Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
hoav
BP.NGHIÊN CỨU&PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (08) 38 469 516 (1813/1815) – [e] [email protected]
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt lộ trình phát
triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017 - 2020, tầm
nhìn đến năm 2030. Theo đó, Chính phủ thống nhất
phấn đấu đưa dư nợ thị trường trái phiếu đạt khoảng
45% GDP vào năm 2020 và khoảng 65% GDP vào
năm 2030, trong đó dư nợ thị trường trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính
quyền địa phương đạt khoảng 38% GDP vào năm 2020
và khoảng 45% GDP vào năm 2030, dư nợ thị trường
trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 7% GDP vào năm
2020 và khoảng 20% GDP vào năm 2030.
Tin nổi bật
Dư nợ thị trường trái phiếu đạt 45% GDP trong 3
năm tới
Tăng trưởng tín dụng: Áp lực đè nặng
Nghị quyết thí điểm xử lý nợ xấu: Cây đũa thần
chỉ ứng nghiệm với quá khứ
Tăng VAT lên 12% tác động gì đến kinh tế?
Biên bản họp FED tháng 7: các thành viên chia
rẽ về tiến trình tăng lãi suất
Châu Á đang dần mất khả năng thanh toán các
khoản nợ của mình
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 16/8)
VN - Index 773,57 0,33%
HNX - Index 101,74 0,44%
D.JONES CK Mỹ 22.024,87 0,12%
STOXX CK C.Âu 3.484,57 0,65%
CSI 300 CK TQ 3.701,42 0,13%
Vàng (SJC cập nhật lúc 08h25 ngày 17/8)
SJC Ng.đ/L 36.460 0,30%
Quốc tế USD/Oz 1.276,90 0,25%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.450 - 0,00%
EUR/USD 1.1767 0,21%
Dầu
WTI USD/th 46,84 1,78%
6
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Dư nợ thị trường trái phiếu đạt 45%
GDP 3 năm tới
Thủ tướng vừa phê duyệt lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017
- 2020, tầm nhìn đến 2030. Theo đó, phấn đấu đưa dư nợ thị trường trái phiếu
đạt khoảng 45% GDP vào 2020 và khoảng 65% GDP vào 2030, trong đó dư
nợ thị trường TPCP, TPCP bảo lãnh và trái phiếu chính quyền (TPCQ) địa
phương đạt khoảng 38% GDP vào 2020 và khoảng 45% GDP vào 2030, dư nợ
thị trường TPDN đạt khoảng 7% GDP vào 2020 và khoảng 20% GDP vào
2030. Phấn đấu kỳ hạn BQ danh mục phát hành TPCP trong nước giai đoạn
2017-2020 đạt 6-7 năm; giai đoạn 2021-2030 đạt 7-8 năm. Tăng khối lượng
giao dịch TPCP, TPCP phủ bảo lãnh và TPCQ địa phương BQ phiên lên mức
1% dư nợ trái phiếu niêm yết vào 2020 và 2% dư nợ trái phiếu niêm yết vào
2030; tăng tỷ trọng TPCP do các công ty bảo hiểm, BHXH, quỹ hưu trí, quỹ
đầu tư và các tổ chức tài chính phi NH nắm giữ lên mức 50% vào 2020 và mức
60% vào 2030. Để đạt được mục tiêu trên, trong 2017-2020 sẽ hoàn thiện
khung khổ chính sách về thị trường trái phiếu; phát triển thị trường sơ cấp, thứ
cấp; phát triển và đa dạng hóa hệ thống NĐT; phát triển định chế trung gian và
DV thị trường... Cụ thể, về thị trường sơ cấp, đa dạng hóa các sản phẩm
TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQ địa phương để đáp ứng
nhu cầu đầu tư của NĐT, thiết lập các sản phẩm tài chính và đường cong LS
chuẩn trên thị trường tài chính; tiếp tục tập trung phát hành TPCP, trái phiếu
được Chính phủ bảo lãnh theo phương thức đấu thầu. Về thị trường thứ cấp,
cải tiến mô hình tổ chức thị trường và hệ thống giao dịch TPCP, trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh và TPCQ địa phương tại SGDCK phù hợp với tính chất
giao dịch thỏa thuận, bảo đảm chế độ báo cáo giao dịch kịp thời, chính xác để
XD đường cong LS chuẩn trên thị trường; tăng cường trách nhiệm của thành
viên thị trường thứ cấp trong công tác báo cáo giao dịch; nghiên cứu XD
chuyên trang thông tin về TPDN tại SGDCK để cung cấp thông tin về tình hình
phát hành, giao dịch TPDN, thúc đẩy giao dịch thứ cấp TPDN.
Tăng trưởng tín dụng: Áp lực đè nặng
Thủ tướng mới đây tiếp tục đề nghị NHNN điều hành CSTT theo hướng giảm
LS cho vay, đưa TTTD lên ≥20% đến cuối 2017. Sự quyết liệt này của Chính
phủ theo một số chuyên gia là tích cực nhưng sức ép lên hệ thống NH cũng
không nhỏ… PGS-TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo cho rằng, việc NHNN chỉ đạo
NHTM hạ LS cho vay ở một số lĩnh vực, hoặc thậm chí mở thêm room tín dụng
để NHTM tăng trưởng cho vay, xét đến cùng chỉ là động thái ở phía nguồn
cung tiền. Trong khi đó, nếu muốn nguồn tín dụng tăng trưởng thực chất và
bền vững thì cần phải chú ý đến sức hấp thụ vốn của nền KT. Về khả năng
Tài chính – Ngân hàng
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
xem xét nới room tín dụng cho một số NHTM đã cạn room tăng trưởng, việc có
nới thêm hay không chắc chắn NHNN sẽ có các tính toán chặt chẽ để đưa ra
mức tăng trưởng phù hợp. Tuy nhiên, việc tăng thêm một lượng vốn tín dụng
nhờ nới room cho một số NHTMCP sẽ không quá ảnh hưởng đến các chỉ tiêu
KTVM. Bởi các chỉ số tăng trưởng KT còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tỷ
giá, thị trường vốn, CK và giá cả hàng hóa. Điều quan trọng là Chính phủ và
các bộ, ngành phải tạo ra môi trường thuận lợi để DN ở các ngành, lĩnh vực ưu
tiên tiếp cận được nguồn vốn vay NH, đồng thời tiết giảm được các thủ tục
hành chính - đầu tư và các chi phí ngoài lãi vay. Có như vậy thì việc giảm LS
cho vay và mở thêm room TTTD của hệ thống NH nếu có mới ý nghĩa và mang
lại lợi ích thực thụ cho nền KT… Theo chuyên gia Phan Ngọc Minh, nếu buộc
phải đảm bảo mức TTTD >20% thì trách nhiệm điều hành CSTT của NHNN
các tháng cuối năm sẽ trở nên nặng nề và khó khăn hơn. Bởi một mặt NHNN
phải kiểm soát mức tăng trưởng một mặt vẫn phải đặt ưu tiên lên hàng đầu là
kiềm chế lạm phát <5% trong năm nay, trong khi lạm phát trung bình nửa đầu
năm đã đạt >4%. Những động thái gần đây của NHNN như việc cắt giảm LS
điều hành khiêm tốn ở mức 0,25 điểm % và chỉ đạo NHTM giảm LS cho vay
0,5-1 điểm %/năm cho thấy chủ trương của NHNN có thể là vẫn giữ mức TTTD
ổn định trong 2017. Việc này có thể ảnh hưởng phần nào đến doanh thu và LN
của một số NHTM nhưng lại giúp nhà điều hành kiểm soát tốt hơn các rủi ro
tiềm ẩn về KTVM. Nếu 2017 TTTD đạt mục tiêu như kế hoạch đầu năm nay đề
ra thì tỷ lệ Tín dụng/GDP sẽ tiếp tục nới rộng và mức độ rủi ro ổn định tài chính
sẽ cao hơn và lợi ích từ sự tăng trưởng này sẽ không đáng với chi phí.
Nghị quyết thí điểm xử lý nợ xấu: Cây
đũa thần chỉ ứng nghiệm với quá khứ
Việc ra đời Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu giúp xác định rõ ràng một số cách
thức cụ thể để xử lý triệt để nợ xấu - vốn được các chuyên gia nhận định phải
đi từ TSĐB và đem lại dòng tiền thực sự. Nội dung bao trùm là các quy định về
xử lý nợ xấu và TSĐB, mua bán nợ dưới giá trị sổ sách, bên cạnh đó là trao
quyền, nghĩa vụ cho các đơn vị có liên quan trong việc xử lý. Thời gian hiệu lực
trong vòng 5 năm có thể là không dài nhưng cần lưu ý rằng phần nợ xấu thuộc
phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết chỉ tính từ ngày có hiệu lực (15/8) trở về
trước. Hay nói cách khác, cây đũa thần này không phải hướng tới tương lai mà
chỉ ứng nghiệm với những khoản nợ xấu trong quá khứ - phát sinh trước ngày
15/8 của các TCTD… Theo VDSC, các nội dung liên quan đến mua bán nợ là
điểm nổi bật nhất của Nghị quyết này, đặc biệt là việc mở đường cho sự tham
gia của các chủ thể khác (không cần có chức năng KD mua, bán nợ) và bán nợ
theo giá thị trường. Việc bán nợ phù hợp với giá thị trường có thể mang ý nghĩa
lớn với những bên bán nợ có yếu tố Nhà nước nhưng việc các tổ chức có hào
hứng tham gia hay không lại là vấn đề khác. Lý do được đưa ra là nếu trong
quá khứ các TSĐB được định giá cao hơn nhiều sv giá trị thực, việc bán nợ
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
theo giá thực tế có thể gây lỗ lớn cho tổ chức bán nợ… Theo điểm a, Khoản 1,
Điều 16 của Nghị định 42, mức phân bổ hằng năm lãi dự thu, chênh lệch khi
bán khoản nợ xấu tối thiểu phải là mức chênh lệch thu chi từ KQKD hằng năm
của TCTD. Nói cách khác, nếu chênh lệch quá lớn, NH có thể sẽ báo lỗ. Hoặc
trong trường hợp giá trị TSĐB hiện tại quá rẻ mạt, việc trích lập sẽ không khác
gì sv bán nợ cho VAMC, bởi thời hạn trích lập phần chênh lệch tối đa là 5 năm.
Trong khi bán cho VAMC việc trích lập dự phòng được chia đều qua các năm,
thay vì căn cứ theo kết quả hoạt động. Ngoài ra, việc định giá các khoản nợ
xấu sao cho minh bạch, đúng giá trị thị trường để không dẫn đến hiện tượng
tiêu cực, bị trục lợi trong khi bán cũng là vấn đề. Thực tế là hiện tại thị trường
vẫn còn rất thiếu cơ quan định giá và định mức tín nhiệm khách quan, chuyên
nghiệp. Riêng đối với TSĐB là BĐS, theo VDSC, quá trình xử lý nợ xấu sẽ
chuyển hóa tài sản từ dạng “bất động” thành tài sản “lưu động”. Tuy nhiên, việc
xử lý có thể tạo ra áp lực dư cung cho thị trường này trong tương lai, đặc biệt
khi sự bùng nổ trong các phân khúc BĐS dân dụng phát triển nhanh trở lại.
Còn hơn 100.000 tỷ đồng vốn Nhà
nước tại doanh nghiệp cần bán
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Đặng Huy Đông cho biết, tổng số DN còn vốn Nhà
nước (không tính DN thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, UBND Tp.HCM, SCIC, các
DN bán vốn theo QĐ riêng của Thủ tướng) là 375 DN với tổng vốn khoảng 108.502
tỷ đồng - tính theo mệnh giá. Tổng số vốn dự kiến thoái trong 2017- 2020 theo
mệnh giá là 64.457 tỷ đồng. Bộ đã dự thảo danh mục DN cụ thể cần bán vốn
theo từng năm khi 2017 sẽ bán vốn tại 161 DN, 2018 là bán vốn tại 185 DN,
2019 tại 65 DN và 2020 là tại 25 DN. Từ đầu năm đến nay, Bộ đã rà soát và
lấy ý kiến đủ các bộ, địa phương để lập danh mục theo nguyên tắc: Đối tượng
rà soát là công ty cổ phần, công ty TNHH 2 thành viên trở lên có vốn Nhà nước
- không rà soát DN cấp 2 trở xuống; xác định tỷ lệ thoái vốn hàng năm căn cứ
tiêu chí DNNN tại QĐ số 58 của Thủ tướng và lộ trình thoái vốn hàng năm theo
Chỉ thị số 24 của Thủ tướng về giải pháp thúc đẩy tăng trưởng ngành, lĩnh vực
trong 2017 và NQ số 26/2016/QH14 của Quốc hội về kế hoạch đầu tư công
trung hạn 2016- 2020. Riêng 2017, thoái vốn là 60.000 tỷ đồng để bảo đảm
nguồn thu từ CPH. Dự kiến 6th cuối năm, các DN sẽ thoái theo mệnh giá là hơn
19.779 tỷ đồng - tính sơ bộ theo giá trị niêm yết có thể mang lại tới gần 30.000
tỷ đồng. Ngoài ra, dự thảo Quyết định của Thủ tướng y/c bán vốn tại các DN
cấp 1 này minh bạch, đúng quy định và theo cơ chế thị trường. Với các DNcó
quy mô vốn lớn thì bán vốn thành một số đợt nhưng mỗi đợt phải ở mức từ 20-
36% tổng số vốn cần thoái để tạo hấp dẫn với NĐT…
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
[Infographic] Thu ngân sách Nhà nước
tăng 11,6% trong 7 tháng đầu năm
Trong tháng 7, tổng thu NSNN ước đạt 98.900 tỷ đồng, 11.500 tỷ đồng sv
tháng 6, lũy kế 7 tháng ước đạt 666.680 tỷ đồng, bằng 55% dự toán năm,
11,6% sv cùng kỳ 2016..
Kinh tế Việt Nam
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Tăng VAT lên 12% tác động gì đến
kinh tế Việt Nam?
Trước đề xuất tăng thuế GTGT (VAT) của Bộ Tài chính, một số chuyên gia KT
đánh giá tác động dự kiến của việc tăng thuế này (nếu được thông qua) đối với
nền KT như sau: (i) TS. Bùi Trinh: Tăng VAT chia nghĩa vụ thuế lên vai toàn
dân - VAT là một loại thuế gián thu, tức là DN đóng hộ người tiêu dùng. Tăng
VAT tức là toàn dân sẽ phải gánh chịu khi tiêu dùng bất kể sản phẩm gì dù là
SX trong nước hay NK. Tăng VAT mà giảm thuế thu nhập là một hình thức
đứng về phía người giàu, chia nghĩa vụ thuế lên vai toàn dân. Chênh lệch thu
nhập BQ đầu người/tháng của nhóm thu nhập cao sv nhóm thu nhập thấp
2010 là 9,2 lần; 2014 là 9,7 lần. Do vậy, việc tăng thuế sẽ khiến người nghèo
càng nghèo hơn, khoảng cách giàu nghèo cũng vì thế mà cách xa hơn. Đối với
câu chuyện tác động KT nói chung, có thể thấy GDP = Tổng giá trị gia tăng
theo giá cơ bản + VAT. Do đó, tăng thuế này nhìn thoáng qua tưởng chừng
như có thể làm tăng GDP trong tức thời nhưng thực tế lại làm suy giảm nguồn
lực của nền KT ở những chu kỳ SX sau. Bởi việc tăng VAT sẽ dẫn đến chỉ số
giá SX (PPI) của nền KT tăng lên khiến cho CPI cũng tăng theo. Như vậy, thực
chất GDP không tăng lên mà thậm chí giảm đi ở ngay chu kỳ SX sau đó. Ở
những chu kỳ SX tiếp theo tăng trưởng GDP chắc chắn sẽ khó khăn; (ii) PGS.
TS. Ngô Trí Long - Tăng VAT không phải là biện pháp duy nhất! Tăng thuế
gián thu là một biện pháp khá phổ biến trong bối cảnh nợ công tăng cao, ngân
sách thiếu hụt nhưng không phải là biện pháp duy nhất. Việc tăng VAT đồng
loạt khi Bộ Tài chính đề xuất chuyển một loạt hàng hoá từ không chịu VAT lên
chịu VAT, từ mức 5% lên 10% và tăng mức VAT thông thường từ 10% lên 12%
sẽ tác động không tốt đến hoạt động SX, tiêu dùng, nhất là trong bối cảnh cầu
tiêu dùng chưa thực sự cải thiện. Như vậy, mục đích tăng ngân sách sẽ không
được như ý. Lúc này, phải xem xét lại, điều tiết tái cơ cấu nguồn thu chi. Thậm
chí nên giảm thuế để kích thích tiêu dùng, như thế tổng nguồn thu về có thể
lớn hơn cả đề xuất trên…; (iii) TS. Đinh Tuấn Minh: Tăng thuế gián thu là xu
hướng chung của thế giới! Thế giới đang có xu hướng chung chuyển sang giảm
thuế TNDN, thuế TNCN chuyển sang thuế tiêu dùng. VN cũng không ngoại lệ
khi đang giảm những sắc thuế trên. Tuy nhiên, khi giảm những cái này thì
đồng thời phải tìm nguồn thu khác bù vào, ở đây là thuế gián thu hay còn gọi là
VAT.Phải nhìn kỹ vào đề xuất của Bộ Tài chính, có thể Bộ đang trong lộ trình
như thế, cố gắng giảm thuế TNDN và thuế TNCN. Thuế TNDN cần phải giảm
để tạo sức cạnh tranh cho DN, còn giảm thuế TNCN là một hình thức để thu
hút, giữ chân người tài. Lộ trình dài hơi là như vậy. Xu hướng này cũng đang
diễn ra ở Mỹ. Hiện họ đang cắt giảm mạnh thuế TNDN cũng như giảm biểu
thuế TNCN và bù đắp bằng tăng VAT. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh rằng phải
xem xét xem VN có đang trong xu hướng chung đó không. Nghĩa là đòi hỏi Bộ
Tài chính khi tăng VAT phải đưa ra được lộ trình giảm thuế TNDN, thuế TNCN
như thế nào, giảm được gánh nặng gì cho DN....
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Toanf
Mỹ - Biên bản họp FED tháng 7: chia rẽ
về tiến trình tăng lãi suất
Các quan chức FED dường như đang chia rẽ về triển vọng tăng LS: Một bên lo
ngại về môi trường LS thấp được duy trì quá lâu trong bên còn lại cho rằng mặt
bằng giá cả vẫn chưa cải thiện rõ rệt. Biên bản cuộc họp tháng 7 của Ủy ban
Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đã tiết lộ sự chia rẽ này, khi các nhà hoạch
định chính sách của FED bỏ phiếu giữ nguyên LS liên bang ở mức 1-1,25%.
Biên bản cho rằng, lạm phát cuối cùng sẽ đạt mức mục tiêu 2% nhưng rõ ràng
là còn. "Một số thành viên" đã bày tỏ "mối quan ngại về sự suy giảm lạm phát
gần đây" và FED "nên kiên nhẫn trong hoàn cảnh hiện tại". Họ "không ủng hộ
việc nâng LS thêm" cho đến khi FED chắc chắn rằng lạm phát đang đi đúng
hướng. Mặt khác, các thành viên muốn nâng LS hơn "lo lắng về những rủi ro
phát sinh từ một thị trường lao động đã đạt mức toàn dụng nhân công và dự
kiến sẽ còn cải thiện hơn nữa". Việc trì hoãn nâng LS có thể khiến FED đã bỏ
qua chỉ tiêu việc làm và gây bất ổn về tài chính. Tuy nhiên, lạm phát vẫn chưa
đạt được mục tiêu mà FED đề ra. Chỉ số tiêu dùng cá nhân cốt lõi chỉ 1,5%
tính theo năm, theo số liệu gần nhất. Điều đó đã làm dấy lên mối quan ngại v/v
tại sao FED vẫn tăng LS khi mà các mục tiêu họ đề ra vẫn chưa đạt được. Mặc
dù vậy, các thành viên dường như đồng thuận mạnh mẽ hơn trong kế hoạch
thu hẹp bảng cân đối kế toán 4.500 tỷ USD của FED. Các thành viên nhất trí
rằng quá trình thu hẹp bảng cân đối kế toán sẽ bắt đầu "tương đối sớm" và
cũng đề đạt là FED nên quyết định thời điểm cụ thể. Các nhà quan sát của
FED dự kiến cơ quan này sẽ công bố kế hoạch này tại cuộc họp tháng 9 và bắt
đầu thực hiện ngay sau đó. Theo kế hoạch này, FED sẽ không tái đầu tư toàn
bộ số tiền mà họ thu được từ trái phiếu mà họ đã mua. Đánh giá về nền KT,
các thành viên của FOMC phần lớn đưa ra những lời nhận xét tích cực, đặc
biệt trong các lĩnh vực việc làm và chi tiêu hộ gia đình. Tuy nhiên, biên bản này
phản ánh mối lo ngại về doanh thu bán lẻ yếu trong tháng 6 và lương chưa
tăng đáng kể. Đồng thời, không kỳ vọng nhiều vào các chính sách tài khóa của
Tổng thống Trump về cải cách thuế và chi tiêu cho CSHT.
Châu Á - Đang dần mất khả năng thanh
toán các khoản nợ của mình
Các thị trường tín dụng ở Châu Á hiện là một ví dụ điển hình cho nhận định của
Warren Buffett: "Chỉ khi thủy triều rút đi thì mà bạn mới biết ai đang bơi mà
không mặc quần áo". Bây giờ là lúc thủy triều chưa rút. Moody's Investors
Service cho biết Châu Á sẽ có tỷ lệ vỡ nợ tương đối thấp là 2,9% vào cuối năm
2017. Số DN phá sản trong ngành công nghiệp công nghệ có thể sẽ nhiều hơn
sv các ngành công nghiệp khai thác mỏ và kim loại, nơi thu hút nhiều sự chú ý
nhất trong 2016. Cả Moody's và S&P Global Ratings đều cho rằng nguy cơ lớn
nhất là tốc độ thu hẹp chính sách nới lỏng tiền tệ của các nền KT lớn, đặc biệt
Kinh tế Quốc tế
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
là Mỹ. Trong lúc các nước này chưa làm điều đó, mọi thứ có thể vẫn sẽ bình
ổn. Vào đầu năm 2015, khi cuộc khủng hoảng hàng hóa đang diễn ra, 13 trái
phiếu dưới chuẩn đầu tư tại Châu Á - Thái Bình Dương đã bị cả 3 công ty xếp
hạng uy tín nhất thế giới đánh giá tiêu cực. Hiện nay đã có 17 trái phiếu như
vậy, phần lớn vẫn là các tập đoàn BĐS TQ. Tổng dư nợ của các tổ chức phát
hành những trái phiếu này đã tăng từ mức 5,2 tỷ USD lên 6,5 tỷ USD. Con số
trên là không có gì quá bất thường, khi tổng giá trị trái phiếu “rác” của các công
ty có xếp hạng tiêu cực trên khắp thế giới hiện đã vượt quá 100 tỷ USD. Vấn
đề là vẫn còn rất nhiều trái phiếu chưa được đánh giá (unrated bonds) và đây
là phân khúc có rất nhiều rủi ro. Liệu tình hình rồi sẽ được cải thiện? Có lẽ
chiến dịch giảm tỷ lệ đòn bẩy của TQ sẽ tạo ra điều kỳ diệu, hoặc có lẽ LN của
các công ty có gánh nặng nợ lớn sẽ tăng lên. Tuy nhiên, một viễn cảnh khác là
khi thị trường nhà ở TQ chậm lại và giá thuê văn phòng suy giảm, các tập đoàn
BĐS - vốn có chất lượng tín dụng đang suy giảm - sẽ đối mặt với thời khắc khó
khăn… Tại Ấn Độ, tình trạng cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông của nước
này đã khiến Moody's hạ xếp hạng trái phiếu của Reliance Communications
xuống 7 bậc (từ Ba3 vào tháng 5 năm 2015 tới Ca như hiện tại). Làn sóng hạ
bậc tín dụng cũng có thể lan ra từ đây. Ngoài ra, tình trạng bấp bênh của
ngành công nghiệp năng lượng cũng làm cho NH và trái chủ lo lắng… Những
DN nặng nợ tại châu Á sẽ phải cuống cuồng tìm nguồn vốn mới, thay thế cho
những khoản tiền sắp đáo hạn mà hiện họ chưa biết làm cách nào để xoay sở.
Điều đáng lo ngại ở đây là những nỗ lực của họ có thể sẽ làm tình hình tệ hơn.
Trung Quốc - Vượt mặt Nhật Bản, trở
về ngôi chủ nợ lớn nhất của Mỹ
TQ đang nắm giữ tổng cộng 1.150 tỷ USD trái phiếu, tín phiếu và hối phiếu
Chính phủ Mỹ trong tháng 6, cao hơn 44.3 tỷ USD sv tháng 5. Trong khi, mức
sở hữu của Nhật Bản là 1.090 tỷ USD, thấp hơn 20,5 tỷ USD sv mức hồi tháng
5. Trong tháng 10/2016, Nhật Bản đã vượt TQ trở thành chủ nợ lớn nhất của
nước Mỹ, dựa trên số liệu thống kê từ Bộ Tài chính TQ. Hai quốc gia này
chiếm tới hơn 1/3 tổng giá trị TPCP Mỹ ở nước ngoài. Lượng TPCP Mỹ do nước
ngoài nắm giữ 47,7 tỷ USD lên 6.170 tỷ USD trong tháng 6/2017. Dự trữ
ngoại hối của TQ tăng liền 6 tháng lên mức 3.080 tỷ USD trong tháng 7, khi
CNY tăng giá và tốc độ tăng trưởng KT nước này vẫn mạnh. Các biện pháp
kiểm soát vốn chặt chẽ hơn cùng với một đồng tiền ổn định trong năm nay đã
xoa dịu áp lực thoái vốn khỏi nước này khi các nhà hoạch định chính sách
khuyến khích NĐTNN chuyển nhiều tiền hơn về TQ. CNY #4% sv USD trong
năm nay, sau khi #7% trong 2016. Dòng chảy thương mại mạnh mẽ giữa Mỹ
và TQ đã góp phần hỗ trợ các nhà XK nước này, đồng thời nâng nhu cầu đối
với TPCP TQ. Chuyên gia KT cao tại Jefferies LLC New York, cho rằng: “Tôi
không nghĩ TQ đã ngừng mua TPCP Mỹ khi xem xét cán cân thương mại giữa
2 nước này. Dòng chảy thương mại sẽ gia tăng thêm nhu cầu TPCP Mỹ”.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Nhật Bản - Nhờ đâu có tăng trưởng tốt
nhất nhóm G7 trong Q.II?
Bloomberg cho rằng, dữ liệu GDP Q.II đã giúp Nhật có được vị trí bất ngờ: dẫn
đầu tăng trưởng trong nhóm G7. Nhu cầu nội địa mạnh nhất trong những năm
qua đã giúp GDP Nhật có được tăng trưởng quý thứ 6 liên tiếp, nâng cao hy
vọng về một sự hồi phục bền vững trong một nền KT mà đã được biết đến
nhiều hơn trong những năm gần đây “nhờ” vào mức lạm phát ảm đạm và dân
số giảm hơn là có tăng trưởng tốt hơn so với mức dự báo. Tiêu dùng mạnh hơn
ở trong nước được xem là chìa khóa trong việc duy trì đà tăng và đạt được
nhiều tiến triển hơn đối với mục tiêu lạm phát 2% của NHTW Nhật Bản (BoJ).
Mặc dù XK đã đóng góp phần lớn khi KT tăng trưởng trong những quý gần đây
nhưng các con số trong Q.II lại cho thấy nhu cầu nội địa mới là nhân tố góp
phần lớn hơn cho mức tăng trưởng thường niên 4% của họ. “Điều đó khiến cho
Nhật Bản trở thành nền KT tăng trưởng nhanh nhất ở nhóm G7 trong quý này
theo tính toán của chúng tôi và có thể khởi động lại cuộc thảo luận về chiến
lược thoát khỏi gói nới lỏng định lượng với mức LS âm cuối cùng của BoJ. Đây
không phải là một trong những điều ngẫu nhiên chỉ xảy ra một lần do sự tăng
vọt trong hàng hóa gây ra và sẽ bị giảm trong những quý sắp tới, hay là một
trong những đợt tăng ngẫu nhiên do XK và NK tăng trưởng không đồng bộ gây
ra”, chuyên gia KT trưởng phụ trách châu Á của ING Singapore, viết trong một
bản nghiên cứu. Tiêu dùng của hộ gia đình được điều chỉnh theo lạm phát, vốn
chiếm khoảng 57% GDP thực, cao hơn 0,9% sv Q.I. Chi tiêu của DN 2,4%.
Tính theo giá trị JPY hiện tại, kích thước của nền KT Nhật Bản đã tăng lên mức
545.000 tỷ JPY, #4.970 tỷ USD. Đến nay, tăng trưởng lạm phát đã chậm hơn
sv tăng trưởng KT, ngay cả khi giữa lúc thị trường lao động gặp khó khăn nhất
trong nhiều thập kỷ. Giá cả tiêu dùng, trừ thực phẩm tươi, 0,4% trong tháng
6, một tốc độ quá thấp sv mục tiêu của BoJ. Đầu tư của DN cũng đang tăng
lên. Những công ty lớn trong tất cả các ngành hiện đang có kế hoạch nâng
mức đầu tư cố định lên 8% đến hết tháng 3/2018...
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
http://www.bloomberg.com/markets/
http://www.sjc.com.vn/
http://goldprice.org/vi/index.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?centerWidth=80%25&leftWidth=20%25&rightWidth=0
%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrl-
state=az57x7njj_4&_afrLoop=564852868666178#!%40%40%3F_afrLoop%3D564852868666178%26center
Width%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26sh
owHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D1cs37zaa0q_4
Tin Tài chính - NH http://vneconomy.vn/thoi-su/con-hon-100-nghin-ty-von-nha-nuoc-tai-doanh-nghiep-can-ban-
20170816020531909.htm
http://vneconomy.vn/thoi-su/du-no-thi-truong-trai-phieu-dat-45-gdp-3-nam-toi-20170816065925752.htm
http://cafef.vn/tang-truong-tin-dung-ap-luc-de-nang-20170816160214819.chn
http://ndh.vn/nghi-quyet-thi-diem-xu-ly-no-xau-cay-dua-than-chi-ung-nghiem-voi-qua-khu-
2017081604181620p4c149.news
Tin KT vĩ mô http://ndh.vn/infographic-thu-ngan-sach-nha-nuoc-tang-11-6-trong-7-thang-dau-nam-
20170816040131521p145c151.news
http://cafef.vn/tang-vat-len-12-tac-dong-gi-den-kinh-te-viet-nam-20170816235303648.chn
Tin Tài chính Quốc tế http://vietstock.vn/2017/08/vuot-mat-nhat-ban-trung-quoc-tro-ve-ngoi-chu-no-lon-nhat-cua-my-772-
553682.htm
http://vietstock.vn/2017/08/nho-dau-nhat-ban-co-tang-truong-tot-nhat-nhom-g7-trong-quy-2-772-553635.htm
http://nhipcaudautu.vn/tai-chinh/chau-a-dang-dan-mat-kha-nang-thanh-toan-cac-khoan-no-cua-minh-
3319884/
http://nhipcaudautu.vn/tai-chinh/bien-ban-hop-fed-thang-7-cac-thanh-vien-chia-re-ve-tien-trinh-tang-lai-suat-
3319894/
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bất động sản BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng Nhà nước NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
Doanh nghiệp Nhà nước DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân sách Nhà nước NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Nhập khẩu NK
Dự án DA Sản xuất kinh doanh SXKD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đăng ký Kinh doanh ĐKKD Tổ chức tín dụng TCTD
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng tài sản TTS
Giấy chứng nhận GCN Tổng SP quốc nội GDP
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Trái phiếu Doanh nghiệp TPDN
Khách hàng cá nhân KHCN Thị trường chứng khoán TTCK
Kinh tế vĩ mô KTVM Việt Nam VN
Kho bạc Nhà nước KBNN Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Xã hội XH
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Xuất khẩu XK
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng thế giới World Bank Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Thép VN VSA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Liên minh châu Âu EU Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO