và giải pháp nâng cao chất lượng công tác
này. Với mục đích đó kính đề nghị các đồng chí cho biết những ý kiến, quan điểm, chính
kiến của mình theo một số nội dung cơ bản sau, đồng thời có thêm những ý kiến trao đổi
cụ thể về những vấn đề cần quan tâm, để giúp chúng tôi có thông tin quý báu cần thiết.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí!
Câu hỏi 1: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình theo các mô hình sau về cơ
chế thành lập UBKT cấp ủy hiện nay để bảo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát nói
chung và thực hiện có hiệu quả việc PCTN hiện nay?
Cơ chế thành lập
UBKT cấp ủy
Đồng ý Không đồng ý Lý do
UBKT cấp ủy do cấp
ủy bầu (như hiện nay)
UBKT cấp ủy do đại
hội bầu
Ý kiến khác (nêu rõ ý
kiến)
Câu hỏi 2: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình theo các mô hình sau về
việc sát nhập UBKT cấp ủy với các cơ quan có chức năng tương đồng để bảo thực
hiện tốt nhiệm vụ và thực hiện có hiệu quả việc PCTN, giám sát kiểm soát quyền lực
trong tình hình hiện nay?
Mô hình sát nhập Đồng ý Không đồng ý Lý do
UBKT với Thanh tra nhà
nước
UBKT với ban nội chính
và Thanh tra nhà nước
Ý kiến khác (nêu rõ ý
kiến)
170
Câu hỏi 3: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về cơ chế để thực hiện có
hiệu quả Quy định số 01-Qđi/TW, ngày 10/5/2018 của Bộ Chính trị quy định về trách
nhiệm và thẩm quyền của UBKT trong công tác PCTN hiện nay?
Vấn đề này hiện này tuy Bộ Chính trị đã ban hành quy định, nhưng để thực
hiện cần có quy đinh và cơ chế như sau:
Yêu cầu xây
dựng cơ chế
Nội dung cơ bản cơ chế Đồng ý Không
đồng ý
Ý kiến khác
1. Bổ sung quy
định của Đảng
- Đưa chức năng, nhiệm vụ về PCTN
của UBKT vào Điều lệ Đảng.
- Xây dựng quy định cụ thể về hành
vi vi phạm.
2. Xây dựng tổ
chức bộ máy
- Thành lập Cục PCTN đối với
UBKT Trung ương.
- Phòng PCTN đối với UBKT tỉnh
ủy, thành ủy.
3. Xây dựng cơ
chế và chế tài về
xử lý vi phạm
- Bổ sung xem xét xử lý đơn thư tố cáo
nặc danh với nội dung có vi phạm, địa chỉ
cụ thể.
- Có chế tài xử lý cụ thể hành vi vi
phạm đối với kỷ luật Đảng, chính
quyền và PL.
Câu hỏi 4: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về cơ chế để cấp ủy, UBKT
cấp ủy thực hiện có hiệu quả giám sát, kiểm soát quyền lực? Theo một số vấn đề sau:
Nội dung này nghiên cứu thực hiện thành hai bước theo nội dung sau:
Bước 1: xây dựng thực các nội dung sau:
Yêu cầu xây dựng
cơ chế
Nội dung cơ bản cơ chế Đồng ý Không
đồng ý
Ý kiến khác
1. Xây dựng quy
định của của Đảng
về trách nhiệm, thẩm
quyền của UBKT
cấp ủy trong việc
giám sát, kiểm soát
quyền lực.
- Xây dựng ban hành quy định về
thẩm quyền và trách nhiêm của
UBKT trong giám sát, kiểm soát
quyền lực.
- Đưa chức năng, nhiệm vụ về giám
sát, kiểm soát quyền lực của UBKT
vào Điều lệ Đảng.
- Xây dựng quy định cụ thể về
hành vi vi phạm.
2. Xây dựng tổ
chức bộ máy
- Thành lập Cục Giám sát đối với
UBKT Trung ương.
- Phòng Giám sát đối với UBKT
tỉnh ủy, thành ủy.
3. Xây dựng cơ chế
và chế tài xử lý vi
phạm.
- Xây dựng Điều lệ giám sát.
- Có chế tài xử lý cụ thể hành vi vi
phạm đối với kỷ luật Đảng, chính
quyền và PL.
171
Bước 2: xây dựng thực các nội dung sau:
1. Nghiên cứu xây dựng Luật Gám sát.
Về nội dung
pháp lý
Yêu cầu tính pháp lý và
cơ chế thực hiện
Đồng ý Không
đồng ý
Ý kiến khác
Thẩm quyền ban hành Quốc hội thông qua
Thẩm quyền thực hiện Thanh tra, kiểm tra, khởi
tố hành vi vi phạm
Đối tượng thực hiện Cán bộ, công chức trong
bộ máy nhà nước và hệ
thống chính trị
Phạm vi thực hiện
Giám sát hoạt động các
bộ, cơ quan ngang bộ,
chính quyền địa phương
và các tập đoàn kinh tế
nhà nước
2. Nghiên cứu thành lập Ủy ban Giám sát Quốc gia.
Về nội dung
pháp lý
Yêu cầu tính pháp lý và
cơ chế thực hiện
Đồng ý Không
đồng ý
Ý kiến khác
Thẩm quyền phê
duyệt
Quốc hội phê chuẩn
Thẩm quyền thực
hiện
Thanh tra, kiểm tra, khởi
tố hành vi vi phạm
Đối tượng thực hiện Cán bộ, công chức trong
bộ máy nhà nước và hệ
thống chính trị
Phạm vi thực hiện
Giám sát hoạt động các
bộ, cơ quan ngang bộ,
chính quyền địa phương
và các tập đoàn kinh tế
nhà nước
172
Câu hỏi 5: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về việc đề xuất xây dựng
mô hình tổ chức và cơ chế của cấp ủy, UBKT cấp ủy trong các bộ, ngành trung ương
bảo đảm hoạt động hiệu quả, theo định hướng sau:
Xây dựng, điều chỉnh, bổ sung cơ chế
pháp lý
Đồng ý Không
đồng ý
Ý kiến khác
1. Xóa bỏ BCS đảng, đảng đoàn trong các
bộ, ngành trung ương.
2. Chuyển giao chức năng, nhiệm vụ BCS
đảng, đảng đoàn cho đảng ủy.
3. Bố trí nhất thể hóa chức danh lãnh đạo chủ
chốt đảng và chính quyền trong các bộ, ngành
trung ương (bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
kiêm bí thư đảng ủy)
4. Bố trí một số chức danh chuyên trách của
cấp ủy và UBKT cấp ủy để thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ theo yêu cầu.
5. Có cơ chế để Trung ương Đảng lãnh đạo,
chỉ đạo trực tiếp cấp ủy, lãnh đạo các bộ
ngành trung ương.
V. TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHỎNG VẤN
Câu hỏi 1: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình theo các mô hình sau về cơ
chế thành lập UBKT cấp ủy hiện nay để bảo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát nói
chung và thực hiện có hiệu quả việc PCTN hiện nay? Nội dung này có các ý kiến như
sau:
Cơ chế thành lập
UBKT cấp ủy
Đồng ý Không đồng ý Lý do
UBKT cấp ủy do cấp ủy
bầu (như hiện nay)
4 13% 25 83% UKKT do đại hội bầu về
danh nghĩa vẫn hoạt động
dưới sự lãnh đạo của cấp
ủy.
UBKT cấp ủy do đại
hội bầu
25 83% 4 13% UBKT sẽ độc lập hơn
trong hoạt động
Ý kiến khác (nêu rõ ý
kiến) 1= 4%
Cần có cơ quan khác do luật quy định,
Quốc hội thông qua thực hiện giám sát
BCH Trung ương.
Cần có cơ chế khác
173
Câu hỏi 2: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình theo các mô hình sau về việc
sát nhập UBKT cấp ủy với các cơ quan có chức năng tương đồng để bảo thực hiện tốt
nhiệm vụ và thực hiện có hiệu quả việc PCTN, giám sát kiểm soát quyền lực trong tình
hình hiện nay? Nội dung này có các ý kiến như sau:
Mô hình sát nhập Đồng ý Không đồng ý Lý do
UBKT với Thanh tra
nhà nước
18 60% 10 33% Phù hợp thực hiện nhiệm
vụ, nhất là PCTN
UBKT với ban nội
chính và Thanh tra nhà
nước
10 33% 18 60% Phù hợp thực hiện nhiệm
vụ, nhất là PCTN, giám
sát kiểm soát quyền lực
Ý kiến khác (nêu rõ ý
kiến) 2 = 7%
Giữ nguyên như hiện nay Chức năng thanh tra về nhà
nước, kiểm tra trong đảng
khó thực hiện.
Câu hỏi 3: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về cơ chế để thực hiện có
hiệu quả Quy định số 01-Qđi/TW, ngày 10/5/2018 của Bộ Chính trị quy định về trách
nhiệm và thẩm quyền của UBKT trong công tác PCTN hiện nay? Nội dung này có
các ý kiến như sau:
Yêu cầu xây
dựng cơ chế
Nội dung cơ bản cơ
chế
Đồng ý Không đồng
ý
Ý kiến khác
1. Bổ sung quy
định của Đảng
- Đưa chức năng, nhiệm
vụ về PCTN của UBKT
vào Điều lệ Đảng.
- Xây dựng quy định cụ
thể về hành vi vi phạm.
30
28
100%
93%
0
2
7%
Thực hiên
theo QĐ của
đảng và nhà
nước đã có
2. Xây dựng tổ
chức bộ máy
- Thành lập Cục PCTN
đối với UBKT Trung
ương.
- Phòng PCTN đối với
UBKT tỉnh ủy, thành ủy.
30
100%
0
3. Xây dựng cơ
chế và chế tài
về xử lý vi
phạm
- Bổ sung xem xét xử lý
đơn thư tố cáo nặc danh với
nội dung có vi phạm, địa
chỉ cụ thể.
- Có chế tài xử lý cụ thể
hành vi vi phạm đối với kỷ
luật Đảng, chính quyền và
PL.
20
30
66%
10
0
33%
Không phù
hợp với Luật
đã quy định
174
Câu hỏi 4: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về cơ chế để cấp ủy, UBKT
cấp ủy thực hiện có hiệu quả giám sát, kiểm soát quyền lực? Theo một số vấn đề sau:
Nội dung này nghiên cứu thực hiện thành hai bước theo nội dung sau:
Bước 1: Nội dung này các ý kiến như sau
Yêu cầu xây dựng
cơ chế
Nội dung cơ bản cơ chế Đồng ý Không
đồng ý
Ý kiến khác
1. Xây dựng quy định
của của Đảng về trách
nhiệm, thẩm quyền
của UBKT cấp ủy
trong việc giám sát,
kiểm soát quyền lực.
- Xây dựng ban hành quy định về
thẩm quyền và trách nhiêm của
UBKT trong giám sát, kiểm soát
quyền lực.
- Đưa chức năng, nhiệm vụ về
giám sát, kiểm soát quyền lực của
UBKT vào Điều lệ Đảng.
- Xây dựng quy định cụ thể về
hành vi vi phạm.
25 (83%)
25 (83%)
30
5 (17%)
5 (17%)
0
Cần nghiên cứu
kỹ hơn và có lựa
chọn phù hợp
với tình hình
hiện nay.
2. Xây dựng tổ chức
bộ máy
- Thành lập Cục Giám sát đối với
UBKT Trung ương.
- Phòng Giám sát đối với UBKT
tỉnh ủy, thành ủy.
30
(100%)
0
3. Xây dựng cơ chế
và chế tài xử lý vi
phạm.
- Xây dựng Điều lệ giám sát.
- Có chế tài xử lý cụ thể hành vi vi
phạm đối với kỷ luật Đảng, chính
quyền và PL.
30
(100%)
0
Bước 2: xây dựng thực các nội dung sau:
1. Nghiên cứu xây dựng Luật Gám sát. Nội dung này ý kiến nhƣ sau:
Về nội dung
pháp lý
Yêu cầu tính pháp lý và
cơ chế thực hiện
Đồng ý Không
đồng ý
Ý kiến khác
Thẩm quyền ban hành Quốc hội thông qua 20 (66%) 10 (33%)
Cần nghiên cứu
kỹ hơn và có lựa
chọn phù hợp với
tình hình hiện
nay.
Thẩm quyền thực hiện Thanh tra, kiểm tra, khởi
tố hành vi vi phạm
20 (66%) 10 (33%)
Đối tượng thực hiện Cán bộ, công chức trong
bộ máy nhà nước và hệ
thống chính trị
20 (66%) 10 (33%)
Phạm vi thực hiện
Giám sát hoạt động các
bộ, cơ quan ngang bộ,
chính quyền địa phương
và các tập đoàn kinh tế
nhà nước
20 (66%) 10 (33%)
175
2. Nghiên cứu thành lập Ủy ban Giám sát Quốc gia.
Về nội dung
pháp lý
Yêu cầu tính pháp lý và
cơ chế thực hiện
Đồng ý Không
đồng ý
Ý kiến khác
Thẩm quyền
phê duyệt
Quốc hội phê chuẩn 18 (60%) 12 (40%)
Cần nghiên cứu
kỹ hơn và có lựa
chọn phù hợp
với tình hình
hiện nay.
Thẩm quyền
thực hiện
Thanh tra, kiểm tra, khởi
tố hành vi vi phạm
18 (60%) 12 (40%)
Đối tượng thực
hiện
Cán bộ, công chức trong
bộ máy nhà nước và hệ
thống chính trị
18 (60%) 12 (40%)
Phạm vi thực
hiện
Giám sát hoạt động các
bộ, cơ quan ngang bộ,
chính quyền địa phương
và các tập đoàn kinh tế
nhà nước
18 (60%) 12 (40%)
Hai nội dung này một số ý đề nghị cần nghiên cứu kỹ hơn cả việc xây dựng
Luật cũng như thành lập cơ quan giám sát, phù hợp với tình hình cụ thể, trong đó về
thành lập cơ quan giám sát có có hai phương án, đó là:
+ Phương án 1: Thành lập cơ quan giám sát ở ba cấp trung ương, tỉnh và
huyện, đối với trung ương thành lập Ủy ban Giám sát Quốc gia, do Quốc hội bầu, có
thẩm quyền như biểu tổng hợp trên, Ủy ban Giám sát tỉnh và huyện do hội đồng nhân
dân cùng cấp bầu, có thẩm quyền tương ứng.
+ Phương án 2: để giám sát quyền lực nhà nước cần có cơ chế và tổ chức
giám sát trong Đảng, nhất là với Ban Chấp hành Trung ương, vì đây là khoảng trống
quyền lực chưa được giám sát. Do vậy chỉ thành thành lập Ủy ban Giám sát Trung
ương do Đại hội Đảng toàn quốc bầu, thực hiện giám sát đối với tập thể và cá nhân
Ban Chấp hành Trung ương.
Câu hỏi 5: Xin đồng chí cho biết ý kiến của mình về việc đề xuất xây dựng
mô hình tổ chức và cơ chế của cấp ủy, UBKT cấp ủy trong các bộ, ngành trung ương
bảo đảm hoạt động hiệu quả, theo định hướng sau:
176
Xây dựng, điều chỉnh, bổ sung
cơ chế pháp lý
Đồng ý Không
đồng ý
Ý kiến khác
1. Xóa bỏ BCS đảng, đảng đoàn trong các
bộ, ngành trung ương.
17 (56%) 13 (44%) Một số nêu mô hình
BCS đảng, đảng đoàn
tuy có bất cập, nhưng
vẫn phù hợp.
2. Chuyển giao chức năng, nhiệm vụ BCS
đảng, đảng đoàn cho đảng ủy.
17 (56%) 13 (44%)
3. Bố trí nhất thể hóa chức danh lãnh đạo chủ
chốt đảng và chính quyền trong các bộ, ngành
trung ương (bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
kiêm bí thư đảng ủy)
20 (66%) 10 (33%) Một số ý kiến nêu bộ
trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ có
nhiều việc, khó thực
hiện
4. Bố trí một số chức danh chuyên trách của
cấp ủy và UBKT cấp ủy để thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ theo yêu cầu.
26 (86%) 4
(14%)
Khi đã nhất thể hóa
thì chỉ cần một số
chức danh chuyên
trách
5. Có cơ chế để Trung ương Đảng lãnh đạo,
chỉ đạo trực tiếp cấp ủy, lãnh đạo các bộ
ngành trung ương.
17 (56%) 13 (44%)