122
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN - B Lời Chúa: Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48 MỤC LỤC 1. Làm cớ sa ngã.............................2 2. Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt....................................5 3. Thời đại chúng ta có đáng bị tròng cối đá vào cổ không?.................................7 4. Mẹ của sự khám phá........................9 5. Tinh thần đại kết........................12 6. Chặt tay bạn đi - Gm. Arthur Tonne.......16 7. Suy niệm của Noel Quesson................19 8. Chú giải mục vụ của William Barclay......21 9. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.....30 10. Chú giải của Noel Quesson...............34 11. Chú giải của Fiches Dominicales.........41 12. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt..........................................49 13. Dịp tội.................................51 14. Nhân danh...............................53 15. Gương mù................................55 16. Suy niệm của JKN........................58 17. Ghen tức................................63 18. Dịp tội.................................66 19. Lời khuyên..............................69 20. Óc ganh tỵ..............................72 21. Hãy tránh xa dịp tội – Lm. Vũ Xuân Hạnh.75 22. Suy niệm của Chiara Lubich..............79 1.

Suy Niem Tin Mung Chua Nhat 26 Thuong Nien - …liendoanconggiao.net/doc/phungvu/CN26TNB/SuyNiem_CN26T… · Web viewTitle Suy Niem Tin Mung Chua Nhat 26 Thuong Nien - Nam B Author

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN - BLời Chúa: Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48

MỤC LỤC

1. Làm cớ sa ngã.....................................................................22. Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt....53. Thời đại chúng ta có đáng bị tròng cối đá vào cổ không?.. .74. Mẹ của sự khám phá...........................................................95. Tinh thần đại kết................................................................126. Chặt tay bạn đi - Gm. Arthur Tonne...................................167. Suy niệm của Noel Quesson.............................................198. Chú giải mục vụ của William Barclay.................................219. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.............................3010. Chú giải của Noel Quesson.............................................3411. Chú giải của Fiches Dominicales.....................................4112. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt..........4913. Dịp tội..............................................................................5114. Nhân danh.......................................................................5315. Gương mù.......................................................................5516. Suy niệm của JKN...........................................................5817. Ghen tức..........................................................................6318. Dịp tội..............................................................................6619. Lời khuyên.......................................................................6920. Óc ganh tỵ.......................................................................7221. Hãy tránh xa dịp tội – Lm. Vũ Xuân Hạnh.......................7522. Suy niệm của Chiara Lubich............................................79

1.

1. Làm cớ sa ngãSuy NiệmChúng ta sống trong một thế giới có nhiều gương xấu.Gương xấu lan nhanh nhờ các phương tiện truyền thông, tạo nên một bầu khí ô nhiễm thấm vào buồng phổi.Ngay trong Hội Thánh cũng có kẻ gây gương xấu, khiến cho đức tin một số người gặp khủng hoảng.Đức Giêsu tỏ thái độ không khoan nhượng đối với kẻ này: "... thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn."

Có thể chúng ta đã ít nhiều gây gương xấu. Cha mẹ làm ăn bất chính khiến con cái mất niềm tin. Nhà tu hành mê say vật chất khiến tín hữu thất vọng. Những phe phái chia rẽ khiến giới trẻ nghi ngờ tình yêu.

Có biết bao duyên cớ đẩy đưa một người sa ngã. Nhiều khi chúng ta, vì vô tình hay thiếu khôn ngoan, không biết hạn chế tự do của mình, nên đã làm tổn thương lương tâm của những người yếu đuối.

Tôi có thể gây dịp tội khiến anh em tôi sa ngã, nhưng chính thân xác tôi lại có thể là dịp tội cho tôi.

Đức Giêsu đòi ta chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu những bộ phận đó làm ta phạm tội.

Hội Thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen (nếu thế thì khó mà có một Kitô hữu lành lặn!). Nhưng chúng

2.

ta lại không được coi thường tính chất mạnh mẽ và quyết liệt của đòi buộc này.Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên nếu thấy có người dám chịu cắt bỏ một phần thân thể hầu cứu lấy sinh mạng của mình. Người khôn là người dám từ bỏ một điều quý để giữ lại một điều quý hơn.

Chỉ ai coi cuộc sống vĩnh cửu là điều quý nhất, người ấy mới dám hy sinh mắt và tay chân, những gì vốn là tốt, nhưng nay lại thành vật cản trở.

Có bao điều thiết thân, gắn liền với đời ta, nhưng nay đã trở thành vật cản trở. Cả những điều ấy, ta cũng phải cắt đứt, đoạn tuyệt.

Chấp nhận đoạn tuyệt là chấp nhận đớn đau. Bỏ một tật xấu, một thói quen, một kế hoạch có khi còn đau hơn móc mắt hay chặt tay.

Nếu chúng ta can đảm thắng vượt nỗi đau, chúng ta sẽ được tự do thanh thoát.Nếu cần một cuộc giải phẫu cho linh hồn. Giải phẫu không phải chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế: thay ước muốn nơi trái tim, thay lối nghĩ nơi bộ óc, thay cái nhìn nơi đôi mắt, thay cách hành động nơi tay.

Đức Giêsu đưa ra những đòi hỏi tận căn.Để vươn tới Tuyệt Đối thì cần hy sinh cái tương đối.Ước gì chúng ta ra khỏi thái độ lấp lửng, nửa vời, và dứt khoát chọn Thiên Chúa là Tuyệt Đối.

3.

Gợi Ý Chia Sẻ Theo ý bạn, đâu là những gương xấu mà giới trẻ hôm

nay chịu ảnh hưởng (nơi gia đình, trường học, giáo xứ, xã hội)? Những gương xấu đó đã tác hại thế nào trên giới trẻ?

Bạn có kinh nghiệm gì về việc "chặt bỏ" một tật xấu, một thói quen, hay việc "cắt đứt" một liên hệ nguy hiểm? Bạn có thành công không?

Cầu NguyệnLạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

4.

2. Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi – ĐTGM. Ngô Quang KiệtNếu mỗi chi thể phạm tội đều phải bị cắt bỏ, chắc chắn không một ai lành lặn. Không thể hiểu theo nghĩa đen những lời Đức Giêsu nói hôm nay. Tuy nhiên cũng không được loại trừ tính chất quyết liệt của những lời đó. Đức Giêsu bảo ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt khi những chi thể này phạm tội, có nghĩa là phải quyết liệt với sự xấu.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như căn bệnh hay lây. Đã nhiễm vào một phần thân thể, sẽ nhanh chóng lây lan tới cả cơ thể. Lây lan đến đâu làm độc đến đấy. Phải ngăn chặn ngay từ đầu, nếu không sẽ khó mà cứu vãn được mạng sống.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như nọc độc loài thú dữ. Đã vào mạch máu sẽ mau chóng tràn vào tim. Khi chất độc đã ngấm đến tim, sẽ làm tê liệt mọi hoạt động của cơ thể, sẽ cướp đi mạng sống con người.

Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như loại thuốc mê. Một khi để sự xấu nhiễm vào, người ta sẽ mất khả năng chống cự. Sự xấu làm cho con người ra nhu nhược yếu hèn, làm tê liệt ý chí phấn đấu. Để cho sự xấu xâm nhập, nó sẽ thống trị ta, sẽ bắt ta làm nô lệ. Một khi đã rơi vào ách nô lệ sự xấu, con người khó lòng thoát ra.

Quyết liệt dứt khoát với sự xấu cũng giống như chặt tay, chặt chân, móc mắt, nghĩa là phải sẵn sàng chịu đau khổ, Dứt khoát với tội lỗi không dễ. Tội lỗi khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản thân, gắn bó với bản thân. Dứt

5.

bỏ cũng đau đớn như chính cơ thể bị chặt bỏ, xé lìa. Ta hãy xem người cai nghiện. Cơn nghiện vật vã dày vò tưởng chết đi được. Vì đối với người nghiện, ma túy trở thành một phần thiết thân của đời sống đến nỗi khi phải dứt lìa họ đau đớn khổ sở như phải tách lìa một phần thân thể, như đánh mất chính sự sống.

Chặt tay, chặt chân, móc mắt cũng có nghĩa là dứt lìa với những người, những nơi, những đồ vật khiến ta phạm tội. Những con người, những đồ vật, những nơi chốn đó trở thành một phần đời của ta. Để dứt bỏ, trái tim ta đau đớn đến rướm máu. Cuộc dứt bỏ làm tâm hồn ta như bị thương tích đau đớn vô cùng.

Cũng như người bệnh phải chịu phẫu thuật, cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo ta phải quyết liệt với tội lỗi, phải chặt tay, chặt chân, móc mắt không phải vì muốn hành hạ ta, muốn ta phải đau khổ. Trái lại chính vì yêu thương ta, muốn ta được hạnh phúc mà Chúa dạy ta phải dứt khoát với tội lỗi.

Dứt bỏ tội lỗi là dứt bỏ những phần hư hỏng xấu xa, nhiễm bệnh trong cơ thể. Dứt bỏ tội lỗi là ngăn ngừa không cho sự xấu xâm nhập vào linh hồn. Dứt bỏ sự xấu là ngăn chặn sự độc hại tàn phá linh hồn. Dứt bỏ tội lỗi là giúp linh hồn có cơ hội được lớn mạnh, được phát triển.

Ham vui một chốc lát để rồi chịu kết án suốt đời khổ sở. Hay là chịu đau khổ một chốc lát để suốt đời được tự do hạnh phúc. Ta chọn đàng nào? Chắc chắn ta phải chọn con đường hạnh phúc lâu dài. Chính Chúa muốn hạnh phúc cho

6.

ta, nên đã truyền cho ta phải dứt khoát với tội lỗi để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con biết nghe lời Chúa dạy, biết dứt khoát với tội lỗi, để được sống đời đời với Chúa. Amen.

3. Thời đại chúng ta có đáng bị tròng cối đá vào cổ không?Các thánh chép sử không chủ tâm làm những bản tường thuật chính xác, đầy đủ về những lời Chúa Giêsu giảng dạy. Các ông truyền lại cách chính xác cho chúng ta giáo huấn của Thày tùy theo những điều nhớ được và tùy những lúc lưu tâm ghi – chép, nhưng theo thứ tự và cách sắp đặt không tuyệt đối đúng sự thật. Dường như thánh Marcô thuật lại trong bài đọchôm nay những đoạn rời rạc của một bài giảng của Chúa, chúng ta không sao hiểu được toàn bài như thế nào. Những đề mục gợi ra rất khác biệt, có thể là đề tài cho những công trình bình giải đi vào chi tiết. Về phần chúng ta, chỉ cần giữ lấy 2 chủ đề suy niệm gợi ý chúng ta về hai cung cách trong số nhiều cung cách khác, để biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu trong đức ái thực tế.

1) Chúa không muốn các môn đệ đối lập với một người tuy không gia nhập nhóm các ông, nhưng nói và hành động nhân danh Ngài.Ta thấy rằng Chúa phân biệt giữa sứ mệnh đặc biệt của nhóm Tông đồ và hiệu năng tỏa rộng của đức tin. Tông đồ Gioan bất bình thấy một người lấy tên Chúa mà hành động tuy không được chính thức nhìn nhận là 1 trong nhóm 12. Thày phản ứng, cho họ biết rằng muốn làm môn đệ hoạt

7.

động thì không bắt buộc phải ở trong tập đoàn Tông đồ Diễn giải Lời Chúa, ta thấy điều này có nghĩa tương tự như sau: hàng Giáo phẩm mà sứ mạng đặc biệt là bảo đảm đức tin, có bổn phận tôn trọng tính tự phát của Chúa Thánh Thần trong mỗi người đã chịu Phép Rửa. Hàng Giáo phẩm có thể và có bổn phận xem xét tính chất đích thật của sự tự phát này và phải vui mừng về tính sinh động của đức tin xuyên qua mọi tín hữu.

Mở rộng viễn tượng ra, người ta có thể dẫn chứng tư tưởng sau đây được Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh: Giáo hội vui mừng được nhìn thấy bất cứ hoạt động nào trong thế giới phù hợp với Phúc âm, dù cho hoạt động ấy không xuất phát từ thiên chức của Giáo hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI không quân phát biểu tư tưởng đó mỗi lần. Ngài tiếp kiến đại sứ một nước không theo Kitô giáo.

Liệu chúng ta có chấp nhận không giữ độc quyền tuyệt đối về Phúc âm không? Có những người gần gũi Phúc âm tuy không biết Phúc âm – trong khi có những Kitô hữu bất trung biết rõ Phúc âm mà lại xa cách Phúc âm.

2) Kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một trẻ trong các trẻ nhỏ này...Những ai là ‘trẻ nhỏ’ Chúa nói đến ở đây? Chúa nghĩ đến em bé mà Cháu đem ra làm tấm gương thiêng liêng. Người cũng nghĩ đến nhóm môn đệ thiếu sáng suốt, khiêm nhường, quảng đại nhưng ít học, có xu hướng tự nhiên theo gương các lãnh đạo. Cấp lãnh đạo phải giữ mình sao cho đừng nên cớ cho họ vấp phạm, tức là đừng có trở thành dịp cho họ lầm lạc hay phạm tội.

8.

Vấn đề trên đang rất hợp thời.Nói chung, rất nhiều nhà ‘chế tạo dư luận’dẫn dắt chúng xa lìa chân lý và sự thanh khiết của Phúc âm.

Nói riêng, trong Giáo hội có những nhà viết sách báo và đôi khi cả những nhà tìm tòi nghiên cứu không cư xử như người có ý thức trách nhiệm. Cách khinh xuất, họ gieo rắc những nghi ngờ vào những tâm trí thiếu chuẩn bị, do đó làm suy yếu đức tin và quá nhiều phen giết chết đức ái. Vì họ thiếu một tình thương tạm đủ, cái cối đá Chúa gợi ý, đáng lẽ khiến họ phải hồi tâm.

4. Mẹ của sự khám phá(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’ - Charles E. Miller)

Phải nói rằng nhu cầu là mẹ của sự phát minh. Khi kỷ nguyên kỹ nghệ hóa bắt đầu làm cho nhu cầu ánh sáng trở nên tốt hơn là những cây nến hoặc cây đèn dầu và Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Nhu cầu là mẹ của sự phát minh. Trong Giáo Hội nhu cầu là mẹ của sự khám phá, đó là một sự khác nhau. Chúng ta có thí dụ trong bài đọc một.

Khi Môisê nhận thấy dân Israel ở nơi hoang địa đã trở thành quá đông số, quá sức chăm sóc của ông, ông đã phàn nàn với Chúa về gánh nặng của mình. Chúa đã nói với ông hãy thành lập một hội đồng bô lão gồm có bảy mươi bô lão để giúp vào việc cai trị. Trên họ, Thiên Chúa sẽ gởi xuống tinh thần của Môisê, điều có nghĩa là Thiên Chúa muốn chia sẻ quyền lực và sức mạnh của Môisê cho họ. Bởi nhu cầu,

9.

Môisê đã khám phá ra mình không thể làm tất cả mọi chuyện tự sức mình. Thiên Chúa muốn cho những người khác chia sẻ sứ vụ của ông trong việc hướng dẫn và chăm lo cho dân.

Khổ thay, Giosuê đã không hiểu kế hoạch của Thiên Chúa và có một lúc ông đã không lớn đủ để sẵn lòng chia sẻ tinh thần của Môisê với Eldad và Medad, là những người đã không hiện diện khi tinh thần ấy ngự xuống trên những người khác. Một điều gì đó quen thuộc đã xảy ra với Chúa Giêsu và các tông đồ. Chúa Giêsu đã chia sẻ sứ vụ của Ngài với các tông đồ nhưng khi Gioan thấy một người đàn ông không phải là một trong nhóm Mười Hai mà lại dùng danh Giêsu để xua đuổi quỷ, nên oán hận giống như Giosuê đã làm. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã không bị điều khiển bởi ganh tỵ. Ngài đã vui mừng vì sứ vụ của Ngài đã được lan rộng.

Trong Giáo Hội ngày hôm nay, nguyên tắc của nhu cầu là mẹ của sự khám phá vẫn được tiếp tục. Bởi vì các phong trào bên trong Công Đồng Vatican II, các Giáo hoàng và các giám mục đã luôn luôn nhớ rằng, Thiên Chúa ngay từ kỷ nguyên đầu đã ban cho Giáo Hội một thừa tác vụ, được biết như là phó tế. Đó cũng là một hình thức khám phá, bởi nhu cầu của cộng đoàn. Trước Công Đồng Vatican II chỉ một mình vị linh mục mới được cho rước lễ, (ngay cả thầy sáu chủng viện cũng cần có phép đặc biệt). Sau Công Đồng, số những người Công giáo rước lễ tăng lên rất nhiều, Giáo Hội khám phá ra rằng những giáo dân có thể trở thành những thừa tác viên đặc biệt cho rước lễ và một chức thừa tác đã được cho phép bởi Thiên Chúa và làm hài lòng Ngài. Trước Công Đồng Vatican II linh mục đã làm mọi chuyện trong

10.

Thánh Lễ, gồm cả việc đọc Thánh Kinh, nhưng sau khi trở lại với truyền thống, Giáo Hội mới khám phá ra rằng, từ xa xưa những thừa tác giáo dân cũng được biết như là những người đọc sách thánh.

Khổ thay, một số người trong chúng ta giống Giosuê và Gioan, chúng ta kháng cự lại sự khám phá. Chúng ta có thể oán hận bởi vì người đàn ông có vợ rồi vẫn có thể được truyền chức phó tế. Chúng ta cũng bực bội bác bỏ ý kiến về những thừa tác đặc biệt cho rước lễ và nhấn mạnh rằng họ chỉ được quyền trao Thánh Thể cho những trường hợp đặc biệt. Một số người khác trong chúng ta lại không thể chịu được những sự kiện, như là phụ nữ đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ.

Bởi vì nhu cầu mang ánh sáng lan tỏa trong Giáo Hội ngày hôm nay, ánh sáng đã được chiếu sáng hơn phát minh của Thomas Edison. Đó cùng là ánh sáng của Thánh Thể chiếu sáng trên chân lý để cho Giáo Hội thấy sáng tỏ hơn. Trong Thánh Vịnh nơi bài đáp ca, chúng ta đón nhận Thiên Chúa đã ban niềm vui cho trái tim. Đó là sự thật trao ban cho trái tim của chúng ta, để chúng ta mở rộng cho sự thúc đẩy của Thánh Thể trong Giáo Hội ngày hôm nay. Không nên phàn nàn về những thừa tác viên trong phụng vụ, chúng ta phải cám ơn Chúa và cầu xin cho ân sủng tuôn trào nơi Thánh Thần của Người sẽ tiếp tục ban xuống trên Giáo Hội.

11.

5. Tinh thần đại kết(Trích trong ‘Niềm vui chia sẻ’)

Cha Anthony De Mello, một linh mục Ấn Độ, Dòng Tên, chuyên về huấn luyện tu đức, đã tưởng tượng câu chuyện “Chúa Giêsu đi xem bóng đá” (trong tập truyện “Bài ca của loài chim” The Song of Bird) như sau: “Nghe Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một trận bóng đá, chúng tôi liền đưa Ngài đến xem một trân đấu rất gay go giữa hai đội tuyển Tin Lành và Công Giáo. Khi đội Công Giáo làm bàn trước 1- 0, Đức Giêsu hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội Tin Lành đã gỡ một đều (1-1), Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, ông ta hỏi Ngài:

Này ông bạn, ông ủng hộ bên nào? Chúa Giêsu trả lời trong khi mãi mê theo dõi trận đấu: “Tôi à? Ồ, tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là để thưởng thức trận đấu mà thôi”. Người khán giả tỏ vẻ khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu lại bực hội hơn, ông quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn ta là một tên vô thần!”

Trên đường về nhà, chúng tôi nói với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại tất cả nhưng ai không thuộc về tôn giáo của họ”. Chúa Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: “Đó là lý do tại sao tôi không ủng hộ đội tuyển Tin Lành hay đội tuyển Công Giáo, mà chỉ ủng họ các cầu thủ thôi, dù họ thuộc bất cứ đội tuyển nào”.

12.

Anh chị em thân mến,Câu chuyện này tuy là tưởng tượng, nhưng nó mang sứ điệp của Tin Mừng hôm nay. Số là có người không thuộc về Nhóm Mười Hai Tông Đồ đã nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thấy thế, ông Gioan đã ngăn cản người ấy. Tưởng là có công lớn, ông đem khoe với Chúa Giêsu. Nhưng ông không ngờ trước phán quyết của Chúa: “Đừng ngăn cản người ta làm gì! Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Vào thời ông Môisê cũng thế. Khi ông Giôsuê muốn dành độc quyền nói tiên tri cho nhóm bẩy mươi vị Kỳ Mục, đã xin Môisê ngăn cản hai ông Elđát và Mêđát nói tiên tri. Nhưng ông Môisê đã trả lời: “Anh ghen giùm tôi à? Phải chi Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”(Bđ. 1).

Cả hai câu trả lời thật đáng giá, vì chính thức lên án một tấm lòng hẹp hòi, một khối óc cục bộ. Làm sao người ta có thể nói tiên tri, có thể trừ quỷ, nếu không thuộc về Chúa, không do Chúa ban. Thái độ khép kín, phe nhóm như thế không đúng tinh thần cởi mở của Chúa Giêsu. “Thần Khí muốn thổi đâu thì thổi”, “đừng dập tắt Thánh Thần”. Không phải chỉ có Giôsuê của thời Môisê hay Gioan của thời Chúa Giêsu, mà Giáo Hội cũng đã nhiều lần muốn bảo vệ cái độc quyền nhân danh Đức Chúa của mình. Lịch sử Giáo Hội cũng là một chuỗi biến cố đau thương làm cho những trang sử của Giáo Hội mất đi vể trong sáng. Con người luôn bị cám dỗ áp đặt cho chính Thiên Chúa cái suy nghĩ hẹp hòi của chính mình, Cộng Đồng Vatican II đã đánh dấu một trang sử mới của Giáo Hội về chính mình, về thế giới, về những tôn giáo

13.

khác, về những người không tin. Không còn là thái độ lên án, khinh thường miệt thị nữa, mà là một thái độ trân trọng thực sự và đối thoại chân thành. Từ thái độ tự cao tự đại, tưởng mình độc quyền chân lý chuyển sang thái độ khiêm tốn biết giới hạn của mình, đồng thời nhìn ra cái chân, cái thiện, cái mỹ nơi người khác, nơi các dân tộc khác, trong các nền văn hoá khác.

Cuộc “hoán cải” lịch sử ấy vẫn đang tiếp diễn trong lòng Giáo Hội, đặc biệt trong những năm chuẩn bị bước sang Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Trong Tông thư “Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba” (10/11/1994). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi “Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về tội lỗi của con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những lạc xa Thánh Thần của Đức Kitô và Tin Mừng… Giáo Hội không thể bước qua ngưỡng cửa của Thiên Niên Kỷ mới mà không thối thúc con cái mình thanh luyện trong sự sám hối về những lỗi lầm, bất trung, chia rẽ, trì trệ… (số 34). “Trong số những tội lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài. Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội “đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này hay thành phần khác” đã bị xé rách một cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là một cớ vấp phạm cho thế giới” (số 34).

Thưa anh chị em,Người môn đệ Đức Kitô phải có trái tim rộng lớn, cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và mời gọi mọi người cộng tác vào những việc tốt, việc hữu ích cho con người, cho xã hội, không hạn chế, không loại trừ hay

14.

cấm cản ai, nhất là những người thành tâm thiện chí. Tinh thần quảng đại của Đức Kitô không cần biên giới, không chấp nhận bị ràng buộc trong một phe nhóm, một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt, vì “Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai”. Ở đất nước ta đã không thiếu những hình ảnh của các tăng ni phật tử bên cạnh các linh mục, tu sĩ nam nữ, các Kitô hữu để làm công tác từ thiện bác ái, thăm viếng bệnh nhân, chăm sóc các cô nhi quả phụ, xóa đói giảm nghèo… Có gì tuyệt cho bằng chân lý yêu thương của Đức Kitô được mọi người anh em Phật Giáo, Khổng Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Công Giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện cho bằng được: “Phàm ai hoạt động trong đức ái là đã thuộc về Đức Kitô” (x.Mc 9,41). Bởi vì bất cứ người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào, cũng đều được Chúa chấp nhận. Bất cứ hành động công bằng nào, công việc bác ái thương người nào, đều sẽ được Chúa thưởng công, dù chỉ một ly nước mát, một nụ cười tươi: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Ngược lại, Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm sa ngã phạm tội, làm điều gian ác. Hơn nữa, chính bản thân mình cũng phải cương quyết dứt khoát từ chối đi theo con đường tội ác, tránh xa dịp tội. Chúa bảo ai làm gương xấu cho kẻ khác vấp phạm thì “thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúa còn dùng kiểu nói cường điệu: “chặt tay, cưa chân, móc mắt”, nếu những chi thể quý báu ấy nên cớ cho mình vấp phạm để mất sự sống đời đời, vì “thà cụt tay, què chân, mù mắt còn hơn là phải vào hỏa ngục đời đời”. Lý do là giá trị tuyệt đối của sự sống đời đời.

15.

Anh chị em thân mến,Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình, nhưng hãy sống cái hạnh phúc được thuộc về Chúa Kitô và chia sẽ cho anh em hạnh phúc ấy. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác trong khi nói năng, cư xử, hành động, để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy thay đổi cách suy nghĩ và hành động phản chứng và gây gương mù. “Tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, hết thảy chúng ta được mời gọi tự vấn lương tâm và có những sáng kiến đại kết bổ ích để có thể giới thiệu cho thế giới thấy mình vào Năm Đại Toàn Xá 2000, nếu chưa hoàn toàn hiệp nhất thì ít ra cũng vượt qua được nhiều chia rẽ của Thiên Niên Kỷ Thứ Hai. Muốn thế, cần phải nỗ lực rất nhiều. Phải tiếp tục tiến hành đối thoại về giáo lý, nhưng nhất là cầu xin ơn hiệp nhất. Lời cầu nguyện mà chính Đức Kitô tha thiết kêu gọi trước khi chịu nạn: “Lạy Cha, xin cho mọi người hiệp nhất nên một trong chúng ta” (Ga 17,21) (số 43).

6. Chặt tay bạn đi - Gm. Arthur TonneNgày xửa, ngày xưa, một đoàn thám hiểm từ lục địa Châu Âu đi tìm đất mới. Bạn biết gì về hòn đảo Ireland ngày nay – Nhà lãnh đạo của họ là một người phiêu lưu với số mệnh. Ông tuyên bố: Ai dựng lều đầu tiên, sẽ là chủ toàn thể lãnh thổ. Một người trong nhóm tên là O’Neil quyết tâm dành được đất mới. Ông rán sức chèo, nhưng một chiếc thuyền đối thủ rượt theo ông, bắt kịp ông rồi qua mặt ông. Ông có thể làm gì? Người đàn ông tinh thần mạnh mẽ, ý chí sắt đá này buông mái chèo, cầm lấy búa và chặt bàn tay trái liệng lên bờ. Như thế ông là người đầu tiên đụng vào đất mới, và nó là của ông.

16.

Tôi kể câu chuyện đẫm máu và rùng rợn này để giúp chúng ta hiểu được những lời đẫm máu và rùng rợn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Nếu tay bạn làm cớ cho bạn phạm tội, hãy chặt nó đi. Thà bạn tàn tật mà được vào cõi hằng sống hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục. Chúa Giêsu muốn nói điều chi?

Người nói rằng những ai theo Người phải sẵn sàng hy sinh những cái gần gũi nhất, thân yêu nhất hơn là bất tuân luật Chúa bởi phạm tội. Cắt tay, chặt chân, hay móc mắt không hiểu theo nghĩa đen. Chúa Giêsu không nói rằng chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân. Đó chỉ là cách nhấn mạnh của Người và gây ấn tượng mạnh mẽ trên chúng ta, để chúng ta hiểu rằng Nước Thiên Chúa, đất vĩnh cửu của chúng ta muốn đạt được, xứng đáng mọi hy sinh.

Để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải sẵn sàng làm một vài việc quyết liệt và đau đớn như chặt chân, cắt tay. Với một số người, xa lìa một vài món đồ vật chất cũng có thể đau đớn như cắt một bàn tay. Tuy nhiên Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta cho người đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người không nhà ở trọ, chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Chúng ta phải làm một vài hy sinh để nâng đỡ Giáo Hội Chúa, công cuộc của Chúa là truyền bá đức tin. Cái đó thường cũng đau đớn.

Hy sinh để đẹp lòng Chúa và chiếm đoạt Nước Trời có thể cũng đau đớn như cắt một bàn tay. Với một người nghiện rượu, bỏ một chai rượu hay chỉ một ly thôi cũng có thể gây khổ sở cho anh. Nhưng để làm đẹp lòng Chúa, anh phải bỏ.

17.

Chúng ta thích ngủ nướng trên giường vào sáng Chúa Nhật hơn là đi lễ. Cố gắng chiến đấu để vượt thắng tính lười biếng, có thể gây phiền phức, khó chịu ở một mức độ nào đó. Nhưng đó là phương cách để chúng ta chiếm đoạt Nước Thiên Chúa.

Thường dễ ngồi chăm chú nhìn màn kính truyền hình đến phút chót, hơn là dành chút thời giờ cầu nguyện hay đọc vài dòng Kinh Thánh, hoặc đọc báo chí Công giáo, và ngay cả nói chuyện với người thương.

Hầu chuyện với Chúa là một đặc ân lớn lao, một niềm vui tuyệt diệu nhưng nó đòi hỏi cố gắng cắt bớt một vài việc không quan trọng và gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu đã cố gắng, Chúa Giêsu đã hy sinh. Người không chỉ cắt tay, Người hiến cả thân mình, chúng ta tưởng niệm sự dâng hiến đó nơi đây trên bàn thờ này. Hãy xin Chúa Giêsu sức mạnh để từ bỏ chính mình.

Xin Chúa chúc lành bạn.

18.

7. Suy niệm của Noel QuessonAI KHÔNG CHỐNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TAMột ni cô nọ có một tượng Phật bọc vàng, cô quý pho tượng lắm, đi đâu cũng mang theo. Trong ngôi chùa cô tu hành có nhiều tượng Phật, cô dọn riêng cho pho tượng của mình một bàn thờ đặc biệt. Lúc đốt hương trước tượng Phật của mình, ni cô không muốn làn hương bay sang các tượng khác, cộ xoay trở làm sao cho làn khói hương bay thẳng vào mũi pho tượng vàng của mình. Lâu ngày, pho tượng vàng của ni cô vì đón nhận khói hương mỗi ngày nên mũi tượng trở nên đen thùi xấu xí.

Đôi khi lòng nhiệt tình đến mức ích kỷ, cũng trở nên nhỏ mọn khó coi. Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hài lòng về thái độ hẹp hòi của các Tông đồ. Chúa vừa bảo các ông khiêm tốn, phải nên tôi tớ mọi người, phải phục vụ mọi người, chứ không phải chỉ riêng với người đồng đạo, người Công giáo.

Nhưng các Tông đồ chưa thấm nhuần bài học này. Chúng ta thấy chính Gioan, một Tông đồ ưu tú của Chúa Giêsu phát biểu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ, chúng con muốn ngăn cản anh ta, vì anh ta không theo chúng ta”. Đọc câu chuyện này có lẽ ai trong chúng ta cũng thấy cái tính hẹp hòi, không thích hợp với tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu.

Chúng ta đừng quên rằng trong thực tế ngày nay, tinh thần này vẫn còn tồn tại và đôi khi vẫn bộc lộ trong tư duy cá nhân và tập thể. Có lúc các tín hữu chúng ta cũng khó chịu

19.

khi thấy có người ngoài nhóm chúng ta mà cũng làm được những chuyện tốt đẹp khác thường, những người không theo Chúa Giêsu mà cũng dùng giáo lý Người làm phương châm cuộc sống và nhờ đó đã đạt tới thành công. Đôi lúc có vẻ những người không phải Kitô hữu mà cũng nhận ra được ơn Chúa, họ cũng biểu lộ được những đức tính mà người Công giáo ra công gắng sức tập luyện mà chưa đạt tới. Thấy những người ngoài Công giáo sống tốt, biết xả kỷ vị tha, có người Công giáo đã tỏ ra không ưa, cho rằng những hành vi kia chỉ là vẻ bề ngoài hoặc là giả tạo. Còn Chúa Giêsu, Người muốn sửa đổi những suy nghĩ sai lầm ấy, Người cho các Tông đồ thấy rõ: Ai không chống lại Chúa, là ủng hộ Chúa, và họ cũng có công phúc. Mọi người đều có thể đón nhận Chúa, ai cũng có thể sống theo tinh thần Chúa. Chúa có thể ban ơn cho bất cứ ai. Người không bị ràng buộc vào một băng nhóm hay một cơ chế nào. Giáo lý và Tin Mừng của Chúa dành cho mọi người, giáo cũng như lương. Ở chỗ khác, Chúa cũng diễn tả vấn đề này bằng kiểu nói khác: “Thần Khí như gió, muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8).

Thánh Phêrô đã thấy Thánh Linh xuống trên cả dân ngoại (Cv 10,44). Chúa thông suốt mọi sự, nên Người đã giải thích cho các môn đệ: “Không ai vừa nhân danh Thầy làm phép lạ, lại vội nói xấu Thầy”, nghĩa là có những lúc Chúa tỏ uy quyền của Người trên cả những người chưa phải là tín hữu Kitô. Điều đó giúp chúng ta xác quyết rằng những hành động tốt thì luôn luôn do Chúa soi sáng thúc đẩy. Hiểu như thế chúng ta sẽ nhận ra những người thành tâm thiện chí để hợp tác, để đón nhận nhiều bạn đồng hành trên đường phục vụ và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người theo gương Chúa và chu toàn ý định của Chúa: “Muốn cho mọi người được cứu và nhận ra Chân lý” (1Tm 2,4).

20.

Lạy Chúa, xin giúp con sống quảng đại với mọi người, sẵn sàng hợp tác với những người thành tâm thiện chí để mưu ích cho mọi người. Xin Chúa tỏ quyền năng Chúa trên chúng con và những người đang tìm về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Người.

8. Chú giải mục vụ của William BarclayMỘT BÀI HỌC VỀ KHOAN DUNG (9,38-40)Như chúng ta chúng ta được biết nhiều lần, vào thời Chúa Giêsu, ai nấy đều tin có ma quỷ. Mọi người đều tin rằng các thứ bệnh tật của thân thể lẫn tâm thần, đều do ma quỷ tà linh ám ảnh. Có một phương pháp hết sức thông thường để trục xuất ma quỷ. Nếu ai biết được tên của một tà linh nào mạnh hơn, thì có thể nhân danh tà linh ấy truyền lệnh cho tà linh đang ám ảnh nạn nhân đó ra khỏi người đó và con quỷ đó phải nhượng bộ. Nó không dám chống lại danh của một tà linh khác có thế lực hơn nó. Đó là loại sự việc đang xảy ra ở đây. Gioan thấy có người nhân danh uy quyền của Chúa Giêsu để đuổi quỷ, ông đã ngăn cấm vì người ấy không phải là một trong số thân cận với Chúa Giêsu như các tông đồ. Nhưng Chúa Giêsu tuyên bố rằng chẳng hề có ai hoàn toàn thù địch với Ngài mà có thể nhân danh Ngài mà làm được việc quyền năng nào. Rồi Ngài quy định một đại nguyên tắc là “hễ ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Đây là một bài học về khoan dung mà mọi người cần học tập:

1/ Mỗi người đều có quyền tự do tư tưởng. Mỗi người đều có quyền suy nghĩ về mọi sự việc cho đến khi nào tìm ra kết luận cho những điều mình tin. Đây là một nguyên tắc mà chúng ta phải tôn trọng. Chúng ta thường vội vàng lên án những điều mình không hiểu. Penn có nói “Đừng bao giờ

21.

khinh dể hoặc chống lại những gì bạn không hiểu”. Trong bản dịch Tân Ước của Kinsley Williams.

Giuđa 10 được dịch là “số người này phát ngôn bừa bãi về mọi điều họ không biết”. Chúng ta phải nhớ hai điều:(a) Có nhiều cách thức để người ta đến được với Chúa như Tennyson nói “Chúa tự bày tỏ mình theo nhiều cách”. Cervantes cũng bảo “Chúa có nhiều đường lối để đưa những người thuộc về Ngài vào thiên đàng”. Trái đất vốn tròn, hai người bắt đầu đi về hai hướng ngước nhau, cuối cùng vẫn gặp nhau tại một điểm. Tất cả mọi con đường đều dẫn đến Chúa, nếu chúng ta theo đuổi chúng lâu đủ và dài đủ. Thật là điều đáng sợ nếu có ai nghĩ chỉ có họ độc quyền về ơn cứu rỗi.

(b) Điều cần nhớ là chân lý luôn luôn lớn hơn điều mà bất cứ người nào có thể lãnh hội được. Chẳng hề có ai thâu tóm được toàn thể chân lý. Nền tảng của khoan dung không phải là thái độ lười biếng chấp nhận bất cứ điều gì. Đó không phải là cảm nghĩ cho rằng không thể có được sự bảo đảm ở bất kỳ nơi nào. Nền tảng của thái độ khoan dung chỉ đơn giản là nhận thức được tính cách bao la của quỹ đạo chân lý. John Morley viết “khoan dung là tôn trọng khả năng của chân lý, có nghĩa là thừa nhận chân lý có thể cư trú trong mọi nhà, mặc lấy mọi màu sắc và nói bằng đủ các thứ tiếng lạ. Nó có nghĩa là phải thật lòng tôn trọng quyền tự do của lương tâm ngự trị bên trong, chống lại mọi hình thức máy móc. Nó có nghĩa là tình yêu lớn hơn cả đức tin lẫn hy vọng”. Sự không khoan dung là dấu hiệu của cả kiêu ngạo lẫn dốt nát, nó là dấu hiệu của kẻ tin là không hề có chân lý nào khác ngoài chân lý mình thấy.

22.

2/ Chẳng những phải nhường lại cho mọi người quyền làm theo những gì họ nghĩ, mà chúng ta phải nhường quyền để họ tự phát biểu những điều riêng của họ. Trong tất cả các quyền tự do dân chủ, quyền quan trọng nhất là quyền tự do phát biểu ý kiến. Dĩ nhiên là phải có giới hạn. Nếu có đưa ra những giáo lý được tính toán trước nhằm phá hoại luân lý, lật đổ mọi nền tảng của xã hội văn minh và Kitô giáo, thì kẻ ấy bị chống lại. Nhưng phương pháp để chống lại người ấy chắc chắn không phải là một loại trừ người ấy bằng vũ lực, nhưng bằng cách chứng minh cho người ấy thấy họ đã sai lầm. Voltaire từng quy định quan niệm về tự do ngôn ngữ bằng một câu sống động “tôi ghét điều anh nói, nhưng tôi sẵn sàng chịu chết để anh có quyền được nói ra nó”.

3/ Cuối cùng, chúng ta phải nhớ, mọi giáo lý và mọi quan niệm đức tin đều phải được xét đoán căn cứ vào các hạng người mà nó đã sản sinh ra. Câu hỏi tối hậu phải luôn luôn được nêu lên, không phải là “Giáo Hội được điều hành như thế nào?” nhưng là “Giáo Hội đã sản sinh loại người như thế nào?”. Ngụ ngôn phương Đông có câu chuyện như sau: Người kia có một chiếc nhẫn bích ngọc rất lạ. Hễ ai đeo nhẫn ấy vào thì tính tình trở nên hiền hậu, chân thực khiến mọi người đều yêu mến. Chiếc nhẫn là một thứ phép màu. Nó được truyền từ đời cha sang đời con luôn luôn linh nghiệm. Thời gian trôi qua, chiếc nhẫn được truyền đến một người có ba con trai, mà đứa nào ông cũng yêu quý cả. Khi biết mình sắp chết, ông ta băn khoăn sẽ để lại chiếc nhẫn lại cho đứa nào đây? Ông đã liều thuê thợ bạc làm thêm hai chiếc khác, y hệt như chiếc nhẫn thật, đến nỗi chẳng ai phân biệt được chiếc nào là chiếc thật, chiếc nào là giả. Lúc hấp hối, ông gọi riêng từng đứa con trối trăn riêng với từng người, sau đó ông cho riêng mỗi người một chiếc nhẫn mà người kia không biết. Nhưng về sau, cả ba người đều khám

23.

phá ra rằng mỗi người đều được nhẫn, thế là một cuộc tranh cãi dữ dội đã bùng nổ xem ai được chiếc nhẫn có thể đem lại nhiều điều có lợi cho chủ nó. Nội vụ được đưa đến một quan tòa khôn ngoan xét xử. Quan tòa xem xét thật kỹ các chiếc nhẫn rồi nói “ta không biếc chiếc nhẫn nào là chiếc nhẫn thật, nhưng chính các người có thể chứng nghiệm điều đó”. Ba người con ngạc nhiên hỏi “chúng tôi à?”. Quan tòa bảo “phải, và nếu chiếc nhẫn thật tạo cho người đeo nó một bản chất dịu hiền thật bởi đời sống thiện hảo của người ấy. Cho nên, các anh hãy về đi, sống cho tử tế, trung thực, dũng cảm ngay thẳng trong mối liên hệ với mọi người, và ai làm như thế chính là người được chiếc nhẫn thật”. Vấn đề phải chứng nghiệm bằng đời sống. Không ai lên án được một giáo lý đã khiến một người xấu trở nên tốt. Nếu chúng ta nhớ được điều ấy, có thể giảm bớt sự thiếu khoan dung.

4/ Chúng ta có thể ghen ghét niềm tin của một người nhưng đừng bao giờ ghét người ấy. Chúng ta có thể muốn loại bỏ những gì người ấy giảng dạy nhưng đừng bao giờ có ước muốn loại trừ chính người ấy.

THƯỞNG VÀ PHẠT (9,41-42)Lời giáo huấn trong đoạn này thật đơn sơ, không thể lầm lẫn được, rất bổ ích.1/ Bất kỳ một việc tốt nào, một sự giúp đỡ nào làm cho người của Chúa, đều không bị mất phần thưởng. Lý do để giúp đỡ là vì người ấy cần được giúp đỡ thuộc về Chúa Giêsu. Mỗi người có nhu cầu đều có thể đòi hỏi chúng ta giúp đỡ, người ấy được Chúa Kitô yêu thương. Nếu Chúa Giêsu còn tại thế, chắc Ngài cũng đã giúp đờ họ cách thực tiễn và bổn phận cứu trợ, giúp đỡ, đã được giao lại cho chúng ta. Cần chú ý là sự trợ giúp rất đơn giản. Của cho có

24.

thể chỉ là một ly nước. Không đòi hỏi ta làm những chuyện lớn lao, những việc vượt quá khả năng của ta. Chỉ đòi hỏi ta phải làm những việc mà bất cứ ai cũng có thể làm, cũng có thể cho.

Một giáo sĩ kể lại một câu chuyện sau đây: Bà giáo vừa dậy các học sinh cấp 1 người Phi châu về việc nhân danh Chúa Giêsu cho người ta một chén nước lạnh. Hôm ấy, bà đang ngồi trước nhà, thấy một đám phu khuân vác người bản xứ đi vào làng. Họ vác những kiện hàng thật nặng. Ai nấy đều mỏi mệt, khát nước và ngồi bệt xuống đất để nghỉ ngơi. Họ là người thuộc bộ tộc khác và nếu họ xin nước nơi những thường dân không theo Kitô giáo, sẽ được bảo: hãy tự đi tìm lấy mà uống, vì có một bức tường ngăn cách ở giữa họ. Nhưng đang khi số người mệt mỏi kia ngồi đó và bà đang nhìn họ thì một đám trẻ gái người Phi Châu từ trường học đi ra, mỗi em đội trên đầu một vò nước. Cả bọn rụt rè, sợ sệt tiến đến gần những người khuân vác đang mỏi mệt và quỳ xuống, đưa các vò nước cho họ. Những người khuân vác ngạc nhiên, tiếp lấy rồi uống ngon lành và trả vò lại. Các bé gái vội vàng chạy nhanh đến với bà giáo, và nói “chúng cháu vừa nhân danh Chúa Giêsu cho những người khát uống nước”. Các bé gái đã tiếp nhận lời dạy dỗ ấy theo nghĩa đen của nó. Ước gì cũng có nhiều người làm vậy. Chính những việc làm đơn sơ với tấm lòng tử tế là những việc hết sức cần thiết. Mahomet đã nói “Đặt người lạc lối vào đúng con đường, cho một nguơì khát uống nước, mỉm cười với anh em mình, đó là đức ái”.

2/ Nhưng việc trái lại cũng được nghiệm đúng. Giúp người thì sẽ được phần thưởng đời đời, còn làm cho một anh em yếu đuối hơn vấp phạm là tự chuộc lấy hình phạt đời đời.

25.

Phần thưởng rất nghiêm khắc. Tại Palestine có hai loại cối: cối đá xay bằng tay mà phụ nữ dùng trong nhà và loại cối đá lớn đến nỗi phải cột một con lừa mới kéo nổi. Loại cối đá nói ở đây là loại lớn. Bị ném xuống biển với một thớt cối như thế cột vào người, chắc chắn không hy vọng trở về. Thật ra, đây là cách xử tử cả tai Roma lẫn tại Palestine. Sử gia Josephus kể rằng, lúc một số người Galilê thành công trong một cuộc nổi dậy, “họ bắt được những người thuộc đảng Hêrôđê và ném xuống biển hồ”. Suetonius, sử gia Roma kể lại về Augustus rằng “vì ông thầy dạy học và bọn người hầu hạ hoàng tử là Gaius lợi dụng căn bệnh của chủ để lạm quyền và tham nhũng trong tỉnh, nên hoàng đế truyền cột vật nặng vào cổ và ném họ xuống sông”.

Tự mình phạm tội đã là chuyện khủng khiếp rồi, nhưng dạy kẻ khác phạm tội, lại càng tệ hại. O. Henry, nhà văn Mỹ lừng danh về truyện ngắn đã sáng tác câu chuyện về một bé gái mồ côi mẹ. Cha cô bé có thói quen hễ đi làm về là ngồi ngay xuống ghế mở cặp lôi giấy tờ ra, đốt ống điếu và gác chân lên ngăn kệ đặt gần lò sưởi. Cô bé vào, xin cha chơi đùa với mình một lát vì em rất cô đơn. Nhưng người cha bảo ông mệt lắm, hãy để cho ông yên. Ông bảo cô bé hãy ra đường mà chơi. Thế là cô đi chơi ngoài đường, và chuyện không tránh được đã xảy ra, cô trở thành người sống ngoài đường phố. Thời gian trôi qua, cô gái chết. Linh hồn cô gái đến thiên đàng. Phêrô trông thấy cô ta liền thưa với Chúa Giêsu “Thưa Thầy, đây là một bé gái gặp số phận xấu. Con nghĩ chúng ta phải đưa thẳng nó xuống hỏa ngục”. Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn đáp “Không, hãy cho nó vào”. Rồi đôi mắt Ngài trở nên nghiêm nghị “Nhưng hãy tìm con người đã từ chối không chịu chơi đùa với con gái nhỏ của mình, đuổi con ra đường, và đưa hắn xuống hỏa ngục”. Chúa không nghiêm khắc đối với tội nhân, nhưng Ngài hết sức nghiêm khắc đối

26.

với kẻ đã làm cho người khác sa vào tội lỗi, kẻ mà vô tình hay cố ý, đã đặt một tảng đá vấp chân trên lối đi của một người anh em yếu đuối hơn mình.

MỘT MỤC TIÊU ĐÁNG CHO CHÚNG TA HY SINH (9,43-48)

Bằng ngôn ngữ sinh động kiểu phương Đông, đoạn này nêu lên một chân lý căn bản, có một mục tiêu trong cuộc sống đáng cho chúng ta hy sinh bất cứ điều nào để đạt đến. Về phương diện thuộc thể, có lẽ người ta sẵn sàng chịu mất chân, tay hay một phần thân thể nào đó, để được sự sống cho toàn thân. Có những truờng hợp mà phương thế duy nhất để bảo tồn đuợc sự sống cho toàn thể là phải cưa tay, chân, hoặc phải chịu giải phẫu cắt bỏ một phần nào đó trong cơ thể. Về phương diện thuộc linh trường hợp như trên cũng có thể xảy ra.

Các Rabbi người Do Thái cũng có một câu cách ngôn đại ý một vài phần trong thân thể người ta có thể đưa họ đến chỗ phạm tội. “Con mắt và tấm lòng là hai tên mai mối cho người ta phạm tội”. “Con mắt và tấm lòng là hai đứa đầy tớ cho tội lỗi”. Đam mê chỉ ở trọ nơi kẻ có mắt để trông thấy. “Khốn thay cho kẻ nào chạy theo con mắt, vì con mắt vốn dâm tà”. Trong con người, có một số bản năng, một số các chi thể bẩm sinh dễ xui khiến người ta phạm tội. Chúng ta không nên hiểu câu nói này của Chúa Giêsu theo nghĩa đen, nhưng đây là một cách nói hết sức gợi hình theo lối người phương Đông, ngụ ý ở đời, người ta có một mục đích để sẵn sàng vì đó mà hy sinh bất cứ điều gì để đạt được.

Đoạn này nhắc đi nhắc lại nhiều lần về đia ngục. Tân Ước đề cập đến địa ngục trong Matthêu 5,22.29.30; 10,28; 18,9; 23,15.33; Luca 12,5; Giacôbê 3,6, đây là những chữ được

27.

dùng để dịch từ Gehenna. Từ này có một lịch sử. Nó là một dạng từ của của từ Hinnom. Hinnom là một thung lũng ở bên ngoài thành Giêrusalem. Nó có một lịch sử xấu xa. Đó là thung lũng mà xưa kia Acha đã lập đền thờ thần lửa và dâng trẻ con làm sinh tế trong lửa. “Người đốt hương trong thung lũng Hinnom và thiêu con cái mình trong lửa” (2Sk 28,3). Manase cũng tiếp tục việc thờ phượng ngoại giáo khủng khiếp này (2Sk 33,6). Do đó, Hinnom, Gehenna, là một cảnh tượng về một trong những lần Israel sa vào các phong tục tập quán khủng khiếp nhất của ngoại giáo. Vào thời phục hưng của Giôsia, nhà vua đã tuyên bố Hinnom là chỗ ô uế. “Người cũng làm ô uế Tôphết tại thung lũng con cái Hinnom hầu cho từ rày về sau, không ai được đưa con trai hay con gái mình qua lửa cho Môlóc” (2V 23,10). Một khi thung lũng ấy đã bị công bố là ô uế, nó bị đặt riêng ra làm nơi đổ rác và đốt rác của thành phố Giêrusalem. Kết quả là nó trở thành một nơi dơ dáy đáng ghê tởm, đầy rác rến giòi bọ, khói và lửa cháy âm ỉ không ngừng giống như một lò thiêu vĩ đại. Câu nói về nơi giòi bọ chẳng hề chết và lửa chẳng hề tắt có xuất xứ từ Israel 66,24, mô tả về số phận kẻ thù gian ác của dân Israel, vì tất cả các lý do trên đây, thung lũng Hinnom, Gehenna, trở thành một loại biểu tượng cho địa ngục, là nơi linh hồn kẻ ác sẽ bị hành hạ, hủy diệt. Nó được dùng như thế trong kinh Talmud “Tội nhân không tuân hành luật lệ, cuối cùng phải xuống địa ngục (gehenna)”. Vậy, địa ngục tượng trưng cho nơi giam phạt, và từ này gợi lên trong tâm trí người Israel những hình ảnh ảm đạm và khủng khiếp nhất.

Nhưng vì mục đích gì mà chúng ta có thể hy sinh mọi sự? Có lần nói về sự sống và một lần vì Nước Trời. Có thể định nghĩa Nước Trời như thế nào? Chúng ta lấy câu định nghĩa cho chúng ta trong Kinh Cầu Nguyện Chung. Kinh cầu

28.

nguyện ấy, có hai lời cầu xin đã được đặt bên cạnh nhau “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Một đặc điểm trong ngữ pháp Do Thái, là thể loại song hành. Trong thể loại song hành người ta viết hai câu cạnh nhau, mà câu này nhấn mạnh, bàn rộng, giải thích hoặc khai triển câu kia. Ta có thể lấy bất cứ bài nào trong Thánh Vịnh để minh họa cho phương pháp đó. Vậy, trong Kinh Cầu Nguyện Chung, chúng ta có thể hiểu là lời cầu xin này đã giải thích và bàn rộng, triển khai lời cầu xin kia. Khi xếp hai câu chung với nhau, chúng ta có câu định nghĩa là “Nước Thiên Đàng là một xã hội trần gian, trong đó, ý Chúa được thực hiện trọn vẹn dưới đất cũng như trên trời”. Có thể nói thật đơn giản, người nào hoàn toàn vâng theo ý Chúa là công dân Nước Chúa. Nếu lấy câu đó làm ứng dụng cho đoạn sách chúng ta đang nghiên cứu, nó sẽ có nghĩa là “làm theo ý Cha là điều xứng đáng cho mọi hy sinh, mọi trường hợp khép mình vào kỷ luật, mọi trường hợp từ chối mình”. Chỉ có việc làm theo ý Chúa chúng ta mới có được sự sống đích thực, có được bình an tối hậu, hoàn toàn và mãn nguyện.

Origen đã hiểu ý này theo nghĩa biểu tượng. Ông bảo có lẽ cần phải khai trừ vài kẻ theo tà giáo hoặc vài kẻ gian ác nào đó, không được hiệp thông trong Hội Thánh để giữ thân thể Chúa Kitô được thuần khiết. Nhưng câu này ngụ ý dạy chúng ta phải ứng dụng nó cho chính mình trước nhất. Nó ngụ ý dạy chúng ta cần từ bỏ, khai trừ một thứ xấu, từ bỏ một thú vui, tuyệt giao với một số bạn bè, cắt đứt một điều nào đó vốn rất thiết thân với chúng ta để vâng phục trọn vẹn ý Chúa. Đây không phải là một điều mà bất cứ ai cũng có thể làm đối với người khác. Nó là vấn đề lương tâm mỗi cá nhân, và nó có nghĩa là nếu có bất cứ việc gì ngăn trở chúng ta vâng phục hoàn toàn ý Chúa, thì dù vật hay người ấy vốn

29.

rất thân thiết với chúng ta, dù thói quen phong tục tập quán đó đã trở thành một phần của chính đời sống. Thì chúng ta cũng phải nhổ bỏ tận gốc. Việc dứt bỏ đó có thể gây đau đớn như một cuộc giải phẫu, có thể giống như phải chặt bỏ đi một chi thể. Nhưng nếu muốn được sự sống đích thực, hạnh phúc đích thực và bình an đích thực, chúng ta phải quyết tâm thi hành. Câu nói nghe có vẻ lạnh lùng, nghiêm khắc, nhưng thật ra, đó là thái độ phải đối diện với các sự kiện của đời sống.

9. Chú giải mục vụ của Jacques HervieuxHUẤN DỤ TRUYỀN CHO CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU (9,38-50)

Những gì chúng ta đang đọc xem ra không có liên hệ rõ ràng với diễn tiến trước đó (9,33-37). Người ta vẫn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi dạy dỗ các môn đệ. Tuy nhiên rõ ràng các vấn đề đang được bàn đến vượt quá giới hạn của vấn đề trước đó. Với tư cách một giáo lý viên giàu kinh nghiệm, Maccô đã gom góp ở đây nhiều huấn lệnh Chúa Giêsu nói với cộng đoàn Kitô hữu. Sự thu gom này được xác định bởi cách dùng một phương thức cổ xưa của các nền văn minh truyền khẩu để giúp cho dễ nhớ: đó là kỹ thuật dùng các “từ móc”. Các lời nói của Chúa Giêsu thoạt đầu không liên hệ với nhau đã được ghép lại với nhau bằng một từ, một lối diễn tả. Việc này được khởi đầu bằng lối nói: “Vì danh Thầy”. Lối nói này kết bốn câu lại với nhau: 37,38,39 và 41. Tiếp đó, một chuỗi lời nói được dệt chung quanh các từ “làm cớ cho sa ngã” mà người ta gặp bốn lần ở các câu 42,43,45 và 47. Cuối cùng hai đơn ngữ “lửa” và “muối” được dùng để làm cho ba câu 48,49 và 50 ăn khớp với nhau.

30.

Lời giáo huấn đầu tiên của Chúa Giêsu được nói lên nhân việc can thiệp của Gioan, một trong nhóm Muời Hai (c. 38). Lời đề nghị của một trong hai anh em vừa mới được phong biệt danh “Con của Sấm Sét” (3,17) quả đáng ngạc nhiên. Nó bộc lộ cho thấy một tính cách bất bao dung nào đó nói nhóm các tông đồ. Nhóm này có khuynh hướng khai trừ những kẻ đang đứng ngoài lề, dù họ không hoàn toàn bộc lộ ra điều này. Chúa Giêsu không cổ vũ “anh thần pháo đài” (khép kín) trong Giáo Hội Ngài. Ngài nhắc nhở các môn đệ phải biết cởi mở với người anh em lân cận (c. 39). Ngài truyền họ phải rộng mở tiếp đón tối đa mọi kẻ công khai thù nghịch với họ. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (c. 40). Ta hãy nghĩ đến tầm quan trọng của những lời này đối với một Giáo Hội như Giáo Hội của Maccô hiện đang vị sự bách hại dồn vào thế co cụm, khép kín. Chúa Giêsu còn đi xa hơn với thí dụ về ly nước, dùng để giải khát và tăng sinh lực theo quan niệm Đông phương. Hành vi bác ái nhỏ nhặt nhất mà một kẻ đối nghịch làm cho một Kitô hữu trong một khu vực hết sức thú hằn với nhau, mang rất nhiều giá trị. Chúa Kitô sẽ nhớ đến hành vi ấy trong ngày chung thẩm (x. Mt 25, 31-46).

Trong các câu tiếp theo (42-47) cung giọng thay đổi và trở nên nặng nề nghiêm trọng hơn. Một chuỗi lời nói tác động vào nhau nhờ động từ tiếng Hy Lạp “làm cớ cho sa ngã” (c. 42a). Lời cảnh giác rất nghiêm trọng. Dứt khoát không được “dựng lên chướng ngại” trên con đường của những kẻ tin Chúa. “Những tín hữu bé mọn này” chính là các Kitô hữu mà đức tin phôi thai của họ vẫn còn mỏng manh. Mọi “gương xấu”, theo nghĩa mạnh có thể ví như bẫy gài dưới chân họ, đều sẽ gây tai hại trầm trọng cho lòng trung thành của họ. Phải tuyệt đối đề phòng mọi việc làm gương xấu. Vì thế mỗi anh em trong cộng đoàn phải chú tâm đến tương giao giữa

31.

mình và kẻ khác. Chúa Giêsu ra lệnh tới ba lần: “Nếu tay con... nếu chân con... nếu mắt con làm cớ cho con sa ngã”, thì hãy cắt, chặt, móc nó đi! (c. 43a; 45a; 47a). Tay, chân, mắt là những bộ phận chính của cơ thể dùng để liên lạc. Mỗi bộ phận này đều tác động đến cả thân thể. Nếu chúng là cớ gây thương tổn cho kẻ khác thì thà quẳng chúng đi. Đã có trường hợp cắt một phần chi thể bệnh hoạn có thể cứu sống toàn bộ cơ thể. Về mặt thiêng liêng, vấn đề này rất trọng yếu. Thà cụt tay, thọt cẳng, chột mắt mà được vào chốn trường sinh còn hơn là nguyên vẹn mà bị quẳng vào “hỏa ngục là nơi sâu bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (c. 43b; 45b; 47b-49).

Các lời nói này xem ra quá cứng cỏi nếu không muốn nói là tàn bạo! Ở đây người ta gợi lên số phận của kẻ tội lỗi bằng những hình ảnh về cái chết vĩnh cửu kèm theo các nhục hình gớm ghiếc (sâu bọ và lửa). Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn vấn đề này. Trước hết chúng ta hãy bỏ đi lối đọc theo nghĩa đen các hình ảnh được sử dụng. Không bao giờ Giáo Hội đọc thấy nơi trong Phúc Âm này lời kêu gọi hủy hoại thân thể. Đối với mỗi Kitô hữu, đây chính là lời mời gọi thúc bách họ tự thoát khỏi những gì xấu xa nơi bản thân để đảm bảo phần rỗi cho mình. Quả thế, điều này có liên quan đến sự thành công hay thất bại của cuộc sống loài người. Một bên là cuộc sống đời đời vô tận với Chúa Kitô Phục Sinh, còn một bên là “địa ngục”, từ này muốn nói lên điều gì? Đây là hình ảnh bắt nguồn từ thụ kiến bi đát về hỏa ngục xét như một tình trạng hủy diệt đớn đau những kẻ tội lỗi cứng lòng! “Địa ngục” ở đây là một thung lũng sỏi đá nằm ở mạn nam ngọn đồi của thành Giêrusalem. Vào thời Chúa Giêsu, kể từ các cuộc điều tra dân số, chốn hoang dã ấy được dùng làm chỗ xả rác công cộng của thành đô. Ở đây người ta có thể thấy hàng đống rác rưởi, thú vật hoặc cây cối bị dòi bọ đục

32.

khoét; thường xuyên người ta thiêu cả những xác người. Tóm lại, đối với những kẻ do Thầy với Chúa Giêsu, địa ngục gợi lên số phận thích đáng dành cho những kẻ khép lòng lại trước lời kêu gọi của Thiên Chúa. Thị kiến kinh khiếp này đã từng được tiên tri Isaia mô tả: “Trong khi bước ra (khỏi thành phố), người ta có thể trông thấy các thây người từng nổi dậy chống đối ta (Chúa phán). Dòi bọ rúc rỉa chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tắt. Mọi xác thịt sẽ nhờm tởm chúng (Is 66,24).

Quang cảnh được hình dung ở đây tác động mạnh đến các trí tưởng tượng, nhất là từ thời Dantê (thi sĩ nổi tiếng người Ý thể kỷ XIV) đối với nhiều người hỏa ngục và lửa thiêu kinh khiếp nơi đó từ một hình ảnh tượng trưng đơn sơ đã biến thành một thực tế không thể nào chịu nổi. Vì vậy cần phải tái lập lại chân lý. Dù cho lối dùng khoáng đại của nó, Kinh Thánh cũng chỉ muốn diễn đạt một ý tưởng đơn giản đó là Thiên Chúa công bình sẽ trừng phạt tất cả những kẻ hoàn toàn khép lòng lại trước Tình yêu Ngài. Họ sẽ không được hiệp thông với Chúa, bị xa cách Chúa Kitô và các thánh. Mặc dù được Kinh Thánh xác nhận, hỏa ngục vẫn còn là một thực tại mầu nhiệm, khó dung hòa được với hình ảnh một vị Thiên Chúa Tình yêu!

33.

10. Chú giải của Noel QuessonTrên con đường đi Xêdarê - Philípphê, nơi Phêrô đã tuyên xưng đức tin, xuyên qua xứ Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho đến Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một mình. Con đường của "Con Người" cũng là con đường của các môn đệ. Chính, chúng ta cũng đi trên con đường đó theo chân Đức Kitô:

Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách sống Tin Mừng cho đến cuộc vượt qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục sinh của mọi người. Trong trình thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn của Đức Giêsu đã giảng dạy trong nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác nhau. Phần lớn những lời giảng dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất: Đó là những đòi hỏi phải có khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là đi theo Người đến những nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn đệ, luân lý Kitô giáo không phải là một "luật lệ" được phép hay bị cấm đoán, mà là một sự tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.

Ông Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy: Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ”.Chính Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức Giêsu thương yêu (Ga 21,20). Trong số 12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều nhất, và là người thân cận nhất của Đức Giêsu.

Trên đường đi, đây là một sự kiện sống động, một “biến cố" nhỏ gây ra một phản ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức

34.

tin đích thực phải được sống động qua những tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên đường đi của các Ngài?

Gioan đã thấy một "người trừ quỷ" mà không thuộc nhóm của các ông. Tin Mừng ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài hôm trước, khi vắng Đức Giêsu (Mc 9,18).

Nhưng các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của Đức Giêsu đã lan rộng, nên người ta cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ mặt đến lượt mình cũng có thể tập trừ quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết rằng, người Do Thái và ngoại đạo đã trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày nay, nhờ pháp thuật rất phổ biến vào thời Đức Giêsu (Cv 8,18).

Dĩ nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ quỷ sẽ được đặt ra một cách khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù bên ngoài có vẻ trái ngược. Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn có "những người trừ quỷ”. Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng rất đông.

Thí dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh thường sự sống, khai thác những người yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng cách đối xử phân biệt chủng tộc, sự phân chia của cải không đồng đều, những đồng lương chết đói, mất cảm thức đích thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng. Đứng trước những "con quỷ" này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ, già, lớn, bé... tất cả đều phải "khử trừ" sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng cách làm việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một phong trào.

35.

Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.Những người đó không phải là Kitô hữu. Họ không thuộc nhóm chúng ta, phe phái của ta. Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là người Việt, không phải Công giáo, không phải là người sống đạo... hay bạn không thuộc nghiệp đoàn của tôi, tông phái của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là người bảo thủ, cấp tiến... Vậy thì tôi không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ làm bạn phải im tiếng, tôi sẽ ngăn cản không cho bạn hành động.

Quả thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ chia rẽ vẫn tồn tại trong Giáo Hội, cũng như đã có trong đầu óc các tông đồ. Thời đó, Nhóm Mười Hai cứ mải mê ghen tương tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi thứ địa vị.

Đức Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của Người. Người sẽ trở nên "kẻ sau rốt, làm đầy tớ mọi người". Người vừa khuyên các môn đệ phải sẵn sàng phục vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ được coi là thân cận nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản ứng muốn thống trị, muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng minh "Quyền lực của Đức Kitô". Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ, cũng đừng xét đoán ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.

Trình thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường, nhưng nội dung đề cập đến một trong những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân cứu rỗi của Đức Kitô chỉ có hiệu lực bên trong những biên giới "thấy được" của Giáo Hội hay sao?

36.

Trước câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời của Đức Giêsu sẽ ra sao?

Đức Giêsu bảo: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".Thưa không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy nhất nhận lãnh Thần Khí của Thiên Chúa:

“Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi qua, bất ngờ và tự do như gió" (Ga 3,8).

Từ thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến rộng rãi, và người ta không thể ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài "nhóm" (Ds 11,25-29). Và cả bên ngoài những kẻ "đang ở trong lều”. Và Môsê đã ước mong ân huệ của thần khí cần được ban cho tất cả. Oâng đã nói: "ôi ước gì Thiên Chúa có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những "người của ‘Thần Khí’ xuất hiện trên măït đất chúng con".

Không! Người ta không thể xiềng xích Thần Khí được. Thần Khí là tự do. Thần Khí không bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả. Thần Khí hành động ở bên ngoài những cấu trúc của chúng ta. “Người linh ứng cho cả những ngôn sứ ở bên ngoài" nhóm, bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu "các con đừng ngăn cản người ấy" đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là bảo đảm đức tin chân chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi người được rửa

37.

tội, và cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình của Giáo Hội.

Chúng ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức Giêsu, đối nghịch với óc bè phái và bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị trong chúng ta? Có phải Thần Khí của Đức Giêsu không?

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao cả quảng đại, thông sáng, bao la như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần Khí của Chúa... Thần Khí đó thổi từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh thần cục bộ của chúng con. Xin Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích thực, nghĩa là "những con người phổ quát", "nhưng con người biết thông cảm những khác biệt" như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con: "Chúng ta cần cổ vũ ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy hòa thuận với nhau, bằng sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở với những người anh em tuy chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta mở rộng tới những ai đang bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong truyền thống riêng của họ" (GS 9,2).

Các bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. "Các bạn đừng sợ! Hãy mở rộng biên giới của các bạn". Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên án những ai không thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta? Chúng ta có thưởng thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, nhũng điều tốt mà họ làm được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện không?

38.

Đừng dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu đốt thế gian (Lc 12,49).

Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.'Một chén nước’, không có gì đáng kể. Đó là biểu tượng cho một việc phục vụ nhỏ nhất mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một chén nước. Đó là “phàm tước" lạ thường của người môn đệ: "Người ấy thuộc về Đức Kitô". Người tín hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng hóa mình với người Kitô hữu nhỏ bé nhất.

Thánh Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ nói về ngày thẩm phán (Mt 25,31-45). "Những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Đó là sự lớn lao của mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết bao cơ hội?

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.Sau những lời khuyên luận lý tích cực ("cho một chén nước"), giờ đây là sự cảnh giác tiêu cực ("không được làm cớ cho kẻ khác sa ngã"). Nhưng thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm đến kẻ khác.

Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh mới của Đức Giêsu: Ngoài tinh thần rộng mở, chúng ta cũng gặp được một sức mạnh bên trong, và khả năng sử dụng mãnh lực đó

39.

của Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức Giêsu không phải là sự lãnh đạm đối với điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải khoan dung đối với điều thiện được thực hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người cũng lấy làm bất bình khi thấy người ta có thể lôi kéo một người khác vào sự ác.

Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi còn hơn. Thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt.Chỉ mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi thường này. Chỉ mình Người mới thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là nghiêm trọng và bi thảm đối với Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành mọi hy sinh. Chúng ta có thể chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thêá không? Dù là những kiểu nói vùng Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.

40.

11. Chú giải của Fiches Dominicales“Ở NHÀ”, VÀI LỜI NHẮN NHỦ

ĐỨC GIÊSU GỞI ĐẾN CỘNG ĐOÀN CÁC MÔN ĐỆ

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI1. Đi theo Con NgườiChúng ta vẫn "ở nhà" tức tại Caphácnaum, nơi đây mang một ý nghĩa tượng trưng, nghĩa là nơi Đức Giêsu dạy dỗ riêng cho các môn đệ. Đức Giêsu dừng chân ở đây trên đường lên Giêrusalem. Người sẽ chịu cuộc tử nạn mà trước đây Người loan báo hai lần tại thành này.

Đặt trong bối cảnh trên đường lên Giêrusalem, chúng ta sẽ rất dễ hiểu những lời Đức Giêsu. Trong "Tin Mừng theo thánh Maccô, B. Standaert nhận xét như sau: "Việc Maccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô thật đáng suy nghĩ. Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích dẫn luật lệ trong Kinh Thánh này nọ, ông không nhìn nhận nền tảng đời sống luân lý Kitô giáo nào khác ngoài việc noi gương bắt chước Đức Kitô. Những trình thuật lớn loan báo số phận của Con Người thật ra không phải là những lời khuyến khích, nhưng khởi đi từ thân phận Đức Kitô, ta có thể hiểu ra những việc làm cần thiết mà người Kitô hữu phải tuân giữ. Ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống thực hành này là quyết liệt, không khoan nhượng. Thập giá hiện diện không những trong việc đảo lộn thân phận, làm cho người lớn nhất trở nên kẻ phục vụ mọi người, mà còn trong khả năng dám chặt tay, chặt chân, móc mắt bỏ đi, nếu những chi thể này làm cớ sa ngã”. (Cerf, tr. 78-79)

41.

Những lời Chúa nói được Maccô thuật lại còn vượt ra ngoài phạm vi các môn đệ, để nhắm đến các cộng đoàn Kitô hữu. Điều này có thể làm cho óc suy luận kiểu Tây phương của ta kinh ngạc và lạc hướng. Điều quan trọng trong các những lời Đức Giêsu nói, không phải là những đề tài, mà là những từ đặt trong ngoặc kép, “nhân danh" Đức Giêsu, trong phần đầu đoạn Tin Mừng này, “kẻ bé mọn"và "làm cớ sa ngã" trong phần cuối.

2. Dẹp bỏ tinh thần bè phái.Giáo huấn đầu tiên của Đức Giêsu phát xuất từ phản ứng bè phái của Gioan, con ông Giêbêđê, có biệt danh là "con của sấm sét" (3,17). "Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy, mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Đức Giêsu không đồng ý, Người cảnh giác các môn đệ về nguy cơ muốn chiếm độc quyền về đức tin và Thánh Linh J. Hervieux cắt nghĩa: “Đức Giêsu không chấp thuận cho Hội Thánh của Người có "tinh thần kín cổng cao tường" "tinh thần pháo đài”. Lệnh của Chúa là phải mở rộng vòng tay đón tiếp hết thảy những ai không ló ra thù nghịch với mình. "Ai không chống lại chúng ta, ủng hộ chúng ta”. Chắc hẳn những lời này rất quan trọng đối với một Hội Thánh như cộng đoàn của Maccô, vì lú c đó cuộc bách hại thúc đẩy họ co cụm lại, sống kín cổng cao tường" (Lvangile de Marc", Centurion, trang 137-138).

Chúa còn đẩy ý tưởng đó đi xa hơn, nên nêu thí dụ "ly nước lã" Một cử chỉ nhỏ bé nhất được thi hành giúp các môn đệ Người "vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô" có giá trị trước mặt Chúa: "người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.

42.

3. Dám liều chọn lựa hy sinh.Giọng điệu còn trở nên nghiêm trọng hơn với một chuỗi dài câu được liên kết bằng ‘từ mấu chốt’: "làm cớ sa ngã”.

Trước hết, một lời cảnh cáo nghiêm khắc cho những người dựng lên chướng ngại vật, làm cho những “kẻ bé mọn" (tức là những tín hữu mà đức tin còn non yếu) bị vấp ngã. Ta còn nhờ thánh Phaolô đã cống hiến một phần lớn thư của Người bàn về nguy cơ làm cớ sa ngã. Khi giải thích cho những Kitô hữu đang hoang mang ở Côrintô rằng họ đã được giải phóng khỏi những luật lệ Do thái giáo, thánh tông đồ liền dặn thêm: "Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho những người yếu đuối sa ngã... Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc" (1 Cor 8, 9-12).

Hôm nay từ miệng Đức Giêsu, chúng ta cũng đón nhận giáo huấn đó. Vào lúc, Đấng Mêsia-Tôi Tớ, đi lên Giêrusalem để trao nộp mạng sống vì yêu thương, Người long trọng tuyên bố: Trong cộng đoàn các môn đệ, phải hết sức tôn trọng người nhỏ bé nhất trong số các anh em của Người.

Kế đó là ba lời cảnh giác đối với ba chi thể của ta, vì chúng có thể lôi kéo người môn đệ sa ngã: "Nếu tay anh... Nếu chân anh... Nếu mắt anh...”

M. Quesnel tự hỏi: "Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp, bạo lực, ước muốn xấu" (Mc 7, 21-22).

43.

Ngoài ra, tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe.

Thật ra cách nói khoa trương cũng không phải là không có trong những câu có hình thức mâu thuẫn này. Hội Thánh không bao giờ giải thích theo nghĩa đen; ngôn ngữ thì đầy hình ảnh và có tác dụng là nhờ những câu đối lập nhau.Géhenne là thung lũng sâu khó xuống được, nằm ở phía dưới thành Giêrusalem, là nơi người ta đốt những rác rưởi, đồ phế thải, nên ở đó luôn xông lên mùi nồng nặc kinh khủng, như vậy, Géhenne đối lập với sự sống hay Nước Thiên Chúa. Mọi người cần tránh xa nó, vì đó là nơi tiêu huỷ tận diệt. Trái lại, sự sống và Nước Thiên Chúa là một thách thức đáng cho ta tận dụng mọi nỗ lực để đạt tới. Tất cả những gì làm ta tách xa sự sống và Nước Thiên Chúa đều xấu xa. Sự sống và Nước Thiên Chúa ấy đáng cho ta quyết tâm lựa chọn, dù có phải thiệt mất một phần thân thể. (Comment lire un évanglie Marc, Seuil, trang 170).

BÀI ĐỌC THÊM1. Rừng cấmMọi câu lạc bộ ưu tuyển, dòng tộc, giáo phái hoặc ghettô, dù chúng thuộc dòng tu hay triều, thường gây ra và nuôi dưỡng những cơn ganh tị. Mọi cộng đoàn hoặc nhóm khép kín, co cụm, đều ra sức bám víu vào những đặc quyền, đặc lợi đã có.

Sách Dân số cung cấp cho ta một thí dụ điển hình. Khi Giosuê ganh tị, bực tức thấy có hai người nói tiên tri, mặc

44.

dầu họ không được uỷ quyền, cũng không được "thụ phong". Họ là những tay săn trộm trong rừng cấm.

Đây cũng là một cơn ghen thực sự mà Gioan, đại diện cho Nhóm Mười Hai, mắc phải. Hãnh diện vì thuộc về nhóm tông đồ tuyển chọn và được quyền xua trừ các thần dữ nhân danh Giêsu, các ông thấy đặc quyền của mình bị đe dọa bởi ‘một người không đi theo Đức Giêsu mà làm được các phép lạ’. Các ông giận dữ, chống đối, tố cáo, đòi lên án. Khốn cho tên cạnh tranh bất lương!

Phản ứng và câu trả lời của Môsê cũng như của Đức Glêsu, tuy rất vắn gọn, nhưng mang cùng một ý nghĩa và một giáo huấn trong sáng có thể đưa đến những kết quả khôn lường. Các anh la lối tức giận vì thấy một điều thiện, một điều tốt được thực hiện bởi một người không công khai, chính thức thuộc về nhóm "ưu tuyển”, hoặc thuộc về cộng đoàn của Đức Kitô sao? Trái lại, nào các anh không nên vui mừng vì thấy Thần Khí Chúa tỏ mình, và thấy thần dữ bị xua trừ sao? Các anh lấy quyền gì để hạn chế Thiên Chúa can thiệp; tự mình đặt ra những biên giới, những điều kiện bắt Thiên Chúa phải tuân theo? Các anh nghĩ rằng Thiên Chúa của Aùpraham, của Isaac, của Giacóp và của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, là tư hữu độc quyền của một dân tộc, một Giáo Hội, một đường lối tu đức, hoặc một đường lối mục vụ sao?

Trong lúc họp nhau cử hành Thánh Thể, ta ý tứ đừng tạo ra một "nhóm người sạch”, và hãy áp dụng cho ta lời Thánh Vịnh: sai có thể nhận ra những lầm lỗi của mình? Lạy Chúa, xin thanh tẩy con khỏi những tội con không hay biết. Xin gìn giữ tôi tớ Người khỏi tính kiêu căng: xin cho nó đừng bao giờ chiếm giữ lòng con”.

45.

2. Cạm bẫy của ngôn từ "xin" và "cho"(Points de repère en pastorale sacramentelle", Document - Episcopat, số 10-11, juin 94, introduction, trang 2 -3).

Chúng ta thường bị mắc kẹt bởi cách dùng ngôn từ: cho và xin. Ta tự nghĩ mình, và chỉ có mình, là những người cho, vì mình có các bí tích, như thể chúng ta tạo ra và phân phát các ơn lành do bí tích ban. Nhưng phải nhìn nhận rằng cả chúng ta cũng chỉ là những người xin khi lãnh nhân hoặc ban các bí tích. Vì lý do thần học, có một điều ta không dám nêu lên trong lãnh vực mục vụ bí tích, đó là Chúa Thánh Linh đã hoạt động trong tâm hồn con người trước chúng ta, và rằng Nước Thiên Chúa luôn vượt ra ngoài ranh giới của Giáo Hội hữu hình. Nhờ hoạt động của mình, Thánh Linh thực hiện tác vụ ngôn sứ nơi những người nhận lãnh, để mạc khải cho ta công trình Thiên Chúa thực hiện nơi họ.

(..) Nói cách khác, chúng ta cần học hỏi nơi những người đến với ta hoặc ta đến gặp họ: đó là học để biết nhìn họ với con mắt khác, để tìm ra một điểm gặp gỡ khác, chứ không chỉ qua các bí tích. Phải chấp nhận để Thánh Linh được tự do nói với ta qua họ, về Thiên Chúa và về cách khám phá ra Người.

Vì những lý do này, mục vụ bí tích không chỉ là mục vụ đức tin hoặc khai mở đức tin. Nó còn là mục vụ tình thương vô vị lợi, biết đón tiếp và biết lắng nghe. Chúng ta có thể cải hoá bản thân mình nhờ điều mà những người này nói với ta về cuộc sống của họ, hoặc nhờ những câu họ hỏi về Thiên Chúa, về Hội Thánh, nhất là khi lòng họ bị tổn thương, oán giận hoặc những ước muốn mơ hồ.

46.

Đón tiếp luôn đi đôi với cố gắng để nhận định những mong muốn thầm kín thường được che giấu bởi một đòi hỏi trực tiếp.

3. Tự do của Thiên Chúa(Các Giám mục Pháp, trong "Lettre aux catholiques de France", Cerf, trang 76-77).

Kinh nghiệm về việc Phúc âm hoá ngày nay giúp ta có nhận xét sơ khởi này: ngày nay trong xã hội chúng ta, có một số nơi đang mong đợi điều gì đó từ Hội Thánh, và họ có thể bày sự mong đợi đó khi tiếp xúc với Hội Thánh bằng cách này hay cách khác: hoặc đến xin lãnh bí tích rửa tội, hôn phối; hoặc vào lúc, những biến cố vui mừng hay thử thách xảy ra trong đời họ; hoặc do tình cờ họ gặp một cộng đoàn Kitô hữu, một nhóm nào hoặc cũng có thể họ gặp một phong trào có tổ chức, giới thiệu cho họ con đường khai tâm dẫn tới Tin Mừng, tuỳ theo hoàn cảnh sinh sống của họ.

Ta không công nhận rằng: những gặp gỡ như vậy thường chất vấn ta và đẩy lùi kiểu lô-gíc truyền giáo đã in sâu trong tâm trí ta đó sao? Bởi vì theo lô-gíc thương mại, hoặc lô-gíc chức năng, chúng ta tưởng rằng muốn truyền giáo, Giáo hội cần phải giữ một thứ luật cung cầu, nghĩa là Giáo Hội ở phía người cung, còn những kẻ khác, những người mong đợi, ở phía người cầu.

Trong hoàn cảnh thực tế cũng như trong kinh nghiệm thực tiễn mà Giáo Hội có qua sự gặp gở những người này, điều gì đã thực sự xảy ra và con đường dẫn tới đức tin đã diễn tiến như thế nào?

47.

Không được phép coi những người mong đợi này như những khách hàng của Giáo Hội luôn sẵn sàng tiêu thụ điều mà chúng ta bày ra, theo kiểu lô-gíc thương mại. Trước hết, ta nên nhở, họ là những người nam hoặc nữ, do lòng mong đợi và sự tìm kiếm, họ làm chứng cho sự tự do của Thiên Chúa và công việc của Chúa Thánh Linh, Đấng có thể khơi dậy nơi mọi người ước muốn vượt lên trên những gì họ đang sống. Bằng cách thế, đôi khi gây sửng sốt, họ nhắc nhở ta rằng địa chỉ hàng đầu cho Phúc âm hoá chính là cuộc sống con người, rằng sẽ không có Phúc âm hoá nếu không có đối mặt thực sự giữa Tin Mừng Đức Kitô, mạc khải của Thiên Chúa và sự mong đọi thẳm sâu nơi mỗi người.

Nhưng đối lại, khi hiểu được mong đợi của con người và đáp lại lòng mong đợi ấy, Giáo Hội có trách nhiệm phải bày tỏ cho thấy, Giáo Hội không chỉ muốn đáp lại những mong đợi tức thời của họ, mà còn có sứ mạng đã lãnh nhận từ Đức Giêsu, sứ mạng đó là trình bày và mở đường dẫn họ đến với Người.

Trong nhiều cộng đoàn và các nhóm khác nhau, Giáo Hội được mời gọi không những phải đón tiếp rộng rãi và vô vị lợi rnà còn phải tỉnh thức tích cực, để nhận ra những dấu chỉ bất ngờ của Chúa qua vô số những đòi hỏi của con người thời nay, đồng thời cũng hiểu rằng những đòi hỏi này kêu gọi có một cuộc khai tâm kéo dài dẫn đến mầu nhiệm Đức Kitô, Lời Người, các bí tích và sự sống mới mà Người là nguồn mạch”.

48.

12. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà LạtCHÚA GIÊSU DẠY DỖ CÁC MÔN ĐỒ

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG1. Vấn đề mà Tin Mừng nói hôm nay (cc.38-40) vẫn còn đang nóng bỏng. Trong Giáo Hội, cần có một nhóm nào đó xem mình như có độc quyền sử dụng Tin Mừng để rồi lên án mọi việc làm của các Kitô hữu khác không. Chắc chắn một nhóm như thế không cần phải có. Như trong thực tế, đây đó vẫn có những nhóm quá khích tự xem mình như những nhà chú giải Tin Mừng đúng với ý Chúa mà thôi. Nhóm người này không thể dùng chiêu bài được ở gần Chúa Giêsu như thánh Gioan và các sứ đồ thuở xưa để mà biện hộ. Chung chung họ chỉ lập luận dựa trên cát nhìn một chiều của họ về Giáo Hội, khi thì (dựa trên thái độ tiêu cực đối với mọi trào lưu biến hoá, khi thì trên cách thế diễn giảng Tin Mừng theo chiều hướng chính trị. Tất cả đều có điểm chung là không muốn đi vào chiều sâu của Giáo Hội. Thần ác đã xui khiến các loại nhóm này “dứt phép thông công" lẫn nhau, đến độ một phần tử quá khích của một "trào lưu” mệnh danh là mới mẻ không muốn cùng chung bàn tiệc thánh với một phần tử của trào lưu khác.

2. Thời đại chúng ta, vì phải chịu nhiều ảnh hường tệ hại khoa thần học có khi đã bị sa lầy trong những cuộc tranh luận có tính cách ý thức hệ hoặc trong những cuộc tranh chấp chính trị; do đó, người Kitô hữu cần phải khôn ngoan nhận ra thế nào là trung thành đích thực với Tin mừng, thế nào là không. Thực tế, vẫn có nhiều cách trung thành đích thực đã được các vị trọng trách trong Giáo Hội đảm bảo, do đó họ cũng cần phải chấp nhận có sự khác biệt trong cách

49.

trung thành. Một trong nhũng tiêu chuẩn căn bản giúp ta nhận ra tính cách đích thực, đó là dấu cổ võ sự hiệp thông.

3. Sau khi công bố phẩm cách cao quí của những kẻ bé mọn (Mc 9,37), giờ đây Chúa Giêsu mặc khải phẩm cách cao quí của môn đồ. Người môn đồ nhỏ bé nhất vẫn tượng trưng Chúa Kitô (xem cuộc Chung thẩm trong Mt). Kitô hữu là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa trần thế. Đây là một danh dự và một trách nhiệm nặng nề. Có bao giờ ta ý thức như thế để sống xứng đáng không? "Nếu các Kitô hữu sống đạo thật thì dân Aán chúng tôi đã theo Chúa Kitô cả rồi" (lời thánh Gandhi).

4. Hãy nghĩ đến những người mà ta có thể gây cớ vấp phạm bằng những thay đổi hiện thời trong Giáo Hội, những thay đổi quá táo bạo, không tôn trọng các truyền thống cũng như hãy nghĩ đến bao người thất vọng, bị cám dỗ rời bỏ Hội Thánh hay cảm thấy không muốn vào vì sự thụ động của ta, vì thái độ của nhiều Kitô hữu không chịu cải cách, đổi mới.

5. Lời Chúa bảo phải tróc nã, tiêu diệt sụ ác tận gốc của nó, tiêu diệt dịp tội trong chúng ta và ngoài chúng ta. Đời sống Kitô hữu không thể hiện bằng sự cắt xén hủy bỏ, nhưng bằng sự lớn lên. Để có thể lớn lên, tăng trưởng, mang hoa trái, phải cắt tỉa, gột rửa, từ bỏ... vì danh Chúa Giêsu, vì vương quốc Thiên Chúa. Xem của 15,1-2: Nhánh nào không sinh quả thì Thiên Chúa chặt vứt bỏ: còn nhánh nào sinh quả thì Ngài tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn.

50.

13. Dịp tộiQua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về dịp tội.

Câu hỏi thứ nhất: Dịp tội là gì?Tôi xin thưa, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy làm cho chúng ta dễ dàng vấp ngã.

Câu hỏi thứ hai: Chúng ta phải có thái độ nào đối với dịp tội? Trước hết bản thân chúng ta không được trở thành dịp tội cho người khác sai lỗi. Hay nói một cách cụ thể hơn, chúng ta không được phép làm gương mù gương xấu cho người khác.

Rất nhiều lần chúng ta đã nói:- Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình, trái lại,

chúng ta sống là sống với người khác.

Thế nhưng, trong cuộc sống chung này, chúng ta lại ảnh hưởng đến nhau rất nhiều. Một lời nói tốt, hay một việc làm tốt sẽ để lại một ảnh hưởng tốt. Trái lại, một lời nói xấu hay một việc làm xấu, sẽ tạo nên một hậu quả xấu nơi người chung quanh. Chính vì thế mà tục ngữ đã bảo:

- Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.Hay như danh ngôn Tây phương cũng nói:

- Anh hãy chỉ cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ cho anh hay anh là người như thế nào.

51.

Chính vì thế, chúng ta không được làm gương mù gương xấu, trở thành dịp tội, trở thành cái cớ cho người khác vấp phạm.Chúa Giêsu đã có một thái độ nghiêm khắc đối với kẻ làm gương mù gương xấu. Ngài nói:

- Nếu ai làm cho một trong những kẻ bé mọn này phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn.

Đang khi mọi người cố gắng rao giảng Tin Mừng, góp phần làm cho Giáo hội được phát triển, thì gương mù gương xấu sẽ hủy hoại Giáo hội và làm cho Giáo hội bị giảm sút.

Ngoài ra, bản thân chúng ta còn phải xa tránh những dịp tội. Như trên chúng ta đã nói dịp tội là những hoàn cảnh thúc đẩy khiến chúng ta dễ dàng sai lỗi. Bởi đó, tục ngữ đã dạy:

- Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, chơi dao có ngày đứt tay.Hay như một nhà đạo đức đã xác quyết:

- Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.

Tuy nhiên, có điều chúng ta cần phải lưu ý: dịp tội thay đổi tùy theo mức độ hiểu biết và trưởng thành của mỗi người. Cùng một cuốn sách, người này đọc thì thấy hay và bổ ích, còn người khác thì bị cám dỗ nặng nề về đức tin hay đức trong sạch. Vì thế, không phải hễ thấy người khác làm việc nọ việc kia là chúng ta bắt chước mà làm theo. Trái lại, cần phải suy nghĩ, cân nhắc, bàn hỏi và lắng nghe tiếng nói của lương tâm để dễ dàng nhận ra dịp tội, bởi vì trước mỗi hoàn

52.

cảnh, trước mỗi công việc, lương tâm thường lên tiếng báo động và chỉ cho chúng ta hay đâu là cái phải làm và đâu là cái phải tránh.Tóm lại để bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn, chúng ta hãy can đảm xa tránh dịp tội, như lời Chúa đã phán dạy:

- Nếu mắt con làm con phạm tội, thì hãy móc nó đi, vì thà rằng chột một mắt mà được vào nước trời, còn hơn là có đủ cả hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục đời đời.

14. Nhân danhTrong trận thế chiến II, ba vị tuyên úy Công giáo, Tin lành và Do thái trở thành những người bạn thân của nhau. Họ thề hứa với nhau nếu một người trong nhóm bị giết chết, thì những người còn sống sót phải báo tin cho gia đình của người qua đời và lo việc chôn cất.

Thế rồi, vị tuyên úy Do thái bị giết chết. Hai người còn lại không thể tìm thấy một Rabbi hay một hội đường Do thái nào. Cuối cùng, trong một làng ở nước Pháp, họ tìm thấy một nhà thờ Công giáo xinh đẹp với một nghĩa trang được chăm sóc cẩn thận. Vị tuyên úy Công giáo đề nghị: “Chúng ta hãy đi gặp vị linh mục chánh xứ, may ra ông ấy có thể giúp chúng ta”.

Cha xứ muốn giúp họ. Nhưng ngài lại không bảo đảm chắc chắn được nên mới nói: “Ngày mai, xin các ông trở lại đây. Tôi sẽ tìm kiếm trong các sách vở để xem có luật nào cho phép chôn một người không phải Kitô hữu trong một nghĩa trang Công giáo hay không “.

53.

Cha xứ đã tìm kiếm suốt đêm đó, nhưng không có kết quả. Ngài bảo họ: “Hãy chôn ông ấy ngay sát hàng rào của nghĩa trang. Chính tôi sẽ chăm sóc ngôi mộ của ông ấy”.Khi chiến tranh kết thúc, họ quay lại để viếng ngôi mộ của người bạn. Nhưng họ không thấy dấu vết gì ở sát bên hàng rào của nghĩa trang. Họ tìm cha xứ và yêu cầu ông giải thích. Cha xứ mỉm cười và nói: “Tôi thấy ngôi mộ nằm bên ngoài nghĩa trang trông cô độc quá. Do đó, tôi tiếp tục tìm kiếm”. Họ liền hỏi: “Cha đã tìm thấy một luật cho phép dời ngôi mộ vào bên trong hàng rào?” Cha xứ trả lời: “Tôi không thấy một luật nào cho phép như thế. Nhưng không có luật nào cấm tôi dời hàng rào ra bên ngoài”.

Thái độ loại trừ đang phổ biến khắp nơi. Không chỉ trong lãnh vực tôn giáo, nhưng còn trong các tổ chức, các hiệp hội và mọi nơi khác trong xã hội. Ngay cả trong các gia đình nữa, khi cha mẹ thương đứa con này hơn đứa khác.

Chúa Giêsu không có quan niệm loại trừ. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Không có độc quyền trong sự thánh thiện. Chúa Giêsu Kitô không chỉ thuộc về những người Công giáo, Tin lành, Chính thống… và những Kitô hữu khác. Người thuộc về tất cả những ai có thiện chí, có thiện tâm. Tất cả mọi người chúng ta đều thuộc về Chúa Giêsu Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, con tin, nhưng xin trợ giúp đức tin yếu kém của con.

54.

55.

15. Gương mùBài Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa Giêsu được thánh Marcô ráp lại với nhau: Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị, ngay cả với người ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của mỗi người môn đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ cho người khác vấp ngã, dù là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho mình vấp ngã, vì giá trị tuyệt đối của nước trời. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai điều sau thôi, tức là gương mù gương xấu.

Chúng ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong cõi lòng, trong tư tưởng, trong lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào thì hành động ắt sẽ xảy ra như vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng tốt đến hành động tốt có vẻ hơi xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu thì rất gần. Những hành động xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo bao nhiêu thứ tội khác và kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: “Mù dắt mù cả hai ngã xuống hố”. Một ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn đèn khác cần được thắp sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một ngọn đèn tắt đi là không những tối cho mình mà nhiều người khác dễ vấp ngã.

Gương mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Tai hại như vậy nên Chúa Giêsu gắt gao lên án hết mọi kẻ làm gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt gao vì họ là kẻ giết người vô tội, tiêu hủy đức tin. Làm tăng thêm số người tội lỗi và khô khan, nói chung là làm hại

56.

các linh hồn. KInh Thánh cho biết bà Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu cho dân, số người bắt chước đời sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở nên gấp mười lần số người các ngôn sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc vất vả. Tai hại và nguy hiểm như vậy nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc thớt đá cối xay vào cổ và quăng xuống biển, vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người ta phạm và những tội chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết thêm một chút về câu nói trên đây của Chúa Giêsu. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt cối xay bột do các bà làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà ngũ cốc. Ở Palestine có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc thớt cối đá ném xuống biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rôma mang vào Do Thái, và rất kính sợ vì chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây gương mù dịp tội thì đáng lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần gian mà là trong hỏa ngục của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã là tội rồi, lại còn lôi cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn là tội giết người, vì giết người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm mất sự sống vĩnh cửu. Và chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều người thấy mới là gương mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.

Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hết sức tránh dịp tội, Chúa bảo phải “móc mắt, chặt tay, chặt chân”, không phải là móc mắt, chặt tay, chặt chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay, mất chân với việc cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa chọn một trong hai điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu tạm thời trên đời đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là

57.

cứ khư khư giữ lấy cái quý giá tạm bợ kia để rồi lãnh án phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là Chúa muốn chúng ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu hình ảnh nào làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi, cũng như không thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy ra. Cũng tương tự như thế cho những ai trong dịp tội, đừng có liều mình. Các thánh nhân đã kinh nghiệm dạy: “thà phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “đào vi thượng sách”. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao đây? Cuộc đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê, nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần gian cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm luân mà giữ mình cẩn thận.

Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.

58.

16. Suy niệm của JKNCÁM DỖ CỦA ÓC BÈ PHÁI

VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG TÔN GIÁOCâu hỏi gợi ý:

1. Khi thấy có người ngoài nhóm mình nhân danh Thầy mình để trừ quỉ, các tông đồ khó chịu và muốn ngăn cản. Thái độ ấy có đúng không? Nó nói lên não trạng gì? Não trạng ấy có hiện hữu trong các Kitô hữu hiện nay không?

2. Các giáo phái Kitô giáo hiện nay có đoàn kết, yêu thương nhau không? Đức Giêsu sẽ vui hay buồn khi thấy các giáo phái tuy đều nhận mình là Chúa là Thầy nhưng lại nhân danh đức tin để nói xấu, kết án và loại trừ nhau?

3. Đức tin có thể gây chia rẽ, nhưng đức ái chỉ tạo nên đoàn kết. Giữa hai nhân đức quan trọng ấy, đức nào mới thật sự là điều kiện để vào Nước Trời?

CHIA SẺ1. Khuynh hướng bè phái và muốn độc quyền của các tông đồMột trong những khuynh hướng rất thông thường nơi con người, đó là óc bè phái và ham muốn độc quyền. Khuynh hướng này được biểu lộ nơi các môn đệ Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Trên con đường loan báo Tin Mừng, các môn đệ Ngài thấy có những người không thuộc nhóm của mình lại nhân danh Ngài mà làm được những phép lạ như trừ quỉ, chữa bệnh… Theo quan niệm của các ông, chỉ những ai ở trong nhóm 12 như mình mới có quyền nhân danh Thầy mình để làm phép lạ, trừ quỉ, chữa bệnh… Nếu

59.

có ai khác làm điều ấy được, lập tức các ông nhận thấy độc quyền của mình bị xâm phạm. Có lẽ các ông cảm thấy bực bội vì điều ấy nên đã cố ra tay ngăn cản họ. Đức Giêsu đã tỏ ra không tán thành khuynh hướng bè phái muốn độc quyền ấy của các ông.

2. Cám dỗ mang tính bè phái và độc quyền nơi người Kitô hữuTrong đời sống Kitô hữu, nhiều khi chính chúng ta cũng bị cám dỗ bởi não trạng bè phái và ham muốn độc quyền như các môn đệ Đức Giêsu. Chẳng hạn những người cùng tin vào Đức Giêsu và cùng nhận Ngài là Cứu Chúa, theo thời gian, bị phân thành nhiều giáo phái khác nhau. Việc bị phân hóa như thế là một việc hết sức tự nhiên nếu không muốn nói là tất yếu, vì tất cả mọi tôn giáo, mọi trường phái tư tưởng, nghệ thuật, v. v… đều bị phân hóa theo thời gian theo định luật đa dạng hóa của tự nhiên. Theo tôi, nếu không bị phân hóa như thế thì đó mới chính là điều lạ thường. Đương nhiên, giáo phái nào cũng tự cho mình là đúng đắn nhất, là gần với chân lý nhất. Tiếp xúc với các tín đồ của nhiều giáo phái khác nhau, tôi không hề thấy một giáo phái nào lại cho rằng có một giáo phái khác đúng hơn mình. Điều này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên hay bất mãn chút nào!

Dù khác nhau - chủ yếu là trong tiểu tiết - các giáo phái vẫn hết sức giống nhau trong đại thể. Giáo phái nào cũng đều tin và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Giáo phái nào cũng chủ trương phải sẵn sàng dấn thân theo Ngài với tất cả tình yêu, lòng nhiệt thành của mình. Giáo phái nào cũng đều tuyên xưng: «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng

60.

bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9). Giáo phái nào cũng chủ trương: «Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa thì sẽ được cứu thoát» (Rm 10,13).

3. Thật là một gương xấu vĩ đạiNhưng thật là một điều trớ trêu và là một gương xấu vĩ đại trước những người ngoài Kitô giáo, khi mà:

- một đằng Đức Giêsu - Đấng mà mọi giáo phái Kitô giáo đều tôn thờ, đều nhận là Chúa, là Thày - đã tuyên bố: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35).

- đằng khác, các giáo phái Kitô giáo lại coi nhau như là ngoại đạo! Các giáo phái nói xấu lẫn nhau, mạt sát lẫn nhau, kết án lẫn nhau, một vài trường hợp khủng bố lẫn nhau! Nhiều giáo phái Kitô giáo phủ nhận khả năng được cứu rỗi của những người thuộc giáo phái khác, cho dù tất cả đều tin và tuyên xưng những điều căn bản y hệt như nhau! Dường như giáo phái nào cũng muốn hạn chế hoặc chỉ dành riêng sự cứu rỗi cho những ai theo giáo phái của mình! Đó là điều tôi lấy làm lạ, làm ngạc nhiên hết sức, và không thể chấp nhận được!

Đây quả là một gương xấu vĩ đại, một điều mỉa mai cho Đức Giêsu và cho tất cả các giáo phái Kitô giáo, vì gương xấu này là một phản chứng nặng nề đối với những người ngoài Kitô giáo, khiến họ không thể chấp nhận được một tôn giáo như thế! Ước gì các giáo phái Kitô giáo đều đọc và suy nghĩ câu Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: «Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn».

61.

4. Coi chừng chính kẻ kết án lại là kẻ độc ác, thiếu tình thươngKhi nghe một người Kitô hữu thuộc một giáo phái nào đó quả quyết chắc chắn rằng những Kitô hữu trong những giáo phái khác với họ đều không được cứu rỗi, thì tôi hỏi người ấy: «Vậy anh có muốn điều anh quả quyết như thế là đúng không?» Nếu anh ta trả lời rằng muốn, thì tôi nói: «Vậy thì anh quả là độc ác! Một đằng Thiên Chúa muốn tất cả mọi người đều được cứu rỗi (x.1Tm 2,4), Còn anh lại muốn chỉ những ai trong giáo phái của anh mới được cứu rỗi. Anh sẵn sàng chấp nhận những người khác giáo phái của anh không được cứu rỗi, tức sa hỏa ngục. Vậy thì anh mới chính là người đáng sa hỏa ngục đầu tiên, vì nơi anh không có tình thương! Vì tình thương mới là điều quan trọng nhất phải có để vào thiên đàng, để hợp nhất với Đấng mà bản chất là tình thương».

Nếu anh ta mong rằng điều anh ta nghĩ là sai, thì tôi bảo: «Như vậy là anh rất nhân từ, có tình thương! Tốt lắm! Phần tôi, tôi chắc chắn rằng Thiên Chúa còn nhân từ và nhiều tình thương hơn anh gấp tỷ lần. Ngài có đủ quyền năng và đủ cách để giải quyết cho những Kitô hữu khác giáo phái với anh được cứu rỗi. Vì thế, anh hãy phó mặc số phận của những người theo giáo phái khác trong tay Chúa và hãy an tâm! Anh hãy lo cho chính bản thân anh thì tốt hơn, vì nếu anh không có tình yêu, anh không thể vào thiên đàng được đâu! Điều Chúa muốn nơi anh chính là anh hãy coi các Kitô hữu khác giáo phái với anh là đồng đạo, và coi cả những người khác tôn giáo với anh nữa là anh em. Anh hãy yêu thương họ và hãy mong ước những điều tốt lành nhất cho họ!»

62.

5. Điều quan trọng nhất để vào được thiên đàng là tình yêuĐiều quan trọng để vào được thiên đàng là đức tin. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là tình yêu. Thánh Phaolô viết: «Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến» (1Cr 13,13). Khi lên thiên đàng, đức tin, đức cậy không còn vì không cần thiết nữa, chỉ riêng «đức mến không bao giờ mất được» (1Cr 13,8). Thiên đàng được định nghĩa là nơi hạnh phúc, trong đó mọi người hoàn toàn đối xử với nhau bằng tình thương. Nếu có ai còn ích kỷ hay thiếu tình thương mà lọt vào đó ắt người đó sẽ làm ô nhiễm ngay bầu khí hạnh phúc của thiên đàng. Chính vì thế, theo tinh thần đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46, khi phán xét, Thiên Chúa chỉ phán xét về cách cư xử của ta có tình thương hay không mà thôi. Cứ nhìn vào đời sống thực tế thì biết, chúng ta dễ hạnh phúc ở bên những người biết yêu thương hơn là bên những người có niềm tin. Thực ra, niềm tin đích thực tất yếu phải dẫn tới tình yêu. Thế giới này đã từng điêu đứng khổ sở vì những cuộc chiến tranh tôn giáo, thậm chí ngày nay vẫn còn. Những cuộc chiến tranh ấy nổ ra không phải do con người thiếu đức tin cho bằng thiếu tình thương. Có thể nói: đức tin cộng với lòng ích kỷ (tức thiếu tình thương) sẽ thành óc bè phái. Óc bè phái chính là nguyên nhân của chiến tranh. Vì thế, đức tin phải đi đôi với đức mến hay dẫn tới đức mến mới là đức tin đích thật. Niềm tin không dẫn tới tình yêu, thật ra, chỉ là niềm tin giả tạo, tương tự như «đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Như vậy, một Kitô hữu có đầu óc bè phái, muốn độc quyền được cứu rỗi, nghĩa là muốn loại trừ những Kitô hữu khác giáo phái mình, không muốn họ hưởng hạnh phúc đời đời, thì Kitô hữu ấy rõ ràng là thiếu tình thương. Mà thiếu tình thương thì làm sao vào thiên đàng được?

63.

Cầu nguyệnLạy Cha, xin cho con một đức tin đích thực nơi Cha và nơi Đức Giêsu. Đức tin đích thực tự bản chất phải bao hàm tình yêu ở bên trong. Không bao hàm tình yêu, đức tin đó chỉ là đức tin giả tạo, là nguồn phát sinh óc bè phái, óc độc quyền, cũng là nguồn phát sinh nên bao cuộc chiến tranh tôn giáo trên thế giới. Xin ban cho con tình yêu đối với mọi người chung quanh con, đặc biệt đối với tất cả những ai tin theo Đức Giêsu, như dấu chỉ đặc trưng cho người môn đệ đích thực của Ngài.

17. Ghen tứcQua phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta ghi nhận hai nhân vật, đó là Giôsuê và Gioan. Cả hai nhân vật này đều có chung một thái độ, đáng cho chúng ta suy nghĩ, đó là lòng ghen tức.

Nhân vật thứ nhất là Giôsuê. Ông đã được Maisen tuyển chọn, đặt đứng đầu quân đội, để dẫn đưa dân Do Thái băng qua sa mạc cát nóng, cũng như vượt qua sông Giócđan, tiến vào miền đất hứa, chiếm lại phần lãnh thổ của cha ông ngày trước. Thế nhưng, Giôsuê đã ghen tức vì hai ông Eđát và Mêđát được ơn nói tiên tri. Bởi đó, Giôsuê đã xin Maisen ngăn cản, nhưng Maisen đã không làm theo lời Giôsuê nài xin.yêu cầu.

Nhân vật thứ hai là Gioan. Ông là vị tông đồ trẻ tuổi và được Chúa Giêsu yêu mến. Thế nhưng, khi nhìn thấy những người khác nhân danh Chúa Giêsu, Thày mình, mà trừ quỉ, có lẽ Gioan cũng đã có một chút ghen tức và đã ngăn cấm

64.

họ, hầu bản thân mình và phe nhóm của mình được độc quyền. Và như chúng ta đã thấy: Chúa Giêsu đã không chấp nhân quan niệm ấy

Từ thái độ của Giôsuê và của Gioan, chúng ta chúng ta có thể rút ra một định nghĩa: ghen tức là thái độ buồn sầu khi người khác được may mắn và vui mừng khi họ gặp phải rủi ro hay tai ương hoạn nạn. Nếu xét mình, chúng ta sẽ thấy đó chính là phản ứng thường tình của mỗi người chúng ta. Một người bạn thành công, chúng ta cảm thấy bực bội, rồi từ đó chúng ta đi nói hành nói xấu người bạn ấy. Thôi thì đủ mọi chuyện, thượng vàng hạ cám. Chúng ta ghen tức, nhưng chúng ta đâu có ngờ tới những hậu quả tai hại của nó.

Thực vậy, người có tính ghen tức không bao giờ được hạnh phúc cả. Tôm hồn luôn buồn bực vì thua kém bè bạn vì những sự không đâu. Người bạn có bộ quần áo mới cũng làm cho chúng ta buồn. Người bạn được thiên hạ khen cũng làm cho chúng ta bực. Và nhiều khi thái độ ghen tức của chúng ta sẽ trở thành đề tài cho người khác chê cười. Chẳng hạn có hai ông mù đi ăn xin. Ông này nghe người ta bảo ông kia hát hay thì bực bội lắm. Vào một buổi sáng, ông này nghe thấy tiếng hát của ông kia, liền mon men lại gần rồi cũng gân cổ lên để mà hát. Ông nào cũng hát thật to để cho người đi đường biết rằng mình hát hay. Thế nhưng, ai đi qua cũng đều lắc đầu ngao ngán và nói: rõ thật đồ điên.

Thái độ ghen tức còn có thể dẫn đến những tội lỗi nặng nề khác nữa, chẳng hạn như nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, thậm chí đến cả tội giết người. Vì thế, ghen tức đã được liệt

65.

vào trong bảy mối tội đầu, là như những căn nguyên sinh ra mọi tội lỗi khác.Như chúng ta đã biết: Giuse được Giacóp yêu thương khiến cho các người anh ghen tức, nhất là khi Giuse kể lại những giấc mơ của mình. Nào là những bó lúa của các anh vây quanh và sụp lạy bó lúa của Giuse. Nào là mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao sụp lạy Giuse…Từ thài độ ghen tức ấy, những người đã anh tìm cách giết hại Giuse như bỏ Giuse xuống giếng cạn và sau cùng đã bán Giuse cho phường lái buôn Ismaen đang trên đường đi xuống Ai cập. Rồi lấy áo choàng của Giuse nhúng vào máu chiên mà đem về báo cho Giacóp biết là Giuse đã bị thú dữ ăn thịt.

Những người biệt phái cũng đã ghen tức với Chúa Giêsu, nên họ đã cáo gian Chúa trước tòa án Philatô và đã đóng danh Ngài vào thập giál

Để dứt bỏ thái độ ghen tức, chúng ta hãy hòa mình vào nếp sống của người khác: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Hãy bắt chước thánh Gioan Tiền Ho, đã không ghen tức khi thấy ảnh hưởng của mình bị giảm sút, trong khi uy tín của Chúa Giêsu mỗi ngày một gia tăng. Trái lại, ông đã nói:

- Tôi phải nhỏ đi, còn Ngài phải lớn lên. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.

Hãy để cho Chúa được lớn lên trong chúng ta. Hãy trở nên như đày tớ phục vụ người khác. Hãy thực thi lời thánh Phaolô trong cuộc sống thường ngày, đó là hãy vui cùng người vui và hãy buồn với người buồn.

66.

18. Dịp tộiBài Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta một điều quí giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.

Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa sẽ ghi công và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cho một người khác, dù là trẻ nhỏ hay người hèn kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm gương mù gương xấu lôi kéo người khác phạm tội, xa Ngài, thì Ngài không bao giờ bỏ qua đâu.

Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc ấy, Ngài bảo rằng: “Khốn cho kẻ làm gương mù gương xấu”. Gương mù gương xấu là gì? Là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho kẻ khác phạm tội nữa.

Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-Na Vô-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội leo lên toa, nhìn quanh và hỏi:

67.

“Quên cái gì đâu?”. Cha Vô-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay. Đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Tai hại và nguy hiểm như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ và quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và những tội chính họ phạm nữa.

Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người khác vấp phạm, tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của con người đều quí giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y khoa.

Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính là sự sống đời đời, thì càng đáng đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho mình phạm tội, đe dọa mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay, chặt chân, móc mắt, không có nghĩa là chặt tay, chặt chân hay móc mắt thật, nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có thể hiểu là cha mẹ, người trên. Tay có thể

68.

hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ ngang hàng. Nếu cha mẹ hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào đàng tội lỗi, thì bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù có bị mất lòng. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng vậy, nếu chúng ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với người ấy, chúng ta cũng mắc thêm tội… thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải cắt đứt đi mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong năm tháng còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.

Bài Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường thần linh ở khu vực mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho anh em vấp phạm, chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta có: tiền tài, của cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp… đều chỉ là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn cớ cho tội lỗi, gây nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì nước trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và thực hành bài học hôm nay.

69.

19. Lời khuyênTin Mừng nêu ra nhiều điểm rất quan trọng có tính thực hành. Mặc dù những điểm ấy lúc ban đầu gởi đến các người lãnh đạo trong cộng đoàn nhưng chúng cũng thích hợp với mọi môn đệ của Đức Giêsu.

1. Các Tông đồ đề cập đến một người không lấy tư cách đoàn thể của họ, để chữa lành dân chúng nhân danh Đức Giêsu. Các ông tìm cách ngăn cản người ấy. Tại sao? Bởi vì các ông ganh tị quan hệ đặc biệt của người ấy với Đức Giêsu (có một ví dụ tương tự trong Bài đọc 1). Chúng ta nhớ đến thái độ hẹp hòi của chúng ta đối với các Kitô hữu thuộc các Giáo hội khác trước Công đồng Vaticanô II.

Nhưng Đức Giêsu nói: “Đừng ngăn cản người ta “. Sự kiện người ấy nhân danh Người có nghĩa là người ấy không chống lại các Tông đồ. Kế đó Đức Giêsu cho họ một bài học về sự cởi mở và lòng khoan dung. Thật vậy, mọi lời cầu nguyện trong thánh lễ, và trong mọi bí tích được cử hành nhân danh Đức Giêsu và quyền năng của Người. Nhưng người Công giáo không độc quyền về Đức Giêsu.

Một số người e ngại các ơn huệ và thành tựu của những người khác. Nếu như họ có một thái độ cởi mở hơn hẳn họ sẽ thấy mình được phong phú thêm thay vì giảm bớt đi bởi những ơn huệ ấy. Người nào khác tôi không thu nhỏ tôi nhưng làm tôi thêm phong phú. Thiên Chúa ban phát những ơn huệ của Người một cách tự do. Trách nhiệm của chúng ta là vui mừng tiếp nhận những ơn huệ ấy dù chúng xuất hiện nơi đâu.

70.

2. Đức Giêsu đã nói rằng ai cho những người bé mọn dù chỉ một chén nước lã sẽ được tưởng thưởng. Một chén nước lã là tượng trưng cho một loại công việc tốt lành nhỏ bé. Ít người trong chúng ta có cơ hội làm những việc lớn. Nhưng cơ hội cho một chén nước có thể đến với chúng ta nhiều lần trong một ngày. Một hành động nhân từ nhỏ bé có thể biến đổi một mùa đông ít nhất thành một khoảnh khắc mùa hè cho một người khác.

Không cần có những hành vi to lớn để có thể giúp đỡ và an ủi con người mà hành vi ấy nhắm đến. Chỉ cần những sự nồng ấm. Mọi hành vi xuất phát từ tâm hồn đều có sự nồng ấm ấy.

3. Sau đó, Đức Giêsu đề cập đến tội gây ra sự vấp ngã – làm cho người khác phạm tội. Người tuyên bố lời cảnh báo nghiêm khắc chống lại những người dẫn những kẻ bé mọn tin vào Người đi lạc lối. Khi chúng ta nghĩ đến những tội ác mà người ta gây ra cho các trẻ em hôm nay, dù là qua sự thờ ơ hay lạm dụng thì lời cảnh cáo của Đức Giêsu chúng ta phải coi là rất quan trọng.

4. Rồi Đức Giêsu nói đến nguyên nhân của tội nằm trong chính chúng ta. Một kẻ thù của con người nằm trong chính con người. Những cơ hội gây ra tội phải bị đoạn tuyệt không chút thương tiếc. Đức Giêsu khuyên người ta phải thực hiện những hy sinh đắt giá nhất để tránh xa tội lỗi, kể cả phải cắt bỏ tay chân hoặc móc mắt mình.

Những lời này không thể được hiểu sống sượng theo nghĩa đen. Đường hướng mà Đức Giêsu muốn đưa ra là người ta phải tránh xa tội nặng bằng bất cứ giá nào. Chúng ta phải

71.

sẵn sàng làm bất cứ việc gì có thể làm được để loại trừ điều ác ra khỏi đời sống chúng ta. Mục đích của Người là in sâu vào tâm trí chúng ta không thể nào tẩy xóa được, rằng nước Thiên Chúa đáng cho chúng ta hy sinh mọi thứ khác.

5. Đức Giêsu nói về hỏa ngục và so sánh nó với Ghê-hen-na, Ghê-hen-na là một hẻm núi ở phía nam Giêrusalem. Có một thời, người ta giết các trẻ nhỏ ở đó để tế thần Mô-lốc. Giô-xua đã chấm dứt việc thờ cúng đó, và sau này nơi đó dùng làm nơi đổ rác và xác thú vật. Là một mảnh đất báo điềm gở, nó trở thành biểu tượng cho nơi trừng phạt sau này.

Và lúc nào cũng thế, Lời Đức Giêsu đem lại cho chúng ta nhiều điều để suy nghĩ. Nếu chú ý đến Lời Người, những việc chúng ta làm sẽ trở nên tốt đẹp.

72.

20. Óc ganh tỵKhi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Đức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Đức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Đức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Đức Giêsu còn nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói “Ai không chống lại Ta thì thuộc về Ta”.

Qua câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là: cái óc ganh tỵ đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa, như ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Đất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương nhất. Đó là óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa. Nói “Oùc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa “bởi vì ganh tỵ có tới ba cấp bực:

Cấp thứ nhất là ganh tỵ: đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.

Cấp thứ hai là ganh tỵ bè phái: là ganh tỵ với người không thuộc phe nhóm của mình.

Cấp thứ ba là ganh tỵ bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh

73.

tỵ với những người không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.

Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người Công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Đó là một thí dụ về cái óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa.

Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc “Ai không chống lại Ta thì phải kể như là thuộc về Ta”. Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ “Ai không theo ta tức là kẻ chống ta”, hoặc “Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta”, hay hơn nữa “Ai làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta”. Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc

74.

tôn: chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không thuộc về phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Đức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta; cũng phải hợp tác với họ.

Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Đức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hòa với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.

Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Điều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được làm.

Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa: đừng ganh tỵ, đừng giữ đầu óc bè phái… nhưng cố gắng sống chan hòa với mọi người, cùng với mọi người thực hiện những điều tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.

75.

21. Hãy tránh xa dịp tội – Lm. Vũ Xuân HạnhMột đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt". Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không chỉ quyết liệt mà còn độc ác?

Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo Hột chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai tường hợp:

Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị cụt..., vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của mình.

76.

Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì không có người. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế. Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội còn dạy những điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo Hội đòi phải "Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể". Sách Giáo lý cho biết: "...Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người".

Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý" (GLCG 2297).

Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu, ai đúng, ai sai?

Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu, khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định mối nguy hại có khi không nhỏ mà nó gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người cho thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng

77.

những không khoan nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu. Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.

Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích, khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con mắt... Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà con người phải chọn lựa.

Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ to. Thỏ con không biết là hổ nhưng

78.

bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh. Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.

Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay hay chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối, mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn. Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.

Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội, chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa... là những phương tiện giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.

79.

22. Suy niệm của Chiara Lubich"Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục"Đây là những lời làm ta sững cả người. Đức Giêsu bảo ta hãy chặt chân, chặt tay và móc mắt nếu chân ta, tay ta, mắt ta khiến ta phạm tội. Hẳn rằng những lời này có đầy đủ sức mạnh của một thanh gươm hai lưỡi (xem Dt 4,12), nhưng ta biết rằng không được hiểu theo nghĩa đen. Ý nghĩa muốn nói ở đây là trước bất kỳ dịp tội nào, ta phải sẵn sàng khước từ tất cả, kể cả những gì và những người mà ta rất yêu dấu, còn hơn để mất đi điều thực sự quý giá: "được vào cõi sống", nghĩa là được hiệp thông với Thiên Chúa và được cứu độ.

Cụm từ "cớ sa ngã" trong Phúc Âm chỉ tất cả những gì ngăn trở giữa ta và Thiên Chúa, ngăn cản ta thi hành ý của Người; bất kỳ điều gì thọc gậy bánh xe chặn ta đi theo Đức Giêsu, như một cái bẫy làm ta sa ngã, phạm tội. Có những lúc con mắt, bàn tay, bàn chân "làm ta sa ngã", nghĩa là chúng dường như dẫn ta đến chỗ chối bỏ Đức Giêsu, phản bội Người, yêu chuộng những cái khác hơn Người.

Santa Scorese, một thiếu nữ hai mươi ba tuổi, người thành phố Bari, miền nam nước Ý, đã hiểu rõ điều đó. Năm 1991, khi bị một thanh niên trạc bằng tuổi mình đe dọa, cô thà chết còn hơn mất sự trinh khiết. Đối với cô, Thiên Chúa đáng quý hơn chính mạng sống của mình.

80.

"Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục".

Lời Sống này lột mặt nạ "con người cũ" (xem Ep 4,22) trong ta. Thực vậy tội lỗi không đến từ sự vật, từ bên ngoài mà xuất phát từ thâm tâm, từ trong lòng ta. "Con người cũ" sống trong ta khi ta chiều theo những lôi cuốn của tội lỗi và khi ta tìm cách thỏa mãn những xu hướng thấp hèn nhất của ta: thói ích kỷ, thèm khát quyền lực, vinh quang, tiền bạc…. "Con người cũ" phải nhường chỗ cho "con người mới" (xem Ep 4,24): Đức Giêsu ở trong ta.

Tự sức ta, liệu ta có thể nhổ tận gốc các đam mê thác loạn ra khỏi tâm hồn và làm trổ sinh trong ta sự sống thần linh không? Chỉ có Đức Giêsu, bằng cái chết của Người, mới có thể làm chết đi "con người cũ" của ta, và với sự phục sinh, Người biến đổi ta trở nên những con người mới. Người có thể ban cho ta lòng can đảm và quyết tâm trong cuộc chiến chống lại sự dữ, và một lòng mến sắt son, nồng nàn những gì là thiện hảo. Từ nơi Người xuất phát tự do nội tâm, bình an và niềm vui khôn tả, nâng ta lên khỏi tất cả những xấu xa của thế gian và cho ta được nếm trước niềm vui thiên đàng.

"Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục".

"Con người mới" trong ta phải lớn lên và phải được gìn giữ khỏi các cám dỗ của "con người cũ". Về phần ta, ta phải làm gì? Năm 1949, tôi đã viết như sau: "Có rất nhiều cách để dọn dẹp một căn phòng - lượm lên từng cọng rác một; dùng

81.

chổi nhỏ, chổi chà, hoặc máy hút bụi. Hoặc ta có thể dọn sang một phòng khác, mọi thứ đều sạch sẽ, ngăn nắp. Hành trình nên thánh của ta cũng giống như thế. Thay vì khó nhọc bứng đi hết khuyết điểm này đến tật xấu kia, thì ngay lập tức ta có thể tránh sang một bên và để cho Đức Giêsu sống trong ta. Nghĩa là ta "chuyển hộ khẩu" để sống trong người khác, chẳng hạn như trong những người chung quanh ta. Đúng vậy, ta sống viên mãn cuộc sống của người đó".

Hãy yêu mến! Đó là toàn bộ giáo lý của Đức Giêsu. Hãy tinh luyện tâm hồn để ta có khả năng lắng nghe tha nhân, biết đón nhận các vấn đề và các ưu tư của người bên cạnh làm của mình, và chia vui sẻ buồn với họ, phá bỏ những hàng rào vẫn còn gây chia rẽ giữa chúng ta, vượt qua những thành kiến và thói chỉ trích phê bình, ra khỏi thế cô lập của ta và đặt mình phục vụ những người túng thiếu, cô đơn, và xây dựng ở khắp nơi sự hiệp nhất mà Đức Giêsu đã muốn.

Nếu ta sống như thế, Thiên Chúa sẽ lôi kéo ta sống kết hợp với Người ngày càng thân mật hơn và sẽ làm cho ta kiên vững và hầu như không thể bị tấn công trước những sai lầm và lôi cuốn của thế gian.

"Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục".

Đức Giêsu còn bảo ta hãy dứt khoát "chặt đi" bất kỳ sự vật, người hoặc hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa của điều mà Phúc Âm gọi là "từ bỏ chính mình" (xem Mc 8,34). Ki-tô hữu là người có được lòng can đảm cần thiết

82.

để chống trả các xu hướng ích kỷ, không để cho chúng trở thành lối sống của mình.

Ta hãy ra khỏi con người mình bằng cách yêu mến những người bên cạnh và chặt đứt mọi dính bén với bất kỳ điều gì không đáng để ta yêu mến. Ta hãy quét sạch tất cả những gì cần được đưa ra khỏi tâm hồn của ta. Không có hi sinh nào gọi là quá lớn nếu hi sinh aáy duy trì được sự hiệp thông của ta với Thiên Chúa. Mỗi xén tỉa sẽ làm nảy sinh trong tâm hồn ta hoa trái mừng vui, một niềm vui đích thực, niềm vui mà thế gian không biết đến.

83.