Upload
tran-duc-anh
View
327
Download
5
Embed Size (px)
DESCRIPTION
http://tailieu.vncty.com/index.php
Citation preview
THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
SỰ THỐNG NHẤT VÀ MÂU THUẪN GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 62.22.80.05 Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Văn Dựa Người hướng dẫn khoa học: HD.1: PGS.TS. Trịnh Doãn Chính HD.2: TS. Trần Hoàng Hảo Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh Tóm tắt nội dung luận án: Truyền thống và hiện đại là những yếu tố có mặt trong đời sống của xã hội, trên mọi lĩnh
vực của quá trình phát triển, trong đó có lĩnh vực văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, truyền thống và hiện đại không bao giờ tồn tại một cách tĩnh tại, tách biệt nhau mà luôn ở trong thế vận động, liên hệ tác động lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, làm thành diện mạo văn hóa của dân tộc. Nếu không nhận dạng và giải quyết tốt sự thống nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại của văn hóa, chúng ta không thể phát huy đầy đủ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội.
Về khái niệm văn hóa, phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay, có thể rút ra khái niệm văn hóa: văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và được con người tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn; những giá trị đó đáp ứng được nhu cầu của cả cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa là biểu hiện của trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Truyền thống, được hiểu như là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định, được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Còn hiện đại được hiểu là những gì “thuộc thời đại ngày nay”, là “cái đang diễn ra trước mắt, tức là mới”. Hiện đại gắn liền với phát triển, tạo ra những giá trị mới hơn, có phẩm chất tốt hơn của cái quá khứ. Truyền thống và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau; đó là sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại. Về sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại của văn hóa: truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại và hiện đại là sự kế thừa, phát triển nâng cao truyền thống. Đồng thời, giữa truyền thống và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa lại có sự mâu thuẫn, trong đó cái truyền thống do tính ổn định, tính bảo thủ cản trở sự phát triển của cái hiện đại và ngược lại có những cái hiện đại không phù hợp, mâu thuẫn, xung đột với cái truyền thống.
Trong tiến trình lịch sử, nhất là trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc phát triển kinh tế, xã hội, Cần Thơ đặc biệt quan tâm đến phát triển văn hóa; trong đó, việc kết hợp biện chứng giữa truyền thống và hiện đại luôn được chú trọng và được xem như một quy luật phát triển của văn hóa. Nhờ đó mà văn hóa Cần Thơ đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, văn hóa Cần Thơ còn nhiều mặt hạn chế, mâu thuẫn: sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với vai trò của
2
văn hóa; các biểu hiện của phong tục tập quán, lạc hậu, lỗi thời làm cản trở sự phát triển xã hội mới;…Để khắc phục những hạn chế, mâu thuẫn đó, Cần Thơ cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm chuyển biến căn bản tâm lý của cán bộ, đảng viên và nhân dân sớm thích nghi với đời sống đô thị và nhận thức đúng đắn vai trò của văn hóa; nâng cao trình độ dân trí để nhân dân hưởng thụ và sáng tạo những giá trị văn hóa; tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa mới lành mạnh trong xã hội, đi đôi với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các tài năng văn hóa; khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo nhiều công trình văn hoá nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao; bảo tồn, phát huy các đặc điểm, giá trị văn hóa riêng có ở Cần Thơ.
Những kết quả mới của luận án: Một là, luận án đã phân tích làm rõ lý luận chung về văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn
giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ. Hai là, từ sự phân tích thực trạng văn hóa Cần Thơ, luận án đề xuất một số giải pháp có tính
định hướng góp phần vào phát triển văn hóa Cần Thơ trên cơ sở sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khả năng ứng dụng của luận án: Luận án giúp người đọc hiểu rõ nội dung, giá trị của truyền thống và hiện đại trong văn
hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở Cần Thơ. Những ý nghĩa lịch sử mà luận án rút ra cũng như một số giải pháp có tính định hướng mà luận án đề xuất, có thể góp phần thiết thực vào giải quyết những vấn đề cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc của vùng đồng bằng sông nước, văn minh miệt vườn ở Cần Thơ. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy Triết học, Văn hóa học.
Xác nhận Tp.Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 02 năm 2011
của người hướng dẫn khoa học Nghiên cứu sinh
PGS.TS. Trịnh Doãn Chính Nguyễn Văn Dựa
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, cùng với sự hình thành
và phát triển đất nước, là sức sống mãnh liệt của dân tộc ta mà cội nguồn của
sức mạnh đó là nền văn hoá Việt Nam với sự thống nhất biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại.
Truyền thống và hiện đại là những yếu tố có mặt trong đời sống của mỗi
quốc gia dân tộc, trên mọi lĩnh vực của quá trình phát triển, trong đó có lĩnh
vực văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, truyền thống và hiện đại
không bao giờ tồn tại một cách tĩnh tại, tách biệt nhau mà chúng luôn có sự
liên hệ, tác động lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau, tạo thành
sự vận động, phát triển và làm thành diện mạo văn hóa của một dân tộc. Chính
vì vậy mà mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa đã trở
thành vấn đề hàng đầu ở mọi quốc gia, đặc biệt là ở những nước đang phát
triển, vốn mang trên mình sức nặng của truyền thống hình thành qua suốt chiều
dài của lịch sử và lại đứng trước một sự nghiệp hiện đại hóa to lớn. Nếu không
nhận dạng được sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình
phát triển của văn hóa, chúng ta không thể phát huy đầy đủ vai trò của văn hóa
đối với sự phát triển xã hội.
Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn coi trọng việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy những
giá trị truyền thống của dân tộc vì đó là bản sắc, là tâm hồn và trí tuệ, là đạo lý
và nhân cách của con người Việt Nam, là nền tảng tinh thần cho công cuộc
phục hưng dân tộc và cho sự phát triển bền vững của đất nước tiến lên văn
minh, hiện đại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) đã
xác định: “Phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” [32, 212] và đẩy
mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa đã được xác định trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là “làm cho văn hóa thấm
2
sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới
của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp
thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy,
độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội
và sinh hoạt của nhân dân…” [32, 212-213].
Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng ngàn năm lao động sáng tạo, kiên
cường đấu tranh dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam cũng là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền
văn minh nhân loại để không ngừng phát triển. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc
nên tâm hồn, tính cách, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm rạng rỡ
lịch sử vẻ vang của dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam đã hình thành những giá trị
truyền thống bền vững và bản sắc riêng. Trên nền tảng ấy mà ngày nay chúng
ta chủ trương xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mới ngang tầm thời đại.
Nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng hiện nay là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, với các đặc trưng dân tộc, hiện đại, nhân văn. Nước ta là
một quốc gia có nhiều dân tộc, việc nghiên cứu vấn đề kế thừa giá trị truyền
thống văn hóa dân tộc chẳng những có ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng
nền văn hóa chung của đất nước mà còn có tác dụng phát huy bản sắc văn hóa
của từng dân tộc trong sự phát triển văn hóa.
Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam hiện đứng trước tình
hình, một mặt phải tiếp tục chống chủ nghĩa đế quốc với âm mưu “diễn biến
hòa bình”, tấn công bằng sự xâm lăng văn hóa; mặt khác, phải bảo vệ nền văn
hóa dân tộc, coi đó là một tiềm lực để đi lên hiện đại hóa. Giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa của dân tộc không chỉ có ý nghĩa để cho dân tộc ta giữ được
cội nguồn phát triển mà còn có ý nghĩa bảo vệ những giá trị văn hóa tốt đẹp vì
sự phát triển của nhân loại. Cơ chế kinh tế thị trường đang phát huy tác động
toàn diện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có cả mặt tích cực
và tiêu cực, đã ảnh hưởng rất lớn đến việc kế thừa các giá trị truyền thống văn
hóa dân tộc để xây dựng nền văn hóa hiện nay.
3
Đối với Cần Thơ, trong những năm qua, nhiều cấp uỷ Đảng, chính
quyền, đã nhận thức đúng đắn sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại
trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy văn hóa của Cần Thơ nói riêng
và đồng bằng sông Cửu Long nói chung...; đã đưa những nội dung này vào
nghị quyết các Đại hội, các hội nghị và chương trình hành động hàng năm của
các cấp, giúp thành phố Cần Thơ thu được những thành tựu và kinh nghiệm
quý báu trong quá trình đổi mới nói chung và lĩnh vực phát triển văn hóa - xã
hội nói riêng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền văn hóa mới được tạo dựng, quá
trình đổi mới tư duy về văn hóa, xã hội, xây dựng con người và nguồn nhân
lực có bước phát triển mới. Môi trường văn hóa, xã hội có những thuận lợi cho
việc phát huy nguồn nhân lực để xây dựng đất nước. Tình hình an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Cần Thơ ổn định, tạo điều kiện
cơ bản cho phát triển thành phố. Kinh tế phát triển liên tục, xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế mở ra triển vọng mới cho sự phát triển kinh tế, tạo tiền đề giải
quyết các vấn đề xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, còn không ít cấp ủy đảng,
chính quyền và nhân dân nhận thức chưa đầy đủ vai trò của văn hóa, chưa thấy
hết tầm quan trọng của sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện
đại trong quá trình phát triển văn hóa. Từ đó dẫn đến sự phát triển văn hóa
chưa đồng bộ và chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với
nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng; những tiêu cực xã hội không những
chưa được đẩy lùi mà còn có chiều hướng gia tăng; vai trò của văn hóa đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội chưa được phát huy đúng mức, chất lượng tăng
trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa được cải thiện nhiều; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch chậm, các ngành công nghiệp, dịch vụ có giá trị gia tăng lớn
chưa khai thác đúng mức.
Ngày nay, cùng với cả nước Cần Thơ bước vào thời kỳ phát triển mới
trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và cơ hội lớn, nhưng cũng có nhiều thách
thức gay gắt, nhất là trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Với vị trí quan
trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo,
4
dịch vụ, thương mại của vùng, cùng với tiềm năng vật chất phong phú, thiên
nhiên ưu đãi, nguồn nhân lực dồi dào, lao động cần cù sáng tạo, biết vận dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, biết tận dụng khai thác mọi tiềm
năng, thế mạnh của mình, lại giàu truyền thống cách mạng trong kháng chiến
giải phóng dân tộc, Cần Thơ sẽ thực hiện tốt sự nghiệp xây dựng và phát triển
thành phố.
Để “Phấn đấu xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trở thành thành
phố văn minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của
cả vùng hạ lưu sông Mê Kông; là trung tâm công nghiệp, trung tâm thương
mại - dịch vụ, du lịch, trung tâm giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ,
trung tâm y tế và văn hóa của vùng đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước”
theo Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị, Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ
cần nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn nữa vị trí, vai trò của văn hóa, tầm quan
trọng của sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá
trình phát triển văn hóa. Tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng và phát triển nền
văn hóa Cần Thơ tiên tiến, mang đậm bản sắc của vùng đồng bằng sông nước,
văn minh miệt vườn; bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao
văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba
lĩnh vực này là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và
bền vững của thành phố Cần Thơ.
Từ những vấn đề vừa nêu trên, tác giả chọn đề tài “Sự thống nhất và
mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa
ở Cần Thơ” làm luận án Tiến sĩ Triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về văn hóa nói chung cũng như vấn đề truyền thống và
hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa đã được nhiều nhà khoa học xã hội
và nhân văn trong và ngoài nước quan tâm.
5
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, ở Liên Xô trước đây đã có những
công trình nghiên cứu lớn chuyên khảo về đề tài văn hóa của các nhà lý luận
mácxít. Đáng kể là những công trình lý luận văn hóa như: “Tính kế thừa trong
phát triển văn hóa” (1969) của Bale A.E, Mátxcơva; “Triết học văn hóa
(1975) của Migôlatep A.A, Mátxcơva; “Cơ sở lý luận văn hóa Mác-Lênin”
(1976) do Acnônđốp A.I chủ biên, Mátxcơva; “Một số vấn đề lý luận văn
hóa” (1977) của Actanốpxki S.N, Lêningrát; “Những vấn đề triết học của văn
hóa” (1984) của tập thể tác giả, Mátxcơva; “Tính kế thừa trong sự phát triển
văn hóa trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội” (1977) của Cairan V.I,
Mátxcơva;… Các công trình này, chủ yếu đề ra những nguyên tắc xây dựng
nền văn hóa chủ nghĩa xã hội. Trong đó, có những luận điểm khoa học có thể
kế thừa, nhưng cũng có những kết luận mà thực tiễn cuộc sống xã hội hiện đại
đòi hỏi phải được nghiên cứu, thảo luận thêm.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu lớn của các nhà lý luận mácxít
về văn hóa, ở phương Tây đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về văn
hóa với khuynh hướng chung là khẳng định vai trò quan trọng không thể
thiếu của văn hóa truyền thống trong phát triển như: “Tạo dựng nền văn minh
mới của làn sóng thứ ba” (1996) của Alvin Toffler và Heidi Toffler, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Sự va chạm của các nền văn minh” (2003) của
Samuel Huntingtong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;…
Ở các nước khu vực Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc, từ khi tiến hành
cải cách đến nay, đã có nhiều công trình lý luận khoa học nghiên cứu về vai
trò của văn hóa dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa như: “Cải cách thể chế
văn hóa” (1996) do Khang Thức Chiêu chủ biên; “Thử bàn về qui luật đặc
thù của phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường” (1997) của Lưu
Bôn; “Văn hóa trong sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở khu vực Đông Á”
(2000) của Kyong-Dong Kim (Hàn Quốc)…
Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu của các nhà lý luận mácxít ở
Liên Xô trước đây cũng như ở Trung Quốc và các quốc gia khác đều đưa ra
6
những quan điểm cảnh báo sự suy thoái trong chiến lược xây dựng và phát
triển nền văn hoá của mỗi quốc gia, nếu việc đánh giá mọi sự hiện đại hóa
theo tiêu chuẩn của phương Tây, bằng việc chối bỏ mọi truyền thống của dân
tộc. Đây là những vấn đề đáng được chúng ta tham khảo, nghiên cứu và vận
dụng trong đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Ở Việt Nam, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
được Đảng ta đặc biệt quan tâm và đã được thể hiện khá đầy đủ trong các văn
kiện của Đảng. Đồng thời, đã có những công trình được xuất bản thành sách
hay đăng trên các tạp chí lý luận, các cuộc hội thảo khoa học bàn về vai trò của
văn hóa đối với sự phát triển, trong đó phải kể đến những công trình như: “Giá trị
tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (1993) của GS. Trần Văn Giàu, Nxb.
TP. Hồ Chí Minh; “Sự hình thành về cơ bản hệ thống tư tưởng yêu nước Việt
Nam” (2000) của GS.Trần Văn Giàu, Nxb. TP. Hồ Chí Minh; “Văn hóa - mục tiêu
và động lực phát triển xã hội” (2000) của Trần Bạch Đằng, Nxb. TP. Hồ Chí Minh;
“Bản sắc văn hóa Việt Nam từ góc nhìn ngữ nghĩa học từ vựng tiếng Việt” (2000)
của GS. Đỗ Hữu Châu, Nxb. Khoa học Xã hội; “Vai trò của văn hóa trong đời
sống xã hội” (2001) của Thạc sĩ Trịnh Đình Bảy, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
“Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam” của GS.TS. Lê Văn Quán;… là những
công trình nghiên cứu, chỉ ra nhiều vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển văn
hóa, làm cơ sở lý luận cho các nhà hoạch định chiến lược nước ta nghiên cứu xây
dựng đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Ngoài ra, việc nghiên cứu vai trò của văn hóa, mối quan hệ biện chứng
giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa đối với sự phát triển cũng được
nhiều nhà khoa học quan tâm. Nhiều công trình có giá trị đã được công bố
như: “Văn hóa và đổi mới” (1994) của Phạm Văn Đồng, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội; “Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới” (1996) do
GS.TS. Hoàng Vinh chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Tư tưởng
7
Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam (1998) của nhiều tác giả, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Hiện đại hóa ở Việt Nam” (1997) của Nguyễn
Thế Nghĩa, Nxb. Khoa học xã hội; “Văn hóa Việt Nam – truyền thống và
hiện đại” (2000) do Viện Thông tin Khoa học xã hội tổng hợp và giới thiệu;
“Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ” (2001) do GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, TS. Phạm Văn Đức, TS.
Hồ Sĩ Quý (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Giá trị truyền
thống và những thách thức toàn cầu hóa” (2002) do GS.TS. Nguyễn Trọng
Chuẩn, PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội; “Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận” (2001) do
GS.TSKH. Lê Ngọc Trà (Chủ biên), Nxb. Giáo dục;“Bản sắc văn hóa Việt
Nam” (1998) của Phan Ngọc, Nxb. Văn hóa thông tin; “Văn hóa và phát
triển trong bối cảnh toàn cầu hóa” (2006) của PGS.TS. Nguyễn Văn Dân,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; “Bản sắc dân tộc và hiện đại trong văn hóa”
(2000) của GS.VS. Hoàng Trinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Cơ sở
văn hóa Việt Nam” (2006) của Trần Quốc Vượng (chủ biên), Tô Ngọc
Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Mỹ Dung, Trần Thúy Anh, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội; “Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam” (2000) của tập thể các nhà
nghiên cứu văn hóa: Trần Đình Nghiêm, Trần Hoàn, Nguyễn Phúc Khánh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Văn hóa và thời đại” (2009) của Nguyễn
Chí Tình, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội;… Đây là những công trình của cá
nhân, tập thể các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu xoay quanh
vấn đề là làm thế nào để loại bỏ hay kế thừa những truyền thống văn hóa dân
tộc, vừa giữ gìn được bản sắc, nhưng cũng vừa thể hiện tính hiện đại của nền
văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong đó, có những tác
phẩm đề cập đến khuynh hướng vận động của nền văn hóa Việt Nam và
những giải pháp nhằm hoàn thiện văn hóa dân tộc trên một tầm cao mới.
Gần đây, những kết quả nghiên cứu mới của một số công trình dựa trên
cơ sở Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII được công bố như: “Xây dựng và
8
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thành tựu
và kinh nghiệm” (2004) do TS. Đỗ Minh Thúy chủ biên, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội; “Văn hóa và phát triển” (2005) của GS.TS. Đỗ Huy, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, nhằm đưa ra những định hướng xây dựng nền văn hóa
mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Có thể nói, trong nhiều năm qua, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa
truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa đã được rất nhiều
nhà khoa học nghiên cứu luận chứng và lý giải.
Ở đầu thế kỷ 21 này, bối cảnh mới của sự phát triển đang đặt văn học -
nghệ thuật Việt Nam trước yêu cầu phải giải quyết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn mới. Hội thảo về tính dân tộc, tính hiện đại do Hội đồng lý luận, phê bình
văn học, nghệ thuật Trung ương mới tổ chức gần đây là một việc làm để đáp
ứng yêu cầu đó. Ðề dẫn của Hội thảo với chủ đề “Tính dân tộc và tính hiện đại
trong văn học - nghệ thuật Việt Nam hiện nay” được tổ chức vào hai ngày (04
và 05-8-2009), tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, đã viết: "Một cuộc xâm
nhập sâu rộng về văn hóa từ nhiều nguồn đang diễn ra dưới rất nhiều màu sắc,
thông qua hệ thống báo chí, dịch thuật, đầu tư, xuất nhập khẩu, du lịch, giao lưu,
hội thảo. Một số nước có cả những trung tâm văn hóa tại Hà Nội, đỡ đầu,
khuyến khích tập hợp khá đông đảo đội ngũ văn nghệ sĩ và công chúng văn
nghệ. Các thế lực thù địch không che giấu tham vọng biến văn hóa thành "đội
quân tiền trạm" hòng tác động, chuyển hóa tư tưởng, tình cảm, tâm lý, thói quen,
lẽ sống và cách sống của một bộ phận công chúng. Trong các hướng triển khai,
họ không quên chọn văn học - nghệ thuật làm mũi đột phá, vì đó là lĩnh vực
nhạy cảm nhất mà lại có ảnh hưởng xã hội rộng lớn”.
Những luận chứng và đề xuất khoa học về việc xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam nói chung và sự thống nhất và mâu
thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa nói riêng
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là những đóng góp quan trọng và rất
cần thiết đối với nhận thức và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc
9
trong tiến trình đổi mới. Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu vai trò
của văn hóa đối với sự phát triển, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống
và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở tầm vĩ mô và khu vực, chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này ở một địa phương cụ thể.
Ở Cần Thơ vấn đề văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền
thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa được đề cập trong các
văn kiện của Đảng và trong một số công trình khoa học như: công trình
nghiên cứu cấp Bộ của Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học
quốc gia Hồ Chí Minh: “Văn hóa Cần Thơ - Thực trạng và vấn đề giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới
ở Việt Nam” (2001) do Thạc sĩ Thái Thị Thu Hương chủ nhiệm đề tài; Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XI, nhiệm kỳ 2005 - 2010;
“Chương trình xây dựng, phát triển văn hóa thông tin đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020” (2006) của Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ; các
báo cáo chuyên đề, báo cáo tổng kết tình hình, thực trạng phát triển văn hóa ở
Cần Thơ các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009. Những công trình nghiên cứu
và những Nghị quyết, Chương trình, báo cáo này chỉ ra nhiều giải pháp có tính
định hướng cho phát triển văn hóa và sự bảo tồn các giá trị truyền thống văn hóa
ở Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề tài: “Sự thống nhất
và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn
hóa ở Cần Thơ” chỉ là một tiểu vùng của một tổng thể chung - vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
Luận án sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống về tiến trình phát triển
biện chứng của văn hóa ở Cần Thơ dưới ánh sáng lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận án cũng tiếp thu, hệ thống hóa quan
điểm của các công trình khoa học, các tác phẩm đã xuất bản quanh chủ đề
này và góp thêm một số suy nghĩ vào việc luận chứng trên bình diện triết học
cho quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
10
bản sắc dân tộc nói chung; sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và
hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là từ sự trình bày, phân tích lý luận chung về văn
hóa và những nội dung, đặc điểm của văn hóa ở Cần Thơ, luận án chỉ ra sự
thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại và đề ra những giải
pháp có tính định hướng trong sự phát triển văn hóa ở Cần Thơ.
Để đạt được mục đích đó, luận án phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, trình bày, phân tích những vấn đề lý luận chung về văn
hóa, sự thống nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình
phát triển văn hóa.
- Thứ hai, trình bày, phân tích nội dung, đặc điểm của sự thống nhất và
mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở
Cần Thơ, đề xuất một số giải pháp phát triển văn hóa ở Cần Thơ trong sự
thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời còn sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích và tổng hợp, diễn dịch và qui nạp, lôgich
và lịch sử, để nghiên cứu và trình bày luận án. Luận án được tiếp cận dưới góc
độ triết học văn hóa.
5. Cái mới của luận án
- Cái mới thứ nhất là, trên cơ sở lý luận chung về văn hóa, luận án
đã lý giải và phân tích rõ về sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống
và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ.
- Cái mới thứ hai là, từ sự phân tích thực trạng văn hóa Cần Thơ,
luận án đề xuất một số giải pháp có tính định hướng góp phần vào phát
11
triển văn hóa Cần Thơ trên cơ sở sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền
thống và hiện đại trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa khoa học, luận án góp phần luận giải một cách hệ thống và
khoa học về sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống với hiện đại trong
quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở Cần Thơ. Trên cơ sở đó, luận án góp
phần làm cho các cấp ủy đảng và chính quyền Cần Thơ nhận thức sâu sắc hơn,
đúng đắn hơn về vai trò của văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền
thống và hiện đại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Cần Thơ hiện nay.
Về thực tiễn, một số giải pháp có tính định hướng mà luận án đề xuất,
có thể góp phần thiết thực vào giải quyết những vấn đề cơ bản trong quá trình
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Cần
Thơ; bảo đảm văn hóa thật sự là một động lực tác động mạnh mẽ tới sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn Triết học, Văn hóa học trong các
trường đại học và cao đẳng.
7. Kết cấu cơ bản của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận án được kết cấu thành ba chương, sáu tiết.
12
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA, SỰ THỐNG NHẤT VÀ
MÂU THUẪN GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA
1.1.1. Các quan điểm khác nhau về văn hóa
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo nên, xuất hiện khá sớm
trong xã hội loài người. Phản ánh những giá trị văn hóa ấy trong lịch sử tư
tưởng nhân loại đã có nhiều quan điểm khác nhau. Ở Trung Quốc, từ “văn
hóa” có nguồn gốc từ chữ Hán, quẻ Bí trong Chu Dịch nói: “Quan sát dáng vẻ
con người để giáo hóa thiên hạ” (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ), nó
đã đề cập đến hai từ tố “văn” và “hóa”. Trong đó, “văn” với ý nghĩa là văn vẻ,
văn hoa, tốt đẹp; “hóa” là biến đổi, giáo hóa. Tổng hợp lại, văn hóa có ý nghĩa
là làm biến đổi, giáo hóa con người theo hướng tốt đẹp. Khổng Dĩnh Đạt trong
cuốn Chu Dịch chính nghĩa đã giải thích như sau: “Nói bậc thánh nhân quan
sát dáng vẻ con người, tức cái mà Thi, Thư, Lễ, Nhạc nói đến, theo cách dạy
đó để giáo hóa thiên hạ”. Lưu Hướng (khoảng năm 77 đến năm 6 TCN) đời
Tây Hán là người sử dụng từ “văn hóa” sớm nhất trong thiên Chỉ Vũ sách
Thuyết uyển viết: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức rồi sau mới
đến vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó với kẻ bất phục tùng; dùng văn
hóa không thay đổi được thì mới chinh phạt”. Ở đây văn hóa dùng như một
phương thức giáo hóa đối lập với chinh phạt; từ văn hóa gần nghĩa với giáo
hóa. Chung quy, theo cách hiểu trước kia, văn hóa là văn trị giáo hóa, là giáo
dục, cảm hóa bằng điển chương, lễ nhạc.
Trong Kinh Dịch người ta đã: (1) Ví văn hóa như ngón chân (bí kỳ chi),
là cơ sở, là điều kiện để con người đứng thẳng một cách tự tin. Từ đó, đầu
óc con người được giải phóng, mặc sức sáng tạo; bàn tay cũng được giải
13
phóng trở thành công cụ để tái tạo ra thiên nhiên thứ hai - chính là văn hóa
vật thể. Đây là tiền đề lý luận để khẳng định rằng văn hóa là cơ sở, là nền
tảng của đời sống tinh thần. (2) Dựa theo quẻ Bí (Bí vi văn), ví văn hóa như
cái “râu”, râu chính là vật trang sức của con người. Văn hóa là sự biểu hiện
của thái cực sinh lưỡng nghi và coi đây là hình thức phát triển văn hóa. (3)
Quẻ Bí được biến từ quẻ Thái mà ra, quẻ Thái là cơ sở của sự phát triển và
trong công thức âm-dương chuyển hóa thì dương làm văn cho âm, khi âm
tới thì nó làm văn cho dương.
Do sự phát triển không ngừng và sự đa dạng của đời sống xã hội, tất yếu
làm cho nội dung của khái niệm văn hóa ngày càng phong phú, giúp cho các
nhà khoa học tiếp cận khái niệm văn hóa ở nhiều góc độ khác nhau.
Ở Trung Quốc, từ văn hóa được dùng hiện nay đã kế thừa hàm nghĩa
truyền thống nhưng lại cách tân theo hướng hiện đại. Theo các nhà nghiên cứu
Trung Quốc thì từ văn hóa hiện dùng là chuyển dịch qua tiếng Nhật từ thế kỷ
XIX. Người Nhật dịch chữ Culture, đọc là Bunka, người Trung Quốc căn cứ
theo cách hiểu truyền thống mà dịch là văn hóa.
Ở phương Tây, quan điểm của nhiều nhà khoa học, nhà nhân loại học,
dân tộc học thể hiện qua các công trình nghiên cứu phần lớn đều thống nhất
nhau ở chỗ: từ văn hóa đều bắt nguồn từ tiếng La-tinh, Cultura bao hàm ý
nghĩa trồng trọt, nuôi dưỡng, cư trú, luyện tập, lưu tâm… Từ đó mà có culture
(tiếng Anh, tiếng Pháp), kultur (tiếng Đức), kultura (tiếng Nga). Trong tiếng
Anh, Pháp, Đức, Nga hiện nay, từ culture vẫn giữ lại một số hàm nghĩa ban
đầu của tiếng La-tinh. Nhưng văn hóa là một thực thể năng động, luôn luôn
phát triển cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại. Dần dần hàm nghĩa
của nó được mở rộng và nó được chú ý như một đối tượng khoa học.
Khái niệm văn hóa được sử dụng phổ biến vào thế kỷ thứ XVIII, hiểu
như một thuật ngữ khoa học. Năm 1783, người ta chính thức đưa văn hóa vào
tự điển ở Đức. Người đầu tiên sử dụng khái niệm văn hóa là Puphenđooc: văn
hóa là toàn bộ những gì được đặt ra cho hoạt động xã hội, văn hóa là cái đối
14
lập với trạng thái tự nhiên. Nhà triết học Đức Hécđơ (1744-1803), cho rằng
văn hóa là sự hình thành lần thứ hai của con người. Lần thứ nhất, con người
xuất hiện như một thực thể tự nhiên. Lần thứ hai, con người xuất hiện như một
thực thể xã hội, là một nhân cách văn hóa theo nghĩa trọn vẹn nhất của từ này.
Đến giữa thế kỷ XIX các ngành nhân loại học, dân tộc học phát triển
mạnh ở châu Âu và trên cơ sở đó học thuyết văn hóa, khoa văn hóa học ra đời.
Người đầu tiên đưa ra một định nghĩa về văn hóa như một đối tượng nghiên
cứu khoa học là nhà nhân loại học nước Anh E.B.Taylor trong cuốn Văn hóa
nguyên thủy (Primitive Culture) xuất bản năm 1871 ở Luân Đôn đã xem “Văn
hóa là một tổng thể phức tạp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, pháp luật, phong tục và cả những năng lực cũng như thói quen mà con
người đạt được với tư cách là một thành viên của xã hội” [63, tr.7].
Sau B.Taylo, khái niệm văn hóa được rất nhiều người đề cập đến. Năm
1885, với công trình Khoa học chung về văn hóa (2 tập) của Klemn người
Đức, trong đó ông trình bày sự phát sinh, phát triển toàn diện của loài người
như một lịch sử văn hóa, thì văn hóa mới thực sự trở thành đối tượng của một
khoa học riêng biệt. Còn thuật ngữ “Văn hóa học” (Kulturkunder tiếng Đức,
Culturology tiếng Anh) thì sau công trình The Science of Culture của L.White
xuất bản ở Mỹ năm 1949 mới trở thành phổ biến. Vào nửa đầu thế kỷ XX, các
nhà văn hóa học người Mỹ đã có nhiều cống hiến trong việc mở rộng đối
tượng và quy mô của văn hóa học. Năm 1952, người ta đưa ra công trình văn
hóa: “Tổng thuật phê phán các quan niệm về định nghĩa” - đó là Krôbơ và
Kluckhôn (người Mỹ) - phê phán tổng hợp 164 khái niệm văn hóa (157 định
nghĩa ra đời từ năm 1920-1950, 7 định nghĩa ra đời năm 1971). Cũng cần chú
ý các đóng góp của C.Lesvi-Strauss với cuốn Anthropologie Structural xuất
bản năm 1958 tại Paris, trong đó ông vận dụng phương pháp cấu trúc trong
ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu văn hóa. Sau đó, năm 1967 nhà văn hóa học
người Pháp là Môlesơ đưa ra 250 định nghĩa về văn hóa. Ở Việt Nam, năm
1994, GS. Phan Ngọc có công trình: “Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận
15
mới”, ông đưa ra tư liệu cho rằng một nhà dân tộc học người Mỹ đã thống kê
được có gần 400 định nghĩa về văn hóa. Từ năm 1970 trở đi, cách hiểu phổ
biến nhất về văn hóa là: văn hóa là bao gồm tất cả những gì làm cho một dân
tộc này khác với một dân tộc kia như tín ngưỡng, lối sống, hoạt động sản xuất
và hoạt động tinh thần.
Trong Bách khoa toàn thư của Pháp, văn hóa theo nghĩa rộng là tập tục,
tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm mỹ, những hiểu biết kinh tế, kể
cả tổ chức con người. Đây chính là văn hóa vật chất, văn hóa vật chất bao
gồm: công cụ, nhà ở, sản phẩm công nghiệp. Văn hóa dùng để điều tiết những
quan hệ giữa con người với con người và xác định thái độ ứng xử của con
người đối với tự nhiên.
Vào năm 1982, trong Hội nghị thế giới về văn hóa, tại Mêhicô đã đưa ra
tuyên bố Mêhicô về chính sách văn hóa, lấy thập kỷ 90 là thập kỷ phát triển
văn hóa, đưa ra khái niệm về văn hóa theo nghĩa rộng: văn hóa là toàn bộ các
thuộc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một
xã hội hay một nhóm xã hội, chứ không phải chỉ bao gồm có nghệ thuật. Văn
hóa còn bao gồm lối sống, các quyền cơ bản của con người, các giá trị tín
ngưỡng, truyền thống của các dân tộc.
Sau đó tháng 4/1984, tại Thụy Điển, các nhà văn hóa nhắc lại định nghĩa
văn hóa Mêhicô 1982 và giải thích thêm lý do có nhiều cách tiếp cận các quan
niệm về văn hóa.
Văn hóa, theo R.W. Brislin, là nhân tố quan trọng bậc nhất của sự phát
triển con người và trở thành một khái niệm trung tâm của việc nghiên cứu xã
hội cũng như tâm lý học phát triển. Văn hóa là những giá trị tinh thần và vật
chất do con người tạo ra, là những gì mà con người bổ sung cho tự nhiên. Vì
thế, nó là một phần của môi trường sinh thái và luôn có ảnh hưởng, tác động
đến đạo đức và rộng hơn là nhân cách của cá nhân, đến sự phát triển của cộng
đồng và xã hội.
16
Tổng Giám đốc UNESCO Federco Mayor đưa ra một định nghĩa về văn
hóa: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt
của đời sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng
như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ
thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân
tộc tự khẳng định bản sắc của riêng mình” [68, tr.5-6].
Nhiều thập kỷ qua, trong tình hình kinh tế, xã hội phát triển mạnh, đã
xuất hiện những tác hại lớn do việc ít chú trọng xây dựng môi trường văn hóa;
do đó, văn hóa được đặc biệt coi trọng. Sự thực thì chính văn hóa mới là yếu tố
chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết sự phát triển của xã hội. Trước
nguy cơ môi trường văn hóa bị phá hoại và trước thực tế thất bại của các kế
hoạch phát triển kinh tế, xã hội mà không chú ý đến văn hóa, tháng 12 năm
1986, UNESCO (Tổ chức văn hóa giáo dục và khoa học Liên hiệp quốc) dưới
sự bảo trợ của Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã quyết định phát động Thập kỷ
phát triển văn hóa thế giới 1988 - 1997 với 4 mục tiêu:
1. Đảm bảo coi trọng đúng mức vai trò của văn hóa trong các kế hoạch,
chính sách và dự án phát triển.
2. Khẳng định và đề cao bản sắc văn hóa các dân tộc, khuyến khích tài
năng sáng tạo và cuộc sống có văn hóa.
3. Mở rộng việc huy động các nguồn lực và khả năng sáng tạo của cá
nhân và cộng đồng tham gia vào đời sống văn hóa.
4. Đẩy mạnh giao lưu và hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hóa.
Hưởng ứng Thập kỷ quốc tế văn hóa và phát triển do Liên hiệp quốc
phát động, Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia thập kỷ văn hóa và phát
triển. Điều đó chứng tỏ một tầm nhìn văn hóa, thể hiện cụ thể qua việc gắn sự
nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động đối với văn hóa: “Văn
hóa là đổi mới; Đổi mới là văn hóa” [33, 42-48].
Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam đã đặc biệt chú ý đến văn hóa và sáng tạo
văn hóa. Điều đó được thể hiện qua trống đồng Đông Sơn thời các vua Hùng
17
với chức năng đánh giặc và tế lễ, với những bức tranh chạm khắc gợi lên một
cuộc sống đa dạng; thành Cổ Loa như một biểu tượng văn hóa… đã chứng tỏ
một tâm thức văn hóa của nước Âu Lạc. Trong thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc,
giá trị văn hóa Việt Nam biểu hiện cao nhất ở lòng yêu nước, ý chí độc lập tự
chủ được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí.
Cuối thời Bắc thuộc, sức quật cường của nền văn hóa Âu Lạc đã thôi thúc
hàng loạt cuộc nổi dậy quyết liệt của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Khúc Hạo,
Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh…dẫn đến việc thành lập nước
Đại Cồ Việt. Trong thời kỳ Bắc thuộc, chúng ta đã tiếp thu có chọn lọc kho
tàng văn hóa đồ sộ và phát triển đến trình độ cao của người Hán để tiếp biến
thành di sản văn hóa của chúng ta, trong đó có hai hiện tượng nổi bật nhất là
Nho giáo Việt Nam và chữ Nôm.
Cuối thế kỷ XIX, nước ta bị thực dân Pháp xâm lược gần một thế kỷ, nhưng
văn hóa Việt Nam chẳng những không bị đồng hóa mà còn thu nhận và tiếp biến
những tinh hoa văn hóa Tây Âu để làm giàu thêm hành trang văn hóa của mình.
Đến thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta vừa liên tục kháng chiến chống ngoại
xâm, vừa chống đói nghèo, dốt nát và lạc hậu, xây dựng một nền văn hóa tiên
tiến mang đậm màu sắc dân tộc. Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí
Minh đã tố cáo sự áp bức văn hóa bên cạnh sự đô hộ về chính trị và bóc lột về
kinh tế của thực dân Pháp. Sau ngày độc lập, trong bộn bề công việc khẩn cấp,
Bác Hồ không quên công việc “chống giặc dốt” song song với “chống giặc
đói” và “giặc ngoại xâm”.
Chính từ tầm nhìn văn hóa ấy, năm 1943 Đảng Cộng sản Đông Dương
đã cho ra đời Đề cương văn hóa phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh, đã kịch liệt lên án các thứ văn hóa “nhắm
mắt theo Tàu”, “nhắm mắt theo Tây”, “lăm le theo Nhật”, xa rời truyền thống
dân tộc, xa rời cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Người đề ra ba nguyên tắc
lớn cho cuộc vận động Tân văn hóa đó là: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại
chúng hóa. Đây là một đóng góp quan trọng, là một cái mốc lịch sử đánh dấu
18
sự nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa cũng như thuộc tính và chức năng
của văn hóa trong tiến trình giải phóng dân tộc và xây dựng nền văn hóa mới.
Mặc dù Đề cương văn hóa đã có những đóng góp quan trọng trong việc
nhận thức về tầm quan trọng của văn hóa, song ngành khoa học nghiên cứu về
văn hóa - văn hóa học cũng chỉ mới hình thành ở Việt Nam chưa bao lâu.
Ngay định nghĩa “văn hóa là gì?” cũng còn nhiều ý kiến khác nhau.
Sau khi Đề cương văn hóa ra đời, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học đi
sâu nghiên cứu những vấn đề về bản chất của văn hóa và đưa ra nhận định: nếu
coi văn hóa là đối tượng khoa học, nghĩa là đối tượng để phân tích, lý giải, thì
phải có một định nghĩa xác định rõ nội hàm và ngoại diên của khái niệm, cũng
đề cập được các thuộc tính và chức năng của đối tượng. Từ đó, có thể hiểu
định nghĩa văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được hình
thành, lưu truyền và phát triển qua quá trình sáng tạo của con người trong sự
tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội.
Định nghĩa này không đồng nhất văn hóa với hình thái ý thức xã hội,
mặc dù hình thái ý thức xã hội (chính trị, triết học, văn học, nghệ thuật…) là
một thành tố của văn hóa. Văn hóa không chỉ bao gồm giá trị văn hóa tinh thần
mà còn bao gồm cả giá trị văn hóa vật chất (văn vật, cảnh quan, kiến trúc…).
Văn hóa là sự thống nhất hữu cơ giữa giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa
tinh thần. Giá trị văn hóa vật chất là sự tổng hợp những tư liệu sản xuất và
những giá trị vật chất khác, tùy theo từng trình độ phát triển của xã hội. Khái
niệm giá trị văn hóa tinh thần bao gồm những thành tựu của xã hội trong lĩnh
vực khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, văn chương, lối sống, tập tục, tín ngưỡng
và những quyền cơ bản của con người, trong tổ chức đời sống và phương thức
hoạt động của nhà nước và xã hội, trong phong tục và pháp luật của từng thời
kỳ lịch sử. Văn hóa tinh thần phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất, nội dung
và tính chất của nó do chế độ kinh tế, xã hội quyết định. Trong xã hội có giai
cấp, văn hóa mang tính chất giai cấp, do đó giai cấp tiến bộ là người đại diện
cho văn hóa tiên tiến, là văn hóa vì con người. Cùng với sự ra đời và hình
19
thành các dân tộc, văn hóa phát triển dưới các hình thức dân tộc. Nội dung của
văn hóa cũng rất phong phú, nhưng chung quy có thể xác định trong bốn mặt:
các thành tựu thuộc văn hóa vật chất, các thành tựu của văn hóa nhận thức
(nhân sinh quan, thế giới quan, triết học, mỹ học, văn học, nghệ thuật…), các
thành tựu của văn hóa ứng xử (bao gồm các thang giá trị trong cách ứng xử với
thiên nhiên và ứng xử với con người, với gia đình, với xã hội…), các thành tựu
của văn hóa tổ chức đời sống (bao gồm các thang giá trị trong cách tổ chức đời
sống gia đình, cộng đồng, xã hội…). Nội dung đó đã xác định nội hàm và
ngoại diên của khái niệm văn hóa. Không thể coi văn hóa là tất cả, văn hóa là
những thành tựu được thăng hoa thành vẻ đẹp (chữ văn có nghĩa gốc là vẻ
đẹp), cũng không thể hiểu văn hóa theo nghĩa hẹp, ví dụ nâng cao trình độ văn
hóa, thường chỉ dùng để chỉ học vấn, kiến thức; ngành văn hóa thường chỉ
quản lý các thư viện, bảo tàng.
Định nghĩa văn hóa vừa nêu trên đã bao hàm bốn thuộc tính và đi liền
với nó là bốn chức năng cơ bản của văn hóa. Đó là: tính hệ thống với chức
năng tổ chức xã hội; tính giá trị với chức năng điều tiết xã hội; tính lịch sử với
chức năng giáo dục và tính nhân bản với chức năng giao tiếp [75, 14-15].
Tính hệ thống là thuộc tính hàng đầu của văn hóa. Hệ thống, được hiểu
là một tổ hợp hữu cơ, bao gồm nhiều thành tố có quan hệ khăng khít với nhau,
tương tác tương thành, chi phối và chế ước lẫn nhau. Ba nội dung cơ bản của
văn hóa là văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử (với tự nhiên và xã hội), văn hóa
tổ chức đời sống (gia đình, xã hội) kết hợp trong một hệ thống hữu cơ. Trong
đó, văn hóa nhận thức có vai trò chi phối, chế ước tất cả. Chính nhờ tính hệ
thống mà văn hóa thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Văn hóa làm tăng
thêm sự cố kết cộng đồng, tạo nên sự ổn định xã hội, cung cấp cách ứng xử
thích hợp đối với môi trường tự nhiên và xã hội.
Tính giá trị là thuộc tính thứ hai của văn hóa. Văn hóa không chỉ bao
gồm các giá trị đẹp hình thức. Nó còn là thước đo mức độ nhân bản của một
con người, một xã hội. Nó cho phép phân biệt văn hóa với phi văn hóa, phản
20
văn hóa. Theo nghĩa đó, có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá
trị thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ thường dành riêng cho các sáng tạo trong các loại
hình nghệ thuật với ba tiêu chuẩn cơ bản: Chân (đúng, thật), thiện (tốt, lành),
mỹ (đẹp, hay). Theo thời gian có thể chia thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất
thời (và lỗi thời). Theo không gian có thể chia thành giá trị cục bộ (một vùng)
và giá trị phổ biến.
Căn cứ vào các thang giá trị mà xã hội thường xuyên chấp nhận, sàng
lọc, điều chỉnh để duy trì sự ổn định và không ngừng tự hoàn thiện. Đó chính
là chức năng điều chỉnh xã hội của văn hóa. Trong sự phát triển mạnh mẽ của
kinh tế, xã hội hiện nay, UNESCO đã cảnh tỉnh các nhà hoạch định “văn hóa
giữ vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết của phát triển”.
Tính lịch sử, đây là thuộc tính được xác định bởi bề dày và chiều sâu của
văn hóa. Một nền văn hóa bao giờ cũng được hình thành qua nhiều thế hệ trên
chiều dài lịch sử. Nó tạo nên truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là sự
tiếp nối không đứt đoạn của phép nước lệ làng, của các tín điều luân lý, của
phong tục tập quán, của các chuẩn mực giá trị… Nhưng văn hóa vốn là một
thực thể năng động, luôn luôn nằm trong trạng thái giao lưu. Nó không hề đóng
cửa từ chối những cái mới đến từ bên ngoài. Có điều quá trình tiếp nhận những
nhân tố ngoại lai thường là quá trình tiếp biến chứ không hề là tiếp thu thụ động.
Truyền thống văn hóa luôn luôn thực hiện chức năng giáo dục của mình
đối với con người. Bằng con đường giáo dục hữu thức và vô thức từ khi chào
đời cho đến khi trưởng thành, con người nhận được sự dạy bảo của truyền
thống văn hóa. Tư tưởng chiến lược “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm trồng người” của Hồ Chí Minh [51, 310] không chỉ đề cập đến vị trí
quan trọng của giáo dục theo nghĩa hẹp (sự dạy dỗ trong nhà trường) mà còn ý
thức đầy đủ đến chức năng và tác dụng của văn hóa trong việc hình thành nhân
cách con người.
Tính nhân bản là thuộc tính thứ tư của văn hóa. Văn hóa là thành quả
sáng tạo của con người. Thuộc tính này cho phép phân biệt văn hóa với những
21
giá trị tự nhiên chưa qua bàn tay sáng tạo của con người (một đất nước có thể
giàu khoáng sản, dầu mỏ, nguồn lợi thiên nhiên nhưng chưa hẳn giàu có về văn
hóa). Thuộc tính này xác định thang giá trị của nền văn hóa, bởi vì xét cho
cùng, văn hóa do con người sáng tạo ra và nhằm phục vụ lợi ích của con
người. Các nền văn hóa tuy có những nét độc đáo mang sắc thái dân tộc riêng
nhưng vẫn có chung một đặc điểm là vì con người, vì cuộc sống con người.
Nhờ đặc điểm chung đó mà văn hóa thực hiện chức năng giao tiếp của nó giữa
con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc kia. Cho dù văn tự,
ngôn ngữ khác nhau, nhưng loài người vẫn cảm thông được với nhau. Đó
chính là nhờ văn hóa. Nếu ngôn ngữ là công cụ giao tiếp thì văn hóa chính là
nội dung của giao tiếp.
Trên đây là bốn thuộc tính gắn liền với bốn chức năng cơ bản của văn
hóa. Những thuộc tính của văn hóa giúp chúng ta phân biệt văn hóa với các khái
niệm văn minh, văn hiến, văn vật. Văn minh (civilization) là trình độ đạt được
trong phát triển văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của loài người trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn: văn minh cổ đại, tiêu biểu là sự phát
triển rực rỡ của các quốc gia Ai Cập, Lưỡng Hà, Hi Lạp, La Mã… cổ đại; văn
minh hiện đại, gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp của chủ nghĩa tư bản.
Văn minh hiện đại còn được chia ra: văn minh công nghiệp, văn minh hậu công
nghiệp và văn minh tin học (còn gọi là nền văn minh thứ ba) - gắn liền với cuộc
cách mạng trong kỹ thuật điện tử và tin học hiện nay mà loài người đang đặt
những bước chân đầu tiên vào nhưỡng cửa của nó. Theo nghĩa thông thường,
văn minh đối lập với những gì lạc hậu, dã man, phản tiến bộ, phi nhân tính.
Trong sự phân kỳ xã hội loài người, người ta chia ra ba giai đoạn: mông muội,
dã man và văn minh. Như vậy, văn minh còn là một giai đoạn trong sự phát
triển nhân loại. Khi trong xã hội xuất hiện nhà nước thì loài người chuyển từ giai
đoạn dã man sang văn minh [78, 821]. Văn hóa giàu tính nhân bản, hướng tới
những giá trị muôn thuở, trong khi văn minh hướng tới sự hợp lý, sắp đặt cuộc
sống sao cho tiện lợi. Văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính lịch sử, trong
22
khi văn hóa được xác định bởi bề dày và chiều sâu thì văn minh chỉ là mặt cắt
đồng đại; một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một truyền thống văn hóa lâu đời,
ngược lại một quốc gia văn minh có thể nghèo nàn về văn hóa. Còn văn hiến và
văn vật là những khái niệm có từ chữ Hán nhưng cách dùng trong tiếng Việt thì
đã được Việt hóa. Trong tiếng Hán, văn hiến chỉ có nghĩa là sách vở, điển tích
và chuyện về các bậc hiền minh. Trong tiếng Việt, văn hiến là truyền thống văn
hóa tốt đẹp và lâu đời (đất nước ngàn năm văn hiến), nguyên nghĩa là văn
chương, sách vở hay, bảo tồn truyền thống văn hóa lâu đời [78, 798]. Văn vật
trong tiếng Hán chỉ điển chương, lễ nhạc (sản phẩm cụ thể của văn hóa). Trong
tiếng Việt văn vật là một bộ phận của văn hóa. Văn là vẻ đẹp, vật là các sản
phẩm do con người sáng tạo ra có giá trị nghệ thuật và sức sống lâu dài. Văn vật
được biểu hiện dưới dạng vật thể như các công trình kiến trúc, di tích, hiện vật
quý hiếm có giá trị nghệ thuật và hàm lượng văn hóa cao [78, 826]. Chung quy,
văn minh, văn hiến, văn vật là những khái niệm phái sinh của văn hóa, cũng có
thể hiểu là khái niệm bộ phận của văn hóa, bởi vì văn hóa bao giờ cũng được
dùng với một hàm nghĩa bao quát hơn.
1.1.2. Quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về văn hóa
Khi xây dựng nên những quan điểm và nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đi
đến kết luận rằng: sản xuất vật chất là cơ sở, là nền tảng, là cái quyết định sự
vận động và phát triển xã hội. Rằng, xét đến cùng, nguyên nhân sâu xa của mọi
sự vận động, biến đổi và phát triển của đời sống xã hội là những nhân tố thuộc
về đời sống vật chất, thuộc về nền sản xuất xã hội. Và khi thừa nhận vai trò
quyết định của đời sống vật chất xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gián tiếp
thừa nhận vai trò quyết định của văn hóa (văn hóa vật chất) đối với sự phát
triển xã hội. Bởi lẽ, trong quan niệm của các ông, văn hóa là toàn bộ những
thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người - hoạt
động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực của con người,
23
C.Mác xem văn hóa là “thiên nhiên thứ hai” - thiên nhiên được con người cải
tiến, được nhân hóa, mang ý nghĩa và nội dung con người.
Thật vậy, cách đây hơn 150 năm, trong Bản thảo Kinh tế - Triết học
năm 1884, C.Mác đã viết: “Việc tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật thể, việc
cải tạo giới tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng định của con người với tư cách là
một sinh vật có tính loài, có ý thức, nghĩa là sinh vật đối xử với loài như với
bản chất của chính mình, hoặc đối xử với bản thân mình như với một sinh vật
có tính loài… Cho nên chính trong việc cải biến thế giới vật thể, con người lần
đầu tiên thực sự khẳng định mình là một sinh vật có tính loài. Sự sản xuất đó là
đời sống có tính loài tích cực của con người. Nhờ sự sản xuất đó, giới tự nhiên
biểu hiện ra là tác phẩm của nó (con người) và thực tại của nó” [12, 136 - 137).
Với tư cách là “Tác phẩm của con người”, là “thực tại” - “giới tự nhiên thứ
hai” của con người, văn hóa đã được C.Mác đồng nhất với phương thức hoạt
động sống đặc thù, phương thức hoạt động sống riêng có của con người -
phương thức mà con người sử dụng lao động sáng tạo, hoạt động sản xuất vật
chất của mình để biến đổi và cải tạo giới tự nhiên xung quanh mình, cải tạo
hiện thực khách quan, và “xây dựng” hiện thực khách quan (“thực tại”) cho
mình, “tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” - “giới tự nhiên thứ hai”, giới tự
nhiên cho mình “theo quy luật của cái đẹp” [12, 137].
Từ quan điểm về văn hóa như trên, C.Mác coi văn hóa là cái phản ánh
tính đặc thù của hoạt động con người và sự tồn tại cũng với tính đặc thù như
vậy của con người trong thế giới. Rằng văn hóa chỉ xuất hiện khi con người ý
thức một cách rõ ràng về đời sống xã hội của họ, về hoạt động lao động sáng
tạo, hoạt động sản xuất vật chất để cải tạo và biến đổi tự nhiên vì sự tồn tại và
phát triển của chính họ, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn của họ. Nói cách
khác, trong quan điểm của C.Mác, văn hóa là cái phản ánh việc con người tự ý
thức về vai trò độc lập của mình, về khả năng và năng lực sáng tạo của mình
trong việc cải tạo và biến đổi tự nhiên.
24
Về chủ thể của văn hóa, C.Mác cho rằng: chủ thể của văn hóa là con
người, văn hóa là văn hóa của con người, do con người tạo ra cho chính mình và
con người sử dụng cái do chính mình tạo ra là văn hóa để phát triển năng lực
bản chất của mình trong quá trình cải tạo và biến đổi tự nhiên. Bằng hoạt động
lao động sản xuất của mình, con người không chỉ cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội,
mà còn cải tạo chính bản thân mình. Trong quá trình cải tạo tự nhiên, cải tạo xã
hội và cải tạo chính mình, con người ngày càng ý thức một cách rõ ràng hơn sức
mạnh sản xuất xã hội của lao động con người và họ cũng ngày càng ý thức một
cách đầy đủ hơn khả năng, năng lực sáng tạo mang bản chất người - tái sản xuất
ra giới tự nhiên, “xây dựng” giới tự nhiên cho chính con người “theo quy luật
của cái đẹp”. Bằng cách đó, bằng hoạt động lao động sáng tạo đó và chính sự
tồn tại của mình trong thế giới hiện thực, con người đã tự xác định cho mình
ranh giới phân biệt phương thức hoạt động sống của họ với phương thức hoạt
động sinh tồn của loài vật. Và ranh giới đó chính là văn hóa.
Theo quan điểm của C.Mác, văn hóa là cái thể hiện sự giải phóng của
con người, sự tự giải phóng của con người khỏi những ràng buộc và sự thống
trị với một sức mạnh bí ẩn của thế giới tự nhiên và thế giới “Thần thánh” mà
con người tưởng tượng ra do sự bất lực của mình trước giới tự nhiên đầy bí ẩn.
Văn hóa là cái ghi nhận lĩnh vực hiện thực được quy định không phải bởi tính
thiết yếu tự nhiên và sự tiền định của Thượng đế hay một đấng sáng tạo nào
đó, mà bởi hoạt động lao động sáng tạo của con người với tư cách một thực thể
độc lập, có ý thức, có năng lực tư duy và khả năng, năng lực lao động sáng tạo.
Do vậy, khi nói tới văn hóa không phải là nói tới cái thế giới sự vật và các tư
tưởng tự nó, mà là nói tới con người đã tạo ra nó. Song, sự phát triển của con
người lại chính là kết quả của quá trình hoạt động có ý thức, lao động sáng tạo
của bản thân con người, và do vậy mà nói tới văn hóa là nói tới hoạt động có ý
thức, lao động sáng tạo của con người và kết quả của hoạt động lao động đó.
Cũng do vậy, qua hình thức văn hóa của vật thể, chúng ta có thể phán xét về
con người đã tạo ra những vật thể văn hóa đó, về những đặc trưng, tính chất
25
của thời đại đã sản sinh ra chúng về trình độ phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm
mỹ của con người trong một thời đại lịch sử nào đó.
Quan điểm của C.Mác còn cho thấy, văn hóa là cái thể hiện sức mạnh xã
hội của hoạt động lao động sản xuất của con người. Và hoạt động lao động sản
xuất của con người - cái thể hiện năng lực sáng tạo của con người, năng lực tạo
ra toàn bộ sự phong phú, đa dạng cho tồn tại đích thực của con người, hình
thành mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên xung quanh và quan hệ
của con người với con người trong cộng đồng xã hội - chính là cội nguồn của
văn hóa. Song, nội dung của văn hóa không chỉ thể hiện ra ở đó, ở hoạt động
lao động sản xuất của con người, mà còn thể hiện ra ở sự phát triển của bản
thân con người trong toàn bộ tính đa dạng và toàn diện của sự tồn tại xã hội
của con người, ở sự phát triển và hoàn thiện của con người cả về thể xác lẫn
tâm hồn, cả về đạo đức lẫn năng lực trí tuệ của con người. Theo đó, văn hóa
với tư cách phương thức hoạt động sống đặc thù của con người cần phải được
hiểu là hoạt động đó không phải chỉ là hoạt động sản xuất nhằm tạo ra những
vật phẩm thiết yếu cho cuộc sống con người, mà còn là hoạt động tinh thần,
hoạt động giáo dục và khai sáng theo nghĩa rộng nhất của từ này để tạo nên
những sản phẩm tinh thần cho con người, cho thế giới con người, làm nên nền
tảng tinh thần của xã hội - cái ghi nhận tầm cao và chiều sâu phát triển của một
cộng đồng xã hội, tạo ra hệ các giá trị nhân đạo, nhân văn cho một cộng đồng
xã hội và là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với
người, với xã hội và với tự nhiên.
Khi coi văn hóa là phương thức hoạt động tinh thần của con người,
C.Mác coi văn hóa là lĩnh vực hoạt động tích cực của con người nhằm sản xuất
và tái sản xuất ra bản thân mình với tư cách một thực thể xã hội. Đó là hoạt
động của con người nhằm tạo ra một hệ thống những giá trị mang tính định
hướng cho sự phát triển ý thức con người và cho lối ứng xử của con người
trong cộng đồng xã hội. Với những hệ thống những giá trị định hướng này,
mỗi nền văn hóa trở thành một hệ thống những biểu tượng bao hàm trong đó
26
các khuôn mẫu ứng xử xã hội của con người. Đó còn là hoạt động của con
người nhằm tạo ra một hệ thống những thể chế mà qua đó, những giá trị định
hướng được giữ gìn, lưu truyền và phổ biến trong cộng đồng xã hội, trở thành
tài sản của mỗi người, của tất cả mọi người trong cộng đồng xã hội ấy và làm
nên truyền thống văn hóa cho một cộng đồng xã hội.
Khái quát lại, trong quan điểm của C.Mác, hai phương thức hoạt động
sống mang tính nền tảng của con người, làm cho con người trở thành một thực
thể sinh học - xã hội, đưa con người “từ vương quốc của tất yếu sang vương
quốc của tự do”, đó là hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động sản xuất tinh
thần tồn tại không tách rời nhau mà thống nhất với nhau, tạo thành hoạt động
sản xuất xã hội - vật chất và tinh thần - sản xuất và tái sản xuất ra con người
trong hệ thống các quan hệ xã hội. Trong hoạt động sản xuất vật chất, con
người gián tiếp tạo ra chính mình với tư cách một thực thể sinh học, và đến
lượt mình, thực thể sinh học ấy phát triển và hoàn thiện các khả năng và sức
mạnh thân xác của nó. Trong hoạt động tinh thần, con người gián tiếp tạo ra
mình với tư cách một thực thể xã hội, và đến lượt mình, thực thể xã hội ấy phát
triển và hoàn thiện ý thức con người, sức mạnh trí tuệ, sức mạnh xã hội của nó.
Bằng hoạt động sản xuất xã hội ấy - hoạt động nền tảng của con người, con
người tạo ra nền văn hóa của mình, sống trong nền văn hóa đó và làm cho nền
văn hóa ấy ngày một phát triển, ngày một hoàn thiện vì cuộc sống ngày càng
cao đẹp của mình, vì một xã hội nhân đạo, nhân văn, công bằng, dân chủ, văn
minh. Đồng thời, thông qua kết quả của hoạt động nền tảng đó của mình, con
người phán xét toàn bộ lịch sử sinh thành và phát triển của nhân loại, thẩm
định hệ thống những giá trị con người, những giá trị định hướng cho hoạt động
con người, xác định cả nội hàm lẫn ngoại diên của hệ thống những giá trị ấy và
thể hiện chúng qua nền văn hóa của mình. Và theo đó, kết quả hoạt động của
con người trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học, v.v… cũng được
phản ánh trong nền văn hóa nhân loại và trở thành những yếu tố cấu thành nền
văn hóa ấy khi chúng mang ý nghĩa và nội dung con người.
27
Trên tinh thần khoa học và nhân văn ấy, để tìm hiểu cội nguồn của văn
hóa, theo Ăngghen phải đặt nó trong quá trình hình thành loài người. Toàn bộ
ý kiến của Ph.Ăngghen về nguồn gốc loài người được trình bày trong bài Tác
dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người, là một
phần trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên. Tư tưởng chủ đạo trong bài viết
của ông là “lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”. Nhưng lao động ở
đây không chỉ là lao động chân tay thuần túy mà chủ yếu là lao động sáng tạo.
Ph.Ăngghen so sánh phương thức kiếm sống của loài vượn với lao động của xã
hội loài người: “Đàn vượn chỉ biết ăn hết sạch lương thực sẵn có trong khu vực
mà điều kiện địa lý hoặc là sự kháng cự của các đàn vượn bên cạnh đã hạn
định cho chúng” [13, 647]. Nói cách khác, loài vượn không biết tự tạo ra thức
ăn cho mình mà chỉ ăn những thứ có sẵn trong tự nhiên. Ph.Ăngghen gọi
phương thức kiếm ăn của loài vượn là “kinh tế cướp đoạt”. Ông nhận định,
“Nhưng tất cả những cái đó vẫn chưa phải là lao động, đúng theo ý nghĩa của
nó. Lao động bắt đầu cùng với việc chế tạo ra công cụ” [13, 648]. Như vậy,
chính lao động sáng tạo mới là động lực chính tác động vào quá trình chuyển
biến từ vượn thành người và đó cũng là cội nguồn của văn hóa, hay có thể nói,
lao động sáng tạo là bản chất của văn hóa.
Trong quá trình hoạt động cách mạng và xây dựng học thuyết khoa học
của mình, trong khi nhấn mạnh vai trò nguồn gốc, động lực, yếu tố quyết định
của kinh tế đối với sự phát triển xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn chú ý đến
vai trò quan trọng của yếu tố tinh thần, của văn hóa tinh thần đối với sự phát
triển kinh tế và văn hóa vật chất. Theo quan điểm của các ông, văn hóa không
chỉ tác động đến tiến trình lịch sử, mà còn “quyết định hình thức” của tiến trình
ấy; đồng thời, văn hóa còn định hướng và điều chỉnh toàn bộ hoạt động của
con người. Với ý nghĩa đó, văn hóa góp phần tạo nên nền tảng của sự phát
triển xã hội. Trong các tác phẩm của mình C.Mác và Ph.Ăngghen không dành
riêng một tác phẩm để trình bày hệ thống các quan điểm của mình về văn hóa,
28
nhưng toàn bộ tư tưởng của các ông về vấn đề này được thể hiện rất sâu sắc
thông qua hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng về con người và xã hội.
Kế thừa và phát triển quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về
văn hóa và vai trò của văn hóa trong công cuộc xây dựng xã hội mới, từ thực
tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin đã tiếp tục bổ
sung và phát triển những vấn đề lý luận về xây dựng nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa, hình thành nên hệ thống lý luận về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi “Chính sách Cộng sản thời
chiến” được thay bằng “Chính sách kinh tế mới” (NEP) và trong bối cảnh
“buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội
đã thay đổi về căn bản”, V.I.Lênin đã chỉ rõ : “Sự thay đổi căn bản đó là ở chỗ
: Trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của
chúng ta vào đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính
quyền v.v… Ngày nay, trọng tâm ấy đã chuyển sang công tác hòa bình tổ chức
“văn hóa”.” [41, 428]. Vì vậy, tiến hành công tác văn hóa phải được coi là
nhiệm vụ trọng yếu, là một cuộc cách mạng thật sự trên quy mô toàn xã hội
trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Rõ ràng là, theo V.I.Lênin, ngay sau khi
giành được chính quyền, cùng với công cuộc xây dựng nền kinh tế mới, Đảng
và Nhà nước của giai cấp vô sản phải bắt tay ngay vào sự nghiệp xây dựng một
nền văn hóa mới bằng cách: chủ động, tích cực tiến hành công việc giáo dục,
không ngừng nâng cao trình độ học vấn, trình độ văn hóa, văn minh cho quần
chúng lao động; kế thừa và phát huy giá trị truyền thống dân tộc; đồng thời
tiếp thu có chọn lọc những thành tựu văn hóa, văn minh của nhân loại.
V.I.Lênin cho rằng, văn hóa là lĩnh vực mang tính khoa học và sáng
tạo. Để có thể xây dựng được nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, trước hết
cần phải kế thừa tất cả giá trị văn hóa được loài người làm ra trong lịch sử.
Ở đây, việc thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa hoàn toàn không đồng nhất
với việc xóa bỏ những giá trị văn hóa được con người tạo ra trong chế độ
ấy. Chính vì vậy, Người luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên và toàn bộ giai cấp
29
vô sản “thấu hiểu” những điều ấy, phải tự mình biết “thu lượm” những giá
trị văn hóa trong quá khứ và biến nó thành nguồn năng lượng mới để xây
dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Ý thức rõ về thực trạng của nước Nga khi bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội vẫn còn là một nước tiểu nông, với nạn mù chữ phổ biến, với
“tình trạng thiếu văn hóa…”, V.I.Lênin luôn coi trọng những thành quả văn hóa,
văn minh nhân loại, nhất là những thành quả do chủ nghĩa tư bản đã tạo ra và
ông luôn trăn trở với nhiệm vụ : “Làm thế nào kết hợp được cách mạng vô sản
thắng lợi với văn hóa tư sản, với khoa học và kỹ thuật tư sản…” [42, 72]. Trên
cơ sở nền tảng tư tưởng, quan điểm của V.I.Lênin về văn hóa và con đường,
phương pháp xây dựng nền văn hóa mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, những người cộng sản và nhân dân Xô viết đã xây dựng một quốc gia xã
hội chủ nghĩa hùng cường và một nền văn hóa, văn minh hàng đầu thế giới.
Như vậy, với tư cách là nhà lý luận và nhà hoạt động cách mạng,
ngay sau Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I. Lênin đã đưa ra và thực hiện
một kiểu mẫu về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa và phương pháp xây dựng
nó. Đó là nền văn hóa hiện đại, trong đó bao gồm những nhân tố cơ bản: 1-
Tính đảng vô sản gắn liền với tính khoa học và sáng tạo; 2- Tính dân tộc
và tính nhân dân sâu sắc yêu cầu phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, đồng thời kế thừa những giá trị văn hóa được nhân loại sáng tạo ra
trong lịch sử; 3- Tính hiện đại của nền văn hóa đòi hỏi phải tiếp thu có
chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Khái quát lại, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, bản chất
văn hóa là sáng tạo, là sự kết tinh năng lực bản chất con người. Văn hóa là
phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất con người gắn với
những hoạt động sống của họ, làm cho con người trở nên tốt đẹp hơn, hoàn
thiện hơn. Những nội dung đó cũng là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hiểu
theo gốc độ này thì chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội mang những đặc trưng
của văn hóa, C.Mác khái quát mỗi bước con người tiến đến văn hóa là mỗi
30
bước con người tiến đến tự do. Đến V.I.Lênin, tư tưởng đó đã được diễn đạt cụ
thể hơn khi ông đưa ra luận điểm về văn hóa xã hội chủ nghĩa do nhân dân lao
động xây dựng “Văn hóa vô sản = chủ nghĩa cộng sản”. Như vậy, xét trên
phương diện chung nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin quan niệm bản chất văn hóa xã
hội chủ nghĩa chính là chủ nghĩa cộng sản, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa gắn liền với xây dựng xã hội cộng sản. Còn về phương diện lịch sử, nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa ra đời là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất xã
hội chủ nghĩa đã hình thành. V.I.Lênin đã nói rằng: Văn hóa vô sản không phải
bỗng nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia
về văn hóa vô sản phát minh ra. Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy
luật của tổng số những kiến thức mà loài người tích lũy được dưới ách thống
trị của xã hôi tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về văn hóa
Ngay sau khi nước ta độc lập, nhân dân ta bắt tay vào công cuộc xây
dựng xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định, để “biến một
xã hội dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao”, chúng ta phải phát
triển đồng thời cả kinh tế và văn hóa, lấy phát triển văn hóa làm cơ sở để
phát triển kinh tế.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, văn hóa là hoạt động sáng tạo và
toàn bộ sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người nhằm đáp ứng nhu cầu
tồn tại và phát triển của nhân loại, ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích cuộc sống, loài người sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [45, 431].
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa là lối sống, là “phương thức” sống của
nhân loại được biểu hiện ở mỗi cộng đồng nhằm “thích ứng” với “yêu cầu đời
31
sống”, yêu cầu sinh tồn của con người. Nhân dân là chủ thể sáng tạo văn hóa
hay nói cách khác, văn hóa là kết quả sáng tạo của nhân dân. “Dứt khoát quần
chúng là người sáng tạo văn hóa”, “quần chúng là người sáng tạo, công nông
là người sáng tạo”. Văn hóa là lĩnh vực của các giá trị nhân văn, là trình độ
phát triển nhân tính ở con người. Cho nên nói đến văn hóa là nói đến việc nâng
cao năng lực nhân tính của các cá nhân và cộng đồng.
Quan điểm trên của Hồ Chí Minh phù hợp với quan niệm của thời đại ngày
nay. Hội nghị quốc tế Mêhicô do UNESCO tổ chức từ ngày 26 tháng 7 đến 06
tháng 8 năm 1982, có trên 100 nước tham dự, với trên 1.000 đại biểu đã chấp
nhận một quan niệm về văn hóa sau đây: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là
tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết
định tính cách của một số xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao
gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Chính văn hóa đem
lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng
ta trở thành sinh vật đặc biệt, nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân
một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đoán được những giá trị
và thực thi những lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý
thức được bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên
những công trình vượt trội lên bản thân mình” [63, tr. 12-13].
Văn hóa là một bộ phận hợp thành của xã hội, một trong bốn thành tố
quan trọng, gắn chặt với đời sống xã hội: công cuộc kiến thiết nước nhà, có
bốn vấn đề cũng phải chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau: kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa.
Trước đây, trong công cuộc đấu tranh của dân tộc, bảo vệ độc lập tự do,
Hồ Chí Minh coi “văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận”, bên cạnh các mặt
trận chính trị, quân sự, ngoại giao, cũng trên tinh thần coi văn hóa là một bộ
phận của xã hội, Người nêu khẩu hiệu: “văn hóa hóa kháng chiến”, “kháng
chiến hóa văn hóa”. Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nguồn gốc, bản chất xã
32
hội của văn hóa khi gắn văn hóa với con người, với đời sống xã hội của con
người. Văn hóa là hoạt động sáng tạo các giá trị giúp con người vươn lên
“thích ứng với yêu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Văn hóa chính là
“mục đích cuộc sống” mà ngày nay chúng ta quan niệm là “mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội”, mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Kế thừa, tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, đặc biệt là quan điểm
của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác và tư tưởng của V.I.Lênin về văn hóa và
con đường, phương pháp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ năm 1943
trong “Đề cương văn hóa” Đảng ta đã khẳng định: Nền văn hóa nước ta mang
tính dân tộc, khoa học và đại chúng - đó là nền văn hóa vừa kế thừa, phát huy
bản sắc dân tộc vừa làm giàu cho mình bằng những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trong bối cảnh đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng
ta xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [29, 110-111]. Vì vậy, chúng
ta cần tập trung mọi nguồn lực để “xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo
đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh làm
cho sự phát triển xã hội” [29, 112].
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: “ Văn hóa Việt Nam
là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc
Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhờ nền
tảng và sức mạnh văn hóa ấy mà dù có nhiều thời kỳ bị đô hộ, dân tộc ta
vẫn giữ vững và phát huy bản sắc của mình, chẳng những không bị đồng
hóa, mà còn quật cường đứng dậy giành lại độc lập cho dân tộc, lấy sức ta
mà giải phóng cho ta” [31, 6]. Và: “Trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa
mới, đặc biệt chú ý xây dựng quan hệ xã hội lành mạnh, khắc phục các
hiện tượng tiêu cực; giữ gìn và phát huy tinh thần dân chủ, nhân đạo, chủ
nghĩa anh hùng và những giá trị văn hóa khác của truyền thống dân tộc và
33
cách mạng” [31, 20]. Không có hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được
văn học nghệ thuật trong việc xây dựng tính cách lành mạnh, tác động sâu
sắc vào việc đổi mới nếp suy nghĩ, lẽ sống của con người.
Tiếp tục phát triển và hoàn thiện các quan điểm, mục tiêu về văn hóa
của Đảng được thông qua tại các Đại hội trước, đặc biệt là trong Nghị
quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII),
Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban chấp hành Trung ương (khoá IX), Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006) đã xác định: “Phát
triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” [32, 212] và “Đẩy mạnh việc
thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa đã được xác định trong Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là “làm cho văn hóa thấm
sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị
mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc
và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn
hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế,
chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân…” [32, 212-213].
Đối với nước ta, văn hóa là mục tiêu, đồng thời là động lực của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Văn hóa là hệ thống
những chuẩn mực giá trị tinh thần của dân tộc, thể hiện dưới những sắc
thái muôn hình muôn vẻ trên tất cả các lĩnh vực đời sống và hoạt động xã
hội. Những giá trị chuẩn mực đó được thể hiện trong nhiều lĩnh vực, nhiều
khía cạnh: (1) Lao động và sản xuất, ăn, ở, mặc, giao tiếp, hoạt động giới
tính; (2) Hệ thống các nhận thức, quan điểm và thể chế chính trị lưu hành
trong một chế độ và làm nền tảng chính trị cho chế độ đó; (3) Các tri thức
đại cương và chuyên ngành về tự nhiên và về xã hội con người tức học
vấn; (4) Các hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật; (5) Khoa học kỹ thuật
và công nghệ; (6) Nhu cầu và các hoạt động của thế giới tâm linh như tín
ngưỡng, tôn giáo, đức tin; (7) Đạo đức và nhân phẩm.
34
Từ những nội dung đã được trình bày ở phần trên, có thể thấy rằng, có
nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo nghĩa thông dụng, văn hóa được
dùng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo
nghĩa chuyên biệt, văn hóa dùng để chỉ trình độ phát triển xã hội ở một giai
đoạn nào đó. Ví dụ: trong khai quật, có văn hóa Đông Sơn, Gò Mun, Đồng
Động, văn hóa thời đồ sắt, đồ đồng. Theo nghĩa rộng hơn, văn hóa bao gồm tất
cả từ những sản phẩm tinh thần cho đến sản phẩm vật chất do sự sáng tạo của
con người làm nên như: tín ngưỡng, phong tục, lối sống, cách thức lao động,
...Với cách hiểu rộng này, văn hóa mới là đối tượng đích thực của văn hóa học.
Tuy nhiên, theo nghĩa rộng này, trên thế giới cũng có hàng trăm định
nghĩa khác nhau về văn hóa. Cần lưu ý rằng, để định nghĩa một khái niệm nào
đó, trước hết cần xác định được những đặc trưng cơ bản của nó. Đó là những
nét riêng biệt, tiêu biểu, “cần” và “đủ”. Cần tức là những cái gì mà thiếu nó thì
người ta không thể hiểu được. Ví dụ, nhận xét về một con người, phải xét quan
hệ trong gia đình và quan hệ ngoài xã hội. Đủ là những tiêu chuẩn, những
chuẩn mực để đánh giá về một sự vật, hiện tượng hay một con người. Ví dụ,
đánh giá một con người, theo quan niệm xưa “cái răng, cái tóc là góc con
người”, hoặc là qua cách ăn mặc…
Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay, có thể đưa ra
khái niệm văn hóa, theo quan điểm của tác giả: văn hóa là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và được con
người tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn; những giá trị đó đáp ứng
được nhu cầu của cả cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận và được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hóa là biểu hiện của trình độ phát
triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Về vị trí, vai trò của văn hóa cũng được nhiều nhà khoa học, nhà nghiên
cứu, nhà văn hóa bàn luận, cơ bản đã thống nhất nhau ở những điểm: Văn hóa
là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như các phương thức tạo
ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến bộ của loài người và sự
35
truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hình thức khởi đầu và
nguồn gốc đầu tiên làm hình thành và phát triển văn hóa là lao động của con
người, phương thức thực hiện lao động và kết quả của lao động. Văn hóa được
chia thành hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được
thể hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra, từ các tư liệu sản xuất cho
đến các tư liệu tiêu dùng của xã hội. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau
của xã hội thì các sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, phản ánh các giai
đoạn phát triển khác nhau của văn hóa.
Văn hóa tinh thần là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần, bao
gồm khoa học và mức độ áp dụng các thành tựu của khoa học vào sản xuất và
sinh hoạt, trình độ học vấn, tình trạng giáo dục, y tế, nghệ thuật, chuẩn mực
đạo đức trong hành vi của các thành viên xã hội, trình độ phát triển nhu cầu
của con người… Văn hóa tinh thần được ẩn chứa trong hình thức “vật thể”; tất
cả những cái đó sống và cộng tác với thế hệ hiện nay là bảo vật của toàn bộ sự
giàu có tinh thần con người. Văn hóa còn bao gồm cả những phong tục, tập
quán, những phương thức giao tiếp và ngôn ngữ. Ranh giới giữa văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần chỉ có tính chất tương đối.
Văn hóa, đó là thuộc tính bản chất, tộc loài của con người với các chức
năng: giáo dục, nhận thức, định hướng, đánh giá, xác định chuẩn mực của
hành vi, điều chỉnh các quan hệ ứng xử, giao tiếp. Song, cốt lõi trong các chức
năng của những giá trị văn hóa đem lại là chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức.
Không có tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị (giá trị vật chất và giá trị tinh
thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Ngày nay, nền văn hóa nhân loại với tất cả tầm
vóc của nó gợi cho con người những điều tự hào cao cả và tinh thần trách
nhiệm; bên cạnh đó, con người không thể không lo lắng và thậm chí cả sợ hãi
trước vô số vấn đề của thế giới hiện đại.
Nói đến vai trò của văn hóa, trước hết nói đến tác động của các giá trị,
chuẩn mực văn hóa của một cộng đồng trong sự phát triển đời sống của toàn xã
36
hội và của mỗi cá nhân. Giá trị văn hóa là các giá trị đạo đức, chính trị, xã hội,
thẩm mỹ… đáp ứng nhu cầu cơ bản của cả cộng đồng, được cộng đồng thừa
nhận như một lý tưởng, một khát vọng vươn tới. Chẳng hạn như lý tưởng “độc
lập”, “tự do” là khát vọng thiêng liêng của cả dân tộc ta “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do”. Giá trị văn hóa cơ bản có vai trò như ngọn cờ vẫy gọi, tập hợp
cả cộng đồng phấn đấu cho mục đích chung của dân tộc. Nó là động lực tinh
thần thôi thúc người ta hành động vì mục tiêu chung. Văn hóa có vai trò “khai
sáng”, giáo dục, giáo hóa cho toàn xã hội. Nó thức tỉnh ý thức cộng đồng, soi
sáng con đường vươn tới hạnh phúc, củng cố niềm tin vào tương lai dân tộc.
Văn hóa có vai trò to lớn đối với sự hình thành nên mỗi con người, nó giữ vai
trò xã hội hóa cá nhân là “trồng người”, hay sinh thành nhân cách cá nhân.
Như đã trình bày ở phần trên, văn hóa theo nghĩa gốc phương Đông là
“hóa dân dịch tục”, đem cái văn mà giáo hóa con người, làm cho người ta
“hóa” ra có “văn”. Phương Tây coi “văn hóa” là “gieo trồng” trí tuệ, là giáo
dục con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh kết hợp cả hai nền văn hóa Đông và Tây
để nói đến sự nghiệp trồng người của văn hóa. Văn hóa góp phần tích cực để
giải phóng con người (giác ngộ) khỏi cái ác, cái xấu trong cuộc “cách mạng
con người”, bằng giáo dục để khai mở những đức tính tốt đẹp của con người.
Đây chính là “thái độ cách mạng”, thông qua giáo dục mà tác động trực tiếp
vào tâm hồn con người bằng văn hóa. 1.2. SỰ THỐNG NHẤT VÀ MÂU THUẪN GIỮA TÍNH TRUYỀN THỐNG
VÀ HIỆN ĐẠI NHƯ MỘT QUY LUẬT PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HÓA
1.2.1. Khái niệm truyền thống trong văn hóa
Trước hết để làm rõ khái niệm về truyền thống văn hóa, cần làm rõ khái
niệm truyền thống. Từ “truyền thống” (tiếng La-tin là traditio, “hành vi lưu
truyền”) là từ động từ tradere, “chuyển sang cho người khác, giao, trao lại”.
Littré 1 đã phân biệt bốn nghĩa chính: (1) “Sự giao một cái gì đó cho một người
1. Littré - (Maximilien - Paul - Emile, 1801-1881), nhà ngôn ngữ học và nhà triết học thực chứng người Pháp, trong lĩnh vực ngôn ngữ học, tác phẩm nổi tiếng của ông là bộ Từ điển ngôn ngữ Pháp (Dictionnaire de langue franỗaise).
37
nào đó”; (2) “Sự lưu truyền những sự kiện lịch sử, những thuyết tôn giáo,
những truyền thuyết, từ thế hệ này sang thế hệ nọ bằng con đường truyền khẩu
và không có bằng cớ chính thức và thành văn”; (3) “Đặc biệt, trong giáo hội
Giatô, sự lưu truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác sự hiểu biết những điều
thuộc về đạo và không hề có trong thánh thư”; (4) “Tất thảy những gì người
ta biết hoặc làm theo truyền thống, tức là bằng một sự lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ nọ nhờ ở lời nói hay làm mẫu” (Từ vị ngôn ngữ Pháp). Các định
nghĩa do Littré đưa ra phù hợp với nghĩa đặc biệt, nghĩa pháp lý và lễ điển của
traditio trong bộ luật Lamã và trong một số sử dụng của luật xưa Pháp hoặc chỉ
hoàn giao các giáo chức, hoặc theo nghĩa chung của “sự lưu truyền”. Nhà tu từ
học Quintilien, trong cuốn Thể chế diễn thuyết 2 giải nghĩa traditio là “giáo
huấn” (enseignement). Về mặt ngữ nghĩa, cần tránh lẫn lộn giữa hai động từ
hàm ẩn trong khái niệm truyền thống: “trao” và “truyền” (remettre et
transmettre; tiếng latin: tradere và transmittere). Động từ thứ nhất phù hợp
với một vật được trao hay một vật được giao (chose remise ou objet livré) theo
quy ước hay khế ước giữa các bên. Động từ thứ hai đáp ứng chính hành vi
truyền cho nhau giữa các chủ thể, và chỉ định không những các nội dung mà cả
các quy trình và một chức năng có tầm phổ biến, bởi, cũng giống như sự phát
minh không thể quy giản vào sự miêu tả, vào lịch sử hay sự phân tích các đối
tượng được sáng tạo, truyền thống không thể quy giản vào sự miêu tả, vào lịch
sử hay sự phân tích các đối tượng được sáng tạo, truyền thống không thể quy
giản vào những “nội dung” được truyền (contemus transmis), mà đó là các sự
kiện, các phong tục, các học thuyết, các hệ ý thức hay thiết chế đặc biệt. Sự
thật, truyền thống không tự giới hạn ở sự bảo tồn cũng như ở sự truyền những
sở đắc trước đó: trên dòng đi của lịch sử, truyền thống tích hợp các hiện thể
2. Quintilien, nhà tu từ học La-tin ở thế kỷ thứ I, giáo sư tu từ học. Trong cuốn De institutione oatria (Thể chế diễn thuyết), ông chống lại xu hướng của những người đồng thời sử dụng tài hùng biện để làm nghề pháp luật học và nghề thầy cãi. Cuốn sách gồm những nghiên cứu đầy đủ để đào tạo một diễn giả và ở một số khía cạnh cũng là một chương trình giáo dục luân lý và văn học. Văn phong cuốn sách đẹp nổi tiếng và sự phê bình đúng đắn và xác đáng.
38
mới (existants nouveaux) bằng cách thích nghi chúng với các hiện thể cũ. Bản
chất nó không chỉ có tính giáo dục, cũng không thuần túy mang tính tư tưởng:
nó còn hiện ra là có tính biện chứng và tính bản thể (ontologique). Truyền
thống làm thành mới cái đã là; nó không bị giới hạn ở làm cho biết một văn
hóa, bởi nó đồng nhất hóa với chính cuộc sống của một cộng đồng.
Còn theo Từ điển Hán Việt, truyền thống được định nghĩa là “Truyền
thống: đời nọ truyền xuống đời kia” [3, 505]. Từ điển của Trung Quốc, xuất
bản 1989: “Truyền thống là sức mạnh của tập quán xã hội được lưu truyền lại
từ lịch sử. Nó tồn tại ở các lĩnh vực, chế độ, tư tưởng, văn hóa, đạo đức.
Truyền thống có tác dụng khống chế vô hình đến hành vi xã hội của con
người. Truyền thống là biểu hiện tính kế thừa của lịch sử” [39, 10]. Theo Bách
khoa toàn thư Pháp: “Truyền thống, theo nghĩa tổng quát là tất cả những gì
người ta biết và thực hành bằng sự chuyển giao từ thế hệ này đến thế hệ khác,
thường là truyền miệng, hay bằng sự bảo tồn và noi theo những tập quán,
những cách ứng xử, những mẫu hình và tấm gương” [34, 15]. Từ điển chính trị
vắn tắt viết: “Truyền thống: di sản về xã hội và văn hóa được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác và được duy trì trong suốt thời gian dài” [77, 41]. Theo
GS. Vũ Khiêu: “Truyền thống là những thói quen lâu đời đã được hình thành
trong nếp sống, nếp suy nghĩ và hành động của một dân tộc, một gia đình, một
dòng họ, một tập đoàn lịch sử” [40, 536]. Còn Phan Huy Lê thì cho rằng:
“Truyền thống là tập hợp những tư tưởng và tình cảm, những thói quen trong
tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định được hình
thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác” [43, 30].
Truyền thống văn hóa là khái niệm cơ bản về các yếu tố và các giá trị
văn hóa được chắt lọc, bảo tồn, lưu giữ truyền lại qua hoạt động thực tiễn của
các thế hệ thể hiện bản chất đặc thù của một cộng đồng người trong lịch sử.
Nói chung đó là mô hình cảm thụ, tư duy và hành động được thừa nhận nhiều
nhất trong đời sống mọi người, là tiêu chí của sự liên hệ và cảm thông lẫn nhau
39
giữa cá nhân và xã hội. Truyền thống hình thành dần dần qua hoạt động lịch sử
của con người; sau khi hình thành nó có tính ổn định tương đối. Tuy truyền
thống bắt nguồn từ lịch sử nhưng không phải mọi thứ thuộc lịch sử đều là
truyền thống; chỉ có những gì được người ta chắt lọc, bảo tồn, kế thừa mới
được gọi là truyền thống. Vì vậy ở mọi dân tộc, khái niệm truyền thống thường
gắn liền với khái niệm bản sắc. Và đó cũng chính là tố chất cơ bản của truyền
thống mà ta rất chú ý đến ở đây.
Khi nói về truyền thống văn hóa, các nhà khoa học thường phân biệt hai
khái niệm văn hóa truyền thống và truyền thống văn hóa. Đây là hai khái niệm
không đồng nhất. Theo quan niệm của các nhà khoa học, văn hóa truyền thống
chỉ toàn bộ giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa tinh thần của một dân tộc
sáng tạo nên trong lịch sử, được kết tinh lại và tồn tại tương đối ổn định, là bản
sắc và cốt cách của dân tộc đó. Còn truyền thống văn hóa là tất cả những giá
trị văn hóa của một dân tộc được lưu truyền, kế thừa và phát triển liên tục
trong thực tiễn lịch sử, xã hội.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về truyền thống văn hóa, Hội
nghị Trung ương 5, khóa VIII của Đảng đã đúc kết ý kiến về các giá trị truyền
thống cơ bản của người Việt Nam để đưa ra một định nghĩa về bản sắc dân tộc
như sau: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình
- làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức
tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong
lối sống… bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu
hiện mang tính dân tộc độc đáo” [31, 56].
Cũng tất nhiên là các dân tộc khác nhau, với bối cảnh văn hóa khác nhau
sẽ có truyền thống văn hóa khác nhau. Cùng một dân tộc, trong các thời đại
khác nhau, hiểu về truyền thống văn hóa cũng không giống nhau: đây là ý
40
nghĩa về một thực thể vận động như đã nói. Xét như vậy, truyền thống văn hóa
về thực chất chính là sự nhận thức, quan niệm giá trị, lựa chọn ứng xử và đồng
cảm của con người trong một thời đại cụ thể trước bước đi của lịch sử.
Từ đó, có thể rút ra khái niệm truyền thống văn hóa như sau: truyền
thống văn hóa là tổng thể những giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa
tinh thần của một cộng đồng người nhất định được sáng tạo ra trong lịch sử
và đã trở nên ổn định, là bản sắc, cốt cách của cộng đồng người hay dân
tộc đó, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Do đó, truyền
thống bao giờ cũng mang ba đặc trưng cơ bản là: tính cộng đồng, tính ổn
định và tính lưu truyền. Tất nhiên, những đặc trưng đó chỉ có ý nghĩa
tương đối, vì bản thân truyền thống cũng có quá trình hình thành, phát
triển và biến đổi. Mỗi khi hoàn cảnh lịch sử, cơ sở kinh tế - xã hội và hệ tư
tưởng thay đổi thì truyền thống cũng có những biến đổi, vừa có mặt kế
thừa, phát triển, có mặt đào thải, loại bỏ, vừa có sự hình thành những
truyền thống mới. Ở một thời điểm lịch sử nhất định, di sản truyền thống
do lịch sử để lại bao giờ cũng hàm chứa những yếu tố tích cực và tiêu cực.
Trước hết, nói về những yếu tố tác động tích cực của giá trị truyền
thống văn hóa:
Cần khẳng định rằng những giá trị truyền thống cơ bản đã nêu vẫn có ý
nghĩa tác động tích cực đến việc xây dựng con người mới và nền văn hóa
đương đại. Lòng yêu nước không chỉ thể hiện ở tinh thần giữ nước, mà nó còn
hun đúc cho con người tinh thần quyết tâm xây dựng đất nước giàu đẹp. Lòng
tự cường dân tộc đã tiếp cho con người một sức mạnh để đưa đất nước nhập
vào dòng chảy phát triển của thế giới. Tinh thần cần cù sáng tạo đã giúp con
người và văn hóa đạt được những tiến bộ rất quan trọng. Cần cù sáng tạo được
thể hiện trong học tập, nghiên cứu và trong lao động sản xuất. Lòng khoan
dung cũng là một giá trị truyền thống quan trọng của dân tộc. Ở Việt Nam, xưa
ông cha ta có câu: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Cũng với
tinh thần khoan dung, chúng ta đang xây dựng một nền văn hóa có khả năng
41
dung hợp các thành tựu tiến bộ của các nền văn hóa trên thế giới. Đức tính
giản dị cũng là một giá trị truyền thống văn hóa quan trọng của các dân tộc, đã
được Đảng và Bác Hồ nâng lên thành phương châm sống của con người mới
Việt Nam. Truyền thống thương người như thể thương thân cũng đang tạo cho
văn hóa Việt Nam một nét đẹp riêng và có tác động không nhỏ đến sự phát
triển con người và xã hội.
Tuy nhiên, nhiều người có thể nhận xét rằng, các giá trị văn hóa nói trên
thì cả thế giới đều có, vậy các giá trị đó có phải là bản sắc của riêng dân tộc ta
không? Điều này cũng đã có nhiều lý giải khác nhau, PGS. Hồ Sĩ Quý đưa ra
quan điểm về giá trị, tức là về vị trí khác nhau của các giá trị trong bảng giá trị
để phân biệt sự khác nhau giữa hệ thống giá trị phương Đông với hệ thống giá
trị phương Tây [67, 158]. GS. Nguyễn Trọng Chuẩn cho rằng “Dĩ nhiên, bất
cứ một dân tộc nào trên hành tinh này cũng đều có lòng yêu nước của họ. Lòng
yêu nước đó tuy một phần là tình cảm rất tự nhiên, nhưng mặt khác quan trọng
hơn, nó chính là sản phẩm của lịch sử, được hun đúc bởi chính lịch sử dân tộc”
[Nguyễn Trọng Chuẩn, Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu
phát triển,www.chungta.com, 18-11-2006].
Xét về góc độ khoa học, lòng yêu nước của một dân tộc hiển nhiên phải
được hình thành từ chính lịch sử của bản thân một dân tộc chứ không phải là
sự bắt chước dân tộc khác. Tình cảm yêu nước của một dân tộc xuất phát từ
tình cảm đối với mảnh đất đã sinh ra dân tộc đó, chứ không phải là người ta
yêu nước vì thấy dân tộc khác cũng yêu nước. Vì thế, tình cảm đó hiển nhiên
vẫn là bản sắc của một dân tộc, cho dù nó có thể giống với tình cảm của các
dân tộc khác. Như vậy, cần nhận thức bản sắc của một dân tộc không nhất thiết
phải là những đặc điểm của riêng của dân tộc đó, mà chỉ đơn giản nó là cái gốc
của dân tộc đó đúng với nghĩa của từ “bản sắc”. Cái gốc ấy nếu có giống
những cái gốc khác thì cũng là chuyện thường tình. Vấn đề là ở chỗ mỗi thế hệ
phải biết khai thác và phát huy cái gốc đó như thế nào để phát triển, chứ không
phải là cứ nhất thiết phải chứng minh và phân biệt sự hơn thua về bản sắc giữa
42
các dân tộc. Đó mới chính là tinh thần cốt lõi của vấn đề phát huy truyền thống
để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam có đặc điểm riêng, không giống bất cứ
dân tộc nào trên thế giới. Qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước là lịch sử
đấu tranh hết sức anh dũng để chống thù trong, giặc ngoài; một dân tộc nhỏ bé
phải chống lại những đế quốc hung hãn và hùng mạnh, có tiềm lực quân sự
hơn mình rất nhiều lần. Vì lẽ sinh tồn, kiên quyết không chịu mất nước, không
chịu làm nô lệ, với lòng yêu quê hương, Tổ quốc tha thiết, bằng ý chí kiên
cường và sức mạnh cố kết cộng đồng, bằng trí tuệ của mình, dân tộc Việt Nam
đã vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách viết nên những trang sử hào hùng
hiếm có. Trong suốt chiều dài lịch sử, tinh thần yêu nước của dân tộc Việt
Nam có sự phát triển về chất, được nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước, bởi
tinh thần yêu nước được thể hiện thành hệ thống trên nhiều phương diện, từ tư
tưởng, triết lý, đến nghệ thuật quân sự, đến văn hóa nghệ thuật; từ trong quan
niệm nhân sinh đến lối sống, đến nhân cách; từ ý thức giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc để duy trì nòi giống về mặt tinh thần đến ý thức tiếp nhận
giá trị văn hóa nhân loại để phát triển dân tộc và con người. Giá trị sâu sắc, to
lớn của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử là các lực
lượng tiên tiến lãnh đạo đất nước, luôn luôn giương cao ngọn cờ đại nghĩa vì
nước, vì dân để tập hợp, đoàn kết dân tộc nhằm bảo vệ nền độc lập tự chủ của
Tổ quốc. Những giá trị của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không chỉ thể hiện
trong đời sống hiện thực, mà còn được định hình trong các công trình văn hóa
mang tính bác học, ở những nhân cách tiêu biểu của các anh hùng, danh nhân
dân tộc mà đỉnh cao là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đó là nguồn sức mạnh để
phục hưng dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị cốt lõi của văn hóa Việt
Nam, là giá trị hàng đầu của hệ giá trị văn hóa Việt Nam, nó liên kết các giá trị
để tạo ra nguồn sức mạnh, quyết định sự tồn tại và phát triển của dân tộc trong
tiến trình lịch sử, quá khứ, hiện tại cũng như tương lai. Đúng như V.I. Lênin
nói: Chủ nghĩa yêu nước nói chung là “một trong những tình cảm sâu sắc nhất,
43
đã được củng cố qua hàng trăm, hàng nghìn năm của các dân tộc biệt lập”
[41,226]. Vì vậy, có thể khẳng định rằng tinh thần yêu nước - chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam là bản sắc của dân tộc Việt Nam qua mấy ngàn năm dựng
nước và giữ nước.
Thứ hai, những yếu tố truyền thống tác động tiêu cực đến lối sống và
văn hóa được thể hiện trên các mặt:
Như đã nói ở phần trên, từ quan điểm lịch sử, không phải mọi truyền
thống văn hóa đều có những giá trị tích cực như nhau, thậm chí có những
truyền thống ở thời kỳ này có giá trị tích cực, nhưng ở giai đoạn khác lại có giá
trị tiêu cực. Cũng có truyền thống khi được phát huy theo quan điểm khoa học
và tiến bộ thì sẽ đem lại giá trị tích cực, còn khi được khai thác theo quan điểm
phản khoa học và phản tiến bộ thì sẽ có tác động tiêu cực.
Ở nước ta hiện nay, trong lĩnh vực văn hóa tập tục, nhiều yếu tố lạc hậu,
phản tiến bộ đã được hạn chế. Tuy nhiên, trong thời đại hội nhập quốc tế, giao
lưu văn hóa thì nhiều hủ tục khác lại đang có cơ hội được phục hồi trở lại với
nhiều mức độ khác nhau, hủ tục về ma chay cũng vẫn còn tồn tại khá nặng nề
ở một số nơi.
Trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, truyền thống “tôn sư trọng đạo” và
hiếu học của người phương Đông trước đây là một nét đẹp văn hóa. Còn bây
giờ do ảnh hưởng của mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự quan tâm giáo dục
của nhà trường, gia đình và xã hội chưa đồng bộ, chưa sâu sắc, kỷ cương trong
nhà trường bị buông lỏng dẫn đến tình trạng dạy thêm tràn lan, truyền thụ kiến
thức cho học sinh một cách máy móc; chỉ chú trọng dạy chữ, ít chú trong việc
dạy người nên trò không tôn trọng thầy… làm cho truyền thống tôn sư trọng
đạo vốn là truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt Nam dần bị mai một,
điều này hiện nay đang bị dư luận xã hội lên tiếng phê phán.
44
Trong lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng - tôn giáo3 cũng đang bị lợi dụng,
làm cho nạn mê tín dị đoan tăng lên. Lễ hội tràn lan. Lễ hội cũ được phục hồi,
lễ hội mới được sáng tạo thêm [đã có thống kê trong tháng Giêng, năm 2009 cả
nước đã có tới 1.000 lễ hội, trong đó có 65 lễ hội cấp quốc gia; còn tính cả năm
thì nước ta có khoảng 9.000 lễ hội thuộc đủ các loại và các cấp (Đài tiếng nói
Việt Nam đưa tin ngày 02-3-2009)]. Tất nhiên, vui chơi là một nhu cầu chính
đáng, nhưng vui chơi triền miên là một sự lãng phí tiền của và thời gian. Rõ
ràng, tập tục “Tháng Giêng là tháng ăn chơi; tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội
hè” đang tác động tiêu cực đến con người và văn hóa Việt Nam. Có thể nói,
hiện tượng lễ bái và tình trạng lễ hội tràn lan đang là một trong những vấn đề
nhức nhối của văn hóa Việt Nam. Tình trạng trên có cả nguyên nhân bên trong
lẫn nguyên nhân bên ngoài.
Nguyên nhân bên trong: (1) Tâm lý, con người tin rằng, có những sức
mạnh vô hình đang ngự trị; sau những tháng ngày lao động vất vả, con người
có xu hướng muốn nghỉ ngơi, giải tỏa các lo toan vướng bận trong cuộc sống.
Tất nhiên, tự thân nguyên nhân này không mang tính tiêu cực. Chỉ khi nào bị
lợi dụng và được kết hợp với các nguyên nhân khác thì nó mới tạo ra tác động
tiêu cực. (2) Trình độ dân trí chưa được cập nhật và nâng cao một cách có hệ
thống, chưa kế thừa đúng đắn truyền thống văn hóa.
Nguyên nhân bên ngoài: không thể không kể đến một nguyên nhân bên
ngoài rất quan trọng là tác động của toàn cầu hóa văn hóa dưới sự hậu thuẫn
của toàn cầu hóa kinh tế. Trong những ngày lễ, các nhà kinh doanh thực hiện
một chiến dịch quảng cáo rầm rộ để tiêu thụ các sản phẩm ăn theo. Còn các
phương tiện truyền thông thì tuyên truyền a dua thiếu chủ kiến, một kiểu tuyên
truyền theo đuôi quần chúng.
Trong số các nguyên nhân bên trong và bên ngoài đã nêu trên, thì
nguyên nhân về trình độ dân trí là quan trọng hơn cả. Sự kế thừa và tiếp nhận
3. Trong phạm vi luận án này, tác giả không đề cập đến hiện tượng lợi dụng tự do tín ngưỡng - tôn giáo để đạt mục đích ở ngoài tín ngưỡng - tôn giáo.
45
các giá trị văn hóa có xu hướng về kinh tế - vật chất đã làm gia tăng phong trào
hội hè, lễ bái cầu may, cầu lợi mà không biết vô tình hay cố ý đã bỏ quên mất
một truyền thống rất đẹp của người Việt Nam cũng đã được thể hiện trong câu
ca dao từ bao đời nay: “Tháng Giêng chân bước đi cày - Tháng Hai vãi lúa
ngày ngày siêng năng”.
Từ đó, có thể kết luận rằng, những yếu tố tích cực, tiến bộ, phù hợp của
truyền thống văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giữ gìn bản
sắc dân tộc. Còn những yếu tố tiêu cực, lỗi thời là hiện thân của sự bảo thủ, trì
trệ, sức ì của quá khứ. Hai mặt mâu thuẫn đó cùng tồn tại trong di sản truyền
thống và có khi đan xen, chồng chéo lên nhau. Rõ ràng là, phát huy các giá trị
truyền thống văn hóa , khắc phục những hạn chế của một số tập quán truyền
thống lạc hậu là một công việc có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển trí
tuệ con người và xây dựng nền văn hóa mới.
1.2.2. Khái niệm hiện đại trong văn hóa
Trong những hoàn cảnh khác nhau, từ hiện đại có những cách hiểu khác
nhau. Nguyên nghĩa “hiện đại” có nghĩa là “thời đại hiện nay” (période
contemporaine; contemporary period hay present time). Hàng ngày chúng ta
vẫn thường nghe nói đến hai tiếng hiện đại. Trên báo chí, trong các văn kiện
chính trị, cụm từ “quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” hoặc “sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá” thường được nhắc lại với một nội dung xác
định. Hiện đại ở đây được hiểu là trình độ của những nước tiên tiến trên thế
giới, và hiện đại hoá là đưa sự phát triển của một đất nước lên một bước làm
cho đất nước đó có một trình độ tiến bộ theo kịp thời đại. Đây chính là nghĩa
thông thường nhất của hai chữ hiện đại.
Một nghĩa khác của từ hiện đại là nghĩa được dùng trong khoa học lịch
sử. Trong việc phân chia các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử: lịch sử thế giới cổ
đại; lịch sử thế giới trung đại (từ cách mạng tư sản Anh trở về trước); lịch sử
thế giới cận đại (từ cách mạng tư sản Anh tới công xã Pari 1871) và lịch sử thế
giới hiện đại (từ sau công xã Pari trở lại đây).
46
Để hiểu đầy đủ về khái niệm hiện đại, cần phân biệt khái niệm hiện đại
và hiện đại hóa. Hiện đại và hiện đại hóa là hai khái niệm khác nhau nhưng có
sự tương tác lẫn nhau. Khái niệm hiện đại để chỉ trạng thái mang tính định
tính. Còn khái niệm hiện đại hóa là một tiến trình hoạt động nhằm làm cho một
cái gì đó gắn với chất của thời đại mới ngày càng phát triển. Tính hiện đại là
trạng thái mà tất cả mọi xã hội ngày nay đều muốn đạt đến, nhưng công cuộc
hiện đại hóa lại thuộc về mỗi kiểu xã hội hay mỗi lĩnh vực nhất định. Tính hiện
đại là mục tiêu chung, nhưng hiện đại hóa là tiến trình nhằm đạt đến sự hiện
đại. Do vậy, hiện đại hóa có nội dung rộng hơn so với hiện đại.
Khái niệm hiện đại được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, văn hóa
học, xã hội học luận giải trên nhiều bình diện khác nhau: có một số từ thoạt
nhìn tưởng như đơn giản, nhưng lại hóa ra phức tạp, chẳng hạn chữ "hiện đại".
Thời nào mà không "hiện đại" đối với người đang sống trong thời đại ấy?
Chẳng hạn như, bây giời chúng ta đang sống ở đây, chắc cũng thấy thời của
chúng ta là "hiện đại" so với thời của tổ tiên chúng ta. Nhưng, thật ra, để được
gọi là "hiện đại", không đơn giản như thế. Đó là lý do tại sao từ này mới chỉ ra
đời ở phương Tây vào đầu thế kỷ XIX, đó là vào năm 1800 khi Hêghen dùng
nó lần đầu tiên như một khái niệm để định nghĩa một thời đại: "thời đại mới"
(die "neue Zeit") là "thời hiện đại" (die "moderne Zeit"), tương ứng với chữ
tiếng Anh "modern times" và tiếng Pháp "temps modernes". Việc phát hiện ra
"tân thế giới", phong trào Phục Hưng và phong trào Cải cách (tôn giáo) [ba sự
kiện lớn vào khoảng năm 1500 về trước] lại tạo nên bước ngoặt thời đại giữa
thời Trung cổ và "thời đại mới". Thế còn thời Hêghen đang sống vào đầu thế
kỷ XIX là gì? ông gọi "thời đại của chúng ta" là "thời đại mới nhất" (die
neueste Zeit), nghĩa là "hiện đại nhất"! Rồi ông xác định cho nó một dấu mốc:
đại cách mạng Pháp, cao điểm của phong trào khai sáng: "Với buổi bình minh
rực rỡ này, chúng ta đi đến giai đoạn mới nhất của lịch sử, đi đến thế giới của
chúng ta, đi đến hiện tại của chúng ta". Có hai lý do cho các định nghĩa thời
đại mới: (1) Đối với phương Tây Kitô giáo, "thời đại mới” chưa đến, nó là của
47
tương lai, còn phải chờ "ngày phán xét cuối cùng". (2) Trái lại, ở đây, "thời đại
mới" là khái niệm thế tục, khẳng định niềm tin rằng tương lai đã bắt đầu, và
đang ở trong tay ta. Nhận định về "hiện đại" đi liền với một sự phân tích về
thời đại đã qua". Ý thức lịch sử gắn liền với chữ "hiện đại" ấy của phương Tây
không gì khác hơn là: "Hiện đại có đủ sức và có ý chí để không cần vay mượn
những thước đo để định hướng cho mình từ những khuôn mẫu của một thời đại
khác nữa, trái lại, phải tự tạo ra tính chuẩn mực từ bản thân mình" (Habermas).
Bên cạnh các giá trị tinh thần nói trên của "hiện đại", tính từ "hiện đại"
(modern) còn nói lên mặt "vật chất" của nó nữa. "Tính hiện đại" [trái với "cổ hủ”
có nghĩa là các phương tiện giao thông mới (xe hơi, máy bay, tàu điện ngầm...)],
là các phương tiện truyền thông mới (phim ảnh, điện thoại, điện tín, máy ghi âm,
tia X...), các vật liệu mới (bê tông dự ứng lực, thép, chất dẻo, sợi nhân tạo...), các
nguồn năng lượng mới (dầu lửa, điện, nguyên tử...). Tất cả những công nghệ này
tạo nên một trải nghiệm mới về chất để nhận ra mình là "hiện đại".
Vào thập niên 50 của thế kỷ XX, từ "hiện đại hóa" mới được du nhập
như một thuật ngữ chuyên biệt để chỉ cao trào công nghiệp hóa lần thứ hai ở
phương Tây và từ đó, lan tỏa và trở nên sôi động trong bối cảnh phong trào
giải thực với sự trỗi dậy của các nước thuộc "thế giới thứ ba". Ở phương Tây,
"hiện đại hóa", hiểu theo nghĩa ấy, là muốn tách rời "Hiện đại ra khỏi các
nguồn gốc khai sáng của Châu Âu thời đại mới, vì thế, với nhiều người, các
tiền đề và các giá trị của khai sáng đã chết, chỉ còn phải xử lý những hậu quả
của nó”. Việc phê phán đối với hiện đại thực ra không mới: với tiềm lực phê
phán sẵn có, việc phê phán những khuyết tật của hiện đại vốn song hành với
hiện đại ngay từ đầu. Nhưng, sự phê phán lần này quyết liệt hơn. Một lần nữa,
người ta muốn đoạn tuyệt với quá khứ để bước vào một tâm thế mới, gọi là
"hậu hiện đại" hay "hậu lịch sử". Sự phê phán ấy chia thành hai hướng. Hướng
ôn hòa phê phán mạnh mẽ các chiến lược hiện đại hóa trước nay đã mang lại
nhiều thảm họa (chiến tranh, phá hủy môi trường, tiêu dùng vô độ ở các nước
giàu và nghèo đói ở phần còn lại của thế giới...) nhưng vẫn muốn tìm kiếm
48
những chiến lược mới để bảo vệ và tiếp tục hiện thực hóa các giá trị đích thực
của hiện đại. Phái cực đoan muốn phủ nhận tất cả, nhất là tinh thần "duy lý"
(thực ra là "lý trí công cụ” và do đó, vừa gợi mở nhiều cách tiếp cận mới mẻ,
vừa dễ có nguy cơ bị các thế lực tân bảo thủ lợi dụng để ngụy trang sự phản
khai sáng dưới ngọn cờ của hậu khai sáng).
Ở các nước đang phát triển, "hiện đại hóa" - hiểu như một tiến trình phát
triển độc lập về không gian và thời gian - có sức hấp dẫn của một sự "đi tắt đón
đầu” để phồn vinh nhanh chóng và nhất là, một lần nữa, được giải phóng khỏi
ách thống trị tinh thần sau khi thoát khỏi ách thống trị hiện thực của thực dân
phương Tây. Và thế là, ở các nước này, các giá trị của "Hiện đại văn hóa" bị
xem là sản phẩm đặc thù của phương Tây và thậm chí, là cái gì đã lỗi thời. Ở
các xã hội ấy, không khó để nhận ra sự kết hợp khập khiễng giữa "công nghệ
cao" (High-Tech) (chứ không phải tinh thần khoa học) với các mô hình chính
trị, xã hội, văn hóa... tiền hiện đại, và có khi, cả phản hiện đại.
Nước ta đang đề ra nhiệm vụ "công nghiệp hóa và hiện đại hóa". Hai
nhiệm vụ song đôi nặng nề ấy cho thấy chúng không phải là một. Công nghiệp
hóa là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ cho hiện đại hóa. Và, hiện
đại hóa, hơn lúc nào hết, cũng cần được đặt ra một cách toàn diện và sâu sắc
cho phù hợp với nhận thức mới mẻ ngày nay. Để thế hệ này và thế hệ sau
không phải thở than như C.Mác trước hoàn cảnh đương thời của đất nước ông:
"Chúng ta là những người sống đồng thời về mặt triết học với hiện tại, nhưng
không phải là những người sống đồng thời về mặt lịch sử".
Hiện đại trong văn hóa, trên bình diện vĩ mô cũng như vi mô, cái hiện đại
của văn hóa là những yếu tố văn hóa nảy sinh cùng với những điều kiện kinh tế,
chính trị và xã hội mới. Đó có thể là những tư duy, cách nhìn nhận sự vật, quan
niệm về cuộc sống, biểu hiện nghệ thuật, các hình thức giải trí cho đến nếp ăn
nếp ở, sự đối xử giữa người và người, quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình v.v… Những yếu tố văn hóa này, đến lượt chúng sẽ đóng vai trò là nền
tảng, là động lực để tạo nên những biến đổi kinh tế, chính trị, xã hội mới. Và ở
49
đây nữa, cũng cần một cái nhìn năng động và biện chứng. Một hiện tượng được
gọi là hiện đại hay không cũng còn tùy hoàn cảnh của từng dân tộc, từng cộng
đồng. Có nhiều hành vi, nhiều tập quán ở xã hội này thì đã quá quen thuộc còn ở
xã hội khác lại là mới lạ, phải đợi thời gian mới được chấp nhận.
Từ những nét phác thảo như trên cho thấy, trong đời sống thế giới hiện
nay, cái truyền thống thường đi kèm với cái dân tộc và cái hiện đại thường đi
kèm với cái quốc tế. Điều này đặc biệt đúng với các nước Thế giới thứ ba,
những nước trong cả quá trình lịch sử lâu dài trước kia thường sống với những
nền văn hóa khép kín, tin rằng sự bảo vệ tốt nhất cho dân tộc là chống lại mọi
ảnh hưởng ngoại lai. Ngày nay, nhiều nước trên thế giới, khi nói về khuynh
hướng toàn cầu hóa thường nhấn mạnh ba yếu tố: một nền kinh tế không biên
giới, một xã hội thông tin, một nền văn hóa thế giới. Cũng trong bối cảnh của
những chuyển biến và giao lưu đó, sự xác định một yếu tố văn hóa là truyền
thống hay hiện đại cũng rất “động”. Với một dân tộc, ở một lúc nào đó, có
những yếu tố ngày hôm nay còn là hiện đại thì ngày mai, qua một quá trình
sàng lọc và hấp thụ, đã có thể trở thành truyền thống.
Trong văn học, nghệ thuật, tính hiện đại được hiểu là những xu hướng,
phẩm chất tiến bộ nhất, vượt qua các giá trị truyền thống, nhằm giải phóng tư
duy sáng tạo. Tính hiện đại bao gồm cả hình thức và nội dung, phương thức và
hiệu quả trong đó tinh thần nhân văn, dân chủ được đề cao như những giá trị
toàn nhân loại. Cũng có ý kiến cho rằng hiện đại là hợp lý hoá và chủ thể hoá.
Từ đó đề nghị, cơ sở để xây dựng xã hội hiện đại là xây dựng cá thể hoá văn
hoá. Có người lại cho hiện đại hoá là phương Tây hoá. Tính hiện đại chỉ có từ
phương Tây, chủ nghĩa duy lý và các giá trị dân chủ đưa phương Tây tới
những bước phát triển thần kỳ về kinh tế, khoa học, công nghệ nhưng đồng
thời cũng đang mắc phải những căn bệnh trầm kha. Họ đang tìm về phương
Đông để bổ sung và điều chỉnh. Trong khi đó thì tại phương Đông lại xuất hiện
làn sóng chạy theo phương Tây, lấy phương Tây làm chuẩn mực. Chạy theo
Tây, thích được đánh giá theo những tiêu chuẩn của phương Tây là một xu
50
hướng đáng báo động. Tâm lý khá phổ biến hiện nay là lo tụt hậu với thế giới,
lo tụt hậu với dân tộc, tụt hậu với cuộc sống của đất nước. Biết bao truyền
thống, tinh hoa dân tộc không được nghiên cứu đến nơi đến chốn, dẫn đến
những cách hiểu hời hợt, méo mó về dân tộc, phê phán, vứt bỏ dân tộc.
Như vậy, hiện đại thường được hiểu là những gì “thuộc thời đại ngày
nay”, là “cái đang diễn ra trước mắt, tức là mới”. Theo nghĩa đó, hiện đại là
cái được bổ sung làm cho cái cũ, cái trước đây biến đổi để phù hợp với thời
đại hiện nay. Hiện đại gắn liền với phát triển, tạo ra những giá trị mới hơn, có
phẩm chất tốt hơn của cái quá khứ. Phạm trù hiện đại mang tính lịch sử, liên
quan đến tính thời gian và chất lượng. Nếu như truyền thống là cái phản ánh
trình độ phát triển của sự vận động lịch sử trong điều kiện và hoàn cảnh cũ, thì
hiện đại lại là cái phản ánh cho một trình độ phát triển của sự vận động lịch sử
trong những điều kiện, hoàn cảnh mới. Nội hàm của từ hiện đại luôn gắn liền
với không gian và thời gian cụ thể đang diễn ra.
1.2.3. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại
trong sự phát triển của văn hóa
Văn hóa của mỗi dân tộc luôn là một dòng chảy không ngừng và ở đó,
luôn có mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa truyền thống và hiện đại. Do
đó, việc giải quyết hài hòa mối quan hệ này sẽ vừa giúp xác định tính chất,
diện mạo văn hóa của mỗi dân tộc, vừa góp phần tạo ra động lực cho phát
triển. Tuy nhiên, giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại như thế
nào lại là bài toán mà mỗi thời kỳ cần phải tìm ra lời giải. Bởi vì, trong tiến
trình phát triển, tính liên tục lịch sử của văn hóa luôn đặt ra những vấn đề mới
mà mỗi dân tộc phải giải quyết để phát triển nền văn hóa của mình.
Truyền thống và hiện đại trong sự phát triển của văn hóa có mối quan hệ
biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau vừa thống nhất vừa mâu thuẫn
với nhau.
Trước hết, về sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong sự
phát triển của văn hóa. Trong sự phát triển của văn hóa, cùng với sự phát triển
51
của đời sống xã hội; truyền thống và hiện đại có mối liên hệ, tác động thống
nhất với nhau. Điều đó được biểu hiện:
Thứ nhất, truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại. Truyền thống
văn hóa là hệ thống giá trị văn hóa đã hình thành và luôn được bổ sung để trở
thành phẩm chất văn hóa một dân tộc, và tự thân đã là một khái niệm có tính
biện chứng, chuyển tải trong đó nội hàm là hành vi sáng tạo văn hóa của cộng
đồng. Truyền thống văn hóa là bộ mặt vật chất, tinh thần của một xã hội trong
những thời kỳ lịch sử nhất định. Nhìn vào truyền thống văn hóa, có thể nhận
biết các giá trị, phẩm chất các giá trị của một dân tộc. Văn hóa là một dòng
chảy liên tục, vì nguồn gốc sâu xa của động thái này là việc cộng đồng phải
đáp ứng tình trạng không ngừng gia tăng về chất lượng và số lượng của nhu
cầu văn hóa. Ðặc tính phát triển không ngừng của nhu cầu văn hóa quy định
bản chất của tính hiện đại, nghĩa là trên cơ sở truyền thống văn hóa, phải
thường xuyên bổ sung các yếu tố mới, để truyền thống văn hóa phù hợp với sự
phát triển của thời đại. Do đó, tính hiện đại của văn hóa có hai nguồn gốc: từ
hoạt động sáng tạo của chủ thể văn hóa dân tộc và từ việc tiếp thu qua các giao
lưu văn hóa ngoài dân tộc. Tính hiện đại không chỉ giúp truyền thống văn hóa
thích nghi với phát triển mà còn giúp văn hóa dân tộc có khả năng thỏa mãn tốt
nhất những nhu cầu văn hóa mới nảy sinh trong sinh hoạt xã hội.
Tuy nhiên, giá trị văn hóa hiện đại chỉ thích hợp với truyền thống văn
hóa khi đáp ứng được nhu cầu văn hóa chân chính, được thừa nhận của số
đông, trở thành thói quen trong tư duy và trong hành vi sáng tạo của mọi chủ
thể văn hóa. Mặt khác, không phải bất cứ giá trị văn hóa nào nảy sinh trong
thời đại cũng có thể tiếp thu, đây là tiếp thu có chọn lọc để giá trị tích cực có
thể cộng sinh cùng truyền thống văn hóa. Cho nên, truyền thống văn hóa chỉ
có thể phát triển khi nó không ngừng được bổ sung các giá trị tiên tiến của
thời đại, cũng tức là truyền thống văn hóa và tính hiện đại không tách rời
nhau. Chúng thống nhất hữu cơ trong một chỉnh thể, ở đó, truyền thống văn
hóa là nền tảng, tính hiện đại là sự bổ sung cho nền tảng ấy ngày càng bền
52
vững, và sự thống nhất phải đạt đến mức tính hiện đại gia nhập, trở thành yếu
tố của truyền thống văn hóa. Chính vì thế, phát triển văn hóa trong thời đại
mới, chúng ta cần phải dựa trên nền tảng của truyền thống văn hóa, và truyền
thống ấy luôn phải được củng cố, bổ sung phù hợp với yêu cầu của sự phát
triển. Báo cáo phát triển con người năm 2004 của Chương trình phát triển
Liên hiệp quốc (UNDP) cũng cho rằng, phải nhìn nhận truyền thống từ hiện
tại và tương lai thì chúng ta mới thực hiện thành công công cuộc phát triển.
Đồng thời, UNDP cũng khuyến cáo: “Việc bảo vệ truyền thống bằng mọi giá
sẽ kéo lùi sự phát triển con người” [UNDP,Human Development Report,
2004 – http://hdr.undp.org/reports/2004, tr. 88-89]. Có nghĩa là, xét từ góc độ
hiện tại theo tinh thần lịch sử, không phải mọi truyền thống đều có giá trị như
nhau, không phải mọi truyền thống đều có tác động tích cực phục vụ công
cuộc phát triển. Vì thế, việc xác định giá trị truyền thống tích cực là một vấn
đề rất quan trọng.
Thứ hai, hiện đại bắt nguồn từ truyền thống trên cơ sở chắt lọc, kế thừa
và phát triển truyền thống. Truyền thống là những kinh nghiệm đấu tranh sinh
tồn của một dân tộc đã được đúc kết thành các giá trị và được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Truyền thống bao gồm tất cả các lĩnh vực của xã hội,
nhưng tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực văn hóa. Trong cuộc đấu tranh sinh
tồn của một dân tộc, truyền thống có ý nghĩa vô cùng to lớn; vừa là nguồn
sống vừa là nguồn sáng tạo của dân tộc. Vì thế, truyền thống không phải là
những vật trưng bày chết cứng trong Viện bảo tàng, mà nó luôn tồn tại trong
mối quan hệ với hiện tại và tương lai. Ngược lại, hiện đại phải đưa ra được một
nội dung có ý nghĩa cho cuộc sống văn hóa tiên tiến, hiện đại phải làm giàu
thêm nội dung nhân bản của con người, có như vậy hiện đại mới bảo đảm được
tính liên tục, không thể trở nên “truyền thống” cho tương lai.
Vì vậy, việc nhận thức và đánh giá truyền thống phải luôn đứng trên quan
điểm phát triển, quan điểm lịch sử và biện chứng. Không nên tuyệt đối hóa
truyền thống, vì nếu tuyệt đối hóa, lý tưởng hóa các giá trị truyền thống sẽ dẫn
53
đến ý thức phục cổ, bằng lòng với quá khứ và quay lưng với những trào lưu
tiến hóa của thời đại, cản trở công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Trái lại, không nên phủ định truyền thống, nếu phủ định
truyền thống, coi truyền thống chỉ là sản phẩm và nguyên nhân của tình trạng
nghèo nàn và lạc hậu của đất nước sẽ dẫn đến xu hướng hiện đại hóa bằng con
đường ngoại nhập mà hậu quả không tránh khỏi là đánh mất bản sắc dân tộc,
tự hủy hoại sức mạnh nội sinh, làm mất tính bền vững và ổn định của sự phát
triển. Cả hai khuynh hướng cực đoan trên đều không có cơ sở khoa học, xa lạ
với thực chất của truyền thống và đều đi đến những sai lầm trong nhận thức,
hành động, trong cách xử lý đối với di sản truyền thống.
Thứ ba, truyền thống được bảo tồn, phát triển một cách sinh động và
phong phú nhờ tính hiện đại. Trong những điều kiện tự nhiên cùng với vị trí,
môi trường sinh thái của đất nước, trải qua hàng chục vạn năm lịch sử kể từ khi
con người xuất hiện trên lãnh thổ Việt Nam và hàng nghìn năm xây dựng, bảo
vệ đất nước trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của dân tộc, cộng đồng các dân tộc
Việt Nam đã tạo lập cho mình một di sản truyền thống tinh thần rất phong phú,
đa dạng trên các phương diện tư duy, tâm lý, lối sống, cách ứng xử… Trong
các giá trị truyền thống đó, nổi lên vị trí hàng đầu và được người Việt Nam coi
như chuẩn mực cao nhất của đạo lý dân tộc là tinh thần yêu nước, ý thức dân
tộc, ý chí tự lập tự cường; truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Bên cạnh
đó là truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, tính thích nghi và hội nhập để tồn
tại và phát triển, lối ứng xử mềm dẻo; truyền thống hiếu học, trọng học vấn,
trọng nghĩa khí, tính cộng đồng kết hợp với truyền thống tương trợ, giúp đỡ
nhau khi khó khăn hoạn nạn, tinh thần nhân ái, truyền thống khoan dung, trong
nhận thức coi trọng thực tế và kinh nghiệm, tư duy mang tính tổng hợp…
Trong các giá trị truyền thống văn hóa đó, những cái tiến bộ, phù hợp luôn
được bảo tồn, phát triển nâng cao sinh động, phong phú nhờ tính hiện đại; còn
những mặt tiêu cực và hạn chế không phù hợp với yêu cầu phát triển của xã
hội và thời đại, trở thành những lực cản và sức ỳ cần khắc phục.
54
Hiện nay, công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và mở rộng giao lưu quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh đang tạo ra những
chuyển biến lớn lao, sâu sắc trên mọi lĩnh vực của xã hội, mở ra một bước
ngoặt trọng đại mới, đưa đất nước từ nền văn minh nông nghiệp truyền
thống tiến lên nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp hiện đại của
thế giới. Vì vậy, con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển,
vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Và dĩ nhiên, con người
đó, dù có ý thức hay không ý thức đều là sản phẩm của lịch sử, mang trong
mình những di sản truyền thống do lịch sử tạo nên.
Trước những chuyển biến đó, nhất là trong buổi đầu khi chuyển từ kinh
tế “tập trung”, “bao cấp” sang kinh tế thị trường và chính sách mở cửa, mối
quan hệ giữa truyền thống với con người trải qua những biến động dữ dội,
nhiều giá trị truyền thống bị chao đảo, nhiều mặt tiêu cực của truyền thống
được phục hồi một cách tự phát. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội lúc
bấy giờ, cũng diễn ra một cuộc khủng hoảng về thang giá trị và thước đo giá
trị: niềm tin và đạo lý bị xói mòn; nơi thì phục cổ, khôi phục cả những hủ tục,
những truyền thống lạc hậu…; nơi thì quay lưng với truyền thống, chạy theo
đồng tiền và lợi nhuận vô điều kiện, đua đòi lối sống bên ngoài với biết bao tệ
nạn, gây lo âu chính đáng cho nhiều người. Nhưng nhờ những thành tựu của
công cuộc đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, một
trật tự mới và thang giá trị mới đang dần dần hình thành. Kết quả điều tra xã
hội học trong thời gian gần đây cho thấy, những giá trị truyền thống cơ bản
tiêu biểu cho bản sắc và phẩm giá dân tộc được tuyệt đại đa số nhân dân ta tôn
trọng và tự hào, vẫn là những định hướng chủ đạo cho nhận thức, hành vi và
ứng xử của con người Việt Nam. Đó là một bảo đảm hết sức quan trọng cho sự
phát triển bền vững của đất nước trên con đường tiến lên văn minh, hiện đại,
mở cửa giao lưu và hội nhập với thế giới mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Do
55
đó, trước yêu cầu mới của đất nước và thời đại, những giá trị truyền thống
cũng phải được kế thừa, phát huy theo hướng hiện đại hóa.
Qua những nội dung vừa trình bày ở phần trên, có thể khẳng định rằng,
trong quá trình sinh tồn và phát triển, Việt Nam đã phải vượt qua biết bao thử
thách hiểm nghèo của thiên tai và họa xâm lăng, đã phải đương đầu với nhiều
thế lực xâm lược hung hãn của những đế chế lớn mạnh thời cổ - trung đại,
những cường quốc đế quốc chủ nghĩa thời cận - hiện đại, đã phải vượt qua
những thời kỳ mất nước với mưu đồ đồng hóa kéo dài hàng chục, hàng trăm
năm, thậm chí có lúc trên 10 thế kỷ. Thế mà dân tộc Việt Nam vẫn tồn tại và
phát triển, biết tiếp nhận và dung hợp nhiều thành tựu văn hóa bên ngoài,
nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa của mình, vẫn tạo lập được những
thời kỳ phát triển văn hóa rực rỡ như thời kỳ văn minh sông Hồng, thời kỳ văn
minh Đại Việt. Thực tế lịch sử đó cho phép khẳng định sức sống bền bỉ của
dân tộc, tính ưu việt của những giá trị truyền thống Việt Nam.
Thứ tư, truyền thống và hiện đại phải được xác định trong tính lịch sử -
cụ thể. Truyền thống văn hóa là sự tiếp nối không đứt đoạn của phương thức
sinh hoạt, của văn học - nghệ thuật, của phong tục tập quán, của các chuẩn
mực giá trị... Phạm trù hiện đại mang tính lịch sử, liên quan đến tính thời gian
và chất lượng. Nếu như truyền thống là cái phản ánh trình độ phát triển của sự
vận động lịch sử trong điều kiện và hoàn cảnh cũ, thì hiện đại lại là cái phản
ánh cho một trình độ phát triển của sự vận động lịch sử trong những điều kiện,
hoàn cảnh mới. Nội hàm của từ hiện đại luôn gắn liền với không gian và thời
gian cụ thể đang diễn ra.
Nói đến truyền thống và hiện đại là nói đến sự cũ và mới trong sự phát
triển, và thường cái mới chiến thắng, thậm chí xóa bỏ cái cũ. Tuy nhiên, trong
sự phát triển, vấn đề truyền thống và hiện đại không tránh khỏi những mâu
thuẫn bởi đây đó truyền thống có thể không còn phù hợp với hoàn cảnh hiện
đại phát triển và ngay trong hiện đại vẫn hiện ra bản sắc dân tộc với những giá
trị truyền thống là mong muốn của toàn dân tộc. Không phải mọi điều cũ đều
56
cần được giữ lại mới là truyền thống nhưng những giá trị được cha ông gìn giữ
từ đời này qua đời khác trở thành truyền thống sẽ được bảo tồn và phát huy
trong cuộc sống hôm nay ra sao. Những giá trị mới được sinh ra từ hôm nay
cũng có thể trở thành truyền thống sau thời gian dài để phong phú thêm những
giá trị văn hóa dân tộc. Bởi, văn hóa là dòng chảy liên tục có bổ sung và loại
trừ để xây dựng được diện mạo chung của một dân tộc.
Trong sự hội nhập và phát triển hiện nay, mục tiêu tăng trưởng kinh tế
với hiện đại hóa, công nghiệp hóa là một xu hướng phát triển tất yếu song
động lực của sự phát triển lại là văn hóa. Bởi, văn hóa với những giá trị truyền
thống là cốt lõi để dân tộc hòa nhập mà không hòa tan trong sự phát triển
chung của nhân loại. Đấy cũng là bệ phóng của bất cứ dân tộc nào muốn bay
đến tầm cao mới của thời đại. Vấn đề giao lưu văn hóa giữa các dân tộc là một
tất yếu, song giao lưu thế nào để tiếp thu được những tinh hoa văn hóa thế giới,
đồng thời ngăn chặn những cái phản văn hóa xâm nhập vào nước ta.
Đảng ta luôn luôn coi trọng việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, kế thừa
và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc vì đó là bản sắc, là tâm hồn
và trí tuệ, là đạo lý và nhân cách của con người Việt Nam, là nền tảng tinh thần
và đạo lý cho công cuộc phục hưng dân tộc và cho sự phát triển bền vững của
đất nước tiến lên văn minh, hiện đại. Một dân tộc trên con đường phát triển
phải luôn luôn gắn với cội nguồn, với truyền thống và bản sắc của mình. Vì
vậy, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phải trên nền tảng
nhân cách văn hóa Việt Nam, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh
hoa của nhân loại, hướng tới tầm cao của thời đại. Báo cáo chính trị tại Đại hội
VIII của Đảng khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng
giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa
dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự
hào dân tộc” [29, 111].
Giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại theo quan điểm
trên là phát huy tối đa sức mạnh nội sinh của dân tộc, vừa tiến lên văn minh,
57
hiện đại, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, tạo lập con đường phát triển ổn định và
bền vững cho đất nước. Đó là phương thức từ truyền thống tiến lên hiện đại và
trên cơ sở hiện đại nâng cao truyền thống, làm phong phú truyền thống, không
ngừng tăng cường tiềm lực nội sinh của sự phát triển. Khi nghiên cứu sự thống
nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn
hóa, cũng cần chú ý đến những vấn đề đặt ra và những biểu hiện bất cập của sự
thống nhất này. Có thể là trong thời gian gần đây, vấn đề truyền thống và hiện
đại mới được đề cập một cách có hệ thống về mặt lý luận, với những tên gọi
đích thực, nhưng trên thực tế, vấn đề đã tồn tại từ lâu, và người ta đã xử lý mối
quan hệ truyền thống - hiện đại theo những quan điểm khác nhau, vì những
động cơ khác nhau. Hơn nữa, có nhiều trường hợp, tựa như người ta muốn bàn
đến những vấn đề rộng lớn hơn, phức tạp hơn, nhưng cuối cùng qui lại thì đó
chính là vấn đề truyền thống - hiện đại, hoặc là một khía cạnh, một biến tướng
của vấn đề đó. Tác giả rất tâm đắc với quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn
Chí Tình, trong cuốn “Văn hóa và thời đại”, nhà xuất bản Khoa học xã hội,
2009, khi nói về sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình
phát triển văn hóa [70, 63-70].
Thứ nhất, khoảng nửa thế kỷ trước đây, cuộc chiến tranh chống xâm
lược của Việt Nam giành thắng lợi, làm dấy lên phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc sôi động khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước châu Phi
vốn là thuộc địa của Pháp và Anh. Trong phong trào chính trị - xã hội, và có
lúc là vũ trang người ta đã nhận thức ra một vấn đề văn hóa: từ lâu bọn thực
dân đã cố tình tìm mọi cách làm cho nhân dân bản địa ở các nước thuộc địa
quên mất truyền thống văn hóa của mình, quên mất rằng mình có một bản sắc
văn hóa; và chỉ còn có thể hòa nhập, tan biến vào nền văn hóa do những kẻ
thống trị đem lại. Đúng như Neyre, nguyên Tổng thống Tanzania, vạch rõ:
“Tội ác tệ hại nhất của chủ nghĩa thực dân là mưu toan làm cho chúng ta tin
rằng chúng ta không có một nền văn hóa bản địa của riêng chúng ta hoặc giả
là cái văn hóa mà chúng ta có là chẳng chút giá trị gì” [Trích theo F.D.Bunda.
58
Giá trị văn hóa, truyền thống và hiện đại. Trong cuốn Những vấn đề văn hóa
và giá trị văn hóa trong thế giới hiện đại [UNESCO xuất bản, 1985. tr.28-34].
Ở đây, ta càng thấy tầm quan trọng quyết định của văn hóa, và bọn thực dân
theo đuổi mục đích chính trị và kinh tế của mình, cũng cần hiểu điều đó một
cách sâu sắc: không có truyền thống và bản sắc văn hóa là không có cái gì cả.
Không ít những người lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu
Phi như Nehru, Senghor,… là những trí thức từng đi du học ở các nước
phương Tây và một điều nghịch lý là sau hàng chục năm trời được đào tạo
trong môi trường văn hóa phương Tây, thì chính họ nhận ra cái mưu đồ văn
hóa bất chính nơi đã đào tạo họ và lớn tiếng kêu gọi phá tan cái mưu đồ đó.
Như vậy mầm móng và thực trạng của sự coi nhẹ và thậm chí cắt đứt với
truyền thống văn hóa đã có từ trong chế độ thực dân ở những nước sau này sẽ
đứng vào hàng ngũ những nước hiện đại hóa muộn. Dễ dàng suy đoán rằng,
qua đêm dài thuộc địa, về mặt này, những kẻ thống trị ngoại bang đã làm được
những gì họ muốn, một khi họ có quyền lực, có những phương tiện văn hóa và
vật chất trong tay.
Thứ hai, từ những năm 60, về cơ bản, chủ nghĩa thực dân cũ đã sụp đổ.
Trên danh nghĩa và không chỉ hoàn toàn trên danh nghĩa, nhiều nước thuộc
Thế giới thứ ba thoát khỏi chế độ thuộc địa, đất nước được đặt dưới sự điều
hành của một chính quyền và tầng lớp lãnh đạo người bản địa, trong đó có sự
tham gia của khá nhiều trí thức yêu nước, nhà văn hóa. Tuy vậy, xét cho đến
cùng, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại cũng cho thấy nhiều khuyết
tật, nhiều điều bất ổn, thậm chí là trầm trọng. Sự đánh giá chưa đúng mức hay
cắt đứt ở các mức độ khác nhau, với truyền thống văn hóa của dân tộc đã diễn
ra với các khía cạnh khác nhau:
(1) Trong điều kiện hội nhập quốc tế, mở cửa để giao tiếp và trao đổi
những phương tiện nhằm hiện đại hóa đất nước với tư thế những người chủ
độc lập, thực ra ở một số nước người ta đã bị choáng ngợp trước cái gọi là
“văn minh phương Tây”, là “sức mạnh của thế giới hiện đại”. Từ bề sâu của
59
nhận thức, người ta cho rằng tất cả những gì thuộc về truyền thống dân tộc là
nguyên nhân của tình trạng lạc hậu, kém cõi hiện thời, và lúc này mọi sản
phẩm văn hóa được du nhập từ nước ngoài đều là biểu hiện của tính ưu việt,
của một trình độ văn minh đáng mơ ước. Sự tiếp nhận này, tiếc thay, hiếm khi
được kèm theo một sự phân tích lý trí, kể cả những lĩnh vực tư duy phức tạp
hay ở những hoạt động cảm tính bề mặt. Chẳng hạn, về tư tưởng triết học,
người ta đọc Freud, nhưng lại chỉ biết nhấn mạnh đến khía cạnh tính dục và cái
vô thức; người ta tìm đến Nieztsche nhưng lại không hiểu đầy đủ cái gọi là
“triết lý sức mạnh” và “siêu nhân” của ông. Về văn học nghệ thuật cũng có
tình trạng nhân danh hiện đại để sản sinh ra loại thơ mông lung trừu tượng,…
Ở đây có một sự biện bạch đơn giản: văn hóa hiện đại là sản phẩm của văn
minh vật chất hiện đại, các dân tộc đi sau muốn tiến kịp thời đại thì phải
nhanh chóng đón lấy làm của mình. Ở một số nước như Philippin, Thái
Lan, ở Trung Cận Đông, các nhà quan sát nước ngoài bước vào các gia
đình thượng lưu và trung lưu, đã ngạc nhiên thấy những biểu hiện của văn
hóa hiện đại nước ngoài trùm lên tất cả, từ sách đọc, tranh treo tường, băng
nhạc, phim video, trong khi không hề thấy dấu vết của văn hóa truyền
thống. Có điều đáng trách là trong khi mải mê đi tìm cái mới lạ ở những
nền văn hóa xa xôi đeo “mác” hiện đại thì người ta lại quên rằng rất nhiều
giá trị còn lớn lao hơn, độc đáo hơn vẫn nằm trong kho tàng văn hóa
truyền thống, từ những ý tưởng sâu sắc của kinh Coran, của Luận ngữ cho
đến những truyền thuyết dân gian. Và điều này, thật là nghịch lý, lại được
chứng minh bởi những nhà nghiên cứu đến từ các xứ sở hiện đại.
(2) Ở một số nước khác, trong giai đoạn đầu của công cuộc “xây dựng
xã hội mới”, kể cả xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã nổi lên một quan niệm sai
lầm: muốn xây dựng cái mới thì phải phá bỏ cái cũ, kể cả văn hóa cũ. Theo
một lôgic thông thường, người ta nghĩ: truyền thống văn hóa, cho đến bây giờ
gắn liền với xã hội cũ, chế độ cũ, nghĩa là với cơ chế do giai cấp thống trị lập
nên. Chẳng có gì là tốt đẹp ở đây cả: thờ cúng là mê tín, tôn giáo là thuốc
60
phiện, lễ nghi là trò phù phiếm của tầng lớp quý tộc; văn thơ, không loại trừ
những tác giả lớn, đều nhiễm đầy tư tưởng độc hại để ru ngủ nhân dân. Tất cả
những thứ ấy đều phải được đẩy lùi hẳn vào quá khứ - sự phá bỏ cái cũ càng
nhanh thì sự xây dựng cái mới càng nhanh. Tệ hơn nữa là về mặt đạo lý, người
ta tạo nên tâm lý coi thường người già cả - nhân chứng và kho tàng sống của
truyền thống, hầu như trong mọi nhận thức và quyết định của đời sống, người
già cả là biểu tượng của sự lạc hậu, của cái lỗi thời; còn thế hệ mới, bất kể là
có học hay vô học, bao giờ cũng được coi là tân tiến, là “dám nghĩ, dám làm”.
(3) Một hiện tượng nữa của sự cắt đứt truyền thống văn hóa lại diễn ra
ngoài ý muốn của những người trong cuộc, với cái đã từng được định danh là
“chủ nghĩa đế quốc văn hóa cuối thế kỷ XX”. Một khi phương án thực dân
kiểu cũ đã tỏ ra hết thời, những người xâm lược quân sự và cả chính trị thường
là lộ liễu, tốn kém và thất bại thì một số cường quốc tư bản phát triển, đứng
đầu là Mỹ, lại sử dụng phương án xâm thực văn hóa. Bằng sức mạnh vật chất,
bằng ưu thế khoa học - kỹ thuật thể hiện qua những phương tiện thông tin hiện
đại có mặt khắp nơi, đồng thời với những luận điệu mị dân kiểu “tự do” và
“nhân quyền”, người Mỹ đã cho sản phẩm văn hóa của họ tràn vào các nước
Thế giới thứ ba. Cùng với lợi nhuận kinh tế - xuất khẩu hàng hóa văn hóa - là
sự du nhập những tư tưởng ngoại lai, hiện đại theo kiểu Mỹ, và dĩ nhiên dẫn
đến hậu quả là sự chối bỏ truyền thống dân tộc bản địa. Đúng như lời nhà văn
hóa học James Petras đã vạch ra: “Chủ nghĩa đế quốc văn hóa đóng một vai trò
quan trọng để tách rời nhân dân khỏi cội rễ văn hóa và truyền thống đoàn kết
của họ, thay thế chúng bằng những cái gọi là “nhu cầu” do các phương tiện
thông tin đại chúng tạo ra, và những nhu cầu này cũng thay đổi theo từng chiến
dịch quảng cáo” [James Petras. Chủ nghĩa đế quốc văn hóa cuối thế kỷ XX.
Tạp chí Journal of contemporary Asia. 1993. Vol.23. No.2. Tr.19-20]. Và:
“Chủ nghĩa đế quốc văn hóa tìm cách phá hoại bản sắc dân tộc…khuyến
khích sự tôn thờ “tính hiện đại”, đúng với những biểu tượng bên ngoài”. Ở
đây, cần nhắc lại rằng các kế hoạch văn hóa đều kèm theo mưu đồ chính trị.
61
Để nhận ra điều đó, đòi hỏi một tinh thần tỉnh táo, trước hết là của các trí thức
dân tộc, xuất phát từ ý thức dân tộc được nuôi dưỡng bằng một truyền thống
văn hóa ở ngay trong cộng đồng và trong bản thân từng người. Không ít
trường hợp khi người trong cuộc chợt tỉnh ra thì đã quá muộn.
Thứ ba, sau những năm 80, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu sụp đổ, người ta chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế
thị trường và thực hiện tư nhân hóa ồ ạt. Cùng với sự mở cửa kinh tế là sự mở
cửa về văn hóa. Văn hóa phẩm phương Tây tràn vào: phim ảnh, sách báo, băng
nhạc…Những gì trước đây bị lên án, bị cấm đoán thì ngày nay được phô bày,
trình diễn và đem bán rộng rãi. Thời kỳ này đã xuất hiện một quan niệm kỳ
quặc, ngay cả một số trí thức mới, đó là: phủ nhận truyền thống dân tộc, tôn
sùng hiện đại ngoại lai. Tất nhiên, ngay trên đất nước Nga, trước sự hoành
hành của văn hóa nhập ngoại và nguy cơ suy yếu của truyền thống văn hóa,
những người trí thức có lương tri đều nhất loạt phản đối.
Một điều cần phải nói thêm ở đây: nếu bàn đến truyền thống văn hóa,
thì các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, kể cả nước Nga, tuy thời gian tồn tại
của chủ nghĩa xã hội hiện thực so với lịch sử dân tộc không phải là dài,
nhưng nhân dân đã kịp xây dựng được những đặc điểm truyền thống văn hóa
dân tộc khắc họa vào tư tưởng và nhân cách của những thế hệ và những tầng
lớp người đông đảo: tinh thần theo đuổi một lý tưởng cao đẹp, ý thức hy sinh
về quyền lợi của tập thể, tình cảm quốc tế vượt qua biên giới…Tất cả thấm
nhuần trong xã hội thành những tiêu chí công khai để thẩm định giá trị con
người, và trong xã hội đó luôn luôn hiện diện những hoạt động văn hóa mang
đậm màu sắc dân tộc, một nền văn học có tính nhân văn sâu sắc. Tuy vậy, với
sự xuất hiện của cơ chế thị trường, sự xâm nhập của văn hóa ngoại lai hào
nhoáng, người ta dễ dàng quên đi, hoặc giả làm như không biết đến những
truyền thống tốt đẹp đó.
Thứ tư, còn một khía cạnh bất cập khác trong mối quan hệ truyền thống
-hiện đại, tuy không trầm trọng bằng những khuynh hướng trên đây, nhưng
62
cũng không thể bỏ qua, đó là: theo chiều ngược lại, trong một số nước, lại có
những người đề cao một chiều truyền thống văn hóa, một mực tin rằng nhất
nhất những gì thuộc truyền thống đều rất tốt đẹp, đều nên bảo vệ và đưa vào
cuộc sống mới, nền văn hóa mới. Chẳng hạn, trước tình hình đạo đức xuống
cấp và xã hội thiếu kỷ cương, ở những nước trước đây Nho giáo giữ địa vị
thống trị, người ta cho nguyên nhân quyết định là sự xa rời Nho giáo và đòi hỏi
sự phục hồi toàn diện của Nho giáo trong đời sống xã hội. Như ở Trung Quốc,
một số học giả đề xướng “Thuyết Tân Nho học phục hưng”, với tôn chỉ là làm
thế nào cho học thuyết Nho gia trở lại chiếm vị trí chủ đạo trong nền văn hóa
Trung Quốc. Ở các nước Trung - Cận Đông, sau một thời gian hiện đại hóa
theo kiểu phương Tây gặp thất bại, tiền bạc mang lại nhờ nguồn dầu lửa khổng
lồ và những hàng hóa nhập ồ ạt từ các nước Âu - Mỹ vẫn không tạo nên được
một diện mạo văn hóa sáng sủa, thì trong một số trí thức đã nảy ra khuynh
hướng đòi hỏi phục hồi những quan niệm và qui tắc sống hà khắc của đạo Hồi,
được coi như là truyền thống tốt đẹp nhất của quá khứ. Tình trạng xã hội tha
hóa, người ta giải thích, là sự trừng phạt của thánh Ala cho những ai đã từ bỏ
con đường sáng sủa mà thánh đã vạch ra, thậm chí những gì không được nói
đến trong kinh Coran, đều là tà thuyết. Sự phục hồi đạo Hồi không chỉ là một
hành vi tôn giáo mà còn mang ý nghĩa của sự bảo vệ không khoan nhượng cả
một truyền thống văn hóa.
Khuynh hướng đề cao một chiều truyền thống văn hóa, do sự khác biệt
với thế giới còn lại, đã kiên quyết thu mình trong những truyền thống lâu đời
và từ chối sự phát triển, đó là lời giải thích văn hóa về một trong những nguyên
nhân quan trọng hàng đầu cho tình trạng bi thảm kéo dài ở các nước theo
khuynh hướng này.
Thứ năm, trong thực tế cuộc sống và trong thực tế học thuật, mối quan
hệ truyền thống - hiện đại thường gắn liền với mối quan hệ giữa các nền văn
hóa, văn minh, cụ thể hơn giữa phương Đông và phương Tây. Ngược lại, có
nhiều tác giả khi bàn đến mối quan hệ giữa các nền văn hóa giữa phương Đông
63
và phương Tây, thì về thực chất, dưới hình thức này hay hình thức khác, đều
đồng thời đề cập đến mối quan hệ truyền thống - hiện đại. Điều đó cũng dễ
hiểu, vì mỗi nền văn hóa được hình thành trên một truyền thống lịch sử lâu dài
để trở thành một thực thể với bản sắc và những đặc điểm riêng, và giờ đây,
trong quá trình hiện đại hóa đi đôi với toàn cầu hóa, sự gặp gỡ, giao lưu giữa
các nền văn hóa là điều tất nhiên. Trong cuộc gặp gỡ này, trước mặt các nước
Thế giới thứ ba, cái hiện đại thường xuất hiện trùng hợp với cái ngoại lai, từ
các nước công nghiệp phát triển mang nhãn hiệu văn hóa phương Tây. Xử lý
mối quan hệ này, trên một mức độ quan trọng, cũng là xử lý mối quan hệ
truyền thống và hiện đại.
Cho đến nay, trong một số học giả, đặc biệt là các học giả phương Tây
vẫn lưu hành một nhận định: trong các nền văn minh đang tồn tại thì nền văn
minh phương Tây là ưu việt hơn cả, có thể làm chuẩn mực cho cả trái đất, vì
vậy sự giải quyết con đường đi của nhân loại không thể là sự hòa giải theo kiểu
chia phần, mà là phải để cho ưu thế của nền văn minh phương Tây phát huy
sức mạnh của mình và được sự chấp nhận của thế giới.
Cùng với dòng tư tưởng tôn sùng đến mức độc tôn nền văn hóa phương
Tây đó, chính là quan niệm từng một thời ngự trị ở một số nước Thế giới thứ
ba, đặc biệt là các nước Trung - Cận Đông: hiện đại hóa đồng nghĩa với
phương Tây hóa. Với những người có quan niệm này, họ chợt thấy rằng, ở
ngay trên đất nước họ, cuộc gặp gỡ giữa hai nền văn hóa Đông - Tây chỉ có thể
là một cuộc đối đầu khủng khiếp và không có lối thoát. Truyền thống văn hóa
của họ, với tất cả bề dày của nó vẫn không đủ sức mạnh và phẩm chất để trụ
lại, càng không đủ để mở đường cho đất nước tiến lên. Vậy thì để cho đất nước
tiến lên, thành công trong hiện đại hóa, chỉ còn có con đường duy nhất là
phương Tây hóa.
Ngược lại với trào lưu “phương Tây hóa” trên đây và thật nghịch lý,
cũng do trào lưu đó kích thích, là tư tưởng không dung hòa hai nền văn hóa
Đông và Tây theo chiều hướng phủ nhận phương Tây đi đôi với tôn trọng và
64
bảo vệ phương Đông. Trước tiên là tư duy của những người đã nhận ra và coi
“sự xâm lược của văn hóa phương Tây” như một hiểm họa. Để chống lại hiểm
họa đó, họ tỏ ra có phần cực đoan không tìm hiểu chính xác thực chất nền văn
hóa phương Tây, những yếu tố văn hóa đã góp phần làm nên sức mạnh kinh tế
và cả những bước lầm lỡ của nó, họ một mực “quay trở lại cội nguồn của
mình”. Ở miền Cận Đông đó là quá trình “tái Hồi giáo”, ở Ấn Độ là công cuộc
“Ấn Độ giáo hóa”, còn ở Nhật Bản là sự “quay về với châu Á”. Ở một phạm vi
hẹp hơn, nhưng có phần gay gắt hơn, là những khuynh hướng “truyền thống
chủ nghĩa” đi kèm theo “dân tộc chủ nghĩa”. Với những người theo khuynh
hướng này, nhãn quan văn hóa không bao giờ vượt quá biên giới dân tộc.
Trong quan niệm của họ, dân tộc có thể tiến lên trong thời hiện đại, trở thành
một dân tộc hiện đại, nhưng về văn hóa thì truyền thống là truyền thống, không
chấp nhận những thay đổi dựa theo phương Tây, “cho đó là những sự áp đặt từ
bên ngoài hoặc là những đồ trang sức phù phiếm của một nền văn minh vay
mượn” [Masakazu Yamazaki. Châu Á một nền văn minh đang hình thành. Tạp
chí Foreign Affairs. 1996, Tr.7. No.4, tháng 7-8/1996].
Thứ sáu, trong bất kỳ truyền thống văn hóa của dân tộc nào cũng đều có
sự hiện diện của tôn giáo và tôn giáo vẫn tiếp tục tồn tại trong những hoạt động
của thời đại khi xã hội bước vào giai đoạn hiện đại hóa. Căn cứ vào tình hình
tôn giáo trên thế giới hiện nay, có thể nêu lên mấy khía cạnh: (1) Xét ở bề sâu
và tìm về nguồn gốc, tôn giáo nào cũng xuất phát từ nhu cầu của con người,
trong cuộc sống nhiều khó khăn và bất trắc, đi tìm một lối thoát và một chỗ
dựa cho tâm hồn, đồng thời cũng xuất phát từ ước vọng của con người cải
thiện số phận của mình, vươn lên thế giới “bằng an” và hạnh phúc trọn vẹn,
trong đó không còn những khổ ải và bất công, không còn quỹ dữ. Xét về cơ
bản, những điều đó cũng nằm trong hy vọng và mục tiêu của con người khi lao
vào những dự án xây dựng và hiện đại hóa đất nước. Do đó, ta dễ dàng giải
thích tại sao hiện nay ở các nước đang đẩy mạnh tốc độ hiện đại hóa, không
thể nào gạt bỏ tôn giáo với tư cách là một truyền thống văn hóa, thậm chí tôn
65
giáo còn nổi lên như một vấn đề cần được xem xét thích đáng trong đời sống
con người. Điều quan trọng là, không được quan niệm vấn đề một cách tĩnh
tại, mà phải hiểu rằng xã hội đang thay đổi với sự tiếp nhận những yếu tố hiện
đại thì tôn giáo, cái truyền thống văn hóa đó cũng phải thay đổi để thích nghi
vì thực ra nó không còn đầy đủ cho con người hiện đại, nhưng thay đổi như thế
nào không phải là một điều đơn giản. (2) Ở nhiều nước phương Tây hiện nay,
đạo Cơ Đốc - tôn giáo truyền thống đang ngày một sa sút số tín đồ, số người
thực hiện theo nghi lễ tôn giáo và số linh mục giảm đi rõ rệt. Nguyên nhân là
vì bản thân đạo Cơ Đốc, với tất cả giáo lý và những hình thức nghi lễ của nó
không còn đáp ứng được nhu cầu tâm linh của con người trong xã hội hiện
đại đang quay cuồng, trăn trở giữa hàng loạt vấn đề gay go của cuộc sống
hiện đại: việc làm, tiền đồ của thanh niên, bạo lực và các tệ nạn xã hội khác.
Bên cạnh đạo Cơ Đốc, người ta còn chú ý đến sự phát triển mạnh mẽ của đạo
Hồi ở các nước Tây Á và Trung - Cận Đông, đặc biệt một số nước thuộc Liên
Xô trước đây. Một mặt ở các nước đang hiện đại hóa, người ta muốn lấy đạo
Hồi làm một truyền thống văn hóa, coi như bản sắc văn hóa của dân tộc, để
chống lại mọi nguy cơ phương Tây hóa, mọi ý đồ xâm nhập của văn hóa
phương Tây. Còn hơn cả đạo Hồi, là sự phục hồi và phát triển của đạo Phật,
tuy rằng mang những màu sắc khác nhau ở các vùng đất khác nhau. Có lẽ
trong các tôn giáo - một bộ phận của truyền thống văn hóa - thì đạo Phật đáp
ứng được nhiều hơn cả những nhu cầu của con người hiện đại: sự tĩnh tâm
trước một thế giới ồn ào và tốc độ cao của khoa học - công nghệ hiện đại,
niềm an ủi trước những tai họa do con người và thiên nhiên gây ra, sự xa lánh
bạo lực, cảm giác trong lành trong một môi trường đầy những tranh cướp
quyền lợi khủng khiếp. Chính vì vậy mà đạo Phật được đón nhận ở các tầng
lớp người rất khác nhau về cương vị xã hội, người nghèo khổ, quan chức, trí
thức, người trung lưu. Để sang một bên một số nghi thức đã do chính con
người hiện đại làm cho phức tạp và không hề có trong kinh Phật thì sự tồn tại
hiện nay của đạo Phật cũng giúp chúng ta suy nghĩ về sức sống của những gì
66
là cốt lõi đích thực của truyền thống văn hóa trước sự phát triển chung của
thế giới hiện đại. (3) Không kể những trường hợp đặc biệt, nhìn tình hình
chung của thế giới, hiện nay người ta nói đến “sự trở lại của tôn giáo”. Chúng
ta không phủ nhận nhận định này, nhưng cần chấp nhận và lý giải nó ở những
khía cạnh nào trên bình diện văn hóa, là điều phải đặt vấn đề, dù chỉ mới là
những ý kiến phác thảo ban đầu. Với những tài liệu có được hiện nay, ta thấy
một mặt với thực trạng chính trị - xã hội hiện nay, kể cả những biến động lớn
vừa qua, con người tỏ ra không hài lòng từ chủ nghĩa tư bản với sự sa sút về
nhân cách và bế tắc về tinh thần ngay cả khi khoa học - công nghệ phát triển
như chuyện thần kỳ, cho đến “chủ nghĩa xã hội hiện thực” đã sụp đổ nhanh
chóng dù cho có sự cổ vũ của những lý tưởng đẹp đẽ - con người phải tìm trở
lại chỗ dựa tinh thần đã có từ ngàn đời là tôn giáo, nơi có thể gởi gắm, cầu
xin và hy vọng. Nhưng cần lưu ý rằng sự tìm đến tôn giáo ngày nay không
còn cùng một dạng thức như ngày xưa, người ta bỏ đi nhiều những nghi lễ
phiền phức, những ràng buộc về sinh hoạt tôn giáo, nhất là cái phần mê tín,
mà chủ yếu đi sâu vào ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhất của giáo lý; cho nên số
người đến nhà thờ hay đi chùa chiền có thể bớt đi, nhưng số người tự đọc
kinh, tự nghiền ngẫm lời dạy của Chúa Trời hay Đức Phật lại tăng lên, họ có
thể rút ra trong đó những gì mình tâm đắc nhất [70, 82].
Rõ ràng những gì vừa nêu trên đây là một phần trong bức tranh về mối
quan hệ giữa những giá trị trong truyền thống văn hóa với những vấn đề của
thời đại và qua sự xử lý của con người hiện đại. Một bức tranh khá hỗn độn,
nhưng nhìn kỹ, bao giờ cũng có thể lần ra được những đường nét chính.
Trong sự phát triển của văn hóa, cùng với sự thống nhất, giữa
truyền thống và hiện đại cũng bao hàm sự mâu thuẫn với nhau. Điều đó
được biểu hiện ở những quan điểm chính như sau:
Một là, tính ổn định của truyền thống và một số yếu tố lạc hậu, bảo thủ
của truyền thống trở thành lực cản của hiện đại. Trong sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, nhân dân ta đã
67
xây dựng lối sống mới phù hợp với sự phát triển của xã hội công nghiệp, từng
bước xây dựng, phát triển kinh tế tri thức, hội nhập khu vực và quốc tế,
nhưng vẫn giữ gìn và phát huy được các giá trị tốt đẹp trong lối sống cổ
truyền của dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị tốt đẹp của truyền
thống cần được bảo tồn, phát triển nâng cao, còn một số yếu tố lạc hậu, bảo
thủ của truyền thống trở thành lực cản của hiện đại, đó là lối làm ăn nhỏ,
manh mún, tản mạn, tác phong tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức
chấp hành pháp luật kém, tính cầu may, không biết lo xa và hạch toán kinh tế,
chưa tôn trọng tính chủ thể của cá nhân, tư duy phân tích, thực nghiệm và
luận lý yếu, khả năng hợp tác trong công việc hạn chế, thái độ "trọng nam,
khinh nữ", coi thường người trẻ, tính cục bộ, địa phương, tâm lý bình quân
chủ nghĩa gắn liền với thái độ “cào bằng”, ghen ghét đố kỵ những người trội
vượt hơn mình, v.v… Những mặt yếu kém này là sản phẩm tất yếu của kinh
tế tiểu nông, của thiết chế cộng đồng làng, xã và nền văn minh tiền công
nghiệp, là những đặc điểm của lối sống cổ truyền không còn phù hợp với thời
đại ngày nay. Vì vậy, cần khắc phục những thói quen và truyền thống đã tỏ ra
không còn phù hợp nhằm xây dựng lối sống mới văn minh, hiện đại.
Hai là, trong quá trình phát triển có những yếu tố của hiện đại không
phù hợp, mâu thuẫn, xung đột với truyền thống. Việc xây dựng lối sống mới
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội hiện nay là một vấn đề bức thiết đối
với dân tộc. Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường đã được thiết lập và
bước đầu có sự phát triển tương đối đa dạng, phong phú và ngày càng năng
động hơn. Mức sống của người dân được nâng cao rõ rệt. Quá trình toàn cầu
hoá, hội nhập quốc tế mang lại cho người dân khá nhiều cái mới, cái hiện đại
từ phương Tây; đồng thời, nó cũng tạo ra những biến đổi theo chiều hướng
xấu trong nhận thức của một bộ phận nhân dân về các giá trị truyền thống, về
lối sống cá nhân và dân tộc. Biểu hiện rõ nét nhất là xu hướng coi thường,
thậm chí phủ nhận các giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc, đồng thời đề
cao quá mức các giá trị ngoại lai mà họ cho là "mới”, "hiện đại". Trong lĩnh
68
vực âm nhạc, việc giữ gìn âm nhạc truyền thống với các làn điệu dân ca, các
điệu lý là đúng; nhưng, nếu thể loại đó không được cải biến, bổ sung và phát
triển, nâng lên thành cái mới, cái hiện đại thì sẽ làm cho người xem, người
nghe cảm thấy nhàm chán, buồn tẻ. Cho nên, nhiều người, đặc biệt là thế hệ
trẻ vốn năng động và luôn có xu hướng đi tìm cái mới, đã tiếp nhận một cách
vô tội vạ những nhạc phẩm Pop, Rap, Rock... mới, lạ của phương Tây. Đây là
vấn đề cần được suy nghĩ nghiêm túc.
Quá trình toàn cầu hoá hiện nay là một xu thế tất yếu, khách quan.
Trong phạm vi văn hoá, có sự lo ngại rằng, quá trình toàn cầu hoá sẽ dẫn
đến sự xâm nhập, bành trướng của văn hoá phương Tây, văn hoá Mỹ vào
nước ta sẽ đánh mất bản sắc văn hoá của mình. Sự ảnh hưởng của văn hoá
và lối sống phương Tây đến lối sống của nhân dân ta biểu hiện khá rõ. Giới
trẻ ngày nay chịu tác động quá nhiều từ lối sống phương Tây, một bộ phận
trong số họ chạy theo thứ văn hoá và lối sống "hiện đại” ấy, coi đó là "mô
hình chuẩn" để đánh giá so sánh với các nền văn hoá khác. Ai không theo
"mô hình chuẩn" đó thì được coi là không "sành điệu”, là lỗi thời, lạc hậu.
Họ thích chạy theo các mốt thời trang kiểu Tây, không phù hợp với thị hiếu
thẩm mỹ của dân tộc; thích uống rượu ngoại, ăn đồ ngoại hơn là sản phẩm
trong nước; thích xem phim bạo lực hoặc tình cảm "gợi dục" hơn là phim
tâm lý xã hội Việt Nam. Họ thực dụng, ít hoặc không quan tâm đến lý tưởng
chính trị xã hội; thích lối sống sòng phẳng hơn là nghĩa tình... Đó là những
biểu hiện xa rời lối sống truyền thống của dân tộc, xa rời bản sắc dân tộc,
chạy theo lối sống lai căng ngoại nhập vốn rất xa lạ với dân tộc ta. Rõ ràng
là, nội dung tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc về nhiều mặt chưa được định
hình rõ nét trong lối sống văn hoá, nếp sống văn hoá của nhân dân trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; môi trường văn hoá còn bị ô nhiễm
bởi các tệ nạn xã hội; vẫn còn không ít các sản phẩm văn hoá, hoạt động
văn hoá lai căng, thấp kém, thậm chí độc hại.
69
Sự phân tích trên đây cho thấy, trong quá trình xây dựng lối sống mới
của nhân dân hiện nay, đã xuất hiện mâu thuẫn giữa yêu cầu kế thừa và phát
huy các giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc với xu hướng trái ngược -
coi thường hoặc muốn phủ nhận các giá trị truyền thống văn hoá đó. Đây là
một trong những mâu thuẫn phức tạp mà những người lãnh đạo ngành văn
hóa phải nhận diện rõ để có hướng và biện pháp giải quyết kịp thời, có hiệu
quả nhằm xây dựng cho nhân dân một lối sống mới phù hợp với truyền thống
và hiện đại.
Như vậy, trong thời đại ngày nay, toàn cầu hoá vừa mang đến nhiều cơ
hội mới, giá trị mới, nhưng nó cũng đem lại cho chúng ta không ít thử thách
về kinh tế, chính trị và đặc biệt là về văn hoá, lối sống. Điều này đặt ra vấn đề
phải suy nghĩ là, làm thế nào để giữ gìn được các giá trị truyền thống văn hoá
của dân tộc trước xu hướng phương Tây hoá trong xây dựng lối sống? Đây là
một trong những mâu thuẫn đang đặt ra và cần được giải quyết ngay với kết
quả tốt nhất trong quá trình xây dựng lối sống mới hiện nay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Từ những vấn đề vừa trình bày ở trên, có thể khẳng định rằng: Văn
hóa là hoạt động sáng tạo và là hệ thống các giá trị do chính con người tạo
ra trong mỗi thời đại lịch sử. Trải qua hằng ngàn năm dựng nước và giữ
nước đã tạo cho Việt Nam có một truyền thống lâu đời, bền vững đó là
truyền thống lịch sử, truyền thống dân tộc. Cái hồn của truyền thống ấy là
văn hóa và bản lĩnh sáng tạo, sức sống của con người Việt Nam. Vì vậy, nó
phải được bảo tồn và phát huy, được kế thừa và phát triển trong những điều
kiện lịch sử mới.
Con người sản xuất và sáng tạo ra văn hóa đồng thời văn hóa đã phát
triển và hoàn thiện con người, định hình bản chất người và nhân tính của nó.
Văn hóa trong ý nghĩ sâu xa của nó là trình độ người trong phát triển, là tất
cả những gì chứng tỏ nhân tính vượt lên trên thú tính (bản năng của loài
70
vật). Tiếp cận văn hóa từ hoạt động cho thấy, văn hóa gắn liền với chủ thể
hoạt động là con người, văn hóa là phương thức độc đáo của con người, chỉ
riêng có ở con người để biểu hiện và tự biểu hiện mình, để khẳng định và tự
khẳng định mình trong phát triển và tự phát triển. Với con người và loài
người, hoạt động căn bản quan trọng, quyết định nhất là hoạt động lao động
sản xuất ở trong thực tiễn đời sống, gắn liền xã hội với tự nhiên, như một
chỉnh thể. Con người không chỉ sản xuất ra văn hóa mà còn cảm thụ, tiêu
dùng văn hóa, cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Chỉ những hoạt
động sáng tạo, tích cực, hướng tới sự phát triển và tiến bộ mới được coi là
hoạt động văn hóa. Do đó, về phương diện giá trị, cái gọi là văn hóa phải đi
liền với những giá trị đích thực, những chân giá trị (chân - thiện - mỹ). Cần
phải khẳng định rằng, văn hóa chỉ dùng để nói về những gì tốt đẹp, đúng
đắn, hướng tới phát triển và hoàn thiện nhân tính. Những gì đối lập với nó
không thể gọi là văn hóa và giá trị văn hóa.
Truyền thống và hiện đại có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau, trong đó, truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại,
còn hiện đại là sự kế thừa, phát triển nâng cao truyền thống. Mối quan hệ
giữa truyền thống và hiện đại thực chất là sự bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống trong điều kiện hiện đại hóa xã hội. Vì vậy việc bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đòi hỏi phải thấm nhuần quan
điểm và phương pháp biện chứng về phát triển. Đây chính là xử lý mối quan
hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa kế thừa và phát triển các di sản, các giá trị
truyền thống. Trong thời hiện đại, trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, giá trị và
sức mạnh ấy cũng phải phát huy và đồng thời cũng cần khắc phục những hạn
chế của chính giá trị này, sao cho cố kết cộng đồng không bao giờ buông
lỏng mà tự do cá nhân cũng không thể xem thường. Chính vì vậy, việc bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống bao hàm cả xây dựng và cải
tạo, cả kế thừa và loại bỏ, đổi mới để phát triển. Cuộc đấu tranh giữa cái mới
tiên tiến với cái lạc hậu, bảo thủ là một cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài. Vì
71
vậy, việc xây dựng quan niệm mới về giá trị, đổi mới nhận thức về giá trị văn
hóa truyền thống, chú trọng giáo dục văn hóa, đặc biệt là giáo dục giá trị để
hướng dẫn dư luận và thực hành trong lối sống, trong đời sống văn hóa là một
đòi hỏi bức xúc, cần thiết. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống hướng tới phát triển có ý nghĩa như là hiện đại hóa truyền thống.
Truyền thống và những giá trị văn hóa truyền thống định hình ở dân
tộc này nhưng có thể có ở dân tộc khác, ở nhiều dân tộc khác. Có lẽ, để tồn
tại và phát triển, không dân tộc nào trong cộng đồng thế giới nhân loại lại
không hình thành nên tình cảm yêu nước, thương nòi, cần cù lao động, sáng
tạo trong việc cải biến tự nhiên và chống ngoại xâm. Cũng như vậy, trong
văn hóa của dân tộc mình, không dân tộc nào lại không xây dựng cho mình
những chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử, những thành tựu riêng thuộc
về tư tưởng hay ý thức hệ, về văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa và
đưa nó vào trong sinh hoạt tinh thần, thành tâm lý, phong tục, tập quán.
Không một quá khứ nào có thể giữ nguyên vẹn khi gia nhập vào đời sống
của hiện tại và đi tới tương lai. Đó là lẽ tự nhiên của phát triển. Bởi vậy, khi
xem xét văn hóa dân tộc với truyền thống và giá trị của nó như là “tấm căn
cước” của dân tộc để hội nhập vào thế giới, giúp cho sự nhận thức và đánh
giá dân tộc đó là gì và như thế nào trong sự hiểu biết và cảm thông của cộng
đồng nhân loại thì nhận diện những khác biệt là rất cần thiết và quan trọng.
Những khác biệt đó không chỉ là cái tốt, cái đẹp mà có cả những khiếm
khuyết, hạn chế. Cái mạnh của dân tộc này (về văn hóa) có thể là cái yếu
của dân tộc khác.
Để nỗ lực vươn tới phát triển và có đóng góp xứng đáng vào phát
triển chung, tính tự ý thức của dân tộc là điều không thể thiếu. Đó mới thực
là điều cần nhấn mạnh khi bàn về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống trong hội nhập quốc tế.
72
Chương 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG
GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA Ở CẦN THƠ
2.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ, CÁC LOẠI HÌNH
VĂN HÓA CHỦ YẾU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NÓ
2.1.1. Những điều kiện hình thành và phát triển của văn hóa ở Cần Thơ
Khái quát điều kiện lịch sử Cần Thơ
Thời điểm lịch sử hình thành vùng đất Cần Thơ được khai mở và có mặt
trên dư đồ Việt Nam là từ năm 1739, với tên gọi Trấn Giang. Nếu tính xa hơn
nữa, thì vùng đất này đã xuất hiện và tồn tại trong quá trình hình thành vùng
Châu thổ sông Cửu Long từ trước Công nguyên. Đến ngày 23 tháng 2 năm
1876, sau khi đã chiếm trọn Nam kỳ lục tỉnh, thực dân Pháp mới ra nghị định
lấy huyện Phong Phú (Trấn Giang xưa) và một phần huyện An Xuyên và Tân
Thành thuộc tỉnh An Giang (thời vua Minh Mạng) để thành lập hạt Cần Thơ
(Arrondissement de Can Tho) [49, 21].
Bản đồ hành chính thành phố Cần Thơ
73
Trên bản đồ Việt Nam, Cần Thơ hiện ra ở dải đất cực Nam của Tổ quốc,
nằm vào vị trí giữa các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Thủ sở Trấn Giang ở
phía Tây sông Hậu, lập ra từ năm Kỷ Vị 1739, do ông Mạc Thiên Tích và
được ông Nguyễn Cư Trinh đồng tâm xây dựng để làm hậu cứ cho mặt trận
Hà Tiên chống quân xâm lược từ phía Tây Nam, vừa là nơi phát triển kinh tế
mở mang bờ cõi. Nơi đây, một vùng đất mới nên thu hút người tứ phương
miệt Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau đổ về và người từ vùng Đồng Nai đổ xuống
để sinh cơ lập nghiệp, mà nguồn gốc cũng từ miền Bắc, miền Trung đi vào,
có cả người Khmer, người Hoa hội tụ về đây trở thành cộng đồng dân cư các
dân tộc làm ăn sinh sống hoà thuận, khiến cho vùng đất này ngày trở nên trù
phú, khởi sắc.
Trong sách Gia Định thành thông chí (1765 – 1825) của Trịnh Hoài
Đức mô tả: “Sông Cần Thơ phía Tây Hậu Giang, thủ sở đạo Trấn Giang chợ
phố trù mật, người mua bán hội tụ”. Thời Gia Long sách viết về Trấn Giang
còn nói rõ: “…mở mang đường sá, xây cất chợ búa, phố phường, việc mua
bán ngày càng phồn thịnh, dân tứ xứ kéo đến định cư, lập nghiệp ngày càng
đông đúc…”. Tỉnh Cần Thơ nói chung, thành phố Cần Thơ nói riêng4 được
tiếng tăm từ đó cho đến nay. Ngoài thành phố Sài Gòn (trên 300 năm) được
coi là “Hòn Ngọc Viễn Đông”, thì miền Tây Nam bộ có thành phố Cần Thơ
(trên 150 năm), không phải ngẫu nhiên mà từ lâu được mệnh danh là “Tây
Đô”, bởi những điều kiện riêng của nó.
Về tên gọi Cần Thơ, trong sử sách xưa nay, không có ghi chép xuất xứ
rõ ràng như tên gọi một số tỉnh khác, chỉ có những truyền thuyết do các bô
lão địa phương đời trước kể lại cho con cháu đời sau. Theo nhà nghiên cứu
Huỳnh Minh, trong quyển sách sưu khảo Cần Thơ xưa và nay xuất bản năm
1966 thì có hai truyền thuyết như sau:
Truyền thuyết thứ nhất, ngày xưa, khi chưa lên ngôi vua, chúa Nguyễn
Ánh vào Nam và đã đi qua nhiều nơi ở vùng châu thổ sông Cửu Long. Một 4 Lúc bấy giờ, thành phố Cần Thơ là thành phố thuộc tỉnh Cần Thơ.
74
hôm, đoàn thuyền của chúa đi theo sông Hậu vào địa phận thủ sở Trấn Giang
(Cần Thơ xưa). Đêm vừa xuống, thì đoàn thuyền cũng vừa đến Vàm sông
Cần Thơ 5. Đoàn thuyền đang lênh đênh trên mặt nước ở ngã ba sông này,
chúa nhìn vào phía trong thấy nhiều thuyền bè đậu dài theo hai bờ sông, đèn
đóm chiếu sáng lập loè. Giữa đêm trường canh vắng, vọng lại nhiều tiếng
ngâm thơ, hò hát, tiếng đàn, tiếng sáo hoà nhau nhịp nhàng. Chúa thầm khen
về một cảnh quan sông nước hữu tình. Chúa mới có cảm nghĩ ban cho con
sông này một cái tên đầy thơ mộng là Cầm thi giang tức là con sông của thi
ca đàn hát. Dần dần hai tiếng Cầm thi được lan rộng trong dân chúng và
nhiều người nói trại ra là Cần Thơ. Tên Cần Thơ nghe thấy hay và đẹp nên
được người trong vùng chấp nhận và cùng gọi sông Cần Thơ.
Truyền thuyết thứ hai, ở hai bên bờ sông Cần Thơ ngày xưa, người dân
trồng rất nhiều rau cần và rau thơm. Ghe thuyền chở nhiều rau cần, rau thơm
qua lại rao bán đông vui từ năm này sang năm khác. Vì vậy từ xa xưa, còn
truyền lại những câu ca dao:
“Rau cần, rau thơm xanh mướt,
mua mau kẻo hết
chậm bước không còn”.
“Rau cần lại với rau thơm
Phải chăng đất ấy rau thơm có nhiều”
Cũng có thể từ đó mà người địa phương lại gọi sông này là sông Cần
Thơm, nói trại là Cần Thơ. Hai truyền thuyết Cầm Thi và Cần Thơm chưa
biết cái nào là đúng nguồn gốc. Nhưng dù nói thế nào đi nữa, thì từ xa xưa,
người dân địa phương đã gọi là sông Cần Thơ.
Đến năm 1876, khi Pháp lấy huyện Phong phú, lập ra hạt mới thì đã
dùng tên sông Cần Thơ để đặt tên cho hạt Cần Thơ rồi sau đó là tỉnh Cần Thơ.
Về hai chữ Tây Đô, từ trước đến nay chưa có một văn bản Nhà nước nào
chính thức gọi Cần Thơ là Tây Đô (thủ đô miền Tây). Tuy nhiên, do vị trí địa 5 Bến Ninh Kiều ngày nay.
75
lý thuận lợi về giao thông, thương mại, công kỹ nghệ và cả về quân sự đều ở
trung tâm khu vực châu thổ sông Cửu Long nên từ thời thực dân Pháp đô hộ
đến thời Mỹ xâm lược, cả phía ta và địch đều coi ở đây có vị trí trung tâm của
vùng. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, đi lên
chủ nghĩa xã hội thì thành phố Cần Thơ vẫn được Nhà nước ta xác định vị trí
là trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Như vậy, chính hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội của tỉnh Cần Thơ đã từng tồn tại phát triển qua nhiều thời kỳ, tạo cơ sở,
để trước nay, không ai bảo ai, mà nhiều người ở nhiều nơi vẫn thường gọi
Cần Thơ là Tây Đô.
Về điều kiện tự nhiên, thành phố Cần Thơ nằm ở vị trí trung tâm của
đồng bằng sông Cửu Long, là tâm của vùng có bán kính 200 km, nằm trên bờ
Tây sông Hậu, nối với đường biển quốc tế theo luồng Định An (cách biển 75
km). Thành phố Cần Thơ còn là điểm giao nhau của các quốc lộ I, quốc lộ
80, 91, 61 và đường trục N2. Toạ độ địa lý 9°10’53”-10°19’17” độ vĩ Bắc và
105°14’13”- 106°15’57” độ kinh Đông. Địa giới hành chính tiếp giáp: Đông
giáp tỉnh Vĩnh Long; Tây giáp tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu; Bắc giáp tỉnh An
Giang, Đồng Tháp; Nam giáp tỉnh Sóc Trăng, Hậu Giang. Cần Thơ có 9 đơn
vị hành chánh (5 quận và 4 huyện), với 85 xã, phường, thị trấn6. Dân số
1.114.000 người [71, 20 - 36].
6. Tính đến cuối năm 2010, Cần Thơ có 85 xã, phường, thị trấn.
76
Cầu Cần Thơ được khánh thành vào ngày 24-4-2010
Cần Thơ là nơi đầu mối hệ thống giao thông thuỷ, bộ đi toả các tỉnh
trong khu vực, nối với Sài Gòn ra cả nước và biển Đông, ngược lên Phnôm
Pênh (Campuchia) rất thuận lợi cho giao lưu về kinh tế, văn hoá. Về giáo dục
có trường Collège de Can Tho (1921) một trong những trường trung học sớm
nhất ở vùng Hậu Giang. Hiện nay, có nhiều trường trung học, không chỉ ở
thành phố Cần Thơ mà còn có cả ở các huyện, thị trong tỉnh. Có trường đại
học Cần Thơ lớn nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; ngoài ra còn có
các trường Cao đẳng sư phạm, trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề.
Về y tế, ngoài bệnh viện đa khoa của tỉnh (xây dựng trên 100 năm), bây giờ
có thêm nhiều bệnh viện, trung tâm y tế huyện, thị, thành v.v…
Với khí hậu ôn hoà, vùng đất đai phì nhiêu, màu mỡ nên thích hợp cho
việc thâm canh tăng vụ các loại cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây
công nghiệp nhiệt đới và cây hoa cảnh. Ngoài hệ thống giao thông đường
thuỷ, đường bộ khá thuận tiện trong việc giao lưu với các tỉnh trong vùng và
liên vận quốc tế, Cần Thơ còn có hệ thống sông ngòi chằng chịt rất thuận lợi
cho việc nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản. Là một vùng sông nước nên từ rất
sớm văn hoá Cần Thơ đã mang sắc thái văn minh nông nghiệp sông nước,
được thể hiện qua các loại hình Chợ nổi như Phụng Hiệp, Cái Răng, Phong
77
Điền. Đồng thời đó cũng là nơi giao lưu văn hoá giữa các tỉnh trong vùng; đã
tạo ra cho những người dân nơi đây một phong cách sống đặc thù “trí tuệ,
năng động, nhân ái, hào hiệp”.
Điều kiện kinh tế - xã hội của Cần Thơ
Cần Thơ là một tỉnh thuần nông, với hơn 80% người dân sản xuất nông
nghiệp, là địa phương sản xuất khối lượng hàng hoá nông sản lớn trong vùng.
Trải qua các cuộc kháng chiến kháng chiến ác liệt chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, nông dân bám đất giữ làng, nhờ chính sách ruộng đất của
Đảng mà nhiều nông dân trở nên khá, giàu. Nhiều ngành nghề mới, mạng
lưới dịch vụ được hình thành và dần dần phát triển, tạo thành một lực lượng
sản xuất khá mạnh tạo tiền đề cho Cần Thơ phát triển.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất Tổ quốc, kinh tế
Cần Thơ vẫn là thuần nông. Với tình hình và nhiệm vụ mới, nông nghiệp
được xem là mặt trận hàng đầu, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Cần
Thơ đã ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, gắn phong trào làm thuỷ lợi
với hợp tác hoá nông nghiệp, đưa năng suất và sản lượng lương thực không
ngừng tăng lên, sản lượng lúa từ 524.000 tấn năm 1976 lên gần 800.000 tấn
năm 1986, chẳng những cân đối được lương thực trong tỉnh mà còn làm tốt
nghĩa vụ đối với cả nước 7.
Tuy nhiên, do nôn nóng, muốn đưa nhanh nông nghiệp lên sản xuất lớn
Xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương tiến hành cải tạo nông nghiệp, đưa nông
dân vào tập đoàn sản xuất và hợp tác xã trong khi điều kiện chưa chín muồi.
Tháng 6-1985, Hậu Giang (nay là Cần Thơ) tuyên bố đã hoàn thành cơ bản cải
tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp8. Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp
có vai trò lịch sử nhất định trong bước đi ban đầu đi lên Chủ nghĩa xã hội ở
tỉnh Hậu Giang (nay là thành phố Cần Thơ). Tuy nhiên, quá trình cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở tỉnh cũng đã mắc phải những khuyết điểm, sai 7. Thời kỳ này thành phố Cần Thơ còn là tỉnh Hậu Giang, bao gồm: tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Hậu Giang. Theo báo cáo tổng kết năm 1986 của tỉnh ủy Hậu Giang (nay là thành phố Cần Thơ). 8. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo cải tạo nông nghiệp tỉnh Hậu Giang năm 1985.
78
lầm nghiêm trọng, đã đặt lên vùng này một quan hệ sản xuất không phù hợp;
một cơ chế quản lý kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) với đường lối đổi mới toàn diện
và nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khoá VI), Nghị quyết 10 của Bộ Chính
trị (1988), nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) đều nhận rõ các sai
lầm của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp. Điểm mới đặc
biệt trong các nghị quyết này là việc khẳng định hộ xã viên, tập đoàn viên là
đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đã khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động rộng lớn
của nông dân Hậu Giang (nay là Cần Thơ), phát huy được thế mạnh của địa
phương. Kinh tế nông nghiệp dần dần được khôi phục và phát triển. Mặt
khác, trong thập niên 80, công tác thuỷ lợi được đẩy mạnh, nhiều công trình
thuỷ lợi ngăn mặn, rửa phèn được hoàn thành đã góp phần làm thay đổi cơ
cấu cây trồng, tốc độ thâm canh tăng nhanh, nhiều vùng trong tỉnh cơ cấu hai
vụ lúa, một vụ màu, có nơi ba vụ lúa trở thành phổ biến.
Ngoài cây lúa, vùng cây ăn trái nổi tiếng từ lâu như Phong Điền, Ô
Môn… được khôi phục và phát triển. Mô hình kinh tế gia đình VAC (vườn,
ao, chuồng) đã xuất hiện. Nhiều hộ nông dân khá lên nhanh chóng. Thực tiễn đó
cho thấy sự chuyển dịch nền kinh tế nông thôn là xu hướng tất yếu, mở lối cho
quá trình phát triển của một nền kinh tế nông nghiệp đi lên công nghiệp hóa.
Thời kỳ này, Đảng bộ và nhân dân Hậu Giang (nay là Cần Thơ) ý thức
rất rõ vai trò của khoa học - kỹ thuật. Chỉ có khoa học - kỹ thuật mới tạo ra
năng suất, sản lượng lương thực lớn; nhưng để sự phát triển bền vững phải có
vai trò động lực tác động đến nông dân và xã hội nông thôn. Điều đó cho thấy
trong phát triển không thể thiếu vai trò của khoa học xã hội và nhân văn. Do
nhu cầu phát triển, Cần Thơ đã hợp tác với một số Viện, trường Đại học thực
hiện các đề tài khoa học; trong đó, đề tài đáng chú ý là “Quản lý và phát triển
kinh tế - xã hội huyện Thốt Nốt”, do huyện uỷ Thốt Nốt hợp tác với Viện
Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, chủ đề của đề tài là tìm
mâu thuẫn: quan hệ sản xuất phù hợp hay không phù hợp với lực lượng sản
79
xuất. Qua hội thảo đã đi đến kết luận: ở Thốt Nốt nông hộ là đơn vị kinh tế cơ
bản ở nông thôn, muốn phát triển phải tạo động lực và điều kiện cho kinh tế
nông hộ. Ứng dụng đề tài này, huyện Thốt Nốt đã xây dựng mô hình “Tạo điều
kiện cho nông hộ tăng năng suất vùng lúa nổi”; nhờ đó đã động viên nông dân
thâm canh, tăng vụ có hiệu quả, diện tích, năng suất và sản lượng không ngừng
tăng lên. Thực tiễn này góp phần vào việc hình thành nên chủ trương, nghị
quyết của Đảng, trong đó nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá VI)
về đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp là một điển hình.
Với đường lối đổi mới của Đảng, nhất là đổi mới tư duy kinh tế, đổi
mới cơ chế quản lý đã thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. Hậu Giang (nay
là Cần Thơ) là một trong những tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long có sản
lượng lương thực cao. Nếu như năm 1976, Hậu Giang (nay là Cần Thơ) chỉ
đạt hơn nửa triệu tấn, thì năm 2000 đạt 2.037.830 tấn. Lương thực chẳng
những đủ ăn mà còn xuất khẩu trên 350 ngàn tấn/năm9.
Để kinh tế Hậu Giang (nay là Cần Thơ) phát triển nhanh và bền vững,
không thể chỉ đi lên bằng con đường nông nghiệp, mà phải có công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ…Vì vậy, đi đôi với phát triển nông
nghiệp, lãnh đạo tỉnh Hậu Giang (nay là thành phố Cần Thơ) tập trung đầu tư
xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn này, đặc biệt là công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.
Từ năm 1976 đến 1980 là thời kỳ khôi phục sản xuất công nghiệp, vừa
cải tạo vừa xây dựng phát triển mới các cơ sở công nghiệp, nổi bật nhất là
việc xây dựng Xí nghiệp liên hiệp dược Hậu Giang, xí nghiệp in tổng hợp
Hậu Giang, xí nghiệp cơ khí trung tâm và tiếp theo là xí nghiệp đóng tàu
thuỷ, xí nghiệp sửa chữa ô tô của ngành giao thông vận tải… Nhờ vậy, ngành
công nghiệp của tỉnh mỗi năm đều có bước tiến đáng kể.
Từ năm 1981 đến năm 1985, là thời kỳ tăng cường xây dựng cơ sở vật
chất, trong đó tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp phục vụ sản xuất 9. Theo báo cáo tổng kết năm 2000 của tỉnh ủy Cần Thơ.
80
nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân
dân, đẩy nhanh sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Đã đầu tư xây dựng mới các xí
nghiệp: Xí nghiệp rau quả đông lạnh ở Trà Nóc, Xí nghiệp chế biến thuỷ hải sản
đông lạnh Cafatex chế biến tôm đông lạnh, các mặt hàng đóng gói xuất khẩu.
Ngành tiểu, thủ công nghiệp cũng phát triển phong phú đa dạng và
xuất hiện nhiều ngành nghề mới như dệt bao đay, thảm đay, mành trúc, thêu
đan, dệt chiếu, dệt vải, khăn tắm, sản xuất bột giặt, sườn xe đạp, xeo bột
giấy… Công nghiệp phát triển nhất là chế biến lúa gạo, chế biến đường.
Thời kỳ 1986 - 1990, các ngành sản xuất bắt đầu chịu ảnh hưởng nhiều
bởi việc chuyển đổi quản lý, từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa trong nước bị cạnh tranh gay gắt do hàng ngoại
nhập vào. Trong thời kỳ này, trừ một số xí nghiệp quốc doanh chủ lực của tỉnh
biết kịp thời trang thiết bị sản xuất, chuyển đổi kinh doanh thích hợp với cơ chế
thị trường, ngoài ra còn nhiều xí nghiệp khác lâm vào tình trạng sản xuất không
ổn định do hậu quả của thời kỳ bao cấp. Tuy nhiên, ngành công nghiệp toàn tỉnh
cũng đạt được một số kết quả nhất định, giá trị tăng thêm trong ngành công
nghiệp bình quân thời kỳ này là 6,62%.
Nhà máy nhiệt điện Trà Nóc, thành phố Cần Thơ
81
Thời kỳ 1991 - 2000, Đại hội VII của Đảng khẳng định đường lối đổi mới của
Đảng là đúng đắn, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của Cần Thơ
được củng cố chấn chỉnh sắp xếp lại: các xí nghiệp quốc doanh tập trung vốn
đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ sản xuất, tiếp tục mở
rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài. Các cơ sở tiểu thủ công nghiệp cũng phát
triển đa dạng, đầu tư mở rộng sản xuất. Do đó, ngành công nghiệp của Cần Thơ
phát triển khá, đặc biệt là công nghiệp quốc doanh, tăng bình quân 17-18%/năm.
Do sự tác động của công nghiệp mà trình độ tay nghề của công nhân được nâng
lên, cơ cấu lao động đã có chuyển biến một bước đáng kể, giúp cho nông dân
tăng nguồn thu nhập phụ của nông nghiệp, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn
lao động, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển.
Đầu năm 2004, tỉnh Cần Thơ được chia tách thành hai đơn vị hành
chánh mới là thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang.
Thành phố Cần Thơ bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ công nghiệp hóa
- hiện đại hóa - trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và cơ hội lớn, nhưng cũng có
nhiều thách thức gay gắt, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay. Thời kỳ này, đòi hỏi sản phẩm hàng hoá mang hàm lượng tri thức cao,
sức cạnh tranh khốc liệt… Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ đã luôn phát huy
truyền thống yêu nước, đoàn kết; phát huy tốt các nguồn lực, khắc phục khó
khăn, giành được những kết quả quan trọng và tương đối toàn diện.
Đặc điểm dân cư và đời sống tác động đến văn hóa Cần Thơ
Thành phố Cần Thơ là một trong năm thành phố trực thuộc Trung
ương, là thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long, thường
được gọi là “vùng đất mới”, nhưng thực tế theo khảo cổ học thì nơi đây đã có
vết tích cư trú của con người từ đầu công nguyên. Tại ấp Nhơn Thành, xã
Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền, Bảo tàng thành phố và các cơ quan chuyên
môn đã phát hiện nhiều di vật của nền văn hóa Óc - Eo với một giai đoạn lịch
sử kéo dài từ thế kỷ I-VII.
82
Chủ nhân văn hóa chính của thời kỳ khai hoang, mở đất là người Việt,
người Khmer và người Hoa. Vì đặc thù sông nước chi phối toàn bộ cuộc sống
cộng đồng trong vùng nên chúng ta có thể dùng cụm từ văn hóa sông nước và văn
minh miệt vườn để chỉ về những nét văn hóa đặc sắc của thành phố Cần Thơ.
Người Việt hiện sinh sống tại thành phố Cần Thơ khoảng 1,083 triệu
người, chiếm 96,57% dân số, có nguồn gốc từ miền Bắc, miền Trung đến
khai khẩn Nam bộ từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, XIX. Trong quá
trình di cư, người Việt đã mang theo những “hành trang văn hóa” từ vùng đất
tổ. Trong quá trình tiến hành công cuộc khai khẩn đồng bằng sông Cửu Long
thì hành trang văn hóa đó có sự giao lưu với các dân tộc Chăm, Hoa, Khmer,
sự hòa hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường sinh sống, từ đó tạo nên một
tính cách Nam bộ - giản dị và phóng khoáng như hiện nay.
Người Việt ở Cần Thơ có truyền thống yêu thích ca hát. Kho tàng văn
hóa dân gian ở Cần Thơ rất phong phú. Ngoài các loại hình ca dao dân ca
phổ biến trong khu vực, người Việt ở Cần Thơ còn có điệu hò, lý rất riêng
như: lý thanh trục, hò Thới Lai, hò Cần Thơ.
Riêng đồng bào dân tộc Khmer cư trú tại thành phố Cần Thơ có khoảng
19.075 người, chiếm gần 1,68% dân số. So với một số tỉnh trong khu vực,
đồng bào Khmer ở Cần Thơ tương đối ít, không tập trung, sống rải rác xung
quanh 12 ngôi chùa Phật giáo Tiểu thừa ở các huyện Cờ Đỏ, quận Ô Môn và
quận Ninh Kiều.
Đặc điểm xã hội của đồng bào Khmer là nông dân hầu hết đều theo
Phật giáo hệ phái Nam tông. Việc tu theo Phật giáo Nam tông đòi hỏi tuân
thủ nhiều nghi thức như: sáng và trưa, sau 12 giờ trưa không được ăn gì cả;
về thờ phượng, chỉ thờ duy nhất Phật Thích Ca; trong giới tu chỉ có tăng,
không có ni (nữ giới). Tu sĩ gồm hai bậc là Sadi giữ 150 giới, tỳ khưu giữ
227 giới và đều phải tuân theo 10 giới chánh yếu của đức Phật: “không sát
sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không uống rượu, không
ăn chiều, không nghe đàn, không xem hát, không dùng mùi thơm và đồ trang
83
sức, không ngồi chỗ cao đẹp, không cất giữ tiền bạc”; diệt trừ 5 điều chướng
ngại: trần tục, thù oán giận hờn, lười biếng, sự phóng tâm, sự hoài nghi. Sadi
muốn lên bậc tỳ kheo phải trên 20 tuổi, những người đi tu phải có vị Ôpachia
làm thầy tế độ… Các sinh hoạt tôn giáo và nghi lễ được tổ chức tại chùa -
trung tâm của Phật giáo trong cộng đồng dân tộc Khmer. Ở các phum, sóc có
đông đồng bào Khmer đã từ lâu đời đều xây dựng các ngôi chùa hoặc sala để
trở thành nơi sinh hoạt tôn giáo và sinh hoạt văn hóa của cộng đồng cư dân
người Khmer. Do chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật nên trong cuộc sống
cộng đồng người Khmer luôn thể hiện tinh thần nhân đạo và niềm tin vào
thiện ác, xem vấn đề luân hồi, nhân quả là một quan niệm nhân sinh.
Trong quá trình lao động sáng tạo, đấu tranh chinh phục thiên nhiên để
cải tạo cuộc sống, đồng bào Khmer đã xây dựng cho mình một nền văn hóa
phong phú và đa dạng với nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa, ca múa
nhạc sân khấu, thơ ca dân gian. Đặc biệt là các lễ hội mang đậm bản sắc dân
tộc gắn với lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội, gia đình, cộng đồng phum, sóc
và các sinh hoạt tôn giáo của người Khmer như: lễ dân tộc Bund Chool Chnăm
Thmây (lễ vào năm mới), Bund Sen Dôl Ta (lễ cúng ông bà), Bund Thvai Pră
Khe (lễ cúng trăng); lễ hội tôn giáo Bund Kathanh, Bund Visaka Bôchia (lễ Phật
đản)… Qua những nghi thức lễ bái và mục đích ý nghĩa của nó, các hoạt động lễ
hội thể hiện rõ tinh thần vị tha, tính nhân đạo cao cả, giáo dục sự đoàn kết trong
cộng đồng và nêu lên quan niệm về đạo đức nhằm giáo dục con người hướng
thiện, duy trì quan hệ tốt đẹp giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với
nhau trong xã hội, ở từng giai đoạn, từng cộng đồng phum, sóc.
Trong nền văn hóa đặc sắc của người Khmer, ngôn ngữ và chữ viết của
họ đã phát triển khá hoàn chỉnh, trong đó tiếng nói bản địa được bổ sung và
làm phong phú bởi tiếng Sancrít (qua Bàlamôn giáo); chữ viết tiếp thu từ chữ
Pramei do những người theo Bàlamôn giáo sáng tạo ra cũng ngày một hoàn
chỉnh. Tuy có lúc bị giai cấp thống trị cấm đoán, không cho sử dụng, giảng
dạy, học hành trong nhà chùa và trường công lập nhưng đồng bào và các vị
84
sư sãi người Khmer vẫn đấu tranh để tổ chức giảng dạy và học tập nhằm bảo
tồn ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc Khmer trong các trường chùa.
Người Khmer yêu thích các loại hình um-tuk (hát ru con), à-day (hát
đối đáp), múa lâm-thôn, múa trống xa-dăm. Sinh hoạt văn hóa gắn liền với
các ngôi chùa Phật giáo tiểu thừa và các lễ hội lớn: Chool-Chnam-Thmây
(mừng năm mới), Đôl-ta (cúng ôn bà, cha mẹ), Óc-om-bóc (cúng trăng).
Người Hoa, hiện sống ở thành phố Cần Thơ khoảng 15.717 người,
chiếm gần 1,37% dân số. Người Hoa sống ở thành phố Cần Thơ luôn có mối
quan hệ mật thiết với người Hoa sống ở các vùng khác, nhất là thành phố Hồ
Chí Minh, còn bảo lưu nhiều nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng của mình
nhưng họ cũng lấy nơi đây làm quê hương thứ hai, sống hòa hợp với các tộc
người khác và góp phần phát triển kinh tế - xã hội chung.
Người Hoa trong sinh hoạt hàng ngày thích hát sơn - ca (giống như ca
dao - dân ca của người Việt). Hàng năm, họ tổ chức các lễ hội lớn: vía Quan
Công, vía bà Thiên Hậu, vía Ông Bổn… Trước đây, người Hoa còn thành lập
ra các nhóm Sơn Đông mãi võ, vừa biểu diễn võ thuật, xiếc, vừa bán thuốc
cao đơn hoàn tán ở các chợ thị tứ, thị trấn.
Cộng đồng người Việt, Khmer, Hoa của thành phố Cần Thơ nhìn
chung rất hòa thuận, có sự giao lưu, tiếp thu văn hóa lẫn nhau. Những giá trị
văn hóa ban đầu là của một tộc người, sau đã trở thành tài sản chung của các
tộc người. Một số phong tục, tập quán (ma chay, cưới xin, lễ hội…) và nghệ
thuật dân tộc ảnh hưởng nhau khá đậm trong cuộc sống.
2.1.2. Qúa trình phát triển và các loại hình văn hóa ở Cần Thơ
Quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ
Trong lĩnh vực lịch sử, văn hóa, vùng đất Cần Thơ nổi tiếng về bề dày
và chiều sâu bậc nhất của cả vùng Nam Bộ. Bằng chứng là qua các cuộc
nghiên cứu về khảo cổ đã phát hiện nơi đây trải qua một giai đoạn phát triển
rực rỡ của vương quốc Phù Nam và nền văn hóa Óc Eo kéo dài gần 600 năm
sau công nguyên. Công cuộc khai khẩn đất hoang, hội tụ dân cư lập nghiệp ở
85
Cần Thơ được đẩy mạnh nhất là từ thế kỷ thứ 16, 17. Năm 1739, dưới thời
chúa Nguyễn đã hoàn tất việc tổ chức địa giới hành chính của 4 vùng đất mới
trong đó Cần Thơ được gọi tên là Trấn Giang, trung tâm “thủ sở” của cả vùng.
Văn hóa Cần Thơ đã có rất sớm, từ những cư dân đầu tiên đi mở đất, trong quá
trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ có thể chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn khai hoang mở đất (trước năm Cách mạng tháng 8/ 1945): cư
dân ở các vùng, miền khác nhau, các dân tộc khác nhau (Kinh, Khmer, Hoa,
Chăm) lưu tụ về đây để khai mở đất đai, thành lập thôn ấp đầu tiên trên vùng
đất Trấn Giang này, với hành trang có sẵn trong mình là những điệu hát, câu hò,
những phong tục, truyền thống văn hóa từ miền Bắc, miền Trung mang vào,
hình thành nên nền nông nghiệp lúa nước. Từ những đặc điểm văn hóa, những
phong tục, tập quán, lối sống của các vùng, miền khác nhau đó kết hợp với điều
kiện sống, những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của vùng đất mới, tạo
nên sự giao thoa và dung hợp văn hóa của vùng đồng bằng sông nước, hình
thành nên nền văn minh sông nước, miệt vườn đặc sắc. Các nghi lễ cúng đình,
thờ cúng Thần nông, các vị tiền hiền, hậu hiền có công với dân, với nước, lễ Ok
Ombok, Donta, Cholchnam Thmay (của người Khmer); những phong tục, tập
quán: cưới xin, ma chay, cùng với nó là các làn điệu dân ca, hò vè, đờn ca tài tử
mang đặc điểm văn hóa sông nước ca ngợi tấm lòng nhân hậu, nghĩa khí kiên
trung, yêu quê hương đất nước, tôn trọng lẽ phải cũng dần dần xuất hiện; trong
đó phải kể đến những câu ca dao mỗi khi nhắc đến ai cũng nhớ: “ Chèo ghe sợ
sấu cắn chưn. Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma”, hoặc những vầng thơ đanh
thép lên án kẻ thù cướp nước và bọn tay sai bán nước của Bùi Hữu Nghĩa:
“Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ. Lòng ta sắt đá há lung lay!”; các phương
thức sinh hoạt, tinh thần lao động cần cù với tính cách táo bạo, phóng khoáng,
thực tế, trọng tình nghĩa, đã tạo nên sự thống nhất và đa dạng của văn hóa Cần
Thơ. Các tài danh tiêu biểu được nhân dân yêu thích của giai đoạn này là Bùi
Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị (cử Trị), Lê Quang Chiểu, Nguyễn Thần Hiến, Mộc
86
Quán - Nguyễn Trọng Quyền một trong những cây bút có tiếng của sân khấu
kịch nghệ thời bấy giờ....
Giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ giải phóng dân tộc (1945 –
1954): các loại hình văn hóa, nghệ thuật, những phong tục, tập quán, những giá trị
văn hóa truyền thống, lễ hội của giai đoạn trước được phát huy, hình thành nên
các loại hình văn hóa mới mang tính chất cách mạng, lòng yêu nước, tinh thần
bất khuất của dân tộc, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, tinh thần táo bạo
trong chiến đấu và sản xuất. Đồng thời, đã xuất hiện các loại hình văn hóa lớn,
đầu tiên phải kể đến là Đoàn văn công giải phóng, đội thông tin tuyên truyền lưu
động, cùng với các loại hình văn hóa đó là những làn điệu ca dao, dân ca kháng
chiến, chập cải lương, tấu hài…, đã đem lời ca tiếng hát, lời nhạc, ý thơ đến với
công chúng, ca ngợi lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu anh dũng của quân và
dân Cần Thơ, động viên nhân dân tay súng, tay cày vừa chiến đấu đánh đuổi
ngoại xâm, vừa sản xuất xây dựng quê hương đất nước; đồng thời góp phần
ngăn chặn những loại văn hóa phẩm đồi trụy, những tệ nạn xã hội. Bên cạnh
những loại hình văn hóa mới, ở Cần Thơ đã hình thành các khu di tích lịch sử -
văn hóa lớn như: Khu căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ, Hội linh Cổ Tự, Chùa Ông,
Nam Nhã Đường…; ngoài ra còn có di tích kiến trúc nghệ thuật: Long Quang
Cổ Tự, được lưu truyền đến ngày nay. Giai đoạn này xuất hiện các nhà văn hóa
lớn như: Lưu Hữu Phước, Võ Trọng Cảnh, nhóm Tao đàn Bát tiên Tây Đô (gồm
Lãng Ba, Dương Chi, Như Phong) [71, tr. 541-544] và một số nhà văn, nhà thơ
kháng chiến, với nhiều tác phẩm văn học, những tập thơ tiêu biểu như: “Nắng
mùa xuân”, truyện ngắn của Lê Vĩnh Hòa; “Tổ Quốc gọi nơi nào tôi có mặt”,
“Đường ra thành phố”, “Trăng về Cần Thơ”, các tập thơ của Nguyễn Bá; “Mận
hồng đào”, ký của Minh Thùy…
Giai đoạn hòa bình, thống nhất đất nước (từ sau 30-4-1975 đến nay): là
giai đoạn cải tạo và xây dựng đất nước. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, văn hóa Cần Thơ có bước phát triển mới: xây dựng đời sống
văn hóa mới gắn với nội dung mới, truyền thống văn hóa tiếp tục phát triển nhưng
87
nó được bổ sung nâng lên phù hợp với nhiệm vụ mới, gắn với quá trình phát triển
văn hóa ở Cần Thơ; giáo dục đạo đức mới, lý tưởng sống, quan điểm chủ nghĩa
Mác-Lênin; duy trì các giá trị truyền thống về phong tục tập quán, lễ hội, cưới xin
và các quan hệ ứng xử với những đức tính tốt đẹp, nhưng vẫn giữ được thuần
phong mỹ tục với tính thật thà, chất phác, trọng tình nghĩa…; các làn điệu ca dao,
dân ca, hò vè cũng được nâng lên về chất để phản ánh chân thật đời sống của
người dân, ca ngợi quê hương đất nước trong thời kỳ đổi mới: “Cần Thơ gạo
trắng nước trong. Ai đi đến đó lòng không muốn về”; phát triển các hình thức văn
hóa mới: đoàn văn công giải phóng trước đây đã nâng lên thành Đoàn Cải lương
Tây Đô, phong trào đờn ca tài tử đã phát triển rộng khắp mọi nơi ở Cần Thơ; các
đội thông tin tuyên truyền tiếp tục được duy trì, phát triển; các thuyền văn hóa
được thành lập, các khu văn hóa, nhà văn hóa được xây dựng… hoạt động hiệu
quả; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư đi vào
chiều sâu, góp phần xây dựng nếp sống mới và hình thành nhân cách người Cần
Thơ “Trí tuệ - năng động - nhân ái - hào hiệp - thanh lịch”; các di tích lịch sử - văn
hóa, bảo tàng tiếp tục được trùng tu phát triển, được Bộ Văn hóa thông tin công
nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia như: mộ nhà thơ yêu nước Phan Văn
Trị, mộ cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, đền thờ Bác Hồ... để giáo dục truyền thống
cho nhân dân, nhất là giới trẻ. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập quốc tế văn hóa
ở Cần Thơ không sao tránh khỏi ảnh hưởng của văn hóa tiêu cực như: quan điểm
sống lệch lạc, phai nhạt lý tưởng, ảnh hưởng lối sống lai căng, thiếu lành mạnh,
chạy theo lợi ích vật chất có tính thực dụng, lễ nghi, tiệc tùng linh đình, làm xói
mòn văn hóa truyền thống. Đó là những tiêu cực mà trong quá trình phát triển,
Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ một mặt tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa, giá
trị văn hóa của nhân loại; mặt khác phải biết giữ gìn, bảo tồn những đặc điểm giá
trị riêng có của vùng đất Cần Thơ, góp phần vào việc thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Giai đoạn này xuất hiện những nhà văn hóa, với những
tác phẩm tiêu biểu như: “Giáp hạt”, Tập truyện của Hoàng Hà; “Nắng mùa xuân”,
Văn của nhiều tác giả; “Nhìn xa”, Thơ của Nguyễn Bá; “Nhớ lại cái Tết năm ấy”,
88
Hồi ký của Nguyễn Thanh Bình [71, tr. 545-548]. Đặc biệt là, sau Đại hội VI
(1986) của Đảng, với đường lối đổi mới của Đảng trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đã xuất hiện nhiều nhà văn mới, với những tác phẩm mới, ca
ngợi các thành quả do công cuộc đổi mới mang lại như: “Rừng đất cháy”, Tiểu
thuyết của Nguyễn Linh; “Ngày của một đời”, Tiểu thuyết của Dạ Ngân; “Hoa
Quỳnh”, Tập thơ của Lê Chí; “Trở về”, Tiểu thuyết của Huỳnh Thế
Phương…[71, tr. 546-547].
Truyền thống văn hóa, nếp sống, phong tục tập quán, thi phú, hò vè,
hát dân gian…cùng với các di tích lịch sử và thiên nhiên sông nước, miệt
vườn là nền tảng vững chắc để Cần Thơ không những giữ vững và phát huy
“nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [31, 166]. Có thể nói, từ thế hệ
này sang thế hệ khác, bằng công sức, trí tuệ, mồ hôi và xương máu của mình,
người Cần Thơ đã khắc họa nên một bức tranh phong phú sinh động quá trình
lịch sử đấu tranh tạo dựng và bảo vệ, phản ánh đặc trưng sức sống đầy mãnh
liệt về vật chất và tinh thần của vùng đất Trấn Giang - Cần thơ mấy thế kỷ qua.
Các loại hình văn hóa ở Cần Thơ
Cùng với quá trình lao động và chinh phục thiên nhiên, người Cần Thơ
đã sáng tạo nên các loại hình nghệ thuật rất phong phú và đa dạng như: Văn
học dân gian, văn hóa - nghệ thuật, sân khấu, lễ hội, phong tục tập quán…
Văn học dân gian
Văn học dân gian Cần Thơ được nhân dân sáng tác từ khi đặt chân đến
đây khai thác vùng đất mới này đến nay suốt mấy thế kỷ qua và ngay từ ban
đầu đã mang sẵn trong mình cái vốn văn hóa ngàn đời của dân tộc. Họ đã
thuộc nằm lòng những điệu hát hò, những chuyện cổ tích, truyền thuyết, giai
thoại… từ miền Bắc và miền Trung mang vào. Vừa đến đây, đứng trước vùng
thiên nhiên mới lạ, kiểu sống mới lạ, người Nam bộ đã nhạy bén thể hiện
ngay cảm xúc của mình qua điệu ca dao:
Tới đây xứ sở lạ lùng
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh
89
Nằm trong bối cảnh ấy, nên về mặt thể loại, hễ văn học dân gian Nam
bộ, đồng bằng sông Cửu Long có gì là ở Cần Thơ có nấy, chỉ tuỳ mức độ
nhiều ít ở từng nơi. Về nội dung, bên cạnh những tác phẩm nói chung cho cả
vùng đất đồng bằng sông Cửu Long, văn học dân gian Cần Thơ có nhiều tác
phẩm dành riêng cho sắc thái của địa phương mình, góp phần phong phú cho
kho tàng văn học Việt Nam. Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long nói
chung, Cần Thơ nói riêng gồm có các thể loại văn xuôi dân gian và các thể loại
văn vần dân gian.
Về thể loại văn xuôi dân gian, có một số loại hình tiêu biểu:
Chuyện kể - chuyện kể Việt Nam bao gồm nhiều loại như chuyện cổ
tích, chuyện thần thoại, truyền thuyết, giai thoại, chuyện tiếu lâm v.v…
Nhưng ở Cần Thơ hầu như không có chuyện cổ tích, chuyện thần thoại anh
hùng ca riêng của địa phương. Các chuyện cổ tích, thần thoại được kể nhau
nghe ở đây chỉ là bản sao từ những chuyện nguyên thuỷ lấy từ miền Trung,
miền Bắc như: Tấm Cám, Nàng Út, Sơn Tinh Thuỷ Tinh… Chuyện kể phổ
biến rộng rãi, mang đậm màu sắc địa phương ở Cần Thơ, thể hiện rõ qua các
thể tài: truyền thuyết, giai thoại và chuyện vui cười.
Về văn vần dân gian có một số loại hình như:
Tục ngữ, là câu nói ngắn gọn có vần điệu lưu truyền trong dân gian, đúc
kết tri thức, kinh nghiệm thực tiễn của con người về tự nhiên, xã hội, cuộc sống,
đạo lý ở đời. Ở Cần Thơ, có những tục ngữ phổ biến qua các đề tài như sau:
Về thời tiết và lao động sản xuất:
Cóc nghiến răng, đang nắng thì mưa.
(Giai Xuân - thành phố Cần Thơ)
Về con người và đời sống:
Ở đời có bốn cái ngu,
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu.
(Tân Phú Thạnh - Châu Thành)
90
Ca dao, là thể loại trữ tình căn bản của văn học dân gian nhằm ca ngợi
cảnh sắc giàu đẹp của quê hương, con người nhân hậu, tình yêu đôi lứa, tình
nghĩa vợ chồng, đạo lý ở đời, tình yêu nước, yêu đồng bào, căm thù giặc cướp
nước, phê phán thói hư, tật xấu v.v… Ca dao được sáng tác chủ yếu dựa theo
thể thơ lục bát, vần điệu xuôi tai, dễ thuộc lòng và được sử dụng gắn liền với các
hoạt động trong cuộc sống hàng ngày như đưa võng dỗ em, chèo xuồng, giã
gạo, đi cấy, cắm câu v.v… nên trở thành giai điệu phổ cập của người Cần Thơ.
“Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về”.
Có những câu ca dao tuy không có tên đất, tên người cụ thể nhưng vẫn
thể hiện đậm nét sắc thái của Cần Thơ, được nhiều người ưa thích như:
“Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu…”.
Vè, câu đố:
Vè, thơ rơi là thể loại văn vần truyền miệng được phổ biến rộng rãi
trong dân gian Cần Thơ trong thời cận đại và kéo dài trong kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ. Khác với ca dao là bất cứ người nào cũng có thể
thuộc và ngâm nga một mình, vè - thơ rơi luôn gắn liền với nghệ thuật diễn
xướng trước đám đông, trong các cuộc họp mặt, vui chơi, đám tiệc…
Câu đố là trò giải trí rất phổ biến trong xã hội thời xưa. Từ đơn giản
đến phức tạp, mỗi lần đố đều gây kích thích tò mò, động não đối với con
người, nhất là với tầng lớp nông dân nghèo khổ mở đất khai hoang, nên từ
trẻ tới già ai cũng thích.
Văn hóa - nghệ thuật
Văn hóa - nghệ thuật ở Cần Thơ đa dạng về loại hình và rất phong phú
về nội dung. Sau đây là một số loại hình văn hóa - nghệ thuật tiêu biểu:
Một là, dân ca - dân ca là tâm hồn của dân tộc, là sản phẩm tinh thần
của nhân dân lao động, là những khúc hát dân gian chứa đựng tâm tư, tình
cảm, cảnh sắc làng quê, phong tục tập quán, tình yêu thiên nhiên, yêu lao
91
động, tình yêu trai gái được truyền từ đời này sang đời khác. Nó thể hiện tinh
thần đấu tranh bất khuất của con người với thiên nhiên, với kẻ thù xâm lược,
với áp bức bất công. Dân ca là những ca khúc không có tên tác giả, truyền
miệng, bất thành văn bản. Cũng như mọi miền, dân ca Cần Thơ là những ca
khúc được bắt nguồn từ những câu ca dao (thơ dân gian) mà ai đó đã ngân
nga thành giai điệu bằng năng khiếu âm nhạc bẩm sinh và cảm xúc lời thơ
(tức cảnh sinh tình). Dân ca Cần Thơ được hình thành từ chưa hoàn chỉnh
đến hoàn chỉnh. Chúng ta có thể bắt gặp những làn điệu dân ca hết sức độc
đáo ở khắp các làng quê xóm ấp của quê hương Cần Thơ, từ Thốt Nốt, Ô
Môn, … Những câu hò, điệu lý đó đã ăn sâu trong tiềm thức của mỗi người
dân mà suốt cả cuộc đời gắn bó với làng quê, ruộng vườn, sông nước Cần
Thơ yêu dấu! Dân ca Cần Thơ rất phong phú về thể loại như các điệu lý, hát
huê tình, hát đưa em, nói thơ, nói vè, đồng dao…
Hai là, hò Cần Thơ, theo sử sách ghi lại: ngày xưa, theo các dòng sông,
cánh đồng, con rạch, kinh xán, trên những chiếc xuồng bơi, ghe chèo xuôi
ngược, hay các thương thuyền xuôi theo dòng sông Ngã Năm - Ngã Bảy,
kinh xáng Xà No, Ô Môn v.v… vang lên những giọng hò lanh lảnh, man
mác, nhặt khoan hoà lẫn những tiếng rao hàng: bánh, trái cây trong những
sớm hừng đông, trưa hè êm ả hay những lúc hoàng hôn xa đưa tiếng bìm bịp
gọi buồn theo con nước ròng, nước lớn nghe sao mà mênh mang diệu vợi, sao
mà vừa lạ vừa quen, lúc rộn rã niềm vui, khi nỗi buồn chất chứa:
“Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mải mê!...”.
Theo các nhà nghiên cứu, các giáo sư, nhạc sĩ tên tuổi Lưu Hữu Phước,
Trần Kiết Tường, Lư Nhất Vũ: qua các làn điệu dân ca Cần Thơ càng thấy rõ trí
thông minh, tâm hồn lãng mạn hoà cùng tình yêu nước, yêu lao động, tình yêu
lứa đôi và tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của người dân Cần Thơ qua
hàng mấy trăm năm đã cùng với cộng đồng người Việt - Hoa - Khmer khai phá
đất đai, quy dân lập ấp ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc. Để rồi, sau mấy trăm
92
năm đó, cái tên gọi Cần Thơ - Tây Đô - trong đó hẳn gắn liền với “sự nghiệp thi
ca” dân dã của bao đời ông cha để lại, để bây giờ chúng ta có dịp suy gẫm hai
chữ mà người xưa đã đặt cho vùng đất này là “Cầm thi” (?!).
Sân khấu
Sân khấu ở Cần Thơ có các loại hình như: ca nhạc tài tử, hát bội, cải
lương, kịch nói…
Ca nhạc tài tử là người bạn đồng hành với loại hình nghệ thuật cải
lương, chơi đờn ca tài tử phải là nơi có phong cảnh hữu tình, gợi cảm, gần
với thiên nhiên, các tài tử thích chơi giữa cảnh cầu tre lắc lẻo - gập ghềnh khó
đi, cảnh trời trăng mây nước, rừng xanh nước biếc, đồng ruộng mênh mông
hay dưới bóng mát của lũy tre làng…; hay trên chiếc thuyền trôi xuôi êm ả
theo dòng nước lồng lộng trăng rằm, nên thơ tĩnh mịch, tiếng lá dừa nước hai
bên bờ rì rào dịu êm như tiếng nhạc, làm tăng vẻ hữu tình cho buổi đờn ca tài
tử trên sông.
Ở Cần Thơ, nơi đâu từ thành thị đến nông thôn đều có đờn ca tài tử,
thu hút đông đảo người tham gia, không phân biệt tuổi tác, thành phần.
Ngày nay, nếu chúng ta có dịp đến thành phố Cần Thơ, đi tới đâu chúng ta
cũng bắt gặp những tụ điểm “hát với nhau”, “đờn ca tài tử” ở từng khu
phố, phường, xã. Đặc biệt là vào ban đêm, những con thuyền văn hoá chạy
ngược xuôi trên dòng sông Hậu, với những bài ca vọng cổ đi vào lòng
người; trong những quán ăn bình dân, quán nào có “ca cổ” đều thu hút rất
đông thực khách. Có thể khẳng định rằng phong trào ca cổ, đờn ca tài tử, hát với
nhau có sức hấp dẫn, làm say mê lòng người, ai biết qua rồi khó lòng bỏ được.
Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật đặc sắc của thành phố Cần Thơ.
Hát bội, đến nay vẫn chưa có tài liệu nói về sân khấu hát bội được
hình thành (du nhập từ vùng ngoài vào) từ lúc nào, nhưng ở Cần Thơ đã xuất
hiện tác giả và kịch bản văn học về loại hình sân khấu này như Thủ khoa Bùi
Hữu Nghĩa với vở tuồng “Kim Thạch kỳ duyên” được ông Bùi Quang Nhơn
phiên âm đầu tiên từ nguyên bản chữ Nôm 1895. Năm 1934, được P. Miđanh
93
dịch ra tiếng Pháp với nhan đề: “L’union merveilleuse de Kim et Thach”.
Gần đây nhất, nhà thơ, học giả Bảo Định Giang đã cải biên tuồng Kim Thạch
kỳ duyên với tựa đề “Duyên lạ” (Nhà xuất bản văn nghệ thành phố Hồ Chí
Minh phát hành 6-1999). Chứng tỏ đây là một tác phẩm sân khấu hát bội có
giá trị lịch sử cả trong và ngoài nước suốt hơn cả thế kỷ qua.
Tiếp đến, soạn giả Mộc Quán - Nguyễn Trọng Quyền đã làm thơ và
viết tuồng bằng chữ Nôm trên giấy hoa tiên từ năm 1909 còn lưu giữ đến nay
với tựa đề “Trai bạch viên Diễn ca”. Ở Cần Thơ cũng sớm có những “gánh
hát bội” nổi tiếng như “gánh hát Bầu Bòn” (Bầu Bòn, quê ở Phụng Hiệp, Cần
Thơ), không chỉ nổi tiếng trong phạm vi tỉnh Cần Thơ mà ở khắp lục tỉnh
Nam kỳ. Khi mà nghệ thuật sân khấu cải lương chưa hình thành, nghệ thuật
hát bội còn đóng vai trò là loại hình sân khấu duy nhất ở vùng đất miền Tây
giao thông cách trở, sông ngòi chằng chịt thì những “ghe hát bội” đã trở
thành món ăn tinh thần thu hút hầu hết các tầng lớp dân cư ở xứ sở này.
Những gánh hát bội đi lưu diễn khắp vùng sông nước bằng những chiếc ghe
chèo, diễn ở những đình làng, nhà lồng chợ quê. Cho đến nay, mặc dù cải
lương đã trở thành loại hình sân khấu chiếm địa vị độc tôn gần suốt thế kỷ
qua, sân khấu hát bội gần như vắng bóng trên các sàn diễn từ thành thị đến
nông thôn, nhưng ở bất cứ ngôi đình nào đến mùa lễ kỳ yên đều phải rước
cho kỳ được đoàn hát bội về hát trong những ngày ấy. Ở Cần Thơ, mỗi năm
vào dịp tết nguyên đán, lễ kỳ yên là nhóm nghệ nhân hát bội tập hợp lại ôn
tập tuồng tích để đi hát chầu. Riêng các đình làng cũng phải chạy ngược,
chạy xuôi thậm chí lên Sài Gòn, qua các tỉnh bạn rước cho được các nhóm
đoàn hát dù lớn dù nhỏ gì cũng phải có để về biểu diễn trong những ngày lễ
hội đó, vừa để cúng thần, vừa là để bà con xem chơi, giả trí. Nếu lịch sử ghi
nhận Nam bộ là nơi đã đưa hát bội từ sân khấu cung đình trở thành sân khấu
dân dã do nhân dân lao động là người làm nên vở diễn phục vụ cho làng quê,
phố chợ thì lịch sử cũng chép rằng Cần Thơ tự hào đã góp vào thời hoàng
kim của hát bội nhiều đoàn hát, tác giả, tác phẩm và nghệ sĩ tên tuổi lớn.
94
Cải lương, là loại hình nghệ thuật sân khấu độc đáo được hình thành
vào khoảng cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX. Ở Cần Thơ, xuất phát từ một
vùng đất có nhiều tài năng, tương đối nổi trội trong các loại hình nghệ thuật
tiền thân của sân khấu cải lương nên nơi đây, ngay từ buổi bình minh của loại
hình sân khấu này đã xuất hiện nhiều tác giả, danh ca, danh cầm, nghệ sĩ,
gánh hát đã trở thành một trong những cánh chim đầu đàn, những viên đá
tảng đặt nền móng cho loại hình nghệ thuật hết sức mới mẻ và đầy tính hấp
dẫn này như: soạn giả Mộc Quán - Nguyễn Trọng Quyền; danh ca đệ nhất Út
Trà Ôn, cô Năm Cần Thơ; các danh cầm vang danh lục tỉnh, Sài Gòn…như:
gánh Trần Đắc (ông bầu Trần Đắc Nghĩa), gánh Nam Phương (bầu Bảy
Nhiêu) v.v…Từ những gánh hát, soạn giả, danh ca, nghệ sĩ, danh cầm này đã
truyền nghề lại cho con cháu, đào tạo học trò, tách lập gánh mới làm cho
nghệ thuật cải lương phát triển ở một nhịp độ chưa từng thấy ở đất Cần Thơ
cũng như vùng Nam bộ thời bấy giờ.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công không bao lâu, thực dân
Pháp đã trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Nam bộ rồi cả nước bước vào
cuộc kháng chiến chống Pháp, ngoài các hoạt động sân khấu cải lương vùng
địch tạm chiếm, vùng đô thị, trên quê hương Cần Thơ còn có một dòng sân
khấu cải lương cách mạng phục vụ vùng giải phóng, khu căn cứ, một số vùng
địch hậu. Các nghệ sĩ tay đàn, tay súng, đội bom đạn, chịu đựng gian khổ
hiểm nguy đem nhiệt tình, lòng yêu nước và nghệ thuật cách mạng phục vụ
nhân dân, bộ đội, cơ quan góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến
trường kỳ (9 năm) chống thực dân Pháp xâm lược. Sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945 (9/1945), Đoàn tuyên truyền lưu động tỉnh Cần Thơ (nay là
thành phố Cần Thơ) được thành lập, vừa tuyên truyền, vừa diễn kịch với Vở
“Thiếu nhi thời loạn” của soạn giả Điêu Huyền, tiêu biểu cho giai đoạn này.
Rồi phong trào đờn ca tài tử cải lương trong các cơ quan, đơn vị bộ đội, trong
nhân dân phát triển rộng khắp. Những bài ca cổ, ca cảnh, chập cải lương ngắn
được sáng tác với nội dung ca ngợi gương chiến đấu anh dũng của bộ đội,
95
nhân dân; vận động sản xuất nuôi quân; thanh niên tòng quân; đả kích địch
v.v…, đã phát triển loại hình nghệ thuật non trẻ này với sức sống mới, thể
hiện tinh thần yêu nước, căm thù giặc Pháp xâm lược. Điều mà cải lương
vùng đô thị không nói được như: gương anh hùng La Văn Cầu chặt cánh tay
mình, Phan Đình Giót lấp lỗ châu mai, Bế Văn Đàn lấy thân làm giá súng,
chiến thắng Tầm Vu, đội cảm tử Lê Bình… Tuy nhiên, nói đến dòng nghệ
thuật cải lương cách mạng trong giai đoạn chống Pháp, ở Nam bộ không ai có
thể quên, đã có giai đoạn loại hình nghệ thuật này bị cấm vì cho là uỷ mị, rên
rỉ, mất nước. Nhưng cũng từ sự sai lầm ấu trĩ ấy, chúng ta càng thấy sức sống
mãnh liệt của cải lương, nhất là bài vọng cổ đã ăn sâu vào tâm não của bộ
đội, nhân dân và cán bộ ta tới cỡ nào.
Đến năm 1959, Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra
đời, chuẩn bị Đồng khởi trong toàn miền Nam, đoàn văn công tỉnh Cần Thơ
(nay là thành phố Cần Thơ) được thành lập. Những cán bộ, nghệ sĩ trong
chống Pháp năm xưa được tập hợp vào đoàn văn công tỉnh Cần Thơ, làm
nòng cốt cùng với đội ngũ trẻ bước vào cuộc chiến đấu chống Mỹ quyết liệt
bằng tay đàn, tay súng “tiếng hát át tiếng bom”, góp phần giải phóng quê
hương. Đến năm 1965, vùng giải phóng càng mở rộng, đoàn phát triển rất
đông và do yêu cầu thưởng thức văn nghệ của nhân dân nên đoàn văn công
Cần Thơ được tách ra làm hai đoàn: Đoàn cải lương và đoàn ca múa. Sau khi
miền Nam hoàn toàn giải phóng 30-4-1975, Cần Thơ có 28 đoàn cải lương về
đăng ký hoạt động trên địa bàn. Từ chiến khu về, có đoàn văn công tỉnh Cần
Thơ và đoàn ca múa của khu Tây Nam bộ là tổ chức tiền thân của Đoàn cải
lương Tây Đô và Đoàn ca múa Cần Thơ hiện nay. Đoàn cải lương Tây Đô là
một trong những đoàn mạnh so với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và
Nam bộ. Đoàn đã đạt nhiều giải thưởng lớn qua các lần hội diễn sân khấu
chuyên nghiệp toàn quốc. Đoàn Cải lương Tây Đô luôn được nhân dân, cán
bộ trong và ngoài tỉnh khen ngợi.
96
Cũng như các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, ở Cần Thơ bên cạnh hát
bội, kịch nói, cải lương vẫn là loại hình nghệ thuật sân khấu chủ lực luôn có
mặt trong đời sống tinh thần của nhân dân trong suốt thế kỷ qua.
Về kịch nói, đây là loại hình sân khấu có mặt rất sớm trên đất Cần
Thơ, trong các trường học, cơ quan (thời Pháp thuộc) cho đến các hoạt động
văn hoá - văn nghệ trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và sau năm
1975 đến nay, kịch nói luôn có mặt trên sân khấu. Trong kháng chiến chống
Pháp, phong trào diễn kịch nói rất sôi nổi ở các đoàn thể thanh niên, phụ nữ
và đến kháng chiến chống Mỹ lại tiếp tục được duy trì, nhất là trong đơn vị
bộ đội. Nhưng hình thức sân khấu này không tồn tại được lâu, mặc dù kịch
nói nghiêm túc, có tính nghệ thuật cao vẫn thu hút khán giả, nhất là với đối
tượng học sinh, sinh viên, bộ đội và đông đảo cán bộ.
Cho đến nay, ở Cần Thơ, diễn kịch ngắn đã trở thành phong trào mạnh
trong hoạt động văn nghệ quần chúng, thông tin cổ động, góp phần làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân.
Lễ hội ở Cần Thơ có nền tảng chung là lễ nghi nông nghiệp của cư dân
trồng lúa nước. Các trò diễn xướng phổ biến trong lễ hội ở Cần Thơ là hát bội
(mang tính chính thống) và một số loại hình diễn xướng dân gian khác như
múa bóng rỗi, múa mâm vàng… gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Mật độ lễ hội tại Cần Thơ không dày. Lễ hội tiêu biểu của người Việt ở Cần
Thơ là cúng đình. Điển hình là đình Bình Thủy. Hàng năm, tại Đình Bình
Thủy, ngoài các lễ cúng tế vào ngày rằm mỗi tháng và Tết Nguyên Đán, đình
còn có 2 kỳ lễ hội lớn gắn liền dấu ấn sản xuất nông nhiệp, được tổ chức long
trọng: Lễ Hạ điền: Cúng đất đai bắt đầu vụ mùa mới (rằm tháng 4 Âm lịch).
Lễ Thượng điền: Tạ ơn và cúng ruộng đồng nghỉ ngơi (rằm tháng chạp Âm
lịch). Trong những ngày này, khách thập phương và dân làng tấp nập về dự lễ
cúng đình, tế lễ. Sau phần lễ gồm có việc rước sắc thần cầu cho Quốc thái
dân an, mùa màng tươi tốt bội thu. Sau đó là phần hội như: đua thuyền, đô
vật, hát bội, thi múa lân, hát xếp cho đến thâu đêm [nguồn Songcuulong.net].
97
Tuy vậy, tại Cần Thơ tên gọi các lễ cúng đình cũng khác nhau. Nếu đình
Bình Thủy cúng Hạ điền thì đình Thới An Đông lại là cúng Thượng điền và
ngược lại, cho dù lễ cúng diễn ra cùng thời điểm.
Tục đón Xuân của Cần Thơ cũng rất hấp dẫn. Người ta thường chuẩn bị
đón Tết rất sớm. Mỗi gia đình nông dân thường dành một thửa ruộng đế cấy
giống nếp ngon dùng làm bánh trong những ngày Tết. Khi mùa màng thu hoạch
xong thì rộn lên những tiếng chày quết bánh phồng (phồng nếp, phồng mì).
Trong ngày Tết, cành mai là không thể thiếu trong mỗi gia đình ở Cần Thơ.
Ngày Tết thường có nhiều trò vui đặc biệt như: đá gà, đá cá lia thia… Những lễ
tục phiền toái, lãng phí, xa hoa, tốn kém thời giờ và tiền của hay mang tính chất
mê tính dị đoan theo thời gian đều được nhân dân tự giác loại bỏ.
Bên cạnh những lễ hội của người Việt, còn có các lễ hội của người
Khmer như: Lễ Cholchnam Thmay, Lễ Đonta, Lễ Ok Ombok ...
Lễ Cholchnam Thmay - lễ vào năm mới còn gọi “Lễ chịu tuổi”, tức là
Tết của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long ở Cần Thơ, được tổ chức
vào giữa tháng 3 âm lịch hàng năm. Đây cũng chính là lúc giao mùa giữa
mùa nắng và mùa mưa, thời điểm bắt đầu vụ sản xuất nông nghiệp theo nông
lịch cổ truyền của người Khmer.
Lễ Cholchnam Thmay kéo dài trong 3 ngày. Ngày thứ nhất gọi là ngày
“sangkran” tức là ngày “rước quyền Đại lịch” (Maha sangkran) với ý nghĩa
đón mừng năm mới mà nghi thức lễ gắn với thần thoại Thomabal và Kabil
Maha Prum (thần Bốn mặt). Ngày thứ hai được gọi là Viarawolpot, ngày
chính thức năm mới. Ngày thứ ba được gọi là ngày “Lơn sak” với các nghi
thức chính là cầu siêu và tắm tượng Phật.
Lễ Đonta - lễ cúng ông bà tổ tiên của người Khmer được tổ chức mỗi
năm 3 ngày, từ 29 tháng 8 đến 01 tháng 9 âm lịch hàng năm.
Lễ Ok Ombok - là một trong những lễ nông nghiệp rất tiêu biểu và
đặc thù của người Khmer. Lễ được tổ chức vào ngày trăng tròn tháng
Kađek, 15.10 âm lịch, nhằm tưởng nhớ đến công ơn của mặt trăng, vốn
98
được người Khmer coi là một vị thần bảo hộ mùa màng. Thời điểm tổ chức
lễ Ok ombok là lúc giao mùa giữa mùa mưa và mùa khô và cũng là lúc
chuẩn bị cho mùa thu hoạch (các giống lúa mùa theo nông nghiệp cổ truyền
của người Khmer). Lễ được thực hiện với nhiều hoạt động vui chơi có tính cộng
đồng như đua ghe ngo, thả đèn…
Về phong tục tập quán, người Cần Thơ coi trọng việc cưới xin. Trong
đời sống tinh thần của người Việt (Kinh) nói chung, người Cần Thơ nói riêng
thì cưới là chuyện hệ trọng trong cuộc đời của mỗi con người. Dân gian Cần
Thơ cũng có câu: “Mua trâu, cưới vợ, làm nhà, Trong ba việc ấy thật là khó
thay”. Cưới là một phong tục có nghi lễ mang đậm nét bản sắc văn hoá vùng
miền tốn kém và phức tạp. Phần lớn các đám cưới cổ xưa của người Cần Thơ
thường được tổ chức theo một cuốn sách cổ gọi là Thọ mai gia lễ (cuốn sách
dạy người ta những việc về quan, hôn, tang, tế). Tuy vậy, tuỳ gia cảnh, tuỳ
đặc điểm địa lý dân cư mà về sau từng gia đình có cách tổ chức khác nhau.
Người Cần Thơ rất tôn trọng những yếu tố truyền thống cho nên các nghi
thức quan trọng như: mai mối (kén chọn), sơ vấn (giạm ngõ, chạm mặt), hỏi,
cưới, phản bái (lại mặt) luôn được thực hiện. Có thể nói, người Cần Thơ xưa
rất tôn trọng các nghi thức cổ truyền trong cưới xin. Tuy vậy, do những đặc
điểm lịch sử, địa lý riêng, người Cần Thơ đã giản lược nghi thức theo hướng
nghiêm trang nhưng tiện lợi. Điều này vô hình trung đã làm cách tân các nghi
thức cưới xin theo hướng hết sức tiến bộ.
Bên cạnh các loại hình nghệ thuật đặc sắc vừa nêu ở phần trên, còn
có các loại hình nghệ thuật như: Nhạc, múa, họa, nhiếp ảnh, điện ảnh,
v.v…và các hoạt động văn hóa: triển lãm, bảo tàng, thư viện, thông tin,
tuyên truyền, báo chí…đã góp phần tạo nên giá trị văn hoá chuẩn mực
của người dân Cần Thơ. Giá trị văn hóa đó là: giá trị đạo đức, chính trị,
xã hội, thẩm mỹ… đáp ứng nhu cầu cơ bản của cả cộng đồng, được cộng
đồng thừa nhận như một lý tưởng, một khát vọng vươn tới. Nó là động
lực tinh thần thôi thúc người ta hành động vì mục tiêu chung.
99
2.1.3. Những đặc điểm cơ bản của văn hóa ở Cần Thơ
Từ sự trình bày và phân tích quá trình hình thành, phát triển và các loại
hình chủ yếu của văn hóa Cần Thơ, có thể khái quát lại, văn hóa Cần Thơ có
những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, văn hóa sông nước và văn minh miệt vườn là nét văn hóa
đặc sắc của thành phố Cần Thơ
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, từ một vùng nê trạch, nhiều đỉa, muỗi,
thú dữ, đất Cần Thơ từng bước được hình thành bằng mồ hôi xương máu của
nhiều lớp lưu dân qua nhiều thời kỳ và các thế hệ con cháu của họ đã đến
đây, gắn bó nhau trên tinh thần cởi mở, hòa hợp dân tộc trên cơ sở một nền
“văn minh sông nước” mang màu sắc hết sức đặc trưng.
Xét về thời khai hoang lập ấp, đường sông là mạch máu giao thông
chính của Cần Thơ, ghe xuồng trở nên quan trọng đến mức thiết yếu. Làng xã
luôn được hình thành trên các giồng đất trải dài theo sông, rạch và về sau là
kênh đào, kéo theo là việc hình thành nên chợ. Những khúc sông thuận lợi,
giáp nước, cửa vàm, ngã ba, ngã tư là tụ điểm giao thương và tất yếu trở
thành thị tứ - Trung tâm thương mại - văn hóa của một vùng, từ đó phát triển
mãi cho đến sau này. Do đó, nét độc đáo tự nhiên và kiến trúc đô thị của Cần
Thơ là mạng lưới kênh rạch. Kênh rạch cũng là "đường phố", nó mang vẻ đẹp
cho một đô thị lớn từng được mệnh danh là Tây Đô. Cần Thơ lại có vẻ đẹp
bình dị nên thơ của làng quê sông nước, dân cư tập trung đông đúc, làng xóm
trù phú núp dưới bóng dừa. Cần Thơ, ngoài những đặc sản nổi tiếng mang
đậm hương vị quê nhà, ăn cơm sốt dẻo nấu bằng gạo Tàu hương thơm phức
với mắm cá lóc, kèm bát canh cua đồng nấu với bông so đũa vàng ươm, còn
có những nét đẹp văn hoá truyền thống ít nơi nào có được:
Đó là đi du thuyền nghe đờn ca tài tử: Giữa không gian tĩnh mịch, sâu
thẳm của miệt vườn sông nước bỗng một điệu hò man mác ngân lên ngay
giữa khoang thuyền, kéo dài, quyện lẫn âm thanh xao xuyến của cây đàn cò,
đàn nguyệt. Những điệu dân ca ngọt ngào càng trở nên gần gũi, với lời ca
100
mộc mạc, tha thiết, bởi các nghệ sĩ biểu diễn là người dân lao động, khởi lên
từ các phong trào văn nghệ quần chúng địa phương. “Cầm, thi, giang” (đàn,
thơ, sông) - cái nghĩa nguyên gốc của Cần Thơ xưa đã tự thân nói lên nhiều
điều về vùng văn hoá sông nước nơi này.
Khái niệm về “du lịch miệt vườn”, “du lịch trên sông” không phải chỉ
mới có ở những năm gần đây, mà nó đã xuất hiện hàng trăm năm về trước
như: Vườn Thầy Cầu, vườn thú Cả Lang, vườn Lan, bến Ninh Kiều… Ngày
nay, khách du lịch đến Cần Thơ không chỉ dừng lại ở một số tụ điểm nói trên,
mà còn nhiều nơi khác hấp dẫn khách tham quan như: chợ nổi Cái Răng,
Phong Điền ghe xuồng mua bán tấp nập trên sông; hay du khách xuôi theo
dòng sông Hậu sẽ thưởng thức cây trái miệt vườn ở cù lao Tân Lộc, cồn
Khương, cồn Sơn, cồn Ấu…
Cần Thơ được mệnh danh là Tây Đô, vẻ quyến rũ, mê hoặc chính là cảm
giác bồng bềnh trên sông Hậu ngắm bình minh, cảnh vật và con người vùng sông
nước Cửu Long. Sự lãng mạn này tồn tại cả trăm năm nay, tạo nên cái gọi là nền
“văn minh kinh xáng” (lời nhà văn Sơn Nam). Cùng với chợ nổi Cái Răng, phù sa
sông Hậu cũng bồi đắp cho Cần Thơ một vùng sinh thái miệt vườn vô cùng hấp
dẫn, mời gọi du khách tiếp tục với chuyến tham quan khám phá cuộc sống trên
vùng sông nước miền Tây.
Là đầu mối giao thông quan trọng về đường thủy giữa các tỉnh trong
khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ có hệ thống sông ngòi chằng
chịt, vườn cây ăn trái bạt ngàn, những cánh đồng lúa xanh mướt thẳng cánh
cò bay, các cù lao bồng bềnh trên sông Hậu hết sức độc đáo để phát triển loại
hình du lịch sông nước.
Cần Thơ đã trở thành điểm đến của du lịch sông nước miệt vườn Nam
Bộ và là điểm dừng chân của phần lớn các đoàn khách du lịch trước khi đi
Chùa Dơi - Sóc Trăng, vườn chim Bạc Liêu, Đất Mũi - Cà Mau, U Minh,
Hòn Đất, Hà Tiên, Phú Quốc…
101
Nhìn chiếc xuồng 5 lá, hoặc chiếc ghe tam bản mũi bầu, mũi lá sen
phương tiện đi lại trên sông rạch, nay tuy có cải sửa đôi chút, nhưng dáng dấp
vẫn như xưa, hiểu ngay là ghe xuồng nhảy sóng của Cần Thơ. Với các điểm
du lịch nổi tiếng như cồn Cái Khế, cồn Khương, làng du lịch Mỹ Khánh…
xung quanh là vùng sông nước mênh mông, Cần Thơ đã thể hiện được vẻ đẹp
thiên nhiên của vùng sông nước bốn mùa cây trái sum suê bên cạnh các làng
nghề truyền thống mang đậm nét đặc trưng của vùng đất Tây Đô. Có thể nói
đây là mô hình thu nhỏ của sự văn minh sông nước - miệt vườn Nam bộ.
Hai là, văn hóa Cần Thơ có tính phong phú và đa dạng
Một trong những đặc trưng của nền văn hóa Cần Thơ là phong phú và đa
dạng. Các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer sống ở Cần Thơ đều có những giá trị và
sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong
phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ
vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em.
Các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer sống ở Cần Thơ đã trải qua quá trình
chung sống lâu dài, đoàn kết, giúp đỡ nhau vừa khai phá, vừa giữ gìn và phát
triển tỉnh Hậu Giang - tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ. Điều đó đưa đến
một sự tất yếu của giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Hoa, Khmer và với
người Việt cùng cộng cư. Quả thật, bên cạnh những nét văn hóa truyền thống,
những bản sắc của các dân tộc, văn hóa của mỗi dân tộc ở Cần Thơ còn được
làm phong phú thêm bởi sự học hỏi giao lưu văn hóa với các dân tộc khác.
Có lẽ cũng ít nơi trên nước ta có hiện tượng song ngữ, đa ngữ như ở đây.
Nhiều vùng dân cư hỗn hợp Việt, Khmer, Hoa ở Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà
Vinh đã thể hiện rõ quan hệ giao lưu văn hóa qua ngôn ngữ và nhiều mặt
khác như kỹ thuật canh tác nông nghiệp, trang phục, ẩm thực, tín ngưỡng, tôn
giáo v.v… Chiếc khăn rằn được dùng phổ biến ở vùng đất này, có tác giả
nghiên cứu cho rằng khăn rằn vốn là của người Khmer, nhưng bây giờ lại
được xem như biểu trưng cho văn hóa, con người Nam bộ.
102
Cần thơ là một thành phố đa dân tộc, đa tôn giáo và đa văn hóa: Văn
hóa người Việt, văn hóa người Hoa và văn hóa người Khmer.
Văn hóa Việt là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. “Nền văn hóa tiên
tiến là một nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi của nó là lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, tất cả vì
tự do, hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện cho mỗi con người
trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên”
[31, 10]. Và đậm đà bản sắc dân tộc, “đó là lòng yêu nước nồng nàn; lòng tự
tôn, tự cường dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã -
Tổ quốc; lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù sáng
tạo trong lao động; là đức hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh
phúc của nhân dân; là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối sống” [31, 10].
Văn hóa của các dân tộc Hoa, Khmer là những dân tộc thiểu số đang
sinh sống ở Cần Thơ là kết quả một quá trình nhiều thế kỷ cùng chung sống,
cùng khai phá, phát triển vùng đất này. Đó là một vùng đất với thiên nhiên
hết sức phong phú, giàu tiềm năng nhưng cũng đầy cam go, vất vả. Con
người các dân tộc ở đây đã biết cách sống hòa hợp với thiên nhiên và chung
lưng đâu cật với nhau giữa các dân tộc. Các dân tộc đã tạo cho mình bản sắc
văn hóa và cũng tạo một nét riêng cho văn hóa vùng đất này.
Quá trình sống chung của ba dân tộc: Việt, Khmer, Hoa đã tạo nên
những phong tục tập quán cổ truyền vừa có những nét riêng vừa
mang những nét đặc sắc chung. Song song với các sinh hoạt tôn giáo, hầu
hết đồng bào có đạo cũng như không có đạo đều giữ tập quán thờ cúng tổ
tiên, ông bà, một tín ngưỡng dân gian truyền thống; một bộ phận khá đông
tham gia sinh hoạt lễ hội dân gian chứa đựng những yếu tố tín ngưỡng. Ngoài
các lễ hội mang tính quốc gia như: Tết Nguyên đán, Tết Trung thu, Thanh
103
minh… ở Cần Thơ còn có rất nhiều các lễ hội riêng mang màu sắc của từng
dân tộc như lễ Cholchnam, lễ Đôn ta, lễ Ok Ombok của người Khmer và Vía
Quan Công, Vía Bà Thiên Hậu, vía ông Bổn của người Hoa.
Người Việt ở Cần Thơ cũng như ở Nam Bộ nói chung rất coi trọng
đình làng. Khi lưu dân đến khai phá đất đai, đã ổn định cuộc sống thì ngôi
đình mọc lên để thờ các vị Tiền hiền, Hậu hiền là những ân nhân sinh tiền có
công mở đất lập làng, ổn định cho cuộc sống dân cư ở địa phương. Đình là
nơi thờ các vị thần tín ngưỡng dân gian. Các ngôi đình ở Cần Thơ còn thờ các
vị có công với làng xã, đánh đuổi giặc ngoại xâm như đình Bình Thủy thờ
các ông: Trần Hưng Đạo, Bùi Hữu Nghĩa, Đinh Công Chánh; đình Thới Bình
- Tân An thờ ông Nguyễn Thành Trưng; đình Thường Thạnh thờ ông Nguyễn
Trung Trực v.v... Ngoài ra, các ngôi đình ở Cần Thơ còn thờ các vị thần theo
tín ngưỡng dân gian phổ biến là thần Hổ, thần Nông, thần Bạch Mã, thần Thổ
Địa, Táo quân. Riêng đình Thới Bình - Tân An còn thờ Ngũ hành, Nương
Nương, Bà Chúa Xứ, Quan Công v.v... Hằng năm, các ngôi đình ở Cần Thơ
thường có 2 kỳ lễ lớn: Thượng điền và Hạ điền và cứ 3 năm chọn ngày
Thượng điền hoặc Hạ điền làm lễ Kỳ Yên. Lễ Kỳ Yên có các nghi lễ thỉnh sắc
thần về đình, lễ mở sắc thần, lễ Túc Yết, lễ Chánh Tế, lễ Tế Tiên Hiền, Hậu
Hiền và các danh hữu công khác. Nếu lễ Kỳ Yên còn kiêm luôn lễ Thượng
điền hoặc Hạ điền thì có nghi thức tế thần Nông và thần Hổ. Đình làng nói
chung và đình ở Cần Thơ nói riêng là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng
của cộng đồng dân cư làng xã, thể hiện sự phong phú trong đời sống tâm linh
của người dân xứ này. Ngoài các lễ thức dân gian nói trên, người Việt ở Cần
Thơ còn cúng đất nước ông bà (hay ông bà tổ tiên hoặc Tổ quốc), cúng làm
nhà, cúng Tổ (mỗi ngành nghề có ngày cúng Tổ riêng), cúng cầu mưa, cúng
tống ôn, cúng chiến sĩ trận vong (kèm với các đám cúng giỗ, Tết), thờ cúng
ông Táo, Đất đai, Thổ địa, Thần Tài, Thần Hộ mạng v.v...
Bước vào thời kỳ mới - thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, Cần
Thơ đã có nhiều thay đổi do bàn tay khai phá của con người, đã xuất hiện
104
những xung đột giữa con người với thiên nhiên, vi phạm môi trường sống.
Cuộc sống của các dân tộc Hoa, Khmer có nhiều chuyển biến. Về góc độ văn
hóa, tộc người của các dân tộc này rõ ràng đang đứng trước nhiều thách thức
trong quá trình phát triển.
Trước hết, đó là mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại. Văn hóa
truyền thống của các dân tộc Hoa, Khmer ở Cần Thơ là một di sản quý giá, là
sự khẳng định bản sắc của mỗi dân tộc. Tuy nhiên, văn hóa truyền thống
đang chịu nhiều áp lực trong xã hội hiện đại hôm nay, những giá trị nhân văn,
bản sắc văn hóa đang phải đối diện với những thay đổi nhanh chóng của cuộc
sống, trong cơ chế kinh tế thị trường. Rõ ràng một thế hệ trẻ, những người kế
thừa di sản văn hóa truyền thống đang sống trong những điều kiện khác trước
và nhận thức của họ cũng khác với các thế hệ tiền bối.
Văn hóa của các dân tộc Hoa, Khmer ở Cần Thơ là di sản quý báu
không chỉ của từng dân tộc này mà còn là của cả cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, vấn đề bảo tồn văn hóa cần được đặt
trong quan hệ phát triển. Văn hóa mang yếu tố động, có sự chuyển đổi trong
sự phát triển chung của tiến trình các dân tộc.
Văn hóa các dân tộc Khmer, Hoa trong quá khứ và hiện tại có vai trò
quan trọng trong sự phát triển của bản thân các dân tộc cũng như của khu vực
đồng bằng sông Cửu Long nói chung và Cần Thơ nói riêng. Mặt khác, cần
xem xét văn hóa các dân tộc Hoa, Khmer như là một trong những nguồn lực
phát triển khá quan trọng của thành phố Cần Thơ.
Để góp phần gìn giữ và phát triển văn hóa, đặc biệt là văn hóa truyền
thống của các dân tộc Khmer, Hoa, cần không ngừng nâng cao đời sống mọi
mặt của nhân dân thuộc các dân tộc vùng sâu, vùng xa ở Cần Thơ. Đời sống
của họ được cải thiện, được khá lên, họ mới có điều kiện hưởng thụ và sáng
tạo văn hóa. Nâng cao đời sống văn hóa còn phải gắn với việc nâng cao mặt
bằng dân trí, trong đó, việc nâng cao trình độ học vấn là hết sức cần thiết.
Đáp ứng nhu cầu văn hóa cho các dân tộc Khmer, Hoa cũng còn là quan tâm
105
tạo điều kiện cho người dân tộc tiếp cận, giao lưu văn hóa với các dân tộc
khác, với văn minh thế giới.
Văn hóa của các dân tộc Khmer, Hoa ở Cần Thơ là một bộ phận của
văn hóa cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Văn hóa của các dân tộc thiểu số
ở đây có những giá trị thể hiện bản sắc và bản lĩnh riêng của con người các
dân tộc đó trong công cuộc mở đất và giữ đất ở Cần Thơ nói riêng và phương
Nam nói chung trước kia, đang làm nền tảng tinh thần cho quá trình bảo vệ
Tổ quốc cũng như sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Ba là, văn hóa Cần Thơ gắn với đời sống thực tiễn sinh động, giản
dị, phóng khoáng
Văn hóa Cần Thơ hình thành và phát triển cùng với những lưu dân đầu
tiên đặt chân lên khai phá vùng đất này và gắn liền với đời sống thực tiễn
sinh động, giản dị, phóng khoáng của người dân ở đây; được biểu hiện qua
các phương thức sinh hoạt, đời sống.
Lúc đầu, cư dân sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt và săn bắn. Điều
kiện sản xuất hầu như không có gì, tất cả hoàn toàn lệ thuộc vào thiên nhiên;
năm nào mưa thuận, gió hòa thì được mùa; ngược lại, năm nào khô hạn thì
xem như mùa màng bị thất bát. Vì sống lâu ngày trong môi trường thiên
nhiên hoang dã, con người đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản
xuất và đời sống. Nhìn vạn vật, muông thú, con người có thể nhận biết các
hiện tượng thời tiết trong từng thời gian, từng mùa để xuống giống vụ mùa
lúc nào có lợi nhất, chẳng hạn như: chim én - báo hiệu mùa xuân; con cóc
nghiến răng là sắp có mưa; con bìm bịp kêu là nước lớn hoặc nước ròng…
Dân gian có câu: “Cóc nghiến răng đang nắng thì mưa” hoặc “Bìm bịp kêu
nước lớn anh ơi. Buôn bán không lời chèo chống mãi mê”, v.v…
Ngày nay Cần Thơ là vùng đất phì nhiêu màu mỡ, mưa thuận gió hòa,
giàu lúa gạo, tôm cá. Chính vì đặc điểm này đã hình thành nên nét tính cách
riêng có của người Cần Thơ về ăn, mặc, ở, đi lại, phép đối xử với mọi người,
106
cách chọn bạn giao du, chọn nghề, chọn việc và những kỹ xảo khéo tay trong
gia đình.
Trước hết, tính thực tế sinh động được biểu hiện trong văn hóa ẩm
thực. Người Cần Thơ có rất nhiều món ăn và cách ăn đa dạng. Cơm là món
ăn chủ yếu, các món ăn với cơm hàng ngày thông thường là cá, thịt chế biến
bằng cách nấu canh, xào, hấp, nướng, chiên, kho. Ngoài các món ăn căn bản
thường gặp hàng ngày, ở Cần Thơ còn có các món ăn bình dân với nhiều
cách chế biến khác, rất đơn giản, gần gũi với tự nhiên mà lại độc đáo, hấp dẫn
như: cá lóc nướng trui, nướng ốp bẹ chuối; gà vịt nắn đất sét; chuột úp nồi,
rắn nướng lèo… Người dân ở đây rất chú trọng văn hoá ẩm thực, trong bữa
ăn hàng ngày trong gia đình hay tham dự các buổi tiệc cưới, giỗ… người ta
luôn khuyên nhau nên “ăn coi nồi, ngồi coi hướng”, “tham thực cực thân”,
“miếng ăn miếng nhục”…, người nhỏ tuổi hơn phải biết kính trên, nhường
dưới, không nên vì cái ăn làm ảnh hưởng đến uy tín con người.
Tính thực tế sinh động của văn hóa Cần Thơ còn biểu hiện trong cách ở và
mặc của người dân Cần Thơ. Chiếc áo dài là trang phục, lễ phục chính của giới
nữ ở Cần Thơ trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ, dùng mặc trong các cuộc lễ
hội, giao thiệp, tiếp khách, dạ hội v.v… Trải qua quá trình phát triển lâu dài cho
đến nay, dù được cải tiến nhiều lần nhưng áo dài trở thành trang phục mang đậm
màu sắc văn hoá dân tộc, biểu thị nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Đối với người Hoa, lúc đầu còn mặc kiểu áo cánh gài nút vải trong
ngày thường (người Việt gọi áo xá xẩu), các ngày lễ, tết, phụ nữ có mặc áo
dài kiểu Thượng Hải, Hồng Kông (xườn xám), nhưng dần về sau cũng theo
phong trào Âu hoá trong trang phục.
Người Khmer lúc ban đầu còn vận xà rông, xăm-pốt, phụ nữ có chiếc
áo vện (người Việt quen gọi áo bít bồng), vắt vai bằng khăn trắng (sen sầm
mặc – thơ). Đến nay, hầu như chỉ còn thấy những kiểu trang phục đó xuất
hiện rất ít trong những ngày lễ, tết Cholchnam Thmay, Óc-ombock… hoặc
trong các chương trình kịch nghệ trên sân khấu, truyền hình.
107
Trong quá trình hội nhập quốc tế, với nhịp độ phát triển văn minh tăng
tốc hiện nay thì việc “mốt hoá” trong trang phục của cộng động người Việt -
Khmer - Hoa ở Cần Thơ đã vào thế hoà đồng. Người nào cũng mặc được áo
bà ba, mặc áo dài, đội nón lá. Người nào cũng mặc quần Tây, áo sơ mi, mặc
quần jean, áo pull, váy - áo đầm. Và việc mặc cũng không còn cách biệt
nhiều giữa thành thị với nông thôn. Dù có chưng diện như thế nào đi nữa,
nhưng mặc lịch sự được xem là “quy ước” của người dân Cần Thơ. Cộng
đồng dân tộc Việt, Khmer, Hoa luôn phê phán những ai mặc không lịch sự
mỗi khi ra đường và dự các lễ hội, tiệc tùng… Giữ vững đức tính của người
Cần Thơ “Trí tuệ, năng động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch”.
Về ở, thuở ban đầu, người ta quần tụ nhau trong các chòm xóm, chủ
yếu để hợp thành sức mạnh chống lại nghịch cảnh thiên nhiên và xã hội
(phong ba bão tố, thú rừng, trộm cướp, giặc giã…), giúp đỡ nhau trên bước
đường khai hoang mở đất. Trong những quần cư này, người ta chưa có quan
hệ huyết thống từ xưa, không có người cố cựu, cũng không phải cùng nghề
và có khi không cùng dân tộc (như người Khmer, người Hoa), nhưng họ thấy
cần ở gần, làm ăn, vui chơi với nhau thì đồng hè gom cụm lại, chọn vị trí
thuận lợi để lập thành chòm xóm “Bà con xa không bằng láng giềng gần”.
Trong quá trình chung đụng, nếu có điều xích mích xảy ra, người nào thấy
không thích thì tự do bồng bế vợ con xuống xuồng chống đi nơi khác, kiếm
chòm xóm khác định cư mà không có luật lệ nào ràng buộc.
Khi cuộc sống đã ổn định, chòm xóm mới được hình thành vững chắc
hơn. Qua các truyền thuyết dân gian và một số sách ghi chép cho thấy ở Cần
Thơ người ta lấy xóm làm đơn vị cơ sở của tổ chức quần cư xã hội lúc ban
đầu. Tiếng xóm thường đi liền với ấp như làng gắn liền với xã. Một xóm
thành một ấp hoặc vài xóm nhỏ hợp thành một ấp, nhưng thường mang tính
đồng nhất cao về đặc điểm địa dư, sắc thái tâm lý và sinh hoạt xã hội. Người
dân thường dựa vào các đặc điểm tự nhiên, nghề nghiệp, các giai thoại truyền
thuyết, di tích hoặc tên các nhân vật được nhiều người biết để đặt tên cho các
108
xóm, như: Xóm Lung, xóm Cây Bàng, xóm Cây Gáo, xóm Bún, xóm Chài,
xóm Chòm mã, xóm Nhà Thờ… Sau khi có xóm (ấp), người dân lập làng
(xã) rồi lập chợ và kế đến xây dựng đình, miếu, chùa chiền. Những khu dân
cư đông đúc này thường tập trung ở các địa điểm đầu mối giao thông thuỷ bộ,
thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống. “Nhứt cận giang, nhì cận lộ” là câu ngạn
ngữ dạy cách chọn điểm định cư của người Việt ở Cần Thơ, mà vị trí của giao
thông đường thuỷ được đưa lên hàng đầu. Nơi “sông sâu nước chảy” vừa thuận
tiện cho việc giao thông liên lạc, vừa có không khí trong lành ít bệnh tật, lại
thuận lợi cho việc đào mương, lên liếp lập vườn để biến thành một trong những
nơi sớm phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp tiến bộ trong vùng, gọi là “văn
minh miệt vườn”.
Nhà ở, người Cần Thơ có hai cách xây nhà phổ biến: (1) Nhà xây cất
trên nền đất cao cặp theo hai bờ kinh xán, sông rạch, các khu vườn và các
đô thị. (2) Loại nhà sàn cao cẳng, một phần theo tập quán của người
Khmer, phần khác của người Việt hoặc Hoa sống ở các vùng thường bị
ngập trong mùa mưa như huyện Thốt Nốt, một phần của quận Ô Môn.
Cũng có loại nhà một nửa nằm trên nền đất, một nửa sàn de ra mé nước
các kinh rạch ở thành phố, thị xã, trục giao thông.
Nhà ở nông thôn hay thành thị, dù có nhiều kiểu cách trang trí khác
nhau, nhưng hầu hết đều được kết cấu theo kiểu nhà hai mái. Nhà hai mái
không chỉ dành riêng cho nhà lá, nhà sàn vách ván cột cây mà cả những ngôi
nhà vách tường, nhà lầu phố chợ.
Văn hóa Cần Thơ gắn với đặc tính tâm lý (tính cách) và điều kiện sống
của người dân ở đây
Nói đến tính cách của con người Cần Thơ, nó được thể hiện qua các mối
quan hệ trong xã hội. Thực ra, người Cần Thơ là một trong những bộ phận cấu
thành của dân tộc Việt Nam, do điều kiện nơi sống và nét văn hóa khác nhau
của từng vùng, từng miền mà tính cách của con người cũng khác nhau.
109
Điều kiện về vị trí địa lý của Cần Thơ xưa, đã hình thành nên tính cách
“trọng nghĩa khinh tài” của người dân ở đây. Bởi họ ý thức được rằng: trước
điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, nếu chia rẽ thì sẽ chết. Tinh thần đoàn kết,
sống với nhau vì nghĩa không chỉ giúp họ sẻ chia công việc với nhau, để giúp
đỡ nhau trong những lúc hoạn nạn, ốm đau mà còn hỗ trợ lẫn nhau cùng
chinh phục thiên nhiên, trừ thú dữ. Chính điều kiện hoàn cảnh khó khăn đó
đã tôi luyện con người Cần Thơ này thành một người “Hành hiệp trượng
nghĩa”. Họ sẵn sàng, thậm chí hy sinh tính mạng của mình để làm tròn đạo
nghĩa; đồng thời, đã xây dựng cho con người tính chăm chỉ, làm việc hết
mình, chơi thì cũng chơi “ tới bến”. Con người Cần Thơ luôn quan niệm
rằng: “ Nếu thấy việc nghĩa mà không ra tay làm thì không phải là anh hùng”.
Họ luôn tâm niệm: “tiền bạc có sá gì, nhân nghĩa mới là điều quan trọng”. Vì
vậy, những ai không có nhân nghĩa thì cũng đừng hòng họ đáp lại bằng nhân
nghĩa. Ngược lại, nếu sống có tình nghĩa thì khó khăn nào họ cũng chịu, gian
khổ mấy họ vẫn sẵn sàng chấp nhận. Và một đặc điểm nữa đi liền với tính
cách của người Cần Thơ là: họ nói một là một, hai là hai, không thay đổi, tình
cảm luôn rõ ràng, dứt khoát, nếu đã hứa thì phải làm dù cho sự thay đổi có
thể mang lại cho họ nhiều điều lợi nhưng họ vẫn “khăng khắng một lời quân
tử nhất ngôn”.
Người Cần Thơ không vì danh lợi mà làm những việc phi nghĩa, làm
trái với tinh thần nghĩa khí hào hiệp của mình. Họ chỉ nhận những gì tương
xứng với công sức mà họ bỏ ra. Nói về chuyện tình yêu nam nữ, họ sống và
thể hiện tình cảm cho nhau rất chân thành qua những lời lẽ mộc mạc. Thời xưa
họ thường dùng những câu đối, những câu hò trên những cánh đồng xanh tốt
để thể hiện tình cảm cho nhau.
Các giá trị văn hóa Cần Thơ được khái quát từ đời sống thực tiễn và
trở lại phục vụ đời sống người dân Cần Thơ
Trong quá trình khai hoang, mở đất và xây dựng Cần Thơ thành vùng
đất đầy tiềm năng như ngày hôm nay, văn hoá ứng xử với tự nhiên được hình
110
thành. Chính vì vậy, thiên nhiên tuy là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng con
người nhưng lại là đối tượng tác động của con người. Mặt khác, do tự nhiên
luôn khắc nghiệt cho nên con người phải đối phó với tự nhiên. Trong hoàn
cảnh ấy, một mặt con người phải dựa vào nhau để sinh tồn, mặt khác con
người tin tưởng vào đấng siêu nhiên “Thần - Thánh” mỗi khi gặp khó khăn
hoạn nạn, tin tưởng vào điều thiện - ác, quả báu luân hồi. Cho nên con người
đã xây đình, chùa, miếu… để thờ những vị thần có công với dân với nước. Rõ
ràng là các giá trị văn hóa Cần Thơ được khái quát từ đời sống thực tiễn và đến
lượt mình văn hóa trở lại phục vụ đời sống con người Cần Thơ. Chính sự tác
động của các giá trị văn hóa làm nâng cao nhận thức, tình cảm của con người,
từng bước định hướng trong các tầng lớp nhân dân thực hiện nếp sống văn
minh, lành mạnh, mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với gia đình
và cộng đồng ngày càng tốt hơn. Quan hệ chòm xóm đoàn kết gắn bó hơn, tình
làng nghĩa xóm được chăm bồi, có ý thức giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Ý
thức trách nhiệm của công dân đối với xã hội, cộng đồng không ngừng được
nâng cao, đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội. Phong trào toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa đã góp phần phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo,
khuyến khích phong trào hợp tác sản xuất, kinh doanh, làm ăn, làm giàu chính
đáng. Nhiều địa phương còn gắn kết với tiến trình đô thị hóa, xu thế công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
2.2. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ
2.2.1. Sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình
phát triển văn hóa ở Cần Thơ
Trong quá trình phát triển văn hóa, Cần Thơ luôn thể hiện nhất quán
quan điểm: hiện đại bắt nguồn từ truyền thống, lấy truyền thống làm nền tảng
trên cơ sở chắt lọc, kế thừa và phát triển truyền thống, đồng thời không phủ
định sạch trơn truyền thống và truyền thống văn hóa ở Cần Thơ được bảo tồn,
phát triển sinh động, phong phú qua tính hiện đại.
111
Trong các giá trị truyền thống, nổi lên vị trí hàng đầu và được người
Cần Thơ coi như chuẩn mực cao nhất của đạo lý dân tộc là tinh thần yêu nước,
ý chí tự lực tự cường; ý thức cộng đồng, truyền thống đoàn kết dân tộc; truyền
thống lao động cần cù, sáng tạo, tính thích nghi và hội nhập để tồn tại và phát
triển; trọng nghĩa khí, kết hợp tinh thần nhân ái, tính khoan dung…
Hiện đại bắt nguồn từ truyền thống, lấy truyền thống làm nền tảng để
chắt lọc, kế thừa và phát triển của văn hóa ở Cần Thơ, trước hết, được thể
hiện ở lòng yêu nước, thương nòi. Chính từ lòng yêu nước mà những lưu dân
đầu tiên đặt chân lên đất Cần Thơ nắm bắt được quy luật của thiên nhiên,
chinh phục thiên nhiên để sinh tồn và lòng dũng cảm, ý chí bất khuất đã liên
tục đấu tranh chống kẻ thù xâm lược từ đời này sang đời khác để giữ vững quê
hương, đất nước. Khí phách ấy còn được khẳng định, tôn vinh bằng tên tuổi
của hàng loạt văn thân, sĩ phu yêu nước và những chiến sĩ cách mạng kiên
trung. Như vậy, lòng yêu nước là truyền thống tốt đẹp của nhân dân cả nước
nói chung và Cần Thơ nói riêng. Nó được bắt nguồn từ truyền thống qua mấy
ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước. Lịch sử ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước
của dân ta" [50, tr. 171]. Rõ ràng là Hồ Chí Minh cũng chứng minh quan điểm:
Hiện đại bắt nguồn từ truyền thống trên cơ sở bảo tồn, kế thừa, phát huy truyền
thống. Nó bắt nguồn từ lịch sử Bà Trưng, Bà Triệu… đến Quang Trung. Rồi
đến những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ. Nó được biểu hiện sinh động ở mỗi thời đại khác nhau, gắn với điều kiện,
nhiệm vụ lịch sử xã hội khác nhau. Đó là sự thống nhất giữa truyền thống và
hiện đại trong văn hóa. Ngay cả tinh thần độc lập dân tộc, đó là truyền thống
văn hóa cao của dân tộc Việt Nam. Điều đó cũng được Hồ Chí Minh đề cập
112
trong Tuyên ngôn độc lập và Hồ Chí Minh còn tiếp thu tinh thần độc lập cả
trong Tuyên ngôn nhân quyền, dân quyền của Mỹ, của Pháp:
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong
bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý
nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1791 cũng nói: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn
luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Đó là những lẽ phải không ai chối
cãi được.
Bên cạnh việc tiếp thu truyền thống tinh thần độc lập dân tộc trong
“Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Bình Ngô đại cáo” - ba dấu mốc đánh
dấu những chặng đường phát triển của chủ nghĩa yêu nước trong văn học
thượng kỳ trung đại. Điều đó càng chứng tỏ luận điểm: hiện đại bắt nguồn từ
truyền thống trên cơ sở chắt lọc, kế thừa, phát triển truyền thống và hiện đại
làm phong phú, sinh động, sâu sắc truyền thống.
Lòng yêu nước của nhân dân Cần Thơ trước đây đã được phát huy cao
độ trong chống ngoại xâm, ngày nay được nâng lên tầm hiện đại, tức là chuyển
sang nhiệm vụ xây dựng đất nước với ý thức coi nghèo nàn, lạc hậu cũng là
nỗi nhục không kém gì nhục mất nước. Thế hệ trước đã rửa được nỗi nhục nô
lệ cho dân tộc nên thế hệ hiện nay phải rửa nỗi nhục nghèo khổ, mở ra chương
sử mới rạng rỡ quê hương Cần Thơ nói riêng và cho non sông Việt Nam vinh
quang sánh vai cùng các dân tộc khác trên thế giới. Ngày nay, lòng yêu nước
gắn liền với độc lập tự chủ và ý chí tự lực tự cường, đây là một yêu cầu mang
tính biện chứng. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc
tế có hiệu quả; mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả sẽ tạo điều kiện
113
cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tránh được sự lệ thuộc về
nhiều mặt vào các đối tác trong quá trình hội nhập.
Chống tham nhũng cũng là sự biểu hiện của lòng yêu nước, bởi chính
tham nhũng chính là một trong những kẻ thù vô cùng nguy hiểm, một quốc
nạn. Đối với cán bộ, đảng viên tuyệt đối không tham nhũng, xem tham nhũng
là một kẻ thù nguy hiểm cần loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Đối với chính
quyền các cấp ở thành phố Cần Thơ, cần có một cơ chế quản lý thích hợp,
đồng thời cũng cần có những biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những kẻ
tham nhũng. Đối với nhân dân, không tiếp tay hay tạo cơ hội cho việc tham
nhũng, mà cần phát hiện, tố cáo với các cơ quan hữu quan để xử lý kịp thời.
Các tố chức đảng cũng cần tăng cường công tác phê và tự phê bình một cách
có hiệu quả, tiến tới làm trong sạch hàng ngũ của Đảng để Đảng ta thực sự làm
tốt vai trò lãnh đạo của mình. Cần khắc phục tình trạng quan liêu, cửa quyền,
hách dịch đang xảy ra khá phổ biến trong một số cơ quan nhà nước hiện nay,
nhất là các sở, ban, ngành của thành phố để Nhà nước thực sự là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân và để kế thừa tư tưởng yêu nước mà Nguyễn Trãi đã
từng khẳng định: yêu nước gắn liền với thương dân, lòng dân có yên đất nước
mới phát triển. Lòng yêu nước còn được biểu hiện ở chỗ: không sản xuất hàng
gian, hàng giả, không buôn lậu và kiên quyết chống buôn lậu, không trốn thuế,
lậu thuế, góp phần ổn định đời sống nhân dân và xây dựng đất nước.
Lòng yêu nước ngày nay còn được thể hiện qua ý thức bảo vệ môi
trường, xây dựng thành phố xanh, sạch, đẹp. Cần Thơ đang trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nên nạn ô nhiễm môi trường sống
ngày càng nặng hơn, đã bắt đầu xuất hiện tình trạng ách tắc giao thông, khói
bụi; sông hồ ô nhiễm, mưa lớn hoặc thủy triều lên (mùa nước nổi) thì phố ngập
nước; công viên, cây xanh luôn bị đe doạ lạm dụng chặt phá. Vì vậy vấn đề đặt
ra hiện nay là mỗi người dân phải ý thức được trách nhiệm bảo vệ môi trường
bằng hành động cụ thể, thiết thực như không chặt phá cây xanh, không vứt rác
bừa bãi, không hút thuốc nơi công cộng, các doanh nghiệp phải có hệ thống xử
114
lý nước thải hoàn chỉnh… để xây dựng thành phố xanh, sạch, đẹp. Đồng thời,
thành phố Cần Thơ cần bổ sung quy hoạch về bảo vệ môi trường với tầm nhìn
30 năm, 50 năm tới.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lòng yêu nước của người
Cần Thơ được phát huy ở sự chung sức, chung lòng xây dựng thành phố văn
minh. Thành phố văn minh là nơi cư trú thân thiện, trao đổi hòa hợp cho cư
dân đa dạng, đa ngành, đa tầng bậc; họ chung sống và hỗ trợ nhau một cách tự
nguyện, bền vững. Thành phố văn minh - nơi có cơ hội thăng tiến cho tất cả
thành phần: công nghiệp, thủ công nghiệp, nông nghiệp, các cơ sở y tế, nghỉ
dưỡng, trung tâm đại học, dạy nghề; có vùng bảo tồn đô thị cổ, đô thị truyền
thống, di sản văn hoá lịch sử... nhưng có cả trung tâm công nghệ hiện đại, khu
công nghiệp với hệ thống giao thông thuận tiện. Các đô thị độc lập và liên hệ
với nhau bởi các phương tiện giao thông phù hợp. Một thành phố hiện đại
được ghi nhận bởi sức sống, tính cạnh tranh và nguồn tài chính vững chắc. Con
người Cần Thơ giàu lòng yêu nước và cách mạng, năng động, sáng tạo; được
Trung ương dành cho nhiều chính sách ưu đãi, Cần Thơ hội tụ đủ những điều
kiện xây dựng thành phố văn minh, hiện đại, môi trường hòa hợp với thiên
nhiên, là quyền có nhà cửa, có nơi ở thỏa đáng, có được sự di chuyển dễ dàng
từ nhà đến nơi làm việc với những phương tiện chuyên chở công cộng thuận
tiện, được sống một cách yên lành với gia đình, láng giềng và thân hữu. Tin
tưởng rằng trong tương lai không xa, Cần Thơ sẽ là một thành phố văn minh
đúng nghĩa của nó.
Hiện nay, nhân dân Cần Thơ tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước
trong việc xây dựng thành phố hiện đại. Cần Thơ đang trong quá trình triển
khai thực hiện quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết đã được Chính phủ
phê duyệt với quyết tâm biến vùng ngoại vi, phụ cận thành những khu trung
tâm mới về kinh tế, tài chính, thương mại, du lịch lớn cùng hệ thống kết cấu hạ
tầng, dịch vụ cao cho khu vực. Đặc biệt, thành phố sẽ chú trọng bảo tồn và
phát triển cảnh quan thiên nhiên giàu tính nhân văn, đa dạng hoá thảm thực
115
vật, xác định một số khu bảo tồn thiên nhiên; kết hợp cải tạo chỉnh trang các
đô thị hiện hữu với đầu tư xây dựng các khu đô thị mới theo tiêu chí đô thị
đồng bằng cấp quốc gia văn minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp, phản ánh đặc
trưng lịch sử - văn hoá vùng đồng bằng sông Cửu Long. Như vậy, trong tương
lai Cần Thơ bao gồm một chuỗi đô thị đa trung tâm; trong đó, hai quận Cái
Răng - Bình Thuỷ giữ vai trò đô thị công nghiệp - cảng, quận Ninh Kiều là đô
thị trung tâm hành chính - chính trị, quận Ô Môn giữ vai trò đô thị công nghệ
cao, huyện Phong Điền trở thành đô thị sinh thái, quận Thốt Nốt trở thành đô
thị dịch vụ đầu mối nông - thủy sản,... Có như vậy Cần Thơ mới thật sự là
thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ sẽ không
dẫm lên vết xe đổ của các đô thị tại các quốc gia mới ở chặng đầu phát triển (ô
nhiễm môi trường, dân cư quá tải, ùn tắc giao thông, ngập nước, sớm bị lạc
hậu…). Bản quy hoạch đã ưu tiên các yếu tố thiên nhiên cảnh quan, nâng cao
chất lượng đô thị; dành nhiều không gian cho sinh hoạt công cộng, diện tích
cây xanh - mặt nước. Mở rộng diện tích xanh cũng là dành diện tích cho phát
triển nông nghiệp đô thị: vùng cung cấp nông sản sạch - giá trị cao cho thành
phố và các tỉnh lân cận trong vùng. Vùng nông nghiệp đô thị còn là không gian
tái chế, tái sử dụng chất thải đô thị để sản xuất nông nghiệp, làm giàu dinh
dưỡng đất đai, tái tạo không khí và nước sạch.
Như vậy, truyền thống yêu nước trước đây được phát huy cao độ
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngày nay, truyền
thống yêu nước đã nâng lên tầm hiện đại, được thể hiện: mọi cá nhân, tập
thể và cộng đồng dân tộc Kinh, Khmer, Hoa phải đem hết tinh thần và nghị
lực, sức mạnh và tài năng của mình xây dựng quê hương Cần Thơ giàu đẹp,
góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của Đảng là
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng thể hiện quan điểm, hiện đại bắt nguồn
từ truyền thống, lấy truyền thống làm nền tảng để chắt lọc, kế thừa và phát
triển của văn hóa ở Cần Thơ.
116
Truyền thống là cơ sở, là tiền đề của hiện đại được thể hiện qua ý thức
cộng đồng, cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc, kết hợp với truyền thống tương
trợ, giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn. Đoàn kết dân tộc là một trong
những truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân Cần Thơ. Ý thức cộng đồng
được cải biến và nâng cao trên một cơ cấu và quan niệm mới về mối quan hệ
giữa cá nhân với cộng đồng, gia đình và làng nước, trong đó con người phải
thực sự được thừa nhận và tôn trọng như là một thực thể trong sự phát triển
nhân cách, tài năng và những lợi ích chính đáng.
Ý thức cộng đồng, cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc không thể tách rời
tinh thần yêu nước. Bởi vì, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý
thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong
hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc, tạo
thành một truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn
của mỗi con người Việt Nam nói chung và Cần Thơ nói riêng. Tinh thần, ý
thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của nhân dân Cần Thơ để chiến thắng
mọi thiên tai địch họa, làm cho Cần Thơ trường tồn, bản sắc văn hóa được giữ
vững. Đối với mỗi người dân Cần Thơ cũng như dân tộc Việt Nam nói chung,
yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng;
Thành một triết lý nhân sinh:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao;
Thành phép ứng xử và tư duy chính trị:
Tình làng, nghĩa nước; nước mất thì nhà tan; giặc đến nhà, đàn bà
phải đánh.
Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành
quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia và cũng trở thành sợi
dây liên kết các dân tộc, các giai tầng trong xã hội Cần Thơ.
117
Ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã trở thành
một lẽ sống, một tâm cảm của mỗi người Cần Thơ. Đây là một ý thức nối kết
các thành viên của tộc người Việt từ ngàn xưa đến mai sau. Không giống xã
hội phương Tây, người ta đề cao, tôn vinh các giá trị cá nhân. Ở Cần Thơ cũng
như tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước, cá nhân chỉ có ý nghĩa khi hòa
kết, hòa đồng với cộng động. Hòa kết, hòa hợp không có nghĩa là hòa tan. Mỗi
cá nhân tìm thấy chính mình trong sức mạnh, trong vẻ đẹp của cộng đồng. Mỗi
người không thể sống, không thể tồn tại và phát triển khi tách rời khỏi cộng
đồng: cộng đồng gia đình, cộng đồng làng xã, cộng đồng dân tộc.
Đồng sức, đồng lòng là một sức mạnh: " thuận vợ thuận chồng tát
biển Đông cũng cạn". Hòa kết giữa người và người, giữa người và cộng
đồng được thể hiện trong tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: " Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” [50,
350]. Niềm vui, hạnh phúc và cả nỗi đau, những bất hạnh của mỗi người
được cộng đồng quan tâm, chia sẻ: " Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ"
hay " lá lành đùm lá rách".
Hợp lực cộng đồng đã trở thành một lẽ sống và là một trong những
giá trị làm nên truyền thống tuyệt vời của văn hóa Cần Thơ. Ý thức cộng
đồng trở thành ý thức dân tộc sâu sắc trong suốt quá trình tồn tại và phát
triển của cộng đồng người Việt ở Cần Thơ.
Chính vì những giá trị (về lý luận và thực tiễn) to lớn của ý thức cộng
đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc, mà đảng bộ Cần Thơ luôn vận
động, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào Mặt trận và các đoàn thể
chính trị, xã hội phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Nhờ vậy
mà Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ đã giành được hết thắng lợi này tới thắng
lợi khác, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế đã chứng minh: đoàn kết trong
mặt trận Việt Minh, nhân dân Cần Thơ cùng nhân dân cả nước đã làm Cách
mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
118
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân Cần Thơ cùng nhân dân cả nước
đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng
miền Bắc. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân Cần Thơ
cùng nhân dân cả nước đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục
kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc…
Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân ở Cần Thơ chưa thật bền chặt và đang đứng trước những
thách thức mới: (1) Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận
nhân dân chưa vững chắc, phần vì đời sống còn nhiều khó khăn, phần thì bất
bình trước những bất công xã hội và trước tình trạng tham nhũng, quan liêu,
lãng phí còn diễn ra ở nhiều nơi, kỷ cương, phép nước nhiều lúc, nhiều nơi
không nghiêm, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự an toàn xã hội còn
phức tạp. (2) Các vụ khiếu kiện đông người vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi rất
gay gắt. (3) Việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức
xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào có tôn giáo,
đồng bào dân tộc Khmer.
Trước thực trạng đó, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế, Cần Thơ đang trong quá trình đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội cho phù
hợp tình hình mới theo hướng: thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp luật của
Nhà nước nhằm phát huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế
độ tự quản của cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội. Tổ chức
và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế
giỏi, phát triển kinh tế đi liền với phát triển văn hóa - xã hội; mỗi người, mỗi
hộ đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước. Chăm lo và
bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội. Tôn trọng
và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín
119
trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo. Đề cao truyền thống nhân
nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định
chính trị và đồng thuận xã hội.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc nói chung và nhân dân Cần
Thơ nói riêng, là công việc của mỗi người dân. Để nâng cao trách nhiệm của
người dân, Đảng bộ Cần Thơ phải xây dựng sự đồng thuận xã hội. Đồng thuận
xã hội khác với tập trung dân chủ thường chỉ dùng cho các tổ chức có tính
thống nhất cao. Nguyên tắc đồng thuận xã hội đòi hỏi mọi thành viên hoặc đa
số đồng ý thỏa thuận đối với nguyên tắc chung và ý chí chung. Một quyết định
được thông qua phải là “mẫu số chung” cho mọi thành viên dù các thành viên
có thể có nhiều sự khác nhau. Sự đồng thuận xã hội, nhằm đạt tới sự cố kết xã
hội, chống lại sự phân liệt xã hội.
Truyền thống là nền tảng, cơ sở của hiện đại trong quá trình phát triển
văn hóa ở Cần Thơ, được thể hiện qua truyền thống lao động cần cù, sáng tạo,
ý chí tự lập tự cường; truyền thống trọng nghĩa khí, lòng nhân ái, khoan dung.
Trước khi chia tách tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang và thành phố
Cần Thơ trực thuộc trung ương - Đô thị loại I. Cần Thơ là một tỉnh nông
nghiệp với gần 80% dân số sống bằng nghề nông. Một trong những đức tính
tiêu biểu của người nông dân Cần Thơ là đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
động sản xuất.
Kế thừa đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động của ông cha từ thuở xa
xưa: mài đá, đúc đồng, đúc kim loại thành những công cụ hữu ích phục vụ đắc
lực cho việc mưu sinh. Cha ông ta trước đây với đôi bàn tay cần cù và tinh
thần năng động, sáng tạo trong công việc đã từng bước phá rừng, lấn biển, mở
rộng diện tích trồng trọt và tích cực lao động sản xuất theo suốt chiều dài lịch
sử của đất nước.
Đến thời gian những lưu dân đi mở cõi, khai phá đất phương Nam và
đặt chân lên Trấn Giang - Cần Thơ thì cũng chính từ lòng quyết tâm của người
đi khai phá đất hoang và đức tính cần cù sáng tạo trong lao động mà những
120
người nông dân đã dần dần chinh phục được vùng đất đầy khắc nghiệt với
rừng rậm, đầm lầy và nhiều thú dữ. Họ đã biến vùng đất hoang hoá trước đó
trở thành một vùng đất phì nhiêu, màu mở với ruộng vườn tươi tốt và những
vụ mùa bội thu.
Nằm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, thuộc khu vực châu Á gió mùa,
nước ngọt quanh năm, được thiên nhiên ưu đãi với “Thiên thời - Địa lợi - Nhân
hòa”, song Cần Thơ cũng là một địa phương chịu nhiều ảnh hưởng của thiên
tai như giông bão, lụt lội, hạn hán, đôi khi bị nước mặn xâm nhập… uy hiếp
trực tiếp đến cuộc sống của người nông dân. Để có thể tồn tại và phát triển,
người nông dân Cần Thơ đã phải siêng năng bền bĩ, chịu khó đắp đê, đào kênh
để khắc phục những khó khăn, bất lợi do thiên tai gây nên.
Truyền thống cần cù, sáng tạo của người nông dân Cần Thơ còn được
phát huy mạnh mẽ sau ngày đất nước ta được hoà bình, thống nhất. Từ những
vùng đất bị tàn phá và thiệt hại nặng nề trong những năm kháng chiến chống
giặc ngoại xâm, bằng đức tính cần cù năng động, sáng tạo trong quá trình lao
động sản xuất mà người nông dân đã biến những “vùng đất chết”, “vùng đất
trắng” thành những vùng đất trù phú, phì nhiêu. Qua đó đã góp phần tích cực
nhất đưa sản lượng lương thực, thực phẩm nước ta không ngừng được nâng
cao theo từng năm.
Vào những năm của thập niên 80, hàng trăm lượt người đã hăng hái,
tích cực làm công tác thuỷ lợi. Khi công trình hoàn thành và được đưa vào
sử dụng, với việc chủ động được nguồn nước tưới tiêu, những người nông
dân Cần Thơ đã chí thú làm ăn, hăng say sản xuất. Bằng đôi bàn tay lao
động cần cù và ý chí tấn công trên mặt trận sản xuất, họ đã biến “vành đai
trắng” trong những năm còn chiến tranh trở thành một “vành đai xanh” với
những cánh đồng lúa oằn bông trĩu hạt; những ruộng đậu, ruộng bắp xanh
mướt, mượt mà cho năng suất cao; những vườn cây ăn trái sum suê trĩu
quả… Chính từ đức tính cần cù, chịu thương chịu khó của những người
nông dân Cần Thơ đã có sự thay đổi sâu sắc, diệu kỳ.
121
Trong giai đoạn đất nước đang thực hiện tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thì người nông dân vẫn luôn cần cù, chịu khó tìm tòi, học hỏi, áp
dụng một cách sáng tạo các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất; năng
động sáng tạo những mô hình làm ăn mới đem lại những lợi ích thiết thực,
đem lại hiệu quả kinh tế cao để không ngừng nâng cao mức sống của gia đình,
đồng thời góp phần làm cho đất nước ngày càng đi lên giàu mạnh, văn minh.
Trong những năm gần đây với những đòi hỏi bức thiết của quá trình lao động
sản xuất, với tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, bằng sự cần cù
trong lao động, kiên trì chịu khó mày mò, thử nghiệm. Cuối cùng nhiều nông
dân cũng đã sáng chế thành công nhiều nông cụ phục vụ đầy hiệu quả cho sản
xuất nông nghiệp ở Cần Thơ.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành nhân
tố lớn làm thay đổi phương thức sống của người dân Cần Thơ. Từ một nền
kinh tế lạc hậu, sức cạnh tranh kém, tốc độ tăng trưởng thấp, bước sang một xã
hội với những cơ sở sản xuất hiện đại, với mạng lưới thương nghiệp và dịch vụ
rộng khắp. Từ chỗ chỉ sản xuất và tiêu dùng các hàng hóa đơn giản, chất lượng
thấp, người dân đã sản xuất và tiêu thụ nhiều sản phẩm hiện đại, đủ các chủng
loại. Quá trình đô thị hóa, mở rộng giao lưu quốc tế, luồng gió của toàn cầu
hóa và của nền kinh tế thị trường đã thổi tới mọi địa bàn cư dân, kể cả vùng
sâu, vùng xa của thành phố Cần Thơ, thông qua việc trao đổi hàng hóa, qua
công nghệ thông tin viễn thông, qua các hoạt động du lịch quốc tế, qua các dự
án và công trình có vốn đầu tư nước ngoài. Những biến động về kinh tế - xã
hội đó tác động trực tiếp tới đời sống vật chất của mỗi con người, mỗi gia đình
và qua đó, tác động tới đời sống tinh thần của toàn xã hội. Bước vào thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ở Cần Thơ có nhiều khu công nghiệp được hình
thành, lao động trong xã hội công nghiệp là lao động trực tiếp với máy móc và
công nghệ; đòi hỏi người lao động phải có kiến thức và kỹ năng cơ bản về
khoa học, công nghệ để làm chủ quá trình lao động. Trong một xã hội mà khoa
học và công nghệ luôn đổi mới, thì bản thân người lao động cũng phải được
122
chuẩn bị về mọi mặt để đón nhận sự đổi mới đó. Ở đây không có chỗ đứng cho
tư duy cảm tính, chủ nghĩa kinh nghiệm, tâm lý an phận thủ thường, ngại đổi
mới. Lao động công nghiệp đòi hỏi cao về kỷ luật lao động, phải quan tâm
thường xuyên đến kết quả lao động. Vì vậy, thói lề mề, luộm thuộm, tùy tiện
phải dần bị loại bỏ. Con người buộc phải soát xét lại toàn bộ những hiểu biết
trước đây của mình, soát xét lại cách cảm nhận, cách suy nghĩ, cách sống,… cả
đến thói quen, tập quán, sở thích trước đây, để có thể thích nghi với điều kiện
tồn tại mới. Vì vậy, hiện đại hóa con người và văn hóa đã trở thành xu thế tất
yếu. Nền văn minh công nghiệp đòi hỏi con người Cần Thơ phải hội đủ những
phẩm chất cần thiết. Những phẩm chất đó là:
Về học vấn, người lao động phải có trình độ học vấn, tối thiểu là cấp
trung học phổ thông đối với vùng nông thôn và đại học đối với thành thị, để làm
chủ các phương tiện khoa học, công nghệ trong lao động và trong đời sống.
Ý thức và nhận thức chính trị, xã hội công nghiệp là xã hội công dân,
đòi hỏi mỗi người dân phải hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi công dân của
mình, nó khác xa với ý thức thần dân trong các xã hội tiền hiện đại.
Lối sống, trong xã hội hiện đại, khi cơ sở vật chất của xã hội đã phát
triển đủ điều kiện bảo đảm một đời sống trung lưu cho đa số người dân, khi
khoa học và công nghệ đã đi vào đời sống thường ngày của xã hội, thì việc
xây dựng một lối sống khoa học, lành mạnh phải được đặt ra. Những thói
quen, hủ tục có nguồn gốc từ sự nghèo đói và dốt nát trước đây, dần dần phải
được khắc phục; tư duy khoa học, tác phong công nghiệp dần dần được hình
thành, trước hết trong những người lao động.
Ý thức và tinh thần thực thi pháp luật, nhà nước pháp quyền là một đặc
trưng của xã hội hiện đại. Nó khác với các xã hội tiền hiện đại, khi mà con
người sống chỉ bằng dư luận, bằng các lệ làng và luật tục. Do sống lâu đời
trong xã hội nông nghiệp cổ truyền, nhân dân chưa có thói quen tôn trọng
pháp luật, thậm chí nhiều người còn xa lạ với các đạo luật đã ban hành. Trong
xã hội công dân, luật pháp là người bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
123
người dân, là người trọng tài phán xử những xung đột, mâu thuẫn giữa công
dân với nhau, giữa công dân với Nhà nước và các tổ chức xã hội khác.
Ý thức và trình độ thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ là nhu cầu thiết yếu của
con người. Trong xã hội hiện đại, do đời sống vật chất được nâng cao, điều
kiện và thời gian lao động được cải thiện, qua mạng lưới công nghệ thông tin
viễn thông, con người có dịp tiếp xúc nhiều với cái đẹp trong thiên nhiên và
trong nghệ thuật, năng lực và nhu cầu thẩm mỹ của người dân có điều kiện
phát triển. Sự phát triển các nhu cầu và năng lực thẩm mỹ trong mỗi con
người tạo điều kiện cho sự phát triển và hoàn thiện nhân cách - một dấu hiệu
quan trọng của sự phát triển xã hội.
Ý thức về sự bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, bước
vào văn minh công nghiệp, nhân loại đang chứng kiến một thảm họa: mối
quan hệ hài hòa giữa con người với xã hội, giữa con người với thiên nhiên bị
phá vỡ. Điều này xuất phát từ quan niệm sống có tính truyền thống của văn
minh phương Tây, coi con người là trung tâm của vũ trụ và chủ nghĩa cá
nhân trong lối sống. Các thiên tai và tệ nạn xã hội xuất hiện, đe dọa sự sống
trên trái đất. Bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội đang là khẩu
hiệu hành động của các quốc gia. Đó cũng là tiêu chí của con người hiện đại.
Có sức khỏe tốt, xã hội hiện đại đã giải phóng con người khỏi tình
trạng đói nghèo và dốt nát. Nguy cơ giảm thiểu tuổi thọ được khắc phục nhờ
điều kiện sống được cải thiện, các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe toàn dân
được mở rộng. Mặt khác, do trình độ học vấn được nâng cao, thời gian lao
động xã hội của người lao động được rút ngắn theo quy định của Nhà nước,
mỗi người đều có ý thức và trách nhiệm chăm sóc sức khỏe của bản thân. Các
hoạt động du lịch, giải trí, các buổi học tập theo chương trình dưỡng sinh, bảo
vệ môi trường… là các hoạt động ngày càng có nhiều người tham gia. Các
hoạt động đó ảnh hưởng tốt đến sức khỏe con người.
Những tiêu chí trên đã xuất hiện khá phổ biến trong đời sống cư dân ở
các quốc gia đã hiện đại hóa. Qua toàn cầu hóa, qua hội nhập kinh tế quốc tế,
124
những tiêu chí đó đang tác động đến đời sống nhân dân ta nói chung và Cần
Thơ nói riêng. Đó là những tiêu chí cần thiết để phát triển con người, phát
triển văn hóa. Tuy vậy, vấn đề không dừng lại ở đó, quá trình hiện đại hóa
văn hóa và con người lại đang diễn ra một cách cực kỳ phức tạp. Ở đây, cái
tốt, cái xấu đan xen nhau. Trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế toàn cầu,
người dân Cần Thơ có điều kiện tiếp cận với nhiều giá trị về văn hóa, khoa
học, giáo dục, nghệ thuật, về tổ chức đời sống xã hội và cách quản lý các vấn
đề kinh tế - xã hội ở nhiều nước tiên tiến. Nhưng, cùng với những giá trị đó,
những cái phản giá trị là sản phẩm của mặt trái kinh tế thị trường cũng đang
thâm nhập vào Cần Thơ dưới rất nhiều hình thức. Đó là chủ nghĩa cá nhân
cực đoan, là chủ nghĩa tiêu dùng vật chất, là sự sùng bái các hàng hóa vật
chất mà coi nhẹ lý tưởng, khát vọng, là hàng loạt các tội phạm quốc tế,…
Trước tình hình đó, cùng với việc giáo dục những phẩm chất mới của
con người hiện đại, phê phán và khắc phục các tàn dư lỗi thời của quá khứ,
cần có kế hoạch thường xuyên quan tâm giáo dục và phát huy các giá trị
truyền thống của dân tộc, coi đó là giá đỡ tinh thần cho việc hiện đại hóa con
người và văn hóa Cần Thơ. Chúng ta có một may mắn lớn mà không phải
dân tộc nào cũng có được - đó là những giá trị văn hóa Hồ Chí Minh, tư
tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh - một biểu tượng rực rỡ của văn hóa tương
lai mà loài người tiến bộ đang vươn tới. Phải coi việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức của Người là biện pháp cực kỳ hữu hiệu để hiện đại hóa văn
hóa và con người Cần Thơ.
Tóm lại, cần cù, sáng tạo là một đức tính đã hình thành qua quá trình
hoạt động thực tiễn giữa con người với môi trường thiên nhiên, xã hội.
Đức tính này đã được hình thành từ rất sớm và không ngừng được vun đắp,
phát huy trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Đó là một truyền thông
tốt đẹp quí báu, là nét đặc trưng của con người Việt Nam nói chung và Cần
Thơ nói riêng.
125
Bên cạnh truyền thống lao động cần cù, sáng tạo; trọng đạo nghĩa, lòng
nhân ái, khoan dung là truyền thống tốt đẹp của người Cần Thơ. Người Cần
Thơ rất trọng những người có đức, có tài, có công khai phá để lập nên làng ấp.
Mỗi làng đều có đền thờ “thành hoàng”, vị tiền hiền. Đối với người sống thì
kính trọng người già, bậc cao niên.
Truyền thống văn hóa ở Cần Thơ phát triển sinh động, phong phú
qua tính hiện đại
Cần Thơ có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa, với các tộc người cư
trú gồm: Kinh, Khmer, Hoa, mỗi dân tộc đều có truyền thống lịch sử văn hóa
riêng; trong quá trình khai hoang, lập ấp, họ đã góp phần làm nên sắc thái văn
hóa Cần Thơ giàu hương sắc hòa cùng vườn hoa văn hóa các dân tộc Việt
Nam. Khắp các làng quê của người Việt ở Cần Thơ đều có những ngôi chùa,
đình cổ kính, oai nghiêm, những di tích lịch sử - văn hóa luôn in đậm trong
tâm thức của mỗi người về những chiến công, về những sự tích lẫy lừng của
những người anh hùng có tên và không tên mãi còn lưu truyền trong dân gian
và đọng lại ở những câu truyện cổ, trong ca dao, tục ngữ, truyền thuyết…
Người dân Cần Thơ luôn tự hào với vốn văn hóa dân gian đặc sắc của mình,
với hệ thống các loại hình truyền thống văn hóa phong phú, độc đáo, tiêu biểu
như: dân ca, hò, vè, thơ, đờn ca tài tử, cải lương… phản ánh tâm hồn yêu cuộc
sống của nhân dân. Những giá trị truyền thống lịch sử và văn hóa ấy cần được
bảo tồn, phát triển.
Trên cơ sở quan điểm về sự thống nhất biện chứng giữa truyền thống và
hiện đại, việc khôi phục, giữ gìn và bảo quản, tôn tạo những di sản văn hóa vật
thể ở Cần Thơ đã được bảo tồn, phát triển một cách sinh động và phong phú
nhờ tính hiện đại. Nhân dân Cần Thơ coi những di sản văn hóa là những của
quý, vô giá mà ông cha để lại. Có thể tìm trong đó trí tuệ và tài năng, tâm hồn
và khí phách của ông cha từ những đình, chùa, lăng miếu, những công cụ sản
xuất, sản phẩm lao động, những tác phẩm khoa học, văn học nghệ thuật. Có
thể tìm ở đó cả cuộc sống của ông cha qua trường kỳ lịch sử, có thể lắng nghe
126
ở đây tiếng nói của ông cha, những bài học ứng xử, trong mọi hoàn cảnh đầy
gian nan thử thách. Chúng ta có thể khai thác từ trong đó một sức mạnh tinh
thần vô tận trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hôm nay.
Chùa Nam Nhã, là một ngôi chùa vừa trang nghiêm, cổ kính, mang một bề
dày lịch sử hào hùng của nhân dân Cần Thơ. Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, chùa Nam Nhã là cơ sở vững chắc cho phong trào Đông Du trong tỉnh (nay
là thành phố) do Nguyễn Thần Hiến lãnh đạo. Tháng 9 năm 1929, Đặc uỷ Hậu
Giang được thành lập do đồng chí Ung Văn Khiêm làm bí thư , đóng trụ sở tại
chợ Bình Thuỷ, chùa Nam Nhã được dùng làm nơi liên lạc giữa Đặc Uỷ Hậu
Giang và Xứ Uỷ Nam Kỳ. Ngoài ra, chùa còn là nơi lui tới của nhà cách mạng lỗi
lạc Ngô Gia Tự - Bí Thư cấp uỷ Lâm Thời Đảng Bộ Nam Kỳ. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ xâm lược, chùa Nam Nhã tiếp tục là chỗ dựa của các tổ chức yêu
nước, cách mạng. Chính vì vậy, Bộ Văn Hoá Thông tin đã ra quyết định công
nhận chùa Nam Nhã là di tích lịch sử cách mạng ngày 25/1/1991.
Xưa kia, chùa là nơi tu hành, là chỗ dựa tâm linh của những người theo
đạo Phật, cầu cho quốc thái, dân an, mưa thuận, gió hòa; luôn thể hiện tinh thần
nhân đạo và niềm tin vào thiện ác, xem vấn đề luân hồi, nhân quả là một quan
niệm nhân sinh. Ngày nay, bên cạnh việc tu hành, chùa còn là nơi sinh hoạt văn
hóa, thông qua các hoạt động văn hóa nhằm tuyên truyền, giáo dục, động viên tư
tưởng chính trị tín đồ và những người theo đạo, nhất là đồng bào Khmer, làm
cho mọi người thông hiểu và chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, tôn giáo, nêu
cao tinh thần vị tha, tính nhân đạo cao cả, nêu lên quan niệm về đạo đức nhằm
giáo dục con người hướng thiện, duy trì quan hệ tốt đẹp giữa con người với
thiên nhiên, giữa con người với nhau trong xã hội, ở từng giai đoạn lịch sử. Hiện
nay chùa Nam Nhã đã xuống cấp nghiêm trọng, cần đầu tư tôn tạo để chùa Nam
Nhã là nơi sinh hoạt tôn giáo và tổ chức nghi lễ của tín đồ Phật giáo.
Làng cổ Long Tuyền được coi là nơi hội tụ phong khí văn hóa, tượng
trưng cho vẻ đẹp sông nước miệt vườn. Một quần thể di tích từ đình Bình
127
Thuỷ, các chùa Hội Linh, Nam Nhã, Long Quang, mộ Thủ khoa Bùi Hữu
Nghĩa tới trụ sở An Nam Cộng sản Đảng, căn cứ Vườn mận, vườn cây trái dọc
lộ Vòng Cung sẽ nối liền với chợ nổi Phong Điền, mộ cử nhân Phan Văn Trị,
vườn Mỹ Khánh, chợ nổi Cái Răng… tạo thành tuyến du lịch hấp dẫn. Địa
hình Long Tuyền như biểu tượng thu nhỏ của vùng đồng bằng sông nước bao
la, tạo nên nền “văn minh sông nước miệt vườn” như bức tranh cực đẹp, xóm
làng trù phú oằn sai cây trái với những nếp nhà bình dị dọc hai bờ sông Bình
Thủy. Làng cổ Long Tuyền là địa linh nhân kiệt, là đất học lâu đời, đã sản sinh
ra danh sĩ yêu nước Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa (1807- 1872). Sự nghiệp thi ca
Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa chứa chan lòng yêu xứ sở và chí khí chống ngoại
xâm, độc đáo hơn hết là sự cống hiến quý giá của ông đã cải biên nghệ thuật
tuồng cung đình đương thời thành tuồng của dân gian, của dân miệt vườn lam
lũ, giàu tình nghĩa, khẳng khái đấu tranh cho chính nghĩa.
Phong khí văn hóa Long Tuyền là sự hòa quyện của đất, nước và con
người nơi đây; là sự nở hoa của quá khứ trong lòng hiện tại; là sự giao thoa
giữa truyền thống và hiện đại. Long Tuyền tuy tiếp xúc với nhiều nền văn hóa
Đông - Tây nhưng vẫn tạo ra, giữ gìn được bản sắc "văn minh miệt vườn sông
nước" rất riêng, rất độc đáo và đó chính là nội lực, là cội nguồn sức mạnh giúp
Long Tuyền đứng vững, phát triển trên vùng đất mới đầy biến động. Đến Long
Tuyền dù chỉ một lần, chúng ta sẽ khó quên về miền sông nước nên thơ đầy
quyến rũ. Qua quá trình vận động phát triển hàng trăm năm, Long Tuyền cổ
kính còn có vinh dự góp phần tạo nên thành phố trung tâm cả vùng châu thổ
Nam bộ hôm nay. Vì vậy, làng cổ Long Tuyền là một trong những khu di tích
lịch sử, văn hóa cần được bảo tồn và phát triển.
Chợ nổi, về văn hóa sông nước, đặc trưng nhất vẫn là các chợ nổi Cần
Thơ. Trong các chợ nổi ở Cần Thơ, điển hình nhất là chợ nổi Cái Răng. Chợ nổi
Cái Răng được hình thành khá lâu đời. Nét độc đáo và đặc điểm chính của chợ
nổi Cái Răng là chuyên buôn bán các loại trái cây, đặc sản của vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Chợ nổi hình thành được hình thành khá lâu đời - khi đường bộ
128
và phương tiện giao thông đường bộ chưa phát triển, trong khi đó nhu cầu mua
bán, trao đổi hàng hóa, người ta tụ tập trên sông và bằng các phương tiện như
xuồng ghe, tắc ráng… Ngày nay, dù mạng lưới giao thông đường bộ đã phát triển
rộng khắp nhưng chợ nổi vẫn tồn tại và phát triển ngày một sầm uất hơn, vì đây là
nét văn hóa đặc sắc của Cần Thơ. Do nhu cầu của người đi chợ nên không chỉ có
các xuồng trái cây, nông sản phẩm mà còn có nhiều loại dịch vụ khác, các ghe
hàng di động len lỏi phục vụ khách đi chợ và cả khách tham quan. Nếu như dân
địa phương và các vùng lân cận thường sử dụng các ghe, xuồng trung bình chở
các mặt hàng nông sản đến đây tiêu thụ thì những ghe bầu lớn là của các thương
lái thu mua trái cây tỏa đi khắp nơi, sang tận Campuchia và Trung Quốc. Hòa
mình vào không khí nhộn nhịp của buổi chợ, chúng ta có thể quan sát, tìm hiểu
sinh hoạt của nhiều gia đình thương hồ với nhiều thế hệ chung sống trên ghe. Trải
qua biết bao biến cố lịch sử của vùng đất Cần Thơ, chợ nổi không những không
mất đi mà luôn đổi mới để thích nghi và tồn tại. Ngày nay, cùng với sự phát triển
kinh tế - xã hội, chợ nổi đã được đầu tư phương tiện, đổi mới phương thức hoạt
động theo hướng hiện đại để tương xứng với sự phát triển của thành phố loại I
trực thuộc Trung ương và thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Chợ nổi Cái Răng không chỉ là một trong những điểm tham quan lý tưởng,
mà còn là một nét văn hóa rất đặc sắc của Cần Thơ, thu hút rất nhiều du khách,
đặc biệt là khách nước ngoài. Vì vậy, Chợ nổi Cái Răng, Cần Thơ đã đi vào thơ
ca dân gian:
Chợ đã nổi từ nửa đêm về sáng
Ta vẫn chìm từ giữa bữa hoàng hôn
Em treo bẹo Cái Răng Ba Láng
Ta thương hồ Vàm Xáng Cần Thơ
129
Chợ nổi Cái Răng, thành phố Cần Thơ
Từ những đặc điểm của chợ nổi đã nêu trên, chợ nổi Cái Răng cần được
bảo tồn và phát triển để nổi rõ nét văn hóa đặc trưng của Cần Thơ là “văn hóa
sông nước và văn minh miệt vườn”.
Làng nghề truyền thống cũng là nét văn hóa độc đáo của Cần Thơ.
Được mệnh danh là vùng đất phì nhiêu màu mỡ, sông ngòi chằng chịt, Cần
Thơ mỗi năm sản xuất ra hàng triệu tấn lương thực, trong đó nghề trồng lúa
nước đã phát triển rất lâu đời, đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của
cư dân. Song hành với sự phát triển của nền văn minh lúa nước, việc hình
thành các làng nghề cũng bắt đầu từ những nghề thủ công, chỉ sản xuất ra các
vật dụng chủ yếu phục vụ cho cuộc mưu sinh. Qua thời gian thăng trầm, có
những làng nghề bị mai một dần ở nơi này, nhưng lại được khôi phục ở nơi
khác. Nét văn hóa của các làng nghề vẫn mãi tồn tại, cuốn theo dòng chảy của
cư dân để rồi định hình và không ngừng phát triển.
Nghề thủ công xưa kia của cư dân Cần Thơ ban đầu chưa định hình thành
những làng nghề, chỉ là những nghề phụ trong lúc nông nhàn, sản xuất ra các vật
dụng thiết yếu phục vụ cho đời sống, sinh hoạt hằng ngày, gắn với điều kiện tự
nhiên về địa lý, môi trường của từng nơi. Theo thời gian, những nghề phụ đã thể
hiện được vai trò to lớn của mình, mang lại lợi ích thiết thực, như các vật dụng
130
từ mây, tre đan, nghề dệt vải, dệt chiếu, nghề chài lưới đánh bắt cá, tôm, nghề
nhào nặn đất sét để làm lò đun nấu, làm lu, khạp... phục vụ cho sinh hoạt hằng
ngày. Nghề rèn, đúc đồ sắt, đồ đồng sản xuất ra công cụ phục cho sản xuất, khai
hoang mở đất, dựng nhà cửa... Nghề phụ từ chỗ phục vụ nhu cầu riêng đã trở
thành hàng hóa mua bán, trao đổi, mang lại lợi ích kinh tế to lớn, đã làm thay
đổi tập quán sản xuất riêng lẻ; từ chỗ một vài gia đình làm, đến nhiều gia đình
khác cũng học làm theo, dần dần lan rộng, hình thành nên những làng nghề.
Cũng chính từ lợi ích kinh tế mang lại, cộng đồng dân cư từng bước xây dựng
nên những làng nghề chuyên sâu, sản xuất hàng hóa mang tính chuyên nghiệp
hơn, sản phẩm làm ra ngày càng tinh xảo mang nét đặc trưng, mà ngày nay nhìn
những sản phẩm ấy, ta có thể nhận biết được xuất xứ của chúng.
Hiện nay, Cần Thơ có hàng chục làng nghề nổi tiếng như Làng đan Lợp
Một làng nghề truyền thống ở Cần Thơ
Dì Tho, làng đan thúng, làng đan lưới Thơm Rơm, làng nắn lò đất sét Bà Rui,
làng làm bánh tráng Thuận Hưng,... với hàng vạn lao động có tay nghề cao,
trong đó có rất nhiều người được xem là nghệ nhân. Sản phẩm làm ra không
chỉ tiêu thụ nội địa, mà đã được khẳng định thị phần trên các thị trường quốc
tế. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm ra từ đôi tay của người thợ, đang được
khách nước ngoài rất ưa chuộng nhờ độ tinh xảo, tính thẩm mỹ... trên mỗi sản
131
phẩm còn thể hiện nét văn hóa riêng của từng làng nghề. Thương hiệu của
những sản phẩm đang góp phần quảng bá cho du lịch Cần Thơ, một hướng đi
để xây dựng thương hiệu vững mạnh trong quá trình hội nhập, mở ra sự giao
lưu văn hóa với nhiều nước trên thế giới. Cho thấy sự bảo tồn và phát huy văn
hóa truyền thống đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ trên lĩnh vực
văn hóa mà còn mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn, giúp cho việc giải quyết việc
làm, tạo thêm thu nhập cho người thợ thủ công có đời sống ổn định, góp phần
vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, vươn lên khá, giàu... đang là những đòi hỏi
người nghệ nhân, người thợ, các nhà quản lý, cần có một tầm nhìn chiến lược,
“thổi hồn” cho những sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề, ngày càng
đa dạng về mẫu mã, phong phú về tạo hình... để vừa phát triển làng nghề gắn
với phát triển du lịch, một giải pháp tốt nhất để bảo tồn và phát huy năng lực
của các làng nghề truyền thống.
Làng nghề mang đậm nét bản sắc văn hóa của Cần Thơ, cần được bảo
tồn, phát huy mạnh mẽ hơn nữa để làng nghề vươn cao hơn, xa hơn. Làng
nghề cần được quan tâm nhiều hơn của Nhà nước trong xây dựng thương hiệu,
có chính sách quảng bá tốt, gắn với việc phát triển hài hòa giữa du lịch và sản
phẩm du lịch, trong đó bản sắc văn hóa truyền thống phải giữ một vai trò đặc
biệt quan trọng, không bị thương mại hóa. Khuyến khích sự hợp tác giữa các
vùng, giữa các nghệ nhân. Đặc biệt quan tâm đến việc dạy nghề cho đội ngũ
lao động trẻ nắm bắt các kỹ thuật sản xuất truyền thống... Một giá trị không thể
thiếu của các làng nghề.
Vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của Cần Thơ
hiện nay là, đi đôi với việc bảo tồn và phát huy năng lực của các làng nghề
truyền thống, cần gắn kết với việc xây dựng một số ngành sản xuất, dịch vụ trở
thành ngành kinh tế đặc trưng, nổi bật của thành phố có lợi thế cạnh tranh như:
công nghệ phần mềm, dịch vụ y tế, tài chính, ngân hàng, công nghiệp phụ
trợ… Đẩy mạnh chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông thôn nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu ngành nghề
132
tạo sự phát triển vững chắc cho vùng ngoại thành; phát triển vùng nguyên liệu
tập trung phục vụ công nghiệp chế biến.
Trong hành vi ứng xử văn hóa, truyền thống của người Cần Thơ được
bảo tồn, phát triển một cách sinh động và phong phú nhờ tính hiện đại. Bước
vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, người dân Cần Thơ đang đối mặt
với nhiều khó khăn trong việc lựa chọn những giá trị mới vừa phù hợp truyền
thống của dân tộc vừa đáp ứng xu hướng phát triển của xã hội hiện đại, nhất là
việc lựa chọn hành vi ứng xử trong cuộc sống, trong học tập, công tác và các
mối quan hệ xã hội. Ứng xử như thế nào để được coi là người có văn hóa và
làm thế nào để hướng con người, nhất là giới trẻ tới ứng xử có văn hóa? Ðây là
vấn đề cấp thiết đặt ra, đòi hỏi người dân Cần Thơ cần có sự nhìn nhận nghiêm
túc và khách quan.
Theo quan điểm của nhiều nhà tâm lý học, văn học, ứng xử là một biểu
hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự tác động của người
khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện qua thái độ, hành
vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ
giữa con người với nhau. Xét trên bình diện nhân cách thì bản chất của ứng xử
chính là những đặc điểm tính cách của cá nhân được thể hiện qua thái độ, hành
vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những người chung quanh.
Hành vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con
người, được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con
người đối với bản thân, với những người chung quanh, trong công việc và môi
trường hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên, hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá
nhân là khác nhau, nó được hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và
trưởng thành của mỗi cá nhân trong xã hội. Hành vi ứng xử văn hóa của con
người, nhất là của giới trẻ Cần Thơ hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau, cần
có cái nhìn khách quan khi đề cập về vấn đề này. Có thể nói, tuổi trẻ ngày nay
phần đông là những con người năng động, có kiến thức rộng, sống có hoài bão
và lý tưởng, thể hiện trách nhiệm với xã hội, với chính bản thân mình, không
133
ngừng học hỏi vươn lên để dựng xây đất nước. Họ có những cách ứng xử tích
cực, phù hợp với truyền thống, đạo lý dân tộc. Trong nhiều kỳ thi Ô-lim-pích
các môn học, những giải thi đấu thể thao khu vực và quốc tế, nhiều bạn trẻ đã
nỗ lực vươn lên mang vinh quang về cho quê hương Cần Thơ.
Trái với hành vi ứng xử có văn hóa, hiện nay vẫn còn một bộ phận trong
giới trẻ ở Cần Thơ có những hành vi ứng xử thiếu văn hóa: không có ý chí
phấn đấu, sống buông thả, sa đà vào các tệ nạn xã hội: cờ bạc, ma túy, mại
dâm; hiện tượng các bạn trẻ, thậm chí là học sinh trung học phổ thông văng
tục, chửi thề; ngang nhiên vi phạm luật lệ giao thông; có thái độ không đúng
mực với người già; hành động thiếu văn hóa nơi công cộng... còn khá phổ
biến. Ðây hoàn toàn là những biểu hiện của nếp sống xa lạ, sai trái, đi ngược
với truyền thống văn hóa dân tộc. Vì vậy việc giáo dục hành vi ứng xử văn hóa
cho người dân Cần Thơ, nhất là giới trẻ cần được quan tâm đúng mức, với
những việc làm cụ thể và thiết thực để hướng giới trẻ có cách ứng xử văn hóa:
nêu gương những người tốt, việc tốt để làm chuyển biến nhận thức giới trẻ,
phát động các phong trào thi đua trong mọi lĩnh vực để hướng họ vào những
hành động có ích; ngoài ra còn sử dụng những tấm gương gần gũi như bạn bè,
người thân, những tấm gương điển hình cùng trang lứa để tác động lên nhận
thức, tình cảm và nhất là khơi gợi lòng tự trọng của họ; tổ chức các Diễn đàn
thanh niên nói về sống đẹp, sống có ích, sống có văn hóa... Đồng thời, cần có
sự quan tâm đúng mức, hướng dẫn, giúp đỡ và tháo gỡ những khó khăn từ gia
đình để điều chỉnh những hành vi ứng xử không đẹp nảy sinh trong quá trình
giới trẻ tham gia vào những quan hệ xã hội.
Các loại hình nghệ thuật, sân khấu ở Cần Thơ, tính truyền thống cũng
được bảo tồn, phát triển một cách sinh động và phong phú nhờ tính hiện đại
Cải lương ra đời cách đây gần một trăm năm. Ngay từ lúc mới ra
đời, cải lương đã chịu ảnh hưởng có tính chất quyết định của hai dòng sân
khấu: sân khấu tuồng truyền thống của Việt Nam và sân khấu kịch hiện đại
của Pháp. Sân khấu tuồng Việt Nam mang đặc trưng chung của sân khấu
134
Châu Á là cấu trúc kịch bản, vở diễn theo kiểu tự sự và sân khấu kịch Pháp
mang đặc trưng chung của sân khấu Châu Á là cấu trúc kịch bản. Vì vậy, cải
lương cũng đã có hai kiểu vở diễn rất khác nhau, nhưng cả hai lại có chung
một nguồn âm nhạc. Các bài bản âm nhạc của cải lương đậm chất dân tộc, có
đầy đủ để thể hiện tâm trạng nhân vật với tất cả các trạng thái khác nhau, tạo
điều kiện cho diễn viên ca hát kết hợp với diễn xuất dù biểu diễn theo kiểu
tuồng Việt Nam hay theo kiểu kịch Pháp.
Trong quá trình phát triển, các bài bản cải lương đã được bổ sung thêm
từ nguồn dân ca, hò, lý Nam bộ. Và khi tiếp cận, giao lưu với sân khấu kịch
hát Quảng Đông (Trung Quốc) và tân nhạc của phương Tây, cải lương cũng
đã chọn lọc một số bài bản, dân tộc hóa để làm giàu thêm vốn âm nhạc sẵn
có. Cùng lúc bổ sung thêm các bài bản, dàn nhạc dân tộc của cải lương đã
biết cách tiếp nhận các nhạc cụ hiện đại. Những cây đàn vi-ô-lông, măng-đô-
lin, ghi-ta của phương Tây được các nghệ sĩ Việt Nam sáng tạo để khi chơi
đàn, cung bậc và giai điệu phù hợp với dàn nhạc dân tộc đã có sẵn. Cho tới
nay, cây đàn ghi-ta phím lõm là nhạc cụ chính của cải lương và đã trở thành
cây đàn dân tộc của Việt Nam.
Một thời gian khá dài, hai kiểu biểu diễn trong hai loại vở diễn của cải
lương tồn tại gần như độc lập nhau và cuộc đấu tranh giữa việc giữ gìn bản sắc
dân tộc với việc phát triển hiện đại diễn ra chủ yếu trong lĩnh vực âm nhạc.
Những bài bản sẵn có của cải lương khó về nhạc lý, một số bị trùng lắp
cho nên các nghệ sĩ đã thu ngắn, giảm dần khi sử dụng trên sân khấu, đồng
thời để bù đắp, một số sáng tác mới đã ra đời. Sáng tác mới của các nghệ sĩ ít
hiểu biết về âm nhạc dân tộc dần dần đã làm cho âm nhạc cải lương phai nhạt
bản sắc. Ban đầu còn "tân, cổ giao duyên" nhưng theo thời gian nhạc tân đã
hoàn toàn lấn át nhạc cổ. Không còn hồn nhạc dân tộc, chỉ biết chạy theo cái
mới, nhiều vở diễn cải lương đã bị lai căng, mất gốc.
Các bài bản có sẵn của cải lương chính là sự định hình về âm nhạc.
Trong quá trình tiếp cận cái mới, không thể không căn cứ vào cái đã định
135
hình, cái đã tạo nên bản sắc dân tộc cho cải lương. Nhưng sự định hình này
không đồng nghĩa với sự cố định, bất di bất dịch vì cải lương đã chứng minh
rằng, các bài bản đó có thể thu ngắn, hoặc có thể từ đó phát triển thêm thành
những bài bản mới (như từ bài Dạ cổ hoài lang phát triển thành bài vọng cổ).
Và như vậy, âm nhạc cải lương đã tạo cho mình một khả năng đặc biệt. Đó là
vừa định hình, vừa phát triển. Nói cách khác, âm nhạc cải lương định hình để
phát triển và phát triển để định hình. Đó cũng chính là mối quan hệ giữa bản
sắc dân tộc và phát triển hiện đại của cải lương xét theo góc độ âm nhạc.
Không nhìn nhận và giải quyết mối quan hệ giữa định hình và phát triển của
âm nhạc, cải lương có tính biện chứng thì khó giữ được bản sắc dân tộc. Nếu
chỉ biết định hình cải lương không đáp ứng được với các yêu cầu mới của
thời đại và nếu chỉ biết phát triển hiện đại thì cải lương sẽ mất gốc, lai căng.
Từ những kinh nghiệm của âm nhạc cải lương đã nêu trên, những
người hoạt động sáng tạo cũng đã nhận ra mối quan hệ giữa truyền thống và
hiện đại khi viết kịch bản và xây dựng vở diễn cho loại hình cải lương. Kế
thừa sân khấu tuồng truyền thống Việt Nam, cải lương được cấu trúc kịch bản
theo kiểu tự sự, mở, thoáng. Trang trí, biểu diễn theo phong cách ước lệ,
tượng trưng tạo điều kiện để diễn viên phát huy tối đa các trình thức biểu diễn
kết hợp múa và hát.
Tiếp nhận sân khấu kịch Pháp, cải lương lại được cấu trúc kịch bản
theo kiểu khép, chặt. Trang trí, biểu diễn theo phong cách tả thực. Diễn viên
đi sâu vào khai thác nội tâm nhân vật phù hợp với các vai diễn khác trong hệ
thống hình tượng chung để làm rõ chủ đề của tác phẩm. Yếu tố múa không
được chú trọng ở dạng vở diễn này dù thể hiện đề tài cổ.
Ở hai kiểu cấu trúc tưởng chừng trái ngược nhau đó, cải lương lại tạo
được vùng giao thoa, tạo được cho mình một kiểu cấu trúc, mở thoáng của
tuồng cùng lúc với cấu trúc khép, chặt của kịch A-ri-xtốt. Được như vậy, vì
cải lương không chỉ kế thừa sân khấu tuồng truyền thống và tiếp nhận sân
khấu kịch hiện đại là hai thực thể độc lập như nhiều người đã làm, mà hai yếu
136
tố này còn được nhìn nhận và giải quyết như là hai mặt đối lập, tồn tại thống
nhất, biện chứng trong một tác phẩm. Và sự thống nhất biện chứng giữa hai
yếu tố kế thừa truyền thống của sân khấu tuồng và yếu tố tiếp nhận hiện đại
của sân khấu kịch sẽ tạo điều kiện cho sân khấu kịch, sân khấu cải lương luôn
luôn phát triển hiện đại mà vẫn giữ trong nó bản sắc của sân khấu dân tộc.
Theo quan niệm này, trong một tác phẩm (kịch bản, vở diễn) cải lương
luôn bao gồm hai yếu tố truyền thống và hiện đại tồn tại trong sự thống nhất
biện chứng và trong một tác phẩm âm nhạc cải lương luôn bao gồm hai yếu
tố định hình và phát triển tồn tại trong sự thống nhất biện chứng.
Có như vậy, trong quá trình phát triển cả về biểu diễn và âm nhạc, cải
lương luôn giữ trong mình tố chất dân tộc với bản sắc riêng. Và bản sắc dân
tộc có được bao nhiêu tùy thuộc vào bản lĩnh những người sáng tạo giải quyết
các mối quan hệ biện chứng đã được đề cập trong từng tác phẩm.
Khái quát lại, cải lương ra đời cách nay khá lâu và xuất hiện khá sớm ở
Cần Thơ. Cái tên cải lương được bắt nguồn từ hai câu liễn: "Cải cách hát ca
theo tiến bộ, Lương truyền tuồng tích sánh văn minh" đã khẳng định được ý
chí quyết tâm đổi mới, niềm tự cường dân tộc, sự sáng tạo của những người
xây dựng nên môn nghệ thuật này. Cải lương hiện nay có sự kế thừa cải
lương trước đây, nó đổi mới, phong phú nhờ tính hiện đại. Trong quá trình
phát triển, các bài bản cải lương đã được bổ sung thêm từ nguồn dân ca, hò,
lý Nam bộ; từ chỗ chỉ có ca cổ phát triển lên thành tân cổ giao duyên. Nội
dung từ tuồng tích đơn thuần, mang tính nhân bản và giá trị nhân đạo hàm
chứa trong hình tượng những nhân vật điển hình cần cù và giàu đức hi sinh,
nhân ái, vị tha với bà con, đồng bào và quyết liệt, khẳng khái, dũng mãnh
trước kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc... Ngày nay nội dung tuồng tích gắn
với việc tuyên truyền, giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, đã làm cho sắc điệu cải lương thêm gần gũi với cuộc sống
đương đại. Chính việc đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới phát sinh từ hiện
thực cuộc sống đã là động lực thúc đẩy việc phát triển, nâng cao trình độ sáng
137
tạo của các nghệ sĩ và đương nhiên, mặt bằng thẩm mỹ của nghệ thuật cải
lương cũng ngày càng được nâng cao hơn.
Đờn ca tài tử, đến nay chưa có một công trình khoa học nào được
nghiên cứu chính thức để xác định loại hình ca nhạc tài tử bắt đầu hình thành
từ lúc nào, nơi đâu là vùng đất sản sinh ra nó mà chỉ qua một số tài liệu, sách
báo được biết là phong trào ca nhạc tài tử có từ khoảng đầu thế kỷ XX trên
vùng đất Bến Nghé, Đồng Nai và về sau này, phong trào ca nhạc tài tử tập
trung nở rộ ở vùng sông nước miền Tây Nam bộ nói chung và Cần Thơ nói
riêng. Rất nhiều các nghệ sĩ, nhạc sĩ sân khấu cải lương, các danh ca, danh
cầm trong làng cổ nhạc đến nay còn lưu danh đã xuất thân từ phong trào ca
nhạc tài tử ở vùng quê sông nước hữu tình này. Nhạc tài tử được kế thừa, cải
biên và phát triển trên cái nền của nhạc lễ cung đình, từ cơ cấu dàn nhạc
(nhạc cụ) cũng như việc sử dụng bài bản âm nhạc. Ngoài ra, trong quá trình
hình thành và phát triển đó, nhạc tài tử từng bước được bổ sung thêm nhạc cụ
cũng như bài bản mới càng làm phong phú, đa dạng và hấp dẫn hơn loại hình
ca nhạc mang đậm bản sắc của vùng đất trù phú thấm đượm mồ hôi, nghị lực
và tâm hồn của cộng đồng người Việt ở Cần Thơ.
Theo các bậc lão thành trong làng ca nhạc tài tử - cải lương kể lại, Cần
Thơ là nơi tập trung nhiều nghệ sĩ tên tuổi được xếp vào hàng đầu của những
danh ca, danh cầm mà trong giới mộ điệu tài tử, cải lương trong cả nước đều
biết tiếng. Đó là các nghệ sĩ, những con chim đầu đàn của nền nghệ thuật sân
khấu cải lương mà ngay từ lúc mới khai sinh, tên tuổi của họ đã sáng chói, hầu
hết đều xuất thân từ phong trào ca nhạc tài tử, như: nghệ sĩ Bảy Nhiêu, đệ nhất
danh ca Út Trà Ôn (Trà Ôn xưa thuộc tỉnh Cần Thơ) một danh hiệu mà ngót
một phần hai thế kỷ ông đã được người đời phong tặng. Ông cũng được Nhà
nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân…
Gần ngót thế kỷ trôi qua, từ những giọng hò, hát dân ca, hát lý huê tình
đến những giọng ca tài tử rồi thành nghệ sĩ sân khấu cải lương, đất Cần Thơ
138
luôn là nơi xuất hiện nhiều nhân tài, các soạn giả, nhạc sĩ, danh ca, danh cầm
làm rạng danh truyền thống đất Tây Đô.
Đờn ca tài tử là bản sắc văn hóa của Cần Thơ
Ngay từ những ngày đầu mới hình thành phong trào ca nhạc tài tử đã
nhanh chóng phát triển rộng khắp đất Cần Thơ từ sông nước, ruộng đồng đến
vườn cây, bến chợ. Trong bối cảnh đất nước đắm chìm trong bóng đen nô lệ
dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, loại hình nghệ thuật dân tộc này
còn mang tính tự phát, dân hát để dân nghe. Các buổi ca nhạc tài tử thường
được tổ chức trong những đám tiệc: cưới, giỗ, mừng thọ, thỉnh thoảng trong cả
những đám tang… Khi khuya về, vắng khách, lúc công việc đám tiệc bộn bề
tạm xong chờ sáng… là đám đờn ca lại trỗi lên phục vụ mọi người. Hoặc sau
những ngày lao động đồng áng mệt nhọc, tối lại, họ tụ họp nhau đờn ca bên
tách trà, chung rượu. Thỉnh thoảng có việc hội hè đám tiệc lớn, các ban tài tử
các địa phương trong vùng hẹn hò nhau phối hợp đờn ca để trao đổi tay nghề,
đôi khi cũng ngầm ý so tài cao thấp trong ngón đàn, nhịp ca, bài nhiều, bản ít.
Những “cuộc chơi” như vậy thường thu hút đông đảo nhân dân đến xem, tán
thưởng! Sau những cuộc so tài, các nhóm trở về rèn luyện thêm tay đàn, giọng
hát chờ ngày gặp lại. Ngoài hình thức hoạt động kể trên, ca nhạc tài tử còn
được các nhà giàu, phú hộ, thầy thông, thầy phán, hội đồng gọi đến để đờn ca
phục vụ trong những cuộc dạ hội, liên hoan, thăng quan, tiến chức…
139
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, loại hình ca nhạc
tài tử được tham gia vào công cuộc cách mạng như một binh chủng trên mặt
trận văn hoá, văn nghệ. Các bài ca được sáng tác mới theo các làn điệu nhạc tài
tử nhằm động viên tinh thần yêu nước, chí quật cường, truyền thống lịch sử oai
hùng, gương chiến đấu dũng cảm quên mình, hy sinh của đồng bào chiến sĩ
được trình diễn có tổ chức trong các cuộc mitting, các ngày lễ lớn trên sân
khấu…Và cũng từ trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại này, phong trào ca nhạc
tài tử đã trở thành “lò đào tạo” đội ngũ soạn giả, ca sĩ, nhạc sĩ cổ nhạc để bổ
sung cho sân khấu cải lương ngày càng hùng hậu, phong phú và đa dạng hơn.
Ngày nay, mỗi xã, mỗi ấp của vùng nông thôn Cần Thơ đều hình thành
các nhóm ca nhạc tài tử. Mỗi huyện đều có đội thông tin lưu động mà bộ môn
ca cổ luôn là ưu thế mũi nhọn để đưa nội dung các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước đến với nhân dân một cách kịp thời. Đến thành phố Cần Thơ,
đi tới đâu chúng ta cũng bắt gặp những tụ điểm “hát với nhau”, “đờn ca tài tử”
ở từng khu phố, phường, xã; đặc biệt là vào ban đêm, những con thuyền văn
hoá chạy ngược xuôi trên dòng sông Hậu, với những bài ca vọng cổ đi vào
lòng người. Vì vậy, sân khấu cải lương, phong trào đờn ca tài tử là hoạt động
văn hóa hấp dẫn thu hút đông đảo người dân tham gia. Nếu như trước đây, nội
dung của bài ca tài tử được sáng tác nhằm động viên tinh thần yêu nước, chí
quật cường, truyền thống lịch sử oai hùng, gương chiến đấu dũng cảm quên
mình, hy sinh của đồng bào chiến sĩ; lên án bọn ngoại xâm, vạch mặt bọn tay
sai bán nước; thì ngày nay, loại hình đờn ca tài tử được hiện đại hóa, thông qua
những bài bản đờn cả tài tử nhằm tuyên truyền, giáo dục người dân chấp hành
tốt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, ca
ngợi tình yêu quê hương, đất nước, tuyên dương những gương người tốt, việc
tốt, phát động các phong trào hành động cách mạng ở địa phương; đồng thời
phê phán, lên án những cái xấu, cái tiêu cực trong đời sống xã hội, hướng con
người đến giá trị chân - thiện - mỹ.
140
Có thể khẳng định rằng phong trào ca cổ, đờn ca tài tử, hát với nhau là
loại hình nghệ thuật đặc sắc không những của thành phố Cần Thơ mà của cả
vùng Tây Nam bộ cần được bảo tồn, phát triển.
Giáo sư Trần Văn Khê nhận xét: “... chân phương hoa lá trong bài vọng
cổ đã được áp dụng một cách thần tình. Hoa chẳng những đẹp mà còn thơm.
Lá chẳng những xanh mà còn tươi. Thành ra bản Vọng cổ có cái tươi mát, cái
đẹp đẽ, có cái phong phú, cái dồi dào mà sức sống, sức đóng góp của tất cả
những người nghệ sĩ, từ đứa con của bác Sáu Lầu sáng tạo, nuôi dưỡng cho nó
lớn lên mạnh mẽ, nó đẹp đẽ...”.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá địa
phương đang được dấy lên ở hầu hết các miền quê, phố chợ. Ca nhạc tài tử
cũng như nhiều loại hình văn nghệ truyền thống xưa của đất Tây Đô đang ngày
được nâng niu, chăm sóc để truyền lại cho các thế hệ mai sau, để tự hào, tự tôn
trong thời kỳ mở cửa giao lưu, hội nhập với văn hóa bên ngoài.
2.2.2. Sự mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình
phát triển văn hóa ở Cần Thơ
Theo quan điểm của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, mâu thuẫn
“truyền thống và hiện đại” phát sinh, một khi tính chính thống đưa đến bảo thủ,
trở thành hàng rào cảng, trở thành hủ hóa. Ngược lại nếu hiện đại không đưa ra
được một nội dung có ý nghĩa cho cuộc sống văn hóa tiên tiến, nếu hiện đại làm
nghèo nội dung nhân bản của con người, hiện đại sẽ bị đào thải và loại bỏ ra
ngoài tính liên tục, không thể trở nên “truyền thống” cho tương lai.
Nhìn từ khía cạnh tính liên tục và tính nhất thể, mâu thuẫn “truyền thống
và hiện đại” trước hết là mâu thuẫn giữa hai hay nhiều thế hệ. Làm thế nào để
thế hệ đi sau chấp nhận và kế tục truyền thống văn hóa của người đi trước, để
truyền thống ấy có một ý nghĩa hiện đại và đóng góp vào sự phát triển xã hội?
Mỗi chặng đường, mỗi thế hệ trong hiện tại sẽ trở thành quá khứ cho tương lai,
văn hóa sống động hôm nay sẽ trở thành hôm qua của ngày mai. “Truyền
thống” do đó bao gồm phương thức thực hiện cho được sự chuyển tiếp sức
141
sống hiện đại cho thế hệ hiện tại và tương lai. Ðó là ý nghĩa sinh động của
truyền thống, chống lại mọi khuynh hướng rập khuôn, sao chép sáo rỗng cũng
như khuynh hướng bắt chước, lặp lại, tùy tiện sử dụng nhầm lẫn loại hàng phế
thải thay thế sản phẩm văn hóa đầu tay.
Mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn
hóa ở Cần Thơ được biểu hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân đối với vai trò của văn hóa, làm cản trở sự phát triển của cái mới, cái
hiện đại
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Cần Thơ trở thành thành phố văn minh,
hiện đại, xanh, sạch, đẹp, là thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông
Cửu Long, nhiều cấp uỷ đảng từ thành phố đến cơ sở, ngành, đơn vị và nhân
dân đã nhận thức đúng vị trí, vai trò của văn hóa; từ đó đã tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ, thường xuyên trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và quản lý nền văn
hóa trong thời kỳ mới. Nhận rõ tính phức tạp của hoạt động văn hóa trong điều
kiện cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế hiện nay, có nhiều chính
sách cụ thể, thiết thực để khuyến khích văn hóa phát triển. Nhờ vậy mà Cần
Thơ có nhiều đổi mới về mọi mặt, trong đó có việc xây dựng đời sống văn hóa.
Từ thành phố, quận, huyện đến các vùng nông thôn rộng lớn, đâu đâu cũng có
những hoạt động văn hóa sôi nổi, làm cho bộ mặt nông thôn không ngừng đổi
mới, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên.
Sự tụt hậu về nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân
đối với vai trò của văn hóa, làm cản trở sự phát triển của cái mới, cái hiện đại,
được biểu hiện: còn không ít cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên,
trong đó có cả cán bộ lãnh đạo chưa nhận thức đúng vai trò của văn hóa đối
với phát triển, cho rằng văn hóa là lĩnh vực đứng ngoài kinh tế, văn hóa là lĩnh
vực không sinh lợi; chưa thật sự coi trọng các giá trị văn hóa, chưa thấy tính
cấp bách của công tác văn hóa trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới đất nước; công
142
tác văn hóa còn xếp vào vị trí thứ yếu và chưa thật sự gắn kết hữu cơ với các
nhiệm vụ phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng, chỉnh
đốn đảng trên từng địa bàn. Thậm chí còn buông lỏng, khoán trắng cho ngành
văn hóa. Những biểu hiện hữu khuynh, cực đoan trong lãnh đạo, quản lý văn
hóa chưa được khắc phục. Từ đó làm cản trở sự phát triển của cái mới, cái hiện
đại, cản trở sự phát triển của thành phố, dẫn đến sự phát triển của văn hóa chưa
đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây
dựng và chỉnh đốn đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá
trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng đảng. Để khắc phục sự tụt hậu
này, đòi hỏi cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, cán bộ, đảng viên và nhân dân
Cần Thơ cần đổi mới nhận thức, cần nhận thức đúng đắn vai trò của văn hóa,
phải thật sự xem văn hóa là nguồn lực nội sinh của mọi sự phát triển, là cơ sở
cho sự phát triển lâu bền, toàn diện; văn hóa không chỉ gắn liền với kinh tế,
phát triển văn hóa không chỉ là điều kiện cho sự phát triển kinh tế, mà hơn thế,
phát triển văn hóa cùng với phát triển kinh tế đều phải hướng tới phát triển xã
hội, phát triển con người, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ công bằng, văn minh. Lịch sử phát triển xã hội chính là lịch sử hoạt động
của con người theo đuổi các mục đích của chính mình(C.Mác). Mục đích cao
nhất của loài người là xây dựng một xã hội văn hóa cao (Hồ Chí Minh). Văn
hóa là sức mạnh bản chất Người. Văn hóa vừa là những giá trị trừu tượng như
tinh hoa xã hội, tinh hoa dân tộc, thời đại, đồng thời nó cũng tồn tại cụ thể
trong mỗi con người, trong tập thể, trong một cộng đồng người. Mỗi cá nhân,
mỗi tập thể, mỗi cộng đồng là một chủ thể mang sức mạnh và tiềm năng văn
hoá. Cùng với hệ thống các giá trị phong phú, đa hình, đa dạng của văn hóa,
bằng trình độ và kỹ năng lao động sáng tạo của chính mình, các chủ thể mang
tiềm năng văn hóa đã và sẽ tạo ra các giá trị mới, làm nên sự giàu có mới cho
xã hội, thúc đẩy xã hội không ngừng đi lên.
Bản thân văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cộng đồng, dân
tộc được nâng lên thành các hệ giá trị truyền thống, thành chủ nghĩa yêu
143
nước, thành tinh thần nhân văn, thành ý chí và niềm tin, tạo nên sức sống
bất diệt của dân tộc và trở thành sức mạnh phát triển bên trong bền vững
của dân tộc, của đất nước. Các giá trị văn hóa cũng được nâng lên thành
thế giới nghệ thuật, nơi chứa đựng tâm tư, tình cảm, lý tưởng, khát vọng và
ý chí, tài năng của loài người, vạch hướng cho con người phấn đấu vươn
tới xã hội cao đẹp. Toàn bộ những cái đó chính là sức mạnh văn hóa biến
thành công cụ, vũ khí chiếm lĩnh thiên nhiên, cải tạo xã hội, sáng tạo ra thế
giới mới; làm nên xã hội hiện đại, sáng tạo ra một thế giới của tương lai,
mà con người cần phải có [35, 342]. Văn hóa chung của một dân tộc hóa
thân thành văn hóa lao động, nâng cao hiệu quả lao động, tạo ra những sản
phẩm lao động có chất lượng tốt với hàm lượng trí tuệ cao.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) chỉ rõ năm quan điểm
chỉ đạo cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa nước
ta là: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nền văn hóa mà chúng ta đang xây
dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam
là nền văn hóa thống nhất, đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng. Văn hóa là một mặt trận;
xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi
phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng”.
Có đổi mới nhận thức về văn hóa, nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm
quan trọng của văn hóa, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại
trong quá trình phát triển văn hóa, đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, các cấp
lãnh đạo của thành phố Cần Thơ mới đủ sức hoạch định đúng đắn đường lối
chiến lược phát triển thành phố, đề ra mục tiêu, phương hướng phát triển văn
hóa phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, với lý tưởng nhân văn, và
điều quan trọng hơn, nó là hiện thân của khoa học - nghệ thuật chính trị. Và
nếu chỉ dừng lại ở nhận thức thì chưa đủ, mà cần phải biến những nhận thức đó
144
thành hành động cụ thể của các cấp lãnh đạo thành phố Cần Thơ, đưa nội dung
văn hóa (phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa) vào
nghị quyết các kỳ đại hội đảng bộ các cấp; chương trình, kế hoạch phát triển
văn hóa hàng năm; đồng thời đầu tư đúng mức cho phát triển văn hóa, bảo đảm
cho thành phố Cần Thơ phát triển nhanh và bền vững.
Mâu thuẫn giữa bộ máy tổ chức, quản lý, mô hình, nội dung, phương
thức và các thiết chế văn hóa cũ với yêu cầu phát triển nền văn hóa mới ở
Cần Thơ
Theo báo cáo của Cục Thống kê thành phố Cần Thơ, dự báo đến năm
2015 dân số toàn thành phố khoảng 1,3 triệu người, trong đó dân số nội thành
khoảng 700 ngàn người. Lối sống của một bộ phận nông dân ở các quận,
huyện vừa chuyển đổi đơn vị hành chính chậm hòa nhập vào đời sống đô thị.
Vì vậy, những mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong gia đình, cộng
đồng là vấn đề cần phải giải quyết “theo lý, theo tình”. Hiện nay, một vấn đề
bức xúc đặt ra cho Cần Thơ là: đôi khi kinh tế phát triển, lại phát sinh mâu
thuẫn với việc bảo tồn các giá trị truyền thống. Cho nên công tác bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc (vật thể hoặc phi vật thể) ở Cần Thơ càng phức
tạp hơn, khi nhiều “giá trị cũ” nhanh chóng được thay thế theo đà sự phát triển
của đô thị hiện đại.
Một số mô hình, nội dung, phương thức hoạt động văn hóa và phong
trào xây dựng đời sống văn hóa truyền thống hàng chục năm qua ở Cần Thơ sẽ
không còn phù hợp, đòi hỏi phải có sự sáng tạo, chuyển đổi nhịp nhàng với
trào lưu mới của một thành phố công nghiệp, thương mại, dịch vụ tiến dần đến
sự hội nhập vào nếp sống văn minh đô thị, đời sống thị dân, công nhân, trí
thức, doanh nhân...v.v.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, ngành văn hóa thông tin của cả nước nói
chung và Cần Thơ nói riêng vừa có thêm những điều kiện thuận lợi mới, vừa
phải đối phó với những thách thức, khó khăn mới. Làm thế nào để văn hóa
cũng sẵn sàng hội nhập và theo kịp bước phát triển của kinh tế, nếu không sự
145
phát triển sẽ mất cân đối, Cần Thơ sẽ không theo kịp đà phát triển chung của
cả nước và các nước trên thế giới.
Nhìn vào thực trạng ngành văn hóa thông tin thành phố Cần Thơ hiện
nay, các đơn vị sự nghiệp vẫn chưa đủ điều kiện và chưa sẵn sàng cho bước
chuyển đổi sang đơn vị cung ứng dịch vụ. Điều này phản ánh tư tưởng còn
nặng bao cấp, sự thụ động trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức của
ngành văn hóa thông tin Cần Thơ. Đối với đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp
duy nhất ở Cần Thơ là đoàn cải lương Tây Đô vẫn còn bế tắc trong phương
hướng bảo tồn và phát triển nghệ thuật cải lương. Hoạt động của đơn vị nghệ
thuật này thụ động, đơn điệu, thiếu tính sáng tạo nghệ thuật. Như vậy, trong
tương lai Cần Thơ xây dựng nhà hát nghệ thuật tổng hợp, nhất định khó khăn
sẽ nhiều hơn.
Theo Chương trình phát triển văn hóa đến năm 2015 của Sở Văn hóa -
Thể thao - Du lịch thành phố Cần Thơ, dự báo tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực
của ngành văn hóa thông tin hiện nay và khả năng trong một tương lai gần khó
đáp ứng nhu cầu phát triển sự nghiệp văn hóa của thành phố. Đáng chú ý là sự
thiếu hụt các dạng loại cán bộ, chuyên gia có tầm nhìn, có tư duy mới, có năng
lực tổ chức thực hiện, có trình độ phát hiện và tổng kết thực tiễn. Đây là những
loại cán bộ có tính đặc thù, chưa có trường nào đào tạo.
Hệ thống thiết chế văn hóa của thành phố còn nhiều bất cập, sau khi
chia tách tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ trực thuộc
Trung ương; nhiều quận, huyện mới ra đời nhưng thành phố chưa xây dựng
kịp thời cơ sở vật chất, trang thiết bị. Trong những năm qua, chỉ có 1/8 quận,
huyện có cơ sở “Trung tâm văn hóa”; 2/8 đơn vị có xe thông tin, 2 thuyền văn
hóa trước đây không còn sử dụng được. Mặt khác, dự án “trung tâm văn hóa
Tây Đô”, bao gồm cả các cơ sở mới như thư viện, nhà hát… đã triển khai
nhưng chưa thể bảo đảm thời gian nào sẽ xây dựng, hoàn thành. Trong khi đó,
thực tế tình hình đang đòi hỏi phải nhanh chóng mở rộng các hoạt động, đáp
ứng nhu cầu xã hội.
146
Mâu thuẫn giữa một số phong tục tập quán và các hình thức sinh
hoạt văn hóa tinh thần (lễ hội, tôn giáo… ) lạc hậu, lỗi thời với yêu cầu phát
triển mới của nền văn hóa ở Cần Thơ. Sự mâu thuẫn giữa truyền thống và
hiện đại trong văn hóa chính là các biểu hiện của phong tục, tập quán lạc hậu,
lỗi thời làm cản trở sự phát triển xã hội mới.
Trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, nhờ sự kết hợp biện
chứng giữa truyền thống và hiện đại; trong đó truyền thống là cơ sở, là tiền đề,
của hiện đại; còn hiện đại là sự kế thừa, phát triển nâng cao truyền thống mà
văn hóa Cần Thơ đã đạt được những những kết quả đáng tự hào: các phong
trào hành động cách mạng đã được thực hiện tốt, nhận thức chính trị tư tưởng,
đạo đức và lối sống trong đảng và xã hội có những chuyển biến tích cực. Các
biểu hiện tiêu cực, yếu kém, thoái hoá, biến chất trong đảng được ngăn chặn;
những giá trị văn hoá, phẩm chất đạo đức mới được xã hội đề cao, thể hiện ở
bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật, niềm tin vào sự lãnh
đạo của đảng được củng cố; tâm trạng hoài nghi, bàng quan về chính trị bị đẩy
lùi; trong đó, những đức tính của con người Cần Thơ được chú ý xây dựng phù
hợp với những chuẩn mực xã hội trong thời kỳ mới, làm thay đổi những tập
quán lạc hậu lâu đời, hình thành nếp nghĩ, nếp sống có văn hóa hơn, chống lại
ảnh hưởng của văn hóa phẩm độc hại, lối sống lai căng, thực dụng; bảo vệ và
giữ gìn một cách tốt nhất các giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, văn
hóa địa phương. Cán bộ, đảng viên năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
gắn bó với dân và được dân tin tưởng, tín nhiệm.
Mâu thuẫn giữa một số phong tục tập quán và các hình thức sinh hoạt
văn hóa tinh thần (lễ hội, tôn giáo… ) lạc hậu, lỗi thời với yêu cầu phát triển
mới của nền văn hóa ở Cần Thơ được biểu hiện cụ thể trên các mặt: những tập
tục, những yếu tố lạc hậu, phản tiến bộ; tục lệ cưới xin, ăn uống linh đình đang
quay trở lại với nhiều mức độ khác nhau; hủ tục về ma chay còn tồn tại khá
nặng nề ở một số nơi. Trong lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng - tôn giáo cũng đang
bị lợi dụng, làm cho nạn mê tín dị đoan tăng lên, niềm tin và đạo lý bị xói mòn.
147
Cần Thơ đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ thì những phố cổ, nhà cổ là
di sản văn hóa truyền thống và nếu hôm nay để mất đi, vài chục năm sau thế hệ
hậu sinh lại phải phục hồi như bài học của các nước phát triển đã từng mắc
phải. Thế nhưng từ góc độ người dân sống trong nhà cổ, phố cổ, việc giữ lại
nhà cổ của họ luôn mâu thuẫn với nguyện vọng được sống trong những ngôi
nhà cao tầng, rộng rãi, thoáng mát. Sự phát triển của đô thị chắc chắn dẫn đến
giảm đáng kể đất nông nghiệp, vậy “tình làng nghĩa xóm” của nông thôn xưa
sẽ có nhiều thay đổi khi xã thành phường, huyện thành quận, người nông dân
từ giã cày cuốc để thành thị dân. Trong văn hóa nghệ thuật cũng không ít ý
kiến bàn về truyền thống và hiện đại. Người bảo nên giữ những loại hình
truyền thống như đờn ca tài tử hoặc cải lương như một dạng bảo tàng và sân
khấu hiện đại chịu trách nhiệm những vấn đề phản ánh hiện tại.
Kinh tế Cần Thơ phát triển với tốc độ khá nhanh, đời sống nhân
dân ngày được nâng cao, nhưng văn hóa phát triển chưa tương xứng với
kinh tế; là thành phố trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long, nhưng
chưa có tác phẩm văn học nào đủ tầm cỡ để phản ánh hiện thực đầy sôi
động này. Những làng nghề truyền thống của Cần Thơ quả là niềm tự hào
của cả người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng nghề truyền
thống đang có nguy cơ mai một dần khi mà kinh tế thị trường với những
vật dụng làm ra từ máy móc hiện đại, giá rẻ có thể bóp chết hàng thủ
công được sinh ra trực tiếp từ bàn tay khéo léo của con người để mỗi sản
phẩm mang một dáng vẻ riêng (gốm mỹ nghệ, may thêu...). Rõ ràng là Cần
Thơ có rất nhiều mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong lĩnh vực văn
hóa cần giải quyết.
Thời gian qua, đã có nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm về mối quan hệ giữa
truyền thống và hiện đại, nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề liên quan đến truyền
thống văn hóa và hiện đại với những mâu thuẫn cần giải quyết, cần tiếp tục
thảo luận thêm. Chẳng hạn như quan hệ trong gia đình hiện nay như quan hệ
cha con, ông cháu, vợ chồng, dâu con cũng là quan hệ không đơn giản khi lớp
148
trẻ, người phụ nữ hôm nay tham gia công tác xã hội nhiều hơn và quan niệm
ứng xử của các thành viên trong gia đình cũng khác trước. Giữ nguyên những
ứng xử truyền thống hay hiện đại, tiên tiến cho phù hợp với thời đại? Vấn đề
này cần được nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan: quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đã và đang tạo ra những áp lực lớn đối với mưu sinh
và tồn tại của các tầng lớp dân cư. Nhu cầu làm giàu, nhu cầu phát triển công
việc là chính đáng, song nó cũng có mặt trái là làm thu hẹp quỹ thời gian cá
nhân, cuốn con người vào vòng xoáy của đồng tiền và lối sống thực dụng, làm
rạn nứt tình cảm gia đình, cộng đồng làng xã vốn được xem là những mối quan
hệ điển hình và đặc trưng của xã hội truyền thống Cần Thơ. Cường độ giao
tiếp của con người không còn bị giới hạn trong phạm vi gia đình mà hướng ra
ngoài xã hội với những biểu đồ quan hệ chằng chịt, phức tạp dựa trên chức
năng nghề nghiệp và vai trò xã hội. Trong điều kiện đó, việc giáo dục con cái
hiện nay không giống như trong xã hội truyền thống. Nhiều ý kiến cho rằng
giáo dục con cái bây giờ khó hơn trước đây nhiều. Trong một xã hội "mở" như
hiện nay, cha mẹ cần phải liên tục thích nghi để có phương pháp giáo dục con
cái phù hợp. Sự hỗ trợ của những dịch vụ xã hội và phát triển khoa học kỹ
thuật đã đem lại cho con người cuộc sống thoải mái và tiện nghi hơn nhưng
ảnh hưởng và tác động của nó trong việc suy giảm và tăng cường đời sống sinh
hoạt gia đình là không nhỏ. Quan hệ gia đình vốn được đặc trưng bởi quan hệ
tình cảm, trực tiếp nay đã và đang có xu hướng trở thành quan hệ gián tiếp và
lỏng lẻo hơn. Bên cạnh những tác động tích cực như nâng cao đời sống sinh
hoạt gia đình, giảm bớt gánh nặng cho người phụ nữ và tạo được sự độc lập, tự
chủ mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình thì sự eo hẹp về thời gian,
sự phát triển của các loại hình dịch vụ xã hội đang đe dọa những giá trị truyền
thống và ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của gia đình.
Như vậy, rõ ràng quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa không chỉ đơn
thuần là quá trình tăng trưởng về lượng mà cả một sự thay đổi về chất đang
diễn ra và tác động trực tiếp và gián tiếp đến đời sống sinh hoạt gia đình.
149
Trong bối cảnh đó, mỗi thành viên trong gia đình cần có ý thức về thời gian
dành cho gia đình, đặc biệt là thời gian cha mẹ dành cho con cái.
Chuyện tâm linh cũng là một khía cạnh văn hóa. Nhiều người cho rằng
chuyện tâm linh là vớ vẩn khi khoa học kỹ thuật hôm nay có thể giải thích
được mọi hiện tượng, nhưng cũng có người cho rằng chưa biết thần thánh có
thật hay không nhưng khi con người biết sợ những đấng vô hình thì khi dù
không ai biết cũng không dám làm những việc trái với lương tâm, trái với đạo
lý, bởi người không biết nhưng trời biết, đất biết, và lưới trời lồng lộng, mọi
hành vi tội ác đều phải trả giá.
Ngoài các mâu thuẫn vừa nêu trên, truyền thống và hiện đại trong văn
hóa ở Cần Thơ còn có những mâu thuẫn sau:
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng phổ biến và
mang đậm bản sắc dân tộc, là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa phi
vật thể, làm giàu và phát huy giá trị nền văn hóa dân tộc. Lễ hội phản ánh
những sinh hoạt, những khát vọng cùng tài năng của nhân dân về nhiều mặt
của đời sống, đồng thời thông qua lễ hội, trí tuệ, đạo lý, tình cảm, khuynh
hướng thẩm mỹ của nhân dân được nâng lên.
Những năm qua khi Cần Thơ chuyển mình mạnh mẽ trong tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đời sống vật chất và
tinh thần của đại bộ phận nhân dân được nâng cao, do đó tham gia lễ hội đã trở
thành một nhu cầu chính đáng, có ý nghĩa lớn. Nhu cầu tổ chức lễ hội đã lan
tỏa ở hầu hết các địa phương trong thành phố như: năm du lịch quốc gia
Mêkong - Cần Thơ, với chủ đề “Miệt vườn sông nước Cửu Long; “Cần Thơ -
Đêm hội hoa đăng”; “Tuần văn hóa Việt Nam - Nhật Bản”; Festival thủy sản
Việt Nam - Cần Thơ. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội có nhiều chuyển biến
theo hướng tích cực: vừa giữ gìn, phát triển những nét đẹp văn hóa truyền
thống, vừa kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố hiện đại, phát huy được tác
dụng tích cực của lễ hội, nêu cao ý nghĩa giáo dục truyền thống. Lễ hội đáp
ứng một cách hiện thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân
150
trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội, bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa của các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer, tri ân công đức các anh
hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các bậc tiền bối đã có công dựng nước và
giữ nước, đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua sinh hoạt lễ hội nhân dân được
hưởng thụ và sáng tạo văn hóa. Việc tổ chức có hiệu quả các hoạt động lễ
hội còn có tác dụng khai thác tiềm năng du lịch, tạo nguồn thu lớn bổ sung cho
nguồn thu ngân sách thành phố. Lễ hội cũng góp phần tích cực trong việc giao
lưu với các nền văn hóa trong khu vực và thế giới.
Sự mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong lễ hội chính là sự
mâu thuẫn giữa những mặt tích cực vừa được trình bày ở phần trên và
những mặt tiêu cực của nó, đó là: không ít những hiện tượng thiếu lành
mạnh xuất hiện tại một số lễ hội như mua bán lấn chiếm lòng lề đường,
nâng giá dịch vụ tùy tiện, ăn xin, trộm cắp... và điều đáng lo ngại nhất là
sự phai mờ, xói mòn những giá trị, bản sắc của các lễ hội truyền thống. Ở
đây thách thức cơ bản không chỉ là những tác động tiêu cực của nền kinh
tế thị trường mà còn ở sự chuyển đổi các giá trị. Trong khi trước đây các
giá trị tinh thần và yêu cầu thực hiện nếp sống văn minh văn hóa trong lễ
hội được coi trọng thì hiện nay đã xuất hiện tư tưởng trục lợi, thương mại
hóa hoạt động dịch vụ phục vụ lễ hội, làm cho các giá trị vật chất lấn át giá
trị văn hóa truyền thống và đạo đức.
Việc phát triển loại hình lễ hội du lịch là một xu thế tất yếu, nhưng
do chưa dự báo kịp thời, chưa có sự quan tâm đúng mức, đầu tư đồng bộ
và thiếu tính toán khoa học dẫn đến phá vỡ cảnh quan thiên nhiên và các
giá trị vốn có của các di tích. Trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở
cơ sở hiện nay, kế thừa truyền thống tinh hoa văn hóa dân tộc là yêu cầu
tất yếu, song việc kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống phải có chọn
lọc, có phê phán và có sự sáng tạo riêng.
Do đó, việc bảo tồn, kế thừa và phát huy giá trị của lễ hội là một vấn đề
đặt ra mang tính cấp bách và có nhiều ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Ðể
151
công tác tổ chức lễ hội ngày càng đạt được hiệu quả cao, cần chú trọng công
tác tuyên truyền các giá trị lịch sử văn hóa và tôn vinh công trạng của danh
nhân được thờ để nhân dân hiểu rõ giá trị của di tích cũng như những quy định
của pháp luật có liên quan, kịp thời uốn nắn các biểu hiện lệch lạc, đẩy mạnh
tuyên truyền và thực hiện nếp sống văn hóa trong lễ hội, làm cho lễ hội ngày
càng văn minh, thật sự trở thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần tích
cực vào sự phát triển kinh tế - văn hóa của địa phương. Trước khi mở hội, phải
có sự tính toán cân nhắc kỹ lưỡng, có kế hoạch chi tiết, cụ thể. Mỗi lễ hội mới
cần xây dựng một kịch bản phù hợp gắn với chủ đề riêng của lễ hội.
Việc tổ chức lễ hội là vấn đề cần được khảo cứu và nghiên cứu kỹ lưỡng
và có các bước thể nghiệm để định hình được các nghi thức lễ và các hoạt
động hội. Chính quyền địa phương các cấp cần quản lý chặt chẽ việc quy
hoạch sắp xếp các hàng quán, dịch vụ vui chơi giải trí hợp lý, tạo điều kiện để
nhân dân địa phương có thêm thu nhập nhưng vẫn bảo đảm tính văn hóa trong
các hoạt động dịch vụ, không tạo kẽ hở nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, làm
mất đi bản sắc văn hóa và ý nghĩa, tốt đẹp của lễ hội.
Hoạt động Lễ hội ở thành phố Cần Thơ
Khai thác nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân, đóng góp cho việc giữ gìn
di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể liên quan đến lễ hội; khuyến
khích sự sáng tạo của nhân dân trong các hoạt động văn hóa lễ hội. Khuyến
152
khích các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, nhất là kiều
bào ta ở nước ngoài đầu tư tôn tạo các di tích và tham gia hoạt động tổ chức lễ
hội để hướng đồng bào về với nguồn cội, tổ tiên. Sử dụng nguồn thu từ lễ hội
đúng mục đích, phục vụ tốt công tác bảo tồn di tích và hoạt động lễ hội.
Cần chú ý bảo tồn có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc
trong lễ hội, loại bỏ dần các yếu tố lạc hậu, xây dựng thêm các tiêu chí văn hóa
mới phù hợp. Tiến hành rà soát phân loại lễ hội, tăng cường công tác quản lý,
nghiên cứu để việc tổ chức lễ hội, ngày càng khoa học, có ý nghĩa. Phục hồi
những trò chơi dân gian truyền thống, coi trọng tính đặc thù, độc đáo của mỗi
loại hình lễ hội, tránh cào bằng đồng loạt dẫn đến sự nhàm chán trong hoạt
động và sinh hoạt lễ hội. Khôi phục, giữ lại nét riêng của mỗi lễ hội, gắn với
truyền thống của mỗi địa phương trong thành phố.
Về tôn giáo, hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo,
Đảng bộ và chính quyền Cần Thơ đã xác định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, trong tôn giáo có những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn
hóa và luôn tạo điều kiện cho tôn giáo hoạt động. Theo quan điểm của các
nhà khoa học, các giáo lý tôn giáo đều chứa đựng một số giá trị đạo đức nhân
bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức mới và nhân cách con người.
Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn
thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ. Tuy
nhiên, đạo đức tôn giáo cũng còn nhiều yếu tố tiêu cực, nó hướng con người
đến hạnh phúc hư ảo và làm mất tính chủ động, sáng tạo của con người. Vấn
đề đặt ra là, cần nhận điện đúng vai trò của đạo đức tôn giáo nhằm phát huy
những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và hạn chế những tác động tiêu cực của nó
đối với việc hoàn thiện nhân cách con người hiện nay.
Mâu thuẫn trong tôn giáo được thể hiện ở tính tích cực và tiêu cực của
đạo đức tôn giáo đối với cuộc sống hiện thực.
Về những ảnh hưởng tích cực của đạo đức tôn giáo, do tôn giáo có sự
đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể xem nó như một
153
phần tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát triển, lan truyền trên
bình điện thế giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con
người, mà còn có vai trò chuyển tải, hoà nhập văn hóa và văn minh, góp
phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời
sống tinh thần của con người. Với tư cách một bộ phận của ý thức hệ, tôn giáo
đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc
những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập
quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần.
Điều dễ nhận thấy là, những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác
nhau về niềm tin, rất xa nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung
khuyên con người làm việc thiện thiện. Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức
tôn giáo là, ngoài những điều phù hợp với tình cảm đạo đức của nhân dân, nó
được thực hiện thông qua tình cảm tín ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do đó,
tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng
bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng.
Họat động hướng thiện của con người được tôn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ
hơn, nhiệt thành hơn. Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới
hiện thực, tôn giáo đã góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ
những điều răn dạy về đạo đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng
xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày càng thuần khiết.
Đặc biệt, đạo đức tôn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái
siêu nhiên (Thượng đế, Chúa, Thánh Ala) và sau này, Đức Phật cũng được
thiêng hóa, nên các tín đồ thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện, tự giác.
Song, suy cho cùng, việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức ấy
cũng là để phục vụ cho niềm tin siêu nhiên. Sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi,
giữa cái thực và cái thiêng đã mang lại cho tôn giáo khả năng thuyết phục tín
đồ khá mạnh mẽ. Trên thực tế, chúng ta thấy nhiều người hiến rất nhiều tiền
của vào việc xây dựng chùa chiền, làm từ thiện... vốn là những tín đồ tôn giáo.
Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích
154
cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cập đến
tình yêu. Tinh thần "từ bi" trong Phật giáo không chỉ hướng đến con người, mà
còn đến cả muôn vật, cỏ cây; Phật giáo kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thương và
bảo vệ sự sống. Đặc biệt, trong quan hệ giữa con người với con người, Phật
giáo muốn tình yêu thương ấy phải biến thành hành động "bố thí", cứu giúp
những người đau khổ hoặc "nhẫn nhục” để giữ gìn đoàn kết.
Muốn giải thóat khỏi đau khổ, con người phải tự hoàn thiện đạo đức
cá nhân, diệt trừ tham, sân, si, xoá bỏ vô minh, chặt đứt cây "nghiệp" để
vượt qua biển khổ luân hồi. Đạo đức của Kitô giáo cũng đề cập đến tình
yêu: yêu thương bản thân mình, yêu tha nhân và yêu thiên nhiên, trong đó,
yêu tha nhân là trọng tâm của quan niệm đạo đức về tình yêu. Những
chuẩn mực của đạo đức Kitô giáo giúp con người hoàn thiện đạo đức cá
nhân trong quan hệ với cộng đồng. Tình yêu tha nhân ở đây không đơn
thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ đói ăn, cho
kẻ rách mặc, chăm sóc người ốm đau, bệnh hoạn, khuyên can người lầm
lỗi... Tóm lại, đây là những hành vi đạo đức rất cụ thể, rất thiết thực khi
trong xã hội còn nhiều cảnh khổ cần được cứu vớt, giúp đỡ.
Về những ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức tôn giáo. Về bản chất, chúng
ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là thế giới quan tiêu cực. Một
khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân và quần chúng
chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực,
đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích
thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý
sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính
làm điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên
đường của Chúa hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời
là nơi đầy những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những cạm bẫy, những cái ác,
những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa
và trở về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa qủy dữ. Muốn chứng
155
được Niết bàn (đạt đến giải thoát), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham muốn
dục vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết lý sống
đó cho thấy mặt tiêu cực của thế giới quan tôn giáo.
Về mặt nào đó, đạo đức tôn giáo đã tạo cho con người thế giới quan và
nhân sinh quan hư ảo, làm hạn chế tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con
người. Đạo đức tôn giáo hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, song đó là
thứ hạnh phúc hư ảo, hão huyền. Tinh thần nhẫn nhục mà các tôn giáo đề ra
thể hiện thái độ cực đoan, thủ tiêu đấu tranh. Nó tạo cho các tín đồ thái độ
bàng quan trước thế giới hiện thực, bằng lòng với số phận, không tích cực đấu
tranh chống lại những cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong niềm tin
rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu "quả báo" hoặc bị trừng trị ở kiếp sau. Chính
tâm lý đó đã ngăn cản con người đi đến hạnh phúc thực sự của mình nơi trần
thế. Thêm nữa, đạo đức tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá
nhân nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã hội của con người. Với tính cách
một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có quá
trình phát sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của con
người. Do vậy, muốn hoàn thiện đạo đức cá nhân, không thể tách nó khỏi
những điều kiện sinh họat vật chất cùng các quan hệ xã hội khác của con
người. C. Mác đã khẳng định rằng, "bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội" và nhân cách con người cũng chỉ có thể được hoàn thiện trong
các mối quan hệ xã hội ấy.
Như trên đã phân tích, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tích cực, phù hợp
với xã hội ta hiện nay. Song, cũng sẽ là không khoa học, nếu chúng ta tuyệt đối
hóa đạo đức tôn giáo, thổi phồng vai trò của nó. Ph.Ăngghen từng khẳng định
rằng: ngay cả một số yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo cũng chỉ giống với
đạo đức mới của chúng ta về mặt hình thức mà thôi. Vì vậy, mặc dù tôn giáo
"là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn của hiện thực" nhưng rốt cuộc nó
vẫn chỉ là một sự phản kháng mang tính tiêu cực, thụ động của con người. Có
thể nói, trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo để
156
khẳng định một cách khách quan, khoa học những đóng góp, đồng thời chỉ ra
những ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội là điều cần thiết.
Chúng ta hy vọng rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những chuẩn mực
đạo đức tiến bộ trong tôn giáo sẽ góp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức
của dân tộc và hữu ích trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
Từ những vấn đề vừa trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, trong
những chuyển biến hiện nay, những mặt tiêu cực và hạn chế trong di sản
truyền thống đang tồn tại trong cuộc sống và con người, trở thành những trở
lực cho bước đi lên của Cần Thơ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, dưới dạng những tư tưởng, tình cảm, thói quen, tập tục… lỗi
thời, bảo thủ. Cuộc đấu tranh để khắc phục, biến đổi, xóa bỏ những truyền
thống tiêu cực đó không đơn giản và chắc chắn là lâu dài.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Cần Thơ là vùng đất mới so với các vùng khác, nhưng Cần Thơ đã
trải qua một thời kỳ tồn tại và phát triển đã để lại cho người dân ở đây
những di sản văn hóa vô cùng quý giá. Ở đây có vấn đề bảo tồn di sản văn
hóa và khai thác di sản ấy. Đã có một thời kỳ mà người dân chưa thấy hết ý
nghĩa quan trọng của những di sản văn hóa này. Có rất nhiều đền, miếu, nhà
thờ, công trình kiến trúc bị coi thường, phó mặc cho sự huỷ diệt của thời
gian cũng như sự phá phách của những người thiếu văn hóa.
Đảng ta đã kịp thời chấn chỉnh những hiện tượng này. Tại Tây Đô,
trong vòng mấy thập kỷ gần đây, Đảng bộ và chính quyền thành phố đã luôn
luôn quan tâm hướng dẫn các cấp quận, phường trách nhiệm giữ gìn và tôn
tạo những di sản ấy, cả di sản vật thể và phi vật thể. Nhiều phong tục tập
quán tốt đẹp đã bị coi thường hoặc xóa bỏ, nay được khôi phục lại.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công nghiệp hóa
và hiện đại hóa gắn liền với đô thị hóa. Đô thị hóa là một sự chuyển biến
từ cuộc sống nông thôn sang cuộc sống đô thị. Trong xã hội nông nghiệp
157
từ thời xưa, lối sống nông thôn và lối sống đô thị không khác nhau là bao
nhiêu. Từ ngày thực dân xâm chiếm nước ta, Cần Thơ cùng với cả nước
bước đầu biến đổi thích hợp với nhu cầu phát triển về công nghiệp và
thương nghiệp của chủ nghĩa thực dân. Nhà cửa, phương tiện đi lại được
xây dựng đã khiến cho cuộc sống ngày một khác biệt giữa nông thôn và
thành thị. Đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, kinh tế thị trường được phát
triển, lại càng nhanh chóng thay đổi bộ mặt của thành phố. Trong thập kỷ
qua, bao nhiêu ngôi nhà nhiều tầng được xây dựng đầy rẫy trong nội
thành và ngoại thành. Bao nhiêu người đã từ nông thôn ra làm ăn ở thành
phố, tiếp lối sống của thành phố. Ngược lại, sinh hoạt của thành phố cũng
dần dần lan tỏa ra nông thôn. Đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng ở cả
thành phố và ở cả nông thôn.
Ảnh hưởng qua lại giữa nông thôn và thành thị đã góp phần xóa bỏ
nhiều phong tục tập quán đã lỗi thời của nông thôn, nhưng lại làm nảy
sinh và phát triển những nhược điểm của văn hóa đô thị. Người nông dân
vào thành phố tiếp thu những cung cách sinh hoạt của thành phố trong
nhà ở, trong quần áo, trong ăn uống. Lối sống ở nông thôn với truyền
thống gắn bó giữa người và người, trong nhà, trong họ, trong thôn xóm và
làng xã đã từng có xu hướng mất dần đi trong hoàn cảnh sinh hoạt ở
thành phố, là nơi thiếu sự gắn bó chặt chẽ giữa người với người. Trước sự
tẻ nhạt dần trong quan hệ giữa người và người ở thành phố, mọi người
cảm thấy nhu cầu củng cố lại những quan hệ cần thiết giữa người và
người, những tập quán tốt đẹp trong phạm vi gia đình, trong sinh hoạt xã
hội như ngày giỗ, ngày Tết.
Khôi phục, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa càng là một yêu cầu
cấp thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Toàn cầu hóa đang là một
xu thế tất yếu của lịch sử. Nó đã tạo ra sự giao lưu và hòa nhập giữa các
dân tộc trên mọi mặt kinh tế, chính trị và văn hóa.
158
Sự hòa nhập này vừa là một thuận lợi để nhân dân ta tiếp thu được
những nhân tố tích cực và tiến bộ từ những thành tựu mới của nhân loại,
đồng thời cũng tạo ra nguy cơ là bỏ mất những điều tốt đẹp trong di sản
văn hóa dân tộc và tiếp thu những nhân tố độc hại, phá vỡ bản sắc dân tộc
của chúng ta. Chính vì những lẽ trên mà thái độ khoa học, tiên tiến và
sáng suốt đối với di sản văn hóa dân tộc đang là một yêu cầu cấp thiết của
toàn thể nhân dân ta ở cả nước và ở Cần Thơ.
159
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở
CẦN THƠ TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA,
THỰC TRẠNG VĂN HÓA Ở CẦN THƠ
3.1.1. Khái quát những đặc điểm chủ yếu của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập
của nhân dân, tạo tiền đề để giải quyết các vấn đề chính trị và xã hội của đất
nước, đưa nước ta tiến lên văn minh, hiện đại, đến năm 2020 phấn đấu đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại. Đối với Cần Thơ, quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện trên các mặt như sau:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ là quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế,
xã hội từ sử dụng lao động thủ công sang lao động bằng máy móc, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Cần Thơ được tiến hành đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực: nông nghiệp,
nông thôn, công nghiệp, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội. Quá trình đó đã làm
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Kinh tế nông nghiệp, nông thôn
phát triển và đang từng bước chuyển dịch nhanh theo hướng nông nghiệp công
nghệ cao, hình thành vùng nguyên liệu sản xuất hàng hóa chất lượng cao. Đã có
160
gần 60% diện tích đất nông nghiệp chuyển đổi cơ cấu sản xuất; tỷ lệ áp dụng cơ
giới hóa trong nông nghiệp ngày càng tăng, việc ứng dụng công nghệ sinh học,
kỹ thuật canh tác tiến bộ… đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa. Tính đến tháng 11/2010, giá trị sản xuất toàn
ngành ước đạt 4.107 tỷ đồng. Diện tích gieo trồng lúa cả năm 208.555 ha, sản
lượng ước đạt 1,213 triệu tấn, tăng 6,6% so với năm 2009. Diện tích nuôi trồng
thủy sản 12.550 ha, sản lượng thủy sản đạt 168.310 tấn10. (Giai đoạn 2005 -
2010, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 5,3%/năm; năng suất, chất
lượng, hiệu quả tăng gấp 2,5 lần so với năm 2005).
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn không
ngừng phát triển. Các doanh nghiệp đã đầu tư trang thiết bị hiện đại, cải tiến kỹ
thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhiều sản phẩm đủ sức cạnh tranh thị
trường trong và ngoài nước. Cần Thơ huy động được nhiều nguồn lực phát triển
công nghiệp, đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng của khu vực công nghiệp
ngoài nhà nước, tăng bình quân gần 20%/năm (giai đoạn 2005 - 2010). Các sản
phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra nhiều giá trị gia tăng, thu hút
nhiều lao động như: thủy, hải sản, gạo, hàng may mặc, giày da…
Trong lĩnh vực dịch vụ, Cần Thơ đã từng bước hình thành các loại dịch
vụ cao cấp như: tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin,
du lịch, thị trường bất động sản… Bên cạnh đó, mạng lưới cơ sở hạ tầng dịch vụ
thương mại được đầu tư phát triển, hệ thống siêu thị (Co-op mart, Metro
Cash…), các chợ nông thôn, trung tâm thương mại được mở rộng. Vận tải
đường thủy, đường bộ, hàng không bắt đầu nhộn nhịp, sân bay Cần Thơ, cầu
Cần Thơ, cảng Cái Cui… đưa vào sử dụng bước đầu phát huy hiệu quả.
Nhờ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa mà đến nay nền kinh tế Cần
Thơ có bước phát triển vượt bậc: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên 15%
năm. Thu nhập bình quân đầu người 36,82 triệu đồng (theo giá thực tế), tương
đương 1.959 USD, tăng 1.575 USD so với năm 2005. Huy động các nguồn vốn 10. Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2010 của thành ủy Cần Thơ.
161
đầu tư toàn xã hội trên địa bàn đạt trên 85.000 tỷ đồng, tăng 4,5% so với giai
đoạn 2001 - 2005 (tốc độ tăng bình quân gần 30%/năm)11. Văn hóa - xã hội
chuyển biến tích cực, an sinh xã hội được đảm bảo, đào tạo nguồn nhân lực, xóa
đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ với mục đích xây dựng Cần
Thơ thành thành phố trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long
Những năm gần đây, nhất là từ khi trở thành thành phố trực thuộc
Trung ương, Cần Thơ tăng tốc xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, với nhiều
công trình, dự án chiến lược của thành phố và Trung ương đầu tư trên địa
bàn đã đưa vào sử dụng như: sân bay Cần Thơ (giai đoạn I), cầu Cần Thơ,
Quốc lộ IA, Trung tâm điện lực Ô Môn, khu đô thị mới Nam Cần thơ, xây
dựng bến cảng nước sâu Cái Cui, khu công nghiệp Hưng Phú I, II, đại lộ
Nam sông Hậu dự án nâng cấp đô thị giai đoạn I… Một số công trình, dự
án quan trọng khác đang trong quá trình hoàn tất như: nâng cấp trường đại
học Cần Thơ thành trường đại học trọng điểm quốc gia; nâng cấp, xây
dựng Trung tâm kỹ thuật - ứng dụng công nghệ; nâng cấp, xây dựng phòng
thí nghiệm công nghệ sinh học; nâng cấp, mở rộng cụm cảng Cần Thơ; nhà
máy lọc dầu công suất 02 triệu tấn/năm… là tiền đề tốt đẹp cho tương lai,
khẳng định tính chất “trung tâm khu vực”.
Cần Thơ tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng các khu, cụm, tuyến công
nghiệp. Trên địa bàn thành phố hiện có 04/08 khu công nghiệp tập trung,
với diện tích 775 ha. Đến nay, có 187 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng
ký trên 1,6 tỷ USD, tổng vốn thực hiện trên 540,68 triệu USD đạt 34% tổng
vốn đăng ký (trong đó, có 25 dự án FDI với vốn đầu tư 668,67 triệu USD);
có 138/187 dự án đưa vào hoạt động, chiếm 73,8% dự án đăng ký đầu tư,
thu hút 32.268 lao động. Các trung tâm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở
11. Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Cần Thơ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015.
162
các quận, huyện tuy mới được triển khai nhưng đã thu hút nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ đăng ký thuê đất đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh12.
Trường Đại học Cần Thơ, nơi đào tạo nguồn nhân lực cho thành phố Cần Thơ
và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
Với vai trò là trung tâm của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Cần
Thơ quyết tâm dồn sức xây dựng nền công nghiệp của thành phố phát triển
theo cơ cấu mới, hình thành mạng lưới công nghiệp trên cơ sở đa dạng hóa
về quy mô và hình thức sở hữu; phát triển đồng bộ mạng lưới các khu, cụm
công nghiệp, khu công nghiệp công nghệ cao và kết cấu hạ tầng tầng có
liên quan. Các ngành, nghề sẽ được quy hoạch phát triển hợp lý, phân bố
phù hợp với nguồn lực, lợi thế và cơ hội thị trường nhằm nâng cao hàm
lượng khoa học, công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa hóa trong sản phẩm
công nghiệp. Đi đôi với việc xây dựng các cụm công nghiệp, khu công
nghiệp công nghệ cao, Cần Thơ chú trọng đầu tư dự án thoát nước và xử lý
nước thải với công nghệ tiên tiến để xử lý các chất thải đô thị (nước thải,
rác thải sinh hoạt, rác thải y tế…) và các chất thải công nghiệp để hạn chế
đến mức thấp nhất sự ô nhiễm môi trường, nhất là nguồn nước sông Hậu,
bảo đảm mọi điều kiện để Cần Thơ phát triển bền vững.
12. Trích Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Cần Thơ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015.
163
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tích cực
Cơ cấu kinh tế của Cần Thơ đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hóa - hiện đại hóa một cách rõ rệt. Khu vực I: 17,05% của năm 2006, giảm
xuống còn 10,71% năm 2010; khu vực II: 39,03% của năm 2006, tăng lên
44,03% năm 2010 và khu vực III: 43,92% của năm 2006, tăng lên 45,26%
năm 201013.
Cơ cấu kinh tế phát triển, kéo theo kết cấu xã hội biến đổi, tầng lớp
trung nông, tiểu chủ phát triển, đã trở thành lực lượng trung tâm ở nông
thôn và động lực thúc đẩy sự chuyển dịch nền kinh tế. Quan hệ sản xuất
được đổi mới một cách cơ bản theo hướng xây dựng nền nông nghiệp hàng
hóa với nhiều thành phần kinh tế tham gia, phát huy mạnh mẽ vai trò của
kinh tế hộ; đổi mới kinh tế hợp tác và hợp tác xã; doanh nghiệp nhà nước
chi phối những khâu then chốt; doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh trong
tất cả các lĩnh vực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường góp phần thúc đẩy sản
xuất phát triển và nâng cao đời sống cho dân cư nông thôn. Đời sống đa số
nông dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị ở cơ sở từng bước được
tăng cường, dân chủ ở nông thôn được mở rộng và phát huy tốt hơn; an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội
Trong suốt chiều dài lịch sử, Cần Thơ luôn đặt con người vào vị trí trung
tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu
của sự phát triển. Đề cao quyền con người và quyền làm chủ của nhân dân. Phát
huy nhân tố con người và phát triển nguồn nhân lực gắn với phát triển giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ. Tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung năm đức tính 13. Trích Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015. Khu vực I: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản; khu vực II: công nghiệp - xây dựng; khu vực III: thương mại - dịch vụ.
164
của con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Thực hiện chiến lược quốc gia về
nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng con
người Cần Thơ.
Thực hiện nhất quán quan điểm đó, kinh tế và đời sống của nhân dân phát
triển, xã hội nông thôn không ngừng đổi mới, đời sống tinh thần của nhân dân
từng bước được nâng lên. Đến nay, thành phố Cần Thơ có gần 100% số hộ có
máy nghe nhìn; 100% xã, phường, thị trấn có mạng lưới điện quốc gia. Trường
học, trạm xá ngày một khang trang hơn, bảo đảm cho trẻ em trong độ tuổi đến
trường; công tác khám chữa bệnh, phòng chống dịch bệnh ngày một tốt hơn.
Giải quyết việc làm, giảm nghèo, thực hiện các chính sách an sinh xã hội đạt kết
quả tích cực: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 -
2010 lồng ghép với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm
được triển khai thực hiện khá tốt, (giải quyết việc làm tăng bình quân
10,8%/năm, đào tạo nghề tăng bình quân 3,3%/năm, nâng tỷ lệ lao động được
đào tạo nghề năm 2010 lên 42%), giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 10,46% năm 2005
xuống còn 4,7% vào năm 2010 (trên 16.500 hộ). Các hoạt động đền ơn đáp
nghĩa, hỗ trợ các gia đình chính sách, vùng bị thiên tai, bão, lũ được quan tâm
thực hiện (5 năm qua, xây dựng gần 700 căn nhà tình nghĩa, trên 5.200 căn nhà
tình thương cho các đối tượng chính sách và người nghèo). Phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu; đến
năm 2010, toàn thành phố có 38/85 xã, phường, thị trấn và 88% hộ gia đình đạt
tiêu chuẩn văn hóa14. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển đều
khắp trên địa bàn thành phố; tỷ lệ người tham gia tập luyện thể thao thường
xuyên đạt 24,2% dân số15. Đời sống kinh tế và dân trí phát triển từng bước tạo
công bằng và tiến bộ xã hội và là cơ sở vững chắc cho sự ổn định chính trị. Theo
đó, đời sống văn hóa ở nông thôn cũng có bước phát triển mới.
14 . Trích Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015. 15 . Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2010 của thành ủy Cần Thơ.
165
Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần Thơ có một số
vấn đề đặt ra, cần phải tập trung giải quyết như: biến đổi cơ cấu lao động nông
thôn, lực lượng lao động trong nông nghiệp, một số chuyển sang các ngành
công nghiệp, số còn lại dôi dư ngày càng nhiều, họ sẽ “tha phương cầu thực”,
một số đi vào con đường tội phạm, không ít người kết hôn với người nước
ngoài… nếu không có giải pháp mở rộng ngành nghề nông thôn, xã hội phải
gánh nặng hậu quả vô cùng lớn.
Sản lượng nông sản hàng hóa (lúa gạo, cây ăn quả, thuỷ sản) tăng nhanh,
nhưng sức tiêu thụ kém, giá cả bấp bênh, trong khi giá vật tư tăng vọt, làm cho
sản xuất nông nghiệp (cả chăn nuôi và trồng trọt) gặp khó khăn, kiềm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các
tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn ngày càng doãng ra; phần lớn các
hộ nghèo thuộc diện gia đình chính sách và dân tộc Khmer, vì đời sống khó
khăn nên con cái bị thất học. Đây không chỉ là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề
xã hội, chính trị, vấn đề chính sách lớn ở nông thôn Cần Thơ hiện nay.
Vấn đề bức xúc hiện nay là tổ chức lại sản xuất, xây dựng hệ thống sản
xuất nông nghiệp ở nông thôn: kinh tế nông hộ - kinh tế hợp tác - kinh tế nhà
nước thành kết cấu, tạo điều kiện hình thành lực lượng sản xuất mới, cơ sở, vật
chất cho xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp và tiến bộ trong nông nghiệp. Đó là
cơ sở, điều kiện để xây dựng nền văn hóa mới ở nông thôn.
3.1.2. Thực trạng văn hóa ở Cần Thơ
Trong xu hướng phát triển mới, về khách quan, trong những năm qua các
lĩnh vực hoạt động văn hóa được sự quan tâm đầu tư nhiều hơn từ lãnh đạo
thành phố. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XI đề ra
mục tiêu xây dựng văn hóa là: “làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư,
từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế
thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài
người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn
hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hôi và sinh hoạt của nhân dân.…”.
166
Đó là những “căn cứ chính trị” và “căn cứ pháp lý” hết sức quan trọng, chẳng
những tác động chung cho điều kiện đi lên của cả thành phố, mà còn làm chỗ
dựa vững chắc thúc đẩy sự nghiệp văn hóa phát triển trong tương lai.
Trên cơ sở những quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát
triển văn hóa của Đảng bộ thành phố Cần Thơ, trong những năm qua, nhiều
cấp uỷ từ thành phố đến cơ sở, ngành, đơn vị và nhân dân đã quán triệt và thực
hiện nghiêm túc 5 quan điểm chỉ đạo và 10 nhiệm vụ văn hóa, tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ, thường xuyên trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và quản lý nền
văn hóa trong thời kỳ mới. Nhận rõ tính phức tạp của hoạt động văn hóa trong
điều kiện cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế hiện nay, có nhiều
chính sách cụ thể, thiết thực để khuyến khích văn hóa phát triển. Nhờ vậy mà
văn hóa Cần Thơ đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, thể hiện trên các
mặt như sau:
Về trình độ dân trí, những năm gần đây, trình độ dân trí của người
dân Cần Thơ được nâng lên một bước đáng kể. Ngành giáo dục không
ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, nội
dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa” giáo dục của thành phố. Với phương châm “nhà nước và nhân dân
cùng làm”, đã huy động được các tầng lớp nhân dân tham gia đầu tư xây
dựng, nâng cấp, sửa chữa cơ sở vật chất trường học và trang thiết bị phục vụ
cho dạy và học, cơ bản đã xoá được phòng học ca 3. Đã hoàn thành phổ cập
trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tỷ lệ huy động học sinh đến trường
trong độ tuổi đạt kế hoạch đã đề ra. Trật tự kỷ cương trong nhà trường có
nhiều chuyển biến tích cực; giáo dục đạo đức cho học sinh được tăng
cường, bước đầu ngăn chặn sự thâm nhập của các tệ nạn xã hội. Trình độ
dân trí, chuyên môn kỹ thuật được nâng lên rõ rệt; số công nhân kỹ thuật,
cán bộ có trình độ Cao đẳng và Đại học phát triển khá. Chủ trương xã hội
hoá giáo dục - đào tạo đạt kết quả bước đầu, biểu hiện rõ nhất là trong vận
167
động học sinh đến trường, chống bỏ học, giúp đỡ học sinh nghèo, khuyến
khích tài năng, hỗ trợ kinh phí cho học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Mặt hạn chế về trình độ dân trí của thành phố Cần Thơ là: mặt bằng dân
trí của thành phố còn thấp; chỉ số phát triển giáo dục và đào tạo còn hạn chế, các
phong trào mũi nhọn thiếu tập trung và phát triển chậm. Chất lượng và hiệu quả
giáo dục và đào tạo còn bất cập giữa phổ thông, chuyên nghiệp dạy nghề; chất
lượng giáo dục chưa đồng đều giữa thành thị và nông thôn. Việc phân luồng học
sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở còn khó khăn, kết quả chưa đạt yêu cầu.
Còn không ít mặt yếu kém, bất cập trong quản lý việc dạy thêm và học thêm, tổ
chức thi cử, cấp bằng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học có chiều hướng
phát triển tốt nhưng chưa đáp ứng mục tiêu yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa;
nhiều trường chưa có nhà công vụ. Tình trạng học sinh bỏ học ở bậc trung học
khá nhiều là điều đáng quan tâm. Chưa khai thác đúng mức tiềm năng các
nguồn lực xã hội và còn khoảng cách so với định hướng, mục tiêu về đẩy mạnh
xã hội hóa giáo dục.
Xây dựng con người mới, việc xây dựng con người Cần Thơ theo tiêu
chuẩn nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
(khoá VIII) là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh trong xã hội. Các
hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật đã có nhiều tiến bộ
trong việc thực hiện chức năng bồi dưỡng nhân tố con người.
Hầu hết các quận, huyện, xã, phường, các giới đều tiến hành cuộc vận
động xây dựng con người Cần Thơ hiện đại trong thời kỳ đổi mới là: trí tuệ -
năng động - nhân ái - hào hiệp - thanh lịch. Ngành giáo dục có phong trào “Thi
đua hai tốt”, “Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”; ngành y tế với phong trào
“Phục vụ nhân dân theo 12 điều y đức”; công an học tập “6 điều Bác Hồ dạy”;
người cao tuổi có “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo”; thanh niên
có “Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước”; công nhân viên chức có “Lao
động giỏi - lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; phụ nữ có phong
trào “Người phụ nữ mới năng động, sáng tạo, tích cực hoạt động, quan tâm đến
168
xã hội, cộng đồng”. Các cuộc vận động trên là một bộ phận trong phong trào
rộng lớn “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, đáp ứng nguyện vọng
của mọi tầng lớp nên được nhân dân đồng tình, tích cực tham gia.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được khẳng định là
nền tảng tư tưởng của toàn xã hội. Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc
được phát huy. Ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, chủ động vươn lên lập thân,
lập nghiệp, phấn đấu đưa bản thân, quê hương Cần Thơ từng bước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu được phát triển trong đại đa số quần chúng. Tính năng động
và tính tích cực xã hội của các công dân, năng lực cá nhân được khuyến khích
phát triển. Tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ dám làm ngày càng thể hiện rõ
hơn trong sản xuất, kinh doanh, nhất là trong thế hệ trẻ.
Một số vấn đề đáng quan tâm trong việc xây dựng con người mới ở Cần
Thơ là: tình trạng xuống cấp về lối sống, đạo đức của một số cá nhân ở mọi lứa
tuổi, mọi tầng lớp xã hội chưa được ngăn chặn có hiệu quả, nhiều mặt còn diễn
biến phức tạp và trầm trọng hơn, trở thành sự bức xúc, lo lắng, thậm chí bất bình
trong xã hội. Đặc biệt, một bộ phận người dân Cần Thơ chưa nhận thức đúng vị
trí, vai trò của giáo dục, từ đó không quan tâm đến việc học của con em mình,
tình trạng bỏ học của học sinh ngày càng gia tăng; từ đó dẫn đến trình độ dân trí
của thành phố thấp. Việc giáo dục lý tưởng, lẽ sống cho thanh niên chưa thường
xuyên, hiệu quả hạn chế. Còn lúng túng trong tiếp thu, kế thừa các giá trị tinh
hoa văn hóa dân tộc cũng như của thế giới trong việc giáo dục, bồi dưỡng con
người. Xu hướng thực dụng, chạy theo lối sống hưởng thụ có chiều hướng gia
tăng đang tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ và
nhân dân.
Về văn hóa pháp luật, một điều không thể phủ nhận, ngày nay đời sống
của các tầng lớp nhân dân Cần Thơ đang được nâng cao, đi cùng với nó là sự
nâng lên của trình độ tri thức, nhận thức nói chung và nhận thức pháp luật nói
riêng. Nhân dân ngày càng quan tâm hơn đến pháp luật, ý thức chấp hành, thực
hiện pháp luật có những tiến bộ rõ rệt. Họ đã tiếp thu khá nhiệt tình, tích cực sự
169
tuyên truyền pháp luật từ phía các cơ quan, ban ngành cũng như hưởng ứng
nhiệt tình các cuộc vận động pháp luật. Vì vậy, nhân dân đã nhận thức sâu sắc
hơn hành vi của mình để có thể thực hiện tốt hơn những quy định của pháp luật.
Đây là nét đẹp văn hóa của người dân Cần Thơ.
Mặt hạn chế của văn hóa pháp luật là: trình độ nhận thức pháp luật, kiến
thức pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân, đặc biệt là
thanh thiếu niên còn thấp. Một số người tham gia pháp luật mà không biết những
quy định của pháp luật mặc dù nó rất gần gũi, phổ biến trong cuộc sống. Ví dụ,
trên địa bàn thành phố, số lượng phương tiện giao thông đang tăng nhanh, số
người tham gia giao thông đường bộ ngày càng nhiều, nhưng điều đáng buồn là
rất nhiều trong số đó không biết luật giao thông đường bộ quy định bao nhiêu tuổi
được phép điều khiển xe máy, khi tham gia giao thông bằng xe máy cần phải có
những giấy tờ gì… Từ đó dẫn đến số vụ vi phạm pháp luật của người dân Cần
Thơ vẫn còn nhiều. Các hành vi vi phạm pháp luật của nhân dân đa dạng: hình
sự, dân sự, hành chính… với các mức độ nặng nhẹ khác nhau, như các vụ tranh
chấp đất đai, kiện tụng, buôn lậu, trốn thuế, giết người… đặc biệt là các vụ vi
phạm luật giao thông. Về hình sự xảy ra nhiều vụ phạm tội, có những vụ rất
thương tâm và đau lòng. Có trường hợp giết người chỉ vì cần tiền hút chích, ăn
chơi hay để trả thù cá nhân. Ở một số quận, huyện hiện tượng thanh thiếu niên
bỏ học, bỏ nhà đi lang thang, ăn chơi sa đọa dẫn đến phạm pháp với các hành vi:
nghiện ngập, giết người, cướp của, trộm cắp… trở thành nỗi lo ngại cho gia đình
và xã hội. Tất cả những điều đó đã và đang giáng một tiếng chuông cảnh báo về
tình trạng vi phạm pháp luật hiện nay ở Cần Thơ.
Những hạn chế về ý thức pháp luật của người dân Cần Thơ xuất phát từ
nhiều nguyên nhân. Trước hết đó là do trình độ dân trí của một bộ phận nhân
dân còn thấp, nhất là ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Công tác
tuyên truyền pháp luật trong quần chúng chưa toàn diện, chưa sâu rộng và chưa
hiệu quả. Những hành vi vi phạm pháp luật của người dân có thể do không nhận
thức được hành động của mình, có thể nhận thức được nhưng vẫn cố tình vi
170
phạm vì mục đích cá nhân. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác như những
ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, sự tác động của tư tưởng, tâm lý
xã hội tiêu cực, lạc hậu…
Để hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng vi phạm pháp luật, đòi hỏi tất cả
cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác Nâng cao hiểu biết pháp luật. Cấp ủy
đảng, chính quyền các cấp không ngừng tăng cường giáo dục pháp luật, nhằm
nâng cao kiến thức pháp luật cho nhân dân, có thái độ đúng đắn, động cơ tích
cực trong thực hiện pháp luật và đấu tranh chống các biểu hiện vi phạm pháp
luật. Sống và làm việc theo pháp luật, xác định rõ vai trò to lớn của pháp luật
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, đưa pháp luật vào cuộc sống con
người, xây dựng lối sống tốt đẹp, sống và làm việc theo pháp luật. Bên cạnh
việc đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật trong quần chúng, cần
Xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật. Để thực hiện tốt những giải pháp đó
cần sự phối hợp, tham gia tích cực của các ban ngành, đoàn thể, của toàn Đảng,
toàn dân, toàn xã hội.
Về đạo đức, đạo đức là phẩm chất nhân cách cơ bản của con người. Đạo
đức truyền thống là cốt lõi của đạo đức dân tộc. Nó phản ánh bộ mặt, nhân
cách, là điều kiện để con người phát triển bền vững, nhân tố tạo nên sự phát
triển của xã hội. Nhân dân Cần Thơ có rất nhiều truyền thống đạo đức tốt đẹp,
nổi lên hơn cả, sâu sắc hơn cả cần kế thừa, phát triển nâng cao là những truyền
thống: nhân nghĩa, yêu nước; kiên cường, dũng cảm; tự trọng, lạc quan, giàu
hoài bão; trung thực, cần cù, vượt khó; tôn sư, trọng đạo, hiếu học… được thể
hiện đầy đủ trong quan hệ giữa người với người, với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Nhờ phát huy truyền thống tốt đẹp đó mà thế hệ này nối tiếp
thế hệ khác đã vượt qua muôn vàn khó khăn, vẫn giữ được bản sắc dân tộc,
xây dựng quê hương Cần Thơ phát triển như ngày nay.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh
những truyền thống đạo đức tốt đẹp đã được kế thừa, phát huy; những chuẩn
mực đạo đức của con người Cần Thơ đã được xác định và bổ sung theo những
171
nội dung mới phù hợp theo 5 nhóm giá trị: về nhận thức tư tưởng chính trị, có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa, yêu quê hương đất nước, tự cường và tự hào dân tộc
chính đáng, tin tưởng vào Đảng và đường lối đổi mới của Đảng; tự hoàn thiện
bản thân, tự trọng, tự tin, tin vào bản thân, tin vào sự phát triển của đất nước,
không ỷ lại, giản dị, tiết kiệm, trung thực, siêng năng, hướng thiện…; quan hệ
với người khác, nhân nghĩa, biết ơn tổ tiên, cha, mẹ, thầy cô, người có công với
dân, với nước, kính trọng người sinh thành, nuôi dưỡng, giúp đỡ, yêu thương,
khoan dung, vị tha, hợp tác, bình đẳng, lễ độ, lịch sự tế nhị, tôn trọng mọi người,
thủy chung, giữ chữ tín…; quan hệ với công việc, trách nhiệm cao, có lương
tâm, tôn trọng luật pháp, lẽ phải, dũng cảm, liêm khiết…; có ý thức và trách
nhiệm trong xây dựng môi trường tự nhiên, văn hóa, xă hội.
Những hạn chế về đạo đức đáng quan tâm là: một bộ phận nhân dân đang
dần đánh mất những chuẩn mực đạo đức căn bản, được biểu hiện: đạo đức y tế,
đạo đức giáo dục xuống cấp; nạn tham nhũng, thái độ quan liêu, cửa quyền của
cán bộ, công chức trong một số cơ quan, tổ chức vẫn còn xảy ra; hành xử thô
bạo giữa người với người, bạo lực học đường, các giá trị thiêng liêng bị xâm
hại; và các mối quan hệ xã hội, nhất là tình bạn, tình đồng chí ở một số nơi diễn
biến theo chiều hướng xấu… Ở nơi này, nơi khác xảy ra tình trạng tranh giành,
chen lấn, thiếu nhường nhịn, thiếu tử tế trong quan hệ giữa người và người; các
băng nhóm, các loại tội phạm, những kiểu đánh đập và giết người vô cớ; tình
trạng phóng xe lạng lách, bất chấp mạng sống của người đi đường... gia tăng đến
mức báo động. Đó là những biểu hiện của thói ích kỷ, ai cũng chỉ biết đến mình,
gia đình mình mà không hề hay biết gì đến những người xung quanh, dẫn đến
hành vi coi nhẹ và bất chấp lợi ích và hạnh phúc của người khác. Hình như ít ai
nghĩ rằng, trong móc xích nhân quả, làm hại người cũng là đang làm hại mình.
Nguyên nhân đưa đến sự suy thoái đạo đức trong đời sống cộng đồng hiện nay,
có nhiều ý kiến cho rằng: đó là hậu quả của việc xem nhẹ giáo dục đạo đức cho
học sinh, sinh viên ở nhà trường, các văn hoá ứng xử truyền thống không được
coi trọng; mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội còn lõng lẽo; xã hội
172
chưa tạo ra được một nền tảng đạo đức văn hoá vững vàng cân bằng với sự phát
triển kinh tế, dẫn đến một đời sống hưởng thụ, ích kỷ; kỷ cương và giáo dục gia
đình không được chú trọng; một phần do ảnh hưởng sâu nặng lối sống thực
dụng của xã hội phương Tây…
Mục tiêu giáo dục đạo đức hiện nay và trong những năm sắp tới là trang
bị cho mọi người có nhận thức đúng và đầy đủ những giá trị truyền thống của
dân tộc và của thời đại, nhận thức đầy đủ bổn phận, trách nhiệm của cá nhân đối
với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần xây dựng một
xă hội công bằng, văn minh từ trong gia đình đến ngoài xã hội.
Về văn hóa môi trường, được xem xét đánh giá ở hai góc độ: môi trường
tự nhiên và môi trường văn hóa - xã hội.
Về môi trường tự nhiên, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thành phố Cần Thơ đẩy mạnh xây dựng và phát triển các khu công nghiệp,
thương nghiệp, dịch vụ du lịch. Cùng với tiến trình phát triển đô thị, phát triển
kinh tế - xã hội, Cần Thơ đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện nhiều biện pháp
bảo vệ môi trường thực sự có hiệu quả, nổi bật nhất là thành phố chú trọng triển
khai xây dựng những dự án về môi trường ở đô thị cũng như môi trường nông
thôn. Cụ thể như Dự án thoát nước và xử lý nước thải được triển khai từ năm
2003, do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Cấp thoát nước Cần Thơ làm chủ đầu
tư, tổng kinh phí thực hiện dự án trên 363 tỉ đồng. Mô hình sản xuất nông
nghiệp “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”... Một số doanh nghiệp sản xuất, chế
biến lương thực, thực phẩm đầu tư hệ thống xử lý chất thải, nhằm góp phần ổn
định sản xuất và bảo vệ môi trường xung quanh.
Vấn đề bức xúc về môi trường ở thành phố Cần Thơ hiện nay là: công tác
quản lý môi trường trên địa bàn vẫn còn nhiều hạn chế, đó là chất lượng các
thành phần môi trường nhất là môi trường nước mặt chưa được cải thiện. Việc
tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa
cao, nhiều doanh nghiệp chưa đầu tư xây dựng hệ thống xử lý hoặc xây dựng
các hệ thống xử lý chỉ mang tính chất đối phó, nhận thức của cộng đồng về môi
173
trường được nâng lên nhưng chưa tạo được sự chuyển biến rõ rệt. Tiến độ triển
khai các dự án đầu tư về môi trường nhất là các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở kỹ
thuật như thoát nước và xử lý nước thải, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.
Trước tình hình đó, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ phối
hợp với các ngành, đoàn thể ký kết nghị quyết liên tịch về bảo vệ môi trường
song song với công tác tuyên truyền đến từng hộ dân, doanh nghiệp ở khu dân cư,
cụm công nghiệp các nội dung nâng cao nhận thức về môi trường và bảo vệ môi
trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Hiện nay, khắp nơi trong thành phố triển
khai thực hiện mô hình “Khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường”, lồng ghép trong
cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Mô
hình này thực hiện theo hình thức phát huy dân chủ, người dân tham gia thảo luận
đề xuất các tiêu chí và bổ sung nội dung bảo vệ môi trường vào quy ước, để cùng
thi đua thực hiện; cam kết mỗi nhà có giỏ đựng rác, đổ rác đúng qui định hoặc
chôn đốt rác; chăn nuôi gia súc, gia cầm có hố xử lý phân; sử dụng hóa chất,
thuốc bảo vệ thực vật đúng qui định, đảm bảo vệ sinh môi trường... Đội tự quản
bảo vệ môi trường của Khu dân cư thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở
nhân dân thực hiện tốt những điều cam kết.
Để tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý môi
trường, đáp ứng được mục tiêu đề ra, xây dựng thành phố Cần Thơ văn minh,
xanh, sạch đẹp. Các ngành, các cấp tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường nhằm tạo sự chuyển biến
trong nhận thức của cộng đồng, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, chủ đầu tư các
khu, cụm công nghiệp. Thông qua các hình thức như: Tổ chức các hoạt động
hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới 5-6, Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn
22-9... nhằm nhắc nhở, kêu gọi mọi người quan tâm đến vấn đề môi trường
xung quanh, hạn chế sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tự giác, tích cực tham
gia các hoạt động bảo vệ môi trường để hạn chế các tác động do biến đổi khí
hậu gây ra.
174
Đối với các dự án, công trình liên quan đến môi trường cần chủ động
phòng ngừa ô nhiễm ngay từ khi thẩm định, phê duyệt dự án, bố trí các ngành
sản xuất công nghiệp trên địa bàn theo hướng đầu tư vào các khu, cụm công
nghiệp... Tăng cường công tác thanh tra về bảo vệ môi trường năm 2010, tập
trung kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các khu,
cụm công nghiệp và các nguồn thải lớn trên lưu vực sông Hậu trên địa bàn. Rõ
ràng, tác hại của việc hủy hoại môi trường rất đáng lo ngại, hậu quả khó lường.
Đã đến lúc mọi cấp, mọi ngành khác phải chung tay bảo vệ môi trường, vì một
môi trường sạch, an toàn, hướng đến con người, vì ngày mai.
Về môi trường văn hóa - xã hội, công tác xây dựng đời sống văn hóa ở
Cần Thơ tiếp tục được đẩy mạnh, gắn chặt với cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” theo hướng nâng cao chất lượng.
Giai đoạn 2005-2009, chính là mốc thời gian đánh dấu sự phát triển về
chất lượng trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Công tác xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được lãnh đạo thành phố chỉ đạo gắn chặt với
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và đang ngày càng
phát huy hiệu quả trong việc góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất lẫn
tinh thần cho nhân dân ở cơ sở.
Tính đến tháng 8-2009, thành phố Cần Thơ đã xây dựng, công nhận 34
xã, phường, Nông trường văn hóa; tỷ lệ hộ gia đình văn hóa hàng năm đạt trên
85,11% tổng số hộ, với 212.500 hộ gia đình; thành lập được 343 câu lạc bộ gia
đình văn hóa và 213 khu văn hóa gia đình16.
16. Theo báo cáo tổng kết năm 2009 của Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch thành phố Cần Thơ.
175
Lễ công nhận xã văn hoá ở Cần Thơ
Toàn thành phố hiện có 517/519 ấp (khu vực) có cán bộ phụ trách văn
hóa cơ sở; 67/67 đội thông tin văn nghệ xã, 33 Nhà văn hóa xã; 391/519 Nhà
thông tin ấp; 8/8 thư viện quận, huyện, 2 thư viện Nông trường, 5 thư viện xã;
51 phòng đọc sách xã, 21 tủ sách Bưu điện văn hóa xã và 12 tủ sách trong các
chùa Khmer.
Việc xây dựng các mô hình văn hóa ngày càng đi vào nền nếp, các tiêu
chuẩn công nhận ấp, xã văn hóa đều được nâng lên. Nhiều mô hình mới ra đời
và đang tiếp tục phát triển theo hướng đô thị hoá như: khu phố văn hóa, phường
văn hóa; cơ quan, đơn vị, trường học có đời sống văn hóa tốt; bến xe, bến tàu,
nhà trọ, chợ văn minh; tuyến đường sáng, xanh, sạch, đẹp, hẻm đẹp v.v… Các
phong trào xây dựng xóm, ấp, xã văn hóa, khu phố văn hóa, cơ quan, đơn vị văn
hóa, doanh nghiệp văn hóa, khu dân cư tiên tiến xuất sắc ngày càng khẳng định
sức mạnh sáng tạo văn hóa của các tầng lớp nhân dân.
Nhiều quận, huyện, xã, phường đã xây dựng và cải tiến các mô hình việc
cưới, việc tang hợp lý, lành mạnh, tiết kiệm, văn minh, phát huy những giá trị
tốt đẹp của văn hóa truyền thống, được nhân dân đồng tình. Cùng với việc khôi
phục, chọn lọc và phát huy các lễ hội cổ truyền, tạo sự đa dạng cho môi trường
văn hóa, đáp ứng nguyện vọng hướng về cội nguồn của nhân dân; nhiều địa
176
phương, nhiều ngành trong thành phố đã xây dựng được những lễ hội mới gắn
với lịch sử cách mạng và kháng chiến, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.
Đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân được nâng lên tạo ra môi
trường xã hội lành mạnh, góp phần đáng kể vào việc hình thành nhân cách con
người mới. Người dân ngày càng có ý thức trong việc tham gia xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở, tạo nên nếp sinh hoạt mới - một nếp sống theo trật tự kỷ
cương đô thị.
Trung tâm văn hóa làm tốt công tác chỉ đạo chuyên môn, hướng dẫn
phương pháp cho cơ sở, tổ chức hoạt động định kỳ tại nhà văn hóa có sự phối
hợp, hỗ trợ của các đội thông tin lưu động thành phố, quận, huyện, xã, phường.
Thành lập câu lạc bộ chủ nhiệm các xã văn hóa, câu lạc bộ giám đốc trung tâm
văn hóa các quận, huyện. Chỉ đạo và cử cán bộ hướng dẫn về phương pháp, hỗ
trợ trang thiết bị tổ chức các hội thi, hội diễn, các chương trình văn nghệ tạo
không khí sôi nổi đều khắp trên địa bàn.
Đã tổ chức hàng trăm lớp bồi dưỡng năng khiếu, tấp huấn nghiệp vụ
như: ca, múa, nhiếp ảnh, khiêu vũ, thời trang, nhạc ngũ âm hoặc kỹ năng biên
tập, dẫn chương trình, kiến thức về đờn ca tài tử, thẩm định tay nghề, cấp giấy
chứng nhận nghệ nhân cho nhạc công đờn, ca tài tử. Tổ chức và hoạt động Câu
lạc bộ - Nhà văn hóa… góp phần nâng cao năng lực, trình độ, khả năng tác
nghiệp của cán bộ cơ sở, bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền
thống của địa phương và nâng cao chất lượng của mạng lưới cộng tác viên của
toàn hệ thống.
Hoạt động câu lạc bộ, hệ thống trung tâm văn hóa Cần Thơ đã tổ chức
nhiều mô hình câu lạc bộ sở thích từ thành phố đến cơ sở. Hiện có 65 câu lạc bộ
đang sinh hoạt tại nhà văn hóa thành phố, quận, huyện; trên 816 câu lạc bộ tại
cơ sở và nhiều tổ, đội, nhóm trong các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể vừa thỏa
mãn nhu cầu của nhân dân, vừa tạo mạng lưới cộng tác viên cho hoạt động của
các trung tâm.
177
Mặc dù xây dựng môi trường văn hóa của thành phố Cần Thơ có những
chuyển biến bước đầu đáng khích lệ, nhưng những tiến bộ đạt được chưa đồng
đều và vững chắc: môi trường văn hóa ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp nghiêm
trọng, nhất là sự gia tăng của mại dâm, ma tuý, cờ bạc, tội phạm, tai nạn giao
thông. Những tiêu cực trong hoạt động âm nhạc, phim ảnh, mỹ thuật, kiến trúc,
quảng cáo,… gây bức xúc trong dư luận. Tình trạng buông lỏng quản lý và thiếu
cơ chế phù hợp trong quản lý hoạt động kinh doanh văn hóa, nhất là băng đĩa
lậu, mạng tin điện tử (Internet), dịch vụ Karaoke không lành mạnh, nhà hàng
dịch vụ, báo chí… sai quy định còn để kéo dài. Bệnh hình thức còn khá phổ
biến ở một số ngành, địa phương, hạn chế hiệu quả các phong trào, các cuộc vận
động văn hóa.
Vai trò định hướng của hệ thống thông tin đại chúng, công tác thông tin
tuyên truyền bằng hệ thống các đội thông tin lưu động, in ấn, xuất bản, nhà văn
hóa, nhà thông tin, triển lãm, các đội chiếu bóng lưu động, phát hành sách báo,
tạp chí, phát thanh truyền hình… ở Cần Thơ luôn được xem trọng, loại hình
hoạt động ngày càng phong phú, đa dạng và mang lại hiệu quả thiết thực.
Các hoạt động thông tin tuyên truyền được tổ chức kịp thời, có tác dụng
tích cực trong việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà
nước, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương; phát hiện
và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, quan liêu, lãng phí và sự suy thoái đạo đức, lối sống. Đặc biệt là phục vụ
các ngày lễ lớn với nhiều hình thức sáng tạo, có tác dụng giáo dục truyền thống
yêu nước, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cổ vũ mọi người hăng hái
sản xuất, tham gia các phong trào hành động cách mạng, tạo bầu không khí phấn
khởi trong các tầng lớp nhân dân.
Chất lượng phục vụ các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ, kỷ niệm đã được
nâng lên trình độ mới. Nếu trước đây tổ chức phục vụ lễ, kỷ niệm còn đơn điệu,
thì ngày nay kể cả cấp quận, huyện cũng tổ chức được nhiều hình thức lễ hội,
178
sân khấu hoá tạo nên hiệu quả tuyên truyền cao hơn, thu hút lượng người tham
gia ngày càng đông hơn.
Đặc trưng sông nước là trở ngại lớn cho việc tổ chức tuyên truyền đến
nhân dân ở những xã, ấp vùng ven. Do vậy, các địa phương đã có nhiều mô hình
sáng tạo trong hoạt động như: tổ chức thuyền văn hóa, xe thông tin lưu động, tổ
thông tin văn nghệ, nhóm đờn ca tài tử, nhà thông tin ấp, hệ thống truyền thanh
xã, phường và phương tiện thông tin của các chùa Khmer.
Bên cạnh việc tổ chức các lễ hội, hoạt động văn hóa - văn nghệ, nét mới
là đã xây dựng, sản xuất được nhiều công trình, sản phẩm văn hóa vừa đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ cho công chúng, vừa có tác dụng tuyên truyền sâu hơn ý
nghĩa của các ngày kỷ niệm lớn, thiết thực chào mừng Đại hội Đảng các cấp và
Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố.
Công tác thông tin đại chúng, nhất là báo chí ở Cần Thơ đạt được
những kết quả đáng kể, nhưng vẫn còn nổi lên một số vấn đề đáng chú ý: có
xu hướng thương mại hoá công tác báo chí; thông tin về những thành tựu,
nhân tố mới, những gương sáng và giải pháp mới trong làm ăn, công tác
chưa trở thành mối quan tâm thường xuyên của báo chí, chưa có sức thuyết
phục cao; mặt trái xã hội đề cập quá nhiều và không thích đáng. Thông tin
trên các trang tin điện tử (Website) còn nhiều sơ hở, khai thác thông tin
nước ngoài thiếu chọn lọc, kiểm chứng.
Phát triển văn học và nghệ thuật, trong những năm gần đây, thành phố
Cần Thơ đã củng cố một bước tổ chức của các hội văn học nghệ thuật, xác định
rõ hơn tính chất “chính trị - xã hội - nghề nghiệp” của các hội nhằm tập hợp,
đoàn kết các văn nghệ sĩ; phát hiện, bồi dưỡng tài năng; tăng cường đầu tư sáng
tác và giới thiệu, truyền bá sáng tác mới. Trang cấp kinh phí cho các hội văn học
nghệ thuật về căn bản đảm bảo cho hoạt động của hội.
Bên cạnh các văn nghệ sĩ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến tiếp
tục giữ vị trí nòng cốt trong sáng tác, đã hình thành lực lượng nghiên cứu, phê
bình, sáng tác trẻ đông đảo, có triển vọng.
179
Đoàn cải lương Tây đô, hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp của thành
phố Cần Thơ, chủ yếu ở 2 đoàn nghệ thuật: Ca múa kịch Cần Thơ17 và Cải
lương Tây đô.
Đoàn cải lương Tây Đô tiếp tục phát huy truyền thống, đội ngũ cán bộ
diễn viên tương đối vững tay nghề. Ngoài phục vụ nhiệm vụ chính trị, đoàn cố
gắng duy trì hoạt động ở vùng nông thôn. Thỉnh thoảng, các đài phát thanh -
truyền hình của khu vực, của thành phố mời đoàn tham gia chương trình thu,
phát hình kịch bản cải lương hoặc những bài ca lẻ. Hình thức biểu diễn của đoàn
ngày càng điều chỉnh theo hướng tổng hợp, tiết mục gọn nhẹ; chỉ diễn một
vài trích đoạn cải lương, thay vì nguyên vở như thời kỳ trước.
Trường trung học Văn hoá Nghệ thuật đã nâng cấp lên thành trường cao
đẳng văn hóa nghệ thuật, hàng năm trường đều có sự phát triển về quy mô và
số lượng lớp học, khoa đào tạo, số lượng học viên. Trường luôn chủ động phối
hợp, liên kết với Trường đại học Văn hoá Hà Nội, Trường đại học Văn hoá
thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thêm bậc học cao đẳng, đại học. Trường đang
bổ sung đội ngũ cán bộ, giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng chương
trình, giáo trình giảng dạy để lập đề án nâng lên bậc đại học đến năm 2020.
Xây dựng, phát triển các doanh nghiệp thuộc ngành văn hoá, thành phố
Cần Thơ có 03 doanh nghiệp văn hoá; đến năm 2006, cả 03 doanh nghiệp đã
chuyển sang cổ phần hoá với tên gọi: Công ty cổ phần sách và dịch vụ văn hoá
Tây Đô, Công ty cổ phần điện ảnh Cần Thơ, Công ty cổ phần in tổng hợp Cần
Thơ. Quá trình thực hiện kinh doanh theo phương thức mới, dù còn không ít
khó khăn, thách thức nhưng cả 03 doanh nghiệp đều hoàn thành công tác phục
vụ các nhiệm vụ chính trị, cơ sở vật chất không ngừng được đầu tư, chỉ tiêu
kinh doanh của Công ty hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Mặt bất cập trên lĩnh vực văn học và nghệ thuật đáng quan tâm là: còn ít
những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh chân thực,
17. Năm 2004, đoàn Ca múa kịch chuyển về tỉnh Hậu Giang.
180
sâu sắc, đúng tầm vóc sự nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố.
Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, hoạt động bảo tồn và phát huy
các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở Cần Thơ có bước tiến đáng kể. Công
tác kiểm kê di tích, sưu tầm văn hóa phi vật thể, xây dựng luật pháp, thực hiện
các chương trình chống xuống cấp di tích đã được các cơ quan trong thành phố
quan tâm thực hiện. Việc xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa đạt được bước tiến về cả quy mô, chất lượng và hiệu quả. Đã tạo được
phong trào quần chúng rộng rãi, góp nhiều công sức, tiền của cho bảo tồn, tôn
tạo, vừa tham gia quản lý và vừa phát huy các di sản đó.
Văn hóa dân gian, cổ truyền, các loại hình nghệ thuật của các dân tộc
anh em như: Khmer, dân tộc Hoa đã được tổ chức sưu tầm, lưu giữ lâu dài
phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân. Bảo tàng thành phố đã có những bước
phát triển nhảy vọt. Từ cơ sở cũ chật hẹp, nội dung trưng bày hạn chế, bảo tàng
đã được đầu tư xây dựng mới có quy mô lớn ở đồng bằng sông Cửu Long.
Mạng lưới các phòng truyền thống quận, huyện, xã, phường phục vụ tốt công
tác giáo dục truyền thống tại địa phương.
Trong 5 năm 2005-2009, đã tổ chức sưu tầm bổ sung hơn 2.847 hiện vật
các loại. Hoàn thành phòng trưng bày với diện tích 360m2 tại di tích Chiến
thắng 75 tiểu đoàn địch, với 176 hiện vật và hình ảnh các loại. Hoàn thành
công tác trưng bày Bảo tàng Cần Thơ trên diện tích 1.388m2 với 1.195 hiện
vật, 981 hình ảnh và 239 tài liệu khoa học bổ trợ.
Thực hiện dự án bảo tồn và phát huy các giá trị di sản phi vật thể “Kỹ
thuật đóng ghe xuồng ở Phụng Hiệp”, “Chợ nổi”, “Đờn ca tài tử”, “Nghi thức
làm phước trong Lễ dâng y của người Khmer”, “Múa bóng rỗi” và “Nghề dệt
chiếu”. Mới đây, tại lễ hội đời sống dân gian Smíthonian 2007, diễn ra từ ngày
23-6 đến ngày 09-7-2007 tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ, “Nghệ thuật làm
bánh dân gian” của nghệ nhân Nguyễn Thị Xiềm là một nét văn hóa độc đáo
181
của Cần Thơ18. Tổ chức trưng bày 16 chuyên đề tại bảo tàng, phục vụ hơn 500
ngàn lượt khách tham quan, trong đó có hơn 5.000 lượt khách nước ngoài.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về công tác bảo tồn và phát huy
các di sản văn hóa, vẫn còn một số hạn chế là: công tác phát hiện, bảo tồn, phát
huy giá trị và khai thác giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể còn
nhiều bất cập do thiếu kinh phí và cơ chế quản lý phù hợp, phát sinh nhiều tiêu
cực trong trùng tu, tôn tạo. Một số di sản văn hóa vật thể tiếp tục bị xâm phạm,
lấn chiếm, đánh cắp, làm hư hại khá nặng nề, nhiều di sản không còn khả năng
khôi phục.
Văn hóa đối với tôn giáo, các cấp uỷ Đảng và chính quyền ở Cần Thơ
đảm bảo cho các tôn giáo hoạt động bình thường trên cơ sở tôn trọng pháp
luật, nhiều lễ hội của các tôn giáo, như: lễ Phật Đản, Giáng sinh, các lễ hội tôn
giáo của người Khmer, người Hoa đã trở thành sinh hoạt văn hóa của cộng
đồng dân cư trong thành phố. Lãnh đạo thành phố và các ngành chức năng
thành phố Cần Thơ đã triển khai nhiều hoạt động văn hóa để phát huy ý tưởng
công bằng, bác ái, hướng thiện… trong các giáo lý tôn giáo, xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh, góp phần ổn định chính trị xã hội, không ngừng
nâng cao đời sống đồng bào có đạo.
Mặt nhược điểm là, nhận thức về tôn giáo và văn hóa trong tôn giáo của
một số cấp uỷ đảng và chính quyền còn sơ lược, đơn giản, chưa thật nắm vững
tính đặc thù để lãnh đạo, quản lý phù hợp, có hiệu quả. Thiếu sự phối hợp đồng
bộ, nhịp nhàng giữa các ngành, đoàn thể trong công tác phát triển văn hóa đi
đôi với phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. 3.2. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở CẦN THƠ TRONG THỜI
KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 18. Bộ Văn hoá - thông tin đã quyết định chọn 11 loại hình di sản văn hoá phi vật thể của Việt nam để giới thiệu tại Lễ hội đời sống dân gian Smíthonian 2007, diễn ra từ ngày 23-6 đến 09-7-2007 tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ, có 39 nghệ nhân tham gia trong các loại hình văn hoá di sản: Nghệ thuật cồng chiêng, nghề đẽo thuyền độc mộc, nghề đan gùi và sử thi của đồng bào Bana Rơngao (Kon Tum); đờn ca tài tử, múa lân (Bạc Liêu); nghệ thuật hát bội (Vĩnh Long); nghề dệt dân tộc Chăm (An Giang)…và nghệ thuật làm bánh dân gian của nghệ nhân Nguyễn Thị Xiềm (Cần Thơ).
182
3.2.1. Quan điểm và phương hướng chung trong việc phát triển
văn hóa ở Cần Thơ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cách đây từ rất lâu, con người đã nhận thức được vai trò to lớn của văn
hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, do trình độ phát triển và
do điều kiện lịch sử của mỗi nước mà có sự vận dụng khác nhau cho phù hợp
với đặc điểm tình hình của nước mình.
Ở Liên Xô, cách nay nhiều thập kỷ, trong quá trình lãnh đạo nhân dân
xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ văn hóa
của nhân dân còn thấp kém hơn nhiều so với các nước phát triển, V.I.Lênin đã
khẳng định tính cấp thiết của cách mạng văn hóa. Ông đã coi việc “tiến hành
công tác văn hóa trong nông dân” là một trong “hai nhiệm vụ chủ yếu có ý
nghĩa đánh dấu thời đại”, và ông khẳng định “chỉ cần hoàn thành cuộc cách
mạng này là đủ để… trở thành một nước hoàn toàn xã hội chủ nghĩa xã hội”. Ở
nước ta, ngay sau khi nước ta độc lập, nhân dân ta bắt tay vào công cuộc xây
dựng xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định, để “biến một xã
hội dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao”, chúng ta phải phát triển
đồng thời cả kinh tế và văn hóa, lấy phát triển văn hóa làm cơ sở để phát triển
kinh tế. Điều đó cho thấy, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa là nguồn lực nội sinh của
mọi sự phát triển, là cơ sở cho sự phát triển lâu bền, toàn diện; rằng văn hóa
không chỉ gắn liền với kinh tế, phát triển văn hóa không chỉ là điều kiện cho sự
phát triển kinh tế, mà hơn thế, phát triển văn hóa cùng với phát triển kinh tế
đều phải hướng tới phát triển xã hội, phát triển con người, hướng tới mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trên cơ sở nhận thức một cách sâu sắc vai trò to lớn của văn hóa đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định:
“Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên
183
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế
- xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây
dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh
viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh
văn hóa con người Việt Nam” [32, 106] để văn hóa thực sự vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trên nền tảng lý luận đó, phương hướng xây dựng nền văn hóa mới trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Cần Thơ là: xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc của vùng đồng bằng sông nước, văn
minh miệt vườn, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu
sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây
dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát
triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu
dương những giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu
tranh chống những biểu hiện phi văn hóa. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền
tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng
đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Để thực hiện phương hướng chung đó, cần quán triệt các quan điểm
chủ yếu như sau:
Quan điểm thứ nhất, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ phải thật
sự coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền
184
tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không
quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết
quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố
văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương… biến thành
nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
Quan điểm thứ hai là, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là
xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị, đặc điểm riêng của văn hóa Cần
Thơ trên cơ sở tiếp thu những cái mới, cái tiến bộ của những thành tựu và
tinh hoa văn hóa trong thời đại mới .
Xây dựng, giữ gìn và phát huy truyền thống và hiện đại của văn hóa Cần
Thơ là giữ gìn và phát huy những giá trị và đặc điểm riêng của văn hóa Cần
Thơ như: đặc điểm của nền văn hóa mang tính sông nước, văn hóa miệt vườn
và tính cách phóng khoáng, giản dị, khoan dung, trọng nghĩa khinh tài của
người dân Cần Thơ; giữ gìn và phát huy những giá trị, đặc điểm văn hóa Cần
Thơ còn là phải tôn trọng tính phong phú và đa dạng của nền văn hóa khác
nhau của các dân tộc khác nhau (Kinh, Khmer, Hoa), đã dung hợp, giao thoa
cũng như tác động lẫn nhau trong suốt chiều dài lịch sử, cải tạo, đấu tranh xây
dựng vùng đất này, gồm văn hóa Kinh, Khmer, Hoa, được biểu hiện qua các
loại hình văn hóa như: nghệ thuật kiến trúc xây dựng, với những kiểu kiến trúc
khác nhau (nhà cổ Long Tuyền, chùa Nam Nhã, chùa Khmer…), những khu di
tích lịch sử - văn hóa (lịch sử khai dân, mở ấp,…), lịch sử đấu tranh cách mạng
(lộ Vòng Cung, khu căn cứ tỉnh ủy…), các phong tục tập quán (cưới xin, ma
chay…), các lễ hội của các dân tộc (lễ cúng đình của người Việt, lễ Ok
Ombok, lễ Đôn ta của người Khmer…), các hình thức văn học - nghệ thuật (ca
dao, dân ca, hò, vè, hát ru…). Tất cả những giá trị, đặc điểm đó phải đặt trong
185
mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại để giáo dục cho thế hệ
trẻ hiểu được truyền thống hào hùng của nhân dân Cần Thơ.
Giữ gìn và phát huy các giá trị, các đặc điểm của văn hóa Cần Thơ
phải gắn kết với mở rộng giao lưu với các nền văn hóa của các vùng miền
khác nhau trên cả nước và quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái
tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác và phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi
thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.
Quan điểm thứ ba là, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là xây
dựng một nền văn hóa phải đảm bảo tính thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa sống ở thành phố Cần Thơ. Các dân tộc
sống trên địa bàn thành phố Cần Thơ đều có những giá trị và sắc thái văn hóa
riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn
hóa Cần Thơ và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình
đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa cúa các dân tộc anh em.
Quan điểm thứ tư là, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là sự
nghiệp của toàn dân do Đảng bộ thành phố Cần Thơ lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Mọi người dân Cần Thơ phấn đấu vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh đều tham gia
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa thành phố. Công nhân, nông
dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Quan điểm thứ năm, xây dựng và phát triển văn hóa ở Cần Thơ là một
sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và kiên trì,
thận trọng. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của Cần Thơ,
sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá
trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý
và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức
186
tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, “xây” đi đôi với “chống”,
lấy “xây” làm chính”. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn
hóa quý báu của Cần Thơ cũng như của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì
cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu,
chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hòa bình”.
3.2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa giữa truyền
thống và hiện đại trong việc phát triển văn hóa ở Cần Thơ thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Để giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ hiện nay, tác giả xin đề xuất
các nhóm giải pháp như sau:
1- Trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu là tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm chuyển
biến căn bản tâm lý, lối sống của mọi tầng lớp nhân dân (kể cả cán bộ, đảng
viên) sống trong một tỉnh thuần nông qua nhiều thế hệ sớm thích nghi với
đời sống đô thị; làm chuyển đổi căn bản về nhận thức của cán bộ, đảng viên
và nhân dân, nhất là cán bộ quản lý về vai trò của văn hóa đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Có như vậy mới huy động được sức mạnh tổng hợp
của nhân dân trong việc xây dựng thành phố Cần Thơ văn minh, hiện đại.
Tập trung đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa tương ứng và khai thác có
hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa đó; đồng thời đầu tư xây
dựng, cải tạo nâng cấp một số công trình văn hóa, nghệ thuật hiện đại. Thu
hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các nhóm xã hội, giữa đô thị và
nông thôn, giữa vùng kinh tế phát triển và vùng sâu, vùng xa. Chú trọng xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Môi trường văn hóa của xã
hội cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo dục nhân cách con
người, trong đó có giáo dục truyền thống.
187
Đưa cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
đi vào chiều sâu có tính thiết thực và hiệu quả. Nâng cao tính tự quản của
cộng đồng trong xây dựng nếp sống văn hóa, khu dân cư và đơn vị văn hóa.
Xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; đẩy lùi hủ tục,
các tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng. Coi
trọng vai trò, vị trí của gia đình trong giáo dục thế hệ trẻ và duy trì phát
triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Cần Thơ.
Trên cơ sở đó, xác lập những định hướng xây dựng một hệ thống giá
trị mới vừa dân tộc vừa hiện đại và cần được xã hội hóa bằng nhiều chính
sách và biện pháp, trong đó quan trọng nhất là giáo dục gia đình và trường
học, là môi trường văn hóa lành mạnh và phong phú của xã hội, là hệ thống
pháp luật thống nhất và đồng bộ.
2- Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Chăm lo
phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí để nhân dân hưởng
thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa. Nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ
xây dựng con người Cần Thơ theo 5 đức tính được xác định trong Nghị
quyết Trung ương 5 (khoá VIII) và
những chuẩn mực giá trị của con người Cần Thơ đương đại: “Trí tuệ, năng
động, nhân ái, hào hiệp, thanh lịch”. Việc xây dựng nền văn hoá mới, con
người mới ở Cần Thơ cần cụ thể hóa theo các đối tượng, gắn chặt mục tiêu
xây dựng con người mới với những đặc điểm vốn có của Cần Thơ như:
phóng khoáng, khoan dung, cộng đồng, nhân ái, vừa phong phú, sâu sắc,
vừa năng động, sáng tạo. Quy tụ mọi hoạt động văn hóa, phát huy thế mạnh
của từng loại hình văn hóa - thông tin phục vụ nhiệm vụ bồi dưỡng lòng yêu
nước, phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Cần Thơ, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giáo dục về chủ nghĩa xã hội,
lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, tạo sự chuyển biến rõ rệt về bản
188
lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, trí tuệ người Cần Thơ và đời sống
văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia
đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở ở Cần Thơ. Cần xác định đây là
nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài.
Thường xuyên nâng cao trình độ phổ cập văn hóa đáp ứng nhu cầu
văn hóa ngày càng cao và đa dạng của các tầng lớp nhân dân ở Cần Thơ; đi
đôi với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng các tài năng văn hóa, nhất là đội ngũ
đạo diễn, nhà văn giỏi; khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo được nhiều công
trình văn hoá nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao ở Cần Thơ về tư tưởng và
nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và công cuộc
đổi mới. Đồng thời có giải pháp, chính sách phù hợp để bảo tồn, lưu truyền
những công trình văn hóa nghệ thuật tiêu biểu này cho muôn đời sau.
Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, trước hết phải coi trọng giáo
dục ngay từ gia đình. Trong suốt chiều dài lịch sử, gia đình bao giờ cũng giữ
vai trò cực kỳ quan trọng trong nuôi dạy con cái, truyền nối các giá trị văn
hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác, hình thành nhân cách ban đầu của thế hệ
trẻ. Ở đây, người mẹ đóng vai trò hết sức quan trọng. Vấn đề bức thiết hiện
nay là phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ người mẹ, cung cấp những tư liệu cần
thiết cho người mẹ làm tròn sứ mạng giáo dục truyền thống cho con cái
bằng những hình thức và nội dung phù hợp như lời ru, chuyện kể, trò chơi
con trẻ… Trong nhà trường, nội dung giáo dục truyền thống thể hiện tập
trung nhất trong môn lịch sử. Cần khẳng định rằng, môn lịch sử, trước hết là
lịch sử dân tộc, có nội dung rất phong phú và có thể phát huy nhiều tác dụng
giáo dục truyền thống. Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức nghiên
cứu, đánh giá lại một cách khách quan và đưa ra một chương trình cải
cách toàn diện về môn học này.
Trong thời gian qua, do ảnh hưởng mặt trái của nền kinh tế thị
trường nên môi trường văn hóa của xã hội bị nhiễm độc khá nghiêm
189
trọng, gây không ít hậu quả đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh,
thiếu niên. Vì vậy, đề nghị Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch nên có những
văn bản pháp quy, những chương trình và biện pháp hữu hiệu nhằm nâng
cao và làm phong phú thêm môi trường và đời sống văn hóa của nhân
dân, trong đó giá trị văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc giữ
vị trí chi phối.
Cho đến nay, tuy Cần Thơ đã được Nhà nước công nhận là thành phố
loại I, trực thuộc Trung ương nhưng tỷ lệ dân số làm nông nghiệp còn nhiều;
do đó, nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là nền tảng kinh tế - xã hội của
Cần Thơ. Trong nông thôn, gia đình là tế bào của xã hội, nhưng bao giờ cũng
tồn tại gắn bó mật thiết với cộng đồng làng, xã. Có thể nói, nền văn hóa nông
nghiệp thực chất là “văn hóa làng, xã” mà cội nguồn và cơ sở căn bản là nền
văn hóa dân gian. Làng (xã) là địa bàn tụ cư truyền thống, là đơn vị kinh tế - xã
hội cơ sở, đồng thời là không gian văn hóa tác động sâu sắc đến sự phát triển
nhân cách con người, đến sự kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống.
Do đó, cần bảo đảm sự tôn trọng và thực thi pháp luật của nhà nước xuống tận
cơ sở; đồng thời khai thác, phát huy mặt tích cực kết hợp với việc hạn chế, xóa
bỏ mặt tiêu cực trong truyền thống cộng đồng, bảo tồn thuần phong mỹ tục của
từng làng, xã.
3- Trong phát triển kinh tế - xã hội, cần bảo đảm sự phát triển cân
đối cả ba lĩnh vực: kinh tế, xây dựng đảng và văn hóa; trong đó, phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đảng là then chốt và văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Không nên quá chú trọng phát triển
kinh tế, xem nhẹ phát triển văn hóa; ngược lại, không quá đề cao phát
triển văn hóa, hạ thấp vai trò của phát triển kinh tế, tạo nên sự phát triển
đồng bộ của các lĩnh vực này chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho
sự phát triển toàn diện và bền vững của thành phố.
Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh
đốn Đảng thông qua cuộc vận động lớn: Học tập và làm theo tấm gương
190
đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là tinh thần đoàn kết nội bộ, phải giữ gìn
sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con người của mắt mình, kiên quyết
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, mọi hiện tượng bè phái, cơ hội, làm
mất đoàn kết trong đảng để Đảng bộ Cần Thơ thật sự trong sạch, vững
mạnh, là “đạo đức”, là “văn minh”. .. Cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức,
lối sống cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể ở Cần Thơ như: truyền
thống cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo, tăng
cường đoàn kết để phát huy tất cả các nguồn lực, mọi tiềm năng, lợi thế
vốn có và sẽ có, coi đó là giải pháp quan trọng có tính chất quyết định để
đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, xây dựng thành phố
công nghiệp, văn minh, hiện đại, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của
vùng hạ lưu sông Mê Kông, là một cực tăng trưởng của vùng đồng bằng
sông Cửu Long và của cả nước. Trước mắt, cần nâng cao chất lượng công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cải cách hành chính để xây dựng Đảng
bộ Cần Thơ luôn luôn đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh.
4- Bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa, trong quá trình mở
rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung
xây dựng những giá trị mới của văn hóa đương đại ở Cần Thơ, cần tiếp
tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của
truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa
thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại. Cần có quan điểm, phương
pháp rõ ràng về bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, vận dụng
sáng tạo các chính sách của nhà nước phù hợp với điều kiện của Cần Thơ để
bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc; đồng thời cần có biện pháp kiên quyết
ngăn chặn những loại hình văn hóa không lành mạnh xâm nhập vào Cần
Thơ. Đẩy mạnh hơn nữa việc sưu tầm, nghiên cứu và phổ biến các giá trị
văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc, có chính sách thỏa đáng đối
với các nghệ nhân dân gian; có kế hoạch phù hợp, cụ thể từng thời kỳ, từng
năm để bảo tồn những giá trị văn hóa vật thể. Tiếp tục trùng tu, tôn tạo các
191
di tích cách mạng, lịch sử, văn hóa, danh thắng trọng điểm. Thường xuyên
giáo dục, nâng cao ý nghĩa lịch sử và văn hóa truyền thống của dân tộc và
của quê hương đối với mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Gắn kết chặt chẽ công tác bảo tồn di sản văn hóa với kinh tế du lịch
và thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa dân
tộc trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ, tăng cường hiểu biết giữa
nhân dân Cần Thơ với nhân dân các nước, trước hết là với các nước bạn
là Trung Quốc, Campuchia và Lào. Vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng,
bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc Việt, Hoa, Khmer, vừa kiên trì
củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Cần Thơ,
đấu tranh chống các khuynh hướng lợi dụng văn hóa để chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
5- Phát triển nền văn học, nghệ thuật Cần Thơ hiện đại, đậm đà bản
sắc dân tộc, thể hiện chân thật đời sống nhân dân, lịch sử vùng đất Cần
Thơ và công cuộc đổi mới ở Cần Thơ với thái độ cổ vũ cái đúng, cái đẹp,
đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những
phong cách nghệ thuật và phương thức thể hiện mới đáp ứng nhu cầu tinh
thần lành mạnh của công chúng; đồng thời bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ
lành mạnh cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Khắc phục yếu kém,
nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình
văn học, nghệ thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển lành mạnh của
sáng tác văn học, nghệ thuật trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy định của pháp luật về sở
hữu trí tuệ, đồng thời xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ có
tính đặc thù, chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần của văn nghệ sĩ, nghệ
nhân dân gian nhằm tạo điều kiện thuận lợi và động viên văn nghệ sĩ,
nghệ nhân dân gian sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị
cao về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần xây dựng nền văn hóa và con
người Cần Thơ. Đổi mới và nâng cao hiệu quả của hoạt động giới thiệu,
192
truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, phục vụ nhân dân và công
chúng văn học, nghệ thuật ở nước ngoài.
Nghiên cứu đề xuất với các Bộ, ngành có liên quan hoàn thiện
chương trình, giáo trình; đổi mới phương thức đào tạo, gắn đào tạo với
thực tiễn nghệ thuật Cần Thơ, phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ
cao nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của trường Cao đẳng văn hóa Cần
Thơ. Tiếp tục củng cố, đổi mới chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt
động, phát huy vai trò, năng lực tập hợp, tổ chức đội ngũ văn nghệ sĩ,
nghệ nhân dân gian của các hội văn học, nghệ thuật. Tăng cường đầu tư
cho văn hóa, đảm bảo kinh phí cho các chương trình mục tiêu lớn, cho
hoạt động sáng tạo của các hội văn học, nghệ thuật.
Chú trọng nâng cao chất lượng tư tưởng - văn hóa, khắc phục xu
hướng thương mại hóa đơn thuần, xa rời tôn chỉ mục đích trong hoạt động
báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản. Xây dựng đội ngũ hoạt động báo
chí, xuất bản vững vàng về tư tưởng - chính trị và nghiệp vụ, có năng lực
hoạt động thích ứng với thời kỳ mới nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động
của hệ thống thông tin đại chúng. Đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật
chất - kỹ thuật của báo Cần Thơ theo hướng hiện đại. Phát triển, mở rộng
việc sử dụng mạng Internet, đồng thời có biện pháp hạn chế tác dụng tiêu cực
của thông tin mạng, ngăn chặn có hiệu quả hành vi lợi dung thông tin mạng
truyền bá tư tưởng phản động, lối sống trái đạo lý, phản tiến bộ.
Mở rộng và tăng cường hiệu quả hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa.
Đổi mới việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật Cần Thơ và đất
nước, con người Cần Thơ với thế giới. Mở rộng phạm vi, đồng thời chú trọng
nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực báo chí, xuất bản. Sớm hoàn thành việc xây dựng trung tâm văn hóa Tây
Đô, trung tâm dịch thuật - quảng bá văn hóa Cần Thơ ở nước ngoài.
Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa, giới thiệu các
tác phẩm văn học, nghệ thuật xuất sắc của nước ngoài với công chúng Cần
193
Thơ, nhằm góp phần tăng cường hiểu biết và bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ
lành mạnh cho công chúng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Chủ động phối hợp với các đối tác nước ngoài tổ chức các hoạt động
văn hóa, văn học nghệ thuật quốc tế tại Cần Thơ, từng bước khẳng định Cần
Thơ là địa chỉ giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa.
Xây dựng cơ chế, chế tài để ngăn chặn, đẩy lùi sự xâm nhập của các
sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động từ nước ngoài vào Cần Thơ, bồi dưỡng
và nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ đối với các sản
phẩm trên.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong những năm qua, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Cần
Thơ đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: nền kinh tế duy trì
được tốc độ tăng trưởng khá cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, huy
động vốn đầu tư xã hội có nhiều tiến bộ, nhiều công trình kinh tế - xã hội quan
trọng được đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng, bộ mặt đô thị cả nội thành và
ngoại thành thay đổi nhanh chóng. Văn hóa - xã hội chuyển biến tích cực, an
sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, công
tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả khá tốt.
Tuy nhiên chất lượng, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa được cải
thiện nhiều, quá trình phát triển còn tiềm ẩn nhân tố chưa bền vững, chưa tương
xứng với tiềm năng, thế mạnh thành phố. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực,
nhưng công nghiệp còn nhỏ lẻ, chưa có doanh nghiệp lớn; các loại hình dịch vụ
chất lượng cao còn hạn chế; sản xuất nông nghiệp còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, giá
cả không ổn định, đời sống của một bộ phận nông dân vẫn còn nhiều khó khăn.
Phát triển văn hóa - xã hội chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Chất
lượng nguồn nhân lực còn thấp, đời sống của một bộ phận nhân dân lao động
còn nhiều khó khăn, kết quả giảm nghèo chưa thực sự vững chắc, nhiều vấn đề
xã hội bức xúc phát sinh quá trình đô thị hóa chưa được giải quyết triệt để. Công
194
tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ vào cuộc sống còn hạn chế, hiệu
quả chưa cao. Chất lượng giáo dục, cả về văn hóa, chính trị, hướng nghiệp chưa
đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực. Đời sống văn hóa cơ sở yếu kém, thiếu chiều
sâu, chậm triển khai vận động thực hiện tiêu chí về người Cần Thơ theo tinh
thần Nghị quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém đó, Đảng bộ thành phố Cần Thơ
cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp nêu trên, có
như vậy văn hóa mới phát triển tương xứng với tăng trưởng kinh tế để thành phố
Cần Thơ phát triển nhanh và bền vững, sớm trở thành trung tâm động lực phát
triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
195
KẾT LUẬN CHUNG
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra và được con người tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội và giữa con
người với con người. Văn hóa là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần,
cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự
tiến bộ của loài người và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Văn hóa, đó là thuộc tính bản chất, tộc loài của con người với các chức
năng: giáo dục, nhận thức, định hướng, đánh giá, xác định chuẩn mực của hành
vi, điều chỉnh các quan hệ ứng xử, giao tiếp. Song, cốt lõi trong các chức năng
của những giá trị văn hóa đem lại là chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức.
Chính vì vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội nên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng khẳng
định:“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [29, 110] và Nghị quyết hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã xác định: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội… Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là
một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì
thận trọng” [29, 55 - 58].
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, kinh tế không thể tự
mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hóa, văn hóa không phải là sản phẩm thụ
động, sản phẩm tự nhiên của kinh tế, mà là cội nguồn của sự tăng trưởng kinh
tế, là “nguồn lực nội sinh” của phát triển kinh tế. Đồng thời, phát triển văn hóa,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, “giải quyết tốt sự thống nhất và
mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa”
chính là cơ sở, là nền tảng cho sự phát triển lâu bền, phát triển vì mục tiêu nhân
văn, vì giá trị nhân đạo.
196
Ý thức được tầm quan trọng của sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền
thống và hiện đại trong quá trình phát triển văn hóa nên trong những năm qua
Cần Thơ luôn thể hiện nhất quán quan điểm: hiện đại bắt nguồn từ truyền thống,
lấy truyền thống làm nền tảng trên cơ sở chắt lọc, kế thừa và phát triển truyền
thống; đồng thời không phủ định sạch trơn truyền thống, truyền thống văn hóa ở
Cần Thơ được bảo tồn, phát triển nâng cao sinh động, phong phú qua tính hiện
đại. Nhờ vậy, mà thành phố Cần Thơ đã thu được những thành tựu và những
kinh nghiệm của quá trình đổi mới nói chung và lĩnh vực phát triển văn hóa - xã
hội nói riêng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền văn hóa mới được tạo dựng, quá
trình đổi mới tư duy về văn hóa, xã hội, xây dựng con người và nguồn nhân lực
có bước phát triển mới. Môi trường văn hóa xã hội có những thuận lợi cho việc
phát huy nguồn nhân lực văn hóa, xã hội để xây dựng đất nước. Tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Cần Thơ ổn định tạo
điều kiện cơ bản cho phát triển thành phố. Kinh tế tăng trưởng liên tục, xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế mở ra triển vọng mới cho sự phát triển kinh tế tạo tiền
đề giải quyết các vấn đề xã hội và văn hóa.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đối với sự phát triển văn
hóa ở Cần Thơ trong thời gian tới. Đó là: sự phát triển không cân đối giữa phát
triển kinh tế với phát triển văn hóa, vì vậy sự phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố Cần Thơ chưa nhanh và bền vững.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập
trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Cần Thơ đương đại, việc tiếp tục
đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống
văn hóa Cần Thơ và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự
phát triển của thời đại còn hạn chế. Cần Thơ còn thiếu chính sách hợp lý để bảo
tồn, phát triển văn hóa dân tộc và biện pháp kiên quyết ngăn chặn những loại
hình văn hóa không lành mạnh xâm nhập vào Cần Thơ.
Cần Thơ còn thiếu các thiết chế văn hóa, nhất là cấp quận, huyện để nhân
dân sinh hoạt văn hóa và vui chơi. Do đó, hoạt động văn hóa ở một số huyện có
197
đông đồng bào theo đạo bị hoạt động tôn giáo lấn át, các tệ nạn xã hội nảy sinh
và phát triển.
Để khắc phục những thách thức, khó khăn nêu trên, Cần Thơ phải có sự
đầu tư mạnh mẽ cho lĩnh vực văn hóa, sự tăng tốc trong công tác quản lý, điều
hành; đặc biệt là cần có sự quan tâm của cấp lãnh đạo và sự phối hợp có hiệu
quả với các ngành chức năng. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn
hóa, trong đó tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành
mạnh trong cơ quan, nơi công cộng, cộng đồng dân cư, gia đình và mỗi cá nhân.
Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, chú trọng chất lượng các mô hình văn hóa; đánh giá chặt chẽ và đúng thực
chất danh hiệu gia đình văn hóa, khu vực văn hóa, phường văn hóa, xã văn hóa.
Kế thừa và phát huy giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc, xây dựng con
người Cần Thơ “Trí tuệ - năng động - nhân ái - hào hiệp - thanh lịch”19. Làm tốt
công tác bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống cách mạng, nhằm tuyên truyền,
giáo dục cho thế hệ trẻ lòng tự hào dân tộc. Tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho
văn hóa, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa. Huy động các
nguồn lực, trí tuệ và sức sáng tạo trong xã hội để đầu tư xây dựng các công
trình, thiết chế văn hóa. Khuyến khích và tạo điều kiện cho đội ngũ văn nghệ sĩ
sáng tạo các tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng, nghệ
thuật cao. Tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, kiên quyết ngăn
chặn, đấu tranh đẩy lùi sự suy thoái về văn hóa, tư tưởng, chính trị, đạo đức lối
sống và các biểu hiện phản văn hóa trong đời sống xã hội.
Những nhiệm vụ đó chỉ có thể thực hiện thành công khi lãnh đạo thành
phố Cần Thơ biết khơi dậy tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm
năng sáng tạo này không ở đâu khác, nó nằm trong văn hóa, trong sự hiểu biết,
trong tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu và trình độ thẩm mỹ của mỗi con người
và của cả cộng đồng dân tộc Việt, Khmer, Hoa ở Cần Thơ.
19. Nghị quyết 45-CT/TW của Bộ Chính “Về xây dựng và phát triển Cần Thơ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
198
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Đảng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Tp.Hồ Chí Minh.
3. Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hoá.
6. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức.
7. Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Vĩnh Long (2001), Tìm hiểu văn hóa Vĩnh
Long , Nxb. Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
8. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ - thực
trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Trần Văn Bính (2004 - Chủ biên), Toàn cầu hóa và quyền công dân
ở Việt Nam nhìn từ khía cạnh văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp.
11. Bộ Giáo dục và đào tạo (2003), Triết học 3 tập (Dùng cho Cao học và
nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. C.Mác và Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
13. C.Mác và Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
14. C.Mác và Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
199
15. Nguyễn Khắc Cảnh (1998), Phum sóc Khmer ở đồng bằng sông
Cửu Long, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
16. Nông Quốc Chấn - Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên, 2002), Văn hóa các
dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Mạnh Chi (2003), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam,
Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
18. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (Đồng
chủ biên), (2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Lý luận và
thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Vấn đề khai thác các giá trị truyền
thống vì mục tiêu phát triển, www.chungta.com.
20. Đoàn Văn Chức (2004), Văn hóa học, Nxb. Lao Động, Hà Nội.
21. Cù Huy Chữ (1997), Kế thừa giá trị truyền thống văn hóa dân tộc
trong việc xây dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam hiện nay, Nxb. Văn
hoá - Thông tin, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Dân (2006), Văn hóa và phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Lê Duẩn (1977), Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới Xã hội
chủ nghĩa, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
24. Thành Duy (2006), Bản sắc văn hóa và hiện đại hóa văn hóa Việt
Nam, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Thành Duy, 2004), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đại học quốc gia Tp.Hồ Chí Minh - Trường đại học khoa học xã hội và
nhân văn - Trung tâm nghiên cứu phát triển đô thị và cộng đồng (2004),Văn hóa
truyền thống trong phát triển đô thị, Nxb. Đại học quốc gia Tp.Hồ Chí Minh.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.
200
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các Nghị quyết của Trung ương
Đảng 1996 – 1999, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
34. Encyclopcdie (1989), Từ điển Bách khoa toàn thư Pháp, Paris.
35. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ
thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám. Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại
của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, 3 tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. John Lê Văn Hóa (2003), Tìm hiểu nền tảng văn hóa dân tộc trong
tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, Nxb. Hà Nội.
37. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Văn hóa xã hội
chủ nghĩa (2000), Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Huyên (2006), Văn hóa mục tiêu và động lực của sự
phát triển xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc giá, Hà Nội.
40. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hóa Việt Nam, tập 3, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
41. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 24, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva.
42. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva.
201
43. Phan Huy Lê (1996), Truyền thống và hiện đại - Vài suy nghĩ và đề
xuất, Tạp chí Cộng sản, số 18.
44. C.Mác và Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Huỳnh Minh (1966), Cần Thơ xưa và nay, Nhà in Hạnh Phúc, Gia Định.
58. Đỗ Mười (1993), Thể hiện khát vọng của nhân dân về Chân - Thiện
- Mỹ, Nxb. Văn học, Hà Nội.
59. Rasun Gamzatov - Daghestan của tôi (1984), bản dịch tiếng Việt,
Nxb. Cầu Vồng, Mát-xcơ-va.
60. Nguyễn Xuân Nam (1998), Văn hóa vì sự phát triển, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
61. Trần Đình Nghiêm, Trần Hoàn, Nguyễn Phúc Khánh (2000), Phác
thảo chân dung văn hóa Việt Nam (Đề tài mã số 3.37 (V), Nxb. Chính trị
quốc gia, HN.
62. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
63. Người đưa tin UNESCO, số 9/1997.
202
64. Bùi Đình Phong (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền
văn hóa Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.
65. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2005), Đại
cương lịch sử Việt Nam, toàn tập, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.
66. Nguyễn Văn Quán (2006), Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam,
Nxb. Lao Động, Hà Nội.
67. Hồ Sĩ Quý (2005), Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
68. Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa (1994), Bộ Văn hóa thông tin
và Thể thao xuất bản, Hà Nội.
69. Trần Ngọc Thêm (1989), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
70. Nguyễn Chí Tình (2009), Văn hóa và thời đại, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
71. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân tỉnh Cần Thơ (2002), Địa chí Cần Thơ.
72. Trường Đại học KHXH&NV TP.Hồ Chí Minh, Viện KHXH tại
TP.Hồ Chí Minh, Bảo tàng lịch sử Việt Nam TP.Hồ Chí Minh (1999), Bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Vai trò của nghiên cứu và giáo dục, Nxb.
TP.Hồ Chí Minh.
73. Trần Diễm Thúy (2009), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
74. GS.VS Hoàng Trinh (2000), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong
văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. GS. Lương Duy Thứ (Chủ biên), Phan Nhật Chiêu, Phan Thu Hiền
(1998), Đại cương văn hóa phương Đông, Nxb. Giáo Dục.
76. Từ điển triết học (1986), Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
77. Từ điển chính trị vắn tắt (1988), Nxb. Sự Thật, Hà Nội.
78. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Nxb. Từ điển Bách khoa Hà Nội.
203
79. Viện khoa học xã hội vùng Nam bộ, Ban chỉ đạo Tây Nam bộ,
Thành uỷ - Uỷ ban nhân dân Tp. Cần Thơ, (2005), Đồng bằng sông Cửu
Long hội nhập và phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm
Mỹ Dung, Trần Thúy Anh (2006), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo Dục.
204
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Dựa (2008), Văn hóa Cần Thơ và vai trò của nó đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội, Luận văn thạc sĩ Triết học.
2. PGS.TS. Trịnh Doãn Chính, Nguyễn Văn Dựa (2006), Một số vấn đề chính
sách dân tộc đối với đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, Kỷ yếu Hội thảo
đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng và giải pháp để trở thành vùng trọng điểm
phát triển kinh tế, giai đoạn 2006-2010. Trường đại học KHXH&NV thuộc Đại học
Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr. 202-212, Nxb. Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh.
3. PGS.TS. Doãn Chính, ThS. Nguyễn Văn Dựa (2009), Về giải pháp xóa
đói, giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc Khmer Tây Nam bộ, Tạp chí Khoa học
Chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Chính
trị - Hành chính khu vực II, tr. 31-37.
4. Nguyễn Văn Dựa (2010), Sự thống nhất giữa truyền thống và hiện đại
trong quá trình phát triển văn hóa ở Cần Thơ, Tạp chí Khoa học xã hội, số 5 (141),
tr. 8, 9, 10, 11, 12, 21 .
5. Nguyễn Văn Dựa (2008), 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
(khóa VII) về công tác thanh niên ở tỉnh Vĩnh Long, Tạp chí Văn phòng cấp ủy, Văn
phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 6 (3/2008), tr. 24-25.
6. Nguyễn Văn Dựa (2009), Thực trạng công tác thủy lợi vùng đồng bằng
sông Cửu Long giai đoạn 2006-2010 và định hướng 2020, Tạp chí Văn phòng
cấp ủy, Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 16-17 (1-2/2009),
tr. 57-59.
7. Nguyễn Văn Dựa (2010), Những tiến bộ của công tác phụ nữ ở thành phố
Cần Thơ và một số vấn đề cần tập trung giải quyết, Tạp chí Văn phòng cấp ủy, Văn
phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, số 36 (9/2010), tr. 36, 37, 38, 46.