Upload
sylwia-gajownik
View
234
Download
1
Embed Size (px)
DESCRIPTION
poradnik prawny w języku wietnamskich dla imigrantów starających się o pracę w Polsce
Citation preview
1
Copyright by Aleksandra Wróblewska - Zgórzak Copyright for this edition by Stowarzyszenie Vox Humana Bản quyền của Aleksandra Wróblewska- Zgórzak
Aleksandra Wróblewska- Zgórzak
Hỏi đáp về LAO ĐỘNG Ở BA LAN
Cẩm nang cho người nước ngoài
Cuốn Cẩm nang này được biên soạn trong khuôn khổ thực thi dự án
„Người nhập cư ở trường học Ba Lan – phần tiếp theo) do Quỹ Âu
Châu vì sự hội nhập của các công dân từ những nước thứ ba và
Ngân sách Nhà nước đồng tài trợ
Hội Vox Humana Ul. Promyka 5 lok.162, 01-604 Warszawa www.voxhumana.org.pl, [email protected] (Stowarzyszenie Vox Humana Ul. Promyka 5 lok.162, o1-604 Warszawa www.voxhumana.org.pl, [email protected])
2
1. Thị trường lao động ở Ba Lan như thế nào?
Chỉ trong vòng sáu tháng đầu năm 2010, Ba Lan đã cấp trên 15.000 giấy phép lao
động cho người nước ngoài nhập cư vào Ba Lan từ những nước không phải là
thành viên Liên minh Châu Âu, trong đó tại tỉnh Mazowiecki có suýt soát 9000
người.1 Các công dân Việt Nam ở thủ đô Vácsava nói riêng và trên toàn khu vực
tỉnh nói chung, đã nhận được 1131 bộ giấy tờ cho phép được lao động hợp pháp,
một con số vượt trội so với tình hình chung của toàn quốc.
Có 284 người ra đi từ nước này đã được tuyển dụng vào các vị trí lãnh đạo, tư vấn
viên và chuyên viên trong những lĩnh vực khác nhau. Tuyệt đại bộ phận các công
dân Việt Nam ở Ba Lan thường đảm nhận những công việc dành cho công nhân
có tay nghề, ví dụ như: cầu đường, xây dựng, ẩm thực, nông nghiệp. Một số không
đáng kể (20 người) được tuyển dụng vào các vị trí lao động giản đơn trong lĩnh
vực dịch vụ và buôn bán. Các cơ quan chính quyền tỉnh không ghi nhận được
trường hợp nào muốn xin giấy phép hành nghề trong lĩnh vực y tế, tư pháp hay
nghệ thuật.
Thị trường lao động chính thức (hợp pháp) cho người nhập cư ở Ba Lan rất hạn
hẹp. Theo thống kê thì những người nước ngoài nhập cư vào Ba Lan từ những
nước ngoài Liên minh châu Âu chỉ chiếm 0,2% thị trường lao động; điều này khác
hẳn với tình hình ở các nước Tây Âu, nơi có số lượng người nhập cư được tuyển
dụng lớn hơn nhiều.2 Trong suy nghĩ của những người nhập cư vào châu Âu với
1 Bộ Lao động và Chính sách xã hội. Người nước ngoài làm việc tại Ba Lan – thống kê công bố ngày 10 tháng 09 năm 2010. www.mpips.gov.pl.. 2 Michał Polakowski. Các báo cáo và phân tích: Những người nhập cư từ các nước thứ ba trên thị trường lao động Ba Lan. Trung tâm Các Quan hệ.
3
mục đích tìm kiếm việc làm thì Ba Lan hiện mới đang ở trong giai đoạn để trở
thành một nước có những điều kiện tuyển dụng lao động hấp dẫn.
Diện mạo thị trường lao động Ba Lan như thế nào? Loại động nào đang được
tìm ki ếm?
Ở Ba Lan, cứ năm doanh nghiệp thì có một doanh nghiệp hiện đang tìm kiếm lao
động. Cơ hội nhiều nhất được dành cho những người có trình độ đại học. Ở thành
phố lớn thì dễ kiếm việc hơn so với ở các thị trấn và nông thôn.
Lao động trong các khu vực xây dựng, sản xuất và dịch vụ luôn là lực lượng được
tìm kiếm nhiều nhất.
Thị trường xây dựng đang cần cả những lực lượng lao động ổn định lẫn lao động
tạm thời. Điểm qua những thông báo tuyển dụng, có thể nhận thấy rằng, các nhà
tuyển dụng đang tìm kiếm cả những lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn
cao lẫn những lao động chưa qua đào tạo. Do các trường đại học kỹ thuật luôn chỉ
cung cấp cho thị trường một số lượng sinh viên tốt nghiệp quá nhỏ, nên điều hiển
nhiên là nhu cầu tuyển dụng các kĩ sư là rất lớn.
Các doanh nghiệp đang không ngừng mở rộng các chi nhánh bán hàng của họ. Bất
chấp khủng hoảng, khu vực dịch vụ hàng năm vẫn không ngừng được mở rộng. Do
đó, người ta đang đặc biệt săn tìm những giám đốc có trình độ chuyên môn cao để
quản lí các dự án. Cần phải lưu ý rằng, khu vực dịch vụ ăn uống và khách sạn đang
không ngừng được mở rộng. Xét về khả năng tuyển dụng, tình hình tại các khu vực
bảo hiểm xã hội, cung ứng dịch vụ (lôgistics), giao thông, vận tải tỏ ra rất khả
quan.
4
Do có cuộc khủng hoảng toàn cầu gần đây, nên hiện thời, ngành tài chính có lẽ
không tìm kiếm những lao động mới.
Trong khu vực nông nghiệp, thường người ta chỉ tìm kiếm những lao động làm
việc theo thời vụ.
Khu vực giáo dục, cả công lập lẫn tư thục, vẫn liên tục tìm kiếm thêm giáo viên
giảng dạy các môn học, các nhà đào tạo/huấn luyện và các giáo viên ngoại ngữ.
Đặc biệt, do có sự gia tăng nhu cầu đối với việc học tập và giảng dạy những ngôn
ngữ mới lạ (nhất là các ngôn ngữ ở Viễn Đông), các trường ngoại ngữ tư thục đang
đưa ra những điều kiện tuyển dụng hấp dẫn để chào mời những người có tiếng mẹ
đẻ là ngôn ngữ đang được giảng dạy trong trường.
Thợ cấp thoát nước, thợ mộc, thợ điện, thợ sắt, thợ bê tông, thợ máy CNC, thợ hàn,
thợ máy và thiết bị, là những người có thể tìm được việc làm ở Ba Lan mà không
gặp nhiều khó khăn lắm.
Thường thì trong các công ty có vốn đầu tư của nước ngoài, người lao động có thể
hy vọng nhận được tiền lương cao hơn.
Tìm việc làm ở Ba Lan như thế nào?
Có thể tìm được việc làm ở các nhà tuyển dụng Ba Lan tại các phòng lao động
huyện, có địa chỉ (http://www.praca.gov.pl/index.php?page=units). Các thông báo
tuyển dụng được niêm yết ở các bảng thông tin của phòng lao động và được đưa
lên trang mạng “e-PULS” http://www.epuls.praca.gov.pl/
Ngoài ra, ở Ba Lan còn có trên 1000 cơ quan môi giới việc làm đã đăng kí. Các cơ
quan này thường có sẵn trong tay những thông báo tuyển dụng của các ngành nghề
5
khác nhau. Tại trang mạng http://www.kraz.praca.gov.pl/StronaGlowna.aspx, bạn
có thể tìm thấy danh sách đầy đủ các thông báo tuyển dụng đó. Tuy nhiên, thời
gian gần đây, tìm kiếm việc làm qua internet là dễ nhất. Trong những năm gần đây,
đã xuất hiện rất nhiều trang mạng dịch vụ chứa các thông báo tuyển dụng. Dưới
đây là những trang quan trọng nhất:
- www.praca.pl
- www.praca.gazeta.pl
- www.praca.interia.pl
- www.pracuj.pl
- www.jobid.pl
- www.praca.wp.pl
- www.praca.onet.pl
- www.praca.gratka.pl
- www.jobs.pl
- www.jobpilot.pl
Nếu muốn kiếm việc làm tạm thời thì dễ nhất là tìm qua các thông báo đăng trên
báo chí địa phương, ví dụ như trên phụ trương ra ngày thứ hai hàng tuần của báo
Gazeta Wyborcza chẳng hạn.
Khi tìm kiếm việc làm qua internet thì lí lịch và thư giới thiệu bản thân là những
thứ rất quan trọng. Bạn nên tìm hiểu xem hiện nay những xu hướng nào là phổ
biến. Rất may là internet cũng sẽ trợ giúp cho chúng ta. Hầu như ở mỗi trang mạng
kể trên đều có đăng những thông tin về cách viết một bản lí lịch và thư giới thiệu
bản thân thế nào cho tốt nhất.
Làm thế nào để tự bảo vệ mình trước những kẻ môi giới ‘r ởm’?
6
Người nào đòi hỏi người nước ngoài phải dùng lợi ích vật chất để đổi lấy việc giải
quyết giấy phép lao động, hoặc một loại giấy tờ khác có giá trị cho phép lao động,
thì sẽ bị phạt tiền ở mức không dưới 3.000 zł (theo điều 120, khoản 4 của đạo luật).
Người nào bằng cách lừa gạt, lợi dụng sai lầm hoặc sự thiếu hiểu biết cần thiết đối với một hoạt động dự tính để khiến một người khác ủy thác cho người nước ngoài thực hiện công việc đó một cách bất hợp pháp, thì sẽ bị phạt tiền đến 10.000 zł (theo điều 120, khoản 4 của đạo luật về khuyến khích tuyển dụng và các thiết chế thị trường lao động, ban hành ngày 20 tháng 4 năm 2004). (Dz.U. z 2008 r., Nr 69, poz. 415 với những thay đổi sau đó). Bảo hiểm xã hội và y tế đối với người nước ngoài làm việc tại Ba Lan
Người nước ngoài ở Ba Lan có phải đóng bảo hiểm xã hội không?
Các quy định liên quan đến bảo hiểm xã hội, được ghi trong đạo luật về hệ thống
bảo hiểm xã hội, không phân biệt hai khái niệm ‘công dân’ và ‘không phải công
dân’. Những quy định này liên quan đến tất cả những ai đang có mặt trên lãnh thổ
Cộng hòa Ba Lan và đáp ứng được những tiêu chí nhất định, trong đó có tiêu chí
phải tham gia vào hệ thống bảo hiểm toàn dân.3
Luật quy định rõ ràng rằng: Thuộc diện phải đóng bảo hiểm xã hội là những người
đã giao kết với chủ thể Ba Lan một quan hệ lao động, hoặc một hợp đồng loại
khác, mà phù hợp với pháp luật hiện hành, phải kèm theo nghĩa vụ trích đóng bảo
hiểm, và hiện đang làm việc trên lãnh thổ Ba Lan trong khuôn khổ của hợp đồng
đó. Như vậy, nếu công dân của một quốc gia không thuộc Liên minh Châu Âu có
trong tay giấy phép lao động và thị thực được cấp cho mục đích lao động trên lãnh
3 Đạo luật về hệ thống bảo hiểm xã hội, ban hành ngày 13 tháng 10 năm 1998. Nhật kí pháp luật 1998 số 137 điều khoản 887 (Dz.U. 1998 nr 137 poz. 887 ) với những thay đổi sau đó.
7
thổ Ba Lan, hoặc là đang có mặt tại nước này trên cơ sở giấy phép cư trú có thời
hạn, và đang làm việc trên thực tế, thì phải có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội. 4
Chỉ có những người nước ngoài làm việc trong các cơ quan đại diện ngoại giao và
không thường trú tại Ba Lan , và những người tuy thực tế đã giao kết hợp đồng với
nhà tuyển dụng Ba Lan nhưng lại thực hiện công việc bên ngoài biên giới Ba Lan
(ví dụ: tại một nhà máy của Ba Lan đặt ở Ukraina) là được miễn không phải thực
hiện nghĩa vụ này.
Bảo hiểm xã hội là gì?
Bảo hiểm xã hội bao gồm: bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm trợ cấp, bảo hiểm ốm đau và
thai sản (nghỉ ốm), bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh tật nghề nghiệp (tai nạn).
Bảo hiểm hưu trí là loại hình bảo hiểm dành cho những người đã đóng đều đặn các
khoản phí bảo hiểm trong thời gian làm việc và hiện đã đạt đến tuổi nghỉ hưu (ở Ba
Lan, theo luật định: nữ 60 tuổi và nam là 65 tuổi). Đó là khoản tiền được chi trả
hàng tháng, dựa trên sự tính toán theo các quy định của pháp luật. Bảo hiểm trợ
cấp (trợ cấp tàn tật) là loại bảo hiểm nhằm bảo vệ những người do bị tai nạn hay
bệnh tật mà mất đi hoàn toàn hoặc một phần khả năng lao động. Loại bảo hiểm này
cũng dựa trên việc chi trả các khoản tiền hàng tháng, với mức cụ thể do một ủy ban
đặc biệt tính toán. Trợ cấp gia đình là khoản tiền do nhà nước chi trả cho các thành
viên gia đình (vợ hoặc chồng, con cái và bố mẹ) của người quá cố, mà trước đó đã
nhận hoặc được quyền nhận tiền lương hưu hay tiền trợ cấp.
4 Cơ quan Bảo hiểm Xã hội. Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cho những người Ba Lan được tuyển dụng ở nước ngoài và người nước ngoài làm việc tại Ba Lan. Sách hướng dẫn. Warszawa, 2009.
8
Ai thuộc diện phải đóng bảo hiểm y tế?
Phù hợp với luật pháp Ba Lan,5 tất cả những ai không mang quốc tịch của các quốc
gia thành viên Liên Minh Châu Âu mà đang có mặt trên lãnh thổ Ba Lan trên cơ sở
thị thực lao động, giấy phép cư trú có thời hạn, giấy phép định cư và giấy phép
người cư trú lâu dài của các Cộng đồng Châu Âu, thì đều phải được bảo hiểm trong
khuôn khổ Quỹ Y tế Quốc gia (NFZ).
Thuộc diện phải đóng bảo hiểm y tế còn có cả những đối tượng sau: những người
đáp ứng đầy đủ các điều kiện để được nhận bảo hiểm xã hội, tức là những người
được phép làm việc tại Ba Lan theo một hợp đồng lao động đã kí kết; những người
đang tiến hành một hoạt động kinh tế phi nông nghiệp; những người đang làm việc
trên cơ sở một hợp đồng đại lý và hợp đồng ủy thác (hoặc là đang cung ứng dịch
vụ trên cơ sở một hợp đồng khác mà luật pháp bắt buộc phải áp dụng những quy
định của Bộ luật Dân sự liên quan đến hợp đồng ủy thác). Bản thân hợp đồng
không đẻ ra nghĩa vụ phải đóng bảo hiểm y tế!
3. Quyền của người lao động ở Ba Lan
Quan hệ lao động được giao kết từ lúc nào? Cần phải đáp ứng những điều
kiện gì?
Các quy định của luật lao động Ba Lan6 xác định những điều kiện cần phải đáp ứng
để có thể khẳng định rằng quan hệ lao động giữa người lao động và nhà tuyển dụng
5 Đạo luật về kinh phí chăm sóc y tế từ công quỹ, ban hành ngày 27 tháng 8 năm 2004. Nhật kí pháp luật 2004, số 210, tệp 2135 (Dz.U. 2004 nr 210 poz. 2135) 6 Điều 22 của đạo luật ban hành ngày 26 tháng 6 năm 1974. Luật lao động (Nhật kí pháp luật 1974, số 24, tệp 141 với những thay đổi sau đó (Dz.U. 1974 nr 24 poz. 141).
9
đã được giao kết. Quan hệ lao động được thiết lập khi người lao động cam kết thực
hiện một loại công việc nhất định cho nhà tuyển dụng dưới sự quản lí của người
đó, tại một địa điểm và trong một thời gian do người đó đưa ra, còn nhà tuyển dụng
cam kết trả tiền công cho người lao động được tuyển dụng. Như vậy, những tiền đề
sau đây phải được thỏa mãn cùng một lúc: người lao động phải phục tùng cấp trên
(tức là chịu sự giám sát và chỉ đạo), được nhận khoản tiền công đã được xác định
cụ thể ngay từ đầu cho công việc đang làm, trực tiếp thực hiện công việc đó trong
những ngày công giống nhau tại một địa điểm do người tuyển dụng đưa ra và theo
cách thức chỉ dẫn của người đó.
Chú ý!
! Khi các điều kiện trên đây được thỏa mãn thì việc tuyển dụng chính là quan hệ
lao động; quan hệ lao động không phụ thuộc vào tên gọi của hợp đồng.
! Không thể dùng một hợp đồng pháp lí dân sự (hợp đồng về tác phẩm, hợp đồng
ủy thác hay hợp đồng đại lí) để thay thế cho hợp đồng lao động, khi các điều kiện
nêu trên được thỏa mãn.
! Người lao động có thể là người đã đủ 18 tuổi, nhưng cũng có thể có một số
trường hợp ngoại lệ. Luật pháp cho phép tuyển dụng những người ở „tuổi vị thành
niên”, tức là những người đã đủ 15 tuổi song chưa qua tuổi 18, với điều kiện là
những người này ít nhất cũng đã tốt nghiệp trung học và có giấy chứng nhận của
bác sĩ là công việc định làm không đe dọa đến tình trạng sức khỏe của họ. Nếu như
người ở „tuổi vị thành niên” đó chưa có tay nghề thì chỉ có thể tuyển dụng cho mục
đích chuẩn bị tay nghề (ví dụ: thực hành hoặc thực tập nghề). 7
! Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản.
7 Điều 191 của Luật Lao động
10
Hợp đồng lao động và hợp đồng pháp lí dân sự (hợp đồng tác phẩm, hợp đồng
ủy thác, hợp đồng đại lí) khác nhau ở chỗ nào? Khi nào thì giao kết các hợp
đồng đó?
Hợp đồng giao kết thuộc loại hợp đồng nào là tùy thuộc vào các bên giao kết hợp
đồng. Tuy nhiên, một hợp đồng phải phù hợp với tính chất của công việc được
thực hiện và phù hợp với mục đích giao kết hợp đồng. Điểm khác biệt chung thể
hiện ở chỗ: Mỗi hợp đồng lao động phải tuân theo những quy định của luật lao
động hiểu theo nghĩa rộng (gồm bộ Luật Lao động, các nghị định, các chỉ thị của
Liên minh Châu Âu), mà điều đó gắn liền với nghĩa vụ của cả người lao động lẫn
nhà tuyển dụng trong việc tuân thủ các điều khoản của bộ luật này. Người lao động
được tuyển dụng theo một hợp đồng như vậy sẽ được các cơ quan giám sát việc
thực thi luật lao động bảo vệ, kể cả Thanh tra Lao động Nhà nước, và mọi bất đồng
có liên quan đến việc giao kết hợp đồng sẽ được các tòa án lao động phân xử.
Trái lại, các hợp đồng pháp lí dân sự, tức là hợp đồng tác phẩm, hợp đồng ủy thác
và hợp đồng đại lí, là những hợp đồng do bộ Luật Dân sự chi phối quy định.8 Như
vậy, đây là những hợp đồng chịu sự chi phối của những quy định áp dụng cho tuyệt
đại đa số các hợp đồng „bình thường”, được giao kết giữa các chủ thể khác nhau.
Mọi bất đồng nảy sinh từ việc giao kết các loại hợp đồng này sẽ do các tòa án dân
sự phân xử.
Hợp đồng tác phẩm9:
Đối tượng của hợp đồng, tức là nội dung ràng buộc người lao động, chính là việc
thực hiện một „tác phẩm” đã được xác định trước. Các bên tham gia hợp đồng thỏa
8 Đạo luật ban hành ngày 23 tháng 4 năm 1964. Luật dân sự . (Nhật kí pháp luật 1964, số 16, tệp 93 với những thay đổi sau đó). (Dz.U. 1964 nr 16 poz. 93 z późniejszymi zmianami) 9 Điều 627 và tiếp theo. Luật dân sự.
11
thuận với nhau rằng: bên thực hiện tác phẩm sẽ cố gắng để đạt được một kết quả
nhất định và chuyển giao kết quả đó cho bên đặt hàng dưới một hình thức thích
hợp. Trong một hợp đồng loại này, điều quan trọng là „tác phẩm” có được thực
hiện theo đúng hợp đồng hay không. Có thể nêu một vài ví dụ về loại hợp đồng
này như: vẽ một bức tranh, viết một tài liệu, sửa chữa một dụng cụ bị hỏng, thực
hiện công việc sửa chữa, v.v. Khi người lao động chuyển giao tác phẩm và bên đặt
hàng nhận tác phẩm đó thì điều đó có nghĩa là các điều kiện của hợp đồng đã được
thực hiện xong và bên đặt hàng („nhà tuyển dụng”) có nghĩa vụ phải trả thù lao đã
thỏa thuận cho người lao động.
Các bên tham gia hợp đồng có thể quy định với nhau rằng các nguyên vật liệu cần
thiết để thực hiện „tác phẩm” (ví dụ: sơn để sơn nhà ) sẽ do bên đặt hàng cung
cấp.10
Tác phẩm có thể được nghiệm thu từng phần, tức là „theo từng công đoạn” – trong
những trường hợp như vậy, tiền công để thực hiện các công đoạn kế tiếp nhau của
tác phẩm cần phải được trả cho người lao động ngay khi chúng được bàn giao cho
bên đặt hàng.
Chú ý!
! Nếu người thực hiện tác phẩm chậm triển khai hoặc kéo dài việc kết thúc tác
phẩm tới mức có thể nghĩ tới việc không hoàn thành tác phẩm đúng hạn thì Bên đặt
hàng có thể hủy bỏ hợp đồng.
Hợp đồng ủy thác
Hợp đồng ủy thác khác với hợp đồng lao động trước hết ở chỗ: ở đây, không có sự
chi phối của nhà tuyển dụng đối với người lao động.11 Theo nội dung của hợp đồng
10 Điêu 633 Luật Dân sự. 11 Điều 734 và tiếp theo của Luật Dân sự
12
này, bên nhận ủy thác (người lao động) có nghĩa vụ cung ứng những dịch vụ nào
đó hoặc thực hiện những hành động pháp lí khác nhau mà không phải chịu sự lãnh
đạo hay giám sát của bên ủy thác. Trong hầu hết các trường hợp, hợp đồng loại này
có quy định về việc phải trả thù lao cho người nhận ủy thác, song cũng có thể giao
kết một hợp đồng không trả thù lao. Trong trường hợp này, cần phải có điều khoản
ghi rõ trong nội dung hợp đồng.
Hợp đồng ủy thác thường được xác định là loại hợp đồng liên quan đến hoạt động
đòi hỏi sự mẫn cán, có nghĩa là bên nhận ủy thác („người lao động”) không bị bắt
buộc phải cung cấp một kết quả (tác phẩm) cụ thể , nhưng có trách nhiệm thực hiện
hoạt động theo cách thức được quy định trong hợp đồng với một sự mẫn cán và
trung thực thích đáng.
Chú ý!
! Hình thức giao kết hợp đồng ủy thác không quan trọng: có thể giao kết hợp đồng
bằng miệng hoặc bằng văn bản.
! Trong quan hệ với người cung ứng dịch vụ theo hợp đồng ủy thác, không áp dụng
các tiêu chuẩn liên quan đến chế độ nghỉ phép, nghỉ việc, v.v. Tuy nhiên, các tiêu
chuẩn này có thể được nêu ra trong nội dung hợp đồng.
! Hợp đồng ủy thác có thể bị hủy bỏ bất kì lúc nào bởi một một bên tham gia hợp
đồng. Nếu việc hủy bỏ hợp đồng xuất phát từ phía người ủy thác thì người này có
trách nhiệm phải trả cho người nhận ủy thác khoản tiền thù lao cho những phần
việc mà người nhận ủy thác đã kịp thực hiện.12
Đối với hợp đồng ủy thác, nhà tuyển dụng (người ủy thác) có nghĩa vụ phải trích
đóng bảo hiểm trợ cấp-hưu trí cho Cơ quan Bảo hiểm Xã hội – ZUS (xem thêm:
„Bảo hiểm xã hội”). Đối với bảo hiểm y tế, tuy đây là loại hình bảo hiểm tự
12 Điều 746 của Luật Dân sự
13
nguyện, nhưng vì quyền lợi của người lao động, nhà tuyển dụng cũng cần phải
trích nộp nếu như người lao động không có loại bảo hiểm nào khác.
Có những loại hợp đồng lao động nào?
Theo luật pháp Ba Lan, có thể có những loại hợp đồng lao động sau đây: hợp đồng
xác định thời hạn, hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng theo thời gian thực
hiện công việc (hợp đồng khoán việc/ hợp đồng mùa vụ - ND), hợp đồng làm thay.
Trước khi giao kết mỗi loại hợp đồng nêu trên, người tuyển dụng có thể kí kết với
người lao động một hợp đồng thử việc nhằm „kiểm tra” năng lực người lao động ở
một vị trí công tác. Một hợp đồng như vậy không được kéo dài quá 3 tháng.
Hợp đồng xác định thời hạn
Như có thể thấy qua tên gọi, đây là loại hợp đồng được giao kết cho một thời hạn
được xác định trong nội dung hợp đồng, theo đó hợp đồng sẽ chấm dứt khi đến
hạn hoặc xảy ra sự kiện (ví dụ: kết thúc dự án). Tuy hợp đồng có khung thời gian
xác định như vậy nhưng vẫn có thể chấm dứt hợp đồng sớm hơn, song chỉ trong
trường hợp đó là loại hợp đồng được giao kết cho thời hạn trên 6 tháng, hoặc khi
nhà tuyển dụng tuyên bố vỡ nợ („phá sản”) hoặc cơ sở lao động bị giải thể. Nếu
nhà tuyển dụng đã giao kết với người lao động hai hợp đồng xác định thời hạn kế
tiếp nhau mà khoảng cách giữa hai hợp đồng không quá một tháng thì hợp đồng
tiếp theo (tức hợp đồng thứ ba) sẽ tự động được giao kết là hợp đồng không xác
định thời hạn. Nếu hợp đồng xác định thời hạn được giao kết với một lao động nữ
mà trong quá trình thực hiện hợp đồng người đó có thai, thì hợp đồng đó cũng sẽ tự
động chuyển sang loại hợp đồng không xác định thời hạn nếu nó kết thúc sau tháng
thứ ba của thời kì thai nghén (xem thêm: Thế nào là người lao động được bảo vệ?)
14
Hợp đồng không xác định thời hạn
Là loại hợp đồng mà trong bản thân nội dung của nó không đề cập tới thời gian kéo
dài của hợp đồng cũng như thời điểm kết thúc quan hệ lao động. Trong tất cả các
loại hợp đồng đã nêu thì đây là loại hợp đồng mang lại cho người lao động nhiều
quyền lợi nhất. Hợp đồng kết thúc khi người tuyển dụng cũng như người lao động
đã đáp ứng được những điều kiện nhất định (xem thêm: Chấm dứt hợp đồng lao
động như thế nào?)
Hợp đồng làm thay (trong thời gian một người lao động vắng mặt)
Hợp đồng làm thay là một biến thể của hợp đồng xác định thời hạn. Nội dung của
hợp đồng này đề cập đến việc tuyển dụng một người khác để thế chỗ cho một lao
động đang vắng mặt (ví dụ: khi một người lao động phải kéo dài thời gian nghỉ
ốm, nghỉ thai sản hay nghỉ nuôi con). Loại hợp đồng này không được gia hạn trong
trường hợp người được tuyển dụng là một phụ nữ đang mang thai mà hợp đồng sẽ
chấm dứt sau tháng thứ ba của thời kì thai nghén. Đây là loại quan hệ lao động có
thể hủy bỏ trên tinh thần thỏa thuận giữa bên tuyển dụng và người lao động, hoặc
có thể hủy bỏ mà không cần báo trước, nếu xảy ra những tình huống cho phép làm
việc đó, ví dụ như khi người lao động đang được thay thế trở lại với công việc của
mình. Cũng có thể hủy bỏ hợp đồng loại này bằng cách thông báo trước, tuy nhiên
thời hạn thông báo trước rất ngắn, vì chỉ kéo dài có 3 ngày làm việc.
Hợp đồng theo thời gian thực hiện công việc
Đây là một loại hợp đồng xác định thời hạn, theo đó việc tuyển dụng lao động
được tính toán trên cơ sở dự tính khoảng thời gian đủ để hoàn thành một công việc
đã định trước, ví dụ như: xây nhà, sửa chữa, hái quả trong vườn, v.v. Một hợp
đồng như vậy sẽ không được phép hủy bỏ trước thời hạn, trừ phi cơ sở tuyển dụng
15
bị giải thể hoặc tuyên bố vỡ nợ. Các hợp đồng này tỏ ra hết sức đắc dụng vào mùa
hè, khi mà nhà nông bước vào vụ thu hoạch và do đó có nhu cầu tuyển dụng những
lao động vẫn được gọi là „công nhân thời vụ”.
Hợp đồng thử việc
Hợp đồng thử việc thường được giao kết trong các trường hợp sau: trước khi kí
một hợp đồng tiếp theo là hợp đồng không xác định thời hạn, hoặc là hợp đồng có
xác định thời hạn. Hợp đồng này giúp người lao động làm quen với những điều
kiện thực hiện công việc, còn nhà tuyển dụng có điều kiện để đánh giá xem người
lao động có phải là đối tượng thích hợp cho vị trí công việc định giao phó cho anh
ta hay không. Quan hệ lao động được giao kết trên cơ sở một hợp đồng như vậy có
thể gắn liền với việc người lao động sẽ được trả lương thấp hơn so với mức lương
của một người làm việc ở cùng một vị trí nhưng được tuyển dụng theo hợp đồng
dài hạn. Tuy nhiên, đây chỉ là dạng hợp đồng mang tính quá độ và thời hạn giao
kết không thể kéo dài quá 3 tháng.
Người lao động có những nghĩa vụ gì khi kí kết hợp đồng lao động?
Trước hết, nhà tuyển dụng có nghĩa vụ giao kết hợp đồng với người lao động bằng
văn bản. Nếu không làm việc đó thì chậm nhất là vào ngày làm việc đầu tiên, nhà
tuyển dụng bắt buộc phải khẳng định với người lao động bằng văn bản về chủng
loại hợp đồng và những điều kiện cơ bản của hợp đồng (thời gian và địa điểm thực
hiện công việc, mức thù lao, v.v.).
Chú ý!
! Nếu hợp đồng với người lao động chưa được giao kết bằng văn bản, nghĩa là nhà
tuyển dụng chưa lập được hợp đồng thành hai bản, một bản cho người lao động và
16
một bản cho mình, cùng với chữ kí của cả hai bên, thì điều đó không mặc nhiên có
nghĩa là quan hệ lao động chưa được hình thành. Khi người lao động đã thực hiện
công việc theo thỏa thuận miệng với người tuyển dụng thì anh ta có quyền đòi hỏi
người tuyển dụng phải trả tiền công; trong trường hợp bị từ chối, người lao động
có quyền đưa vấn đề ra tòa án (với mục đích gọi là „xác định sự tồn tại của quan hệ
lao động”) và đòi tất cả các quyền lợi liên quan đến hợp đồng này.
Nhà tuyển dụng có nghĩa vụ phải xác định các mục nội dung của hợp đồng như:
loại công việc, thời gian và địa điểm, loại hình tuyển dụng (tức là làm cả thời gian
hay bán thời gian, v.v.) và tiền công lao động. Tất cả các mục này cần phải được
diễn đạt theo cách thức sao cho người lao động hoàn toàn hiểu rõ về tính chất công
việc, trang thiết bị cần có và những điều kiện lao động khác. Nhà tuyển dụng còn
có nghĩa vụ phải xác định rõ ràng và chính xác thời điểm mà người lao động phải
bắt tay vào công việc.
Sau đây là một ví dụ về hợp đồng lao động (đã được đơn giản hóa)13:
Hợp đồng lao động không xác định thời hạn
Được kí kết ngày 01-10-2010 tại Warszawa giữa: Một bên là:
Poziomka Sp. z.o.o. có trụ sở tại số 8 phố Pańska - Warszawa, sau đây sẽ gọi là
Nhà tuyển dụng, do ông Jan Kowalski – Chủ tịch Ban quản trị làm đại diện, và
13 Dựa theo mẫu lấy từ trang www.umowy.wieszjak.pl
17
Một bên là:
Ông Borysem Ivanow, ngụ tại số 6/13 phố Białostocka ở Warszawa, sau đây sẽ
gọi là Người lao động,
Với nội dung như sau:
§ 1
Nhà tuyển dụng tiếp nhận Người lao động trên cơ sở hợp đồng lao động giao kết
không xác định thời hạn vào chức vụ cán bộ quản lí làm việc theo chế độ cả
ngày tại Phòng Hành chính và giao cho những công việc được quy định trong mục
Phạm vi nhiệm vụ và hoạt động trong văn bản đính kèm theo hợp đồng này.
§ 2
Người lao động có nghĩa vụ thực hiện công việc được giao tại trụ sở của Nhà
tuyển dụng, tức là tại khu vực văn phòng của nhà tuyển dụng, đặt tại số 8 phố
Pańska – Warszawa, bắt đầu từ ngày 01 tháng 11 năm 2010.
§ 3
Trong thời gian hợp đồng lao động có hiệu lực, Người lao động sẽ nhận được tiền
lương theo những điều kiện được nêu trong hợp đồng dưới đây, gồm:
1) lương cơ bản – 2. 500 zł;
2) tiền thưởng hàng tháng với mức bằng 5% tiền lương cơ bản.
CỘNG LƯƠNG TOÀN BỘ (BRUTTO): 2.825 zł (bằng chữ: hai nghìn tám trăm
hai lăm dua-ti)
18
§4
Các điều kiện khác của hợp đồng:
Trong thời gian hợp đồng có hiệu lực, Người lao động có quyền sử dụng ô tô công
cũng như được cung cấp điện thoại di động để sử dụng.
§5
Hợp đồng này được lập thành hai bản, mỗi bên giữ một bản.
…………………………………..
Nhà tuyển dụng
(kí tên)
Tôi xin khẳng định rằng tôi đã nhận được bản hợp đồng này và sau khi tìm hiểu
nội dung của hợp đồng, tôi chấp nhận các điều kiện làm việc cũng như mức lương
do bên tuyển dụng đưa ra.
…………………………………..
Người lao động
(kí tên)
Các khoản lương ghi trong hợp đồng gọi là lương toàn bộ, có nghĩa là lương thực
tế nhận được hàng tháng sẽ ít hơn số ấy, bởi vì Nhà tuyển dụng phải trích nộp các
khoản đóng bảo hiểm xã hội, thuế thu nhập và bảo hiểm y tế.
19
Chú ý!
! Ngôn ngữ dùng để giao kết hợp đồng: Tiếng Ba Lan là ngôn ngữ nhà nước ở
Công hòa Ba Lan, điều đó có nghĩa là tất cả các văn bản, tài liệu phải được ghi
bằng tiếng Ba Lan. Tuy nhiên, người nước ngoài có thể yêu cầu nhà tuyển dụng
một bản dịch hợp đồng (hoặc tự mình thuê dịch công chứng) và cũng đề nghị nhà
tuyển dụng kí tên vào bản hợp đồng viết bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
! Những giấy tờ chứng nhận trình độ học vấn và kinh nghiệm nghề nghiệp xuất
trình trong quá trình tuyển dụng cũng cần phải được viết bằng tiếng Ba Lan, để nhà
tuyển dụng có thể tiện xem xét và lưu vào hồ sơ nhân viên của người được tuyển
dụng, bởi vì hồ sơ này là những giấy tờ chính thức.
! Hợp đồng bao giờ cũng phải được lập thành hai bản, mỗi bên giữ một bản.
! Nếu muốn tính toán mức lương thực lĩnh (lương „bỏ túi” mà người lao động thực
tế nhận được, sau khi đã trừ đi tất cả các khoản đóng góp), có thể sử dụng cái gọi là
„Bảng tính mức lương” tại trang:
http://www.infor.pl/kalkulatory/wynagrodzenia.html
(xem bên dưới)
Cách làm như sau:
Bước 1: Điền mức lương toàn bộ của một tháng vào ô bên cạnh (ví dụ: 3.200)
Bước 2: Điền năm áp dụng để tính toán vào ô bên cạnh (ví dụ: 2010)
Bước 3: Nhấp chuột vào nút „oblicz” (tính).
Bước 4: Xem kết quả: Dòng trên cùng: 1. lương toàn bộ; 2. bảo hiểm xã hội; 3.
đầu tư hưu trí; 4. bảo hiểm y tế; 5. thuế tạm tính; 6. lương thực lĩnh; 7. tổng thu
nhập; 8. tổng lương toàn bộ.
20
Cột ngoài cùng bên trái: tháng Giêng; tháng Hai; tháng Ba; tháng Tư; tháng Năm;
tháng Sáu; tháng Bảy; tháng Tám; tháng Chín.
Nguồn: http://www.infor.pl/kalkulatory/wynagrodzenia.html
Tiến hành hủy bỏ hợp đồng lao động như thế nào?
Theo luật lao động Ba Lan, có một vài phương thức để chấm dứt quan hệ lao
động.14 Danh mục các phương thức này là danh mục khép kín, nghĩa là không thể
thực hiện việc hủy bỏ hợp đồng theo một cách khác, ngay cả theo cách ước định
với nhà tuyển dụng.
Hợp đồng với người lao động có thể hủy bỏ theo những cách thức sau đây:
14 Điều 30, khoản 1, Luật lao động.
21
• Theo sự thỏa thuận của các bên
Đây là cách kết thúc hiệu lực của hợp đồng dựa trên sự nhất trí đôi bên giữa người
lao động và nhà tuyển dụng. Bất kì bên nào cũng có thể đưa ra đề xuất như vậy.
Trong trường hợp này, nhà tuyển dụng cùng bàn bạc với người lao động lập ra một
bản thỏa thuận, trong đó xác định các điều kiện chấm dứt quan hệ lao động, đồng
thời xác định cả thời điểm hủy bỏ hợp đồng và những vấn đề quan trọng khác liên
quan đến việc hủy bỏ hợp đồng.
• Theo đề xuất của một bên (có tính đến thời hạn thông báo hủy hợp đồng)
Theo cách này, một bên – người lao động hoặc nhà tuyển dụng – đưa ra đề xuất
muốn chấm dứt quan hệ lao động. Bên muốn hủy bỏ hợp đồng lao động phải thông
báo ý muốn của mình theo một cách thức dễ hiểu.
Chú ý!
! Trong trường hợp bên từ chối hợp đồng lao động là nhà tuyển dụng thì ý kiến
đồng ý hay không đồng ý chấm dứt quan hệ lao động của người lao động không
phải là vấn đề quan trọng. Nếu nhà tuyển dụng thông báo bằng văn bản cho người
lao động về việc hủy bỏ hợp đồng lao động thì văn bản đó của nhà tuyển dụng sẽ
có hiệu lực, bất luận người lao động có kí hoặc thậm chí có đọc thông báo đó hay
không. Xét về mặt pháp lí, điều quan trọng duy nhất ở đây là người lao động đã có
cơ hội thực tế để đọc nội dung văn bản được trao cho mình, và việc hủy bỏ hợp
đồng sẽ có hiệu lực thi hành kể từ lúc có thông báo của nhà tuyển dụng, ngay cả
khi người lao động không tận dụng cơ hội đó.
Việc chấm dứt một hợp đồng lao động không xác định thời hạn phải được thông
báo trước một khoảng thời gian, được pháp luật quy định chặt chẽ, tùy thuộc vào
22
thời hiệu quan hệ lao động với một nhà tuyển dụng cụ thể. Thời hạn báo trước như
sau:
- 2 tuần lễ, nếu người lao động đã làm việc được dưới 6 tháng.
- 1 tháng, nếu người lao động đã làm việc được trên 6 tháng.
- 3 tháng, nếu người lao động đã được tuyển dụng ít nhất là 3 năm.
Người lao động được trả tiền công lao động cho đến khi hết thời hạn thông báo
chấm dứt hợp đồng, tức là đến thời điểm kết thúc hợp đồng lao động.
• Theo thông báo của một bên tham gia hợp đồng mà không cần tuân theo thời
hạn báo trước
• Khi hợp đồng lao động đáo hạn
Cách chấm dứt hợp đồng lao động theo kiểu này, tất nhiên, liên quan đến những
hợp đồng được giao kết có xác định thời hạn. Việc chấm dứt hợp đồng diễn ra khi
hợp đồng đã đáo hạn, như đã được các bên đưa ra trong nội dung hợp đồng, và do
đó không cần phải có thông báo về ý muốn chấm dứt hợp đồng từ phía nhà tuyển
dụng hay phía người lao động.
Chú ý!
! Việc chấm dứt hợp dồng lao động có xác định thời hạn diễn ra ngay cả khi người
lao động sử dụng quyền bảo vệ đặc biệt đối với quan hệ lao động (xem: Ai là
người lao động được bảo vệ?)
Trong nội dung của một bản hợp đồng lao động có xác định thời hạn do nhà tuyển
dụng và người lao động cùng nhau lập ra, có thể nêu thời hạn báo trước chấm dứt
hợp đồng kéo dài 2 tuần nếu người lao động được tuyển dụng trên 6 tháng.
23
Trong thông báo của nhà tuyển dụng về việc hủy bỏ hợp đồng lao động không xác
định thời hạn hoặc hủy bỏ hợp đồng loại này mà không cần báo trước, nhất thiết
phải có mục lý giải hành động này, nghĩa là phải nêu nguyên nhân khiến nhà tuyển
dụng đi đến quyết định kết thúc việc duy trì quan hệ lao động.15 Các lý do mà dựa
vào đó nhà tuyển dụng quyết định sa thải người lao động phải được ghi thành văn
bản và phải được nêu một cách chi tiết và cụ thể - nghĩa là phải gắn với những sự
kiện hoặc tình huống được xác định một cách cụ thể - trong phần nội dung chính
yếu của thông báo. Có thể nêu một vài ví dụ sau đây: vi phạm kỷ luật lao động;
nhà tuyển dụng mất lòng tin vào người lao động với những chứng cứ buộc tội cụ
thể; người lao động gây mâu thuẫn tại nơi làm việc tới mức cản trở những người
lao động khác thực hiện nhiệm vụ của mình, v.v. Nếu chỉ nêu nguyên nhân là
„không đáp ứng các mong đợi của nhà tuyển dụng” thì đó là cách diễn đạt quá
chung chung.
Chú ý!
! Nếu nhà tuyển dụng đưa ra nguyên nhân chấm dứt hợp đồng lao động không
đúng với sự thật, không cụ thể hoặc giả tạo, thì người lao động có quyền kiện lên
tòa án lao động và phủ nhận tính pháp lý của quyết định đó để xin được trở lại làm
việc (sau khi tòa án lao động tiến hành phân xử và đưa ra phán quyết rằng người
lao động phải được trở lại vị trí làm việc, còn nhà tuyển dụng không thể chống lại
quyết định đó), hoặc yêu cầu nhà tuyển dụng đền bù thiệt hại tương ứng bằng
tiền.16
15 Điều 30, khoản 4 Luật lao động. 16 Điều 45 và tiếp theo, Luật lao động.
24
Khi nào nhà tuyển dụng và người lao động có thể hủy bỏ hợp đồng lao động
theo thể thức kỷ luật?
Bộ Luật lao động đề cập trước hết đến việc hủy bỏ hợp đồng lao động theo thể
thức tức thời (không có báo trước) do lỗi của người lao động, khi người đó vi
phạm nghiêm trọng các nghĩa vụ cơ bản của người lao động17, hoặc phạm tội trong
thời gian hợp đồng có hiệu lực, khiến cho việc tuyển dụng người đó vào vị trí lao
động dự tính không thể thực hiện được (khi việc phạm tội là rõ ràng hoặc đã được
khẳng định bằng quyết định có hiệu lực của toà án)18, hoặc khi người lao động bị
mất quyền pháp lý cần thiết để thực hiện công việc (ví dụ như khi người lái xe buýt
chuyên nghiệp bị mất giấy phép lái xe chẳng hạn)19.
Về nguyên tắc, nhà tuyển dụng còn có quyền hủy bỏ hợp đồng theo thể thức này
nếu người lao động nghỉ ốm trong một thời gian quá dài (trên 182 ngày trong vòng
một năm).
Trong thực tế, việc hủy bỏ hợp đồng lao động theo thể thức kỷ luật thường do
những nguyên nhân sau đây:
- Trộm cắp làm tổn hại đến nhà tuyển dụng;
- Thường xuyên đến khu vực làm việc trong tình trạng say xỉn;
- Nhiều lần vắng mặt tại nơi làm việc mà không có lý do chính đáng, rời bỏ vị trí
lao động thiếu nguyên tắc, thường xuyên đi làm muộn không có lý do chính đáng,
tới mức gây tiếng xấu;
- Vi phạm nghiêm trọng nội quy an toàn và vệ sinh lao động, tới mức có thể gây
nguy hiểm cho tính mạng hoặc sức khỏe của những người lao động khác. 17 Điều 52, khoản 1, điểm 1, Luật lao động. 18 Điều 52, khoản 1, điểm 2, Luật lao động. 19 Điều 52, khoản 1, điểm 3, Luật lao động
25
- Lừa đảo, giả mạo giấy tờ, chữ ký, khai không đúng sự thật trong các giấy tờ.
Những nghĩa vụ cơ bản của nhà tuyển dụng là gì?
Với tư cách là bên „ở thế mạnh hơn” trong quan hệ lao động so với người lao
động, nhà tuyển dụng bắt buộc phải thực hiện nhiều nghĩa vụ theo quy định của
luật lao động. Đó là:20
• Nghĩa vụ làm cho người lao động hiểu được phạm vi nhiệm vụ của họ, cách
thức thực hiện công việc tại những vị trí lao động cụ thể và các quyền cơ bản
của họ.
• Nghĩa vụ tổ chức công việc cho người lao động theo cách thức sao cho
người lao động có thể tận dụng hết thời gian lao động và có thể khai thác các
kỹ năng và trình độ nghiệp vụ của mình để đạt được chất lượng công việc
cần thiết.
• Nghĩa vụ tổ chức công việc sao cho nó không trở thành một gánh nặng, nhất
là khi đó là một công việc vốn nhàm chán hoặc đòi hỏi phải duy trì một nhịp
độ đơn điệu.
• Nghĩa vụ chống lại sự phân biệt đối xử với người lao động về mặt giới tính,
tuổi tác, tình trạng thiểu năng, chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, quan điểm
chính trị, đoàn thể, nguồn gốc thiểu số, tín ngưỡng, thiên hướng tình dục, và
cả về tính chất của hợp đồng tuyển dụng – hợp đồng lao động xác định thời
hạn hay không xác định thời hạn, hoặc hợp đồng lao động cả thời gian hay
bán thời gian!!!
20 Điều 94, Luật lao động,
26
• Nghĩa vụ bảo đảm các điều kiện an toàn và vệ sinh lao động cũng như đào
tạo người lao động một cách bài bản về lĩnh vực này.
• Nghĩa vụ trả tiền công lao động đúng hạn và đúng cách cho người lao
động!!!
• Nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động được phát triển nghề
nghiệp và nâng cao tay nghề.
• Nghĩa vụ đáp ứng, theo khả năng của mình, các nhu cầu xã hội của người
lao động.
• Nghĩa vụ áp dụng các phương pháp đánh giá người lao động và công việc
của họ một cách trung thực, khách quan và công bằng.
• Nghĩa vụ lưu các giấy tờ liên quan đến quan hệ lao động kể từ khi giao kết
cho đến khi chấm dứt, cất giữ hồ sơ và các giấy tờ đó của người lao động để
chúng không bị rách nát.
• Nghĩa vụ xây dựng tại cơ sở làm việc những nguyên tắc chung sống xã hội
và chống lại các hành động quậy phá cũng như quấy rối.
Mức lương tối thi ểu là gì? Tiền công lao động được hình thành như thế nào?
Trong hệ thống luật lao động Ba Lan, bản thân nhà tuyển dụng tự đề ra cách thức
trả tiền công cho người lao động. Chính nhà tuyển dụng, bằng những quyết định
nêu trong hợp đồng lao động, xác định phương thức tính toán tiền thù lao cho một
công việc đã được thực hiện xong. Thông thường thì cách tính toán này phụ thuộc
vào loại hình và đặc điểm của công việc đang thực hiện. Sau đây là những cách
thức trả công lao động phổ biến nhất:
• Trả công theo thời gian lao động: theo thông lệ, tiền công được xác định trên
cơ sở một đơn vị thời gian làm việc (một ngày, một tháng, một tuần hoặc
27
một số giờ nhất định). Phương thức trả công phổ biến nhất trong số đó là trả
lương trước cho một tháng làm việc.
Chú ý!
! Nhà tuyển dụng không thể trả cho người lao động một mức lương thấp hơn cái
gọi là mức lương tháng tối thiểu do Nhà nước quy định. Mức lương tối thiểu của
năm 2010 là 1317 dua-ti.21 Mức lương tối thiểu là mức lương được bảo đảm bằng
đạo luật, trả cho người lao động đã làm việc đủ định mức thời gian lao động cho
một tháng, không phụ thuộc vào loại hình công việc đang thực hiện, cũng như tay
nghề, số lượng và chủng loại các khoản tiền lương.22
! Hệ thống luật pháp Ba Lan cũng quy định mức thời gian lao động tối đa cho một
tuần là 40 giờ lao động (8 giờ một ngày, với tuần làm việc 5 ngày) trong thời gian
áp dụng để tính toán là 4 tháng. Trong ngành nông nghiệp và chăn nuôi động vật,
có thể cho phép co giãn thời gian lao động trong thời hạn 6 tháng. Đối với một
người lao động, số giờ làm việc ngoài định mức không thể vượt quá 50 giờ lao
động trong một năm dương lịch. Nếu phải làm ngoài giờ thì người lao động sẽ
được trả thêm tiền công (gọi là phụ cấp lao động vượt giờ) với các mức tính như
sau: 50% đơn giá tính theo giờ trong các ngày làm việc của tuần (từ thứ hai đến thứ
sáu); 100% đơn giá đó cho những giờ làm thêm vào buổi tối, chủ nhật và các ngày
lễ, tức là những ngày không phải là ngày làm việc theo quy định đối với người lao
động.23
21 Thông cáo của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 24/7/2009. Về vấn đề mức lương tối thiểu năm 2010 (M.P. 2010 r. Nr 48, poz. 709) 22 http://www.ekspertkadrowy.pl/wskazniki/minimalne-wynagrodzenie-za-prace-w-2011-r/ 23 http://www.agri-info.eu/polski/t_worktime.php#pl
28
• Tiền công khoán (làm khoán): là tiền công trả cho người lao động được tính
toán trên cở sở kết quả công việc, đo bằng số lượng sản phẩm được làm ra
trong một khoảng thời gian xác định, hoặc số lượng sản phẩm tích lũy được
- trong trường hợp thu hoạch trái cây, rau xanh, hoa tươi, nấm ăn, v.v.
Chẳng hạn, thông thường tiền công trả cho một kilôgam dâu tây hái được là
40 gr., tiền công may một con gấu nhung bằng các nguyên liệu được cung
cấp là 3 zł., còn tiền công vẽ hoa văn cho một chiếc cốc bằng gốm là 12 zł.
• Tiền thưởng (cách gọi khác là ‘tiền hoa hồng’, ‘tiền chênh lệch’, ‘phí’): là
hình thức trả công hay được áp dụng nhất trong quan hệ với các đại diện
thương mại và trong bán hàng di động. Tiền công được xác định trên cơ sở
tính toán tỷ lệ phần trăm giá trị hàng hóa mà người lao động bán được, hoặc
giá trị của các hợp đồng mà người lao động giao kết được.
Ai là người lao động được bảo vệ?
Người lao động được bảo vệ là người đang lâm vào một hoàn cảnh đặc biệt
(thường là tạm thời) mà vì thế không thể bị sa thải trong thời gian đó. Bộ Luật lao
động quy định, trong những hoàn cảnh sau đây, nhà tuyển dụng không được phép
chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động:
• Vắng mặt có lý do chính đáng tại nơi làm việc24
Theo các quy định của luật lao động thì sự vắng mặt trong thời gian nghỉ phép của
người lao động được coi là vắng mặt có lý do chính đáng tại nơi làm việc. Đó có
thể là kì nghỉ phép trong định mức mà người lao động được hưởng theo tiêu chuẩn
24 Điều 41, Luật lao động.
29
của luật pháp, nhưng cũng có thể là kì nghỉ ốm (trên cơ sở ý kiến của bác sĩ), nghỉ
thai sản, bố nghỉ khi con sinh, nghỉ nuôi con nhỏ, hay nghỉ đột xuất (vì lí do người
thân trong gia đình mất, nghỉ trông con – 2 ngày làm việc trong một năm). Trường
hợp ngoại lệ ở đây là nghỉ ốm kéo dài (trên 182 ngày trong một năm); sau kì nghỉ
ốm đó, nhà tuyển dụng có thể cho người lao động thôi việc mà không cần báo
trước (xem: Khi nào nhà tuyển dụng và người lao động có thể hủy bỏ hợp đồng lao
động theo thể thức kỷ luật?). Ngoài ra, người lao động cũng không được hưởng
quyền được bảo vệ khi cơ sở lao động bị vỡ nợ hoặc giải thể.
! Chú ý!
! Trong trường hợp bị ốm, người lao động có thể đến bác sĩ để xin giấy phép nghỉ
ốm.25
Đây là giấy chứng nhận được in theo mẫu ZUS ZLA26, do bác sĩ cấp để giải thích
lý do vắng mặt của người lao động tại nơi làm việc: không thể đi làm vì bị ốm,
hoặc cũng có thể vì buộc phải nghỉ việc để chăm sóc người thân trong gia đình bị
ốm.27 Bác sĩ này phải là người đã kí hợp đồng với Cơ quan Bảo hiểm Xã hội.
Người lao động có nghĩa vụ phải nộp cho nhà tuyển dụng mẫu giấy này trong thời
hạn 7 ngày để giải thích một cách hiệu quả lý do vì sao mình phải vắng mặt tại nơi
làm việc. Giấy chứng nhận này thường được quen gọi là mẫu L4.
25 Đạo luật ra ngày 25/ 06/ 1999 về việc trả tiền bảo hiểm xã hội trong trường hợp ốm đau và nghỉ thai sản ( t. 11. Nhật kí pháp luật 2005, số 31, tệp 267 với những thay đổi sau đó) ( t. jedn. Dz. U. z 2005 r. nr 31, poz. 267 z późn. zm.) 26 Sắc lệnh của Bộ trưởng Lao động và Chính sách Xã hội ban hành ngày 27 / 07 / 1999 về các nguyên tắc và thể thức cụ thể trong việc cấp giấy chứng nhận sức khỏe, mẫu giấy chứng nhận sức khỏe và mẫu giấy chứng nhận sức khỏe theo kết quả kiểm tra của bác sĩ giám định ZUS (Nhật kí pháp luật, số ra ngày 9 tháng 8 năm 1999) . 27 Sắc lệnh của Bộ trưởng Lao động và Chính sách xã hội ban hành ngày 15 / 05 / 1996 về cách thức giải thích sự vắng mặt tại nơi làm việc và cho phép người lao động nghỉ việc. (Nhật kí pháp luật, số 60, tệp 281) (DzU nr 60, poz. 281).
30
! Trong thời gian nghỉ ốm, người lao động chỉ nhận được 80% số tiền lương
thường xuyên của mình.
! Vi ệc cấp phép nghỉ ốm trong một ngày nào đó cho người lao động sẽ không bảo
vệ được người lao động trước quyết định hủy bỏ hợp đồng lao động, nếu nhà tuyển
dụng đã kịp thông báo với người lao động về quyết định chấm dứt quan hệ lao
động của mình trước khi nhận được giấy phép nghỉ ốm.
Mẫu in ZUS ZLA có thể tải về từ địa chỉ internet hoặc đến lấy tại trụ sở Cơ quan
Bảo hiểm Xã hội, song phải được một bác sĩ có đủ thẩm quyền tự tay điền và cấp
cho người lao động-bệnh nhân.
• Độ tuổi tr ước nghỉ hưu
Nhà tuyển dụng không được hủy bỏ hợp đồng lao động với một người chỉ còn 4
năm làm việc nữa là đến tuổi nghỉ hưu, trừ phi người lao động không được quyền
hưởng lương hưu khi đạt đến độ tuổi đó, hoặc sẽ được hưởng trợ cấp vì lý do mất
hoàn toàn khả năng lao động. 28
Chú ý!
! Ở Ba Lan, tuổi nghỉ hưu (tức là tuổi mà người lao động có quyền được hưởng chế
độ hưu trí) đối với nữ là 60 và đối với nam là 65.
! Nếu một người nước ngoài đã được tuyển dụng vào làm việc tại Ba Lan và hiện
vẫn đang sinh sống tại Ba Lan, nhưng giữa Ba Lan và nước xuất xứ của người đó
không có hợp đồng nào được ký kết, thì người đó có quyền được hưởng chế độ
hưu trí theo các nguyên tắc giống hệt như các công dân Ba Lan. Điều đó có nghĩa
là: nếu sinh trước ngày 1 tháng Giêng năm 1949 thì người đó sẽ được hưởng chế 28 Điều 39 và tiếp theo, Luật Lao động.
31
độ hưu trí theo nguyên tắc của „chế độ hưu trí cũ”. Trong trường hợp này, điều
kiện để được nhận lương hưu là đã đến tuổi nghỉ hưu và đã làm việc trong một thời
gian đủ dài (cả thời gian nộp phí và thời gian không nộp phí). Thời gian nộp phí và
không nộp phí tối thiểu là: nam 25 năm và nữ 20 năm. Trái lại, nếu người đó sinh
sau ngày 31 tháng 12 năm 1948 thì sẽ theo các nguyên tắc mới. Trong trường hợp
này, điều kiện duy nhất là đã đạt đến tuổi nghỉ hưu. Tuy nhiên, quyền được nâng
lương hưu lên mức lương hưu tối thiểu chỉ áp dụng cho những ai chứng minh được
rằng mình đã có thời gian nộp phí và không nộp phí là 20 năm (đối với nữ) hoặc 25
năm (đối với nam). Nếu thời gian làm việc ngắn hơn thì những người này vẫn được
nhận lương hưu nhưng mức lương rất thấp.
Bạn cũng nên biết rằng, đối với những người sinh sau năm 1968 thì một phần các
khoản phí hưu trí của họ bắt buộc phải được trích nộp cho Quỹ Hưu trí Mở. Những
người sinh ra trong khoảng thời gian giữa năm 1949 và năm 1968 có thể cân nhắc
lựa chọn nộp phí cho Quỹ Hưu trí Mở, nếu muốn, nhưng không bắt buộc. Người
đóng bảo hiểm tự mình quyết định lựa chọn quỹ này.
Để được nhận lương hưu, bạn cần phải nộp đơn cho cơ quan trợ cấp hưu trí đóng
tại nơi mình cư trú. Cùng với đơn, cần xuất trình những giấy tờ sau đây:
- Những khoảng thời gian phải đóng bảo hiểm xã hội;
- Các mức thu nhập;
Những giấy tờ này do nhà tuyển dụng cấp (mẫu in ZUS rp-7). Cũng có thể nộp sổ
bảo hiểm hoặc hợp đồng lao động, trong đó có xác định mức lương.29
• Thời kỳ mang thai và sinh con
29 http://www.migrant.info.pl/pl/wiadczeniaodzinnebezpiecze/ubezpieczenia_spoleczne/merytura/
32
Nhà tuyển dụng không được sa thải lao động nữ đang mang thai đã được tuyển
dụng theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hoặc đang nghỉ thai sản.
Trường hợp ngoại lệ chỉ có thể là tình huống, trong đó nảy sinh những điều kiện
cho phép hủy bỏ hợp đồng lao động mà không cần áp dụng thời hạn báo trước (sa
thải vì bị kỷ luật), và được sự nhất trí của tổ chức công đoàn (nếu có hoạt động trên
địa bàn của cơ sở lao động). Cũng còn có một trường hợp ngoại lệ nữa: đó là tình
huống khi lao động nữ đã được tuyển dụng để thử việc trong thời hạn không đến
một tháng.
Nếu một phụ nữ được tuyển dụng vào làm việc trong thời hạn xác định hoặc để thử
việc trong thời hạn dài hơn một tháng mà có khả năng hợp đồng sẽ chấm dứt ngay
sau tháng thứ ba của thời kỳ thai nghén, thì hợp đồng phải được tự động kéo dài
cho đến ngày người đó sinh con.
Chú ý!
! Nếu người bố được nghỉ „thai sản” thì anh ta cũng được hưởng quyền bảo vệ
khỏi bị sa thải giống như người mẹ.
! Các quy định này không áp dụng cho những trường hợp người lao động bị cho
thôi việc tập thể.
Làm thế nào để có thể đòi hỏi các quyền lợi của mình? Những cơ quan nào
bảo vệ các quyền lợi của người lao động?
• Các tòa án lao động
Cơ quan chủ yếu đứng ra bảo vệ cho các quyền lợi của người lao động là các toà
án lao động Ba Lan. Những người nước ngoài đang lưu trú một cách hợp pháp trên
lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan cũng có quyền kiện nhà tuyển dụng lên toà án lao động,
33
giống như các công dân Ba Lan, tùy thuộc vào loại hình hành vi vi phạm của phía
nhà tuyển dụng.
Bộ Luật lao động quy định trách nhiệm của nhà tuyển dụng đối với việc vi phạm
pháp luật trong những trường hợp sau:30
• Giao kết một hợp đồng pháp lý dân sự trong những điều kiện mà đáng lẽ
phải giao kết hợp đồng lao động,
• Không khẳng định bằng văn bản hợp đồng lao động đã được giao kết với
người lao động,
• Từ chối hoặc hủy bỏ quan hệ lao động mà không thông báo trước,
• Áp dụng với người lao động những hình phạt không được nêu trong các quy
định của luật lao động về trách nhiệm kỷ luật của người lao động,
• Vi phạm các quy định về thời gian lao động hoặc các quy định về quyền của
người lao động liên quan đến trách nhiệm làm cha mẹ, và quy định về tuyển
dụng trẻ vị thành niên.
• Không lưu giữ những giấy tờ có liên quan đến quan hệ lao động và không
lập hồ sơ cá nhân cho người lao động,
• Không giải quyết những giấy tờ có liên quan đến quan hệ lao động và hồ sơ
cá nhân,
• Không chi trả đúng hạn tiền công lao động hoặc khoản chi khác mà người
lao động hoặc người thân trong gia đình của người lao động được hưởng, hạ
thấp mức tiền công hay khoản chi đó, hoặc là thực hiện các khoản khấu trừ
vô căn cứ,
• Không cho người lao động nghỉ phép theo quy định hoặc cắt giảm vô căn cứ
tiêu chuẩn nghỉ phép đó,
30 Các điều 281-283, Luật lao động.
34
• Không cấp giấy chứng nhận lao động cho người người lao động,
• Không tuân thủ các quy định hoặc các nguyên tắc về an toàn và vệ sinh lao
động, trong khi mình là người chịu trách nhiệm về tình trạng an toàn và vệ
sinh lao động hoặc đang lãnh đạo người lao động hay những pháp nhân
khác.
! Chú ý
! Trong thực tế, rất hay gặp tình huống như sau: một người nước ngoài có quyền
lao động không cần giấy phép trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan giao kết một hợp
đồng bằng miệng với nhà tuyển dụng và thực sự bắt đầu thực hiện quan hệ lao
động. Nếu gặp một nhà tuyển dụng không đứng đắn thì anh ta/chị ta sẽ không trả
tiền công cho người đó, với lý lẽ rằng hợp đồng lao động đã không được giao kết
theo luật định, và người lao động sẽ không có cơ sở để đòi tiền công. Trong những
trường hợp như vậy, bạn cần phải làm đơn lên tòa án lao động đề nghị xác định sự
tồn tại của quan hệ lao động, dựa vào những bằng chứng thích đáng liên quan đến
sự việc này. Khi sự tồn tại của quan hệ lao động đã được xác định theo đúng quy
định của pháp luật lao động, người lao động sẽ có quyền đầy đủ để yêu cầu phải
được hoàn trả khoản tiền thù lao cho công việc mình đã hoàn thành.
• Thanh tra Nhà nước về Lao động
Khi nhà tuyển dụng vi phạm các quyền lợi của người lao động thì người lao động
có quyền gửi đơn khiếu nại chính thức lên Ban Thanh tra Vùng về Lao động, đó là
đơn vị thuộc Thanh tra Nhà nước về Lao động.31 Trong đơn khiếu nại cần phải ghi
31 Đạo luật ban hành ngày 13 tháng 4 năm 2007 về Thanh tra Nhà nước về Lao động (Nhật ký Pháp luật số 89, tệp 589) (Dz.U. Nr 89, poz. 589)
35
ngày tháng làm đơn, thông tin về người lao động (tên, họ, chức vụ), thông tin và
địa chỉ của cơ sở lao động, nội dung khiếu nại (mô tả tình huống – không cần phải
trích dẫn các quy định cụ thể của pháp luật lao động, có thể viết bằng „lời của
mình”) và chữ ký của người lao động. Đơn khiếu nại phải được viết bằng tiếng Ba
Lan (có thể là bản dịch công chứng của lá đơn nguyên bản).
Bạn có thể tìm thấy mẫu đơn gửi cho Thanh tra Vùng về Lao động tại địa chỉ:
http://prawocywilne.blox.pl/2010/03/Skarga-do-PIP-wzor.html
Có thể tìm thấy danh sách các Ban Thanh tra Vùng về Lao động trên toàn lãnh thổ
Ba Lan tại địa chỉ: http://www.pip.gov.pl/html/pl/html/06000000.htm
Đơn khiếu nại có thể gửi theo cách nào cũng được – bằng fax, bằng thư điện tử,
bằng cách truyền thống qua đường bưu điện (trong trường hợp này, tốt nhất nên lấy
Phiếu gửi thư) hay nộp trực tiếp tại trụ sở Ban Thanh tra Vùng về Lao động.
Nếu đơn khiếu nại được thừa nhận là có căn cứ, Thanh tra Nhà nước về Lao động
sẽ phái một thanh tra viên có thẩm quyền đến cơ sở lao động để tiến hành kiểm tra
việc tuân thủ pháp luật lao động của nhà tuyển dụng. Trong trường hợp phát hiện
thấy có những vi phạm pháp luật, thanh tra viên sẽ áp dụng các biện pháp được
pháp luật cho phép để buộc nhà tuyển dụng phải tôn trọng các quy định, và chấn
chỉnh lại tình hình đã nảy sinh.
Chú ý!
! Người lao động không phải lo sợ về những hậu quả xấu từ phía nhà tuyển dụng
do mình gửi đơn khiếu nại lên Thanh tra Nhà nước về Lao động. Bởi vì Thanh tra
Nhà nước về Lao động bảo đảm không tiết lộ tên tuổi của những người làm đơn.
36
! Thanh tra Nhà nước về Lao động còn tiến hành các hoạt động tư vấn miễn phí.
Bạn có thể tìm thấy thông báo về ngày giờ và địa điểm tiếp dân cụ thể (kể cả người
nước ngoài) tại điạ chỉ: http://www.bip.pip.gov.pl/pl/bip/porady_wszystkie. Khi
đến để xin ý kiến tư vấn, bạn nên đưa phiên dịch tiếng Ba Lan đi theo.
• Cảnh sát và Viện Công tố
Về mặt pháp lý, Cảnh sát và Viện Công tố được thành lập để truy cứu các hành
động vi phạm luật hình sự. Tuy nhiên, các cơ quan này cũng có thể tiến hành điều
tra chống những nhà tuyển dụng mà trong khi thực hiện các hành động thuộc
phạm vi pháp luật lao động và bảo hiểm xã hội, thường xuyên vi phạm hoặc vi
phạm một cách ác ý các quyền lợi do quan hệ lao động hoặc bảo hiểm xã hội mang
lại cho của người lao động.32
Như vậy, nếu nhà tuyển dụng để xảy ra tại nơi làm việc, hoặc nói chung, những
hành vi vi phạm pháp luật gây hại cho người lao động theo cách thức đặc biệt ác ý
hoặc dai dẳng thì người lao động có thể tố giác tình hình thực tế đó với đơn vị cảnh
sát hoặc viện công tố gần nhất.
Chẳng hạn, con đường dẫn đến loại tội phạm này có thể là:33 không trả tiền công
lao động trong một thời gian dài, hoặc trả tiền công ở mức thấp hơn. Tuy nhiên, đó
phải là hành động có chủ ý, có ác ý, với mục đích gây khó chịu hoặc đau đớn cho
người lao động, hoặc là hành động dai dẳng, nghĩa là kéo dài trong một thời gian
dài. Nhà tuyển dụng sẽ phải chịu trách nhiệm về những vi phạm được coi là dai
dẳng và ác ý được nêu trong bộ Luật lao động.
32 Điều 218, Bộ Luật Hình sự. 33 T. Bojarski, A. Michalski-Warias, Bộ Luật Hình sự. Vácsava 2009.
37
Có thể tìm thấy các đơn vị Cảnh sát trên toàn lãnh thổ Ba Lan tại địa chỉ:
http://www.policja.pl/palm/pol/39/749/Jednostki_Policji.html
Người gây ra những vụ vi phạm nghiêm trọng kiểu này có thể bị phạt tiền, bị hạn
chế quyền tự do, thậm chí bị phạt tù đến 2 năm.
Thế nào là phân biệt đối xử, quậy phá và quấy rối tại nơi làm việc?
Người lao động được sử dụng những quyền nào để chống lại những hiện
tượng này?
Phân biệt đối xử trong quan hệ lao động là đối xử không công bằng với người lao
động trong các lĩnh vực: giao kết và hủy bỏ hợp đồng lao động, điều kiện tuyển
dụng, phân công công việc và tính toán tiền thù lao cho các công việc đó, tổ chức
công việc, thưởng công cho những tiến bộ, bảo đảm cơ hội được tham gia vào các
khóa đào tạo để nâng cao tay nghề, v.v., xét trên các phương diện giới tính, tuổi
tác, tình trạng thiểu năng, chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, quan điểm chính trị và cả
về cơ sở tuyển dụng hiện thời (hợp đồng có xác định thời hạn/ không xác định thời
hạn, hợp đồng làm thay, v.v).
Người lao động bị đối xử không công bằng trong tuyển dụng phải được bồi
thường theo phán quyết của tòa án lao động. Khi nhà tuyển dụng vi phạm nguyên
tắc đối xử công bằng trong tuyển dụng đối với một người lao động thì người đó có
quyền đòi bồi thường ở mức không thấp hơn mức tiền công tối thiểu.
Gánh nặng phải chứng minh trước tòa về việc nhà tuyển dụng phân biệt đối xử với
mình tại nơi làm việc được đặt lên vai bản thân người lao động. Điều đó có nghĩa
là người lao động chỉ cần chứng minh được rằng những việc làm đó của nhà tuyển
dụng đã xảy ra thật. Trong đơn tố giác hay đơn khiếu nại gửi cho Thanh tra Nhà
nước về Lao động, người làm đơn phải miêu tả chính xác những hoạt động và hành
38
vi của nhà tuyển dụng mà mình cho là hành vi phân biệt đối xử. Trái lại, nhiệm vụ
của nhà tuyển dụng là phải chứng minh được rằng những tình huống được nêu ra
không mang tính chất của những hành vi phân biệt đối xử trái với pháp luật mà là
do những nguyên nhân khách quan đưa tới.
Tai nạn lao động là gì? Theo quy định của luật pháp Ba Lan thì tai nạn được định nghĩa là một sự cố bất
ngờ, do một nguyên nhân từ bên ngoài gây nên, khiến cho người lao động bị
thương tật hoặc tử vong trong khi đang làm việc. Bất kỳ một thương tích nào mà
người lao động phải gánh chịu trong những trường hợp sau đây đều được coi là tai
nạn lao động: trong khi đang thực hiện những công việc thường nhật hoặc những
công việc theo chỉ thị của cấp trên; đang thực hiện những hoạt động khác trên địa
bàn của cơ sở lao động, ngay cả khi không có chỉ thị; trong khi nhà tuyển dụng để
người lao động đứng chờ giao việc trên đường từ trụ sở của nhà tuyển dụng tới địa
điểm làm việc.
Tai nạn chết người là tai nạn gây tử vong cho người lao động trong vòng 6 tháng
kể từ ngày xảy ra tai nạn.
Muốn xin được bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động gây ra thì người lao động
phải được tuyển dụng bằng hợp đồng lao động, hoặc được tuyển dụng trên cơ sở
hợp đồng ủy thác, tức là phải được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội về tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp.
Tai nạn lao động nghiêm trọng là tai nạn gây chấn thương nặng nề cho thân thể, ví
dụ như: bị mất thị lực, thính lực, khả năng nói, khả năng sinh sản, bị những chấn
thương khác trên thân thể hoặc rối loạn sức khỏe làm ảnh hưởng đến các chức
năng cơ bản của cơ thể, bị mắc chứng bệnh không thể chữa khỏi hoặc đe dọa đến
39
tính mạng, bị mắc bệnh tâm thần kéo dài, bị mất hoàn toàn hoặc một phần khả
năng lao động nghề nghiệp, thân thể trở nên dị dạng hay biến dạng vĩnh viễn.
Người lao động sẽ không được hưởng chế dộ bảo hiểm sau tai nạn, nếu người ta
chứng minh được rằng nguyên nhân duy nhất dẫn đến tai nạn là do vi phạm (một
cách cố ý hoặc do sự cẩu thả quá mức) các quy định về bảo vệ tính mạng và sức
khỏe, hoặc nếu người được bảo hiểm góp phần đáng kể vào việc gây ra tai nạn vì
đang trong tình trạng say sỉn, bị tác động bởi các phương tiện gây u mê hay các
chất tác động đến tâm thần.
Khi xảy ra tai nạn, cần phải thông báo ngay cho nhà tuyển dụng.
3. Hợp pháp hóa việc lưu trú trên cơ sở việc làm
Có phải ở Ba Lan chỉ cần có việc làm là có thể cư trú hợp pháp hay không?
Chắc chắn là như vậy. Có thể cư trú một cách hợp pháp ở Ba Lan trong suốt thời
hạn lưu trú ghi trong thị thực cấp cho mục đích lao động.
Trước khi thị thực hết hạn, bạn có thể đến Phòng Lãnh sự Ba Lan tại nước mình
hoặc một Lãnh sự quán Ba Lan tại nước khác để xin cấp một thị thực mới giống
như thị thực cũ, hoặc cũng có thể xin cấp thẻ tạm cư để thực hiện hợp đồng lao
động, khi bạn đang ở Ba Lan rồi.
Đương nhiên, để được Tỉnh trưởng cấp phép cư trú hợp pháp, cần phải đáp ứng
một loạt các yêu cầu về thủ tục.
Cần phải hoàn thành những thủ tục gì để được cấp thị thực lao động ở Ba
Lan?
Xin cấp giấy phép lao động ở Ba Lan như thế nào?
40
Ai được miễn không phải xin giấy phép lao động ở Ba Lan?
Những người nước ngoài sau đây được miễn không phải có giấy phép lao động ở
Ba Lan: công dân của các quốc gia giáp giới với Công hòa Nhân dân Ba Lan; công
dân thuộc các quốc gia mà Ba Lan có hợp tác về lĩnh vực di chuyển lao động trong
khuôn khổ quan hệ đối tác để dịch chuyển lao động, được thiết lập giữa các quốc
gia đó và Liên minh Châu Âu; những người thực hiện công việc trong thời hạn
không quá 6 tháng trong vòng 12 tháng tiếp theo, nếu họ nhận được thông báo của
nhà tuyển dụng Ba Lan về ý định ủy thác cho họ thực hiện công việc và giấy báo
đó đã được đăng ký tại Phòng Lao động huyện phù hợp với nơi cư trú hoặc trụ sở
của người nộp giấy báo.34
Điều kiện để được làm việc hợp pháp theo các nguyên tắc đã được miêu tả ở trên là
trước đó phải được cấp thị thực lao động. Giấy báo phải có số vào sổ đăng ký để
người nước ngoài trình cho cơ quan lãnh sự-ngoại giao của Ba Lan đóng ở nơi
mình đăng ký nhân khẩu thường trú khi xin cấp loại thị thực đang cần.
Trong giấy báo phải có các thông tin giúp nhận dạng chính xác nhà tuyển dụng và
người nước ngoài, đồng thời phải trình bày ý định tuyển dụng lao động trong một
thời hạn xác định và với những điều kiện được quy định tại khoản 2 điểm 27 của
Chỉ thị nói trên.
Nhà tuyển dụng đang có ý định tuyển dụng lao động nước ngoài trong thời gian
dưới 6 tháng phải nộp cho Phòng Lao động (nơi có trụ sở hoặc nơi đang tiến hành 34 Khoản 2, điểm 27 Chỉ thị của Bộ trưởng Lao động và Chính sách Xã hội ban hành ngày 30 tháng 8 năm 2006 về vấn đề người nước ngoài làm việc không nhất thiết phải có giấy phép lao động (Nhật ký pháp luật năm 2006, số 156, tệp 1116 và năm 2007 số 120, tệp 824, năm 2008, số 17, tệp 106, năm 2009, số 21, tệp 114) (Dz. U. z 2006r., nr 156, poz. 1116 i z 2007r. nr 120, poz. 824, z 2008r. nr 17, poz.106, z 2009r. Nr 21, poz. 114)
41
hoạt động kinh tế) một mẫu tờ khai giấy thông báo về ý định ủy thác cho người
nước ngoài thực hiện công việc, cùng với bản sao hộ chiếu của người được tuyển
dụng (trang thứ nhất có ảnh) – là công dân Bê-la-rút, Môn-đô-va, Nga, hoặc U-
crai-na. Trong bản gốc và bản sao giấy báo, Phòng Lao động có ghi lời nhắc nhở
về việc đăng ký. Nhà tuyển dụng cần phải đưa bản gốc cho người nước ngoài.
Cần phải ti ến hành những thủ tục gì khi xin phép cư trú có thời hạn trên lãnh
thổ Cộng hòa Ba Lan để làm việc?
Để nhận được giấy phép cư trú có thời hạn trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan, thông
thường vẫn được gọi là „tạm cư”, cần phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về thủ tục
được quy định trong đạo luật về người nước ngoài.
Trước hết, cần phải nhấn mạnh một cách rõ ràng rằng, việc xin cấp giấy phép loại
này có đạt được kết quả hay không là tùy thuộc vào việc bạn có nộp đơn đúng hạn
hay không, nghĩa là bạn không được để quá 45 ngàytrước khi giấy tờ cư trú hiện
thời (thẻ cư trú hoặc thị thực) hết hạn. Bất kỳ sự chậm trễ nào trong vấn đề này
cũng sẽ dẫn tới việc bạn không còn được hưởng cái gọi là „thị thực làm thủ tục” –
tức là thị thực cho thời gian giải quyết thủ tục, và do đó, sau khi giấy phép trước
hết hạn thì việc cư trú của bạn sẽ không còn hợp pháp nữa. Để tránh phải chịu
những hậu quả kiểu này, bạn cần phải ra khỏi Ba Lan để xin thị thực nhập cảnh lại
vào Ba Lan.
Cần phải nhớ rằng, bất kỳ sự chậm trễ nào, cho dù chỉ là một ngày, cũng gây nên
những hậu quả nói trên, và không có bất kỳ hoàn cảnh nào (ví dụ như: tính trạng
sức khỏe, hoàn cảnh gia đình, v.v.) có thể cho phép linh động giải quyết, vì rằng
yêu cầu nộp đơn đúng hạn đã được ghi trong các quy định của đạo luật, theo đó
không chấp nhận các trường hợp ngoại lệ.
42
Chú ý!
! Nếu vì hoàn cảnh nào đó mà người nước ngoài không kịp nộp đơn xin cư trú có
thời hạn tại trụ sở Phòng Ngoại kiều của Cơ quan Tỉnh vào ngày cuối cùng của hạn
nộp đơn (tức là vào ngày đầu tiên trong số 45 ngày còn lại trước khi thị thực hết
hạn) thì vẫn còn có khả năng gửi đơn và các giấy tờ kèm theo bằng đường bưu điện
(cho đến nửa đêm ngày cuối cùng của hạn nộp đơn). Trong trường hợp này, nhất
thiết phải lấy phiếu gửi thư/ bưu phẩm, trong đó có ghi ngày tháng gửi thư/ bưu
phẩm. Tuy nhiên, cách làm này chứa đựng rủi ro, bởi vì nếu Bưu điện Ba Lan làm
mất bưu phẩm thì những giấy tờ gốc đã gửi sẽ khó lấy lại/xin lại trong một thời
gian ngắn. Dù sao thì giải pháp này cũng cho phép người nước ngoài tuân thủ đúng
thời hạn hành chính do đạo luật về ngoại kiều áp đặt.
Mẫu Phiếu gửi (POTWIERDZENIE NADANIA)
Thư bảo đảm số (przesyłki poleconej nr...)
Người gửi (Nadawca)
Người nhận (adresat)
43
Những yêu cầu còn lại về thủ tục khi xin cư trú có thời hạn trên lãnh thổ Cộng hòa
Ba Lan là phải nộp cho Phòng Ngoại kiều của Cơ quan Tỉnh những thứ sau đây35:
• 4 bản khai mẫu đơn xin cư trú có thời hạn trên lãnh thổ Ba Lan đã
được điền đầy đủ theo hướng dẫn
Cơ quan Tỉnh yêu cầu nộp 4 bản khai mẫu đơn đã được điền đầy đủ là do đạo
luật về người nước ngoài đã quy định như vậy. Mỗi bản khai sẽ được chuyển
đến một cơ quan công quyền khác nhau để thẩm tra tình trạng pháp lý của
người nước ngoài. Đó là vì Cảnh sát, Biên phòng và Cơ quan An ninh Quốc nội
(Sở Nội vụ - ND) đều có quyền cho ý kiến về người làm đơn, nhất là xét về mối
đe dọa đối với trật tự công cộng hoặc an ninh quốc gia của Ba Lan từ phía
người nước ngoài đó. Song, nếu người nước ngoài chưa hề bị kết án về những
vụ phạm tội nghiêm trọng và chưa hề có những „cuộc va chạm” bị lập biên bản
hoặc phải giải quyết bằng các quyết định hành chính với các cơ quan chính
quyền nói trên, cũng như không bị truy nã bằng lệnh truy nã quốc tế, thì quy
trình này chỉ mang tính thủ tục thuần túy. Trong phần lớn các trường hợp, quy
trình chuyển giao các bản sao mẫu đơn cho các cơ quan nhà nước nêu trên
không có ảnh hưởng đến việc xem xét đơn xin cấp thẻ tạm cư của của người
nước ngoài.
• 4 tấm ảnh màu mới chụp, cỡ 4,5 x 3,5 cm, chụp không đội mũ và không
đeo kính đen, nhìn nghiêng, lộ nửa mặt bên trái, tai trái để hở và ánh
sáng chiếu đều cả khuôn mặt.
Nên bỏ thêm một tấm ảnh (để dán vào thẻ tạm cư) vì điều đó sẽ làm cho việc giải
quyết thủ tục thuận lợi hơn nhiều. 35 http://www.mazowieckie.pl/poradnik/poradnik_klienta_cudzoziemcy.html
44
• Giấy tờ tùy thân đang còn hạn (3 bản sao chụp + bản gốc để đối chiếu)
Giấy tờ tùy thân, tức là hộ chiếu, cần phải sao chụp toàn bộ chứ không phải chỉ
là trang có ghi thông tin cá nhân. Đó là vì khi tiến hành xem xét để cấp giấy
phép tạm cư, cơ quan hành chính có nhiệm vụ phải tìm hiểu số lần người nước
ngoài đã lưu trú ở Ba Lan cũng như thời gian kéo dài của những lần lưu trú đó.
Việc này được tiến hành bằng cách xem xét các con dấu của Biên phòng đóng
trong hộ chiếu mỗi lần đi qua biên giới phía ngoài của một quốc gia thành viên
Liên minh Châu Âu. Thời gian các lần nhập cảnh vào Ba Lan và lưu trú trên
lãnh thổ nước này khai trong mẫu đơn phải phù hợp với thực tế và trùng với các
con dấu của Biên phòng đóng trong hộ chiếu.
• Chứng nhận đăng ký tạm trú
Tạm trú là lưu trú ở một địa phương khác với một địa chỉ nhất định hoặc vẫn
lưu trú ở địa phương cũ nhưng với một địa chỉ khác mà không có ý định thay
đổi chỗ ở thường trú.36 Về nguyên tắc, người đã trình báo tạm trú và lưu trú liên
tục tại một nơi trong thời gian trên 2 tháng có nghĩa vụ phải đăng ký thường trú,
trừ khi xuất hiện những điều kiện khiến cho việc lưu trú vẫn chưa mất đi tính
chất tạm trú. Lao động ở bên ngoài nơi thường trú rất hay được coi là điều kiện
để chứng minh cho sự lưu trú kéo dài hơn 2 tháng.37
Tuy nhiên, trong thực tế, việc đăng ký thường trú đối với người nước ngoài là
hết sức khó khăn, ngay cả khi người đó đang lưu trú ở Ba Lan tại một địa chỉ rõ
ràng và có ý muốn định cư vĩnh viễn.
36 Điều 7 của Đạo luật về việc lập sổ hộ tịch và chúng minh thư, ban hành ngày 10 tháng 4 năm 1974 (Dz.U. z 1974r. Nr 14, poz. 85) 37 Điều 8 của Đạo luật về việc lập sổ hộ tịch và chúng minh thư, ban hành ngày 10 tháng 4 năm 1974 (Dz.U. z 1974r. Nr 14, poz. 85)
45
Việc đăng ký được tiến hành tại phòng phụ trách các vấn đề dân cư, Cơ quan
Quận, nơi người nước ngoài đang sinh sống. Toàn bộ những giấy tờ cơ bản mà
người nước ngoài cần phải nộp để đăng ký tạm trú là:
- bản khai đầy đủ theo mẫu về thực tế lưu trú của người đăng ký tạm trú, có
chứng thực của người cho thuê nhà, người thuê nhà, người được hưởng quyền
xã viên đối với căn nhà hoặc chủ căn nhà/ tòa nhà (cũng có thể đưa người cho
thuê hoặc cho mượn nhà đi cùng đến Phòng đăng ký);
- giấy tờ chứng minh tính hợp pháp của căn nhà: hồ sơ trước bạ, bản trích ngang
sổ địa chính, hợp đồng thuê nhà, v.v.;
- bản khai đầy đủ theo mẫu „Khai báo tạm trú trên hai tháng”;
- hộ chiếu.
Trong trường hợp xuất hiện những điều kiện không cho phép người nước ngoài
đăng ký theo thể thức bình thường – chẳng hạn, khi người cho thuê nhà đang đi
vắng xa nhà và không thể đến khai báo cùng với người nước ngoài cũng như không
thể viết giấy chứng nhận hợp lệ cho người đó, khi cơ quan hành chính không cho
biết những lý do từ chối thực hiện việc đăng ký, hoặc khi người nước ngoài là
vợ/chồng của công dân Ba Lan vốn là chủ căn nhà, nhưng không đồng ý cho người
nước ngoài đó đăng ký tạm trú, v.v. - thì có thể đăng ký theo hình thức ra quyết
định hành chính.38 Để làm việc này, cần phải nộp cho Cơ quan Đăng ký đơn xin
đăng ký tạm trú theo hình thức quyết định của cơ quan này, kèm với lời giải thích
lý do tại sao người làm đơn không thể đăng ký theo thể thức vật chất-kỹ thuật bình
thường. Ngoài ra, cũng cần phải nộp kèm theo một bản khai báo hộ khẩu đã được
người nộp đơn xin đăng ký điền đầy đủ các cột mục có trong đó để đối chiếu, nếu
38 Điều 47 Đạo luật về việc lập sổ hộ tịch và chúng minh thư ban hành ngày 10 tháng 4 năm 1974 (Dz.U. z 1974r. Nr 14, poz. 85)
46
người đó có trong tay giấy chứng nhận quyền pháp lý đối với căn nhà, nơi mình
muốn đăng ký tạm trú, và giấy chứng nhận về việc đã khai báo chuyển khẩu khỏi
nơi ở cũ (trong trường hợp xin đăng ký thường trú).39
• Quyền pháp lý đối với căn nhà
Quyền pháp lý đối với căn nhà là cơ sở pháp lý cho phép một người được sinh
sống tại căn nhà đó. Đó trước hết là hợp đồng thuê nhà có chữ ký của cả người
nước ngoài lẫn người cho thuê nhà. Để Cơ quan hành chính phụ trách vấn đề này
(Tỉnh trưởng) có thể công nhận hợp đồng đó đã đáp ứng tất cả các yêu cầu quy
định trong đạo luật thì trong hợp đồng phải ghi rõ thời hạn cho thuê nhà (nghĩa là
hợp đồng cho thuê nhà có xác định thời hạn hay không xác định thời hạn), người
cho thuê nhà và mức giá thuê nhà. Có những trường hợp, trong đó người nước
ngoài đang sinh sống tại căn nhà, nhưng hợp đồng thuê nhà lại do một người khác
đứng tên (ví dụ như người quen của người nước ngoài đó). Để việc xin phép cư trú
có thời hạn đạt kết quả thì ngoài việc đính kèm theo đơn bản hợp đồng thuê nhà
đó, còn cần phải có lời bảo đảm rằng hợp đồng này có phần phụ lục (phụ chú),
trong đó khẳng định rằng người thuê nhà sang tên hợp đồng cho bên thứ ba với sự
đồng ý của Người thuê nhà (tức chủ căn nhà). Trong nội dung chính của một bản
hợp đồng loại này cũng phải có điều khoản ghi rằng cái gọi là „hợp đồng cho thuê
lại” có thể thực hiện được là do đã có sự đồng ý trước của Người cho thuê nhà.
Chú ý!
! Điều rất quan trọng là trong hợp đồng thuê nhà, cần phải xác định cách thức
thanh toán tiền sử dụng các tiện ích hàng tháng giữa Bên thuê (người nước
ngoài) và Bên Cho thuê (chủ căn nhà) (tiền nước, ga, điện, internet, điện thoại,
phí vệ sinh môi tường, v.v.). Các bên có thể quy định với nhau rằng các khoản 39 39 http://www.mswia.gov.pl/wai/pl/362/4524/Zameldowanie_w_drodze_decyzji_administracyjnej.html
47
chi trả này được bao gồm luôn trong tiền thuê nhà. Điều này sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho các cơ quan khi họ phải xác định xem, liệu người nước ngoài có
đáp ứng được yêu cầu về các phương tiện tài chính đủ để trang trải các khoản
chi phí sinh hoạt ở Ba Lan hay không. Khi ấy, họ chỉ cần trừ đi khoản tiền thuê
nhà từ các khoản thu nhập của người nước ngoài mà không nhất thiết phải cung
cấp cho Cơ quan đăng ký các biên lai thanh toán tiền sử dụng của từng loại tiện
ích (ví dụ: điện, nước, v.v.).
Hợp đồng cho mượn nhà cũng được coi là quyền pháp lý đối với căn nhà, nếu
nội dung của hợp đồng nói là chủ nhà cho sử dụng miễn phí căn nhà mà mình
đang có quyền pháp lý trong một thời hạn xác định. Người cho mượn nhà chỉ có
thể là người gần gũi nhất của người nước ngoài sẽ sinh sống trong căn nhà đó,
nghĩa là con cái, bố mẹ, anh chị em ruột hoặc vợ/ chồng của người đó. Nếu bản
thân người cho mượn lại đang thuê căn nhà nói trên thì trong nội dung hợp
đồng thuê nhà phải có điều khoản ghi rằng chủ căn nhà đã đồng ý để Bên thuê
nhà cho người trong gia đình mượn căn nhà này (thông thường nhất là đồng ý
bằng văn bản cho từng lần một). Hợp đồng cho mượn nhà giao kết giữa những
người không phải là họ hàng hoặc vợ/ chồng sẽ không được Cơ quan đăng ký
coi là quyền pháp lý đối với căn nhà đáp ứng điều kiện để cấp giấy phép cư trú
có thời hạn.
• Xin phép lao động trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan trong thời hạn lưu trú trên cơ sở giấy phép cư trú, th ị thực hoặc giấy phép gia hạn.
Xem: Xin cấp giấy phép lao động ở Ba Lan như thế nào? (tr. 40)
• Hợp đồng lao động / ủy thác/ tác phẩm
Xem: tr. 10-12
48
• Mẫu PIT–37 của năm tài chính trước
Mẫu PIT-37 dành cho những người nộp thuế mà trong năm tính thuế cho trước
đã có thu nhập từ các khoản tiền công/ tiền lương và các khoản thu nhập khác
từ quan hệ công vụ, quan hệ lao động (trong đó có cả quan hệ lao động hợp tác
xã), v.v.40
Mẫu PIT 37 có thể tải về từ trang mạng:
http://www.pit.pl/att/deklaracje/2009/pit_37_v14.pdf
Người nước ngoài trong năm tính thuế cho trước đã nhận được bất kỳ một
khoản thu nhập nào cũng đều phải nộp tờ khai thuế cho Chi nhánh Kho bạc
đóng tại nơi mình ở. Trong quy trình xin cấp thẻ tạm cư tiếp theo (giấy phép cư
trú có thời hạn trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan), người làm đơn phải gửi kèm
với đơn tờ khai theo mẫu PIT 37 cho năm tài khóa vừa qua.
Có thể tìm thấy các thông tin về địa chỉ của các Chi nhánh Kho bạc trong tỉnh
Mazowieckie trên trang internet:
http://www.urzad-skarbowy.pl/
• Giấy chứng nhận về việc người nước ngoài đã thực hiện nghiêm chỉnh
nghĩa vụ nộp thuế cho Kho bạc Nhà nước, do chi nhánh kho bạc có thẩm
quyền cấp
Để nhận được giấy chứng nhận mình không dây dưa trong việc nộp thuế thu
nhập trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan, bạn cần phải đến xin tại Chi nhánh Kho
40 http://www.pit.pl/pit-37/index.php
49
bạc đóng tại địa phương mình sinh sống. Cần phải lưu ý rằng, Cơ quan Kho
bạc, nhất là Kho bạc hoạt động trên khu vực rộng lớn và phải phục vụ cho một
số lượng khách hàng lớn, có thể cần phải có thời gian để cấp loại giấy chứng
nhận này. Vì vậy, bạn nên cố gắng lấy được giấy này sớm, tránh để xảy ra tình
trạng Sở (Tỉnh trưởng) phải gọi người nộp đơn xin cấp phép tạm cư lên để bổ
sung giấy chứng nhận nói trên vào hồ sơ. Phù hợp với các quy định về thủ tục
hành chính, Sở sẽ cho thời hạn 7 ngày, và sau thời hạn đó, cơ quan này sẽ đưa
ra quyết định dựa trên những giấy tờ hiện có. Điều này có thể dẫn đến hậu quả
là Sở sẽ đưa ra quyết định không giải quyết đơn.
• Các giấy tờ chứng nhận bảo hiểm y tế hoặc giấy xác nhận người được
bảo hiểm đã trang trải các khoản chi phí chữa bệnh trên lãnh thổ Cộng
hòa Ba Lan
Nếu người nước ngoài đang được tuyển dụng làm việc, mà theo hợp đồng, phía
tuyển dụng có nghĩa vụ phải trích nộp bảo hiểm y tế, thì bản thân hợp đồng đó là
bằng chứng về việc người nước ngoài có bảo hiểm y tế.
Không phụ thuộc vào chế độ bảo hiểm theo việc làm trên lãnh thổ Ba Lan, người
nước ngoài có thể lựa chọn những cách khác để bảo đảm cho mình có bảo hiểm y
tế: mua bảo hiểm ở nhà bảo hiểm tư nhân (ở công ty bảo hiểm) hoặc tham gia bảo
hiểm trong Quỹ Bảo hiểm Y tế Quốc gia trên cơ sở tự nguyện.41 Người xin được
hưởng chế độ bảo diểm tự nguyện cần phải xuất trình chứng minh thư/ hộ chiếu và
giấy xác nhận thời gian bảo hiểm gần đây nhất. Ví dụ, đó có thể là giấy chứng
nhận của cơ sở lao động, trong đó xác nhận đã đóng các khoản bảo hiểm y tế, giấy
xác nhận bằng chứng về lần đóng bảo hiểm y tế gần đây nhất theo chế độ lao động
phi nông nghiệp, hay giấy chứng nhận, trong đó xác nhận thực tế bảo hiểm của Sở 41 Điều 68 khoản 1 của đạo luật ban hành ngày 27 tháng 8 năm 2004 về dịch vụ chăm sóc y tế bằng kinh phí Nhà nước.
50
Lao động, v.v. Ngoài ra, còn cần phải điền vào mẫu đơn xin được hưởng chế độ
bảo hiểm y tế tự nguyện và ký tên vào hai bản của hợp đồng. Đây là loại hợp đồng
giao kết không xác định thời hạn.42 Sau khi giao kết hợp đồng, người được bảo
hiểm cần phải đến chi nhánh hoặc ban thanh tra của Cơ quan Bảo hiểm xã hội
(ZUS) để thực hiện việc khai báo bảo hiểm, tức là nộp tờ khai theo mẫu in ZUS
ZZA (Tờ khai bảo hiểm y tế). Để khai báo cho các thành viên gia đình, cần phải
nộp tờ khai theo mẫu in ZUS ZCNA. Tờ khai nộp cho ZUS là một phần không thể
tách rời của hợp đồng. Bằng chứng về việc bảo hiểm của người đã ký kết hợp đồng
là: một bản hợp đồng cùng với tờ khai báo theo mẫu nộp cho ZUS, và bằng chứng
đóng bảo hiểm của tháng gần nhất.
Chú ý!
! Bảo hiểm y tế phải bao gồm toàn bộ thời hạn mà người làm đơn ghi trong đơn xin
phép cư trú có thời hạn.
• Các giấy tờ xác nhận mức chi phí nhà ở
Chi phí nhà ở của người nước ngoài, tức là những khoản tiền cố định mà người đó
chi trả hàng tháng để thuê nhà (bao gồm tiền thuê nhà, tiền trả góp cho hợp tác xã
trong trường hợp căn nhà là sở hữu riêng) và tiền sử dụng các tiện ích như tiền
cung cấp nước sạch, điện, khí đốt, phí vệ sinh môi trường, quỹ sửa chữa, tiền điện
thoại cố định, tiền internet, phí truyền hình cáp, v.v.) là những khoản mà Cơ quan
hành chính giải quyết đơn nhất thiết phải biết để xác định xem người nước ngoài
có đáp ứng được yêu cầu phải có những nguồn thu nhập ổn định và đều đặn, cho
phép người đó sinh sống ở Ba Lan hay không. Các khoản thu nhập mà người làm
đơn xin cư trú có thời hạn trên lãnh thổ Ba Lan kiếm được hàng tháng sẽ bị giảm
42 http://www.nfz.gov.pl/new/index.php?katnr=2&dzialnr=1&artnr=1443
51
bớt trong quá trình tính toán này, vì bị trừ đi các khoản chi phí nhà ở như miêu tả
trên đây.
Người nước ngoài, nếu muốn được cấp phép tạm cư thì cần phải chứng minh được
rằng mình đang có các nguồn thu nhập ổn định và đều đặn, cho phép trang trải các
chi phí sinh hoạt trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan. Phù hợp với pháp luật hiện hành,
số tiền cho phép khẳng định rằng người làm đơn đáp ứng được điều kiện bắt buộc
này là 477 zł/ một tháng đối với người sống độc thân, hoặc 365 zł/ một tháng đối
với người sống cùng gia đình, sau khi đã trừ đi các khoản chi phí như đã được
miêu tả ở trên.
Các chi phí sinh hoạt của người nước ngoài có thể do thành viên của gia đình trang
trải. Đó là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng người nước ngoài đó, hiện đang sinh
sống trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan và có khả năng thực hiện nghĩa vụ này. Để
chứng minh rằng mình có đủ những điều kiện nói trên, người tuyên bố chịu trách
nhiệm nuôi dưỡng người nước ngoài ở Ba Lan phải nộp thông báo bằng văn bản
thích hợp. Thêm vào đó, cũng nên nộp kèm giấy tờ chứng minh khả năng thực hiện
nghĩa vụ này của người tuyên bố, ví dụ như một bản (hoặc các bản) trích ngang tài
khoản ngân hàng khẳng định việc thanh toán đều đặn các hóa đơn cho người nước
ngoài, hoặc thực hiện các lần chuyển tiền.
Cũng có thể chứng minh với Cơ quan xét đơn về nguồn thu nhập ổn định và đều
đặn của mình bằng cách xuất trình những bằng chứng về các khoản tiền tiết kiệm
lớn cho phép đáp ứng yêu cầu về số tiền phải có hàng tháng để sinh sống tại Ba
Lan. Cách làm như sau: Lấy tổng số tiền báo cáo, và được xác nhận qua bản trích
ngang tài khoản ngân hàng, đem chia cho số tháng lưu trú, được xác định trên cơ
sở giấy phép cư trú có thời hạn (thường là 1 năm), rồi kiểm tra lại xem liệu số tiền
chia cho mỗi tháng lưu trú đó có đáp ứng được tiêu chí do pháp luật quy định hay
52
không. Chẳng hạn, với số tiền tiết kiệm ở mức 12.000 zł thì cần phải chia tổng số
tiền này cho 12, tức là số tháng tương ứng với số tháng lưu trú, và mỗi tháng lại trừ
đi chi phí nhà ở. Kết quả như sau: 12.000 zł : 12 = 1000 zł; 1.000 zł – 450 zł = 550
zł. Trong ví dụ nêu trên, cơ quan chức năng rất có thể sẽ khẳng định rằng người
nước ngoài này đáp ứng được yêu cầu về nguồn thu nhập ổn định và đều đặn cho
phép sinh sống ở Ba Lan. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, phương pháp tính
toán nêu trên không thể áp dụng cho trường hợp người nước ngoài kiếm được các
khoản thu nhập nhờ lao động ở Ba Lan. Song, phương pháp này sẽ là sự bổ sung,
nếu khoản thu nhập kiếm được không đáp ứng các tiền đề của pháp luật.
Có những quyền cư trú nào khác nữa cho phép người nước ngoài được làm
việc tại Ba Lan?
Người nước ngoài là vợ/ chồng của công dân Ba Lan hoặc công dân của quốc gia
thành viên Liên minh Châu Âu đều có quyền lao động ở Ba Lan mà không cần
phải có giấy phép lao động cũng như không cần phải đáp ứng bất kỳ một yêu cầu
pháp lý nào khác.43
Chú ý!
! Những người nước ngoài là vợ/ chồng công dân Ba Lan không cần phải có giấy
phép lao động là do những người này đã được cấp giấy phép cư trú có thời hạn trên
lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan. Nói cách khác, bản thân thực tế giao kết quan hệ vợ
chồng không đẻ ra giấy phép lao động; việc miễn nghĩa vụ xin giấy phép lao động
trong trường hợp này có liên quan chặt chẽ với việc đương sự đã nhận được quyết
định đồng ý cho cư trú có thời hạn. 43 Điều 87 khoản 2 điểrm 2, đạo luật ban hành ngày 20 tháng 4 năm 2004 về khuyến khích tuyển dụng và các thiết chế thị trường lao động. (Dz.U. z 2004 r., Nr 99, poz. 1001)
53
Do các quy định pháp luật không nói thẳng nên chúng ta không biết chắc chắn là
nhà lập pháp có đòi hỏi người nước ngoài phải sử dụng thẻ tạm cư làm căn cứ pháp
lý hay không, hay là chỉ cần có giấy phép cư trú có thời hạn thể hiện dưới dạng
một quyết định hành chính là đủ. Vì lẽ đó, có thể giả định rằng, chúng ta đang phải
xử lí với tình huống thứ hai. Kể từ khi ban hành quyết định đồng ý giải quyết vấn
đề cấp phép cư trú có thời hạn, người nước ngoài là vợ/ chồng của người Ba Lan
có quyền giao kết hợp đồng lao động, cũng như có thể bắt đầu làm việc trên cơ sở
một hợp đồng pháp lý-dân sự (hợp đồng ủy thác, hợp đồng tác phẩm) theo các
nguyên tắc chung.
Nếu trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan mà bạn có quyền cư trú bằng giấy phép cư trú
của người định cư dài hạn của các Cộng đồng Châu Âu và giấy phép định cư –
thường được quen gọi là „thường trú” - thì bạn cũng có những quyền lợi giống như
vậy.
Người nước ngoài có những quyền gì khi tiến hành thủ tục xin cấp giấy phép
cư trú có thời hạn để làm việc?
Pháp luật tố tụng hành chính của Ba Lan quy định một loạt các quyền dành cho
người làm đơn với tư cách là bên tố tụng trong vấn đề cấp phép cư trú có thời hạn.
Những quyền quan trọng nhất là:
• Quyền khiếu nại đối với quyết định tiêu cực của cơ quan giải quyết44
44 Điều 127 và các điều luật tiếp theo, Bộ luật tố tụng hành chính.
54
Kể từ lúc nhận được quyết định tiêu cực (tức là từ thời điểm quyết định được
chuyển đến tay người nhận), bên làm đơn có 14 ngày để khiếu nại đối với quyết
định đó. Đơn khiếu nại không phải đáp ứng bất kỳ một yêu cầu đặc biệt nào về mặt
hình thức, nhất là không phải lý giải một cách chi tiết, chỉ cần trình bày sao cho
qua nội dung khiếu nại, có thể thấy được rằng bên làm đơn không hài lòng với
quyết định đã ban hành.45
Cũng có thể khiếu nại đối với một quyết định tích cực, ví dụ như trong trường hợp
bên khiếu nại cho rằng thời hạn cho phép cư trú trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan là
quá ngắn. Khi đó bạn có thể gửi đơn khiếu nại đối với loại quyết định này để xin
thay đổi cách giải quyết liên quan đến mục thời hạn cho phép lưu trú.
Đơn khiếu nại đối với một quyết định cần phải gửi cho cơ quan cấp cao hơn so với
cơ quan đã ra quyết định đó (đối với quyết định của Tỉnh trưởng về các vấn đề liên
quan đến người nước ngoài thì đó là Chánh Văn phòng Ngoại kiều). Văn bản đơn
khiếu nại cần nộp qua cơ quan đã ra quyết định đầu tiên. Bằng cách ấy có thể tạo
điều kiện cho đơn vị này thay đổi hoặc hủy bỏ quyết định do mình đưa ra, nếu thấy
nội dung khiếu nại là hợp lý. Việc nộp đơn khiếu nại là miễn phí. Thời hạn chờ
giải quyết đơn khiếu nại tối thiếu là 30 ngày ( trong thực tế có thể lên đến mươi,
mươi lăm tháng).
• Quyền được thông tin:46
Bên tố tụng hành chính có quyền được thông tin một cách thích đáng và đầy đủ về
những tình huống thực tế và pháp lý có thể ảnh hưởng đến việc xác định các
quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Người nước ngoài có quyền được nghe những lời
45 Điều 128, Bộ luật tố tụng hành chính 46 Điều...
55
giải thích và chỉ dẫn cần thiết, để không phải chịu thiệt hại vì thiếu hiểu biết pháp
luật. Khi cơ quan hành chính giải quyết việc tố tụng vi phạm quyền này một cách
trắng trợn thì đó có thể là cở sở để làm đơn khiếu nại hoặc là đối tượng để tố giác
cơ quan đó.
Xét về quyền này, dường như ngôn ngữ dùng để truyền đạt các thông tin cho người
nước ngoài là vấn đề quan trọng, vì mục đích là phải làm sao để những thông tin
được truyền đạt có thể coi là thích đáng và đầy đủ. Đương nhiên là nên truyền đạt
các thông tin bằng thứ ngôn ngữ mà người đó hiểu được. Tuy nhiên, trong tình
hình thực tế của các cơ quan thì việc bảo đảm khả năng giao tiếp bằng nhiều thứ
tiếng cùng một lúc là hết sức phức tạp.
• Quyền được trực tiếp tham gia vào việc tố tụng47
Dưới góc độ của bên tố tụng thì đây là một trong những quyền quan trọng nhất mà
bên tố tụng được hưởng, bởi lẽ nhà lập pháp Ba Lan bảo đảm cho người nước
ngoài có cơ hội được tham gia tích cực vào từng giai đoạn của quá trình tố tụng
hành chính, chẳng hạn như tạo điều kiện cho người nước ngoài được phát biểu về
những chứng cứ hoặc tài liệu thu thập được cũng như những yêu cầu đã được đưa
ra, trước khi ban ban hành quyết định. Nhờ vậy, trong suốt thời gian tố tụng trước
Cơ quan, người làm đơn có thể trình bày bằng văn bản lập trường của mình đối với
từng kết luận cụ thể của Cơ quan hành chính và từng chứng cứ liên quan đến vụ
việc. Bằng cách ấy, người nước ngoài có thể cải chính những điều khẳng định của
cơ quan, tranh luận với các kết luận do cơ quan đưa ra, và bổ sung thêm các ý kiến
khẳng định hoặc giải thích cho tư liệu minh chứng. Văn bản trình bày lập trường
về vụ việc khiếu nại không có mẫu in sẵn, do đó khi soạn thảo, bạn chỉ cần chỉ ra
số hiệu của hồ sơ tố tụng (luôn luôn ghi ở góc trên bên trái của mọi giấy tờ chính 47 Điều 10 khoản 1, Luật tố tụng hành chính.
56
thức do cơ quan soạn thảo trong một vụ việc nào đó), trình bày lập trường của
mình về vụ việc liên quan, và nộp văn bản đó để đưa vào hồ sơ vụ việc (tại cơ
quan). Cơ quan sẽ không có quyền từ chối nhận những giấy tờ đó.
Xét dưới góc độ của bên kiện tụng, còn có hai quyền khác rất quan trọng, liên quan
chặt chẽ với quyền được trực tiếp tham gia vào quá trình tố tụng, đó là: quyền được
trình bày chứng cứ của vụ việc48 và quyền được xem hồ sơ vụ việc.49
Phù hợp với pháp luật Ba Lan, cơ quan hành chính đang tiến hành giải quyết một
vụ tố tụng có nghĩa vụ phải tiếp nhận tất cả những gì có thể làm chứng cứ góp phần
giải thích vụ việc mà không trái với pháp luật. Các giấy tờ, lời khai của nhân
chứng, ý kiến của các nhà chuyên môn và kết quả khám xét là những chứng cứ cần
đặc biệt quan tâm. Như vậy, bên khiếu nại có được cả hai khả năng: một là, tự
mình trình bày với cơ quan những chứng cứ có thể có tầm quan trọng đối với vụ
việc, và hai là, đề nghị với cơ quan hành chính cho thu thập chứng cứ cụ thể, ví dụ
như lấy lời khai của người khác („nhân chứng”). Trong suốt thời gian tố tụng, bên
khiếu nại có quyền trình bày chứng cứ về những tình huống quan trọng đối với vụ
việc – ví dụ: có thể đề nghị một người nào đó viết ra lời nhận định của mình về vụ
việc và ký tên bên dưới lời nhận định đó (chẳng hạn, nếu cơ quan điều tra xác định
sai rằng bạn đang làm việc tại một nơi không đúng với địa điểm ghi trên giấy phép
lao động thì bạn có thể đề nghị đồng nghiệp đang làm cùng chỗ, với tư cách là
nhân chứng, viết ra lời phát biểu của mình về nơi làm việc thực tế của bạn). Cơ
quan không có quyền từ chối nhận tờ giấy đó.
Trong mỗi giai đoạn tố tụng, bên khiếu nại còn có quyền được đề nghị với cơ quan
hành chính cho phép mình xem hồ sơ vụ việc. Đề nghị cần phải gửi bằng văn bản,
sau đó cần phải hẹn với cơ quan một ngày giờ chính xác để đến làm việc tại trụ sở
của cơ quan đó, và cuối cùng, dưới sự giám sát của một công chức được chỉ định
48 Điều 75, khoản 1, Bộ Luật tố tụng hành chính. 49 Điểu 73, khoản 1, Bộ Luật tố tụng hành chính
57
để phụ trách việc này, bên khiếu nại có thể xem hồ sơ vụ việc. Là bên khiếu nại,
bạn có thể tiến hành ghi chép khi đọc hồ sơ, chụp ảnh và sao chụp, và cũng có thể
đề nghị cơ quan chứng thực (tức là xác nhận việc sao y bản chính và tính pháp lý)
một bản sao chụp, bằng cách giải thích rõ tầm quan trọng của việc chứng thực này
đối với lợi ích của mình.
• Quyền tố giác:50
Quyền tố giác đối với các hoạt động của các cơ quan hành chính là quyền mạnh
nhất dành cho bên tham gia tố tụng. Quyền này được chính Hiến pháp nước Cộng
hòa Ba Lan bảo đảm.
Nội dung tố giác hay được nêu ra nhất là sự tắc trách hoặc thi hành nhiệm vụ
không đúng mức của các cơ quan tương ứng hay của nhân viên thuộc các cơ quan
đó, sự vi phạm các quyền lợi của một người nào đó, hoặc sự giải quyết vụ việc kéo
dài hay quan liêu quá mức. 51
Đơn tố giác đối với hoạt động của cơ quan trong một vụ tố tụng có thể nộp (gửi
cho cơ quan này) trong quá trình giải quyết vụ việc cũng như sau khi kết thúc giải
quyết vụ việc.
Qua thực tế hoạt động của các cơ quan, có thể thấy rằng, một trong những lời cáo
buộc cơ bản nhất đối với cách thức giải quyết tố tụng của các cơ quan công quyền
là thời gian xử lý kéo dài, nghĩa là vượt quá thời hiệu giải quyết vụ việc theo luật
định.
50 Điều 221 và tiếp theo, Bộ Luật tố tụng hành chính. 51 Điều 227 Bộ Luật tố tụng hành chính.
58
Khi có đơn tố giác về sự chậm trễ trong việc giải quyết vụ việc thì cơ quan có trách
nhiệm phải đưa ra lời giải thích lý do vì sao có sự chậm trễ đó và thông báo cho
người tố giác biết về thời hạn dự tính để kết thúc vụ việc.
Quyền tố giác còn bao hàm một sự bảo đảm rất quan trọng dành cho bên tố giác,
đó là sự bảo đảm sẽ không bị gây thiệt hại hoặc bị quở trách vì đã nộp đơn tố giác,
nếu đơn tố giác đó không mâu thuẫn với pháp luật.52 Bản thân việc nộp đơn tố giác
không thể ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ việc.
Người nước ngoài sẽ phải chịu những hậu quả gì nếu lao động trái với các quy
định?
Trên lãnh thổ Ba Lan, số lượng người nước ngoài được tuyển dụng lao động ngày
càng gia tăng: năm 2009, số lượng này thậm chí đã tăng gấp đôi so với năm trước
đó và đạt mức trên 10 nghìn người.53
Lao động bất hợp pháp đối với người nước ngoài54 là những trường hợp sau đây:
người nước ngoài lao động mà không có thị thực lao động còn hạn hoặc một loại
giấy tờ khác cho phép người đó cư trú trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan; người nước
ngoài được cư trú trên lãnh thổ Ba Lan nhưng đó không phải là cơ sở để được phép
lao động; người nước ngoài lao động không có giấy phép trong trường hợp đòi hỏi
phải có giấy phép; người nước ngoài làm việc không đúng với những điều kiện
hoặc vị trí lao động được quy định trong giấy phép lao động; người nước ngoài lao
động mà không giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng pháp lý dân sự theo yêu
cầu của pháp luật.
52 Điều 225, khoản 1 Bộ Luật tố tụng hành chính. 53 http://praca.gazetaprawna.pl/artykuly/420236,rosnie_liczba_nielegalnie_zatrudnianych_cudzoziemcow.html 54 Điều 2, khoản 1, điểm 14 của đạo luật về khuyến khích tuyển dụng và các thiết chế thị trường lao động.
59
Việc kiểm tra tính hợp pháp trong tuyển dụng lao động nước ngoài được giao cho
các thanh tra viên của Thanh tra Lao động Nhà nước và, bắt đầu từ tháng 1 năm
2009, các nhân viên Biên phòng .
Trong trường hợp phát hiện ra người nước ngoài đang lao động bất hợp pháp trên
lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan thì cả người nước ngoài lẫn người thuê lao động sẽ phải
chịu những hậu quả nghiêm trọng về mặt pháp lý - hành chính (liên quan đến việc
hợp pháp hóa cư trú tại Ba Lan), pháp lý - lao động và pháp lý - hình sự.
! Chú ý!
! Cần phải nhấn mạnh rằng, trong trường hợp thanh tra viên của Thanh tra Nhà
nước về Lao động hoặc Biên phòng, sau khi kiểm tra, đưa ra kết luận khẳng định
rằng đã xảy ra việc tuyển dụng người nước ngoài trái pháp luật (tức là người nước
ngoài đó không có giấy phép lao động, hoặc không có thông báo về ý định ủy thác
công việc, hay thực hiện một công việc không đúng với công việc ghi trong giấy
phép lao động), thì sẽ hết sức khó khăn để lật ngược vấn đề, tức là chứng minh
được rằng thực tế chưa xảy ra việc thực hiện công việc (ví dụ bằng con đường
khiếu nại đối với quyết định chẳng hạn).
Rất tiếc là trong đa số các trường hợp, khi bị các nhà chức trách bắt quả tang đang
thực hiện công việc (ví dụ: đang trên đồng ruộng, đang hái dâu tây, đang nấu các
món ăn trong bếp của nhà hàng, hay đang trên công trường xây dựng) mà người
nước ngoài viện dẫn những tình huống như: mình đang ở đó để giúp người quen,
đang thực tập nghề, hay chỉ „tình cờ” có mặt ở đó, v.v., thì đều không đạt được kết
quả mong muốn. Những lập luận kiểu này không thể tác động tới việc ra quyết
định tiêu cực khi khiếu nại hoặc thanh minh.
60
• Những hậu quả trên nền đạo luật về khuyến khích tuyển dụng và thị
trường lao động55
Nếu trong quá trình tiến hành thanh tra mà các cơ quan công quyền hữu quan
khẳng định đã xảy ra những sai phạm nêu trên thì nhà tuyển dụng, tức là người đã
giao việc cho người nước ngoài một cách bất hợp pháp, phải đối mặt với hậu quả là
sẽ bị đề nghị phạt tiền ít nhất là 3000 zł.56 Bản thân người nước ngoài cũng có thể
bị phạt tiền ở mức 1000 zł.
• Những hậu quả pháp lý-hành chính
Khi có sự vi phạm các quy định của pháp luật, Thanh tra Nhà nước về Lao động sẽ
thông báo cho các cơ quan khác như: thanh tra viên lao động, thanh tra viên lao
động của khu vực57, Cảnh sát hoặc Biên Phòng, Tỉnh trưởng, Cơ quan Bảo hiểm
Xã hội và các cơ quan quản lý kho bạc. 58
Thông báo nói trên của Biên phòng hoặc Cảnh sát có thể đưa đến việc ban hành
quyết định buộc người nước ngoài phải rời lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan59, hoặc gửi
công văn lên Tỉnh trưởng đề nghị trục xuất người lao động được tuyển dụng bất
hợp pháp.60 Đương sự được quyền khiếu nại đối với những quyết định hành chính
nói trên theo trình tự bình thường – tức là trong vòng 14 ngày. Tuy nhiên, cần phải
ghi nhớ rằng trong quyết định buộc phải rời khỏi Ba Lan, thời hạn để thực hiện
55 Điều 120, khoản 1-2, Đạo luật về khuyến khích tuyển dụng và các thiết chế thị trường. 56 Xem: điều 37, khoản 1, của đạo luật ban hành ngày 13 tháng 4 năm 2007 về Thanh tra Nhà nước về Lao động. Nhật ký Pháp luật số 89, tệp 589, với những sửa đổi. (Dz. U. Nr 89, poz. 589 ze zm.). 57 Điều 37, khoản 2, điểm 3 của đạo luật về Thanh tra Nhà nước về Lao động. 58 Điều 37, khoản 2, điểm 3 của đạo luật về Thanh tra Nhà nước về Lao động. 59 Điều 97, khoản 1 và điều 98, khoản 1 của đạo luật ban hành ngày 13 tháng 6 năm 2003 về người nước ngoài. Nhật ký pháp luật 2006, số 234, tệp 1694, với những sửa đổi. (Dz. U. z 2006 r. Nr 234, poz. 1694 ze zm.) 60 Điều 97, khoản 1 và điều 98, khoản 1 của đạo luật ban hành ngày 13 tháng 6 năm 2003 về người nước ngoài. Nhật ký pháp luật 2006, số 234, tệp 1694, với những sửa đổi. (Dz. U. z 2006 r. Nr 234, poz. 1694 ze zm.)
61
nghĩa vụ này là 7 ngày, có nghĩa là trong thực tế, người nước ngoài phải chờ đợi
quyết định ở bên ngoài biên giới Ba Lan.
Cả hai loại quyết định trên đây đều dẫn đến hậu quả là các thông tin cá nhân của
người nước ngoài sẽ được lưu vào Hệ thống thông tin Schengen và Sổ Ghi những
người không được mong muốn trong thời hạn tương ứng 1 năm và 3 năm. Điều
này lại dẫn đến hậu quả khác: người nước ngoài sẽ bị từ chối không được nhập
cảnh hoặc không được cấp thị thực trong thời hạn nói trên. Nhà tuyển dụng sẽ phải
chịu chi phí liên quan đến việc trục xuất.
Nếu có thông báo cho Tỉnh trưởng về việc vi phạm thì có thể Tỉnh trưởng sẽ ra
quyết định rút giấy phép lao động của người nước ngoài.
Người nào tổ chức tuyển dụng người nước ngoài vào làm việc bất hợp pháp bằng
cách lừa gạt họ, lợi dụng khuyết điểm của họ, sự phụ thuộc của họ trong công tác
hoặc sự thiếu hiểu biết cần thiết của họ về loại hoạt động đang dự định tiến hành,
thì có thể bị phạt tiền tới mức 10.000 zł61.
Người lao động được hưởng những quyền gì khi muốn nâng cao tay nghề?
Một khi đã được tuyển dụng, người lao động có thể nâng cao tay nghề của mình
(tức là muốn tiếp thu hoặc bổ sung kiến thức và kỹ năng - theo định nghĩa của pháp
luật lao động), nếu được nhà tuyển dụng đồng ý. Phù hợp với luật pháp Ba Lan,
nhà tuyển dụng có nghĩa vụ ủng hộ người lao động trong các nỗ lực nhằm nâng cao
năng lực, do đó nếu không có những trở ngại nghiêm trọng nào thì nhà tuyển dụng
cần phải đồng ý khi có đề nghị của người lao động. Ngoài ra, nhà tuyển dụng cũng
cần phải tự mình đề xuất sáng kiến về đào tạo, huấn luyện và sử dụng các phương 61 Điều 120, khoản 3 của đạo luật.
62
tiện hiện có để hỗ trợ người lao động của mình phát triển năng lực nghề nghiệp.
Nội dung nâng cao tay nghề còn bao hàm cả việc nâng cao trình độ học vấn trong
khuôn khổ các trường đào tạo sau trung học, đại học (cử nhân), cao học (thạc sĩ),
sau cao học, và tiến sĩ.
Liên quan đến nghĩa vụ của phía nhà tuyển dụng trong việc bảo đảm cho người lao
động được tiếp cận với các khóa đào tạo là các quyền sau đây của người được
tuyển dụng:
• Quyền được nghỉ phép để đi đào tạo62
Để được nghỉ phép vì các nhu cầu đào tạo, người lao động có thể nộp đơn xin nghỉ
phép cho nhà tuyển dụng, trong đó ghi đầy đủ các chi tiết về địa điểm và lĩnh vực
đào tạo. Điều quan trọng là lĩnh vực đào tạo mà người nước ngoài dự định tham
gia phải có liên quan với các nhiệm vụ mà ngưới đó đang đảm nhận trong khuôn
khổ quan hệ tuyển dụng.
Việc nghỉ phép để đi đào tạo không được đồng nhất với kỳ nghỉ phép để nghỉ ngơi,
và các ngày nghỉ dùng để đi đào tạo nâng cao tay nghề không được tính để trừ vào
số thời gian của kỳ nghỉ phép để nghỉ ngơi63. Số ngày nghỉ phép để đi đào tạo được
hưởng theo định mức số ngày làm việc (định mức số ngày làm việc được nghỉ
trong một năm học) do pháp luật quy định. Cụ thể như sau:
6 ngày – đối với người lao động bước vào kỳ thi bổ túc văn hóa,
6 ngày – đối với người lao động bước vào kỳ thi tốt nghiệp trung học,
6 ngày đối với người lao động bước vào kỳ thi sát hạch tay nghề,
62 Điều 103, khoản 1 của Bộ Luật lao động 63 Điều 103, khoản 2 của Bộ Luật lao động.
63
21 ngày trong năm học cuối khóa – để chuẩn bị khóa luận tốt nghiệp, chuẩn bị và
thi tốt nghiệp đại học.
• Hoàn trả chi phí
Người lao động có thể làm đơn xin hoàn trả một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo,
nếu nhà tuyển dụng có dành những khoản kinh phí thích đáng cho công tác này.
Nhà tuyển dụng cũng có thể quyết định trang trải cho người lao động những khoản
tiền liên quan đến việc học tập nâng cao trình độ (tiền học phí, tiền lệ phí thi), hoàn
lại tiền mua sắm các phương tiện hỗ trợ học tập và tài liệu học tập, ví dụ như sách
giáo khoa, giáo trình hoặc các chương trình vi tính. Trường hợp cũng khá phổ biến
là nhà tuyển dụng hoàn trả chi phí của các khóa học ngôn ngữ, một điều đặc biệt có
lợi cho người nước ngoài muốn học tiếng Ba Lan, bởi vì biết tiếng Ba Lan là điều
kiện hết sức quan trọng đối với việc thăng tiến và nâng cao tay nghề. Cơ sở lao
động còn có thể hỗ trợ cho người lao động trong việc hoàn trả chi phí đi lại trong
quá trình học tập, hoặc hoàn toàn có thể tự tổ chức đưa đón họ đi học bằng kinh
phí của mình.
Chú ý!
! Trường hợp người lao động đã nhận được hỗ trợ tài chính từ phía nhà tuyển dụng
dành cho việc học tập nâng cao trình độ học vấn hoặc nâng cao tay nghề, nhưng
không đi học hoặc bỏ dở giữa chừng, hoặc nhà tuyển dụng hủy bỏ hợp đồng theo
thể thức không cần báo trước trong vòng 3 năm kể từ khi kết thúc đào tạo, do lỗi
của người lao động, thì người lao động sẽ phải hoàn trả cho công ty các khoản chi
phí đào tạo ở mức tương ứng với thời gian làm việc sau khi kết thúc khóa học nâng
cao tay nghề, hoặc tương ứng với thời gian làm việc trong quá trình nâng cao tay
nghề. Ngược lại, nhà tuyển dụng cũng có nghĩa vụ hoàn trả chi phí, nếu từ chối
hợp đồng trong vòng 3 năm (trừ trường hợp nguyên nhân từ chối hợp đồng là do
64
tội quậy phá) hoặc hủy bỏ hợp đồng không báo trước, mặc dù không có những lý
do được nêu trong các quy định.
• Nghỉ một số giờ trong ngày làm việc
Nếu buổi học mà người lao động bắt buộc phải có mặt diễn ra vào giờ làm việc,
cho dù ở trên địa bàn của cơ sở lao động hay tại một địa điểm cách xa nơi làm việc,
thì người lao động cần phải được nghỉ một số giờ làm việc tương ứng trong ngày
đó (cộng cả số thời gian đi lại), để có thể tham gia vào buổi học.
Nhà tuyển dụng không nên yêu cầu người lao động phải làm bù số giờ đã sử dụng
vào việc học tập, và người lao động vẫn phải được trả tiền công đầy đủ cho số giờ
đã nghỉ làm đó.
Con cái người nước ngoài có được hưởng chế độ giáo dục ở Ba Lan không?
Con cái những người nước ngoài đang sinh sống tên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan đều
có quyền được đi học và chăm sóc tại các trường công lập cấp cơ sở cũng như cấp
trung học theo các nguyên tắc giống hệt như con cái của các công dân Ba Lan.
Trong trường hợp này, không có sự phân biệt về chủng loại giấy phép cư trú trên
lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan của các bậc cha mẹ. Trẻ em trên lãnh thổ Ba Lan được
hưởng quyền giáo dục trên tất cả các bậc giáo dục: cấp mẫu giáo, cấp học cơ sở và
cấp trung học, không phụ thuộc vào tình trạng pháp lý của bố mẹ chúng (cư trú tạm
thời, định cư lâu dài hay thậm chí chỉ lưu trú không giấy tờ, vẫn được gọi là lưu trú
„bất hợp pháp”).
Cơ sở pháp lý của bố mẹ hoặc người nuôi dưỡng trẻ em người nước ngoài sẽ có ý
nghĩa khi đứa trẻ học xong trung học và muốn học tiếp lên bậc trên trung học.
65
Tình hình của những người nước ngoài muốn theo học các trường ở cấp trên trung
học được xác định theo cách khác.
Họ được theo học tại các trường công lập ở cấp trên trung học theo các điều kiện
áp dụng cho các công dân Ba Lan, nghĩa là:
Con cái những người có giấy phép tạm cư trên lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan được cấp
cho mục đích đoàn tụ gia đình64, con cái những người đã được cấp giấy phép định
cư trên lãnh thổ Ba Lan, và con cái những người có giấy phép cư trú dài hạn của
các Cộng đồng Châu Âu, thì được hưởng chế độ giáo dục phổ cập miễn phí theo
các điều kiện giống hệt như con cái của các công dân Ba Lan.
Những người còn lại có thể tiếp tục học lên tại các trường ở cấp trên trung học
nhưng phải đóng tiền, nếu họ là những người được hưởng học bổng và nhận học
bổng của Bộ trưởng Giáo dục Quốc gia cấp, hoặc với tư cách là những người được
hưởng học bổng và nhận học bổng do cơ quan lãnh đạo trường hoặc hiệu trưởng
trường cấp.
Mức học phí được tính toán theo các khoản chi phí đào tạo tại một cơ sở đào tạo cụ
thể, song không được cao hơn 1200 euro, tức là khoảng 4.500 zł/ 1 năm học đối
với trường học ở cấp trên trung học cơ sở, 1500 euro, tức khoảng 6000 zł/ 1 năm
học đối với trường ở cấp trên trung học phổ thông.
Để được vào học tại một trường thuộc cấp trên trung học cơ sở và trên trung học
phổ thông, bạn cần phải nộp cho cơ sở giáo dục đó những giấy tờ bắt buộc sau đây
kèm theo đơn xin học:
- Bằng tốt nghiệp trường học ở trong nước, kèm theo bản dịch sang tiếng Ba Lan;
- Giấy chứng nhận sức khỏe của bác sĩ, trong đó khẳng định khả năng có thể theo
học trường đã chọn (xác nhận không có các chống chỉ định về sức khỏe);
64 Điều 53, khoản 1, điểm 7 của đạo luật ban hành năm 2003 về người nước ngoài.
66
Hiệu trưởng của trường ra quyết định đối với từng trường hợp tiếp nhận học sinh
vào học tại trường.
Bà Aleksandra Wróblewska-Zgórzak là một luật sư đã tốt nghiệp đại học tại hkoa Luật và Hành chính của Đại học Tổng hợp Vác-sa-va và tại Ban Nghiên cứu về Quyền và Tự do của Con người - Viện Nghiên cứu Luật thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan (PAN). Bà chuyên về vấn đề người nước ngoài. Bà đã từng học tập kinh nghiệm tại các tổ chức như: Qũy Helsinki về Quyền Con người, Cao Ủy Liên Hợp Quốc về Người tỵ nạn và Trung tâm Tỵ nạn Podkowa-Leśna Dębak. Hiện nay, bà đang làm tư vấn pháp luật tại Trung tâm Thông tin cho Người Nước ngoài thuộc Hội Can thiệp Pháp lý. Bà là Phó Chủ tịch Hội VOX HUMANA.