5
Thiên Lan Khảo Bút 210 Bần Sĩ Vô Danh Tình Yêu Tình yêu là đề tài sống động vô biên, là nguồn sinh lực huyền diệu thúc đẩy con người vượt qua mọi gian lao thử thách trên đường hành đạo. Phải có tình yêu đạo pháp nồng nàn mới mang Phật pháp ban rải cho người. Tôi xuất thân là một sĩ quan trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào thời chiến, là phi công hằng ngày nhận lãnh phi vụ nhào lộn trên chiến trường khốc liệt. Trong những chuyến đi mây về gió trên bầu trời tràn ngập khói lửa, tôi không ngờ có một ngày nào đó mình mang Phật pháp đi truyền rao cho khắp bá tánh. Nguyên do cũng bởi tôi có thêm một nghề thứ hai là nghề viết văn, viết báo. Một nghề phi công trong thời chiến đã là bận rộn rồi, huống gì tôi phải vương mang thêm nghề thứ hai viết văn, cái nghề buộc phải suy tư trằn trọc cả ngày lẫn đêm. Thôi thì tằm ăn lá dâu thì phải nhả tơ. Suốt thời binh lửa, tôi hai vai gánh nặng vừa nghiệp võ vừa nghiệp văn. Có lắm lúc máy bay tôi bị trúng đạn súng AK của du kích, và rồi cũng có khi tôi bị chấn thương nặng bởi bom pháo đài bay B52 của Mỹ ở rừng sâu trong chiến khu R. Tôi đã lỡ chấp nhận số phận mình là người lang thang qua chiến tranh, tôi có mặt cả hai bên chiến tuyến trong cuộc chiến khốc liệt ở Việt Nam. Nhà thơ Thanh Thảo viết quyển Lang Thang Qua Chiến Tranh, nhưng Thanh Thảo lang thang qua chỉ có một chiến tuyến, còn tôi thì lang thang qua chiến tranh cả hai chiến tuyến. Chưa hết, sau này tôi lại mạo hiểm vượt biên bằng thuyền bao ngày lênh đênh trên đại dương dập dồi sóng gió không biết mình sẽ trôi dạt về đâu? Pháp, Đức, Mỹ, Ý, ÚcDiêm Vương? Thật là trăm đắng ngàn cay, hiểm nguy như ngàn cân treo sợi tóc. Vậy mà nay tôi vẫn vui với Phật pháp, tuổi đời gần 80 còn mài miệt khảo cứu bút tích Bửu Sơn Kỳ Hương. Và cuối cùng tôi lang thang qua Phật Pháp, trường chay, thiền niệm Phật… Vào cuối thập niên 80, tôi có dịp nghe Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết pháp trong băng cassette. Ngài ứng khẩu thuyết ra văn thơ đạo lý với giọng trầm bổng có sức truyền cảm đặc biệt. Xuất thân là Người Thiện Nữ Cư Sĩ dốt viết không rành văn tự, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh dụng thần thông ứng khẩu thuyết pháp thao thao bất tuyệt, thuyết bằng nhiều giọng điệu khi ngâm

Thiên Lan Khảo Bút 210 Bần Sĩ Vô Danh · kích, và rồi cũng có khi tôi bị chấn thương nặng bởi bom pháo đài bay B52 của Mỹ ở rừng sâu trong chiến

  • Upload
    others

  • View
    8

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Thiên Lan Khảo Bút 210 Bần Sĩ Vô Danh · kích, và rồi cũng có khi tôi bị chấn thương nặng bởi bom pháo đài bay B52 của Mỹ ở rừng sâu trong chiến

Thiên Lan Khảo Bút 210 Bần Sĩ Vô Danh

Tình Yêu

Tình yêu là đề tài sống động vô biên, là nguồn sinh lực huyền diệu thúc đẩy con người vượt qua mọi gian lao thử thách trên đường hành đạo. Phải có tình yêu đạo pháp nồng nàn mới mang Phật pháp ban rải cho người. Tôi xuất thân là một sĩ quan trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào thời chiến, là phi công hằng ngày nhận lãnh phi vụ nhào lộn trên chiến trường khốc liệt. Trong những chuyến đi mây về gió trên bầu trời tràn ngập khói lửa, tôi không ngờ có một ngày nào đó mình mang Phật pháp đi truyền rao cho khắp bá tánh. Nguyên do cũng bởi tôi có thêm một nghề thứ hai là nghề viết văn, viết báo. Một nghề phi công trong thời chiến đã là bận rộn rồi, huống gì tôi phải vương mang thêm nghề thứ hai viết văn, cái nghề buộc phải suy tư trằn trọc cả ngày lẫn đêm. Thôi thì tằm ăn lá dâu thì phải nhả tơ. Suốt thời binh lửa, tôi hai vai gánh nặng vừa nghiệp võ vừa nghiệp văn. Có lắm lúc máy bay tôi bị trúng đạn súng AK của du

kích, và rồi cũng có khi tôi bị chấn thương nặng bởi bom pháo đài bay B52 của Mỹ ở rừng sâu trong chiến khu R. Tôi đã lỡ chấp nhận số phận mình là người lang thang qua chiến tranh, tôi có mặt cả hai bên chiến tuyến trong cuộc chiến khốc liệt ở Việt Nam. Nhà thơ Thanh Thảo viết quyển Lang Thang Qua Chiến Tranh, nhưng Thanh Thảo lang thang qua chỉ có một chiến tuyến, còn tôi thì lang thang qua chiến tranh cả hai chiến tuyến. Chưa hết, sau này tôi lại mạo hiểm vượt biên bằng thuyền bao ngày lênh đênh trên đại dương dập dồi sóng gió không biết mình sẽ trôi dạt về đâu? Pháp, Đức, Mỹ, Ý, Úc…Diêm Vương? Thật là trăm đắng ngàn cay, hiểm nguy như ngàn cân treo sợi tóc. Vậy mà nay tôi vẫn vui với Phật pháp, tuổi đời gần 80 còn mài miệt khảo cứu bút tích Bửu Sơn Kỳ Hương. Và cuối cùng tôi lang thang qua Phật Pháp, trường chay, thiền niệm Phật…

Vào cuối thập niên 80, tôi có dịp nghe Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết pháp trong băng cassette. Ngài ứng khẩu thuyết ra văn thơ đạo lý với giọng trầm bổng có sức truyền cảm đặc biệt.

Xuất thân là Người Thiện Nữ Cư Sĩ dốt viết không rành văn tự, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh dụng thần thông ứng khẩu thuyết pháp thao thao bất tuyệt, thuyết bằng nhiều giọng điệu khi ngâm

Page 2: Thiên Lan Khảo Bút 210 Bần Sĩ Vô Danh · kích, và rồi cũng có khi tôi bị chấn thương nặng bởi bom pháo đài bay B52 của Mỹ ở rừng sâu trong chiến

Thiên Lan Khảo Bút 211 Bần Sĩ Vô Danh

thơ, khi hát hò, khi nói vè lô tô…Tài ứng khẩu văn thơ đạo lý của một người dốt chữ như Ngài đã thuyết phục gã nhà văn phi công như tôi. Từ đó tôi say mê nghe pháp do Ngài ứng khẩu thuyết. Và sau này tôi bắt đầu đánh máy rồi in thành sách từ những băng cassette mà Ngài đã thuyết; trong thời buổi khó khăn sau năm 1975, bất kể gian nguy tù tội, Ngài dày công lặn lội du thuyết qua những nơi như Giồng Riềng, Kinh Đào, Rạch Giá, Phú Thuận, Vàm Cống, Cà Mau, Vũng Tàu, Cần Đước…Kể từ thập niên 90 trở đi, tôi biên tập cho ra đời những quyển kinh sấm Cứu Nguy Tận Thế, Quay Về Nguồn Cội, Tinh Hoa Đàn Kinh, Hòa Đồng Tôn Giáo, Sấm

Giảng Đạo Khùng, Sấm Giảng Thất Sơn, Suy Đời Luận Đạo…Muốn làm được việc in kinh sách như trên, tôi phải sưu tầm băng cassette do Đức Cậu thuyết, rồi lắng tai nghe thật kỹ từng câu kinh kệ, và đánh máy. Cứ thế mà tôi say mê làm việc bất kể ngày đêm, bất kể cực nhọc. Trời cao không phụ người có tấm lòng thành, bạn đạo khắp nơi hưởng ứng tích cực đóng góp tài vật in kinh. Khi tôi chuẩn bị quyên góp tiền để in 2.000 quyển Suy Đời Luận Đạo, cơ may bạn đạo Hữu Phước ở California liền hưởng ứng, một mình Hữu Phước cúng nhường số tiền khá lớn là 6 ngàn đô Mỹ trang trải chi phí in ấn quyển Suy Đời Luận Đạo, {6 ngàn đô cách nay gần 20 năm so với bây giờ trị giá rất lớn}. Cái khó là tôi phải chịu cực ngồi suốt ngày, và ngồi cả ban đêm thức đến 1 hoặc 2 giờ, bấm nút mở máy cassette, nghe từng câu văn thơ do Đức Cậu thuyết, rồi đánh máy. Băng cũ, sang ra nghe nhiều lần bị nhão, âm thanh nghe không rõ, có khi một câu mà tôi cứ phải mất công nghe đi nghe lại năm bảy lần. Gian nan lắm! Rồi có khi người đời dèm pha rằng ông Kỳ Vân ơi, hơi đâu mà ông nghe một người dốt như Đức Cậu Bần Sĩ. Thời buổi văn minh khoa học hiện đại người ta chỉ tin ở những việc làm thực tiển, tiền bạc tỉ tỉ, bằng cấp thạc sĩ, tiến sĩ, giáo sư…Nay nhơn loại tận hưởng phương tiện văn minh tột đỉnh, thế giới đang tiến lên đại đồng hòa bình. Thằng Mỹ nó đã bỏ Việt Nam, nó rút quân chạy về bên nước nó lâu rồi, nó đã chán chê cái nước Việt Nam nghèo khổ lắm rồi, vậy mà không hiểu tại sao ông Kỳ Vân cứ tin Bần Sĩ tiên tri Mỹ sẽ trở lại Việt Nam, quân Mỹ sẽ quay lại Đông Nam Á, Mỹ sẽ đóng vai tuồng diễn Gánh Hát Bình Dương. Thế Chiến Ba sắp bùng nổ. Toàn là tiên tri chuyện hoang đường!

Page 3: Thiên Lan Khảo Bút 210 Bần Sĩ Vô Danh · kích, và rồi cũng có khi tôi bị chấn thương nặng bởi bom pháo đài bay B52 của Mỹ ở rừng sâu trong chiến

Thiên Lan Khảo Bút 212 Bần Sĩ Vô Danh

Đó là kể chuyện đời xưa {trước năm 2 ngàn}. Bây giờ thì Đức Cậu Bần Sĩ cũng vẫn tiếp tục sứ mạng ứng khẩu thuyết pháp trên đường du phương hành đạo Cửu Long, núi Cấm, núi Tà Lơn, Lan Thiên, Mã Lai, Singapore, Trung Quốc, Úc…Tiếng nói của Ngài được thâu âm vào máy, {Đặc biệt ở Úc tại Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney, Ngài ứng khẩu thuyết thu hình nhiều dĩa DVD}; nhưng có khác so với trước kia, là đôi khi Đức Cậu ngồi chậm rãi ứng khẩu đọc sấm giảng cho đệ tử ghi chép rồi in thành sách như quyển Đường Về Tà Lơn, Thiên Lan Khảo Bút. Những đồng đạo Diệu Hà, Diệu Hương, Diệu Dung, Sáu Nhung, Thái Bình, Ngọc Sương, Quỳnh Như… đã chịu cực góp công ghi chép và chuyển bài vở về Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney để kết thành tập ấn hành. Thành tựu ấn hành sách kinh xuất phát từ tình yêu đạo pháp, những người đệ tử nguyện thực hiện tình yêu vô tận như Đức Huỳnh Giáo Chủ đã thuyết:

TA có tình yêu rất đượm nồng, Yêu đời yêu lẫn cả non sông; Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ, Không thể yêu riêng khách má hồng

Nếu khách má hồng muốn được yêu

Thì trong tâm chí hãy xoay chiều; Hướng về phụng sự cho nhơn loại Sẽ gặp tình TA trong khối yêu.

TA đã đa mang một khối tình, Dường như thệ hải với sơn minh; Tình yêu mà chẳng riêng ai cả, Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh.

(Miền Đông, năm 1946. Một thiếu nữ ở Sài Gòn thầm yêu Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ trong khi Ngài còn lẫn tránh quân xâm lăng; thấy vậy Thầy viết 3 bài thi Tình Yêu trên để cảnh tỉnh cô ấy.)

Đức Thầy đã ra đi, và để lại cho đệ tử nguồn Tình Yêu quý báu vô cùng. Nhưng than ôi, Thầy khổ đau rớt nước mắt khi phải hạ bút viết những dòng tiên tri thật là bi thương:

Thơ xướng 1.

Ớ ớ HẰNG NGA dám hỏi đon, Cớ sao khi khuyết lại khi tròn? Ba mươi mùng một đi đâu vắng? Nay về hỏi đặng mấy thằng con?

Thơ họa 1.

Cõi thế nhìn TA gọi tiếng đon, Phàm nhơn chẳng rõ nói eo tròn; Hoàn cầu luân chuyển nên mờ mắt Tháng cuối rồi qua cũng một con.

(Thơ HẰNG NGA do Đức Huỳnh Giáo Chủ viết ở làng Nhơn Nghĩa ngày 14-6-1940)

Page 4: Thiên Lan Khảo Bút 210 Bần Sĩ Vô Danh · kích, và rồi cũng có khi tôi bị chấn thương nặng bởi bom pháo đài bay B52 của Mỹ ở rừng sâu trong chiến

Thiên Lan Khảo Bút 213 Bần Sĩ Vô Danh

Bài thơ xướng, cụm từ HẰNG NGA ám chỉ Thầy tái sanh mượn xác Nữ {Hằng Nga}; bài thơ họa, chữ TA ám chỉ hồn linh của Ngài là Phật Thầy. Thơ xướng và họa ngụ ý rằng Ngài có đệ tử đông, nhưng khi Ngài trở lại tìm con đạo, vì nghịch cảnh và cũng vì thử lòng đệ tử, Ngài mượn xác Nữ để phá chấp tướng, do vậy phần đông đệ tử xa lánh Ngài. Câu xướng hỏi: Nay về hỏi đặng mấy thằng con? Và câu họa đáp: Tháng cuối rồi qua cũng một con! Đúng là : Thầy có đệ tử đông, ngày Thầy trở lại xuồng vông không đầy. Chính vì vậy, ngày xưa Đức Thầy bảo: Để mấy gốc dừa ở Tổ Đình đặng sau này TA trở về, đệ tử TA tức mà đập đầu vào gốc dừa vì quá hối hận. Thầy đã dạy trò môn vô vi chánh pháp. Nhưng vì tâm phàm nẩy sanh, không kềm giữ được sáu con ma lòng, trò bị lọt vào mê hồn trận thập bát chư hầu bao vây kẽm gai chằn chịt không lối thoát, chấp tướng {nói eo tròn}, chấp danh, chấp tiền tài vật chất {Hoàn cầu luân chuyển}, nên phải bị mù quáng {mờ mắt}, Thầy về đứng trước mặt trò, nhưng trò vẫn không thấy. Thầy về kiểm đạo, bòn mót thấy không còn bao nhiêu con đạo, quá ít oi, Thầy đau lòng than thở:

Cõi thế nhìn TA gọi tiếng đon, Phàm nhơn chẳng rõ nói eo tròn. Hoàn cầu luân chuyển nên mờ mắt,

Tháng cuối rồi qua cũng một con!

Trò mộng tưởng Thầy về với hình tướng oai phong lẫm liệt, ngồi bệ vệ trên ngôi vị cao sang, chớ trò nào ngờ Thầy về tướng nữ dốt viết không rành văn tự.

Tưởng rằng Cậu ở lầu son, Con tìm gặp Cậu thon von châu mày.

Tưởng rằng Cậu ở lầu đài, Ai dè Cậu tợ ăn mày tả tơi.

Tưởng rằng Cậu ở ngôi Trời, Xác thân đẹp đẽ tuyệt vời xa xa.

Ai ngờ như quỷ như ma, Nói đây đồng đạo cả nhà mến thương.

Tưởng rằng Cậu ở tòa chương, Đâu ngờ Cậu lại phơi xương biển hồ.

Page 5: Thiên Lan Khảo Bút 210 Bần Sĩ Vô Danh · kích, và rồi cũng có khi tôi bị chấn thương nặng bởi bom pháo đài bay B52 của Mỹ ở rừng sâu trong chiến

Thiên Lan Khảo Bút 214 Bần Sĩ Vô Danh

Tưởng rằng má phấn đấp tô, Ai dè ngó Cậu trầm trồ biết bao!

Ăn xin thân phận ngạt ngào, Xin ân xin đức đồng bào ráng cho.

Xin Thầy độ bữa cơm no, Thân này khổ sở biển gò sang qua.

……………………………………………………………..

Tưởng rằng đeo đẳng vàng râm, Ai dè Cậu lại giả câm giả khùng. Tưởng rằng Cậu lại anh hùng,

Dè đâu Cậu khổ Cậu khùng ngày nay. Bá gia bá tánh an bài,

Nhắc cho đồng đạo ngày nay đặng nhờ. Tưởng rằng Cậu hãy tôn thờ,

Ai dè trôi dạt bên bờ sông dương…

(trích mặt B băng cassette do Đức Cậu Bần Sĩ thuyết ở Kinh Đào năm 1990, kết tập sách Phật Di Lạc Giáng Thế tr. 119-120, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1998)

Tu đâu có dễ. Năm 1947, Thầy dấn thân vào Đốc Vàng vắng bóng biền biệt, phải thử thách khiến trò trải qua bao cạm bẫy chông gai trăm cay ngàn đắng coi trò có chịu đựng nổi không, có nhẫn nhịn nổi không. Nhẫn đợi thời cơ, đừng vội bôn chôn nóng nảy hư công cuộc hoằng pháp trong Đại Hội Long Hoa đang tới cận kề. Phải chăng chỉ có tình yêu đạo pháp cao cả mới vượt qua bao thử thách gian nan, như Đức Thầy đã từng thổ lộ trong bài thơ Tình Yêu:

TA đã đa mang một khối tình, Dường như thệ hải với sơn minh. Tình yêu mà chẳng riêng ai cả, Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh. Đức Thầy

Đúng vậy, có tình yêu mới có lòng từ bi hy sinh trên đường hành đạo. Tình Yêu là suối nguồn sinh động trong cõi ta bà, và cũng là nguồn lực huyền diệu trong vũ trụ vận hành biến thành nhịp điệu chan hòa cho tất cả vạn vật sanh linh tiến hóa mãi mãi. Ôi tình yêu thật là bất tận! nhưng với khả năng phàm đời tôi gượng tỏ bày chỉ bằng mấy dòng thô thiển. Cầu mong được thứ lỗi.

Sydney, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo xong ngày 30-5-2015.